THỨ NĂM TUẦN II MÙA CHAY Lc 16,19-31

Thứ tư - 19/03/2025 08:34

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Luca
19 Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng những người biệt phái rằng: “Có một nhà phú hộ kia vận toàn gấm vóc, lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình.
20 Lại có một người hành khất tên là Ladarô, nằm bên cổng nhà ông đó, mình đầy ghẻ chốc, 21 ước được những mụn bánh từ bàn ăn rớt xuống để ăn cho đỡ đói, nhưng không ai thèm cho. Những con chó đến liếm ghẻ chốc của người ấy.
22 Nhưng xảy ra là người hành khất đó chết và được các thiên thần đem lên nơi lòng Abraham. Còn nhà phú hộ kia cũng chết và được đem chôn. 23 Trong hoả ngục, phải chịu cực hình, nhà phú hộ ngước mắt lên thì thấy đằng xa có Abraham và Ladarô trong lòng Ngài, 24 liền cất tiếng kêu la rằng:
“Lạy Cha Abraham, xin thương xót tôi và sai Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước để làm mát lưỡi tôi, vì tôi phải quằn quại trong ngọn lửa này. 25 Abraham nói lại: “Hỡi con, suốt đời con, con được toàn sự lành, còn Ladarô gặp toàn sự khốn khổ.
Vậy bây giờ Ladarô được an ủi ở chốn này, còn con thì chịu khốn khổ. 26 Vả chăng, giữa các ngươi và chúng tôi đây đã có sẵn một vực thẳm, khiến những kẻ muốn tự đây qua đó, không thể qua được, cũng như không thể từ đó qua đây được”.
27 Người đó lại nói: “Đã vậy, tôi nài xin cha sai Ladarô đến nhà cha tôi, 28 vì tôi còn năm người anh em nữa, để ông bảo họ, kẻo họ cũng phải sa vào chốn cực hình này”.
29 Abraham đáp rằng: “Chúng đã có Môsê và các tiên tri, chúng hãy nghe các Ngài”. 30 Người đó thưa: “Không đâu, lạy Cha Abraham! Nhưng nếu có ai trong kẻ chết về với họ, thì ắt họ sẽ hối cải”.
31 Nhưng Abraham bảo người ấy: “Nếu chúng không chịu nghe Môsê và các tiên tri, thì cho dù kẻ chết sống lại đi nữa, chúng cũng chẳng chịu nghe đâu”.
SUY NIỆMBIẾT QUAN TÂM TỚI MỌI NGƯỜI
1. Đã biết tiền bạc, của cải nói chung là những giá trị không bền, thế nhưng, nhiều người vẫn cứ cậy dựa vào chúng. Đó chính là cái ngu dại của con người.
Một ngày nọ, vua Salomon bỗng nảy ra ý muốn, muốn làm bẽ mặt Benaiah, một cận thần thân tín của mình trước mặt mọi người. Vua nói:
- Này Benaiah, trong vòng 6 tháng, ta muốn khanh mang về cho ta một chiếc vòng để đeo trong ngày lễ hội.
Benaiah trả lời:
- Nếu có một thứ gì đó tồn tại trên đời này, thì thưa đức vua, thần sẽ tìm thấy nó và mang về cho ngài nhưng chắc là chiếc vòng ấy phải có gì đặc biệt?
Nhà vua bảo:
- Nó phải có sức mạnh kỳ diệu. Nếu kẻ nào đang vui nhìn vào nó sẽ thấy buồn. Và nếu ai đang buồn, nhìn vào nó sẽ thấy vui.
Vua Salomon thừa biết sẽ chẳng đời nào có một chiếc vòng như thế tồn tại trên thế gian này, nhưng ông muốn cho người cận thần của mình nếm một chút bẽ bàng.
Mùa xuân trôi qua, mùa hạ đến nhưng Benaiah vẫn không thể tìm ra được một chiếc vòng nào như thế. Rồi chính vào đêm trước ngày lễ hội, ông lang thang đến một nơi nghèo nhất của Jêrusalem. Ông đi ngang qua chỗ người bán hàng lạc xoong với những món hàng đang được bày trên một tấm bạt tồi tàn. Benaiah dừng chân hỏi:
- Có bao giờ ông nghe nói về một chiếc vòng kỳ diệu làm cho người hạnh phúc đeo nó vào thì quên đi niềm vui sướng, và người đau khổ đeo nó vào thì quên đi nỗi buồn không?
Người bán hàng lấy từ trên tấm bạt cũ lên một chiếc vòng giản dị có khắc một dòng chữ. Khi Benaiah đọc dòng chữ, khuôn mặt ông rạng rỡ lên một nụ cười. Đêm đó toàn thành phố hân hoan, tưng bừng đón mừng lễ hội. Vua hỏi:
- Nào ông bạn của ta, ông đã tìm thấy điều ta yêu cầu chưa?
Tất cả cận thần có mặt đều cười lớn và chính vua Salomon cũng cười. Trước sự ngạc nhiên của mọi người, Benaiah đưa chiếc vòng ra và nói:
- Dạ nó đây, thưa đức vua!
Khi vua Salomon đọc xong dòng chữ, người ta thấy khuôn mặt của nhà vua biến sắc. Trên chiếc vòng đó người  ta khắc dòng chữ này: “Mọi sự rốt cuộc rồi cũng qua đi”.
Chính giây phút ấy, vua Salomon nhận ra rằng: tất cả những sự khôn ngoan, vương giả, quyền uy và giàu có của ông rồi sẽ qua đi. Cả ông cũng thế. Ông cũng chỉ là một thứ phù du bởi vì một ngày nào đó, ông cũng sẽ phải trở về với cát bụi.
2. Tội của người nhà giàu ở chỗ ông thấy những đau khổ túng cực của người khác mà không một chút mảy may thương xót quan tâm.
Mẹ Têrêsa nói: “Người nào luôn sống lệ thuộc vào đồng tiền, lúc nào cũng cũng băn khoăn lo lắng về của cải của mình, thì người đó là người thực sự nghèo khó. Ngược lại, những người biết trao ban của cải để giúp đỡ người khác, người đó mới là người thực sự giàu có thực sự. Lòng tốt làm biến đổi con người nhiều hơn là những nghiên cứu khoa học và tài hùng biện. Một khi đã nhìn thấy hình ảnh của những người anh em trong nhau, bạn nghĩ rằng chúng ta có còn cần đến xe tăng và tướng lĩnh nữa không?”
Chúng ta hãy tập cho mình có thói quen biết quan tâm tới mọi người. Đó là con đường làm cho chúng ta được dễ trở nên giống Chúa Giêsu hơn.
Ở London, thủ đô nước Anh có một ngôi thánh đường rất nổi tiếng. Đó là nhà thờ Saint Paul. Nhà thờ này có một lối kiến trúc rất độc đáo làm cho những âm thanh vang đi rất xa. Nếu áp tai vào tường, người ta có thể nghe được một người nói từ phía bên kia mái vòm tròn, dầu chỉ là giọng nói thì thầm tâm sự.
Có một đôi thanh niên nam nữ đã mượn nơi nhà thờ này làm điểm hẹn hò: Chàng trai vốn là một người làm nghề thợ đóng giày than thở với người yêu rằng:
- Anh chưa thể tiến hành hôn lễ vì đang thất nghiệp, không có tiền để mua da và các vật liệu làm giày, thì đào đâu ra tiền để làm lễ cưới?
Nghe tin chẳng lành ấy, cô gái chỉ biết sụt sùi khóc và cầu nguyện:
- Lạy Chúa, xin giúp chúng con có tiền để làm lễ thành hôn!
Tình cờ, một người đi ngang qua hành lang phía bên kia nghe được câu chuyện và lời cầu nguyện của họ, ông ta quyết định giúp đỡ đôi thanh niên nam nữ này. Vì thế khi họ thất thểu ra về, ông khách cũng âm thầm theo sau để dò cho biết nhà chàng trai ở đâu, rồi lập tức ông cho người mang tặng anh ấy một số da và vật liệu để làm giày. Nhờ được giúp đỡ như vậy, nên người thanh niên bắt tay ngay vào việc và chẳng bao lâu anh trở nên phái đạt và anh sung sướng cử hành hôn lễ.
Mãi mấy năm sau, hai vợ chồng này mới biết được vị ân nhân của mình là ai khi ông trở thành vị thủ tướng nổi tiếng của nước Anh. Người đó chính là ngài William Ewart Gladstone (1809-1998).
Lm Giuse Đinh Tất Quý

SUY NIỆM:
Khi kể dụ ngôn về người giàu và Lazarô, trước hết Chúa Giêsu ám chỉ đến quan niệm sai lầm của các biệt phái, vì họ coi thịnh vượng đời này là dấu chỉ ơn lành của Thiên Chúa và nghèo nàn là dấu chỉ bị ruồng bỏ. Cái nhìn tôn giáo của họ xác tín rằng ở trần gian này người lành sẽ được thịnh vượng, kẻ ác gặp bất hạnh.
Thế nhưng, đối với Chúa Giêsu, thịnh vượng trần thế không minh chứng giá trị đạo đức và sự hậu đãi của Thiên Chúa; cũng như nghèo khó không minh chứng sự bại hoại luân lý và việc Thiên Chúa ruồng bỏ. Tất cả nằm trong chương trình của Thiên Chúa, điều mà Thiên Chúa muốn không ở tại ở chuyện giàu nghèo mà là sự tương quan giữa người với người.
Vì thế, qua dụ ngôn Tin Mừng hôm nay, chúng ta cùng suy niệm ba ý chính:
1. Vô cảm trước đồng loại.
Hai hình ảnh của hai con người trái ngược nhau ngay trong một căn nhà: kẻ ăn không hết người lần không ra. Một bức tranh tương phản, một khoảng cách rất gần mà lại rất xa, hai con người với hai cuộc đời, hai hoàn cảnh trái ngược nhau. Từ trong nhà ông phú hộ đến chỗ người ăn mày Lazarô nằm ngoài hiên chỉ cách dăm ba bước, gần nhau về thể lý, nhưng tình liên đới thì ngàn trùng xa.
Chúng ta không thấy ông phú hộ có những chuyện bóc lột, đàn áp, hay có lối sống bất chính; dụ ngôn không nói về bất cứ lỗi nào ông ta phạm, chỉ đưa ra hai hình ảnh trái ngược nhau khi sống và lúc chết. Như vậy, tội của nhà phú hộ kia chính là sự vô cảm và dửng dưng với người nghèo. Chúa không phạt nhà phú hộ vì ông ta giàu. Chúa cũng không cổ súy cho sự nghèo nàn của Ladarô. Nhưng Chúa mời gọi hãy sống có sự liên đới với nhau để người giàu không dư, người nghèo không đói.
Điều này nhắm tới mọi người chúng ta là: Khi ta đóng cửa lòng mình lại là lúc ta bắt đầu chết. Khi ta mở cửa lòng mình ra là lúc ta bắt đầu sống. Khi chỉ biết tìm kiếm sao cho có thật nhiều tiền, cặp mắt người ta sẽ bị che mờ đến nỗi không còn nhìn thấy Thiên Chúa và tha nhân nữa.
Cái tội Chúa cảnh tỉnh chúng ta hôm nay chính là tội thiếu sót, không chu toàn bổn phận yêu người, bàng quang trước những người bất hạnh xung quang chúng ta. Không phải chỉ có làm điều xấu mới là tội, nhưng tránh không làm điều tốt cũng là tự đưa mình xa rời Thiên Chúa và ngăn cách với anh em. Có người lại yêu thương những người ở xa thì rất dễ, nhưng yêu thương những người đang sống với mình hoặc đang ở sát cửa nhà mình thì khó.
Tiền bạc cũng như vật chất là những ơn huệ Chúa tặng ban. Chúng ta được phép sử dụng để bảo đảm cho cuộc sống và phẩm giá bản thân, đồng thời còn có bổn phận phải chia sẻ và giúp đỡ những người chung quanh, nhất là những kẻ bần hàn túng thiếu. Chính những hành động bác ái yêu thương này sẽ có một giá trị vô song tạo cho chúng ta một kho tàng ở đời sau.
2. Khoảng cách vô hạn.
Vì xa khi còn sống, nên chết rồi xa lại ngàn trùng xa. Vực thẳm chia cách giữa người được hưởng phúc trong lòng Abraham và kẻ phải chịu cực hình dưới địa ngục, thực ra chỉ là sự nối dài của vực thẳm đã được đào sâu giữa bàn ăn nhà phú hộ với chỗ hiên mà Lazarô nằm khi còn sống, một ranh giới ngày càng được đào sâu một cách vô hình cho tới một lúc tấm màn cái chết buông xuống với cả hai.
Khoảng các sau cái chết là vô hạn, không còn có chuyện qua lại giữa thiên đàng và hoả ngục. Vực thẳm lớn không thể vượt qua, biểu tượng cho tính dứt khoát của số phận của những người được hưởng hạnh phúc hay sẽ phải chịu đau khổ trong thế giới kẻ chết.
Khi sống, ông phú hộ đã không chịu bước vài bước đó, để cảm thương và giúp đỡ người hành khất, để khi chết rồi, vài bước vô tâm kia đã đưa tới cực hình vô tận. Khi còn sống ở trần thế, giữa hai người có một khoảng cách rất gần. Trong thế giới mai sau, khoảng cách giữa hai bên xa vời vợi. Hai thứ khoảng cách đó liên hệ mật thiết với nhau. Đắp con đường liên đới tới tha nhân đời này là xây cây cầu tới thiên quốc mai sau.
Vì thế, ngay từ khi còn sống trên trần gian này, chúng ta hãy gấp rút sửa mình để kẻo quá trễ như nhà phú hộ. Mọi chuyện sẽ có ngày phân định. Cái chết chính là lúc phân minh.
Hãy hoán cải ngay từ bây giờ bởi vì giây phút hiện tại mới thực là quan trọng, nó chính là thời điểm duy nhất chúng ta có thể sống như chúng ta muốn và xây dựng cho tương lai vĩnh cửu một cách hữu hiện nhất, vì ngày mai phải được bắt đầu từ ngày hôm nay. Tình liên đới nếu không tạo lập ở thế gian, khi chết rồi sẽ không còn cơ hội nữa.
3. Sự cứng lòng.
Qua câu trả lời của Abraham cho người phú hộ trong dụ ngôn, cho thấy sự cảnh báo về việc sử dụng của cải đã hàm chứa trong Luật pháp Mô-sê và Lời Chúa do các ngôn sứ rao truyền, đủ thuyết phục mọi người sửa đổi thói ích kỷ và biết quảng đại với tha nhân. Vì thế nếu đã không hồi tâm sám hối, không phải vì họ đã không có đủ các phương thế giúp ăn năn hối cải, nhưng chỉ vì họ đã cố tình từ chối thi hành các phương thế ấy mà thôi. Bởi hoán cải là mở lòng đón nhận, tin vào Thiên Chúa và thay đổi cuộc sống. Do đó, nếu không nghe lời Môsê và các ngôn sứ, để hoán cải được thì việc người chết có hiện ra chỉ vô ích.
Không ít người trong chúng ta cũng xem thường việc nghe Lời Chúa và tuân giữ lề luật Chúa và Giáo Hội, mà thích đòi hỏi những phép lạ rồi mới tin và hoán cải. Mỗi ngày chúng ta có nhiều cơ hội và nhiều phương thế để hoán cải, qua Lời Chúa, qua lề luật, qua bí tích và qua những dấu chỉ của cuộc sống; nếu chúng ta không quan tâm, thì đến ngày ra trước mặt Chúa chúng ta không có cớ để biện minh nữa.
Con đường chân chính duy nhất đến với đức tin là sự khiêm nhường lắng nghe Lời Chúa. Nếu con tim đã trở nên đui mù và chai cứng vì ích kỷ, không mở lòng ra đón nhận Lời Chúa, không quan tâm đến người thân cận, thì các phép lạ và các sứ giả từ bên kia thế giới trở về cũng chẳng giúp lay tỉnh được.
Lạy Chúa Giêsu, xin mở lòng con để đừng vô cảm trước những mảnh đời khổ đau, xin mở rộng bàn tay chúng con, để chúng con luôn biết san sẻ giúp đỡ những người bất hạnh… Amen
Hiền Lâm

SUY NIỆM: CẦN CÓ THIÊN CHÚA
“Có một ông nhà giầu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giầu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta. Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng Áp-ra-ham. Ông nhà giầu cũng chết và được đem đi chôn.” (Lc. 16, 19-22)
1) Câu chuyện Tin mừng đã đạt tới tuyệt đỉnh, nó trình bày cho ta thấy một cảnh bi thảm sống động về những kẻ giàu có ích kỷ bị chúc dữ ghê sợ, những kẻ giàu sang này ăn chơi thỏa thích, dưới những lời van xin thảm thiết của những kẻ bần cùng đói khổ than khóc. Đây là bản văn nghiêm khắc cảnh cáo những kẻ giàu và an ủi người nghèo khổ.
La-gia-rô có nghĩa là người nghèo khổ được Thiên Chúa cứu giúp. Anh là một trong những kẻ nghèo khổ biết nhẫn nại chịu đựng cảnh khốn cùng và đầy lòng tin tưởng vào Thiên Chúa. Họ chỉ có thể kiên nhẫn chịu đựng cuộc sống tối tăm của họ nhờ họ cậy trông vào Thiên Chúa. La-gia-rô là một trong số họ được lời hứa của Thiên Chúa an ủi như lời Thánh vịnh và các ngôn sứ nói, là một trong những người được Tám Mối Phúc Thật chúc mừng.
Người phú hộ sống không màng chi đến Thiên Chúa. Ông có tất cả rồi, còn cần chi đến Thiên Chúa? Ông không thấy Thiên Chúa, ông không thấy kẻ khốn khổ. Ông hoàn toàn giàu có và sống dư đầy, ông không chống lại Thiên Chúa, ông không đàn áp kẻ nghèo. Ông chỉ mù thôi, mù đối với Thiên Chúa và những người nghèo khổ, mù đối với Mô-sê và những ngôn sứ.
2) Câu chuyện nhấn mạnh đến đời sau cái chết. Cả hai đều chết, cả người nghèo lẫn người giàu hoàn toàn chết như nhau. Nhưng có khác nhau: Người giàu được đưa chôn long trọng xôm trò. Người nghèo không thấy nói được an táng chi cả, phải chăng nó không đáng được nói tới. Nhưng người nghèo lại được các thiên thần đón rước.
Người giàu phải ở chốn cực hình. La-gia-rô được ngồi bàn tiệc nước trời, trong lòng Áp-ra-ham, nơi hạnh phúc vinh quang.
3) Nội dung Kinh thánh là chính Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã chết và sống lại. Ai biết nghe và sống theo lời Đức Giê-su, sẽ không bị số phận như kẻ phú hộ đã bị phạt. Hình phạt được nói rõ trong bản văn Tin mừng này, cho biết chắc có sự chết và sống lại, có hình phạt và phần thưởng đời sau.
J.M
SUY NIỆM: TẤM LÒNG SẺ CHIA
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trong bài “Để Gió Cuốn Đi” đã diễn đạt rằng: “Sống trong đời sống, cần có một tấm lòng”. Quả thật, con người không ai sống một mình nhưng là liên đới với nhau. Vì thế, để sống hạnh phúc, con người cần sống với nhau bằng tấm lòng sẻ chia.
Trình thuật Tin Mừng hôm nay kể cho chúng ta hai hình ảnh hoàn toàn trái ngược nhau: Một bên là ông nhà giàu mặc toàn gấm vóc, lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình và bên kia là anh Ladarô, một người nghèo đói, thân mang đầy ghẻ lở. Sau khi chết, Ladarô được thiên thần đưa vào lòng ông Ápraham, nhưng ông nhà giàu lại sa vào hỏa ngục. Khi còn sống, Ladarô ước mong được ăn đồ ăn từ bàn ông rơi xuống. Giờ đây, ở âm phủ, ông nhà giàu lại ước mong những giọt nước rơi xuống từ bàn tay của Ladarô. Ông nhà giàu phải chịu cực hình không phải vì ông giàu có, nhưng vì ông quá coi trọng của cải, để cho của cải che mờ con tim thương cảm để rồi lãng quên người khác. Nói cách khác, ông sống ích kỷ và thiếu sự nhạy cảm với những bất hạnh của người khác. Kết quả là ông phải chịu trách nhiệm cho lối sống dửng dưng và vô cảm của mình.
Ngày hôm nay, trái đất đang nóng dần lên nhưng tình người lại đang nguội lạnh đi, lối sống thực dụng và hưởng thụ đang len lỏi vào con tim của mỗi người, chủ nghĩa cá nhân được đề cao. Bởi vậy, nhiều người giàu vẫn mải mê hưởng thụ cuộc sống và phớt lờ đi những người nghèo. Phẩm giá của người nghèo bị chà đạp và bị coi như gánh nặng của xã hội. Con người không còn đối xử với nhau bằng tình thương nhưng bằng vật chất, lợi ích. Con người đang xây lên những bức tường nhằm ngăn cách nhau. Và như vậy, con người đang xây dựng một nền văn minh sự chết, là lối sống tư lợi, thiếu sự quan tâm và sẻ chia với anh chị em mình.
Lạy Chúa, xin lấy khỏi chúng con trái tim chai đá và ban tặng chúng con quả tim biết yêu thương, để chúng con biết quan tâm, sẻ chia với tất cả mọi người. Amen. 
Tu sĩ  Micae Trần Văn Cường, SVD

SUY NIỆM: HÃY THẬT LÒNG HOÁN CẢI
Chúa Giêsu đã dùng một câu chuyện dài để minh họa mối tương quan đảo ngược giữa cuộc sống đời này với cuộc sống đời sau, nhằm mục đích kêu gọi người Do Thái sống theo lời của tổ phụ và các ngôn sứ được ghi lại trong sách Thánh để được hưởng hạnh phúc mai sau. Khi nghe phần đầu của câu chuyện về ông nhà giàu và anh Ladarô nghèo khó trên đây, chắc chắn người Do Thái sẽ nhớ đến lời Chúa Giêsu dạy trong bài giảng về các Mối Phúc Thật, cụ thể là những mối phúc dành cho kẻ nghèo khó, đói khát và khóc lóc. Từ hình ảnh của ông nhà giàu trong âm phủ và anh Ladarô trong lòng tổ phụ Abraham, Chúa Giêsu đưa các thính giả trở về với cuộc sống thực tại ấy. Mượn lời ông Abraham, Chúa Giêsu trách cứ lối sống ương ngạnh của của họ, vì họ không chịu tin vào giáo huấn của ông Môsê và các tiên tri. Họ cứng đầu như thế, thì cho dù người chết sống lại thuyết phục họ, họ cũng sẽ bỏ ngoài tai.
Hạnh phúc đời sau thì ai cũng muốn được hưởng, nhưng gian khổ đời này thì chẳng ai muốn trải qua. Bởi thế, chúng ta thường tìm giải pháp có lợi cho chúng ta hơn hết, chúng ta tìm cách sống như thế nào để được cả đôi đàng, chúng ta trở thành người quá khôn ngoan và cũng quá tham lam, muốn được hưởng hạnh phúc tạm bợ đời này lẫn hạnh phúc đời sau. Lối sống bắt cá hai tay như thế dần dần dẫn chúng ta tới chỗ nhượng bộ hoặc thỏa hiệp với các nhu cầu vật chất của mình, mà coi nhẹ các nhu cầu tâm tình sâu thẳm, đáng ra phải được đáp ứng trước tiên. Cuộc sống thiêng liêng của chúng ta vì thế mà nghèo nàn đi khi đời sống vật chất của chúng ta có thể dư dật ra. Các giá trị Tin Mừng dần dà bị chúng ta coi nhẹ trong khi những giá trị trần tục lại được chúng ta càng lúc càng tôn vinh. Cán cân các giá trị cứ thế mà lệch dần đi. Chúng ta trở nên như người giàu có trong dụ ngôn trên đây, chúng ta yên tâm với những gì mình tích góp được, những gì mình sở hữu trong tay. Mãi lo lắng cho mình, lòng chúng ta đông đặc lại, chúng ta không còn quan tâm đến người chung quanh, chúng ta tự thỏa mãn với thế giới khép kín của mình. Thế rồi, có những lúc nào đó, khi lâm bịnh tật, khi gặp tai ương, chúng ta hốt hoảng nhận ra rằng cuộc đời trần thế chỉ là phù vân, chúng ta hối hận ăn năn, chúng ta hứa với Chúa là nếu Chúa giúp chúng ta ra khỏi nguy nan, chúng ta sẽ làm lại tất cả. Thế nhưng ai trong chúng ta đã giữ trọn lời hứa với Chúa? Hết tai ương hoạn nạn, chúng ta có thể quay về với nếp sống cũ. Qua cơn khốn đốn, chúng ta lại chễm chệ leo lên chiếc ghế trang trọng của mình.
Lạy Chúa Giêsu, con thật cứng đầu chẳng kém gì những người Do Thái thời xưa, có lẽ con còn đáng trách hơn họ nữa, vì con chẳng những không chịu tin lời Môsê và các ngôn sứ, mà ngay cả Lời Chúa dạy bảo con cũng chẳng chịu nghe theo cho tới nơi tới chốn. Trong mùa Chay này, xin Chúa giúp con thật lòng hoán cải và sống trong lòng Tin Mừng để khỏi rơi vào tình trạng bất hạnh như ông nhà giàu trong dụ ngôn được nhắc lại trong đoạn Phúc Âm hôm nay.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
 

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây