Lễ Các Thánh Nam Nữ

Thứ năm - 31/10/2019 02:46

LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ

 

Kh 7 , 2-4 . 9 – 14;  1Ga 3, 1-3;  Mt 5, 1-12a

 **************
DẪN NHẬP
Lời Chúa: “Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao” (Mt 5, 12).
Nhập lễ:
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,
Hôm nay Giáo hội long trọng kính mừng toàn thể các thánh trên trời. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy, các thánhnhững bậc tiền nhân của chúng ta, các ngài đã sống triệt để cho Tin Mừng, bằng việc lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành trong đời sống qua Hiến Chương Nước Trời:
Hoan ca Chư Thánh hiển vinh,
Các ngài đã sống rạng danh Chúa Trời.
Bát Phúc tuân giữ từng lời,
Ghi tâm khắc cốt, giữa đời chứng chân.
Ta nay cũng được thông phần,
Thiên đàng hạnh phúc kiên tâm mỗi ngày.
Hiệp dâng hiệp dâng thánh lễ hôm nay, xin Chúa giúp chúng ta biết noi gương các thánh sống Hiến chương Nước Trời theo tinh thần Chúa dạy. Nhờ đó, chúng ta cũng được hưởng hạnh phúc ving quang Nước Trời. Trong tâm tình đó, giờ đây chúng ta thành tâm sám hối.
Sám hối:
X. Lạy Chúa, Chúa là Đấng Thánh của Thiên Chúa. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa Kitô, Chúa muốn chúng con thi hành thánh ý Chúa Cha để được vào Nước Trời. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa, Chúa chúc phúc cho những người vâng nghe mệnh lệnh của Chúa. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
Kết: Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.
CĐ: Amen.
Suy niệm:
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Hôm nay, Giáo hội long trọng kính mừng toàn thể các Thánh nam nữ trên trời. Các Thánh là ai? Các Thánh là những bậc tiền nhân của chúng ta, trong số đó có tổ tiên, ông bà, cha mẹ, bà con họ hàng, bạn hữu của chúng ta. Các ngài đã sống triệt để cho Tin Mừng. Các ngài đã lắng nghe, đón nhận Lời Chúa và đem ra thực hành trong đời sống qua Hiến Chương Nước Trời. Các ngài đã đón nhận mọi đau khổ, thử thách, và đã trung thành vác thập giá theo Chúa trong suốt cuộc đời, nên các ngài đã được Chúa ân thưởng hạnh phúc trên thiên đàng. Vì thế, phụng vụ Lời Chúa hôm nay nhắc nhớ chúng ta ý thức về Mầu nhiệm các Thánh cùng thông công, để cùng với các ngài chúng ta chúc tụng, ngợi khen và tôn vinh Thiên Chúa.
Thưa anh chị em, sách Khải huyền hôm nay thuật lại trong một thị kiến của thánh Gioan: “tôi đã nhìn thấy đoàn người đông đảo không thể đếm được, họ thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng”. Sách Khải huyền viết tiếp: “Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên. Vì thế, họ được chầu trước ngai Thiên Chúa, đêm ngày thờ phượng trong Đền Thờ của Người, Đấng ngự trên ngai sẽ căng lều của Người cho họ trú ẩn”. Như thế, sách Khải huyền diễn tả tất cả các thánh nam nữ là những người thuộc mọi lớp người, thuộc mọi chi tộc, tiếng nói, màu da. Họ đã can đảm làm chứng cho Chúa bằng chính sống đời đạo đức, thánh thiện của mình. Họ đã lắng nghe Lời Chúa, tuân hành thực thi Lời Chúa trong đời sống. Họ là những con người biết tận dụng khả năng Chúa ban để làm đẹp cho cuộc đời bằng những nghĩa cử yêu thương, đời sống hòa thuận, bác ái để làm chứng cho Chúa. Họ đã trung thành với Chúa Kitô, đã quả cảm giặt áo mình trong máu của Con Chiên. Họ đã trung tín với Chúa đi con đường tám mối Phúc mà Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đã chỉ ra cho chúng ta con đường để nên thánh, để đạt tới hạnh phúc nước trời: họ đã có tinh thần nghèo khó, họ đã sống hiền lành, thánh thiện, họ đã sống lẽ công bình, khao khát nên người công chính, họ đã xây dựng hoà bình và sau cùng đã bị bách hại vì Danh Chúa Kitô. Họ đã dám sống tám mối Phúc, đã dám mạnh mẽ, can đảm để sống đời sống Kitô hữu của mình cách xứng đáng, nên Chúa thưởng công cho họ. Vì, không có niềm vui, hạnh phúc nào mà không phải đánh đổi bằng hy sinh, không có thành công nào mà không phải trả giá.
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Hôm nay, chúng ta vui mừng chiêm ngưỡng các thánh trên trời. Các ngài có thể là tổ tiên, ông bà, cha mẹ, những người thân thương trong gia đình, trong làng xóm, trong giáo xứ của chúng ta. Nơi đó, các thánh đang hưởng vinh phúc Thiên Đàng và muôn đời ca tụng Chúa. Qua đó, Giáo hội cũng muốn nhắc nhở chúng ta ơn gọi nên thánh. Nên thánh trong bổn phận. Nên thánh trong hy sinh vì lợi ích tha nhân. Nên thánh trong việc đón nhận thánh ý Chúa trong đời mình. Nên thánh trong những thử thách gian lao nhưng không phải là không có thể. Vì, chúng ta sẽ không thể đạt được niềm vui và hạnh phúc Nước Trời nếu không chấp nhận hy sinh, cũng như không thể nên thánh mà không phải trả giá bằng sự kiên trì. Tám Mối Phúc là những cách thức, là những con đường và là điều kiện bắt buộc cho tất cả những ai muốn tìm kiếm hạnh phúc Nước Trời.
Ước gì mỗi người chúng ta khi chiêm ngưỡng các thánh trên trời, cũng nhắc nhở chúng ta hướng lòng về trời bằng con đường của tám mới phúc mà chính Chúa Giêsu đã chỉ ra cho chúng ta. Nguyện xin các thánh cầu thay nguyên giúp cho chúng sống ơn gọi nên thánh như các ngài để chúng ta cũng được vui hưởng hạnh phúc muôn đời bên Chúa. Amen.
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang.


 

1. “Trẻ đẹp” mãi vì yêu thương  (Jorathe Nắng Tím)

2. Nên thánh giữa đời (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)

4. Các con hãy nên thánh (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

5. Mẫu mực lý tưởng Kitô giáo (JM. Lam Thy, ĐVD)

 

Mục lục

1. Nên hình bóng Ngài  (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Hòn sỏi và lời nói  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

3. Có thể nên thánh bằng con đường siêu tốc không? (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

4. Các Thánh Nam Nữ là ai?  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

5. Công dân Thiên quốc  (Trầm Thiên Thu)

6. Chúng ta có nên thánh được không?  (Jos. Vinc. Ngọc Biển)

7. Nên thánh bằng cách nào?  (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

8. Anh em hãy nên hoàn thiện  (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

9. Để được nên thánh và được sống đời đời sau này (Lm. Đan Vinh)

10. Đau khổ và vinh quang  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)

11. Con đường nên thánh  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

12. Phấn đấu  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

13. Hãy nên thánh vì Ta là Đấng Thánh  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

14. Suy niệm lễ các thánh Nam Nữ  (Lm. Anthony Trung Thành)

15. Vĩnh phúc   (Trầm Thiên Thu)

16. Niềm vui với các Thánh trên trời  (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)

17. Các Thánh là ai?  (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

18. Tâm hồn nghèo khó  (P.Trần Đình Phan Tiến)

 

.

“TRẺ ĐẸP” MÃI VÌ YÊU THƯƠNG

Jorathe Nắng Tím

Là người, ai cũng thích trẻ đẹp, kể cả người luống tuổi cũng níu kéo tuổi trẻ, sắc đẹp của mình bằng chạy đến mỹ viện, cậy nhờ son phấn, trong nuối tiếc thời thanh xuân trẻ đẹp, vì trẻ đẹp là ước mơ khôn nguôi của mọi người.

Trẻ là mơ ước, vì tuổi trẻ hào phóng, quảng đại ; người trẻ dễ gần, dễ thương, dễ cảm thông, chia sẻ ; đời trẻ hăng say, không sợ nguy hiểm, bất chấp thử thách, gian nguy, thế hệ trẻ tràn đầy sức sống, niềm vui, hy vọng. Bên cạnh mơ ước « trẻ » là ước mơ « đẹp », vì người đẹp được  chiêm ngưỡng, yêu thương, ca tụng ; nét đẹp luôn làm phấn khởi lòng người, và sắc đẹp ở đâu và thời nào cũng  là lợi thế không thể chối cãi.

Nhưng thực tế cho thấy mơ ước vẫn mãi là ước mơ, nếu chẳng may không được sinh ra với nhan sắc mặn mà, để một thời được đời gọi là  « người đẹp » ; và  một điều không thể tránh, đó là  mai ngày tuổi già ập đến, tóc bạc, da nhăn, lưng còng, chân mỏi, và « trẻ đẹp » hờ hững bỏ  đi như những giòng sông buồn, cô quạnh.

Chính trong nỗi buồn của những giòng sông cuộc đời không còn trẻ đẹp, Đức Giêsu giới thiệu cho chúng ta những con người không bao giờ hết đẹp, và chẳng bao giờ già nua, những con người đã thực hiện trọn vẹn ước mơ trẻ đẹp của đời mình, vì không chỉ  trẻ đẹp mãi dưới ánh mắt, mà còn trong trái tim của Thiên Chúa và loài người. Họ là những con người thánh !

Trước hết, Đức Giêsu giới thiệu những « con người thánh » là những người được Thiên Chúa chúc phúc : họ được chúc phúc vì nghèo khó, hiền lành, công chính, nhân hậu, hay xót thương, trong sạch, yêu mến và xây dựng hoà bình, và bị vu khống, bách hại vì danh Chúa (x. Mt 5, 3-12).

Nhưng có phải họ nghèo khổ, hiền lành, bị bách hại … vì lười biếng, ngu ngốc, khờ dại, hay thiếu khôn ngoan, khéo léo trong cuộc sống không ?

Thưa họ chịu thiệt thòi, thua kém người đời đến nỗi trở nên nghèo khó, bị rơi vào cảnh sầu khổ, bị thiên hạ hàm oan, lên án, chịu mất mát, lép vế, xử tệ vì yêu thương những người anh em của mình. Có người trong số họ nghèo vì quảng đại chia sẻ, sầu buồn vì mang lấy gánh nặng tang thương của người khác, bị hồ đồ tố cáo vì quên mình phục vụ, bị oan uổng kết án vì hết lòng xót thương và hết tình bênh vực, cứu giúp người cô thế, bần cùng, không tiếng nói.  Cuộc đời họ trở thành những trang sử bi hùng, không vì «vinh thân phì gia » nhưng vì người khác đang cần trái tim chạnh lòng thương xót và bàn tay chia sẻ của họ ; tiếng tăm, danh dự, chỗ đứng của họ bị đe dọa, bôi nhọ, giật sập vì sự sống và hạnh phúc của những anh chị em « thấp cổ bé miệng » bị đời đàn áp, bóc lột.

Tóm lại, những con người thánh luôn thiệt thòi nhiều, mất mát nhiều, thua lỗ nhiều vì anh em ; họ khổ nhiều nỗi, truân chuyên đủ mặt, vất vả đủ kiểu cho sự sống và tương lai của nhiều người, và dưới con mắt người đời, họ là những người không khôn, không khéo. Và một điều chắc chắn : họ đã không nghèo khổ, nhục nhằn, chịu oan sai, lên án, nếu đã ích kỷ co cụm, lo cho thân mình, mà không xả thân gánh vác việc thiên hạ, hy sinh vì hạnh phúc của tha nhân, chạnh lòng thương xót anh chị em cùng khốn.

Nhưng phúc cho họ, vì chỉ một mình Thiên Chúa biết họ khôn, vì họ yêu thương và  họ được Thiên Chúa ủi an, được nhìn thấy Thiên Chúa, được Nước Trời làm gia nghiệp và phần thưởng lớn lao trên trời. Và vì có Thiên Chúa, có Nước Trời, họ đạt trọn vẹn ước mơ trẻ đẹp trong Thiên Chúa là Tình Yêu .

Qủa thực, trong Tình Yêu, Thiên Chúa là muà xuân vĩnh cửu mãi mãi làm tươi trẻ tuổi thanh xuân của họ, để họ không bao giờ phải già nua, vì tình yêu luôn làm họ tươi trẻ. Chính tình yêu đã làm tâm hồn một thánh Giáo Hoàng Phaolô II trở thành muà xuân bất tận của tuổi trẻ thế giới, dù tuổi đời của Ngài cao và sức khoẻ  tiêu hao, tàn tạ những năm cuối đời. Ai có thể nói tâm hồn của vị thánh giáo hoàng của thế kỷ XX này già nua,cằn cỗi, lạc hậu, bảo thủ ? Ai có thể tìm ra những tiêu cực của tuổi già ở vị thánh của giới trẻ thời đại, ngay cả trên giường bệnh ? Những phong trào trẻ trên khắp thế giới được khai sinh từ « tinh thần trẻ »  Gioan Phaolô II, những đại hội giới trẻ  thế giới hằng năm từ sáng kiến của vị giáo hoàng suốt đời thao thức làm trẻ trung Đức Tin ở giới trẻ  lôi cuốn hàng triệu bạn trẻ khắp nơi về gặp gỡ, chia sẻ làm chứng điều này, bởi  chỉ có tình yêu Đức Giêsu mới làm tươi trẻ mãi cuộc đời của những con người thánh như ngài.

Một con người thánh khác, cũng cùng thời đại chúng ta, là Mẹ Têrêsa Calcutta. Nhìn vào cuộc đời của Mẹ, ai dám bảo đó là cuộc đời không đẹp ? Trái lại, mọi người đều trầm trồ ca ngợi Mẹ là con người sống đẹp, sống cuộc đời rất đẹp khi yêu thương và hiến thân phục vụ những con người bị xã hội xô đẩy xuống đáy vực thẳm cuộc đời. Thử hỏi hoa hậu nào đẹp hơn Mẹ ? Mỹ nhân nào đáng yêu, đáng mến hơn Mẹ ? Và một lần nữa, chính tình yêu Đức Giêsu đã làm đẹp mãi con người và cuộc đời con người thánh Têrêsa Calcutta.

Mừng kính các Thánh nam nữ, chúng ta chiêm ngưỡng cuộc đời tươi đẹp của các vị, nhưng quan trọng hơn cả là nhận ra đâu là « bí quyết » đã làm các vị trẻ mãi không già, đẹp hoài không phôi pha, tàn tạ.  Bí quyết đó là Tình yêu : tình yêu đã cho các vị được trẻ mãi khi hiện diện sống động và hạnh phúc trong Thiên Chúa và trong tâm hồn anh chị em mình ; tình yêu đã làm các vị đẹp mãi đời đời, vì được Thiên Chúa trang điểm bằng Hồng Ân, và nét đẹp kiều diễm, tráng lệ, thánh thiện của các vị không ngừng thôi thúc, lôi cuốn trái tim người khác nôn nao muốn trở nên giống các vị.

Vâng, khi chiêm ngắm các Thánh nam nữ trên trời, chúng ta mới nhận ra : chỉ Tình Yêu mới bảo đảm  đời đời nét trẻ đẹp của chúng ta, vì chúng ta chỉ  trẻ mãi, đẹp mãi trong trái tim và cuộc đời của những người chúng ta yêu thương, phục vụ với tình yêu, và  vì tình yêu ; chúng ta chỉ  tươi trẻ và xinh đẹp trong sự sống và hạnh phúc mà chúng ta đã cưu mang, xây dựng nơi người khác ; chúng ta chỉ hiện diện với niềm vui rạng rỡ của tuổi trẻ, và sức hấp dẫn lạ thường của nhan sắc trong người khác, bên  những bó lúa vàng lung linh nước mắt hy sinh, và óng ánh mồ hôi  của tháng ngày yêu thương, phục vụ ; và chúng ta, những con người tội lỗi, chưa đạt đến độ « làm người thánh » như các Thánh nam nữ sẽ chỉ thực sự được trẻ mãi không già, đẹp hoài không xấu, khi  tìm đến và ở lại trong Thiên Chúa là Tình Yêu không đổi dời, không lừa dối, không dập dờn lên xuống, nhưng trước sau vẫn một tình Cha thương con, vẫn một lời hứa :  « tất cả những gì của Cha là của con » (Lc 15,31), vẫn đời đời  một mực trân qúy và « đi tìm cho kỳ được » những gì đã mất (Lc 15,4), vẫn luôn hào sảng « mở tiệc ăn mừng, vì « con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy » (Lc 15, 23-24).

Chính ở Tình Yêu đời đời bất diệt, không đổi thay, nhưng trung tín đến cùng và sâu thẳm tận cùng của Thiên Chúa, dù chúng ta yếu đuối, thay đổi không ngừng, phản bội không hổ thẹn, mà cuộc đời chúng ta được bảo đảm luôn trẻ, đẹp, vì chính Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ nhân hậu sẽ làm tươi trẻ, xinh đẹp cuộc đời mau già nua, héo úa của chúng ta, như đã làm cho các Thánh được bất tử trong tuổi trẻ  và sắc đẹp thánh thiện của hồng ân « được làm người để sống yêu thương như Thiên Chúa là Tình Yêu ».

 Về mục lục

.

NÊN THÁNH GIỮA ĐỜI

Lm. Jos Tạ duy Tuyền

Nhiều người vẫn nghĩ nên thánh là phải đi tu, phải vô dòng và dành hết thời gian cho cầu nguyện. Thực ra, không phải đi tu  mới làm thánh mà ở trong mọi hoàn cảnh và cung bậc sống nào chúng ta đều có thể nên thánh. Tuy nhiên, tùy theo bậc sống sẽ giúp cho con người nên thánh dễ dàng hơn.

Đối với truyền thống Việt Nam thì con đường nên thánh vẫn ưu tiên cho đời sống gia đình rồi mới tới các bậc sống khác như câu ca dao:

“Thứ nhất là tu tại gia

Thứ Hai Tu chợ

Thứ Ba tu Chùa”

Chuyện xưa kể lại rằng, Dương Phủ – lúc còn nhỏ, nhà nghèo nhưng ông hết sức cày cấy phụng dưỡng song thân.

Một hôm, nghe nói bên đất Thục có một nhà tu hành vô cùng đắc đạo, ông bèn thưa với song thần rồi sửa soạn lên đường thụ giáo bậc hiền triết.

Đi được nửa đường, ông gặp một lão tăng, vị này bảo rằng:

– Gặp được bậc Vô Tế không bằng gặp được Phật

Dương Phủ hỏi lại:

– Phật ở đâu?

Vị lão răng nói:

– Nhà người cứ quay trở về, gặp người nào mặc cái áo như thế này, đi đôi dép kiểu như thế này thì chính là Phật đấy.

Dương Phủ nghe xong liền háo hức quay trở về. Đi dọc đường, ông không gặp ai như thế cả. Đến khuya mới về đến nhà, ông gõ cửa gọi mẹ. Người mẹ mừng rỡ, khoác chăn, đi dép ra cửa. Dương Phủ ngẩn người nhìn, thì ra đây chính là hình dáng Phật mà vị lão tăng đã chỉ dạy. Ông chợt ngộ ra thâm ý trong lời dạy của lão tăng. Từ đó, ông ở nhà, hết lòng thờ kính mẹ cha, không phải cầu kỳ đi mộ Phật ở đâu xa nữa.

Trong tông huấn “Ơn gọi nên thánh” dường như Đức Thánh Cha Phanxico cũng nhìn thấy biết bao tâm gương sáng ngời nơi các vị thánh tại gia nên ngài đã nói: “Tôi thích chiêm ngưỡng sự thánh thiện hiện diện trong sự kiên nhẫn của dân Thiên Chúa: nơi những cha mẹ nuôi nấng con cái họ với tình yêu thương bao la, nơi những người nam nữ làm việc chăm chỉ để nuôi sống gia đình, nơi người bệnh tật, nơi các tu sĩ già cả mà không bao giờ mất nụ cười của họ. Trong sự kiên trì hàng ngày của họ, tôi thấy sự thánh thiện của Hội Thánh đang chiến đấu. Rất thường thì đó là một sự thánh thiện được tìm thấy nơi những người hàng xóm cạnh nhà chúng ta, là những người, đang sống giữa chúng ta, phản ảnh sự hiện diện của Thiên Chúa” [4].

Quả thực, nếu chúng ta quan sát sẽ thấy rất nhiều anh chị em bên cạnh chúng ta đã nên thánh ngay từ cuộc đời dương thế này. Họ biết dệt đời mình trong hy sinh từ bỏ những tham lam bất chính, những đam mê lầm lạc, những xa hoa ích kỷ để thể hiện lòng mến Chúa trên hết mọi sự. Họ là những người can trường chiến đấu với phận đời oan trái, cay nghiệt của nghèo đói, bệnh tật, bị bỏ rơi, bị bóc lột, bị hiểu lầm, bị phản bội, bị bách hại  . . .nhưng vẫn trung thành với đức tin. Dẫu phận đời có oan nghiệt họ vẫn cảm thấy an bình, vì được sống trong ân nghĩa cùng Chúa.

Chân dung của các vị thánh ấy ta có thể thấy bàn bạc trong mọi môi trường sống.

Có thể họ là những người mẹ đang bươn chải “một nắng hai sương”, với quang gánh trên lưng còng cho con cái niềm vui tiếng cười. Bà chấp nhận đánh mất cuộc đời cho gia đình chén cơm, chén gạo mỗi ngày.

Có thể họ là những người cha đang chịu nhiều oan khiên, chồng chất của thói đời bất công, áp bức, bóc lột đang đè nén cuộc đời của họ, nhưng họ không chịu đánh mất nhân cách, nhân phẩm, lương tri con người để đổi lấy chút bổng lộc trần gian mau qua.

Có thể họ là một ai đó đang bị bỏ rơi, đang bị bóc lộc, đang bị chà đạp, nhưng họ sẵn sàng chịu thiệt thòi, chịu thiếu thốn mà lòng thanh sạch hơn là hoen ố tâm hồn để đổi lấy niềm vui giả tạo mau qua.

Có thể họ là những người già neo đơn, những người bệnh đau lâu ốm dài đang vò võ từng ngày chờ đợi tân lang đến đón vào dự tiệc thiên quốc. Họ không nản lòng. Họ không để tim đèn vụt tắt. Họ vẫn cầm đèn cháy sáng chờ đón chủ trở về và mau mắn ra nghinh đón chủ.

Có thể họ là những người trong quá khứ đã lầm đường lạc lối, đã từng buông thả đời mình trong đam mê sắc dục, đã từng sống hại người hại đời, nhưng nay họ đã được ơn trở về. Họ đang sám sối từng ngày. Họ đang dành trọn cuộc đời của mình để đền bù những lầm lỗi của quá khứ bằng những việc lành phúc đức.

Theo đức tin ky-tô giáo dạy chúng ta: Giáo hội thiên quốc gồm những con người đã vượt qua cuộc đời trong ơn nghĩa với Chúa. Họ đã trung thành phụng sự Chúa trong cuộc đời dương thế. Và hôm nay, họ tiếp tục phụng sự Chúa trên thiên quốc. Còn chúng ta là Giáo hội lữ thứ trần gian. Chúng ta cũng được gọi là giáo hội thánh thiện vì chúng ta đang gột rửa đời mình mỗi ngày nên hoàn thiện hơn. Chúng ta đang nỗ lực trở nên thánh. Chúng ta đang chiến đấu từng ngày nên hoàn thiện hơn.

Hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội mừng kính các thánh nam nữ ở trên trời. Các ngài đã đi qua bụi trần này với một tâm hồn thanh khiết. Thế nên, họ đã được nhìn xem Thiên Chúa vì Phúc thay ai có tâm hồn thanh khiết, họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa. Xin Chúa qua lời bầu cử của các ngài ban cho chúng ta lòng tin mạnh mẽ để chúng ta biết phó thác trọn cuộc đời trong sự quan phòng của Chúa. Xin ban cho chúng ta lòng mến sắt son để có thể yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Xin ban cho chúng ta đức cậy kiên vững để chúng ta trông cậy vào ơn Chúa mà hoàn thiện đời mình mỗi ngày nên thánh thiện hơn. Amen

 Về mục lục

.

CÁC CON HÃY NÊN THÁNH

 Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II có lòng tôn kính đặc biệt đối với các Thánh, nhất là các Thánh tử đạo. Ngài là vị Giáo hoàng đạt kỷ lục trong việc tôn phong các Thánh và Chân phước. Ngài tôn phong 1.322 Chân phước và 457 vị Hiển thánh, trong đó có 117 vị Thánh tử đạo Việt Nam và 120 vị thánh tử đạo Trung Hoa. Con số vị Thánh và Chân phước được Ngài tôn phong hơn tổng số các vị mà các Giáo hoàng tiền nhiệm của Ngài tôn phong trong vòng 400 năm trước đó.

Trong dọc dài lịch sử, Giáo hội đã tôn phong rất nhiều vị Thánh.Thế nhưng, so với vô vàn các thánh trên trời, thì những người được Giáo Hội tuyên phong Chân phước và hiển Thánh chỉ là con số rất nhỏ. Theo lời Sách Khải Huyền, các thánh trên trời là “một đoàn người đông đúc, không sao đếm nổi”, thuộc mọi dân, mọi nước, mọi ngôn ngữ. Các Ngài đang chúc tụng Thiên Chúa, Đấng ngự trên ngai và Con Chiên, là Chúa.

Hôm nay Giáo hội mừng lễ Các Thánh. Đây là thành quả Ơn Cứu Độ của Chúa Kitô : “Lòng thương xót của Chúa trải rộng từ đời nọ đến đời kia”. Lời Kinh Tiền Tụng trong sách lễ Rôma cầu nguyện như sau:Vinh quang Cha rạng ngời nơi cộng đoàn các thánh. Và khi tuyên dương công trạng các ngài là Cha biểu dương chính hồng ân Cha ban. Cha dùng đời sống các ngài làm gương cho chúng con học đòi, bắt chước; Cha cho chúng con được chung phần gia nghiệp nhờ hiệp thông với các ngài; Cha phù trợ chúng con nhờ lời các ngài cầu thay nguyện giúp.

Như thế việc tuyên phong các thánh có mục đích:

– Tôn vinh Thiên Chúa: nếu các thánh là “thánh thiện”, “quyền năng” … thì Thiên Chúa càng quyền năng thánh thiện hơn biết chừng nào! Ðời sống các ngài phản ánh đời sống của chính Chúa, cho dù chỉ là một cách mờ nhạt.

– Nêu gương mẫu mực cho người Kitô hữu.

– Củng cố niềm hy vọng của chúng ta. Nếu các thánh là những con người cũng đầu đen máu đỏ như ta và cũng yếu đuối như bất cứ ai, nhưng nhờ biết cộng tác với ơn Chúa mà đã được hưởng một gia nghiệp vinh quang như thế, thì tại sao ta lại không thể được?

– Ðể các thánh cầu bầu cho ta trước mặt Chúa,và chắc chắn lời cầu bầu đó là rất hiệu nghiệm.

Lễ Các Thánh hằng năm nhắc nhở chúng ta rằng, lý tưởng làm thánh không dành riêng cho thành phần nào trong dân Chúa, nhưng hết thảy mọi người Kitô hữu đều được kêu gọi nên thánh như nhau.Nhiều người quen nghĩ rằng làm thánh là việc dành riêng cho các nhà tu hành, còn giáo dân thì làm sao có thể mơ tới lý tưởng cao cả ấy được? Quả thực, có một thời người ta đã lấy các vị đan sĩ, tu sĩ làm mẫu mực cho lý tưởng Kitô giáo, và ai ai trong Giáo hội, từ các giáo sĩ đến giáo dân cũng phải gắng sức xích lại gần mẫu mực ấy được chừng nào hay chừng ấy.Công đồng Vatican II đã nhắc lại rằng, tất cả mọi thành phần Giáo Hội đều được mời gọi nên thánh, nhưng mỗi người tùy theo đấng bậc, tùy theo khả năng và hoàn cảnh riêng mà mang một vẻ thánh thiện riêng, khiến cho Giáo Hội được trau dồi bằng những vẻ đẹp muôn màu muôn sắc. Mẫu mực thánh thiện chỉ có một nhưng cách “hoạ lại” mẫu mực ấy thì thiên hình vạn trạng.Thánh Phanxicô đệ Salê đã nói một câu rất đẹp theo ý ấy: “Bất kỳ Chúa trồng bạn ở đâu, bạn hãy trổ những bông hoa đẹp nhất cho Người ở đó”.

Mỗi nơi có những điều kiện riêng, nơi ẩm nơi khô, nơi phì nhiêu nơi sỏi đá, nơi thấp nơi cao… mỗi đấng bậc, mỗi hoàn cảnh, mỗi tính tình cũng tương tự như thế. Chúa chỉ đòi hỏi ta ở chỗ nào thì tuỳ theo điều kiện cụ thể chỗ ấy mà trổ bông đẹp tức là nên thánh (Cố Lm Nguyễn Hồng Giáo, ofm).

Chỉ mình Thiên Chúa mới là Đấng Thánh, còn con người được mời gọi trở nên thánh khi tham dự vào sự thánh thiện duy nhất của Thiên Chúa. Các Thánh được tuyên phong lên bậc hiển thánh bởi vì cuộc đời các ngài là một tấm gương phản chiếu sự thánh thiện của Thiên Chúa. Ai giống Đức Kitô, người ấy trở nên thánh thiện. Ai thực hiện những giá trị Tin mừng, người ấy trở nên thánh thiện. Một sự thánh thiện như thế rất có thể được thực hiện trong một đời sống rất bình thường. Giáo hội hướng tới một sự thánh thiện tỏa rộng, một hình thức thánh thiện vừa bình dân, vừa gần gũi lại vừa có thể được thực hiện cho hết mọi người, thay vì một hình thức thánh thiện chọn lọc, dành riêng cho một thiểu số. Đó là thành quả Ơn Cứu Độ của Chúa Kitô. Giáo Hội không phong thánh cốt để mà thờ, nhưng để tôn vinh Thiên Chúa, để khuyến khích chúng ta noi theo và bắt chước.

Lễ Các Thánh là lễ của niềm vui. Chúng ta vui mừng vì các thánh chính là tổ tiên, ông bà, cha mẹ, anh chị em, bạn bè, những người thân yêu của chúng ta đã được hưởng nhan thánh Chúa. Lễ Các Thánh là lễ của niềm hy vọng. Các Thánh là những con người bình thường như chúng ta nhưng các ngài đã đạt tới hạnh phúc Nước Trời.

Con đường nên thánh được Chúa Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay là con đường Tám Mối Phúc Thật. Có thể quy tất cả tám đức tính ấy vào một đức tính căn bản là “Tâm hồn nghèo”. Người có tâm hồn nghèo là người: không màng đến và không cậy dựa vào tiền bạc của cải, danh lợi lạc thú trần gian, không ăn thua hơn thiệt đời này; chỉ ước ao sống tốt theo ý Thiên Chúa và được hưởng những ơn lành của Thiên Chúa.Vì căn bản hạnh phúc là có tâm hồn nghèo, nên có thể nói: hạnh phúc đích thực của người kitô hữu là từ bỏ hết những gì mình có để được lấp đầy bằng chính Chúa.Một cuộc sống khó nghèo đến tận cùng của Thánh Phanxicô Assisi đã làm cho thế giới hiểu được thế nào là phúc cho những người nghèo khó. Một cái chết thay cho người bạn tù mà Thánh Kolbe đã tự nguyện đón nhận đã trở thành một chứng từ hùng hồn về giới răn yêu thương của Đức Giêsu. Nhân loại mãi mãi trân trọng Mẹ thánh Têrêxa Calcutta cũng như những ai sống nhiệt thành phục vụ, dấn thân sống Tin Mừng, bao dung hy sinh, xây dựng tình thương cho tha thân, nhất là người cùng khổ.

Mọi người Kitô hữu đều được mời gọi nên thánh. Đó là một ơn gọi rất cao cả như lời Chúa Giêsu: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Ðấng hoàn thiện” (Mt 5,48). Công Ðồng Vatican II cũng lập lại ý tưởng đó: “Mọi Kitô hữu, dù ở địa vị nào, bậc sống nào, đều được Chúa kêu gọi đạt tới sự trọn lành thánh thiện như Chúa Cha trọn lành, tùy theo con đường của mỗi người” (GH 11.3). Trong các thư của Thánh Phaolô, ngài gọi các tín hữu là những vị thánh. Qua Bí Tích Rửa Tội, mọi tín hữu được tham dự vào sự thánh thiện của Thiên Chúa. Thánh Gioan Phaolô II nói rằng: thành công đẹp nhất của một cuộc đời là sự thánh thiện. Tin Chúa, yêu Chúa và sống theo lời Chúa dạy qua Tám Mối Phúc Thật, mọi tín hữu sẽ nên thánh.

Trong Năm Phụng Vụ, Giáo hội tôn kính nhiều vị Thánh có tên tuổi. Ngày lễ các Thánh Nam Nữ, Giáo hội tôn kính tất cả các vị Thánh, trong đó có ông bà cha mẹ, những người thân yêu đã ra đi trước chúng ta và đã trở nên thánh nhân, mặc dù chưa được Giáo hội tuyên phong.

Mừng lễ Các Thánh Nam Nữ, chúng ta hân hoan chúc tụng các Thánh hạnh phúc trên Thiên đàng và xin các ngài cầu thay nguyện giúp cho chúng ta nhận biết mình cũng được Chúa mời gọi nên thánh như các ngài, và cố gắng vươn lên giống như các ngài.

Nguyện xin các Thánh Nam Nữ giúp chúng con tập sống mỗi ngày,thăng tiến trên con đường trọn lành như lời mời gọi của Chúa Giêsu : các con hãy nên thánh như Cha trên trời là Đấng Thánh.Amen.

 Về mục lục

.

MẪU MỰC LÝ TƯỞNG KITÔ GIÁO

JM. Lam Thy

Lễ Các Thánh hằng năm nhắc nhở người tín hữu lý tưởng làm thánh không dành riêng cho thành phần nào trong dân Chúa, nhưng hết thảy mọi Ki-tô hữu đều được kêu gọi nên thánh như nhau. Nhiều người quen nghĩ rằng làm thánh là việc dành riêng cho các nhà tu hành, còn giáo dân thì làm sao có thể mơ tới lý tưởng cao cả ấy được. Quả thực, có một thời người ta đã lấy các vị đan sĩ, tu sĩ làm mẫu mực cho lý tưởng Ki-tô giáo, và ai ai trong Giáo hội, từ các giáo sĩ đến giáo dân cũng phải gắng sức tiến lại gần mẫu mực đó được chừng nào hay chừng ấy. Công đồng Va-ti-ca-nô II đã nhắc lại rằng, tất cả mọi thành phần Giáo hội đều được mời gọi nên thánh, nhưng mỗi người tùy theo đấng bậc, tùy theo khả năng và hoàn cảnh riêng mà mang một vẻ thánh thiện riêng, khiến cho Giáo hội được trau dồi bằng những vẻ đẹp muôn màu muôn vẻ. Mẫu mực thánh thiện chỉ có một, nhưng cách quảng diễn mẫu mực ấy thì thiên hình vạn trạng.

Bài đọc 1 lễ CÁC THÁNH NAM NỮ (Kh 7, 2-4.9-14) trình thuật lời Thánh sử Gio-an viết trong sách Khải Huyền: ”Tôi thấy một thiên thần mang ấn của Thiên Chúa hằng sống. Thiên thần ấy đóng ấn trên trán các tôi tớ của Thiên Chúa. Rồi tôi nghe nói đến con số những người được đóng ấn: một trăm bốn mươi bốn ngàn người được đóng ấn, thuộc mọi chi tộc con cái Ít-ra-en. Sau đó, tôi thấy: kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô: “Chính Thiên Chúa chúng ta, Đấng ngự trên ngai, và chính Con Chiên đã cứu độ chúng ta.” Các thiên thần cũng hợp hoan chúc tụng: “A-men! Xin kính dâng Thiên Chúa chúng ta lời chúc tụng và vinh quang, sự khôn ngoan và lời tạ ơn, danh dự, uy quyền và sức mạnh, đến muôn thuở muôn đời! A-men!”

Đoàn người áo trắng “được đóng ấn” đó chính là những người đã vượt qua được “trăm chiều thử thách. Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin là thứ quý hơn vàng gấp bội, – vàng là của phù vân, mà còn phải chịu thử lửa. Nhờ thế, khi Đức Giê-su Ki-tô tỏ hiện, đức tin đã được tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen ngợi, và đem lại vinh quang, danh dự.” (1Pr 1, 6-7). Lời khen ngợi đã thể hiện rõ nét bằng ấn tích trên trán và chiếc áo trắng tinh tuyền trên thân thể chiếu tỏa hào quang danh dự. Nói cách cụ thể thì đó là những Ki-tô hữu đã vinh dự được gia nhập Giáo hội Khải Hoàn trên Thiên Quốc, mà Giáo hội mừng kính trọng thể trong ngày Lễ Các Thánh hôm nay.

Lễ Các Thánh đã khởi sự từ thế kỷ IV, nhưng ở thời đó mới chỉ là lễ tưởng niệm các vị tử vì đạo. Bước đầu Lễ này được mừng vào ngày Chúa nhật đầu tiên sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống (ngụ ý: các Tông đồ được sai đi giảng đạo khởi đầu từ Lễ Ngũ Tuần, sau khi hoàn tất sứ vụ thì được vui hưởng thành quả trên Thiên Quốc). Ở Rô-ma, ngày lễ ấy lúc đầu được cử hành vào ngày 13/5 (ngày cung hiến điện Panthéon thành một vương cung thánh đường). Về sau, vì lý do muốn tạo điều kiện thuận tiện cho các khách hành hương ở xa, Giáo hội đã dời lễ đó vào ngày 01 tháng 11. Và thay vì kính riêng các Thánh Tử Vì Đạo, Giáo hội mừng chung tất cả các Thánh Nam Nữ (xc “Lịch sử Giáo hội Công Giáo” – Wikipedia).

Mừng lễ Các Thánh vào thời điểm cuối năm Phụng Vụ, Giáo hội muốn nhắc nhở  các Ki-tô hữu đây là thời điểm mừng kết quả hồng ân Cứu Độ (Kế hoạch của Thiên Chúa khởi sự từ Mùa Vọng trải qua một quá trình thực hiện, thì giờ đây là lúc các tín hữu được mời dự Tiệc Cưới Cánh Chung – nơi có sự tham dự của “một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ.” – Kh 7, 9). Đoàn người ấy “Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên. Vì thế, họ được chầu trước ngai Thiên Chúa, đêm ngày thờ phượng trong Đền Thờ của Người; Đấng ngự trên ngai sẽ căng lều của Người cho họ trú ẩn. Họ sẽ không còn phải đói, phải khát, không còn bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt và khí nóng hành hạ nữa. Vì Con Chiên đang ngự ở giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh. Và Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ.” (Kh 7, 14-17).

Áo của đoàn người ấy đã được “giặt sạch và tẩy trắng trong máu Con Chiên”, chính là vì các ngài đã đi theo Con Đường của Chiên Thiên Chúa Giê-su Ki-tô. Một cách cụ thể là trong cuộc lữ hành trần thế, các ngài đã thấm nhiễm và triệt để sống và hành động theo Lời Toàn Năng, đã kiên trì vượt thắng mọi thử thách nghiệt ngã, kể cả việc sẵn sàng đổ máu mình ra như Máu Con Chiên đã đổ ra trên thập giá, làm lễ vật hy sinh dâng lên Thiên Chúa Cha, đồng thời thanh tẩy cõi trần nhơ uế. Máu Con Chiên đã hoà trộn với máu các ngài, tẩy sach mọi vết nhơ khiến các ngài trở nên trong trắng tinh tuyền và vì thế áo các ngài (phản ánh trung thực chân dung của các ngài) cũng trắng tinh như tuyết, không gợn chút bụi trần.

Rõ ràng đoàn người áo trắng là những Ki-tô hữu trong thời cánh chung hồn xác được sống lại vinh hiển như Đức Ki-tô Phục Sinh, đúng như lời thánh sử Gio-an: “Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Ki-tô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy.”  (1Ga 3, 2). Đoàn người áo trắng đã “được biết chính Đức Ki-tô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết.” (Pl 3, 10-11). Nói cách khác, các ngài đã sống trọn hảo Tám Mối Phúc, được Chiên Thiên Chúa Giê-su Ki-tô chúc lành. Thử tìm hiểu xem vì sao mà Tám Mối Phúc đã giúp các thánh được vinh thăng Thiên Quốc:

1- Mối phúc 1: Sống tinh thần khó nghèo: Chính Đức Giê-su Thiên Chúa “Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có.” (2 Cr 8, 9). Ai sống tinh thần nghèo khó tức là người ấy đã chọn Chúa Ki-tô làm gia nghiệp của mình (Tv 16, 5-6). Cái nghèo của Chúa Giê-su làm cho chúng ta được giàu sang chính là sự kiện Người đã “mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2, 7) trong cảnh nghèo khó, gánh lấy những yếu đuối, tội lỗi của con người, thông truyền cho trần thế lượng từ bi nhân hậu vô biên của Thiên Chúa.

Tinh thần nghèo khó ở đây có nghĩa là biết tự giới hạn trong sự chừng mực, giữ mình cho khỏi sự ham muốn của cải vật chất một cách quá đáng, không ham muốn hay chạy theo những điều xa hoa. Đó phải là người ưa chuộng cuộc sống đơn sơ, thanh bạch và biết dùng tiền của một cách chính đáng. Bất cứ trong hoàn cảnh nào, cũng phải coi của cải vật chất chỉ là một phương tiện sinh nhai, không bao giờ là cứu cánh cho cuộc sống trần gian đầy cám dỗ vật chất mê muội (“Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu.” – Lc 12, 13). Tinh thần nghèo khó còn là đức tính thương cảm đùm bọc những anh em bất hạnh, khổ cực hơn mình (“Ai có hai áo thì chia cho người không có, ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy” – Lc 3, 11).

2- Mối phúc 2: Đức hiền lành, khiêm nhường: Người sống hiền lành khiêm nhường (Mt 5, 4) phải là sống giống Chúa Giê-su “hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2, 8). Khi bị treo trên thập giá, Người hiền lành đến nỗi đã xin Chúa Cha tha tội cho kẻ đã giết Người (“Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” – Lc 23, 34). Phó tế Stê-pha-nô đã nên giống Chúa Giê-su, khi bị ném đá, ngài đã cầu nguyện cho kẻ hại mình với nội dung giống hệt lời cầu của Chúa Giê-su trên Thánh giá (“Rồi ông Stê-pha-nô quỳ gối xuống, kêu lớn tiếng: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này.” Nói thế rồi, ông an nghỉ.” – Cv 7, 60). Bởi thế, ai yêu cả kẻ thù, sẵn sàng làm ơn cho kẻ hại mình, người đó được là em của Trưởng Tử Giê-su, cùng là Con Đấng Tối Cao (Lc 1, 32; 6, 35).

Đức khiêm hạ đứng hàng đầu trong 7 điều cải hối do 7 mối tội đầu. Khiêm nhường là tự coi mình là người dưới, là người phục vụ anh em (“Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không? Anh em gọi Thầy là “Thầy”, là “Chúa”, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.” – Ga 13, 12-16; “Vậy ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời. – Mt 18, 4). Người khiêm nhường sẽ không phải bận tâm vì sợ kẻ khác đang đánh giá mình ra sao; sẽ được tự do, thong dong, tránh được những xúc cảm bồn chồn, lo lắng khi nghĩ đến những dèm pha, đố kỵ của tha nhân. Họ sẽ dễ cảm hóa được thái độ kiêu căng, thù địch, nóng nảy của người khác bằng chính tấm lòng khiêm nhu, đại lượng của mình.

3- Mối phúc 3: Đức sầu khổ (khóc than): Người khóc lóc, sầu khổ ở đây là những người sống lương thiện, ngay lành mà gặp những buồn phiền, đau khổ trong những thử thách nghiệt ngã. Nhưng dù trong nghịch cảnh, người ấy vẫn kiên tâm chịu đựng vì vững lòng trông cậy nơi Thiên Chúa từ bi nhân hậu. Đó cũng là những người than khóc, ưu phiền vì tội lỗi đã mắc phạm, chỉ biết trông cậy vào lòng thương xót của Chúa, như tảng đá Phê-rô sau 3 lần chối Chúa, “Ông ra ngoài, khóc lóc thảm thiết.” (Mt 26, 75), hay như tên trộm lành cùng chịu treo trên thập giá với Đức Giê-su trên Núi Sọ (Lc 23, 43).

Than khóc vì những điều lầm lỗi của bản thân đã xúc phạm đến Chúa, đến anh em, chính là việc quay trở về của đứa con hoang đàng (dụ ngôn “Người cha nhân hậu” – Lc 15, 11-32); là người thu thuế đứng dưới cuối nhà thờ đấm ngực cầu xin: “Lạy Chúa, xin xót thương con là kẻ tội lỗi” (Lc 18, 11-14). Việc trở về với Thiên Chúa được gọi là việc hoán cải và hòa giải, mà nền tảng của việc hòa giải là niềm hy vọng vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Sự trở về ấy là đích điểm đón nhận lòng thương xót của Chúa, vì Người chính là người cha nhân hậu sẵn lòng dang tay đón người con hoang đàng, sẵn sàng để 99 con chiên mà đi tìm một con chiên bị lạc, sẵn lòng tha thứ cho người thu thuế biết hối cải. Tuy vậy, cũng cần phải ý thức rằng sự khóc than cũng có hai chiều kích: một mặt tích cực là sự hối tiếc ăn năn về những sai phạm lầm lỗi của bản thân; nhưng mặt khác lại là tiêu cực khi khóc than hờn dỗi (than thân trách phận), thậm chí đi đến chỗ oán ghét Thiên Chúa. Chỉ thực sự được Thiên Chúa chúc phúc khi sự khóc than xuất phát tự tấm lòng ăn năn hối cải vì những lỗi lầm xúc phạm đến Chúa, đến anh em, đồng thời với tâm nguyện thiết tha cầu xin lòng thương xòt của Thiên Chúa.

  1. 4- Mối phúc 4: Đức công chính (trọn lành): Người khao khát sống công chính là người  “gặp nhiều nỗi gian truân, nhưng CHÚA giúp họ luôn thoát khỏi.” (Tv 34, 20); là “chính nhân được CHÚA thương cứu độ và bảo vệ chở che trong buổi ngặt nghèo, gặp nhiều nỗi gian truân sẽ được Thiên Chúa độ trì” (Tv 37, 39); “Bấy giờ người công chính sẽ chói lọi như mặt trời, trong Nước của Cha họ.” (Mt 13, 43).  Đây là những người ao ước sống đời lành thánh và cố gắng làm tất cả những gì cần thiết để được như vậy.

Con người đầu tiên đã được Thiên Chúa sáng tạo trong tình trạng công chính (trọn lành); nhưng đã nghe lời ma quỷ cám dỗ, lạm dụng tự do của mình, đi ngược lại giới răn, không vâng phục Thiên Chúa. Vì phạm tội, con người đã làm mất sự thánh thiện và công chính từ nguyên thủy do Thiên Chúa ban, không những chỉ cho hai vị nguyên tổ (A-đam và E-và), mà còn cho tất cả nhân loại mãi mãi về sau. Sự mất mát này được gọi là “tội tổ tông”. Do hậu qủa của tội nguyên tổ, sự chết đã xâm nhập thế gian, bản tính con người bị suy nhược, đau khổ, dễ xu hướng về sự tội. Sự “hướng chiều” này vẫn quen gọi là dục vọng (dục: ước muốn; vọng: hướng về). Tuy nhiên, nếu biết kiềm chế những đam mê, dục vọng có chiều hướng đi xuống, hạ thấp phẩm giá, nhân cách con người; từ đó hướng chiều lên đường ngay lẽ phải, kiên cường sống theo Lời Chúa dạy, ắt sẽ vượt thắng mọi thử thách, đạt tới sự công chính như lòng Chúa mong đợi.

Cứu Chuộc của Chúa Ki-tô hệ tại việc “Người đến để hiến dâng mạng sống mình làm giá chuộc muôn người”(Mt 20, 28). Nhờ sự tuân phục đầy tình thương đối với Thiên Chúa Cha, Đức Giê-su đã chịu chết trên thập giá, hoàn tất sứ mạng đền tội cho nhân loại như lời Tiên tri I-sai-a tiên báo:  Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ. (Is 53, 11). Cuộc khổ nạn và phục sinh vinh hiển của Người không những phục hồi phẩm giá, phục hồi lương tâm cho nhân loại, mà còn dẫn đưa con người trở về với con đường công chính: làm con cái Thiên Chúa. Chính ơn được “làm nghĩa tử” ấy giúp người tín hữu có khả năng “khát khao nên người công chính, và họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng.” (Mt 5, 6).

5- Mối phúc 5: Đức thương người (bác ái): Người biết thương xót tha nhân là người sống được như người Sa-ma-ri nhân hậu, xót thương kẻ bị cướp đánh nửa sống nửa chết vất bỏ dọc đường, tận tình chăm sóc chu đáo (Lc 10, 29-37). Mẫu người này được Chúa Giê-su nói đến rõ ràng trong Tin Mừng về ngày cánh chung, họ là những người được Thiên Chúa chúc phúc: “Nào những kẻ Cha ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng vương quốc dành sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thành trời đất. Vì xưa Ta đói các ngươi cho Ta ăn, Ta khát các ngươi cho Ta uống. Ta là khách lạ, các nguơi đã tiếp rước, Ta trần truồng các nguơi đã cho mặc, Ta đau yếu các ngươi đã chăm nom, Ta ngồi tù các ngươi đã thăm viếng” (Mt 25, 34-36).

Bác ái là tình yêu không chỉ giới hạn trong phạm vi giới tính (tình yêu nam nữ), mà rộng mở với mọi người không phân biệt thân sơ hay nội ngoại. Ki-tô giáo chủ ở đức bác ái: mến Chúa yêu người. Trong 10 điều răn Chúa truyền dạy, thì chỉ có 3 điều “mến Chúa”, mà có tới 7 điều “yêu người”, Hội Thánh cũng dậy “Thương người có 14 mối: Thương xác bảy mối và thương linh hồn 7 mối”, trong đó thể hiện thật rõ nét những việc làm cụ thể để biểu hiện lòng thương người. Kinh Thánh xác định rõ ràng: lòng yêu mến Thiên Chúa không thể tách rời khỏi tình yêu thương anh em (“Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta…; nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, chúng ta cũng phải yêu thương nhau… Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, và tình yêu của Người nơi chúng ta mới nên hoàn hảo.” – 1Ga 4, 10-12).

Ki-tô giáo được gọi là “Đạo Yêu Thương”, “Đạo Bác Ái” chính bởi vì chỉ có một tôn chỉ duy nhất: “Mến Chúa yêu người”. Với người Ki-tô hữu, thì bác ái là sống Đạo: thực hành Lời Chúa, sống Lời Chúa, sống Đức Tin (Ai nghe lời Thầy mà đem ra thực hành thì, Thày chỉ cho anh em hay, người đó giống như kẻ xây nhà, đã đào bới rất sâu, đã đặt nền móng trên đá….” ( Lc 6, 47-48), mà Lời dạy của Đức Ki-tô là: “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15, 12). Bác ái không phải chỉ là lời khuyên, như nhiều người quan niệm có làm hay không cũng được; mà là một bổn phận, là một sứ vụ, là một hành vi phải được thực hiện; vì Lời Chúa dậy rõ ràng: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2, 14-15).

6- Mối phúc 6: Đức trong sạch (khiết tịnh): Cũng vì “Cái gì từ trong con người xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế.” (Mc 7, 20-23); nên người có lòng trong sạch là người biết từ khước những thú vui bất chính làm thỏa mãn dục vọng và đam mê xác thịt, bởi “một khi dục vọng đã cưu mang thì đẻ ra tội; còn tội khi đã phạm rồi, thì sinh ra cái chết.” (Gc 1, 15).

Một trong 3 lời khuyên của Phúc Âm là đức khiết tịnh – lòng trong sạch. Giữ cho tâm hồn trong sạch, giữ cho đời sống thanh khiết, không vướng vào những hệ luỵ tiền tài, danh vọng, và nhất là sắc dục, đó là sống khiết tịnh. Đã có những giải thích chưa đúng về nhân đức khiết tịnh, cho rằng lời khuyên này của Phúc Âm chỉ dành riêng cho những bậc tu hành, còn những người sống bậc hôn nhân thì làm sao mà khiết tịnh cho nổi! Để tránh những hiểu lầm không đáng có, cần phải minh định ngay: Đức khiết tịnh nơi một bậc tu trì khác với nơi một người sống bậc hôn nhân. Ở bậc tu trì thì phải kiềm chế hoàn toàn vấn đề tình dục, còn ở bậc hôn nhân thì vấn đề tình dục chỉ là sống đúng với thiên chức vợ chồng, không lạm dụng, không mê đắm, sa đà quá độ và tuyệt đối không được thể hiện tình dục với người không phải là bạn đời của mình (ngoại tình, gian dâm, chơi bời trác táng…).

7- Mối phúc 7: Đức hoà thuận: Người biết tác tạo hòa bình chính là người ngăn cản không để cho sự bất công, gian ác tồn tại. Đây là bổn phận của người tin Chúa, nghĩa là tìm mọi cách và hết sức chân thành giúp người ta xóa bỏ hận thù, ghen ghét, chia rẽ và những cớ gây xích mích bất hòa, bởi vì luật căn bản Chúa đòi hỏi nơi con người là yêu thương nhau. Nói cách cụ thể là những ai biết sống tình huynh đệ với tha nhân thì người đó đem lại hòa bình cho mọi người, cũng bởi vì “Tình huynh đệ, nền tảng và là con đường dẫn đến hòa bình… Tình huynh đệ cần được khám phá, yêu mến, kinh nghiệm công bố và làm chứng. Nhưng chỉ có tình yêu, là một quà tặng từ Thiên Chúa, mới có thể giúp chúng ta đón nhận và kinh nghiệm một cách trọn vẹn tình huynh đệ này.” (Sứ điệp “Ngày hòa bình thế giới – 2014”, số 4-10).

Trong gia đình biết sống hoà hiếu với nhau, ngoài xóm làng biết sống tương thân tương ái, rộng ra xã hội biết sống chan hoà yêu thương, cho chí phạm vi thế giới luôn biết cổ võ cho một nền hoà bình chân chính, đó là nhân đức hoà hiếu thuận thảo. Những người như thế sẽ được gọi là con Thiên Chúa. Con Thiên Chúa là những ai biết hy sinh cho một nền hòa bình chân chính, trong đời sống riêng tư cũng như trong tập thể cộng đồng dân tộc, được thể hiện ngay trong cuộc sống thường ngày, được áp dụng vào hoàn cảnh cụ thể của từng cá nhân trong mỗi cảnh ngộ của riêng mình. Con Thiên Chúa là những ai đã hiến thân cả một đời cho nền hòa bình thực sự, vững bền, xứng đáng được những phần thưởng cao qúi nhất, danh dự nhất,.

Thánh đã nhắn nhủ con cái mình: “Chúa Ki-tô đến để hiệp nhất những gì bị phân rẽ, để hủy diệt tội lỗi và hận thù, và để làm cho con người tái nhận thức được ơn gọi nên một và tình yêu huynh đệ. Thế nên, Ngài là nguồn mạch và là khuôn mẫu cho một nhân loại được đổi mới, thấm nhiễm tình huynh đệ, chân thành, và một tinh thần an bình mà mọi người khát vọng”(Sắc lệnh “Truyền Giáo – Ad Gentes”, số 8), bởi chính Chúa Giê-su đã dạy: “Thầy để sự bình an lại cho anh em, Thầy ban sự bình an của Thầy cho anh em, Thầy ban cho anh em sự an bình hoàn toàn khác với thế gían.” (Ga 14, 27). Muốn có hòa bình thì phải biết xây dựng, bồi đắp lòng thương yêu, sự hòa thuận ngay từ trong gia đình đến những cộng đồng, tập thể, và rộng ra là xã hội. Và trên tất cả là phải biết cậy trông, tín thác vào chính Đức Ki-tô vì “Chính Ngài là sự an bình của chúng ta” (Ep 2, 14), “Chớ gì Thiên Chúa của niềm hy vọng đổ đầy lòng anh chị em niềm vui và sự an bình như anh chị em đã tín thác nơi Ngài.” (Rm 15, 13).

8- Mối phúc 8: Đức hy sinh (bị bách hại): Đây chính là phúc tử vì đạo dành cho những ai dám chấp nhận mọi gian khổ và hy sinh để tuyên xưng và bảo vệ đức tin, khi vì đạo Chúa mà bị ngược đãi. (“Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, … khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế” – Mt 5, 10-12).

Mầu nhiệm về công ơn cứu chuộc của Con Thiên Chúa xuống thế làm người được gắn liền với khổ giá của Chúa Ki-tô. Không qua con đường khổ giá và sự chết đau đớn của Chúa Cứu Thế, không thể mang lại hoa trái là đời sống vĩnh cửu của muôn người. Vì thế, qua các thời đại, người ta vẫn hiểu rằng, đây là trường hợp của những người bị xử tử, bị hành quyết, vì đức tin Công giáo, vì đạo thánh Chúa. Nhìn vào tấm gương 118 vị Thánh Tử vì Đạo Việt Nam để thấy được rằng các ngài đã chấp nhận hy sinh cả mạng sống mình vì Đao Chúa, vì Đức Tin Ki-tô giáo. Các ngài bị bách hại hoàn toàn không phải vì đời sống riêng tư của các ngài về đường chính trị (danh vọng, quyền lực) hay kinh tế (tiền của, vật chất), mà vì lòng dũng cảm tuyên xưng đức tin Ki-tô giáo, sự can đảm làm chứng nhân cho Tin Mừng Cứu độ của Đức Giê-su Ki-tô. Điều đó giúp cho các Ki-tô hữu – cách riêng, các Ki-tô hữu Việt Nam – hiểu sâu hơn về Đạo Chúa, về tinh thần sống Đạo, về cuộc sống chứng nhân Tin Mừng trước những thử thách nghiệt ngã, những bách hại tinh vi và khủng khiếp của ba thù trong thời đại văn minh hiện nay.

Kết luận:

Tóm lại, các thánh là những người được thanh tẩy bằng Máu Thánh Đức Ki-tô, họ sống hiền lành, khiêm nhường, nghèo khổ, khao khát đức trọn lành, trong sạch vẹn tuyền, thương xót người như chính bản thân, sẵn sàng chịu đau khổ trước nghịch cảnh và nhất là sẵn sàng hòa trộn máu mình vào Máu Con Chiên khi bị bách hại vì lẽ công chính, để mang bình an đến cho tha nhân, góp phần xây dựng hòa bình. Nói cách khác các thánh nam nữ đã “nghe Lời Thầy Chí Thánh Giê-su Ki-tô dạy mà đem ra thực hành trong đời sống” – thông qua Tám mối Phúc thật – nên các ngài đã trở nên “đồng hình đồng dạng với Người”.

Mừng lễ Các Thánh Nam Nữ hôm nay, người Ki-tô hữu hãy hân hoan cung chiêm và chúc tụng các thánh là những người bạn, cũng là những người anh chị em của mình; đồng thời biết hướng lòng về quê trời là cùng đích cuộc sống chứng nhân cho Thập Giá Chúa Ki-tô. Trong mầu nhiệm Giáo hội hiệp thông, hãy cầu xin các thánh cầu bầu cho bản thân mỗi người, cũng như anh em còn đang trên hành trình tiến về quê thật, để mọi người nhận ra mình cũng được Chúa mời gọi nên thánh như các ngài, và nỗ lực sống đức tin, đức mến như các ngài đã sống, ngõ hầu mai sau cũng được hưởng vinh phúc với các ngài trên Thiên Quốc. Ước được như vậy.

Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, trong ngày đại lễ hôm nay, Chúa cho chúng con được mừng kính toàn thể các thánh trên trời. Nhờ bấy nhiêu vị thánh hằng nguyện giúp cầu thay, chúng con tin tưởng nài xin Chúa cho chúng con được dồi dào ân sủng như lòng vẫn ước mong. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ lễ Các Thánh Nam Nữ).

 Về mục lục

.

 

NÊN HÌNH BÓNG NGÀI

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Chỉ có Thiên Chúa là Đấng Thánh. Ngài là nguồn mạch của sự thánh thiện. Bản chất của Thiên Chúa là thánh thiện và yêu thương. Vì yêu thương, Thiên Chúa muốn chia sẻ với chúng ta sự thánh thiện của Ngài, giống như những người cha mẹ muốn tìm kiếm, dạy dỗ và để lại cho con cái những điều tốt đẹp. Nhờ Thiên Chúa chia sẻ với chúng ta sự thánh thiện của Ngài, nên chúng ta mới có thể  hy vọng nên thánh hay nên hoàn thiện. Vì Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn thánh thiện, cho nên những ai nên thánh là trở thành giống Chúa, là đón nhận sự thánh thiện của Chúa. Người thánh thiện là người phản chiếu sự tốt lành của Chúa. Sự thánh thiện được thể hiện trong lời nói, tư tưởng và việc làm. Vì thế, chúng ta thường nói đến hào quang của các thánh. Hào quang là sự phản chiếu huy hoàng của một vị thánh, là kết quả của một cuộc đời mong muốn rập khuôn theo cuộc đời Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người.

Nên thánh là bổn phận của người tín hữu. Hãy nghe Thánh Phêrô nói với chúng ta: “Bởi vì Đấng kêu gọi anh em là Đấng Thánh, anh em cũng vậy, anh em hãy nên thánh trong mọi hành động của anh em, như đã được viết: Các ngươi hãy nên thánh, vì Ta là Đấng Thánh” (1 Pr 1,15). Như vậy, trong cuộc đời của chúng ta, nếu không thiện chí cố gắng để được nên thánh, thì đó là một thiếu sót. Bởi lẽ khi lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy, chúng ta được trao sứ mạng nên thánh, tức là nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu.

Nói đến sứ mạng nên thánh, có thể nhiều người suy nghĩ: “nên thánh khó quá, vì tôi chỉ là một người dân bình thường, không được học hỏi đào tạo”. Suy nghĩ như vậy là chưa hiểu lời mời gọi của Chúa. Nên thánh không phải một gánh nặng, phải có sức khỏe mới mang nổi. Nên thánh không phải một bài toán khó, ai đã học cao biết rộng mới có thể giải được. Nên thánh đơn giản chỉ là một cách sống của mình giữa đời thường, như bông hoa tự nhiên tỏa hương thơm. Những cử chỉ hành động của cuộc sống hằng ngày được thực hiện với lòng yêu mến và biết ơn Chúa đều có thể giúp ta nên thánh. Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu đã viết: “Nhặt một cây kim vì yêu mến cũng có thể hoán cải một linh hồn”.

Chúng ta hãy suy niệm lời chúc phúc của Chúa để thấy việc nên thánh phù hợp với mọi người. Có rất nhiều phương pháp giúp ta đạt được Chân lý. Tám mối phúc thật là những phương pháp mà Chúa Giêsu đã đề nghị cho những ai muốn nên thánh. Qua những mối phúc này, chúng ta hiểu ra rằng nên thánh nhiều khi chỉ là những việc đơn giản trong cuộc sống thường ngày, được thực hành với trái tim yêu mến và lương tâm ngay thẳng. Sống tinh thần nghèo khó, luôn biết sám hối khóc lóc vì những lầm lỗi của mình, khát khao sự công chính, sống hòa thuận và sắn sàng đón nhận những bất tiện do đời sống chứng tá Tin Mừng gây nên. Những việc làm đó, nếu được thực hiện với tình yêu mến và trong niềm vui, sẽ đem lại cho chúng ta sự bình an và nhờ đó, chúng ta đã bắt đầu nên thánh.

Ngày lễ kính các Thánh nam nữ trên trời cũng là dịp chúng ta tưởng nhớ những người thân yêu của chúng ta đã về Nhà Cha. Trong số đó, có những người đã được hiển thánh, vì họ sống một cuộc sống tốt lành theo giáo huấn của Chúa. Họ không được Giáo Hội phong thánh, nhưng chính Thiên Chúa phong thánh cho họ. Họ đang hưởng hạnh phúc vĩnh cửu nơi tôn nhan Chúa và đang cầu bầu cho chúng ta.

Ngày lễ kính các Thánh nam nữ trên trời cũng nhắc chúng ta hãy nhận ra những người tốt, việc tốt xung quanh mình. Dù thuộc nền văn hóa hay tín ngưỡng nào, những hành động nhằm cổ võ hòa bình và xây dựng những điều thiện hảo, đều phản chiếu sự thánh thiện của Thiên Chúa, vì Ngài là nguồn mạch của sự thánh thiện.

Thánh Phaolô đã gọi cộng đoàn các tín hữu là cộng đoàn các thánh. Là thành viên trong cộng đoàn Giáo Hội, mỗi chúng ta đã bắt đầu hành trình nên thánh. Chúng ta cũng được chia sẻ sự thánh thiện của Giáo Hội, được thể hiện qua đời sống thánh thiện của Đức Maria, Thánh Giuse, các thánh Tông đồ và các thánh qua mọi thời đại.

Nên thánh là lời mời gọi của Chúa. Nên thánh cũng là một bổn phận của chúng ta. Đó là mục đích căn bản và cốt lõi của đời sống Kitô hữu. Nhờ cuộc sống thánh thiện, chúng ta thuộc về Chúa là Đấng Chí Thánh, trở nên hình bóng của Ngài. Và như thế, chúng ta đã nếm hưởng hạnh phúc đời sau, ngay khi chúng ta còn sống trong cõi đời tạm này.

 Về mục lục

.

HÒN SỎI VÀ LỜI NÓI

Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền

Có một định lý trong cuộc sống là:

Thả một hòn sỏi vào trong nước: một miếng nước bắn toé lên, rồi chìm nghỉm. Nhưng để lại vô số gợn sóng lăn tăn xoay tròn. Lan toả từ trọng tâm, tràn ra biển cả.

Thả một hòn sỏi vào trong nước: trong phút chốc bạn lãng quên. Nhưng có những gợn sóng nhỏ xoay tròn, hoà vào con sóng lớn. Bạn đã xáo động một đại dương hùng vĩ chỉ bằng một hòn sỏi mà thôi!

 Thả một lời nói không tốt, không cẩn trọng: trong phút chốc bay đi. Nhưng để lại vô vàn gợn sóng lăn tăn xoay tròn, lan toả… Và không có cách nào lấy lại một khi bạn đã nói ra.

Thả một lời nói không tốt: trong phút chốc bạn lãng quên.

Nhưng có những gợn sóng nhỏ xoay tròn mãi… Có thể bạn đã làm ứa một dòng nước mắt trên con tim buồn. Bạn đã xáo động một cuộc đời hạnh phúc chỉ vì những lời nói kia.

Thả một lời nói vui vẻ và tốt bụng: chỉ trong giây lát chúng bay đi.

Nhưng để lại vô vàn gợn sóng lăn tăn, xoay tròn mãi. Mang hy vọng, niềm vui, an ủi trong mỗi con sóng xô bờ. Bạn sẽ không ngờ được sức mạnh của một lời nói tốt bạn cho đi.

Thả một lời nói vui vẻ và tốt bụng: trong giây lát bạn lãng quên;

Nhưng niềm vui dâng tràn, và những gợn sóng reo vui xoay tròn mãi. Bạn đã làm cho con sóng được vỗ về trong điệu nhạc êm ái.

(Sưu tầm)

Xem ra từng hành vi, từng lời nói của chúng ta không vô nghĩa bao giờ. Nó có thể để lại cho đời niềm vui và cũng có thể thể xoáy vào tha nhân nỗi đau tột cùng. Nếu chúng ta biết thả vào đời những lời nói yêu thương, những việc làm bác ái, những thái độ bao dung nhân từ thì chắc chắn chúng ta đang làm cho những con sóng cuộc đời trào dâng tình người nồng ấm. Nếu chúng ta thả vào dòng đời những thù hận, những ghen tương, đố kỵ là chúng ta đang làm gợn lên những làn sóng của bạo lực và chiến tranh.

Cuộc sống gia đình thật hạnh phúc biết bao khi mỗi thành viên biết thả vào đó những hy sinh, những nhịn nhục và sự quan tâm săn sóc, thì có lẽ gia đình sẽ không thiếu niềm vui và tiếng cười.

Giữa dòng cuộc đời mà ai đi qua cũng thả vào đó tinh thần xây dựng, hiệp nhất yêu thương thì có lẽ sẽ không có chiến tranh hận thù. Cuộc sống sẽ là thiên đường tại thế thật hạnh phúc, bình yên.

Các thánh nam nữ là những người đã bước qua cuộc đời này và để lại cho đời những gợn sóng của tình yêu dâng hiến, của tình người vị tha phục vụ quên mình. Họ đã thả vào dòng đời này một tình yêu hiến dâng, một tình yêu cao vời dành cho Thiên Chúa, một con tim rộng mở đến cho tha nhân. Họ là những người nam, người nữ đã cống hiến cuộc đời để đem lại hạnh phúc cho tha nhân. Họ có thể là những con người biết tận dụng khả năng Chúa ban để làm đẹp cho cuộc đời bằng biết bao nghĩa cử yêu thương. Họ có thể là những con người kém may mắn nhưng đã âm thâm gieo vào đời những lời kinh nguyện, những hy sinh cho những người thân yêu. Họ đã biết tôn vinh Chúa qua dòng đời đầy trái ngang bể dâu này.

Hôm nay chúng ta mừng các thánh nam nữ là dịp để nhắc nhở ơn gọi của chúng ta là nên thánh. Ai cũng phải nên thánh. Nên thánh trong bổn phận. Nên thánh trong hy sinh vì lợi ích tha nhân. Nên thánh trong việc đón nhận thánh ý Chúa với lời xin vâng trọn vẹn. Nên thánh giữa dòng đời tục lụy là điều rất khó nhưng không phải là không có thể.

Nếu nên thánh là để lại cho đời những gương sáng, những hy sinh, những khước từ ham muốn tầm thường. Con đường nên thánh không khó. Vì nên thánh chỉ đơn giản là làm theo ý Chúa. Ý Chúa dạy chúng ta phải trung thành với bổn phận. Ý Chúa dạy chúng ta đừng để danh lợi thú sai khiến mình làm hại tha nhân. Ý Chúa bảo chúng ta đón nhận mọi sự với niềm tín thác nơi Chúa. Ý Chúa mời gọi chúng ta vui sống với phận mình. Và chắc chắn nên thánh luôn là con đường hoàn thiện mình trên con đường của tám mối phúc, của một lối sống để cho ý Chúa luôn thể hiện trong cuộc đời của mình.

Như thế, mừng lễ các thánh nam nữ là mừng mọi tín hữu đã đi qua dòng đời này và đã thả vào dòng đời biết bao gương sáng của yêu thương, của phục vụ, của dâng hiến. Họ là những người sống giữa đầm lầy của sự dữ nhưng vẫn giữ được nét thanh cao của con cái Thiên Chúa. Họ không để dòng đời làm vẩn đục tâm hồn họ bởi tham sân si. Họ đã vượt thắng tất cả để “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.

Ước gì cuộc đời chúng ta luôn biết chiến thắng những ham muốn tầm thường, những cám dỗ của hưởng thụ ích kỷ để sống thanh cao trong cuộc sống. Xin cho từng bước chân của chúng ta luôn để lại cho đời những dấu ấn của tình yêu nồng say. Yêu Chúa trên hết mọi sự và yêu tha nhân như chính mình. Xin cho những lời ta nói, việc ta làm luôn tạo lên những gợn sóng yêu thương mang lại niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân. Amen

Về mục lục

.

CÓ THỂ NÊN THÁNH BẰNG CON ĐƯỜNG SIÊU TỐC KHÔNG ?

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Do sức ép của công việc và quỹ thời gian hạn hẹp, nhiều người muốn cái gì cũng phải siêu tốc : ấm đun nước siêu tốc, xe siêu tốc ; tốc độ của những chiếc máy vi tính, chiếc điện thoại, những con đường đều phải là siêu tốc. Người ta quảng cáo các máy tập thể dục, thuốc giảm cân, giảm béo siêu tốc, nhưng người ta không hề nói gì đến những chế độ ăn kiêng kèm theo, khiến nhiều người cho rằng những chiếc máy và những viên thuốc đó là giải pháp không tốn công sức, thời gian. Bữa ăn trong gia đình cũng phải chịu cảnh siêu tốc : cửa hàng tiện lợi, thức ăn chế biến sẵn tại siêu thị, thức ăn nhanh (fast food) được mua về cho gia đình để khỏi mất giờ chế biến, bữa cơm trong gia đình cũng vội vàng, tranh thủ thời gian. Tuy nhiên, dù tranh thủ rút ngắn mọi thứ, kể cả bữa ăn cũng bị rút ngắn như thế, nhưng dường như người ta cũng không dành thêm được giờ nào cho gia đình và cho nhau.

Lối sống siêu tốc ngày hôm nay cũng đang ảnh hưởng trên suy nghĩ và đời sống đạo của các tín hữu. Người ta đến với Chúa cũng siêu tốc, mất sự kiên trì trong cầu nguyện, mất sự bền bỉ, trung thành trong đời sống đức tin, trong thực hành đạo. Nhiều người muốn có một con đường, một cách thức siêu tốc để nên thánh mà không mất nhiều thời gian, không phải đi qua những con đường gập ghềnh, gian khó tập luyện mà vẫn đạt được Nước Trời. Như vậy, liệu có thể theo Chúa bằng con đường siêu tốc không ? Có thể nên thánh bằng những con đường, những phương tiện thoải mái không ?

Hôm nay, Giáo Hội mừng lễ Các Thánh Nam Nữ, là tất cả những tín hữu đã hoàn tất tốt đẹp hành trình trần thế, đã về tới quê Trời trong niềm vui và hạnh phúc. Các thánh không chỉ là những người được tôn phong, được kính nhớ, mà trong đó còn có cả những người thân của chúng ta, những người chưa bao giờ được tôn phong công khai, những người sống âm thầm không ai biết đến…, nhưng tất cả họ đã đạt tới mục đích của cuộc đời là hạnh phúc Nước Trời, đã nên thánh, thì đều được Giáo Hội mừng chung vào ngày hôm nay.

Mừng lễ Các Thánh, các bài đọc Lời Chúa cho chúng ta thấy một điều chắc chắn rằng : Sẽ không bao giờ có những con đường siêu tốc để nên thánh, cũng không thể có những con đường tắt để đạt tới Nước Trời. Mà trái lại, muốn vào được Nước Trời, muốn đạt được hạnh phúc đời đời thì không có con đường nào khác ngoài con đường của Tin Mừng, con đường của Tám Mối Phúc.

Bài đọc một cho thấy, số những người đã hoàn tất hành trình trần thế đạt được Nước Trời là con số đông không thể đếm nổi, thuộc mọi nước, mọi chi tộc, mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước mặt Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm cành lá thiên tuế mà tung hô, ca tụng Thiên Chúa. Mặc áo trắng là hình ảnh cho thấy họ đã có một cuộc sống thanh sạch, đã được thanh luyện và không còn bận vướng, hoen ố bởi những tội lỗi, dục vọng và đam mê. Cành lá thiên tuế là cành lá được trao cho những người chiến thắng. Như thế chứng tỏ rằng, những người mặc áo trắng này đã trải qua những cuộc chiến đấu với ma quỷ, xác thịt, thế gian, đã trải qua những thử thách trong cuộc sống và đã chiến thắng. Họ là những người từ trong đau khổ lớn lao mà đến. Họ đã giặt và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên. Họ là những con người trung thành với Con Chiên là Đức Giêsu Kitô, đã hết lòng yêu mến, gắn bó với Ngài, đã tẩy rửa cuộc đời mình bằng máu của Ngài, nên giờ đây, họ đã được trở nên tinh tuyền và được gia nhập vào hàng ngũ các thánh đến trình diện trước mặt Thiên Chúa.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã chỉ ra cho chúng ta con đường để nên thánh, để đạt tới hạnh phúc nước trời, đó là con đường của Tám Mối Phúc. Không có niềm vui, hạnh phúc nào mà không phải đánh đổi bằng hy sinh, không có thành công nào mà không phải trả giá. Cũng vậy, chúng ta sẽ không thể đạt được niềm vui và hạnh phúc Nước Trời nếu không chấp nhận hy sinh, cũng như không thể nên thánh mà không phải trả giá bằng sự kiên trì. Tám Mối Phúc là những cách thức, là những con đường và là điều kiện bắt buộc cho tất cả những ai muốn tìm kiếm hạnh phúc Nước Trời.

Tám Mối Phúc không phải là một thứ quảng cáo siêu tốc, không phải dạng mì ăn liền, mà là những đòi hỏi, buộc mỗi người phải kiên trì thực hiện từng ngày, từng ngày trong suốt cuộc đời. Nó không phải là một sự buông chiều theo trào lưu dễ dãi của xã hội, mà là một thách thức, một đòi hỏi phải lội ngược dòng, phải dám sống khác, sống tốt hơn, sống siêu thoát, từ bỏ nhiều hơn. Nếu như người đời ngày nay tìm kiếm sự giàu sang phú quý, con người bị quay quắt với ước mơ làm giàu, thì mối phúc thứ nhất đòi mọi người phải có tinh thần nghèo khó. Đòi buộc này không có nghĩa là kẻ theo Chúa phải là những kẻ khố rách áo ôm, bữa no bữa đói, mà là tất cả mọi người, dù họ đang được thuận lợi giàu có, hay đang nghèo hèn khốn khó, thì cũng cần phải có một tâm hồn nghèo khó.

Người có tâm hồn nghèo khó là người khiêm nhường, cậy trông, tín thác vào Thiên Chúa, không tự cao tự đại khi thành công, cũng không thất vọng khi gặp thất bại. Người có tâm hồn nghèo khó không để cho của cải vật chất làm chủ đời mình, cũng không để cho tiếng tăm, danh vọng điều khiển cuộc sống mình, nhưng vẫn luôn sống đơn giản, nghèo khó, biết quan tâm đến người khác để đồng cảm, thông cảm và sẻ chia. Hơn nữa, người có tinh thần nghèo khó là người dám chọn Thiên Chúa là gia nghiệp, là tương lai, là hy vọng, là Đấng giải thoát cuộc đời của mình, dám để cho Thiên Chúa điều khiển và dẫn lối cuộc sống mình. Như thế thì đòi hỏi của mối phúc thứ nhất không làm nghèo con người, nhưng trái lại, làm phong phú, giàu có trong tâm hồn của con người.

Cùng vậy, trong một xã hội đầy dẫy bạo lực, giết chóc, tranh chấp như ngày nay, chúng ta được mời gọi sống hiền lành. Trong khi người đời tìm kiếm sự thoải mái dễ dãi, tìm kiếm những cuộc vui mau qua, thì chúng ta lại được mời gọi đón nhận những đau khổ trong tâm hồn để được Thiên Chúa ủi an. Vì Thiên Chúa luôn để tai nghe tiếng kêu cầu của những người đau khổ trong tinh thần và trong thể xác, ra tay bênh đỡ những người cậy trông, tin tưởng vào Chúa. Trong khi người đời chạy theo lợi nhuận, gian tham, dối trá, gian ác, bất công, dửng dưng, vô cảm, thì chúng ta được mời gọi tìm kiếm và khát khao sự công chính, nuôi dưỡng lòng xót thương trắc ẩn. Trong khi xã hội cổ võ một lối sống buông thả, những quan hệ dễ dãi, sự hận thù trả thù, thì chúng ta được mời gọi để sống trong sạch, trở thành những người xây dựng hòa bình.

Như thế, con đường của Tám Mối Phúc không phải là con đường siêu tốc dễ dãi, cũng không phải là những chiếc xe gường nằm thoải mái. Có người đặt vấn đề : Với dòng chảy như thác lũ của lối sống thực dụng, liệu người Kitô hữu có thể lội ngược dòng đời này hay không ? Chúng ta có thể nên thánh trong thế giới phàm tục hôm nay hay không ?

Thưa, chắc chắn là có, chúng ta có thể lội ngược dòng và có thể nên thánh trong thế giới hôm nay, chỉ có điều là chúng ta có dám quyết định hay không mà thôi. Lễ Các Thánh Nam Nữ hôm nay là một minh chứng cho chúng ta. Vì có rất nhiều vị thánh không xa lạ với chúng ta, họ sống cùng thời, cùng hoàn cảnh với chúng ta và họ đã thành công, thì chúng ta, với ơn Chúa và sự cố gắng kiên trì, chúng ta cũng sẽ thành công. Họ không chỉ là những linh mục hoặc tu sĩ, mà đa số họ là những người sống đời sống gia đình, họ cũng đông con nhiều cháu, cũng vất vả mưu sinh,  có những người đã có những địa vị cao trong xã hội, có những người nổi tiếng, và có nhiều người cha người mẹ, người vợ người chồng rất đỗi bình thường, họ đã có quyết tâm, đã có chọn lựa đúng và họ đã thành công.

Chúng ta dám quả quyết rằng, chúng ta có thể thể nên thánh, có thể sống theo các Mối Phúc Thật dù có phải lội ngược dòng, vì chúng ta còn có Chúa luôn trợ giúp chúng ta, Ngài luôn ở bên để đồng hành, để tiếp sức cho chúng ta. Ngài cho chúng ta lương thực bổ dưỡng là Thánh Thể của ngài, Ngài dùng Bí Tích giải tội để băng bó, an ủi, chữa lành chúng ta mỗi khi chúng ta bị thương tích. Khi biết khiêm tốn đón nhận sự trợ giúp của Thiên Chúa, chúng ta sẽ thành công.

Xin Các Thánh Nam Nữ trên trời phù hộ cho chúng ta trên hành trình trần thế này để chúng ta có thể đạt được Nước Trời và chia sẻ niềm vui, hạnh phúc Chúa ban cho người chiến thắng cùng với các Ngài. Amen

Về mục lục

.

CÁC THÁNH NAM NỮ LÀ AI ?

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Năm phụng vụ diễn tả lịch sử cứu độ và tuyệt đỉnh của lịch sử này là cuộc Vượt Qua của Chúa Giêsu Kitô.

Năm phụng vụ có năm mùa nhưng tựu trung chỉ mừng một mầu nhiệm duy nhất – mầu nhiệm cứu độ : Chúa Giêsu Kitô đã chết và đã sống lại vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta.

Năm mùa phụng vụ đều quy về chính Chúa Kitô là Đấng Cứu Độ.Ngài là Con Thiên Chúa nhập thể,đã sinh ra,đã chết,đã sống lại,lên trời ngự bên hữu Chúa Cha,và gởi Thánh Thần đến với Giáo hội.

Các ngày lễ về các Thánh nói lên thành quả của ơn cứu độ.Mỗi vị Thánh được tôn phong hàng ngày là một bằng chứng sống động về sự thành công của ơn cứu độ.Các ngày lễ này có hai cao điểm :

– Lễ Đức Maria hồn xác lên trời là chiều cao và chiều sâu của ơn cứu độ.Thiên Chúa cứu độ là cứu cả hồn xác,toàn diện con người: “Người đã đoái thương nhìn đến phận hèn tớ nữ…Người đã làm những điều cao cả”.

– Lễ các Thánh Nam Nữ là chiều rộng của ơn cứu độ: “Lòng thương xót của Chúa trải rộng từ đời nọ đến đời kia”.

Theo lời Sách Khải Huyền, Các Thánh trên trời là “một đoàn người đông đảo, không sao đếm nổithuộc mọi dân, mọi nước, mọi ngôn ngữ”. Họ đang chúc tụng Thiên Chúa, Đấng ngự trên ngai và Con Chiên, là Chúa Giêsu Kitô Đấng Cứu Độ chúng ta.

  1. Các Thánh Nam Nữ là ai?

Các Thánh Nam Nữ là những phúc nhân (chữ của Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc), những người đang hưởng hạnh phúc đời đời bên cạnh Thiên Chúa. Các Ngài là tất cả những người đã chết trong ơn nghĩa Chúa, đang thuộc trọn về Chúa. Các Ngài sung sướng, vui mừng vì thấy mình được Thiên Chúa yêu thương, được thấy Thiên Chúa tốt lành.

Các Thánh Nam Nữ là những người đã thực hiện những điều mà Thánh Phanxicô Assidi dệt thành Kinh Hòa Bình: Đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục. Đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm…

Các Thánh Nam Nữ đông vô kể: “Tôi lại thấy một Thiên Thần khác, mang ấn của Thiên Chúa hằng sống, từ phía mặt trời mọc đi lên… Rồi tôi nghe nói đến con số những người được đóng ấn: một trăm bốn mươi bốn ngàn người được đóng ấn” (Kh 7,2-4). Con số “một trăm bốn mươn bốn ngàn” chỉ là một cách nói để bày tỏ sự viên mãn và hoàn hảo của dân Thiên Chúa, dân mới được Thiên Chúa cứu chuộc, thuộc về Thiên Chúa, chứ không thể hiểu theo nghĩa số học, số lượng. “Một trăm bốn mươn bốn ngàn” trong Khải huyền là một con số tượng trưng, một con số tròn đầy (12 x 12 = 144). Số kẻ được niêm ấn là tròn đầy.Và điều tuyệt diệu là trong thị kiến Khải huyền chi tộc nào cũng có số người được niêm ấn như nhau: 12 ngàn thuộc chi tộc Giuđa,12 ngàn thuộc chi tộc Ruben,12 ngàn thuộc chi tộc Gad…không tên họ nào lấn lướt, không tên họ bị loại trừ. Các chi tộc đều được Thiên Chúa kêu mời đầy đủ. Bởi ngay sau đó, thánh Gioan viết tiếp: “tôi thấy: kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nỗi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành thiên tuế” (Kh 7,4).

Một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi. Đó là cộng đoàn các Thánh Nam Nữ. Quả là đang trở thành hiện thực nơi Lời Chúa Giêsu đã thốt lên khi gặp được lòng tin của viên bách quản: “Ta bảo thật các ngươi,nhiều kẻ tự phương đông,phương đoài mà đến và được dự tiệc cùng Abraham,Isaac và Giacop trong nước trời”.

Chính vì thế, ngoài những vị thánh mà Giáo Hội đã xác định được và đã kính nhớ các Ngài vào các ngày lễ trong năm, Giáo Hội còn dành ra một ngày lễ đặc biệt để long trọng kính nhớ hằng hà sa số các vị thánh mà Giáo Hội chưa hoặc không thể xác định được, gọi chung là Các Thánh Nam Nữ. Chúng ta mững lễ các Thánh Nam Nữ là mừng Nhà Cha rộng lớn như lòng Thiên Chúa, đủ chổ cho mọi dân tộc.

  1. Bí quyết nên thánh

Thánh Gioan viết: “Một trong các kỳ mục lên tiếng hỏi tôi: những người mặc áo trắng kia là ai vậy? Họ từ đâu tới? Tôi trả lời: thưa Ngài, Ngài biết đó. Vị ấy bảo tôi: Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao” (Kh7,13).Thánh Tông đồ đã nhìn thấy họ trên Thiên đàng, tràn đầy hân hoan, ca hát chúc tụng Thiên Chúa : “Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên” (Kh 7,14). Quả thực, việc thanh tẩy tội lỗi chỉ thành tựu nhờ máu Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế. Tuy nhiên, các Thánh đã phải trải qua cuộc gian truân lớn. Vì tình yêu Đức Kitô, tất cả đã phải giao chiến với quyền lực của sự dữ, với muôn nghìn đau khổ và khó nhọc. Nhưng thánh Gioan cũng giới thiệu phần thưởng lớn lao của các Ngài : “Họ đêm ngày thờ phượng trong đền thờ của Thiên Chúa… Họ sẽ không còn phải đói, phải khát, không còn bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt và khí nóng hành hạ nữa. Vì Con Chiên đang ngự ở giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh” (Kh 7,15-17).

Các Thánh “đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên”. Như thế,họ không phải là những con người hoàn hảo,thánh thiện,tinh tuyền,không vướng mắc lỗi lầm thiếu sót hay tật xấu nào. Không ai bẩm sinh đã là Thánh. Các Thánh cũng không phải là những siêu nhân, không là những con người phi thường vượt trên đám đông nhân loại.Các Thánh càng không phải là những người bất thường kỳ dị. Các Thánh là những con người bình thường như mọi người,nhưng các Ngài đã sống những điều tầm thường một cách phi thường. Nhờ Ơn Chúa trợ lực, các Ngài đã cố gắng tiến tới mẫu mực của mình là Chúa Kitô. Bí quyết nên thánh của các Ngài là sống Tám Mối Phúc Thật,là đón nhận ân sủng của Chúa vô điều kiện,hợp tác với ân sủng đó,vâng theo ý Chúa,chọn điều thiện,luyện tập nhân đức.

Có rất nhiều vị thánh bởi vì có rất nhiều cách để nên thánh, nhiều con đường nên thánh. Trong bài Tám Mối Phúc Thật, Chúa Giêsu đã trình bày tám con đường nên thánh, tám con đường để được hạnh phúc đích thực.

Có người nên thánh, vì sống khó nghèo, không ham mê của cải trần gian, chỉ ham mê một điều là thích được Chúa yêu và đáp trả lại tình yêu của Chúa. Có người nên thánh, vì sống hiền lành, tử tế với mọi người, nhịn nhục, yêu thương mọi người không trừ một ai. Có người nên thánh, vì đã phải chịu đau khổ nhiều mà không ngã lòng thất vọng, còn biết dùng những đau khổ của mình, kết hợp với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, dâng lên cho Thiên Chúa làm của lễ. Có người nên thánh, vì có lòng nhân từ quảng đại và hay tha thứ, có lòng xót thương xót đối với những người đau khổ tinh thần hay thể xác. Có người nên thánh, vì khao khát Chúa, muốn sống công chính đẹp lòng Chúa. Có người nên thánh vì tâm hồn trong sạch, không vương vấn tội lỗi trần gian, không bị các thứ đam mê xác thịt làm chủ. Có người nên thánh vì hiếu hòa, không gây hấn với ai, mà còn dấn thân hoà giải những người khác, đem lại bình an cho mọi người. Có người nên thánh, vì sống tốt, sống ngay thẳng, trung thành với Chúa và giáo huấn của Người, dù phải bách hại khổ sở, có khi còn bị giết chết nữa. Mọi cuộc đời, mọi con người đều có thể nên thánh. Có những vị thánh không có tên trong lịch, nhưng vẫn được gần Chúa. Có những vị thánh nông dân chân lấm tay bùn, vất vả nuôi con. Có những vị thánh nội trợ âm thầm, quét nhà nấu bếp mà lòng lúc nào cũng vui. Có những vị thánh là những người con ngoan trong gia đình, hiếu thảo với cha mẹ, yêu thương quảng đại đối với anh chị em. Có những vị thánh là nữ tu, là chủng sinh, là linh mục, là giám mục. Có những vị thánh là những con người đam mê chân lý, như những nhà khoa học, những triết gia. Có những vị thánh là những nghệ sĩ làm đẹp cuộc đời bằng nhiều cách khác nhau, mang lại niềm vui cho mọi người. (ĐTGM Phaolô Bùi Văn Đọc).

Tuy có nhiều cách thức nên thánh, có vị nên thánh trong bậc tu trì, có vị lại nên thánh trong đời sống gia đình, có vị nên thánh bằng các hoạt động tông đồ năng nổ, có vị nên thánh trong một đời sống âm thầm, lặng lẽ, có vị nên thánh nơi pháp trường đẫm máu, có vị nên thánh chốn sa mạc cô liêu… Nhưng tựu trung, tất cả các thánh đã gặp nhau trên một con đường. Đó là con đường hẹp, con đường thập giá, Chúa Giêsu đã đi “qua đau khổ đến vinh quang”.

“Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống

Mùa gặt mai sau khấp khởi mừng”.

Chỉ mình Thiên Chúa mới là Đấng Thánh, còn con người được mời gọi trở nên thánh khi tham dự vào sự thánh thiện duy nhất của Thiên Chúa. Các Thánh được tuyên phong lên bậc hiển thánh bởi vì cuộc đời các ngài là một tấm gương phản chiếu sự thánh thiện của Thiên Chúa. Ai giống Đức Kitô, người ấy trở nên thánh thiện. Ai thực hiện những giá trị Tin mừng, người ấy trở nên thánh thiện. Một sự thánh thiện như thế rất có thể được thực hiện trong một đời sống rất bình thường. Giáo hội hướng tới một sự thánh thiện tỏa rộng, một hình thức thánh thiện vừa bình dân, vừa gần gũi lại vừa có thể được thực hiện cho hết mọi người, thay vì một hình thức thánh thiện chọn lọc, dành riêng cho một thiểu số. Đó là thành quả Ơn Cứu Độ của Chúa Kitô. Giáo Hội phong thánh để tôn vinh Thiên Chúa và khuyến khích chúng ta noi theo gương sống của Các Thánh.

  1. Ơn gọi lớn nhất của con người là nên thánh

Mọi người Kitô hữu đều được mời gọi nên thánh. Đó là một ơn gọi rất cao cả như lời Chúa Giêsu: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Ðấng hoàn thiện” (Mt 5,48). Công Ðồng Vatican II cũng lập lại ý tưởng đó: “Mọi Kitô hữu, dù ở địa vị nào, bậc sống nào, đều được Chúa kêu gọi đạt tới sự trọn lành thánh thiện như Chúa Cha trọn lành, tùy theo con đường của mỗi người” (GH 11.3). Trong các thư của Thánh Phaolô, ngài gọi các tín hữu là những vị thánh. Qua Bí Tích Rửa Tội, mọi tín hữu được tham dự vào sự thánh thiện của Thiên Chúa. Đức Chân Phước Gioan Phaolô II nói rằng: thành công đẹp nhất của một cuộc đời là sự thánh thiện. Tin Chúa, yêu Chúa và sống theo lời Chúa dạy qua Tám Mối Phúc Thật, mọi tín hữu sẽ nên thánh.

Trong Năm Phụng Vụ, Giáo hội tôn kính nhiều vị Thánh có tên tuổi. Ngày lễ các Thánh Nam Nữ, Giáo hội tôn kính tất cả các vị Thánh, trong đó có ông bà cha mẹ, những người thân yêu đã ra đi trước chúng ta và đã trở nên thánh nhân, mặc dù chưa được Giáo hội tuyên phong.

Trở nên giống Chúa Giêsu, trở nên trọn lành như Chúa Cha ở trên trời, trở nên thánh, đó là ơn gọi của mọi người Kitô hữu chúng ta và đó cũng là sứ điệp Chúa Giêsu và Giáo Hội muốn nhắn gửi qua ngày lễ kính Các Thánh Nam Nữ.

 Về mục lục

.

CÔNG DÂN THIÊN QUỐC

Trầm Thiên Thu

Kính mừng chư thánh hiển vinh

Dẫu đau khổ vẫn chung tình Giêsu

Công dân Thiên quốc thiên thu

Ca vang Tình Chúa bao la muôn đời

Sống trên đời tạm này, ai cũng là công dân của một quốc gia nào đó – nước có thể lớn hoặc nhỏ, mạnh hoặc yếu, giàu hoặc nghèo. Thế giới gian trần này có nhiều quốc gia, nhiều dân tộc, thậm chí nhiều hạng công dân, nhưng thế giới đời sau chỉ có một quốc gia và một hạng công dân: Công dân Nước Trời. Các thánh là những người đã được vĩnh viễn nhập quốc tịch của quốc gia này – Thiên Quốc. Đây cũng là niềm khát vọng cháy bỏng của mỗi Kitô hữu.

Giáo hội của Thiên Chúa chỉ có MỘT mà thôi: “Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người” (Ep 4:5-6). Giáo hội duy nhất nhưng được nối kết từ ba thành phần: Giáo hội Khải hoàn (các thánh trên Thiên Đàng), Giáo hội Đau khổ (các thánh nơi Luyện Ngục), và Giáo hội Chiến đấu (các thánh lữ hành trần gian). Ba thành phần của Giáo hội như MỘT Tam Giác, các góc và các cạnh mang tính bất khả phân ly, được gọi là “các thánh cùng thông công”. Khi còn làm người trên trần gian, Chúa Giêsu đã mong muốn và cầu xin cho mọi người “nên một” (Ga 17:20-23). Tháng Cầu Hồn là dịp thể hiện tính thông công đó: Phàm nhân kính mừng chư thánh và cầu cho các linh hồn.

Trong sách Khải Huyền, Thánh Gioan Tông đồ kể lại thị kiến: “Tôi thấy một thiên thần mang ấn của Thiên Chúa hằng sống từ phía mặt trời mọc đi lên. Thiên thần ấy lớn tiếng bảo bốn thiên thần khác, những vị được quyền phá hại đất liền và biển cả, rằng: ‘Xin đừng phá hại đất liền, biển cả và cây cối, trước khi chúng tôi đóng ấn trên trán các tôi tớ của Thiên Chúa chúng ta’. Rồi tôi nghe nói đến con số những người được đóng ấn: một trăm bốn mươi bốn ngàn người được đóng ấn, thuộc mọi chi tộc con cái Ít-ra-en” (Kh 7:2-4). Sách Khải Huyền là sách có lối hành văn mặc khải (khải mạc), viết khoảng năm 95-96, có nhiều từ ngữ bí ẩn. Con số 144.000 nghĩa là rất nhiều, vô số kể, chứ không mang nghĩa “số đếm” như cách tính của loài người chúng ta.

Thật vậy, Thánh Gioan cho biết thêm: “Sau đó, tôi thấy một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô: ‘Chính Thiên Chúa chúng ta, Đấng ngự trên ngai, và chính Con Chiên đã cứu độ chúng ta’. Tất cả các thiên thần đều đứng chung quanh ngai, chung quanh các Kỳ Mục và bốn Con Vật. Họ đều sấp mặt xuống, phủ phục trước ngai và thờ lạy Thiên Chúa mà tung hô rằng: “Amen! Xin kính dâng Thiên Chúa chúng ta lời chúc tụng và vinh quang, sự khôn ngoan và lời tạ ơn, danh dự, uy quyền và sức mạnh, đến muôn thuở muôn đời. Amen” (Kh 7:9-12).

Trong bốn con vật, mỗi con đều có sáu cánh và đầy các mắt. Con Vật thứ nhất giống như sư tử, Con Vật thứ hai như con bò tơ, Con Vật thứ ba như con người, và Con Vật cuối cùng như đại bàng. Bốn con vật này được dùng làm biểu tượng của bốn Thánh Sử.

Khi Thánh Gioan được thị kiến, một trong các Kỳ Mục hỏi xem những người mặc áo trắng đó là ai và từ đâu đến (Kh 7:9-13), Thánh Gioan trả lời: “Thưa Ngài, Ngài biết đó”. Vị ấy liền bảo: “Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch  tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên” (Kh 7:13-14). Áo bẩn mà lại giặt sạch trong máu. Kỳ diệu thật. Vâng, mọi vết-bẩn-tội-lỗi đều được tẩy sạch bằng Máu Thánh Đức Giêsu Kitô.

Các thánh đã giặt áo mình như vậy, nghĩa là dù chịu trăm cay ngàn đắng lúc sinh thời nhưng các ngài vẫn kiên tâm bền chí, một niềm tín thác vào Lòng Chúa Thương Xót, cậy nhờ Công Nghiệp Cứu Độ của Đức Kitô. Thật hạnh phúc biết bao!

Thánh Vịnh chân nhận: “Chúa làm chủ trái đất cùng muôn vật muôn loài, làm chủ hoàn cầu với toàn thể dân cư. Nền trái đất, Người dựng trên biển cả, đặt vững vàng trên làn nước mênh mông’ (Tv 24:1-2). Thiên Chúa là Đấng tác sinh muôn loài, toàn năng và chí thánh, chỉ những ai tay sạch lòng thanh, chẳng mê theo ngẫu tượng, không thề gian thề dối” (Tv 24:4) tay sạch lòng thanh, chẳng mê theo ngẫu tượng, không thề gian thề dối” (Tv 24:4) mới có thể lên núi Chúa và ai được ở trong đền thánh của Người mãi mãi. Những người đó sẽ “được Chúa ban phúc lành, được Ngài cứu độ và thưởng công xứng đáng” (Tv 24:5). Họ chính là những người thuộc “dòng dõi những kẻ kiếm tìm Thánh Nhan Thiên Chúa nhà Gia-cóp” (Tv 24:6).

Các thánh cũng đã từng là phàm nhân với bản chất yếu đuối như chúng ta, nhưng các ngài đã quyết tâm tuân giữ Thánh Luật của Thiên Chúa, thực hiện tới hơi thở cuối cùng, bất chấp dạng đau khổ nào. Các ngài sống được như vậy hẳn là các ngài đã cảm nghiệm được sự mầu nhiệm của Lòng Chúa Thương Xót. Trong số các thánh đó có các thánh tử đạo Việt Nam, những người cũng có hoàn cảnh sống giống như chúng ta, thậm chí còn khó khăn hơn chúng ta hiện nay, vậy mà các ngài vẫn một niềm tín trung với Thiên Chúa.

Chúng ta chỉ là “dân ngoại” nhưng rất hạnh phúc vì đã biết Chúa, được tái sinh qua Bí tích Thánh Tẩy. Chúng ta đều là những “người trở về từ cõi chết”, được tắm gội trong suối Máu và Nước tuôn trào ra từ Thánh Tâm Chúa Giêsu, chúng ta phải cố gắng nên thánh để không phụ tình Chúa. Thánh Gioan nói: “Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa – mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa. Sở dĩ thế gian không nhận biết chúng ta, là vì thế gian đã không biết Người” (1 Ga 3:1). Chuyện khó tin mà có thật, thật 100%, cứ ngỡ chỉ có trong giấc chiêm bao mà thôi!

Chúng ta chỉ phận tôi đòi, nô tì kiếp, là tội nhân khốn nạn đáng án tử, thế mà lại được sống lại và được làm con cái Chúa. Những người không có niềm tin Kitô giáo thì không thể nào tin được, chắc chắn họ bảo chúng ta bị chích ma túy hoặc bị bùa mê thuốc lú!

Có lẽ vì biết chúng ta chưa dám tin nên Thánh Gioan tái xác định: “Hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa, nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy. Phàm ai đặt hy vọng như thế vào Đức Kitô thì làm cho mình nên thanh sạch như Người là Đấng thanh sạch”(1 Ga 3:2-3). Sự thật này không thể bị bóp méo, nhưng trí tuệ phàm nhân của chúng ta lúc này không thể hiểu hết, óc tưởng tượng “tí ti” của chúng ta cũng không thể nào hình dung thêm được gì. Vâng, chỉ có thể “hai năm rõ mười” khi nào chúng ta bước vào cuộc sống vĩnh hằng!

Thiên Đàng là cõi tuyệt phúc, mệnh danh là Nước Trời, là Vương Quốc vĩnh hằng Thiên Chúa, nơi mọi người được trường sinh bất tử – như các thánh hiện đang tận hưởng. Muốn được là Công Dân Nước Trời, chúng ta phải cố gắng sống như các thánh, tức là thực hành Bát Phúc (Mt 5:1-12). Đây là Đệ Nhất Tuyên Ngôn Độc Lập của Thiên Quốc do chính Chúa Giêsu soạn thảo. Bản Tuyên Ngôn này ngắn nhất, ít điều khoản nhất, nhưng lại chính xác nhất và “độc đáo” nhất.

Khi đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập, người ta luôn trịnh trọng công bố, nhưng Chúa Giêsu không tạo vẻ hình thức như vậy, Ngài thản nhiên với vẻ chuyện trò thân mật. Đúng là khác người thật. Thế mới độc đáo, thế mới tự nhiên, thế mới thân thiện. Ngài điềm đạm tuyên bố rất ngắn gọn:

  1. Phúc thay ai có tâm hồn NGHÈO KHÓ, vì Nước Trời là của họ.
  2. Phúc thay ai HIỀN LÀNH, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.
  3. Phúc thay ai SẦU KHỔ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.
  4. Phúc thay ai KHÁT KHAO nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng.
  5. Phúc thay ai XÓT THƯƠNG người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.
  6. Phúc thay ai có TÂM HỒN TRONG SẠCH, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.
  7. Phúc thay ai XÂY DỰNG HOÀ BÌNH, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
  8. Phúc thay ai BỊ BÁCH HẠI vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ.

Tám điều khoản xem chừng rất bình thường, nhưng không dễ thực hiện trọn vẹn – nhất là phải thực hiện mọi nơi và mọi lúc, trong suốt cuộc đời. Phải có cái tâm yêu thương thì mới khả thi. Ngôn từ bình dị, ngắn gọn, ai cũng có thể hiểu, chứ không văn hoa, không bóng bẩy, không cầu kỳ. Cuối cùng, Chúa Giêsu kết luận: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế” (Mt 5:11-12).

Các thánh đã chiến đấu ngoan cường, không hề nao núng trong bất cứ hoàn cảnh nào, mỗi người mỗi vẻ, thế nên các ngài đã đạt được Ơn Cứu Độ. Alleluia!

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết từng ngày noi gương các thánh, trung kiên làm chứng về Lòng Thương Xót của Ngài và loan báo Tin Mừng cứu độ cho tới hơi thở cuối cùng, dù chúng con có phải thiệt thòi cách nào đó. Nguyện xin chư thánh cầu thay nguyện giúp chúng con, phù hộ và nâng đỡ chúng con để chúng con luôn can đảm bảo vệ Đức Tin như các ngài vậy, để chúng con cũng được trở nên Công Dân Nước Trời đời đời. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

 Về mục lục

.

CHÚNG TA CÓ NÊN THÁNH ĐƯỢC KHÔNG?

Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển

Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội mừng trọng thể lễ các thánh nam nữ. Qua thánh lễ hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy biểu lộ niềm vui mừng, hãnh diện và hy vọng vào ơn cứu độ của Thiên Chúa dành cho chúng ta là những người cùng chung niềm tin vào Chúa như các thánh.

Tuy nhiên, hẳn mỗi người chúng ta nhiều khi tưởng tượng ra sự xuất sắc của các thánh như là những vĩ nhân, những người siêu quần bạt chúng, hay các ngài như là những người có một cuộc sống đặc biệt, khác thường nên mới trở nên những vị thánh! Còn chúng ta, những người tầm thường, có lẽ niềm hy vọng nên thánh là điều khó có thể xảy ra!

Suy nghĩ như thế có đúng hay sai? Và chúng ta có trở nên thánh trong thời đại hôm nay được hay không?

Giờ đây, chúng ta cùng nhau suy niệm về cuộc đời của các thánh, và từ đó, rút ra một giải đáp cho thắc mắc trên.

Trước tiên, chúng ta cùng nhau tìm hiểu xem: các thánh là ai? Và các ngài đã sống như thế nào?

  1. Các thánh là ai?

Khi đặt câu hỏi như thế, chúng ta có thể trả lời ngay rằng: các ngài là những Giáo hoàng, Hồng y, Giám mục, Linh mục, Tu sĩ và Giáo dân. Các ngài là những người tri thức, nhưng cũng không thiếu những đấng bình dân học vụ. Các ngài là những người có địa vị trong Giáo Hội và xã hội, nhưng cũng không thiếu những đấng thường dân. Các ngài là những người được sinh ra nơi thành phố phồn hoa đô hội, nhưng cũng có vị hiện hữu nơi cuộc đời này trong cảnh màn trời chiếu đất, nơi thôn quê hẻo lánh… Các ngài là những bác sĩ, kỹ sư, là những người giàu, nhưng cũng rất nhiều đấng suốt ngày bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, là những người nghèo, cảnh mẹ góa con côi… Các ngài cũng là những người thánh thiện, tốt lành ngay từ nhỏ, nhưng cũng không thiếu đấng trước đó là kẻ rối đạo, chối đạo, sống cuộc đời bê tha và trác táng, nhưng chỉ được ơn sám hối, canh tân, tin tưởng, phó thác nơi Chúa trước khi nhắm mắt rời bỏ thế gian mà thôi…

Như vậy, các thánh thật đông đảo và các ngài từ mọi nơi, mọi miền và đủ mọi thành phần. Chính thánh Gioan khi được thị kiến đã thốt lên: “… kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ” (Kh 7, 9); và: “Một trăm bốn mươi bốn ngàn người được đóng ấn, thuộc mọi chi tộc con cái Itraen” (Kh 7, 4); các ngài “… là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên”(Kh 7,14).

Nói chung, thế giới của các thành gồm đủ mọi thành phần, và số lượng các thánh không ai đếm xuể. Công việc của các ngài là tôn vinh, thờ phượng, cảm tạ Thiên Chúa và cầu thay nguyện giúp cho chúng ta. Các ngài đang được sống một sự sống hạnh phúc nơi quê thật là Nước Trời.

Việc chúng ta ngưỡng mộ tài cao đức rộng, cuộc sống phi thường của các thánh hẳn không sai, nhưng không phải là tuyệt đối đúng, vì thực tế, trong số các thánh, nhiều đấng cũng không hơn gì chúng ta. Có khi các ngài cũng là nhưng người tội lỗi một thời như Maria Mađalêna, Phêrô, người trộm lành, Phaolô, Augustinô…

Điều đáng nói ở đây chính là: các ngài thuộc những người đã trải qua kinh nghiệm về yếu đuối, sa ngã và tội lỗi, nhưng các ngài đã sám hối, ăn năm, canh tân đời sống theo ánh sáng Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô. Các ngài là những người 99  lần ngã, nhưng lần thứ 100 thì đứng dạy và đứng luôn trong ân sủng.

Thật vậy, sau khi sa ngã, các ngài đã nhận được ân sủng và tình thương lớn lao của Thiên Chúa dành cho mình, nên các ngài đã tin tưởng, phó thác và yêu mến Thiên Chúa hết lòng, yêu thương anh chị em tha thiết. Như thế, có thể nói: các thánh đều là những người đã nếm mùi đau khổ thử thách ở trần gian như chúng ta, xong, các ngài vẫn giữ được lòng trung thành với Thiên Chúa và kiên trì tuân giữ Giới Luật của Người cũng như thi hành xuất sắc Tám Mối Phúc Thật.

Cuộc đời hy sinh, đòn vọt, bắt bớ vì Chúa và tâm tình sám hối, canh tân để trở nên ngày càng đồng hình đồng dạng với Đức Kitô nơi các thánh được ví như một cuộc thanh luyện và cố gắng liên lỷ.

2. Các thánh là những người trung thành với Hiến Chương Nước Trời

Tất cả các thánh, không ai là người sống ngoài bản Hiến Chương Nước Trời mà Tin Mừng hôm này thuật lại. Các ngài luôn coi bản Hiến Chương Nước Trời như là khuôn vàng thước ngọc cho cuộc đời mình. Qua bản Hiến Chương này, các ngài đã sống tinh thần nghèo khó, không bị lệ thuộc vào vật chất, sống hiền lành và bao dung, quảng đại, tha thứ. Cuộc đời các ngài luôn khao khát sự sống công chính, mong muốn sống trong sạch, yêu thương, chăm sóc những người đau khổ, luôn kiến tạo hòa bình và khước từ hận thù, xây dựng tình huynh đệ, hiệp nhất, yêu thương. Các thánh còn là những người vì yêu mến Chúa trên hết mọi sự, nên chấp nhận mọi sự hiểu lầm, đòn vọt, bắt bớ, gươm đao và ngay cả cái chết để được mối lợi tuyệt đối là Đức Kitô, vì người, các ngài đành mất hết (x. Pl 3, 8). Các ngài được ví như những người lái buôn, đã đánh đổi tất cả một khi đã tìm được Kho Tàng, Viên Ngọc Quý. Vì thế, đối với các ngài: “…sống là Ðức Kitô, và chết là một mối lợi” (Pl 1, 21), nên không có gì tách các ngài ra khỏi tình yêu của Đức Kitô.

Mừng lễ các thánh nam nữ hôm nay, chúng ta có niềm an ủi thật lớn lao, đó là: các thánh không phải là người xa lạ với chúng ta. Các ngài là những người có cùng niềm tin, là tổ tiên, là cha ông, là những người thân của chúng ta.

Có những vị thánh nổi tiếng, nhưng cũng không thiếu những vị thánh bình thường, vô danh.

Đường lối nên thánh cũng không phải chỉ có một con đường độc điệu, mà là nhiều con đường khác nhau…

Như thế, các thánh là những người rất gần gũi với cuộc sống thực tế của chúng ta. Bởi vậy, mỗi người đều có quyền hy vọng rằng: “Ông nọ bà kia nên thánh được, còn tôi, tại sao không?” (Thánh Augustino).

  1. Hãy trở nên thánh vì ta là Đấng Thánh

Lời mời gọi nên thánh vẫn luôn là một điều gì đó mới mẻ và hấp dẫn đối với chúng ta. Tuy nhiên, để sống được lời mời gọi này, chúng ta phải lội ngược dòng, phải lột xác và chấp nhận sự nghịch lý của Tin Mừng, bởi lẽ, chúng ta đang sống trong một xã hội thực dụng, thỏa mãn xác thịt, ham muốn điều bất chính, gây bất hòa, chia rẽ, vô cảm, dửng dưng với đau khổ của anh chị em, gây nên những bạo lực, đau khổ, sống dối trá, giả hình, bóc lột, bất công…! Trong khi đó, Lời Chúa và những giá trị của Chân Lý luôn nhắc nhở và mời gọi chúng ta ý thức rằng: hạnh phúc đích thực của chúng ta ở nơi Thiên Chúa và quê hương chúng ta ở Trên Trời, chứ không phải ở những thứ chóng tàn, mau qua sớm hết nơi trần gian này… Vì thế, muốn đạt được Nước Trời làm gia nghiệp, chúng ta phải chiến đấu liên lỷ để biện phân và lựa chọn giữa tốt và xấu, giữa thiện và ác, giữa cuộc sống tạm bợ và cuộc sống vĩnh cửu. Chấp nhận đi theo con đường hẹp của Tin Mừng. Được hạnh phúc hay bất hạnh là do sự lựa chọn của chúng ta.

Mừng kính lễ các thánh nam nữ hôm nay, chúng ta cùng nhau tạ ơn Chúa đã ban cho Giáo Hội những gương sáng ngang qua cuộc đời của các thánh, từ đó trở thành động lực cho mỗi chúng ta phấn đấu trên con đường nên thánh. Đồng thời, mỗi khi mừng kính các thánh, chúng ta cũng tạ ơn Chúa đã ban nhiều ơn thánh trợ giúp, để: con cháu, anh chị

Mặt khác, qua việc mừng lễ này, sứ điệp Lời Chúa và Giáo huấn của Giáo Hội mời gọi chúng ta tái khám phá và làm mới lại sự quyết tâm trong việc: nghĩ thánh, hành động thánh và sống thánh trong cuộc sống thực tại hôm nay.

Lạy các thánh nam nữ trên trời, xin chuyển cầu cùng Chúa cho chúng con. Amen.

 Về mục lục

.

NÊN THÁNH BẰNG CÁCH NÀO?

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Tôi rất thích câu chuyện hóm hỉnh: “Trong một lớp giáo lý, vị linh mục hỏi nhóm trẻ con có ai biết định nghĩa thế nào là một vị thánh. Nhớ tới những ô cửa kính mầu có vẽ hình các thánh mà em rất thích nhìn ngắm mỗi khi đi lễ nhà thờ xứ, một em nhỏ giơ tay lên xin trả lời: ‘Thánh là người để cho ánh sáng chiếu xuyên qua mình”. Tôi thấy câu trả lời đơn sơ ấy quả là tuyệt vời và sâu sắc! Nếu thánh không tự mình có nguồn sáng mà chỉ là người có khả năng để cho ánh sáng chiếu xuyên qua, thì ta có thể đặt thêm hai câu hỏi khác nữa: ánh sáng nào chiếu qua, và làm thế nào để ánh sáng có thể chiếu qua được?

Ánh sáng nào chiếu qua?– Đương nhiên là ánh sáng của Chúa rồi, thế nhưng Chúa cũng có nhiều thứ ánh sáng lắm đấy. Ánh sáng của Chúa có thể là quyền phép, là toàn thiện, là khôn ngoan, là sức mạnh… những thứ ánh sáng này đã được Cựu Ước (và có lẽ cả các tôn giáo khác nữa) đề cập tới cách khá thường xuyên và rành rẽ. Thế nhưng có một thứ ánh sáng khác nữa của Thiên Chúa mà chỉ Đức Ki-tô khi cất công xuống thế làm người và chịu chết mới chỉ cho nhân loại thấy được; đó là ánh sáng của một Thiên Chúa tình yêu, đầy từ tâm và hay xót thương. Các Thánh của Tân Ước và của Hội Thánh phải là những vị có khả năng để cho thứ ánh sáng này của Thiên Chúa chiếu xuyên qua, cả khi họ còn sống lẫn khi họ đã qua đời. Nói ‘xuyên qua’ là đứng từ góc độ các người khác nhìn vào các ngài và nhận ra, miễn là họ không bị bưng kín trong lối suy nghĩ cố hữu; còn về phần Các Thánh, vì là những người đã tiếp nhận trọn vẹn Tin Mừng của Đức Ki-tô, chắc chắn các ngài cách này hay cách khác đã nhận ra và thâm tín điều này, vì biết rằng“Họ đã giặt áo mình trong máu Con Chiên” (Kh 7:14). Chỉ cần nhìn sâu vào tâm tình của Đức Maria hay của bất kỳ vị thánh nào đã từng có dịp diễn tả tâm tình riêng tư của mình, như Âu Tinh hay Tê-rê-xa chẳng hạn, là ta nhận ra ngay. Nên chú ý là nếu chiêm ngưỡng các Thánh mà chỉ thấy nơi các ngài toàn là ánh sáng của quyền phép (phép lạ) của toàn thiện (nhân đức, khổ chế) của khôn ngoan (tiến sĩ) hay can đảm mạnh bạo (tử đạo) là ta chưa thực sự hiểu các ngài. Nói cách khác, chúng ta đang làm các ngài thất bại trong việc để cho ánh sáng đích thực của Đức Ki-tô lọt qua.

Làm cách nào để ánh sáng có thể chiếu qua?Đừng có lo! Đức Giê-su đã khảng định: chỉ cần là một Ki-tô hữu thấp hèn nhất là ta đã có thể tỏa sáng cơ mà;“anh em là ánh sáng… là ngọn đèn…” (Mt 5:13-16). Thế nhưng để có thể tiếp nhận ánh sáng đích thực của Đức Ki-tô, ta vẫn cần phải hội đủ một số điều kiện và nắm được một bí quyết. Chính Phúc âm ngày hôm nay đang vạch ra điều này khi trình bày các mối phúc được Đức Giê-su công bố. Các mối phúc đâu phải là một lối tu đức mới hầu làm cho con người nên hoàn thiện hơn! Chúng sẽ chẳng có giá trị gì nếu không phải là những ‘điều kiện’ (hay đúng hơn, những ‘dịp may’) để ta có thể lãnh hội được ánh sáng của Tin Mừng tình yêu. Tất cả các vị thánh đều là những người đã từng sống các mối phúc, cách này hay cách khác, và vì thế đã có khả năng tiếp nhận và chiếu tỏa ánh sáng của Đức Ki-tô.

Nếu quả là như thế thì chúng ta đừng có mơ tới một sự trọn lành qua luyện tập như một ánh sáng tự phát! Điều đó có thể một số vị nào đó đã đạt được, trong số họ có cả các bậc thánh hiền của các tôn giáo khác hay các vĩ nhân anh hùng của các học thuyết ngoài Ki-tô giáo. Không, các Thánh Ki-tô hữu sẽ giản dị hơn nhiều; các ngài là những người đã không ngừng tiếp nhận ánh sáng của tình yêu Thiên Chúa vào cuộc sống mình, và đôi khi qua chính những thất bại, các đổ vỡ tinh thần hay yếu đuối sa ngã, điều mà người đời vẫn coi là ‘bất hạnh’, thì các ngài lại coi chúng như những ‘dịp may’ được cống hiến để tiếp nhận và làm tỏa sáng tình yêu xót thương cứu độ của Thiên Chúa. Đức Ki-tô hôm nay long trọng công bố thái độ này như một bí quyết (chìa khóa) để đi vào vương quốc tình yêu (“vì Nước Trời là của họ… đất hứa làm gia nghiệp…”).

Lễ Các Thánh do đó, nhắc nhở và mời gọi từng người chúng ta, qua việc chiêm ngắm các ngài, thể hiện cái bí quyết này trong cuộc sống đời thường của mình. Qua Các Thánh (và lòng sùng kính chân thực đối với các ngài) chúng ta càng dễ dàng hơn nhìn thấy và tiếp nhận luồng ánh sáng của Đức Ki-tô, để nó chiếu soi vào con người mình, lọt qua và làm những người chung quanh cũng có thể nhìn thấy được ánh sáng đó.

Như vậy tất cả chúng ta đều có thể nên thánh, vì ‘dịp may’ không thiếu và bí quyết đã được trao tay. Chỉ cần chúng ta vượt qua nghi ngại của một quan niệm sai lầm… và ánh sáng Tình yêu nhân ái và hay thương xót của Thiên Chúa đang chờ đợi để chiếu sáng trên tất cả chúng ta. Quả vậy, các Thánh cũng như sự thánh thiện của các ngài gần gũi chúng ta biết là dường nào và trong tầm tay với của mọi Ki-tô hữu, kể cả những người yếu đuối tội lỗi nhật!

Kính lạy hết thảy Các Thánh Nam Nữ trên trời, chắc hẳn các ngài có rất nhiều điều để dạy dỗ con, và đời sống các ngài cũng có nhiều gương sáng để con học đòi bắt chước; thế nhưng các điều đó chẳng mấy ích lợi cho con, nhất là trong hoàn cảnh sống rất khác biệt giữa con với các ngài. Con nghĩ rằng các ngài cũng chẳng muốn như thế đâu, vì đó đâu phải là mục tiêu các ngài nhắm tới khi còn sống. Vậy thì xin hãy dạy con đón nhận tình yêu thương xót của Chúa như các ngài đã từng đón nhận, và xin cho con cũng biết ca ngợi lòng thương xót Chúa như các ngài ca ngợi lúc này trên thiên quốc. A-men  

Về mục lục

.

ANH EM HÃY NÊN HOÀN THIỆN

Lm. GB. Trần Văn Hào

Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện

Nếu có dịp viếng thăm đền thờ Thánh Phêrô ở Vatican, chúng ta sẽ được chiêm ngưỡng một cảnh quan rất ngoạn mục với nhiều tượng ảnh các thánh do các nghệ nhân nổi tiếng điêu khắc. Đặc biệt ở các ô cửa kính phía trên cao, có rất nhiều hình các thánh được lắp ghép bằng những mảnh kính mầu trông rất ấn tượng. Khi mặt trời lên cao và được ánh sáng chiếu qua, chân dung các thánh được hiện lộ và tỏa sáng. Có một đứa bé khi được cha xứ hỏi trong giờ giáo lý: “ Các thánh là ai ?”, em đã đơn sơ trả lời: “ Thưa Cha, các thánh là những vị được ánh sáng mặt trời chiếu qua”. Câu trả lời của đứa bé gợi nhắc chúng ta về ý nghĩa của ngày lễ hôm nay khi Giáo hội mừng kính các thánh nam nữ. Đúng như em bé nói, các thánh chính là những con người được ánh sáng Đức Kitô soi dọi và chiếu sáng. Ngài chính là mặt trời công chính, chiếu dọi ánh quang vào tâm hồn mọi người. Các vị thánh là những con người vốn mỏng dòn yếu đuối, nhưng đã đạt đến sự hoàn thiện, vì các Ngài đã để ánh sáng Đức Kitô thẩm thấu và ngấm sâu vào trong cuộc đời mình.

Có bao nhiêu vị thánh trên trời?

Không khó để trả lời câu hỏi này. Trong cái nhìn thần học của Thánh Gioan, con số đó nhiều vô kể. Sách Khải Huyền đã ghi lại thị kiến : “Tôi thấy một đoàn người đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ (Kh 7, 9). Con số 144 ngàn (Kh 7, 4), bội số của 12 chi tộc Israel nhân lên 12 và nhân lên gấp ngàn lần nữa, chỉ mang tính biểu tượng ám thị một con số khổng lồ. Bởi lẽ ơn cứu độ của Đức Giêsu bao trùm toàn thể vũ trụ, và phủ bóng trên tất cả mọi người không loại trừ ai. Không chỉ những ai được Giáo hội tuyên phong mới là thánh, nhưng tất cả những người được ân sủng Đức Kitô biến đổi nên công chính, đều là những vị thánh. Trong thư gởi các giáo đoàn như thư Rôma, 2 lá thư Côrinthô, thư Êphêsô, thư Côlossê, Thánh Phaolô vẫn thường gọi các tín hữu là những vị thánh. Hằng tuần chúng ta tuyên tín khi đọc kinh tin kính: ‘Tôi tin Giáo hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền’. Giáo hội tự bản chất là thánh thiện, vì thế những ai sống hiệp thông trong Hội thánh đều được thông phần vào sự thánh thiện của giáo hội phát nguồn từ chính Kitô, đấng Thánh của Thiên Chúa. Bởi vì Giáo hội chính là thân thể mầu nhiệm của Ngài.

Ơn gọi nên thánh

Chúa Giêsu mời gọi chúng ta :“ Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là đấng hoàn thiện” (Mt 5, 48). Việc nên thánh không phải là một ơn gọi biệt loại chỉ dành riêng cho một số người, nhưng đó là ơn gọi phổ quát mà Chúa Giêsu ngỏ trao cho tất cả chúng ta. Giáo hội đã tuyên thánh (canonize) rất nhiều vị thuộc đủ thành phần, từ các Giáo Hoàng, các Giám mục, các linh mục, tu sĩ và cả giáo dân. Ngày 18 tháng Mười vừa qua, giữa lúc Thượng hội đồng Giám mục thế giới đang nhóm họp bàn về gia đình, Đức Thánh Cha Phanxicô với quyền bất khả ngộ đã tuyên bố ông bà Martin Guérin, song thân của Thánh nữ Têrêsa thành Lisieux được ghi tên vào sổ bộ các thánh. Cả hai vị cũng là giáo dân giống như nhiều người trong chúng ta, với biết bao lo toan trong cuộc sống đời thường giữa một gia đình khá đông con cái. Bí quyết việc nên thánh của hai Ngài rất giản đơn, đó là hoàn thiện ơn gọi tình yêu trong những bổn phận hằng ngày với niềm đam mê cháy bỏng dành cho Thiên Chúa. Cho dù trong cuộc sống các Ngài có những khiếm khuyết, nhưng tình yêu Thiên Chúa đã lấp đầy những lỗ hổng của thiếu sót và biến trở cuộc đời các Ngài nên hoàn thiện.

Trong các dịp lễ Giáng sinh, Thánh Gioan Bosco có thói quen cho các em học sinh mỗi người một món quà, tùy sở thích mỗi người. Đaminh Saviô đã viết trên một mảnh giấy nhỏ ước muốn đơn sơ của mình và trao cho DonBosco: ‘ Con xin Cha hãy giúp con nên thánh’. Ước muốn này đã được thực hiện và DonBosco không những là một vị thánh, Ngài còn là một nhà giáo dục, là thầy dạy đường nên thánh cho các con cái Ngài. Không ai trong chúng ta lên thiên đàng một mình cũng như không ai xuống hỏa ngục một mình. Chúng ta nên thánh cũng bằng cách giúp người khác vươn đạt đến sự thánh thiện.

Đức Giêsu, mẫu gương trọn hảo về sự thánh thiện

Trong bài đọc 2 của phụng vụ hôm nay, Thánh Gioan tông đồ mời gọi chúng ta quy chiếu về Đức Giêsu, Đấng Thánh của Thiên Chúa. “ Khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người” (1Ga 3, 2 ). “Ai đặt hy vọng vào Đức Kitô, thì làm cho mình nên thanh sạch” (1Ga 3,3). Đức Kitô Đấng thanh sạch, là con chiên tinh tuyền, chính là chuẩn mẫu về sự thánh thiện để chúng ta noi theo. Ngài đã sống tận căn mầu nhiệm yêu thương để quảng diễn sự thánh thiện nơi Ngài. Vì thế Đức Giêsu mời gọi các môn sinh phải sao chép lại tình yêu mà Ngài đã diễn bày. “Anh em hãy yêu thương nhau như thầy yêu thương anh em” (Ga 15,12) . Thập giá và cái chết của Đức Giêsu là nguyên mẫu về sự thánh thiện mà chúng ta luôn phải học hỏi, phải đào sâu, phải khám phá không ngừng nhằm tìm ra con đường thánh thiện để dấn bước. Vì thế trong bài Tin mừng hôm nay, Giáo hội đọc lại cho chúng ta bản Hiến chương Nước Trời: đó là tám mối phúc Đức Giêsu đã công bố trong bài giảng trên núi. Đây chính là nẻo đường dẫn chúng ta đi dần vào mầu nhiệm Thập giá. Sống tinh thần khó nghèo, sống hiền lành khiêm tốn, sống nhẫn nhục trong lao nhọc, sống quảng đại với tấm lòng xót thương, sống như là những sứ giả hòa bình… Tất cả đều là những sắc nét của mầu nhiệm Thập giá, con đường dẫn đưa chúng ta đến sự trọn lành.

Tuy nhiên, chúng ta thường hay nghĩ rằng tôi chỉ là một con người tầm thường với biết bao tội lỗi và yếu đuối, làm sao tôi có thể nên thánh được. Chúng ta đừng quên rằng, vị thánh đầu tiên được Chúa Giêsu ‘tấn phong’ và mở cửa Thiên Đàng đón đưa vào, không ai khác chính là một tên trộm khét tiếng. Một nhà tu đức đã dí dỏm nói rằng: Đây là một tay trộm cắp chuyên nghiệp vì cánh cửa nào anh ta cũng có thể mở ra được. Anh ta dùng một chìa khóa vạn năng để mở các loại cửa, kể cả cửa Thiên Đàng. Chiếc chìa khóa vạn năng đó chính là tín thác vào lòng thương xót của Chúa. Mức độ trộm cắp chuyên nghiệp của anh ta đạt đến đỉnh điểm, vì trước khi chết anh ta còn ăn trộm được cả Thiên Đàng. Trong bộ sách Confessio, Thánh Augustinô cũng viết một câu chuyện tưởng tượng. Ngài gặp tên trộm và hỏi anh ta: “ Thưa anh, anh không phải là người công giáo, anh chưa từng bước chân vào nhà thờ, anh cũng chưa hề học giáo lý và cũng chưa biết Đức Giêsu là ai, vậy tại sao anh lại đựơc Đức Giêsu mở cửa Thiên Đàng cho vào?”. Người trộm trả lời “ Ông nói đúng, tôi chỉ là một tên cướp với cuộc sống đầy kín tội ác. Tôi chưa từng học giáo lý, chưa được rửa tội, cũng chưa biết Đức Giêsu là ai. Nhưng trên thập giá, tôi đã nhìn vào Ngài. Cặp mắt Đức Giêsu đã hắt dọi vào tâm hồn tôi một luồng sáng kỳ diệu, đó là ánh sáng của lòng thương xót. Tâm hồn tôi đã bị khuất phục hoàn toàn trước ánh mắt đầy trìu mến và thân thương ấy. Cuối cùng, tôi đã tin. Tôi đã vào Thiên Đàng không phải do công cán của tôi, nhưng tất cả là hồng ân của lòng thương xót Chúa.

Kết luận

Ngày 05 tháng Chín năm 1997, ông Kofi Anan lúc bấy giờ là Tổng thư ký liên hiệp quốc đã viết một bản cáo phó gửi đi khắp thế giới với nội dung: ‘ Một người giàu quyền lực nhất vừa mới vĩnh viễn rời bỏ chúng ta’. Nhưng người giầu quyền lực đó là ai? Thưa, đó chỉ là một phụ nữ già nua ốm yếu, 87 tuổi, trong tay không có lấy một tấc sắt làm vũ khí để bảo vệ mình. Người giàu quyền lực đó gia sản không có một xu dính túi, đã từng phải ngửa tay xin từng cái giường cũ của những người nhà giàu đem phân chia cho người nghèo. Người giàu quyền lực đó đã can đảm vượt qua mọi rào cản của các luồng ý thức hệ để đến tận Liên Xô, Cuba, Trung Quốc hầu giang rộng vòng tay ôm đón những con người khốn khổ nhất bị vất ra bên lề xã hội. Người giầu quyền lực đó chính là Mẹ Têrêsa Calcutta.

Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 đã tuyên phong chân phước cho Mẹ, chỉ 6 năm sau khi Mẹ qua đời, và rất có thể Mẹ sẽ được phong hiển thánh vào năm tới, năm thánh Lòng Thương xót. Đó là một vị thánh của đời thường, sống rất dung dị, một con người rất con người nhưng cũng là một vị thánh rất là thánh. Mẹ đã nghe được tiếng Chúa Giêsu thét gào trên Thập giá: “ Ta khát”. Lời gào thét đó vẫn đang vang vọng nơi khuôn mặt những con người khốn khổ của xã hội ngày hôm nay. Mẹ đã nên thánh bằng việc cảm nghiệm sâu xa tình yêu Chúa và đã trải rộng tình yêu đó đến những người cùng khổ một cách cụ thể. Đó là một dung mạo rất gần gũi và thân quen trong muôn vàn vị thánh, để chúng ta suy nghiệm và chiêm ngắm trong ngày lễ mừng kính các thánh hôm nay.

Về mục lục

.

ĐỂ ĐƯỢC NÊN THÁNH VÀ ĐƯỢC SỐNG ĐỜI ĐỜI SAU NÀY

Lm. Đan Vinh

  1. LỜI CHÚA: Chúa phán: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11:25-26). 
  2. CÂU CHUYỆN:
  3. NGUỒN GỐC LỄ CÁC THÁNH

Trong lịch cử Hội Thánh, từ thế kỷ thứ 4,các vị tử đạo đã được Hội Thánh tôn vinh. Đến thế kỷ thứ 7, sau khi một số kẻ xấu đột nhập các hang toại đạo tại Rôma trộm cắp hài cốt của các vị tử đạo, Đức giáo hoàng Bonifaciô IV đã cho thu lượm những hài cốt các thánh và chôn cất lại bên trong ngôi đền Pantheon, là đền thờ các thần của người Rôma. Từ ngày đó đền thờ này đã được thánh hiến trở thành đền thờ kính các Thánh Nam Nữ của đạo Công Giáo.

Sử gia Beda đáng kính đã viết: “Việc tưởng nhớ các thánh trong tương lai có thể thay cho việc thờ phượng mà trước đây không được dành cho thần thánh nhưng là thờ ma quỷ”. Vào năm 800, thần học gia Alcuin người Anglo-Saxon đã cử hành lễ Các Thánh vào ngày 1 tháng 11, và bạn của ông là Arno, Giám mục của Salzburg cũng theo như vậy. Sau cùng, trong thế kỷ thứ 9, Hội Thánh Rôma đã chấp thuận mừng lễ Các Thánh vào ngày 1 tháng 11 hằng năm.

Đầu tiên lễ này nhằm kính nhớ các vị tử đạo. Về sau, khi người Kitô hữu được tự do tín ngưỡng, Giáo hội đã kính chung những tín hữu đã chết trong sự thánh thiện. Vào các thế kỷ đầu tiên, để được công nhận là Thánh, thì chỉ cần được nhiều người công nhận và vị giám mục chỉ làm việc cuối cùng đưa tên vị Thánh ấy vào niên lịch Giáo hội.

Việc Đức giáo hòang chính thức phong các tín hữu lên bậc ThánhNhân chỉ bắt đầu từ năm 973. Ngày nay việc phong thánh đòi hỏi cả một tiến trình lâu dài để chứng minh các đức tính và sự thánh thiện của các ngài. Khi phong thánh cho một người nào, Hội Thánh chính thức xác nhận người đó đã sống cuộc đời thánh thiện và đang được hưởng hạnh phúc thiên đàng để các tín hữu noi gương. Hiện nay ngòai các vị được nêu tên trong lịch gọi là các vị Hiển Thánh, Hội Thánh còn mừng lễ Các Thánh để kính nhớ chung các tín hữu đã chết và đang được hưởng hạnh phúc với Chúa, trong đó nhiều người là thân nhân của chúng ta.

  1. SUY NIỆM:

1) CÁC THÁNH LÀ NHỮNG AI ?

– Đức Khổng Phu Tử đã nói: “Làm thánh thì tôi không dám” (thánh ngã bất cảm); còn Đức Giê-su thì lại dạy môn đệ : “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48). Chúa Giê-su cũng được ma quỷ gọi là “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Lc 4,34). Nhờ mầu nhiệm nhập thể của Chúa Giê-su, Thiên Chúa đã dạy con đường nên thánh cho loài người. 

– Sách giáo lý Công giáo dạy: Các thánh là những người sống tốt lành đạo đức trong cuộc sống trần gian, và sau khi đã kết thúc hành trình trần thế, họ đang được hưởng hạnh phúc thiên đàng. Khi sống ở đời này, họ đã kiên trì cộng tác với ơn Chúa, nỗ lực cố gắng để vượt qua những cám dỗ đời thường và sống trọn lành, thanh tịnh. Giáo Hội Công giáo tôn những tín hữu này là những đấng thánh, vì họ phản ánh trung thành sự thánh thiện của Thiên Chúa.

2) MỘT HỘI THÁNH BA TÌNH TRẠNG

Chúa Giêsu thiết lập Nước Trời là Hội Thánh. Hội Thánh ấy hiện nay gồm có ba tình trạng: Một là Hội Thánh Lữ Hành còn ở trần gian, hai là Hội Thánh Vinh Thắng trên Thiên Đàng và ba là Hội Thánh Đau Khổ trong chốn luyện hình:

– HỘI THÁNH LỮ HÀNH TRẦN GIAN: Gồm các tín hữu đang còn sống, đang bước đi trên con đường của Chúa Giêsu. Như dân Ít-ra-en xưa, Hội thánh sẽ phải vượt qua sa mạc trần gian về Đất Hứa là Thiên Đàng đời sau. Các tín hữu trong Hội Thánh lữ hành còn phải tiếp tục chiến đấu với ba thù là ma quỷ, thế gian và xác thịt mình. Họ được Chúa ban cho 2 của ăn thiêng liêng là Bánh Lời Chúa và Bánh Thánh Thể. Nhờ đó họ sẽ đủ sức vượt qua sa mạc trần gian để về đến miền Đất Hứa là Thiên Đàng đời sau.

– HỘI THÁNH KHẢI HOÀN TRÊN TRỜI: Gồm các tín hữu đã qua đời trong niềm tin cậy vào Chúa. Các ngài đã sống theo hiến chương Nước Trời là Tám Mối Phúc Thật do Chúa Giêsu công bố và ngày nay các ngài đang được Chúa ban thưởng hạnh phúc Thiên Đàng.

– HỘI THÁNH ĐAU KHỔ ĐANG THANH LUYỆN: Gồm các tín hữu tuy đi theo con đường của Chúa Giêsu, nhưng đã qua đời trong tình trạng còn nhiều sai sót, chưa xứng đáng được vào Nước Trời. Họ cần tiếp tục được thanh luyện trong chốn luyện hình.

  1. TÍN ĐIỀU CÁC THÁNH THÔNG CÔNG

Ngọai trừ các người theo ma quỷ phải sa hỏa ngục để chịu hình phạt xa Chúa đời đời, như lời Chúa phán: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta, mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác quỷ và các sứ thần của nó” (Mt 25,41), còn các tín hữu tin vào Chúa Giêsu dù còn sống hay đã qua đời, dù đã được lên trời hay đang được thanh luyện cũng đều cầu nguyện cho nhau và được thông hiệp vào ơn cứu độ của Chúa Giêsu. Đó là mầu nhiệm các thánh cùng thông công:

Các tín hữu còn sống có thể giúp các linh hồn đã qua đời bằng việc viếng Nhà thờ hay Đất thánh (kèm theo việc đọc kinh cầu nguyện, xưng tội rước và cầu nguyện hiệp thông với Đức Giáo Hòang sẽđược nhận các ân xá trong dịp đầu tháng 11), nhất là xin lễ và hiệp dâng thánh lễ cầu nguyện, làm các việc lành phúc đức như chia sẻ bác ái phục vụ để cầu nguyện cho các linh hồn. Nhờ đó các linh hồn sẽ được ơn Chúa chiếu soi, được thêm lòng yêu mến Chúa để được ơn tha thứ tội lỗi như Chúa đã dạy: “Yêu nhiều sẽ được tha nhiều”(Lc 7,47). Khi các linh hồn được nên thanh sạch thánh thiện hòan tòan thì sẽ được vào Thiên Đàng và sẽ cầu bầu cùng Chúa ban các ơn lành hồn xác cho chúng ta còn sống ở trần gian.

  1. LỜI CẦU

Lạy Chúa Giêsu. Mỗi lần đối diện với cái chết gần kề, con cảm thấy run sợ vì con chưa sẵn sàng để gặp Chúa. Trong suốt cuộc đời, con đã lo toan rất nhiều thứ như lo tìm kiếm tiền tài, danh vọng, chức quyền trần gian… Còn điều quan trọng chính yếu là chuẩn bị cho giờ chết sẽ đến thì con lại chưa làm gì cả! Con thật dại khờ khi nghĩ mình sẽ có thời gian chuẩn bị trước khi chết. Nhưng lời Chúa xưa đã dạy “Con Người sẽ đến như kẻ trộm” và đòi con phải luôn tỉnh thức bằng việc chuẩn bị sẵn sàng. Một ngày nào đó con không ngờ trước, con sẽ phải ra trình diện trước mặt Chúa, không biết bấy giờ Chúa có nhận biết con không, hay Chúa sẽ bảo con rằng: “Hãy đi cho khuất mắt Ta, hỡi kẻ làm điều gian ác!”

Lạy Chúa Giêsu. Xin ban cho con ơn khôn ngoan của Thánh Thần để con biết sống trọn vẹn giây phút hiện tại trong ơn nghĩa Chúa, để ngày nào đó khi được Chúa gọi, con sẽ trình diện trước mặt Chúa không phải như hai người xa lạ, nhưng là hai người rất thân quen. Để khi ấy Chúa sẽ gọi con bằng một cái tên rất trìu mến và giang rộng vòng tay đón con vào hưởng hạnh phúc Nước Trời đời đời.-Amen.

Về mục lục

.

ĐAU KHỔ VÀ VINH QUANG

Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Sống ở đời, ai cũng muốn nên hoàn hảo tốt lành, mặc dù quan niệm về sự hoàn hảo có khác nhau. Lý tưởng của người Kitô hữu cũng là sự hoàn hảo. Sự hoàn hảo này không dựa trên các tiêu chí của người đời, nhưng lấy sự thánh thiện của Thiên Chúa làm mẫu mực. Sự hoàn hảo giống như Thiên Chúa được gọi là “thánh”, giống như Ngài là Đấng Chí Thánh.
 
Một vận động viên muốn đạt giải phải chấp nhận mọi khổ luyện; một người thợ muốn giỏi trong nghề phải chấp nhận học hỏi gian nan; một người muốn nên thánh phải được tôi luyện và trải qua nhiều thử thách. Lời vị Kỳ Lão trong sách Khải huyền đã khẳng định với chúng ta: các thánh là những người được đến để chiêm ngưỡng vinh quang Thiên Chúa, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao (Bài đọc I).
 
Sự thử thách của các vị thánh được so sánh như giặt áo trong máu của Chiên Con, tức là của Đức Giêsu. Đây là cách nói muốn diễn tả sự liên kết với đau khổ của Đấng Cứu thế, nhờ đó mà những hy sinh của các thánh trở nên có ý nghĩa. Quả vậy, không phải bất cứ đau khổ nào cũng đều có giá trị tôi luyện và giúp cho chúng ta nên thánh. Một số người quan niệm lệch lạc cho rằng người Kitô yêu mến thập giá có nghĩa là đi kiếm tìm đau khổ cho mình và cho người khác. Không phải vậy. Chính Chúa Giêsu đã lo sợ trước đau khổ và Người đã xin Chúa Cha cất chén đắng cho Người. Đau khổ chỉ có ý nghĩa khi được đón nhận trong tinh thần hy sinh, yêu mến vì hạnh phúc của người khác. Người Kitô hữu không kiếm tìm đau khổ cho mình, lại càng không được phép gây đau khổ cho người khác. Trái lại, họ được mời gọi “vác đỡ thập giá cho anh em mình”, tức là góp phần giảm thiểu gánh nặng cuộc đời cho những người xung quanh. Những người được hưởng vinh quang Thiên Chúa, hay là các thánh được diễn tả trong sách Khải Huyền đã đón nhận và sống giáo huấn của Chúa, đồng thời biết hy sinh chấp nhận những gian khổ vì lòng yêu mến Ngài. Nhờ đó, các ngài tỏa sáng nơi thiên quốc, vì những đau khổ đã biến thành vinh quang.
 
Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu đã chúc phúc cho những ai nghèo khó, hiền lành, sầu khổ, khát khao nên công chính, biết xót thương người, tâm hồn trong sạch, xây dựng hòa bình và chấp nhận những gian lao vì sống công chính. Đây chính là phác họa chân dung một vị thánh. Đây cũng chính là các nhân đức cần thiết để có thể trở nên thánh giữa đời thường. Những ai cố gắng để đạt được những đức tính này, họ đã phần nào phản ánh chính dung mạo của Đức Giêsu. Bởi lẽ Đức Giêsu là người đã thực hiện nơi chính cuộc đời Người những lời chúc phúc trên đây. Người không chỉ rao giảng một lý thuyết suông, nhưng Người đã sống những mối phúc ấy.
 
Giáo Hội của chúng ta là Giáo Hội Duy nhất, Thánh thiện, Công giáo và Tông truyền. Đây là bốn đặc tính của Giáo Hội. Nhờ bí tích Thanh Tẩy, chúng ta được gia nhập cộng đoàn thánh thiện. Nói đúng hơn, chúng ta được gia nhập cộng đoàn những người được kêu gọi nên thánh. Nên thánh là lời mời gọi của Chúa từ thời Cựu ước và được Chúa Giêsu tiếp tục: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48). Trải qua mọi giai đoạn của lịch sử, Giáo Hội luôn nỗ lực để giúp con người đến gần với Chúa hơn, tức là giúp họ nên thánh. “Tất cả các công việc của Giáo Hội đều hướng về mục đích là thánh hoá con người trong Đức Kitô và tôn vinh Thiên Chúa” (Hiến chế Phụng vụ Thánh, Công đồng Vatican II, số 10).
 
Lễ Các thánh là niềm hy vọng và khích lệ cho chúng ta là những người đang bước đi trên con đường lữ thứ trần gian. Công đồng Va-ti-ca-nô II nhấn mạnh: “Được ban cho những phương tiện cứu độ dồi dào và cao cả như thế, tất cả các Kitô hữu, dù trong hoàn cảnh và bậc sống nào, mỗi người trong con đường của mình, đều được Chúa kêu gọi đạt tới sự thánh thiện trọn hảo như Chúa Cha là Đấng trọn hảo” (GH 11).
 
Nên thánh không phải là một mơ mộng ảo tưởng xa vời hão huyền, nhưng là ơn gọi và là bổn phận của chúng ta. Nên thánh cũng không chỉ là một phần thưởng ở đời sau như nhiều người lầm tưởng, nhưng là niềm hạnh phúc mà chúng ta có thể cảm nghiệm ngay ở đời này. Quả vậy nên thánh là gì, nếu không phải ngày hôm nay, trong cuộc sống này, chúng ta đã có một tâm hồn an vui vì có Chúa hiện diện, có anh chị em sống trong thân thiện hài hòa và có một môi trường sống, tuy còn nhiều khó khăn nhưng an bình nhân ái? Đó là thiên đàng dưới thế, là phác thảo cho Thiên đàng vĩnh cửu mà Chúa hứa ban. Lúc ấy, chúng ta sẽ thực sự trở nên giống như Đức Kitô, vì Người thế nào, chúng ta sẽ trở nên như vậy (Bài đọc II).

Về mục lục

.

CON ĐƯỜNG NÊN THÁNH

Lm. Jos Tạ duy Tuyền

Cuộc đời là một hành trình. Hành trình luôn trôi theo dòng thời gian. Thời gian cứ trôi, cuộc sống vẫn cứ tiếp diễn, con người vẫn tồn tại như một hạt cát giữa đại dương mênh mông. Có điều hạt cát thì vô tư, nhưng con người luôn phải đối diện trước biết bao cám dỗ mời mọc, biết bao công việc khó khăn, biết bao sóng gió nổi trổi. Con người phải vươn lên, phải phấn đấu để vượt thắng những cản trở trên dòng đời. Thế nên, có ai đó nói rằng: “Cuộc sống giống như một con đường, nhưng không luôn luôn thẳng tắp. Để có thể chinh phục được con đường của chính mình, điều quan trọng đầu tiên là ta có biết đứng dậy sau mỗi lần vấp ngã trên chính con đường ấy hay không?”.  

Quả thực, hành trình cuộc sống dường như không bao giờ có một con đường nào là luôn thẳng tắp, mọi con đường đều sẽ có những ngã rẽ, những góc tối mà ta phải chấp nhận. Cũng không có con đường nào trải đầy hoa hồng để nâng những bước chân ta đi tới, bao giờ cũng thế, nhiều hoa hồng – ắt hẳn phải lắm chông gai; nhưng ta không có quyền bỏ cuộc, vì sống là phải bước đi, hành trình phải đi tới, phải chạy theo dòng chảy của thời gian…

Hôm nay chúng ta mừng kính chư thánh Nam Nữ ở trên trời. Họ là những người đã đi qua hành trình cuộc đời này không phải là hành trình đầy hoa hồng mà là hành trình vác thập giá hy sinh. Hành trình của họ lắm chông gai nhưng họ vẫn đi hết hành trình trong niềm trông cậy vào Chúa. Điều quan trọng là họ đã mang trong mình cuộc thương khó của Đức Ky-tô. Họ vì Chúa để đón nhận mọi hy sinh, mọi gian khó, mọi gai góc cuộc đời. Họ hiến dâng chính mình để thánh hóa bản thân và tôn vinh Thiên Chúa.

Họ chính là những người đã sống triệt để tin mừng. Khuôn mặt của họ được Chúa Giê-su phác thảo qua Hiến Chương Nước Trời. Họ chọn sống nghèo khó để tránh những tham lam bất chính. Họ sống hiền lành để tránh những tranh chấp của cải trần gian. Họ đón nhận mọi sầu khổ vì họ cảm nhận được Lòng Thương Xót Chúa luôn ủi an họ. Họ khao khát sự trọn lành nên họ yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Họ luôn biết xót thương người anh em nên Thiên Chúa cũng yêu mến họ. Họ luôn gìn giữ tâm hồn trong sạch để có thể nhận ra thân xác là đền thờ Thiên Chúa. Cuộc đời họ luôn sống phục vụ và kiến tạo hòa bình. Cho dẫu có bị bách hại họ vẫn hân hoan vì phần thưởng của họ thật lớn lao trên quê trời.

Cuộc đời của họ là một cuộc đời đẹp. Đẹp dưới mắt người đời, vì họ luôn sống có mục đích, có ước mơ, có lý tưởng. Họ biết đứng dậy bằng chính đôi chân của mình khi vấp ngã, biết bền lòng và dũng cảm vượt qua những thử thách, khó khăn để vươn lên. Họ dám sống đẹp vì dám hy sinh vì tha nhân mà phục vụ, mà dâng hiến chính bản thân mình.

Những cách sống đẹp ấy rất cần được chúng ta họa lại hôm nay. Giữa thế giới đang chối bỏ Thiên Chúa nên cũng khan hiếm những cách sống đẹp để tích đức cho đời sau. Họ không tin Thiên Chúa nên họ chỉ sống cho bản thân. Một thế giới vắng bóng Thiên Chúa nên cũng thiếu tình liên đới sẻ chia với nhau. Con người chỉ biết sống cho bản thân và vì bản thân.

Thế nên là người ky-tô hữu chúng ta hãy sống đẹp để làm chứng cho tình yêu của Đức Ky-tô. Hãy sống bằng một tấm lòng yêu thương như Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từng viết: “Sống trên đời cần có một tấm lòng. Để làm gì em biết không? Để gió cuốn đi, để gió cuốn đi…”. Gió sẽ cuốn tấm lòng đầy ắp tình yêu thương để gieo vào khắp muôn nơi, để đi đến mọi ngõ ngách cuộc đời, để mang lại hạnh phúc cho những mảnh đời bất hạnh khổ đau. 

Khi chúng ta sống đẹp là chúng ta đang xây dựng cho quê hương trần thế này được hạnh phúc , được thăng tiến, đồng thời cũng là tích đức những viên gạch xây dựng ngôi nhà hạnh phúc đời sau.

Xin cho chúng ta biết noi gương các thánh nam nữ luôn sống đẹp lòng Chúa và đẹp lòng mọi người. Đẹp lòng Chúa khi vì Chúa mà đón nhận mọi thập giá Chúa gởi đến. Đẹp lòng mọi người khi biết chu toàn bổn phận nơi gia đình một cách trọn vẹn trong hy sinh phục vụ. Nhất là biết sống đạo yêu thương khi dấn thân phục vụ mà không mong đền đáp để giới thiệu cho trần thế nét đẹp của Đạo Thiên Chúa tình thương. Xin Chúa giúp chúng ta nên thánh trong chính đời sống phục vụ của chúng ta. Amen

Về mục lục

.

PHẤN ĐẤU

Lm. Jos. DĐH.

Khởi hành trong niềm vui, hỉ hoan khi kết thúc lộ trình, đó là mơ ước chung cho mỗi chuyến tham quan du lịch ngắn hoặc dài ngày. Khai mạc buổi hội họp tốt đẹp như ý, chúng ta cũng có quyền hy vọng buổi bế mạc xứng tầm với nhiều nỗ lực của các thành viên. Câu thành ngữ nhiều người vẫn ưa thích: đầu xuôi đuôi lọt, con lợn có béo thì lòng mới ngon, dù không mê tín dị đoan, nhưng con người luôn thích xuôi chèo mát mái. Được sinh ra làm người, không khiếm khuyết một chi thể nào, đó là hạnh phúc rồi. Được làm con cái Chúa ngay từ khi mới sinh, hẳn là đã diễm phúc đứng trong dòng dõi được tuyển chọn rồi, có thể quan niệm đó chưa tuyệt đối thuyết phục ta.

Các thầy cô giáo thường khuyến khích học trò: các em cần cố gắng, phấn đấu, học để có kiến thức, học hiểu để thoát khổ, đừng đầu hàng với hoàn cảnh, số phận. Các thương gia lại hướng con cái đến việc làm giầu, tiền phải đẻ ra tiền: cho tiền cho vàng không bằng chỉ đàng đi buôn. Các bậc làm cha mẹ thường quan tâm đến việc giáo dục: dạy con từ thuở còn thơ, hoặc: ngọc kia chẳng giũa chẳng mài, cũng thành vô dụng cũng hoài ngọc đi ! Chúa Giêsu thì lưu ý chúng ta, thành đạt hệ tại việc biết và sống, ví như có học phải có hành, nếu không tài giỏi, khôn ngoan, cũng vô ích mà thôi.

Bài giảng về các mối phúc rất phong phú, nếu như ta có mơ ước tốt đẹp, có chờ đợi vận may, hoặc có tính toán, thu thập kinh nghiệm, mà không phấn đấu, không thực tế lòng mến yêu cũng chỉ là lý thuyết. Thời gian, sức khoẻ, sự hiểu biết, sẽ là cơ hội, vì “chúng” chỉ theo ta đi đến lúc nhắm mắt lìa đời, do đó, nơi người khôn ngoan thật, họ sẽ biết tranh thủ, cân nhắc: sức khoẻ là vàng, thời giờ là bạc, tri thức là ân huệ. Sinh ra làm người ai cũng như ai, nhờ tình yêu thương của cha mẹ, cộng đồng xã hội, ta được lớn lên, trưởng thành, nên người hữu ích hay trở thành vô dụng, tất cả đều tuỳ thuộc ta đã cố gắng, thực thi bài học nơi gia đình xã hội như thế nào ?

Giáo hội trần thế không phải là hàng năm, mà là từng ngày vẫn đang nhắc lại ý thức căn bản: tất cả mọi người kitô hữu đều phải khao khát nên thánh, dù khó khăn, cám dỗ, chưa xoá tan nơi tâm trí chúng ta. Tám mối phúc là lời mời gọi không dễ hiểu tí nào, thế gian hằng khước từ chối bỏ, tám mối phúc là con đường mang dấu ấn của khổ đau, mất mát ; tám mối phúc cũng là con đường ngắn nhất, tiền nhân chúng ta đã đi và đang cổ võ chúng ta tiếp bước. Dù mâu thuẫn còn nhiều: làm sao ta vui được khi chưa thoát được đói nghèo, làm sao ta hiền lành được khi thế gian cho là thật thà thường thua thiệt ? Chúa Giêsu không hứa ban tiền của vật chất, được phúc lộc dư đầy ở trần gian này, nhưng là hứa phần thưởng trên trời, khi mà vì tình yêu Chúa và tha nhân, mà ta chấp nhận bị người đời ganh ghét, bạch hại.

Tâm lý tự nhiên ai cũng thích “phúc” sợ “hoạ”, muốn được vinh dự hơn bị khiển trách, nhưng thực tế ở đời khổ đau khóc lóc, nhiều hơn sung sướng vui cười, cũng vì thế mà tiền nhân chúng ta có câu: hoạ vơ đơn chí, phúc bất trùng lai. Hiểu theo tinh thần bài giảng các mối phúc hôm nay, hiểm hoạ đời này chính là hạnh phúc mai sau ; khó khăn hiện tại có thể nên cớ vấp ngã, có thể là trọng thưởng cho hành trình ta đã vượt qua. Chúng ta được gọi là trưởng thành buộc phải qua giai đoạn trẻ thơ, chúng ta khôn ngoan nhất thiết phải qua giáo dục, đạo tạo, bản thân không ngừng phấn đấu. Người kitô hữu được gọi là thánh, được nước trời, được có Chúa làm gia nghiệp, nhất định phải chịu tẩy rửa, thanh luyện tâm hồn, thấm nhuần bài giảng các mối phúc và sống bài học yêu thương.

Con đường Chúa Giêsu chỉ dẫn tới hạnh phúc thật sẽ khả thi cho mọi đối tượng, tuy hoàn cảnh, thời đại, có khác nhau, nhưng niềm tin cho biết Các Thánh chính là tổ tiên ông bà, cha mẹ, là những tâm hồn hằng cậy trông, khao khát ơn làm Con Chúa và Hội thánh. Vì tình yêu Chúa Giêsu đã đến thế gian, vì tha thiết muốn cứu độ nhân loại, Chúa Giêsu đã sống các mối phúc, đã truyền dạy và chia sẻ, hầu mỗi người cùng phấn đấu để đạt phần thưởng thiên quốc. Cho đến hôm nay và mãi mãi, con người vẫn đang khao khát hoà bình, dù khái niệm trở nên công chính vẫn chỉ lờ mờ trong tâm trí chúng ta. Ý tưởng của các vận động viên trong thi đấu, ai cũng mơ ước đoạt giải, do đó họ phải nỗ lực trong tập luyện. Con đường nên thánh của người tín hữu phải là quy trình được gọt giũa, được biến đổi, con đường đó rất cần chúng ta phấn đấu, bỏ mình, để xứng với tình yêu và phúc lộc Chúa hứa ban. Amen.

Về mục lục

.

HÃY NÊN THÁNH VÌ TA LÀ ĐẤNG THÁNH

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Phụng vụ lễ trọng kính Các Thánh Nam Nữ của Thiên Chúa hôm nay, với lời kinh, tiếng hát, các bài đọc, thánh ca lôi cuốn tâm hồn chúng ta vượt qua không gian và thời gian, bay lên cõi trời cao để chiêm ngưỡng Các Thánh, những người được coi là diễm phúc. Chúng ta vui mừng chiêm ngưỡng thành Giê-su-sa-lem thiên quốc là Mẹ chúng ta. Nơi đó, có Đức Maria và anh chị em chúng ta là toàn thể các thánh muôn đời ca tụng Chúa, và chúng ta là lữ khách được đức tin soi dẫn đang vội vã tiến về và ước ao trở nên như thế.

Trong ngày lễ Các Thánh Nam Nữ, thánh Bernarđô đã bắt đầu bài giảng nổi tiếng với câu hỏi như sau : “Có ích gì hay không lời chúc tụng của chúng ta dành cho các vị thánh, có ích gì hay không lời tôn vinh của chúng ta, có ích gì hay không việc chúng ta cử hành long trọng như thế này?” Ðây cũng là câu hỏi đặt ra cho chúng ta ngày hôm nay. Câu trả lời của thánh Bernardô thật thú vị và cũng rất thời sự: “Những vị thánh của chúng ta không cần đến những danh dự chúng ta dành cho các ngài, và việc phụng tự chúng ta dành cho các ngài cũng không mang lại cho các ngài điều gì thêm. Phần tôi, tôi cần thú nhận rằng, khi tôi nghĩ đến các vị thánh, tôi cảm thấy bừng cháy lên những ước muốn to lớn”.

Ước muốn to lớn mà thánh Bernarđô nói ở trên là ước muốn nên thánh. Cho dù việc chúng ta mừng kính chẳng thêm ích gì cho Các Thánh, nhưng điều đó lại thúc dục chúng ta trở nên thánh. Ai trong chúng ta lại không mơ ước trở nên tốt lành. Chúng ta mong lắm, thích lắm, vì trở nên tốt lành là trở về với bản chất của mình, trở nên giống Chúa là Chân, Thiện, Mỹ. Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta theo hình ảnh của Chúa, giống như Chúa (x.St 1, 26-27). Tự bản chất, chúng ta giống Chúa, tâm hồn chúng ta đẹp như Chúa. Nhưng tội lỗi làm cho tâm hồn chúng ta ra nhem nhuốc, xấu xí, không còn giống Chúa nữa. Chúng ta bị tha hoá, bị khác đi, không còn giữ được bản chất tốt lành thủa ban đầu nữa. Nên trọn lành là trở nên giống Chúa, và ai trong chúng ta cũng có thể trở nên giống Chúa. Chúa muốn tất cả chúng ta sẽ là những vị thánh :” Bởi chưng đã viết rằng: Các ngươi hãy là thánh vì Ta là Thánh ” (1Pr 1, 16).

Đầu mỗi câu Tin Mừng hôm nay bằng từ “phúc”. Chúng ta có thể suy diễn rằng, Thiên Chúa muốn chúng ta là những thánh nhân, phúc nhân. Phúc cho những ai nghèo khó trong tinh thần, phúc cho những ai đau khổ, phúc cho những kẻ hiền lành, phúc cho những ai đói khát sự công chính, phúc cho những kẻ có lòng nhân từ, phúc cho những ai có lòng trong sạch, phúc cho những ai hoạt động cho hoà bình, phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính (x. Mt 5, 3-10). Quả thật, chỉ một mình Chúa Giêsu là Ðấng có phúc tuyệt hảo, là Ðấng nghèo khó thật trong tinh thần, là Ðấng đau khổ, hiền lành, là Ðấng đói khát sự công chính, là Ðấng nhân từ, và trong sạch trong tâm hồn, là Ðấng hoạt động cho hoà bình, là Ðấng bị bách hại vì lẽ công chính, nhưng Chúa muốn chúng ta noi theo.

Một mối phúc đặc biệt linh hứng sự chọn lựa đoạn này: “Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng” (Mt 5,10). Trong số chúng ta đã có những người đói và khát sự công chính, theo ngôn ngữ Kinh Thánh, nghĩa là sự thánh thiện. Với sự thôi thúc của ơn thánh Chúa, các ngài không bằng lòng với sự kém cỏi; các ngài không bằng lòng với những biện pháp nửa vời, bằng mọi cách phấn đấu để nên thánh. Các ngài “đã giặt áo mình trong máu Con Chiên”, và “tách biệt” khỏi tất cả những gì ô uế.

Tuy nhiên lời mời gọi nên thánh vẫn là một thách thức cho chúng ta, giữa một thế giới có quá nhiều lôi kéo mời chào, cám dỗ, khiến chúng ta bị lạc lối hoặc nấn ná trước lời mời gọi sống thánh. Cái cám dỗ lớn nhất có lẽ là cái cám dỗ làm nhụt chí, nản lòng, khi chúng ta tự nói rằng: việc nên thánh là của ông kia bà nọ, của ai đó, chứ không phải của tôi! Lời thánh Augustinô là một khích lệ lớn cho chúng ta: “Ông kia bà nọ nên thánh, tại sao tôi lại không? “. Chúng ta hãy noi gương các Thánh là những người anh em, bạn bè, ân nhân đã đi trước chúng ta và giờ đây đang phù trợ cho chúng ta trước tôn nhan Thiên Chúa.

Điều làm cho chúng ta phấn khởi là Các Thánh trên trời rất đông, rất nhiều người trong nhân loại, trong đó có thể có những người thân của chúng ta, khi còn sống, họ đã trải qua biết bao nhiêu đau khổ và thăng trầm, nhưng cuối cùng đã được thanh tẩy mình trong máu Con Chiên là Chúa Giêsu, họ đã trở nên tinh tuyền, sạch đẹp và đang hưởng hạnh phúc với Chúa.

Hôm nay Các Thánh Nam Nữ thúc giục chúng ta cách : “hãy cố lên! ” Ai trong chúng ta cũng phải cố lên. Có rất nhiều người đã thành công. Sách khải huyền nói đến một đoàn người thật đông đảo không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi nước và mọi ngôn ngữ (x. Kh 7, 9) nên chúng ta hy vọng chắc mình sẽ làm thánh nếu ta thực hành Lời Chúa dạy.

Thôi, chúng ta phải nên thánh thôi, vì Chúa mời gọi chúng ta nên giống Ngài : “Các người hãy Thánh, vì Ta là Thánh” (Lv 19,2). Công Ðồng Vatican II cũng khẳng định là ơn gọi của mọi người tín hữu là nên thánh. Vậy, hãy can đảm từ chối những lời ngọt ngào giả tạo, và quyết tâm sống theo Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô và Tám Mối, chúng ta sẽ là những vị thánh như Các Thánh mà Giáo hội mừng kinh hôm nay.

Nguyện xin Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, Ðấng trọn vẹn thánh thiện, làm cho chúng ta trở thành những môn đệ trung thành của Chúa Giêsu Con Mẹ. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ

Lm. Anthony Trung Thành

Trong mầu nhiệm các thánh thông công, có ba thành phần sau đây: Một là các kitô hữu còn sống ở thế gian, gọi là thành phần chiến đấu; Hai là các linh hồn đang thanh luyện trong luyện ngục, gọi là thành phần đau khổ; Ba là tất cả các thánh ở trên trời, gọi là thành phần chiến thắng. Cả ba thành phần này liên kết mật thiết với nhau: Các thánh trên Thiên đàng bầu cử cho các kitô hữu còn sống; Các kitô hữu còn sống cầu nguyện, dâng hy sinh, làm việc lành chỉ cho các linh hồn trong luyện ngục; Các linh hồn trong luyện ngục khi đã được lên Thiên đàng sẽ bầu cử cho các kitô hữu. Thánh lễ hôm nay Giáo hội mừng kính toàn thể các Thánh trên Thiên đàng, tức là thành phần chiến thắng, xin được gợi ý suy niệm một số điểm sau đây:

1. Trước hết, chúng ta nên nhớ rằng, Thiên Chúa mong muốn mọi người được nên thánh:

Sách Sáng Thế cho chúng ta biết, Thiên Chúa đã dựng nên con người “giống hình ảnh Ngài” (x. St 1,26-27). Sau khi sa ngã phạm tội, Nguyên tổ mất đi tình nghĩa với Thiên Chúa, tức là mất đi ân sủng của sự thánh thiện nguyên thủy. Nhưng Thiên Chúa không bỏ rơi con người, trái lại, Ngài hứa ban Đấng Cứu Thế để cứu con người (x. St 3,15). Đến thời gian tới hồi viên mãn, lời hứa đó được thực hiện bởi biến cố Thiên Thần truyền tin cho Đức Maria (x. Lc 1,26-38). Sau biến cố Truyền tin, Đức Maria cưu mang và sinh hạ Đấng Cứu Thế là Đức Giêsu. Ngài sống ẩn dật với Đức Mẹ và Thánh Giuse ở Nazarét suốt 30 năm. Để thi hành sứ mạng Chúa Cha trao phó là giúp mọi người được lãnh nhận ơn cứu độ, trong ba năm đi rao giảng Tin mừng, Ngài đã tuyển chọn các Tông đồ, thiết lập Giáo hội, thiết lập các Bí tích, sau cùng Ngài chịu chết, sống lại và lên trời. Trước khi về trời, Ngài nói với các môn đệ rằng: “Thầy đi để dọn chỗ cho các con.” (x. Ga 4,1-2). Như vậy, những gì Thiên Chúa đã làm đều tạo điều kiện và mong muốn mọi người được nên thánh, được ở trên Thiên đàng với Ngài.

2. Nên thánh là bổn phận của mỗi người chúng ta:

Từ thời Cựu ước, Thiên Chúa đã mời gọi dân Do thái rằng: “Các ngươi phải nên thánh, vì Ta là Đấng Thánh” (Lv 20,26). Sang thời Tân Ước, Đức Giêsu đã lặp lại lời mời gọi đó: “Các Con hãy nên thánh như Cha các con trên trời là Đấng Thánh” (Mt 5,48). Sau này, tôi tớ đáng kính của Chúa, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận cũng đã cho biết: “Ai phải nên Thánh? Tất cả mọi người không có luật trừ. Khởi sự từ chính mình con, vì Chúa mời gọi tất cả.” (Đường Hy Vọng số 92). Như vậy, nên thánh là bổn phận của mỗi người kitô hữu chúng ta.

3. Nhưng làm thế nào để chúng ta có thể nên thánh?

Để nên thánh thì cần phải muốn: Tục ngữ Tây phương có câu: “Vouloir c’est pouvoir” (muốn là có thể): Muốn làm giáo viên thì có thể trở thành giáo viên; Muốn làm bác sĩ thì có thể trở thành bác sĩ; Muốn làm kỷ sư thì có thể trở thành kỷ sư; muốn làm tu sĩ, linh mục thì có thể trở thành tu sĩ, linh mục…Nhưng động từ “muốn” đó diễn tả một quá trình phấn đấu, học tập, trau dồi những gì cần thiết cho “chức vụ” của mình. Chẳng hạn, muốn làm kỷ sư thì phải vào trường đào tạo nghề kỷ sư, muốn làm linh mục thì phải trải qua thời gian đào tạo của Giáo hội. Từ đó chúng ta có thể nói: Muốn nên thánh thì có thể nên thánh được. Thật vậy, khi nghe tin phong thánh Phanxicô Xaviê, Thánh Thánh Phanxicô Salê (Francois de Sales) liền nói: – Đó là thánh Phanxicô thứ ba, tôi sẽ là Phanxicô thứ bốn. Qủa thực, ngài đã trở thành thánh Phanxicô thứ bốn. Thánh Augustinô thì nói: “Ông nọ bà kia làm được sao tôi không” và Ngài đã nên thánh. Cho nên, muốn là có thể. Tôi muốn nên thánh thì tôi có thể nên thánh, với điều kiện tôi phải thực hành những gì cần thiết mà Chúa và Giáo hội đòi buộc để nên thánh.

Để nên thánh cần phải giữ mình sạch tội: Giữ mình sạch tội là tuân giữ 10 điều răn Thiên Chúa, các điều răn Hội thánh, bảy mối tội đầu. Vì tội đối nghịch với sự thánh thiện như bóng tối đối nghịch với ánh sáng. Thánh vịnh 24,4 của bài đáp ca hôm nay cho biết, các thánh là những “người có bàn tay vô tội và tâm hồn trong sạch, không để lòng xuôi theo sự giả trá.” Phúc thứ sáu trong tám mối phúc thật cũng cho biết rằng: “Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8). Vì thế, để nên thánh cần phải giữ mình sạch tội.

Để nên thánh cần phải có lòng sám hối: Nếu giữ được mình sạch tội thì quá tốt, vì đã nên thánh. Nhưng trong suốt hành trình dương thế ít người giữ được tâm hồn trong sạch, vô tội. Vì thế, ai phạm tội thì phải có lòng sám hối ăn năn và nhận lãnh ơn tha thứ của Chúa qua Bí tích Giao hòa. Thánh Phaolô nói rằng: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện.” (Ep 4,22-24). Thánh Gioan viết: “Các con thân mến, Cha viết những điều này cho các con, để các con đừng phạm tội. Nhưng nếu có ai phạm tội, thì chúng ta có Đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính, làm trạng sư nơi Đức Chúa Cha. Chính Người là của lễ đền tội chúng ta; không nguyên đền tội chúng ta mà thôi, nhưng còn đền tội cho cả thế gian.” (1Ga 2,1-2).

Trong hạnh các thánh, rất nhiều vị có quá khứ tội lỗi nhưng nhờ có lòng sám hối mà đã nên thánh: Thánh Mathêu, thánh Augustinô, thánh Phêrô, thánh Maria Madalêna…Nếu chúng ta có tội, nhất là tội nặng nhưng biết sám hối kịp thời chúng ta cũng có thể nên thánh.

Để nên thánh cần phải chu toàn bổn phận: Rất nhiều vị thánh đã nên thánh bằng những phương pháp đặc biệt mà có lẽ chúng ta không thể bắt chước được. Nhưng có một cách nên thánh chung mà ai cũng có thể làm được, đó là nên thánh bằng cách chu toàn bổn phận: Bổn phận làm vợ chồng, cha mẹ, con cái, linh mục, tu sĩ, thầy giáo, học sinh, bác sĩ, công nhân… Tôi tớ đáng kính, ĐHY Phanxicô Nguyễn Văn Thuận nói: “Các thánh không nên thánh vì nói tiên tri hay làm phép lạ. Các Ngài đâu làm gì lạ! Họ chỉ chu toàn bổn phận” (ĐHV số 25). Đối với Ngài, “Bổn phận chính là Thánh Ý Chúa trong giây phút hiện tại” (ĐHV Số 17). Vì thế, Ngài cho biết: “Thợ nên thánh ở công xưởng, lính nên thánh ở bộ đội, bệnh nhân nên thánh ở bệnh viện, học sinh nên thánh ở học đường, nông phu nên thánh ở ruộng rẫy, linh mục nên thánh trong mục vụ, công chức nên thánh ở công sở. Mỗi bước tiến là một bước hy sinh trong bổn phận” (ĐHV 24). Và Ngài kết luận: “Bổn phận là giấy để vào được Nước Trời” (ĐHV Số 27). Như vậy, chu toàn bổn phận thì đã nên thánh rồi. Nên thánh bằng cách này thì hết sức dễ dàng, ai cũng có thể làm được.

Ngày kia, cha Dan nói chuyện với một người thợ sắp chữ in. Cha đặt câu hỏi: “Con có bao giờ nghĩ rằng mình phải nên thánh không?”

Người thợ đơn sơ trả lời: “Thưa cha, khó quá vì từ mai đến tối, con phải sắp chữ để in, không có thời giờ để nghĩ đến việc nên thánh.”

Cha Dan động viên: “Nên thánh không khó gì đâu. Nên thánh không cần phải làm điều chi lạ. Khi con sắp chữ, con sắp vì Chúa, con làm vì lòng kính mến Chúa.”

Người thợ thuận lời: “Dạ, để con thử.”

Vài ngày sau, người thợ đến tìm cha Dan và nói: “Thưa cha, nên thánh không khó như con đã tưởng.”

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chu toàn bổn phận là hoàn tất ý định của Chúa Cha trao phó, xin giúp chúng con cũng biết chu toàn bổn phận hằng ngày của mình với lòng yêu mến Chúa. Amen.

Về mục lục

.

VĨNH PHÚC

Trầm Thiên Thu

Hạnh phúc nào cũng có ít nhiều đau khổ, hy sinh. Mức độ hạnh phúc được “đo” bằng mức độ gian khổ. Chúa Giêsu biết rõ giá trị của đau khổ nên Ngài luôn động viên chúng ta “vác thập giá của mình” mà theo Ngài. Các thập giá  của chúng ta đồng quy về Thập Giá của Đức Kitô. Qua được “ải khổ” này thì niềm hạnh phúc vô cùng lớn lao, phàm ngôn không thể diễn tả, chỉ có thể nói đó là Vĩnh Phúc. Các thánh là những người đang tận hưởng Nguồn Phúc này.

Tất cả đều phải nên một, bởi vì “chỉ có MỘT Chúa, MỘT niềm tin, và MỘT phép rửa. Chỉ có MỘT Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người” (Ep 4:5-6). Nên một là trở nên duy nhất – một trong bốn đặc tính của Giáo hội. Là một Giáo hội duy nhất nhưng có ba thành phần: Giáo hội Khải hoàn (các thánh vinh hiển, các thánh thực thụ), Giáo hội Đau khổ (các linh hồn nơi luyện hình, chắc chắn sẽ thành thánh), và Giáo hội Chiến đấu (những người trên đường lữ hành trần gian, có thể nên thánh). Ba thành phần này của Giáo hội duy nhất được gọi là “các thánh cùng thông công”.

Theo truyền thống Giáo hội, Tháng Mười Một là Tháng Cầu Hồn. Có gì đó khá đặc biệt khiến lòng người thấy “lạ” giữa khoảng giao mùa Thu – Đông. Ngày đầu tiên của Tháng Cầu Hồn là ngày mừng kính chư thánh hiển vinh, ngày tiếp theo là ngày cầu nguyện cho các linh hồn nơi Luyện Hình. Sự liên đới này nói lên tính hiệp thông của Giáo hội.

Cuộc sống luôn có những điều bất ngờ, rất lạ, có thể là dấu chỉ về điều gì đó mà con người cần tỉnh thức để khả dĩ nhận biết chính xác. Có những “điều lạ” thì cũng có những “người lạ”. Một trong số “người lạ” đó là Thánh Gioan Tông đồ. Ông kể lại thị kiến: “Tôi thấy một thiên thần mang ấn của Thiên Chúa hằng sống, từ phía mặt trời mọc đi lên. Thiên thần ấy lớn tiếng bảo bốn thiên thần khác, là những vị được quyền phá hại đất liền và biển cả, rằng: ‘Xin đừng phá hại đất liền, biển cả và cây cối, trước khi chúng tôi đóng ấn trên trán các tôi tớ của Thiên Chúa chúng ta’. Rồi tôi nghe nói đến con số những người được đóng ấn: một trăm bốn mươi bốn ngàn người được đóng ấn, thuộc mọi chi tộc con cái Ít-ra-en” (Kh 7:2-4). Có lẽ cần biết rằng con số 144.000 nghĩa là rất nhiều, là vô số, chứ không mang nghĩa “số đếm” như cách tính của loài người.

Những điều được thị kiến luôn là những “sự lạ”. Cái gì cũng lạ, cả một chuỗi các sự lạ. Thánh Gioan kể tiếp: “Sau đó, tôi thấy một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô: ‘Chính Thiên Chúa chúng ta, Đấng ngự trên ngai, và chính Con Chiên đã cứu độ chúng ta’. Tất cả các thiên thần đều đứng chung quanh ngai, chung quanh các Kỳ Mục và bốn Con Vật. Họ đều sấp mặt xuống, phủ phục trước ngai và thờ lạy Thiên Chúa mà tung hô rằng: “Amen! Xin kính dâng Thiên Chúa chúng ta lời chúc tụng và vinh quang, sự khôn ngoan và lời tạ ơn, danh dự, uy quyền và sức mạnh, đến muôn thuở muôn đời. Amen” (Kh 7:9-12).

Khi đó, một trong các Kỳ Mục lên tiếng hỏi: “Những người mặc áo trắng kia là ai vậy? Họ từ đâu đến?” (Kh 7:9-13). Và thị nhân Gioan trả lời: “Thưa Ngài, Ngài biết đó”. Vị ấy bảo: “Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên” (Kh 7:13-14). Ôi, quả là vô cùng kỳ lạ, vượt ngoài tầm hiểu biết của phàm nhân!

Có gian lao mới có vinh quang. Chắc chắn các thánh là những người đã chịu trăm cay ngàn đắng lúc sinh thời nên ngày nay mới được hưởng hồng ân vĩnh phúc. Tuy nhiên, vấn đề không chỉ là chịu đau khổ mà còn lòng kiên tâm bền chí, đặc biệt là các ngài đã “giặt sạch” và “tẩy trắng” chiếc áo của mình trong chính Máu Cứu Độ của Đức Kitô. Thật tuyệt vời biết bao! Và bất cứ tín nhân nào sống đức tin một cách anh dũng cũng được “tẩy trắng” như vậy.

Thiên Chúa là Đấng quyền linh duy nhất (xem Xh 20:3; Xh 34:14; Đnl 4:35; Đnl 4:39; Đnl 5:7; Đnl 32:39; Gđt 8:20; Kn 12:13; Is 43:10; Is 44:8; Is 45:5-6; Is 46:9; Đn 14:41; Hs 13:4). Và Thánh Vịnh gia cũng đã minh định: “Chúa làm chủ trái đất cùng muôn vật muôn loài, làm chủ hoàn cầu với toàn thể dân cư. Nền trái đất, Người dựng trên biển cả, đặt vững vàng trên làn nước mênh mông” (Tv 24:1-2). Thiên Chúa là Đấng tác sinh muôn loài, toàn năng và cực thánh. Thiên Chúa tốt lành như vậy, thế thì “ai được lên núi Chúa và ai được ở trong đền thánh của Người?”. Đơn giản thôi, Thánh Vịnh gia trả lời ngay: “Đó là kẻ tay sạch lòng thanh, chẳng mê theo ngẫu tượng, không thề gian thề dối” (Tv 24:4). Những ai như vậy sẽ “được Chúa ban phúc lành, được Thiên Chúa cứu độ thưởng công xứng đáng” (Tv 24:5). Quả thật, đây mới chính là “dòng dõi những kẻ kiếm tìm Người, tìm Thánh Nhan Thiên Chúa nhà Gia-cóp” (Tv 24:6).

Mỗi lần kính mừng các thánh là dịp nhắc nhở chúng ta noi gương họ – những người đã quyết tâm thực hành Thánh Luật của Thiên Chúa, thực hiện tới hơi thở cuối cùng, bất chấp cái chết. Chắc chắn các ngài đã cảm nghiệm được sự ngọt ngào của tình yêu huyền nhiệm và lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa.

Thật may mắn và diễm phúc vì chúng ta đã nhận biết Chúa là ai, được tái sinh qua Bí tích Thánh Tẩy, tức là chúng ta đều là những “người trở về từ cõi chết”, được tắm gội trong suối Máu và Nước tuôn trào ra từ Thánh Tâm Chúa Giêsu, và như vậy thì chúng ta phải cố gắng noi gương các thánh. Ai cũng có thể nên thánh nếu thực sự “đè bẹp” được “cái tôi”. Chính “cái tôi” là chướng ngại vật khó vượt qua hơn cả, nếu vượt qua được chính mình thì mọi thứ sẽ hóa thành dễ dàng. Thánh Gioan nói: “Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa – mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa. Sở dĩ thế gian không nhận biết chúng ta, là vì thế gian đã không biết Người” (1 Ga 3:1). Chuyện thật trăm phần trăm mà cứ ngỡ chỉ có trong mơ mà thôi!

Có lẽ thật là khó mà tin được, và đôi khi người ta không dám tin hoặc không muốn tin, nhưng Thánh Gioan đã xác định rằng “thực sự chúng ta là con Thiên Chúa”. Ôi, vô cùng lạ lùng, quá đỗi mầu nhiệm, đúng là phép lạ nhãn tiền! Chúng ta đang là tôi tớ, là nô lệ, là tội nhân, thậm chí là đang chết, thế mà lại được sống lại và được làm con cái Chúa. Những người không có niềm tin Kitô giáo thực sự đúng mức thì không thể nào tin được. Thảo nào người ta bảo các Kitô hữu là ảo tưởng!

Để minh địch rạch ròi hơn, Thánh Gioan nhắc lại và giải thích: “Hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa, nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy. Phàm ai đặt hy vọng như thế vào Đức Kitô thì làm cho mình nên thanh sạch như Người là Đấng thanh sạch” (1 Ga 3:2-3). Sự thật minh nhiên, nhưng đầu óc “bã đậu” của phàm nhân chúng ta lúc này không thể hiểu hết, trí tưởng tượng “dỏm” của chúng ta cũng không thể hình dung ra được, bởi vì thân tục lụy không xứng đáng được “chạm” vào những gì thánh thiêng của Thiên Chúa.

Nước Trời là cõi thiêng, Thiên Đàng là cõi phúc, nhưng không phải là cõi thiên thai mà chàng Lưu Nguyễn đã lạc vào ngày xưa, hoặc như cõi bồng lai tiên cảnh trong truyện cổ tích, mà là Vương Quốc của Thiên Chúa. Trình thuật Mt 5:1-12 nói về Bát Phúc (Tám Mối Phúc Thật, Bài Giảng Trên Núi), cũng là Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Thiên Quốc do chính Chúa Giêsu biên soạn, là Đệ Nhất Tuyên Ngôn so với bất kỳ Bản Tuyên Ngôn nào của các quốc gia trên thế giới. Bản Tuyên Ngôn đặc biệt này ngắn gọn nhất, ít điều khoản nhất, nhưng lại chính xác nhất và “độc đáo” nhất.

Bản Tuyên Ngôn Thiên Quốc này đã được chính Chúa Giêsu đọc công khai trước bàn dân thiên hạ. Bên cạnh Chúa Giêsu khi đó có các môn đệ. Ngài không ra vẻ trịnh trọng mà rất tự nhiên, thân thiện, không cần nghi thức chi cho mệt. Chúa Giêsu “quá đã” luôn! Ngài điềm đạm và dõng dạc tuyên bố:

  1. Phúc thay ai có tâm hồn NGHÈO KHÓ, vì Nước Trời là của họ.
  2. Phúc thay ai HIỀN LÀNH, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.
  3. Phúc thay ai SẦU KHỔ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.
  4. Phúc thay ai KHÁT KHAO nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng.
  5. Phúc thay ai XÓT THƯƠNG người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.
  6. Phúc thay ai có TÂM HỒN TRONG SẠCH, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.
  7. Phúc thay ai XÂY DỰNG HOÀ BÌNH, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
  8. Phúc thay ai BỊ BÁCH HẠI vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ.

Thật lạ là Chúa Giêsu cũng chẳng văn hoa bóng bẩy, không cầu kỳ, mà dùng lời lẽ bình dị để ai cũng có thể hiểu. Nghe rất sướng lỗ tai! Cuối cùng, Ngài còn “láy” thêm: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế” (Mt 5:11-12). Câu “láy” này nghe chừng “ngược đời” lắm, nhưng chính cái ngược đời đó lại làm cho người ta được hạnh phúc đích thực và miên viễn – tức là Vĩnh Phúc.

Chúng ta biết được các thánh ngày xưa như thế nào nhờ đọc Hạnh Các Thánh, nhưng chúng ta có thể biết các thánh như thế nào ngay trong thời đại của chúng ta – như ĐGH Gioan XXIII, ĐGH Gioan Phaolô II, ĐGH Phaolô VI, Mẹ Thánh Teresa Calcutta,… và không ai xa lạ là ĐHY P.X. Nguyễn Văn Thuận. Các ngài đã anh dũng chiến đấu kiên cường bằng “vũ khí” đức tin của mình, không hề nao núng, ngoan cường tới cùng, mỗi người mỗi vẻ, nên giờ đây các ngài đã đạt được mục đích tối hậu của kiếp người là Ơn Cứu Độ.

Niềm hạnh phúc lớn lao và có thật mà chúng ta đang được hưởng đó là “chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha” (Ep 2:18). Và không chỉ như vậy, chúng ta còn được trở nên “NGƯỜI ĐỒNG HƯƠNG với các người thuộc dân thánh, và là NGƯỜI NHÀ của Thiên Chúa” (Ep 2:19), mặc dù chúng ta vốn dĩ chỉ là kẻ xa người lạ, là kẻ ăn nhờ ở đậu hoặc tạm trú. Thật không thể nào tả nổi niềm hạnh phúc quá lớn lao như vậy!

Lạy Thiên Chúa, xin ban thêm đức tin cho chúng con, xin giúp chúng con noi gương các thánh mà trung kiên làm chứng về Ngài cho tới hơi thở cùng, dù phải thiệt thòi bằng cách nào đó và với mức độ nào đó. Xin thêm sức cho chúng con chịu thanh luyện ngay trên thế gian này để chúng con không phải trải qua Lửa Thanh Tẩy nơi Luyện Hình.

Lạy chư vị thánh nhân, xin cầu thay nguyện giúp chúng con, xin phù hộ để chúng con can đảm noi gương chứng nhân anh dũng đức tin của các ngài – ở mọi nơi và trong mọi lúc. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

NIỀM VUI VỚI CÁC THÁNH TRÊN TRỜI

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương

1- Ngày lễ của niềm vui
Ngày nay, các nhà khoa học đã phóng những tín hiệu vào không trung, với hy vọng có thể nhận được những tín hiệu liên lạc với những sinh linh trên những hành tinh đã biến mất. Nếu có một lớp con người nào đã sống và tồn tại ở ngoài hệ hành tinh chúng ta, sự liên lạc với họ có lẽ là không thể, bởi vì khoảng cách giữa câu hỏi và câu trả lời là hàng triệu năm qua rồi.
Hôm nay, chúng ta cử hành đại lễ các Thánh Nam Nữ. Qua thánh lễ này, Giáo Hội muốn diễn tả mầu nhiệm hiệp thông của chúng ta với những người thuộc thế giới khác, đó là với vô số Các Thánh Nam Nữ trên thiên đàng. Đây là chân lý mà chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính: “Tôi tin Các Thánh thông công.” Đối với đức tin Kitô giáo, câu trả lời là trực tiếp và rõ ràng, bởi lẽ, chúng ta có một trung tâm điểm cho sự hiệp thông và nối kết này là Đức Kitô Phục Sinh.
Có lẽ lễ Các Thánh là lễ mà người tín hữu rất thích tham dự, bởi vì, nó được cử hành trong một thời điểm đặc biệt là gần cuối năm phụng vụ, nhưng đặc biệt hơn, nó diễn tả ý nghĩa cuộc đời và định mệnh mỗi người mà ai cũng khát khao hướng về với niềm hy vọng lớn lao. Lý do hệ tại ở điều được thánh Gioan nói tới trong bài đọc II: “Hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ” (1 Ga 3,1-3). Chúng ta giống như phôi thai trong dạ mẹ mong được sinh ra. Các Thánh đã được “sinh ra.” Vì thế, phụng vụ coi ngày từ trần của Các Thánh là “ngày sinh nhật” của các ngài trên trời (dies natalis). Chiêm ngắm Các Thánh là chiêm ngắm vận mệnh chúng ta. Mùa thu về, thiên nhiên như tàn lụi, cây cối tàn úa, mùa lá rụng, nhưng lễ Các Thánh mời gọi chúng ta nhìn xa hơn, nhắc nhở mỗi người ý thức rằng chúng ta không được tiền định để tàn lụi mãi mãi như lá cây, nhưng là để sống vĩnh cửu với Thiên Chúa như Các Thánh.

2- Các Thánh là ai?
Vậy thì, Các Thánh là những ai? Bài đọc I của ngày lễ giúp chúng ta hiểu Các Thánh là ai. Họ “đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ là những người đã giặt áo mình trong máu Con Chiên” (Kh 7,14). Các Thánh là những người đã chấp những thử thách, đau khổ để theo bước theo Đức Kitô, họ đón nhận sự thánh thiện từ Chúa Kitô; họ được kết hợp với Chúa Kitô.
Các Thánh là những người đã trung thành và kiên nhẫn sống các giá trị Tin Mừng, đặc biệt sống trọn vẹn các mối phúc như được nói ở Bài Tin Mừng. Các Thánh đã sống tinh thần nghèo khó vì Nước Trời. Các Thánh là những người hiền lành vì Nước Trời. Các Thánh là những người phải chịu sầu khổ vì Nước Trời. Các Thánh là những người chịu bách hại vì sống công chính vì Nước Trời là của họ (Mt 5,10). Tắt một lời, Các Thánh không chấp nhận sống một cuộc sống tầm thường; họ không hài lòng với kiểu sống nửa vời, nhưng chấp nhận đánh mất mọi sự, để sống thánh thiện theo lý tưởng của Chúa Kitô.
Các Thánh không chỉ là những người được đề cập trong lịch phụng vụ hoặc trong sách Hạnh Các Thánh. Nhưng còn có rất nhiều vị thánh mà chúng ta chưa biết đến: Các thánh là “một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ” (Kh 7,9). Có vô số Các Thánh là những người đã sống một cuộc đời thánh thiện trong sự âm thầm, nhưng đã được Thiên Chúa vinh thăng. Có rất nhiều vị âm thầm hy sinh cuộc đời của mình vì tha nhân; có nhiều vị phải tử đạo vì công lý và tự do; có nhiều vị một đời tận tụy phục vụ người khác nơi bệnh viện, nơi học đường, nơi các gia đình và các tổ chức Giáo Hội… Dầu không ai biết đến, nhưng họ là những người đã giặt áo mình trong máu Con Chiên, vì họ sống theo tiếng nói lương tâm và họ luôn xây dựng hòa bình và vì thiện ích của tha nhân.

3- Các Thánh làm gì trên thiên đàng?
Một câu hỏi đặt ra cho chúng ta ở đây: Các Thánh trên trời làm gì? Chúng ta tìm thấy câu trả lời ở đây trong bài đọc I: “Họ sấp mặt xuống, phủ phục trước ngai và thờ lạy Thiên Chúa mà tung hô rằng: Amen! Xin kính dâng Thiên Chúa chúng ta lời chúc tụng và vinh quang, sự khôn ngoan và lời tạ ơn, danh dự, uy quyền và sức mạnh, đến muôn thuở muôn đời! Amen!” (Kh 7,11-12). Như thế, ơn gọi đích thực của con người được thành toàn trong họ, đó là được “ca ngợi vinh quang Thiên Chúa (Eph 1,14). Dưới sự hướng dẫn của Đức Maria, ca đoàn Các Thánh tiếp tục hát bài thánh thi tạ ơn trên thiên đàng: “Linh hồn tôi tung hô Chúa.” Trong lời ca ngợi này các thánh tìm thấy hạnh phúc và niềm vui. “Linh hồn tôi hớn hở trong Thiên Chúa.” Một người đang yêu là người luôn biết ngưỡng mộ và ca ngợi. Khi yêu mến và ca ngợi Thiên Chúa, chúng ta sẽ trở nên giống Thiên Chúa, tham dự vào vinh quang và hạnh phúc của Người.
Một ngày nọ, thánh Saint Simon The New Theologian trải qua kinh nghiệm thần bí về Thiên Chúa rất mãnh liệt, ngài kêu lên rằng: “Đủ cho con rồi, Thiên đàng không thể hơn thế này được.” Nhưng Chúa Kitô nói với ngài: “Con là người rất tội nghiệp nếu con chỉ bằng lòng với điều đó. Niềm vui mà con vừa trải nghiệm so sánh với thiên đàng giống như bầu trời được vẽ trên giấy.”
Như thế, lễ Các Thánh là ngày cử hành niềm vui của chúng ta, bởi vì Các Thánh là những thành viên trong gia đình, giáo xứ, công đoàn chúng ta. Các ngài đã được vinh thăng. Đồng thời, ngày lễ này nhắc nhở và cũng cố niềm hy vọng lớn lao cho chúng ta về định mệnh cao cả nhất của mỗi người là được kết hợp với Đức Kitô.
Nguyện xin Các Thánh Nam Nữ trên trời cầu bầu cho chúng ta. Amen.

Về mục lục

.

CÁC THÁNH LÀ AI?

 Lm.Giuse Đỗ Đức Trí

Khi nói đến Các Thánh chúng ta hay hình dung đó là những con người siêu phàm, khác thường. Có người còn cho rằng đó là những con người không bình thường, hoặc là những con người đạo đức đến cù lần, suốt ngày chỉ biết đọc kinh và ngoài ra không biết làm gì nữa. Đàng khác, các tranh ảnh về các thánh thường hay vẽ thêm một vòng hào quang trên đầu các Ngài, khiến cho nhiều người muốn đến gần nhưng lại e ngại, vì thấy hào quang ấy sáng quá và nhất là thấy không phù hợp với mình hoặc mình không với tới được.
Các Thánh là những con người hết sức bình thường giống như chúng ta nhưng dám sống một cách khác thường; dám làm những việc bình thường một cách phi thường, dám sống chết cho tình yêu, lý tưởng và sự chọn lựa của mình. Một lần được gặp và nói chuyện với Mẹ Teresa Calcutta, nay đã là một vị Thánh, Mẹ hết sức đơn giản, bình thường như bao nữ tu khác. Khi cầm bàn tay của me, người ta cảm nhận một bàn tay thô ráp của một người lao động, song lại là một bàn tay vỉ đại. Vì đôi bàn tay ấy đã ôm ấp và xoa dịu đau khổ của biết bao nhiêu con người. Khi nói chuyện với mẹ, người ta nhận ra: quả thật đó là một con người hoàn toàn phó thác và tin tưởng vào Thiên Chúa.
 Hôm nay Giáo Hội mừng kính chung trong một ngày tất cả Các Thánh Nam Nữ trên trời, để làm gì vậy? Thưa – để tôn vinh tạ ơn Thiên Chúa vì Chúa đã thực hiện những điều kỳ diệu nơi những con người bình thường này; để chiêm ngắm đời sống và cách họ đã đáp trả lời mời gọi của Chúa một cách tron vẹn. Mừng chung các thánh, Giáo Hội cho chúng ta thấy biết bao nhiêu các anh chị em của chúng ta đã thành công trên con đường theo Chúa. Mỗi chúng ta có những hoàn cảnh giống các thánh ngày xưa. Nếu như có người nên thánh như là linh mục tu sĩ, song còn biết bao người đã nên thánh trong vai trò là ông, bà, cha mẹ, là con cái, tức là những người giáo dân bình thường, để từ đó chúng ta cũng noi gương bắt chước các Ngài.
Sách Khải Huyền cho thấy một số đông đảo không thể đếm được, họ đủ mọi thành phần, thuộc mọi dân tộc, mọi ngôn ngữ mọi quốc gia, mình mặc áo trắng tay cầm cành lá thiên tuế. Tất cả họ đều đã trải qua thử thách lớn lao và đã thành công. Họ gia nhập vào đoàn rước của Nước trời để tôn vinh chúng tụng Thiên Chúa là Con Chiên, là Đức Vua trời đất. Con số đông đảo ấy cho thấy, Nước Trời không giới hạn, không loại trừ ai, trái lại tất cả mọi người đều được mời vào chung hưởng,.
Như thế, các Thánh đều là những người đã nếm mùi đau khổ thử thách ở trần gian như chúng ta, song họ giữ được lòng trung thành với Thiên Chúa và kiên trì với giới răn lề luật của Thiên Chúa và thực hành Tám mối Phúc thật.
Tám Mối Phúc Thật chính là con đường nên thánh của Kitô hữu, là tiêu chuẩn của Nước Trời. Hôm nay Chúa Giêsu đã long trọng công bố Tám mối phúc như là một bản Hiến chương của Nước Trời. Phúc Cho nhữ ai có tinh thần nghèo khó vì nước trời là của họ, phúc cho nhữ ai hiền lành, phúc cho những ai dau khổ, vv. Nếu để tâm lắng nghe, mỗi người sẽ thấy có những mối phúc thích hợp với hoàn cảnh của mình, hoặc chính mình đang được mời gọi sống mối phúc ấy. 
Giữa một cuộc sống mà người ta hứa hẹn cho chúng ta những cơ hội giàu có, thí Chúa lại chúc phúc cho ai sống tinh thần nghèo khó; giữa lúc xung quang ta đầy dẫy bạo lực thì Chúa lại muốn chúng ta sống hiền lành; giữa lúc con người tìm kiếm sự thỏa mãn, thì Chúa lại chúc phúc cho người đau khổ; giữa lúc  cuộc sống đầy giả trá luồn lách, thì chúng ta, người Kitô hữu, được mời gọi sống công chính; giữa lúc mà con người dường như trở nên vô cảm, hững hờ trước nỗi đau của anh chị em, thì Chúa muốn chúng ta biết xót thương mọi người; giữa lúc người đời tìm kiếm sự hưởng thụ, khoái lạc thì chúng ta được mời gọi sống trong sạch. Sống trong một xã hội nhiều bạo lực giết chóc, hận thù, chúng ta được mời gọi xây dựng hòa bình. Trong một xã hội còn nhiều bất công, chịu thiệt thòi vì mang danh là Kitô hữu, Chúa chúc phúc cho những người bị bách hại và bị vu khống chỉ vì mang danh là mộn đệ của Chúa. Như thế, Tám mối Phúc là những lời vừa động viên khuyến khích, vừa mời gọi mỗi chúng ta dám lội ngược dòng, dám sống khác với trào lưu của thế giới và xã hội hôm nay, vì một mục đích duy nhất đó là hạnh phúc Nước trời mai sau. Các Thánh chính là những người dám sống cái nghịch lý nhưng không vô lý của Tin Mừng. Các Ngài đã sống đến cùng những đòi hỏi của Tám mối Phúc của Chúa và các Ngài đã thành công.
Hôm nay mừng các Thánh, chúng ta không chỉ tôn kính và cầu xin, khấn hứa cùng các Ngài, mà còn là nhìn vào tấm gương của các Thánh để chúng ta noi theo. Giống như các Thánh, tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa yêu thương và chuẩn bị hạnh phúc Nước Trời cho chúng ta. Thánh Gioan trong bài đọc hai đã diễn tả tình yêu ấy khi nói: Thiên Chúa yêu chúng ta dường nào, đến nỗi cho chúng ta được làm con của Ngài và thực sự chúng ta là con Thiên Chúa. Chúng ta cùng được chia sẻ vinh quang của Đức Kitô, Người Con duy nhất của Thiên Chúa. Ai đặt trọn niềm tin tưởng và hy vọng vào Chúa Kitô thì chắc chắn sẽ được hưởng hạnh phúc với Ngài.
Thưa quý OBACE, trở nên những vị thánh là một lời mời gọi Chúa dành cho chúng ta: Các con hãy nên thánh như Cha các con trên trời là Đấng thánh. Đó là một ân huệ song cũng là một thách thức cho chúng ta là những Kitô hữu. Là ân huệ vì chúng ta tin rằng Thiên Chúa luôn muốn và làm mọi điều tốt đẹp cho chúng ta, Ngài đã chuẩn bị Hạnh phúc Nước trời cho mỗi người. Là thach thức vì đòi chúng ta mỗi ngày phải chiến đấu để chiến thắng ma qủy, thế gian và xác thịt. Thiên Chúa còn ban cho chúng ta những phương thế để nên thánh, đó là Ân sủng và các Bí Tích. Qua Hội Thánh, Thiên Chúa ban cho tất cả những gì cần thiết để có thể đi trọn con đường của Tám mối Phúc, để sống ơn gọi của mình. 
Tuy nhiên, lời mời gọi nên thánh cũng vẫn là một thách thức cho chúng ta. Sống trong xã hội hôm nay có quá nhiều lôi kéo mời chào, cám dỗ, khiến cho nhiều người bị lạc lối hoặc nấn ná trước lời mời gọi sống thánh. Cảm dỗ lớn nhất có lẽ là cái cám dỗ làm nhụt chí, làm nản lòng chúng ta. Ma quỷ nói với mỗi người rằng: việc nên thánh là của mấy ông cha bà sơ, của ai đó, chứ không phải của tôi! Nó thúc đẩy trong lòng mỗi người rằng: ông bà, anh chị có cố gằng mấy cũng chẳng ai gọi ông bà là thánh thiện đâu! Đừng cố gắng làm gì, cứ ăn chơi, sống thoải mái đi sau này rồi tính! Bây giờ ông bà phải vất vả để lo lắng cho gia đình, lo cho con cái, hãy tạm gác chuyện dâng lễ xưng tội lại, khi khá giả rồi mình đến với Chúa cũng không muộn. Ma quỷ cũng nói với các bạn trẻ rằng: Mày là thanh niên, là đàn ông phải biết mùi đời chứ, phải sành điệu chứ, vv. Bạn phải là một phụ nữ tiến bộ hiện đại chứ không thể quê mùa được! Đó là những cám dỗ ngọt ngào nghe như hợp lý mà ma quỷ nó đang rót vào tai mỗi người để làm nhụt chí chúng ta.
Hãy can đảm từ chối những lời ngọt ngào ấy, vả quyết tâm sống theo Tin Mừng của Đức Kitô và Tám Mối Phúc như đã chia sẻ ở trên, chúng ta sẽ là những vị thánh như Các Thánh mà Giáo Hội mừng kinh hôm nay. Có thể chúng ta sẽ không là những vị thánh nổi tiếng, nhưng chúng ta có thể là những vi thánh bình thường, vì chúng ta đã can đảm sống cuộc sống bình thường một cách phi thường, sống hết lòng vì tình yêu mến đối với Chúa và với anh chị em. Amen

Về mục lục

.

TÂM HỒN NGHÈO KHÓ

P.Trần Đình Phan Tiến

Vâng, Các thánh Nam Nữ là ai ? Thưa, là tất cả mọi người đang ở trong Nước Trời chiêm ngưỡng Thánh Nhan Thiên Chúa. Hay nói theo từ ngữ Thánh Kinh, thánh là những linh hồn ưu tuyển, hoặc là những người : Đã gặt áo mình trong Máu “Con Chiên”. Có nghĩa là tất cả mọi thành phần dân Chúa đã sống và chết vì “Giáo Huấn “ của Đức Kitô, Đấng là tình yêu muôn thuở.

Như vậy, cũng có thể định khác : “thánh là những linh hồn đã sống và chết vì tình yêu Thiên Chúa”. Bởi vì, như Đức Kitô đã vâng lời Chúa Cha, để sống và chết như thế nào, thì những người bước theo Đức Kitô,. Cũng sống và chết như vậy.

Vâng, nhưng Tin Mừng (Mt 5, 1- 12) hôm nay, mà chúng ta quen đọc và nghe , được gọi là “ Công Thức nên thánh”, hay là HIẾN CHƯƠNG NƯỚC TRỜI.

Đó là Đoạn Lời Chúa nói về  “tiêu chuẩn” hay “ quy định” nên thánh. Nhưng, câu đầu tiên nói về “Tâm Hồn” nghèo khó : “Phúc cho những ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”.

Vâng, tâm hồn nghèo khó, có nghĩa là tự nguyện “sống khó nghèo” vì Nước Trời.

Vậy, thế nào là “ Tâm Hồn nghèo khó” ? Thưa , “Tâm hồn nghèo khó” là “tâm hồn biết cho đi” tâm hồn quảng đại vì tha nhân. Chứ , tâm hồn nghèo khó không hẳn nhiên là “ người nghèo” vật chất. Vì, người nghèo vật chất chưa chắc họ đã có tâm hồn quảng đại để cho đi. Người có “tâm hồn quảng đại” sẵn sàng cho đi chính là “ người giàu có”.

Chúng ta suy niệm rõ ràng “Tám Mối Phúc Thật” không phải Thiên Chúa “đề cao” cái nghèo hay sự nghèo nàn, mà là Thiên Chúa “tuyên dương “ cái giàu, sự giàu có, tức sự “ QUẢNG ĐẠI “cho đi, vì Thiên Chúa chính là ”ÔNG CHỦ” giàu có nhất cả nghĩa đen và nghĩa bóng.

Không phải Chúa Giêsu “ nghèo khó”, mà là Chúa cho đi tất cả, cho đi chính mình, một sự “ quảng đại” của Đấng Tối Cao là cho đi tất cả. Vậy, khi cho đi tất cả không phải là “ NGHÈO” mà là chính lúc giàu nhất.

Vì cuối cùng của những “Mối Phúc” chính là  “Sự giàu có “ nhất đó là “ NƯỚC TRỜI”. Vâng, rõ ràng là như vậy, vì Thiên Chúa không làm cho chúng ta bị “ nghèo” đi, nhưng trái lại, Người muốn cho chúng ta “GIÀU CÓ”.

Qủa thật, khác với trần gian đó là “sự nghèo” và “ sự giàu”, sự giàu có của trần gian thì người ta cho là “có phúc”, điều đó không sai, nhưng trần gian đã hưởng phúc rồi thì còn đâu , đời sau hưởng phúc nữa, nếu không biết cho đi, không biết chia sẻ, nhưng chia sẻ thế nào được, nếu trần gian tôi cũng bị nghèo.

Bởi vì, nghèo là sự bất hạnh nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, nếu tôi nghèo vật chất , nhưng tôi giàu tâm linh thì tôi mới có phúc, còn nếu tôi giàu vật chất, nhưng tôi nghèo tâm linh, thì tôi mới bất hạnh. Còn nếu tôi giàu cả hai, thì tôi thật hạnh phúc cả đời nầy lẫn đời sau.

Nhưng, Hiến Chương Nước Trời chính là điều khuyên tôi chọn lựa, nếu tôi chọn hạnh phúc , tức sự giàu có Nước Trời, thì tôi phải hy sinh đời nầy, có nghĩa là” sự giàu có” Nước Trời có nghĩa là ÂN SỦNG SIÊU NHIÊN đòi buộc tôi phải “trả giá”, cũng như cuộc sống trần gian, nếu tôi muốn làm giàu, thì tôi phải ra sức làm việc, nhưng một khi làm hết sức chưa chắc tôi đã giàu.

Như vậy, Tám Mối Phúc Thật là hình ảnh của “tám loại thánh”, theo đó, chúng ta có thể biết được trong Nước Trời có mấy loại thánh. Thưa , có  “tám loại thánh”. Như vậy, có thể kết luận: Thánh là những linh hồn thực thi  “Tám Mối Phúc Thật”.

Vì rõ ràng, không phải tất cả những người nghèo “vất chất” mà được nên thánh hết thảy đâu, nhưng những ai vì Nước Trời mà trở nên sống nghèo, thì họ mới trở thành người được hưỡng hạnh phúc Nước Trời. Vì, đơn giản rằng : không ai ở “âm phủ” mà xài tiền “ dương thế”, ở đâu thì xài tiền ở đấy.

Nếu sống ở đời nầy, mà chúng ta biết “ làm giàu” cho đời sau, thì đời sau chúng ta có cái phúc để hưởng, có nghĩa là có “Tâm hồn nghèo khó”, là tâm hồn biết chia sẻ, tâm hồn quảng đại, tâm hồn hy sinh, tâm hồn trao ban chính mình. Còn nếu, chúng ta chỉ biết làm giàu vật chất, chỉ tích lũy cho mình, không biết trao ban cho tha nhân, thì làm sao chúng ta có” Tâm hồn nghèo khó” được, mặc nhiên , Nước Trời không thuộc về chúng ta.

Theo đó, các thánh là những người biết cho đi những gì mình có vì Nước Trời, mặc nhiên, Nước Trời là của họ. Như vậy, sự giàu có là cần thiết, nhưng khác nhau là “tạm thời” tức sự hữu hạn , và “ vĩnh hằng” tức sự vô hạn mà thôi.

Kết luận: Thánh là những phàm nhân sống/chết vì Nước Trời. Tất cả các thánh đều như vậy. Ân sủng là đến từ Thiên Chúa , chứ không do bởi một phàm nhân nào. Vì, tất cả đều là phàm nhân.

Xét về Hội Thánh, thì các thánh là thành phần Hội Thánh khải hoàn , là một bộ phận dân Chúa đã được “ ngụp lặn” “ hay là “tắm gội” trong Máu Con Chiên, có nghĩa là đón nhận ơn Cứu Độ và sinh sôi ơn Cứu Độ của Đức Kitô cho thế giới.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy chúng con trở nên chứng nhân Nước Trời, xin thương ban cho những ai biết đón nhân, nghe theo, thực thi đều trở nên chứng nhân Tin Mừng Nước, vì đó là Hạnh Phúc đích Thật cho họ ./. Amen

Về mục lục

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây