Lời Chúa: Xh 3,1-8a.13-15; 1Cr 10,1-6.10-12; Lc 13,1-9
——-
1. Cảm nhận và thực thi lòng thương xót (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Hãy có cái nhìn bao dung (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
3. Nhân quả (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
4. Hối cải (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
5. Mùa sinh hoa kết trái (Anna Cỏ May, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
6. Sám hối là biết kết trái (Hoa Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
7. Sám hối để tự cứu mình (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
8. Mua thời gian (Lm. Vũ Đình Tường)
9. Cơ hội cuối cùng (Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn)
10. Đổi mới cái nhìn (Thu Băng, CRM)
11. Sám hối trở về (Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải, CRM)
12. Người làm vườn và cây vả (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
13. Suy niệm Chúa Nhật III Mùa Chay_C (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
14. Sám hối để được sống (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
15. Người giết người (Lm. Anphong Trần Đức Phương)
16. Sám hối chân thành (Cao Huy Hoàng)
17. Sự sám hối, một điều kiện tất yếu (Lm. Nguyễn Hữu Thy)
18. Tất cả mọi người cần phải hoán cải (Lm. Giuse Nguyễn Trung Điểm)
19. Hoa trái thiêng liêng (Lm. Trần Bình Trọng)
20. Suy niệm Chúa Nhật III Mùa Chay_C. (Lm. Anthony Trung Thành)
21. Dấu lặng xót thương (Trầm Thiên Thu)
22. Sám hối là hoa trái mà Thiên Chúa mong đợi (Nguyễn Văn Nội)
23. Hãy sám hối và sinh hoa trái thánh thiện (Lm. Anthony Nguyễn Ngọc Dũng,SDB)
24. Hãy hoán cải vì Chúa giàu lòng xót thương (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
25. Nhận biết sự thật (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
26. Sám hối và canh tân đời sống (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
27. Chúa mời gọi ăn năn hối cải (Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt)
28. Như bụi cây cháy mà không rụi, Bố Thí, cũng vậy (Lm. Bosco Dương Trung Tín)
29. Con đường hoán cải đích thực (JM. Lam Thy, ĐVD)
30. Nếu các ông không chịu sám hối (Fx. Đõ Công Minh)
31. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 3 Mùa Chay_C (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
1. Thương xót như Chúa Cha (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Cái nhìn nội tâm (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. Biết đến lòng nhân hậu (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
4. Hãy có lòng thương xót (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
5. Lời mời gọi sám hối (Lm. Phạm Thanh Liêm, SJ)
6. Sám hối cụ thể (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)
7. Ý thức về tội lỗi (Lm. JB. Văn Hào, SDB)
8. Xin để thêm một thời hạn (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
9. Ai là tốt, ai là xấu? (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
10. Nhận ra lòng Chúa xót thương và hoán cải (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
11. Thiên Chúa nhẫn nại (Trầm Thiên Thu)
12. Sám hối để được cứu chuộc (Jos. Vinc. Ngọc Biển)
13. Chúa Nhật 3 Mùa Chay_C (Lm. Antôn, giáo xứ Giuse, Tulsa)
14. Sám hối hay chết? (P. Trần Đình Phan Tiến)
15. Dấu chỉ cảnh báo (Trần Bình An)
16. Hãy để Chúa giải phóng (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
17. Đặt một trái tim mới Lm. Giuse Trực)
18. Tự tin để thêm nghị lực (Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh)
19. Mùa Chay thời kỳ ăn chay sám hối và làm việc thiện (Lm. Đan Vinh)
20. Hại đất (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)
21. Lòng kiên nhẫn đầy xót thương (Dã Quỳ)
22. Sám hối thật lòng (Huệ Minh)
CẢM NHẬN VÀ THỰC THI LÒNG THƯƠNG XÓT
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và ông Môisen qua bụi gai cháy bừng là một sự kiện quan trọng đánh dấu một bước ngoặt trong tiến trình mạc khải. Quả vậy, đây là lần đầu tiên trong lịch sử, Thiên Chúa tự giới thiệu danh của Ngài cho con người. Tuy vậy, nếu được Thiên Chúa cho biết Ngài là “Đấng Tự hữu”, thì ông Môisen cũng chẳng hiểu danh xưng đó có ý nghĩa gì. Ông chỉ dễ dàng nhận ra Chúa khi Ngài liên hệ đến các tổ phụ, tức là Abraham, Isaac, và Giacóp. Mối tương quan này cho thấy Thiên Chúa là Đấng luôn đồng hành với lịch sử Do Thái, là dân riêng Ngài đã chọn. Danh Thiên Chúa được kêu cầu cho các thế hệ tương lai, chính là danh xưng gắn liền với các Tổ phụ của dân tộc thánh. Nói cách khác, những gì Thiên Chúa đã làm cho Abraham, Isaac và Giacóp, đã tạo nên tên gọi của Ngài. Khi nhắc đến các tổ phụ, Thiên Chúa nhấn mạnh đến mối tương quan của Ngài đối với dân riêng, đồng thời khuyên họ đừng quên những kỳ công Ngài đã làm vì yêu thương các bậc tiền nhân của họ.
Khi tự mạc khải mình cho ông Môisen, Thiên Chúa tỏ cho ông thấy Ngài là Đấng thương xót và quan tâm đến con người. Ngài đã nghe thấy tiếng kêu than khổ cực của người Do Thái bị áp bức tại Ai Cập, và Ngài sẽ dùng ông Môisen để giải phóng họ, đưa họ tới bến bờ của tự do. Đây cũng là một nét mới mẻ của Mạc khải: Thiên Chúa là Chúa của tình thương, như mẹ hiền lắng nghe nỗi lòng của con cái, để che chở độ trì.
Thiên Chúa là Đấng giải phóng con người. Điều này được chứng minh trong suốt bề dày của lịch sử cứu độ, nhất là nơi Đức Giêsu Kitô. Người là vị thủ lãnh, giải phóng loài người khỏi tội lỗi, ban cho họ được tự do và được hưởng ơn cứu độ.
Trong giáo huấn của mình, Chúa Giêsu giải thoát con người khỏi những thành kiến, nhằm quy tội và lên án người khác. Tin Mừng hôm nay cho thấy quan niệm hẹp hòi của những người đương thời đối với những sự kiện xảy đến trong cuộc sống. Đối với Chúa Giêsu, những gì xảy ra xung quanh chúng ta đều là những điểm báo, gửi gắm thông điệp mời gọi chúng ta ăn năn sám hối và sửa mình để sống tốt hơn. “Ta bảo các ngươi: Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị hủy diệt như vậy”. Lời mời gọi hối cải mang tính cấp bách, và là một điều kiện cần thiết để tránh mọi tai họa. Hình ảnh cây vả đã ba năm không sinh trái, vừa diễn tả sự kiên nhẫn của Thiên Chúa vừa nói lên sự lười biếng của con người. Thiên Chúa kỳ vọng nơi chúng ta hãy sinh nhiều hoa trái là những nhân đức và những việc làm tốt đẹp, nhưng trong thực tế, chúng ta không làm những gì Thiên Chúa chờ đợi nơi ta. Mỗi chúng ta cần nhìn lại thực trạng cuộc sống bản thân, để xem mình có sinh hoa trái trong đời hay không.
Mùa Chay vừa giúp chúng ta khiêm tốn nhận ra lỗi lầm của mình, vừa nhắc bảo chúng ta hãy có cái nhìn bao dung đối với tha nhân, vì mỗi chúng ta đều là những tội nhân đang cần ơn tha thứ của Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương và bao dung tha thứ những tội lỗi của chúng ta. Ngài cũng mong muốn chúng ta hãy có lòng thương xót đối với đồng loại. Lòng bao dung đối với anh chị em là một trong những điều kiện cần có để chúng ta được đón nhận sự tha thứ của Chúa. Những ai sống khép kín và dửng dưng trước nỗi đau của đồng loại, không thể đón nhận ơn tha thứ của Chúa và như thế, họ sống trái ngược với giáo huấn của Ngài. Để sống tinh thần Mùa Chay cách thiết thực, chúng ta cần quan tâm đến những người bị bỏ rơi trong làng xóm và trong cộng đoàn, nhất là những người còn sống trong “ngăn trở” hoặc vì lý do nào đó mà chưa hiệp thông hoàn toàn với Giáo Hội. Những người này, nhiều khi là nạn nhân của những kỳ thị, bị xa lánh và khinh bỉ ngay giữa những cộng đoàn Đức tin, trở nên lạc lõng lẻ loi đối với những sinh hoạt đạo đức.
Thiên Chúa bao dung và yêu thương mọi người, nhưng con người lại khắt khe và hẹp hòi trong cách đối xử với nhau. Vì thế mà cuộc sống này vẫn còn tồn tại những thập giá và đau khổ. Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy luôn thận trọng, lấy bài học của dân Do Thái trong hành trình sa mạc làm gương, để khỏi gục ngã trước cám dỗ của kiêu ngạo và dục vọng. Kể cả những ai nghĩ là mình đang đứng vững cũng phải coi chừng, vì rất có thể họ bị vấp ngã một cách bất chợt (Bài đọc II).
Xin Chúa giúp chúng ta cảm nhận được lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa, nhờ đó chúng ta có tâm hồn sám hối, và có cái nhìn bao dung nhân hậu đối với những người xung quanh.
“Chỉ có một điều đáng sợ trên trần gian này, đó là không yêu mến Chúa Giêsu cho đủ” (Chân phước Charles de Foucauld).
.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Có câu thơ viết rằng:
“Ta hay chê rằng cuộc đời méo mó
Sao ta không tròn ngay tự trong tâm
Đất ấp ôm cho mọi hạt nảy mầm
Những chồi non tự vươn lên tìm ánh sáng”
(Nguyễn Quang Vũ)
Con người là vậy, thường hay nhìn thấy khuyết điểm của người khác, và hay chê trách tha nhân. Có những người còn vui sướng khi thấy người khác gặp khổ đau. Họ không thông cảm, không đỡ nâng mà còn chì chiết những lời làm đau lòng nhau như những câu mà ta vẫn thường nghe: cho đáng đời, chắc nó ăn ở thế nào mới bị Trời phạt . . .! Họ là những người luôn nhìn đời bằng cái nhìn méo mó thiếu yêu thương. Tâm của họ đã không còn tròn nghĩa tình người nên mới nhìn đời, nhìn người một màu đen.
“Ta hay chê rằng cuộc đời méo mó
Sao ta không tròn ngay tự trong tâm”
Hãy học lấy bài học bao dung của đất mẹ. Đất luôn bao dung ôm ấp vạn vật. Đất gìn giữ bảo vệ, nuôi nấng mọi hạt giống chồi non.
“Đất ấp ôm cho mọi hạt nảy mầm
Những chồi non tự vươn lên tìm ánh sáng”
Đồng thời, khi chúng ta có cái nhìn bao dung là chúng ta đang bao dung với chính mình. Vì “nhân vô thập toàn”, nên ai cũng từnglà tội nhân.Có biết bao đam mê tật xấu đã làm mất đi hình ảnh đẹp nơi con người chúng ta.Có biết bao lời nói như những mũi tên chúng ta đâm thấu trái tim anhem bạn bè. Có biết bao lời nói, việc làm chúng ta đã gieo vãi những đau khổ vào cho giađình và xã hội. Có rất nhiều lần chúng ta cũng từng nuối tiếc đểdặn với lòng mình rằng: Nếu có thể làm lại, chúng ta sẽ không làm như thế !
Người Việt Nam có câu : « Ai nên khôn mà không dại một lần ». Lầm lỗi, yếu đuối, thiếu sót là lẽ thường tình của thân phận con người. Điều quan yếu không phải chỉ nhìn nhận tội mình rồi than khóc tội mà là canh tân, khắc phục hậu quả việc mình đã gây ra. Nhất là biết đứng dậy sau những lần vấp ngã. Cuộc đời có vấp ngã, có lầm lỗi mới có kinh nghiệm để chiến thắng, để vượt qua những cám dỗ trong cuộc đời.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sám hối khi thời gian còn thuận tiện. Đừng thử thách Thiên Chúa nhưng hãy thật lòng ăn năn trở về cùng Chúa. Sự trở về không chỉ là hành vi đấm ngực ăn năn về tội đã phạm,mà còn phải sống theo lời mời gọi của Chúa: “Hãy sinh hoa kết trái xứng với lòng ăn năn thống hối”. Hoa trái làsự thánh thiện. Hoa trái làviệc lành phúc đức. Hoa trái là đời sống công bằng bác ái. Hoa trái là đời sống yêu thương và phục vụ mọi người. Xem ra đường trở về là không khó. Cái khó là ở việc sinh hoa kết trái. Làm sao chúng ta có thể sống thanh sạch, đang khi còn ởgiữa thế gian mà sự dâm ô, tục tĩu, lăng loàn đang có mặt mọi nơi và mọi chốn? Làm sao làm việc lành phúc đức, đang khi phải cố gắng bươn chải với kế sinh nhai, với kiếmtìm miếng cơm manh áo từng ngày? Làm sao giữ được công bằng bác ái, đang khi sống giữa thế gian đầy bất công và hận thù?
Hãy nhận ra thân phận yếu đuối của mình mà biết cậy trông vào Chúa. Con người yếu đuối nhưng nhờ sức mạnh của Chúa chúng ta sẽ vượt qua. Chúa Giê-su đã từng chiến thắng cám dỗ nhờ niềm tin vào Thiên Chúa Cha. Ngài luôn cầu nguyện cùng Chúa Cha để thêm sức mạnh. Ngài cũng luôn chọn Chúa Cha làm lương thực cho Ngài hơn là những vật chất mau qua.
Nhiều người đã thất bại trước cám dỗ vì họ thiếu cầu nguyện và tin tưởng nơi Thiên Chúa. Họ phạm tội và sống trong tội bởi họ chọn danh lợi thú trần gian hơn là Thiên Chúa. Họ đâu nghĩ rằng cuộc đời này sẽ qua đi thiên đàng mới là vĩnh cửu. Có lẽ lời Chúa hôm nay nhắn gửi riêng cho những ai đang ở trong tội lỗi, hãy thực lòng ăn năn sám hối kẻo phải chịu đau khổ đời này và cả đời sau.
Xincho mỗi người chúng ta luônbiết tin vào lòng nhân từ thương xót của Chúa để sámhối và quay trở về với Chúa. Xin cho chúng ta cũng biết sinh hoa trái của lòng sám hối là những hy sinh, những việc lành chúng ta làm cho tha nhân. Amen
.
Lm Giuse Hoàng Kim Toan
Người Do Thái xưa thường gán ghép hậu quả và nguyên nhân với nhau, và ngày nay người ta vẫn thường nghĩ thế, để kết luận trong phạm vi nhân quả. Về sự dữ, tội của nó nên nó bị như thế, còn ai thoát nạ tự mình coi là công chính. Chúa lại bảo khác: “Nếu không sám hối thì tất cả đều phải chết như vậy” (Lc 13, 5). Vậy nghĩ sao về luật nhân quả?
Gieo gì gặt nấy.
Thông thường, luật nhân quả vẫn là một biện chứng thuyết phục. Vì lẽ tự nhiên, gieo gì gặt nấy. Theo góc độ tự nhiên này, chẳng có ai phán xét cả, gieo lành thì được phước, gieo ác thì gặt lầy hoạ đời sau. Cứ theo lẽ tự nhiên ấy, có khi gặt ngay tại đời này, như người ta vẫn thường kết luận cho kẻ ác bị hoạ giáng nhãn tiền; còn không thấy ở đời này, người ta cũng nghĩ, “gieo gió thì gặt bão” ở kiếp sau va tin tưởng “ông Trời có mắt” hoặc “lưới trời lồng lộng, chạy đâu cho thoát”.
Dù sao, luật nhân quả cũng nhắc cho người ta cần cố gắng gieo điều lành để gặt những điều tốt không ở đời này thì cũng gặt hái được đời sau. Chỉ có điều, nếu áp dụng cách máy móc để kết luận về người khác hay về mình. Tai nạn giáng xuống như hình phạt dành cho người có tội, và người thoát nạn tự xem mình là người công chính, điều phán đoán đó thật sai lầm.
Không gieo mà phải gặt.
Biết bao tai ương ở trong cuộc đời này gây ra đau khổ cho người công chính, không thể theo luật nhân quả được. Điều chỉ có thể lý giải được là tội người này gây tác hoạ liên quan đến nhiều người khác. Vì lợi ích một nhóm người mà nhiều người phải rơi vào cảnh bi đát, mất nhà mất môi trường an lành để sống. Hậu quả của người người dân vô tội, thấp cổ bé miệng phải chịu, bởi cường quyền, ai sẽ trả lại sự công bằng cho họ?
Điều đó, không thể viện dẫn “gieo gì gặt nấy”, cần có một Đấng thẩm phán công minh xét xử, chứ không thể trong đợi luật nhân quả xa vời. Trước mắt cứ thấy: “Thấy ác nhân thịnh đạt hoài. Quả là chúng không nếm mùi tân khổ, chúng có thân hình mạnh mẽ phương phi, không hề vất vả như ai khác, chẳng bị tai ương giống người đời.” (Tv 73, 6). Câu chuyện của ông Gióp là một thử thách với người công chính, luôn bị tai ương và bạn bè cũng quay lưng, người công chính dường như bị bỏ rơi.
Chỉ khi tới cái chết, chân lý mới thấy lộ diện: “Dù sống trong danh vọng, con người cũng không hiểu biết gì, thật nó chẳng khác chi con vật một ngày kia phải chết.” (Tv 49, 21).
Thiên Chúa nhân lành.
Điều sau cùng của người công chính nhận ra là sự nhân lành của Thiên Chúa: “Làm mưa trên kẻ dữ cũng như người lành” (Mt 5, 45) trong lời dạy “Hãy yêu kẻ thù” (Mt 5, 38 – 48). Người công chính được mời gọi vượt qua những thử thách để sống đời công chính của mình, thêm một bước tiến nữa trong đời sống nhân hậu, cầu nguyện, hy sinh, thực hiện bác ái với kẻ ghét mình và thù địch với mình.
“Hãy nên trọn lành” Lời mời gọi của Chúa đối với người lành và người dữ, vì sau cùng mọi người sẽ gặp Chúa để chịu sự phán xét. Ở cuộc đời này, mỗi người đều được thấy lòng nhân từ của Thiên Chúa cách này hay cách khác. Tiếng lương tâm, lời mách bảo của Chúa Thánh Thần luôn mời gọi để trở về với anh chị em, với Chúa trong thân tình. Cuộc sống luôn mở ra hạnh phúc và bình yên khi sống với nhau thật thà, tử tế, tha thứ và yêu thương. Một điều ai cũng nhận thấy, đó chính là lòng nhân từ của Chúa thể hiện.
Với mùa chay, tiếng Chúa luôn mời gọi trở về với Chúa, với anh chị em. Một đời sống yêu thương là một đời sống đáng sống và hưởng niềm vui hạnh phúc.
Xin cho niềm vui Phục Sinh triển nở trong tâm hồn mỗi người chúng con.
.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Ai người tinh sạch trong dân?
Chúng ta chung số, tội nhân giữa đời.
Ăn năn hối cải gọi mời,
Tránh xa cám dỗ, chơi bời hại thân.
Bao người bị chết vong thân,
Tháp cao đổ xuống, bao lần lầm than.
Số người tội lỗi tràn lan,
Thương đau chết thảm, thế gian tội tình.
Không ai tội lỗi sạch tinh,
Chỉ là số phận, chúng sinh phạm hèn.
Chúa rằng cuộc sống muối men,
Sinh hoa kết trái, đáng khen ở đời.
Dụ ngôn cây vả một thời,
Mong tìm trái vả, choáng nơi đất trồng.
Không hoa không qủa không bông.
Ba năm không trái, uổng công phí giờ
Hãy đi chặt cắt chẳng chờ,
Một năm vun tưới, đợi chờ xem sao.
Bón phân đào đất xới cào,
Mong cho sinh trái, dồi dào bội thu.
Mùa Chay là mùa sám hối và trở về. Trở về với Chúa là Cha nhân từ và đầy lòng thương xót. Truyện kể: Một cha sở thấy trong họ đạo có một người rất chăm đi nhà thờ, nhưng bỗng vắng mặt thời gian lâu. Cha tới thăm, gặp ông đang ngồi bên lò sưởi. Không nói năng chi, cha lẳng lặng gắp ra một cục than hồng để trên tảng đá. Hồi lâu, than nguội và tan dần. Người tín hữu cất tiếng phá vỡ bầu không khí nặng nề. Thưa cha, cha không phải nói lời nào hết. Ngày mai con sẽ đi lễ.
Mùa chay là cơ hội rất tốt để chúng ta tiến gần đến anh chị em và gần bên Chúa. Dụ ngôn cây vả trong vườn nho của bài phúc âm, đây là một hình ảnh rất thiết thực và cụ thể dễ hiểu. Ai gieo hạt cũng mong hạt nẩy mầm và sinh hoa kết trái. Làm bất cứ việc gì, chúng ta cũng mong có kết qủa tốt. Thiên Chúa yêu thương chúng ta, Ngài ban cho chúng ta biết bao hạt giống tốt để chúng ta sinh lời. Chúa ban cho chúng ta những ân huệ khác nhau tùy theo khả năng: Người mười nén bạc, kẻ năm nén và người hai nén. Chúa mong mỏi những nén bạc ân sủng đó được phát triển và nẩy sinh hoa trái.
Đôi khi chúng ta quên đi những ân sủng đã lãnh nhận. Chúng ta nghĩ rằng đó là của riêng chúng ta. Chúng ta sở hữu ân sủng theo ý thích của chúng ta. Cây vả trong vườn nho đã ba năm mà chưa sinh trái là thời gian chờ đợi hơi lâu. Theo các nhà nghiên cứu thực vật, cây vả là loại cây dễ trồng và có thể mọc lên bất cứ nơi nào. Cây vả trong bài Phúc âm là cây vả đặc biệt, được người ta vun trồng và chăm sóc cẩn thận nhưng không sinh hoa quả. Vìi thế, chủ vườn muốn cắt chặt, kẻo để nó choáng chỗ.
Hình ảnh cây vả là hình ảnh của dân Do Thái và cũng là hình ảnh của chúng ta. Chúng ta được mời gọi làm con Chúa, được nuôi dưỡng bởi Lời Chúa và hưởng nhờ các Bí Tích ân sủng. Chúng ta tự hỏi mình đã sinh ích gì cho bản thân, gia đình, xã hội và Giáo hội? Chúa ban ân sủng không phải để chúng ta hoang phí mà là để sinh ích chung. Chúa dậy: Nếu các ngươi không ăn năn hối cải thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị hủy diệt.
Mỗi người hãy tìm ra hướng trở về với Chúa, chúng ta hãy tìm biết mình đang ở đâu. Dầu có đi lạc bao xa, chúng ta vẫn có thể trở về sống đạo và nẩy sinh các hoa quả nhân đức. Chúng ta hãy tìm Chúa nơi chúng ta đã mất Chúa. Chúng ta đi vào sâu thẳm trong tâm hồn của chúng ta, chứ không phải nơi đâu khác. Đừng tìm đổ lỗi cho người khác hoặc tìm mình bên ngoài.
Mùa chay là cơ hội thuận tiện để chúng ta sống đạo và hành đạo thực sự. Như cây vả cần sự vun xới, chăm bón và thuốc thang để sinh hoa trái. Chúng ta hãy dùng thời gian mùa chay thánh này giúp sưởi ấm tâm hồn, qua việc sám hối ăn năn để tâm hồn của chúng ta nở hoa kết trái trên đường nhân đức.
.
Anna Cỏ May
Trên các phương tiện truyền thông và các trang mạng, người ta không ngừng đăng lên các bài viết về những tội phạm nguy hại đến tính mạng con người, thiệt hại đến tài sản… Những người này đang được mời gọi ra đầu thú để hưởng khoan hồng, được giảm án, để có cơ hội trở về với gia đình.
Hôm nay Đức Giêsu cũng mời gọi hết mọi người hãy sám hối, kể cả người mắc tội nhẹ. Ngài nói: “Các ông tưởng mấy người Galilê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Galilê khác sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu, nhưng nếu các ông không sám hối thì các ông sẽ chết hết y như vậy” (Lc 13, 2-3). Sau đó, Ngài cũng dùng dụ ngôn cây vả để truyền cho chúng ta biết rằng: Con người sống phải ra hoa kết trái bằng chính đời sống của mình, phải có sự trở về. Người chủ đến thăm vườn, thấy cây vả không kết trái, ông nói: “Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt đi, để làm gì cho hại đất?” (Lc 13,7). Lời của ông có vẻ lạnh lung, không gắn bó với những thành quả công sức mình và mọi người thợ đã bỏ ra để vun trồng, chăm sóc. Nhưng khi xét lại theo chuyên ngành thì lời ông nói cũng có lý vì để lại một cây không có trái thì chỉ hại đất, tốn phân, tốn công. Người thợ đã can thiệp, nài nỉ: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi” (Lc 13, 8-9). Và ông chủ vườn đã để cây vả lại, điều này chứng tỏ lòng thương xót và kiên nhẫn của Thiên Chúa được biểu lộ nơi hình ảnh ông chủ vườn. Ông vẫn chờ đợi để cây vả ra trái.
Với phép ẩn dụ, Đức Giêsu là người thợ, cây vả là chúng ta. Đức Giêsu luôn chờ đợi sự trở lại của những tâm hồn khiếm khuyết, tâm hồn đang thất vọng, khô khan và những tâm hồn đang mang ách nặng nề của thế gian. Bởi vậy, Ngài không ngừng cuốc xới, nhổ cỏ và bón phân cho ta qua Lời Chúa, lời giảng dạy và nhất là chính con người của Ngài nơi bí tích Thánh Thể. Cây muốn ra trái, trước hết phải được chăm sóc, vun xới, làm sạch cỏ dại, cây cỏ dại bên cạnh cây vả đang chiếm đất, hay cỏ dại đang leo lên thân cây. Tuy cỏ dại nhỏ bé nhưng là tác hại gây cho sức sống của cây, khiến cây không thể ra hoa kết trái. Có những cây ở trong tình trạng an toàn, lá xanh mơn mởn nhưng vẫn không sinh trái nên phải chặt nó đi. Thế nên, việc sám hối không dừng lại ở sự trở về hay chỉ sửa chữa những tội lỗi của mình, nhưng là tô điểm cho mình bằng những hành động yêu thương, chia sẻ với mọi người xung quanh. Đó là những hành động bắt đầu lại cuộc sống mới, cuộc sống yêu thương. Chúa không đến để nhìn một cái cây được quét trơn bóng bởi những vẻ đẹp thế gian, Ngài đến để tìm hoa quả chính là lối sống tốt đẹp với Thiên Chúa và tha nhân.
Mùa chay, mùa hối thúc chúng ta khiêm nhường thú nhận tội lỗi đã phạm mà ăn năn trở về với Chúa. Trở về để hưởng sự tha thứ. Con tim trở về là con tim đã nhổ bỏ những cỏ dại để được chăm sóc và sinh hoa kết trái.
Lạy Chúa, Chúa hằng kiên nhẫn chờ đợi chúng con trở về. Xin cho chúng con đang trên đường tội lỗi biết dừng lại cảm nghiệm tình yêu Chúa, nghe được tiếng thổn thức của Chúa gọi mà trở về nơi suối nguồn yêu thương của Chúa. Amen.
.
Bông hồng nhỏ
Đứng trước cái chết của người khác, có người đau buồn, hối tiếc nhưng có kẻ lại hả hê. Hôm nay, Thầy Giêsu nói về cái chết của những người bị tổng trấn Philatô giết và cái chết của những người bị tai nạn lao động. Những người còn sống đã tưởng rằng họ ít tội lỗi hơn kẻ đã chết nhưng Thầy Giêsu cảnh tỉnh họ: “Nếu các ông không chịu sám hối thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy” (Lc 13,5).
Mùa chay, Giáo hội không ngừng mời gọi con cái mình sám hối. Sám hối là gì? Đó là cảm thấy đau buồn, chán ghét tội đã phạm và quyết chí chừa cải (x.Từ điển công giáo. NXB Tôn giáo).
Để sám hối, ta phải xin ơn nhận biết mình có tội đồng thời nhận ra tình yêu của Thiên Chúa dành cho ta, để nhờ ơn Chúa, ta quyết sống đẹp lòng Thiên Chúa hơn. Ta đang được sống trong sự bình an, đó là cơ hội để ta ra sức sống tâm tình ăn năn sám hối, tin tưởng tín thác vào tình thương của Chúa. Cái chết đến bất ngờ, nếu ta không sẵn sàng thì sẽ “chết tươi ăn năn chẳng kịp”. Đứng trước cái chết của người khác, ta hãy học cách sống cho xứng đáng với tình thương của Chúa.
Thiên Chúa cho ta được làm người, được làm con Chúa để ta sống hạnh phúc với Ngài. Thiên Chúa không muốn cho ta sống cằn cỗi, èo uột nhưng muốn cho cây đời ta sinh hoa trái. Cây vả được trồng giữa vườn nho, nó lại chẳng sinh hoa trái gì. Ông chủ mong chờ suốt ba năm nhưng ba năm trời ông ra hái vả mà không có lấy một quả. Ông nói với người làm vườn là chặt nó đi, để làm gì cho hại đất (x.Lc 13,6-7). Trước quyết định của ông chủ, nếu là cây vả chắc chắn ta đã rất sợ hãi. Những lần ông chủ buồn bã, hụt hẫng vì chờ đợi vả sinh trái, ta có cảm thấy gì không? Ta trách cây vả vô dụng ư? Cây vả không làm hại vườn nho, nó có khả năng cho trái thơm ngon vì nó là giống tốt nhưng dù được hưởng đất đai màu mỡ nó vẫn không ra trái. Có nhiều khi ta cũng bỏ qua nhiều cơ hội để sinh hoa trái của tình bác ái. Đó là khi ta từ chối giúp đỡ một người anh em vì ta thấy mình quá bận rộn, ta từ chối đón tiếp người nghèo khó vì ta nghĩ mình cũng nghèo chẳng thể đèo bồng thêm ai; Hay khi ta vô cảm với nỗi đau khổ của người khác… Là con của Chúa, ta phải sống lệnh truyền của Chúa là hãy yêu thương nhau. Chúa Giêsu là người làm vườn đầy kiên nhẫn, Ngài đã xin với Chúa Cha cho ta thêm cơ hội để ta có thể sinh trái. Đừng để vụt mất cơ hội để sinh hoa trái thơm trái tốt, hãy đón nhận sự chăm sóc ân cần của Chúa Giêsu trong từng ngày sống.
Lạy Chúa Giêsu! Chúa đã trồng con trên mảnh đất màu mỡ là Giáo hội. Xin giúp con mở lòng đón nhận sự chăm sóc của Chúa và Giáo hội, để con không ngừng làm việc lành phúc đức dâng tiến Chúa và chia sẻ với tha nhân tình thương của Chúa. Lạy Chúa! Chúa đã chết để dạy con sống yêu thương. Xin cho cây đời con có nhiều trái ngon. Amen.
.
Lm Ignatio Trần Ngà
Dụ ngôn cây vả được trồng trong vườn nho, được chăm sóc chu đáo mà không mang lại hoa trái, khiến người chủ vườn thất vọng và muốn chặt bỏ đi, vẫn được tái diễn hằng ngày, như trường hợp điển hình sau đây:
Một sinh viên được cha mẹ cho đi học ở thành phố. Cha mẹ ở miền quê một nắng hai sương, cực nhọc đêm ngày, cắm đầu cắm cổ làm việc hùng hục như trâu, cần cù như kiến, nhịn ăn nhịn tiêu để đầu tư tất cả cho con học hành với hy vọng con trai mình có ngày đổ đạt kỹ sư, có công ăn việc làm, có đồng lương cao để báo đáp công ơn cha mẹ.
Nào ngờ, đứa con không dùng tiền cha mẹ đầu tư cho mình để học hành cho thành đạt, lại đổ tiền vào việc ăn chơi đàng điếm, rồi dần hồi trở thành người nghiện ma tuý, nhiễm HIV, và trở nên một tên côn đồ.
Bao nhiêu đồng tiền xương máu cha mẹ dồn cho anh ta như muối bỏ biển. Đã mất tiền, lại mất con, cha mẹ vô cùng thất vọng và đau khổ vì con.
Đây cũng là một thứ cây vả không sinh trái khiến người chủ vườn thất vọng nên muốn chặt bỏ đi.
Như người cha người mẹ tốt lành, Thiên Chúa cũng đầu tư cho chúng ta rất nhiều, chăm sóc chúng ta rất chu đáo. Ngài đem trồng chúng ta vào vườn nho Hội Thánh của Ngài. Ngài đã dùng lời Ngài để uốn nắn chúng ta, dùng lời dạy của Hội Thánh để hướng dẫn chúng ta, dùng máu Ngài đổ ra trên thập giá để cứu chuộc chúng ta khỏi chết, dùng Mình Thánh Ngài để thông ban sự sống đời đời cho chúng ta. Nói tóm lại, chẳng có gì Ngài có thể làm mà lại không làm để nâng đỡ cứu vớt chúng ta, để giúp chúng ta nên người hoàn thiện. Thế nhưng thay vì sử dụng ân huệ của Ngài để cải thiện đời sống và nâng cao phẩm chất cho xứng với tầm vóc người con cái Chúa, chúng ta đã sử dụng ân huệ dồi dào Chúa ban để làm điều bất xứng, làm suy giảm nhân cách, làm ô danh Chúa, làm đau lòng cho Ngài.
Nếu chúng ta cứ tiếp tục hành động như thế mà không sửa mình, thì như lời Chúa Giê-su cảnh báo hôm nay, số phận của chúng ta sẽ y như số phận của cây vả đã được chăm bón đầy đủ nhưng không sinh trái, là bị chặt bỏ đi, bị huỷ diệt đời đời trong đau khổ như các nạn nhân được đề cập trong Tin Mừng hôm nay.
Vậy muốn sống còn và được hưởng phúc đời đời với Chúa, chúng ta phải dùng thời giờ và ân huệ Chúa ban để ăn năn sám hối.
Tội lỗi là khối u ác tính; sám hối là cắt bỏ khối u để cứu toàn thân, vì nếu không, thì toàn thân phải chết: “nếu các ngươi không ăn năn hối cải, các ngươi sẽ bị huỷ diệt”
Phạm tội là đi trệch đường Chúa như tàu đi trật đường rầy; sám hối là quay về chính lộ để khỏi sa vào chỗ chết: “nếu các ngươi không ăn năn hối cải, các ngươi sẽ bị huỷ diệt”.
Con người vướng mắc tội lỗi cũng y như ngôi nhà bị bén lửa, lửa sẽ lan nhanh và thiêu rụi ngôi nhà; sám hối là dập tắt ngọn lửa kịp thời để cứu toàn bộ ngôi nhà khỏi cháy. “Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, các ngươi sẽ bị huỷ diệt”.
Lạy Chúa Giê-su, Chúa như người làm vườn nhân hậu đã nài xin Chúa Cha hoãn lại cho chúng con thêm một thời gian nữa để chăm sóc cho chúng con, hầu mong chúng con sinh hoa trái tốt;
Xin đừng để chúng con làm cho Chúa thất vọng vì không sinh trái mà lại sinh toàn gai góc.
Xin cho chúng con biết tận dụng thời giờ còn lại để lập thêm công đức, để sinh nhiều hoa trái tốt, hoa trái vật chất cũng như hoa trái thiêng liêng, nhờ đó cuộc đời chúng con thêm tươi đẹp và chúng con sẽ làm vinh danh Chúa bằng đời sống cao đẹp của mình.
.
Lm. Vũ Đình Tường
Câu nói có tiền mua gì cũng có rất đúng cho chủ thuyết duy vật chất, như nhà cửa quần áo, đồ dùng. Chủ nghĩa trọng tinh thần cho thấy người dù có nhiều tiền cũng không mua được trí thông minh, tính khiêm nhường hay lòng bác ái như thế sức mạnh đồng tiền, dù có quĩ tiền tệ quốc tế bảo chứng, cũng có giới hạn riêng của nó. Về phương diện tâm linh, nhất là khi phải đối diện giữa sống và chết thì tiền hầu như trở thành bất lực. Đồng í có người may mắn nhờ nhiều tiền cơ hội chữa lành bệnh cao hơn. Điều này không có nghĩa người giầu, kẻ uy quyền sẽ không bao giờ chết. Ngày nào đó họ cũng phải ra đi. Khi sống tiền của, chức tuớc họ có là kẻ đồng hành như bóng với hình nhưng khi chết họ ra đi trong cô đơn, độc hành vì tiền bạc họ có lìa xa họ. Trái lại kẻ tin vào Đức Kitô suốt đời họ luôn cùng đồng hành với Ngài và cùng đồng hành trên đường về thiên quốc.
Ai cũng biết của cải vật chất cần cho sự sống và làm cho cuộc sống thoải mái hơn. Của cải vật chất ít nhiều cũng đóng vai trò giúp ta nhận biết tình yêu Thiên Chúa nhưng của cải vật chất tự nó không có khả năng dẫn ta đến với Đức Kitô. Thực ra của cải vật chất một mặt mang lại cơm no, áo ấm mặt khác lại tạo nên sức ép, đè nén, mà không ai có thể chối bỏ được thực tế dồn ép này của cuộc sống. Sức dồn ép được coi là gánh nặng cuộc đời của mỗi người. Khi sức ép trở thành gánh nặng quá mức chịu đựng, tinh thần người đó bị suy sụp, trở thành nạn nhân của gánh nặng cuộc đời. Để gánh nặng trở nên nhẹ nhàng hơn Đức Kitô vạch ra cho những ai tin vào Ngài một con đường, giúp người đó học cách trút bỏ gánh nặng cuộc đời.
Cách học trút bỏ gánh nặng cuộc đời chính là rộng mở tâm hồn đón nhận ơn Chúa và thực hành giáo luật yêu thương. Đặt niềm tin vào Đức kitô là chọn đúng con đường dẫn đến hạnh phúc thật và sự sống trường sinh vì chính Ngài xác nhận Ngài là đường là sự thật và là sự sống. Chọn theo Đức Kitô là chọn đúng đường dẫn đến hạnh phúc thật. Chọn dẫn đến sự thật mà sự thật có sức mạnh giải thoát con người khỏi gánh nặng cuộc đời. Chọn sự sống Đức Kitô ban chính là sự sống vĩnh cửu chỉ mình Đức Kitô có và ban cho những ai mong mỏi kiếm tìm sự sống đó.
Đôi khi chúng ta thất bại trong việc tin theo Đức Kitô. Trong trường hợp đó Ngài không bỏ rơi chúng ta nhưng ban cho chúng ta một giải pháp khác giúp ta trở về với Ngài. Giải pháp đó được coi như là cách mua thời gian. Làm sao để mua được thời gian đó. Thưa câu giải đáp tìm thấy trong cuộc đối thoại giữa chủ nhân và người làm vườn trong bài đọc hôm nay.
Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. vậy anh chặt nó đi để làm gì cho hại đất? Nhưng người làm vườn đáp. Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa, tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu khôn thì ông sẽ chặt nó đi Lc 13,7-9
Xin cho thêm một thời gian nữa, một cơ hội nữa là điều người làm vườn xin lòng từ bi, hỉ xả, bác ái từ ông chủ. Xin cho một cơ hội để thay đổi, hoán cải, từ bỏ lối cũ quay về lối mới. Lòng thương xót của ông chủ phát sinh từ tình yêu bao la và chính tình yêu bao la khiến ông chủ ban thêm một cơ hội. Chỉ một cơ hội thôi sao? Thưa không, hàng năm Giáo Hội luôn tạo thêm một cơ hội, tuỳ theo mùa phụng vụ và mỗi mùa phụng vụ lại tạo thêm một cơ hội giúp con người hồi tâm quay về với Thiên Chúa. Tình yêu Chúa thể hiện qua Giáo Hội trong việc kiên trì chờ đón con người thống hối trở về, không phải một năm mà hàng năm. hết năm này sang năm khác, Giáo Hội luôn mở rộng vòng tay đón nhận ta quay về cùng tình yêu Chúa để gánh nặng cuộc đời giảm nhẹ, hưởng hạnh phúc thật và sự sống thật.
.
Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
Nếu hôm nay có người đến nói với bạn: “Anh chỉ còn đúng một năm nữa để sống thôi”, bạn sẽ làm gì trong năm cuối cùng đó của cuộc đời? Bạn sẽ tự nhủ: “Ồ, ta cứ sống đi đã. Lúc nào chết tính sau”, hay bạn sẽ tính toán: “Dẫu sao thì cũng còn 365 ngày nữa. Tới ngày thứ 300, ta bắt đầu chuẩn bị cũng còn kịp chán.”
Nếu đó là thái độ sống của bạn thì e rằng bạn đang sa lưới của Satan rồi. Một tinh thần lề mề và một thái độ trì hoãn sẽ mang lại biết bao tai hoạ. Để đến ngày mai những gì nên làm hôm nay là tự đánh mất tương lai của chính mình. Không có cám dỗ nào nguy hiểm cho bằng tư tưởng: “đời còn dài, ngày mai còn kịp”.
Một dụ ngôn kể lại việc ba quỷ con đến chào tướng quỷ là Satan trước khi lên trần gian tập sự. Chúng trình bày cho Satan những mưu đồ của mình trong việc phá huỷ hạnh phúc con người.
Quỷ con thứ nhất đến trình rằng: “Em sẽ bảo với người ta là không có Thiên Chúa đâu. Thế nên đừng lo phải đi nhà thờ nhà thánh gì cả.” Satan trả lời: “Như thế thì chẳng lừa được mấy người đâu, vì họ dư biết là có một Thượng đế, Đấng Tối cao trên muôn loài muôn vật.”
Quỷ con thứ hai vội tiến lên trình bày sách lược của mình: “Em sẽ rỉ tai người ta là không có hoả ngục đâu. Thiên Chúa là Đấng yêu thương nên làm gì có chuyện Ngài dựng nên hoả ngục để hành hạ con người.” Nghe thế Satan trầm tư một chút rồi nói: “Nhưng cách này cũng chỉ lừa được một ít người thôi, vì người ta cũng dư biết Thiên Chúa là Đấng Công minh. Ngài sẽ thưởng phạt theo công phúc của họ. Thế nên mấy ai lại không hiểu là phải có hoả ngục để làm nơi chứa tội.”
Quỷ con thứ ba lại gần và tâu với thủ lãnh: “Em sẽ nói với loài người rằng không có gì phải vội vã cả, còn lâu Chúa mới trở lại.” Satan suy nghĩ, đoạn gật gù và nói: “Hay lắm, bằng cách đó ngươi sẽ tiêu diệt được hàng vạn linh hồn.”
Thế ra, không có sự lừa dối nào tai hại cho người ta bằng ý tưởng “thời gian còn nhiều”, để rồi cứ mãi đắm chìm trong đam mê tội lỗi, rối vợ rối chồng, hững hờ niềm tin, tôn thờ vật chất, sa lầy hưởng thụ. Và cuối cùng, như cây vả không sinh trái, bị chặt xuống và quăng vào lửa đời đời.
Thánh Anphongsô từng viết: “Ai cũng biết rằng mình sẽ chết, nhưng khốn thay! Nhiều người nghĩ rằng sự chết còn rất xa. Họ cho rằng những người già cả, ốm yếu mà còn sống được ba bốn năm nữa, huống chi là mình. Nhưng con hãy biết, đã có biết bao nhiêu người chết một cách bất ưng, khi họ đang ngồi, đang đi, đang ngủ… Có ai trong họ nghĩ rằng mình sẽ chết” (xem sách Chân Lý Đời Đời của Thánh Anphongsô).
Vị tông đồ dân ngoại từng nhắc nhở các cộng đoàn tiên khởi: “Khi người ta nói: Bình an và chắc chắn! Thì bấy giờ là lúc tiêu diệt thình lình ập xuống trên họ” (1 Tx 5:3). Thế nên hãy biết tỉnh thức, sám hối, và canh tân. Chính Chúa Giêsu cũng đã phán: “Nếu các ngươi không ăn năn sám hối, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt” (Lc 13:3).
Sám hối không chỉ là công việc dừng chân trên con đường tội lỗi, nhưng còn là một ý thức về thời điểm hồng ân: “đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ”. Sám hối là nhận rõ thời điểm của yêu thương tràn đầy. Tình thương dạt dào đến nỗi Thiên Chúa còn tạo thêm cơ hội và kiên nhẫn đợi chờ: “Xin để cho nó một năm nay nữa, tôi sẽ đào đất chung quanh và bón phân, may ra nó có quả chăng” (Lc 13-8-9a).
Có cảm nhận được tình Chúa yêu thương và nỗi mong chờ tha thiết của Ngài, con người sẽ có một cuộc sám hối đích thực. Sám hối là trở về trong yêu thương của Thiên Chúa, một tình yêu tự hiến và vị tha. Cảm nhận được tình yêu như thế sẽ làm phát sinh hoa trái là bao việc lành phúc đức.
“Dụ Ngôn Cây Vả” không những lên án thứ cây “ăn hại và làm choáng đất”, nhưng còn nói rõ yếu tố kết thành bản án. Đó là thứ cây “không sinh trái”. Thế nên sám hối không chỉ là việc thôi không phạm tội nữa, song còn là việc tô điểm tâm hồn bằng những hoa trái thiêng liêng. Thiên Chúa không đến để nhìn một cây vả trơn tru, không gai góc, nhưng Ngài đến là để tìm hoa quả nơi cành của nó.
“Xin để một năm nay nữa. Bằng không năm tới ông sẽ chặt nó đi”. Thiên Chúa luôn cho tôi cơ hội làm lại cuộc đời. Ngài luôn mở lòng yêu thương mời gọi những ai sa ngã chỗi dậy. Thế nhưng cơ hội thì có hạn. Sẽ đến ngày chỉ còn một cơ hội cuối cùng. Nếu đời tôi còn một năm, hay một tháng, hoặc một ngày nữa thôi thì sao. Thật bất hạnh vô cùng khi tôi đánh mất cơ hội cuối cùng đó.
Vì không biết đâu là cơ hội cuối, nên tôi phải xem ngày hôm nay như là “lúc thuận tiện” để nhận ơn cứu độ đời mình. Nếu ngày mai Chúa còn cho sống, thì ngày mai vẫn là một cơ hội không nên đánh mất.
Thông thường, mỗi tối trước khi lên giường nghỉ đêm, chúng tôi hay đọc Kinh “Cầu Ơn Chết Lành”, xin được ghi lại dưới đây như một chia sẻ chân thành:
“Lạy Chúa con, con biết thật con sẽ chết. Có khi con chỉ còn sống được ít phút nữa mà thôi. Có khi đêm nay con vào giường nghỉ mà sáng mai chẳng còn chỗi dậy nữa. Cho nên Chúa dặn bảo con: dọn mình vào giường ngủ như là vào mồ chết vậy.
Lạy Chúa con, con biết thật đến giờ lâm chung, con sẽ ước ao chớ gì khi sống, con chẳng có phạm tội, lại hết lòng kính mến Chúa luôn. Lại vì Chúa thì con thương yêu người ta như mình con vậy. Con ước ao sống và chết trong sự kính sợ Chúa.
Ôi Chúa con, con xin phó dâng linh hồn con cho Chúa, vì Chúa đã mua nó giá rất cao. Xin chớ để nó ra vô phước mà chẳng nhờ đặng Máu Thánh Chúa đã đổ ra mà cứu chuộc nó.
Lạy Mẹ Hằng Cứu Giúp. Lạy Thánh Thiên thần hộ thủ. Lạy Thánh Bổn mạng con. Lạy các Thánh Nam Nữ trên Nước Thiên đàng. Xin hãy chuyển cầu cho con được sống trong sự kính sợ Chúa, chết trong sự yêu mến Chúa, và làm tôi Chúa ở đời này, hầu ngày sau được hưởng cùng Chúa và Đức Mẹ trên Thiên đàng. Amen.
Giêsu, Maria, Giuse. Con xin dâng lòng con, trí khôn con, và sự sống con trong tay ba Đấng.
Giêsu, Maria, Giuse. Xin cho con được chết bằng an trong tay ba Đấng.”
Thiết tưởng, nếu mỗi tối, khi màn đêm buông xuống, trong không gian tĩnh mịch, với tâm tình cầu nguyện chân thành như trên, đời ta sẽ không thể không sinh hoa trái yêu thương. Và đương nhiên, hoa trái đó sẽ tồn tại cho đến muôn đời.
.
Thu Băng
Các ông tưởng mấy người Galilê bị giết, khiến máu đổ hòa lẫn với tế vật đang dâng vì tội lỗi họ ư ? Không phải thế. Nếu các ông không sám hối thì cũng xẩy ra như thế. Cũng như 18 người bị tháp Siloác đổ xuống đè chết là đáng tội ư ? Không phải thế, nếu các ông không sám hối thì cũng chết như vậy (Lc.13:01-09).
Một nhà thiên văn mới sáng chế ra một chiếc kính viễn vọng. ông để trên sàn gác để đêm đêm nhìn ngắm tinh tú trên bầu trời. Một đêm kia ông khám phá ra một con rồng xanh trên mặt trăng. Ông báo cho bạn bè biết, thế là người ta ùn ùn kéo đến thưởng lãm và tán thưởng. Thế nhưng có một ông bác học già tuổi đến xem qua rồi ông lắc đầu. Ông xem rất kỹ, cuối cùng ông khám phá ra sợi chỉ xanh mắc vào ống kính. Ông nói với bạn :
– Hãy quan sát lại bộ kính của anh xem có gì trục trặc không.
Ống viễn vọng kính là hình ảnh cái nhìn của chúng ta. Chỉ vướng mắc một vật nhỏ vào là làm cho mắt chúng ta nhìn cảnh vật ra khác. Con mắt thiển cận nhìn cảnh vật ra đen tối, mờ ảo, con mắt sáng quác nhìn cảnh vật ra vĩ đại, quan trọng. Vì thế Chúa nhắc khéo: “Muốn nhìn cái đà trong con mắt anh em thì hãy lấy cái rác ra khỏi mắt mình trước đã”. Đừng “suy bụng ta ra bụng người”, nhìn mặt trăng và sợi chỉ hóa ra con rồng xanh, lấy lòng mình mà nhìn lòng người khác dễ bị lệch lạc lắm.
Quan niệm của Chúa thì khác, Ngài xác định họ không phải là kẻ tội lỗi, Ngài dùng những biến cố khác nhau như tiếng chuông mà cảnh tỉnh cho chính bản thân mỗi người. Thay vì kết án người khác, chúng ta phải kết án chính bản thân mình, để rồi từ đó ăn năn sám hối mà quay trở về cùng Chúa. “Nếu các ngươi không ăn năn thìcũng sẽ bị chết thê thảm như thế”. Hãy biết đấm ngực mình mà ăn năn : “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”.
Có như thế, những biến cố xẩy đến trong đời mới đem lại lợi ích cho chúng ta, mới cảnh tỉnh mình khỏi tình trạng tội lỗi. Chính những biến cố ấy là lời Chúa mời gọi chúng ta trở nên trọn lành thánh thiện.
Lạy Chúa, cây vả không sinh hoa trái sẽ bị chặt đi, xin cho mỗi người chúng con biết nhìn kỹ, nghĩ kỹ, đến việc nở sinh hoa trái dồi dào, để không bị Chúa loại trừ.
.
Lm. GioanNguyễn Thiên Khải
Thưa anh chị em,
Suốt dòng lịch sử cứu độ, lời kêu gọi sám hối không ngừng vang lên dưới mọi hình thức. Ngay từ thời Cựu ước, Thiên Chúa dùng miệng các ngôn sứ kêu gọi dân Do thái ăn năn sám hối trở về trung thành với lời Giao ước của Thiên Chúa. Đến thời Tân ước, khi bắt đầu công khai rao giảng Tin mừng, lời đầu tiên mà Đức Giêsu công bố đó là: “Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin mừng” (Mc. 1,15).
Ngày nay, trong Phụng vụ của Hội thánh, chúng ta thấy trước khi lãnh nhận các Bí tích, thì đều có nghi thức sám hối. Vậy để các tín hữu đón mừng đại lễ Phục sinh một cách hữu hiệu hơn, thì hằng năm Giáo hội thiết lập Mùa chay với 40 ngày, và dùng Lời Chúa để nhắc nhở các tín hữu sống tâm tình sám hối trở về, mà bài Tin Mừng hôm nay là một chứng từ cụ thể.
Đức Giêsu nhắc lại cho dân chúng hai biến cố xảy ra: biến cố thứ nhất, những người bị tháp Silôe sập xuống đè chết. Biến cố thứ hai, những người dân vô tội bị Philatô sát hại. Đối với Đức Giêsu, những gì xảy ra chung quanh chúng ta đều là những điểm báo mời gọi con người ăn năn sám hối và sửa mình để sống tốt hơn. “Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị hủy diệt như vậy” (Lc 13,5). Lời Chúa kêu gọi sám hối mang tính thời sự, và là một điều kiện cần thiết để lãnh nhận ân sủng.
Đức Giêsu dùng dụ ngôn cây vả trong Tin mừng, để minh họa cho chúng ta thấy rằng: lòng nhân từ và sự kiên nhẫn Thiên Chúa chờ đợi chúng ta trổ sinh hoa trái tốt lành. Hình ảnh cây vả đã ba năm không sinh trái, diễn tả sự lười biếng của con người. Kìa, ba năm nay, Ta đến tìm quả cây vả này mà không thấy trái”. Và Đức Giêsu đóng vai như người làm vườn đầy lòng kiên nhẫn, với bao nỗi mong chờ trong tương lai, Ngài nói: “Tôi sẽ vun xới, bón phân, may ra sang năm nó có trái”.
Thật vậy, Thiên Chúa không ngừng vun xới, chăm bón chúng ta bằng ân sủng và tình thương tràn phủ của Ngài, như trồng cây nho quý. Thiên Chúa kỳ vọng nơi chúng ta sinh nhiều hoa trái là những nhân đức, những việc tốt lành, nhưng trong thực tế, mỗi người chúng ta hồi tâm xét mình lại trong đời sống đức tin, thời gian có qua đi, ân sủng và tình thương Chúa luôn ấp ủ, thế nhưng chúng ta có nỗ lực cộng tác với ơn Chúa, làm cho những nén bạc Chúa trao sinh hoa kết trái như lòng Chúa mong ước không?.
Cây vả trong dụ ngôn nó rất sum xuê, không làm hại cây khác, nhưng nó làm hại đất, hút đất màu mỡ mà không sinh hoa kết trái. Tương tự như thế, nhiều người trong chúng ta đôi khi cảm thấy an toàn như cây vả. Tự hào vì mình không làm điều xấu, chẳng làm hại ai bao giờ. Tôi là người thường đọc kinh dự lễ không bỏ sót ngày nào, điều đó tốt lắm!.
Thế nhưng, chúng ta đừng quên rằng: đạo Chúa không phải là việc tuân giữ các điều răn một cách tiêu cực: “Không giết người, không ngoại tình, không trộm cắp, không làm chứng gian, không làm hại ai…”, nhưng đạo Chúa là đạo yêu thương quan tâm chia sẻ, coi mọi người đều anh em với nhau con cùng một Cha trên trời.
Có thể chúng ta chưa bao giờ làm thiệt hại ai, nhưng chúng ta có dùng tiền của để cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho người mình trần thân trụi áo mặc chưa? Chúng ta có dùng khả năng Chúa ban mà phục vụ vào những công việc chung hay phục vụ tha nhân một cách nhưng không chưa?
Có lẽ, chúng ta hài lòng vì đã được làm con Chúa, tự mãn vì mình đã giữ các giới răn Chúa từ thuở nhỏ, không làm phiền lòng ai… điều đó tốt lắm. Nhưng Lời Chúa hôm nay còn mời gọi chúng ta đi xa hơn nữa, đó là sống đạo không phải là lo tránh tội mà còn là gieo trồng cái tốt, cái thiện nữa. Ngược lại, nếu chúng ta lười biếng, làm phí phạm ơn Chúa ban, không làm những việc lành phúc đức… thì đừng quên lời đe dọa cuối cùng: “Nếu không sinh hoa kết quả, ông chủ cứ chặt nó đi”.
Thế thì, tại sao chúng ta phải sám hối? Thưa, vì tất cả chúng ta ảnh hưởng tội nguyên tổ nên đều có tội. Vua Đavít đã cảm nghiệm được điều này nên đã thưa lên cùng Chúa:
“Lạy Chúa, Ngài thấy cho lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, Đã mang tội khi mẹ mới hoài thai”.
Nhưng:
“Xin cho con biết hãm mình đền tội, để hưởng cứu chuộc Chúa thương ban. Vì dẫu cho tội lỗi có ngập tràn, nguồn thánh sủng còn chứa chan gấp mấy”. Thế nhưng mà, qua miệng tiên tri Isaia Chúa nói: “Dù tội các ngươi có đỏ như son, có đỏ thẫm tựa vải điều, nhưng lòng thương xót tha thứ của Ta vẫn tẩy trắng như tuyết” (Is 1,18).
Như vậy, chúng ta có thể nói rằng: lý do thứ nhất con người sám hối vì mình đã có tội. Lý do thứ hai, là do ý muốn của Thiên Chúa. Thiên Chúa dùng miệng tiên tri Êdêkiel nói lên điều đó: “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn ăn sám hối và được sống”.
Anh chị em thân mến,
Mùa chay là mùa ân sủng. Là mùa trở về, Thiên Chúa cho chúng ta thêm cơ hội để đổi mới cuộc đời, làm những việc lành phúc đức. Biết đâu đây là Mùa chay cuối cùng của đời mình chăng?. Cho nên, mỗi người hãy biết lợi dụng thời gian Mùa chay thánh này, làm mới lại mối tương quan giữa ta với Chúa qua Bí tích Giải tội. Vì từ nơi Bí tích này, chúng ta cảm nhận được sự nhân từ, lòng thương xót kể cả sự kiên nhẫn của Thiên Chúa mong mỏi chúng ta trở về với Ngài.
Đồng thời, từ nơi Bí tích Giải tội, chúng ta không chỉ được ơn thanh tẩy tội lỗi, mà còn được Chúa ban ơn trợ giúp để trổ sinh hoa trái trong đời sống đức tin. Hãy quyết tâm trở về với Chúa một cách thật lòng và chân thành làm hòa với anh chị em trong mối tương tốt đẹp với nhau. Xin cho mỗi người chúng ta tin tưởng vào lòng nhân từ, thương xót của Thiên Chúa, cố gắng hoàn thiện bản thân là trổ sinh nhiều hoa trái yêu thương cho đời mình và cho những người chung quanh. Amen.
.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Tin mừng Chúa nhật hôm nay kể hai sự kiện:
– Sự kiện vụ án Philatô giết người vô tội, Chúa Giêsu không ủng hộ những người quá khích trong cuộc đấu tranh của họ chống lại Roma. Sứ điệp của Người luôn rõ ràng và rất tập trung: “Thời giờ đã hoàn tất, nước Thiên Chúa đã đến gần. Hãy ăn năm sám hối và tin vào Phúc Âm” (Mc 1,15). Chúa Giêsu cảnh tỉnh: “Nếu các ngươi không sám hối thì cũng bị chết như vậy” ( Lc 13,3.5).
– Sự kiện tháp Silôa đổ xuống đè chết mười tám người ở Giêrusalem. Cũng như trong trình thuật người mù bẩm sinh (Ga 9, 2–3), Chúa Giêsu giải thích rằng “không phải vì anh ta,không phải vì cha mẹ anh ta đã phạm tội, mà anh ta sinh ra đã bị mù loà”. Người khẳng định nơi đây rằng không ai trong bọn họ là nạn nhân của trừng phạt. Thiên Chúa không tìm trừng phạt mà là nâng dậy. Tuy nhiên, mỗi người chịu trách nhiệm về các quyết định của mình.
Người đời thường nghĩ rằng: những kẻ bị tật nguyền, những ai bị tai hoạ là bởi tội của họ hoặc do tiên nhân để lại. Họ đã đau khổ lại càng đau khổ hơn bởi quan niệm sai lầm này. Trong thực tế mọi người phải chấp nhận giới hạn của mình và hậu quả do mình gây nên hay vì sự liên đới nào đó do người khác mang lại.Chẳng hạn, hai tai nạn Chúa Giêsu đưa ra trong trong đoạn Tin mừng đều có nguyên nhân của nó. Philatô cần có tiền để xây dựng hệ thống dẫn nước đem lại lợi ích cho toàn dân. Vì thiếu tiền nên đã vào đền thờ quyên góp. Nhóm cực hữu cho hành động này là xúc phạm sự thánh nên trang bị khí giới để chống đối và bảo vệ đền thờ. Thấy thế Philatô ra lệnh giết chết họ trong đền thờ. Hành động của họ dù với mục đích tốt nhưng lại thiếu khôn ngoan nên họ đã bị thiệt mạng. Vụ án mạng tháp Silôa sập đè chết mười tám người vì lý do thiếu kỷ thuật trong việc xây cất.Vụ này cũng như vụ việc cầu Văn Thánh rạn nứt hay các công trình xây cất hiện nay bị xuống cấp mau chóng là do bớt xén vật liệu, làm dối làm ẩu. Những tai hoạ đều có nguyên nhân của nó, hoặc là do mình, hoặc là do người khác. Những người Do thái nghĩ là do có tội nên Chúa phạt họ, còn mình vô tội thì được bình yên. Điều này đưa đến sự an toàn giả tạo. Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh rằng mọi người đều là tội nhân nên cần phải sám hối ăn năn.
Nhân hai sự kiện thời sự, những người nổi loạn bị Tổng trấn Philatô giết và mười tám người bị tháp Silôa đè chết, Chúa Giêsu cảnh báo người đương thời phải sám hối. Điều lạ lùng là một đàng, Chúa dạy phải mau mau sám hối; đàng khác,Chúa lại kiên trì chờ đợi con người sám hối qua dụ ngôn “Người làm vườn và cây vả”. Lúc sống yên lành là lúc cần hoán cải. Cây vả trong dụ ngôn cũng ở trong tình trạng an toàn. Cây vả không cho trái độc, không làm hại cây khác, không phá cảnh quang. Nó chỉ có tội làm hại đất, sử dụng đất màu mỡ mà không cho trái. Nhiều người cũng cảm thấy an toàn như cây vả. Tự hào vì mình không làm điều xấu, chẳng làm hại ai. Thế nhưng họ lại quên rằng mình đã phạm tội không làm điều tốt, những điều tốt có thể làm được và phải làm. Nhiều người thường tự hỏi: tại sao người tốt cần phải hối cải? Tôi là người thường đọc kinh dự lễ rước lễ, không làm điều xấu hại ai, tại sao tôi phải ăn năn sám hối?
Sống đạo không phải chỉ lo tránh tội mà còn là gieo trồng cái tốt, cái thiện. Có câu chuyện kể của ông chủ tiệm đồ cổ. Vào một đêm đông, trời đã khuya, bão tuyết rơi lạnh lẽo, gió thổi mạnh rít từng cơn. Bỗng dưng có tiếng gõ cửa. Ông chủ cảm thấy khó chịu vì bị quấy rầy giữa đêm khuya. Khi cánh cửa vừa mở, một người thanh niên dáng bụi đời đang run rẫy với một bàn tay xoè ra van xin, một bàn tay đỡ cây gậy trên vai treo ít đồ đạc cá nhân. Thấy hoàn cảnh đáng thương, ông chủ đưa tay với lấy ít bánh mì, vài đồng bạc lẽ trao cho hành khách. Nhận được của bố thí, người thanh niên quay gót trở đi không nói lời cám ơn giã từ. Khi đó chợt một ý tưởng đến trong đầu ông chủ nhà là nên mời người đó vào nghĩ đỡ một đêm, nhà vẫn còn phòng khách trống, còn chăn nệm ấm êm. Tuy nhiên ông lại nghĩ nếu để cho người này ở lại thì căn nhà sạch sẽ của mình sẽ bị ẩm ướt, bị dơ bẩn. Thế rồi ông vội vàng đóng kín cửa. Hai ngày sau, có người thợ đem đến một cây gậy làm bằng gỗ quý. Khi đã thương lượng giá cả, người bán gậy cho biết, anh ta là người thợ chuyên đào mộ ở nghĩa trang. Anh vừa chôn một người thanh niên mới chết, người thanh niên này vô gia cư, không tiền bạc, không người thân. Tài sản anh ta chỉ là cây gậy, người thanh niên chết vì bị lạnh cóng, máu đông lại khi ngũ trên tuyết. Nghe đến đây ông chủ tiệm cảm thấy hối hận và xấu hổ. Ông hối hận không phải vì đã làm điều xấu mà vì điều tốt ông có thể làm cho người thanh niên nhưng ông đã không làm khiến cho anh phải chết rét. Ông chủ tiệm kết thúc câu chuyện với nổi thao thức: điều tôi ao ước là những sự dữ chúng ta làm có lẽ Thiên Chúa sẽ tha thứ. Nhưng những gì tốt chúng ta đã không làm sẽ mãi mãi không được tha thứ.
Đó cũng chính là điều Chúa Giêsu muốn nói qua dụ ngôn cây vả. Mục đích cây vả là sinh trái. Theo truyền thống, cây nho (vườn nho) tượng trưng cho dân tộc Israel (x.Tv 79,9; Osê 10,1; Gr 2,21). Cây vả được trồng trong vườn nho tượng trưng nơi đây cho các môn đệ Chúa Kitô. Người chủ vườn thất vọng không phải là cây vả sinh trái xấu, trái độc, trái chua mà là cây vả không sinh trái tốt. Cứ để thêm một năm chăm bón vun xới may ra cây vả sinh hoa trái. Chúa mời gọi thời gian sám hối hoán cải. Lời mời gọi sám hối không chỉ là lời mời gọi xa tránh sự dữ nhưng còn là lời mời gọi làm việc lành, sinh hoa trái tốt. Bởi đó, việc sám hối liên hệ ràng buộc mọi người. Ai cũng phải làm lành lánh dữ. Lánh dữ, không làm điều xấu chưa đủ, từ bỏ tội lỗi chưa đủ nhưng còn phải tích cực thực hành những điều tốt lành nữa.
Khuynh hướng tự nhiên của con người là muốn được yên thân, an phận, không muốn làm phiền ai và cũng không muốn ai gây phiền hà cho mình. Vì thế một người ngoan đạo có thể bị rơi vào tình trạng tự mãn, sống ích kỷ mà không hay biết.
Dụ ngôn cây vả cho ta thấy khuôn mặt Thiên Chúa. Chúa Cha là người chủ vườn kiên nhẫn: “Ðã ba năm nay…” Ngài đã nuôi bao hy vọng: “Tôi ra tìm trái mà không thấy”. Quyết định chặt cây chỉ đến sau những lần hụt hẫng. Ngài chỉ phạt khi đã làm đủ cách để lay động tim ta. Chúa Giêsu là người làm vườn kiên nhẫn không kém: “Xin ông cứ để nó lại năm nay nữa”. Ngài không ngừng ấp ủ chút hy vọng mong manh:”Tôi sẽ vun xới, bón phân, may ra sang năm nó có trái”. Nhưng đừng quên lời đe dọa cuối cùng: “Nếu không ông chủ cứ chặt nó đi”. Kiên nhẫn, hy vọng, chăm bón, nhưng cương quyết đòi hỏi, đó là thái độ của Thiên Chúa đối với tội nhân. Chúa Giêsu vừa thôi thúc chúng ta mau mau hoán cải, vừa chấp nhận cho chúng ta có thời gian trì hoãn.
Những lời đe doạ của Thiên Chúa trong Kinh Thánh là những lời kêu gọi thôi thúc ăn năn hối cải. Nhưng Thánh Luca thích nhấn mạnh hơn về lòng xót thương và nhấn mạnh lòng nhân từ của người thợ làm vườn nho, nài xin ông chủ vườn nho hãy nhẫn nại: “Xin ông chủ hãy để nó thêm năm nay nữa..”. Người thợ làm vườn nho đầy nhân từ trắc ẩn, đầy quan tâm sát sao và đầy tình yêu đối với cây nho của mình, đó chính thật là Chúa Giêsu mà chúng ta yêu mến.
Mùa chay là mùa ân sủng. Người chủ vườn nhẫn nại và quảng đại cho cây vả thêm một năm nữa để hy vọng nó có thể sinh hoa trái. Mỗi Mùa Chay, Thiên Chúa cho chúng ta thêm cơ hội để đổi mới con người, làm nhiều việc lành bác ái phúc đức. Mỗi người không biết mình sẽ ra đi về với Chúa khi nào. Mùa Chay là thời gian thuận tiện để mỗi người kiểm điểm về cây vả đời mình. Thêm một cơ hội, thêm một kỳ hạn nữa. Điều quan trọng là mỗi người đã làm gì với cơ hội và với kỳ hạn đó ?
“Sám hối” là từ thường gặp trong Thánh Kinh, nó được kêu gọi bởi Gioan Tẩy Giả, Chúa Giêsu, các tông đồ và hôm nay luôn được lặp lại nơi sứ điệp của Giáo Hội. Bởi sám hối là động thái tiên quyết để đón nhận ơn cứu độ. Còn sống là còn cơ hội để sám hối! Nếu không tận dụng tốt cơ hội Chúa ban thì Ngài sẽ cất đi như cây vả không chịu sinh trái.
Tiên tri Êdêkien ví những cây ăn trái mọc hai bên bờ dòng sông chảy từ Đền Thờ một năm mười hai tháng đều đơm hoa kết trái, trái cây dùng làm lương thực, lá cây dùng làm thuốc (Ed 47,12). Những ai luôn biết sám hối, đời sống của họ sẽ luôn kết hợp với Chúa như cành nho gắn liền với cây nho sẽ trổ sinh hoa trái đồi dào (Ga 15).
Lạy Chúa, xin giúp con luôn sinh nhiều hoa trái thiêng liêng là những việc lành (x. Cl 10,1) nhờ luôn kết hợp với Chúa là nguồn sống của con. Amen.
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT III MÙA CHAY_C
Lm Giuse Đinh tất Quý
“Không phải đâu nhưng nếu các ngươi không sám hối thì các ngươi cũng phải chết như vậy” (Lc 13,5)
Anh chị em thân mến
Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay và hai Chúa nhật kế tiếp, nói cho chúng ta về con đường dẫn chúng ta đến hưởng vinh quang của Chúa. Con đường này có thể phân ra làm ba chặng:
Trước hết là sám hối
Thứ đến là quay trở về với Chúa.
Và sau cùng là lãnh nhận ơn tha thứ.
Hôm nay chúng ta nói với nhau về chặng đường thứ nhất.
Tuần sau chúng ta nói về sự trở về
Và tuần cuối cùng của Mùa Chay chúng ta nói với nhau về ơn tha thứ
Như vậy là chúng ta đã đi hết Mùa Chay để chúng ta được dón nhận niềm vui Phục Sinh.
Bây gờ chúng ta bước vào vấn đề hôm nay. Vấn đề sám hối.
Thế nào là sám hối?
Một cách thật đơn sơ chúng ta có thể trả lời như sau: Sám hối là hối hận về tội lỗi của mình và trở về với Thiên Chúa .
Như vậy muốn có được lòng sám hối thì điều kiện đầu tiên không thể thiếu đó là phải thấy được tội lỗi, lỗi lầm của mình. Nói một cách đơn giản hơn là thấy được mình là người tội lỗi.
a. Làm sao để biết được mình là người có tội?
* Ngày trước người Do thái cho rằng muốn biết ai là người có tội thì cứ căn cứ vào những dấu chỉ bên ngoài thì dụ như bị tai nạn, bị trừng phạt vvv
Tin Mừng hôm nay nói đến hai sự kiện: Một là việc Philatô giết một số người Gallilê – những người Galilê nói ở đây là những người đến Giêrusalem dâng lễ tế, chắc họ đã gây ra một vài hỗn loạn trong khuôn viên đền thờ, do đó đội binh La mã ở trong đồn Antonia đã ra tay can thiệp và tàn sát tại chỗ không nuơng tay và sự kiện thứ hai là việc tháp Siloe đổ xuống làm chết 18 người trước đó.
Phải chăng những người này có tội nên bị giết và bị chết như thế?
Đối với người Do thái thì quả là như vậy.
Nhưng với Chúa thì sao?
Chúa không khẳng định cũng như không phủ định nhưng Chúa muốn coi đó như một cơ hội để cho người ta cảnh tỉnh mà rà lại cuộc sống của mình. Đây ta hãy nghe lời của Chúa: “Không phải đâu nhưng nếu các ngươi không sám hối thì các ngươi cũng phải chết như vậy” (Lc 13,5)
* Đối với chúng ta hôm nay mỗi khi chúng ta thực hành sự sám hối, để lãnh nhận ơn hòa giải, thì chúng ta thường “xét” theo 10 điều răn của Chúa và sáu điều răn của Hội Thánh. Có nhiều người khi căn cứ vào những giới răn đó để xét mình thì thấy mình chẳng có sai phạm nào nghiêm trọng nên họ cảm thấy rất an tâm không cần phải sám hối.
Một ngày kia có hai người phụ nữ tìm đến một vị ẩn sĩ già để xin ông chỉ đạo cho mình.
Một người thấy mình là người có rất nhiều tội nặng nề…Bà tỏ ra rất đau buồn về những lỗi làm của bà.
Còn bà thứ hai thì vẫn thấy mình sống theo luật Chúa, không phạm tội, chẳng thấy mình có điều gì đáng trách nên rất hài lòng về những gì mình đang sống.
Sau khi nghe hai người bảy tỏ tâm hồn của mình, vị ẩn sĩ nói với người phụ nữ thứ nhất:
– Hỡi nữ tỳ của Thiên Chúa, con hãy đi ra ngoài hàng rào kia tìm một tảng đá thật to rồi cố mang về đây cho ta.
Sau đó Ngài quay sang phía người đàn bà thứ hai và bảo:
– Phần con, con không phạm tội gì nặng, nhưng con cũng hãy đi ra ngoài và kiếm cho ta một bao đầy đá sỏi nhỏ …. rồi cũng mang về đây cho ta.
Hai người vâng lời ra đi. Được một lúc sau thì họ trở về. Một bà vác một tảng đá rất to – một bà mang một bao đầy những hòn sỏi nhỏ.
Sau đó vị ẩn sĩ lại bảo người đàn bà tội lỗi:
– Con hãy đem tảng đá này đặt lại vào đúng vị trí của nó lúc nãy …..rồi hãy trở lại đây báo tin lại cho ta.
Ngài cũng bảo người đàn bà thứ hai y như vậy.
Rồi cả hai người lại quay ra. Người đàn bà có tội nặng rất dễ dàng đặt lại tảng đá lại vào đúng vị trí cũ của nó, còn người đàn bà thánh thiện thì không có cách nào làm được việc đó bởi vì bà không thể nhớ hết được những vị trí những viên sỏi nhỏ mà bà đã lượm lên khi nãy. Bà đành quay trở lại với bao sỏi trên vai. Bấy giờ vị ẩn sĩ mới cắt nghia cho họ nghe.
– Con thấy không, con đã đặt đúng tảng đá vào đúng vị trí của nó vì con biết rõ nó nằm ở chỗ nào.
Rồi ngài quay sang phía người phụ nữ thứ hai và nói:
– Phần con, con không thể đặt những viên sỏi này vào vị trí cũ trước đây của chúng vì con không biết đã nhặt chúng ở đâu. Đối với một người tội lỗi thì cũng như thế. Người phạm tội nặng vì dễ nhận ra tội của mình, thấy mình bị người khác khiển trách đồng thời thấy được cả lương tâm của mình lên án, cho nên họ dễ có thái độ khiêm tốn và dễ sửa lại lỗi lầm của mình. Còn những người phạm tội nhẹ thường thì khó thấy được tội lỗi của mình nên nhiều khi họ rất tự đắc, cảm thấy mình chẳng có gì cần phải hối cải sám hối…và từ đó họ dễ dàng đi đến thái độ tự mãn…Bởi vậy tội của họ vẫn còn…còn mãi.
Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta được khiêm nhường trước mặt Chúa. Tưởng cũng nên nhắc lại đây lời của Thánh Phaolô: “Những ai đang đứng vững hãy coi chừng kẻo té”(01Cor 10,12)
b. Rổi trong Tin Mừng hôm nay chúng ta còn được nghe về dụ ngôn cây vả không sinh trái. Cây vả này được rất nhiều đặc ân hơn, nhưng nó lại tỏ ra không xứng đáng với đặc ân đó.
Chúa muốn nói với chúng ta điều gì qua dụ ngôn này? Hầu hết các nhà chú giải Kinh Thánh đều cho rằng Chúa muốn nói với chúng ta về lòng yêu thương của Ngài nhưng đồng thời Người cũng cảnh cáo mọi người rằng sự kiên nhẫn chờ đợi của Chúa là sự kiên nhẫn chờ đợi có giới hạn.
Chúa yêu thương con người, đành cho con người thật nhiều ơn huệ như ông chủ vuờn nho dành cho cây vả.
Thế nhưng thương yêu của Chúa không phải là tình yêu mù quáng. Như ông chủ có quyền đòi hỏi cây vả phải sinh trái, Thiên Chúa cũng có quyền đòi hỏi con người sống làm sao cho xứng với tình thương của Người như vậy. Chúa đỏi hỏi con người phải có quả. “Anh em hãy sinh những hoa quả xứng với lòng sám hối. Và đừng vội nghĩ bụng rằng: Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham; vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham”. Thánh Phaolô phụ họa thêm: “Hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín,(Gat 5,22)
Xin được kết thúc bằng một câu chuyện. Câu chuyện này được cha Antony de Mello có kể lại trong tập sách có tựa đề “Tiếng hót của loài chim” của ngài. Câu truyện nói về tâm sự của một nhà hiền triết khi nhìn về cuộc sống đã qua của mình. Ông tâm sự như sau: “Lúc thiếu thời tôi là một kẻ hiếu động. Trong sự hăng say của tuổi trẻ, tôi thường nguyện xin Thiên Chúa ban cho được sức mạnh biến đổi thế giới này trở nên tốt hơn. Đến lúc tôi được nửa đời làm người, tôi ý thức là mình chưa làm được gì cả, chưa thay đổi được bất cứ người nào. Tôi đổi lại lời cầu nguyện cho được thiết thực hơn:
– Lạy Chúa, giờ đây con chỉ xin Chúa cho con được sức mạnh để đổi thay cuộc sống của những người con được dịp tiếp xúc hàng ngày, những người thân trong gia đình, những bạn bè quen thuộc. Nếu được như vậy thì con cũng thỏa mãn bằng lòng rồi.
Nhưng rồi giờ đây, khi tuổi đời sắp chấm dứt, tôi sắp từ giã trần gian để về với Đấng đã ban cho tôi sự sống, tôi ý thức sự ngông cuồng điên rồ của mình, tôi thay đổi lời cầu nguyện lại:
– Lạy Chúa, xin ban ơn cho con thay đổi chính đời sống con.
Nếu ngay từ thời thanh xuân tôi đã cầu nguyện như vậy, thì có lẽ, tôi sẽ không hối tiếc là mình đã sống một cuộc đời vô ích.
Vâng! – Lạy Chúa, xin ban ơn cho con thay đổi chính đời sống con. Nếu ngay từ hôm nay con biết sống như thế thì có lẽ sau này, con sẽ không hối tiếc là mình đã sống một cuộc đời vô ích.
.
Lm Giuse Đinh lập Liễm
A. DẪN NHẬP
Hai tuần I và II Mùa Chay cho ta hiểu ý nghĩa về thử thách, cám dỗ và sau cám dỗ là vinh quang của Đức Kitô. Với Chúa nhật III này, các bài đọc của Lời Chúa chú trọng vào một trọng tâm là phải ăn năn sám hối và sinh hoa kết quả bằng những việc làm cụ thể trong cuộc sống hằng ngày của Kitô hữu.
Chúng ta đã khởi đầu Mùa Chay bằng nghi thức xức tro trên đầu, một nghi thức thật cụ thể để diễn tả một trong những mục tiêu của Mùa Chay, đó là sám hối và trở về. Trong tâm tình đó, hôm nay vào giữa Mùa Chay, một lần nữa, Mẹ Giáo hội mời gọi chúng ta tin tưởng vào lòng nhân từ hay tha thứ của Thiên Chúa để can đảm đứng dậy, sám hối về tất cả những yếu đuối lỡ lầm của chúng ta trong cuộc sống.
Trong bài Tin mừng hôm nay, khi dùng hai biến cố gây ra chết người làm bối cảnh cho giáo huấn của Ngài – Trước hết Đức Giêsu đã đánh đổ quan niệm cũ sai lầm trong Do thái giáo, coi những người chết vì bệnh tật, tai nạn, bị đàn áp… là những người tội lỗi – Rồi Ngài khẳng định rằng nếu không sám hối và sinh hoa kết quả – mà cứ chai lì ra, thì sẽ chịu hậu quả khốc liệt hơn những người chết trong hai biến cố trên – vì họ sẽ bị chính ÔNG CHỦ LOẠI BỎ VĨNH VIỄN. Ôâng chủ đây là ai ngoài Thiên Chúa và cây vả là ai ngoài Kitô hữu, những người mà Đức Kitô đã tái sinh và vun trồng bằng chính Thịt Máu Ngài.
Mùa Chay là cơ may Chúa ban cho để chúng ta hối cải như thánh Phaolô đã nói với tín hữu Côrintô :”Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ”(2Cr 6,2b). Ngay cả cuộc sống của chúng ta cũng chỉ là thời gian gia hạn Chúa ban do lòng thương xót của Ngài. Sau khi cánh cửa thời gian khép lại, chúng ta sẽ không còn cơ hội để hối cải và sinh hoa kết quả nữa.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Xh 3,1-15.
Dân Do thái là mối quan tâm đặc biệt của Thiên Chúa. Tuần vừa qua, qua bài đọc 1, chúng ta được biết Thiên Chúa muốn chọn ông Abraham để thành lập một dân mới, dân riêng của Ngài. Tuần này, chúng ta được biết Thiên Chúa muốn nhờ ông Maisen để cứu dân ấy ra khỏi ách nô lệ của Ai cập và đưa họ vào Đất Hứa.
Khi ấy, Ôâng Maisen đang trốn trong sa mạc vì sợ vua Pharaon lùng bắt. Ôâng trông thấy bụi gai đang cháy bừng bừng mà không bị cháy rụi. Ôâng đến gần xem sao. Thiên Chúa hiện ra và gọi rõ tên ông và trao cho ông sứ mạng đưa dân ra khỏi Ai cập. Ôâng muốn hỏi tên Ngài, nhưng Thiên Chúa chỉ trả lời cho ông:”Ta là Đấng Hằng Hữu”.
Thiên Chúa là Đấng Hằng Hữu. Có nhiều lối giải thích kiểu nói này :,
– Thiên Chúa từ chối không nói tên mình, bởi vì không ai có thể hiểu được Thiên Chúa.
– Ta là thế nào thì các ngươi sẽ hiểu, khi thấy các việc Ta sẽ làm (sau này khi thấy Thiên Chúa giải thoát dân Do thái : người ta sẽ hiểu Ngài là Đấng Giải thoát)
– Câu nói đó có thể dịch là “Ta là Đấng Hằng Hữu”.
– Cũng có thể dịch là “Ta là Đấng là” : ngược lại với các thần Ai cập chỉ là hư vô giả trá, chỉ có một mình Thiên Chúa là có thật (Carôlô).
+ Bài đọc 2 : 1Cr 10,1-6.10-12.
Tín hữu Côrintô đã được rửa tội và thông hiệp Bí tích Thánh Thể, nên tưởng rằng mình đã được giải thoát khỏi mọi cám dỗ. Phải luôn đề phòng kẻo bị sa ngã. Thánh Phaolô so sánh cuộc xuất hành về trời của tín hữu ngày nay với cuộc xuất hành về Đất Hứa của dân Do thái ngày xưa : mặc dầu được Chúa che chở, nhiều người đã gục ngã trước những thử thách ở sa mạc. Kitô hữu chúng ta cũng xuất hành như dân Do thái xưa, nhưng đừng bắt chước họ chiều theo dục vọng xấu xa, đừng kêu ca trách móc, trái lại, hãy tin tưởng phó thác cho Chúa và ngoan ngoãn theo sự hướng dẫn của Ngài.
+ Bài Tin mừng : Lc 13,1-9.
Người ta báo cho Đức Giêsu biết nguồn tin sốt dẻo : quan tổng trấn Philatô giết một số người Galilê đang khi họ dâng lễ trong đền thờ. Đức Giêsu không muốn bày tỏ ý kiến về luân lý, chính trị hay xã hội, mà nhân cơ hội này nhắc nhở cho mọi người : đứng trước những biến cố lớn nhỏ của cuộc sống, hãy nhìn ra những tín hiệu nhắc nhở hãy sám hối để được sống.
Trong dụ ngôn cây vả không sinh trái, Đức Giêsu nhấn mạnh đến những tai vạ sẽ đè lên trên dân tộc bất trung (Mc 11,13). Vậy là Chúa mời gọi mọi người hãy sinh hoa trái của lòng sám hối. Phải biết rằng cuộc sống của chúng ta chỉ là một thời gian được gia hạn nên phải lợi dụng thời gian này mà sám hối.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
I. HAI SỰ KIỆN, MỘT Ý NGHĨA.
Đang lúc Đức Giêsu khuyên giục các thính giả ăn năn sám hối, thì có người thuật lại với Đức Giêsu câu chuyện rùng rợn về vụ quan tổng trấn Philatô giết hại những người Galilê đang khi họ dâng lề trong đền thờ. Có lẽ đây là một cuộc biểu tình của nhóm người quá khích đang cố dấy lên một phong trào nổi dậy để cứu dân, chống lại chính quyền Rôma đang chiếm đóng. Giữa lúc đang cử hành phụng vụ, đang dâng lễ vật cầu xin Thiên Chúa trợ giúp, họ đã bị cảnh sát của tổng trấn Philatô tàn sát.
Đưa ra tin sốt dẻo này, chắc người ta tưởng Đức Giêsu sẽ đồng tình truyên bố số phận của những người bị tàn sát và bị tháp đè bẹp ấy là đúng lắm và Ngài cũng rơi vào lối ngụy biện thường tình, là người nào bị hành hạ nhiều chứng tỏ họ đã phạm tội nặng. Nhưng Đức Giêsu trả lời cho họ rằng người ta tạm thời chưa bị đau khổ là dấu ân huệ đặc biệt của Thiên Chúa.
Người Do thái thường cho rằng những thử thách xẩy đến cho một người là như một sự trừng phạt kẻ đó. Nói cách khác, đau khổ là hình phạt của tội. Đối với Đức Giêsu, không có sự liên hệ nào giữa tai họa và tội lỗi. Trong phép lạ chữa cho người mù từ mới sinh, người ta hỏi Đức Giêsu : anh mù ấy do tội của anh hay của cha mẹ anh, thì Đức Giêsu trả lời rằng:”Không phải anh ta, cũng không phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng chuyện đó xẩy ra là để các việc Thiên Chúa tỏ hiện nơi anh”.
Nhân cơ hội này, Đức Giêsu nhắc lại một sự kiện khác : 18 người bị tháp Siloe đổ xuống đè chết. Ngài khẳng định rằng đau khổ không phải do Thiên Chúa gửi đến. Sự thử thách không phải là một sự trừng phạt. Sự dữ xẩy đến cho ta thường chỉ là hậu quả tự nhiên của qui luật vạn vật… Thay vì buộc tội Chúa là “nguyên nhân đệ nhất” như các triết gia thường nói, chúng ta phải để ý đến những “nguyên nhân đệ nhị”, mà chúng ta có toàn quyền trên chúng. Đức Giêsu đã chiến đấu chống lại sự dữ. Ngài yêu cầu chúng ta đến lượt mình cũng phải chiến đấu, nhưng trước tiên trong chính bản thân chúng ta.
Như vậy là Đức Giêsu không muốn trả lời thẳng vào câu hỏi mà họ muốn đặt ra : những người bị giết và bị đè chết là do tội mà ra. Nhân dịp này Đức Giêsu muốn dạy cho họ một bài học không phải thuộc lãnh vực luân lý, chính trị hay xã hội mà là thuộc lãnh vực tôn giáo. Đức Giêsu phán :”Nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết y như vậy”. Lời nói của Ngài có tính cách răn đe : nếu các ông không thay đổi cách sống. Ngài không có ý nói đến cái chết thể lý mà chúng ta thấy hằng ngày chung quanh mình, mà là cái chết khác có tính cách mầu nhiệm do tội lỗi gây ra : một sự hư mất đời đời. Như vậy, qua sự kiện một số người Galilê bị giết Đức Giêsu muốn nhắc nhở cho người Do thái và chúng ta là phải sám hối kẻo phải hư mất đời đời.
II. DỤ NGÔN CÂY VẢ.
Đức Giêsu dùng hình ảnh cây vả để khích lệ người Do thái ăn năn hối cải. Quả vả là thức ăn quen thuộc đối với người Do thái . Ở Palestine, người ta thường thấy cây vả, cây gai và cây táo trong những vườn nho. Đất mỏng và cằn cỗi đến nỗi bất kỳ ở đâu có đất, người ta cũng trồng cây. Nhưng thực tế là cây vả này được đặc ân hơn, nhưng nó lại tỏ ra không xứng đáng với đặc ân đó. Đức Giêsu đã nhiều lần trực tiếp hay gián tiếp nhắc nhở dân chúng rằng họ sẽ bị xét đoán tùy theo những cơ hội may mắn mà họ đã có. Trong dụ ngôn cây vả chúng ta thấy có những ẩn dụ :
– Người trồng cây vả là Tiên Chúa.
– Cây vả là dân Do thái.
– Người làm vườn là Đức Giêsu.
Thế giới này phải đi trên con đường tiến hóa, tất cả cuộc tiến hóa nhằm sản sinh ra những cái gì có ích lợi, điều gì có ích sẽ cứ mạnh mẽ phát triển trên đường tiến hóa, trong khi những gì vô ích sẽ bị tiêu diệt. Cây vả kia cứ rút lấy sức lực của đất mà không sản sinh ra gì cả thì để làm gì cho nó ăn hại đất ?
Cũng thế, cây vả Israel phải sinh hoa kết quả, nếu không sẽ bị chặt đi. Thiên Chúa đã tuyển chọn dân Israel, trong quá khứ dân đã nhận được nhiều ơn. Chúa trông đợi nơi họ sinh nhiều hoa trái, tức là sự trung thành với lề luật, sự phụng thờ sốt sắng và trong sạch… Kết quả không như Chúa mong muốn. Chúa có quyền bỏ dân Chúa đã kén chọn.
Nhưng Thiên Chúa chấp nhận đề nghị của Đức Giêsu cho khoan giãn một thời gian, để Đức Giêsu sẽ chăm bón thêm bằng cách ban thêm nhiều ơn nhờ việc giáo huấn và các phép lạ… Nhưng Israel vẫn cố chấp không hoán cải để sinh hoa trái. Vì vậy, họ đã bị Thiên Chúa loại bỏ. Chính việc tàn phá Giêrusalem năm 70 là sự việc chứng thực điều đó.
Một cây vả thường phải 3 năm mới trưởng thành, nếu lúc đó nó không sinh trái, chắc không bao giờ sinh trái nữa. Nhưng cây vả này được ban cho một cơ may nữa để sinh hoa quả nếu không sẽ bị chặt đi.
Dụ ngôn này muốn diễn tả Thiên Chúa chờ đợi dân Ngài những hoa quả của lòng thống hối. Họ phải khẩn trương lợi dụng những lời mời gọi ăn năn sám hối của Đức Giêsu, Đấng trung gian giầu lòng thương xót, nhưng nếu họ cứ cố chấp mà khoan giãn không chịu sám ghối, thì họ sẽ bị số phận như cây vả không trái.
Như vậy, đối với chúng ta, nếu chúng ta từ chối hết cơ may này đến cơ may khác, nếu tiếng kêu mời của Thiên Chúa cứ trở đi trở lại với chúng ta cách vô ích thì đến một ngày, không phải Thiên Chúa đóng cửa lại, nhưng chính chúng ta tự ý đóng cửa lòng mình với Thiên Chúa.
III. CHÚNG TA PHẢI KHẨN TRƯƠNG SÁM HỐI.
Lời Chúa hôm nay kêu gọi mọi người phải sám hối, không trừ ai. Đối tượng của lời kêu gọi sám hối không phải chỉ là những người tội lỗi, người thu thuế, gái điếm, trộm cắp, nhưng trong dụ ngôn cây vả trong bài Tin mừng hôm nay (Lc 13,1-9), lại là những người được coi là đạo đức, ngay chính, được mọi người kính trọng : những người biệt phái.
Vậy người tốt cũng phải sám hối sao ? Trong trường hợp những người được gọi là tốt, họ vẫn phải sám hối vì những việc tốt lẽ ra họ có thể làm mà lại không làm. Họ giống như cây vả trong bài Tin mừng này. Ôâng chủ muốn đốn nó không phải vì nó đã sinh ra những trái xấu, mà vì nó không sinh ra những trái vả như nó phải sinh ra. Một cây vả mà không sinh trái vả thì đâu còn là cây vả nữa, nó hoàn toàn trở nên vô ích.
Các Kitô hữu ít khi đặt cho mình câu hỏi sau đây : Điều gì lẽ ra tôi phải làm mà lại không làm ? Tiếng gọi sám hối không chỉ kêu gọi ta thôi đừng làm điều xấu nữa, mà còn kêu gọi ta hãy “sinh trái” bằng những việc tốt. Chính vì thế mà lời kêu gọi này nhăm đến mọi người (McCarthy).
Người ta thường nói :”Nhân vô thập toàn”, không ai là con người hoàn hảo đến nỗi không còn điều gì phải sửa đổi. Đức Khổng Tử đã đưa ra một chương trình tổng quát để đào tạo con người, biến con người thành những hiền nhân quân tử và cao nhất là bậc thánh nhân, đó là TU THÂN.
Tu thân có nghĩa là sửa mình. Phải sửa mình cho nên tốt hơn theo phương châm của vua Thành Thang :Nhật nhật tân, hựu nhật tân” : ngày ngày mới, lại ngày mới hơn. Muốn sửa mình, cần phải xét mình để biết rõ con người mình.
Ông Trình Tử đã thực hiện việc xét mình hằng ngày khi ông nói :”Nhất nhật tam tỉnh ngô thân” : mỗi ngày ta phải xét mình ba lần.
Thánh Phaolô cũng nhắc nhở cho tín hữu Côrintô là phải lột bỏ con người cũ mà mặc lấy con người mới. Con người mới đây là con người đã được tu thân, đã qua một quá trình biến đổi cho nên tốt hơn.
Đức cố Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận có lần đã nói:”Vị thánh nào cũng có một quá khứ, và người tội lỗi nào cũng có một tương lai. Quá khứ là dĩ vãng yếu đuối. Tương lai là ngày mai tốt hơn, thánh thiện. Nhưng sự khác biệt giữa thánh nhân và người tội lỗi chính là sự sám hối, lòng ăn năn”.
Truyện : Hối cải hay không.
Chuyện cổ dân gian kể về hai người anh em nọ sống trong một ngôi làng miền Trung Ââu đã bị bắt quả tang ăn trộm cừu của dân làng. Hình phạt cho họ là bị khắc hai chữ “ST” trên trán. “ST” có nghĩa là Sheep Thief ! Ăên trộm cừu ! Dấu khắc này là dấu sẹo trên trán phải mang suốt đời.
Đối với người em hình phạt này là tiêu hủy cuộc đời còn lại của chú. Chú càng phạm thêm nhiều tội ác hơn. Và cuối cùng chú đã bị chết trong tù ! Trái lại, người anh đã ăn năn hối cải và hoàn toàn thay đổi cuộc sống, từ tên tội phạm đã trở nên người hoàn lương, và sau cùng trở nên thánh thiện. Anh giúp đỡ mọi người, trong làng ai cũng thương mến. Năm tháng trôi qua, những người lớn tuổi thuộc thế hệ của anh chết gần hết. Một ngày nọ những người du khách vào làng nhìn thấy chữ “ST” trên trán ông lão bèn thắc mắc. Họ hỏi những người trẻ trong làng, nhưng chẳng ai biết thực sự nó có nghĩa là gì. Ai cũng trả lời rằng :”Điều đó đã xẩy ra bao nhiêu năm về trước rồi ! Nhưng theo họ nghĩ, chữ “ST” trên trán ông lão là một chữ viết tắt của chữ “Saint” = “Thánh”.
Lời kêu gọi sám hối của Đức Giêsu hôm nay không phải chỉ là lời kêu gọi trở về từ tội lỗi, nhưng là một lời kêu gọi phải làm điều lành, điều tốt như bổn phận. Kitô giáo không phải là một tôn giáo chỉ cấm những điều xấu như không được giết hại người khác. Giáo lý của Chúa Kitô còn đòi buộc cả những điều tích cực : phải giúp đỡ tha nhân, yêu thương người nghèo khó. Thánh Giacôbê đã nói :”Kẻ nào biết làm điều tốt mà không chịu làm thì mắc tội”(Gc 4,17).
Sám hối hay hối cải không chỉ là từ bỏ con đường xấu xa tội lỗi, trái lại sám hối cũng còn có nghĩa là không được như cũ mà phải tốt hơn, tấn tới hơn, nhân đức hơn và sinh nhiều hoa trái thiêng liêng hơn. Do đó, một người sống cứ lừng khừng, tầm thường cũng đáng bị lên án như kẻ có tội vậy. Trái lại, một kẻ được gọi là sám hối thực sự không những xa lánh tội lỗi mà còn là con người có ích, trưởng thành.
Khi đọc dụ ngôn cây vả không sinh trái, chúng ta phải luôn theo nghĩa tích cực, nghĩa là không phải điều xấu điều ác đã không làm, nhưng là điều tốt, việc thiện đã bỏ qua. Người chủ vườn thất vọng không phải vì cây vả đã cho trái xấu xí hay độc hại, nhưng vì nó đã không sinh sản. Nó đã bị xét xử vì nó không sinh hoa trái. Bởi vậy, người sám hối là người phải đổi mới để mỗi ngày một nên tốt hơn :”Phải tiến bước trên con đường sám hối và của đổi mới, và phải qua cửa hẹp của thập giá, để thông ban hoa trái của ơn cứu độ cho người ta” (GLCG số 853 ; Lumen gentium đoạn 8).
Thiên Chúa đã dựng nên vũ trụ vạn vật, trong đó có loài người chúng ta (x. St 2,4-8). Ngài là chủ của vũ trụ. Đã là chủ, Thiên Chúa có toàn quyền kiểm điểm mọi vật từ vô tri vô giác cho đến giống có sự sống như loài người, loài vật hay cây cối. Giống vật nào không vừa ý Ngài, hay đi sai đường hướng Ngài đã chỉ định, thì Ngài sẽ hủy bỏ đi. Phải tìm đến với Ngài để Ngài chỉ bảo cho biết phải sống như thế nào mới đẹp lòng Ngài. Ngài ở gần chúng ta chứ không xa xôi gì, Ngài ở sát cạnh chúng ta, luôn hiện diện bên chúng ta. Tiên sinh Chư Cát Võ Hầu viết :
Thiên tính tuyệt vô âm,
Thương thương hà xứ tầm,
Phi cao diệc phi
Đó chi tại nhân tâm
Thiên Chúa vô hình vô tượng,
Ngự trời xanh mà chẳng thể tìm ra.
Tuy cao mà vẫn không xa,
Tìm Ngài không gặp đó là tại tâm.
Chúa đã trồng chúng ta là cây vả trong lòng Giáo hội, Ngài luôn săn sóc cây vả này, Ngài mong cho nó sinh hoa kết quả. Vì vậy, sám hối là một việc khẩn trương, chúng ta phải làm ngay, không được chần chừ hay chậm trễ. Chúng ta đừng bao giờ có ý nghĩ “đâm lao theo lao”, lỡ yếu đuối sa ngã phạm tội rồi, cho lỡ luôn, cứ kéo lê cuộc sống lầm lỡ đó. Hoặc chúng ta lại ru ngủ mình bằng ý tưởng “Đời còn dài, lo gì, đến lúc già, ăn năn đền tội còn kịp chán. Tên ăn trộm kia còn kịp ăn năn, huống chi là mình” !!!
Nhưng cuộc đời chúng ta kéo dài được bao nhiêu ? Người ta thường nói :Sinh hữu hạn, tử bất kỳ”, chết bất cứ lúc nào, ai biết được. Cái chết luôn gần kề, phải chuẩn bị cho kịp. Thiết tưởng dụ ngôn cây vả không sinh trái trong bài Tin mừng là một lời cảnh cáo cho tất cả Kitô hữu ngày nay. Thiên Chúa đang chờ đợi thêm một thời gian nữa trước khi ra tay trừng phạt chúng ta. Ngài chờ đợi chúng ta sinh hoa trái yêu thương, nhưng cho đến nay, phải nói rằng người Kitô hữu chúng ta đã sống với nhau thiếu tình thương một cách trầm trọng. Chúng ta không ý thức được tình trạng nguy hiểm đang chờ chúng ta :”Cái rìu đã đặt sát gốc cây, bất cứ cây nào không sinh quả đều bị chặt đi và quăng vào lửa”(Mt 3,10 ; Lc 3,9).
Truyện : Cơ may cuối cùng.
Sau khi đánh tan một cuộc nổi loạn, nhà vua bắt những kẻ phản loạn về. Ôâng ra lệnh thắp lên một cây nến, rồi nói với họ :”Ai chịu đầu hàng và thề trung thành với ta thì sẽ được tha, bằng không sẽ bị giết. Các ngươi hãy suy nghĩ. Khi cây nến tắt thì cuộc hành quyết sẽ bắt đầu.
Thiên Chúa cũng đối xử với tội nhân như vậy. Ngài cho họ một thời gian gia hạn. Tuy nhiên có một khác biệt quan trọng : không ai biết cây nến của đời mình còn dài hay ngắn (GM Arthur Tonne).
Nếu có người đặt câu hỏi : Hiện nay trong Giáo hội còn nhiều người tội lỗi mà Chúa không diệït hết đi ? Để giải đáp thắc mắc này, chúng ta cần nhớ đến lời người làm vườn thưa với ông chủ :”Thưa ông, xin để thêm một năm nữa, nếu nó không sinh trái, chúng ta sẽ chặt đi”. Vẫn biết trong Giáo hội có nhiều người tội lỗi, nhưng Chúa nhân lành vô cùng còn đợi chờ và hy vọng, họ sẽ ăn năn hối cải như người coi vườn cố để cây nọ cây kia một thời gian nữa với hy vọng nó sẽ sinh trái để bõ công trồng.
Đối với người thực tình sám hối thì không có gì là quá muộn. Chúa sẽ tạo điều kiện cho họ. Một cây vả sau 3 năm mà không sinh trái thì hầu như chẳng bao giờ sinh trái nữõa. Nhưng cây vả này được ban cho một cơ may nữa. Thiên Chúa bao giờ cũng ban cho người ta hết những cơ may này đến cơ may khác. Phêrô, Marcô, Phaolô hoan hỉ làm chứng về điều đó. Thiên Chúa vô cùng nhân từ với kẻ sa ngã chỗi dậy. Thiên Chúa chỉ cần con người có thiện chí muốn hối cải tùy theo sức của mình, còn bao nhiêu chúng ta trao trọn cho Chúa để Ngài cải hóa và hoàn thiện con người chúng ta để cho con người chúng ta sẽ trở nên có giá trị gấp trăm ngàn lần.
Để kết thúc, tôi xin mượn lời và câu chuyện cha Mark Link để diễn tả tư tưởng ấy trong những dòng sau đây : Có một bài thơ nói về một chiếc vĩ cầm cũ kỹ. Giống như chúng ta, nó cũng có một cơ may thứ hai. Hơn nữa, nó còn là hình ảnh câu chuyện của bạn, của tôi và của tình yêu Chúa dành cho chúng ta nữa. Hy vọng bài thơ ấy sẽ tác tác động đến tâm hồn các bạn và sẽ thôi thúc các bạn tham dự thánh lễ hôm nay với niềm tri ân và lòng yêu mến nhiều hơn thường lệ.
Truyện : cây vĩ cầm đáng giá.
Cây vĩ cầm bị nứt bể rồi lại được dán lại. Người bán đấu giá nghĩ rằng chẳng nên phí thời giờ chăm chút cho nó làm gì. Nhưng ông ta vẫn tươi cười cầm nó lên và rao bán :
– Nào, thưa quí vị, ai sẽ bắt đầu trả giá đầu tiên đây ? Một đồng, một đồng, rồi tới hai đồng, chỉ có hai đồng thôi sao ? Ai sẽ trả nó ba đồng đây ? À, một người trả ba đồng, rồi hai người trả ba đồng, không còn ai nữa sao ?
Bỗng nhiên từ cuối phòng, một người đàn ông tóc hoa râm bước lên cầm lấy cây đàn, ông lau bụi chiếc đàn cũ kỹ rồi siết lại những sợi dây lỏng. Sau đó ông tấu lên một bản nhạc êm dịu, ngọt ngào, y như những bài ca của các thiên thần. Tiếng nhạc dừng lại, người bán đấu giá chậm rải nói :
-Tôi sẽ ra giá bao nhiêu cho chiếc vĩ cầm cũ kỹ này đây ?
Đoạn ông vừa cầm cây đàn lên vừa nói :
– Một ngàn đồng, và ai sẽ tăng lên 2000 ? Hai ngàn rồi ! Có ai chịu tăng lên ba ngàn không ? Một người chịu giá 3000, hai người chịu giá 3000, và còn nữa !!!
Đám đông hồ hởi reo vui nhưng có vài người trong họ la lên :
– Chúng tôi hoàn toàn chẳng hiểu cái gì đã làm thay đổi giá trị cây vĩ cầm ấy !
Lập tức có tiếng đáp lại :
– Chính nhờ đôi tay ông nhạc sĩ chạm vào đấy.
Quả thế nhiều người trong chúng ta đừng đi sai đường lạc lối, bị bầm dập vì tội lỗi và bị đám đông vô tâm rẻ rúng, khác nào cây vĩ cầm cũ mèm kia. Chỉ một tô cháo, một ly rượu, một cuộc chơi là đã đưa chúng ta sa chân hết lần này đến lần khác, và cuối cùng chúng ta hầu như bị hư hoại luôn. Nhưng vị Minh Sư đã đến, và lũ dân chúng khờ khạo hoàn toàn không thể hiểu nổi giá trị của linh hồn và sự đổi thay của nó, sau khi linh hồn đã được đôi tay của vị Minh Sư chạm đến (Tác giả vô danh) (Mark Link, Giảng lễ Chúa nhật , năm C, tr 75-76).
.
Lm. Anphong Trần Đức Phương
Trong cuộc động đất (01/12/2010) tại Haiti, số người chết đã lên đến con số kỷ lục 230 ngàn người, nhiều nhà cửa đã bị phá hủy hoàn toàn, những người còn sống sót không còn ngôi nhà thân yêu để trở về.
Hàng ngày vẫn có những thiên tai xảy ra trên thế giới như động đất, bão tố, đất chuồi, sóng thần… giết hại nhiều người, phá hủy nhiều nhà cửa!
Tuy nhiên, so sánh với các tai ương chính con người gây ra cho con người, thì còn khủng khiếp hơn nhiều. Hai cuộc Thế Chiến trong thề kỷ 20 vừa qua đã phá hủy bao nhiêu công trình kiến trúc của nhân loại, và số tử vong trong quân đội cũng như dân sự đã lên tới hàng triệu người. Bao nhiêu con người sống sót không còn một mái nhà để trở về.
Những nhà độc tài trong chế độ cộng sản như Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Polpot… đã giết không phải hàng nghìn, hàng trăm nghìn, nhưng hàng triệu những người dân vô tội; chưa kể đến nhà độc tài Hitler đã giết hơn 6 triệu người Do Thái, và bao nhiêu người khác bị giết thảm thương trong cuộc chiến tranh do ông ta gây ra trong Thế Chiến II.
Những thiên tai thật khủng khiếp; nhưng “Người Giết Người” còn thảm thương biết bao!
Nguyên nhân “Người Giết Người” là vì có những con người đã lìa xa tình yêu của Thiên Chúa, đã phủ nhận tình yêu của Thiên Chúa là Cha, là Đấng tạo thành mình. Họ đã trở nên những kẻ “Vô Thần” và “Vô Luân”. Bám chặt vào những ý thức hệ vô thần, họ đã biến “con người trở nên như thù địch của con người!” Do đó, nhân loại không còn là một gia đình của tình yêu Thiên Chúa, nhưng là nơi đấu tranh và thù hận, chỉ rình mò để hãm hại lẫn nhau.
Bài Phúc Âm hôm nay (Luca 13: 1-9) nói đến tai nạn khủng khiếp do tháp Siloe đổ xuống làm chết 18 người và việc Philatô đã tàn ác giết mấy người Galilê, làm cho máu họ hòa với máu các vật họ tế sinh. Theo nhà Sử Học Flavius Joseph (Josephus, 37-100), thì Philatô còn gây ra nhiều cuộc đổ máu khác, chưa kể đến vụ ông đã kết án bất công Chúa Giêsu và trao phó Người cho dân Do Thái hành hạ rồi đem đi giết.
Chúa Giêsu đã rút ra hai bài học do hai biến cố bi thảm trên đây để dạy chúng ta biết “những nạn nhân trong hai biến cố thê thảm đó, không phải là do “Họ tội lỗi hơn người khác!” Đồng thời, Chúa Giêsu kêu gọi mọi người chúng ta hãy luôn biết nhìn nhận tội lỗi của mình để ăn năn sám hối, cải thiện đời sống, trở về với Chúa là Cha, trở về với chính mình, và với anh em mình trong mái nhà thân thương của gia đình nhân loại. Chúa là Cha nhân từ vẫn luôn gia hạn để chờ đợi người tội lỗi ăn năn trở về để khỏi bị “tiêu diệt!” giống như người làm vườn đã xin Ông chủ gia hạn đừng chặt cây vả, để chờ một năm nữa xem sao! (xem Bài Phúc Âm).
Thánh Phaolô trong Bài Đọc II (1Corintô 10: 1-6, 10-12) nhắc đến biến cố Xuất hành đã được ghi lại trong Bài Đọc I (Xuất Hành 3: 1-8, 13-15). Dân Do Thái xưa đã đứng lên, quyết từ bỏ đời sống nô lệ lâu dài ở Ai-Cập, lên đường, chấp nhận mọi gian nan thử thách trong sa mạc trong 40 năm dài, để trở về quê hương thật của mình, trở về vùng “Đất Hứa” yêu thương.
Trở về quê hương mình, trở về mái nhà mình vẫn là niềm vui và hứng thú của mọi người chúng ta, vì không đâu bằng ngôi nhà của mình (No Place Like Home! Home Sweet Home!)
Mỗi người chúng ta cũng cần đứng lên, quyết tâm từ bỏ đời sống nô lệ tội lỗi, vượt qua các cám dỗ níu kéo của con người tầm thường, để trở về ngôi nhà Giáo Hội thân thương, và được hưởng tình yêu thương của Chúa và của anh em mình trong gia đình nhân loại.
Chủ điểm của Mùa Chay là ăn năn, sám hối lỗi lầm và trở về với Chúa là Cha, trở về với chính mình, với mọi người như anh chị em trong gia đình nhân loại. Thay vì chống lại Thiên Chúa và chém giết lẫn nhau như thù địch, chúng ta sẽ nhìn nhận nhau như anh em trong một gia đình có Chúa là Cha yêu thương của mọi người. Lúc đó, chúng ta mới có thể sống thuận hòa với nhau và tình yêu thương sẽ tràn ngập để bảo đảm một nền hòa bình đích thực.
Xin Chúa chúc lành cho mọi người chúng ta, đặc biệt trong Mùa Chay này. Qua việc “Ăn Chay, Hãm Mình, và làm việc Từ Thiện” giúp người nghèo khó, chúng ta sẽ sống thực Phúc Âm tình thương của Chúa và được sống lại thật với Chúa trong tình yêu Chúa, và trong tình yêu thương anh em với nhau. Chúng ta cũng cầu nguyện cách riêng cho Phong trào “Trở Về” (Catholics Come Home) đang được phát động mạnh mẽ trong Giáo Hội Hoa Kỳ, và đã giúp cho nhiều ngàn người tìm lại được Đức Tin và vui mừng trở về ngôi Nhà Giáo Hội của Chúa.
.
Cao Huy Hoàng
Thời nào và ở đâu cũng có những oan sai. Oan sai có thể do luật sai tự bản chất, cũng có thể do người thi hành luật và cũng có thể do phía tố tụng có tính cách áp chế. Vì thế, oan sai luôn là một bất công đáng tiếc dẫn đến những tai họa khôn lường. Cái chết của những người Galilee do quyết định của Tổng Trấn Philato có thể là một oan sai, mà “tiếng dân kêu chẳng thấu trời”. Những cái chết thật bi thương. Và khi mấy người đến kể cho Chúa Giêsu nghe câu chuyện ấy, những tưởng Đức Giêsu đồng quan niệm với họ rằng những người ấy bị án tử vì phạm pháp, không ngờ Chúa Giêsu lại nói ” Các ông tưởng mấy người Galilee đó bị như vậy, là vì họ tội lỗi hơn mấy người Galilee khác sao?” (Luc 13,2). Tôi muốn hiểu từ “tội lỗi” ở đây đồng nghĩa với từ “phạm pháp”, phần đời. Như vậy, theo ý của Chúa Giêsu, thì không chắc là những người nầy đã bị án tử vì phạm pháp. Trong suốt mùa chay, bất kỳ một đoạn Kinh Thánh nào mà phụng vụ đã chọn, có nhắc tới “sự chết”, đều làm tôi liên tưởng đến cái chết của Đức Giêsu. Tôi thiết tưởng, Ngài cũng muốn nói đến cái chết của Ngài, một cái chết do oan sai, một cái chết của người vô tội, chết thay cho người có tội. Vì thế Ngài nói tiếp ” Nếu các ông không sám hối, thì hết thảy các ông cũng chết như vậy” (Luc 13,3).
Ngài còn dẫn chứng và giải thích cái chết bất ngờ của 18 người do tháp Siloa ngã đè, “không phải vì họ có tội nặng hơn những người ở thành Giêrusalem, nhưng nếu các ông không sám hối, thì hết thảy các ông cũng chết như vậy” (Luc 13,5). Tôi lại liên tưởng đến cái chết của Chúa Giêsu, không phải là là sự trừng phạt của Thiên Chúa Cha, mà là Thánh Ý Nhiệm mầu mặc cho cái chết ấy một ý nghĩa cứu chuộc- Chết là một điều kiện tất yếu để có sự Phục Sinh. Như vậy, cái chết phần xác của 18 người bị tháp đè, cũng không phải là sự trừng phạt hay trả thù của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa giàu lòng xót thương. Ngay đến cái chết đời đời của linh hồn con người -sự chia lìa, không được phúc chung hưởng vinh quang Thiên Chúa – Chúa Giêsu cũng không muốn, mà ngược lại Ngài gọi mời sám hối trở về để được sống đời đời.
Chúa Giêsu lại đưa ra ví dụ cây vả, để giải thích thiết thực bài học, lời khuyên, lời cảnh tỉnh “sám hối” mà Ngài đã nói với mấy người Galilee, và với chúng ta. Sám hối không chỉ là nhận ra sự tiêu cực, ích kỷ, lười lĩnh của mình trong cuộc sống, mà còn là phải canh tân đổi mới để cuộc sống tích cực hơn, sinh động hơn, nhiệt tình hơn, sinh hoa kết trái nhiều hơn, xum xuê, đầy cành. Sinh hoa kết trái chính là sự cho đi, sự hiến dâng cho cuộc đời, làm cho cuộc đời có một sức sống mới bắt nguồn từ hoa trái ấy. Cây Vả Giêsu mà Thiên Chúa đem trồng nơi trần gian đã sinh hoa kết trái cho nhân loại. Đó là Tình Yêu của Thiên Chúa Cha đã biểu lộ nơi Người Con Chí Ái, khi Người Con, chính là Đức Giêsu Ki tô, đã cống hiến trọn vẹn sự sống mình cho nhân loại, cho nhân loại được sống và sống dồi dào.Tôi nhớ đến “Bài Ca Đức Mến” (1 Cor 13), một tuyệt phẩm của Thánh Phao-lô, một bức họa cuộc đời Chúa Giêsu Cứu Thế, và tôi vẫn nghĩ đây là tiêu chuẩn hoa trái của lòng sám hối chân thành đối với mỗi tín hữu chúng ta hôm nay, không chỉ trong mùa Chay nầy, mà suốt cả đời người.
“Lòng mến thì khoan dung, nhân hậu,
lòng mến không ghen tuông,
lòng mến không ba hoa, không tự mãn,
không khiếm nhã, không ích kỷ
không cáu kỉnh, không chấp nhất sự dữ
không mừng trước sự bất công,
nhưng biết chia vui cùng lòng chân thật
Trong muôn sự, lòng mến hết lòng bao dung,
lòng mến hết lòng kính tin, hết lòng trông cậy.
lòng mến không hề tàn tạ…” (1Cr 13, 4-8)
Với ví dụ cây vả, tôi lại nhớ đến cây vả của tôi và những cây vả thời nay- thời thịnh vượng của chủ nghĩa cá nhân và hưởng thụ-và bỗng trăn trở không ít khi tôi đặt mình trước yêu cầu sám hối là “sinh hoa kết trái” của Chúa Giêsu. Điều rất đáng tiếc: không chỉ là những cây vả sợ hy sinh cống hiến, mà còn là những cây vả chê bai chế nhạo những cây vả khác là dại dột, vì đã, đang nhiệt tình cống hiến những hoa trái cho đời: Người tham lam lo tích lũy vào kho tàng của mình thì chê người liêm chính là dại dột- nghỉ chơi. Người ươn lười không lo mở rộng nước Chúa thì chê bai chế nhạo người nhiệt tình là điên rồ, không hợp thời. Người không làm việc bác ái thì cho rằng người bác ái là lãng phí, cầu danh. Người không tha thiết với việc cầu nguyện thì lên án người cầu nguyện là đạo đức giả. Hoặc một thái độ khác của cây vả thời nay: Người dối trá nhất bao giờ cũng bắt người khác phải thành thật. Người phạm pháp nhiều nhất vẫn yêu cầu người khác thi hành luật nghiêm túc… Cây vả của tôi ơi, đã đến lúc phải sinh hoa kết trái, vì Đức Giêsu, “người làm vườn” của Ông Chủ Vườn, là Thiên Chúa Cha, đang khẩn thiết van xin ” Ông Chủ Vườn” gia hạn, để cây vả sinh hoa kết trái.
Anh em Phan sinh, trong những buổi họp, thường hát: “Một người không biết yêu ai, là người chưa biết yêu mình. Một người không biết cho ai, là người nghèo trắng đôi tay. Một người không chung phận người là người chưa sống trong cuộc đời. Chỉ một người biết Sống, Yêu, Cho người, người ấy thực là người. Lạy Chúa! nếu không sống để yêu thì đời con như đã chết. Nếu không biết cho đi thì làm sao mong sẽ được gì. Nếu không có bác ái thì đời con như cây bộng, như thùng rỗng, như tiếng thanh la, tan trong hư không… Một người không biết yêu ai, mà nguyện cầu Thiên Chúa yêu mình. Một người không biết cho ai, mà nguyện cầu lạy Chúa ban ơn. Một người không chung phận người mà đòi ai nấy chia phận mình….”. Những ngày trước, tôi thờ ơ lắm. Hôm nay, nhớ lại, bỗng giật mình, vì thông điệp bài hát nhắc nhớ tôi canh tân bao điều…
Nối kết những suy tư từ Lời Chúa hôm nay, tôi ơi hãy nhớ cho rằng: Đức Ki Tô Cứu Thế đang bị tôi tiếp tục xử oan, vì Ngài vô tội. Nhưng Ngài vẫn thương yêu chấp nhận cái chết- để Phục Sinh. Ngài vẫn chờ đợi tôi nhận ra cái con người ích kỷ của tôi, để kịp sám hối là hiến dâng đời tôi nên hoa trái phần rỗi cho tôi và cho mọi người.
Lạy Chúa Giêsu, cây vả của con không chấp nhận sinh trái, vì sinh trái là phải cho đi. Xin tha thứ cho lòng ích kỷ vô học của con, và xin mở lòng con ra, để con biết rằng “khi hiến thân là khi được nhận lãnh… lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân… chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời…”. Amen. (Thánh Phanxicô Assisi)
.
SỰ SÁM HỐI, MỘT ĐIỀU KIỆN TẤT YẾU
Lm. Nguyễn Hữu Thy
“Nếu các ông không ăn năn sám hối, thì các ông cũng sẽ chết như vậy!” Ðó là những lời nói đầy khẩn cấp của Chúa. Chúng ta phản ứng thế nào trước sự cảnh cáo của Chúa?
Sau đây tôi xin được giới thiệu ba phản ứng tượng trưng:
“Sám hối? Tôi cảm thấy điều đó chẳng có liên quan gì đến hoàn cảnh của tôi cả”. Vâng, sẽ có người phát biểu như thế: “Nếu so sánh cuộc sống của tôi với cuộc sống nhiều người khác, thì tôi cũng không đến nỗi! Nếu không hơn ai, thì cũng không thua kém ai. Con cái tôi đều học hành đàng hoàng, cũng có công ăn việc làm đâu vào đấy. Tôi đi nhà thờ đọc kinh xem lễ thường xuyên. Với bà con láng giềng mọi sự đều vui vẻ hài hòa. Vậy tôi đâu có làm gì sai quấy cả, tại sao tôi còn cần phải sám hối?”
“Sám hối? Ðó là một lời quá nghiêm khắc đối với tôi”, đó là ý kiến của một người khác. “Sám hối! Vâng, đó là cả một vấn đề! Chắc chắn rằng nhiều khi tôi cảm thấy có điều gì đó trong cuộc sống mình không được thuận thảo và xuôi chảy. Ðôi lúc tôi cũng tự bảo mình là tôi có thể hoàn toàn sống khác với hiện tại! Ðã có biết bao nhiêu dịp may bị bỏ lỡ, bao nhiêu trường hợp tốt đã không lợi dụng được! Nhưng cuộc sống con người là thế! Từ sáng tinh sương cho tới chiều tối: hết trách nhiệm này đến bổn phận nọ! Nào lo lắng cho gia đình, cho con cái, cho nghề nghiệp, cho công ăn việc làm, cho tiền bạc! Vâng, nhiều khi tôi đã muốn chạy thoát mọi sự và bắt tay lại từ đầu! Nhưng tôi cần phải bắt đầu lại ở chỗ nào và tôi phải dừng lại ở chỗ nào? Không thể được. Sám hối? Ðó là một lời nói quá nghiêm khắc đối với tôi. Tôi chẳng biết phải làm thế nào nữa. Và tôi nghĩ rằng, có lẽ tôi cứ tiếp tục sống như từ xưa tới nay!”
“Sám hối? Vâng, đó là dịp may và thuận lợi cho tôi!” một người thứ ba lại phát biểu như thế: “Sám hối? Tôi sực nhớ lại tất cả: vâng, trước kia tôi thường chỉ sống một cách hời hợt bên ngoài, và cứ thế từ ngày này sang ngày nọ! Nhưng rồi sau đó, có một chuyện không hay đã xảy ra và làm thay đổi toàn bộ cuộc sống của tôi. Tôi đã xích mích và đụng độ công khai với một vài người. Tôi đâm ra chán nãn. Tôi luôn trốn tránh, không tiếp xúc với cộng đồng giáo xứ nữa. Nhưng rồi tôi lại hối hận và đã tìm cách hàn gắn lại những đổ vỡ. Tuy nhiên, tôi nhận thấy sự việc thật phức tạp, vướng mắc đủ thứ “dây mơ rễ má” này nọ nữa, chứ không dễ dàng. Và biến cố đó đã ám ảnh tôi mãi, cả đến hôm nay nữa. Tôi bổng thấy mình hoàn toàn khác hẳn. Một cách chân thành, tôi thấy mình còn quá thiếu sót trong cuộc sống, tôi thấy đời mình không thể cứ tiếp tục mãi như thế được. Vì thế tôi đã bắt đầu suy tư, đọc Kinh Thánh và cầu nguyện. Bài giảng Tám Mối Phúc Thật của Ðức Giêsu là kim chỉ nam, là đèn soi, là động lực cho mọi định hướng của tôi. Tôi đã cảm nhận được rằng, mọi sự không thể một sớm một chiều lại được giải tỏa và trở lại bình thường, nhưng đối với tôi, sự sám hối và cải thiện cuộc sống là dịp tốt, là cơ may duy nhất để tiếp tục sống một cách có ý nghĩa và nhân bản hơn.”
Trên đây là ba phản ứng hay ba quan niệm trước việc “sám hối”! Còn chúng ta, chúng ta phản ứng ra sao? Phải chăng chúng ta cũng đồng ý với một trong ba phản ứng trên: Sám hối, chẳng có gì kiên quan đến hoàn cảnh của tôi; hoặc: sám hối, một tiếng quá nghiêm khắc đối với tôi; hoặc: sám hối, một dịp tốt duy nhất đối với tôi, để sống có nhân bản hơn?
Trước khi mỗi người trong chúng ta phải tự trả lời câu hỏi đó, chúng ta còn cần có những suy nghĩ đúng đắn! Ðể có thể tìm thấy nơi sự sám hối ý nghĩa đầy đủ của nó, người ta cần phải có những cảm nghiệm nào đó. Vâng, người ta cần phải có những cảm nghiệm cá nhân: Cuộc sống của mình sẽ đi về đâu? Tại sao người ta phải thay đổi quan niệm sống của mình và thay đổi thế nào? Nếu không? v.v… Một người chỉ có thể sống và nói được như thế, nếu người đó có được một cảm nghiệm khác, cảm nghiệm về ý nghĩa bài Giảng Trên Núi của Ðức Giêsu và cảm nghiệm về Thiên Chúa, Ðấng hằng đứng sau tất cả những gì Ðức Giêsu nói và hành động. Thiên Chúa của Ðức Giêsu đòi hỏi và tạo điều kiện cho con người sống trong một cách thức nhất định nào đó – vừa cụ thể vừa khác biệt – theo như người ta lựa chọn. Trong sự cảm nghiệm đó, chính Thiên Chúa sẽ trở nên chương trình sống, và khi đối mặt với chương trình sống đó, chỉ còn lại một cách duy nhất để có thể đứng vững được là không ngừng nỗ lực dấn thân vào trong chương trình đó với tất cả lòng tin tưởng. Con người cần phải thiết kế cuộc sống mình với Thiên Chúa và luôn nỗ lực thực thi thánh ý của Người; Con người cần phải bắt đầu một cuộc sống mới, một cuộc sống làm chứng giữa lòng đời cho lòng nhân hậu, sự công bằng và tình thân thiện của Thiên Chúa đối với nhân loại, trong phạm vi tư riêng cũng như trong phạm vi rộng lớn. Con người cần phải bắt đầu một cuộc sống mới, một cuộc sống còn nhắm tới những mục đích cao cả khác, chứ không chỉ giới hạn trong những tư lợi và hạnh phúc riêng của mình, v.v…Nói đúng hơn, đó chính là sự sám hối, nghĩa là sống trong tương quan thân tình với Thiên Chúa, để cho Thánh Thần của Người soi sáng, hướng dẫn và biến đổi cuộc sống của mình. Như vậy, sự sám hối ở đây trở thành điều kiện cần thiết cho một cuộc sống theo đúng với kế hoạch của Thiên Chúa. Trong ý nghĩa đó người ta có thể hiểu cuộc sống như một vận may để mang lại hoa trái.
Ðó chính là điều bài Tin Mừng hôm nay muốn đề cập tới, khi coi sự sám hối là một điều cần thiết, và sống có nghĩa là chấp nhận cái vận may đó, mà Thiên Chúa đã ban cho tất cả chúng ta.
Vậy, chúng ta hãy chấp nhận lấy vận may đang trong tầm tay chúng ta. Chúng ta hãy loại bỏ thái độ thờ ơ và tính ươn lười dễ chịu, bởi vì chúng sẽ dẫn chúng ta vào trong ngõ cụt cuộc đời. Trong những điều kiện và hoàn cảnh sống của mình, mỗi người hãy tìm cho cuộc sống riêng của mình một lối thoát thích hợp và đúng đắn. Như thế, cuộc sống chúng ta sẽ trở nên có giá trị, là một niềm vui và là một ơn lành của Thiên Chúa. Amen.
.
TẤT CẢ MỌI NGƯỜI CẦN PHẢI HOÁN CẢI
Lm. Giuse Nguyễn Trung Điểm
Trước những hoạn nạn hoặc tai họa xảy ra, người bàng quang thường bàn tán. Với người họ cho là tốt, họ nhận định: “Ông bà nầy xem ra ăn ở phúc hậu, sao lại bị trời phạt như thế nầy!”. Với người họ không thích, họ phê: “Ăn ở thất đức, trời phạt là phải”. Quan niệm cho là người tội lỗi, ăn ở bất chính thì gặp phải bệnh tật, hoạn nạn, tai họa, là quan niệm rất phổ biến trong dân gian, nhất là thời xưa. Ở Do Thái thời của Đức Giêsu cũng thế. Nghe tin tổng trấn Phi-la-tô giết những người Galilê một cách tàn nhẫn trong đền thờ, hoặc những người bị tháp Silôác đổ xuống đè chết, dân chúng kết luận: họ là người xấu, mắc tội nặng, cho nên mới bị chết một cách khủng khiếp như vậy. Họ xem tai họa là hậu quả của tội lỗi. Ai không bị tai họa thì có thể an tâm cho mình là người tốt.
Chúa Giêsu đã sửa quan niệm coi tai họa là hậu quả của tội lỗi và bảo: “Nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy.” Hoán cải và tin vào Tin Mừng của Chúa Giêsu chính là con đường dẫn vào Nước Thiên Chúa. Vì vậy, suy nghĩ về cuộc sống và chỉnh hướng cuộc sống theo Tin Mừng phải là thái độ sống liên lỉ của tất cả mọi kitô hữu.
Khi nghe đến từ sám hối, chúng ta nghĩ ngay đến việc ăn chay, hãm mình, đánh tội và bao việc lành chúng ta phải làm, để không bị Chúa đoán phạt. Thực ra, sám hối không tiêu cực như thế. Lời đầu tiên Đức Giêsu rao giảng là: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15). Triều Đại Thiên Chúa chính là sự sung mãn Thiên Chúa ban cho loài người, là ý nghĩa cuộc đời, là tương lai và hạnh phúc bất diệt của con người. Và Ngài ban tặng món quà đó qua chính con Ngài là Đức Kitô. Qua cuộc sống, các hoạt động, cuộc thương khó, cái chết và sự sống lại, Đức Kitô đã bộc lộ cho chúng ta biết Thiên Chúa là ai: Người là Tình yêu vô tận. Và Thiên Chúa ao ước cho chúng ta thực tâm đón nhận Tình yêu ấy và từ bỏ những gì cản trở chúng ta trên con đường đến cùng Người. Thiên Chúa không muốn chúng ta làm những việc đạo đức cách miễn cưỡng, sám hối sửa minh bề ngoài, nhưng yêu thương phải được đáp trả bằng yêu thương. Sống yêu thương như Chúa đã yêu thương chúng ta, đó mới là hoán cải thật lòng, là sám hối cụ thể trong đời thường, thể hiện trong tình thương tha nhân, quan tâm đến người khác, tinh thần trách nhiệm, tình liên đới và giúp đỡ cụ thể. Sám hối thực lòng bắt đầu ở con tim và thể hiện ra hành động cụ thể. Và để sống trọn vẹn tình thương ấy, đôi khi chúng ta phải sửa đổi cách sống, nhất là tính ích kỷ và lòng ham muốn hưởng thụ.
Trong ý nghĩa đó, không thể hoán cải một lần là đủ, nhưng con người cần phải làm mãi trong cuộc đời. Không thể nói: tôi đã tốt đủ rồi, không cần phải sửa đổi nữa. Cũng không thể phàn nàn với Chúa: con còn phải làm gì nữa, để Chúa được vui lòng. Nhưng hãy tự hỏi: tôi còn có cách thế nào để bộc lộ lòng tri ân của tôi đối với Chúa, để làm chứng tá hơn nữa cho tình thương lớn lao Chúa dành cho tôi.
Mùa Chay thiết tưởng là thời gian thuận tiện để chúng ta suy tư về cuộc sống của chúng ta trước mặt Chúa, để khám phá những dấu chỉ tình thương của Thiên Chúa trong cuộc đời và trong cuộc sống thường ngày, để nhận định được những gì chúng ta còn có thể sửa đổi, để con đường chúng ta đi được đúng hướng. Lời kêu gọi của Chúa Giêsu không nhằm hăm dọa con người, nhưng là sứ điệp về lòng nhân hậu và lòng thương xót của Thiên Chúa. Cảm nghiệm được tình thương của Người, chúng ta sẽ hoán cải, để đạt được niềm tin sâu xa hơn và cuộc sống bác ái cụ thể hơn.
.
Lm Trần Bình Trọng
Thường khi đọc thánh kinh, ta có khuynh hướng chọn những lời êm ái dịu dàng, những lời có sức làm dịu mát tâm hồn và làm phấn khởi tâm can. Tuy nhiên Chúa cũng dùng những lời khắt khe để cảnh giác dân Người. Trong Phúc âm hôm nay Chúa cảnh tỉnh dân chúng là: Nếu các ông không ăn năn sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy (Lc 13: 3). Chúa Giêsu muốn nói đến những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết không phải vì họ tội lỗi hơn những người Galilê khác, hay mười tám người kia bị tháp Silôác đổ xuống đè chết, không phải vì họ tội nặng hơn những người khác trong thành Giêrusalem. Còn Thánh Phao-lô nhắc nhở cho tín hữu Cô-rin-tô: Ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã (1Cr 10:12). Thánh Phao-lô xác nhận rằng Chúa ban nhiều đặc ân cho dân được chọn trong cuộc giải thoát khỏi cảnh nô lệ bên Aicập. Trong sa mạc, Người đã nuôi dưỡng họ cách kỳ diệu. Họ biết rằng họ là dòng dõi được lựa chọn. Tuy nhiên trong sa mạc, họ đã xúc phạm đến Chúa. Họ rơi vào cái tình trạng tự mãn. Họ nghĩ rằng tất cả mọi sự trong đời sống họ đều tốt đẹp, và họ nghĩ rằng Chúa sẽ săn sóc họ, bất kể việc họ làm. Họ cho rằng họ trổi vượt hơn các dân tộc khác. Từ những cảm nghĩ kiêu căng tự phụ đó, họ đánh mất ơn nghĩa với Chúa, vì phần đông họ không đẹp lòng Thiên Chúa, bằng chứng là họ đã quỵ ngã trong sa mạc (1Cr 10:5).
Nhờ bí tích rửa tội, ta cũng được giải thoát khỏi cuộc lưu đầy trong tội lỗi và trở thành dân tộc mới được chọn. Do đó ta cũng có thể có thái độ tự mãn. Thực ra thì Chúa nhẫn nại chờ đợi ta. Chúa ban cho ta nhiều cơ hội để sửa đổi cuộc sống. Chúa ban cho ta thời giờ để cắt tỉa, vun xới và tưới bón, khả dĩ có thể mang lại hoa trái thiêng liêng trong đời sống. Và đó là ý nghĩa về dụ ngôn cây vả trong phúc âm hôm nay. Chúa kêu gọi ta phải sinh hoa kết quả thiêng liêng. Nhưng làm sao ta có thể sinh hoa trái trong miền đất khô chồi cằn cỗi của tâm hồn. Để có thể sinh hoa kết quả trong đời sống, ta phải cắt tỉa, phải vun xới và tưới bón. Vậy thề nào là cắt tỉa trong đời sống thiêng liêng? Ta phải cắt bỏ tội lỗi và nết xấu, và còn cắt bỏ dịp tội. Rồi ta phải vun xới cho đời sống thiêng liêng bằng việc dự lễ, đọc kinh, cầu nguyện, ăn chay hãm mình và làm việc từ thiện bác ái. Ta còn phải tưới bón cho tâm hồn bằng của ăn thiêng liêng là lời Chúa và Mình thánh Chúa.
Giáo hội dùng mùa chay như là phương thế để giúp ta ăn năn sám hối và trở về với Chúa. Thường ta dễ thấy lỗi lầm của người khác, nhưng lại khó chấp nhận những lầm lỗi của mình. Khi có xích mích với người khác, ta luôn cho mình là phải và đúng. Khi nói về tội, ta cũng thường chỉ nghĩ về tội trong hành động, mà không mấy khi nghĩ về tội trong tư tưởng. Chúa phán: Từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu (Mk 7:22). Tâm lý học cũng xác định là hành động là do tư tưởng mà ra. Nếu ta cho rằng ta vô tội và đạo đức, thì đâu là những hoa quả thiêng liêng trong đời sống? Có phải mỗi tuần ta đến nhà thờ lẩm bẩm vài câu kinh một cách máy móc theo thói quen hình thức? Hay là ta đã sống tâm tình cầu nguyện, hướng lòng về Chúa và kết hợp với Chúa. Đâu là gương sáng của ta cho con cái? Đâu là những gương hi sinh, vị tha, bác ái? Thiết tưởng hôm nay và trong mùa chay này, ta cần tự xét và kiểm điểm xem đâu là hoa quả của đời sống thiêng liêng?
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT III MÙA CHAY_C.
Lm. Anthony Trung Thành
Người Hồi giáo thường kể rằng: Ngày kia Đức Ala truyền cho một sứ thần xuống thế gian tìm xem có điều gì tốt đẹp nhất để mang về trời.
Sứ thần đáp ngay xuống một chiến trường máu của các vị anh hùng đang chảy lai láng. Sứ thần thu nhặt một ít máu mang về cho Đức Ala. Nhưng xem ra Đức Ala không hài lòng mấy.
Ngài bảo: “Máu đổ ra cho tổ quốc và tôn giáo là một điều qúi giá, nhưng vẫn chưa phải là điều tốt đẹp nhất nơi trần gian”.
Sứ thần đành phải giáng thế một lần nữa. Lần này ngài gặp đám tang của một người giầu có nhưng rất quảng đại. Vô số người nghèo đi theo sau quan tài, vừa đi vừa khóc lóc vừa xông hương để biểu lộ lòng biết ơn của họ đối với vị đại ân nhân. Sứ thần liền thu nhặt hương thơm và mang về trời. Lần này Đức Ala mỉm cười đón lấy hương thơm ngào ngạt. Nhưng xem ra Ngài vẫn chưa hài lòng. Ngài nói: “Dĩ nhiên lòng biết ơn là một trong những điều tốt đẹp và hiếm có dưới trần gian. Nhưng Ta nghĩ rằng còn có một cái gì tốt đẹp hơn”.
Lại một lần nữa, sứ thần đành phải vâng lệnh. Sau nhiều ngày tìm kiếm khắp bốn phương, một buổi chiều nọ ngồi nghỉ bên vệ đường Ngài bỗng thấy một người đàn ông đang khóc sướt mướt. Trước câu hỏi đầy ngạc nhiên của sứ thần, người đàn ông giải thích: “Tôi đã chiều theo cơn cám dỗ mà phạm tội. Giờ đây nước mắt là lương thực hằng ngày của tôi”.
Sứ thần giơ tay hứng lấy những giọt nước mắt còn nóng hổi và thẳng cánh bay về trời. Đức Ala chăm chú nhìn những giọt nước mắt rồi mỉm cười nói: “Thế là ngươi đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Quả thật, dưới trần gian không có gì tốt đẹp và hữu ích cho bằng lòng sám hối. Bởi vì nó có sức canh tân cuộc đời. Một lòng sám hối chân thật có sức biến đổi mùa đông giá rét của lòng người thành mùa xuân ấm áp của tình yêu”. (D. Wahrheit, Món quà Giáng sinh, tr 304)
Câu chuyện trên đây cho chúng ta thấy tầm quan trọng của việc thống hối. Không có gì tốt đẹp bằng lòng thống hối. Thống hối có sức canh tân cuộc đời. Thống hối là điều kiện để được tha tội khi lãnh nhận Bí tích Giao Hoà. Vì vậy, chúng ta thấy thống hối là chủ đề xuyên suốt toàn bộ Kinh Thánh. Thời cựu ước, các ngôn sứ luôn kêu gọi dân chúng thống hối. Đáp lại lời mời gọi đó, rất nhiều cá nhân cũng như tập thể đã thống hối từ bỏ tội lỗi của mình. Trổi vượt hơn cả là gương thống hối của vua Đavít; sự thống hối của dân thành Ninivê. Thánh Gioan Tẩy Giả không những rao giảng về sự thống hối, mà còn làm phép rửa thống hối và dân chúng đã tuôn đến với Ngài rất đông. Khởi đầu sứ mạng rao giảng Tin mừng, Chúa Giêsu đã kêu mời sự thống hối: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”(Mc 1,15).
Con người cần phải thống hối vì bản tính con người là bất toàn, tội lỗi. Đức cố Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận có lần đã nói: « Vị thánh nào cũng có một quá khứ, và người tội lỗi nào cũng có một tương lai. Quá khứ là dĩ vãng yếu đuối. Tương lai là ngày mai tốt hơn, thánh thiện. Nhưng sự khác biệt giữa thánh nhân và người tội lỗi chính là sự sám hối, lòng ăn năn”.
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy, sau khi kể cho dân chúng và các môn đệ nghe hai câu chuyện tai nạn xảy ra: Câu chuyện thứ nhất về việc quan Philatô giết mấy người Galilê, làm cho máu họ hoà lẫn với máu các vật họ tế sinh; câu chuyện thứ hai về việc mười tám người bị tháp Silôe đổ xuống đè chết. Chúa Giêsu nói rõ ràng rằng: “Các ngươi tưởng rằng mấy người xứ Galilê bị ngược đãi như vậy là những người tội lỗi hơn tất cả những người khác ở xứ Galilê ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế”(Lc 13,2). Rồi Ngài kết luận: “Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy”(Lc 13,5).
Như vậy, điều quan trọng mà Chúa Giêsu mong muốn chúng ta thực hiện chính là phải có lòng thống hối. Nếu chúng ta không có lòng thống hối thì cũng sẽ bị tiêu diệt như những người trong hai câu chuyện trên đây. Thống hối về những tội nào? Chúng ta phải thống hối về các tội trong tư tưởng, lời nói, việc làm và cả những tội thiếu sót. Trong Kinh thú nhận chúng ta thường đọc: “Tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót”. Thông thường, chúng ta chỉ xét mình và xưng những tội trong tư tưởng, lời nói và việc làm, ít khi chúng ta xét mình và xưng các tội thiếu sót. Thiếu sót về bổn phận: Bổn phận đối với Chúa, đối với Giáo hội, đối với tha nhân. Thiếu sót vì không làm điều tốt khi có thể làm được. Thánh Giacôbê đã nói: “Kẻ nào biết làm điều tốt mà không chịu làm thì mắc tội”(Gc 4,17).
Chúng ta không vi phạm luật, không làm điều xấu vẫn chưa đủ mà còn cần phải làm điều tốt. Bổn phận của cây vả là sinh trái tốt. Bổn phận của kitô hữu là sinh hoa trái việc lành. Cây vả không sinh trái sẽ bị chặt đi. Người kitô hữu không sinh hoa trái việc lành cũng sẽ chung số phận như vậy.
Trong dụ ngôn người Phú hộ và ông Lazarô cho chúng ta thấy: Nhà Phú hộ bị phạt trong Hoả ngục không phải vì giàu có, nhưng vì có cơ hội làm việc lành mà không làm. Đó cũng là lý do mà Chúa Giêsu nói với những người bên tả của Ngài trong ngày phán xét:“Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng”(Mt 25, 42-43).
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta có tinh thần thống hối. Thống hối về tội lỗi trong tư tưởng, lời nói, việc làm. Thống hối về những tội thiếu sót. Đồng thời, xin Chúa cho chúng ta luôn tránh xa tội lỗi và cố gắng “sinh hoa trái” là những việc lành phúc đức. Amen.
.
Trầm Thiên Thu
Trong âm nhạc, dấu lặng không được biết đến nhưng lại thực sự quan trọng. Dấu lặng cần thiết để “lấy hơi” hoặc nghỉ ngơi để có thể diễn tấu tiếp, đôi khi chỉ là “dấu ngắt”, nhất là đối với ca sĩ, họ là người làm sống động các bài hát, ca sĩ xử lý hơi thở và giai điệu càng tốt thì bài hát càng hay. Không chỉ vậy, các dấu lặng có trường độ ngắn đôi khi tạo được nét độc đáo cho giai điệu.
Trong cuộc sống, người ta cũng rất cần thời gian nghỉ ngơi để lấy lại sức. Chúa Giêsu cũng bảo các môn đệ “hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6:31). Đó là “dấu lặng” cần thiết trong giai điệu cuộc sống – cả đời thường và tâm linh. Loại “dấu lặng” đặc trưng đó tuy “tĩnh” mà vẫn “động”, không hề “lặng” vì tinh thần vẫn hoạt động. Lòng thương xót của Chúa có vẻ tĩnh mà rất động. Kinh Thánh cho biết: “Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự. Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải” (Kn 11:23).
Thiên Chúa chỉ muốn tình yêu chứ không cần thứ gì khác (1 Sm 15:22; Tv 50:8-9; Tv 51:18; Hs 6:6). Ngài rất kiên nhẫn, Ngài cũng muốn chúng ta phải kiên nhẫn – với tha nhân và với chính mình. Kiên nhẫn hoặc nhẫn nại là trạng thái chịu đựng trong những lúc khó khăn – tinh thần và vật chất, nghĩa là can đảm và kiên trì đối mặt với điều trái ý mà không tỏ vẻ khó chịu, bồn chồn hoặc thất vọng. Kiên nhẫn là một đức tính giúp đạt sự thành công ở đời, đồng thời cũng là nhân đức trong đời sống tâm linh, là dấu-lặng-sống-động thể hiện lối sống nhân đức.
Khi kiên nhẫn, người ta chịu đựng một mình, người ta chủ động chứ không thụ động. Đó là sức mạnh tập trung cao độ của con người. Sự kiên nhẫn rất cần thiết vì là loại “cỏ quý” như bùa hộ mạng luôn đem theo bên mình, nhưng phải khổ luyện mới khả dĩ đạt được, như Hellen Keller nhận định: “Chúng ta không bao giờ có thể học được sự can đảm và kiên nhẫn nếu chỉ có niềm vui trên thế gian này”. Nghĩa là chúng ta phải có mục đích nào đó vượt trên những gì trần tục, khác hẳn với những người bình thường. Khác người chứ không lập dị hoặc dị hợm.
Kinh Thánh cho biết rằng ngày xưa, ông Môsê chăn chiên cho bố vợ là Gítrô, tư tế Mađian. Ông dẫn đàn chiên qua bên kia sa mạc, đến núi của Thiên Chúa, là núi Khôrếp. Bỗng nhiên Thiên sứ của Đức Chúa hiện ra với ông trong đám lửa từ giữa bụi cây. Ông Môsê nhìn thì thấy bụi cây cháy bừng mà không bị thiêu rụi. Thấy lạ, ông tự nhủ: “Mình phải lại xem cảnh tượng kỳ lạ này mới được: vì sao bụi cây lại không cháy rụi?” (Xh 3:3). Đức Chúa thấy ông lại xem, tiếng Thiên Chúa phát ra từ giữa bụi cây: “Môsê! Môsê!”. Ông thưa: “Dạ, tôi đây!” (Xh 3:4). Người phán: “Chớ lại gần! Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là ĐẤT THÁNH” (Xh 3:5). Nơi nào có Thiên Chúa thì nơi đó là Linh Địa, là Đất Thánh, vì Thiên Chúa là Đấng Thánh (Lv 11:44-45; Lv 19:2; Lv 20:26; Lv 21:8; Tv 89:36; Tv 99:5 & 9; Is 6:3; Br 4:22; Hs 11:9; Am 4:2; 1 Pr 1:16; Ga 6:69).
Sau đó, Thiên Chúa lại phán: “Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa của Ápraham, Thiên Chúa của Ixaác, Thiên Chúa của Gia-cóp” (Xh 3:6). Ông Môsê phải che mặt đi, vì SỢ NHÌN PHẢI THIÊN CHÚA. Tại sao vậy? Không phải là Thiên Chúa dữ tợn hoặc dị dạng khó coi, mà Thiên Chúa là Đấng Thánh. Mắt phàm nhân không thể nhìn thẳng vào mặt trời thì làm sao nhìn Thiên Chúa – Đấng là Nguồn Sáng? Biết vậy nên Đức Chúa liền trấn an ông Môsê: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai-cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật, xứ sở của người Canaan, Khết, Emôri, Pơrítdi, Khivi và Giơvút” (Xh 3:7-8). Thiên Chúa biết rõ mọi điều từ trong suy nghĩ của con người, Ngài thấu suốt mọi sự (1 Sb 28:9b; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Gr 10:12; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 10 :12; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 2:10; 1 Cr 12:4-6; 1 Ga 3:20), thực sự Ngài chỉ muốn chúng ta thật lòng và kiên trì kêu xin thì sẽ được toại nguyện.
Lúc đó, ông Môsê thân thưa với Thiên Chúa: “Bây giờ, con đến gặp con cái Ítraen và nói với họ: Thiên Chúa của cha ông anh em sai tôi đến với anh em. Vậy nếu họ hỏi con: Tên Đấng ấy là gì? Thì con sẽ nói với họ làm sao?” (Xh 3:13). Thiên Chúa xác nhận với ông Môsê: “Ta là ĐẤNG HIỆN HỮU. Ngươi nói với con cái Ítraen thế này: Đấng Hiện Hữu sai tôi đến với anh em” (Xh 3:14). Không vòng vo. Trực tiếp. Chính xác. Rõ ràng. Thiên Chúa lại phán với ông Môsê: “Ngươi sẽ nói với con cái Ítraen thế này: Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của Ápraham, Thiên Chúa của Ixaác, Thiên Chúa của Giacóp, sai tôi đến với anh em. Đó là danh Ta cho đến muôn thuở, đó là danh hiệu các ngươi sẽ dùng mà kêu cầu Ta từ đời nọ đến đời kia” (Xh 3:15).
Khi đọc đoạn Kinh Thánh này và biết rằng Thiên Chúa mà chúng ta đang tin kính và tôn thờ là ĐẤNG HIỆN HỮU, chắc chắn chúng ta thực sự hạnh phúc vì chúng ta đang có đức tin chính thống và sự tôn thờ đúng đắn, không mơ hồ hoặc dị đoan chi cả. Quả thật, XƯA NAY CHƯA MỘT THẦN LINH NÀO DÁM TỰ XƯNG NHƯ VẬY. Nhưng Thiên Chúa của chúng ta đã xác định rõ ràng và chắc chăn: TA LÀ ĐẤNG HIỆN HỮU (Xh 3:14; Ga 8:28). Và Ngài cũng là ĐẤNG TỰ HỮU và HẰNG SỐNG. Hãy tạ ơn Chúa đã soi sáng cho chúng ta đi đúng Đường Chân Lý của Thiên Chúa Thật. Sự may mắn mầu nhiệm chứ không ngẫu nhiên.
Chắc hẳn như vậy nên Thánh Vịnh gia luôn tự nhủ: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh! Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên mọi ân huệ của Người” (Tv 103:1-2). Thế mà con người vẫn quá hèn yếu, luôn xin và muốn được toại nguyện, nhưng ít người còn biết nhớ ơn để mà tạ ơn. Phúc Âm đã đề cập một ví dụ điển hình: Mười người được ơn, nhưng chỉ có một người trở lại tạ ơn Chúa, mà người biết ơn đó lại là người ngoại đạo (x. Lc 17:11-18), chắc chắn CHÍN NGƯỜI VÔ ƠN BẠC NGHĨA KIA LÀ NGƯỜI CÓ ĐẠO – dù người đó ở cấp bậc nào, nói chung là những người mệnh danh Kitô hữu, đừng vội mạo nhận mà cho rằng người địa vị cao thì “ngon” hơn người ở địa vị thấp! Chính Chúa Giêsu đã đặt vấn đề: “Thế thì chín người kia đâu?”. Rất rõ ràng. Rất nghiêm túc. Rất thực tế. Rất nhẹ nhàng mà lại rất đau nhức – nhói buốt tận tủy xương!
Nhưng rồi mỗi khi gặp trắc trở, con người mới “giật mình” và lại hối cải: “Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà” (Tv 103:3-4). Thiên Chúa luôn thông cảm và “chịu đựng” nên vẫn luôn nhân hậu và xót thương, Ngài “phân xử công minh, bênh quyền lợi những ai bị áp bức, mặc khải cho Môsê biết đường lối của Người, cho con cái nhà Ít-ra-en thấy những kỳ công Người thực hiện” (Tv 103:6-7), bởi vì “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người CHẬM GIẬN và GIÀU TÌNH THƯƠNG” (Tv 103:8). Nhân loại không thể hiểu thấu kiểu yêu thương kỳ lạ như vậy: “Như trời xanh trổi cao hơn mặt đất, tình Chúa thương kẻ thờ Người cũng trổi cao” (Tv 103:11). Nếu không có lòng thương xót kỳ lạ như vậy của Thiên Chúa thì tất cả chúng ta cùng đường, hết đường sống, thực sự “tận cùng bảng số” (theo kiểu nói ngày nay).
Đối với Saolê, từ một người Pharisêu và “chuyên gia” về việc bách hại đạo, bỗng biến thành Phaolô nhiệt thành rao giảng về một Nhân Vật Quan Trọng (VIP) mà chính ông đã tìm mọi cách để triệt hạ. Nhưng rồi ông không thể im lặng mà phải nói ra: “Thưa anh em, tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì về việc này: là tất cả cha ông chúng ta đều được ở dưới cột mây, tất cả đều vượt qua Biển Đỏ. Tất cả cùng được chịu phép rửa dưới đám mây và trong lòng biển, để theo ông Môsê. Tất cả cùng ăn một thức ăn linh thiêng, tất cả cùng uống một thức uống linh thiêng, vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy chính là Đức Kitô” (1 Cr 10:1-4). Chữ “tất cả” và chữ “một” khác nhau hoàn toàn, thế nhưng lại không hề khác chút nào. Dù “thuận” hay “nghịch” cũng vẫn trong một tổng thể hài hòa.
Và rồi Thánh Phaolô nói thêm: “Nhưng phần đông họ không đẹp lòng Thiên Chúa, bằng chứng là họ đã quỵ ngã trong sa mạc. Những sự việc ấy xảy ra để làm bài học, răn dạy chúng ta đừng chiều theo những dục vọng xấu xa như cha ông chúng ta” (1 Cr 10:5-6). Cuộc đời mỗi chúng ta cũng vậy, thất bại và đau khổ luôn là bài học quý giá, là dấu lặng cần thiết, dù dấu lặng đó dài hay ngắn. Đó chính là tiếng Chúa cảnh cáo để thức tỉnh chúng ta, vì Ngài luôn hiện hữu trong mọi biến cố của cuộc đời. Chắc hẳn cố nhạc sư Hùng Lân đã cảm nghiệm điều đó nên ông viết trong bài thánh ca “Chúa Có Mặt Trong Lịch Sử Loài Người” với ca từ đậm chất Đức Tin trong phần điệp khúc: “Chúa có mặt trong lịch sử cuộc đời, Chúa có mặt trong lịch sử đời tôi. Từ thời hồng hoang tuổi đá, khi nhân loại như thú rừng, dần dà ngự trị thiên nhiên, không gian thời gian mấy trùng. Từ lúc bước vô trần gian cùng tiếng khóc oa oa, đời con Chúa đã an bài trong thiết tha”. Vâng tất cả đều được Thiên Chúa quan phòng và tiền định, dù chỉ là một sợi tóc mong manh và nhỏ nhoi.
Thiên Chúa là Dấu Lặng Vĩ Đại trong Tình Khúc Thương Xót. Ngài vẫn luôn kiên nhẫn chờ đợi tội nhân trở về với Ngài, đến nỗi người ta cảm thấy khó tin mà cho rằng “không hề có Thiên Chúa”. Mặc dù chúng ta không ngừng tái phạm, toàn hứa lèo, nhưng lòng thương xót của Ngài vẫn bao phủ tất cả, lớn hơn mọi tội lỗi của cả thế gian này (Nhật Ký Thánh Faustina, số 1485). Thánh Phaolô đã cảm nhận được sâu sắc về lòng thương xót của Chúa nên đã khuyên nhủ: “Anh em đừng lẩm bẩm kêu trách, như một số trong nhóm họ đã lẩm bẩm kêu trách: họ đã chết bởi tay Thần Tru Diệt. Những sự việc này xảy ra cho họ để làm bài học, và đã được chép lại để răn dạy chúng ta, là những người đang sống trong thời sau hết này” (1 Cr 10:10-11). Do đó, không ai dám mạo nhận bất cứ điều gì, vì “ai tưởng mình đang đứng vững thì hãy coi chừng kẻo ngã” (1 Cr 10:12). Không ảo tưởng và luôn tỉnh thức, đó là biết sống kiên nhẫn, biến mình thành một dấu lặng nhỏ trong trường ca Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
Thánh sử Luca tường thuật rằng, vào một ngày nọ, có mấy người đến kể lại cho Đức Giêsu nghe chuyện những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng. Đức Giêsu hỏi lại: “Các ông tưởng mấy người Galilê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Galilê khác sao?” (Lc 13:2). Tình trạng “tưởng mình hơn người” rất thường xảy ra trong ý nghĩ của chúng ta. Đó là ý tưởng “chết người”. Điều này gợi nhớ tới dụ ngôn hai người cùng lên Đền Thờ để cầu nguyện (x. Lc 18:9-14). Chúng ta quên (hoặc không muốn nhớ) rằng chính Chúa Giêsu đã minh định: “Chẳng có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa” (Lc 18:19). Xác định như vậy và biết mình chỉ là số-không-to-lớn-rỗng-tuếch để có thể đè bẹp “cái tôi tồi tệ” của mình.
Và Chúa Giêsu cũng đã cảnh báo: “Nếu các ông không sám hối thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy. Cũng như mười tám người kia bị tháp Silôác đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giêrusalem sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy” (Lc 13:3-5). Chúa Giêsu cảnh báo quá nhiều mà người ta vẫn không muốn lắng nghe, phải chăng người ta nghĩ rằng Ngài là người-thích-đùa chăng? Không, hoàn toàn Ngài không đùa, Ngài đang kiên nhẫn và chịu đựng đấy thôi. Chính sự kiên nhẫn của Ngài là lòng thương xót Ngài dành cho chúng ta vậy.
Rồi Đức Giêsu kể dụ ngôn này: Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, nên bảo người làm vườn: “Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?” (Lc 13:7). Nhưng người làm vườn đáp: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi” (Lc 13:8-9). Ai xin chủ nhân trì hoãn việc đốn cây? Đó là Chúa Giêsu – Người Con Thừa Tự của Chủ Nhân. Chính Ngài đã mặc khải Thiên Chúa, đã chịu đau khổ và chịu chết để minh chứng Tình Yêu – Lòng Thương Xót, nhưng hầu như vô hiệu. Rồi Ngài lại mặc khải Thánh Tâm qua Thánh nữ Margaritta Maria Alacoque (1647-1690), và ngày nay là Lòng Thương Xót – được mặc khải qua Thánh nữ Maria Faustyna Kowalska (1905-1938). Quả thật, Thiên Chúa vô cùng kiên nhẫn vì yêu thương những thụ tạo khốn nạn là chính mỗi chúng ta!
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, chúng con thật lòng xin lỗi Ngài vì chúng con quá tồi tệ mà vẫn ảo tưởng, xin biến đổi trái tim xơ cứng của chúng con để chúng con không phụ lòng kiên nhẫn và nhân từ của Ngài, đồng thời có thể phần nào đáp lại Tình Yêu bao la của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
.
SÁM HỐI LÀ HOA TRÁI MÀ THIÊN CHÚA MONG ĐỢI
Nguyễn Văn Nội
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Trọng tâm của Mùa Chay là ăn năn sám hối, là cải tà quy chính, là thay đổi suy nghĩ và hành động, cả trong phạm vi cá nhân lẫn trong phạm vi gia đình, giáo xứ, giáo phận. Nếu chúng ta kiểm điểm một cách nghiêm túc thì chúng ta sẽ thấy rằng chúng ta chưa làm được bao nhiêu, so với điều mà Thiên Chúa mong đợi.
Lời Chúa trong đoạn Sách Xuất Hành chúng ta đọc hôm nay cho chúng ta biết Thiên Chúa là Đấng – vì yêu thương và quí trọng con cái Ít-ra-en- nên đã cứu thoát họ khỏi cảnh nô lệ Ai-cập. Lời Chúa trong đoạn Phúc Âm Lu-ca thì cho chúng ta biết Thiên Chúa mong đợi hoa trái sám hối ở các tín hữu. Hoa trái sám hối ấy không chỉ là những tâm tình đạo đức mà còn phải là những hành động cứu người, cứu xã hội, cứu thế giới.
Chúng ta được mời gọi nhìn sâu vào cõi lòng và cách sống của mình mà kịp thời thay đổi, để mỗi ngày mỗi tuần còn lại của Mùa Chay năm nay là một ngày, một tuần của sám hối, của sửa mình, của sinh hoa kết trái thánh thiện.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Trong bài đọc 1 (Xh 3, 1-8a.13-15): ‘Đấng Hiện Hữu sai tôi đến với anh em.’ Trong những ngày ấy, Mô-sê chăn chiên cho ông nhạc là Giêt-rô, tư tế xứ Ma-đi-an. Ông lùa đoàn chiên qua sa mạc, đến núi Ho-reb là núi của Thiên Chúa. Thiên Chúa hiện ra với ông trong ngọn lửa cháy từ giữa bụi gai. Ông nhìn thấy bụi gai bốc lửa, nhưng không bị thiêu rụi. Mô-sê nói: “Ta hãy lại xem cảnh tượng kỳ lạ này, vì sao bụi gai không bị thiêu rụi”.
Thiên Chúa thấy ông lại xem, từ giữa bụi gai Người gọi ông: “Mô-sê! Mô-sê!” Ông thưa: “Dạ con đây!” Chúa nói: “Ngươi đừng đến gần đây. Hãy cởi dép ở chân ra, vì chỗ ngươi đang đứng là nơi thánh”. Chúa lại nói: “Ta là Thiên Chúa của Tổ phụ ngươi. Thiên Chúa của A-bra-ham, Thiên Chúa của I-sa-ac, Thiên Chúa của Gia-cóp”. Mô-sê che mặt, vì không dám nhìn Thiên Chúa. Chúa nói: “Ta đã thấy dân Ta phải khổ cực ở Ai-cập. Ta đã nghe tiếng chúng kêu than kẻ đốc công áp bức. Ta biết nỗi đau khổ của chúng, nên Ta xuống cứu chúng thoát khỏi tay người Ai-cập và đưa ra khỏi đất ấy đến miền đất tốt tươi rộng lớn, đất tràn trề sữa và mật”.
Mô-sê thưa với Thiên Chúa rằng: “Này con sẽ đến với con cái Is-ra-el và bảo họ: Thiên Chúa của tổ phụ anh em đã sai tôi đến với anh em. Nếu họ hỏi con: ‘Tên Người là gì?’, con sẽ nói sao với họ?” Thiên Chúa nói với Môsê: “Ta là Đấng Tự Hữu”. Chúa nói: “Ngươi sẽ bảo con cái Israel thế này: ‘Đấng Tự Hữu sai tôi đến với anh em’ “.
Thiên Chúa lại nói với Mô-sê: “Ngươi sẽ bảo con cái Is-ra-el thế này: ‘Thiên Chúa của tổ phụ anh em, Thiên Chúa của A-bra-ham, Thiên Chúa của I-sa-ac, Thiên Chúa của Gia-cóp sai tôi đến với anh em’. Đó là danh Ta cho đến muôn đời, đó là danh Ta phải ghi nhớ qua mọi thế hệ”.
2.2 Trong bài đọc 2 (1 Cr 10,1-6.10-12): “Đời sống dân chúng đối với Mô-sê trong hoang địa được viết ra để răn bảo chúng ta.” Anh em thân mến, tôi không muốn để anh em không hay biết điều này, là tất cả cha ông chúng ta đã được ở dưới áng mây, đi ngang qua biển và tất cả nhờ Môsê mà được thanh tẩy, dưới áng mây và trong lòng biển; tất cả đã ăn cùng một thức ăn thiêng liêng, và uống cùng một thức uống thiêng liêng. Thật vậy, tất cả đã uống nước phát xuất từ tảng đá thiêng liêng đi theo họ: tảng đá ấy chính là Chúa Ki-tô. Tuy nhiên, không phải phần đông trong họ đã sống đẹp lòng Chúa, vì họ đã bị gục ngã trong hoang địa.
Bao nhiêu sự kiện đó nêu gương cho chúng ta, để chúng ta đừng chiều theo những dục vọng xấu xa như những người đó đã chiều theo. Anh em đừng lẩm bẩm kêu trách như một số người trong bọn họ đã làm, và đã vong mạng bởi tay một sứ thần huỷ diệt. Những việc đó đã xảy đến cho họ để làm gương, và đã được ghi chép để răn bảo chúng ta là những người đang sống trong thời đại cuối cùng. Thế nên, ai tưởng mình đang đứng vững, hãy ý tứ kẻo ngã.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Lc 13,1-9): “Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy.” Khi ấy, có những kẻ thuật lại cho Chúa Giê-su về việc quan Phi-la-tô giết mấy người Ga-li-lê, làm cho máu họ hoà lẫn với máu các vật họ tế sinh. Ngài lên tiếng bảo: “Các ngươi tưởng rằng mấy người xứ Ga-li-lê bị ngược đãi như vậy là những người tội lỗi hơn tất cả những người khác ở xứ Ga-li-lê ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế. Nhưng nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy. Cũng như mười tám người bị tháp Silôe đổ xuống đè chết, các ngươi tưởng họ tội lỗi hơn những người khác ở Giê-ru-sa-lem ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế. Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy”.
Ngài nói với họ dụ ngôn này: “Có người trồng một cây vả trong vườn nho mình. Ông đến tìm quả ở cây đó mà không thấy, ông liền bảo người làm vườn rằng: ‘Kìa, ba năm nay ta đến tìm quả cây vả này mà không thấy có. Anh hãy chặt nó đi, còn để nó choán đất làm gì!’ Nhưng anh ta đáp rằng: ‘Thưa ông, xin để cho nó một năm nay nữa, tôi sẽ đào đất chung quanh và bón phân; may ra nó có quả chăng, bằng không năm tới ông sẽ chặt nó đi'”.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI KINH THÁNH
3.1 Chân dung của Thiên Chúa
3.1.1 Bài đọc 1 (Xh 3, 1-8a.13-15) là một trong những đoạn văn hay nhất của Sách Xuất Hành, vì đoạn văn này tường thuật việc Thiên Chúa tự mạc khải mình cho nhân loại qua ông Mô-sê, không chỉ bằng lời nói mà còn bằng việc làm:
Trước hết Thiên Chúa tỏ lộ Ngài là Đấng Thánh, Đấng Siêu Việt, Đấng Vô Hình, Đấng Tự Hũu mà con người không nhìn thấy, không thể tiếp cận trực tiếp (mà không phải chết!).
Thứ đến, Thiên Chúa cho thấy Ngài là Đấng quan tâm đến cuộc sống của những người Ít-ra-en nên Người nghe thấy tiếng kêu than của họ.
Sau cùng Thiên Chúa mạc khải là Đấng không thể ngồi yên trước nỗi thống khổ của con dân Ít-ra-en nên nẩy ra sáng kiến cứu thoát, giải phóng họ khỏi cảnh nô lệ Ai -cập, qua một chương trình và kế hoạch mà chính Người thực hiện qua trung gian và công cụ là ông Mô-sê, tôi tớ của Ngài.
3.1.2 Bài đọc 2 (1 Cr 10,1-6.10-12) là những lời giãi bày chí lý của Thánh Phao-lô Tông đồ nhằm khuyên nhủ các tín hữu Cô-rin-tô hãy biết rút ra bài học bổ ích từ lịch sử của dân Chúa, từ cách sống của những người Ít-ra-en trong thời Xuất Hành được xem là cha ông của họ trong dòng dõi những kẻ tin vào Thiên Chúa.
Trong đoạn 1 Cr 10,1-6.10-12 trên, chúng ta thấy Thiên Chúa đã ân cần và rộng tay ban phát nhiều ơn huệ như thế nào cho những người Ít-ra-en: Người đã giải thoát họ khỏi cảnh nô lệ Ai-cập, đã nuôi sống họ trong suốt 40 năm hành trình xuyên qua sa mạc về Đất Hứa, đã tỏ ra quyền năng và luôn hiện diện bên họ. Thế nhưng nhiều người trong số họ vẫn không tin vào tình thương và quyền năng của Người, vẫn lẩm bẩm than trách mỗi khi gặp khó khăn trở ngại, vẫn quay lưng lại với Người để đi tìm các tà thần…
3.1.3 Bài Tin Mừng (Lc 13,1-9) là tường thuật của Lu-ca về hai quan điểm khác nhau trước một sự kiện cụ thể vừa xẩy ra. Sự kiện đó là những người Ga-li-lê bị tổng trấn Phi-la-tô giết chết khi họ đang tiến hành việc dâng của lễ cho Thiên Chúa. Theo quan điểm của những người Do-thái (tiêu biểu là các kinh sư và Pha-ri-sêu) thì những người Ga-li-lê kia bị giết là vì họ là những người tội lỗi, nên bị Thiên Chúa trừng phạt (bằng bàn tay của Phi-la-tô). Còn theo Chúa Giê-su thì sự việc không thể giải thích như thế. Chúa Giê-su không đưa ra một giải thích nào mà chỉ nhân đó lên tiếng cảnh cáo những người Do-thái là hãy coi chừng: đừng kiêu căng, tự phụ mà xem thường và kết án người khác; đừng suy diễn lung tung theo sự hiểu biết hẹp hòi của mình mà vi phạm đến quyền bá chủ lịch sử của Thiên Chúa. Điều quan trọng mà Thiên Chúa mong đợi ở họ là họ phải có đời sống tốt lành, thánh thiện như Giới Răn và Lề Luật đã dạy. Chúa Giê-su kể dụ ngôn cây trồng trong vướn nho không sinh trái để khéo léo và tế nhị nhắc nhở họ điều quan trọng ấy.
Trong đoạn Phúc Âm Lc 13,1-9 này, Chúa Giê-su cho thấy ý nghĩa và mục đích của cuộc sống con người, nhất là của những kẻ tin, là sinh hoa kết trái tức sám hối, khiêm nhường và tin vào Tin Mừng. Cây vả không sinh trái thì sớm muộn gì cũng sẽ bị chặt đi và ném vào lửa, vì nó sống chỉ làm hại đất. Kẻ tin không sinh trái thì sớm muộn gì cũng bị loại trừ vì những người ấy chỉ làm uổng công tình thương và quyền năng và ơn huệ của Thiên Chúa mà thôi!
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa
(1) Nếu chúng ta chú ý vào bài đọc 1 thì sứ điệp của Lời Chúa sẽ là: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai-cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật… Bây giờ, ngươi hãy đi! Ta sai ngươi đến với Pha-ra-ô để đưa dân Ta là con cái Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập.”
(2) Còn nếu chúng ta chú ý vào bài Phúc Âm thì sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là chúng ta hãy sinh hoa kết trái trong đời sống đức tin vì chính Chúa Giê-su đã cảnh cáo: “Nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy.”
Hai sứ điệp trên không hề mâu thuẫn nhau, trái lại bổ sung cho nhau vì thật ra không hoa quả sám hối nào tốt đẹp cho bằng những hành động giải thoát cứu vớt những người bé nhỏ và chịu thiệt thòi trong xã hội loài người.
IV. SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa
Là Đấng gần gũi với con dân của Người là Ít-ra-en và tất cả chúng ta; Người quan tâm chăm sóc, cứu vớt con dân của Người là Ít-ra-en và tất cả chúng ta. Nhưng Thiên Chúa cũng là Đấng đòi hỏi mỗi một người phải sinh hoa trái tốt lành thánh thiện trong đời sống đức tin là tham gia vào việc giải thoát anh em đồng loại khỏi cảnh nô lệ. Năm Tân Phúc Âm hóa đời sống xã hội cũng nhằm mục đích tốt lành ấy.
4.2 Thực thi sứ điệp của Lời Chúa
Tôi xét mình xem
* Tôi có tuân phục thánh ý Chúa và thực thi sứ mệnh Chúa giao là bênh vực và giải thoát những người bị bất công và áp bức, như ông Mô-sê không?
* Tôi có biết rút ra bài học của lịch sử, của quá khứ mà sống biết ơn và gắn bó với Chúa Giê-su Ki-tô, như lời nhắn nhủ của Thánh Phao-lô không?
* Tôi có sống ăn năn sám hối, khiêm nhu và thánh thiện, như lời Chúa Giê-su nhắc nhở các kinh sư và Pha-ri-sêu trong Phúc Âm không?
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
5.1 «Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng! Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai-cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật!» Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi dân, mọi nước trong thế giới hôm nay để ai nấy đều nhận biết rằng Thiên Chúa là Đấng luôn bênh vực những người nghèo khổ, bệnh tật, bị bất công và áp bức trong xã hội loài người!
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con!
5.2 «Dạ, tôi đây!» Chúng ta hãy cầu xin Chúa cách riêng cho Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục và Phó Tế, để các ngài noi gương bắt chước ông Mô-sê mà mau mắn đáp lại tiếng Chúa gọi và chu toàn sứ mạng giải cứu con người khỏi mọi cảnh áp bức, bóc lột, bất công!
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con!
5.3 «Bây giờ, ngươi hãy đi!» Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các Ki-tô hữu trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta, nhất là cho những người tham dự Thánh Lễ này, để ai nấy biết sử dụng tài năng, của cải và thời giờ Chúa ban cho mình, để giải thoát những người đang phải sống trong cảnh nô lệ hay ngục tù vì bất công xã hội.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con!
5.4 «Ta sai ngươi đến với Pha-ra-ô để đưa dân Ta là con cái Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập!» Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho tất cả những người bênh vực công lý, xây dựng hòa bình và yêu thương giữa người với người, giữa quốc gia với quốc gia, để họ được ơn hăng say tích cực trong sứ mạng cao cả mà Thiên Chúa đã giao cho.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con!
.
HÃY SÁM HỐI VÀ SINH HOA TRÁI THÁNH THIỆN
Lm. Anthony Nguyễn Ngọc Dũng
Lời Chúa trong Chúa Nhật tuần trước mời gọi chúng ta đến sự biến đổi qua đời sống cầu nguyện [Chúa Giêsu biến hình trong khi Ngài đang cầu nguyện]. Và Lời Chúa trong Chúa Nhật III Mùa Chay trình bày cho chúng ta hậu quả trong đời sống vĩnh cửu nếu chúng ta không thay đổi, không sám hối trước mạc khải của Thiên Chúa.
Bài đọc 1 hôm nay nói về việc Thiên Chúa kêu gọi Môsêđảm nhận sứ mệnh thay mặt Ngài dẫn dắt dân Israel ra khỏi cảnh nô lệ Ai Cập. Trong đoạn trích từ sách Xuất Hành hôm nay, chúng ta tìm thấy mạc khải nền tảng về Thiên Chúa cho dân Israel và đỉnh cao củamạc khải này là tên của Thiên Chúa. Mạc khải tên cũng chính là mạc khải chính mình, vì tên diễn tả“nhân vị.” Khi một người cho người khác biết tên của mình là người đó muốn thiết lập quan hệ với người kia qua việc cho người đó biết mình là ai qua tên gọi. Thật vậy, tên để gọi, để nói lên “căn tính,” để thiết lập mối tương quan. Khi Thiên Chúa mạc khải tên của mình cho Môsê và dân Israel, Ngài muốn mạc khải cho họ biết Ngài là ai và Ngài muốn thiết lập một mối liên hệ giao ước với họ. Và tên của Thiên Chúa là: “Ta là Đấng Hiện Hữu” (Xh 3:14). Tên này nói đến sự hiện diện vĩnh hằng, là Đấng luôn hiện hữu, Đấng luôn ở trong “hiện tại.”Sự hiện hữu [hiện diện] của Ngài không phải là một sự hiện hữu của quá khứ hay của tương lai, nhưng luôn trong hiện tại.Không có khi nào Ngài không hiện hữu và gần gũi với chúng ta. Điều này khẳng định cho chúng ta chân lý này: Ngài luôn ở cùng chúng ta trong mọi giây phút. Đây chính là ý nghĩa của tên của Chúa Giêsu: Ngài sẽ được gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta (x. Is 7:14; Mt 1:23). Chân lý này cũng là điều khuyến cáo chúng ta phải sống ngay lành trước nhan Thiên Chúa, vì mọi sự đều bày tỏ trước mắt Ngài: chúng ta có thể giấu người khác, ngay cả với những người thân nhất của chúng ta, nhưng chúng ta không thể giấu Thiên Chúa bất cứ điều gì.
Điểm thứ hai trong bài đọc 1 đáng để chúng ta suy gẫm là việc Thiên Chúa mạc khải chính mình cho Môsê trong khi ông đang làm công việc thường ngày của ông: chăn chiên. Chắc chắn một điều là ông đã nhìn thấy bụi gai nhiều lần vì bụi gai là vật quen thuộcmà ông nhìn thấy mỗi ngày. Nhưng hôm nay cái quen thuộc trở thành cái “ngoại thường”: Ông Môsê nhìn thì thấy bụi cây cháy bừng, nhưng bụi cây không bị thiêu rụi” (Xh 3:2). Điều này có ý nghĩa gì đối với chúng ta? Ý nghĩa của nó là: Thiên Chúa thường dùng những cái quen thuộc trong ngày sống của chúng ta để mạc khải mầu nhiệm của Ngài.Để nhận ra mầu nhiệm Thiên Chúa, chúng ta phải đi ra khỏi thái độ “làm theo thói quen” của thường ngày vàhọc để trở nên nhạy cảm với sự hiện diện của Thiên Chúa trong những cái bình thường của ngày sống.Hơn nữa, khi Thiên Chúa mạc khải chính mình cho ai, thì Ngài đồng thời mời gọi họ cộng tác với Ngài trong công trình cứu độ của Ngài. Thiên Chúa mạc khải cho Môsê vì Ngài “đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật”(Xh 3:7-8a). Ngài mời gọiMôsê cộng tác với Ngài trong việc mang lại sự giải phóng khỏi nôlệ cho dân của Ngài. Cũng vậy, qua những công việc bình thường của ngày sống, Thiên Chúa mạc khải chính mình cho chúng ta và mời gọi chúng ta cộng tác vào công trình cứu độ của Ngài hầu làm cho gia đình [cộng đoàn], giáo xứ, Giáo Hội và thế giới ngày càng trở nên yêu thương hơn.
Cuối cùng, bài đọc 1 hôm nay chỉ ra cho chúng ta thái độcần thiết nhất khi đến với Chúa là sự cung kính. Chúng ta thấy Thiên Chúa đòi buộc Môsê: “Chớ lại gần! Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh” (Xh 3:5). Thái độ của chúng ta khi đến với Chúa thế nào? Chúng ta có cung kính Ngài như Ngài đáng được cung kính không? Nhiều người trong chúng ta biện minh rằng: Chúa không cần vẻ bên ngoài, Chúa chỉđểýđến bên trong con tim của con người. Đúng là như thế. Tuy nhiên, chúng ta là một con người có hồn có xác, chúng ta phải đến với Chúa với vẻđẹp bên trong lẫn bền ngoài của một con người toàn diện. [Trừ trường hợp chúng ta không có đủđiều kiện đểchuẩn bịvẻ bề ngoài của mình cách chỉnh tề vì mình quá nghèo]. Chúng ta lấy một ví dụ trong cuộc sốngđể làm sáng tỏđiều chúng ta muốn nói: khi được mời đến gặp một người nổi tiếng hoặc có chức sắctrong xã hội và Giáo Hội, chúng ta có ăn mặc chỉnh tề không? Chắc chắn chúng ta không thể ăn mặc như đi dạo chơi để gặp họ. Chúng ta phải ăn mặc chỉnh tề trong những dịp như thế. Khi đi gặp những con người mà chúng ta đã tỏ ralịch sự trongvẻ bề ngoài để tỏ sự tôn trọng người khác, thì khi đến với Chúa chúng ta cũng phải có sự cung kính tương xứng, nếu không nói là chọn những gì đẹp nhất đểđến với Ngài. Ước mong chúng ta đến với Chúa với vẻđẹp bên ngoài thân xác và bên trong tâm hồn!
Như chúng ta đọc thấy trong bài đọc 1, câu chuyện về ơn gọi của Môsê xảy ra trong sa mạc, gần núi thánh của Thiên Chúa. Hình ảnh này là khởi đầu và đã gắn liền với lịch sử của dân Israel trong thời gian họ hành trình trong sa mạc: là thời gian của mạc khải và giao ước. Tuy nhiên, theo Thánh Phaolô, thời gian của Môsê và dân Israel trong sa mạc cũng là thời gian đầy bất tuân và phàn nàn Thiên Chúa. Thánh Phaolô viết trong bài đọc 2: “Thưa anh em, tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì về việc này: là tất cả cha ông chúng ta đều được ở dưới cột mây, tất cảđều vượt qua Biển Đỏ.Tất cả cùng được chịu phép rửa dưới đám mây và trong lòng biển, để theo ông Môsê.Tất cả cùng ăn một thức ăn linh thiêng,tất cả cùng uống một thức uống linh thiêng, vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy chính là Đức Kitô.Nhưng phần đông họ không đẹp lòng Thiên Chúa, bằng chứng là họ đã quỵ ngã trong sa mạc (1Cr 10:1-5). Những lời này của Thánh Phaolô nhằm mục đíchrăn dạy chúng ta đừng chiều theonhững dục vọng xấu xa (x. 1 Cr 10:6), hay đúng hơn những “bản năng tự nhiên” của mình. Chúng ta không nên lẩm bẩm kêu trách người khác và Thiên Chúa về những khó khăn và thử thách trong cuộc sống của chúng ta. Trong mọi thử thách phải cậy dựa vào Thiên Chúa hơn là vào sức của mình. Thánh Phaolô cảnh báo những ai tưởng mình đang đứng vững phải cẩn thận: “ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã” (1 Cr 10:12). Hãy khiêm nhường khi thành công và không thất vọng khi thất bại!
Bây giờ, chúng ta cùng nhau tập trung vào Bài Tin Mừng để lắng nghe, suy gẫm và đem ra thực hành những điều Chúa Giêsu dạy chúng ta. Bài Tin Mừng hôm nay chỉ tìm thấy trong Tin Mừng của Thánh Luca. Sứ điệp của bài Tin Mừng hôm nay dạy các môn đệ Chúa Giêsu rằng: Thiên Chúa là Đấng đầy lòng thương xót, nhưng lòng thương xót của Ngài không mang tính “uỷ mị.” Ngài muốn tội nhân sám hối trước khi quá trễ. Bài Tin Mừng hôm nay gồm có hai phần: trong phần thứ nhất (Lc 13:1-5), Chúa Giêsu kêu gọi mọi người phải sám hối; phần hai (Lc 13:6-9) trình thuật lại cho chúng ta dụ ngôn về cây vả không sinh hoa trái.
Theo niềm tin của người Do Thái thời đó, những ai gặp tai ương là những người tội lỗi bị Thiên Chúa trừng phạt. Chúa Giêsu mời gọi họ phải thay đổi lối suy nghĩ này. Họ không hoặc chưa gặp điều tai ương không phải là họ không có tội. Họ cũng như bao nhiêu người khác, cũng chia sẻ thân phận con người mỏng manh yếu đuối. Chúa Giêsu lặp lại điệp khúc sám hối hai lần: “Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy” (Lc 13:3,5). Sự lặp lại này tạo nênbối cảnhcho câu hỏi của các môn đệvề việc chỉ một ít người được cứu độ (Lc 13:23) khi Chúa Giêsu nói cho họ biết phải qua cửa hẹp để vào Nước Thiên Chúa. Khi thuật lại hai trường hợp không may của những người Galilê bị Philatô giết và những người bị tháp Silôam đè chết (x. Lc 13:1,4), Thánh Luca muốn khuyến cáo các thành viên trong cộng đoàn của mình và chúng ta rằng: những điều không may xảy ra cho người khác chính làlời cảnh báo cho chúng ta phải thay đổi và cảnh giác mà nhiều lần chúng ta đã không nghe. Thật vậy, nhiều lầntrong cuộc sống, chúng ta cũng “cứng đầu,”không muốn thay đổi và sám hối. Chúng ta thấy hậu quả của những lỗi người kháctạo ra, nhưng chúng ta không muốn học. Chúng ta nhắm mắt và sống cách bất cần. Ví dụ, chúng thấy hậu quả của những người bài bạc, rượu chè hoặc hút chích, hoặc những phản ứng khi nóng giận làm tổn thương người khác, hoặc sống một đời sống luân lý không lành mạnh, chúng ta trách họ. Nhưng rồi đến lượt mình, chúng ta lại rơi vào và sống mãi ở trong đó.Ởđây, Chúa Giêsu nói đến những cái chết bất ngờ của người khác để dạy các môn đệvà chúng ta phải sám hối và sẵn sàng cho việc phán xét [cho cái chết]. Nếu chúng ta không tha thứ, không hoà giải, nếu chúng ta giữ sự ghen tỵ và nóng giận trong lòng và chết bất ngờ trong tình trạng đó, chúng ta sẽ đi về đâu? Đừng chờ đến khi quá muộn để yêu thương và tha thứ; đừng chờ đến lúc quá muộn để nói lời yêu thương và làm những cử chỉ yêu thương cho người thân của mình!
Trong phần 1 của bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy hình ảnh của một Đức Kitô rất cứng rắn trong lời mời gọi sám hối của mình. Nếu không sám hối, hậu quả không lường sẽ xảy ra cho họ. Hình ảnh này hoàn toàn trái ngược, hay đúng hơn được làm nhẹ đi trong phần 2. Theo các học giả Kinh Thánh, đây là dụ ngôn về lòng thương xót mà Luca sẽ khai triển trong những chương tiếp theo, nhất là trong ba dụ ngôn trong chương 15: mất đồng tiền, mất chiên và mất con. Dụ ngôn này mang lại cho người nghe trong cộng đoàn của Thánh Luca thời đó và chúng ta ngày hôm nay một sự an ủi khi chúng ta vấp ngã trên con đường theo Chúa. Tuy nhiên, nó cũng là một dụ ngôn mang tính khuyên răn cho những người hay chần chừ, trì hoãn việc thay đổi và sinh hoa trái tốt trong cuộc sống. Chúng ta có thuộc loại này không?
Dụ ngôn trong phần hai của bài Tin Mừng trình bày cho chúng ta về cây vả không sinh hoa trái và người chủ muốn chặt bỏ nó: “Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, nên bảo người làm vườn: ‘Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vảnày tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?’(Lc 13:6-7). Hình ảnh cây vả không sinh hoa trái là hình ảnh của người không sám hối. Tuy nhiên, điều đángan ủi cũng là thách đố cho chúng ta được tìm thấy trong câu: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó.May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi” (Lc 13:8-9). Câu này hàm chứa hai điều: một mặt cây vả được cho thêm thời gian, được chăm sóc để sinh hoa trái vào mùa sau, nhưng mặt kháccây vả được đòi hỏi phải sinh hoa trái. Áp dụng vào trong cuộc sống của mình, chúng ta được Thiên Chúa cho thêm thời gianđể sám hối và sinh hoa trái. Nói cách cụ thể hơn, liệu chúng ta có thay đổi sau thánh lễ hôm nay không? Liệu chúng ta có sinh hoa trái tốt lành cho Chúa khi Ngài đến gặp chúng ta không? Khốn cho chúng ta nếu khi Ngài đến mà không thấy chúng ta sinh được hoa trái tốt lành, thánh thiện nào.
Cuối cùng, hình ảnh “ba năm”nói đến ba năm Chúa Giêsu rao giảng và nhiều người nghe Ngài: có người thay đổi và sinh hoa trái, nhưng cũng có người chống đối và giết chết Ngài. Chúng ta thuộc loại nào trong hai loại trên? Chúng ta không chỉ nghe Chúa Giêsu raogiảng ba năm. Nhiều người trong chúng ta đã năm năm, mười năm, hai mười năm, ba mươi năm hoặc tám mươi nămđã nghe Chúa Giêsu rao giảng mỗi ngày hoặc mỗi Chúa Nhật. Chúng ta có sinh được hoa trái tốt lành nào để dâng cho Chúa không? Hay là con người của mấy chục năm vềtrước vẫn là con người của chúng ta bây giờ: một con người luôn dễ dàng nóng giận của 40 năm về trước bây giờ vẫn như vậy, hoặc con người không tha thứ 60 năm về trước đến giờ vẫn chưa chịu tha thứ cho người khác.Hãy sám hối và sinh hoa trái tốt trước khi quá muộn!
.
HÃY HOÁN CẢI VÌ CHÚA GIÀU LÒNG XÓT THƯƠNG
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Bước vào Chúa Nhật thứ III Mùa Chay năm, lời kêu gọi “hoán cải” vang lên trong Tin Mừng hôm nay như là sự cảnh báo. Mượn lời nguyện cầu của các Giáo phụ chúng ta thưa cùng Chúa : “Lạy Chúa, xin thương con, vì con là kẻ có tội !”
Sau hai tuần sám hối, ý thức mình là kẻ tội lỗi, chúng ta can đảm theo Chúa Giêsu bước tiếp vào trong sa mạc của Mùa Chay Thánh, “hướng nhìn” lên Chúa là Đấng giầu lòng thương xót, và thưa: “Mắt tôi hướng nhìn Chúa không biết mỏi, vì chính Người sẽ gỡ chân tôi khỏi dò lưới. Lạy Chúa, xin đoái nhìn và xót thương con, vì thân này bơ vơ cùng khổ” (Ca nhập lễ), Chúa sẽ cứu giúp chúng ta.
Tin vào lòng Chúa thương xót không phải là dễ, vì trước mắt chúng ta có biết bao chuyện buồn đẫm lệ: các thảm kịch về tai nạn hàng không, những vụ khủng bố người giết người giã man hơn, những tội lỗi do chính con cái Giáo hội gây ra … Chúng ta vẫn hát với niềm tin rằng : “Chúa nhân từ và thương xót”.
Có người hỏi, lòng nhân từ và thương xót Chúa ở đâu, khi trái tim con người bị tan nát bởi những cái chết đau thương của người thân, của anh em đồng loại… thật khó để chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa yêu thương và muốn điều tốt cho nhân loại?
Vấn nạn giả thiết rằng, sự bất hạnh xảy đến với con người là đích đáng. Vì vậy, khi chúng ta chứng kiến những người bị bệnh nan y hoặc chết đột ngột, người đời hỏi :”Họ đã làm gì sai chăng? ” Hay có sự trừng phạt tức khắc mà họ phải hứng chịu? Đây không phải là điều Chúa Giêsu nói trong Tin Mừng.
Vậy, làm thế nào để có thể chấp nhận và sống sự khác biệt giữa lòng thương xót của Thiên Chúa và sự bất hạnh của con người? Chúng ta còn nhớ việc Thiên Chúa giải thoát dân Ngài ra khỏi Ai Cập và cho họ đi qua Biển Đỏ ráo chân không? Liệu còn nhớ Thiên Chúa dẫn dắt dân Ngài qua sa mạc, nuôi dân bằng bánh bởi trời, và uống nước từ tảng đá vọt lên để dân đi đến tận Đất Hứa không? Chỉ cần nhớ lại những hành động Thiên Chúa trợ giúp con người, như thư I Côrintô, Thánh Phaolô tiên báo trước đời sống Kitô hữu, những người đã được rửa tội trong Chúa Kitô là Đá tảng tuôn trào mạch nước sự sống và nuôi dưỡng bằng bánh bởi trời. Nhưng làm thế nào để chúng ta tin vào lòng trung thành của Thiên Chúa và giúp chúng ta tin vào tình yêu Chúa khi bất hạnh tấn công con người?
Thánh Luca kể lại cho chúng ta bình luận của Chúa Giêsu về hai biến cố thời sự lúc đó. Biến cố thứ nhất là cuộc nổi loạn của vài người Galilê bị quan Philatô đàn áp giết chết; biến cố thứ hai là ngọn tháp tại Giêrusalem bị sụp đổ làm cho 18 người thiệt mạng; hai biến cố bi thảm này khác nhau, một do con người tạo ra, và một do tai nạn. Người đương thời Chúa Giêsu thường có tâm thức nghĩ rằng, tai nạn đã đổ xuống trên các nạn nhân, bởi vì họ đã phạm lỗi trầm trọng. Trái lại, Chúa Giêsu nói : “Các người cho rằng những nạn nhân người Galilêa kia là những kẻ tội lỗi hơn tất cả mọi người Galilêa ư?… Hoặc 18 nạn nhân kia là những kẻ lỗi phạm hơn tất cả mọi người dân Giêrusalem chăng?” (Lc13,2.4). Thay vì kết luận đơn giản coi sự dữ như là hình phạt của Thiên Chúa, Chúa Giêsu phục hồi lại hình ảnh chân thực của Một Vì Thiên Chúa là Ðấng tốt lành, không muốn sự dữ; Người còn yêu cầu đừng coi những tai hoạ đó như là kết quả trực tiếp của tội lỗi cá nhân. Người nói: “Các ông tưởng rằng những người Galilê ấy là những kẻ tội lỗi nhất ở xứ Galilê cho nên mới đáng hình phạt như vậy ư?” Và Chúa Giêsu kết luận cho cả hai trường hợp như sau: “Không phải thế. Tôi nói cho các người biết, nếu các người không ăn năn hối cải, các người cũng sẽ phải chết như vậy” (Lc 13,3.5). Chúa Giêsu muốn dẫn những kẻ lắng nghe Người đến kết luận về sự cần thiết phải ăn năn trở lại.
Khi cái chết tấn công chúng ta, đức tin không cho chúng ta những lời giải thích hoặc an ủi chúng ta yên tâm, nhưng đức tin hỏi chúng ta: chúng ta đã làm gì trong cuộc đời khi đang phải đối diện với cái chết vây quanh ta, bất hạnh và đau khổ tấn công và chạm đến ta?
Để làm rõ lời kêu gọi hoán cải, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn cây vả. Đã ba năm nay, cây không sinh quả. Chúng ta, những người đã nhận lãnh bao nhiều hồng ân của Thiên Chúa mà không đáp trả cách hào phóng cũng thế. Chủ vườn nói với chúng ta rằng, điều này đã quá đủ. Và bây giờ người làm vườn chưa ưng nhận sự phán xét của Thầy nên trả lời: “Thưa ông, xin để cho nó một năm nay nữa, tôi sẽ đào đất chung quanh và bón phân; may ra nó có quả chăng, bằng không năm tới ông sẽ chặt nó đi” (Lc 13, 9), đúng là năm án treo, một năm hồng ân.
Sự chết không tấn công chúng ta một cách mù quáng, nhưng mời gọi chúng ta cải đổi đời sống. Đó là lý do tại sao phụng vụ cung cấp cho chúng ta bài suy niệm này ở trung tâm của Mùa Chay, khi chúng ta tiếp tục cuộc hành trình 40 để hướng tới việc cử hành lễ Vượt Qua, và mời chúng ta đi tiếp để Chúa Nhật tới canh tân phép rửa của chúng ta, nguồn nước hằng sống trào dâng từ trái tim của Chúa Giêsu.
Vâng, lạy Chúa, khi con nhìn thấy những gì xảy ra trên thế giới và trong Giáo hội, các tai nạn gây đau đớn cho nhân loại và đau khổ đến anh em của con, con nghe thấy giọng nói của Chúa nói với con: “Hãy sám hối ngay ngày hôm nay. Tận dụng Năm Thánh này, Năm Hồng Ân, năm Ta xót thương và chăm sóc con để con có thể sinh trái”.Amen.
.
Lm. Jos. DĐH.
Hành trình đời người nếu sánh ví như một cuộc giao chiến có quá đáng không, tại sao triết gia Sscorates không ngừng hô hoán mọi người hãy tự biết mình ? Trong đối nhân xử thế có liên quan gì đến binh pháp không, vì sao lời nhắc nhớ của Tôn Tử vẫn còn tồn tại nơi hậu thế: biết người biết ta, trăm trận trăm thắng ? Biết mình thông thái, hay nông cạn, nhầm lẫn mình tốt xấu, đơn sơ hay mưu mô, đúng là vấn đề nan giải ! Mắt nhìn, tai nghe, miệng nói, mỗi chi thể có một hoạt động khác nhau, nhưng đã tạo cho trí phán đoán phong phú hơn, cuộc sống đang tiến dần tới chỗ tốt đẹp hơn. Biết mình, biết ta, hiểu mình hiểu bạn, vẫn đến từ quá trình tìm kiếm, đến từ những trải nghiệm dài lâu, tuỳ mỗi người, nhưng chắc hẳn không phải hoàn toàn do khả năng thiên phú.
Cứ sự thường, chúng ta vẫn cho rằng hiểu nông cạn, nhận định vấn đề không đúng, không chuẩn, là do ít học, do nhỏ dại, thực ra đúng sai, tốt xấu, còn tuỳ thuộc vào “cái tâm trong sáng” thế nào, nhất là phạm vi liên quan đến phúc, hoạ, sống, chết. Người xưa có câu: vụng dại mà tỏ ra thông thái thì không có gì phải sợ ; có chăng, tài giỏi đức độ, mà luôn khiêm tốn trong cái biết của họ mới đáng nể phục. Biết đến bằng cấp, biết đến sự hào nhoáng của một đối tượng, không phức tạp ; đụng chạm đến đến sự thật của một hoàn cảnh, một tâm hồn, là đụng đến tính thiêng liêng, hết sức tế nhị. Đâu phải cứ nghèo là do họ lười, không phải cứ giầu sang là tài giỏi, là do họ chăm chỉ làm ăn, đâu phải cứ đói là sẽ ăn vụng, hay túng thiếu họ sẽ làm liều !
Trang Tin-mừng hôm nay được Chúa Giêsu lý giải: những người bị Philatô giết, lấy gì chắc chắn mà nói do họ ngu dốt hay thiếu cẩn thận ; 18 người bị tháp Si-lô-e đè chết, đâu phải vì họ ăn ở thất đức hay tội lỗi ngập tràn. Nhận biết sự thật về mình: tai nạn, thiên tai, ung thư, già lão, chính là dấu hiệu của sự chết. Chẳng ai dại dột, tự nhiên lại lao đầu đi tìm cái chết, chẳng ai đủ khả năng né tránh được tai hoạ để sống mãi ở đời này. Chúa Giêsu đã nói lên một sự thật: “nếu các người không ăn năn hối cải, tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy”. Ở Việt Nam hiện tại tuy không còn cảnh đô hộ giặc Tầu, hay nô lệ giặc Tây, không còn nội chiến từng ngày, không còn chuyện bi thảm: “trái mìn nổ chậm, người chết hai lần”. Nhưng vu khống, đổ vạ, bóp méo sự thật, giết chết danh dự, giết chết bao mạng người vô tội vì giả dối, vì lợi nhuận bất chính, vì thức phẩm bẩn, vô cùng phức tạp.
Ngày hôm nay không phải chỉ những người “khô khan đạo nguội”, suy nghĩ tiêu cực về tình người luôn méo mó với nhau, mà ngay cả những người đi lễ đọc kinh nhiều, còn cho rằng Chúa phạt kẻ có tội là đúng, là công bằng. Nhận biết sự thật: Chúa là tình yêu, Chúa không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống, nhất định không phải do tài sức của mình. Nhận biết sự thật, trước hết phải là người biết ý thức về thân phận giới hạn bất toàn của mình, nhận biết sự thật là gặp được Chúa, gặp được tha nhân trong các tương quan huynh đệ. Xung quanh ta nhiều người đang gặp tai nạn, đang bị khủng bố, hoặc bị quyền lực sự ác tấn công hãm hại, bị tháp đè chết, có phải vì họ mang dòng máu anh hùng, có phải vì họ là con thiêu thân, có phải do họ tội lỗi hơn chúng ta ? Qua thất bại và sự chết, người ta sẽ thấy xuất hiện một khao khát sống mãnh liệt hơn nơi tâm hồn mình, đó chính là câu trả lời cho hậu thế: cần phải sám hối ăn năn tội lỗi mình.
Khôn ngoan ở đời là tìm cách né tránh đau khổ, cẩn trọng những điều nguy hiểm, hầu giảm bớt được tai hoạ đáng tiếc xảy ra là cần thiết, nhưng tục ngữ có câu: trăm cái khôn dồn một cái, khôn ấy có phải là: người tính không bằng trời tính ? Chúa là Chân – Thiện -Mỹ, Ngài không có ý chỉ ta tìm né tránh đau khổ sự chết, Ngài không muốn ta dửng dưng, vô tâm vô cảm, trước tai hoạ ập đến, nhưng hãy tự biết mình có ác độc không, đã thực thi đức ái thế nào ? Sống chết là có thật, là sự thật, làm gì để được sống, làm gì để khỏi phải chết, và khi đã biết sống cho có ý nghĩa, cuộc sống ở hiện tại, tương lai, nhất định sẽ đúng ý Chúa, hạnh phúc theo ý Chúa. Sự thật mất lòng, kinh nghiệm đó ít nhiều chúng ta cũng đã gặp, còn sử dụng tự do đúng, sai, đẹp, đủ, là tuỳ thuộc vào mỗi chúng ta.
Khi đưa ra hình ảnh cây vả không sinh trái, thiết tưởng người Do-thái và cả chúng ta hôm nay cũng đã hiểu phần nào: sống chết là có thật, sống chết ở trong tay Chúa, nếu lòng nhân hậu của Thiên Chúa bao la, thì cơ hội mỗi người phải sám hối ăn năn để được sống không thể là giả dối. Nghe, hiểu và sống giáo huấn của Chúa Giêsu cần hơn là ngồi đó bình luận ai tội lỗi, ai khôn ngoan hơn. Cây vả được chăm sóc thì phải sinh hoa trái, tình yêu và ơn cứu độ được ban phát cho nhân loại tội lỗi là sự thật. Sám hối để nhận biết sự thật về mình, ăn năn thống hối về những lời nói việc làm “phải quấy” của mình không bao giờ dư thừa, ăn năn sám hối tội lỗi mình cũng là động lực để mỗi người biết sống đức ái Kitô. Xin Chúa chúc lành cho của mỗi người, hầu chúng ta nhận biết lòng nhận hậu của Chúa, biết không ngừng sám hối ăn năn về tội lỗi thiếu xót của mình, xứng đáng là môn đệ Đức Kitô. Amen.
.
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
Một trong những chủ đề chính yếu của Lời Chúa hôm nay là sám hối và canh tân đời sống. Đây là sứ điệp cốt lõi của Tin Mừng và là lời mời gọi chính yếu của Mùa Chay thánh. Khởi đầu sứ vụ rao giảng, Đức Giêsu mời gọi: “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,5).
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu quả quyết hai lần rằng: “Tôi nói cho các ông biết… nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy” (Lc 13,3.5).
Từ sám hối hay hoán cải trong tiếng Hy lạp là metanoia, có nghĩa là thay đổi tư tưởng, não trạng, cách suy nghĩ, ý thức và tâm trạng của một người. Giáo Hội dùng từ “sám hối” để nói về sự thay đổi tận căn của toàn bộ đời sống, là từ bỏ đời sống cũ, trở về với Thiên Chúa, trở thành một con người mới trong Chúa Kitô.
Mùa Chay là thời gian thuận tiện nhất để mỗi người Kitô hữu sám hối và đổi mới con người mình. Đổi mới là quy luật của sự phát triển và tiến bộ. Chúng ta quan sát thiên nhiên trong những ngày mùa đông giá lạnh, cây cối trở nên cằn cỗi, trơ trụi và không còn sức sống. Nhưng khi mùa xuân về, khí trời ấp áp, cây cối bừng dậy sức sống, chúng đâm chồi nảy lộc, trổ hoa muôn màu sắc trông thật đẹp mắt. Thiên nhiên và sự sống xung quanh chúng ta thật kỳ diệu! Qua sự kiện này, chúng ta nhận thấy rằng đổi mới là quy luật của phát triển nơi thiên nhiên.
Trong Cựu Ước (bài đọc I), dân Do Thái phải chịu cảnh áp bức và nô lệ ở Ai Cập trong nhiều năm trời. Thiên Chúa thấy rõ cảnh khổ cực và lắng nghe tiếng kêu than của dân Người. Thiên Chúa giải thoát dân thoát cảnh nô lệ bằng việc sai ông Môsê đến, lãnh đạo dân xuất hành, vượt qua Biển Đỏ, sa mạc, tiến về đất hứa (x. Xh 3,1-15). Câu chuyện Xuất Hành muốn nói rằng: để thoát cảnh nô lệ và có một đời sống mới, họ phải từ bỏ đời sống cũ là kiếp nô lệ ở Ai Cập, lên đường đến một nơi mới, sống cuộc sống mới.
Đối với người Kitô hữu, sám hối và đổi mới là quy luật của sự tiến bộ và nên thánh. Vì thế, Thiên Chúa mời gọi chúng ta phải đổi mới liên lỉ. Tuy nhiên, chúng ta thử hỏi rằng chúng ta cần phải đổi mới như thế nào?
Thiên Chúa không muốn chúng ta chỉ đổi mới ở bên ngoài như thay đổi dáng dấp, cách ăn mặc, hay nơi chốn sinh sống, nhưng phải đổi mới triệt để từ bên trong, đổi mới toàn bộ con người và đời sống của chúng ta.
Thánh Phaolô trình bày về sự đổi mới triệt để và toàn vẹn qua ba bước sau đây:
1- Bước I: đổi mới là cởi bỏ con người cũ
Thánh Phaolô mời gọi: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham hố lừa dối” (Ep 4,22). Theo ngài, cởi bỏ con người cũ là cởi bỏ “con người thuộc hạ giới,” con người sống theo xác thịt với những hành vi đó là: “Dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, hận thù, bất hòa, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống vậy (Gl 5,20-21).
Mùa Chay là cơ hội quý báu để chúng ta cởi bỏ con người cũ, từ bỏ các thói hư tật xấu trong chúng ta. Nếu không có thay đổi, chúng ta sẽ không có sự tiến bộ về nhân đức và sẽ không được thừa hưởng hạnh phúc Nước Trời.
2- Bước II: “Phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em” (Ep 4,23).
Chúa Thánh Thần là Đấng đồng hành với chúng ta “mọi ngày cho đến tận thế.” Người uốn nắn chúng ta trở nên con người mới trong Chúa Kitô. Chúng ta cần Chúa Thánh Thần biến đổi tâm trí và con người yếu hèn của mình. Bởi vì, mọi sai lầm bắt nguồn từ suy nghĩ và thiếu hiểu biết của chúng ta đối với đường lối của Thiên Chúa. Chúng ta hãy để cho Chúa Thánh Thần biến đổi tâm thần, nghĩa là biến đổi tầm nhìn, tư tưởng, nghĩ suy của con người cũ, để có tầm nhìn và suy nghĩ của Thiên Chúa, hướng tới sự thật, trở nên con người mới, mạnh mẽ hơn, hăng say hơn và nhiệt thành hơn.
3- Bước III: Mặc lấy con người mới trong Chúa Kitô
“Anh em hãy mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4,24). Thánh Phaolô quả quyết rằng: “Quả thế, bất cứ ai trong anh em được Rửa tội để thuộc về Đức Kitô, đều mặc lấy Đức Kitô” (Gl 3,27). Ngài cũng mời gọi: “Anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô” (Rm 13,14).
Quả thế, Đức Giêsu là con người mới và kiểu mẫu cho chúng ta. Mỗi người Kitô hữu được tạo dựng và tiền định để trở nên giống Chúa Kitô. Nếu cởi bỏ con người cũ là lột bỏ những thói hư tật xấu, thì trở nên con người mới là mặc lấy Chúa Kitô, trở nên đồng hình đồng dạng với Người, mặc lấy những tâm tình của Chúa Kitô, đó là lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau, và tha thứ cho nhau (x. Cl 3,12-14).
Vì thế, chúng ta được mời gọi từ bỏ đời sống cũ, mặc lấy đời sống mới bằng cách rèn luyện các nhân đức, thực hành những giá trị Tin Mừng mà Chúa Giêsu đã dạy, sống như Chúa đã sống. Chỉ bằng cách đó, chúng ta mới có thể được biến đổi toàn bộ con người chúng ta theo khuôn mẫu là Chúa Kitô, từ suy nghĩ, phán đoán, tình cảm, con tim, động lực sống và cả cách hành xử của chúng ta. Đó là con người mới, nhân cách mới, đời sống mới trong Chúa Kitô.
Lạy Chúa, Mùa Chay là mùa đổi mới. Xin cho mỗi người Kitô hữu biết sử dụng và sống thời gian Mùa Chay thánh này như là cơ hội để đổi mới chính mình, trở nên con người mới trong Chúa Kitô. Amen!
.
Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt
1. Chỉ có Luca ghi lại việc người ta báo tin cho Chúa Giêsu biết vụ Philatô giết một số người Galilea. Thật là phù hợp với những điều chúng ta biết về lịch sử Do thái thời ấy. Những niềm hy vọng thiên sai kích thích tâm trí, gây ra những cuộc nổi loạn chống lại đế quốc La mã và trong dân Do thái, người Galilê được xem như là nhóm người thích đấu tranh nhất. Philatô, khi đó là tổng trấn đại diện chính quyền La mã, đã thẳng tay đàn áp mọi âm mưu phản loạn. Ông không sợ gây đổ máu đám dân mà ông hằng khinh bỉ (x. F. Josèph, Antiquités juives, XVLLL,3,2,4,1).
Những người Galilê nói ở đây là những người đến Giêrusalem dâng lễ tế, chắc họ đã gây ra một vài hỗn loạn trong khuôn viên đền thờ, do đó đội binh La mã ở trong đồn Antonia đã ra tay can tiệp và tàn sát tại chỗ những người dính líu đến vụ phản loạn đó.
Khi hay tin, Chúa Giêsu hỏi: “Các ngươi tưởng những người Galile ấy là hạng tội lỗi hơn mọi người Galile khác vì đã phải khốn như thế này sao?” Thật ra, đây là một định kiến chung cho rằng những ai gặp phải một tai ương nặng nề là đáng tội hơn những người thoát khỏi (như ý các bạn của Giop, Giop 4,7; x. Ga 9,2-3). Theo Chúa Giêsu quan niệm về sự quan phòng như thế là sai lầm. Tai ương, ôn dịch, chiến tranh, đói kém, động đất không nhất thiết giáng trên những người Galile bị Philatô tàn sát, Chúa Giêsu quả quyết họ không phải là những người có tội hơn những người Galile khác. Thay vì an tâm nghĩ rằng những người đáng tội nhất đã làm thỏa mãn phép công bình của Thiên Chúa, toàn dân hãy lo mà sám hối: “Vì nếu các ngươi không hối cải, các ngươi hết thảy cũng sẽ bị tiêu diệt như thế”. Quốc gia Do thái bị đe dọa tiêu diệt, nếu không lo hối cải.
Vậy Chúa Giêsu làm sáng tỏ biến cố mà người ta vừa mới thuật lại cho Ngài bằng lời loan báo về ý nghĩa của thời gian mà Ngài đã khai mạc lúc bắt đầu khai giảng. Ngài không chối từ mối tương quan giữa tội lỗi và hình phạt, nhưng chỉ phủ nhận điều này là: biến cố mới xảy ra chứng tỏ người Galile bị tàn sát xấu xa hơn đồng hương của họ. Mọi người đều là tội nhân, mọi người đều chịu phán xét của Thiên Chúa và chịu án phạt của Ngài. Vì vậy mọi người phải lo ăn năn sám hối, nếu muốn thoát khỏi cơn thịnh nộ và án phạt của ngày chung thẩm.
2. Và Chúa Giêsu xác nhận lời cảnh cáo nghiêm trọng của Ngài bằng một ví dụ khác. Trong khi các nạn nhân thảm cảnh trước là người Galile, bây giờ nạn nhân là những người ở Giêrusalem. Tháp Silôê nằm trên bờ kênh đào và bể nước Silôê ở phía tây nam Giêrusalem. Khi sập xuống, tháp đó đè chết 18 người. Có phải họ là những người có tội hơn những người khác cư ngụ ở Giêrusalem không? Thật là một câu hỏi vô ích làm quên mất vấn đề chính yếu: là mọi người dẫn Israel có bổn phận sám hối để quốc gia tránh khỏi những hình phạt đang đe dọa.
Chúa Giêsu đưa ra một lối giải thích có tính cách tôn giáo chứ không có tính cách triết học, chính trị hay thể lý về các biến cố. Thiên Chúa nói với chúng ta qua những biến cố lịch sử. Chúa Giêsu thâm tín rằng thời sau hết đã bắt đầu và Ngài phán đoán thời gian hiện tại trong viễn tượng ấy. Điều xảy ra trong thời gian này chỉ là một nhắc nhở đến thời sau hết. Các tai ương xảy ra trong lãnh vực chính trị hay thiên nhiên đều là những dấu chỉ cho những tai ương của ngày sau hết. Ngày cánh chung buộc mọi người phải có thái độ, phải ăn năn sám hối. Tất cả mọi tai biến xảy ra trong thời gian có mục đích làm cho chúng ta suy nghĩ, có mục đích loan báo cho chúng ta biết cần phải quay về với Thiên Chúa. Nếu con người không nghe là vì họ cứng lòng: “còn những người khác, những kẻ không bị giết trong tai họa ấy, vẫn không hối cải bỏ các việc tay họ đã làm: vẫn thôi không thờ lạy ma quỉ và thần tượng, vàng, bạc, đá, gỗ, những đồ vô phương nhìn thấy, ngóng nghe, đi đứng. Họ không hối cải bỏ tội sát nhân, phù phép, dâm bôn, trộm cắp của họ (Kh 9,20-21).
Ở vài nơi trong Cựu ước, cây vả tượng trưng cho Israel (x. Ge 1,7) và trong Gierêmia 8,3 cây vả tượng trưng một Israel không sinh hoa trái. Từ hình ảnh Cựu ước này, có thể kết luận cách chắc chắn rằng cây vả trong dụ ngôn của câu 6-9 cũng tượng trưng dân được chọn. Cũng như trong các đoạn Cựu ước mới trích dẫn trên, chủ nhân của cây vả là Giavê. Vậy Giavê cũng được trình bày trong dụ ngôn qua hình ảnh chủ nhân cây vả. Từ hai nét ẩn dụ được chứng thực cách chắc chắn này, người ta có thể rút ra từ văn mạch một nét ẩn dụ thứ ba: Chúa Giêsu được tượng trưng qua những người làm vườn nho can thiệp xin cho cây vả yêu quí được gia hạn ân xá sau cùng. Ẩn dụ chỉ có từng ấy. Còn những chi tiết khác của dụ ngôn phải được giải thích như những kiểu so sánh đơn sơ, không phải từng nét một, nhưng cách nói chung: vườn nho trong đó người ta trồng cây vả, thời gian ba năm chờ đợi, việc phân bón, những săn sóc này nọ cho cây vả đau yếu.
Việc phân tích vắn tắt những yếu tố ẩn dụ này của dụ ngôn giúp ta nắm được bài học Chúa Giêsu muốn dạy trong văn mạch của đoạn này. Thiên Chúa chờ đợi nơi dân Ngài những hoa quả của lòng thống hối. Họ phải khẩn trương lợi dụng những lời mời gọi ăn năn sám hối sau cùng mà Chúa Giêsu, Đấng trung gian giàu lòng thương xót gởi đến cho họ. Lát nữa thì sẽ quá muộn, và dân Israel sẽ chịu số phận như cây vả không sinh hoa trái.
Dụ ngôn trực tiếp nhắm đến dân do thái. Nhưng cũng có thể áp dụng cho các tội nhân bỏ qua những dịp ăn năn sám hối và khất lần việc hoán cải. Xét theo khía cạnh này, dụ ngôn thật là một bài học luôn luôn thích thời.
KẾT LUẬN
Tất cả những gì xảy ra vào thời Chúa Giêsu đã được minh giải nhờ biến cố cứu rỗi hiện thân trong Chúa Giêsu, dù đó là những sự kiện chính trị, những tai biến lịch sử hay những hành động của chính Chúa Giêsu. Đó là thời sau cùng. Đó là lời Thiên Chúa mời gọi ta có một quyết định dứt khoát: ăn năn sám hối trở về. Cũng như Gioan tẩy giả, Chúa Giêsu tuyên bố rằng cần phải ăn năn sám hối không được trì hoãn với bất cứ giá nào, phải sinh hoa kết quả trong việc thay đổi lối sống và trong hành động. Nhưng Chúa Giêsu còn vượt quá Gioan tẩy giả. Ngài biết ngày phán xét sắp đến và việc tiêu huỷ đền thờ Giêrusalem không thể tránh khỏi, tuy nhiên Ngài đã bào chữa cho dân Ngài. Ngài hiến dâng tình yêu, hy lễ, chính cả mạng sống cho Israel để dân này được cứu rỗi.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Trong thời Chúa Giêsu cũng như thời chúng ta, chúng ta dễ bị cám dỗ giải thích các biến cố cách thiếu bác ái đối với người khác. Biết bao lần người ta đã nghe những lối giải thích bộc phát như sau: Trời phạt nó. Đó là án phạt của Chúa, hoặc chúng ta dễ lạm dụng kiểu nói “trời có mắt” để biện minh cho chướng tính của chúng ta, để tạo cho mình mối quan tâm được Chúa ưu đãi hơn những người khác. Nhưng chúng ta cũng dễ có cám dỗ ngược lại và gán ép cho Chúa những biến cố bất lợi xảy đến cho chúng ta: Trời bỏ tôi. Chúa làm ngơ giả điếc. Ngài trả thù mà… Đôi khi những biến cố đó chỉ là do những nguyên nhân thiên nhiên mù quáng (thời tiết, bệnh truyền nhiễm, tai biến tự nhiên…) Cần phải hết sức thận trọng khi giải thích những gì xảy đến cho ta. Một biến cố có thể được giải thích bằng ngàn cách khác nhau, tùy theo tính khí tự nhiên (lạc quan hay bi quan), tùy trạng thái tâm hồn lúc ấy (nặng nề hay phấn khởi), tùy những phán đoán giá trị của môi trường sống, tùy nền giáo dục… Người khôn ngoan nhất là người – như Chúa Giêsu dạy – biết lợi dụng tất cả những gì xảy đến để hoán cải không ngừng, để tạ ơn Chúa khi gặp những biến cố may mắn, để xin cho tâm hồn vững mạnh và biết tùng phục ý Chúa khi gặp các biến cố xui xẻo. Như thế lời Kinh thánh sau đây sẽ nên trọn cho chúng ta: “Mọi sự đều góp phần sinh ích lợi cho những ai yêu mến Thiên Chúa” (Rm 8,28)
2. Mọi tín hữu đều giống như cây ăn trái Thiên Chúa đã trồng. Từ thời thơ ấu, từ khi lãnh bí tích rửa tội, chúng ta đã không ngừng được chủ vườn trên trời săn sóc: được giáo dục theo Kitô giáo, được vô số ân sủng ban sức mạnh và ánh sáng trong các nhiệm tích, được sống thân mật với Thiên Chúa, được ân huệ tự nhiên đủ loại, được Chúa Thánh Thần luôn thúc đẩy, hướng dẫn… Và vì đó, phải coi chừng kẻo chúng ta trở thành những cây vả không sinh hoa trái như cây vả của dụ ngôn: những ân huệ của Thiên Chúa ở trong chúng ta cần phải sinh hoa quả là lòng yêu mến biết ơn Thiên Chúa, bác ái luôn luôn với tha nhân, trung thành với bổn phận đặc biệt mà Thiên Chúa đã giao phó, giản dị chúng ta cách dùng của cải Thiên Chúa ban, phát triển những năng khiếu tự nhiên, có lòng thẳng thắn và vui vẻ, phục vụ, trong sạch, khiêm tốn, phục thiện… Nếu cho đến lúc này chúng ta vẫn là những cây vả không sinh hoa trái thì cũng còn thì giờ để hoán cải và làm phát sinh kết quả với thời hạn mà Chúa còn dành cho chúng ta trước khi đưa chúng ta ra trình diện trước mặt Ngài. Nhưng những lời khuyến cáo của Chúa Giêsu thật cấp bách: chúng ta phải hoán cải ngay bây giờ chúng ta khi thời giờ còn kịp. Mùa chay là mùa thuận tiện nhất để thay đổi đời sống chúng ta, để trở về với Chúa và xin Ngài tha thứ cho. Nếu chúng ta biết lợi dụng thời gian này cách khôn ngoan thì Thiên Chúa sẽ yêu thương đón nhận chúng ta và sẽ khiến chúng ta hát lên được bài ca Alleluia bình an và vui mừng của mùa phục sinh.
.
NHƯ BỤI CÂY CHÁY MÀ KHÔNG RỤI, BỐ THÍ, CŨNG VẬY
Lm. Bosco Dương Trung Tín
“Thiên Sứ của Đức Chúa hiện ra với ông trong đám lửa giữa bụi cây. Ông Mô-sê nhìn thấy bụi cây cháy bừng nhưng bụi cây không bị thiêu rụi” (Xh 3,2-3).
Bụi cây cháy mà không bị thiêu rụi. Đó là việc của Thiên Chúa làm chứ con người làm không được. Có bao giờ ta thấy cháy nhà hay cháy rừng chưa ? Ta thấy sau đám cháy chẳng còn thứ gì còn nguyên cả. Theo tôi, hình ảnh bụi cây cháy mà không bị thiêu rụi có thể cho ta hiểu về việc bố thí. Bố thí nghĩa là cho đi mà không bị hao hụt. Điều này cũng hơi khó hiểu. Thường thì ta sẽ nghĩ, cho đi ta sẽ bị hao, bị hụt chứ, sao lại không bị hao hụt là sao? Ta cùng tìm hiểu về việc này.
Bố thí là một trong ba việc lành phúc đức, đó là cầu nguyện, ăn chay và bố thí. Đức Giê-su đã dạy về việc bố thí như sau: “Vậy khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống như bọn giả hình thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để cho người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. còn anh em, khi bố thí đừng để tay trái biết việc tay phải làm, để việc bố thí của anh em được kín đáo. Và Cha của anh em Đấng thấu suốt những gì kín đáo sẽ trả lại cho anh em” (x.Mt 6,2-4).
Ngày nay, ta thấy cũng có rất nhiều người làm việc bố thí; cũng không ít những người làm để cho người ta khen, ngay cả trong giới Linh Mục và Tu Sĩ. Nếu thật sự là như như vậy thì như Lời Đức Giê-su đã nói thì họ đã được phần thưởng rồi, nên Chúa sẽ không ban phần thưởng gì hết. Cũng có những người làm cách âm thầm, không cho ai biết. Như vậy, họ sẽ được lãnh phần thưởng từ Chúa.
Như thế là do mục đích ta làm là vì tiếng khen của người đời hay vì phần thưởng của Chúa, điều đó do ta lựa chọn và quyết định.
Theo thánh Lê-ô Cả Giáo Hoàng thì: “Hành động đạo đức này còn gọi là việc thương người; vì bao gồm nhiều cử chỉ đáng khen của lòng nhân ái. Như vậy, giữa các tín hữu, dù khả năng vật chất không đồng đều, nhưng tấm lòng có thể như nhau” (Trích Bài đọc 2, Thứ Năm sau Lễ tro, Kinh Sách”.
Còn theo thánh Gio-an Kim Khẩu, thì “Con đường sám hối thứ 4 là Bố thí. Việc này có hiệu lực rộng rãi”. Việc bố thí có hiệu lực rộng rãi thế nào? Đức Giê-su đã nói về hiệu lực rộng rãi của việc bố thí này vào ngày tận thế. Chúa sẽ xét xử mọi người chúng ta về vấn đề này. Hiệu lực rộng rãi đó là “Ta làm cho chính Chúa” và “ta sẽ được thừa hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn từ tạo thiên lập địa” (x. Mt 25, 34; 40).
Việc đó xảy ra như sau: Khi Con Người đến trong vinh quang, có tất cả các Thiên Sứ theo hầu. Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người và Người sẽ tách biệt họ như mục tử tách biệt chiên với dê. Chiên thì Người cho đứng bên phải; dê thì Người cho đứng bên trái. Bấy giờ người phán với những người đứng bên phải rằng: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến mà thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các người từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi cho ăn; Ta khát các người cho uống; Ta mình trần, các người cho mặc; ta đau yếu, các người đã viếng thăm; ta ngồi tù, các người đã đến hỏi han”.
Bấy giờ những người này thắc mắc, có bao giờ chúng tôi thấy…..Nhưng Chúa trả lời: “Mỗi lần các người làm cho một trong những kẻ bé mọn này của Ta đây, là các người đã làm cho chính Ta”. Và ngược lại thì “mỗi lần các người không làm….là các người đã không làm cho chính Ta. Thế là họ ra đi để chịu cực hình muôn kiếp; còn những người công chính ra đi để được hưởng sự sống muôn đời”.
Hai nhóm người, hai số phận khác biệt. Điều này không do Chúa mà do mỗi người tự quyết định. Có khi ta xin Chúa: “Đừng xếp con vào hàng bên trái, nhưng vào bên hữu với chiên ngoan”. Mình có ngoan, có làm điều tốt gì cho ai đâu mà đòi, mà xin như thế. Chúa có muốn xếp cũng chẳng được. Có muốn xếp như thế thì ngày đời này, ngay bây giờ hãy sống tốt lành và thánh thiện; hãy làm việc lành mà giúp đỡ người khác đi. Khỏi cần xin, ngày sau chắc chắn ta sẽ được xếp vào hàng bên phải thôi.
Không thấy Chúa hỏi: con được rửa tội bao nhiêu năm; con đi lễ được bao nhiêu lần; con đọc kinh được bao nhiêu kinh? Cũng không thấy Chúa hỏi con là Giáo Hoàng; Giám Mục, Linh Mục, Tu sĩ hay Tổng Thống; mà chỉ hỏi về việc bố thí mà thôi.
Câu hỏi được đặt ra là: Vậy thì tôi rửa tội để làm gì; tôi đi lễ để làm gì; tôi đọc kinh để làm gì; tôi đi tu để làm gì ? Câu trả lời, đó là để ta nên thánh nên thiện và làm việc bố thí. Mà việc bố thí là “Thương người, giúp người” đó. Nếu Chúa có hỏi thì Chúa sẽ hỏi ta rằng: Con đã được rửa tội; con đã đi lễ nhiều; con đã đọc kinh nhiều; con là người tu trì, vậy thì con có nên thánh, nên thiện chưa; con có làm việc bố thí, thương người, giúp người như Ta đã dạy cho con không? Lúc đó, thì ta trả lời thế nào đây???????
Nếu có, thì hạnh phúc cho ta biết dường nào. Nếu không thì khốn cho ta dường bao !!!!!!!!!!!!!!!!!!!
Trong Tin Mừng, có một người thanh niên hỏi Chúa về sự sống đời đời: “Lạy Thầy nhân lành, con phải làm gì để được sự sống đời đời?”. Chúa trả lời: “Nếu anh muốn nên hoàn thiện thì hãy đi bán tài sản anh có và đem cho người nghèo. Anh sẽ được một kho tàng ở trên trời, rồi hãy theo Tôi”. Nghe lời đó, anh ta buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.( x.Mt 19, 16-22).
Chắc là anh ta không tin có đời sau? Tin chứ! Bởi tin nên anh ta mới hỏi Chúa phải làm gì để được sống đời đời mà. Quả thực anh ta tin nhưng anh ta vẫn mê của cải đời này hơn là hạnh phúc đời sau, nên anh ta không dám mạo hiểm đầu tư. Còn chúng ta, chúng ta có đức tin, chúng ta là người Công Giáo La-mã, chúng ta có dám mạo hiểm đầu tư không? Có dám cho đi không ?
Hôm nay, tôi trích Lời của Đức Giê-su và lời của các thánh chứ không phải là lời của tôi, để nói về việc bố thí, việc cho đi này. Nên chúng ta đừng sợ đầu tư, nhưng hãy gẫm xem hình ảnh “Bụi cây cháy mà không bị thiêu rụi”, để gia tăng lòng tin và sức mạnh giúp chúng ta bố thí, giúp chúng ta thương người và giúp người.
Nếu chúng ta làm việc bố thí theo Lời Chúa dạy, thì ta đã làm cho chính Chúa và việc ta làm đó sẽ không tàn lụi theo năm tháng, nhưng sẽ là một mối lợi to lớn cho chính ta ở đời sau. Nói các khác, ta dùng của cải chóng qua ở đời này mà mua lấy Nước thiên đàng cho ta.
Hơn nữa, bố thí, cho đi cũng có nghĩa là ăn năn sám hối của ta nữa. Một đàng là ta đền trả cho những ai mà ta đã cách này cách kia làm thiệt hại cho họ; ta đã chiếm cách bất công; ta đã hớt tay trên của họ; ta đã lợi dụng, đã bóc lột công sức của họ. Đàng khác là ta làm việc lành phúc đức, để lập công; để nên thánh, nên thiện.
Vậy ta hãy thực hành việc bố thí và cho đi; nói tóm là “Thương người” này trong Mùa Chay cũng như trong cuộc đời dương thế của ta, theo khả năng mình có.
Là người Công Giáo Việt Nam, chúng ta không thể không biết đến việc thương người có 14 mối: thương xác 7 mối và thương hồn 7 mối. Đó là những việc làm cụ thể, được gọi là bố thí; là cho đi, là thương người đó.
Thương xác 7 mối: 1. Cho kẻ đói ăn; 2. Cho kẻ khát uống; 3. Cho kẻ rách rưới ăn mặc; 4. Viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc; 5. Cho khách đỗ nhà; 6. Chuộc kẻ làm tôi; 7. Chôn xác kẻ chết.
Thương linh hồn 7 mối: 1. Lấy lời lành mà khuyên người; 2. Mở dạy kẻ mê muội; 3. An ủi kẻ âu lo; 4. Răn bảo kẻ có tội; 5. Tha kẻ dể ta; 6. Nhịn kẻ mất lòng ta; 7. Cầu cho kẻ sống và kẻ chết.
Tùy theo khả năng mình có mà ta làm được mối nào thì hay mối đó; làm càng nhiều càng tốt. Đời này, ta sẽ có được một tâm hồn thanh thản, nhẹ nhàng, siêu thoát khỏi của cải, danh vọng thế gian; đời sau ta sẽ có một kho tàng ở trên trời và được thừa hưởng sự sống trên thiên đàng vĩnh cửu.
Ta hãy mạnh mẽ tin rằng: Như “bụi cây cháy mà không rụi” thế nào thì việc bố thí của ta cũng sẽ không bị qua đi và không tàn lụi như thế.
.
JM Lam Thy
Trong sứ điệp Mùa Chay 2019, Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô viết: “Trong Mùa Chay của mình, một lần nữa chúng ta lại muốn cùng đi trên một con đường, để mang đến cho thế giới niềm hy vọng của Chúa Ki-tô rằng, “nó sẽ được giải thoát , không còn phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, nhưng được cùng với con cái Thiên Chúa, chung hưởng tự do và vinh quang” (Rm 8, 21). Chúng ta đừng để cho thời gian thuận tiện này trôi đi cách vô ích! Chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa giúp sức để chúng ta biết chọn đi theo con đường hoán cải đích thực.” (Sứ điệp Mùa Chay 2019).
“Hoán cải” là thay đổi theo chiều hướng tốt. Hành động hoán cải nói lên một sự thay đổi đời sống: Bỏ một cung cách sống quen thuộc để nhận một cung cách sống mới tốt hơn; bỏ việc phục vụ mình một cách ích kỷ để phục vụ Thiên Chúa và phục vụ cộng đồng. Cuối cùng là bất cứ quyết định hoán cải hay đổi mới nào, dù làm theo cách nào, đều đưa con người tới gần hoặc kết hợp với sự sống của Thiên Chúa. Ý nghĩa cuối cùng của hoán cải hoàn toàn thuộc phạm vi tôn giáo; nó có nghĩa là thay đổi hướng đi, thay đổi con đường, bỏ đường tà trở lại đường chính, triệt để quay về với Thiên Chúa của Giao Ước Tình Yêu, và dấn bước vào một cuộc sống mới. Cựu Ước coi hoán cải không chỉ là thay đổi tâm trí, mà là cả con người; không chỉ trong ý nghĩ mà cả trong hành động. Bước sang Tân Ước (Mc 1, 14-15; Mt 4, 12-17; Lc 4, 14-15), hoán cải có 2 nghĩa: sám hối và canh tân (ăn năn hối hận, đổi mới, tin vào Tin Mừng) .
Ngoài chiều hướng luân lý (bỏ điều dữ làm điều lành), đặc biệt hoán cải còn có chiều hướng thần học. Chính chiều hướng thần học làm nền tảng cho chiều hướng luân lý. Một cách cơ bản, hoán cải không chỉ đơn thuần là sửa chữa những lầm lỗi thiếu sót của mình; mà còn phải biết nhìn lại mình để hiểu cho đúng mình là ai trước mặt Thiên Chúa, để có thể quy hướng về Người. Trên thực tế, con người luôn có khuynh hướng đánh giá mình quá cao nên không thể công chính trước mặt Thiên Chúa và đối với anh chị em. Vậy khi Ðức Giê-su, tiếp theo sau Thánh Gio-an Tẩy Giả, kêu gọi hoán cải, Người muốn chúng ta làm gì? Dựa vào những ý nghĩa trên đây, thấy quả thực hoán cải có hai khía cạnh: Một đàng hướng về quá khứ để hối hận đau buồn vì những lầm lỗi đã phạm (sám hối), một đàng hướng về Thiên Chúa nơi Ðức Ki-tô là Ðấng đã đến, đang đến và sẽ đến để đổi mới bản thân (canh tân).
Câu chuyện “mấy người Ga-li-lê bị tổng trấn Phi-la-tô giết cách tàn nhẫn được một số người kể lại với Đức Ki-tô” (Bài Tin Mừng CN III/MC năm C: Lc 13, 1-9) đặt ra một vấn nạn: Tại sao họ lại kể câu chuyện đó và họ kể với mục đích gì? Chắc chắn cũng lại là một cách “thử” để xem phản ứng của Đức Giê-su. Họ cho rằng mấy người ấy chết như vậy là đáng, vì tội chống lại chính quyền bảo hộ Rô-ma nên mới bị Tổng trấn Phi-la-tô giết. Cũng giống như câu chuyện ném đá “người đàn bà ngoại tình” (Ga 8, 1-11). Nếu Đức Giê-su không đồng ý ném đá thì vi phạm Lề Luật (luật Mô-sê cho phép ném đá cho đến chết những người đàn bà ngoại tình). Đồng ý ném đá thì lại đi ngược với luật của đế chế Rô-ma đang cai trị Do Thái (mà người đại biểu là Tổng trấn Phi-la-tô). Đồng ý hay không đồng ý, đằng nào cũng kẹt; và nếu gặp phải tay mơ thì sập bẫy là cái chắc. Nhưng Đức Ki-tô thì khác xa, chỉ với một câu nói ngắn gọn (“Ai trong các người sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi”), Người đã lấy “gậy ông đập lưng ông” khiến đám kinh sư Pha-ri-sêu “tiu nghỉu như mèo bị cắt tai” âm thầm lủi mất tăm. Chính điều này cho thấy Đức Giê-su muốn dạy một bài học “đã là con người thì ai cũng có tội, không nhiều thì ít, chẳng nặng cũng nhẹ”, và vì thế, Người mới nói với người đàn bà ngoại tình: “Chị hãy về đi, và đừng phạm tội nữa” (ngụ ý: Tôi cứu chị vì lòng thương xót, chớ không phải vì chị không có tội).
Tương tự như vậy, câu chuyện trong bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giê-su đã thẳng thắn trả lời đám người Do Thái (“Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Ga-li-lê khác sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu.” – Lc 13, 2-3) với ngụ ý: Mấy người đó không phải chết vì tội lỗi hơn mọi người khác (nghĩa là cũng có tội), rồi Người nhấn mạnh: “nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy” (Lc 13, 5). Người còn dẫn chứng thêm: “Cũng như mười tám người kia bị tháp Si-lô-ác đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giê-ru-sa-lem sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy.” Rõ ràng là con người thì ai cũng có tội, chẳng ai là hoàn toàn tinh tuyền thánh thiện. Duy có một điều là con người có nhận ra được tội lỗi của mình và có biết ăn năn hối cải hay không, mà thôi.
Chính vì thế, nên sau khi phán dạy: “nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy”, Đức Giê-su dùng một dụ ngôn cụ thể (“Cây vả không ra trái”) để dạy về việc sám hối. Vả là thứ cây rất dễ ra trái dù không được tưới bón đều đặn, vậy mà cây vả này được trồng trong vườn và được chăm bón cẩn thận, vẫn lì lợm không thèm ra trái, khiến ông chủ vườn phải phàn nàn và quyết định: “Đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái mà không thấy! Hãy chặt nó đi, để làm gì cho hại đất!” Người làm vườn đã can thiệp, xin ông chủ để cho cây vả sống thêm một năm nữa, để anh ta cố gắng chăm bón cho nó, hy vọng nó sẽ sinh trái vào năm tới. Dụ ngôn đem cây vả ví với người tội lỗi: Cây vả được chăm bón cẩn thận mà không sinh trái, nào có khác gì con người được sống trong tình yêu thương chan chứa của Ông Chủ Trời mà vẫn “không nghe Lời Người”. Rõ ràng ông chủ vườn là Thiên Chúa Cha và người làm vườn đích thị là Người Con. Ấy cũng bởi vì Người Con “không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5, 32).
Quả thực là “Tôi cứu chị vì lòng thương xót chớ không phải vì chị không có tội. Vậy chị hãy về đi và đừng phạm tội nữa.” Đừng phạm tội nữa tức là phải biết sám hối và hoán cải, và nếu không biết sám hối và canh tân thì: “Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mt 3, 10; Lc 3, 9). Vấn đề đã rõ ràng: Hãy nhìn lại mình và sẵn sàng bước vào Mùa-Chay-Cuộc-Đời để ăn năn hối cải về những sai phạm mình đã vướng mắc. Đừng ảo tưởng mình hoàn toàn trong sạch, không tì vết và có thể đứng vững trước ba thù, bởi “ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã” (1Cr 10, 12). Tuy nhiên cũng đừng lo sợ thái quá để rồi rút cổ gục đầu trước những thử thách, vì “Không một thử thách nào đã xảy ra cho anh em mà lại vượt quá sức loài người. Thiên Chúa là Đấng trung tín: Người sẽ không để anh em bị thử thách quá sức; nhưng khi để anh em bị thử thách, Người sẽ cho kết thúc tốt đẹp, để anh em có sức chịu đựng.” (1Cr 10, 13). Tắt một lời, hãy sẵn sàng thực hành Lời Chúa: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 4, 17)
Tóm lại, “Chúng ta đừng để cho thời gian thuận tiện này trôi đi cách vô ích! Chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa giúp sức để chúng ta biết chọn đi theo con đường hoán cải đích thực. Chúng ta hãy để sự ích kỷ, để cái nhìn bị gắn chặt vào bản thân mình, lại đàng sau chúng ta, và hãy hướng về Đại Lễ Phục Sinh của Chúa Giê-su; những người anh chị em của chúng ta đang gặp cảnh khốn cùng nên trở thành những người thân cận của chúng ta, tức những người mà chúng ta chia sẻ với họ những kho tàng tinh thần và vật chất của mình. Và như thế, khi chúng ta đón nhận cuộc chiến thắng của Chúa Ki-tô trên tội lỗi và sự chết vào trong cuộc sống cụ thể của chúng ta, chúng ta cũng sẽ kéo được sức mạnh có sức biến đổi của Ngài xuống trên thế giới thụ tạo.” (Sứ điệp Mùa Chay 2019, Kết luận). Ước được như vậy.
Ôi! Lạy Chúa! Con biết rõ con là kẻ có tội, nhưng chẳng bao giờ con nhìn rõ được tội trạng của con. Chỉ có Chúa thấu suốt mọi sự và luôn sẵn sàng muốn hoà giải với con. Vâng “chính nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài”, con sẽ được hoà giải với Ngài, tự hoà giải chính mình và hoà giải với anh em của con. Cúi xin Chúa thương ban cho con “ơn nước mắt”, “ơn hoà giải”, để con biết “nhìn lại mình” mà sẵn sàng thống hối về tội lỗi con đã xúc phạm đến Chúa, đến anh em của con; đồng thời đổi mới con người của mình để xứng đáng là con cái của Chúa Cha và là bạn hữu (Ki-tô hữu) đích thực của Đức Giê su Ki-tô, Chúa chúng con. Ôi! “Lạy Chúa đoái thương nghe tiếng con phàn nàn. Con dốc lòng ăn năn, con sấp mình con xin hết lòng kêu van, xin Chúa thứ tha bao sai lầm tội lỗi. Con quyết lòng tự hối theo đường Chúa đi mà thôi….” (Tâm Bảo – “Giọt lệ thống hối” – TCCĐ).
.
NẾU CÁC ÔNG KHÔNG CHỊU SÁM HỐI
Fx Đỗ Công Minh
Thói thường suy nghĩ của người đời thì “Gieo gió thì gặt bão “ hay “ Quả báo ”, khi biết tai họa xảy đến cho ai đó. Một cách suy nghĩ tiêu cực, bất chấp nguyên nhân. Nhiều người thường suy đóan : người bị nạn do trời phạt, hoặc cho rằng kiếp trước ăn ở không ra gì nên kiếp này phải đền trả. Câu chuyện mà Tin mừng hôm nay Thánh Luca đề cập đến cũng không ngòai “thành kiến “ ấy.
Tật xấu ấy của con người không phải chỉ hôm nay mới có mà đã tồn tại từ hàng ngàn năm trước. Chúa Giêsu kịch liệt phản đối quan niệm đó: “ Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê đó tội lỗi hơn hết mọi người Ga-li-lê khác bởi lẽ họ đã chịu đau khổ như vậy sao ? Tôi nói cho các ông biết : Không phải như thế đâu ? “. Đức Giêsu phủ nhận những suy đóan rằng những người bị nạn là do Chúa phạt, nhân chuyện những người Ga-li-lê bị PhiLaTô giết, trong lúc dâng của lễ ở đền thờ. Các nhà chú giải cho rằng những người này là những người yêu nước, chống lại chính quyền La Mã, bị phát hiện nên theo lệnh PhiLaTô, họ bị giết. Chúa Giêsu lên tiếng cảnh báo người Do Thái :”Nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy “.
Đức Giêsu cũng nói đến tai họa tháp Si-lô-ê đổ làm mười tám người bị chết, chỉ là một tai nạn xảy ra trong cuộc sống. Những người không may ở đó, không ai biết họ đã sống ra sao? Họ có tội lỗi gì hơn những người khác? Đó là cái nhìn của những người chuyên xét đóan, tự cho mình là người công chính. Đức Giêsu bác bỏ cái nhìn nông cạn này và tiếp tục lời cảnh báo :” Nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy “. Đối với Đức Kitô, những biến cố xảy ra trong cuộc đời đều là những cảnh báo cho con người. Nhìn những biến cố xảy ra nơi này nơi khác, với người này người khác, là cơ hội để mỗi người tự sám hối, vì ai trong chúng con cũng là người có tội .
Mùa Chay là thời gian Giáo hội dành cho mỗi người chúng con tự nhìn lại mình. Nhìn các biến cố trong cuộc đời mà ý thức thân phận mỏng dòn, yếu đuối của con người, từ đó nhận ra mình còn thiếu sót với Chúa và với anh em trong bổn phận. Người với vai trò làm cha mẹ, người ở vị trí là con, người khác sống độc thân, ở bậc tu trì. Có người giữ trọng trách lãnh đạo trong Giáo hội, trong cộng đòan, trong xã hội, từng người có chu tòan bổn phận, trách nhiệm Chúa trao? Có “Vâng nghe lời Người “? có thể hiện Di chúc Chúa để lại “ Hãy yêuthương như Thầy đã yêu thương “ ?
Nhìn lại bản thân, trong đời sống, con vẫn ít nhiều có suy nghĩ như những người biệt phái trong dân Do Thái ngày xưa, vẫn còn có thái độ xem thường người khác. Cho rằng mình tốt hơn người, nên được Chúa thương không phạt như những người chẳng may bị tai nạn, bị bách hại. . . Thái độ đó trong mùa Chay này, xin Chúa cho con biết từ bỏ. Chúa là Đấng giàu lòng xót thương, Người không lên án, luận phạt ai biết sám hối ăn năn.
Xin cho con luôn biết sám hối trở về, đón nhận ơn tha thứ và bình an, để từ nay, như cây vả sau nhiều năm không kết trái, con biết thay đổi đời sống, cách sống, con sẽ không bị “ Chặt nó đi ”. Sẵn sàng trở về, hầu nảy sinh nhiều ơn ích cho bản thân. Con sẽ được đứng vững trước mặt Chúa, khi Người lại đến trong vinh quang. AMEN
.
SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY_C
Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Tin Mừng hôm nay đề cập đến hai đề tài định hướng cho sự chọn lựa của Bài Đọc I và Bài Đọc II. Đề tài thứ nhất về việc “Thiên Chúa ân cần chăm sóc dân Ngài”(bản văn của sách Xuất Hành và dụ ngôn của Tin Mừng Lu-ca); đề tài thứ hai về “những ai tự phụ là mình công chính” (lời khuyên của thánh Phao-lô và lời cảnh giác của Chúa Giê-su).
Xh 3: 1-8a, 13-15
Thiên Chúa siêu việt mặc khải Danh Ngài, Ngài là Hữu Thể tuyệt đối, đồng thời cũng là Đấng động lòng trắc ẩn trước cảnh cùng khốn của dân Ngài và sai ông Mô-sê ra đi giải phóng dân Ngài khỏi cảnh đời nô lệ.
1Cr 10: 1-6, 10-12
Thánh Phao-lô nhắc nhở các tín hữu Cô-rin-tô về đức khiêm tốn. Thậm chí những ai được ban cho những ơn trợ lực dồi dào hơn những người khác, như dân Do thái trong hoang địa và những Ki-tô hữu nhờ các bí tích, hãy coi chừng đừng để mình sa vào tội lỗi.
Lc 13: 1-9
Tin Mừng Lu-ca thuật lại hai sự cố nghiêm trọng: cuộc thảm sát của những người Ga-li-lê và một tai nạn thảm khóc gây nên cái chết của mười tám người Giu-đê. Từ đó, Chúa Giê-su rút ra một bài học: Ngài tách biệt tai họa và tội lỗi, nhưng đối với những ai tin mình công chính, Ngài nhắc nhở cho họ biết rằng họ là những tội nhân, vì thế cái chết cũng đe dọa họ; tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn ra công vun xới trước khi quyết định chặt cây nào không đơm bông kết trái.
BÀI ĐỌC I (Xh 3: 1-8a, 13-15)
Sách Xuất Hành được gọi là “Tin Mừng Cựu Ước”. “Tin Mừng” mà sách thuật là Tin Mừng về việc Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử của dân Ngài để giải phóng dân khỏi miền đất nô lệ và dẫn đưa dân vào một xứ sở tốt đẹp hơn, tiên trưng một cuộc giải phóng khác và cuộc xuất hành khác về Nước Trời. Như vậy, sách Xuất Hành không chỉ là câu chuyện về “cuộc xuất hành” ra khỏi đất Ai-cập, nhưng còn câu chuyện về lộ trình tâm linh. Những móc điểm đầu tiên của lộ trình này là kêu gọi ông Mô-sê và mặc khải mầu nhiệm Thiên Chúa.
Khi ông Mô-sê nhận được tiếng gọi của Thiên Chúa, thì ông đã rời bỏ đất Ai-cập từ nhiều năm rồi. Sau khi đã lớn lên trong cung đình Pha-ra-on và đã nhận được một nền giáo dục ưu việt, ông đã ý thức về những điều kiện sống cơ cực mà đồng bào ông phải chịu. Một ngày kia thấy một người Ai-cập đánh đập một người Do thái, ông Mô-sê đã xông vào người Ai-cập, giết chết và vùi thây người ấy trong cát. Sự việc đã bị bại lộ, ông Mô-sê sợ bị trả thù nên chạy trốn và lánh nạn tại dân Ma-đi-an, dân du mục và sống nghề chăn nuôi. Ở đó ông đã cưới một trong bảy cô con gái của thầy tư tế Ma-đi-an, tên là Git-rô.
Như vậy, ông Mô-sê đã sống lại cuộc sống du mục của các tổ phụ. Đối với ông Mô-sê, thời gian tha phương này là thời chuẩn bị tâm lý cho cuộc gặp gỡ của ông với vị Thiên Chúa của cha ông mình. Bấy giờ, ông đang chăn đàn gia súc cho bố vợ mình. Khi mùa hè tới, ông đi tìm những đồng cỏ miền núi xanh tươi hơn. Vì thế, ông dẫn đàn vật qua bên kia sa mạc, đến “núi của Thiên Chúa”. Chính ở nơi đó mà Thiên Chúa sẽ yêu cầu ông trở thành vị mục tử của dân Ngài.
Thiên Chúa tỏ mình ra trong cảnh trí “cây cao bóng cả” là một nét đặc trưng rất kinh điển ở miền Cận Đông, ở Ấn Độ, cũng như ở Hy-lạp cổ xưa. Vì cây cối đâm chồi nẩy lộc, thay cành đổi lá theo mùa là biểu tượng sự sống, nhưng nhất là, cây cao bóng cả tạo nên bầu khí uy nghiêm, linh thánh. Thánh ký đã loại bỏ hình tượng này nhờ đến ngọn lửa. Thiên Chúa Ít-ra-en là Đấng siêu việt không nhận bất kỳ hình tượng vật chất nào, nhưng chỉ chấp nhận tỏ mình ra qua ánh sáng (đám mây chiếu sáng) hay ngọn lửa, như trong câu chuyện này ngọn lửa cháy bừng nhưng không thiêu hủy bụi cây diễn tả tính siêu việt của Thiên Chúa.
Hoạt cảnh tiếp theo nêu bật hai nét đặc trưng bất khả phân của Thiên Chúa Ít-ra-en: Đấng rất gần gũi với con người: Ngài chuyện trò rất thân tình với ông Mô-sê, nhưng đồng thời cũng là Đấng siêu việt: có một khoảng cách bất khả vượt qua giữa Thiên Chúa và con người: “Chớ lại gần! Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh”. Thiên Chúa lại còn thổ lộ tấm lòng từ bi nhân ái của Ngài: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta… Ta đã nghe tiếng rên siết của chúng… Ta cũng đã thấy cảnh áp bức chúng phải chịu…”. Vì thế, Thiên Chúa trao gởi cho ông Mô-sê sứ mạng giải phóng dân Ngài.
Thiên Chúa nói trực tiếp với ông Mô-sê: Ngài tự giới thiệu mình. Ngài không là một vị thần xa lạ: “Ta là Thiên Chúa của tổ tiên ngươi, Thiên của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp. Giờ đây, tiếng rên siết của con cái Ít-ra-en đã thấu tới Ta… Bây giờ, ngươi hãy đi! Ta sai ngươi đến với Pha-ra-ô để đưa dân Ta là con cái Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập”.
Ông Mô-sê chấp nhận sứ mạng được giao phó cho ông, nhưng nài xin Thiên Chúa mặc khải Danh Ngài cho ông để ông có thể tiện bề ăn nói với dân chúng. Lúc đó, Thiên Chúa mặc khải Danh Ngài cho ông Mô-sê. Theo văn hóa Do thái, tên chính là người ấy. Danh Thiên Chúa này được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Theo cấu trúc của ngôn ngữ Híp-ri, Danh Thiên Chúa được dịch theo sát từ, hoặc ở thì hiện tại: “Ta là Đấng Ta là”, hay ở thì tương lai: “Ta là Đấng Ta sẽ là”. Dù được hiểu ở hiện tại hay tương lai, điều cốt yếu ở nơi Danh Thiên Chúa chính là động từ “là”, như câu tiếp theo chứng thực điều đó: “Ngươi nói với con cái Ít-ra-en thế này: ‘Đấng là sai tôi đến với anh em”: “Đấng là” đóng chức năng chủ từ của câu.
Chính vì thế, thánh Tô-ma A-qui-nô đã giải thích Danh Thiên Chúa này theo nghĩa Hữu Thể của triết gia Hy lạp, Aristos, “Ta là Hữu Thể”, nghĩa là, Thiên Chúa là Đấng thường hằng, bất biến. Trong các bản dịch Kinh Thánh Việt Nam, mỗi dịch giả đề nghị hiểu và dịch theo cách riêng của mình, như cha Nguyễn Thế Thuấn: “Ta có sao Ta có vậy!”, hay bản dịch của nhóm Phụng Vụ Các Giờ Kinh: “Ta là Đấng Hiện Hữu”, hay Bản Dịch dùng trong Phụng Vụ: “Ta là Đấng Hằng Hữu”. Dù những cách dịch khác nhau này, chúng ta vẫn gặp thấy âm hưởng của cách hiểu tên Thiên Chúa theo Hữu Thể của thánh Tô-ma A-qui-nô. Việc hiểu Danh Thiên Chúa theo triết học Hy lạp này đem đến một sự hiểu biết phong phú về Danh Thiên Chúa. Tuy nhiên, các nhà chú giải hiện đại bác bỏ cách giải thích này vì hai lý do: Trước hết, động từ “là” ở thể “chưa hoàn thành” nên không diễn tả một hành động hoàn thành, nhưng một hành động đang tiếp diễn, chưa chấm dứt. Thứ nữa, tính chất niềm tin của dân Ít-ra-en thì thực tiễn, tích cực và năng động. Vì thế, quan niệm siêu hình về một Hữu Thể tuyệt đối, bất biến, tự hữu thì hoàn toàn xa lạ với niềm tin của dân Ít-ra-en. Từ những nhận xét trên, các nhà chú giải hiện đại đề nghị hiểu Danh Thiên Chúa theo hai cách như sau:
A- Danh Thiên Chúa bất khả tiết lộ
Lời mặc khải “Ta là Đấng Ta là” hay “Ta là Đấng Ta sẽ là” thì bí ẩn đủ để người ta có thể kết luận rằng Thiên Chúa không thật sự muốn trao ban Danh của Ngài, vì theo tư tưởng sê-mít, biết tên của một vị thần linh nào đó, chính là có quyền làm chủ vị thần ấy, có quyền điều khiển sai khiến vị thần ấy, như việc gọi tên của vị thần linh trong các câu thần chú, như vậy, câu thần chú mới hiệu nghiệm.
Vì thế, trong câu chuyện của chúng ta, Thiên Chúa không thể trao ban Danh Ngài vào tay của con người để con người có quyền điều khiển sai khiến Ngài; hơn nữa, Ngài là một Mầu Nhiệm vô phương dò thấu, không ai có thể hiểu được bản chất của Thiên Chúa. Cách giải thích này được ủng hộ bởi các chuyện tích Kinh Thánh, như chuyện tổ phụ Gia-cóp nài xin Thiên Chúa: “Xin cho tôi biết tên Ngài”(St 32: 30), nhưng bị từ chối; hay như chuyện ông Ma-nô-ác nài xin cho biết tên vị sứ giả của Thiên Chúa, thì được trả lời: “Sao ông lại hỏi tên tôi? Đó là một điều bí nhiệm” (Tl 13: 17-18). Vì thế, theo văn mạch của câu chuyện chúng ta, khi Thiên Chúa nói: “Ta là Đấng Ta là”, có nghĩa, “Thiên Chúa là Thiên Chúa”, qua đó Thiên Chúa muốn nói rằng: “chuyện ấy có liên quan gì đến ngươi” hay “đó không phải nỗi bận lòng của ngươi”.
B- Danh Thiên Chúa là một Mặc Khải tiệm tiến
Tuy nhiên, cách giải thích trên gặp phải một sự khó khăn. Theo văn mạch, rõ ràng Thiên Chúa chấp nhận mặc khải Danh Ngài. Việc Thiên Chúa mặc khải Danh Ngài trong một nền văn hóa theo đó tên đồng nghĩa với người mang tên ấy, thì không thể cho rằng Thiên Chúa chủ ý thoái thác không cho biết tên mình, như nhận định của A. B. Davidson: “Mặc khải mà Thiên Chúa ban cho về chính mình là mặc khải về chính Ngài như Ngài thật sự là như vậy, dù Ngài không thể mặc khải chính mình cho con người một cách tròn đầy được” (God in the OT; in: Dictionary of the Bible, vol. 2, 197). Hơn nữa, ở cuối câu chuyện, Thiên Chúa còn căn dặn: “Đó là danh Ta cho đến muôn thuở, đó là danh hiệu các ngươi sẽ dùng mà kêu cầu Ta từ đời nọ đến đời kia”.
Vì thế, Davidson mời gọi chúng ta chú ý đến hai đặc tính của động từ “là” liên quan đến tên Thiên Chúa được ban cho trong câu chuyện bụi gai cháy đỏ này. Trước hết, động từ này không có nghĩa “là” về phương diện hữu thể, nhưng về phương diện “hiện diện”. Thứ nữa, hình thức chưa hoàn thành của động từ này không có nghĩa ở thì hiện tại nhưng ở thì tương lai. Từ nhận xét này, ông giải thích ý nghĩa của tên Thiên Chúa như sau: “Xem ra rõ ràng trong quan điểm của người viết, ‘Ta sẽ là’ và ‘Đấng sẽ là’ thì như nhau: ‘Ta sẽ là’ khi Thiên Chúa nói về chính mình, và ‘Đấng sẽ là’ khi Thiên Chúa được những người khác nói về Ngài. Điều Ngài sẽ là để lại không được diễn tả – Ngài sẽ ở (“là”) với dân Ngài như Đấng Trợ Giúp, Đấng Quyền Năng và Đấng Giải Thoát” (God in the OT, 199).
Như vậy, khi Thiên Chúa mặc khải Danh Ngài cho ông Mô-sê, Ngài nói về chính mình: “Ta là Đấng Ta sẽ là”; nhưng khi Ngài bảo ông Mô-sê nói cho dân Ít-ra-en về Ngài, Ngài nói ở ngôi thứ ba: “Đấng sẽ là”. Đối với ông Mô-sê, người mà Thiên Chúa trực tiếp mặc khải Danh Ngài, tên này có nghĩa: “Ta sẽ ở với ngươi” (3: 12). Còn đối với dân Ít-ra-en, mà ông Mô-sê có sứ mạng truyền đạt mặc khải này, tên Ngài có nghĩa “Đấng sẽ ở với họ”. Trong cả hai trường hợp, động từ “là” hay “ở”nhấn mạnh không trên “sự hiện hữu” nhưng trên “sự hiện diện” của Thiên Chúa với ông Mô-sê và với dân Ít-ra-en. Lúc đó, “Ta là Đấng Ta sẽ là” là một lời khẳng định về sự hiện diện của Thiên Chúa: “Ta thật sự là Đấng hiện diện”, nghĩa là “Ta thật sự là Đấng ở cùng”.
Đồng thời, Danh Thiên Chúa “Ta là Đấng Ta sẽ là” được hiểu như “điều chưa xác định”. Điều chưa xác định này chứa đựng những khả thể vô hạn tùy theo hoàn cảnh. Danh Thiên Chúa được mặc khải trong câu chuyện này đã không thể được bất kỳ thế hệ nào của Ít-ra-en hiểu trọn vẹn, vì thế Thiên Chúa vẫn cứ tiếp tục bày tỏ tất cả những gì Ngài sẽ là đối với dân Ngài: “Thiên Chúa sẽ là điều mà Ngài sẽ chứng tỏ Ngài là cho thế hệ này đến thế hệ khác; mỗi một thời đại sẽ khám phá những phẩm tính mới về Sự Hiện Diện của Ngài” (C. Westminster, The book of Exodus, London: 1908, 22). Chúng ta gặp thấy Danh Thiên Chúa như một sự hiện diện ở nơi lời giải thích mang tính hiện sinh của Is 52: 6: “Vì vậy, trong ngày ấy, dân Ta sẽ nhận biết danh Ta, nhận biết rằng: chính Ta là Đấng đã phán: ‘Này Ta đây!’”.
Nói tóm lại, Danh Thiên Chúa thật sự được mặc khải nhưng đồng thời được phủ che. Hai chiều kích của việc mặc khải Danh Thiên Chúa chỉ cho thấy một chuyển động tích cực và năng động không chỉ về phía Thiên Chúa, nhưng cả về phía dân của Ngài. Về phần mình, Thiên Chúa sẽ vẫn tiếp tục chứng tỏ cho thấy Ngài hiện diện cùng với dân Ngài bằng những hành động: Đấng Giải Thoát ở bên Ai-cập, Đấng Bảo Vệ trong hoang địa… Còn về phía dân Ngài, “kinh nghiệm từng trải của dân Ít-ra-en với Thiên Chúa trong lịch sử của mình sẽ khẳng định ý nghĩa của Danh Thiên Chúa này. Dân Ít-ra-en hiểu lịch sử của mình từ Danh Thiên Chúa này, cũng như hiểu Danh Thiên Chúa từ lịch sử của mình” (W. Johnstone, Exodus, Old Testament Guide, 104).
Trong Tin Mừng Gioan, khi công bố: “Tôi là”, Đức Giê-su ngầm quy chiếu đến câu chuyện mặc khải Danh Thiên Chúa và áp dụng Danh Thiên Chúa vào chính mình: “Thật, tôi bảo thật các ông: trước khi có ông Áp-ra-ham, thì tôi, Tôi Là” (Ga 8: 58), hay “Nếu các ông không tin là Tôi Là, các ông sẽ mang tội mình mà chết” (Ga 8: 24). Trong Tin Mừng Mát-thêu, ngay từ đầu Tin Mừng, Hài Nhi Giê-su sẽ được gọi là “Em-ma-nu-en”, nghĩa là, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, và cuối Tin Mừng: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
BÀI ĐỌC II (1Cr 10: 1-6, 10-12)
Thánh Phao-lô viết thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô từ Ê-phê-xô có lẽ vào mùa xuân năm 55, vào dịp những xáo trộn và chia rẽ làm rối loạn Giáo Đoàn non trẻ này (được thiết lập vào năm 50-52). Mặt khác, các tín hữu Cô-rin-tô đã nêu lên cho thánh nhân một loạt câu hỏi tinh tế, thuộc lãnh vực luân lý hay có liên quan đến cuộc sống thường ngày giữa môi trường ngoại giáo.
Thánh nhân vừa mới trả lời một trong những câu hỏi mà họ nêu lên cho ngài. Những tín hữu này đã ăn thịt cúng tại nhà bà con thân thuộc ngoại giáo hay tại nhà mình khi mua thịt cúng bán ngoài chợ về. Thánh Phao-lô đã gợi lên sự tự do của người Ki-tô hữu: người Ki-tô hữu có quyền ăn bất kỳ đồ cúng nào, vì mọi vật đều được Thiên Chúa tạo dựng và ban cho con người hưởng dùng; hơn nữa, các thần linh chỉ là ngẫu tượng. Tuy nhiên, sự tự do này bị hạn chế do bởi việc tôn trọng tha nhân và đức ái huynh đệ. Như vậy, “những người mạnh” phải tránh cách hành xử có thể làm thương tổn hay gây gương xấu cho “những kẻ yếu”.
Đối với “những người mạnh”, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng cuộc sống Ki-tô hữu là một cuộc chiến đấu không ngừng; ngay cả những người mạnh nhất khó tránh khỏi những yếu nhược. Lịch sử cứu độ minh chứng điều này.
Xưa kia dân Do thái trong hoang địa đã được hưởng những trợ giúp linh thiêng tuyệt vời khôn sánh, tiên trưng các bí tích của Ki-tô giáo; ấy vậy họ đã không đương đầu nổi trước những thử thách thờ ngẫu tượng và ham muốn của cải trần thế. Họ đã phải vùi thây trong hoang địa mà không được vào Đất Hứa (x. Ds 14: 22). Những sự việc ấy xảy ra để làm bài học răn dạy chúng ta.
Thánh Phao-lô sánh ví cuộc vượt qua Biển Đỏ, dưới cột mây che chở, với phép rửa Ki-tô giáo. Ông Mô-sê tiên trưng Đức Ki-tô. Toàn dân Do thái “cùng được chịu phép rửa dưới đám mây và trong lòng biển, để theo ông Mô-sê”, như dân Ki-tô giáo cùng được chịu phép rửa trong nước và Thánh Thần, để theo Đức Ki-tô.
Tiếp đó, thánh nhân đồng hóa bánh man-na, dù thánh nhân không nêu đích danh, với thần lương, tiên trưng bàn tiệc Thánh Thể, dù được gợi lên nhưng cũng không được nêu tên. Vả lại, bánh man-na đã được truyền thống Do thái lý tưởng hóa rồi. Sách Xuất Hành nói rằng Đức Chúa cho bánh từ trời mưa xuống (Xh 16: 4). Thánh Vịnh 78 gợi lên bánh man-na là “bánh kẻ mạnh” (Tv 78: 25) mà Bản Vulgata đã có chủ ý dịch “bánh thiên thần”, v.v…
Một đặc quyền khác mà dân Do thái đã được hưởng: “Tất cả cùng uống một thức uống thần thiêng, vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy chính là Đức Ki-tô”. Thánh Phao-lô ám chỉ đến một giai thoại nổi tiếng theo đó tảng đá, từ tảng đá đó ông Mô-sê đã làm cho nước hằng sống (“nước hằng sống” là diễn ngữ Kinh Thánh để chỉ nước mát trong chảy ra tận nguồn) phun trào, đã đồng hành với dân Do thái trong suốt cuộc hành trình băng qua hoang địa.
Nước hằng sống phun trào từ tảng đá này không gì khác hơn là dấu chỉ về Đức Ki-tô tiền hữu, hiện diện ở giữa dân Ngài. Việc đối chiếu bạo dạn này chắc chắn được gợi hứng từ hình tượng truyền thống, đặc biệt được các Thánh Vịnh chuyển tải, theo đó Đức Chúa thường được công bố là “tảng đá của Ít-ra-en”.
Thánh Phao-lô rút ra từ những hình ảnh tiên trưng này một lời cảnh báo nghiêm khắc lên án tính tự hào tự phụ. Các Ki-tô hữu có những nguồn trợ lực còn cao cả hơn những nguồn trợ lực mà dân Do thái đã được hưởng. “Những sự việc này xảy ra cho họ để làm bài học, và đã được chép lại để răn dạy chúng ta, là những người đang sống trong thời sau hết này”, những người đang tiến gần đến Đất Hứa đích thật. Nếu muốn được vào trong Đất Hứa, thì hãy cảnh giác, những ai cứ tưởng mình đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã.
TIN MỪNG (Lc 13: 1-9)
Đoạn Tin Mừng hôm nay được trích từ một phân đoạn dài được gọi là “cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem của Chúa Giê-su” (9: 51-18: 14). Phân đoạn này được đặt trong bối cảnh Chúa Giê-su đang trên đường tiến đến cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài; lời dạy của Ngài càng trở nên nghiêm trọng và khẩn thiết hơn. Giờ đã đến để biết đọc “các dấu chỉ thời đại” (12: 54-56), hãy mau ăn năn sám hối kẻo không còn kịp nữa (12: 57-58). Những sự kiện mang tính thời sự tự chúng có thể dâng hiến một cơ hội thuận lợi để mà trầm tư nghĩ ngợi.
Vài người đến thuật lại cho Chúa Giê-su một sự cố bi thảm: những người Ga-li-lê đến dâng hy lễ ở Đền Thờ Giê-ru-sa-lem đã bị thảm sát theo lệnh tổng trấn Phi-la-tô.
Sự kiện này không được thuật lại ở nơi khác, nhưng phù hợp với những gì mà sử gia Do thái, F. Josephus, nói về nhiều vụ trả thù đẩm máu theo lệnh quan tổng trấn Rô-ma này (Antiquités juives, 18, 3, 2 và 4: 1). Như chúng ta biết, người Ga-li-lê rất dễ hưởng ứng những cuộc bạo động chính trị, bởi vì họ là dân dễ bị kích động. Nhưng chúng ta cũng có thể nghĩ ngay đến nhóm Nhiệt Thành, một đảng phái tôn giáo có xu hướng chính trị, họ giải thích trào lưu Mê-si-a theo ý nghĩa chính trị và sẵn sàng giành lại nền độc lập cho dân tộc mình, ngay cả bằng bạo động. Nhóm này tự ý chiêu mộ thành viên của mình ở Ga-li-lê nên thường được gọi là “những người Ga-li-lê”. Sự hiện diện của họ ở Giê-ru-sa-lem khích động thái độ bài chính quyền chiếm đóng. Những người thuật lại cho Chúa Giê-su sự cố này, chắc chắn muốn được nghe từ miệng Ngài sự công phẩn chống lại chính quyền chiếm đóng. Nhưng Chúa Giê-su tức khắc đặt mình trên lãnh vực khác.
Theo quan niệm phổ biến vào thời đó, tai họa hay bệnh tật là những án phạt của tội lỗi (x. Ga 9: 2). Vì thế, những ai thoát khỏi cuộc thảm sát này xác tín rằng mình vô tội, là “công chính”. Chúa Giê-su cực lực tố cáo thái độ này. Chắc chắn những người bị thảm sát không phải là không có tội, nhưng đừng nghĩ rằng họ tội lỗi hơn những người Ga-li-lê khác. Đối với những người đối thoại này, Ngài tuyên bố rằng họ có tội như những người Ga-li-lê xấu số kia; đoạn trong một kết luận xem ra có vẻ mâu thuẫn, Ngài nói: “Nếu các ông không sám hối, thì các ông sẽ chết hết như vậy”.
Để khuyến khích ăn năn sám hối, Chúa Giê-su đưa ra thêm một ví dụ khác nữa, lần này liên quan đến những người Giu-đê. Mười tám người Giu-đê bị tháp Si-lô-ác đổ xuống đè chết. Biến cố này chắc hẳn vừa mới xảy ra đây. Chúa Giê-su quả quyết không phải những người Giu-đê xấu số này tội lỗi hơn những người Giu-đê tội lỗi khác, vì thế Ngài lập lại lời kêu gọi: “Nếu các ông không sám hối, thì các ông sẽ chết y hệt như vậy”.
Làm thế nào giải thích rằng Chúa Giê-su vừa mới từ chối ý tưởng theo đó có những mối liên hệ trực tiếp giữa tai họa và tội lỗi, lại ngay tức khắc đe dọa thính giả của Ngài về tội lỗi? Viễn cảnh chung của các chương 12 và 13 này là viễn cảnh của ngày chung thẩm: phải sám hối nếu muốn thoát khỏi án phạt. Thế nên, người ta nghĩ rằng cái chết thảm hại mà Chúa Giê-su cảnh giác những người đối thoại của Ngài, thì thuộc trật tự tinh thần: mất sự sống trong Nước Trời.
Tuy nhiên, trong suốt cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem, Chúa Giê-su nhiều lần nghĩ đến dân của Ngài, đa số trong họ đã không thể nhận ra Ngài; Ngài than trách thành thánh Giê-ru-sa-lem vì “đã giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được sai đến với họ” (Lc 13: 34). Trong lời kêu gọi khẩn thiết hãy sám hối trước khi đã quá muộn, không phải chúng ta cũng được mời gọi gẫm suy lời cảnh báo của Chúa Giê-su về sự sụp đổ thành thánh Giê-ru-sa-lem vào năm 70 sao? “Nếu các ngươi không chịu hối cải, tất cả các ngươi sẽ bị chết y như vậy”.
Thánh Lu-ca là thánh ký về lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Ngay sau những lời nghiêm khắc của Chúa Giê-su, thánh ký đặt dụ ngôn cây vả không sinh trái, dụ ngôn này khác với dụ ngôn cây vả bị nguyền rủa khô héo mà thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu tường thuật, theo đó, dân Ít-ra-en đã không sinh hoa kết trái như lòng Chúa mong ước; vì thế dân này chẳng còn gì hơn là cây vả chết khô (Mc 11: 12-14, 20-25; Mt 21: 18-22). Trái lại, dụ ngôn cây vả không sinh trái của thánh Lu-ca gợi lên lòng nhẫn nại của Thiên Chúa. Chắc chắn dân Ít-ra-en vẫn còn ẩn hiện ở nơi dụ ngôn này. Cựu Ước đã thường sánh ví dân Chúa với một cây ăn trái mà Chúa chọn và ân cần chăm sóc.
Nông dân miền Pa-lét-tin thường trồng dặm những cây ăn trái trong vườn nho của mình, nhất là những cây vả, vì đất trồng nho rất thích hợp với loại cây này. Trong dụ ngôn của thánh Lu-ca, ông chủ vườn nói với người làm vườn: “Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?”. Người làm vườn xin một thời hạn cuối cùng để mình có thể ra công vun xới và bón phân cho nó. May ra sang năm nó sẽ sinh hoa kết trái, nếu không thì chặt nó đi cũng không muộn.
Ai cũng thấy ở nơi việc kể ra “ba năm không sinh trái” này một ám chỉ đến ba năm thi hành sứ vụ của Đức Giê-su mà lòng dân Ít-ra-en vẫn trơ như đá. Nhưng tất cả những người tội lỗi không liên quan đến dụ ngôn này sao? Bên kia dân Ít-ra-en cứng tin, chắc chắn thánh ký nghĩ đến dân mới của Chúa Ki-tô, dân mà Chúa Con là Đấng Trung Gian, Ngài không ngớt cầu bầu cho dân mình bên cạnh Chúa Cha, Ngài phân phát muôn vàn ân sủng, Ngài làm hết sức mình để dẫn đưa tội nhân đến ơn cứu độ.
.
Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
Cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và ông Môi-sen qua bụi gai cháy bừng là một sự kiện quan trọng đánh dấu bước tiến triển của mạc khải. Quả vậy, đây là lần đầu tiên trong lịch sử, Thiên Chúa tự giới thiệu danh của Ngài cho con người. Tuy vậy, nếu được Thiên Chúa cho biết Ngài là “Đấng Tự Hữu”, thì ông Môisen cũng chẳng hiểu danh xưng đó có ý nghĩa. Ông chỉ dễ dàng nhận ra Chúa khi Ngài liên hệ đến các tổ phụ, tức là Abraham, Isaac, và Giacóp. Mối tương quan này cho thấy Thiên Chúa là Đấng luôn đồng hành với lịch sử Do Thái, là dân riêng Ngài đã chọn. Danh Thiên Chúa được kêu cầu cho các thế hệ tương lai, chính là danh xưng gắn liền với các Tổ phụ của dân tộc thánh. Nói cách khác, những gì Thiên Chúa đã làm cho Abraham, Isaac và Giacóp, đã tạo nên tên gọi của Ngài.
Khi tự mạc khải mình cho ông Môisen, Thiên Chúa tỏ cho ông thấy Ngài là Đấng thương xót và quan tâm đến con người. Ngài đã nghe thấy tiếng kêu than khổ cực của người Do Thái bị áp bức tại Ai Cập, và Ngài sẽ dùng ông Môisen để giải phóng họ, đưa họ tới bến bờ của tự do. Đây cũng là một nét mới mẻ của Mạc khải: Thiên Chúa là Chúa của tình thương, như mẹ hiền lắng nghe nỗi lòng của con cái, để che chở độ trì.
Thiên Chúa là Đấng giải phóng con người. Điều này được chứng minh trong suốt bề dày của lịch sử cứu độ, nhất là nơi Đức Giêsu Kitô. Người là vị thủ lãnh, giải phóng loài người khỏi tội lỗi, ban cho họ được tự do và được hưởng ơn cứu độ.
Chúa Giêsu cũng giải thoát con người khỏi những thành kiến, nhằm quy tội và lên án người khác. Tin Mừng hôm nay cho thấy quan niệm hẹp hòi của những người đương thời đối với những sự kiện xảy đến trong cuộc sống. Đối với Chúa Giêsu, những gì xảy ra xung quanh chúng ta đều là những điểm báo mời gọi chúng ta ăn năn sám hối và sửa mình để sống tốt hơn. “Ta bảo các ngươi: Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị hủy diệt như vậy”. Lời mời gọi hối cải mang tính cấp bách, và là một điều kiện cần thiết để tránh mọi tai họa. Hình ảnh cây vả đã ba năm không sinh trái, vừa diễn tả sự kiên nhẫn của Thiên Chúa vừa nói lên sự lười biếng của con người. Thiên Chúa kỳ vọng nơi chúng ta hãy sinh nhiều hoa trái là những nhân đức và những việc làm tốt đẹp, nhưng trong thực tế, chúng ta không làm những gì Thiên Chúa chờ đợi nơi ta. Mỗi chúng ta cần nhìn lại thực trạng cuộc sống bản thân, để xem mình có sinh hoa trái trong đời hay không.
Mùa Chay vừa giúp chúng ta khiêm tốn nhận ra lỗi lầm của mình, vừa nhắc bảo chúng ta hãy có cái nhìn bao dung đối với tha nhân, vì mỗi chúng ta đều là những tội nhân đang cần ơn tha thứ của Thiên Chúa. Đây cũng là mục đích của Năm Thánh Lòng Thương Xót. Thiên Chúa yêu thương và bao dung tha thứ những tội lỗi của chúng ta. Ngài cũng mong muốn chúng ta hãy có lòng thương xót đối với đồng loại. Lòng bao dung đối với anh chị em là một trong những điều kiện cần có để chúng ta được đón nhận sự tha thứ của Chúa. Những ai sống khép kín và dửng dưng trước nỗi đau của đồng loại, không thể đón nhận ơn tha thứ của Chúa và như thế, họ sống trái ngược với giáo huấn của Ngài. Để sống tinh thần của Năm Thánh, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi chúng ta quan tâm đến những người bị bỏ rơi trong làng xóm và trong cộng đoàn, nhất là những người còn sống trong “ngăn trở” hoặc vì lý do nào đó mà chưa hiệp thông hoàn toàn với Giáo Hội. Những người này, nhiều khi là nạn nhân của những kỳ thị, bị xa lánh và khinh bỉ ngay giữa những cộng đoàn Đức tin, trở nên lạc lõng lẻ loi đối với những sinh hoạt đạo đức.
Thiên Chúa bao dung và yêu thương mọi người, nhưng con người lại khắt khe và hẹp hòi trong cách đối xử với nhau. Vì thế mà cuộc sống này vẫn còn tồn tại những thập giá và đau khổ. Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy luôn thận trọng, lấy bài học của dân Do Thái trong hành trình sa mạc làm gương, để khỏi gục ngã trước cám dỗ của kiêu ngạo và dục vọng. Kể cả những ai nghĩ là mình đang đứng vững cũng phải coi chừng, vì rất có thể họ bị vấp ngã một cách bất chợt (Bài đọc II).
Xin Chúa giúp chúng ta có lòng thương xót như Chúa Cha, nhờ đó có tâm hồn mới nhờ biết ăn năn sám hối, và có cái nhìn bao dung nhân hậu đối với những người xung quanh.
.
Tgm. Ngô Quang Kiệt
Mùa Chay là mùa sám hối. Sám hối là đổi mới tâm hồn. Muốn đổi mới tâm hồn, phải đổi mới cách nhìn về con người và cuộc đời, về bản thân và tha nhân. Hôm nay, Chúa Giêsu dạy ta những cách nhìn thời cuộc và biến cố theo tinh thần của Người.
Thông thường, trước một biến cố, ta dễ có cái nhìn chính trị. Hôm nay, người ta thuật lại việc Philatô giết những người Do Thái trong Đền Thờ. Thời ấy, đế quốc Rôma đang thống trị nước Do Thái. Philatô là viên tổng trấn của Rôma. Tường thuật biến cố đau thương này, người ta mong Chúa Giêsu có cái nhìn chính trị, dấn thân vào chính trị. Người ta mong Chúa Giêsu kết án Philatô. Không bàn chính trị, không làm chính trị, cho dù sau này Chúa Giêsu vẫn bị kết án vì một tội chính trị. Không kết án Philatô, dù sau này chính Người bị viên tổng trấn này kết án.
Trước mọi biến cố, Chúa Giêsu muốn ta có một cái nhìn tôn giáo, vượt lên trên lĩnh vực chính trị. Từ một câu hỏi thuộc bình diện chính trị, Chúa Giêsu đã đưa ra một giải đáp thuộc bình diện tôn giáo. Từ một biến cố gây xôn xao dư luận, Chúa Giêsu mời gọi ta hãy ăn năn sám hối. Từ cái chết của thể xác, Chúa Giêsu hướng suy nghĩ ta tới cái chết của linh hồn: “Các ông tưởng mấy người Galilê đó bị như vậy là vì họ tội lỗi hơn những người Galilê khác sao? Tôi nói cho các ông biết, không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy”.
Đối với người khác, ta dễ có cái nhìn kết án. Khi gặp một người mù từ thuở mới sinh, người ta hỏi Chúa Giêsu: “Đây là do tội nó hay tội của cha mẹ nó?”. Gặp người phụ nữ phạm tội ngoại tình, người ta muốn kết án chị. Nga có thói quen cho rằng thành công là một ân huệ Chúa thưởng cho người đạo đức, còn tai hoạ là hình phạt Chúa dành cho kẻ tội lỗi. Hôm nay, chứng kiến những nạn nhân bị thiệt mạng, những người tường thuật đều nghĩ rằng những nạn nhân ấy chết vì họ tội lỗi, còn tôi vô sự, điều đó chứng tỏ tôi vô tội. Chúa Giêsu lên tiếng cảnh báo họ: Các ông cũng là kẻ tội lỗi. Nếu các ông không ăn năn hối cải, các ông sẽ chết thảm khốc hơn những nạn nhân kia nữa. Chúa Giêsu dạy ta có cái nhìn bao dung. Nếu có phải xét đoán, hãy xét mình trước khi xét người. Nếu có phải lên án, hãy lên án chính bản thân mình trước khi lên án người khác: “Hãy lấy cái đà ra khỏi mắt ngươi trước, rồi ngươi sẽ thấy rõ để lấy cái rác ra khỏi mắt anh em”. “Ai trong các ông vô tội hãy ném đá chị này trước đi”.
Sau cùng, ta thường có cái nhìn ảo tưởng. Ta xây dựng những chương trình to lớn, những tham vọng đổi mới xã hội. Chúa Giêsu dạy ta hãy có cái nhìn thực tế: Đừng ảo tưởng với những chương trình to tát, lấp biển vá trời. Hãy bắt đầu bằng những việc nhỏ bé. Đừng có ảo tưởng đổi mới xã hội, cải tạo thế giới. Trước hết, hãy đổi mới chính mình, cải tạo bản thân mình. Tục ngữ Trung quốc có câu: Nếu mỗi người trông hoa trước cửa nhà mình, cả thế giới sẽ biến thành một vườn hoa đẹp. Đổi mới chính mình đó là góp phần vào đổi mới thế giới.
Với những bài học ấy, Chúa Giêsu hướng ánh mắt ta lên cao, vượt thoát lĩnh vực tự nhiên để vươn tới lĩnh vực siêu nhiên. Với những bài học ấy, Chúa Giêsu hướng cái nhìn của ta xuyên qua những lớp bì phủ bên ngoài để soi chiếu vào chiều sâu nội tâm. Với những bài học ấy, Chúa Giêsu hướng cái nhìn của ta ra khỏi những ảo tưởng, đối diện với thực tế bản thân để trước mỗi biến cố ta tự xét và đổi mới chính mình.
Lạy Chúa, xin đổi mới trái tim con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
.
Lm. Jos. DĐH
Niềm vui và đau khổ, bình an và tai họa, ấm no và đói khát, không chỉ là những cụm từ đối nghịch nhau, nhưng so sánh ấy còn là dịp để mỗi người khám phá giá trị thật của hạnh phúc. Tình bè bạn cao quí nhất vẫn được nói tới là : phúc cùng hưởng, họa cùng chia. Cuộc tình sòng phẳng hơn cả trách nhiệm là : thân ai người ấy lo. Mâu thuẫn trong tư tưởng, hành động, giả dối trong suy nghĩ, bất trung thành với lời hứa, có phải là nguyên nhân đưa tới sự xấu, điều ác hay không ?
Từ xa xưa, dân gian vẫn cho rằng : ở hiền gặp lành, còn nghèo đói, bệnh tật, tai họa, là do ăn ở thất đức ! Thực ra, tai nạn xảy ra có thể là do bất cẩn trong lao động, mỏi mệt vì cơ thể yếu đau, hoặc thiên tai bất ngờ ập đến, khách quan thì họ là nạn nhân đáng thương hơn đáng trách. Sự kiện những người Galilê bị quan tổng trấn giết hại, hẳn là một việc “nhạy cảm”. Chúa Giêsu không cho rằng họ thiếu cẩn thẩn, cũng không phải họ có tội nhiều hơn những người Galilê khác.
Đúng hơn, Chúa không cổ vũ bạo động, hay im lặng trước việc xấu, cũng chẳng phải lên án hành động giết người của Philatô, hay phản đối bất công vì 18 người bị tháp Silôe đè chết. Chúa quả quyết với những người hôm xưa và chúng ta hôm nay : “nếu các ngươi không ăn năn sám hối, các ngươi cũng sẽ phải chết như vậy”. Lời cảnh báo về số phận của mỗi người, không phải là tìm né tránh đau khổ, tai họa, nhưng là lời nhắc nhớ lòng bao dung của Thiên Chúa, nên hãy mau thật lòng sám hối tội lỗi của mình.
Quy luật sống ở đời mọi người đều được bình đẳng : nghe, hiểu, biết, cả những lời khuyên hữu ích, song chỉ có những ai khôn ngoan mới nhận ra họ được yêu thương. Người ta có thể trở thành quỷ dữ hoặc thánh nhân, khi không chịu nghe, không muốn hiểu về những tai họa, về những phúc đức xảy ra nơi cuộc sống. Những đau khổ, tai họa dù bất ngờ hay hiển nhiên xảy đến, bao giờ cũng là lời cảnh tỉnh, nhắc nhớ lòng thương xót của Chúa dành cho chúng ta. Lòng nhân hậu và tha thứ của Thiên Chúa chỉ có ý nghĩa khi mỗi người biết khiêm tốn ăn năn sám hối về tội lỗi của mình.
Tục ngữ có câu : cười người hôm trước hôm sau người cười. Dù biết rằng, ai cũng có quyền tự do, hoặc có quyền cười khi thấy những gì “sai quấy”, “rởm đời”… Biến cố “bị giết chết” xem ra nóng hổi tính thời sự đối với người Do-thái, một do sự tàn ác của tổng trấn Philatô, một do tai họa bất ngờ ập tới, cả 2 đều dẫn đến sự thê thảm chết chóc. Có thể nhiều người muốn Chúa Giêsu cho một ý kiến “nên cười, hay nên khóc”, trước cái chết “bất ưng” ấy. Với ơn khôn ngoan, hẳn Chúa Giêsu đã chỉ cho mọi người biết đừng bao giờ cười trước sự đau khổ, tai họa, của kẻ khác. Đừng dửng dưng về tính thời sự, nhưng ai muốn thoát khỏi cảnh chết đời đời, hãy ăn năn sám hối trước tội lỗi của mình.
Mang thân phận yếu đuối tội lỗi, thiếu sót sai lầm, chưa phải là căn bệnh “hết thuốc chữa”, vì thế mà qua mỗi biến cố xấu xảy đến với mình, với anh chị em mình, đều là dịp để chúng ta nhận ra lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Chỉ khi ý thức về cách sống đức tin hiện tại ra sao, chúng ta mới biết thật lòng khóc thương tội lỗi, sai lầm của mình. Nhận ra lòng nhân hậu của Chúa, người ta sẽ biết cười, vì phần thưởng Thiên Chúa sẽ ban cho những ai thật lòng đã và đang sám hối ăn năn.
Khi đưa ra dụ ngôn cây vả không sinh trái, tưởng chừng không liên quan tới việc sống chết, vì cây vả không làm gì nên tội lỗi, không đấu tranh, không bất cẩn hay vô tình ? Đúng, cây vả không sinh hoa kết trái, đã 3 năm ông chủ kiên nhẫn trông chờ; người làm vườn vẫn xin chủ, cho cây vả được thêm ân huệ sống một năm nữa để ông vun xới, hy vọng nó sinh trái. Vấn đề sống chết, đó là quy luật, nhiều người cho rằng sớm muộn cũng phải đến, nhưng sống có ích hoặc sống vô ích là 2 điều hoàn toàn khác nhau.
Sách có câu : của cải có thể tự chúng tìm đến ta, nhưng sự khôn ngoan thì chúng ta phải tự tìm kiếm. Nghe để hiểu, để sống, chúng ta đều có cơ hội như nhau, nhưng biết quyết định chọn điều tốt đẹp cho mình, tùy thuộc tự do của mỗi người. Chúng ta có cảm thấy an toàn như cây vả chưa sinh trái hay không ? Chúng ta có tự hào là mình không làm điều xấu, chẳng gây thù hận gì đến ai ? Nhưng mỗi người Kitô hữu đừng quên làm điều tốt, đừng sống như người nghèo hèn trong khi nén bạc Chúa trao thì lại cất giấu. Các nhà tu đức cũng quan niệm rằng : khi không làm điều tốt cho đời, cho người anh chị em mình, nghĩa là ta đang vô tình tiếp thêm sức mạnh cho sự dữ tung hoành.
Đã được sinh ra làm người, trước hết và trên hết, ai cũng cần biết đến tình yêu thương của cha mẹ. Được sinh ra làm con Chúa và Hội Thánh, chúng ta không thể sống mà không nhận ra “lòng nhân hậu” của Thiên Chúa. Mỗi người Kitô hữu phải tự biết suy xét để nhận ra tội lỗi bất xứng của mình, thay vì ảo tưởng về sự bình an giả tạo để suy xét tội lỗi của người khác. Thấy sai lầm và lỗi tội của người khác mà không biết tâm hồn mình sạch hay dơ, chính là nguyên nhân khiến lòng ra kiêu ngạo, khinh người, đáng chết mà thôi. Thiên Chúa nhân từ và hay tha thứ, nhưng sám hối ăn năn về tnhững hiếu sót tội lỗi của mình, tùy thuộc mỗi chúng ta. Amen.
.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Có ai đó nói rằng: “tha thứ lớn nhất của đời người là khoan dung”. Vì khoan dung với người cũng chính là khoan dung với mình, giải thoát mình khỏi những sự giận dữ, căm tức, hận thù, tranh chấp…, nhờ đó mà cân bằng được cuộc sống của mình.
Điều đáng tiếc là con người lại thiếu lòng bao dung. Dường như chẳng mấy ai nhịn được một cái tức. Chẳng mấy ai kiềm lòng được một câu chửi. Rồi lời qua tiếng lại dẫn đến ẩu đả loại trừ lẫn nhau.
Người ta kể rằng: Một linh mục Công Giáo, một mục sư Tin Lành, và một giáo trưởng Do Thái, đang tranh luận rất sôi nổi về vấn đề thần học. Thình lình một Thiên Thần hiện ra giữa họ và nói:
– Thiên Chúa chúc lành cho các ngươi. Các ngươi hãy nói lên một ước nguyện về hòa bình và Thiên Chúa toàn năng sẽ chấp nhận.
Thế là vị mục sư Tin Lành liền khẩn cầu.
– Xin Chúa cho tất cả mọi người Công Giáo biến khỏi trái đất thân yêu này thì hòa bình sẽ trở lại tức khắc.
Vị linh mục Công Giáo thì cầu nguyện:
– Xin đừng để cho một người Tin Lành nào còn có mặt trên trái đất thân yêu này, và hòa bình sẽ trở lại.
Vị giáo trưởng Do Thái thì lại cúi đầu thinh lặng. Thấy thế Thiên Thần liền hỏi:
– Còn ngươi, hỡi giáo trưởng, ngươi không có ước nguyện nào ư?
Ông ta liền thưa:
– Vâng, tôi không có điều gì để xin nữa. Tôi chờ cho lời cầu của hai vị này được Chúa chấp nhận là tôi mãn nguyện rồi.
Thật thâm thúy cho người Do Thái. Không cầu điều gì mới chỉ cần hai lời cầu kia đều được thực hiện thì trên trái đất cũng chỉ còn một mình anh.
Chúng ta có một vì Thiên Chúa rất nhân hậu và rất mực khoan dung. Ngài có giận thì giận trong giây lát nhưng yêu thương thì suốt đời. Ngài vẫn đong đầy tình yêu cho người lành và cả người dữ để cải hóa họ ăn năn trở về. Ngài kiên nhẫn như người làm vườn vẫn tận tụy chăm sóc cây vả đề chờ cây ra trái đơm hoa cho dù phải chờ đợi hết năm này đến năm kia.
Cuộc sống này đầy những thị phi. Tránh sao khỏi những xung đột bất hòa trong lời nói và việc làm. Điều quan trọng là hãy có lòng bao dung với nhau. Hãy sống “chín bỏ làm mười”, vì “một điều nhịn bằng chín điều lành”. Xung đột rồi sẽ qua. Cơn nóng sẽ nguôi ngoai, hãy kiên tâm chịu đựng lẫn nhau để xây dựng một xã hội thân thiện yêu thương.
Cầu chúc cho mỗi người biết tin vào lòng nhân từ thương xót của Chúa để điều chỉnh bản thân nên giống Chúa trong cư xử và hành động. Xin cho mùa chay giúp chúng ta nhận ra anh em cũng đang kiên nhẫn với tội lỗi của ta thì chính chúng ta cũng hãy tha thứ và mở lòng bao dung đến với tha nhân. Amen.
.
Lm. Phạm Thanh Liêm
Lời Chúa hôm nay mời gọi mọi người sám hối, vì Thiên Chúa là Đấng luôn nhân từ hay thương xót, Ngài luôn động lòng trước nỗi thống khổ của con người, Ngài luôn thương và cứu giúp con người.
Thiên Chúa giải phóng dân Người
Dân Do Thái bị bóc lột, bị đàn áp và bị tiêu diệt từng ngày. Trong cùng quẫn, họ đã kêu lên Thiên Chúa, và Ngài đã giải phóng họ bằng việc sai gởi Môsê tới lãnh đạo dân, thương lượng với vua Pharaô, đưa dân ra khỏi Ai-cập.
Thiên Chúa động lòng trước nỗi khổ của dân Do Thái, trước nỗi khổ của Môsê lang bạt trong hoang địa khi trốn chạy Pharaô. Thiên Chúa đã hiện ra cho Môsê qua bụi gai bốc cháy mà không tàn, để sai Môsê đi giải phóng dân. Môsê lãnh đạo giải phóng dân, nhưng không phải Môsê lãnh đạo giải phóng dân, mà chính là Thiên Chúa giải phóng dân. Đây chính là điều dân Do Thái cần ghi nhớ để dạy lại cho con cháu.
Thiên Chúa, Đấng tự hữu, luôn yêu thương và cứu trợ dân người.
Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người
Người đời cho rằng những người bị tai hoạ là những người tội lỗi, nên bị Chúa phạt. Nhưng Đức Yêsu lại không cho rằng những người bị Philatô sát hại cũng như những người bị thác Siloê đổ đè chết, là những người tội lỗi hơn những người còn đang sống. Đức Yêsu nói: “Không đâu! Nhưng nếu các người không sám hối, các người sẽ bị như vậy”. Những người bị nạn đó, trở thành tấm gương, là bài học để con người hôm nay nhìn vào, hầu thay đổi cách sống. Thiên Chúa vì yêu thương những người còn đang sống, hôm nay vẫn dùng bao biến cố, như những tấm gương, để răn dạy con người.
Dụ ngôn cây vả không sinh trái, và người làm vườn đã xin ông chủ khoan nhượng để bón phân tưới nước, hy vọng cây vả sẽ ra trái vào năm sau, bằng không thì sẽ chặt nó sau, cũng là dụ ngôn cho thấy Thiên Chúa vẫn luôn nhân từ và kiên nhẫn đối với con người tội lỗi.
Xin cho con người hôm nay, cụ thể là mỗi người chúng ta, được cảm nhận lòng yêu thương nhân từ kiên nhẫn của Thiên Chúa, để mỗi người chúng ta trở về với Ngài, và sinh hoa kết trái trong đời sống.
Dân Do Thái là bài học cho mọi người mọi dân tộc
Dân Do Thái là dân riêng của Thiên Chúa, được Thiên Chúa thương yêu với bao đặc ân. Nhưng Thiên Chúa cũng thương mọi dân tộc như thương dân Do Thái. Họ được chọn để trở thành “tấm gương tầy liếp” (tấm gương to), cho tất cả mọi người, mọi dân tộc nhìn vào để soi, để thấy tình yêu của Thiên Chúa với dân Do Thái, và qua dân Do Thái đối với các dân tộc khác, với mọi người trên trần gian.
Dân Do Thái được Thiên Chúa đưa ra khỏi Ai-cập, được Ngài nuôi ăn bằng manna, được uống nước từ tảng đá. Nhưng tất cả những điều đó, cũng là dấu chỉ, là hình bóng, cho thấy Thiên Chúa vẫn luôn nuôi sống con người qua cơm bánh họ có từng ngày. Hơn nữa, con người hôm nay còn được nuôi sống bằng mình máu Đức Yêsu nơi bí tích Thánh Thể.
Cả lịch sử dân tộc Do Thái thành bài học cho con người của mọi thời đại sau này. Xin cho mỗi người cũng như mỗi dân tộc biết nhìn lịch sử dân Do Thái để nhận ra tiếng Chúa nói với mình, nhận ra tình yêu Thiên Chúa dành cho mình.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
.
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Thứ Sáu, ngày 12/2 vừa qua, trên đường đến thăm Mexicô, Đức Thánh Cha Fancis đã có cuộc gặp với Thượng Phụ Karill, Giáo chủ Chính Thống Nga. Cuộc gặp này được coi là cuộc gặp lịch sử giữa hai nhà lãnh đạo Công Giáo và Chính Thống Nga sau hàng ngàn năm ly khai. Trên chuyến bay sau đó, Đức Cha cho biết, cuộc gặp này như cuộc gặp gỡ của hai anh em sau nhiều năm xa cách. Hai Ngài đã cùng ký kết một tuyên bố chung, nói lên khao khát tìm kiếm sự hoà giải và hiệp nhất. Sự kiện này diễn ra trong mùa chay, là dịp để chúng ta suy nghĩ về việc hoán cải, sám hối.
Nhìn nhận sai lầm thiếu sót của mình để nói lời xin lỗi và quyết tâm sửa sai không làm suy giảm phẩm giá của con người, nhưng lại làm tăng thêm giá trị cho con người. Tuy nhiên, dám nhìn nhận sai lầm thuộc về mình đã là điều khó, sám hối và sửa chữa sai lầm lại là điều khó hơn, nhất là khi người đó có một địa vị trong xã hội. Chúng ta có thể thấy, có những người lãnh đạo biết mình sai lầm mà không dám nhận lỗi, hoặc nếu phải nhận lỗi thì cũng tìm cách chống chữa cách này cách khác, hoặc đổ lỗi cho người khác. Không dám nhận sai lỗi của mình, nhưng ngược lại, người ta lại rất dễ nhìn thấy, tìm kiếm sai lỗi, lên án và kết tội anh em khi anh em có những sai lầm. Người ta làm như thế cốt để che lấp cái sai của mình.
Những người Do Thái trong Tin Mừng hôm nay cũng có thái độ như vậy. Họ đến với Chúa Giêsu và kể cho Ngài nghe câu chuyện về những người bị Philatô giết khi đang dâng của lễ, với ý nói rằng : Những người bị giết kia hẳn phải là người tội lỗi lắm thì mới chết thảm như vậy. Chúa Giêsu đã không đồng ý với suy nghĩ của những người này. Ngài còn cho biết thêm, những người bị tháp Siloe đổ xuống đè chết cũng không phải là những người tội lỗi. Người Do Thái cho rằng, tất cả những người bị tai nạn là những người tội lỗi bị Chúa trừng phạt. Nhưng Chúa cho biết, các biến cố ấy xảy ra là cơ hội, là tiếng nói để nhắc nhở mỗi người hãy sám hối và nếu không cũng sẽ phải chết thảm như thế.
Sám hối không chỉ là nhìn nhận sai lầm rồi nói lời xin lỗi, mà phải là một quyết tâm sửa sai, thay đổi từ suy nghĩ đến hành động (metanoia). Chỉ khi chúng ta chấp nhận thay đổi quan điểm, suy nghĩ của mình theo chiều hướng tốt thì chúng ta mới có thể đi đến những hành động tốt được. Chúa Giêsu kể dụ ngôn cây vả để nói đến điều đó : Người kia có một cây vả trồng trong vườn, đã ba năm ông chủ đến tìm trái, mà chỉ thấy toàn những cành lá xum xuê, ông ra lệnh cho đầy tớ chặt nó đi, không để nó choán đất; nhưng người làm vườn đã xin gia hạn cho nó một năm nữa, hy vọng nó sẽ ra trái, nếu không, ông chủ sẽ chặt nó đi. Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi chúng ta sinh những hoa trái tốt lành trong đời sống. Thiên Chúa không muốn thấy chúng ta giống như cây vả xum xuê cành lá, mà Ngài muốn nhìn thấy hoa trái trong đời sống đức tin của chúng ta, chứ không chỉ là những hình thức xum xuê bên ngoài. Thiên Chúa cũng cho con người nhiều cơ hội để sám hối và sinh hoa trái, giống như ông chủ chờ đợi hoa trái ở cây vả đã ba năm. Tuy nhiên sự kiên nhẫn của Thiên Chúa cũng có giới hạn. Nếu mỗi người không biết nắm bắt cơ hội Chúa cho để sinh trái, thì Thiên Chúa là ông chủ sẽ loại bỏ chúng ta, sẽ ném ta vào lò lửa.
Tại sao chúng ta phải sám hối ? Vì Thiên Chúa là Cha yêu thương, Ngài không thể làm ngơ khi thấy chúng ta bị sự trói buộc của tội lỗi và làm nô lệ cho ma quỷ. Thiên Chúa muốn ra tay cứu độ chúng ta, với một điều kiện, là chúng ta phải nắm lấy tay Ngài. Giống như ngày xưa, Thiên Chúa đã nhìn thấy cảnh nô lệ nhục nhằn của dân Do Thái bên Aicập. Thiên Chúa hiện ra với ông Môsê trong bụi gai cháy lửa, đã gọi ông, sai ông đến với vua Pharaô và xin nhà vua cho phép đưa dân ra khỏi Aicập : Ta đã thấu rõ cảnh khổ cực của dân Ta, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than. Cũng từ nơi bụi gai, lần đầu tiên, Thiên Chúa tỏ cho ông Môsê Danh Thánh của Ngài. Danh của Ngài chính là quyền năng, là sức mạnh của Thiên Chúa và là Danh để cho mọi người kêu cầu qua muôn thế hệ.
Trong bài đọc hai, Thánh Phaolô nhắc lại cho dân Côrintô về những sự kiện quyền năng lạ lùng Thiên Chúa đã dùng để cứu dân Người ra khỏi Aicập. Tuy nhiên, trước lòng nhân từ của Thiên Chúa, dân Israen lại hay thay lòng đổi dạ. Họ đã nhiều lần thử thách Thiên Chúa và chọc giận Người bằng việc thất trung với những lời cam kết, chạy theo lối sống của dân ngoại. Thánh Phaolô đã rút ra kết luận rằng : Tất cả những biến cố xảy ra trong lịch sử là bài học răn dậy chúng ta đừng bao giờ chiều chuộng thân xác và dục vọng trong con người của mình, đừng để nó chỗi dậy làm chủ và điều khiển con người chúng ta. Khi dục vọng làm chủ, chúng sẽ không nâng chúng ta lên, nhưng sẽ dìm con người chúng ta xuống sâu trong sự lệ thuộc vào nó. Dục vọng, xác thịt, cùng với những tật xấu là những kẻ nội thù, nằm rình chờ trong chúng ta và sẽ tấn công chúng ta khi chúng ta mất cảnh giác bởi sự tự mãn, kiêu căng.
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người dám nhìn nhận những sai lầm, thiếu sót của mình, can đảm để xin lỗi Chúa và làm hòa với anh chị em. Mỗi người hãy biết lợi dụng cơ hội mùa chay này để trổ sinh những hoa trái phúc đức là những việc làm tốt, những việc bác ái. Hãy hàn gắn lại mối tương quan của chúng ta với Chúa qua Bí tích Giải tội, để nơi tòa giải tội, chúng ta cảm nhận được sự nhân từ, lòng thương xót và cả sự kiên nhẫn của Thiên Chúa. Qua Bí tích Giải tội, chúng ta không chỉ được tẩy rửa những tội lỗi, mà còn được ban ơn trợ giúp để trổ sinh hoa trái trong tâm hồn và trong cuộc sống. Hãy quyết tâm trở về với Chúa một cách thật lòng và quyết tâm chân thành trở lại làm hòa với anh chị em, nối lại mối quan hệ tốt đẹp. Hãy can đảm đi bước trước để gỡ bỏ những bất hòa, bất đồng. Hãy mạnh dạn đưa tay ra để bắt lấy tay nhau, xóa bỏ những giận hờn, thù oán, đừng để những sự nóng nảy làm đổ vỡ tình anh em, đừng để những lời nói hoặc hành động làm tổn thương anh em mình.
Hãy bắt đầu sám hối từ trong gia đình, từ nơi cha mẹ, nhìn lại trách nhiệm và bổn phận làm vợ làm chồng của mình. Hãy xét lại cách ăn ở, cư xử với nhau, những chỗ nào chưa tốt, cần khắc phục và làm cho tốt hơn. Các bậc làm cha mẹ hãy dám nói lời xin lỗi với nhau và kể cả nói lời xin lỗi con cái khi mình làm sai. Con cái và anh em hãy sám hối và quyết tâm xây dựng bầu khí gia đình ấm cúng, thuận hòa hơn, kính trên nhường dưới, tha thứ và thông cảm cho nhau.
Trong Năm Thánh Lòng Thương Xót của Chúa, các bạn trẻ được mời gọi sám hối vì lối sống của nhiều người đã đi ngược lại với đức tin Công Giáo. Nhiều người đã để cho đức tin của mình chỉ còn như một ánh lửa leo lét, vàng vọt, không bùng cháy, cũng không chiếu tỏa soi sáng cho người khác được. Hãy nhận ra những sai lầm trong cách sống của mình, nhiều người đã để cuộc đời mình trôi nổi như cánh bèo vô định, không cố gắng học hỏi và trau dồi thêm giáo lý đức tin. Vì thế, đã không đứng vững được trước sự tấn công của ma quỷ và của xã hội hôm nay. Các bạn trẻ cũng cần sám hối vì lối sống ngông cuồng, kiêu ngạo của mình, đã đặt những thú vui, khoa học công danh lên trên cả Thiên Chúa và vì thế, cuộc đời của nhiều người mỗi ngày lại trở nên tăm tối hơn.
Cầu chúc cho mỗi người biết tin vào lòng nhân từ, thương xót của Chúa để điều chỉnh bản thân và trổ sinh nhiều hoa trái bác ái, yêu thương cho chính cuộc đời mình và cho thế giới hôm nay. Amen.
.
Lm. GB Văn Hào SDB
Con người chúng ta ai cũng có tội. Nhưng nhắc đến những tội đã phạm, ai ai cũng khó chịu, thà đừng nói tới thì hơn. Khi bị người khác bới lại những vết đen trong quá khứ, chúng ta cảm thấy nhức nhối, đôi khi còn muốn lồng lộn lên để phản kháng, mặc dầu có những chứng cớ sờ sờ trước mắt.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa không muốn để chúng ta an phận cách giả tạo. Chúng ta đừng nghĩ rằng tôi có tội, nhưng các tội tôi phạm chẳng đến nỗi nào, vì thiếu gì những người tội lỗi còn nhiều hơn tôi gấp bội. Đây là một tâm lý bình an giả hiệu, tự ru ngủ mình trong một pháo đài ngụy tạo để cố thủ và chẳng thích người khác bới móc cuộc sống tư riêng nơi mình. Nhưng hôm nay, Chúa Giêsu đã nhân cái chết của những người bị tháp Silôe đổ xuống đè chết, và Chúa còn mượn cả tiếng thét gào ai oán của những thường dân vô tội bị Philatô sát hại để cảnh tỉnh chúng ta. Sứ điệp mà Đức Giêsu công bố rất nghiêm khắc và mạnh mẽ : “Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, các ngươi sẽ chết hết y như vậy” (Lc 13,5).
Sự an phận giả tạo
Triết gia Lavator đã nói: “Trong các sinh vật trên mặt đất, khuôn mặt đẹp đẽ nhất chính là nét mặt con người. Nhưng khuôn mặt xấu xa bỉ ổi nhất cũng chính là bộ mặt nơi mỗi người chúng ta”. Con người vốn rất xinh đẹp vì được dựng nên giống họa ảnh của Thiên Chúa là Đấng Chân, Thiện, Mỹ, nhưng chân dung thánh thiện tuyệt vời ấy lại bị méo mó và hoen ố do tội lỗi gây ra. Ý niệm về tội đang bị con người ngày hôm nay dần dần đào thải. Là những Kitô hữu, chúng ta rất dễ rơi vào thái độ an phận một cách giả tạo và tưởng rằng dù tôi có tội nhưng chẳng đến mức bị Thiên Chúa đầy xuống hỏa ngục đâu. Vả lại, chúng ta được nghe nói rất nhiều về lòng thương xót của Thiên Chúa, vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại quá độc ác và tàn nhẫn trừng phạt chúng ta. Quả thật, lòng thương xót của Chúa thì vô bờ, nhưng khi con người cố chấp và không mở lòng đón nhận sự tha thứ, thì Thiên Chúa cũng đành chịu thua. Thánh Augustinô đã cầu nguyện với Chúa : “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con không cần có con, nhưng Chúa muốn cứu rỗi con, lại cần có con cộng tác”. Nỗi sỉ nhục lớn nhất đối với Thiên Chúa là chúng ta đóng khép lòng mình lại, và chối từ lòng thương xót của Ngài. Chúa Giêsu đã từng nói: “Mọi tội lỗi đều được tha thứ, nhưng tội phạm đến Thánh Thần sẽ chẳng bao giờ được tha” (Mc 3,29). Tội phạm đến Thánh Thần chính là sự cố chấp và chai lỳ trong tội lỗi và đó là tình trạng sống an phận cách giả tạo. Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa muốn dùng tiếng thét ai oán của những người lâm nạn để thức tỉnh lương tâm chúng ta. Ngài còn dùng cả tiếng búa rìu chát chúa chặt vào gốc cây để lay động lương tâm mỗi người. Đừng bao giờ ngủ quên trên sự an phận giả dối nơi lòng mình.
Thinh lặng để lục soát lương tâm
Một đạo sỹ nọ quy tụ những học trò của ông trong một cái sân rộng trước nhà để chỉ giáo. Giữa sân ông để một thau nước. Ông khuấy cho thau nước sóng sánh và nói các đệ tử hãy nhìn vào. Từng đứa học trò ngoan ngoãn làm theo. Sau đó, ông hỏi xem họ đã nhìn thấy gì. Các học trò đáp: “Thưa thầy, chúng con chỉ thấy lờ mờ gương mặt của chúng con”. Mười lăm phút sau, khi thau nước trở nên phẳng lặng, ông nói họ hãy nhìn lại một lần nữa và cũng hỏi lại câu hỏi trên. Các học trò trả lời: “Bây giờ chúng con đã thấy thật rõ khuôn mặt của chính chúng con”. Bấy giờ vị đạo sỹ mới giải thích rằng, chỉ khi nào biết trở về trong tĩnh lặng nội tâm, chúng con mới có thể nhìn rõ con người mình. Đúng vậy, Giáo hội vẫn thường tổ chức những cuộc tĩnh tâm để giúp chúng ta đi vào sự thinh lặng, đặt mình trước mặt Chúa hầu có thể nhìn lại bản thân. Chúng ta không thể nào lục soát lương tâm cách thấu đáo, nếu tâm hồn chúng ta bị nhiễu sóng bởi những tiếng đông ồn ào bên ngoài. Đó là những tiếng xào xạc của tiền bạc. Đó cũng là những cuốn hút ầm ĩ của một lối sống hưởng thụ, khiến đôi tai nơi cõi lòng của chúng ta bị bịt kín, không thể nghe được tiếng nói của Chúa đang ngỏ trao. Khi tâm hồn chúng ta đầy những chộn rộn và vướng bận của cơm áo gạo tiền, hoặc đầy ắp nhưng so đo tính toán để lo làm giầu, chúng ta không thể nào nhìn rõ được chính mình.
Sám hối và canh tân
Có một câu chuyện dí dỏm đăng trên một tuần báo. Một anh chàng thanh niên kia rất bặm trợn, lảng vảng đến khu vực nhà xứ để phá phách. Cha xứ gặp anh ta và cũng chào hỏi thân tình. Chàng thanh niên chỉ chuyên đi nghịch ngợm, còn việc đạo đức thì khá lơ là, mỗi tuần chỉ vác xác đến nhà thờ một lần cho có lệ. Anh chàng chào Cha xứ và nói : “Thưa Cha, đêm hôm qua con có một giấc mơ tuyệt vời, vì con thấy cả con và Cha cùng được đưa về Thiên đàng”. Cha xứ kiên nhẫn và lắng tai nghe tiếp xem anh ta muốn nói gì. Anh nói tiếp :“Thưa Cha, đúng như vậy, cả Cha và con mỗi người trèo lên một cái thang bắc tới trời. Trên cái thang đó, các thiên thần ghi lại những tội đã phạm, thang của Cha ghi tội của Cha, thang của con ghi tội của con. Thiên thần phát cho mỗi người một hộp phấn, dùng để xóa đi những vết tích tội lỗi ghi trên 2 chiếc thang. Con đã trèo lên khá cao, sau khi đã lấy phấn bôi xóa gần hết những tội của con. Một lát sau, Cha vẫn còn lẹt đẹt tít phía dưới và gọi với lên: “Con còn phấn không, cho Cha xin đỡ mấy cục, hộp phấn của Cha hết sạch rồi”. Kể xong câu chuyện, chàng thanh niên chuồn thẳng, còn Cha xứ đứng đó tủm tỉm cười.
Tất cả mọi người chúng ta đều là tội nhân, từ các anh em linh mục, tu sĩ hay giáo dân. Có nhiều linh mục đã sống rất thánh thiện và gương mẫu, nhưng hỏa ngục không phải là nơi vắng bóng các Cha đâu.
Sống hoàn thiện ơn gọi nên thánh của tất cả mọi người chúng ta luôn khởi đầu với việc ý thức sâu xa thân phận tội lỗi nơi mình.
Kết luận
Trong năm thánh Lòng Thương Xót Chúa, chúng ta bày tỏ sự tín thác tuyệt đối nơi Ngài. Chúng ta hãy học lấy thái độ của người đầu tiên được Chúa Giêsu trực tiếp tuyên thánh khi Ngài bị treo trên Thập giá. Đó là một tên trộm, suốt cả một đời ngập đầy tội ác. Người trộm này đã nhận ra lầm lỗi của mình khi anh ta thốt lên : “Phần chúng ta bị như thế này thật thích đáng”, và anh ta đã đăm đăm nhìn vào ánh mắt đầy yêu thương của Chúa. Vâng, khởi đầu của việc nên thánh là khi chúng ta biết nhận ra những vết đen trong quá khứ và đặt niềm tin tuyệt đối vào lòng Thương xót của Đấng đã chết vì chúng ta.
.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Tin mừng Chúa nhật hôm nay kể hai sự kiện:
– Sự kiện vụ án Philatô giết người vô tội, Chúa Giêsu không ủng hộ những người quá khích trong cuộc đấu tranh của họ chống lại Roma. Sứ điệp của Người luôn rõ ràng và rất tập trung: “Thời giờ đã hoàn tất, nước Thiên Chúa đã đến gần. Hãy ăn năm sám hối và tin vào Phúc Âm” (Mc 1,15). Chúa Giêsu cảnh tỉnh: “Nếu các ngươi không sám hối thì cũng bị chết như vậy” ( Lc 13,3.5).
– Sự kiện tháp Silôa đổ xuống đè chết mười tám người ở Giêrusalem. Cũng như trong trình thuật người mù bẩm sinh (Ga 9, 2–3), Chúa Giêsu giải thích rằng “không phải vì anh ta,không phải vì cha mẹ anh ta đã phạm tội, mà anh ta sinh ra đã bị mù loà”. Người khẳng định nơi đây rằng không ai trong bọn họ là nạn nhân của trừng phạt. Thiên Chúa không tìm trừng phạt mà là nâng dậy. Tuy nhiên, mỗi người chịu trách nhiệm về các quyết định của mình.
Người đời thường nghĩ rằng: những kẻ bị tật nguyền, những ai bị tai hoạ là bởi tội của họ hoặc do tiên nhân để lại. Họ đã đau khổ lại càng đau khổ hơn bởi quan niệm sai lầm này. Trong thực tế mọi người phải chấp nhận giới hạn của mình và hậu quả do mình gây nên hay vì sự liên đới nào đó do người khác mang lại.Chẳng hạn, hai tai nạn Chúa Giêsu đưa ra trong trong đoạn Tin mừng đều có nguyên nhân của nó. Philatô cần có tiền để xây dựng hệ thống dẫn nước đem lại lợi ích cho toàn dân. Vì thiếu tiền nên đã vào đền thờ quyên góp. Nhóm cực hữu cho hành động này là xúc phạm sự thánh nên trang bị khí giới để chống đối và bảo vệ đền thờ. Thấy thế Philatô ra lệnh giết chết họ trong đền thờ. Hành động của họ dù với mục đích tốt nhưng lại thiếu khôn ngoan nên họ đã bị thiệt mạng. Vụ án mạng tháp Silôa sập đè chết mười tám người vì lý do thiếu kỷ thuật trong việc xây cất.Vụ này cũng như vụ việc cầu Văn Thánh rạn nứt hay các công trình xây cất hiện nay bị xuống cấp mau chóng là do bớt xén vật liệu, làm dối làm ẩu. Những tai hoạ đều có nguyên nhân của nó, hoặc là do mình, hoặc là do người khác. Những người Do thái nghĩ là do có tội nên Chúa phạt họ, còn mình vô tội thì được bình yên. Điều này đưa đến sự an toàn giả tạo. Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh rằng mọi người đều là tội nhân nên cần phải sám hối ăn năn.
Lúc sống yên lành là lúc cần hoán cải. Cây vả trong dụ ngôn cũng ở trong tình trạng an toàn. Cây vả không cho trái độc, không làm hại cây khác, không phá cảnh quang. Nó chỉ có tội làm hại đất, sử dụng đất màu mỡ mà không cho trái. Nhiều người cũng cảm thấy an toàn như cây vả. Tự hào vì mình không làm điều xấu, chẳng làm hại ai. Thế nhưng họ lại quên rằng mình đã phạm tội không làm điều tốt, những điều tốt có thể làm được và phải làm. Nhiều người thường tự hỏi: tại sao người tốt cần phải hối cải? Tôi là người thường đọc kinh dự lễ rước lễ, không làm điều xấu hại ai, tại sao tôi phải ăn năn sám hối?
Sống đạo không phải chỉ lo tránh tội mà còn là gieo trồng cái tốt, cái thiện. Có câu chuyện kể của ông chủ tiệm đồ cổ. Vào một đêm đông, trời đã khuya, bão tuyết rơi lạnh lẽo, gió thổi mạnh rít từng cơn. Bỗng dưng có tiếng gõ cửa. Ông chủ cảm thấy khó chịu vì bị quấy rầy giữa đêm khuya. Khi cánh cửa vừa mở, một người thanh niên dáng bụi đời đang run rẩy với một bàn tay xoè ra van xin, một bàn tay đỡ cây gậy trên vai treo ít đồ đạc cá nhân. Thấy hoàn cảnh đáng thương, ông chủ đưa tay với lấy ít bánh mì, vài đồng bạc lẽ trao cho hành khách. Nhận được của bố thí, người thanh niên quay gót trở đi không nói lời cám ơn giã từ. Khi đó chợt một ý tưởng đến trong đầu ông chủ nhà là nên mời người đó vào nghỉ đỡ một đêm, nhà vẫn còn phòng khách trống, còn chăn nệm ấm êm. Tuy nhiên ông lại nghĩ nếu để cho người này ở lại thì căn nhà sạch sẽ của mình sẽ bị ẩm ướt, bị dơ bẩn. Thế rồi ông vội vàng đóng kín cửa. Hai ngày sau, có người thợ đem đến một cây gậy làm bằng gỗ quý. Khi đã thương lượng giá cả, người bán gậy cho biết, anh ta là người thợ chuyên đào mộ ở nghĩa trang. Anh vừa chôn một người thanh niên mới chết, người thanh niên này vô gia cư, không tiền bạc, không người thân. Tài sản anh ta chỉ là cây gậy, người thanh niên chết vì bị lạnh cóng, máu đông lại khi ngũ trên tuyết. Nghe đến đây ông chủ tiệm cảm thấy hối hận và xấu hổ. Ông hối hận không phải vì đã làm điều xấu mà vì điều tốt ông có thể làm cho người thanh niên nhưng ông đã không làm khiến cho anh phải chết rét. Ông chủ tiệm kết thúc câu chuyện với nổi thao thức: điều tôi ao ước là những sự dữ chúng ta làm có lẽ Thiên Chúa sẽ tha thứ. Nhưng những gì tốt chúng ta đã không làm sẽ mãi mãi không được tha thứ.
Đó cũng chính là điều Chúa Giêsu muốn nói qua dụ ngôn cây vả. Mục đích cây vả là sinh trái. Theo truyền thống, cây nho (vườn nho) tượng trưng cho dân tộc Israel (x.Tv 79,9; Osê 10,1; Gr 2,21). Cây vả được trồng trong vườn nho tượng trưng nơi đây cho các môn đệ Chúa Kitô. Người chủ vườn thất vọng không phải là cây vả sinh trái xấu, trái độc, trái chua mà là cây vả không sinh trái tốt. Cứ để thêm một năm chăm bón vun xới may ra cây vả sinh hoa trái. Chúa mời gọi thời gian sám hối hoán cải. Lời mời gọi sám hối không chỉ là lời mời gọi xa tránh sự dữ nhưng còn là lời mời gọi làm việc lành, sinh hoa trái tốt. Bởi đó, việc sám hối liên hệ ràng buộc mọi người. Ai cũng phải làm lành lánh dữ. Lánh dữ, không làm điều xấu chưa đủ, từ bỏ tội lỗi chưa đủ nhưng còn phải tích cực thực hành những điều tốt lành nữa.
Khuynh hướng tự nhiên của con người là muốn được yên thân, an phận, không muốn làm phiền ai và cũng không muốn ai gây phiền hà cho mình. Vì thế một người ngoan đạo có thể bị rơi vào tình trạng tự mãn, sống ích kỷ mà không hay biết.
Dụ ngôn cây vả cho ta thấy khuôn mặt Thiên Chúa. Chúa Cha là người chủ vườn kiên nhẫn: “Ðã ba năm nay…” Ngài đã nuôi bao hy vọng: “Tôi ra tìm trái mà không thấy”. Quyết định chặt cây chỉ đến sau những lần hụt hẫng. Ngài chỉ phạt khi đã làm đủ cách để lay động tim ta. Chúa Giêsu là người làm vườn kiên nhẫn không kém: “Xin ông cứ để nó lại năm nay nữa”. Ngài không ngừng ấp ủ chút hy vọng mong manh:”Tôi sẽ vun xới, bón phân, may ra sang năm nó có trái”. Nhưng đừng quên lời đe dọa cuối cùng: “Nếu không ông chủ cứ chặt nó đi”. Kiên nhẫn, hy vọng, chăm bón, nhưng cương quyết đòi hỏi, đó là thái độ của Thiên Chúa đối với tội nhân. Chúa Giêsu vừa thôi thúc chúng ta mau mau hoán cải, vừa chấp nhận cho chúng ta có thời gian trì hoãn.
Những lời đe doạ của Thiên Chúa trong Kinh Thánh là những lời kêu gọi thôi thúc ăn năn hối cải. Nhưng Thánh Luca thích nhấn mạnh hơn về lòng xót thương và nhấn mạnh lòng nhân từ của người thợ làm vườn nho, nài xin ông chủ vườn nho hãy nhẫn nại: “Xin ông chủ hãy để nó thêm năm nay nữa..”. Người thợ làm vườn nho đầy nhân từ trắc ẩn, đầy quan tâm sát sao và đầy tình yêu đối với cây nho của mình, đó chính thật là Chúa Giêsu mà chúng ta yêu mến.
Mùa chay là mùa ân sủng. Người chủ vườn nhẫn nại và quảng đại cho cây vả thêm một năm nữa để hy vọng nó có thể sinh hoa trái. Mỗi Mùa Chay, Thiên Chúa cho chúng ta thêm cơ hội để đổi mới con người, làm nhiều việc lành bác ái phúc đức. Mỗi người không biết mình sẽ ra đi về với Chúa khi nào. Mùa Chay là thời gian thuận tiện để mỗi người kiểm điểm về cây vả đời mình. Thêm một cơ hội, thêm một kỳ hạn nữa. Điều quan trọng là mỗi người đã làm gì với cơ hội và với kỳ hạn đó ?
.
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Đoạn Tin Mừng đề cập tới hai ‘tai nạn’ rất thời sự nhưng chỉ mang tính tượng trưng: một hoàn toàn ngẫu nhiên là ngọn tháp đổ, và một vì chủ đích chính trị là cuộc tàn sát trong đền thờ; những biến cố tương tự như thế sẽ xảy ra hàng ngày như cơm bữa trong đời sống bất cứ ai. Thế nhưng nhiều người lại thích đặt điều: tại sao người này bị, kẻ khác lại không? Phải chăng vì người này tội lỗi còn kẻ kia tốt lành, người này xui xẻo còn kẻ kia may mắn…? âu đó cũng là thái độ rất thường tình của nhân tình thế thái qua mọi thời đại.
Thế còn thái độ của Ki-tô hữu sống theo tinh thần Tin Mừng thì sao; họ có lối suy nghĩ nào khác không nhỉ? Đức Giê-su cho thấy là các môn đệ Người phải nghĩ khác: “Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu”.
Người tốt / kẻ xấu, đó là phân biệt thường tình, nhưng liệt kê xếp loại người ta vào thứ hạng nào thì lại là điều cấm kị đối với Ki-tô hữu, nhất là khi chỉ dựa trên những sự kiện xảy ra được người đời coi là ‘quả báo’! Đức Giê-su đã chẳng thẳng thừng ngăn chận lối suy nghĩ này: “Anh em đừng xét đoán để khỏi bị Thiên Chúa đoán xét” (Mt 7:1-5); tại sao thế?
Thường thì trong cuộc sống, ‘quả báo’ được coi là một định luật hiển nhiên: ác giả thì ác báo, ở hiền thì gặp lành. Và luật quả báo chứa đựng một sức mạnh vạn năng trong lãnh vực luân lý: nó buộc người ta phải làm lành lánh dữ. Khó có thể tưởng tượng nổi: nếu không có quả báo thì làm sao có thể duy trì được nền luân lý cao đẹp trên thế giới này, và bảo đảm được trật tự xã hội…? Và thế là người ta có khuynh hướng giải thích nguyên nhân mọi biến cố xảy ra chung quanh theo định luật quả báo. Cứ xem những gì xảy ra cho một người là biết được người đó tốt hay xấu: ‘nếu người không phạt thì đã có trời phạt…’! Câu chuyện ông Gióp trong Cựu Ước cho thấy: dứt ra khỏi lối suy nghĩ cố hữu này không phải là chuyện đơn giản.
Đức Giê-su cho biết một điều căn bản: nếu so sánh con người với nhau trước các lề luật, thì tất nhiên có người tốt kẻ xấu; nhưng đứng trước mặt Thiên Chúa tình yêu, thì mọi người không trừ một ai, đều cần tới ơn cứu độ và lòng xót thương. Các tai họa, rất thường xảy ra quanh ta hay trực tiếp liên quan đến ta, chính là dịp đưa ta đến gần với lòng trắc ẩn xót thương các nạn nhận, sẽ luôn là dịp để một tín hữu giáp mặt với Thiên Chúa, và rộng mở cõi lòng đón nhận lòng thương xót của Người. Việc sám hối mà Đức Giê-su kêu gọi, không chỉ mang tính luân lý là phải cải tà qui chính, mà trước hết là trở về với Thiên Chúa, với nguồn mạch của lòng thương xót và nhân ái. Chính vì thế mà mỗi tai họa lớn nhỏ xảy ra trong đời, đối với mọi tín hữu của Đức Ki-tô, đều phải trở thành một lời mời gọi để sám hối và trở về với lòng xót thương thần linh.
Về phía con người, sẽ không bao giờ có ai xứng đáng với lòng thương xót đó. Nó luôn luôn được trao ban cách nhưng không, qua một trung gian duy nhất là Đức Ki-tô Giê-su. Không có lòng thương xót đó, con người, dầu có lương thiện tốt lành tới mấy đi chăng nữa, thì cũng tựa như cây cối tốt tươi, cành lá xum xuê trồng trong vườn mà chủ vườn là Thiên Chúa không tìm thấy trái ăn. Người làm vườn (là Đức Ki-tô Giê-su) can thiệp để được tiếp tục tưới bón bằng sự tự hiến cứu chuộc của Người. Ki-tô hữu là những cây vả đã được Ki-tô Giê-su tưới bón bằng ơn cứu chuộc của Người, không phải chỉ để tiếp tục tốt tươi xum xuê với sự tốt lành thánh thiện của mình, nhưng là để có được trái ngon ngọt của nhận biết và sống tình Chúa yêu thương. Nếu Thiên Chúa là tình yêu, và là Đấng giầu lòng từ bi và hay thương xót, thì Ông Chủ này cũng chỉ mong tìm thấy nơi các Ki-tô hữu một nhìn nhận Người là như thế, chấp nhận Người, và tiếp thu lòng xót thương vô biên; đồng thời tìm cách biểu lộ lòng thương xót đó trong cuộc sống hàng ngày. Mùa chay chính là thời gian tưới bón, “vun xới và bón phân cho nó”, là thời gian hướng cặp mắt các tín hữu tới Thập Giá Đức Ki-tô Giê-su, biểu hiện vĩ đại nhất của một Thiên Chúa xót thương và cứu độ, để mong “sang năm nó có trái”. Như thế Mùa Chay mới quả thực là thời gian đâm bông kết trái cho đời sống đức tin của người tín hữu, là thời gian của hồng ân sự sống đích thực.
Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đã lại cho con được hưởng một Mùa Chay thánh nữa, đã lại cho con được ‘vun xới và tưới bón’ bằng hồng ân cứu độ. Xin cho con mở rộng tâm hồn đón nhận tình Chúa xót thương qua việc chiêm ngắm cuộc khổ hình và cái chết Thập giá của Đức Ki-tô Giê-su, Cứu Chúa của con. Con ước mong rằng, qua Mùa Chay thánh năm nay (cũng rất có thể là mùa cuối cùng của đời con?), Chúa sẽ tìm thấy được nơi niềm tin của con, trái thơm ngon mà Chúa hằng mong đợi. Xin cho con nhận biết và được biến đổi trong tình thương xót hải hà của Chúa. A-men.
.
NHẬN RA LÒNG CHÚA XÓT THƯƠNG VÀ HOÁN CẢI
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Phụng vụ hai Chúa nhật đầu Mùa Chay cả ba năm A, B, C đều trùng hợp nhau ở đề tài sự lựa chọn của Chúa Giêsu trước tên cám dỗ, và Chúa biến hình. Bước vào Chúa nhật thứ III Mùa Chay năm C, bài Tin mừng chú trọng đến đề tài “hoán cải” với lời kêu gọi cảnh tỉnh. Lời cầu nguyện của các Giáo phụ dạy chúng ta thưa : “Lạy Chúa, xin thương con, vì con là kẻ có tội !“
Sau hai tuần sám hối, ý thức mình là kẻ tội lỗi, chúng ta lấy những lời trên làm của mình, và can đảm cùng với Chúa Giêsu bước vào trong sa mạc của Mùa Chay Thánh, “hướng cặp mắt” lên Chúa là Đấng giầu lòng thương xót, và thưa: “Mắt tôi hướng nhìn Chúa không biết mỏi, vì chính Người sẽ gỡ chân tôi khỏi dò lưới. Lạy Chúa, xin đoái nhìn và xót thương con, vì thân này bơ vơ cùng khổ” (Ca nhập lễ), Chúa sẽ cứu giúp chúng ta.
Tin vào lòng Chúa thương xót không phải là dễ, vì khi có biết bao chuyện buồn đẫm lệ trước mắt chúng ta : các thảm kịch về tai nạn hàng không, những vụ khủng bố người giết người giã man hơn do bọn IS gây ra cho những người công giáo … Chúng ta vẫn hát với niềm tin rằng : “Chúa nhân từ và thương xót“. Có người hỏi, lòng nhân từ và tình thương xót của Chúa ở đâu, khi trái tim con người bị tan nát bởi những cái chết đau thương của người thân, của anh em đồng loại… thật khó để chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa yêu thương và muốn điều tốt cho nhân loại.
Vấn nạn giả thiết rằng, sự bất hạnh xảy đến với con người là đáng. Vì vậy, khi chúng ta chứng kiến những người bị bệnh nan y hoặc chết đột ngột, người đời hỏi :”Họ đã làm gì sai chăng? ” Hay có sự trừng phạt tức khắc mà họ phải hứng chịu? Đây không phải là điều Chúa Giêsu nói trong Tin Mừng.
Vậy, làm thế nào để có thể chấp nhận và sống sự khác biệt giữa lòng thương xót của Thiên Chúa và sự bất hạnh của con người? Chúng ta còn nhớ việc Thiên Chúa giải thoát dân Ngài ra khỏi Ai Cập và cho họ đi qua Biển Đỏ ráo chân không? Liệu còn nhớ Thiên Chúa dẫn dắt dân Ngài qua sa mạc, nuôi dân bằng bánh bởi trời, và uống nước từ tảng đá vọt lên để dân đi đến tận Đất Hứa không? Chỉ cần nhớ lại những hành động Thiên Chúa trợ giúp con người, Như thư I Côrintô, Thánh Phaolô tiên báo trước đời sống Kitô hữu, những người đã được rửa tội trong Chúa Kitô là Đá tảng tuôn trào mạch nước sự sống và nuôi dưỡng bằng bánh bởi trời. Nhưng làm thế nào để chúng ta tin vào lòng trung thành của Thiên Chúa và giúp chúng ta tin vào tình yêu Chúa khi bất hạnh tấn công con người?
Thánh Luca kể lại cho chúng ta bình luận của Chúa Giêsu về hai biến cố thời sự lúc đó. Biến cố thứ nhất là cuộc nổi loạn của vài người Galilê bị quan Philatô đàn áp giết chết; biến cố thứ hai là ngọn tháp tại Giêrusalem bị sụp đổ làm cho 18 người thiệt mạng; hai biến cố bi thảm này khác nhau, một do con người tạo ra, và một do tai nạn. Người đương thời Chúa Giêsu thường có tâm thức nghĩ rằng, tai nạn đã đổ xuống trên các nạn nhân, bởi vì họ đã phạm lỗi trầm trọng. Trái lại, Chúa Giêsu nói : “Các người cho rằng những nạn nhân người Galilêa kia là những kẻ tội lỗi hơn tất cả mọi người Galilêa ư?… Hoặc 18 nạn nhân kia là những kẻ lỗi phạm hơn tất cả mọi người dân Giêrusalem chăng?” (Lc13,2.4). Thay vì kết luận đơn giản coi sự dữ như là hình phạt của Thiên Chúa, Chúa Giêsu hồi phục lại hình ảnh chân thực của Thiên Chúa là Ðấng tốt lành, không muốn sự dữ; Người còn yêu cầu đừng coi những tai hoạ đó như là kết quả trực tiếp của tội lỗi cá nhân. Người nói: “Các ông tưởng rằng những người Galilê ấy là những kẻ tội lỗi nhất ở xứ Galilê cho nên mới đáng hình phạt như vậy ư?” Và Chúa Giêsu kết luận cho cả hai trường hợp như sau: “Không phải thế. Tôi nói cho các người biết, nếu các người không ăn năn hối cải, các người cũng sẽ phải chết như vậy” (Lc 13,3.5). Chúa Giêsu muốn dẫn những kẻ lắng nghe Người đến kết luận về sự cần thiết phải ăn năn trở lại.
Khi cái chết tấn công chúng ta, đức tin không cho chúng ta những lời giải thích hoặc an ủi chúng ta yên tâm, nhưng đức tin hỏi chúng ta: chúng ta đã làm gì trong cuộc đời khi đang phải đối diện với cái chết vây quanh ta, bất hạnh và đau khổ tấn công và chạm đến ta?
Để làm rõ lời kêu gọi hoán cải, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn cây vả. Đã ba năm nay, cây không sinh quả. Như chúng ta, những người đã được hưởng lợi quá lâu từ ân sủng của Thiên Chúa mà không đáp trả cách hào phóng. Chủ vườn nói với chúng ta rằng, điều này đã quá đủ. Và bây giờ người làm vườn chưa ưng nhận sự phán xét của Thầy nên trả lời: “Thưa ông, xin để cho nó một năm nay nữa, tôi sẽ đào đất chung quanh và bón phân; may ra nó có quả chăng, bằng không năm tới ông sẽ chặt nó đi” (Lc 13, 9), đúng là năm án treo, một năm hồng ân. Trong hội đường Nazareth, chính Chúa Giêsu với sứ mạng được ủy thác đến công bố năm hồng ân. Năm chúng ta đang sống đây là Năm Thánh Lòng Thương Xót Mỗi, một năm chúng ta được Chúa xót thương.
Sự chết không tấn công một cách mù quáng, nhưng là lời mời gọi chúng ta hoán cải đời sống. Đó là lý do tại sao phụng vụ cung cấp cho chúng ta bài suy niệm này ở trung tâm của Mùa Chay, khi chúng ta tiếp tục cuộc hành trình 40 để hướng tới việc cử hành lễ Vượt Qua, và mời chúng ta đi tiếp để Chúa nhật tới canh tân phép rửa của chúng ta, nguồn nước hằng sống trào dâng từ trái tim của Chúa Giêsu.
Vâng, lạy Chúa, khi con nhìn thấy những gì xảy ra trên thế giới, các tai nạn gây đau đớn cho nhân loại và đau khổ đến anh em của con, con nghe thấy giọng nói của Chúa nói với con: “Hãy sám hối ngay ngày hôm nay. Tận dụng Năm Thánh này, Năm Hồng Ân, năm Ta xót thương và chăm sóc con để con có thể sinh trái“.Amen.
.
Trầm Thiên Thu
Issac Newton đặt vấn đề: “Nếu tôi có được khám phá giá trị nào, đó là nhờ chú y’ nhẫn nại hơn là bất kỳ tài năng nào tôi có”. Cato có cách so sánh cực cấp: “Nhẫn nại là đức tính lớn nhất trong mọi đức tính”. Nhẫn nại là kiên nhẫn, kiên trì, không bỏ cuộc, không quá nóng lòng chờ kết quả, bình tĩnh chờ thời cơ, nhẫn nhục chịu đựng khó khăn. Nhẫn nại cũng có nghĩa là nhịn nhục. Nhẫn nại là một nhân đức, là thứ “cỏ quý” luôn cần đem bên mình như “thần hộ mệnh” vậy.
Không ai nhẫn nại bằng Thiên Chúa. Thời gian là lúc Ngài nhẫn nại chờ đợi các tội nhân chúng ta biết ăn năn sám hối. Thiên Chúa kêu gọi ăn năn, chúng ta sám hối và xin lỗi Ngài, nhưng rồi chúng ta lại tái phạm, chúng ta lại ăn năn và Ngài lại tha thứ. Đối với phàm nhân chúng ta, chỉ “quá tam ba bận” là nhẫn nại lắm rồi, nói chi “70 lần 7” (Mt 18:22). Vâng, chắc chắn không ai nhẫn nại bằng Thiên Chúa. Vì thế mà ai cũng phải nhẫn nại với nhau, nhẫn nại tha thứ lẫn nhau. Đó là ơn gọi của mọi người, đặc biệt là đối với các Kitô hữu, và trong Mùa Chay này.
Trình thuật Xh 3:1-8a. 13-15 cho biết về ơn gọi và sứ vụ của ông Môsê.
Bấy giờ ông Môsê đang chăn chiên cho bố vợ là Gít-rô, tư tế Ma-đi-an. Ông dẫn đàn chiên qua bên kia sa mạc, đến núi của Thiên Chúa, là núi Khô-rếp. Ông Môsê nhìn thấy bụi cây cháy bừng, nhưng bụi cây không bị thiêu rụi. Ông tiến đến xem cảnh tượng kỳ lạ này. Từ giữa bụi cây, Thiên Chúa gọi ông và ông thưa: “Dạ, tôi đây”. Ngài phán: “Chớ lại gần! Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh”. Ngài lại phán: “Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp”. Nơi nào có Thiên Chúa, nơi đó là Thánh Địa. Ông Môsê đến Thánh Địa nhưng che mặt đi vì ông sợ – sợ nhìn phải Thiên Chúa.
Tại sao lại sợ nhìn thấy Thiên Chúa? Có lẽ vì đôi mắt phàm nhân không thể chịu nổi ánh sáng phát ra từ nơi Ngài. Đèn cao áp mà mắt thường nhìn còn thấy chói huống chi nhìn ánh mặt trời, mà ánh mặt trời cũng chỉ là ánh sáng của thụ tạo, không là gì so với ánh sáng phát ra từ Thiên Chúa. Vả lại, ông Môsê biết mình là phàm nhân bất xứng với Ngài. Thật đúng vậy. Và chúng ta cũng thế thôi.
Thiên Chúa chí thánh, nhưng Ngài yêu thương các sinh linh do Ngài tác tạo nên Ngài muốn ở với chúng ta, muốn cứu chúng ta, và muốn chúng ta được đồng hưởng vinh quang với Ngài. Các ngôn sứ là những người được Ngài tuyển chọn để “nối kết” với Ngài.
Một trong những người đại diện đó là ông Môsê. Thiên Chúa đã giao sứ mạng cho ông. Ngài nói với ông: “Ta đã THẤY RÕ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã NGHE tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta BIẾT các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống GIẢI THOÁT chúng khỏi tay người Ai-cập, và ĐƯA chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật”. Ông Môsê là người đảm trách việc hướng dẫn dân chúng tiến về Khu Trù Mật mà Thiên Chúa đã hứa ban cho họ.
Đặc biệt là chính Ngài đã mặc khải Thánh Danh của Ngài: Thiên Chúa tự hữu và hằng sinh. Ông Môsê thưa với Ngài: “Bây giờ, con đến gặp con cái Ít-ra-en và nói với họ: Thiên Chúa của cha ông anh em sai tôi đến với anh em. Vậy nếu họ hỏi con: Tên Đấng ấy là gì? Thì con sẽ nói với họ làm sao?”. Ngài cho ông Môsê biết rạch ròi: “Ta là Đấng Hiện Hữu”. Rồi Ngài bảo ông Môsê nói với con cái Ít-ra-en thế này: “Đấng Hiện Hữu sai tôi đến với anh em”. Ngài còn bảo ông Môsê nói thêm điều này với dân Ít-ra-en: “Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp, sai tôi đến với anh em. Đó là danh Ta cho đến muôn thuở, đó là danh hiệu các ngươi sẽ dùng mà kêu cầu Ta từ đời nọ đến đời kia”. Rõ ràng Thiên Chúa căn dặn phàm nhân phải kêu cầu Thánh Danh của Ngài, và Ngài sẽ lo liệu cho phù hợp với mỗi người. Đó là mầu nhiệm về sự quan phòng và tiền định của Thiên Chúa.
Vâng, chúng ta không thể nào diễn tả đầy đủ về Thiên Chúa. Phàm ngôn quá ít, trí tuệ quá nhỏ. Chính Ngài đã hào phóng trao ban cho chúng ta mọi sự – từ vật chất đến tinh thần, ngay cả đau khổ cũng là tặng phẩm mà chúng ta không thể nào hiểu nổi. Tất cả đều là mầu nhiệm. Phàm nhân chúng ta chỉ biết cúi đầu chúc tụng và cảm tạ Hồng Ân Thương Xót của Ngài, như tác giả Thánh Vịnh tự nhủ: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh! Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên mọi ân huệ của Người. Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà” (Tv 103:1-4).
Thiên Chúa không thiên vị bất cứ ai, kể cả tội nhân. Nhưng Ngài chú ý đặc biệt đối với những kẻ hèn mọn, thấp cổ bé miệng, bị đồng loại đối xử bất công: “Chúa phân xử công minh, bênh quyền lợi những ai bị áp bức, mặc khải cho Môsê biết đường lối của Người, cho con cái nhà Ít-ra-en thấy những kỳ công Người thực hiện. Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương” (Tv 103:6-8).
Mãi mãi chúng ta không thể hiểu nổi Lòng Thương Xót của Ngài. Nếu chúng ta có quảng diễn theo cách này hoặc cách nọ, đó chỉ là một phần nhỏ có thể giúp nhau hiểu, và để rồi “liệu hồn” mà đối xử với nhau cho hợp tình hợp lý: “Như trời xanh trổi cao hơn mặt đất, tình Chúa thương kẻ thờ Người cũng trổi cao” (Tv 103:11).
Từ ngàn xưa, Đức Maria đã hân hoan xưng tụng: “Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc 1:50). Một sự thật minh nhiên, thật hơn cả sự thật. Thánh Phaolô dẫn chứng: “Thưa anh em, tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì về việc này: là tất cả cha ông chúng ta đều được ở dưới cột mây, tất cả đều vượt qua Biển Đỏ. Tất cả cùng được chịu phép rửa dưới đám mây và trong lòng biển, để theo ông Môsê. Tất cả cùng ăn một thức ăn linh thiêng, tất cả cùng uống một thức uống linh thiêng, vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy chính là Đức Kitô. Nhưng phần đông họ không đẹp lòng Thiên Chúa, bằng chứng là họ đã quỵ ngã trong sa mạc. Những sự việc ấy xảy ra để làm bài học, răn dạy chúng ta đừng chiều theo những dục vọng xấu xa như cha ông chúng ta” (1 Cr 10:1-6). Tất cả chúng ta đều như nhau, thế nên chúng ta phải nên một trong Đức Kitô Giêsu. Không có cách khác để chúng ta chọn lựa.
Thiên Chúa nhẫn nại vì chúng ta, vậy chúng ta cũng phải nhẫn nại lẫn nhau, nhẫn nại với nhau và vì nhau. Không nhẫn nại là ảo tưởng, mà ảo tưởng thì không thể tồn tại: “Anh em đừng lẩm bẩm kêu trách, như một số trong nhóm họ đã lẩm bẩm kêu trách: họ đã chết bởi tay Thần Tru Diệt. Những sự việc này xảy ra cho họ để làm bài học, và đã được chép lại để răn dạy chúng ta, là những người đang sống trong thời sau hết này. Bởi vậy, ai tưởng mình đang đứng vững thì hãy coi chừng kẻo ngã” (1 Cr 10:10-12).
Thực thi lòng thương xót rất đơn giản, không cầu kỳ, không xa lạ như chúng ta tưởng. Chỉ cần chúng ta nhìn nhau bằng ánh mắt thân thiện là thể hiện lòng thương xót rồi. Nói lời ngọt ngào mà giả dối thì ích gì? Làm từ thiện khắp nơi mà không giúp đỡ người trong gia đình, như vậy không là giả hình thì là gì? Nhẫn nại lẫn nhau là một cách sống lòng thương xót. Nhưng… nói thì dễ, mà làm thì khó. Chúng ta phải thực sự nhẫn nại để tập sống nhẫn nại.
Nhẫn nại sám hối, nhẫn nại yêu thương, nhẫn nại chịu đựng,… nếu không thì chết chắc. Thiên Chúa vui tính và dễ tính, thật thà nhưng Ngài cũng rất thẳng thắn, không nói đùa đâu đấy! Trình thuật Lc 13:1-9 cho chúng ta biết về “tình trạng” này.
Một hôm, có mấy người đến kể lại cho Đức Giêsu nghe chuyện những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng. Đức Giêsu nói ngay: “Các ông tưởng mấy người Galilê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Galilê khác sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối thì các ông cũng sẽ CHẾT hết như vậy. Cũng như mười tám người kia bị tháp Silôác đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giêrusalem sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không chịu sám hối thì các ông cũng sẽ CHẾT hết y như vậy”. Điều kiện cách “nếu không… sẽ chết” như một điệp khúc được Chúa Giêsu nhắc đi nhắc lại để cảnh báo những ai ảo tưởng, tự nhận mình “ngon” hơn người khác.
Trong đời thường, khi thấy người khác bị tai nạn hoặc tai ương, nếu nạn nhân là người “theo phe” với mình, người ta cho đó là “thánh giá Chúa gởi đến”; nhưng nếu nạn nhân “đối lập” với mình, người ta lại nói đó là “quả báo”, là “Chúa phạt”. Sự việc tương tự nhưng người ta nhìn bằng hai loại “mắt kính”. Cái “ý tưởng” của phàm nhân thật đáng sợ. Thế mà Thiên Chúa vẫn nhẫn nại, và Ngài tiếp tục im lặng.
Rồi Đức Giêsu kể dụ ngôn “cây vả không ra trái”. Ngài nói: “Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, nên bảo người làm vườn: ‘Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?’. Nhưng người làm vườn đáp: ‘Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi”. Dụ ngôn ngắn gọn nhưng súc tích, dễ hiểu, cho thấy Thiên Chúa rất yêu thương chúng ta.
Thời gian là sự nhẫn nại của Thiên Chúa. Sự nhẫn nại đó là lòng thương xót của Ngài. Thật vậy, Ngài “không muốn kẻ gian ác PHẢI CHẾT, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và ĐƯỢC SỐNG” (Ed 33:11). Thiên Chúa nhẫn nại với chúng ta, Ngài cũng muốn chúng ta nhẫn nại với nhau: “Phúc thay những kẻ có lòng kiên trì” (Gc 5:11).
Lạy Chúa, xin giúp con biết Chúa và biết con để con tin yêu Ngài và ăn năn tội, nhờ đó mà con biết nhẫn nại với tha nhân. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
.
Jos. Vinc. Ngọc Biển
Nếu Chúa Nhật I Mùa Chay nói về chủ đề cám dỗ, Chúa Nhật II nói về vinh quang, thì Chúa Nhật thứ III Mùa Chay hôm nay nói về chủ đề sám hối.
Tại sao chủ đề sám hối lại được đặt vào trọng tâm của Mùa Chay? Thưa vì khi sám hối, con người nhận ra tình thương của Thiên Chúa, đồng thời cũng nhận ra sự bất toàn của chính mình. Từ đó, chúng ta đón nhận được ơn tha thứ, khởi đầu lại hành trình đức tin và tiếp tục đi trong đường lối yêu thương của Người.
Hôm nay, vào giữa Mùa Chay, Giáo Hội lại một lần nữa kêu gọi con cái mình sám hối, vì: “Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ”(2 Cr 6,2b).
Khởi đi từ bài đọc I, tác giả sách Xuất Hành cho thấy: Thiên Chúa là Đấng yêu thương con cái của Người cách đặc biệt, nên ngay từ xa xưa, Thiên Chúa đã tuyển chọn ông Abraham, qua đó, Người thiết lập một dân riêng, để từ đây, Thiên Chúa mạc khải tình thương của Người cho nhân loại qua việc yêu thương, chăm sóc và giữ gìn.
Tình thương ấy được tỏ hiện cụ thể qua việc Thiên Chúa tiếp tục chọn và gọi Môsê để trao phó cho ông sứ mạng giải thoát dân Người ra khỏi ách nô lệ bên Aicập.
Đến bài đọc II, thánh Phaolô gợi lại sự chăm lo của Thiên Chúa cách đặc biệt trên cộng đoàn. Tuy nhiên, Ngài thấu hiểu được tâm lý con người, nên đã cảnh báo họ về những cám dỗ. Để chứng minh, Ngài đã nhắc lại cuộc xuất hành của dân từ Aicập vượt qua Biển Đỏ, rồi trong suốt hành trình nơi Samạc, họ đã được Thiên Chúa yêu thương cách đặc biệt, ấy thế mà, dân Israel đã bội nghĩa vong ân, đã thay trắng đổi đen, và đã vướng vào những cạm bẫy của ma quỷ, để rồi kiêu ngạo, thách thức Thiên Chúa. Vì thế, nhiều người đã phải chết trong sự ngu dốt do tính kiêu ngạo của mình.
Từ đó, thánh nhân mời gọi tín hữu Côrintô hãy sám hối, tin tưởng, phó thác vào tình thương của Thiên Chúa và trung thành với sự hướng dẫn đầy tình nhân ái của Người.
Sang bài Tin Mừng, thánh sử Luca trình thuật việc dân chúng báo tin cho Đức Giêsu về hai sự kiện, một là: quan tổng trấn Philatô giết một số người Galilê đang khi họ dâng lễ vật trong đền thờ, và biến cố 18 người bị tháp Siloe đổ xuống đè chết, sau đó, họ kết luận: những người đó phạm tội nên mới bị chết cách đau đớn như vậy!!!
Khi nghe thấy tin ấy, Đức Giêsu đã không nhìn sự kiện dưới khía cạnh luân lý, kinh tế hay chính trị, mà Ngài nhìn dưới gọc độ tôn giáo. Vì thế, Ngài đã đánh đổi quan niệm cũ sai lầm mà người Dothái thường gán cho những người ốm đau, bệnh tật, tai nạn là do phạm tội nên bị Thiên Chúa phạt bằng câu nói đầy tính tiên tri: “Nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết y như vậy”. Điều này đã được chính Đức Giêsu chứng minh qua phép lạ chữa cho người mù từ lúc mới sinh, Ngài nói: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng chuyện đó xảy ra là để các việc của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh” (Ga 9,3).
Mặt khác, Ngài cũng muốn nhắc cho dân chúng ở đó rằng: chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền xét đoán và kết án mà thôi, nên: “Đừng xét đoán để khỏi bị kết án” (Mt 7,1).
Như vậy, qua bài Tin Mừng này, chúng ta thấy ý chính, trọng tâm của sứ điệp chính là: “Hãy sám hối để được ơn tha thứ và cứu chuộc”.
Lời mời gọi ấy ngày nay vẫn con nguyên giá trị. Nhưng đáng tiếc thay, nhiều người vẫn dửng dưng và cho rằng: “Đời còn dài, lo gì, đến lúc già, ăn năn đền tội còn kịp chán. Tên ăn trộm kia còn kịp ăn năn, huống chi là mình !”; hay nghĩ rằng: “Đâm lao theo lao”, lỡ yếu đuối sa ngã phạm tội rồi, cho lỡ luôn! Thực ra, chỉ những ai dại dột hay kiêu ngạo thì mới cả gan nghĩ như vậy, bởi lẽ trong thực tế đã chứng minh cách nhãn tiền rằng: “Sinh hữu hạn, tử bất kỳ”, vì: cái chết nó đến với chúng ta cách bất ngờ đến độ như kẻ trộm lúc đêm khua hay như chiếc lưới bất thần chụp xuống trên đầu chúng ta…
Vì thế, ngay giây phút này, mỗi người hãy tâm niệm câu nói của thánh Phaolô: “Ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã” (1 Cr 10,12); và câu nói của thánh Phêrô: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo và ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1 Pr 5,5). Vì ngài: luôn đánh giá rất cao người tội lỗi trở về hơn là người đạo đức mà kiêu ngạo.
Như vậy, Lời Chúa hôm nay cho ta thấy rất rõ: đối tượng của lời kêu gọi sám hối không phải chỉ là những người tội lỗi, gái điếm, trộm cắp…, nhưng cả những người được coi là đạo đức, ngay chính, nhiều người kính trọng, hết thảy, ai ai cũng đều phải sám hối.
Bởi vì nếu lời mời gọi sám hối dành cho những người tội lỗi là: từ bỏ con đường bất chính, gian dâm, trộm cướp, hối lộ, bóc lột…, thì lời mời gọi sám hối dành cho những người đạo đức, công chính…, đó là: làm mọi việc vì lòng yêu mến Chúa, biết cảm thông cho những thân phận xấu số, cảm thương với người nghèo và rộng tay làm phúc bố thí cho họ, nhất là nâng đỡ những người tội lỗi, giúp họ làm lại cuộc đời…
Tại sao vậy, Thưa! Kitô giáo không phải là một tôn giáo chỉ cấm những điều xấu không được làm, mà Giáo lý của Đức Giêsu còn đòi buộc cả những điều tích cực như: khi thấy điều tốt mà không làm thì cũng mắc tội. Điều này cũng được chính thánh Giacôbê nhắc đến trong thư của ngài: “Kẻ nào biết làm điều tốt mà không chịu làm thì mắc tội” (Gc 4,17).
Vì thế, nếu tỏ lòng sám hối là điều cần làm ngay lúc này, thì lời mời gọi sinh hoa quả tốt là các nhân đức cũng là điều cấp thiết. Bởi vì: “Cái rìu đã đặt sát gốc cây, bất cứ cây nào không sinh quả đều bị chặt đi và quăng vào lửa”(x. Mt 3,10 ; Lc 3,9).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu rõ rằng: biết sám hối là một lựa chọn khôn ngoan. Biết đổi mới đời sống theo thánh ý Chúa là người có phúc. Amen.
.
Lm. Antôn
Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta nhận biết không ai trong chúng ta muốn giữ những thứ vô dụng trong nhà, vừa choán chỗ vừa không còn sử dụng được, như những chiếc áo, chiếc quần đã rách, đôi giày, cái dù hay máy móc, dụng cụ đã hư hỏng. Nếu chúng ta đã cố gắng sửa mà vẫn không xử dụng được, thì chúng ta sẽ vất nó vào thùng rác để mua cái khác. Con người chúng ta, đặc biệt là những Ki-tô hữu được Chúa yêu thương ban nhiều ơn lành, trước mặt Thiên Chúa cũng thế. Vì yêu thương, Ngài sẽ làm mọi cách để dạy, sửa và giúp chúng ta ăn năn sám hối và thay đổi, trở nên những người tốt, và sinh sinh hoa trái tốt. Thiên Chúa muốn chúng ta là những con người hữu ích cho xã hội, và cho cộng đoàn giáo xứ mà chúng ta là một giáo dân. Thiên Chúa muốn chúng ta là những chi thể sống động và hữu ích trong Thân Thể Chúa Ki-tô. Thiên Chúa muốn chúng ta tin vào Ngài, yêu mến Ngài và làm những điều tốt cho tha nhân, làm những điều ích lợi cho cộng đồng. Bài Tin mừng cho chúng ta biết số phận cây vả vô dụng, không sinh trái, đã bị cắt đi để khỏi tốn công, choán chỗ và tránh thiệt hại cho cây khác, sau khi chủ đã cố gắng bằng mọi cách mà không thay đổi.
Các bài đọc lời Chúa hôm nay cho chúng ta biết Thiên Chúa là Đấng từ bi và thương xót, không muốn chúng ta sống trong đau khổ, bất hạnh, và dạy chúng ta phải biết nắm lấy cơ hội Chúa ban để ăn năn sám hối, cải thiện đời sống, và sinh hoa trái như lòng Chúa mong ước nơi mỗi người chúng ta.
Bài đọc I cho chúng ta biết Thiên Chúa động lòng thương xót dân của Ngài khi thấy họ sống trong đau khổ, và bị đối xử tàn nhẫn như những nô lệ bên Ai-cập. Thiên Chúa hiện ra với ông Mô-sê để tỏ ý định của Ngài, và sai ông đến với dân Israel, để chuẩn bị đưa họ ra khỏi đất nô lệ để vào Đất Hứa. Khi biết Thiên Chúa muốn chọn mình để lãnh đạo và hướng dẫn dân Israel ra khỏi Ai-cập, ông Mô-sê nhìn thấy trước hai sự khó khăn to lớn trong sứ vụ Thiên Chúa trao phó. Khó khăn to lớn thứ nhất, ông đang trốn tránh vua Pharao, người đang tìm giết ông, làm sao ông dám gặp và yêu cầu vua phóng thích dân Israel. Khó khăn to lớn thứ hai, dân Israel sẽ không tin ông, vì họ biết ông cô thân cô thế, một mình và chẳng có trong tay một sức mạnh nào cả. Để củng cố niềm tin và đánh tan sự sợ hãi của Mô-sê, Thiên Chúa đã thứ nhất cho ông chứng kiến một hiện tượng nhìn thấy bụi cây cháy bừng, nhưng bụi cây không bị thiêu rụi. Thứ hai, Thiên Chúa mặc khải cho ông biết danh thánh của Ngài là Ðấng Tự Hữu. Và thứ ba Thiên Chúa hứa với ông “Ta sẽ ở với ngươi.” / Vì lòng xót thương, Thiên Chúa đã dùng Mô-sê làm phương cách để giải thoát dân khỏi cảnh nô lệ lầm than khổ cực.
Trong bài đọc 2, Phaolô muốn các tín hữu nhìn lại biến cố Xuất Hành để rút ra những bài học cụ thể cho đời sống đức tin. Thánh Phao-lô cho chúng ta biết dù dân Israel đã được Thiên Chúa yêu thương, dùng quyền năng giải thoát họ khỏi cảnh nô lệ, và dẫn đưa họ về Đất hứa, nhưng nhiều người trong họ đã vô ơn, phàn nàn kêu trách Chúa, và sau cùng, họ phải chết trước khi vào Đất Hứa. Giống như dân Israel trong biến cố Xuất Hành, thánh Phao-lô nhấn mạnh rằng người tín hữu cũng đã được hưởng mọi ơn sủng từ Chúa Giê-su Ki-tô, nhưng những điều này không bảo đảm sẽ được phục sinh vinh hiển và hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trong vương quốc của Ngài, nếu chúng ta không biết dùng ơn sủng Chúa ban để luyện tập nhân đức, vượt qua mọi cám dỗ và cạm bẫy, để giữ vững đức tin vào Thiên Chúa, và sống trong ân sủng của Ngài, trở thành chi thể sống động và hữu ích cho thân thể.
Trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu muốn nhắc nhở mọi người chúng ta phải biết nhìn các biến cố xảy ra trong cuộc đời và chung quanh, để nhận ra và học những điều quan trọng cho cuộc sống. Khi thấy những điều xấu và sự chết xảy ra cho người khác, đừng nghĩ là họ tội lỗi hơn mình, cho nên bị phạt, nhưng hãy biết sự chết, những điều xấu, điều dữ hay đau khổ, cũng có thể sẽ xảy ra cho mình, điều quan trọng là phải biết nhìn vào đời sống, ăn năn sám hối, cải thiện để sinh hoa kết trái tốt cho Thiên Chúa.
Ông bà anh chị em thân mến. Qua những bài KInh thánh, chúng ta nhận ra 2 bản tính của Thiên Chúa. Thứ nhất, Thiên Chúa yêu thương và từ bi, giàu lòng xót thương và nhẫn nại, và thứ hai, Thiên Chúa thưởng phạt cũng rất công bằng chính trực với tất cả mọi người. Thiên Chúa sẽ không thể dung túng tội lỗi, sự dữ. Ngài không thể im lặng cho tội lỗi và sự dữ gia tăng, hay để chúng ta trở nên vô dụng, đi xâu vào con đường đầy bóng tối tội lỗi và sự dữ. Vì yêu thương, Thiên Chúa ban nhiều ơn sủng, và qua nhiều người hay phương cách, để đánh động, cảnh tỉnh và kêu gọi chúng ta ăn năn quay trở về. Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi như người cha chờ đợi người con hoàng đàng trở về, để tha thứ những yếu đuối, tội lỗi của chúng ta. Một điều chắc chắn là Thiên Chúa không muốn một ai trong chúng ta phải hư mất, vì Ngài đã tạo dựng nên chúng ta, nên Ngài kiên nhẫn chờ đợi trong yêu thương, được thể hiện qua lời kêu xin của người làm vườn trước cây vả không chịu sinh hoa trái: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi”.
Ông bà anh chị em thân mến. Điều quan trọng mà chúng ta cần tự hỏi hôm nay: “Tôi là cây vả đang sinh hoa trái tốt, hay là một cây vả không sinh hoa trái?” “Hoa trái của cuộc sống tôi là gì?” “Cuộc sống của tôi có ích lợi gì cho xã hội, cho giáo xứ?” “Cuộc sống Ki-tô hữu của tôi mang lại hữu ích gì cho sự hiệp nhất, cho sự yêu thương và sống động trong Thân Thể Chúa Ki-tô?” “Tôi nhận ra nhiều ơn lành hồn xác Chúa ban, như cây nhiều lá xanh um tùm, nhưng tôi có sinh hoa trái tốt cho Chúa không?” / Mùa Chay là ân sủng của Thiên Chúa ban cho mỗi người chúng ta, là thời gian giúp chúng ta nhìn vào đời sống Ki-tô hữu, để nhận ra tình trạng hiện tại ra sao. Thiên Chúa là Đấng từ bi ban cho chúng ta nhiều ơn lành hồn xác, và giàu thương xót trong rất nhiều đường lối. Một trong những đường lối của Chúa là cảnh tỉnh, kêu gọi chúng ta ăn năn sám hối, thay đổi cuộc sống. Thiên Chúa cũng ban cho chúng ta tự do để chúng ta quyết định có sống lời dạy bảo của Chúa Giê-su, Người Làm Vườn hay không. Xin Chúa mở tâm hồn chúng ta để chúng ta biết nắm lấy cơ hội, lắng nghe lời Chúa kêu mời và sống lời Chúa dạy, để ngày mai cuộc sống của chúng ta bắt đầu nảy sinh hoa trái tốt cho Chúa, và như lòng Chúa mong ước.
.
P.Trần Đình Phan Tiến
Thưa quý vị, các bạn chủ đề Tin Mừng Chúa nhật III Mùa Chay là một chủ đề nói về sự dứt khoát, không do dự, không trù trừ, nếu muốn trở về với Thiên Chúa, thì không còn con đường nào khác hơn là sự sám hối ăn năn. Sám hối là một ân huệ cuối cùng, sau chót của đời người nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Tin Mừng hôm nay ( Lc 13, 1- 9) có hai phần chính:
Chết ở đây không chỉ chết thân xác, mà chết đời đời. Qua sự việc tổng trấn phi-la-tô giết một số người Ga-li-lê, máu của họ hòa lẫn với máu tế vật họ đang dâng. Như vậy, theo người Dothai, cái chết của một số người Ga-li-lê bị Phi-la-tô giết chết là do tội lỗi của họ, nhưng, Chúa Giêsu thì không kết án qua cái chết thân xác. Vì, những người Ga-li-lê đang dâng lễ vật là những người lương thiện, tốt lành, công chính. Nhưng, họ vẫn bị sự trừng phạt bất nhân, tàn ác, của một vị quan ngoại bang cai trị họ. Chúng ta thấy, sự phán xét của Chúa Giêsu không dựa vào tiêu chí trần gian, chẳng hạn như thấy người ta chết vì tai nạn giao thông, hay một sự cố bất ngờ nào đó, thì cho là do họ làm ác phải chịu quả báo. Người đời thường hay đánh giá bên ngoài, sự đánh giá của phàm nhân, thường là tiêu cực, mang lại sự ác của lý lẽ con người. Vì vậy, ngay đó, Chúa Giêsu đã đưa một vụ việc đã xảy ra đối với mười tám người bị tháp Siloe đè chết, không phải vì họ có tội hơn những người khác ( c 4). Nhưng, là những cách thức chết về phần thân xác không phải là do họ tội lỗi, mà là do những tác động tiêu cực, như về kỹ thuật, hay nghề nghiệp, chết vì rủi ro do tai nạn chính mình, hoặc người khác gây ra do bất cẩn, hoặc cố ý, đều không phải do tội lỗi của chính nạn nhân.
Theo đó, điều quan trọng là không phải cái chết thân xác mà là chết tâm linh, chết đời đời. Vậy, muốn không phải chết đời đời, thì phải sám hối. Sám hối là một cơ hội tốt nhất cho phàm nhân để khỏi chết đời đời, sám hối và tin vào Đức Kitô là một động thái tích cực để được cứu thoát.
DỤ NGÔN CÂY VẢ KHÔNG RA TRÁI.
Theo đó, Ông Chủ chính là Chúa Cha, Người làm vườn là Chúa Giêsu, những cây vả không ra trái chính là những người tội lỗi chưa sám hối ăn năn. Lòng thương xót nơi Chúa Giêsu là : “ Người làm vườn “ cho “Ông Chủ” là Chúa Cha đã xin thời giờ cho kẻ tội lỗi sám hối. Nhưng, câu 9 thể hiện giờ sau chót, nếu kẻ tội lỗi không sám hối thì sẽ chết hết. Vì, cho biết : Lòng Thương Xót bởi Thiên Chúa cũng có giới hạn thời gian. Tuy vô biên, nhưng phàm nhân không thể trì hoãn.Vì, sự hữu hạn của phàm nhân cũng phải có thời giờ kết thúc, đó là giờ chết. Nếu được sám hối trước giờ chết, thì người ấy thật tốt lành.
Khởi đi từ bài đọc I ( Xh 3, 1-8a; 13 -15), Thiên Chúa tuyển chọn Môi-sen và sai ông đi làm ngôn sứ để Thiên Chúa giải thoát dân Ngài khỏi tay vua Ai-cập. Thiên Chúa cho biết Ngài là :” Đấng Hằng Hữu”. Theo đó, phàm nhân muốn được sống hằng hữu bên Thiên Chúa, thì phàm nhân phải được giải thoát,nếu muốn được giải thoát, mặc nhiên phải biết sám hối. Nếu không sẽ bị chết.
Bài đoc II ( 1Cr 10, 1-6 ;10 -12) thánh Phao-lô khuyên chúng ta đừng tự phụ và nhắc lại thời dân Dothai được cứu thoát bởi tay Thiên Chúa dùng Môi-sen dắt qua Biển Đỏ. Được cùng ăn một thức ăn linh thiêng, cùng uống một thức uống linh thiêng, tảng đá mà Môi-sen đã vâng lời Thiên Chúa, dùng gậy đập vào và nước đó là hình ảnh Đấng Cứu Thế Kitô sẽ là nguồn nước Hằng Sống vọt ra.
Theo đó, Bí Tích Rửa tội chính là hình bóng vượt qua Biển Đỏ của Tân Ứơc, để những ai đã lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội thì họ được nhấn chìm vào ân sủng bởi ơn cứu độ. Và như vậy, họ được giải thoát để trở nên dân riêng của Thiên Chúa. Như vậy, sám hối đối với người đã ”tin” vào Đức Kitô thì khác với những người chưa nhận biết Đức Kitô. Nhưng, những ai đã tin vào Đức Kitô mà không biết sám hối, thì kể ra họ bị nặng hơn.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy chúng con phải biết sám hối để được cứu thoát. Xin cho những ai chưa thành tâm tìm kiếm Chúa được có cơ hội gặp Người, hầu đó chính là cách sám hối tốt nhất, để họ trở về với Thiên Chúa là Cha, là Đấng Hằng Hữu ./. Amen.
.
Trần Bình An
Động đất và sóng thần Tōhoku 2011 là một trận động đất mạnh 9,0 Mw ngoài khơi Nhật Bản, xảy ra lúc 05:46 UTC (14:46 giờ địa phương) vào ngày 11 tháng 3 năm 2011. Trận động đất có vị trí tâm chấn nằm cách ngoài khơi bờ biển phía Đông bán đảo Oshika, Tohoku 72 kilômét (45 mi) tại độ sâu 32 kilômét (20 dặm). Cơ quan Khí tượng Nhật Bản ghi nhận cường độ mạnh nhất của thảm họa ở mức 7 tại miền Bắc tỉnh Miyagi, mức 6 tại các tỉnh khác và mức 5 tại Tokyo.
Trận động đất đã gây ra sóng thần lan dọc bờ biển Thái Bình Dương của Nhật Bản và ít nhất 20 quốc gia, bao gồm cả bờ biển phía Tây của Bắc và Nam Mỹ. Sóng thần cao đến 38,9 m đã đánh vào Nhật Bản chỉ vài phút sau động đất, tại một vài nơi sóng thần tiến vào đất liền 10 km (6 mi).
Cơ quan Cảnh sát Quốc gia Nhật Bản đã chính thức xác nhận có 15.893 người thiệt mạng, 6.152 người bị thương và 2.572 người mất tích tại 18 tỉnh của Nhật Bản và hơn 125.000 công trình nhà ở bị hư hại hoặc phá hủy hoàn toàn. Trận động đất và sóng thần đã gây ra nhiều thiệt hại nghiêm trọng tại quốc gia này, bao gồm những hư hỏng nặng nề về đường bộ và đường sắt, cũng như gây cháy nổ tại nhiều khu vực, kèm theo một con đập bị vỡ. Khoảng 4,4 triệu hộ gia đình rơi vào tình trạng mất điện và 1,5 triệu hộ bị mất nước. Nhiều nhà máy phát điện đã ngưng hoạt động và ít nhất 3 vụ nổ lò phản ứng do rò rỉ khí hydro đã xảy ra tại nhà chứa các lò phản ứng, khi hệ thống làm mát bị hỏng hoàn toàn. Ngày 18 tháng 3, ông Yukiya Amano, người đứng đầu Cơ quan Nguyên tử Quốc tế đã cho biết cuộc khủng hoảng này “cực kì nghiêm trọng”. Mọi cư dân trong phạm vi bán kính 20 km (12 mi) từ nhà máy điện hạt nhân Fukushima I và 10 km (6 mi) từ nhà máy điện hạt nhân Fukushima II đã phải sơ tán. Ngoài ra, chính quyền Hoa Kỳ khuyến cáo công dân của họ phải di tản cách các nhà máy điện 80 km (50 mi).
Theo các ghi chép về cường độ động đất, đây là trận động đất mạnh nhất từng xảy ra ở Nhật Bản và là một trong năm trận động đất mạnh nhất thế giới, từ khi các thiết bị ghi nhận được sử dụng từ năm 1900. Đây được cho là sự va đập kiến tạo lớn nhất giữa Bắc Mỹ và Thái Bình Dương trong 1.200 năm. Thủ tướng Nhật Bản Naoto Kan tuyên bố: “Trong vòng 65 năm từ sau Thế chiến thứ II, đây là cuộc khủng hoảng khó khăn và gay go nhất mà Nhật Bản phải đối mặt.” Trận động đất đã di chuyển đảo Honshu 2,4 m về phía Đông và làm lệch trục Trái Đất khoảng 10 cm.
Ước tính thiệt hại lúc đầu tại những nơi bị ảnh hưởng của Nhật Bản vào khoảng từ 14,5 đến 34,6 tỉ USD. Ngày 14 tháng 3, Ngân hàng Nhật Bản đã rót 15.000 tỉ ¥ (183 tỉ USD) vào hệ thống ngân hàng, để giảm thiểu ảnh hưởng thị trường tài chính. Ngày 21 tháng 3, Ngân hàng Thế giới ước tính thiệt hại lên vào khoảng 122 đến 235 tỉ USD. Chính phủ Nhật Bản cho biết tổn thất do động đất và sóng thần tàn phá miền Đông Bắc có thể lên đến 309 tỉ USD. Đây là kỉ lục thế giới về thiệt hại do thiên tai gây ra. (Động đất và sóng thần Tōhoku 2011, Wikipedia)
Thảm hoạ sóng thần Tōhoku bất ngờ đổ ập xuống phía Đông Nhật Bản gây kinh hoàng cho nhân loại, nhắc nhở mọi người đang sống trong thế giới đầy bất trắc, luôn tiềm ẩn thiên tai, hay nhân tai do chính con người tham lam, hám lợi, khai thác, phá huỷ môi trường, hoặc do thù địch gây nên chiến tranh. Vì vậy, cuộc sống vốn mỏng dòn, lại càng thêm yếu đuối, mỏng manh, càng bất lực hơn trước sức mạnh sự dữ tung hoành. Nếu ai không sẵn sàng chuẩn bị đón nhận cái chết, thì thật thiếu khôn ngoan.
Bước vào Tuần 3 Mùa Chay Thánh, Tin Mừng thánh Luca hôm nay phát đi thông điệp cấp bách, cảnh báo con người phải canh tân nếp sống, qua những dấu chỉ rất cụ thể, công khai diễn ra ngay trước mắt mọi người. Nếu ai cứ tiếp tục bảo thủ, cố chấp, ngang bướng, không chịu đổi mới, sẽ phải chịu án phạt nặng nề.
Dấu chỉ
Hai sự kiện nóng hổi xảy ra công khai. Mấy người Galilê bị quan Tổng trấn Philatô giết và mười tám người bị tháp Silôê đè chết, đều là những dấu chỉ quan trọng cho tất cả những ai đang sống. Đừng kiêu căng mạo nhận là quan toà, để kết án những người tử vong, mà hãy tỉnh táo xét mình, sám hối, ăn năn, cải hoá, kẻo chẳng còn thì giờ hay cơ hội như những người xấu số kia. Hai lần liên tiếp, Đức Giêsu đều tha thiết cảnh tỉnh: “Nhưng nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy.”
Cũng đừng tự phụ, kiêu hãnh con nhà đạo gốc, thành phần ưu tuyển, kinh kệ, lễ lạc sáng chiều, ăn chay làm phước, hãm mình hy sinh, mà cố tình phớt lờ, coi thường, bỏ qua Lời Chúa mời gọi sám hối. Ông Gioan Tẩy Giả đã nghiêm khắc cảnh báo những kẻ giả hình, khôn ranh, ma mãnh, mưu mô, xảo quyệt như rắn độc: “Đừng tưởng có thể bảo mình rằng: “Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham.” Vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Ápraham. Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa. (Mt 3, 9-10)
Hả hê thấy người khác gặp sự khó, xôn xao, hào hứng tám chuyện không may xảy đến bạn bè, hàng xóm, láng giềng, người Kitô hữu vô tình hay hữu ý, bỗng dưng trở nên những vị quan toà nghiêm minh, sắc sảo, sáng suốt, cầm cân nảy mực, tha hồ ném đá thiên hạ. Đó chính là giết người nhẹ nhàng và tinh tế không bằng gươm đao, giáo mác, mà bằng chính cái lưỡi lắt léo, không xương, tự cao tự đại, hợm hĩnh, kiêu căng, đạo đức giả. Hãy giữ chay mắt, chay tai, chay miệng lưỡi và giữ chay tâm hồn.
Hoa Trái
“Kìa, ba năm nay ta đến tìm quả cây vả này mà không thấy có.” Nếu cây tươi tốt, xum xuê xanh lá, mà không thể sinh nụ, đơm bông, kết trái, thì cây thành vô dụng, chỉ đáng chặt bỏ làm củi. Người Kitô hữu cũng vậy, nếu chỉ biết chăm lo, o bế thân xác, vinh thân phì gia, thì cũng khác chi cây cối khô cằn. Vì thế, ngôn sứ Gioan Tiến Hô đã hết lời mời gọi: “Các anh hãy sinh những hoa quả xứng với lòng sám hối.” (Lc 3, 8) Dốc lòng ăn năn cách trọn là chân thành trở về với Chúa, trung thực thi hành Lời Chúa dạy.“Như vậy, anh em sẽ sống được như Chúa đòi hỏi, và làm đẹp lòng Người về mọi phương diện, sẽ sinh hoa trái là mọi thứ việc lành, và mỗi ngày một hiểu biết Thiên Chúa hơn.” (Cl 1, 10)
Thánh Phaolô kêu gọi tín hữu Êphêsô: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện.”(Ep 4, 22-24)
Cụ thể như, đừng gian dối, hãy nói sự thật, đừng nổi nóng, oán giận, đừng trộm cắp, hãy làm ăn lương thiện, đừng chửi thề, nói lời độc địa, hãy nói những lời tốt đẹp xây dựng và làm ích cho tha nhân, nhất là đừng làm phiền lòng Thánh Thần của Thiên Chúa, vì chính Người là dấu ấn ghi trên anh em, để chờ ngày cứu chuộc… Phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô. (Ep 4, 25-32)
Lòng Thương Xót
Lời can gián, van xin của Người Làm Vườn Giêsu biểu lộ Lòng Thương Xót vô cùng:“Thưa ông, xin để cho nó một năm nay nữa, tôi sẽ đào đất chung quanh và bón phân; may ra nó có quả chăng, bằng không năm tới ông sẽ chặt nó đi.” Người ra sức che chở, bênh vực, gìn giữ cây xanh của Người. Hơn nữa, Người còn van xin Chủ Vườn tạo điều kiện cho Người chăm sóc kỹ lưỡng hơn, bón phân tốt hơn, cũng như xin gia hạn thêm thời gian để cây kịp sinh hoa trái. Bởi vì “ThiênChúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương, chẳng trách cứ luôn luôn, không oán hờn mãi mãi. Người không cứ tội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm. Như trời xanh trổi cao hơn mặt đất, tình Chúa thương kẻ thờ Người cũng trổi cao. Như người cha chạnh lòng thương con cái, Chúa cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn.” (Tv 103, 8-11.13).
Lạy Chúa Giêsu, xin mở mắt, mở lòng chúng con nhìn thấy, hiểu thấu những điều Chúa muốn ngỏ lời qua những dấu chỉ thời đại, qua những biến cố, sự kiện trong đời, qua những thảm hoạ, tai ương hoạn nạn của tha nhân, hay của chính chúng con. Xin giúp chúng con sớm giác ngộ, mà quyết tâm sám hối, ăn năn, canh tân, trở về với Chúa cực nhân, cực ái, tràn đầy lòng thương xót.
Kính xin Mẹ Maria, giàu tình mẫu tử, luôn thương yêu nhắc nhủ chúng con trong từng phút giây, dốc tâm trở về với Lòng Thương Xót vô biên của Chúa, để chúng con có thể sinh hoa thơm trái ngọt, quên mình, yêu thương phục vụ tha nhân. Amen.
.
Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
Thiên Chúa là Đấng giải phóng con người. Từ ngàn xưa, Thiên Chúa không ngừng tìm cách đưa con người vượt thoát tình trạng nô lệ để bước vào đời sống tự do. Bài đọc thứ I hôm nay, được trích trong sách Xuất hành (3, 1-15), là bằng chứng hùng hồn cho khẳng định: Thiên Chúa là Đấng giải phóng.
Đó là thời gian người Dothái sống lầm than cùng cực trong thân phận nô lệ cho người Aicập. Những khía cạnh cơ bản của đời sống: kinh tế, chính trị, xã hội…, họ đều bị buộc phải lệ thuộc Aicập. Họ còn phải làm tôi mọi, phục dịch người Aicập từ vua đến dân.
Thiên Chúa quyết định giải phóng dân riêng của mình. Cuộc giải phóng này là cuộc giải phóng khỏi cảnh áp bức của đời sống, giải phóng khỏi mọi hình thức nô lệ về chính trị, kinh tế, xã hội… Tôi tạm gọi đây là cuộc “Thiên Chúa giải phóng về mặt nhân trần”.
Để khai mở công cuộc giải phóng mà Thiên Chúa đã dự liệu, Thiên Chúa bắt đầu trao ơn gọi cho ông Môsê: Một lần, khi đang chăn đàn chiên cừu trong hoang địa, dưới chân núi Khorep, bỗng dưng ông Môsê bắt gặp một cảnh tượng hùng vĩ, lạ thường chưa từng có: Một bụi gai bốc lửa hừng hực, nhưng bụi gai không hề bị thiêu rụi. Được thu hút bởi cảnh tượng tưởng chừng không thể có nhưng lại đang diễn ra, ông Môsê chạy tới xem cho rõ.
Chính lúc ông đang đến gần, Chúa gọi ông: “Môsê! Môsê!”. Chúa xưng danh mình là “Đấng Hiện Hữu” khi giao trọng trách cho ông: “Ngươi sẽ nói với con cái Israel thế này: Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacob, sai tôi đến với anh em”.
Ngày ấy, Thiên Chúa tỏ mình là Đấng giải phóng. Bằng những lời tha thiết, triều mến, gây cảm động: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Aicập. Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Aicập”, Thiên Chúa cho thấy Thiên Chúa chính là Đấng yêu chuộng tự do. Người không thể chịu nổi, không bao giờ yên thân, khi con người bị cướp mất tự do. Thiên Chúa thực hiện cuộc giải phóng để trả tự do cho những kẻ Người yêu thương.
Qua những kiểu nói như nhân: “Ta đã thấy… Ta đã nghe…Ta biết… Ta xuống giải thoát…”, Chúa dùng chính ngôn ngữ và hình tượng của con người để diễn tả tấm lòng của Người. Đó là tấm lòng của một Thiên Chúa quan tâm, yêu thương, lắng nghe, triều mến. Người ở rất gần dân. Người là Thiên Chúa cảm thông nỗi đau của dân. Một Thiên Chúa rung động trước bất hạnh của con người. Một Thiên Chúa muốn giải thoát con người khỏi cảnh lầm than và ban tặng hạnh phúc, ban tặng sức sống, ban tặng tự do.
Thiên Chúa thực hiện nỗi lòng của mình bằng cách dùng cuộc xuất hành, đưa dân Dothái ra khỏi đất nô lệ Aicập, để bắt đầu hành trình đi tới miền đất tự do. Nhưng đó mới chỉ là cuộc giải phóng khỏi nô lệ của đời sống, khỏi nô lệ về kinh tế, chính trị, xã hội… Đó mới chỉ là cuộc giải phóng về mặt nhân trần.
Cuộc giải phóng về mặt nhân trần là hình bóng báo trước cuộc giải phóng tâm linh, giải phóng toàn vẹn để đưa con người vượt qua nô lệ tội lỗi, nô lệ sự dữ, tiến tới miền đất tự do là đời sống vĩnh cửu, đời sống dồi dào của chính Thiên Chúa, được thực hiện trong cuộc xuất hành của Chúa Kitô, khi Người vượt qua nỗi chết và phục sinh vinh hiển, toàn thắng.
Dân Dothái nói riêng, con người nói chung, vẫn không ra khỏi cảnh nô lệ. Khi được tự do điều khiển cuộc sống mình, người ta lại bị lôi kéo vào những hình thức nô lệ nguy hiểm hơn. Càng ngày con người càng sa đọa. Không còn bị ai bắt buộc, họ tự dấn mình vào những thứ nô lệ mới.
Thời các thủ lãnh, đến các tiên tri, đâu còn làm nô lệ bên Aicập, nhưng người ta bỏ Chúa, chạy theo tà thần, nhất là thần Baan. Người ta tôn thờ tiền bạc, của cải, thân xác, dục tính… Vì chúng, người ta sẵn sàng bỏ Chúa, bỏ mọi giá trị đạo đức thật…
Vẫn không dừng lại, xã hội thời chúng ta còn tệ hơn bao giờ hết. Quá nhiều hấp lực của hưởng thụ, thực dụng, kỹ thuật không chân chính, những kỹ nghệ tôn vinh thân xác, những trò gợi dục, những khoe khoang, những đam mê hạ cấp… lôi kéo, làm cho con người thời nay quên mọi giá trị tâm linh, giá trị nhân bản và căn bản làm thành con người đúng nghĩa.
Nền văn minh phát triển; mọi chiều kích của khoa học như đang vươn xa; nhiều phát minh mới; sáng kiến mới; tri thức mới…, nhưng không để đức tin hướng dẫn, sự phát triển trở thành què quặt, phá hoại nhân cách con người, lạm dụng những khát vọng mà con người đang có, đã tạo ra cho thế giới biết bao nhiêu sự chia rẻ, sự phân biệt. Từ đó, biết bao nhêu tội lỗi, biết bao nhiêu sự dữ… trổi dậy và có cơ hội lan xa.
Cách riêng Việt Nam: Mấy chục năm chiến tranh, người ta sống cơ cực, sống không tự do, chủ yếu bảo vệ mạng sống. Đến khi tự do, người Việt, nhất là kẻ có quyền, lại sống những hình nô lệ mới tinh vi hơn, nhưng cũng tăm tối hơn, đáng tởm hơn. Nhiều người trong chúng ta đang nô lệ tiền bạc, nô lệ của cải, nô lệ sắc dục, và mọi kiểu nô lệ hạ cấp…
Bởi không xóa được cảnh nô lệ, mà chỉ là chuyển từ nô lệ này đến nô lệ khác, cho nên thế giới cần một sự xuất hành mới, cần một cuộc giải phóng mới để mang lại tự do mới.
Đó không chỉ là một cuộc giải phóng để có tự do về kinh tế, chính trị, xã hội, nhưng là một cuộc giải phóng tâm linh, giải phóng toàn diện để từng người thực sự tự do nội tâm, một sự tự do thẳm sâu trong tâm hồn con người, một sự tự do cho phép ta không làm nô lệ, mà làm chủ những bản năng, những dục vọng, những đam mê xấu nơi con người của mình.
Một sự xuất hành mới, để tiến tới tự do mới, phải do Môsê mới dẫn đầu. Môsê mới chính là Đấng Thiên Chúa làm người mang tên Giêsu. Chỉ một mình Chúa Giêsu mới có thể ban ơn giải phóng toàn vẹn cho ta. Tôi gọi đó là sự giải phóng tâm linh. Chúng ta cần được Chúa giải phóng tâm linh của mình.
Muốn được giải phóng tâm linh, ta phải cộng tác. Là Kitô hữu, bạn và tôi không lạ gì lời mời gọi sám hối mà Thiên Chúa vẫn luôn mời gọi. Chúng ta cộng tác bằng lòng sám hối. Sự sám hối phải quyết liệt, mạnh mẽ, bằng không, sự cứng cỏi trong lời dạy của Chúa, mà Tin Mừng hôm nay cho biết, sẽ trở thành hiện thực nguy hiểm cho chúng ta: “Nếu các ông không sám hối, các ông cũng sẽ chết như vậy”.
Tâm tình sám hối đòi mỗi chúng ta ý thức về tội lỗi của mình. Vì sao Chúa Giêsu lại nói: “Các ông tưởng rằng, mấy người Galilê bị Philatô giết, là những người tội lỗi hơn những người khác sao? Không phải thế.Chính các ông, nếu không sám hối, các ông cũng sẽ chết như vậy”? Là vì, con người có tội, nhưng không nhận ra mình có tội. Họ đã không hề có ý thức về tội lỗi của bản thân mình.
Khi không còn ý thức về tội lỗi, người ta phạm tội dễ dàng. Phạm mọi thứ tội, dù ghê tởm nhất, độc ác nhất, nhưng lương tâm vẫn vô sự, không hề cắn rứt. Ý thức về tội lỗi mà không còn, gian dối là chuyện “cơm bữa”. Giết hại nhau không là điều hiếm hoi. Người với người sống vô cảm mà vẫn thấy bình thường. Không còn ý thức tội lỗi, người ta phạm tội đầy dẫy, phạm tội thường xuyên, nhưng ngụy biện: nhiều kẻ còn ghê gớm hơn tôi… Có khi tự cho rằng, tôi thế này còn khá, còn tốt…
Ta cần làm sống lại ý thức về tội lỗi trong lương tâm Kitô hữu mà ta đang mang. Lợi dụng dịp mùa Chay, tức là lợi dụng thời gian thánh, nhờ ơn Chúa giúp, ta khơi dậy ý thức về tội lỗi trong ta. Ý thức về tội lỗi sẽ làm ta nhạy bén với tội, sẽ cho ta thái độ sợ tội, sẽ không dám liều phạm tội, sẽ biết đau đớn về tội lỗi đã phạm, sẽ lo ăn năn tội thường xuyên.
.
Lm. Giuse Trực
Trong buổi nói chuyện với các gia đình Mêxicô tại sân động Tuxtla Gutierrez hôm 15/02/2016 vừa qua, Đức Thánh Cha Phanxicô đã dùng cụm từ: “đặt một trái tim mới” để nói về niềm hy vọng sau những gì tưởng như là cũ kỹ, mất mát, thất bại. Niềm hy vọng đó trước hết ở nơi Thiên Chúa, Ngài chờ, và đến lúc thấy không kết quả, Ngài “đặt một trái tim mới” để tiếp tục chờ: “Buổi chiều kia trong Vườn Eden, khi mọi sự xem ra không còn cứu vãn, Thiên Chúa Cha đã đặt một trái tim mới vào cặp vợ chồng trẻ ấy và nói với họ rằng mọi sự vẫn còn cứu vãn được. Khi dân Israel cảm thấy không thể tiếp tục cuộc hành trình qua hoang địa nữa, Thiên Chúa Cha đã đặt trái tim của Người vào đó bằng cách ban cho họ manna từ trời. Khi thời viên mãn đã tới, Thiên Chúa Cha đã đặt trái tim của Người vào đó bằng cách ban cho nhân loại hồng phúc trường cửu là Con Một của Người”. Niềm hy vọng đó cũng phải ở nơi mỗi con người để hằng ngày chúng ta biết “đặt trái tim mới”, niềm hy vọng mới vào những gì là cũ kỹ, là mất mát, là tội lỗi của chính chúng ta và cả người khác nữa.
I. NIỀM HY VỌNG CỦA THIÊN CHÚA
Thiên Chúa không thất vọng, không dừng bước, mà Ngài luôn “đặt trái tim mới” vào mọi sự để tiếp tục mong muốn và chờ đợi một kết quả tốt cho con người.
Khi dân Chúa làm nô lệ bên Ai Cập, Thiên Chúa không chịu nỗi cảnh thống khổ của họ, nên Ngài đã thổ lộ với Môsê: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai Cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọ cai hành hạ. Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai Cập và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trễ sữa và mật”. Hành động đó chính là “trái tim mới” của Thiên Chúa. “Trái tim mới” này không phải chỉ một lần, mà là trong suốt dòng lịch sử của dân Do Thái cho đến hôm nay. “Trái tim mới” đó chính là Lòng Thương Xót của Chúa Cha.
“Trái tim mới” này được thể hiện rõ ràng nơi người làm vườn. Ông chủ đã đợi 3 năm rồi mà cây vả vẫn không sinh trái, nên ông có ý định chặt nó đi, nhưng người làm vườn đã xin: “Xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái”. “Năm nay nữa” không phải chỉ là một năm, mà là một điệp khúc lặp đi lặp lại để cho thấy người làm vườn cứ hy vọng, cứ chờ đợi mãi. Hình ảnh người làm vườn đó chính là Đức Giêsu, dung mạo thương xót của Thiên Chúa Cha.
Như vậy sự thật nơi Thiên Chúa được thể hiện rõ ràng qua lời Chúa hôm nay, Ngài luôn hy vọng, luôn chờ đợi, luôn tạo điều kiện, luôn “đặt trái tim mới” để chúng ta được giải thoát đến vùng đất “tràn trề sữa và mật”, được sinh hoa kết trái. Vì vậy mà Đức Giêsu luôn mời gọi chúng ta hãy nhìn những biến cố xung quanh như một lời nhắc nhở để sám hối, sửa đổi, kẻo không còn kịp nữa. Chúng ta tự hỏi tại sao Thiên Chúa lại làm như vậy? Đức Thánh Cha đã trả lời: “Vì tên Người là tình yêu, tên Người là hồng ân, tên Người là tự hiến, tên Người là thương xót”.
II. CÂY VẢ VÀ ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN
Đứng trước “trái tim mới”, niềm hy vọng mới và cũng là Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, con người chúng ta có quyền hy vọng một một tương lai mới tốt đẹp hơn.
Để có một tương lai tốt đẹp hơn, chúng ta hãy nhìn vào hình ảnh cây vả trong bài Tin Mừng hôm nay để so sánh với chính mỗi người chúng ta.
Ông chủ nhìn thấy cây vả đã 3 năm rồi mà không sinh trái. Tại sao nó không sinh trái?
Yếu tố đầu tiên là dinh dưỡng cho cây. Nếu cây thiếu ánh sáng, thiếu đất và nước thì không bao giờ sinh trái, thậm chí là sẽ chết. Trong chế độ dinh dưỡng, ngoài yếu tố ánh sáng, đất, nước, còn phải thỉnh thoảng “tẩm bổ” cho cây bằng việc bón phân để nó thêm sức mạnh.
Ngoài chất dinh dưỡng, còn phải đề phòng sâu bọ, vì chính nó sẽ làm cho những chồi non là nơi để sinh hoa, kết trái bị dị tật hoặc héo khô.
Ngoài ra còn phải khai hoang kẻo những cây cỏ xung quanh sẽ che lấp hoặc ăn hết chất dinh dưỡng, làm cho cây không thể sinh hoa kết trái.
Ông chủ muốn chặt nó đi, nhưng người làm vườn đã xin ông chủ “cứ để nó lại” để anh ta chăm sóc, hy vọng năm sau nó sẽ có trái. Chắc chắn anh ta biết được những yếu tố làm cho cây vả không sinh trái, nên anh ta sẽ cố gắng khắc phục.
Cây vả là hình ảnh đức tin mỗi người chúng ta. Cho đến bây giờ nó vẫn chưa sinh trái, trái đèo đẹt hoặc rất ít…
Những yếu tố làm cho đời sống chúng ta chưa sinh hoa kết trái, trước hết là thiếu dinh dưỡng. Dinh dưỡng chính yếu của đời sống tâm linh là đời sống cầu nguyện, gắn bó với Chúa và năng lãnh nhận các Bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể. Ngoài 2 nguồn dinh dưỡng chính yếu đó, còn phải bổ dưỡng thêm cho linh hồn bằng những việc đạo đức khác như lần chuỗi Mân Côi, đi đàng Thánh giá, đọc kinh Lòng Thương Xót…
Kế đến phải đề phòng yếu tố “sâu bọ” trong đời sống đức tin, kẻo nó “đục khoét” làm cho những mầm non ơn thánh bị hư hoại. Sâu bọ đây chính là những tội lỗi, nhất là tội nặng.
Sau cùng, những cây hoang, cỏ dại cũng góp phần “chen lấn” làm cho cây đức tin chúng ta không sinh trái. Những thứ hoang dại này chính là những đam mê, những tật xấu vẫn len lỏi bên cạnh cuộc đời chúng ta. Phải nhổ bỏ tận gốc thì cây đức tin mới lớn mạnh. Còn nếu để nó sống chung thì chắc chắn nó sẽ lấn lướt làm cho đức tin chúng ta ngày càng yếu ớt và thậm chí là chết đi.
III. NIỀM HY VỌNG CHO CON NGƯỜI
Đời sống đức tin chúng ta chưa được tốt, chưa sinh hoa kết trái, nhưng Chúa không tiêu diệt chúng ta, Ngài vẫn cho chúng ta cơ hội, Ngài đang chờ đợi chúng ta.
Mùa Chay trong năm thánh Lòng Thương Xót này là cơ hội để chúng ta nói với Chúa: “Xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó”.
Đời sống đức tin không thể nào sinh hoa kết trái nếu không có một sự gắn bó với Chúa trong cầu nguyện và lãnh nhận các Bí tích. Vì vậy chúng ta hãy cố gắng cầu nguyện, nhất là giờ kinh chung nơi các gia đình ; siêng năng tham dự Thánh lễ, nhất là ngày Chúa Nhật.
Đời sống đức tin chúng ta sẽ bị tàn héo nếu sâu bọ là những tội lỗi cứ mãi tấn công. Hãy mau chóng đến với Bí tích Giải tội.
Đời sống đức tin chúng ta sẽ không phát triển được khi còn quá nhiều cỏ dại là những đam mê, những tật xấu. Hãy cố gắng loại bỏ đam mê và tật xấu; đồng thời hãy có những ước mơ cao đẹp, tập tành những thói quen tốt…
Có như vậy thì chắc chắn cây đức tin của chúng ta không phải năm sau, mà ngay bây giờ sẽ sinh hoa kết trái.
Chúa luôn tin tưởng và cho chúng ta cơ hội. Lòng Thương Xót Chúa luôn mở rộng cho chúng ta. Hãy sám hối để được sống và sống dồi dào!
.
Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
Trong hai Chúa nhật vừa qua, chúng ta đã đề cập đến nghị lực và ý chí của mỗi cá nhân cần thiết để vượt qua những rào cản của đức tin. Hôm nay cũng vậy, dựa vào Tin Mừng, bạn hãy cùng tôi tự tin vào bản thân mình. Vì cùng với Lời Chúa, cùng với sực cầu nguyện, tin vào bản thân sẽ tạo thêm nghị lực và ý chí giúp sống đức tin.
Tin vào bản thân có nghĩa là gì? Là tôi tự thấy mình có khả năng sống tốt hơn. Tự thấy mình dù có lúc sa ngã và tội lỗi, nhưng cũng có những lúc rất tốt lành, muốn sống thánh thiện. Thực tế, đã có khi không chỉ muốn, mà còn làm được những việc rất tốt lành, rất thánh thiện. Nhận ra mình có thể sống tốt để quyết tâm đổi mới đời mình. Đó là tự tin vào chính mình.
Ví dụ: Một thanh niên, trong một lần nào, cũng có khi đã nhiều lần, phản bội lòng thủy chung với vợ con, với gia đình, phản bội khế ước hôn nhân, bỗng dưng ý thức hành vi phản bội của mình.
Nhận ra mình có lỗi, anh quyết tâm trở về với gia đình, cũng là về với Thiên Chúa. Nhận ra mình tội lỗi, đã là một nghị lực lớn. Sau khi nhận ra như thế, anh thay đổi cuộc đời. Nghị lực ấy, ý chí ấy thật không thể có gì sánh bằng.
Dĩ nhiên, ta không thể quên ơn Chúa giúp mình vượt trở ngại. Nhưng quyết tâm ăn năn thống hối, chính là nghị lực, là ý chí của một người dám tin tưởng vào bản thân.
Bạn và tôi cũng thế. Hãy tự nhủ rằng, vì tôi là một con người như mọi người, tôi cũng có thể sống tốt, sống đạo đức như anh chị em của tôi. Tôi vẫn có thể làm lại cuộc đời, để cùng với họ, cuộc đời tôi sẽ phong phú, sẽ tràn ngập ơn Chúa.
Làm người ai mà không yếu lòng. Chỉ sợ mình không dám quyết tâm, hay đáng sợ hơn: cứng đầu, không thèm quyết tâm trở về với Chúa vì nuối tiếc thế giới tội lỗi đã nuốt lấy mình từ lâu. Cái thế giới ấy, thánh Augustino gọi tên là “Vũng bùn êm ái giả tạo của tội lỗi”. Vì nó êm ái quá, dễ lôi kéo mình vào mê hồn trận của nó, nên ta quên mất đó là sự giả tạo nguy hiểm, quên mất đó là vũng bùn.
Đàng khác, ta không muốn trở về, vì trở về với Chúa là phải chiến đấu thật nhiều, phải đối đầu với tội lỗi mà trong quá khứ mình kết bạn có khi còn là bạn thân với nó, nên ta không đủ can đảm.
Trở về là phải chấp nhận lụy phục Thiên Chúa, nhưng ta lại ngại đối diện với sự công thẳng của Người. Bởi thế ta không đủ can đảm, càng không thể rèn ý chí để làm nên một quyết tâm, dẫu đó là quyết tâm cần thiết cho đời sống tâm hồn.
Nếu không thoát ra, nhưng cứ mãi ngụp lặn trong vũng bùn tội lỗi, đó là một nguy hiểm đáng sợ khôn cùng. Mối nguy này lấy mất một giá trị trọng tâm và thiêng liêng nhất của đời người: Ơn cứu độ của Thiên Chúa ban.
Đã gọi là bùn, thì lún xuống dễ hơn vươn lên. Bởi vậy, đã ngụp lặn trong vũng bùn tội lỗi, lại không hề có một quyết tâm nào, không còn một chút ý chí và nghị lực nào, mà cứ để đời mình trôi tuột một cách tự do trong sự dữ, vũng bùn sẽ nuốt lấy mình. Nếu đã ngụp lặn trong tội, lại không có một chút ý hướng sống lương thiện nào, chắc chắn đến một lúc nào đó, mình lún mất thôi. Chết trong tội mà thôi.
Đến lúc đó, chắc chẳng còn tin Chúa, chẳng còn tin mình, chẳng ý chí, nghị lực nào để mà nói rằng trở về với Chúa. Rất nguy hiểm! Không dựa vào ơn Chúa, không nhìn ra mình, mất luôn cả niềm tin nơi chính mình, đúng là một tai họa khó lường. Để xảy ra như thế, thì thật là bi đát.
Càng nguy hiểm và bi đát hơn, nếu ta đọc lại Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu lên án những ai ở lỳ trong tội bằng những lời đe dọa khắc nghiệt.
Bài Tin Mừng kể: Lúc đó có một số người Galilê lên đền thờ Giêrusalem dâng của lễ tôn thờ Thiên Chúa. Họ bị quan Tổng trấn Philatô, người mà sau này sẽ xử án Chúa Giêsu, giết chết. Máu của họ hòa lẫn với máu của súc vật mà họ sát tế để dâng lên Chúa.
Người ta đem câu chuyện này kể cho Chúa nghe. Và Chúa đã trả lời: “Các ngươi tưởng rằng, mấy người xứ Galilê bị ngược đã như vậy là những người tội lỗi hơn tất cả những người ở xứ Galilê sao? Không phải thế đâu. Nhưng nếu các ngươi không ăn năn hối cải, các ngươi cũng sẽ bị hủy diệt y như vậy”. Rồi Chúa còn tiếp: “Cũng như ở Giêrusalem có mưới tám người bị tháp Silôê sập xuống, đè chết. Các ngươi tưởng họ là những người tội lỗi hơn những người khác hay sao? Không phải thế đâu, nhưng nếu các ngươi không ăn năn hối cải, các ngươi cũng sẽ bị hủy diệt giống như vậy”.
Điều chúng ta cần chú ý đó là, sau cả hai ví dụ, Chúa Giêsu kết thúc bằng một lời đe dọa nặng nề được lặp đi, lặp lại: “NẾU CÁC NGƯƠI KHÔNG ĂN NĂN HỐI CẢI, CÁC NGƯƠI CŨNG SẼ BỊ HỦY DIỆT”.
Trong Thánh Kinh, Thiên Chúa đã dùng nhiều biểu tượng để mời gọi con người nhìn lại mình mà sám hối như: nước Hồng thủy thời Noe; nỗi lầm than của chặng đường đầy chông gai khi xuất Aicập. Hoặc các dụ ngôn của Chúa Giêsu như: Dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng lúa; dụ ngôn về người nghèo Lazarô và nhà phú hộ giàu có…
Cũng vậy, hôm nay lời mời gọi “Nếu các ngươi…”, cũng là một lời mời gọi chúng ta ăn năn sám hối. Có khác chăng, là ở chỗ, nó không còn là biểu tượng, nhưng Người mặc cho nó một lời đe dọa, và là lời đe dọa nặng.
Bởi vậy, bạn và tôi đừng hờ hửng. Vì nếu chúng ta không biết sửa đổi mình, ngược lại, xem nhẹ, hay bất chấp những lời mời gọi hoán cải của Thiên Chúa dành cho mình, chắc chắn Lời Thiên Chúa sẽ không bao giờ chỉ dừng lại ở sự đe dọa, như chỉ để đe dọa mà thôi. Nó sẽ tước mất sự sống của ta.
Nhưng sự sống bị tước mất ấy không phải chỉ là sự sống tạm thời như ta đang có, mà là sự sống vĩnh cửu. Nghĩa là nếu không biết đón nhận lời Chúa để quay về, trong sự sống vĩnh cửu ấy, điều mà mình có thể nhận được chỉ là bất hạnh. Vì nếu chúng ta bất chấp Lời của Thiên Chúa như thế, chính là lúc ta tự mình quyết định nhận lấy oan khuất mà chính Lời Thiên Chúa đã từng cảnh báo cho ta.
Dĩ nhiên ta cần ơn Chúa để có đủ nghị lực và ý chí mà sửa đổi con người cũ của mình. Nhưng trong những lời: “Nếu các ngươi không ăn năn hối cải”, rõ ràng Chúa không nhấn mạnh đến ơn Chúa cho bằng nhấn mạnh đến chính con người chúng ta.
Hãy tự tin vào khả năng hoán cải, khả năng sống thánh thiện của bản thân để mà vươn lên, thoát khỏi sự ràng buộc của thói hư, tật xấu, của tội lỗi. Sự tự tin vào mình, cùng với ơn Chúa – vì chắc chắn Chúa sẽ không để chúng ta phải chiến đấu một mình – sẽ giúp ta căng tràn nghị lực, mạnh mẽ ý chí, để quyết tâm đổi mới cuộc đời mình.
Trong những trận đấu banh, hay trong các trò chơi khác nhau, các bạn trẻ thường cổ vũ nhau: “Cố lên! Cố lên!”. Cũng vậy, bạn và tôi hãy cố lên, cố nữa, cố mãi. Chúa đang chờ chúng ta. Hãy cố lên, đứng dậy, trở về với Chúa. Người tha thứ cho ta. Hãy cố lên, gắng sức liên tục. Hãy nghị lực và hãy tin vào mình. Chúa vẫn dang rộng vòng tay yêu thương đón chờ. Chỉ sợ ta xa Chúa, chứ không sợ Người bỏ ta.
Hãy cố lên! Cố lên nữa, Vì đó là nghị lực, là ý chí, là quyết tâm không lùi của chúng ta. Cố lên, thoát khỏi lời đe dọa, xem ra khá nặng nề: “Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, các ngươi cũng sẽ bị hủy diệt”, mà Chúa Giêsu đã cảnh báo.
Hãy cố lên! Vì cố lên như thế là tin vào mình, là tự cho mình sức mạnh, làm tăng nghị lực, làm phấn khởi ý chí để vượt lên trên tội lỗi và sự xấu.
.
MÙA CHAY THỜI KỲ ĂN CHAY SÁM HỐI VÀ LÀM VIỆC THIỆN
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
(1) Cùng lúc ấy, có mấy người đến kể lại cho Đức Giêsu nghe chuyện những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu đổ ra hòa lẫn với máu tế vật họ đang dâng. (2) Đức Giêsu đáp lại rằng: “Các ông tưởng mấy người Galilê đó tội lỗi hơn hết mọi người Galilê khác bởi lẽ họ đã chịu đau khổ như vậy sao ? (3) Tôi nói cho các ông biết: “Không phải thế đâu ; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy”. (4) Cũng như mười tám người kia bị tháp Silôa đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giêrusalem sao? (5) Tôi nói cho các ông biết: Không phải thế đâu. Nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy”. (6) Rồi Đức Giêsu kể dụ ngôn này: “Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, (7) nên bảo người làm vườn: “Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất? (8) Nhưng người làm vườn đáp: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. (9) May ra sang năm nó có trái. Nếu không thì ông sẽ chặt nó đi”.
– NẾU KHÔNG CẤP THỜI SÁM HỐI THÌ SẼ PHẢI CHẾT: Khi ấy có một số người Galilê đã bị quân Rôma giết chết khi đang dâng lễ trong Đền thờ, và mười tám người khác ở Giêrusalem đã bị tháp Silôa đổ sập đè chết. Nhiều người cho rằng những kẻ đó là người xấu nên đã bị Chúa phạt. Nhưng Đức Giêsu lại quả quyết: Không phải như vậy! Nhưng nếu người ta không cấp thời sám hối thì mọi người cũng đều phải chết như thế!
– SÁM HỐI LÀ PHÁT SINH HOA TRÁI: Tội của cây vả trong bài dụ ngôn là hình ảnh của dân Ítraen không phải là đã sinh ra trái chua độc hại, nhưng là tình trạng già cỗi không sinh ra hoa trái. Sở dĩ cây chưa bị chặt là nhờ người làm vườn tượng trưng Đức Giêsu đã xin chủ vườn khoan dung gia hạn thêm thời gian một năm. Nếu vẫn không ra trái thì bấy giờ cây đó sẽ bị chặt đi. Cũng vậy, mỗi chúng ta nếu không muốn bị tiêu diệt thì ngay từ bây giờ đã phải sám hối tội lỗi và làm các việc bác ái phục vụ tha nhân.
– C 1-3: + Người Galilê: Là những người Do thái sống tại miền Bắc có lòng yêu nước, đã nổi lên chống lại với quân Rôma đang cai trị. + Khiến máu đổ ra hòa lẫn với máu tế vật họ đang dâng: Câu chuyện xảy ra ngay trong Đền thờ Giêrusalem, nơi giết chiên bò làm lễ vật dâng tiến Đức Chúa. Có lẽ những người Galilê này hành hương về Giêrusalem và đã lợi dụng nơi tôn nghiêm để khích động dân chúng chống lại nhà cầm quyền Rôma. Nhưng họ đã bị Tổng trấn Philatô phát hiện, sai quân đến vây bắt và giết chết ngay trong Đền thờ, làm cho máu họ đổ ra hòa lẫn với máu các con vật mà họ vừa sát tế. + Các ông tưởng mấy người Galilê đó tội lỗi hơn hết mọi người Galilê khác, bởi lẽ họ chịu đau khổ như vậy sao?: Có lẽ người thuật lại câu chuyện muốn biết quan điểm của Đức Giêsu để coi Người có phải là Đấng Thiên Sai mà họ đang mong đợi hay không. Nhưng sứ vụ của Đức Giêsu không phải làm Vua Mêsia theo nghĩa trần tục. Nên Người đã không lộ ra quan điểm chính trị, mà cố tình lái vấn đề sang phạm vi tôn giáo. + “Không phải thế đâu. Nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy”: Người ta thường cho rằng: đau khổ, bệnh tật và sự chết là hậu quả của tội lỗi đã phạm. Nhưng Đức Giêsu lại phủ nhận điều ấy. Theo Người những người bị giết kia không phạm tội nhiều hơn những người khác ở Galilê, nhưng đây là dịp để mỗi người suy nghĩ và hồi tâm sám hối, hầu tránh cho mình khỏi bị tiêu diệt như vậy (x. Ga 9,2-3).
– C 4-5: + Tháp Silôa: Là ngọn tháp cao được xây trên đỉnh đồi ở phía Tây Nam thành Giêrusalem. + “Mười tám người kia bị tháp Silôa đổ xuống đè chết…”: Đau khổ và chết chóc không phải luôn luôn là sự trừng phạt của Thiên Chúa về tội lỗi của loài người, nhưng là cơ hội để mọi người duyệt xét lại bản thân và hồi tâm sám hối hầu tránh khỏi bị tiêu diệt sau này. Chính vì thế mà Đức Giêsu đã tuyên bố: “Nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy”.
– C 6-9: + Một cây vả trồng trong vườn nho: Theo Cựu ước, cây vả tượng trưng cho dânH Ítraen (x. Gr 24,2-10), và vườn nho cũng ám chỉ dân này (x. Is 5,1-7). + Đã ba năm nay tôi ra cây vả tìm trái mà không thấy: Ba năm tương ứng với thời gian giảng đạo của Đức Giêsu. Dân Ítraen được Người ưu tiên rao giảng Tin mừng Nước Trời, nhưng họ lại từ chối tiếp nhận vì không tin Người là Đấng Thiên Sai Mêsia. + Người làm vườn đáp: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái. Nếu không thì ông sẽ chặt nó đi”: Khác với Tin mừng Mátthêu (x. Mt 21,19) và Máccô (x. Mc 11,21), trong Tin mừng Luca số phận của cây vả được xử khoan dung hơn. Do lòng kiên nhẫn của chủ vườn là Thiên Chúa, và nhờ lời cầu bầu của người làm vườn là Đức Giêsu, mà cây nho không sinh trái là các tội nhân, có thêm thời gian để sám hối. Sau đó nếu họ vẫn cứng lòng không chịu hoán cải thì sẽ bị tiêu diệt.
II. SỐNG LỜI CHÚA
1) GIÁ TRỊ THỰC SỰ CỦA CÂY VĨ CẦM:
Trong một buổi bán đấu giá, người điều khiển chương trình cầm một cây vĩ cầm xấu xí đã bị nhiều vết nứt nẻ. Ông ta nghĩ cây vĩ cầm không mấy giá trị nên chẳng cần phí thời giờ sửa sọan cho cây đàn này làm chi. Ông giơ cây vĩ cầm cổ lên cho mọi người xem và rao bán: “Thưa quý vị, ai sẽ bắt đầu trả giá cho cây đàn này đây? Một đồng, hai đồng… Ai sẽ trả giá 3 đồng? À, một người đã trả ba đồng, rồi hai người trả ba đồng. Không còn ai nữa ư?”. Bỗng từ cuối phòng, một người đàn ông tóc hoa râm từ từ bước tới gần bục và cầm lấy cây đàn đang rao bán. Ông ta lau sơ bụi bặm bám trên chiếc đàn cũ kỹ và siết chặt lại các sợi dây đàn đã bị lỏng. Sau đó, ông tấu lên một khúc nhạc thật êm dịu và ngọt ngào. Tiếng đàn nghe du dương thánh thót giống như bài ca của các thiên thần trên trời. Sau khi ngưng đàn, mọi người hiện diện đều nồng nhiệt vỗ tay tán thưởng. Sau đó, người bán đấu giá tiếp tục hỏi: “Bây giờ tôi phải định giá lại cây vĩ cầm có âm thanh rất tuyệt vời này trị giá bao nhiêu cho xứng đây? Một ngàn… hai ngàn… Có ai chịu tăng lên ba ngàn không? À, một người chịu giá ba ngàn rồi. Hai người chịu giá ba ngàn. Và còn ai nữa không? Thôi, như vậy cây đàn dứt giá là ba ngàn đô-la! Lúc đó một bé gái ghé sát bên tai mẹ và hỏi: “Sao lạ vậy hả mẹ? Tại sao cây đàn kia lại đột nhiên tăng giá lên gấp cả ngàn lần như thế hả mẹ?” Bấy giờ bà mẹ mới ôn tồn giải thích cho con gái cưng như sau: “Chính nhờ đôi tay tài hoa của ông nhạc sĩ kia mà cây đàn đã tăng giá trị lên gấp cả ngàn lần đấy con ạ!”.
2) PHƯƠNG CÁCH CÁM DỖ KHÔN NGOAN NHẤT? :
Ngày nọ trong hỏa ngục ba con quỷ nhỏ cùng đến chào tướng quỷ là Xatan trước khi lên trần gian tập sự việc cám dỗ loài người phạm tội. Chúng lần lượt trình bày cho Xatan về mưu chước cám dỗ của mình để chủ tướng đánh giá.
Quỷ nhỏ thứ nhất nói: “Em sẽ bảo với con cái loài người rằng: Ngoài loài người ra không còn một thần minh nào khác, nên loài người cứ yên tâm sống mà không phải mất nhiều thời giờ đọc kinh thờ phượng Chúa”. Xatan liền trả lời rằng: “Nói như thế sẽ chẳng lừa được mấy người tin theo đâu, vì họ dư biết phải có ông Trời tạo dựng vạn vật muôn loài, sẽ ban thưởng cho kẻ lành và trừng phạt kẻ gian ác”.
Quỷ nhỏ thứ hai liền tiến lên trình bày về sách lược cám dỗ của mình: “Em sẽ rỉ tai người ta là không có hoả ngục gì đâu. Thiên Chúa là Đấng nhân hậu đầy tình yêu thương con cái loài người, nên Ngài không bao giờ tạo dựng nên hoả ngục để trừng phạt loài người !”. Nghe thế Xatan nói: “Khá khen cho nhà ngươi đã nghĩ ra một kế hoach tốt. Tuy nhiên, cách này cũng chỉ lừa được một ít người nhẹ dạ mà thôi, vì ai ai cũng đều biết rõ Thiên Chúa còn là Đấng Công minh vô cùng, sẽ ban thưởng hạnh phúc cho người ăn ngay ở lành, và trừng phạt kẻ ăn ở gian ác tùy theo công phúc đã làm nơi trần gian.
Quỷ nhỏ thứ ba tiến lại tâu với thủ lãnh Xatan: “Em sẽ nói với loài người rằng: Có Thiên Chúa, cũng có thiên đàng để thưởng kẻ lành và có hỏa ngục để phạt kẻ dữ. Tuy nhiên các ngươi không cần gì phải vội, vì còn lâu các người mới phải chết. Lúc còn sống hãy cứ ăn chơi cho thỏa thích đi, đợi đến khi sắp chết sẽ ăn năn sám hối cũng không muộn”. Nghe xong kế sách này, tướng quỷ Xatan liền đứng lên khen ngợi: “Hay lắm, với phương kế này thì chắc chắn nước hỏa ngục của chúng ta sẽ ngày càng lớn mạnh và sẽ có thêm nhiều kẻ gia nhập!!!”
3) GIÁ TRỊ CỦA VIỆC TĨNH TÂM:
Một hôm vị đạo sĩ già tập trung các học trò của ông trong một cái sân rộng trước căn nhà mình để dạy đạo. Ông ta lệnh cho gia nhân đặt một cái chậu đầy nước ở giữa sân. Khi mọi người đã tập trung, Ông đạo sĩ liền quậy nước trong chậu rồi yêu cầu học trò lần lượt đến nhìn mặt mình bên trong chậu nước. Sau đó, ông hỏi họ đã thấy gì trong chậu nước? Học trò liền đáp: “Thưa thầy, chúng con chỉ thấy lờ mờ khuôn mặt của chúng con ở trong đó”. Chờ một lát đến khi thau nước phẳng lặng, ông lại yêu cầu họ đến nhìn mặt mình trong chậu nước lần thứ hai và hỏi lại cũng một câu hỏi như trước. Học trò thi nhau trả lời: “Tất cả chúng con đều đã nhìn thấy rõ mặt mình ở trong chậu nước”. Vị đạo sỹ liền giải thích cho học trò như sau: “Chỉ khi nào nội tâm chúng con thật sự tĩnh lặng, thì chúng con mới thấy rõ con người của mình”.
Tĩnh tâm là đi vào sự thinh lặng nội tâm, là đặt mình trước mặt Chúa hầu có thể thấy rõ con người thật của mình. Chúng ta không thể nhận ra con người thật của chúng ta khi tâm hồn chúng ta đang bị giao động do những tiếng động ồn ào bên ngoài, sự lôi cuốn của lối sống hưởng thụ khoái lạc, những lo toan về cơm áo gạo tiền, những tính toán tham lam làm giàu bằng bất cứ giá nào… nên chúng ta không thể nhận biết rõ về con người thật của mình.
4) PHẢI SÁM HỐI TRƯỚC HẾT TỪ BẢN THÂN:
Một triết gia Ấn Độ khi về già đã chia sẻ kinh nghiệm sống với học trò như sau:
– Lúc còn trẻ, tôi là một người có đầu óc cách mạng. Lời cầu nguyện duy nhất mà bấy giờ tôi dâng lên Thượng Đế là: “Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để con đổi mới thế giới”.
– Đến tuổi trung niên, tôi đã nhận ra rằng, phân nửa cuộc đời của tôi đã trôi qua mà tôi chưa thay đổi được một người nào. Lúc đó, tôi đã cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa, xin ban cho con sức mạnh để biến đổi mọi người con gặp hằng ngày, nhất là những người thân trong gia đình ruột thịt của con. Và như vậy là con đã thỏa mãn rồi”.
– Nhưng giờ đây, đến khi tóc bạc răng long, số ngày tháng còn lại chỉ đếm trên đầu ngón tay, tôi mới nhận ra rằng, tôi là kẻ khờ dại nhất vì đã chẳng biến đổi được một ai cả. Tôi chỉ còn biết cầu nguyện với Thượng Đế như sau: “Lạy Chúa, xin ban cho con biến đổi chính bản thân con”. Giả như tôi đã biết cầu nguyện như trên ngay từ khi còn trẻ, thì tôi đã không bỏ phí mất quãng thời gian tươi đẹp nhất đời mình.
1) PHẢI CẤP THỜI SÁM HỐI:
– Nội dung Tin Mừng hôm nay: Khi nghe một người gian ác gặp nạn, chúng ta thường nói: “Ác giả ác báo”. Đúng là “gieo gió thì phải gặt bão”. Trong bài Tin Mừng hôm nay, những người đồng thời với Đức Giêsu cũng đã đồng quan điểm như thế khi kể cho Người nghe câu chuyện mới xảy ra về mấy người thuộc xứ Galilê khi đang dâng lễ trong Đền Thờ bị quan Philatô sai quân đến giết chết tại bàn thờ, làm cho máu của họ đổ ra hòa lẫn với máu các con vật họ vừa sát tế. Theo những người này thì chắc là mấy người Galilê kia đã ăn ở bất nhân thất đức nên mới bị chết thảm khốc như vậy khi đang dâng lễ trong Đền thờ. Đức Giêsu đã sửa sai quan niệm đó khi cho rằng: Không phải chỉ mấy người đó mới bị tiêu diệt, mà đây cũng là lời cảnh báo chung tất cả mọi người. Nếu không chịu hồi tâm sám hối cũng đều có thể bị tiêu diệt như thế. Sau đó, Đức Giêsu đã nêu ra dụ ngôn về một cây vả được trồng trong vườn nho, đã bị chủ vườn than phiền vì không sinh trái dù đã được chăm sóc vun trồng cẩn thận. Con số ba năm tương ứng với thời gian ba năm Đức Giêsu đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho dân Ítraen. Lẽ ra, cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đã giáng xuống những con người vô tín ương bướng kia rồi, giống như lời cảnh báo của Gioan Tẩy Giả: “Cái rìu đã đặt sẵn gốc cây, bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mt 3,10). Tuy nhiên, Thiên Chúa là Cha giàu lòng từ bi thương xót, vẫn luôn tỏ thái độ bao dung khi nghe lời cầu bầu của người làm vườn là Đức Giêsu, đã gia hạn cho họ thêm một năm để cấp thời hồi tâm sám hối và phát sinh hoa trái. Nếu không sinh trái tốt, năm tới số phận của họ là sẽ bị chặt đi để quăng vào lò lửa.
– Hãy sám hối để khỏi bị tiêu diệt: Có lẽ chúng ta hôm nay cũng giống như cây vả trong bài Tin Mừng: Chúng ta thường mải mê lo lắng việc kiếm cơm áo gạo tiền rồi lại tìm cách hưởng thụ… mà lơ là với việc bổn phận đôiú với Chúa và tha nhân. Nhiều tín hữu theo đạo nhiều năm mà lối sống vẫn đầy tính ích kỷ tự mãn gian tham… không những không tốt hơn mà có khi còn tệ hơn người lương. Họ đã không phát sinh hoa trái là các việc lành phù hợp với đức công bình bác ái và khiêm nhường phục vụ. Chúng ta cần phải cấp thời ăn năn sám hối trong Mùa Chay này nếu không muốn bị tiêu diệt.
2) PHẢI SÁM HỐI THẾ NÀO CHO ĐẸP LÒNG CHÚA ?:
– Tín thác vào tình thương tha thứ của Chúa: Sám hối không những là nhân biết mình tội lỗi yếu đuối để thành tâm sám hối, mà còn phải biết tin cậy vào tình thương cứu độ của Thiên Chúa, giống vua Đavít xưa như sau: Sau khi lỡ sa ngã phạm tội ngoại tình và mượn tay quân địch ngoài mặt trận gián tiếp giết chết tướng Urigia để chiếm đoạt vợ của ông này là nàng Bétsêva xinh đẹp, vua Đavít vẫn coi như không có gì xảy ra. Nhưng rồi, đến khi ngôn sứ Nathan được Đức Chúa sai đến tuyên sấm lời Chúa với nhà vua. Nathan đã kể lại câu chuyện về một nhà phú hộ đã đối xử bất công với người nghèo, vua Đavít đã xé áo mình ra biểu lộ sự tức giận và đòi phải tức khắc trừng trị tên nhà giàu gian ác bất công tàn nhẫn kia. Bấy giờ ngôn sứ Nathan đã chỉ thẳng vào mặt nhà vua mà nói: “Con người bất nhân thất đức đó chính là ngài”. Vua Đavít nghe vậy đã bừng tỉnh, ông nhận ra thân phận tội lỗi yếu hèn của mình và quyết tâm ăn năn sám hối tội lỗi quay về làm hòa với Đức Chúa. Về sau Đavít đã sáng tác nhiều bài thơ trong đó có Thánh Vinh 50 bày tỏ sự thành tâm sám hối của ông (x. II Sm 11,1 tt).
– Sám hối là sẵn sàng tha thứ anh em để xứng đáng được Chúa thứ tha: Chúng ta hôm nay cũng thường có lối hành xử không ý thức về các tội đã phạm, nhưng lại nhạy cảm sẵn sàng lên án tha nhân giống như vua Đavít xưa. Qua Lời Chúa hôm nay, Đức Giêsu mời gọi chúng ta hồi tâm sám hối, nhận ra mình cũng là tội nhân, rồi tin cậy phó thác vào lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa. Sau khi đã nhận được ơn tha thứ, chúng ta cũng phải biết thể hiện lòng khoan dung tha thứ những xúc phạm của kẻ khác đối với mình như trong dụ ngôn về tên được tha nợ đã không có lòng thương xót. Vua chủ nợ đã trách mắng tên đầy tớ như sau: “Hỡi tên đầy tớ bất lương! Ta đã tha bổng cho ngươi tất cả nợ nần chỉ vì ngươi đã nài xin ta. Sao ngươi không biết thương xót bạn ngươi như ta đã thương ngươi?” (Mt 18,32-33).
3) HÃY ĂN NĂN SÁM HỐI:
– Sám hối là thay đổi cách đánh giá về bản thân: Cần nghiêm khắc với bản thân và khoan dung với tha nhân. Hãy biết đấm ngực mình chứ đừng đấm ngực người khác để xứng đáng được Chúa tha thứ như trong kinh cáo mình: “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng…”. Muốn được sống và được hưởng hạnh phúc Nước Trời, mỗi người chúng ta phải biết dùng thời giờ và ân huệ Chúa ban để hồi tâm xét mình và ăn năn sám hối. Các tội lỗi chúng ta phạm chỉ là phần nổi của tảng băng chìm là các thói hư, giống như khối u ác tính cần được phát hiện sớm để loại trừ. Sám hối là cắt khối u ra để cứu toàn thân, vì nếu không, thì toàn thân sẽ phải chết. Con người phạm tội cũng giống như một ngôi nhà bị bén lửa, nếu không kịp thời khống chế, ngọn lửa lan nhanh và sẽ thiêu rụi cả ngôi nhà; Sám hối chính là dập tắt ngọn lửa để có thể cứu toàn bộ ngôi nhà khỏi bị cháy thiêu.
– Sống công bình bác ái mới là sám hối đích thực: Sự sám hối trở về không chỉ là hành vi đấm ngực ăn năn về các tội đã phạm mà còn phải sống theo lời Chúa: “Hãy sinh hoa kết trái xứng với lòng ăn năn thống hối”. Hoa trái của sự thánh thiện là các việc lành phúc đức, giữ sự công bằng bác ái, là sống yêu thương và phục vụ mọi người. Điều khó của hối nhân là phải phát sinh hoa trái tốt là các việc lành như: Gieo tình thương bằng nụ cười thân ái, quan tâm giúp đỡ phục vụ tha nhân, xoá bỏ những bất công và lòng thù hận tha nhân, suy bụng ta ra bụng người và thực hành cho tha nhân điều mình muốn họ làm cho mình như lời Chúa phán: “Anh em muốn người ta làm gì cho mình thì cũng hãy làm cho người ta như vậy” (Lc 6,31).
4) SÁM HỐI LÀ QUYẾT TÂM TRỞ NÊN NGƯỜI TỐT:
Hành trình Mùa Chay không chỉ nhằm dẫn chúng ta quay trở lại quá khứ để ăn năn khóc lóc tội lỗi mình hay đến toà giải tội xưng thú tội lỗi mình… nhưng còn muốn dẫn chúng ta đến cuộc sống mới tốt đẹp hơn. Mùa Chay phải trở thành mùa đổi mới cuộc sống và cải thiện môi trường chung quanh, là mùa nở hoa kết trái tình thương và thực thi các việc lành phúc đức… nếu không, chúng ta cũng sẽ bị tiêu diệt.
– Sám hối bao gồm cả những điều thiếu sót: Mỗi lần xét mình xưng tội, chúng ta thường chỉ xét những tội đã làm hại kẻ khác, mà quên không xét những tội đã bỏ qua không giúp đỡ tha nhân. Như cây vả trong bài Tin mừng hôm nay tuy không sinh hoa trái độc hại, cũng không trực tiếp làm hại chủ vườn… nhưng tội của nó là không chịu phát sinh hoa trái trong một thời gian lâu dài. Nhiều người chúng ta cũng vậy: Ta cảm thấy yên tâm khi thấy mình không cướp của giết người, không tà dâm ngoại tình, không dối trá lừa gạt ai… Nhưng ta lại quên không xét những tội khô khan nguội lạnh khi dự lễ đọc kinh; Tội không quan tâm làm việc tốt để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ anh em đồng lọai; Tội cố tình làm ngơ khi tha nhân đang cần sự trợ giúp; Tội không chịu làm lợi thêm nén bạc được Chúa trao (x. Mt 25,18); Tội không có lòng thương xót, không an ủi động viên và chia sẻ cơm áo giúp đỡ những người đói khát bệnh tật và đau khổ (x. Mt 25,42)… Chính khi không làm điều tốt cho tha nhân là chúng ta đã để cho sự gian ác có điều kiện hoành hành. Sống đạo không phải chỉ là siêng năng đến nhà thờ dự lễ đọc kinh và không xúc phạm đến tha nhân… nhưng còn là tích cực phát huy các điều thiện để giúp tha nhân được sống cuộc tốt đẹp hơn cả về vật chất cũng như tinh thần.
– Hãy hành động tích cực cụ thể để tỏ lòng sám hối: Câu chuyện sau đây cho thấy thế nào là ăn năn sám hối trong Mùa Chay này:
Một hôm, khi đi học về đến nhà, bé Tâm chạy ngay vào bếp rồi nũng nịu nói với mẹ rằng: “Mẹ ơi, con đói bụng quá !”. Mẹ ôn tồn nói với con: “Con hãy ráng chờ mẹ một chút sẽ có cơm ăn liền. Hôm nay mẹ đi làm về trễ nên bị trễ giờ nấu cơm”. Nhưng bé Tâm lại tỏ thái độ vùng vằng khó chịu với mẹ, rồi em bỏ lên lầu chơi, chờ đến khi mẹ gọi mới chịu xuống nhà ăn cơm. Sau khi ăn xong, mẹ mới ôn tồn nói với bé Tâm như sau: “Con năm nay đã lớn và học lên lớp năm rồi. Con phải có trách nhiệm giúp mẹ lo việc nhà mới phải. Khi đi học về, thấy mẹ làm cơm chưa xong lẽ ra con phải xuống phụ mẹ lo lặt rau, lau chùi chén đũa và dọn bàn ăn chứ. Con không được tỏ thái độ giận dỗi mẹ có được không con ?” Bé Tâm đã nhận ra thái độ giận mẹ khi nãy là không đúng làm cho mẹ buồn. Em tỏ ra hối hận thưa với mẹ rằng: “Thưa mẹ, con đã biết lỗi rồi. Từ nay con hứa sẽ quan tâm giúp đỡ mẹ và sẽ không làm gì khiến mẹ phải buồn lòng nữa”. Thế là mẹ liền ôm Tâm vào lòng và âu yếm nói: “Con ngoan của mẹ. Mẹ cảm thấy rất vui vì con đã biết lỗi và hy vọng từ nay con sẽ trở thành đứa con ngoan hiếu thảo của mẹ”.
Cũng vậy, trong Mùa Chay này, để xứng đáng được Chúa tha thứ tội lỗi, chúng ta hãy hồi tâm sám hối các tội đã phạm, hãy quan tâm tìm ra thói hư của mình và quyết tâm chừa bỏ bằng cách tập làm việc tốt đối nghich với thói hư. Mỗi tối sẽ dành ít phút xét mình về điều đã dốc quyết, ăn năn sám hối các lỗi mới phạm và xưng tội mỗi tháng để được ơn giao hòa với Chúa.
– LẠY CHÚA GIÊSU. Con thuờng hay đổ lỗi cho Thiên Chúa khi gặp phải thất bại: Khi bị mất mùa, con đổ lỗi tại Trời không ban cho mưa thuận gió hòa. Khi một người con đang ác cảm gặp phải tai ương hoạn nạn, con cho rằng họ bị Chúa phạt và họ bị như thế là đáng đời! Nhưng hôm nay nhờ Lời Chúa soi dẫn, con sẽ không dám tiếp tục hiểu một chiều như thế nữa. Trong thực tế, con thấy có nhiều người tốt lành thánh thiện nhưng vẫn gặp phải nhiều tai nạn rủi ro. Ngay chính Chúa vốn là Con Thiên Chúa, là Đấng thánh thiện vô cùng, thế mà Chúa cũng từng chịu bao đau thương và cuối cùng còn bị chết cách nhục nhã bất công trên cây thập giá.
– LẠY CHÚA. Xin cho con luôn nhận ra tình thương của Chúa trong mọi biến cố vui buồn của cuộc đời con. Con biết rằng: Sở dĩ Chúa để con phải chịu đau khổ là để con có dịp sám hối và lập công đền tội, hầu ngày một nên tốt hơn. Xin cho con dù gặp phải những điều trái ý, vẫn nhẫn nại chịu đựng để đền tội bản thân con và góp phần với Chúa đền tội cho tha nhân. Xin cho con luôn phó thác tương lai cuộc đời con trong tay Chúa quan phòng, vì biết rằng: Tất cả những điều may lành hay rủi ro xảy đến cho con, đều không ngoài thánh ý Chúa, được Chúa cho xảy ra để mưu ích cho phần rỗi đời đời của con.
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
Suy Niệm
Ðiều làm chúng ta khó sám hối
đó là cảm thấy mình ở trong tình trạng an toàn.
Ðức Giêsu nói về hai biến cố nóng hổi tính thời sự,
một do sự tàn ác của Philatô, một do tai nạn lao động.
Cả hai đều dẫn đến cái chết thảm khốc;
những người Galilê bị đổ máu ngay lúc dâng lễ ở Ðền Thờ,
mười tám người chết vì bị tháp Silôa đè bẹp.
Vào thời Ðức Giêsu, họ bị coi là kẻ có tội, bị Chúa phạt.
Những người khác dễ nghĩ mình vô tội, vì còn được bình yên.
Ðiều này đưa đến sự tự hào và an toàn giả tạo.
“Ðừng tưởng…”: Ðức Giêsu đưa ta ra khỏi ảo tưởng về mình.
Ngài nhắc mọi người sám hối vì biết ai nặng tội hơn ai.
Lúc còn được sống yên lành là lúc cần hoán cải.
Có thể đây là cơ hội cuối cùng, trước khi cái chết ập xuống.
Cây vả trong dụ ngôn cũng ở trong tình trạng an toàn.
Nó không cho trái độc, không làm hại nho, không phá cảnh quan.
Nó chỉ phạm một tội thôi: tội làm hại đất,
tội sử dụng đất màu mỡ mà không sinh trái.
Chúng ta có thể cảm thấy an toàn như cây vả cằn cỗi.
Tự hào vì mình không làm điều xấu, chẳng làm hại ai,
nhưng lại quên rằng mình đã phạm tội không làm điều tốt,
những điều tốt có thể làm được và phải làm.
Có bao nén bạc Chúa giao không được đầu tư (Mt 25,18),
bao người túng thiếu mà ta không giúp đỡ (Mt 25,42).
Khi không làm điều tốt cho đời, cho người,
ta tiếp thêm sức mạnh cho sự dữ tung hoành.
Sống đạo không phải chỉ là lo tránh tội,
mà còn là tích cực gieo rắc phát huy cái tốt.
Một Kitô hữu sống an phận, cằn cỗi là một phản chứng.
Thế giới cần những Kitô hữu dấn thân biết bao!
Dụ ngôn cây vả cho ta thấy khuôn mặt Thiên Chúa.
Chúa Cha là người chủ vườn kiên nhẫn: “Ðã ba năm nay…”
Ngài đã nuôi bao hy vọng: “Tôi ra tìm trái mà không thấy”.
Quyết định chặt cây chỉ đến sau những lần hụt hẫng.
Ngài chỉ phạt khi đã làm đủ cách để lay động tim ta.
Chúa Giêsu là người làm vườn kiên nhẫn không kém:
“Xin ông cứ để nó lại năm nay nữa”.
Ngài không ngừng ấp ủ chút hy vọng mong manh:
“Tôi sẽ vun xới, bón phân, may ra sang năm nó có trái”.
Nhưng đừng quên lời đe dọa cuối cùng:
“Nếu không ông chủ cứ chặt nó đi”.
Kiên nhẫn, hy vọng, chăm bón, nhưng cương quyết đòi hỏi:
đó là thái độ của Thiên Chúa đối với tội nhân.
Ðức Giêsu vừa thôi thúc chúng ta mau mau hoán cải,
vừa chấp nhận cho ta có thời gian trì hoãn.
Hoán cải là đón lấy những săn sóc tế nhị của Chúa,
là đừng để thui chột những ơn lành Ngài ban.
Mùa Chay không phải chỉ là để thú tội,
mà còn thú cả sự cằn cỗi, ì ạch của mình.
Ước gì cây đời của ta có nhiều trái hơn và ngọt hơn.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
xin dẫn con vào nhà của con,
căn nhà của trái tim,
căn nhà vừa quen vừa lạ.
Xin hãy cho con thấy
những phức tạp, rắc rối, những che đậy, giằng co,
những mâu thuẫn và vô lý nơi con.
Xin hãy cho con thấy
những nhỏ mọn, ích kỷ,
những yếu đuối, khô khan,
những cứng cỏi và tự ái nơi con.
Xin cho con ý thức
những lo âu, sợ hãi
đang đè nặng làm con ngột ngạt,
những nỗi đau thầm kín khiến đời con mất vui,
những vết thương không biết bao giờ lành,
những đổ vỡ khiến lòng con khép lại.
Lạy Chúa Giêsu,
xin giúp con dọn những bề bộn nơi tim con.
Xin biến đổi tim con, để nó trở nên đơn sơ hơn,
hồn nhiên hơn và tươi tắn hơn.
Ước gì con nhìn mọi sự, mọi người,
bằng trái tim bao dung của Chúa.
Và ước gì khi đã ra khỏi nỗi bận tâm về mình,
trái tim con được nhẹ nhàng hơn và tự do hơn
để yêu mến mọi người. Amen.
.
Dã Quỳ
Trong xã hội có người tốt lẫn kẻ xấu, người lương thiện cũng như kẻ bất lương. Người tốt kẻ xấu đều có chung một khuôn mặt người và chỉ khác nhau ở bản chất, ở tấm lòng và cái tâm. Qua cuộc đối thoại và dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay, Chúa cho chúng ta nhận ra lòng kiên nhẫn đầy xót thương của Thiên Chúa đối với con người và lòng hạn hẹp ích kỷ chỉ lo kết án của con người đối với nhau.
Thiên Chúa đã tạo dựng chúng ta theo hình ảnh của Ngài và giống Ngài. Chúa ở bên chúng ta và giúp chúng ta sống tốt lành. Nhưng nhiều khi chúng ta đã bị lôi kéo theo chiều hướng xấu. Thế nên, trong cuộc sống khi nhìn vào những biến cố hay tai nạn…, ta tiêu cực chỉ nhìn và phán đoán những nạn nhân ấy “ở ác nên gặp điều dữ…” Bởi trong ta thiếu tình yêu và lòng xót thương. Sự kiêu ngạo ngự trị trong ta nên mắt ta nhìn người chỉ thấy tội lỗi. Thế nhưng, Thiên Chúa, Đấng thánh thiện lại nhìn mọi sự việc và con người với cái nhìn vượt qua dáng vẻ bề ngoài.
Bản tính ” Nhẫn nại và xót thương” đã xâm chiếm toàn bộ ánh nhìn và hành động của Thiên Chúa. Người chỉ khoan dung, tha thứ và cảm thông với ngàn yếu đuối lỗi lầm của con người. Trong suốt dòng lịch sử cứu độ, Thiên Chúa nhân từ luôn nhẫn nại với dân của Ngài. Vì “Thiên Chúa là Đấng nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu ân nghĩa và thành tín.”( Xh 34,6) Thiên Chúa không muốn kẻ gian ác chết, nhưng một lòng muốn nó ăn năn sám hối để được cứu sống nên Ngài kiên nhẫn và nhân từ với tất cả tội nhân. Chính vì thế khi đến trần gian, Chúa Giêsu đã nói: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.”( Mt 9,13b)
Ghét tội chứ không ghét người có tội. Đó là điều Thiên Chúa muốn chúng ta sống. Chúa không muốn ta khinh ghét người tội lỗi nhưng là cảm thông và yêu thương. Bởi tất cả mọi người đều cần đến ơn tha thứ của Chúa, vì không ai là kẻ vô tội. Chúa đã luôn đi bước trước, kiên nhẫn chờ đợi và xót thương tha thứ cho ta mãi mãi. Vậy những gì Thiên Chúa đã ban cho chúng ta theo lòng nhân hậu của Người, ta cũng hãy trao lại cho những ai mắc lỗi với chúng ta. Ước gì mỗi người luôn biết rõ rằng chính mình là kẻ tội lỗi để biết sám hối và trở về với Chúa. Như vậy, khi ta đọc Kinh Lạy Cha “…Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” chúng ta sẽ không ngại ngùng và nghi ngờ, vì chúng ta đã đón nhận được lòng xót thương tha thứ của Thiên Chúa.
Mỗi người chúng ta hãy ý thức để tránh xét đoán và lên án tha nhân. Nhưng biết mình và biết khiêm nhường như lời Thánh Phaolô muốn nói với ta: “…Bởi vậy ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã.”( 1Cr 10,10-12) Vậy, hãy nhận biết những yếu đuối của chúng ta và cầu xin Chúa giúp ta cố gắng sửa đổi lối sống. Như vậy, những sự bất lực của chúng ta cũng có thể dẫn chúng ta đến với Thiên Chúa và gắn bó với Người hơn. Thật khó để ta có thể đứng vững trong tình trạng cố định, nhưng phúc cho ta là có Thiên Chúa luôn trợ giúp nên ta không sợ hãi bước đi trên hành trình mà Ngài muốn dẫn chúng ta tới cuộc sống tràn đầy hạnh phúc. Vậy hãy tin tưởng vào Ngài. Và nếu chúng ta có làm được điều gì tốt như hoa trái của đức ái, thì đó là chính Thiên Chúa ở trong ta, Người ban ơn, hướng dẫn giúp ta làm mọi sự với lòng thương xót của Người, như lời thánh Phaolô khẳng định ” Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh? Nếu đã nhận lãnh, tại sao lại vênh vang như thể đã không nhận lãnh?”(1Cr 4,7) Chúng ta chỉ là những dụng cụ nhỏ bé yếu hèn trong bàn tay Chúa và qua Chúa, nhờ Chúa mà ta sinh hoa kết trái.
Lạy Chúa Giêsu, tạ ơn Chúa về tấm lòng bao dung, nhẫn nại đầy xót thương mà Chúa dành cho chúng con. Không có Chúa, chúng con không thể sống và làm gì được. Xin cho chúng con luôn biết sám hối trở về với Chúa, đón nhận được lòng xót thương tha thứ và những ơn phúc từ Chúa để cuộc sống chúng con trổ sinh nhiều hoa trái. Amen.
.
Huệ Minh
Cha ông chúng ta vẫn khuyên dạy con cháu: “gieo gió gặt bão”, “đời cha ăn mặn, đời con khát nước”… Và trong Thánh Kinh, các câu chuyện như lụt Hồng Thuỷ, thành Sôđôma bị tàn phá,v.v… cũng thường được giải thích theo quan niệm báo ứng ấy.
Không lạ gì người Do Thái thời Chúa Giê-su, cũng như chúng ta ngày nay, thích áp dụng nguyên tắc nhân quả “ác giả ác báo” nhưng là áp dụng cho người khác! Trước hai tai hoạ xảy ra gây chết nhiều người, họ kết luận ngay rằng những nạn nhân “tội lỗi hơn mọi người khác” nên mới bị thảm hoạ như vậy.
Đành rằng, nếu gieo gió thì có thể sẽ gặt bão, song Chúa Giêsu khuyên mỗi người không nên hồ đồ xét đoán người khác, nhưng hãy xem các biến cố đó là cơ hội giúp ta xét lại chính mình mà trở về với nẻo chính đường ngay. Vì chỉ Thiên Chúa mới có quyền phán xét chung cuộc trên mọi người.
Trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định một cách quyết liệt về sự cần thiết phải sám hối, phải cải thiện đời sống, bằng không, “tất cả chúng ta sẽ bị huỷ diệt”. Chúa Giêsu lặp đi lặp lại câu đáng sợ: “tất cả sẽ bị huỷ diệt” (Lc 13, 3.5).
Lý do mà Chúa Giêsu nhấn mạnh về sự sám hối, ăn năn chừa tội, canh tân đời sống, vì đó là bước đầu tiên, bước không thể thiếu, để chúng ta có thể đến gần Thiên Chúa, Đấng Thánh Khiết Tuyệt Đối. Chúa muốn đưa toàn nhân loại vào vương quốc Thánh Thiện, yêu thương của Ngài, để chúng ta trở thành “Dân Thánh, dân đặctuyển” của Ngài, nên Chúa muốn chúng ta cải thiện đời sống, xa bỏ đường lối gian tà, tội lỗi.
Chính vì thế, mở đầu bài Tin Mừng hôm nay, khi “có người thuật lại cho Chúa Giêsu về một tin giật gân: Philatô giết mấy người Galilê, làm cho máu họ hoà lẫn với máu của các vật sát tế” thì Chúa Giêsu đã nhân cơ hội này, dạy cho toàn dân việc tối quan trọng là tất cả phải sám hối nếu không thì tất cả sẽ bị huỷ diệt.
Theo lịch sử nước Do Thái, thì 20 năm trước khi biến cố trên xảy ra, thì có người thuộc phe vua Hêrôđê đứng lên xúi giục dân Galilê làm loạn, không nộp thuế cho đế quốc Rôma nữa, và có nhiều người hùa theo. (Cv 3, 7).
Chính vì vậy, Hêrôđê và Philatô hiềm khích với nhau. Tuy nhiên, dù theo phe Vua Hêrôđê, thì những người đó vẫn phải đến Giêrusalem để thờ phượng Giavê Thiên Chúa như luật dạy, hơn nữa, họ nghĩ rằng, nơi Thành Thánh uy nghiêm như thế, nơi pháo đài an toàn thì Philatô chẳng dám xông vào hành hung. Thế nhưng, lần này, Philatô ra lệnh tàn sát mấy người thuộc phe Hêrôđê ngay tại nơi hiến tế chiên bò, làm cho máu những người đó hoà lẫn máu của các vật sát tế.
Những người này nghĩ rằng: Chúa Giêsu là Vị Thầy, Một Ngôn Sứ cao cả, Ngài sẽ về phe dân tộc và đạo giáo để bênh vực, và Ngài sẽ có cách trả thù cho những người dân vì yêu nước mà phải chịu tàn sát như thế.
Tuy nhiên, Chúa Giêsu không thuộc phe phái nào, Ngài đứng trên mọi phe phái chính trị, mục đích của Ngài gíang thế là cốt để cứu vớt sinh linh thoát vòng tội lỗi mà thôi! Chính vì thế, khi nghe tin ấy, Chúa bảo họ rằng: “Các ngươi tưởng rằng mấy người xứ Galilêa bị ngược đãi như vậy là những người tội lỗi hơn tất cả những người khác ở Galilêa ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế! Nhưng nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy” (Lc 13,3).
Cũng vậy, 18 người ở Giêrusalem bị tháp Silôê đổ xuống đè chết, Chúa bảo dân chúng rằng: “Các ngươi tưởng họ tội lỗi hơn những người ở Giêrusalem ư? Không phải thế! Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy” (Lc 13,5). 18 người này là những người đang chờ ở bờ hồ Silôê, mong được chữa lành bệnh, thình lình bị tháp sụp đổ đè chết!
Cả 2 biến cố đau thương tuy lấy đi mạng sống của con người, nhưng đó chỉ là sự mất mát, khổ đau cho thân xác, không thể so sánh với sự trầm luân đời đời của linh hồn nếu không sám hối, không cải thiện đời sống!
Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta: Đừng bao giờ xét đoán tội lỗi của một người qua các thảm cảnh hay tai nạn họ phải chịu. “Đừng xét đoán kẻo sẽ bị xét đoán” (Mt 7, 1) Chúa muốn nhắn nhủ mỗi người chúng ta rằng: Mỗi khi thấy các tai họa xẩy ra cho những người chung quanh, chúng ta hãy tự xét mình, để tránh những thảmhọa ghê gớm hơn, nếu không sámhối, canh tân đời sống để trở về với Thiên Chúa! Đó mới là tai hoạ thảm khốc nhất, là sự huỷ diệt kinh khủng cho linh hồn mãi mãi! Thành tâm sám hối, cải thiện đời sống là phương cách duy nhất có thể tránh thoát cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, tránh thoát phép công thẳng của Ngài.
Do đó, không bao giờ có ngoại lệ, chỉ trừ Đức Maria, hoàn toàn tinh vẹn, thì tất cả nhân loại, tất cả chúng ta, ai cũng cần phải cải thiện đời sống, nếu không, sẽ chắc chắn bị huỷ diệt, huỷ diệt đời đời! Đây là lời cảnh cáo nghiêm trọng của Thiên Chúa : Không sám hối sẽ bị huỷ diệt! Những người bị tai hoạ kia chỉ bị tàn sát, bị chết về thân xác, nhưng ai không sám hối, sẽ bị đày đọa mãi mãi về linh hồn và cả thân xác bên kia thế giới!
“Sám hối” là từ thường gặp trong Thánh Kinh, nó được kêu gọi bởi Gioan Tẩy Giả, Chúa Giêsu, các tông đồ và hôm nay luôn được lặp lại nơi sứ điệp của Giáo Hội. Bởi sám hối là động thái tiên quyết để đón nhận ơn cứu độ. Còn sống là còn cơ hội để sám hối! Nếu không tận dụng tốt cơ hội Chúa ban thì Ngài sẽ cất đi như cây vả không chịu sinh trái (x. Lc 13,6-9).
Sự sám hối trở về không chỉ là hành vi đấm ngực ăn năn mà còn phải chuyển hoá như ý nghĩa cua Métanoia, trong lời mời gọi của Chúa: “Hãy sinh hoa kết trái xứng với lòng ăn năn thống hối”. Chúa Giêsu dùng dụ ngôn cây vả truyền cho chúng ta biến đổi sinh hoa kết trái.
Thiên Chúa luôn nuôi hy vọng và chờ đợi ở nơi chúng ta trong kiếp người dù ở thân phận nào, kể cả tội nhân khi sám hối và đơm bông kết trái: Hoa trái của sự thánh thiện. Hoa trái của việc lành phúc đức. Hoa trái của đời sống công bằng bác ái. Hoa trái của đời sống yêu thương và phục vụ mọi người.
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn