Các bài suy niệm Chúa Nhật 4 Mùa Chay.

Thứ bảy - 26/03/2022 05:47

CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY. NĂM C_2022

 

Lời Chúa:  Gs 5,9a.10-12; 2Cr 5,17-21; Lc 15,1-3.11-32

——-

Mục lục

1. Mất và tìm thấy  (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Tình là thế  (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)

3. Trở về  (Lm. Thái Nguyên)

4. Niềm vui được hòa giải (Jorathe Nắng Tím)

5. Tin lòng Cha bao dung (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)

6. Chiến tranh và hòa bình (Giuse Trần Văn Ngữ, SJ)

7. Lòng Cha  (Bông Hồng Nhỏ, Học viện MTG.Thủ Đức)

8. Người Cha nhân hậu (Thiên San,  Học viện MTG.Thủ Đức)

9. Tình Cha  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

10. Vào hay không vào (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

11. Sống Chúa Nhật Hồng, Đời ta cũng Hồng (Lm. Bosco Dương Trung Tín)

12. Thâm trầm tình phụ tử (Trầm Thiên Thu)

 

MẤT VÀ TÌM THẤY

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Để hiểu rõ dụ ngôn “Người cha nhân hậu” được đọc trong Chúa nhật IV Mùa Chay, cần liên kết với hai dụ ngôn khác cùng được ghi lại ở chương 15 của Tin Mừng theo thánh Luca, tức là dụ ngôn con chiên lạc và dụ ngôn đồng bạc của bà goá bị mất. Cả ba dụ ngôn này đều có một điểm chung. Đó là mất và tìm thấy. Con chiên, đồng bạc và người con thứ, cả ba đều bị mất và đã được tìm thấy. Ba hình ảnh này diễn tả ba lãnh vực: đồ vật, sinh vật và con người. Đối với Thiên Chúa, mọi sự đều quý giá và được Ngài yêu thương.

Dụ ngôn “Người cha nhân hậu” là một trong những áng văn chương tuyệt vời của Kinh Thánh. Nó diễn tả thân phận nghèo hèn tột cùng của tội nhân. Hơn thế nữa, nó diễn tả gương mặt nhân hậu giàu lòng bao dung thương xót của Thiên Chúa. Khi người con thứ hối hận trở về, đó không chỉ là một con người trở lại, mà còn tình yêu đã đánh mất cũng được hồi phục, mối liên hệ thân tình cha – con được tái lập. Tình thương của Thiên Chúa mênh mông và toả sáng, mỗi khi tội nhân sám hối quay về. Niềm vui vỡ oà, khi con người sám hối ăn năn. Thiên đàng sẽ tràn ngập niềm vui. Thiên Chúa thết tiệc để đón những người trở về.

“Khi nó còn ở đàng xa, người cha đã thấy và chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để”. Không còn từ nào hay hơn để diễn tả tâm trạng một người cha đã nhiều năm trông ngóng con trở về, dù đó lại là một đứa bất hiếu bỏ nhà ra đi. Người cha này cũng tôn trọng tự do của con, khi nó đòi chia gia tài để đi làm ăn với nhiều tham vọng và ảo tưởng hão huyền. Giờ đây, khi nó trở về với thân xác tàn tạ, cũng người cha ấy lại đón chào với tình thương còn lớn hơn lúc nó bỏ nhà đi hoang.

Khi nghĩ mình đã đủ lông đủ cánh để bay vào đời, người con thứ muốn ra đi, vì nó nghĩ cha và anh sẽ là những chướng ngại cho hành trình vào đời. Sau những tháng năm xa nhà, bôn ba bon chen giữa chợ đời, thực tế làm anh ta mở mắt. Cuộc đời không phải lúc nào cũng màu hồng. Lương tâm đã làm anh tỉnh ngộ. Dẫu biết rằng cuộc trở về sẽ gặp rất nhiều trở ngại và lời đàm tiếu của hàng xóm láng giềng, anh ta vẫn quyết định lên đường. Thiên Chúa là người Cha. Ngài luôn muốn chia sẻ cho chúng ta hạnh phúc và niềm vui của Ngài. Chúng ta nhiều khi lại không nghĩ thế, vì cho rằng Ngài kiểm soát và ràng buộc chúng ta. Nhiều người đã muốn bứt mình ra khỏi vòng tay yêu thương của Chúa, nghĩ rằng không có Chúa sẽ thoải mái và sung sướng hơn. Hơn một lần cuộc đời nghiệt ngã đã làm chúng ta vỡ mộng.

Câu chuyện dụ ngôn tạo nên những tình huống đối lập, để cho thấy những bất hạnh của con người khi họ muốn xa lìa Thiên Chúa. Người con thứ vội vàng thu góp tất cả tài sản được chia rồi trảy đi phương xa, sống phóng đãng phung phí tài sản của mình. Anh không sai khi nghĩ rằng anh có quyền sử dụng tài sản được chia. Nhưng nghĩ rằng anh thực sự hạnh phúc khi tự do, thì đó lại là một ảo tưởng hão huyền. Và, kết quả hoàn toàn khác: anh sa cơ lỡ vận đến nỗi muốn xin đậu muồng là thứ người ta dùng để nuôi heo cũng chẳng ai cho.

“Biết bao người làm công cho cha ta…”. Người con hoang đàng hồi tưởng về tuổi thơ của mình. Nhà cha đâu có thiếu thốn. Đó là anh tự bỏ nhà ra đi với những ảo tưởng tham vọng. Khi trở về trong tâm tình Mùa Chay, chúng ta nhớ lại những điều tốt đẹp Chúa đã làm cho mình, đồng thời nhận ra những vô ơn, bất kính đối với Chúa, qua lời nói, tư tưởng và việc làm của chúng ta: tại sao Chúa tốt với tôi như thế, mà tôi lại không vâng lời Ngài?

Trở về là một quyết tâm. Trở về cũng đòi can đảm mạnh mẽ, để dứt mình ra khỏi mọi ràng buộc và mặc cảm đang tìm cách níu kéo chúng ta. Quyết định trở về là chiến thắng bản thân, để thoát ra khỏi bóng tối, vươn mình ra ánh sáng, với xác tín Chúa đang chờ đợi và Ngài sẵn sàng giang rộng vòng tay để ôm lấy chúng ta.

Người Do thái, sau 40 năm hành trình sa mạc đã đến đất hứa. Họ đã trở về nơi mà Chúa hứa cho cha ông họ. Về đất hứa là chấm dứt cảnh tha hương để từ nay định cư bền vững. Mọi cuộc trở về đều có một đích điểm, đó là quê hương, là về với gia đình.

Thánh Phaolô năn nỉ chúng ta: “Nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hoà với Thiên Chúa!”. Mỗi người trong chúng ta hãy tự vấn lương tâm: tôi là người con cả hay người con thứ trong câu chuyện cuộc đời? Người cha trong câu chuyện dụ ngôn một lúc mất cả hai người con: đứa thì bỏ nhà đi hoang, đứa thì sống với cha mà lòng nó xa lắc xa lơ, đầy ghen tỵ, bon chen tính toán. Là người con nào, chúng ta cũng phải trở về để đón nhận ơn tha thứ của Chúa, cùng với niềm vui và an bình. Khi trở về, chúng ta như đã bị lạc mất và nay được Chúa tìm thấy chúng ta.

Về mục lục

TÌNH LÀ THẾ

Lm. Jos DĐH.

Làm sao cắt nghĩa được tình yêu, có nghĩa gì đâu một buổi chiều … ! Loáng thoáng tựa vần thơ, là một câu hỏi cũng đúng, “Xuân Diệu” thật tài tình, khi ông đặt để những cảm xúc cháy bỏng vào lòng người, quả là tinh vi: nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt, bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu … Tình quê hương, tình gia đình xã hội, tình đôi lứa, thật tuyệt vời, ai cũng có tự do trải nghiệm, dẫu rằng cái đẹp, và niềm lâng lâng hạnh phúc nơi tâm tư mỗi người, mỗi hoàn cảnh không giống nhau. Thật khó hiểu hoặc bất công vô lý, thì đúng hơn, tại sao lại nói: mồ côi mẹ liếm lá gặp xương. Trong khi mọi người vẫn hiểu, thiếu tình cha, con cháu sẽ gặp nhiều nguy hiểm: con không cha như nhà không nóc. Nếu quy trách nhiệm con hư hỏng hay bất trị, là do bậc làm cha làm mẹ chưa quan tâm chăm sóc giáo dục, chưa sống gương sáng đức tin cho con cháu, chưa giúp chúng hiểu đâu là tình là lý, có thể không quá đáng.

Để hướng tới một gia đình hạnh phúc, Chúa Giêsu mở ra tầm nhìn mới, bừng lên trong tâm trí người ta sự tê tái, rung rinh, trước dụ ngôn: “người cha nhân hậu”. “Tình là thế”, cái tình, cao hơn cái lý, dụ ngôn không có ý minh định đúng, sai, không phá hỏng nề nếp gia phong của gia đình, xã hội, nhưng làm sáng rõ tấm lòng bao dung nơi cha già. Người con thứ tự tin, xin cha chia gia tài rồi đi xa, cha không ngăn cản khi con thứ đòi quyền được sống tự do, người anh cả, chăm chỉ làm việc, không có dấu hiệu gì đáng trách cả. Tình và lý, theo cách nói các chuyên gia: muốn thành công ở đời này, phải biết cách ứng xử với mọi người và mọi chuyện. Tình và lý hiểu theo quan niệm giầu kiến thức lắm kinh nghiệm: sống trên đời, người khôn ngoan đều phải hiểu rằng, làm người nên biết điểm dừng, biết mềm nắn rắn buông.

Yêu và được yêu, cho và nhận, không tính toán hơn thiệt, tạm hiểu, giây phút đó người ta đủ vui để cảm nhận: tài được sử dụng, tình được hả hê. Ai cũng có quyền tận hưởng hạnh phúc khi sống nơi trần thế này, cha mẹ yêu thương con, nhưng chúng có hiểu, có nhận ra chúng được yêu, hay chúng đang bị mất tự do ? Người xưa nói rằng: nước mắt tuôn chảy từ trái tim chứ không phải trí não, tình yêu thương đến từ lý trí mới thực sự giá trị. Cha già không sai gia nhân đi tìm con, không có nghĩa là ông không thương con, hay bất cần đứa con hư hỏng. Lời nhắc nhớ: té ngã phải biết đứng dạy, lỗi tội, rất cần được thứ tha, nhưng trước hết phải biết hối lỗi, quay trở về với tình yêu thương. Khổ đau, bất hạnh, tội lỗi đáng chết, vẫn có thuốc chữa trị, nếu người ta thật tình ăn năn sám hối, làm mới lại cuộc đời.

“Chúa nhật mầu”, mầu yêu thương, chúng ta được mời gọi đọc và suy gẫm về dụ ngôn “người cha nhân hậu”, qua đó ta sớm nhận biết vị trí của mình là con trưởng hay con thứ, trong gia đình nhân loại hôm nay. Có phải người cha trong dụ ngôn vẫn đang âm thầm cầu nguyện, dang rộng vòng tay yêu thương: tha thứ, khích lệ, xỏ nhẫn, mang giầy mới, làm thịt bê béo ăn mừng ? Xuân Diệu nói: Đố ai sống được mà không yêu, không nhớ không thương một kẻ nào ? Cha ông chúng ta thì nói: Đố ai đếm được vì sao, đố ai đếm được công lao sinh thành. Tình là thế, cuộc đời có vui buồn, có thành công thất bại: chỉ có tình yêu là vĩnh viễn, chỉ có cha mẹ là yêu con vô điều kiện, cả thế giới này, phải có điều kiện họ mới yêu con. Tình là thế, ai qua sông kẻ ấy phải luỵ đò, áo mặc sao qua khỏi đầu, tính chất đẹp của người cha trong dụ ngôn hôm nay là thật lòng yêu thương, cha già đã thu phục được cả hai con.

Công bằng của xã hội từ xa xưa là thưởng kẻ có công và luận phạt kẻ có tội, công bằng mà chúa nhật mầu hồng muốn nói hôm nay: hãy yêu thương, “hãy mở tiệc ăn mừng, vì con ta đây đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”. Tình là thế: con đi hoang, con chăm chỉ, cũng là con, bậc sinh thành có chậm, có cù lần, các ngài vẫn là cha là mẹ, đạo làm người, đạo làm con Chúa, không thể tồn tại nếu ai đó làm phai mờ đức yêu thương. Giai đoạn khó khăn nhất trong cuộc đời mỗi người là khác nhau, có thể ta sẽ hét lên tại sao không ai hiểu tôi, thực ra, bạn phải đấm ngực mà nói, tại sao tôi lại mẫu thuẫn với chính mình về tình yêu thương ? Hai người con, họ chỉ hiểu tâm tính họ thật xấu xa, khi đã nghe cha nói lời yêu chân tình: “mọi sự của cha là của con, nhưng phải ăn mừng vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay tìm thấy”.

Tình là thế, cuộc đời mỗi người dài ngắn không phải là vấn đề, quan trọng là chúng ta đã học, đã đọc được gì, và đang sống thế nào với số vốn mình có ? Người thành công không phải là không có thất bại, thành công, hạnh phúc, ở chỗ ta biết đứng dạy sau lần vấp ngã. Không gian tham cờ bạc rượu chè, hút sách, cũng chưa ai gọi bạn là thánh. Chẳng ai vội khắt khe gọi bạn là quỷ ma, khi bạn không đến nhà thờ cầu nguyện. Kinh nghiệm trường đời vẫn cho ta một sự thật: người thành công, chẳng ai tính ở điểm xuất phát, nhưng sẽ thắng ở bước ngoặt cuộc đời. Phong độ nhất thời, đẳng cấp là mãi mãi, nhưng tình yêu mới là thực sự trường tồn, vì trong yêu thương, có quảng đại tha thứ, có sám hối ăn năn, có Thiên Chúa là Đấng giầu lòng thương xót. Amen.

Về mục lục

TRỞ VỀ

Lm. Thái Nguyên

Suy niệm

Những người biệt phái và kinh sư vẫn coi khinh những người thu thuế và tội lỗi, khi thấy Chúa Giêsu lui tới với những hạng người đó thì họ xầm xì khó chịu. Trước cái nhìn ngặt nghèo của nhóm biệt phái và luật sĩ, Chúa Giêsu nêu lên dụ ngôn Thiên Chúa như “Người cha nhân hậu”. Đó là người cha chấp nhận chia gia tài để người con thứ ra đi, dù biết nó sẽ rơi vào cảnh sa đà, trụy lạc, nhưng tin nó sẽ quay về sau khi vỡ mộng. Thế nên người cha từng ngày mong nó sẽ trở về, và chuẩn bị mọi thứ để đón rước. Thông thường, cha mẹ chỉ chuẩn bị đón rước và ăn mừng đứa con sắp thành tài, sắp thăng quan tiến chức; chứ ai lại mừng cho một thằng nghịch tử; một đứa con bất hiếu bao giờ!

Đúng như người cha dự đoán, sau một thời gian “sống phóng đãng, phung phí hết tài sản”, rơi vào cảnh cùng cực, người con đã hồi tâm chuyển ý, thấy mình quá đắc tội với cha nên đã quay về. Tưởng đâu cha sẽ trách mắng, nghiêm phạt, ai ngờ khi vừa thấy bóng dáng con từ xa, thì ông động lòng thương, chạy ra ôm chầm lấy anh và hôn lấy hôn để. Lòng yêu thương và chờ đợi từng ngày khiến ông quên hết lỗi lầm của đứa con hoang đàng. Ông thật là một người cha phung phí vì đã chia gia tài cho một đứa con còn non lòng trẻ dạ. Và giờ đây ông lại đem áo mới, giầy mới, nhẫn vàng cho con. Hơn nữa còn vui mừng mở tiệc liên hoan, đàn ca múa hát để ăn mừng. Một cuộc đón tiếp quá nồng hậu, ngoài sức tưởng tượng của mọi người. Ông đã phung phí tình yêu thương cách quá độ đến mức vô lý. Đúng là “Con tim có những lý lẽ của nó mà lý trí không hề biết đến.” (Pascal).

Người anh cả đi làm về thấy cảnh tượng như vậy liền nổi giận, không chịu vào nhà, nặng lời trách móc cha già, vì hành xử như vậy là bất công với anh ta. Anh cho cha thấy bao nhiêu công lao của mình đối với cha mà chưa từng được khen thưởng, đang khi “thằng con của cha đó”, nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về thì lại ăn mừng. Anh không thể vui với cha, nên càng không thể vui với em. Anh tức giận vì thấy quyền lợi mình bị xâm phạm. Anh đối chọi với cha và không muốn vào nhà để gặp em. Anh nghĩ cha đã sai lầm khi thưởng kẻ đáng phạt mà không thưởng người đáng công.

Người cha phải ra tận cổng phân trần và năn nỉ anh ta vào nhà chung vui với ông “vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”. Nhưng xem ra người anh không chấp nhận cho em trở về, vì sợ chiếm mất những gì thuộc về mình. Người cha đã khẳng định với cậu rằng: “Tất cả những gì của cha đều là của con” (Lc 13,31). Hoá ra cả hai người con khác nhau về cách sống bên ngoài nhưng lại rất giống nhau về tâm thế bên trong, vì cả hai đều ở ngoài trái tim của cha, người con thứ vô tình, mà người con cả cũng vô tâm, không cảm nhận được tình yêu thương của cha mà chỉ muốn sống thỏa mãn theo ý riêng mình. Cả hai đều có lối sống như người làm công chứ không phải làm con. Người anh xem ra còn nặng tội hơn em, vì không chấp nhận cha mà cũng không chấp nhận em. Người anh cả phải chăng đại diện cho nhóm Pharisêu và các kinh sư, luôn tự hào về đời sống đạo đức của mình, và muốn cho những kẻ tội lỗi phải chết hơn là được cứu chữa.

Người cha có hai đứa con thật éo le. Người con thứ có vẻ như tượng trưng cho lối sống của những kẻ đang chạy theo của cải vật chất, đang tôn thờ ngẫu tượng, suy tôn vị lãnh tụ lên làm Chúa. Đó cũng là những người đang mất dần đức tin, không còn sống hiệp thông trong Giáo hội; là những người trẻ bỏ gia đình đi bụi đời; là những thanh niên đang chạy theo tiền tài danh vọng; là những thiếu niên đang nghiện ngập và lo tìm thỏa mãn đam mê dục vọng.

Phải chăng người anh cả tượng trưng cho những người giữ đạo để cho mình được an thân yên vị, chứ không vì tình yêu mến. Không có tình yêu với Chúa nên cũng chẳng có tình yêu với nhau, nên không gần gũi, không thân thiện, không chia sẻ, không cảm thông, và càng không muốn tha thứ. Người con cả phải chăng là những tín hữu xưng mình là đạo dòng nhưng lại lười biếng, tự ái, kiêu căng, ích kỷ?

Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Ngài yêu chúng ta bằng một thứ tình yêu mà lý trí không tài nào hiểu được. Hãy để cho tim mình ra mềm mại và tan chảy trước tình yêu cao siêu đó. Hãy vào hưởng niềm vui của một đứa con hiếu thảo với Cha và đầy tình huynh đệ với nhau.

Cầu nguyện

Lạy Cha là Thiên Chúa tình yêu!
dù con đã bao lần sa lạc và lầm lỡ,
nhưng Cha vẫn luôn nâng đỡ thứ tha,
con cảm thấy bước chân Cha vội vã,
khi ra đón đứa con sa ngã trở về.

Cha chẳng nề khi thân con ô uế,
giang tay ôm ấp với tình thương tràn trề,
vẫn như thuở đầu con từng được yêu quí,
nhưng vì bất hiếu con đã bỏ ra đi.

Cha chẳng chấp tội nặng con đã phạm,
mà lại vui làm tiệc đám linh đình,
để cho thấy vẫn một tình cha con,
chẳng có gì làm sứt mẻ hao mòn.

Tình thương Cha chẳng thể nào sánh ví,
thế mà lại có những lần con ganh tị,
khi có người trong sa lạc trở về,
con lại tìm mọi cách để khinh chê,
không đón nhận vì sợ mình lép vế.

Con quên rằng tình Cha luôn thi thố,
mỗi người có một chỗ trong tim Cha,
Cha yêu con chỉ vì con là con,
cho dù con ngoan hiền hay hư hỏng.

Xem ra con cũng như người anh cả,
ở trong nhà nhưng tấm lòng lạc xa,
chưa hiểu nổi mối tình Cha sâu thẳm,
mà chỉ nhắm tới công bằng và hợp lý,
không biết cho đi và bao dung nhân hậu,
đúng là bản thân con vẫn còn thô lậu.

Xin cho con một trái tim cháy sáng,
để biết sống tình yêu Cha vô hạn,
một trái tim tha thứ rất dịu dàng.
một cách ứng xử nhẹ nhàng và thanh thoát,
để tạo an bình và hạnh phúc hòa chan. Amen.

Về mục lục

NIỀM VUI ĐƯỢC HÒA GIẢI

Jorathe Nắng Tím

Không gì vui bằng niềm vui của tâm hồn thống hối được hòa giải với Thiên Chúa khi rời toà giải tội, niềm vui của “tay bắt mặt mừng” được hòa giải với anh em sau tháng năm dài lãnh đạm, lạnh lùng, không một lời thăm hỏi, chia sẻ, hiệp thông, và niềm vui của trái tim không còn u uất hằn học, cay đắng nguyền rủa, lên án chính mình.

Các bài đọc của chúa nhật giữa Mùa Chay hướng chúng ta về niềm vui này, niềm vui “thế gian được hòa giải với Thiên Chúa” nhờ sự chết và sống lại của Đức Giêsu Kitô, vì Thiên Chúa “không còn chấp tội nhân loại nữa” (2 Cr 5, 19), niềm vui mọi người được hòa giải với nhau “nhân danh Đức Giêsu”, vì “Đấng chẳng hề biết tội lỗi là gì” đã tự nguyện biến thành “hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người.” (2 Cr 5, 21).

Và qua dụ ngôn “người cha nhân hậu” trong Tin Mừng Luca (x. Lc 15, 11-32), Đức Giêsu đã chứng thực đây là niềm vui lớn không gì có thể so sánh, vì là niềm vui của Thiên Chúa, niềm vui từ trái tim Thiên Chúa là người cha nhân hậu tuôn chảy chan hòa vào quả tim của người con hoang đàng thống hối trở về.

Thực vậy, không chỉ người con thứ chết lặng vì vui, không nói lên lời vì mừng, khi toàn bộ kế họach, dự tính đều thình lình thay đổi, bất ngờ được thay thế: thình lình thay đổi vì anh đã chuẩn bị những lời thú tội, nhưng  vừa thấy anh từ đàng xa, cha đã chạy ra ôm cổ anh và hôn lấy hôn để, không cho anh nói dù một lời xin lỗi (x. Lc 15,20); bất ngờ được thay thế, vì anh nghĩ: với tội lỗi tầy trời cùng lắm anh sẽ chỉ được nhận trở vào nhà như người làm công (x. Lc 15,19), nhưng cha anh đã vội vàng bảo đầy tớ: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu” (Lc 15, 22).

Không chỉ người con thứ vui mừng, người cha cũng sung sướng, hạnh phúc vô cùng, khi phấn khởi truyền cho gia nhân mở tiệc linh đình, mời hết bà con làng nước đến chung vui, mừng cậu út trở về, và gặp ai, tim ông cũng rộn ràng muốn nói: Hãy vui với tôi, “vì con tôi đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy” (Lc 15,24).

Sở dĩ người Kitô hữu không ngừng được Thiên Chúa kêu gọi: “Hãy vui lên trong Chúa!”, vì họ là những người sống trong niềm vui được hòa giải với Thiên Chúa, với anh em và với chính mình; vì tương quan của họ với Thiên Chúa là tương quan Cha Con, tương quan với mọi người là tương quan anh chị em, con cùng một Cha trên trời, trong cùng một gia đình Thiên Chúa. Và những tương quan tràn đầy  hạnh phúc ấy được bảo đảm bởi Đức Giêsu, Đấng đã lấy máu mình để hòa giải Thiên Chúa với loài người, và mọi người với nhau. Hơn nữa, niềm vui hòa giải này tròn đầy, trọn vẹn, vì hòa giải vô điều kiện, hòa giải vĩnh viễn, như người cha nhân hậu trong Tin Mừng đã không đặt ra cho con bất cứ điều kiện  nào, không ép con phải thoả đáng bất cứ  đòi hỏi nào, không cằn nhằn, trách móc con dù một lời ngắn ngủi. Trái lại, tình cha bao la đã bao phủ đời con giông bão, ôm trọn thân con tiều tụy và đổi mới toàn bộ cuộc đời con khi mặc cho y phục lộng lẫy chỉ dành cho con cái, đeo cho con nhẫn qúy chỉ dành cho người thừa tự.

Tóm lại, trong câu chuyện hòa giải giữa chúng ta với Thiên Chúa, thì người vui nhất vẫn là Thiên Chúa, vì Ngài biết rõ giá trị của con người, bởi chính Ngài đã dựng nên chúng ta, như cha mẹ yêu thương con cái hơn con cái yêu thương cha mẹ, vì cha mẹ biết rõ giá trị của người con mà mình đã sinh ra hơn bất cứ người nào trên thế gian.

Vì thế, khi chiêm ngắm người cha nhân hậu của Đức Giêsu trong Tin Mừng, chúng ta không còn khả thể hay lý do chê trách người cha vì ông đã quá nhân hậu, thương xót, như người con cả đã bực bội, giận dỗi  khi  biết cha  mở tiệc  ăn mừng em cậu trở về sau năm tháng dài sa đọa, hoang đàng, phung phá (x. 1Lc 15,23-30), bởi tình cha hôm ấy đã không thưởng công lối sống trụy lạc, nhưng thưởng công những bước chân trở về của con; ơn cha hôm ấy đã không tuôn đổ trên tội lỗi, nhưng tràn trề xuống cõi lòng thống hối, ăn năn của con; nước mắt cha hôm ấy đã không nức nở khóc những dữ dằn, hung tợn, nhưng trào dâng niềm hạnh phúc con mình được sống, được “thay da đổi thịt”, vì đó là thời điểm của lòng thương xót, là cơ hội của ơn cứu độ, là ngày Thiên Chúa mở lượng từ bi, nhân hậu trên dân Ngài, mà không là ngày thịnh nộ, ngày trừng phạt, ngày giáng họa, báo thù.

Và đó chính là nền tảng vững chắc bảo đảm niềm vui không bao giờ héo úa, khô cạn ở người Kitô hữu, người được giao hòa với Thiên Chúa, với anh em và với chính mình nhờ Danh và trong Máu  Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ vô cùng từ bi, nhân hậu, “hay chạnh lòng xót thương”.

Về mục lục

TIN LÒNG CHA BAO DUNG

Lm.Jos Tạ duy Tuyền

Ở đời, lòng bao dung, sự tha thứ luôn là một điều không thể thiếu trong tình yêu và cuộc sống. Bao dung cũng là mở cánh cửa tương lai cho chình mình. Vì ai trong  đời mà không có những bước đi sai lầm, những việc làm lầm lỗi.

Thế nên, chúng ta cần phải tập sống lòng bao dung và tha thứ cho nhau. Bao dung khi ai đó vô tình va phải chúng ta ngoài đường phố, thay vì cáu gắt hãy nở nụ cười thật tươi để đáp lại. Bao dung là khi chúng ta bị người khác hiểu nhầm nhưng không tỏ ra tức giận, mà bình tĩnh giảng giải, để cả hai tìm được tiếng nói chung. Bao dung là khi người cha giang rộng vòng tay ôm lấy đứa con hoang đàng sau những chuỗi ngày lang thang, nay đã ân hận trở về.

Nhân vật Chí Phèo trong truyện của Nam Cao là sản phẩm của xã hội thiếu lòng bao dung. Chí Phèo là đứa con hoang, được mô tả là một người dị dạng, một tên lưu manh, nát rượu chuyên rạch mặt ăn vạ và sẵn sàng sinh sự với mọi người. Chí Phèo là kẻ trên không sợ Trời, dưới không sợ người. Người ta tránh Chí Phèo hơn tránh ôn dịch. Nhưng trong thâm tâm Chí Phèo luôn muốn hướng thiện. Tiếc rằng, xã hội không cho Chí Phèo con đường trở về làm người tự tế. Cuối cùng Chí Phèo chết trong tội lỗi và chỉ để lại câu nói: “Ai cho tao làm người lương thiện?”.

Lời Chúa qua dụ ngôn Người Cha nhân hậu đã mặc khải cho chúng ta về lòng Thương Xót và bao dung của Thiên Chúa.  Một người cha có hai con. Cha yêu thương cả hai. Nhưng cả hai xem ra đều phụ lòng cha. Người con cả chăm chỉ, cần cù nhưng lại tham quyền, tham lợi và ích kỷ. Anh đã từng thốt lên rằng: “Cha coi, đã bao năm nay con hầu hạ Cha, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy một con bê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con cha kia, sau khi nuốt hết của cải của cha với bọn đĩ điếm, nay trở về, cha lại cho con bê béo ăn mừng”.

Người con thứ thuộc loại “bán trời không văn tự”. Anh đã hoang phí cả gia sản lẫn cuộc đời đến bạc nhược tinh thần và thể xác. Cuộc sống thác loạn đã làm cho anh tan gia bại sản, thân xác tiều tụy, anh chỉ còn biết chăn heo để sống qua ngày.

Cha vẫn im lặng. Sự im lặng này không đồng nghĩa với việc đồng ý cách sống của hai con. Cha im lặng vì tôn trọng tự do của hai con. Cha không kết án ai. Cha không muốn mất đi bất kỳ người con nào. Khi người con thứ ra đi. Cha hằng ngày mong ngóng chờ con trở vể. Chỉ cần nó trở về là cha đã quên hết quá khứ tội lỗi của nó rồi. Khi người con cả bộc lộ bản tính thật của mình. Coi con bê béo hơn cả tình cảm cha con và tình nghĩa anh em. Cha vẫn từ tốn, dịu ngọt với anh. Cha muốn anh hãy vui với phận mình, và nhất là hãy vui vì luôn được sống trong tình thương của cha.

Hai người con trong phúc âm dường như vẫn lúc ẩn lúc hiện trong con ngừơi chúng ta. Chúa cho chúng ta được tự do thừa hưởng một gia sản rất qúy báu và phong phú đó chính là sự sống làm người. Thế nhưng, có những lúc chúng ta đã hoang phí cuộc đời trong những đam mê lầm lạc, trong những vui thú mau qua. Có những lúc chúng ta thường hay xét nét, ganh tỵ và đòi hỏi Chúa trả công cho chúng ta. Có những lúc chúng ta thất vọng chán chường vì yếu đuối lầm lỗi. Có những lúc chúng ta coi trọng đồng tiền mà bán rẻ lương tậm. Chúa vẫn không chấp nhất tội chúng ta. Chúa không kết án chúng ta. Chúa vẫn im lặng. Chúa mong chúng ta sớm nhận ra tình thương của Chúa để hồi tâm trở về cùng Chúa. Sự chờ đợi của Chúa là vô tận. Tình thương của Chúa là vô biên. Chúa vẫn kiên nhẫn chờ đợi và rộng lòng tha thứ hết mọi lỗi lầm của chúng ta.

Mùa chay mời gọi chúng ta hãy chọn lựa lại cách sống sao phù hợp với đạo lý làm con cái của Chúa. Hãy tập sống trong sự quan phòng, xếp đặt của Chúa. Hãy tin tưởng phó thác cậy trông vào Chúa để chúng ta luôn vui với phận mình. Nhất là hãy biết noi gương Chúa để xót thương kẻ cơ hàn và lấy lòng nhân hậu mà đối xử tốt với nhau. Nguyện xin Chúa là Đấng giầu lòng thương xót và từ bi luôn gìn giữ chúng ta trong hồng ân của Chúa và giúp chúng ta luôn sống theo tinh thần của phúc âm: mến Chúa trên hết mọi sự và yêu tha nhân như chính mình. Amen

Về mục lục

CHIẾN TRANH VÀ HÒA BÌNH

Giuse Trần Văn Ngữ

Sau hai cuộc thế chiến, con người đã mệt mỏi và sợ hãi về sự tàn phá của chiến tranh. Trong thế kỷ 21 này, chẳng ai nghĩ rằng sẽ có những cuộc chiến tranh đầy bạo lực và thảm sát như thế nữa. Chính người dân Ucraina không tin là có chiến tranh. Khi chiến sự xảy ra vài ngày, không ít người nghĩ rằng, đó chỉ là những điều xảy ra trong giấc mơ thôi, và những điều tồi tệ ấy sẽ chấm dứt khi tỉnh giấc. Nhưng sự thực cuộc chiến đã diễn ra một tháng rồi, và dường như chưa thấy hồi kết.

Cuộc chiến tranh nào cũng tấn công và làm tổn hại đến toàn diện con người, cả về thể lý lẫn tâm hồn. Chiến tranh chỉ tạo ra hận thù, và gia tăng sự trả thù. Chiến tranh diễn ra càng lâu, sự hận thù càng trở nên sâu sắc, người trong cuộc lúc nào cũng chỉ nghĩ tới sự trả thù mà thôi.

Ở giữa sự hỗn loạn này, vẫn một câu hỏi quen thuộc được đặt ra: Thiên Chúa ở đâu, mà để cho những sự dữ ngang nhiên hoành hành thế này? Chúng ta tìm đâu ra một câu trả lời thỏa đáng cho câu hỏi này? Trong sách Tin Mừng, chúng ta có thể tìm thấy một câu trả lời ngắn gọn của Đức Giê-su: Từ bên trong, từ lòng người, phát xuất ra những ý định xấu.[1] Chúng ta có thể tự hỏi: Phải chăng từ trong thâm tâm xấu xa, con người đã phát động những cuộc chiến tranh xâm lược?

Chắc chắn, trước khi cuộc chiến xảy ra ở bên ngoài, nó đã khởi sự và nổ ra ở bên trong thâm tâm con người rồi. Cuộc chiến xảy ra vì sự ích kỷ, tự mãn, tự cao tự đại của con người. Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật thứ 4 Mùa Chay Năm C,[2] chúng ta thấy nguyên nhân của các cuộc xung đột khởi đi từ sự mất trật tự trong lòng con người. Nơi hình ảnh hai người con, chúng ta thấy hình bóng của chính mình – dường như con người thích gây chiến, hơn là khao khát xây dựng hòa bình.

Ở nơi người con thứ, nhiều lúc chúng ta muốn nổi loạn – một sự tự do muốn làm gì thì làm. Chúng ta đề cao tự do cá nhân và chống lại sự giám sát đến từ bên ngoài. Sự tự do mất trật tự này không dẫn chúng ta đến hạnh phúc đích thực, mà chỉ làm cho cuộc sống của ta trở nên bế tắc và gặp nhiều tai họa hơn. Đôi khi, chúng ta tưởng tượng rằng chỉ cần có một cú hích nào đó, tôi có thể làm được những điều lớn lao: Giá như tôi có thể đi khỏi nhà; Giá như tôi đừng có trách nhiệm với một gia đình…. Giống như người con thứ, chúng ta đang xây dựng cuộc sống của mình trên những điều ảo tưởng „giá như thế này, giá như thế nọ”. Thực vậy, không ít người có được nhiều tài sản một cách nhanh chóng, nhưng thiếu một lối sống lành mạnh, không sớm thì muộn sẽ gặp tai họa.

Như người con cả, đôi lúc chúng ta sống trong sự nhỏ nhen, ghen tỵ và tự mãn.

 “Tôi đã phục vụ ông nhiều năm nay, và tôi chưa bao giờ làm trái lệnh” (câu 29c). Nếu người con thứ tự cắt đứt mối quan hệ với gia đình, để chạy theo đam mê của riêng mình, thì giờ đây, người anh cả công khai rằng mình cũng đã đoạn tình cha con. Anh ta đang sống với cha bằng sự trả giá, giống như một người làm thuê, chứ không sống tình con thảo của một người con.

Người con cả thừa nhận rằng anh ta có thể tìm thấy niềm vui bằng cách tổ chức một bữa tiệc với bạn bè của mình, chứ không thể tìm thấy niềm vui khi thấy em trai mình trở về từ cõi chết. „Còn thằng con của ông đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!” (câu 30). Người anh cả cho rằng, em trai mình đã tiêu tiền của mình cho gái mại dâm, nhưng chính anh không biết em trai mình đã tiêu tiền như thế nào. Anh chỉ muốn ném em trai mình trong bóng tối tồi tệ nhất có thể.

Chúng ta có thể thấy, người anh cả đã cố gắng giành tình yêu của người cha, nhưng chưa bao giờ anh tin là cha yêu mình. Và có lẽ cũng chưa bao giờ, anh yêu cha thực lòng. Anh là người thích tìm lỗi của người khác để chỉ trích và lên án. Nếu có binh quyền trong tay, chắc chắn anh sẵn sàng phát động một cuộc chiến loại trừ em mình rồi!

Chính khi coi thường em trai và từ chối vào nhà, người anh cả đã tự biến mình thành người xa lạ, không chỉ với em trai mà còn với cha của mình nữa. Hành động của người anh cả có ý tuyên bố rằng anh đã đoạn tuyệt với gia đình – một hành động gây sốc không kém gì đối với người em, khi bỏ nhà ra đi.

Ngược lại với thái độ dẫn đến cuộc xung đột và gây ra sự đổ vỡ của hai người con trai, người cha nhân hậu là người kiến tạo hòa bình.

Khi người con thứ trở về, ông đã mở tiệc ăn mừng. Khi nhận thấy người con cả không bao giờ coi người con thứ là em trai của mình, ông đã kiên nhẫn sửa lại sự khước từ, và tuyên bố „đây là em của con.”(câu 32). Khi người con cả từ chối vào nhà để tham gia bữa tiệc, người cha không lên tiếng trách mắng, nhưng thay vào đó cầu xin anh thay đổi ý định (câu 28).

Hình ảnh người cha nhận hậu cho chúng ta một hình mẫu về người chữa lành vết thương. Người cha đã tỏ tình thương cho người con thứ, và trao tình mến thương cho người con cả. Người cha trấn an người anh cả rằng, sự hiện diện của người em không ảnh hưởng đến tình cảm của cha dành cho con, cũng như cả quyền thừa kế của con nữa. Cả hai anh em đều được quý trọng và được yêu thương.

Chúng ta lưu ý rằng, Đức Giê-su kể dụ ngôn này để đáp lại lời phàn nàn của những người Pha-ri-sêu và các kinh sư, những người đã phàn nàn rằng: Tại sao ông lại tiếp đón và dùng bữa với những người tội lỗi? (câu 2). Những người Pha-ri-sêu luôn tự hào và tự mãn về lối sống đạo đức của mình. Giống như người anh cả, họ sẵn sàng gây chiến và loại bỏ người khác ra bên ngoài. Nhưng tình yêu của Thiên Chúa dành cho người tội nhân, dạy cho chúng ta hiểu rằng: không một ai có quyền vạch ra những ranh giới để loại trừ người khác ra khỏi tình yêu và sự hiện diện của Thiên Chúa.

Như vậy, „thay vì đổi lỗi sự dữ cho Thiên Chúa, Đức Giê-su nói chúng ta phải nhìn vào bên trong: chính tội lỗi tạo ra sự chết; chính sự ích kỷ của chúng ta đã làm rạn nứt các mối quan hệ; chính những lựa chọn sai lầm và bạo lực của chúng ta đã gây ra sự dữ…[3]

Phải chăng chiến tranh hay hòa bình đều xuất phát từ trong con tim của mỗi người?

……………..

[1] Cái gì làm cho con người ra ô uế? (Mc 7,21-22).

[2] Ba dụ ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa. Trong đó có ”Dụ ngôn người cha nhân hậu” (Lc 15,1-3, 11-32).

[3] Trích từ Kinh Truyền Tin 20/03 của Đức Thánh Cha Phan-xi-cô: Ở đâu có tình huynh đệ, sự dữ không còn quyền lực (https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2022-03/kinh-truyen-tin-o-dau-co-tinh-huynh-de-su-du-khong-con-quyen-luc.html ).

Về mục lục

LÒNG CHA

Bông Hồng Nhỏ

Những người thu thuế và những người tội lỗi thường đến gần Đức Giêsu mà nghe Người. Còn những người thuộc phái Pharisêu và các kinh sư thì lẩm bẩm: “Ông này tiếp đón phường tội lỗi và ăn uống với chúng”. Đức Giêsu mới kể cho họ nghe dụ ngôn về người cha nhân hậu để nói cho họ biết về lòng thương xót của Thiên Chúa. Thầy Giêsu mời gọi mỗi người nhận ra tình trạng tội lỗi của mình và hãy biết trở về với Thiên Chúa để đón nhận tình thương vô bờ bến của Người. Dù là người con thứ hay người con cả, mỗi người đều được mời gọi mở lòng ra trước tình thương vô điều kiện của người cha nhân hậu là Thiên Chúa (x. Lc 15, 1-3. 11-32).

Thầy Giêsu kể rằng: “Một người kia có hai người con trai. Người con thứ nói với cha rằng: “Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng”. Trước lời đề nghị của con, ông cảm thấy như thế nào? Hẳn là ông đã buồn phiền lắm, nhưng ông vẫn chiều ý con. Ông chia của cải cho hai con. Sau khi được lãnh phần gia tài, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình. Hết tiền hết bạc, anh lâm cảnh túng thiếu, trong vùng ấy lại xảy ra một nạn đói khủng khiếp, nên anh phải đi ở đợ cho người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. Đời là thế. Từ chỗ là một công tử nhà giàu, tiền bạc rủng rỉnh, anh bị đẩy xuống làm thằng đầy tớ, đi chăn heo cho người ta. Áo quần đã đem bán, anh chỉ còn khoác trên mình tấm vải rách nát. Có người quen nào nhìn thấy anh không? Chắc là không có. May mà ở đây không ai quen biết anh, gặp người quen thì xấu hổ đến chết mất. Từ mâm cơm đầy rượu thịt, anh bị đẩy xuống cái máng heo ăn. Anh muốn lấy đồ ăn của heo mà nhét cho đầy bụng mà cũng chẳng ai cho.Những tháng ngày ăn chơi thỏa thích, anh không hề nhớ đến người cha già, không nhớ đến mái nhà của mình. Chỉ đến khi anh nhìn lại tình trạng bi đát của mình, anh mới nhớ đến cha mình, tự so sánh mình với đám làm công cho cha mình. Cơn đói hành hạ anh, gợi nhắc anh về mâm cơm của cha mình. “Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại phải chết đói! Thôi ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy”.  Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha.

Trở về nhà trong tình trạng tồi tàn, nhếch nhác ấy, có lẽ anh đã phải cúi gằm mặt xuống mà bước, không dám ngoảnh mặt nhìn ai. Nếu có ai nhìn thấy anh thì chắc có lẽ họ cũng chẳng nhận ra anh nữa. Kể từ ngày anh khăn gói ra đi, người cha già vẫn ngóng trông anh. Hôm nay cũng như những ngày dài đã qua, ông vẫn ngóng trông con mỏi mòn. Vừa thấy anh ở đằng xa, ông đã nhận ra ngay và chạy ra đón. Dù con có ở trong tình trạng nào thì người cha vẫn nhận ra, vì ông hằng cưu mang nó trong lòng. Thấy con, ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm chầm anh ta và hôn lấy hôn để. Anh liền thú tội với cha, và người không để anh nói hết câu mà vội sai gia nhân: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu. Rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Và họ bắt đầu ăn mừng.

Sự trở về của một người từ cõi chết quả là đáng mừng, hơn nữa đó lại là người con được cha hết dạ thương yêu. Người cha không giấu nổi niềm hạnh phúc. Ông cũng muốn cho tất cả mọi người chia sẻ niềm vui ấy. Thế nhưng, người con cả đã không vui, không bằng lòng khi cha mình đón tiếp thằng em cách linh đình như vậy. Cậu không chịu vào nhà. Cha cậu phải ra năn nỉ. Cậu trách cha nhiều điều mà cậu nghĩ là cha đã đối xử bất công, nhưng cha cậu đã ôn tồn bảo cậu: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng và hoan hỷ, vì em con đây đã chết, nay lại sống, đã mất, nay lại tìm thấy” (Lc 15, 31-32).

Ở bên cha, lắng nghe lời cha và nhận ra mình là con, đó cũng là niềm hạnh phúc lớn lao.

Về mục lục

NGƯỜI CHA NHÂN HẬU

Thiên San

Khi thấy những người thu thuế lui tới với Đức Giêsu, các kinh sư và những người Pharisêu xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp người tội lỗi và ăn uống với chúng” (Lc 15, 2). Thấy vậy, Đức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn “Người cha nhân hậu”. Đó là câu chuyện về một người cha đầy lòng nhân hậu, yêu thương con cách nhưng không. Người cha ấy luôn dành những điều tốt đẹp nhất cho con của mình, nhất là sau khi con sa ngã, người cha ấy đã phục hồi phẩm giá làm con cho con của mình. Đeo nhẫn vào tay, xỏ dép, mặc áo đẹp nhất và mở tiệc ăn mừng là lời công bố công khai cho mọi người biết về việc phục hồi ấy. Người cha trong câu chuyện đó chính là Thiên Chúa của chúng ta.

Trước hết, chúng ta có thể thấy, tất cả những người tội lỗi đều là con cái Thiên Chúa. Đức Giêsu chính là Ngôi Hai Thiên Chúa, là Đấng Mêsia, là Con yêu dấu của Chúa Cha. Thật dễ hiểu khi chúng ta thấy hình ảnh Đức Giêsu vui vẻ ăn uống, đón tiếp người tội lỗi. Trong các cuộc rao giảng Tin Mừng, nhiều lần Đức Giêsu nói chuyện, vào nhà người tội lỗi, ăn uống và ở lại nhà của họ. Chẳng hạn như câu chuyện của ông Gia kêu, của Matthêu, hay của người phụ nữ bên bờ giếng Giacop với Đức Giêsu. Người đã từng khẳng định: “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mc 2, 17). Đức Giêsu đã đến trần gian để cứu chúng ta- con cái Thiên Chúa và là những người tội lỗi.

Chúng ta có thể thấy rõ nét vui mừng khôn xiết của người cha trong câu chuyện trên. Ông hoàn toàn tôn trọng con của mình. Khi nó đi sai đường, ông không từ luôn hay bỏ mặc. Ông luôn trông ngóng, đợi chờ nó trở về. Ông sẵn sàng mở tiệc ăn mừng, phục hồi phẩm giá làm con cho con của ông. Bởi đối với ông: “Chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy” (Lc 15, 32). Khi đọc câu chuyện này, chắc hẳn trong chúng ta ai cũng hiểu rằng, người cha mà Đức Giêsu nói đến trong câu chuyện của Ngài chính là Thiên Chúa Cha. Tuy nhiên, chúng ta đang đứng ở vị trí vai trò nào? Là người con Cả hay người con Thứ?

Nếu là người con Thứ, chúng ta hãy biết hồi tâm trở về, tin tưởng vào tình thương và sự tha thứ của cha mình, nhìn nhận mọi lỗi lầm của mình và thưa lên rằng: “Thưa cha, con thật đắc tội với trời và với cha, chẳng còn đang được làm con cha nữa…” (Lc 15, 21). Như người cha trong câu chuyện, Thiên Chúa của chúng ta chẳng cần nghe chúng ta xưng thú hết đã tha thứ mọi lỗi lầm cho chúng ta. Người không chỉ tha mà còn phục hồi cho chúng ta phẩm giá được làm con cái của Ngài. Bởi để cứu chúng ta, đến như Con Một Người cũng chẳng tiếc. Điều quan trọng là chúng ta dám đứng lên và trở về cùng cha.

Nếu là người con Cả, chúng ta hãy tự xét lại thái độ sống của mình. Phải chăng chúng ta cũng chỉ tự xem mình là người làm công cho Cha mà thôi. Vì tự xem mình là người làm công nên chúng ta không dám xin, không dám nói với Cha về những nhu cầu hay mong ước của chúng ta. Và chúng ta chẳng thể đón nhận tình thương Cha dành cho một người anh em tội lỗi của chúng ta trở về. Câu chuyện của người con Cả và cha của anh đang để ngỏ. Chúng ta không biết kết quả là người anh Cả có chịu vào nhà cùng cha hay không? Vậy, chúng ta được mời gọi kể tiếp câu chuyện trên bằng chính cuộc đời của mình khi mỗi ngày nhìn lại để thay đổi, nhìn lại để sám hối.

Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng đã từng có kinh nghiệm của người con Cả và người con Thứ. Cuộc sống làm người là một hồng ân lớn lao. Nó càng lớn lao hơn khi chúng ta biết khám phá và trân quý tình thương yêu vô bờ bến Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta. Cả người con Cả và người con Thứ đều được cha yêu thương. Mỗi người trong kinh nghiệm của mình, chúng ta đang từng bước khám phá ra dung mạo của Cha cách khác nhau. Từ đó mỗi người sẽ có thái độ và cách sống khác nhau. Trong tất cả các chọn lựa, chúng ta hãy luôn biết chọn cho mình thái độ hồi tâm trở về mỗi ngày.

Về mục lục

TÌNH CHA

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Bằng dụ ngôn mô tả chuyện cảnh gia đình và tình cha con Chúa Giêsu dùng để diễn tả tình yêu quảng đại, hào phóng bao la của Thiên Chúa là Cha đối với nhân loại nói chung và từng người chúng ta là con nói riêng.

Người con thứ ra đi

Là người con thứ được ưu đãi nuông chiều trong một gia đình khá giả. Vừa lớn lên, chân trời xa thẳm như chỉ có bình minh, một tương lai trải dài trước mắt mời mọc và lôi cuốn cậu thoát ly. Vì ở nhà cha mẹ, dù có tình thương và của cải đầy đủ mấy đi nữa thì vẫn còn anh trưởng chứ đâu đến lượt cậu. Một con chim khuyên ở trong chiếc lồng son thiếp vàng, dù dư gạo trứng cũng không sướng bằng một bầu trời thênh thang rộng lớn. Cậu quyết định xin chia gia tài. Chiều lòng cậu, cha cậu đồng ý và cậu ra đi.

Người con trưởng ở nhà

Người con trưởng tuy ở hằng ở cùng cha, nhưng rất khác cha. Anh đánh mất chính mình, khi tưởng là con trưởng mà lại tự nhận mình là kẻ làm tôi “con đã làm tôi cha” (Lc 15,29), đánh mất em, em mình mà anh gọi là “thằng con con của cha kia” (Lc 15,30). Anh tự khinh dể mình, loại trừ người em ruột. Lời người cha nói: “Con hằng ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con” (Lc 15,31) anh đâu có cảm nhận được. Và giờ đây anh tố cáo cha đã không bao giờ cho anh một con dê con để mừng lễ với bạn bè. Tội nghiệp người cha! Một đứa con bỏ nhà, đứa kia thì lại đã không bao giờ gần gũi cha thực sự! Ông đã mất cả hai thằng con.

Tình cha chan hòa trên các con

Người cha, từ ngày con thứ bỏ nhà ra đi, ông thương con, ngày ngày ra ngóng con trở về. Thật là cảm động: “Khi nó còn ở đàng xa, cha nó trông thấy nó, ông động lòng thương” (Lc 15, 20). Ông là người thấy con trước khi nó còn ở đàng xa. Ông quên cả tuổi già và quên luôn cuộc sống phóng đãng của con trai, ông chạy tới ôm choàng lấy cổ nó và hôn lấy lấy hôn để. Lòng thương xót của người cha tràn đầy, vô điều kiện và được biểu lộ ra trước khi đứa con xưng thú lỗi lầm: “Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha, con không đáng được gọi là con cha nữa, xin cha đối xử với con như một người làm công của cha” (Lc 15,19). Những lời trên tan biến trong sự tha thứ. Thằng con hết sức kinh ngạc về tình yêu mà cha nó dành cho nó. Với trái tim của một người cha, ông không coi mình bị xúc phạm, không giận con hay bắt thằng con đã làm bao điều khiến ông tủi hờn phải trả giá. Ông không có nghe và xét đến lời xưng thú của con trai mình. Không, không, con trai của cha, lời cha ngắt lời con, người cha kêu lên, tiếng kêu xóa sạch lỗi lầm của con, và tình cha tuôn trào xuống người con bằng hành động: “phải ăn tiệc và vui mừng “(Lc 15, 32). “Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu, hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu, và xỏ giầy vào chân cậu. Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng: vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất, nay lại tìm thấy” (Lc 15, 22-24). Ông chỉ quan tâm một điều là tìm được con đã mất nay trở về bình an mạnh khỏe, phải mở tiệc ăn mừng.

Khi quan sát hình ảnh người cha ôm người con, nghe người cha nói với người con khiến chúng ta liên tưởng tới Thiên Chúa là Cha xử với chúng ta là tội nhân như thế. Thánh Gioan Maria Vianney cha sở họ Ars đã thốt lên rằn : “Đây hình ảnh tuyệt đẹp về sự vĩ đại của lòng thương xót Thiên Chúa đối với tội nhân khốn khổ nhất! … Ôi Thiên Chúa của con, rằng tội lỗi là một cái gì đó thật khủng khiếp! Làm thế nào chúng con có thể phạm tội được? Nhưng tất cả chúng con là những kẻ khốn nạn, ngay khi chúng con còn là tội nhân, thì Thiên Chúa đã yêu thương chúng con trước. Lòng thương xót của Thiên Chúa cộng với lòng trắc ẩn. Tình yêu của Đấng Cứu Thế thật bất ngờ bởi ân sủng của Người trước các tội nhân, Người ôm hôn tội nhân, trao ban cho họ sự an ủi tuyệt vời…Ôi khoảnh khắc tuyệt với ! Chúng ta mà hiểu được thì chúng ta sẽ rất hạnh phúc !” (Trích bài giảng thứ Chúa nhật III Mùa Chay của thánh Gioan Maria Vianney).

Người con trưởng hằng ở nhà với cha, mọi sự của cha anh là của anh như lời người cha nói và đương nhiên là anh ruột của người em bỏ nhà ra đi. Thế mà lại con mình là kẻ “làm tôi”. Anh hạ thấp phẩm giá mình xuống thành kẻ hầu hạ ăn lương.  Người con thứ đã nghĩ rằng anh ta đáng phạt vì các tội của mình. Người anh cả chờ đợi một phần thưởng cho các phục vụ của anh ta. Cái khổ đau của người cha giống nỗi khổ đau của Thiên Chúa, khi chúng ta rời xa, hay bởi vì chúng ta ở xa hoặc vì chúng ta ở gần nhưng lại không gần. Người anh cả cũng cần phải trở về.

Cái lý luận của người cha là lý luận của Thiên Chúa giầu lòng thương xót. Người cha phục hồi phẩm giá làm con khi sai đầy tớ: “Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu, hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu, và xỏ giầy vào chân cậu” (x. Lc 15, 22-23) và phục hồi luôn phẩm giá làm anh trưởng bằng cách mở tiệc mừng vì “em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy” (x. Lc 15,32). Vì nếu không có em thứ trở về thì cũng chẳng có anh trưởng. Niềm vui lớn nhất đối với người cha trong dụ ngôn là trông thấy các con ông bình an mạnh khỏe và nhận nhau là anh em.

Vậy, tất cả chúng ta tội lỗi cũng như những người tin rằng mình công chình hãy trở về với Chúa bằng lòng thống hối ăn năn, lao mình vào vòng tay của Chúa, để cho tình thương lân tuất của Chúa làm ta hồi sinh.

Lạy Mẹ Maria, người mẹ khoan nhân, Mẹ của Lòng Thương Xót, xin giúp đỡ chúng con. Amen.

Về mục lục

VÀO HAY KHÔNG VÀO

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Tháng 1 năm 2022, trên Vietcatholic.net, có giới thiệu những tác phẩm mới của Cha Nguyễn Tầm Thường (vietcatholic.net/News/Home/Article/273498). Phải nhờ người quen tận bên… Mỹ đặt mua, tôi có được 5 cuốn sách mới của ngài: “Phúc âm trong dụ ngôn” 3 tập, “Hãy đi bình an” và “Ngoài cửa Nhà thờ”.

Trong tập 2, Dụ ngôn “Người cha nhân hậu” được tác giả phân tích và suy niệm sâu sắc qua 11 đoản khúc với 114 trang sách, từ trang 155-269.

Tin Mừng Chúa Nhật IV Mùa Chay kể về dụ ngôn “Người cha nhân hậu”, tôi đọc đi đọc lại nhiều lần và dừng lại để suy niệm về hình ảnh người con cả.

 “Dọc theo Phúc âm, hình ảnh người con cả dấp dáng trong cách đi, cách đứng của các Biệt Phái, Kinh Sư, Thông Luật. Người con cả ở trong nhà mà xa cha. Như Biệt Phái ở trong Đền thờ mà xa Thiên Chúa. Họ kết án người khác. Họ xa lánh người có tội. Người con cả ở đây cũng kết án người em. Biệt Phái dựa vào nhân đức của mình, như người con cả cậy vào công việc của nó. Giống người con cả là luôn nghĩ đến mình, anh ta không có niềm vui, những Biệt Phái cũng vậy” (trang 211).

Đây là dụ ngôn “hai” người con hoang đàng chứ không phải là một. Khác nhau là kẻ ở, người đi. Biết đâu kẻ ở, lại là chủ đề độc đáo hơn người đi. Vì thân xác trong nhà mà tâm hồn thì đi xa.

  1. Ở ngoài

Hai đứa cùng về, một đứa vào trong nhà, một đứa dừng lại bên ngoài. Trong giây phút quan trọng của tiệc chung vui này, chuyện xảy ra là đứa đã lâu cha không gặp bây giờ gặp. Đứa vẫn hàng ngày gặp, bây giờ không.

Dụ ngôn hơn hai nghìn năm trước mà vẫn quá gần như ngày hôm nay. Lời dụ ngôn này hôm nay vẫn đang xảy ra. Trong kinh nghiệm thực tế chứng tỏ: Có anh trong đoàn thể này thì không có tôi… ngày giỗ của bố mẹ, mà có đứa con này thì đứa kia không đến. Người ta tránh nhau trong nhiều sinh hoạt tôn giáo của một cộng đoàn. Tự bản chất Giáo hội là hiệp thông. Chuyện kẻ ở trong, người đứng ngoài là chuyện giữa chiên với chiên, giữa chiên với chủ chăn.

  1. Hỏi xem chuyện gì

Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì.”

Có thật sự người con cả không biết chuyện gì không? Nếu không biết thì vào xem, cần đi nhanh hơn, cần bước vào nhà. Có ai đi xa, về gần đến nhà mình, thấy nhân viên y tế đang ở cổng, rồi đứng xa xa chờ hỏi xem có chuyện gì không? Họ phải vội vã chạy vào ngay xem chuyện gì xảy ra. Thái độ của người con cả ở đây có vấn đề. Lý do anh ta không vào vì người em về. Anh ta đề phòng không vào ngay. Nếu vào, thấy em làm sao chạy ra? Nếu vào thấy cha vui mừng, làm sao anh ta hân hoan? Điều này dễ hiểu, vì dựa vào thực tế, hôm nay vẫn thế. Cùng trong Giáo hội nhưng chị đi nhà thờ này, tôi đi nhà thờ kia. Anh ở đoàn thể này tôi sang đoàn thể khác. Anh trong ca đoàn này tôi ngừng tham gia. Bao lần người ta dò la cách này, cách khác để tránh mặt nhau. Giả vờ không thấy. Thật sự họ biết ông bà ấy vào cửa bắc, họ đi cửa nam.

Người con cả đợi bao lâu thì gặp người đầy tớ? Dụ ngôn không nói rõ. Điều này quan trọng, vì thời gian đứng đợi càng dài thì những biến chuyển xáo trộn tâm hồn càng tăng.

  1. Nổi giận

Em cậu đã về”. Lời báo tin ngắn ngủi mà sao nặng quá sức vác. Người anh cả nổi giận vì tin này. Có nghĩa là từ lúc người con thứ ra đi, thì người anh ở lại sống khắc khoải. Anh ta nơm nớp lo âu ngày em về. Mong có ngày nghe tin em nó chết. Sợ, hồi hộp tự nghĩ, biết đâu có ngày nó về. Làm sao người con cả bình an sống nếu nghĩ như thế. Xét thế thì đời người con cả khổ quá. Sống không niềm vui. Em anh ta khổ ở đằng xa. Anh ta khổ trong nhà. Em lạnh vì không áo che thân. Anh ta lạnh vì hồn mang áo giáp quá dầy nhặm.

Cha cậu đã làm thịt con bê béo”; “Vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ”.

Người con cả nổi giận vì 3 lý do đó. 3 lý do này làm cho người cha vui bao nhiêu thì lại là tai ương cho người con cả bấy nhiêu.

  1. Cha cậu năn nỉ

Về điểm này, nhiều cha mẹ hôm nay có kinh nghiệm. Nhiều bậc phụ huynh khổ sở vì con. Tại sao phải năn nỉ khi người con sai. Đấy là nỗi đau của bậc làm cha mẹ trong xã hội hôm nay.

Lỗi phạm lớn của người con cả trong lời nói ở đây là: “thằng con của cha đó”. Vậy anh ta là con ai? Anh ta không nói ‘em của con’. Anh ta từ chối tình huynh đệ. Trong một lời nói, người con cả xúc phạm cả hai người là với cha và với người em. Anh ta nói về một quá khứ u uẩn “Đã bao nhiều năm trời con hầu hạ cha….”. Anh ta kể với cha công lao làm việc của anh như người Pharisiêu kề về việc lành mình làm trong đền thờ… Người Pharisiêu “ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập” (Lc 18,12). Tại sao việc làm như thế mà lại không có công đức?

  1. Người cha trả lời

“Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con”. Người con cả thiếu trưởng thành. Nhất là qua câu trả lời, người cha cho biết tất cả của cải của cha là của anh. Tất cả là của anh sao cứ ấm ức, ganh tỵ. Điều đó nói lên anh ta không có liên hệ với cha và không biết cha mình. Gần mà rất xa.

“Chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”. Người cha chữa lành lại liên hệ của người con cả nhất định luôn cách xa trong tình nghĩa gia đình.

Người đọc không biết là người con cả sẽ vào nhà vì nghe lời cha hay đứng ngoài. Anh ta im lặng. Câu chuyện buông xuống thành một con đường dài rất thẳng, không có câu trả lời. con đường ấy thẳng nhưng trải những tiếng gọi cong co. Người đọc dụ ngôn không biết những gì sẽ xảy ra sau đó. Thánh Luca kết thúc dụ ngôn bằng sự im lặng của người con cả. Sự im lặng ấy mở ra một dụ ngôn mới. Dụ ngôn mới ấy mang tên gọi là: “Vào hay không vào?”. Khi dùng im lặng để gởi đến một suy nghĩ, thì lời mong đợi cũng cần đến sự im lặng để trả lời. Nếu bạn là người con cả, trong hoàn cảnh này, bạn vào hay không vào? Chỉ cần mình bạn biết. (x. đoản khúc 4).

  1. Người con cả là hình ảnh người Biệt Phái

Hiếu thảo, vâng phục cha, không đi hoang, không ăn chơi. Con người lao động cần cù có tinh thần trách nhiệm, không rượu chè trác táng, chỉ lo ruộng rẫy nương vườn. Người con cả là con người mẫu mực. Thế nhưng, biến cố đứa em trở về đã bộc lộ con người thật của anh. Tuy ở trong nhà cha nhưng lại xa trái tim cha. Tại sao cha đãi tiệc bê béo cho thằng em bất hiếu, còn anh một con bê nhỏ để vui với bạn bè cũng không có? Anh tức giận vì thấy quyền lợi bị xúc phạm. Anh chẳng chịu vào nhà. Tôi chẳng thích chút nào về người con cả với ý thức trách nhiệm cao, chăm chỉ làm việc, trung thành với gia đình nhưng lại chẳng học được lòng nhân hậu của cha. Lòng “người công chính” có thể trở nên hẹp hòi như thế sao?

Hoá ra, cả hai người con vừa khác lại vừa giống nhau. Cả hai đều ở ngoài nhà cha. Con thứ không thấy hạnh phúc bên cha nên ra đi. Con cả không chia sẻ được hạnh phúc của cha nên không vào nhà. Anh thiếu bao dung và thiếu tha thứ cho em.

Thái độ của người con cả là thái độ tiêu biểu của người Biệt phái, Luật sĩ hôm qua và hôm nay. Ích kỷ cho quyền lợi riêng mình. Tự mãn về cách giữ luật “con không hề trái lệnh cha một điều nào”, tự hào về cách sống đạo “không như thằng con của cha”. Tự hào tự phụ tuân giữ nghiêm nhặt Lề Luật, kiêu hãnh mình là người công chính mà khinh chê lên án những người khác. Chỉ muốn kẻ lỗi lầm không được cứu thoát mà phải chết.

Chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Người cha muốn giúp con trai khám phá chiều kích tha thứ của tình yêu. Tình cha là lời mời gọi vượt qua thái độ duy luật để mở rộng tấm lòng trước tình thương yêu. Lời cha làm anh bàng hoàng xúc động vì anh hiều rằng mình quá ích kỷ, quá nhỏ mọn. Cái ích kỷ làm anh tẩy chay sự trở về của đứa em. Cái nhỏ mọn làm anh xua tan lòng bao dung của cha. Tình cha lớn hơn cuộc đời anh, lớn hơn tính ích kỷ trong anh.

  1. Người cha, hình ảnh Thiên Chúa

Khi chia gia tài cho con, lòng cha đau đớn vô cùng. Vì tôn trọng tự do của con chứ không vì cha nhu nhược. Ngày nhìn con ra đi, bóng nó nhạt dần cuối chân trời như cánh chim bay, lòng cha thấy trống trải quá, muộn phiền quá vì thiếu vắng hình bóng con. Ngày ngày cha ngóng trông đợi con trở về. Thế rồi một ngày kia, đứa con trở về thật. Nó về trong dáng vẻ thất bại thảm hại, thất thểu rách nát. Thua cuộc đời nó về làm dấy lên những lời bình phẩm của làng xóm. Giả như nó không về, người ta sẽ lãng quên. Nay nó trở về nhắc cho bà con lối xóm thấy sự thất bại của gia đình ông. Con ông về trong thất bại chua cay là câu chuyện đám tiếu đầu làng cuối xóm. Vậy mà ông mở tiệc ăn mừng. Thật lạ lùng!

Ở đời, khi con thi đậu đại học, khi con công thành danh toại vinh quy bái tổ, khi con là Việt kiều về thăm, cha mẹ mở tiệc ăn mừng, mời bà con làng xóm đến chia vui. Người ta thường dấu kín chuyện thất bại của con cái. Cha mẹ mắc cỡ không dám kể về đứa con bất hiếu, ngổ nghịch, ăn chơi đàng điếm. Người ta chỉ khoe đứa con ngoan, tự hào đứa con học hành thành đạt, vui mừng khi con có việc làm có sự nghiệp. Thế mà, người cha lại mở tiệc lớn. Mừng đứa con trở về thất bại tả tơi. Khách mời ngỡ ngàng khi chủ nhà giới thiệu con ông về nhà sau những ngày chăn heo đói khổ. Thế nhưng, người hiểu tình yêu là gì, tình phụ tử là gì thì thông cảm và chia vui với người cha.

Người cha đã tha thứ cho con thứ trước khi con tự thú. Cha vui “vì đứa con đã chết nay sống lại, đã mất nay tìm thấy”.

Người cha cũng nói với người con cả bằng cung giọng thật trìu mến:“Con à, lúc nào con cũng ở với cha.Tất cả những gì của cha đều là của con…Chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Người cha muốn giúp con trai khám phá chiều kích tha thứ của tình yêu. Tình cha là lời mời gọi vượt qua thái độ duy luật để mở rộng tấm lòng trước tình thương yêu.

Dung mạo người cha đó, chính là Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương. Thái độ người cha đối với hai đứa con là thái độ của Thiên Chúa đối với con người. Trong trái tim Thiên Chúa chỉ có tình thương. Người không có trí nhớ về tội lỗi con người.

Cha yêu con dù con hư hỏng, bất trung. Cha yêu con không vì con ngoan được việc. Cha yêu con chỉ vì con là con. Cha không muốn mất một đứa con nào. Thiên Chúa của Đức Giêsu mạc khải là người cha nhân hậu, hiền từ, bao dung, hay tha thứ.

Hành trình thiêng liêng của cuộc đời, cả hai người con trong dụ ngôn đều có mặt trong mỗi con người chúng ta. Nhiều lần ta nghe theo cơn cám dỗ của thế gian xác thịt rồi nên hoang đàng, hoang phí, gặp thất bại đau khổ mới hối hận trở về với Chúa. Nhiều lần ta là con cả tưởng mình đạo đức nên lên án tẩy chay người khác. Cần trở về với Cha, về với Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương. Sám hối là trở về với tình Chúa, với tình anh em. Sám hối là trở lại với tình yêu, niềm vui và sự sống.

Người con cả chỉ có thể vào nhà khi trái tim được thanh tẩy bằng nhân đức. Để vào được căn nhà, người con cả cần sám hối. Anh ta cần thanh tẩy tâm hồn để bình an trước đã. Anh ta phải buông cho rơi đi những tháng ngày tức tối. Anh ta phải giã từ bóng đêm im lặng tính toán. Anh ta phải rộng lượng có thể phải chia bớt đất đai cho người em lập nghiệp. Sám hối và thanh tẩy không phải cứ nghĩ tới là thành hoa trái.

Lạy Chúa, con thấy bây giờ là nếu trái tim con không thanh tẩy thì cuộc sống này không vui. Xin Chúa ban ơn thanh tẩy để con được sống bình an với anh em. “Như nai rừng mong tìm về suối nước trong, hồn con cũng xin mong được gần Ngài, Lạy Chúa” (Tv 42,2). Và con biết, Chúa chờ con. Amen.

Về mục lục

SỐNG CHÚA NHẬT HỒNG, ĐỜI TA CŨNG HỒNG

Lm. Bosco Dương Trung Tín

“Chúng ta phải ăn tiệc, phải vui mừng, vì em con đây đã chết nay lại sống; đã mất mà nay lại tìm thấy”(Lc 15,32).

Hôm nay, là Chúa Nhật Hồng, nên chủ Tế mặc áo lễ Hồng. Màu Hồng là màu của sự vui mừng. Tại sao chúng ta lại vui mừng? Chúng ta vui mừng vì chúng ta đã chết vì tội lỗi, nhưng nhờ Đức Ki-tô, chúng ta lại được sống. Chúng ta vui mừng vì những anh chị em của chúng ta đã ăn năn thống hồi mà trở về hoà giải với Chúa, coi như đã mất nay lại tìm thấy.

Quả thật, chúng ta như người con hoang đàng, ăn năn thống hối trở về với Chúa và cũng như người anh cả, người hằng ở với Chúa nhưng chỉ với thân xác; chỉ với tâm tình của một người làm công, chứ không phải như một người con- ăn năn trở về bằng cách không ghen tị, không ghen ghét, nhưng đón nhận những người ăn năn thống hối trở về giao hoà với Chúa.

Dù là người con nào đi chăng nữa, chúng ta hãy vui mừng, vì “Trong Đức Ki-tô, Thiên Chúa đã cho thế gian được giao hoà với Người. Người không còn chấp tội họ nữa”(x.2Cor 5,19). Để chúng ta lãnh nhận được lòng nhân hậu của Chúa, chúng ta phải hoà giải với Chúa; chúng ta phải hoán cải, thống hối và trở về với Chúa. Điều này được Đức Giê-su diễn tả cách tuyệt vời qua dụ ngôn “Người cha nhân hậu”.

“Bị ảo ảnh tự do mê hoặc, người con thứ bỏ nhà cha ra đi. Sau khi tiêu tán hết tài sản, nó rơi vào tình trạng khốn quẫn. Nó hết sức nhục nhã, vì phải đi chăn heo và tệ hơn nữa, ước muốn được ăn cám heo ăn mà không có. Nó liền nghĩ lại, hối hận và quyết định thú nhận tội lỗi với Cha. Nó lên đường trở về. Người Cha bao dung và vui mừng đón con. Đó là những nét tiêu biểu của tiến trình hoán cải.

“Áo đẹp, nhẫn sang và đại tiệc là những biểu hiện của một đời sống mới, trong sạch, xứng đáng và tràn ngập niềm vui. Đó là cuộc sống của người trở về giao hoà với Thiên Chúa và Hội Thánh là gia đình của mình.

“Chỉ trái tim của Đức Ki-tô, Đấng thấu suốt tình yêu sâu thẳm của Chúa Cha mới mặc khải cho chúng ta đại dương từ ái của Thiên Chúa một cách đơn sơ và tươi đẹp như thế”(x.GLCG, số 1439).

Con người chúng ta cũng vậy. Chúng ta cũng bịảo ảnh tự do mê hoặc, chúng ta bỏ nhà; chúng ta bỏ Chúa ra đi. Sau khi đã tiêu tán hết tài sản; sau khi bị cùng cực; bị rơi vào tình trạng khốn khổ; bị nhục nhã, chúng ta mới hối hận. Xưa kia ở nhà với Chúa, chúng ta được ăn sung mặc sướng; giờ không có gì bỏ vào miệng; xưa làm tí việc còn lẩm bẩm kêu ca, nay phải đi làm mướn; phải chăn heo; phải làm lụm vất vả. Thôi thì, quay trở về nhà Cha sướng hơn; dù không xứng đáng là con, nhưng ít ra cũng là một người làm công cũng còn sướng chán.

Người ta bảo “Sướng quá rửng mỡ”; sung sướng không muốn, muốn tự do, muốn phây phây. Cứ ra đời thì biết, “không làm thì treo mỏ” thôi. Con người của chúng ta là thế. Chúa sẽ cho chúng ta được toại nguyện, cứđi đi rồi sẽ biết; “chưa thấy quan tài, chưa đổ lệ” mà. Chúa cũng để cho chúng ta tự do; để chúng ta khỏi càm ràm, rồi tự nguyện, tự giác trở về. Chúa sẵn sàng dang rộng đôi tay cho chúng ta bước ra và cũng dang rộng cánh tay đón chúng ta trở về.

Trở về giao hoà với Thiên Chúa, chúng ta được mặc áo đẹp; được đeo nhẫn sang và dựđại tiệc. Áo đẹp đó là Áo Hồng; áo của hồng ân tha thứ; Nhẫn sang đó là huy hiệu của một người con cái Chúa và Đại tiệc đó là Tiệc Cưới Con Chiên. Chúng ta sẽ sống trong đại dương của lòng thương xót Chúa; chúng ta sống trong niềm vui.

Thật vậy, “Đức Giê-su muốn rằng trong kinh nguyện, đời sống và hoạt động, Hội Thánh phải trọn vẹn là dấu chỉ và khí cụơn tha thứ và giao hoà mà Người đã mua được bằng giá máu của Người. Tuy nhiên, Người uỷ thác quyền giải tội cho thừa tác vụ tông đồ. Người tông đồ được uỷ thác “Thừa tác vụ giao hoà”, được sai đi “nhân danh Đức Ki-tô” và qua người tông đồ, “chính Thiên Chúa khuyên bảo và nài nỉ: “Hãy giao hoà với Thiên Chúa”(x. GLCG, số 1442).

Mùa Chay là thời điểm thích hợp nhất cho việc hoán cải, trở về và giao hoà với Thiên Chúa. Vậy, chúng ta hãy hoán cải; hãy ăn năn thống hối và hãy giao hoà với Thiên Chúa. Nếu chúng ta là người con hoang đàng, chúng ta hãy từ bỏ những ham mê trần thế; của cải, danh vọng; bỏ đi những tham vọng, kiêu căng mà trở về với Chúa. Nếu chúng ta là người con cả, chúng ta hãy từ bỏ những đố kị và ganh ghét; bỏ đi tính cách của một người làm công và hãy sống với tư cách của một người con trong gia đình.

Có như thế, chúng ta sẽ luôn được mặc áo đẹp; luôn được đeo nhẫn sang và luôn được tràn đầy vui mừng, bình an khi sống trong sạch, đơn sơ và tươi đẹp trong đại dương của lòng thương xót Chúa. Khi chúng ta sống Chúa Nhật Hồng, thì cuộc sống của chúng ta cũng sẽ vui và cuộc đời của chúng ta sẽ Hồng luôn đấy thưa bạn.

Về mục lục

THÂM TRẦM TÌNH PHỤ TỬ

Trầm Thiên Thu

Thánh José Escriva nói: Những sa ngã của anh em, những cú ngã của một đứa trẻ, làm cho Thiên Chúa, Hiền Phụ của anh em, thấy rằng Ngài cần phải chăm sóc anh em hơn nữa. Mỗi ngày, khi Ngài đỡ nâng anh em lên khỏi mặt đất, anh em hãy ôm chặt lấy Ngài bằng tất cả sức lực của mình và hãy tựa cái đầu khốn cùng của mình vào lồng ngực của Ngài đang rộng mở đến độ trở nên hoàn toàn ‘điên dại’ vì nhịp đập Thánh Tâm rất đáng mến.”

Tình Chúa là thế. Chúng ta không biết nói gì hơn, vì ngoài tầm hiểu của trí tuệ phàm nhân. Dù tội có đỏ như son cũng hóa trắng như tuyết, hoặc có thẫm như vải điều cũng trở nên trắng như bông. (Is 1:18) Với điều kiện đơn giản: Sám hối chân thành.

Ngài biết chúng ta hứa lắm, quên nhiều. Ngài chẳng chấp lách gì. Tử tội Dimas cả đời bê tha, chỉ một lời cầu xin cũng đủ xóa mọi dấu vết tội lỗi: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” (Lc 23:42) Và ngay hôm đó ông được theo Chúa Giêsu vào Thiên Đàng.

Thật vậy, Thánh Thérèse Lisieux nói: Nếu như vào giờ chết, tội nhân xấu xa nhất trần gian biết sám hối và trút hơi thở cuối cùng trong một hành vi yêu mến, cho dù rất nhiều ơn thánh người ấy đã lạm dụng và rất nhiều tội lỗi người ấy đã sai phạm có cản trở đi nữa, Thiên Chúa vẫn tiếp nhận tội nhân ấy vào lòng thương xót của Ngài. Đừng bao giờ thất vọng! Mỗi tích tắc là hồng ân của Thiên Chúa. Mỗi hơi thở là hồng ân của Ngài. Nếu không khí chỉ đặc hoặc loãng thêm một chút thôi, nhân loại chết ngay chứ đừng nói chi là thiếu không khí.

Tác giả sách Giảng Viên xác định: “Tôi nhận ra rằng mọi sự Thiên Chúa làm sẽ tồn tại mãi mãi. Không có gì để thêm, chẳng có gì để bớt. Thiên Chúa đã hành động như thế để phàm nhân biết kính sợ Người.” (Gv 3:14) Lòng Thương Xót của Chúa không ngừng dàn trải theo thời gian, từ thuở hồng hoang tới kỳ tận thế. Nếu Lòng Thương Xót ngưng một chút thì chúng ta hóa thành hư vô ngay.

Chính Đức Chúa nói với ông Giôsuê: “Hôm nay Ta đã cất khỏi các ngươi cái ô nhục của người Ai Cập.” (Gs 5:9) Kinh Thánh cho biết: “Con cái Israel đóng trại ở Ghingan và cử hành lễ Vượt Qua ngày mười bốn trong tháng, vào buổi chiều, trong vùng thảo nguyên Giêrikhô. Hôm sau lễ Vượt Qua, họ đã dùng thổ sản trong xứ, tức là bánh không men và hạt lúa rang, vào đúng ngày đó. Hôm sau, không còn manna nữa, khi họ dùng thổ sản trong xứ; thế là con cái Israel không còn có manna nữa. Năm ấy, họ đã dùng hoa màu của đất Canaan.” (Gs 5:10-12)

Dân chúng không còn phải dùng thứ manna nhạt nhẽo nữa, mà họ được dùng những sản phẩm của miền đất trù mật sản sinh. Có được hạnh phúc đó là hưởng nhờ lòng thương xót bao la của Thiên Chúa. Ngày nay, chúng ta cũng ổn định hơn, mặc dù khó khăn vẫn còn và nỗi đau đại dịch chưa mờ nhạt. Vì thế, tín nhân cần phải noi gương Thánh Vịnh gia tuyên xưng: “Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi. Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên.” (Tv 34:2-3) Đồng thời phải rao truyền và mời gọi người khác cùng tôn vinh Ngài: “Hãy cùng tôi ngợi khen Đức Chúa, ta đồng thanh tán tụng danh Người. Tôi đã tìm kiếm Chúa, và Người đáp lại, giải thoát cho khỏi mọi nỗi kinh hoàng.” (Tv 34:4-5)

Đó chính là trách nhiệm của chúng ta – loài thụ tạo của Thiên Chúa. Đó cũng là điều chúng ta phải xác tín và làm chứng: “Ai nhìn lên Chúa sẽ vui tươi hớn hở, không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi. Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã nhận lời, cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn.” (Tv 34:6-7) Không ai lại không từng cảm nghiệm được hồng ân thương xót của Thiên Chúa, thậm chí là hằng ngày: Còn thức dậy mỗi sáng là nhờ hồng ân thương xót rồi.

Với thời gian, không gì có thể bền vững. Cái gì mới rồi sẽ cũ. Con người cũng vậy. Tuy nhiên, tình trạng “cũ” của Kitô hữu không phải là thể lý, mà là tinh thần. Chúng ta “cũ” vì sa ngã, vì lầm lạc, vì tội lỗi. Không gì có thể “đánh bóng” được linh hồn của chúng ta, chỉ có Bửu Huyết của Đấng Cứu Thế mới có thể “đánh bóng” được linh hồn chúng ta mà thôi.

Thánh Phaolô nói: “Phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi. Mọi sự ấy đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Kitô mà cho chúng ta được hoà giải với Người, và trao cho chúng tôi chức vụ hoà giải.” (2 Cr 5:17-18) Thật là diễm phúc cho chúng ta, dù chỉ là những tội nhân xấu xa vô cùng. Niềm hạnh phúc đó còn tăng thêm gấp bội, như Thánh Phaolô xác nhận: “Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hoà giải với Người. Người không còn chấp tội nhân loại nữa, và giao cho chúng tôi công bố lời hoà giải.” (2 Cr 5:19)

Thánh Phaolô vừa giải thích vừa kết luận, đồng thời cũng vừa truyền lệnh vừa nài xin: “Vì thế, chúng tôi là sứ giả thay mặt Đức Kitô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy. Vậy, nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hoà với Thiên Chúa. Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người.” (2 Cr 5:20-21) Ngài đau khổ để chúng ta hạnh phúc, ngài chịu chết để chúng ta được sống và sống dồi dào.

Trình thuật Lc 15:11-32 là dụ ngôn nổi bật nhất trong ba dụ ngôn về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Một hôm, những người thu thuế và những người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Những người Pharisêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.” (Lc 15:2) Đúng là những kẻ ảo tưởng, lòng đầy dao găm, đầy tính đố kỵ và ghen tỵ. Biết bọn họ đang tức tối, Đức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn “Người Cha Nhân Hậu.”

Một người cha có hai con trai, người con thứ xin chia phần tài sản, rồi đi ăn chơi xả láng, vung tay quá trán mà không cần biết đến ngày mai. Khi đã phung phá hết sạch thì gặp lúc trong vùng ấy xảy ra nạn đói, thế là anh ta bắt đầu túng thiếu, dở khóc dở cười, đành phải đi ở đợ và chăn heo cho một người dân trong vùng. Người khôn, của khó, anh ta đói meo, ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng mà cũng chẳng ai cho. Tủi nhục vô cùng, nhưng lực bất tòng tâm.

Anh ta chợt hồi tâm, nghĩ tới những người làm công cho cha được cơm dư gạo thừa, mà mình phải chịu đói khát. Cố gắng vượt qua mặc cảm, anh ta quyết định quay về xin lỗi cha, can đảm thú tội và nói không còn đáng gọi là con, chỉ xin cha coi mình như một người làm công, khổ mấy cũng cam chịu.

Thế nhưng hoàn toàn trái ngược với điều anh ta suy đoán, người cha lại bảo các đầy tớ đem áo đẹp cho anh ta mặc, xỏ nhẫn vào tay, xỏ dép vào chân. Người cha còn cho người đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để mở tiệc ăn mừng, đặc biệt là ông còn vui mừng tuyên bố: “Con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.” Tiếng đàn hát tưng bừng như lễ hội vì tiệc mừng bắt đầu khai mạc.

Người con cả trở về từ ngoài đồng, anh ta nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa nên hỏi xem có chuyện gì, người ta nói người em đã về và được người cha mở tiệc ăn mừng. Máu nóng bốc tới chỏm đầu, người anh nhất định không chịu vào nhà. Người cha ra năn nỉ thì anh ta so đo, nói rằng bao nhiêu năm qua chưa bao giờ có được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè, còn thằng em đi hoang với bọn điếm, nay trở về lại được ăn mừng.

Rất tâm lý và hiểu ý con trai nên người cha giải thích: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã CHẾT mà nay lại SỐNG, đã MẤT mà nay lại TÌM THẤY.” Chắc hẳn khi nghe cha nói vậy, anh ta vô cùng xấu hổ, và không thể không xin lỗi cha.

Đối với người con thứ, rõ ràng anh ta sai lầm và tội lỗi, khỏi phải bàn. Mỗi khi đề cập dụ ngôn này, ai cũng chỉ nhắm “mũi dùi” vào người con thứ, và anh ta bị “chết tên” với cái nickname là “đứa con hoang đàng.” Còn về người anh cả, người ta không nghĩ là anh ta cũng sai lầm và có tội. Làm anh là làm lớn, mà làm lớn thì có SAI cũng thành ĐÚNG. Có thể chúng ta cũng thường mạo nhận là “anh hai” để xỉa xói, lấn át hoặc chỉ trích người khác, không nhận mình sai lầm, chỉ muốn mọi người biết mình là đúng, nói gì cũng trúng.

Thật ra tội của người con cả có thể còn to hơn tội của người con thứ. Tại sao? Vì anh ta xúc phạm tới cả người cha và người em. Anh ta tự nhận là mình ngoan ngoãn hầu hạ cha, nhưng lại phản đối hành động nhân từ của người cha khi đón nhận em của anh ta. Rõ ràng anh ta vừa xúc phạm tới Tình Phụ Tử vừa xúc phạm tới Tình Huynh Đệ. Tình máu mủ ruột rà mà người con trưởng không cần biết đến. Đúng là tội tày trời mà!

Chưa hết, người con trưởng còn ích kỷ vì sợ thằng em hoang đàng kia “đụng chạm” đến quyền lợi của mình – tức là phần tài sản của anh ta. Thế nên anh ta cũng cảm thấy bất an. Chúng ta cũng ngấm ngầm “sợ” kiểu người con trưởng, mặc dù chẳng nói ra.

Người con thứ không thương cha, người con trưởng không thương cả cha và em. Thằng nào cũng ích kỷ, là đứa con “trời đánh” mà thôi. Mặc dù vậy, người cha vẫn hết lòng thương xót cả hai người con, trước sau như một. Chính người cha đã hòa giải và nối nhịp cầu yêu thương giữa đôi bờ ích kỷ của hai người con. Chúng ta cũng phải nối nhịp tình với nhau, bằng cách làm theo lời dạy của Chúa Giêsu: “Hãy có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ.” (Lc 6:36)

Đó là bài học thương xót. Lòng Chúa Thương Xót có từ đời đời, nhưng Giờ Thương Xót có hạn. Và giờ ấy đã điểm, ai đón nhận và thực thi thì mới được Thiên Chúa xót thương. Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ duy nhất, đặc biệt là mọi quyền hành đều được Chúa Cha trao hết cho Ngài rồi.

Như chúng ta đã biết, việc lên dây đàn là điều cần làm thường xuyên đối với các loại đàn dây như piano, mangdoline, guitar, đàn tranh, đàn kìm,… Phải làm ngay khi dây đàn chùng, không đúng cao độ chuẩn theo nguyên lý âm nhạc. Tương tự, tình cảm con người cũng sai nhịp lạc cung theo thời gian, và cũng cần thiết phải chấn chỉnh kịp thời. Đó là khoảnh khắc quan trọng: Ăn năn, đứng dậy, bước đi, trở về với Chúa và với nhau.

Phàm nhân là loài “nhân vô thập toàn.” Ai cũng bất chính và cần phải sám hối. Người lầm lỗi có can đảm trở về, nhưng người nhà có can đảm chấp nhận hay không lại là vấn đề khác. Người ta xin lỗi, mình có tha hay không, đó mới là vấn đề. Nhà văn Nam Cao có truyện “Chí Phèo” đề cập vấn đề này. Chí Phèo muốn làm người lương thiện mà người ta không cho anh ta cơ hội làm lại cuộc đời. Đó là “làn ranh mong manh” mà chúng ta phải xem lại. Tục ngữ có câu: “Có thương thì xương chẳng còn.” Thực sự rất “nhức nhối” và cần phải suy tư nhiều, nhất là trong Mùa Chay này.

Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con, xin tha thứ cho con, vì con có cả tội của người con trưởng và người con thứ. Xin giúp con biết hoán cải để trở nên khí cụ bình an và yêu thương của Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây