Suy niệm Thánh Lễ Trong Thời Gian Đại Dịch

Thứ bảy - 16/10/2021 08:33

Suy niệm Thánh Lễ Trong Thời Gian Đại Dịch

Lời Chúa: Mc 4,35-41

MỤC LỤC

  1. Bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô. 4
  2. Niềm tin trong cơn đại dịch. 12
  3. Thiên Chúa ở đâu giữa đại dịch?. 17
  4. Đức tin thời đại dịch. 23
  5. Vị thánh chúng ta cần đến trong cơn đại dịch. 28
  6. Sự chết, đau khổ, sợ hãi… 33
  7. Bài suy tư của Đức Thánh Cha. 41
  8. Chết đến nơi rồi 45
  9. Đức Giêsu, sự cần thiết cho cơn đại dịch Covid-19. 50
  10. Suy niệm Kinh Lạy Cha mùa dịch Covid-19. 54
  11. Chúa nói gì với ta qua cơn đại dịch?. 63
  12. Chọn lựa của người Kitô hữu giữa đại dịch Covid. 71
  13. Sao chưa có lòng tin?. 77
  14. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ. 81
  15. Suy niệm (TGM Giuse Nguyễn Năng) 84
  16. Sóng gió cuộc đời 86
  17. “Anh em vẫn chưa có lòng tin sao?”. 88
  18. Ơn thánh lạ lùng. 91
  19. Niềm tin vượt thắng sợ hãi 95
  20. Quyền năng của Chúa Giêsu. 97
  21. Sang bên kia bờ. 100
  22. Chúa làm yên lặng sóng gió. 103
  23. Khi Đức Giêsu ngủ say. 106
  24. Lòng tin. 110
  25. Sóng gió. 112
  26. Chưa có lòng tin. 114
  27. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 115
  28. Chú giải của Noel Quesson. 118
  29. Chú giải của Giáo phận Nha Trang. 121
  30. Người dựa vào chiếc gối mà ngủ. 123
  31. Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn. 126
  32. Suy niệm (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm) 129
  33. Quyền năng của Thiên Chúa. 133
  34. Bão táp cuộc đời – Cố Lm. Hồng Phúc. 142
  35. Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?. 144
  36. Sóng gió cuộc đời 148
  37. Tái tạo. 151
  38. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái 153
  39. Lời kêu xin. 171
  40. Tin cậy Thiên Chúa toàn năng. 173
  41. Muốn có đức tin mạnh – Cần phải thử thách. 178
  42. Thầy không lo sao?. 183
  43. Chất vấn. 186
  44. Ai có thể trở nên một người như thế?. 190
  45. Suy niệm của Achille Degeest. 193
  46. Đức tin trưởng thành. 195
  47. Các con không có lòng tin sao? – Noel Quesson. 199
  48. Mời gọi qua sông – Jean-Yves Garneau. 201
  49. Giông bão. 204
  50. Điều khiển. 206
  51. Bão tố. 208
  52. Cha em là người cầm lái. – Thiên Phúc. 211
  53. An tâm – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 213
  54. Biển đời và biển khơi – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền. 218
  55. Chúa luôn đồng hành với chúng ta. 221
  56. Vẫn chưa có lòng tin?. 224
  57. Lạy Thầy cứu chúng con với, chết mất 227
  58. Bão tố yên lặng. 230
  59. Bão biển – Lm VIKINI 233
  60. Những đợt sóng. 236
  61. Bão tố – Lm. Giuse Đỗ Vân Lực. 242
  62. Sao nhát thế? Anh em chưa có lòng tin. 246
  63. Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. 249
  64. Trong vòng tay Chúa. 262
  65. Gợi ý suy niệm của Hiền Lâm.. 266
  66. Suy niệm của Lm. Nguyễn Ngọc Thế. 269
  67. Đức Giêsu dẹp yên bão tố. 282
  68. Chú giải của Noel Quesson. 288
  69. Chú giải của Fiches Dominicales. 294
  70. Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt 301
  71. Chú giải của William Barclay. 303

1.    Bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô

Bài giảng của ĐTC trong giờ cầu nguyện và ban phép lành Urbi et Orbi

Đức Thánh Cha đã chủ sự buổi cầu nguyện lịch sử trong quảng trường hoàn toàn trống vắng những lại có đông đảo tín hữu tham dự từ khắp nơi trên thế giới tham dự. Ngài xin Chúa ban sức khỏe cho thể xác và an ủi trái tim. Sau khi chầu Thánh Thể, Đức Thánh Cha ban phép lành Mình Thánh Urbi et Orbi cho các tín hữu trong buổi cầu nguyện đặc biệt cầu cho thế giới trước đại dịch.

Lúc 6 giờ chiều ngày 27/03, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự giờ cầu nguyện tại quảng trường thánh Phêrô để cầu nguyện cho thế giới trước đại dịch virus corona. Giờ cầu nguyện bắt đầu với nghi thức cử hành Lời Chúa.

Đoạn Tin Mừng thánh Marco được đọc trong giờ cầu nguyện thuật lại sự kiện các môn đệ đang ở trên tàu, khi Chúa Giêsu đang ngủ, thì giông bão nổi lên. Các môn đệ hoảng sợ, đánh thức Ngài dậy và nói: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?” Chúa Giêsu đã truyền cho sóng im biển lặng và ngài bảo họ “Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”

Suy tư về đoạn Tin Mừng trên, Đức Thánh Cha mời gọi các tín hữu hãy mời Chúa vào cuộc đời chúng ta, hãy phó thác những khó khăn đau khổ cho Chúa, hãy tin rằng Chúa là Đấng yêu thương và yêu chương chúng ta nhất.

Sau đây là bài giảng của Đức Thánh Cha

Chúng ta ở trên cùng con thuyền và cần cùng nhau chèo để vượt qua sóng gió

”Khi chiều xuống” (Mc 4,35). Đó là câu mở đầu đoạn Tin Mừng chúng ta đã nghe. Từ nhiều tuần nay, dường như chiều đã xuống. Những bóng đen dầy đặc phủ trên các quảng trường, các đường phố và thành thị của chúng ta; chúng chiếm hữu cuộc sống chúng ta, làm đầy mọi sự bằng một sự im lặng gây choáng váng và một sự trống rỗng thê lương, làm tê liệt mọi sự khi nó đi qua: người ta cảm thấy điều ấy trong không khí, nhận thấy nó qua các cử chỉ, qua những cái nhìn. Chúng ta lo sợ và ngỡ ngàng. Như các môn đệ trong bài Tin Mừng, chúng ta bất ngờ bị bão tố hung bạo vùi dập. Chúng ta nhận thấy mình đang ở trên cùng một con thuyền, tất cả đều mong manh và mất hướng, nhưng đồng thời tất cả đều quan trọng và cần thiết, tất cả được kêu gọi cùng chèo với nhau, tất cả đều cần an ủi nhau. Tất cả chúng ta đều ở trên con thuyền ấy. Như những môn đệ trong bài Tin Mừng đồng thanh và lo âu nói với nhau: ”Chúng ta chết mất” (v.38), chúng ta cũng nhận thấy mình không thể tiến bước nếu mỗi người chỉ lo cho mình, nhưng phải cùng nhau.

Chúa Giêsu ngủ yên vì Ngài tín thác nơi Chúa Cha

Thật là dễ thấy mình ở trong hoàn cảnh như trình thuật này. Điều khó khăn là làm sao hiểu thái độ của Chúa Giêsu. Trong khi các môn đệ tự nhiên thấy hốt hoảng và tuyệt vọng, thì Chúa ở phần cuối thuyền, là phần sẽ bị chìm trước tiên. Ngài làm gì thế? Mặc dù những giao động, hối hả, Ngài vẫn ngủ yên, tín thác nơi Chúa Cha – đó là lần duy nhất trong Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu ngủ -. Và khi Ngài bị đánh thức dậy, Chúa cho gió yên biển lặng, rồi nói với các môn đệ với giọng khiển trách: ”Tại sao các con lại sợ? Các con chưa có đức tin sao?” (v.40).

Các môn đệ thiếu đức tin: họ không tin Chúa quan tâm đến họ

Chúng ta hãy tìm cách hiểu. Sự thiếu đức tin của các môn đệ hệ tại điều gì, một thái độ trái ngược với sự tin tưởng của Chúa Giêsu? Các môn đệ không ngừng tin nơi Chúa, và thực sự họ kêu cầu Ngài. Nhưng chúng ta hãy xem cách thức môn đệ kêu cầu: ”Thưa Thầy, Thày chẳng quan tâm gì đến sự kiện chúng con sắp chết sao?” (v. 38). ‘Thầy chẳng quan tâm’: họ nghĩ rằng Chúa Giêsu không đoái hoài gì đến họ, không chăm sóc họ. Giữa chúng ta, trong các gia đình, một trong những điều làm đau lòng nhất, đó là khi chúng ta nghe nói: ”Anh chẳng quan tâm gì đến em sao?”. Đó là một câu làm thương tổn và tạo nên bão tố trong tâm hồn. Câu ấy cũng làm tổn thương cả Chúa Giêsu. Vì chẳng có ai quan tâm đến chúng ta hơn Ngài. Thực vậy, sau khi được kêu cầu, Chúa đã cứu vớt các môn đệ thiếu lòng tin.

Bão tố cho thấy chúng ta đã bỏ qua điều nâng đỡ và ban sức mạnh cho chúng ta

Bão tố vạch trần sự dễ thương tổn của chúng ta và cho thấy những an ninh giả tạo và thừa thãi qua đó chúng ta đã xây dựng những chương trình hoạt động, những dự án, các tập quán và ưu tiên của chúng ta. Nó tỏ cho thấy chúng ta đã lơ là và bỏ qua điều nuôi dưỡng, nâng đỡ và ban sức mạnh cho cuộc sống và cộng đoàn của chúng ta. Bão tố để lộ tất cả những chủ tâm ”gói lại” và quên đi những gì đã nuôi dưỡng cái hồn của các dân tộc chúng ta; tất cả những toan tính gây mê với những tập quán có vẻ là ”cứu thoát”, nhưng không có khả năng tham chiếu những căn cội và nhắc nhớ tới các vị tiền bối của chúng ta, và vì thế khiến cho chúng ta không còn khả năng miễn dịch cần thiết để đương đầu với nghịch cảnh.

Bão tố cũng làm rơi mất những mánh khóe chúng ta dùng để ngụy trang ”cái tôi” của chúng ta, luôn lo lắng về hình ảnh của mình; một lần nữa, chúng ta khám thấy điều tốt lành là chúng ta cùng thuộc về nhau, cùng là anh chị em của nhau.

Chúng con đang ở giữa biển động, chúng con khẩn cầu Chúa: “Lạy Chúa, xin hãy thức dậy!”

“Tại sao các con sợ hãi? Các con chưa có niềm tin sao?”. Lạy Chúa, Lời Chúa chiều tối hôm nay đánh động và có liên hệ tới tất cả chúng con. Trong thế giới chúng con hiện nay, thế giới mà Chúa yêu thương nhiều hơn cả chúng con yêu, chúng con tiến bước rất mau lẹ, cảm thấy hùng mạnh và có khả năng trong mọi sự. Chúng con ham hố lợi lộc, để cho mình bị vật chất thu hút mất và bị choáng váng vì vội vã. Chúng con không dừng lại trước những lời nhắc nhở của Chúa, không thức tỉnh trước những chiến tranh và bất công trên thế giới, chúng con đã không lắng nghe tiếng kêu của những người nghèo và của trái đất của chúng con đang bị bệnh nặng. Chúng con cứ tiếp tục tiến bước không chút sợ hãi, nghĩ rằng mình sẽ luôn khỏe mạnh trong một thế giới bị bệnh. Giờ đây, trong lúc chúng con đang ở giữa biển động, chúng con khẩn cầu Chúa: “Lạy Chúa, xin hãy thức dậy!”

Đây là thời điểm chọn lựa điều gì đáng kể và điều gì chóng qua

“Tại sao các con sợ hãi? Các con chưa có đức tin sao?” Lạy Chúa, Chúa kêu gọi chúng con, một lời kêu gọi hãy tin tưởng. Không phải chỉ tin Chúa hiện hữu cho bằng hãy đến cùng Chúa và tín thác nơi Chúa. Trong Mùa Chay này vang dội lời kêu gọi cấp thiết của Chúa: ”Hãy hoán cải”, ”hãy hết lòng trở về cùng Ta” (Gl 2,13). Chúa gọi chúng con hãy đón nhận thời điểm thử thách này như ‘một thời điểm chọn lựa’. Đây không phải là thời điểm phán xét của Chúa, nhưng là lúc chúng con phải suy xét: thời điểm chọn lựa điều gì đáng kể và điều gì chóng qua, tách biệt điều cần thiết ra khỏi điều không cần. Lạy Chúa, đây là lúc điều chỉnh lại hành trình cuộc sống của chúng con hướng về Chúa và hướng về tha nhân. Và chúng con có thể nhìn bao nhiêu bạn đồng hành gương mẫu, trong sợ hãi, họ đã phản ứng bằng cách hiến mạng sống mình. Đó là sức mạnh tác động được Thánh Linh đổ xuống và nhào nặn thành những sự hiến thân can đảm và quảng đại.

Cầu nguyện và phục vụ âm thầm: đó là những khí giới chiến thắng của chúng ta

Đó là sự sống của Thánh Linh có khả năng cứu chuộc, nâng cao giá trị và tỏ cho thấy cuộc sống của chúng con được hình thành và nâng đỡ nhờ những người thường – những người thường bị quên lãng, – không được báo chí nói đến, không xuất hiện trong những cuộc biểu dương mới nhất, nhưng chắc chắn, họ đang viết lên những biến cố quan trọng ngày nay trong lịch sử chúng con: các bác sĩ, y tá nam nữ, các nhân viên siêu thị, nhân viên vệ sinh, những người giúp việc gia đình, các nhân viên chuyên chở, các nhân viên công lực, những người thiện nguyện, các linh mục, nữ tu và bao nhiêu người khác đã hiểu rằng không ai tự cứu thoát một mình. Đứng trước đau khổ, qua đó người ta đo lường mức độ phát triển đích thực của các dân tộc chúng con, chúng con khám phá và cảm nghiệm lời nguyện tư tế của Chúa Giêsu: ”Ước gì tất cả chúng được nên một” (Ga 17,21). Bao nhiêu người hằng ngày thực hành kiên nhẫn và đổ tràn hy vọng, chú tâm không gieo rắc kinh hoàng nhưng gieo vãi tinh thần đồng trách nhiệm. Bao nhiêu người cha, người mẹ, ông bà, giáo chức, chỉ cho các trẻ em chúng con – qua những cử chỉ bé nhỏ và thường nhật – cách thức đương đầu và vượt thắng một cuộc khủng hoảng, bằng cách điều chỉnh các thói quen, ngước mắt lên cao và khích lệ cầu nguyện. Bao nhiêu người cầu nguyện, dâng hy sinh và chuyển cầu cho ích chung của tất cả mọi người. Cầu nguyện và phục vụ âm thầm: đó là những khí giới chiến thắng của chúng ta.

Hãy mời Chúa Giêsu bước lên những con thuyền cuộc sống của chúng ta

”Tại sao các con sợ hãi? Các con chưa có đức tin sao?”. Khởi đầu đức tin là biết mình cần được cứu độ. Chúng ta không tự mãn, chỉ tự mình thôi thì chúng ta sẽ bị chìm; chúng ta cần Chúa như những người hải hành xưa kia cần những vì sao. Chúng ta hãy mời Chúa Giêsu bước lên những con thuyền cuộc sống của chúng ta. Hãy phó thác cho Chúa những lo sợ của chúng ta để Ngài chiến thắng chúng. Như những môn đệ chúng ta sẽ cảm nghiệm thấy rằng có Chúa ở trên thuyền, thuyền sẽ không bị đắm. Vì sức mạnh của Thiên Chúa là: tất cả những gì xảy ra cho chúng ta, cả những điều bất hạnh, đều mưu ích cho chúng ta. Chúa đưa sự thanh thản vào trong những bão tố của chúng ta, vì với Thiên Chúa, sự sống sẽ không bao giờ chết.

Chúa mời gọi chúng ta hãy đánh thức và khởi động tình liên đới và hy vọng

Chúa đặt câu hỏi cho chúng ta, giữa bão tố của chúng ta, Chúa mời gọi chúng ta hãy đánh thức và khởi động tình liên đới và hy vọng, có khả năng mang lại sự vững chắc, nâng đỡ và mang lại ý nghĩa cho những lúc này, trong đó tất cả dường như bị chìm. Chúa thức dậy để đánh thưc và hồi sinh niềm tin của chúng ta nơi sự phục sinh.

Trong thập giá của Chúa chúng ta được cứu độ

Chúng ta có một cái neo; trong thập giá của Chúa chúng ta được cứu độ. Chúng ta có một hoa tiêu: trong thập giá của Ngài chúng ta được cứu chuộc. Chúng ta có một hy vọng: trong thập giá của Chúa, chúng ta được chữa lành và ấp ủ vì không có gì và không một ai có thể tách biệt chúng ta ra khỏi tình thương cứu độ của Chúa. Giữa tình trạng cách ly, trong đó chúng ta đang thiếu thốn tình cảm quí mến và những cuộc gặp gỡ, chịu đựng bao nhiêu thiếu thốn, một lần nữa chúng ta nghe lời loan báo cứu độ: Chúa đã sống lại và Ngài sống cạnh chúng ta. Chúa kêu gọi chúng ta, từ trên thập giá của Ngài, hãy tìm lại cuộc sống đang chờ đợi chúng ta, và hãy nhìn đến những người đang kêu chúng ta hãy củng cố, nhìn nhận và khởi động ơn thánh đang ở trong chúng ta. Đừng dập tắt tim đèn còn ngún khói (Xc Is 42,3), không bao giờ yếu liệt và hãy để cho niềm hy vọng được bùng lên.

Đón nhận thập giá là can đảm đón nhận tất cả các nghịch cảnh, đón nhận hy vọng

Đón nhận thập giá của Chúa có nghĩa là tìm lại can đảm để đón nhận tất cả các nghịch cảnh của thời điểm hiện nay, tạm bỏ sự lo lắng của chúng ta về sự toàn năng và chiếm hữu, để nhường chỗ cho tinh thần sáng tạo mà chỉ có Thánh Linh mới có khả năng khơi dậy. Điều này có nghĩa là tìm lại can đảm mở ra những không gian trong đó tất cả mọi người đều thể cảm thấy được kêu gọi và thực hiện những hình thức mới của lòng hiếu khách, tình huynh đệ và liên đới. Trong thập giá của Chúa, chúng ta được cứu thoát để đón nhận hy vọng và để cho niềm hy vọng ấy củng cố và nâng đỡ tất cả các biện pháp và những con đường khả dĩ giúp chúng ta bảo tồn bản thân và giữ gìn. Đón nhận Chúa để đón nhận hy vọng: đó là sức mạnh của đức tin, giải thoát khỏi sợ hãi và mang lại hy vọng.

Xin Chúa lập lại lần nữa: ”Các con đừng sợ”

”Tại sao các con sợ hãi? Các con chưa có đức tin sao?” Anh chị em thân mến, từ nơi này, nhắc nhớ đức tin kiên vững của thánh Phêrô, tối hôm nay tôi muốn phó thác tất cả anh chị em cho Chúa, nhờ lời chuyển cầu của Đức Mẹ là sức khỏe của dân Ngài, là Sao biển giữa bão tố. Từ những hàng cột này như vòng tay ôm lấy thành Roma và thế giới, ước gì phúc lành của Thiên Chúa đổ xuống trên anh chị em như một vòng tay an ủi. Lạy Chúa, xin Chúa chúc lành cho thế giới, xin ban sức khỏe cho thân xác và an ủi cho tâm hồn. Chúa dạy chúng con đừng sợ hãi. Nhưng niềm tin của chúng con yếu ớt, và chúng con nhát đảm. Nhưng lạy Chúa, Chúa không bỏ mặc chúng con trong bão tố. Xin Chúa lập lại lần nữa: ”Các con đừng sợ” (Mt 28,5). Và cùng với thánh Phêrô, ”chúng con phó thác cho Chúa mọi lo âu, vì Chúa chăm sóc chúng con” (Xc 1 Pr 5,7).

 

 

2.    Niềm tin trong cơn đại dịch

(Suy niệm của Sương Mai – Nguồn: dongten.net)

“Ai trong chúng ta cũng thích biển lặng sóng yên, nhưng giông tố lại giúp ta nhận ra mình: yếu đuối, chao đảo, mong manh, bất lực, không đủ khả năng đương đầu với bao thách đố. Giông tố đưa ta đến với Ðức Giêsu, và phó thác cho sự trợ giúp của Ngài” (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)

Đã hơn một năm rưỡi trôi qua kể từ khi đại dịch Covid-19 bùng phát tại Vũ Hán, rồi sau đó nhanh chóng lan qua nhiều quốc gia khác trên thế giới. Nhân loại phải đối diện với nhiều khó khăn, phức tạp về mọi phương diện trong cuộc sống, trong đó đời sống tâm linh cũng bị ảnh hưởng không kém. Con người dường như đang thích nghi và quen dần với cuộc sống mới khi có thêm một thành viên mới lạ, một vị khách không mời mà tới bỗng đâu xuất hiện: Virus Corona

Virus corona đúng là vị khách không mời mà tới nhưng lại đem đến cho thế giới nhiều bài học ý nghĩa. Linh mục nhà văn Nguyễn Trung Tây trong buổi phỏng vấn trên đài Vietcatholic về đề tài “Những suy tư thần học về đại dịch Covid-19” dí dỏm gọi Virus Corona là “Ngôn sứ Sars-Cov-2”.

Mang kiếp làm người, không ai có thể tránh khỏi những bão tố của cuộc đời, nó như một định luật tất yếu của cuộc sống. Bão tố cuộc đời có khi là những tai nạn, những hiểm nguy, những trái ý, thất bại, những điều không may xảy đến ngoài ý muốn, cũng có khi là những con sóng nhấp nhô lúc bừng, lúc lặng trong tâm hồn của mỗi người.

Tin mừng Mc 4,35-41 trong Chúa nhật thứ 12 thường niên năm B vang lên trở thành sứ điệp đầy ý nghĩa về niềm tin của con người vào Thiên Chúa, đặc biệt trong cơn đại dịch Covid-19 đang hoành hành như hiện nay. Nhìn vào hình ảnh của các Tông đồ khi đối diện với trận cuồng phong, ta thấy được phần nào về thế giới, về thái độ của con người khi đối diện với bão tố của cuộc đời. Vậy thái độ đó là gì?

Thái độ của con người trước bão tố cuộc đời

Một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền khi Chúa Giêsu đang cùng các Tông đồ trên thuyền đi qua “bờ bên kia” (Mc 4,37). Bờ bên kia là vùng Thập Tỉnh, nơi ở chủ yếu của dân ngoại. Các Tông đồ cảm thấy hoang mang, sợ hãi, dường như các ông không còn đủ bình tĩnh để biết mình phải làm gì. Các ông cầu cứu đến Thầy Giêsu nhưng các ông thấy Thầy vẫn đang dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ ở đàng lái (Mc 4,38a). Các ông trách Thầy “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?” (Mc 4,38b).

Thái độ của các Tông đồ trước trận cuồng phong cho ta thấy được điều gì nơi chính mình?

Ta có thái độ nào? Phản ứng của ta ra sao? Suy nghĩ của ta như thế nào? Và nhất là niềm tin của ta vào Thiên Chúa ở mức độ nào khi đối diện với những nghịch cảnh của cuộc đời, đặc biệt trong bối cảnh đại dịch Covid-19 vẫn đang hoành hành?

Nhiều người hoang mang, sợ hãi, thậm chí bị stress, mất niềm tin vào Thiên Chúa vì những khó khăn xảy đến do đại dịch Covid-19: thất nghiệp, nghèo đói, khủng hoảng kinh tế, đau khổ vì mất người thân, áp lực công việc nơi các bác sĩ, nhân viên y tế…Còn rất nhiều khó khăn khác mà con người vẫn đang phải đối diện từng ngày, từng giờ khi đại dịch vẫn còn hoành hành.

Con người tự hỏi: liệu Thiên Chúa ở đâu trong biến cố này? Ngài có đang “ngủ” không? Ngài có nghe thấy tiếng con cái Ngài đang ngày đêm kêu van lòng thương xót của Ngài không? Qua những kinh nghiệm trong đời sống đức tin, ta nhận ra rằng chỉ trong khó khăn, nghịch cảnh, ta mới biết thật về niềm tin của ta vào Thiên Chúa. Có khi nào ta cũng trách Chúa như các Tông đồ xưa “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao ?” (Mc 4,38b).

Quyền năng và lòng thương xót của Thiên Chúa

Bản chất của Thiên Chúa là tình yêu, vì thế làm sao Ngài có thể làm ngơ trước những đau khổ, những giông tố xảy đến cho con người vốn là loại thụ tạo được Ngài yêu thương hết mực như người cha đối với con mình (Hs 11,1) Vậy tại sao trong cơn bão tố, cuồng phong ập đến mà Thầy Giêsu vẫn ngủ? Ngài không quan tâm, lo lắng gì sao?

Chúa ngủ, Chúa thinh lặng, không phải vì Ngài không biết hay không quan tâm nhưng chính là Ngài đang muốn dạy các Tông đồ một bài học. Ngài muốn cho các ông thấy được niềm tin của các ông dành nơi Chúa như thế nào? Các ông có đủ kiên nhẫn đối diện với trận cuồng phong để tín thác vào quyền năng và lòng thương xót của Ngài không?

Trong cơn đại dịch, ta vẫn cầu nguyện rất nhiều, xin Chúa cho cơn đại dịch mau chấm dứt nhưng cho đến bây giờ đại dịch vẫn còn tiếp tục và bùng phát, nhiều khi ta cảm thấy như vắng bóng Thiên Chúa, Ngài có đang “ngủ” không?

Vâng, nếu như Ngài có đang “ngủ” thì ta vẫn an tâm vì Ngài chính là vị thuyền trưởng đang ở đàng lái đồng hành với ta. Dù bão tố, cuồng phong đến đâu, nếu có Thầy Giêsu mọi sự đều sẽ ổn. Điều quan trọng là ta hãy tin tưởng kêu lên Ngài như các Tông đồ xưa, ta đừng để mình bị Chúa trách: “Sao kém lòng tin”

Vâng, ta cứ tin rồi Ngài sẽ “thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi!” (Mc 4,39).

Đứng trước những trận cuồng phong, con người dần nhận ra sự giới hạn, mong manh của phận người, con người thấy mình bất lực trước sức mạnh đáng sợ của bão tố cuộc đời.

 

Virus Corona làm cho nhiều người khiếp sợ, nhưng có một loại virus đáng sợ hơn, đó là virus của lòng người thiếu lương thiện thể hiện qua sự ích kỷ, tham lam, kiêu căng, thù hận, ghen ghét… Con người đã có lúc tự mãn nghĩ rằng “mình làm được mọi sự” nhưng qua biến cố đại dịch Covid-19, làm sao con người dám tiếp tục tự hào về điều đó.

Chỉ có Thiên Chúa là Đấng quyền năng mới làm được mọi sự vì Ngài là chủ của muôn loài. Con người vốn mỏng manh, yếu đuối và giới hạn nhưng “sức mạnh của Thiên Chúa biểu lộ trọn vẹn nơi sự yếu đuối của con người” (2 Cr 12,9). Thiên Chúa chỉ muốn nơi ta một điều, đó là tin và Ngài. Niềm tin sẽ dẫn ta đến ơn cứu độ, niềm tin cho ta hy vọng một ngày không xa, con sóng đại dịch Covid-19 sẽ mau chấm dứt. Gió covid sẽ tắt, và biển đại dịch sẽ lặng như tờ nhờ quyền năng và lòng thương xót của Thiên Chúa. Chỉ cần có Chúa, chỉ cần ta vững tin và kiên nhẫn phó thác vào tình thương của Thiên Chúa rồi mọi sự sẽ bình yên trở lại.

“Ngôn sứ Sars Cov-2” mang lại cho ta nhiều thông điệp ý nghĩa, ta hãy nhìn mọi sự trong cái nhìn của đức tin rồi ta sẽ thấy nhiều “phép màu” hiện ra, tình Chúa và tình người luôn thể hiện trong mọi biến cố. Ta đừng hoang mang, sợ hãi nhưng “mọi âu lo, trút cả cho Thiên Chúa vì Người chăm sóc anh em” (1Pr 5,7). Cuộc sống mới của thế giới khi có thêm “thành viên mới” chắc chắn sẽ có nhiều thay đổi nhưng dù trong hoàn cảnh nào “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến Người” (Rm 8,28).

Lạy Thầy Giêsu, mang kiếp làm người, khi đối diện với cuộc sống đầy biến chuyển và phức tạp, con không thể tránh khỏi những trận cuồng phong, bão tố của cuộc đời. Có khi là do ngoài ý muốn nhưng cũng có khi do chính con tự tạo nên. Dù trong hoàn cảnh nào, con tin Thầy vẫn luôn đồng hành bên con, cùng con lênh đênh trên chiếc thuyền cuộc đời. Con an tâm vì có Thầy, nếu một lúc nào đó đức tin của con bị chao đảo bởi sóng gió cuộc đời hay chính trong lòng con, con xin Thầy ban thêm ơn đức tin cho con, xin vực con lên, xin kéo con ra khỏi vòng xoáy của sóng gió cuộc đời để cùng với Thầy, con cập bến bình an trên Nước Trời. Amen.

 

 

3.    Thiên Chúa ở đâu giữa đại dịch?

(Chia sẻ của Lm. James Martin, SJ.)

Trước sự lan tràn của virus corona hay còn gọi là Covid-19 và sự giết chóc của nó, nhiều người trong chúng ta đặt câu hỏi “tại sao?” Tại sao lại có đại dịch này? Tại sao Chúa để cho dịch bệnh xảy ra? Tại sao Chúa không can thiệp khi chúng ta kêu cầu trong đau đớn và thậm chí có người sợ hãi thất vọng? Cha James Martin, một linh mục dòng Tên người Mỹ, chia sẻ những suy tư của ngài về mầu nhiệm sự dữ. Đối với cha, câu trả lời vẫn là không có câu trả lời. Nhưng cha xác tín rằng chúng ta có thể tìm câu trả lời của đau khổ nơi Chúa Giêsu. Qua cuộc đời của Chúa Giêsu, Kitô hữu biết rằng Con Thiên Chúa đã trải nghiệm và biết hết những đau khổ của phận người và chắc chắn Ngài không bỏ rơi chúng ta. Và những người không phải Kitô hữu cũng tìm được nơi Chúa Giêsu một gương mẫu cho cuộc sống. Vấn đề là chúng ta có tin vào một Thiên Chúa mà chúng ta không hiểu không?

James Martin SJ

Cha Martin chia sẻ: “Mùa hè năm ngoái tôi phải đi hóa trị. Và mỗi khi tôi đi qua cánh cửa có bảng ghi “Khoa Ung thư xạ trị”, trái tim tôi dường như hụt đi một nhịp. Trong khi tình trạng bệnh của tôi không nguy hiểm lắm (khối u của tôi là lành tính, và đôi khi người ta cần xạ trị), hàng ngày tôi đã gặp những người cận kề với cái chết.

Cuộc “hẹn” của mỗi người

Trong sáu tuần lễ, mỗi ngày tôi đón một chiếc taxi và nói, làm ơn đưa tôi đến đường 68 và York. Khi đến nơi, tôi dừng lại ở một nhà thờ gần đó để cầu nguyện. Sau đó, trên đường đi đến nơi hẹn làm hóa trị, nằm trong một khu phố đầy các bệnh viện, tôi đã đi ngang qua những bệnh nhân ung thư bị rụng tóc, những ông già bà cụ kiệt sức phải ngồi xe lăn, được các nhân viên chăm sóc y tế tại gia đẩy đi và những người vừa mới phẫu thuật. Nhưng trên cùng những vỉa hè đó, tôi gặp các bác sĩ bận rộn, những y tá tươi cười và các thực tập viên háo hức, và nhiều người khác nhìn có vẻ rất khỏe mạnh. Một ngày nọ, tôi chợt nhận ra: Tất cả chúng ta sẽ đến đường 68 và York, mặc dù tất cả chúng ta đều có những giờ hẹn khác nhau của mình.

Thiên Chúa ở đâu trong tất cả những điều này?

Chỉ trong vài tuần qua, hàng triệu người bắt đầu lo sợ rằng họ đang đi đến cuộc hẹn của mình với vận tốc kinh hoàng, do đại dịch Covid-19. Sự kinh hoàng do lây nhiễm lan nhanh cộng thêm cú sốc bởi sự khởi phát đột ngột của nó. Là một linh mục, tôi đã nghe thấy các cảm xúc tuôn tràn như núi lở trong tháng vừa qua: hoảng loạn, sợ hãi, giận dữ, buồn bã, bối rối và tuyệt vọng. Càng ngày tôi càng cảm thấy như mình sống trong một bộ phim kinh dị, nhưng theo bản năng, tôi đã tắt cuốn phim này đi vì nó gây quá nhiều xáo trộn. Và ngay cả những người sùng đạo nhất cũng hỏi tôi: Tại sao điều này xảy ra? Và: Thiên Chúa ở đâu trong tất cả những điều này?

Mầu nhiệm sự dữ

Về cơ bản, nó giống như câu hỏi mà mọi người đặt ra khi một cơn bão tước đi hàng trăm mạng sống hoặc khi một đứa trẻ chết vì ung thư. Nó được gọi là “vấn đề đau khổ”, “mầu nhiệm về sự dữ’, … và nó là một câu hỏi mà các vị thánh và các nhà thần học đã phải vật lộn trong nhiều thiên niên kỷ. Câu hỏi về nỗi đau khổ tự nhiên (từ bệnh tật hoặc thiên tai) khác với câu hỏi về “sự ác luân lý”. Nhưng bỏ qua  phân biệt thần học này, câu hỏi hiện nay đã làm mệt mỏi tâm trí của hàng triệu người có đức tin, của những người mất can đảm với số người chết đang gia tăng đều đặn, của những người đấu tranh với những câu chuyện về các bác sĩ buộc phải phân loại bệnh nhân và những người giật mình trước những bức ảnh của những hàng dài các quan tài: Tại sao?

Đau khổ để thử thách, tôi luyện đức tin?

Qua nhiều thế kỷ, nhiều câu trả lời về đau khổ tự nhiên đã được đưa ra; tất cả đều muốn trả lời câu hỏi theo một cách nào đó. Phổ biến nhất là câu trả lời cho rằng đau khổ là một thử thách. Đau khổ thử thách đức tin của chúng ta và củng cố nó, như lời thánh Gia-cô-bê: “Thưa anh chị em, bất cứ khi nào anh chị em gặp bất kỳ thử thách nào, đừng xem nó là điều gì khác hơn là niềm vui, bởi vì anh chị em biết rằng thử thách đức tin sẽ làm cho nó kiên vững”. Nhưng trong khi giải thích đau khổ như một thử thách có thể giúp ích trong các khó khăn nho nhỏ (ví dụ như sự kiên nhẫn được kiểm tra bởi một người gây phiền hà), thì nó thất bại trong những trải nghiệm đau đớn nhất của con người. Có phải Chúa gửi bệnh ung thư đến để thử thách một đứa trẻ? Đúng là cha mẹ của em bé có thể học được điều gì đó về sự kiên trì hoặc đức tin, nhưng cách tiếp cận đó có thể khiến Chúa trở thành một con quái vật.

Đau khổ là hình phạt của tội lỗi?

Cũng có lập luận cho rằng đau khổ là một hình phạt của tội lỗi, một cách giải thích vẫn còn phổ biến giữa một số tín hữu (họ thường nói rằng Chúa trừng phạt những người hoặc những nhóm mà không cùng ý kiến với họ). Nhưng chính Chúa Giêsu đã bác bỏ lối suy nghĩ đó khi Ngài gặp một người mù như câu chuyện được kể lại trong Tin Mừng thánh Gioan chương 9: Thưa Thầy, ai là người đã phạm tội, người đàn ông này hoặc cha mẹ anh ta, khiến anh ta sinh ra đã bị mù? Chúa Giêsu trả lời: “Không phải người đàn ông này cũng không phải cha mẹ của anh ta đã phạm tội”. Đây là lời bác bỏ dứt khoát của Chúa Giêsu về hình ảnh một Chúa Cha tàn ác. Trong Tin Mừng Thánh Luca, Chúa Giêsu trả lời câu chuyện về tháp Babel bằng đá đã đổ xuống và đè chết đám đông dân chúng: Anh em nghĩ rằng họ là những kẻ tội lỗi tồi tệ hơn tất cả những người khác sống ở Giêrusalem sao? Tôi nói với anh em không phải như vậy.”

Tam đoạn luận

Sự nhầm lẫn chung của các tín hữu được gói gọn trong cái được gọi là tam đoạn luận không chắc chắn, có thể được tóm tắt như sau: Thiên Chúa hoàn toàn quyền năng, do đó, Thiên Chúa có thể ngăn chặn đau khổ. Nhưng Thiên Chúa không ngăn cản đau khổ, do đó, Thiên Chúa không phải là toàn năng hoặc không hoàn toàn yêu thương.

Nguyên nhân của đau khổ: Chúng ta không biết!

Cuối cùng, câu trả lời trung thực nhất cho câu hỏi tại sao virut Covid-19 lại giết chết hàng ngàn người, tại sao các bệnh truyền nhiễm lại tàn phá nhân loại và tại sao lại có đau khổ, đó là: Chúng ta không biết. Đối với tôi, đây là câu trả lời trung thực và chính xác nhất. Người ta cũng có thể nghĩ rằng virus là một phần của thế giới tự nhiên và bằng một cách nào đó đóng góp cho cuộc sống, nhưng cách giải thích này không thể dùng để nói chuyện với một người bị mất bạn bè hoặc người thân. Một câu hỏi quan trọng đối với những người có đức tin trong những lúc đau khổ là: Bạn có thể tin vào một Thiên Chúa mà bạn không hiểu không?

Câu trả lời là Chúa Giêsu

Nhưng nếu mầu nhiệm đau khổ không thể giải đáp được thì các tín hữu có thể đi tìm lời giải đáp ở đâu trong những lúc như thế này? Đối với người Kitô hữu và có lẽ ngay cả đối với người khác, câu trả lời là Chúa Giêsu.

Một Giêsu sống trong một thế giới với những giới hạn của con người

Các Kitô hữu tin rằng Chúa Giêsu vừa hoàn toàn là Thiên Chúa vừa hoàn toàn là con người. Tuy nhiên, đôi khi chúng ta bỏ qua phần thứ hai. Giêsu thành Nazareth được sinh ra trong một thế giới của bệnh tật. Trong cuốn sách “Đá và phân, dầu và nước bọt”, về cuộc sống hàng ngày ở Galilê vào thế kỷ thứ nhất, Jodi Magness, một học giả về Do Thái giáo thời kỳ đầu, gọi môi trường mà Chúa Giê-su sống bẩn thỉu, tồi tệ và không lành mạnh. John Dominic Crossan và Jonathan L. Reed, các học giả về bối cảnh lịch sử của Chúa Giêsu, đã tổng hợp những điều kiện sống này trong một câu nói nghiêm túc trong cuốn sách “Khai quật Giêsu”: “Một trận cúm, một cơn cảm lạnh, hay một cái răng bị sưng có thể giết chết người. Đây là thế giới của Giê-su.”

Đối với Kitô hữu: Chúa Giêsu là con người và cảm hiểu hết những bệnh tật

Hơn nữa, trong sứ vụ công khai của mình, Chúa Giêsu liên tục tìm kiếm những người bị bệnh. Hầu hết các phép lạ của Ngài là chữa lành khỏi bệnh tật và khuyết tật: các căn bệnh về da (thường được gọi chung là phong cùi), chứng động kinh, một người phụ nữ bị rong kinh, một bàn tay bại liệt, mù lòa, câm điếc, bất toại. Trong những thời điểm đáng sợ này, các Kitô hữu có thể thấy thoải mái khi biết rằng khi họ cầu nguyện với Chúa Giêsu, họ đang cầu nguyện với một người hiểu họ không chỉ bởi vì Ngài là Thiên Chúa và biết tất cả mọi sự, mà bởi vì Ngài là con người và đã có kinh nghiệm về tất cả những điều này.

Đối với người không phải Kitô hữu: Chúa Giêsu là mẫu gương chăm sóc bệnh nhân, với trái tim cảm thương

Nhưng những người không phải là Kitô hữu cũng có thể xem Chúa Giêsu như một gương mẫu chăm sóc người bệnh. Không cần phải nói, khi chăm sóc cho người bị nhiễm virus corona, người ta cần thực hiện các biện pháp phòng ngừa cần thiết để không lây nhiễm bệnh. Nhưng đối với Chúa Giêsu, người bệnh hay người sắp chết không phải là người khác, không phải là người đáng trách, mà là anh chị em của chúng ta. Khi Chúa Giêsu thấy một người có khốn khổ, các Tin mừng cho chúng ta biết rằng trái tim của Ngài đã bị lay động bởi lòng thương xót. Ngài là mẫu gương về cách thế chúng ta sống trong cuộc khủng hoảng này: với những trái tim xúc động vì thương xót.

Đối với tôi, Chúa Giêsu là khuôn mẫu cho cuộc sống

Bất cứ khi nào tôi cầu nguyện trong nhà thờ gần đường 68 và York, tôi dừng lại trước một bức tượng Chúa Giêsu, đôi tay Ngài vươn ra, trái tim Ngài lộ ra. Chỉ là một bức tượng thạch cao, đó không phải là tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời, nhưng nó rất có ý nghĩa với tôi. Tôi không hiểu tại sao mọi người chết, nhưng tôi có thể đi theo một người, là Đấng cho tôi một khuôn mẫu cho cuộc sống.” (The New York Times 22/03/2020)

 

 

4.    Đức tin thời đại dịch

Đại dịch Covid-19 vẫn đang trở nên quá khó hiểu và đáng sợ với hàng triệu người dân cả nước. Việt Nam đang chứng kiến hàng chục ngàn người nhiễm bệnh và một số đã phải ra đi. Nếu tình hình không mấy khả quan, số ca nhiễm và tử vong vẫn tiếp tục gia tăng từng ngày. Cuộc khủng hoảng này đang khiến cộng đồng đặt lại vấn đề về y tế, đạo đức và hậu cần. Nhưng chính nó cũng đang chất vấn những người có đức tin. Đức tin của bạn như thế nào? Liệu nó có thể giúp bạn vượt qua cơn đại dịch này không? Ở đây, Cha James Martin, S.J. sẽ giúp bạn một vài phương thế sống đức tin thời đại dịch.

Chống lại sự hoang mang là phương thế đầu tiên. Điều này không có nghĩa là bạn sẽ không còn lo lắng nữa, hay cứ phớt lờ những lời khuyên hữu ích của các chuyên gia y tế và các biện pháp phòng chống dịch cộng đồng. Thi thoảng cảm thấy lo lắng là chuyện hết sức bình thường. Nhưng mọi chuyện sẽ khác nếu lo lắng kéo dài, ảnh hưởng đến các hoạt động hằng ngày, và khiến bạn cảm thấy sợ hãi. Trước cơn khủng hoảng của đại dịch, làm sao con người có thể bình tĩnh vượt qua? Làm sao có thể cảm thấy bình an và hy vọng nội tâm? Chính Thiên Chúa sẽ mang lại niềm hy vọng, sự bình an cho bạn chứ không phải hoang mang, hãi sợ.

Thánh Inhaxiô thường nói về hai chuyển động trong đời sống nội tâm: một lôi kéo bạn tiến gần tới Chúa, và một đẩy bạn ra xa Người. Chuyển động lôi kéo bạn ra xa Chúa, thánh Inhaxiô gọi là thần dữ, gây ra “sự cắn rứt, làm buồn phiền và đặt chướng ngại bằng cách gây băn khoăn, lo lắng với những lý lẽ giả tạo để người ta khỏi tiên tới.” (LT 315). Tin tưởng vào những lời dối trá, đồn thổi, hay đầu hàng chỉ khiến bạn thêm hoang mang, hoảng sợ mà thôi. Bạn nên tin tưởng vào những lời khuyên của các chuyên gia y tế hơn là của những người đang sợ hãi, lo lắng.

Hoang mang dễ khiến bạn bối rối, hãi sợ dễ lấy đi ơn trợ giúp Chúa muốn ban cho bạn. Tất nhiên, hoang mang, sợ hãi không đến từ Thiên Chúa. Vậy điều gì đến từ Thiên Chúa? Thánh Inhaxiô nói rằng, Thần khí của Thiên Chúa, hay thần lành, “đem đến sự can đảm và sức mạnh, an ủi và ơn soi sáng cùng bình an.” (Lt 315). Và đây là cơ hội tin tưởng vào sự bình tĩnh và hy vọng bạn đang cảm nhận. Hãy lắng xuống và bắt đầu nghe lời thì thầm của Thần Khí. Chúa Giêsu sẽ đến bên và an ủi bạn: “Đừng sợ!” như Người đã nhiều lần trấn an các môn đệ năm xưa.

Đừng sợ! Chính Thầy đây mà!

Thứ đến, bạn chớ để mình trở thành con cái của sự dữ. Một câu chuyện thật buồn xảy ra ở NewYork thời điểm này năm ngoái. Khi một ông già người Trung Quốc bước lên tàu điệm ngầm, cả toa la hét, bỏ chạy, và bắt đầu những lời thoá mạ với ông vì cho rằng Trung Quốc đã để cho Covid-19 lây lan. Thật thế, trong những thời điểm căng thẳng, nhất là giữa đại dịch này, chống lại những cám dỗ đó của ma quỷ không phải chuyện dễ dàng. Đại dịch này có lẽ không phải là căn bệnh của Trung Quốc, hay vi rút Vũ Hán gì đó. Nó cũng không hẳng là một căn bệnh ngoại lai. Nó cũng không phải lỗi của ai cả. Đến cả những bệnh nhân Covid-19 cũng không hề đáng trách. Bạn có thể nhớ lại trình thuật Đức Giêsu chữa một người mù từ thuở mới sinh. Các môn đệ đã hỏi Người: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?”. Nhưng Đức Giêsu trả lời:”Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh.” (Ga9, 1-3) Dịch bệnh không phải là một hình phạt. Thế nên, bạn không thể đổ lỗi cho ai, cho một nhóm người, hay quốc gia nào. Đó có lẽ là mưu mô của ma quỷ. Hãy nhớ rằng, Covid-19 có thể ngăn cản rất nhiều thứ xung quanh bạn, nhưng nó không thể cản lối tình yêu.

Covid-19 không thể cản lối tình yêu.

Chăm sóc các bệnh nhân là phương thế thứ ba. Đại dịch này có thể là một chặng đường dài. Bất cứ ai trong số người thân, bạn bè của bạn cũng có thể trở thành nạn nhân cho nó. Vậy, làm tất cả những gì có thể để giúp đỡ người khác là điều rất tuyệt vời lúc này, nhất là những người thân yêu, những người già cả, tàn tật, nghèo khó và vô gia cư. Có lẽ thực hiện các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn dịch bệnh lây lan là cần thiết, nhưng đừng quên rằng bổn phận cơ bản của các Kitô hữu là giúp đỡ tha nhân. Thật thế, trong cuộc phán xét chung, Đức Vua sẽ nói:“Ta đau yếu, các ngươi đã viếng thăm.”(Mt 25, 36) Và cái kết là “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” (Mt 25,40).

Vào thời Chúa Giêsu, người dân làm gì có cơ hội tiếp cận với sự chăm sóc y tế như hiện nay, và việc thăm viếng người bệnh trở nên cực kỳ nguy hiểm. Thế mà, Người vẫn khích lệ các môn đệ thăm viếng bệnh nhân trong mọi hoàn cảnh, và chính Người là mẫu gương sáng ngời cho nghĩa cử cao đẹp đó. Tiếp nối truyền thống ấy, Hội Thánh cũng tiếp tục khuyến khích con cái mình chăm sóc các bệnh nhân, thậm chí là giúp đỡ họ về mặt vật chất. Hôm nay, Đức Giêsu vẫn đang mời gọi bạn mở rộng con tim với những ai nghèo khổ, những người vô gia cư và lạc lõng. Người mời gọi bạn đến với những ai đang cần bạn và huấn luyện lương tâm của bạn qua những thực hành bác ái ấy.

Phương thế thứ tư là cầu nguyện. Các nhà thờ tại Việt Nam cũng như nhiều nơi trên thế giới phải đóng cửa. Các Thánh Lễ và sinh hoạt giáo xứ cũng bị huỷ bỏ. Đó có lẽ là một giải pháp thận trọng và cần thiết để đảm bảo an toàn cho mọi tín hữu cũng như sức khoẻ cộng đồng. Nhưng chúng ta đang phải trả một cái giá quá đắt. Đối với rất nhiều người, Thánh Lễ và Thánh Thể là một nguồn an ủi rất lớn trong đời sống của họ. Thế mà nay còn đâu nữa! Họ cũng bị cô lập với cộng đoàn vào thời điểm họ rất cần sự trợ giúp.

Chúng ta có thể làm gì đây? Đã có rất nhiều Thánh Lễ, buổi cầu nguyện online được diễn ra khắp nơi trên cả nước. Nhưng ngay cả khi bạn không thể tham dự được, bạn vẫn có thể cầu nguyện riêng. Khi đó, bạn sẽ hiểu rằng mình là một phần của cộng đoàn dân Chúa. Hơn thế nữa, rước lễ thiêng liêng, một truyền thống lâu đời trong các nhà thờ Công giáo, vẫn đang được nhiều Kitô hữu, nhiều nhóm, hội đoàn thực hiện. Nhờ thế, bạn có thể hiệp nhất với Thiên Chúa trong lời cầu nguyện của mình.

Hãy sáng tạo! Có nhiều người đã suy niệm với Tin Mừng, tham khảo chú giải Kinh Thánh về các bài đọc, và cùng gia đình chia sẻ Lời Chúa. Có nhiều người cũng đã nhắn tin, gọi điện cho bạn bè, người thân, và chia sẻ kinh nghiệm cá nhân về Thiên Chúa ngay giữa cơn khủng hoảng của đại dịch. Thật thế, khi xưa, các bậc cha ông chúng ta đã cầu nguyện và chia sẻ, nâng đỡ đức tin cho nhau trong thời kỳ bách hại đạo. Hôm nay, noi gương các ngài, bạn và tôi cũng có thể làm như vậy. Khi xưa, Đức Giêsu đã dạy các môn đệ:”Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho; vì đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ.” (Mt 18, 20 -21). Hôm nay, bạn và tôi cũng thể làm như vậy. Bạn nên nhớ rằng, nhà thờ là một cộng đoàn chứ không phải một toà nhà.

 

Nhà thờ là một cộng đoàn chứ không phải một toà nhà.

Phương thế cuối cùng là tin tưởng rằng Chúa luôn ở bên bạn. Hãy tin tưởng vào điều đó! Hàng triệu người dân Việt Nam, nhất là các bệnh nhân Covid-19, đang bị cách ly. Điều ấy càng khiến nỗi sợ hãi tăng lên bội phần. Có lẽ sẽ đến một ngày, bạn cũng có thể bị nhiễm Covid chăng? Rồi bạn sẽ tự hỏi: “Tại sao điều này lại xảy ra?”

Dường như chẳng có câu trả lời thoả đáng cho bạn. Nhưng đằng sau đó là sự tồn tại của đau khổ. Điều này là một bí ẩn quá lớn. Trải qua nhiều thế kỷ, các vị thánh và các thần học gia đã tốn quá nhiều giấy mực cho vấn nạn này. Sâu xa hơn, bạn có thể tự hỏi, làm sao tôi có thể tin vào một Thiên Chúa mà tôi không hiểu?

Thế nhưng, bạn và tôi biết rằng, Đức Giêsu thấu hiểu nỗi đau của bạn và đồng hành với bạn theo một cách rất riêng. Khi xưa, Người đã dành nhiều thời gian và tâm huyết cho các bệnh nhân. Người hiểu rõ mối nguy của bệnh tật, nhưng vẫn tiến lại gần, an ủi và chữa lành họ. Hôm nay, Người cũng hiểu rõ mọi nỗi sợ, lo lắng của bạn. Đức Giêsu hiểu thấu con người bạn không chỉ bởi Chúa là Chúa, Chúa biết rõ mọi sự, mà còn bởi Chúa cũng là con người giống bạn và “chịu thử thách về mọi phương diện” (Dt 4,15) như bạn cũng như kinh nghiệm mọi sự trên trần gian.

Hãy đến với Người trong lời cầu nguyện, và tin tưởng Người sẽ lắng nghe và ở bên bạn.

Hãy tin tưởng vào những lời cầu nguyện của tôi, của bạn, và của anh chị em Việt Nam chúng ta.

Thiên Chúa sẽ giúp chúng ta cùng nhau vượt qua đại dịch này.

 

 

5.    Vị thánh chúng ta cần đến trong cơn đại dịch

 (Tác giả: James Martin, S.J. – Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển Từ: worldmissionmagazine.com – Nguồn: giaophannhatrang.org)

WGPNT (29.7.2021) – Đại dịch Covid-19 đã cướp đi sinh mạng của nhiều người và tiếp tục lan tràn khắp thế giới, buộc nhiều người phải sống cách ly và ẩn mình. Thánh Giuse, cha nuôi của Đức Giêsu, đã sống một cuộc đời âm thầm, hơn bao giờ hết Ngài là vị thánh bảo trợ mà chúng ta cần đến trong những lúc khó khăn này.

Đức Giáo hoàng Phanxicô đã công bố Năm Thánh Giuse nhằm tôn kính một trong những vị thánh mà ngài yêu thích. Bằng Tông thư Với trái tim người cha (Patris Corde), Đức Giáo hoàng mời gọi Giáo hội hoàn vũ suy niệm và kêu cầu sự bảo trợ từ người cha nuôi của Đức Giêsu.

Mẫu gương và sự bảo trợ của thánh Giuse đến thật đúng lúc. Vào thời điểm mà đại dịch toàn cầu đã buộc hàng triệu người sống trong nhà, cách ly, và cô đơn, chúng ta có thể xem thánh Giuse như là khuôn mẫu của đời sống thầm lặng. Chúng ta cũng biết rằng thánh Giuse đã mất trước khi Đức Giêsu khởi đầu sứ vụ công khai; như vậy, chắc chắn người chồng của Đức Maria cũng đã quen với khổ đau. Vì thế, cũng có thể xem ngài là đấng bảo trợ, cầu bầu cho chúng ta vì Ngài thấu hiểu cuộc chiến đấu của chúng ta với bệnh tật.

Nhưng chúng ta biết gì về đấng bảo trợ và đồng hành này? Giống như nhiều vị thánh vào những thời kỳ đầu của Giáo hội, chúng ta biết rất ít về thánh Giuse, ngoài vài dòng được nhắc đến trong các sách Tin mừng. Ngài thuộc dòng dõi vua Đavít và đã đính hôn với một thiếu nữ làng Nadarét. Khá bất ngờ khi biết tin Đức Maria mang thai, nhưng ông Giuse “là người công chính và không muốn tố giác bà” (Mt 1,19) như Tin mừng Matthêu thuật lại; Ngài đã định tâm hủy bỏ hôn ước cách kín đáo. Do đó, ngay cả trước khi Đức Giêsu chào đời, ông Giuse đã thể hiện tròn đầy lòng trắc ẩn và tha thứ.

Nhưng Thiên Chúa lại có những kế hoạch khác. Giống như tổ phụ Giuse trong tình huống khó khăn nơi sách Sáng thế, Thiên Chúa cũng dùng một giấc mơ để bày tỏ kế hoạch cứu độ cho người thợ mộc làng Nadarét. Trong giấc mơ, thiên thần cho thánh Giuse biết bí mật về Đức Maria: “Này ông Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20). Sau khi Đức Maria sinh con, cũng chính thiên thần đó bảo ông Giuse đưa Hài nhi và Mẹ Người sang Ai Cập để trốn vua Hêrôđê tàn ác. Và thánh Giuse đã vâng nghe.

Còn vài câu chuyện nữa về cậu Giêsu – bị lạc trong chuyến hành hương và được tìm thấy đang giảng dạy trong đền thờ – và rồi chúng ta biết đến quãng đời ẩn dật của Đấng Cứu thế. Tất cả những gì Tin mừng Luca nói về 18 năm đó là thế này: “Còn Đức Giêsu ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta” (Lc 2,52).

Thời gian thánh Giuse

Những năm đó là thời gian của thánh Giuse – thời gian dành để chăm sóc và dạy nghề thợ mộc cho người con nuôi. Nơi xưởng mộc của ông Giuse ở Nadarét, có lẽ Đức Giêsu đã được chỉ dẫn về các nguyên liệu thô của nghề mộc: loại gỗ nào thích hợp nhất để làm bàn ghế, loại gỗ nào tốt nhất để làm ách và cày. Là người giàu kinh nghiệm, ông Giuse có lẽ đã dạy cho anh thợ học nghề này cách đóng đinh bằng búa, cách khoan thẳng và sâu vào ván, và cách bào phẳng mép gỗ hay thanh đà.

Thánh Giuse có lẽ cũng đã truyền lại cho Đức Giêsu những giá trị cần có để trở thành một người thợ mộc giỏi. Bạn cần kiên nhẫn (để đợi gỗ khô và có thể sử dụng), khả năng phán đoán chính xác (để đảm bảo rằng dây dọi đã thẳng), sự kiên trì (để chà nhẵn mặt bàn) và sự trung thực (để tính giá hợp lý cho mọi người).

Cùng với người thầy dạy nghề của mình, anh thanh niên Giêsu đã lao động và xây dựng, đóng góp suốt quãng thời gian đó cho lợi ích chung của làng Nadarét và các làng mạc xung quanh. Không khó để hình dung những đức tính mà Đức Giêsu học được từ người thầy của mình – kiên nhẫn, phán đoán chính xác, kiên trì và trung thực – đã giúp ngài chu toàn tốt sứ vụ sau này. Thánh Giuse đã giúp trang bị cho Đức Giêsu điều mà nhà thần học Dòng Tên John Haughey gọi là “khí cụ cần thiết nhất để cứu độ thế giới.”

Cái chết sớm của ông Giuse

Tuy nhiên gần như ngay sau khi Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ công khai thì thánh Giuse biến mất – ít nhất là trong các trình thuật Tin mừng. Điều đáng chú ý là ông Giuse không có tên trong số các khách mời dự tiệc cưới Cana, đánh dấu khởi đầu sứ vụ công khai của Đức Giêsu. Phải chăng ông đã mất trước khi người con trai đến tuổi trưởng thành?

Vài năm trước, trong một cuộc triển lãm nghệ thuật tại nhà thờ Chánh tòa thánh Gioan của Giáo hội Trưởng lão ở thành phố New York, tôi đã bắt gặp một bức chân dung có tên là “Cái chết của thánh Giuse.” Nơi bức chân dung lớn, họa sĩ Francisco Goya vẽ một ông Giuse ốm yếu nằm trên giường. Đứng bên cạnh là anh thanh niên Giêsu, có lẽ khoảng 16 hay 17 tuổi, không để râu, mặc áo choàng dài, chăm chú nhìn thánh Giuse. Ngồi bên giường là Mẹ Maria.

Bức tranh của Goya ghi lại thật đẹp nỗi buồn bao trùm trước cái chết sớm của thánh Giuse. Nỗi buồn như vậy cũng đã xảy ra với chúng ta nhiều tháng qua, nỗi buồn bao quanh cái chết của rất nhiều người do dịch Covid.

Theo truyền thống, thánh Giuse được kêu cầu như là bổn mạng “kẻ mong sinh thì” [kẻ chết lành]. Tuy nhiên cái chết của thánh Giuse có lẽ không phải không gây bất an đối với Đức Giêsu hay Mẹ Maria. Các sách Tin mừng không kể gì về việc than khóc. Không chỗ nào cho biết nỗi sầu khổ của Mẹ Maria, hay nỗi đau buồn của Đức Giêsu. Thế nên Thánh gia cũng giống như bao gia đình ngày nay đang đau buồn khi mất cha mẹ, ông bà, cô bác, anh chị em và con cái trong cơn đại dịch. Họ cũng đã gánh chịu phần lớn nỗi đau trong cảnh cách ly, nhưng lại không thấy xuất hiện trên bất kỳ bản tin nào.

Cuộc đời âm thầm của thánh Giuse

Cuộc đời âm thầm của thánh Giuse cũng có thể nói với những người bị áp đảo trong cơn đại dịch này; họ tự hỏi liệu Chúa có ở với họ, có nhìn thấy họ không. Chỉ xuất hiện thoáng qua trong các sách Tin mừng, không nói một lời nào, thánh Giuse đã sống một cuộc đời âm thầm phục vụ Thiên Chúa, một cuộc sống mà chúng ta gần như không hề biết đến. Tuy nhiên, cuộc sống của Ngài có giá trị vô cùng, đầy những hành động yêu thương âm thầm, kín đáo, dù không được ghi lại. Cuộc đời của thánh Giuse nói với tất cả chúng ta: “Chúa nhìn thấy tất cả.”

Cuộc đời âm thầm của Ngài thật gần gũi với hàng triệu con người đang nỗ lực tìm cách vượt qua cơn đại dịch: những nhân viên y tế ở tuyến đầu, mà những hy sinh âm thầm không được biết đến ngay cả với gia đình của họ. Những cha mẹ đơn thân không thể tâm sự cùng ai nỗi lo lắng khôn nguôi về con cái mình.

Những người con lớn tuổi có cha mẹ già đang sống trong nhà dưỡng lão, lo sợ về sự lây lan của dịch bệnh giữa những cư dân cao tuổi. Nhân viên kiểm soát, tài xế công cộng, thợ bảo trì, hầu như không đủ sống trước cuộc khủng hoảng kinh tế trong năm, giờ đây không có cách nào để “làm việc tại nhà.” Linh mục dù đã cử hành vô số đám tang cho các nạn nhân Covid và gia đình của họ, lo lắng không thể an ủi họ như mong muốn. Các bệnh nhân Covid đang chết trong cô đơn, than khóc trong thất vọng và đau khổ, tự hỏi không biết điều gì đang xảy ra.

Có rất nhiều cuộc đời âm thầm, biết bao hành động yêu thương không được nhìn thấy trong cơn đại dịch này. Biết bao lời cầu nguyện thầm kín cất lên đến tận thiên đàng. Người bạn thanh sạch của Đức Maria và là cha nuôi của Đức Giêsu, thấu hiểu tất cả.

Lạy thánh Giuse, đấng bảo trợ những cuộc đời âm thầm, đấng bảo trợ trong cơn đại dịch này, xin cầu cho chúng con, năm nay và mãi mãi.

 

 

6.    Sự chết, đau khổ, sợ hãi…

(Từ: avvenire.it [28/03/2020) – Chuyển ngữ: An Bình, C.Ss.R. – Nguồn: hdgmvietnam.com)

Đại dịch Covid-19 dưới nhãn quan Kinh Thánh

Có phải Covid-19 là một sự trừng phạt của Thiên Chúa không? Hiệu quả của việc cầu nguyện trong đại dịch ra sao? Có phải đức tin chỉ dựa vào các phép lạ không? Dựa trên một vài đoạn Kinh Thánh, chúng ta cùng nhau suy tư về những gì đang xảy ra trong thế giới hôm nay

WHĐ (03.9.2021) – Có phải Covid-19 là một sự trừng phạt của Thiên Chúa không? Hiệu quả của việc cầu nguyện trong đại dịch ra sao? Có phải đức tin chỉ dựa vào các phép lạ không? Dựa trên một vài đoạn Kinh Thánh, chúng ta cùng nhau suy tư về những gì đang xảy ra trong thế giới hôm nay.

Trong giai đoạn buộc phải ở nhà này, lời khuyên trở về với các bài đọc, đào sâu và sống nội tâm với các bản văn Kinh Thánh được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Vậy thì còn thời điểm nào thuận lợi hơn để cầm trên tay cuốn Kinh Thánh mà chúng ta có trong nhà mình? Quả thực, trong những trang Kinh Thánh, chúng ta có thể tìm thấy nhiều sự gợi ý cho việc suy tư (nếu không muốn nói chính là câu trả lời) cho những chất vấn hiện sinh mà đại dịch đặt ra cho mỗi chúng ta. Vì vậy, chúng ta thử xem xét một số đoạn Thánh Kinh để giúp chúng ta hiện thực hóa việc đọc trong khoảng thời gian tạm ngưng giữa nỗi sợ hãi về một dịch bệnh nguy hiểm và “sự im lặng của Thiên Chúa”.

Nỗi sợ hãi cái chết

Để mở đầu cho những suy tư ngắn này, chúng ta cùng nhau đọc và suy ngẫm về đoạn Tin Mừng của Thánh Gio-an (Ga 11,1-45) nói về việc Chúa Giê-su hồi sinh sự sống cho anh La-za-rô. Người bạn của Chúa Giêsu bị chết sau một cơn bạo bệnh (một chi tiết khiến chúng ta cảm thấy câu chuyện của anh ta rất thời sự, giống như sự ra đi của những người bị nhiễm Covid ngày hôm nay vậy) trước khi Chúa Giê-su có thể đến kịp thời (ít nhất là như lời “trách móc” mà người chị gái Mat-ta nói với Chúa: “Nếu Thầy ở đây, em con đã không chết”; và cách thể hiện nỗi đau rất người này cũng tạo nên cầu nối giữa bi kịch đang diễn ra hôm nay và đoạn Tin Mừng này).

Nhưng vượt trên tất cả, có một chi tiết trong câu chuyện Tin Mừng này khiến chúng ta sững sờ: sự khóc lóc của Chúa Giê-su. Dù biết rằng, trong vài phút nữa Ngài sẽ làm cho bạn của mình sống lại. Thật vậy, Đức Kitô chia sẻ với chúng ta mọi điều, ngoại trừ tội lỗi: ngay cả nỗi sợ hãi về cái chết và nỗi đau mất mát người thân yêu. Trong vườn Ghết-sê-ma-ni, không lâu trước khi bị bắt, chính Chúa Giê-su đã đổ mồ hôi máu và cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin hãy cất chén này khỏi con! Nhưng không phải theo ý con, mà để ý Cha được thực hiện” (Lc 22,42). Trong hoàn cảnh đau buồn như hiện nay, chúng ta cảm thấy rằng chúng ta có một “người đồng hành” đảm bảo hơn mọi thứ. Bởi vì, Chúa Giê-su là người đầu tiên cảm nghiệm được cảm giác sợ hãi của chúng ta và Ngài đã kinh nghiệm được“sự thinh lặng của Thiên Chúa Cha”, điều mà hôm nay dường như chúng ta không thể chịu đựng được.“Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 15,34), những tiếng than van này là lời cuối cùng của Ngài trên thập giá. Nhưng chắc chắn điều đó không phải là điểm kết thúc của biến cố Con người-Thiên Chúa của Ngài. Một điểm trong thời gian đại dịch Covid hoành hành có thể khiến chúng ta suy tư, đó là sự chết, điều mà sau nhiều thập kỷ tuyên truyền đã khiến chúng ta loại bỏ nó khỏi tầm nhận thức “văn hóa” của mình, ngoại trừ làm gia tăng nó trong những việc làm không bình thường (như phá thai, trợ tử, an tử…) hoặc thậm chí gây mê nó bằng một số các hình thức biểu diễn nào đó.

Mầu nhiệm thập giá và đau khổ

Mặt khác, toàn bộ Thánh Kinh, phơi bày ra trước mắt chúng ta mầu nhiệm của thập giá và đau khổ. Mầu nhiệm đó mang tính cứu rỗi. Vào ngày 25 tháng 3 năm 2020, trong một cuộc phỏng vấn với báo Avvenire, Đức Hồng y Giuseppe Betori, Tổng giám mục của Florence và là một học giả Thánh Kinh tài giỏi, đã nhắc lại đoạn Thánh Kinh trong sách Dân số (Ds 21,4-9) liên quan đến “bệnh dịch”. Bệnh dịch đã tấn công dân Ít-ra-en trong sa mạc khi rắn cắn họ và gây ra cảnh chết chóc. “Ở thời điểm đó, sự cứu thoát đến từ con rắn đồng do Mô-sê treo lên, điều mà chúng ta biết sau này Chúa Giêsu xem đó như là dấu chỉ của chính mình và của thập giá Ngài mà phải chịu. Đức Hồng y giải thích rằng: Ngày hôm nay, tôi tin rằng đối với một Kitô hữu, việc nhìn vào “những con rắn” vô hình đang tấn công chúng ta (Covid-19) phải khiến chúng ta hướng nhìn lên Đức Ki-tô, theo cách mà Ngài đã hiến mình vì chúng ta. Bởi vì, chỉ bằng cách tái khám phá lại sự phục vụ và hy sinh, như khuôn mẫu cho đời sống của chúng ta, chúng ta mới có thể thay đổi thế giới”.

Hay đối với Đức Hồng y Gianfranco Ravasi, một học giả Thánh Kinh quan trọng khác, trong một bình luận về đoạn Thánh Kinh tương tự cũng nhấn mạnh: “‘Việc nâng lên’ trên thập giá là một kiểu tôn vinh, cây gỗ đáng sợ đó trở thành ngai Thiên Chúa, sự đóng đinh là khởi đầu của phục sinh – suối nguồn giải thoát khỏi ác thần cho toàn thể nhân loại. Chính Chúa Giê-su, trước khi bước vào Cuộc Khổ Nạn, Ngài đã nói: “Khi ta được cất lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta” (Gv 12,32). Trong thời gian này, chúng ta có thể đóng lại để chúng ta được thu hút bởi Đấng đã chịu đóng đinh, như ĐTC Phan-xi-cô đã nhiều lần làm chứng, nó không phải như một hành động sùng kính đơn thuần, nhưng để chứng minh tính chắc chắn rằng thập giá dẫn đến Đấng Phục Sinh.

Sức mạnh của lời cầu nguyện

Tất cả những gì chúng ta vừa nói ở trên đều dẫn đến sức mạnh của việc cầu nguyện. Về vấn đề này, chúng ta đọc đoạn Thánh Kinh được nói ở trong Cựu Ước trích từ sách Xuất Hành (Xh 17,8-16). Ông Mô-sê cầu nguyện giơ hai tay hướng lên trời trên một ngọn đồi, trong khi ông Giô-suê chiến đấu ở vùng đồng bằng phía dưới chống lại người A-ma-lếch. Những lời cầu nguyện của ông có ý nghĩa quyết định đến chiến thắng cuối cùng. Thiết nghĩ, cũng cần phải đề cập đến sự đóng góp của ông A-ha-ron và ông Khua – những người luôn sát cánh bên Mô-sê để giữ vững cánh tay của ông. Các nhà chú giải đã thấy trong đoạn Thánh Kinh này một trong những khuôn mẫu hoàn chỉnh nhất của lời cầu nguyện Kitô giáo, nơi chiều dọc (nghĩa là mối tương quan giữa thụ tạo và Đấng Tạo Hóa) và chiều ngang (kéo dài sự cầu nguyện trong cuộc sống hằng ngày) hợp nhất với nhau một cách lạ lùng. Trên thực tế, lời cầu nguyện của Mô-sê hỗ trợ trận chiến của Giô-suê theo cách mang tính quyết định, nhưng không thay thế nó. Vì thế, lời cầu nguyện không phải là cây đũa thần, tự nó có quyền năng làm nên phép lạ, nhưng ngược lại, nó là sự tin tưởng hoàn toàn vào quyền năng của Thiên Chúa, Đấng trong Chúa Giêsu đã nhắc nhở chúng ta: “Không có Thầy, anh em không làm được gì” (Ga 15,5). Và đồng thời lời cầu nguyện đó đòi hỏi phải được chuyển hóa vào trong các “cuộc chiến đấu” nhỏ hay lớn mỗi ngày. Lời cầu nguyện sử dụng những hồng ân mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta: chẳng hạn như sự thông minh của khoa học và ý chí tự do tương ứng với điều thiện. Thánh Gia-cô-bê đã nói từ nhiều thế kỷ trước: “Đức tin không việc làm là đức tin chết” (Gc 2,26). Vào thứ Sáu, ngày 27 tháng 3 năm 2020, với buổi cầu nguyện ở quảng trường của Vương cung thánh đường Thánh Phê-rô, ĐTC Phan-xi-cô đã khiến chúng ta hồi tưởng lại trang Thánh Kinh này. Ngay cả Giáo Hoàng, một Mô-sê mới, từ đồi Vatican đã giơ đôi tay trong lời cầu nguyện hướng về Thiên Chúa của Đức Giê-su Ki-tô, Đấng luôn hiện diện và hằng sống trong Bí tích Thánh Thể. Và ngài đã làm như vậy cũng để nâng đỡ “nhiều Giô-suê” hiện đang tham gia vào “chiến trường” của các khu bệnh viện và các môi trường khác nhau trong cuộc chiến chống lại virus Corona. Lời cầu nguyện của ngài nâng đỡ và khuyến khích họ. Trong khi đó, cánh tay của ngài được giữ vững bởi ông A-ha-ron và ông Khua, tức là từ những lời cầu nguyện của chúng ta hiệp thông với những lời cầu nguyện của ngài. Và vì vậy, tất cả cùng nhau, chúng ta tin tưởng rằng kẻ thù (trong trường hợp này là Covid-19) sẽ bị đánh bại.

Nhưng chẳng lẽ virus Corona lại là hình phạt của Thiên Chúa sao?

Đây cũng là câu hỏi được nghe đi nghe lại nhiều lần trước sự lây lan của dịch bệnh. Đức Hồng y Betori, (trong cuộc phỏng vấn với báo Avvenire đã nhắc đến ở trên) đã bàn về vấn đề này ngang qua đoạn Lời Chúa được trích từ Tin Mừng của Thánh Lu-ca (Lc 13,1-5). Đó là đoạn nói về việc Chúa Giê-su trả lời cho những người xin Ngài lời giải thích về vụ thảm sát người Ga-li-lê. Họ bị Phi-la-tô giết chết và sau đó chính Ngài đề cập đến sự việc 18 người bị chết vì sự sụp đổ của tháp Si-lô-ác. Đức Hồng y Betori giải thích: “Tôi cảm thấy rằng, ngày hôm nay cũng có nhiều người tự hỏi, làm thế nào để đặt vào trong mối tương quan giữa những điều đang xảy ra với lòng nhân lành của Thiên Chúa? Và như thế, đại dịch Covid-19 được hiểu như là sự trừng phạt của Thiên Chúa sao? Chúa Giê-su nói rằng những người bị giết chết không có tội hơn những người khác. ‘Nhưng nếu các ông không chịu sám hối – Ngài cảnh báo – thì các ông cũng sẽ bị chết như vậy’. Vì vậy, đây không phải là một hình phạt nhưng đúng hơn là một lời mời gọi sám hối. Đức Hồng y nhấn mạnh: “điều này liên quan đến cả việc suy nghĩ lại về lối sống của chúng ta và cả những chọn lựa mang tính định hướng cho xã hội thời đại của chúng ta. Tôi lấy một ví dụ: chúng ta hãy xem kinh phí cho việc nghiên cứu khoa học quan trọng biết chừng nào. Tại sao chúng ta không cấm việc sản xuất và buôn bán vũ khí để lấy kinh phí đó dành cho việc nghiên cứu khoa học mang lại lợi ích cho con người? Chúng ta biết rằng, việc chạy đua vũ trang biểu trưng cho một xã hội nhầm lẫn về niềm vui và hạnh phúc. Tôi nghĩ rằng tình cảnh này mời gọi chúng ta làm một cuộc hoán cải thực sự. Nếu không muốn bị thua cuộc, thì đây được xem như là bổn phận của cả nhân loại chứ không riêng gì người Kitô hữu hay những người có tôn giáo”.

Cha Lorizio, một nhà thần học gia cũng đưa ra kết luận tương tự, ngài trích dẫn đoạn Thánh Kinh nói về việc chữa lành cho người mù bẩm sinh trong Tin Mừng của Thánh Gio-an (Ga 9,1-41), trong một bài báo xuất bản trên Famiglia Cristiana. Đối với những người hỏi Ngài: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?” Chúa Giê-su trả lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh”. Do đó, Cha Lorizio chú thích rằng: “Chúa Giê-su làm đảo lộn nền thần học thời của Ngài, một nền thần học giải thích mọi hình thức của đau khổ như là hậu quả của tội lỗi. Ngài loại bỏ khuôn mẫu của sự trừng phạt”. Nhưng đoạn Thánh Kinh này đóng vai trò cầu nối để giới thiệu cho chúng ta một chủ đề khác đáng để suy ngẫm hơn.

Các phép lạ phục vụ cho điều gì?

Trong mọi hoàn cảnh, ngay cả những hoàn cảnh bi đát nhất, Cha Lorizio trả lời trong bài báo nói trên, “chúng được trao cho chúng ta bởi vì trong những hoàn cảnh đó bày tỏ chính ‘mầu nhiệm của Nước Thiên Chúa’”. Và, nếu trong trường hợp của người mù bẩm sinh, sự chữa lành đến từ sự trộn lẫn nước bọt của Chúa Giê-su và bụi đất, thì ơn cứu độ, sự chữa lành có thể được nảy sinh từ cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người, giữa ân sủng và tự nhiên. Nước bọt của Chúa Giê-su là dấu chỉ của Thiên Chúa, của tính siêu nhiên, được bày tỏ trong nhân tính của Ngài. Trong khi đó, đất lại biến thành bùn, điều đó nói với chúng ta rằng sự chữa lành sẽ được sản sinh từ đất, nghĩa là bởi sự dấn thân của chúng ta ngang qua trí thông minh và khoa học (nghiên cứu khoa học) và sự thực hành của ý chí tự do (tôn trọng các nguyên tắc và tình liên đới)”.

Tương tự như vậy, đoạn Tin Mừng nói về việc Chúa Giêsu dẹp sóng gió (Mc 4,35-41), được công bố vào thứ Sáu ngày 27 tháng 3 năm 2020 trong buổi cầu nguyện của ĐTC tại quảng trường Thánh Phêrô, cũng đi theo hướng đó. Trong con thuyền bị trận cuồng phong lật tung (giống như nhân loại của chúng ta trong thời đại dịch Covid-19) có Chúa Giêsu luôn ở cùng, chúng ta không được sợ hãi, như ĐTC nhấn mạnh. Chúng ta phải cầu xin Ngài chấm dứt “sự thinh lặng của Thiên Chúa”, tượng trưng bởi giấc ngủ của Ngài. Và Ngài, Đấng có quyền năng ngay cả với các hiện tượng tự nhiên, sẽ luôn luôn sẵn sàng cứu giúp. Tuy nhiên, mục đích của mô phạm này của Thiên Chúa, chắc chắn không phải dừng lại ở những “hiệu ứng đặc biệt” của chính phép lạ, nhưng xa hơn là ở câu hỏi, (không phải ngẫu nhiên mà thánh sử Mác-cô đặt vào môi miệng các tông đồ sau khi trở lại trạng thái yên tĩnh): “Vậy người này là ai, cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?” Nói một cách đơn giản, mọi thứ phải kết hợp lại với nhau để tăng thêm đức tin của chúng ta vào Đức Kitô. Bây giờ, chúng ta hãy cầu xin sự trợ giúp của Ngài. Và sau này, khi – như chúng ta tin tưởng – mối nguy hiểm của virus Corona bị đánh bại, chúng ta cần biến đức tin của mình thành hành động.

 

 

7.    Bài suy tư của Đức Thánh Cha

ĐTC Phanxicô: Trong khủng hoảng cần kiên vững trong đức tin.

(Văn Yên, SJ – Vatican News)

Sau thời gian hè ngưng các buổi tiếp kiến chung trong tháng 7, lúc 10h sáng 5/8, Đức Thánh Cha trở lại với các buổi tiếp kiến chung hằng tuần mỗi thứ Tư. Trở lại với các buổi tiếp kiến trong tháng 8, Đức Thánh Cha không tiếp tục các bài giáo lý như thường lệ, nhưng với tình hình đại dịch hiện tại, Đức Thánh Cha sẽ có một loạt bài suy tư về đại dịch, từ hôm nay và trong những tuần kế tiếp.

Sau đây là bài suy tư của Đức Thánh Cha

Anh chị em thân mến,

Dịch bệnh đang tiếp tục gây ra những tổn thương ghê gớm, làm bộc lộ sự mong manh của con người. Đã có nhiều người chết, rất nhiều người nhiễm bệnh, ở tất cả các châu lục. Nhiều cá nhân và gia đình đang sống thời khắc vô định gây ra bởi những vấn đề kinh tế-xã hội, đặc biệt là những người nghèo.

Bởi thế, chúng ta cần kiên định hướng mắt về Chúa Giêsu (x. Dt 12,2) và với đức tin này, chúng ta ôm ấp niềm hy vọng vào Nước Trời mà chính Đức Giêsu đã giới thiệu cho chúng ta (x. Mt 1,5; Mt 4,17; GLGHCG 2816). Một Vương quốc của chữa lành và cứu độ đã ở giữa chúng ta (x. Lc 10,11). Một Vương quốc của công lý và hoà bình thể hiện ngang qua việc bác ái, và từ đó làm gia tăng niềm hy vọng và củng cố đức tin (x. 1 Cr 13,13). Trong truyền thống Kitô giáo, đức tin, đức cậy và đức mến có ý nghĩa to lớn chứ không đơn thuần là những cảm thông hay thái độ. Đó là nhân đức mà Chúa Thánh Thần trao tặng cho chúng ta (x. GLGHCG 1812-1813); những quà tặng chữa lành chúng ta, mở ra cho ta những chân trời mới, ngay cả khi chúng ta đang vật lộn với tình huống khó khăn như hiện nay.

Một cuộc gặp gỡ mới với Tin Mừng trong đức tin, đức cậy và đức mến mời gọi chúng ta đảm nhận một tinh thần sáng tạo và đổi mới. Trong cách thức này, chúng ta mới có thể chuyển hoá từ gốc rễ những hạn chế thể lý, tinh thần và xã hội. Chúng ta mới có thể chữa lành tận căn những bất công mang tính cơ cấu và những hoạt động mang tính phá huỷ đang chia rẽ chúng ta, đang đe doạ gia đình nhân loại và toàn thể trái đất này.

Sứ vụ của Đức Giêsu thực hiện rất nhiều phép lạ chữa lành: chữa lành người bị sốt (x. Mc 1, 29-34), người phong (x. Mc 1,40-45), người bại liệt (x. Mc 2, 1-12), người mù (x. Mc 8, 22-26; Ga 9, 1-7), người câm và điếc (x. Mc 7,31-37). Trong thực tế, chữa lành không chỉ là bệnh thể lý, mà là toàn bộ con người. Theo đó, người được chữa lành trở lại với cộng đoàn, được giải thoát khỏi tình trạng cô lập vì đã được chữa lành.

Chúng ta hãy chiêm ngắm trình thuật chữa lành người bại liệt ở Ca-pha-na-um (x. Mc 2,1-12), một trình thuật tuyệt đẹp mà chúng ta vừa nghe. Trong khi Đức Giêsu rao giảng ở trong nhà, bốn người khiêng người bạn bại liệt đến với Đức Giêsu; và vì không thể đi vào nhà do đám đông chật kín, họ là dỡ mái nhà và thả người bại liệt xuống trước mặt Đức Giêsu. “Thấy họ có lòng tin như vậy, Đức Giê-su bảo người bại liệt: ‘Này con, con đã được tha tội rồi.’” (c. 5). Và Ngài nói thêm, như dấu chỉ khả giác, “Ta truyền cho con: Hãy đứng dậy, vác lấy chõng của con mà đi về nhà!” (c. 11).

Phép lạ chữa lành thật tuyệt vời! Hành động của Đức Giêsu là phản ứng trực tiếp với đức tin của những người ấy, với đức cậy mà họ đặt nơi Ngài, với đức ái mà họ thể hiện với tha nhân. Đức Giêsu đã chữa lành, không chỉ là người bại liệt, mà tất cả, Ngài tha hết tội lỗi, làm mới lại cuộc sống của người bại liệt và của các bạn anh. Chúng ta có thể nói Đức Giêsu tái sinh tất cả. Một sự chữa lành cả thể lý và tinh thần, tất cả với nhau, là hoa trái của cuộc gặp gỡ cá vị và cộng đoàn. Chúng ta thử nghĩ đến tình bạn như thế, và đức tin của tất cả những ai hiện diện trong nhà, tất cả được củng cố nhờ phép lạ của Đức Giêsu. Cuộc gặp gỡ chữa lành với Đức Giêsu!

Chúng ta tự hỏi: chúng ta có thể góp phần chữa lành thế giới hôm nay không? Như các môn đệ của Thầy Giêsu, là thầy thuốc linh hồn và thể xác, chúng ta được mời gọi tiếp tục “hành động chữa lành và cứu độ của Ngài” (GLGHCG 1421) theo nghĩa thể lý, cộng đoàn và tinh thần.

Giáo Hội, mặc dù thi hành ân sủng chữa lành của Chúa Kitô ngang qua các Bí tích, và dù cung cấp những hỗ trợ y tế đến mọi ngóc ngách của thế giới, vẫn không phải là chuyên gia trong việc phòng và chống đại dịch. Giáo Hội cũng không thể đưa ra những hướng dẫn đặc thù mang tính xã hội-chính trị (x. Th. Phaolo VI, tông thư Octogesima adveniens, 14 tháng Năm 1971, 4). Đây là nhiệm vụ của các nhà lãnh đạo chính trị và xã hội. Tuy vậy, xuyên suốt nhiều thế kỷ, và dưới ánh sáng Tin Mừng, Giáo Hội đã đưa ra một vài nguyên tắc xã hội căn bản (x. Tóm lược Học thuyến xã hội của Giáo Hội, 160-208), những nguyên tắc có thể giúp chúng ta vượt qua khó khăn và để chuẩn bị cho tương lai. Tôi xin trích dẫn những nguyên tắc chính, có liên hệ mật thiết với nhau: nguyên tắc về nhân phẩm con người, nguyên tắc về công ích, nguyên tắc về lựa chọn ưu tiên người nghèo, nguyên tắc về phân phối tài sản phổ quát, nguyên tắc liên đới, hỗ tương, nguyên tắc về chăm sóc ngôi nhà chung. Những nguyên tắc này giúp các nhà lãnh đạo, những người chịu trách nhiệm về xã hội, làm thăng tiến, như trong tình trạng dịch bệnh hiện nay, và chữa lành cả cấp độ cá nhân và cộng đồng. Các nguyên tắc này diễn tả, bằng nhiều cách khác nhau, đức tin, đức cậy và đức mến.

Trong những tuần tiếp theo, tôi mời gọi anh chị em suy tư về những vấn nạn nổi cộm mà dịch bệnh đang đặt ra, nhất là những căn bệnh ở cấp độ xã hội. Và chúng ta suy tư dưới ánh sáng Tin Mừng, các nhân đức đối thần và các nguyên tắc về xã hội của Giáo Hội. Chúng ta cùng nhau khám phá truyền thống xã hội công giáo của chúng ta có thể giúp gia đình nhân loại thế nào trong việc chữa lành thế giới đang đau khổ vì dịch bệnh. Tôi ao ước suy tư và làm việc cùng với anh chị em, như những môn đệ của Đức Giêsu, Đấng chữa lành, hầu xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn, tràn đầy hy vọng vào các thế hệ tương lai (x. Tông huấn Evangelii gaudium, 24 tháng Mười Một 2013, 183).

 

 

8.    Chết đến nơi rồi

(Suy niệm và cầu nguyện của Lm. Thái Nguyên)

Ngày Toàn Quốc cầu nguyện xin Ơn Chữa lành: Mc 4,35-41 – Chúa Nhật 17.10.2021.

Suy niệm

Trong lễ này, Giáo Hội đặt bài Tin Mừng kể lại trận cuồng phong nổi lên, khi Chúa Giêsu và các Tông đồ đang trên thuyền đi qua “bờ bên kia”. Trước cơn sóng dữ ập vào thuyền, các Tông đồ hoang mang, sợ hãi, các ông hốt hoảng chạy đến đánh thức và kêu cứu Thầy. “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?” Có gì đáng sợ bằng đứng trước cái chết, nó cho ta một cảm giác kinh hoàng. Lời kêu cứu của các tông đồ xem ra cũng là lời trách móc, có vẻ như Thầy quá vô tư hững hờ trước mạng sống của các đồ đệ. Nhưng có lẽ cần phải như thế để các ông nhận ra sự yếu đuối và bất lực của con người mình. 

Ðức Giêsu đã thức dậy, ra lệnh cho gió và biển: “Câm đi! Im đi!”. Thế là sóng yên biển lặng như tờ. Lúc đó, Đức Giêsu mới trách lại các ông: “Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”. Nếu có lòng tin thì đâu có cuống cuồng như vậy. Có Thầy mà cũng như không. Mặc dù các ông đã từng chứng kiến những phép lạ lớn lao Thầy làm, nhưng hôm nay các ông mới thực sự kinh ngạc và thốt lên: “người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”. Nhìn các Tông đồ đối mặt với trận cuồng phong, ta thấy được phần nào về thế giới, về thái độ của con người khi đối diện với bão tố của cuộc đời.

Thế giới mà nhiều người ảo tưởng là vĩnh cửu dường như sắp sa chìm trong biển cả của sự dữ. Chỉ cần nhìn lại một năm rưỡi nay (từ 2020), ta đã thấy nhiều thảm họa xảy ra: trước tiên là cuộc cháy rừng ở Úc, hơn 10 triệu ha bị phá hủy; khoảng 1.400 ngôi nhà ở bang New South Wales bị thiêu rụi. Tiếp đến là trận “lụt hồng thủy” 40 ngày đêm ở Trung Quốc nhấn chìm hàng trăm ngàn ngôi nhà, khiến cho hàng ngàn người chết, đó là chưa kể đến lũ lụt ở các tỉnh miền Trung Việt Nam làm chết hàng trăm người, và cuộc chiến tàn sát nhau vì màu da sắc tộc trên nước Mỹ. Vượt lên trên các thảm họa kia là thảm họa Covid 19. Cơn đại dịch này làm cho thế giới kinh hoàng, làm tê liệt nền kinh tế và các hoạt động xã hội. Số người chết vì Covid 19 tính tới thời điểm này đã lên đến 10 triệu người ([1]). Thảm họa này làm cho con người điên đảo, cạn kiệt niềm hy vọng vào một thế giới tươi sáng.

Có nhiều người nghĩ đây đúng là cuộc chiến tranh thế giới thứ ba. Nó làm cho nhà nhà, người người phải chia ly, kẻ ở người đi không một lời trăn trối. Bao gia đình tan tác, bao người thân chết không thấy xác, bao thương đau về tinh thần và đói khát về thể xác; thời gian héo hắt phai tàn, và không gian im lìm chìm vào hoang vắng; nhà thờ và chùa chiền không bóng người. Mỗi ngày ở Việt Nam có hàng ngàn người phải cách ly, họ đang phải chiến đấu để giành giật lấy từng hơi thở, không biết ngày mai mình còn có mặt ở trên đời nữa không,… Tất cả mọi người đều rơi vào hoang mang, sợ hãi, thậm chí bị stress, và rồi những khó khăn lại nối tiếp như thất nghiệp, nghèo đói, không nơi nương tựa… Bao người tự hỏi: liệu Thiên Chúa có hay không? Nếu có thì Ngài ở đâu trong biến cố này? Ngài có nghe thấy tiếng con cái đang ngày đêm kêu cầu lòng thương xót của Ngài không? Có khi chúng ta cũng trách Chúa như các Tông đồ xưa: Chúng con chết đến nơi rồi mà Chúa không ra tay cứu chữa! Ngài còn chờ gì nữa đây?

Nếu cứ loay hoay tìm câu trả lời cho những vấn nạn đó thì không bao giờ thỏa đáng, nhưng nếu ta nhớ lại câu chuyện Ladarô trong Tin Mừng Gioan, thì ta sẽ có được tia sáng đầy hy vọng về cách hành động của Thiên Chúa. Mặc dù Chúa Giêsu rất yêu quí Ladarô nhưng Ngài không đến cứu ngay, mà để chết rồi mới đến cứu. Điều này cho ta thấy “Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa cứu thoát cho bằng một Thiên Chúa cứu chuộc. Ngài không can thiệp để cứu ta khỏi nhục nhã, đau khổ và chết chóc, nhưng Ngài cứu chuộc ta khi ta đã qua nhục nhã, đau khổ và phải chết cách nào đó” (Ronald Rolheiser). Thật không dễ để hiểu được điều này nếu thiếu cảm nghiệm dưới ánh sáng đức tin.

Tuy nhiên, câu chuyện Chúa ngủ trên chiếc thuyền đang bị bão bùng năm xưa vẫn còn nguyên giá trị. Ngài vẫn ở đó, vẫn bên cạnh các Tông đồ, nhưng lo sợ đã làm các ông quên mất sự hiện diện của Chúa. Lúc này cũng vậy, Chúa đang ở đây, đang đau niềm đau của con người, đang khổ nổi khổ của nhân loại. Nhưng vì quá hoảng sợ, ta không còn nhận ra Chúa. Ngài vẫn ở bên chúng ta, “cho dù người mẹ có quên đứa con của mình, phần Ta, Ta sẽ không quên ngươi” (Is 49,15).

Thập giá là điều tất yếu của cuộc sống con người. Đau khổ cũng là lẽ tất nhiên trong thân phận làm người. Chúng ta không thể trốn chạy hay đổ lỗi cho Thiên Chúa, mà trái lại, thực tế lại thường là hậu quả của tội lỗi loài người. Mỗi người đều phải vác thập giá của mình, và những đau khổ chúng ta đang chịu lúc này đều liên hệ với những những đau khổ của Chúa Giêsu trên thập giá. Chúa đảm nhận tất cả những đau khổ ấy để thánh hóa mọi người chúng ta. Ta đừng ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối, nhưng hãy thắp lên một ngọn lửa của niềm tin và hy vọng; cần vác đỡ thập giá cho nhau. Được như vậy, thập giá sẽ trở nên Thánh giá, vì nó được đón nhận từ trái tim chúng ta trong sự kết hiệp với trái tim Chúa Giêsu, Đấng đã đổ máu để cứu chuộc chúng ta.

Virus Corona làm cho nhiều người khiếp sợ, nhưng có một loại virus đáng sợ hơn, đó là virus của lòng kiêu căng, ích kỷ, tham lam, hận thù, ghen ghét, nhất là chủ nghĩa bá quyền đang bành trướng dưới nhiều hình thức. Con người đã có lúc tự mãn nghĩ rằng “mình làm được mọi sự” nhưng qua biến cố đại dịch này, con người mới biết mình là ai? Làm được cái gì? Quả thật, nếu không có Chúa, thiếu Chúa, vắng Chúa, thế giới sẽ trở thành “ngôi nhà ma”, và biển cả của sự dữ là mồ chôn tất cả. Hãy nhìn mọi sự dưới cái nhìn đức tin để thấy Chúa đang hành động, và hành động cụ thể qua những con người đầy thiện chí, đầy nhiệt tình, đang xả thân cho anh em đồng loại ở mọi góc độ của cuộc sống hôm nay. Ta đừng hoang mang, sợ hãi nhưng “mọi âu lo, hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em” (1Pr 5,7). Cuộc sống của thế giới giờ đây có nhiều thay đổi, có thể mọi người phải tiếp tục sống chung với lũ, nhưng dù trong hoàn cảnh nào “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến Người” (Rm 8,28).

Ước gì nạn Covid không làm cho sự hiện diện của Thiên Chúa bị “phong tỏa” bằng những suy nghĩ tiêu cực, bi quan, nhưng mở rộng tâm hồn ta để tiếp nhận ánh sáng, tình yêu và ân sủng, mà Thánh Thần Chúa đang tiếp tục tuôn đổ xuống cho những kẻ tin.

Cầu nguyện

Lạy Chúa!

Cuộc đời như biển cả mênh mông,

có những khi đầy sóng gió chập chùng,

với dịch bệnh, tai ương và nghèo túng,

biết bao người phải lâm cảnh khốn cùng,

chúng con thấy hoang mang và nao núng,

lại thấy Chúa như xa cách muôn trùng.

 

Cuộc sống với đau khổ không thể tránh,

bao lần con ưu phiền và than trách,

nhưng thử thách lại là phương cách,

Chúa muốn tôi luyện đời sống con,

qua những đau thương thêm vững vàng,

qua những nguy nàn thêm tin cậy.

 

Thử thách như cơ hội triển nở,

giúp con khai mở những tiềm năng,

để con khai sáng cuộc đời mình,

theo như chương trình tình yêu Chúa.

 

Thử thách như thập giá hằng ngày,

cho con biết luôn kề vai vác lấy,

trong an vui và hy vọng tràn đầy,

vì thấy mình được nên giống Chúa hơn.

 

Trong thử thách con thấy mình chới với,

nhưng tin rằng Chúa có mặt ở mọi nơi,

luôn yêu thương và hành động kịp thời,

không để đời con phải chơi vơi,

 

Thuyền đời con chẳng bao giờ êm ả,

chỉ êm ả khi về tới bến quê,

chỉ mong sao con giữ vẹn lời thề,

biết sống đức tin giữa cuộc đời trần thế,

Xin cảm tạ và tôn vinh danh Chúa,

trong gian nan thử thách của đời con. Amen.

[1]. https://zingnews.vn/so-ca-tu-vong-thuc-te-vi-covid-19-tren-toan-cau-la-bao-nhieu-post1254231.html (24.08.2021)

 

 

9.    Đức Giêsu, sự cần thiết cho cơn đại dịch Covid-19

Thiên Chúa ở đâu giữa đại dịch

(Suy niệm của Lm. Phaolô Phạm Trọng Phương)

Trong khi tôi soạn bài giảng này, mọi người trên khắp cả thế giới, nhất là tại Việt Nam đang phải oằn mình, hoang mang lo sợ vì đại dịch Covid-19 bùng phát rất nhanh từng giờ từng phút kéo theo con số tử vong cũng như người nhiễm bệnh rất cao. Đây quả là sóng gió bão bùng đối với con người mà tự sức khó để chèo chống. Tuy nhiên, có nhiều quốc gia, tập thể và cá nhân đã nỗ lực dùng nhiều cách thức như quyền lực, tiền tài, vật chất, ngay cả cầu khấn các thần thánh để chống lại Covid, nhưng mọi sự đều vô vọng không muốn nói càng ngày đại dịch lại càng gia tăng. Trong phụng vụ Lời Chúa của tuần 12 thương niên B hôm nay, chúng ta bắt gặp một Giê-su, nguồn sức mạnh của Thiên Chúa hiện diện với nhân loại ngang qua việc làm cho chiếc thuyền của các môn đệ thoát khỏi những cơn sóng mạnh mẽ và giết chết.

Quả thật, Covid, hình bóng của sự Dữ và sự Chết đang ‘gầm gừ’ và ‘mạnh mẽ hoành hành’ trong thế giới lữ hành của chúng ta. ‘Bão tố hung dữ’ này đang làm cho người người, nhà nhà phải xa cách vì bị cách ly hay tử vong khi bị nó xâm nhập và lây nhiễm. Biết bao nhiêu nỗ lực của các nhà khoa học và các chuyên gia y tế đã, đang và sẽ tìm mọi phương cách hữu hiệu nhất để phòng chống ‘cơn sóng dữ dội’ này. Nhìn chung phần nào đó đã ngăn chặn được sự lây lan của dịch bệnh qua việc nghiên cứu ra Vacinne. Tuy nhiên, tự sức con người làm sao có thể chống trả được ‘cơn sóng’ nguy hiểm này? Nơi bài Tin mừng hôm nay, chính Chúa Giê-su đã muốn cho các môn đệ tiếp cận với cơn sóng dữ dội nơi biển hồ Galile khi Ngài bảo: “Chúng ta sang bờ bên kia đi!” (Mc 4,35). Nơi đây các môn đệ đã bị cuồng phong giông tố đe doạ: “Một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước.” (c.37). Ý Chúa Giê-su muốn dạy cho các môn đệ nói riêng và tất cả mọi người chúng ta nói chung bài học trong cuộc đời là không thể mà không có sự Dữ, nhất là sự Chết. Chúng ta phải chấp nhận tiếp cận, chung đụng và trải qua. Các môn đệ đã va chạm và đối diện với sóng dữ. Các ông đã hoang mang lo sợ và bất lực hoàn toàn khi nhận ra rằng tự mình chẳng giải quyết và chiến thắng được cơn giống tố bão bùng này. Chính vì thế, các môn đệ đã mau chóng chạy đến với Đức Giê-su để cậy nhờ Ngài can thiệp: Trong khi đó, Đức Giê-su đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các môn đệ đánh thức Người dậy và nói: “Thầy ơi, chúng ta chết mất, Thầy chẳng lo gì sao?”. Một điều chúng ta đáng lưu ý là việc Chúa Giê-su ‘ngủ’ trên chiếc thuyền không phải là Ngài không hiện diện, Ngài bỏ rơi các môn đệ, bỏ rơi nhân loại, nhưng Ngài muốn cho mọi người biết rằng Ngài vẫn hiện diện ở đó, trong mọi nơi mọi lúc, nhất là trong những lúc bi thương nhất của cuộc đời. Điều quan trọng là con người đã không nhận ra Ngài và đã mời Ngài ra khỏi con thuyền cuộc đời của mình để tự giải quyết mọi sự. Và đương nhiên, đứng trước mọi khó khăn hay sóng gió cuộc đời, con người dường như bị giới hạn và chẳng làm được gì để vượt qua. Cái khôn ngoan nơi các môn đệ là nhớ đến Chúa Giê-su và kêu cầu Ngài để Ngài giúp đỡ vì biết rằng ‘không có Thầy, chúng con không làm được gì.’ (Ga 15,5). Quả thật, sự hiện diện của Chúa Giê-su đã làm vơi đi, tan đi và mất đi sự ‘lộng hành của bão táp’ mà các môn đệ đang phải hứng chịu. Tin mừng đã thuật lại điều đó: “Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi!” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ.” (c.39). Đức Giê-su, Ngôi Lời Thiên Chúa, có uy quyền trên mọi sự, cụ thể là trên biển cả mà Tin mừng hôm nay trình thuật. Uy quyền của Ngài đã và đang chiến thắng mọi sự Dữ và ngay cả sự Chết. Hình ảnh Ngài ‘ngủ’ như là hình ảnh báo trước cái chết của Ngài. Và khi Ngài ‘thức dậy’ là hình ảnh chiến thắng tử thần của Ngài trong tương lai, nghĩa là Ngài sẽ sống lại hiển vinh. Đối với Ngài, sự Dữ và sự Chết chẳng làm được gì vì Ngài là Thiên Chúa toàn năng toàn thiện và Đấng tác sinh muôn loài muôn vật.

Chính vì thế, đứng trước sự Dữ là giông tố cuộc đời, nhất là trong bối cảnh cả và nhân loại đang đối diện với Đại dịch Covid-19, con người chúng ta ngoài việc nỗ lực thực hiện phòng chống nó với tiêu chuẩn 9K (Khẩu trang – Khử khuẩn – Khoảng cách – Không tập trung – Khai báo y tế – Kiểm soát biên giới – Khu cách ly an toàn – Không ra khỏi nhà khi cần thiết – Không đăng tải thông tin sai sự thật), ngoài việc nỗ lực tìm kiếm Vacinne phòng ngừa, là những người có đức tin chân chính, chúng ta được mời gọi hãy mau chóng chạy đến với Thiên Chúa tình yêu ngang qua Chúa Giê-su Ki-tô để nhờ Ngài, trong Ngài và với Ngài mọi người sẽ được cứu chữa và giải thoát. Cũng vậy, đứng trước sóng dữ hoành hành, các môn đệ đã vội vã kêu cầu Đức Giê-su hơn là cậy dựa vào sức lực yếu đuối của con người, và kết quả đã được giải thoát khỏi bão tố hãi hùng đó. Chính Thánh Phao lô, tông đồ dân ngoại, cũng đã khẳng quyết trong bài đọc II (2Cr 5, 14-17): nơi Đức Giê-su, Đấng đã chết và sống lại hiển vinh sẽ làm cho con người trở nên thụ tạo mới và được tham dự vào phần vinh quang bất diệt. Nơi Ngài, mọi người sẽ được giải thoát mọi sự Dữ và sự Chết. Cũng vậy, nơi bài đọc I, Thiên Chúa đã khẳng định với Gióp rằng: “Bấy giờ, giữa cơn bão táp, Đức Chúa lên tiếng trả lời ông Gióp như sau: Cửa đại dương, ai ra tay khép lại khi nước tuôn trào từ đáy vực sâu, khi Ta giăng mây làm áo nó mặc, phủ sương mù làm tã che thân ? Đường ranh giới của nó, chính Ta vạch sẵn, lại đặt vào nơi cửa đóng then cài,…” (G 38, 1.8-10). Chính Thiên Chúa làm nên mọi sự, chủ mọi sự và giải thoát mọi sự, con người chỉ là dụng cụ và là người quản lý công trình sáng tạo mà thôi.

Thật vậy, hình ảnh sóng gió bão bùng trong bài Tin mừng hôm nay đối với con thuyền các môn đệ chính là hình ảnh giông tố trong cuộc đời của mỗi chúng ta. Hình ảnh rõ ràng và thiết thực nhất, đó là Đại dịch Covid mà nhân loại chúng ta đang đối diện. Nó đang làm cho thế giới đảo điên và hoang mang lo sợ. Đứng trước Đại dịch này, mọi người đã dùng mọi phương cách để phòng chống nhưng xem ra mọi sự không như mong muốn. Phải chăng con người đã tự cậy dựa vào sự khôn ngoan, thông minh, giàu có của mình để giải quyết? Phải chăng mọi người tự cho mình làm được mọi sự, tự cho mình là cái rốn của vũ trụ? Nhưng thực tế đã cho thấy, tất cả nỗ lực của con người chẳng đem lại được cái gì nếu thiếu đi sự can thiệp của Thiên Chúa. Vì thế, là những người tin nhờ sự vào mặc khải của Chúa Giê-su, nhờ Tin mừng của Ngài, chúng ta được nhận chân rằng chính Chúa là Đấng uy quyền trên trời dưới đất. Nhờ Ngài, trong Ngài và với Ngài, mọi sóng gió bão bùng sẽ được dập tắt nếu chúng ta biết cậy dựa vào Ngài.

Do đó, chúng ta hãy mau nói cho thế giới loài người biết rằng Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, Đấng dựng nên muôn loài muôn vật và có uy quyền trên mọi sự. Ngài luôn yêu thương và ban phát mọi ơn lành cho những ai biết tin tưởng vào Ngài và mong muốn Ngài đi vào con thuyền cuộc đời đang chênh vênh và gập ghềnh bởi biết bao sóng gió dữ dằn của ma quỷ, của thế gian và xác thịt, nhất là trong tình cảnh khó khăn và sợ hãi bởi cơn sóng của Đại dịch Covid-19 này.

 

 

10.Suy niệm Kinh Lạy Cha mùa dịch Covid-19

(Suy niệm của Aug. Trần Cao Khải)

Có lẽ hơn lúc nào hết, trong thời điểm hiện tại khi mà đại dịch cúm Covid-19 đã trở nên cực kỳ nguy hiểm và lan rộng hầu hết khắp nơi trên thế giới, thì kinh “Lạy Cha” mà chúng ta đọc hằng ngày đã trở nên một lời kinh thắm thiết nhất trong các kinh nguyện. Đó cũng trở nên một bài suy niệm gợi mở cho ta nhiều suy tư và quyết định khi đang phải đối diện với sự lo âu, sợ hãi, hoảng loạn, thất vọng và hoang mang cùng cực.

Trước tình hình đáng lo sợ này, người Ki-tô hữu chúng ta tự hỏi, “Thiên Chúa đang ở đâu? Người muốn nói gì thông qua những biến cố đáng sợ và đau buồn này?”.

Hơn lúc nào hết, mọi tín hữu chúng ta đừng quên đặt niềm tin tưởng vào Thiên Chúa, nhất là khi cuộc sống của chúng ta đang gặp phải những khó khăn thử thách. Có thể chúng ta dễ dàng quên đi Người chăm lo thế giới này khi những biến cố xảy ra làm đảo lộn cuộc sống của mình. Giữa những sợ hãi, buồn phiền và nỗi thống khổ ấy, chúng ta cần xác tín rằng Thiên Chúa vẫn gìn giữ mọi sự trong trật tự. Khi mọi thứ bị xáo trộn, chúng ta hãy luôn giữ bình an và tín thác vào Thiên Chúa khi biết rằng Người là Đấng sáng tạo và gìn giữ muôn loài. [1]

Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời

Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, Người “ở trên trời” nhưng Người không xa chúng ta. Sự hiện diện của Người là vô cùng, vô biên và sâu thẳm. Mặc dù không “thấy” Người, nhưng chúng ta nghe được Lời của Người: “Đừng sợ hãi: có Ta ở với ngươi. Đừng nhớn nhác: Ta là Thiên Chúa của ngươi. Ta cho ngươi vững mạnh, Ta lại còn trợ giúp với tay hữu toàn thắng của Ta ” (Is 41, 10).

Chúng ta cầu nguyện với Thiên Chúa là Cha chúng ta ở trên trời vì Người là Đấng duy nhất để ta tôn thờ và yêu mến, vì tất cả chúng ta là con cái của Người và vì chúng ta tin tưởng tất cả mọi sự dữ sẽ qua đi và chỉ mình Người là tồn tại. Chúng ta xác tín rằng, không có gì vĩnh cửu trong thế giới này, kể cả những điều hạnh phúc và những phiền muộn của chúng ta. Vậy chúng ta hãy an tâm. Thiên Chúa hằng sống và chúng ta sẽ vượt qua cuộc sống tạm bợ này để cùng được sống với Người trong Nước vĩnh cửu.

Chúa Giê-su luôn dùng từ “Cha” trong những thời điểm thử thách nhất, và cho chúng ta biết rằng Cha luôn biết mọi sự chúng ta cần, trước cả khi chúng ta lên tiếng. Người là Cha lắng nghe chúng ta trong thầm lặng, cũng như Chúa Giê-su dạy chúng ta cầu nguyện nơi kín đáo.

Trong lúc dịch bệnh hoành hành thế này, chúng ta cầu xin cho nhiều người biết đến Danh (Tên) Thiên Chúa để có niềm tin và hi vọng. Biết Danh là biết Người. Biết Người thì sẽ cảm nhận được quyền năng và tình thương của Người lớn lao chừng nào. Người Ki-tô hữu và người ngoài Ki-tô giáo khác nhau ở chỗ người Ki-tô hữu biết đích xác Danh Đấng mà mình tôn thờ và cầu xin. Không cầu xin một cách vu vơ.

Chúa Giê-su đã dạy chúng ta cầu xin với Cha của Ngài. Tức là Đấng mà Ngài đã mạc khải cho chúng ta biết. Cha của Đức Giê-su là một người Cha quyền năng và giàu lòng thương xót. Lịch sử cứu độ đã chứng tỏ cho thấy rằng Cha luôn có kế hoạch giải thoát con người khỏi tội, sự chết và mọi tai họa. Cha là Chúa của kẻ sống.

Khi dịch Covid-19 lan rộng ra các nước trên thế giới, ngày nào người ta cũng thiết lập bản đồ virus-Corona để theo dõi tình hình dịch bệnh. Chúng ta cầu xin cho các chấm đỏ hay mảng tím ngày càng ít đi. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn, đó vẫn là xin cho Nước Cha ngày được triển nở trên trái đất và trong vũ trụ này. Nước của Thiên Chúa không có trên bản đồ nhân loại cũng không phải là một vương quốc của một đế chế nào. Đó là Vương Quốc của Thiên Chúa mà Đức Ki-tô Phục Sinh là Đấng được trao quyền thiết lập.

Phải cầu xin để Vương Quốc ấy ngày càng lan tỏa ra toàn vũ trụ và khắp cùng trái đất. Chỉ trong Vương Quốc ấy con người mới thoát khỏi sự kiềm tỏa của mãnh lực sự dữ. Chỉ trong Vương Quốc ấy, con người mới có bình an, hạnh phúc, yêu thương và tự do đích thực. Chúa Ki-tô đã được Thiên Chúa Cha trao cho Vương Quyền thiên giới sau khi Ngài đã sống lại từ kẻ chết. Ngài thiết lập Hội thánh Tân Ước để tất cả những ai tham dự vào mầu nhiệm Nước Trời sẽ được hưởng ân huệ mà Thiên Chúa đã hứa ban. “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 18-20).

Trong khi chúng ta thưa với Thiên Chúa là “xin ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”, chúng ta lại thường lèo lái thánh ý Chúa theo ý muốn của ta. Khi dịch bệnh xảy ra, thay chúng ta khiêm tốn cầu xin để biết đâu là đường lối của Thiên chúa, đâu là kế hoạch của Người, thì chúng ta lại “điều khiển” Thiên Chúa làm điều này điều kia như thể ban một vài phép lạ nào đó cho chúng ta.

Thực ra, ý Thiên Chúa luôn là một mầu nhiệm. Người hành động một cách kỳ diệu, lạ lùng mà trí khôn ta không thể thấu suốt được. “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi và đường lối của Ta cũng không phải là đường lối của các ngươi” (Is 55, 8). Vì thế đối với những việc xảy ra cho con người, dù tốt hay xấu, chúng ta một lòng tin tưởng và phó thác vào Chúa quan phòng. Thánh Phao-lô đã nhắn nhủ các tín hữu: “Chúng ta biết rằng: Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến Người, tức là cho những kẻ được Người kêu gọi theo như ý Người định ” (Rm 8, 28).

Về ý nguyện này, ĐTC Phan-xi-cô đã chia sẻ như sau: [2]

“Khó khăn thử thách giúp chúng ta cảm nghiệm đau khổ: Như đã xảy ra với Chúa Giê-su trong vườn Giết-sê-ma-ni, khi Người nếm trải sự đau khổ và Người đã cầu nguyện; “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin hãy cất chén này xa con! Nhưng xin đừng theo ý con, mà là theo ý Cha” (Lc 22, 42). Chúa Giê-su đã bị vùi dập bởi sự ác của thế gian nhưng Người phó thác cách tin tưởng vào đại dương tình yêu của thánh ý Chúa Cha.

“Cả các vị tử đạo, trong thử thách, các ngài không tìm sự chết, các ngài tìm điều sau cái chết, đó là sự Phục sinh. Thiên Chúa, vì yêu thương, có thể đưa chúng ta đi trên những nẻo đường khó khăn để cảm nhận những vết thương và gai góc đau khổ, nhưng Người sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Người sẽ luôn ở với chúng ta, bên cạnh chúng ta, trong tâm hồn chúng ta”.

Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày

Lời cầu xin này xem ra rất gần gũi và cần thiết đối với mỗi người chúng ta. Mong được hằng ngày dùng đủ. Đó là niềm mơ ước của nhiều người, nhiều gia đình. Nhưng tại sao Chúa lại dạy ta xin điều mà xem ra Ngài không muốn chúng ta bận tậm lắm.

Đức Giê-su đã chẳng kêu gọi chúng ta phải hoàn toàn tin tưởng vào Chúa quan phòng sao? Ngài phán: “Vì thế anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha em em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6, 31-33).

Khi dịch bệnh xảy ra, ngoài vấn đề lo bệnh viện chạy chữa, lo chỗ cách ly, lo sắm khẩu trang, lo thầy, lo thuốc, người ta còn phải lo cái ăn, cái uống trong điều kiện khan hiếm và mắc mỏ. Nhiều người đua nhau tích trữ lương thực. Hàng hóa, thực phẩm trong siêu thị bỗng bị “hút” hết. Chuyện này không chỉ xảy ra bên Trung Quốc hay VN mà còn diễn ra bên Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc châu…

Trong số những người lo lắng, hoang mang về cái ăn cái uống thời Covid-19 chắc cũng có nhiều người Công giáo chúng ta. Chúa biết điều này. Chúa không trách móc chúng ta, nhưng Ngài mời gọi chúng ta nhìn xa hơn. Nếu như chúng ta đầy đủ lương thực nhưng nhiễm virus Corona dương tính, rồi vĩnh viễn ra đi, thì liệu có ích gì cho ta. Nếu như trong hoàn cảnh dịch bệnh này, ta có đầy đủ lương thực, thực phẩm trong khi nhiều người anh em của ta thiếu thốn, cạn kiệt mà ta không ra tay giúp đỡ, thì liệu lương tâm ta có bình an không.

Bên cạnh việc nhắc bảo chúng ta nên chấp nhận cuộc sống vật chất “đủ dùng hằng ngày”, Chúa cũng đề nghị chúng ta nên lo tích trữ kho tàng trên trời là nơi mà những thứ đó không bị mối mọt ăn. “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi. Vì kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó” (Mt 6, 19-21). 

Và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con

Đối với Thiên Chúa, chúng ta hoàn toàn “mắc nợ” Người. Bởi vì tất cả con người và cuộc sống chúng ta đều là ơn huệ của Người. Chúng ta được tạo dựng từ “không” đến “có”, từ hư vô đến hiện hữu, từ không-là-gì đến có-là-gì. Hơn nữa, chúng ta được Chúa cứu chuộc, từ kẻ có tội trở thành bạn hữu của Chúa, từ phạm nhân đáng chết trở thành con cái của sự Sống. Ơn cứu chuộc là vô giá. Chính Đức Giê-su, Con Một của Thiên Chúa đã hy sinh mạng sống mình để xóa nợ thay cho chúng ta.

Trong cuộc sống đời này, mọi người cũng mắc nợ nhau. Chúng ta không chỉ mắc nợ nhau tiền bạc, vật chất này nọ, mà còn mắc nợ nhau về chất xám, trí năng, tinh thần, lòng tốt, sự tử tế, sự hy sinh xả kỷ, sự hiến thân do nghề nghiệp vv. Mỗi người đều mắc nợ nhau và mỗi người phải có bổn trả nợ, cách này hay cách khác.

Khi dịch cúm do virus Corona bùng phát, ta đã thấy không ít các bác sĩ, y tá, nhân viên y tế, các lực lượng bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cộng đồng, các nhà khoa học, đã liều thân lao vào “trận địa của cơn đại dịch”. Đã không ít người đã bỏ mạng ngay tại nơi làm việc, vì nhiễm virus hay vì làm việc quá sức. Chúng ta được sống an lành như hiện tại, đó là cũng là nhờ phần lớn những con người hy sinh thầm lặng ấy.

Trong khi chúng ta cầu xin Chúa tha nợ cho chúng ta thì chúng ta cũng xin Chúa giúp ta làm mọi cách để có thể trả nợ cho những người anh em đã hy sinh mạng sống vì nhân loại chúng ta. Thánh Phao-lô đã quả quyết: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề luật” (Rm 13, 8).

Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi mọi sự dữ

Không một Ki-tô hữu nào mà không có kinh nghiệm về những cám dỗ trong đời sống mình. Vấn đề là chúng ta có thái độ và phản ứng như nào trước những cám dỗ xảy đến cho mình. Ma quỷ là tác nhân chính của cám dỗ. Nhưng cũng có những “mãnh lực” khác hùa theo ma quỷ, chúng cũng có sức mạnh cám dỗ ta làm sự tội, đó là thế gian, xác thịt. Trước hết, chúng ta phải khẳng định rằng, cám dỗ có một sức mạnh kinh khủng, nó như một cơn cuồng phong cuốn hút ta vào vòng xoáy của sự ác, để chúng ta phải làm điều ác.

Thánh Phê-rô đã nhắc nhở chúng ta: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé, anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự, vì biết rằng toàn thể anh em trên trần gian đều trải qua cùng một loại thống khổ như thế” (1Pr 5, 8-9).

Chắc chắn chúng ta không thể sống mà không bị cám dỗ được, vì nó ở ngay sát bên ta, ở trong ta. Vấn đề là chúng ta xin Chúa ban ơn để chúng ta có sức mạnh không chiều theo nó, không rơi vào bàn tay điều khiển của nó. Có hai phương thế để chúng ta đối phó với cơn cám dỗ, đó là: sống tiết độ và tỉnh thức. 

Trong thư mùa Chay gửi cộng đoàn dân Chúa giáo phận Mỹ Tho ngày 22-2-2020, ĐGM Phê-rô Nguyễn Khảm đã nhắc nhở như sau:

“Để phòng chống dịch bệnh Covid-19, người dân được nhắc nhở về việc đeo khẩu trang nơi công cộng, rửa tay thường xuyên và đúng cách sau khi tiếp xúc với vật dụng hay bề mặt có nhiều người chạm vào như tay nắm cửa, bàn phím, thang máy…Đồng thời chính quyền sử dụng biện pháp cách ly những người có dấu hiệu nhiễm bệnh, để khoanh vùng dịch, tránh lây lan cho nhiều người khác.

“Cũng thế, nếu ý thức được mối nguy hiểm và sự tàn phá của tội lỗi, chúng ta cần phải phòng chống tội lỗi. Theo kinh nghiệm lâu đời của mình, Hội Thánh đưa ra nhiều lời khuyên đạo đức để giúp thực hiện điều này, cụ thể nhất là tránh xa dịp tội. Trong Kinh Ăn năn tội, chúng ta vẫn đọc: “Nhờ ơn Chúa giúp, con sẽ tránh xa dịp tội và làm việc đền tội cho cân xứng”. Dịp tội là những hoàn cảnh bên ngoài (không gian, thời gian, sự vật, con người) khiến chúng ta dễ bị cám dỗ phạm tội. Không tránh xa những dịp đó thì khó lòng tránh được tội lỗi. Vì thế, cần phải tránh xa dịp tội, nhất là những dịp tội gần. Mỗi người cần xét xem đâu là những tội mình hay phạm, hoàn cảnh nào khiến mình dễ sa ngã phạm tội đó, từ đó cố gắng xa tránh dịp tội.” [3]

Khi dịch bệnh mới xảy ra ở thành phố Vũ Hán (Trung Quốc), mọi người đều lo lắng và hoảng loạn vì có thể đây sẽ là một thảm kịch lớn của nhân loại. Người ta đã ghi lại chứng từ của một nhân chứng có mặt tại chỗ, như sau:

“Trong gần một tuần, sinh viên Mỹ Nicholas Schneider, 21 tuổi, đã cố gắng nhưng chưa ra được khỏi Vũ Hán, thành phố là tâm chấn của đại dịch virus corona và đang bị phong tỏa.

“Schneider đã nói trong cuộc phỏng vấn với Reuters ngày 29-1 rằng đây như một thị trấn ma, không có nhiều người và xe cộ. Một cảm giác lạ. Một cách nào đó, anh ta cảm thấy như ngày tận thế! Thành phố sầm uất 11 triệu dân giờ đây vắng lặng một cách lạnh lùng. Schneider ở đây để theo học toán học ứng dụng ở Đại học Vũ Hán, cách 16 km so với khu chợ buôn bán trái phép động vật hoang dã được cho là nơi mà chủng virus corona mới bắt đầu lây lan”. [4]

Tai họa dịch cúm virus corona xảy đến có vẻ bất ngờ khiến cho nhiều người hoảng sợ đưa ra nhiều suy đoán. Người ta tập trung đi tìm nguyên nhân. Đây có thể không phải là thiên tai, nhưng là một nhân tai khủng khiếp? Đây có thể là biến chất của một loại hình chiến tranh vi trùng? Đây cũng có thể là một ý đồ xấu xa của một quốc gia nào đó muốn tiêu diệt một nước thù địch vv.

Cũng có một cách lý giải khác, rằng Thiên Chúa phạt người này, người kia, nước nọ, vì tội chống báng Thiên Chúa và phỉ báng Hội thánh Chúa Ki-tô! Thực ra, xét ở bản chất tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa, chúng ta tin rằng Người không thù ghét ai cả. Người cũng không muốn nhân loại phải khổ sở, điêu đứng. Người không phải là tác nhân gây tai họa.

“Mạnh bạo lên, can đảm lên! Đó chẳng phải là lệnh Ta đã truyền cho ngươi sao? Đừng run khiếp, đừng sợ hãi, vì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, sẽ ở với ngươi bất cứ nơi nào ngươi đi tới” (Gs 1, 9).  

Chúng ta cũng biết rằng, “Hình phạt nặng nhất của Thiên Chúa không phải là gởi đến những tai họa, tang tóc để ta không thể nghỉ yên trong tội lỗi. Đó còn là dấu chỉ lòng nhân từ của Người muốn cảnh tỉnh ta để ta trở lại với Người. Hình phạt nặng nhất là để cho ta có dư dật của cải, vui sướng ở đời này và chỉ cất khỏi ta sự hiện diện sinh động của Người, vì ở trạng thái thấy con người có cảm giác mình chẳng còn thiếu thốn chi nên không nghĩ đến trở lại nữa”. [5]

________________

[1] conggiao.info

[2] vaticannews.va

[3] giaophanmytho.net

[4] news.zing.vn

[5] LM Thân Văn Tường – Đối diện với Thiên Chúa – Gp Long Xuyên 1993 trang 6.

 

 

11.Chúa nói gì với ta qua cơn đại dịch?

(Suy niệm của Lm. Jos. Anh Tuấn – Giáo phận Lạng Sơn – Cao Bằng. Từ hdgmvietnam.com)

WHĐ (11.9.2021) – Hơn hai năm qua, cả thế giới phải đối diện với đại dịch Covid-19, với biết bao mất mát, đau khổ, chết chóc mỗi ngày một lan tràn khủng khiếp hơn vì có những biến chủng mới. Riêng tại Việt Nam, dịp tái phát lần này là khủng khiếp nhất. Worldometer ghi nhận Việt Nam: 576,096 ca nhiễm, 14,470 ca tử vong, 338,170 ca khỏi bệnh (cập nhật 10/9/2021).

Đứng trước thảm trạng này, có nhiều người thất vọng, trách móc và đổ lỗi cho nhau; có nhiều người than trách cả Chúa… Chúa đâu? Sao Ngài không ra tay? Ngài vẫn có đó! Im lặng! Trong thinh lặng của cầu nguyện chúng ta sẽ nghe được Chúa nói với chúng ta nhiều điều. Riêng tôi, đúng dịp Sài Gòn tròn 100 ngày giãn cách nghiêm ngặt (31/5-7/9), tôi ngồi ghi lại những điều Chúa muốn nói với chúng ta.

  1. Chúa nói với tôi, Chúa nói với bạn

Chúa đang nói với tôi và với bạn nhiều điều.

Chúng ta đang sống quá vội vàng.

Quả vậy, cuộc sống của chúng ta ngày hôm nay quá tất bật. Tất bật vì công việc. Tất bật vì học hành. Tất bật vì đi tìm địa vị… Làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm. Cuộc sống quay cuồng đến nỗi chúng ta không có thời gian dành cho nhau, thậm chí những người thân yêu trong gia đình cũng chẳng mấy khi gặp nhau. Có những gia đình khi con thức dậy đi học thì bố đã đi làm; khi bố đi làm về thì con đã đi ngủ. Chúng ta đang biến mình thành cỗ máy; trong khi Chúa muốn chúng ta có làm việc và có nghỉ ngơi, giống như trong công cuộc tạo dựng vậy (x.St 2,2).

Thời gian dịch bệnh Chúa cho chúng ta được sống chậm lại. Tất cả phải chậm lại vì dịch bệnh, vì giãn cách xã hội.Trong thời gian này, các gia đình nhỏ được dành trọn thời gian cho nhau, chăm lo cho nhau từng miếng cơm, giấc ngủ, giờ học online. Thật hạnh phúc. Chúng ta phải tạ ơn Chúa.

Chúng ta đang quá kiêu căng và tự mãn.

Con người đang sống trong sự kiêu hãnh của mình vì những thành quả khoa học đạt được. Họ có thể lên đến mặt trăng và các ngôi sao mà! Con người nghĩ rằng mình có thể làm được mọi sự, thậm chí cả việc nhân bản sự sống, nên đâu cần đến chúa bà gì! Sự kiêu căng ấy của chúng ta chẳng khác gì sự tự mãn của dân Chúa khi người ta muốn xây cho mình một tháp Ba-ben chọc trời (x.St 11,1-9).

Khi dịch bệnh ập đến, Chúa nhắc chúng ta cần phải sống khiêm nhường hơn. Chúng ta phải biết mình là ai trong trật tự thế giới này. Vì thế, chúng ta vẫn phải cầu xin: “xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con”, như chúng ta vẫn hát. Chứng kiến những người chết như rạ, chúng ta mới thấy thân phận con người thật mong manh. Quả đúng là bụi tro. Cứ nghĩ rằng mình làm được tất cả, nhưng rồi tất cả đều phải buông xuôi. Con người không thể làm chủ cuộc đời mình được. Trước mặt Chúa, chúng ta chỉ biết thốt lên lời Thánh Vịnh: “Lòng con chẳng dám tự cao, mắt con chẳng dám tự hào, CHÚA ơi!” (Tv 131,1).

Chúng ta đang thích sống ảo.

Cuộc sống xã hội phát triển của thời công nghệ 4.0, chúng ta có quá nhiều phương tiện công nghệ. Cùng với mạng Internet toàn cầu, chúng ta dễ dàng gặp gỡ nhau trên màn hình với cả những người xa lạ trên khắp thế giới. Việc sống ảo đó mang lại nhiều niềm vui và những kết nối, nhưng nguy cơ của nó là con người đánh mất đi những tương quan thực của cuộc sống. Người ta sống ảo đến mức, ngay những người trong một gia đình cũng chẳng mấy khi gặp gỡ hàn huyên vì nghĩ rằng thăm hỏi nhau qua điện thoại là đủ rồi. Và người ta an phận trong việc sống ảo ấy.

Sống trong thời dịch bệnh, chúng ta mới cảm nghiệm được việc sống ảo không thể bằng sống thực. Thử hỏi những người tín hữu đang “xem lễ ảo” – lễ online – trên các phương tiện truyền thông họ cảm nhận thế nào? Ai cũng khao khát có một thánh lễ bình thường, được rước Mình Thánh Chúa thật, chứ không chỉ rước thiêng liêng! Phải giãn cách xã hội, chúng ta phải ở nhà và như vậy chúng ta bớt sống ảo với nhau hơn. Chúng ta cũng ước mong sớm được đến nhà thờ để được tham dự thánh lễ thật.

Như thế, qua cơn dịch bệnh này Chúa nhắc cho bạn và tôi biết sống chậm lại, bớt kiêu căng và bớt sống ảo hơn.

  1. Chúa nói với mẹ Hội Thánh

Qua cơn đại dịch này, Chúa cũng nói nhiều điều với mẹ Hội Thánh chúng ta.

Chúa nhắc cho Hội Thánh cần phải củng cố đức tin.

Đức tin mà chúng ta tuyên xưng vào Chúa vừa mang tính cộng đoàn, vừa mang tính cá nhân. Tôi tin, chúng tôi tin vẫn là lời tuyên xưng của Hội Thánh và của từng người chúng ta. Chúng ta sống đức tin nhờ các cử hành được trao cho Hội Thánh. Nhưng đức tin ấy phải dẫn đến việc tôi tin, không chỉ dựa vào đức tin người của khác. Mẹ Hội Thánh vẫn luôn chăm lo, mọi lúc mọi nơi mọi thời, để đức tin của Hội Thánh được vững vàng và đức tin của từng người tín hữu được kiên vững trước mọi nỗi vui buồn của cuộc sống.

Chúng ta có đủ chiều sâu của đức tin để xác tín rằng Chúa vẫn đang ở bên và ở trong chúng ta khi Ngài vẫn để cho con người phải căng mình lên chống chọi với dịch bệnh không? Khi không còn lễ lạc rước sách, không còn tổ chức hội đoàn linh đình nữa, liệu chúng ta còn đủ tin vào Chúa là Đấng đầy quyền năng không? Khi phải ở nhà trong thời dịch bệnh, chúng ta càng cần xác tín hơn lời của thánh Phaolô nói với cộng đoàn Êphêsô: “Xin cho anh em, nhờ lòng tin, được Đức Ki-tô ngự trong tâm hồn; … để cùng toàn thể dân thánh, anh em đủ sức thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu, và nhận biết tình thương của Đức Ki-tô, là tình thương vượt quá sự hiểu biết.” (Ep 3,17-19). Có như thế, chúng ta mới vững mạnh trong mọi hoàn cảnh được.

Chúa nhắc cho Hội Thánh cần phải gieo niềm hy vọng.

Cuộc sống phải có hy vọng thì mới đáng sống. Đời sống người tín hữu không chỉ sống hy vọng ở đời này mà còn có niềm hy vọng vĩnh cửu. Nhờ có hy vọng mà chúng ta vươn lên trong cuộc sống. Chúng ta còn hy vọng được hưởng hạnh phúc đời đời bên Chúa.

Khi phải chống chọi với đại dịch, hơn bao giờ hết, người tín hữu càng cảm nghiệm được niềm hy vọng là cần thiết. Không bao giờ được phép để cho mình tuyệt vọng! Mẹ Hội Thánh có bổn phận gieo niềm hy vọng không ngừng. Trong bức thư, 31/8/2021, gửi cho TGP Sài Gòn, Đức Tổng Giuse Nguyên Năng đã gửi gắm thông điệp: “Hãy nắm giữ niềm hy vọng dành cho chúng ta” (Dt 6, 18). Chúng ta sống niềm hy vọng vì Mẹ Hội Thánh luôn đồng hành với chúng ta trong mọi hoàn cảnh. Niềm hy vọng ấy, Đức cố Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận đã trở nên chứng nhân sống.

Chúa nhắc cho Hội Thánh cần phải xây dựng tình hiệp thông.

Tình hiệp thông vốn là bản chất của Hội Thánh. Mối hiệp thông ấy được khơi nguồn từ mối hiệp thông sâu xa của Ba Ngôi Thiên Chúa, như lời cầu nguyện của Chúa Giêsu: “để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta” (Ga 17,21). Đó là mối hiệp thông mang tính hữu cơ, đến nỗi “một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau” (1Cr 12, 26), vì tất cả chúng ta là một thân thể trong Đức Kitô (x. 1Cr 12,13).

Trong thời đại dịch này, Hội Thánh càng bày tỏ tình hiệp thông ấy một cách sâu xa hơn. Chúng ta hiệp thông trong lời cầu nguyện, trong các cử hành phụng vụ. Hơn bao giờ hết, chúng ta cảm nghiệm được: một thánh lễ, cho dù một linh mục dâng riêng, cũng luôn mang tính hiệp thông toàn cầu, cả cho người sống và người chết. Bên cạnh đó, Hội Thánh cũng chung tay góp sức với xã hội để mang lại niềm an ủi cho những ai đau khổ, mang lại ấm no cho nhưng ai đói khát. Các đấng bậc trong Hội Thánh đã kêu gọi mọi người cùng góp phần của mình để cứu giúp anh chị em của mình, bất kể lương giáo. Toà Thánh cũng chung tay với Việt Nam chúng ta 100.000 Euro. Tình hiệp thông ấy sẽ giúp anh chị em chúng ta sớm vượt qua cơn hoạn nạn này.

Qua đại dịch này, Chúa giúp chúng ta kiên vững hơn, hy vọng hơn và hiệp thông hơn.

  1. Chúa nói với xã hội nhân loại

Chúa cũng đang nói với xã hội nhân loại nhiều điều trong thời dịch bệnh này.

Xã hội nhân loại đang cư xử với nhau bằng quyền lực.

Người ta dùng quyền hành theo kiểu “cá lớn nuốt cá bé”, mạnh thì sống, yếu thì chết. Người ta sống ích kỷ, chỉ muốn thu vén cho cộng đồng của mình, cho nước của mình; đôi khi không ngại chà đạp lên người khác và nước khác. Biết bao tiền bạc chi cho quân sự để biểu dương lực lượng. Anh lớn nào cũng muốn làm “bá chủ thế giới”.

Chính trong quyền lực mạnh mẽ ấy thì cả thế giới dường như phải khuất phục trước con virus corona, gần như là vô hình! Nhớ lời Đức Hồng Y GB. Phạm Minh Mẫn, cách đây gần 2 năm, khi được phỏng vấn, ngài nói: “tôi thấy thật nực cười vì con người đang tỏ ra đầy quyền lực mà lại phải chịu khuất phục trước con virus bé nhỏ!”. Như thế, qua cơn đại dịch này Chúa nhắc cho xã hội nhân loại thấy được giới hạn của mình. Cuộc đời con người mong manh lắm, cần thương yêu theo tinh thần: “Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em” (Mt 20,26).

Xã hội nhân loại chỉ thích đẩy lỗi cho nhau.

Thực ra, đây là vấn đề muôn thuở! Nó đã xuất hiện từ lúc tạo thiên lập địa rồi. Đó là tội nguyên tổ. Khi con người phạm tội, chẳng ai muốn nhận tội cả. Khi bị hỏi đến, Ađam đổ lỗi cho Evà; Evà đổ lỗi cho con rắn (x.St 3,12). Xã hội chúng ta đang sống cũng vậy. Chúng ta thích đổ thừa cho nhau mà không nhận lỗi về mình. Có người nói: dịch bệnh xảy ra là do nước này, do nước kia; do tội lỗi của người này người khác nên bị Chúa phạt! Thực ra Chúa chẳng phạt theo cách mà con người hay cư xử với nhau đâu. Bởi, nếu Chúa chấp tội thì làm gì ai được cứu rỗi (x.Tv 130,3).

Chính vì thế, thời gian dịch bệnh này xã hội nhân loại được nhắc nhở phải sám hối. Chúng ta sám hối vì mình chưa nhìn nhận đủ thân phận thụ tạo của mình. Chúng ta sám hối vì mình còn những hành xử thiếu yêu thương. Chúng ta sám hối vì chúng ta đang làm đảo lộn trật tự thế giới, khi không bảo vệ vũ trụ này cho đúng ý của Đấng Tạo Hoá. Đây là điều mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nhắc cả thế giới qua thông điệp Laudato Si’: chúng ta phải biết “chăm sóc ngôi nhà chung” của chúng ta.

Xã hội nhân loại đang sống thiếu công bằng xã hội.

Mọi sự được ban: trên rừng hay dưới biển, trên mặt đất hay dưới vực sâu… đều được dành cho tất cả mọi người. Thế nhưng, trên thực tế, một số ít người lại nắm trong tay tất cả những tài nguyên Chúa ban. Người nghèo vẫn mãi đói nghèo và khổ đau vì bị “ăn chặn” bởi anh chị em của mình, những người có khả năng và có nhiều phương tiện khai thác hơn. Hơn nữa, cuộc sống còn đầy những bất công qua việc tham nhũng, vơ vét của công làm của riêng. Đây là điều mà các thông điệp về xã hội của Giáo Hội thường nhắc đi nhắc lại để cảnh báo xã hội.

Đối diện với dịch bệnh khủng khiếp, ai ai cũng đang vất vả chống dịch, không màng chi đến bản thân nữa, không lo tích trữ nữa và chắc chắn cũng bớt bất công đi. Quả vậy, từ các cấp chính quyền đến từng người dân đều tập trung dập dịch; nhất là các y bác sĩ, y tá, các tình nguyện viên, trong đó có các linh mục và tu sĩ chẳng có mấy chuyên môn, đang căng mình ở tuyến đầu. Họ phải làm việc 200-300% sức lực để cứu lấy sự sống cho anh chị em mình. Công bằng xã hội cũng được thực hiện một cách ráo riết khi các gói cứu trợ từ chính quyền đến các tôn giáo và các mạnh thường quân được trao đến tay những người nghèo. Tạ ơn Chúa về những tấm lòng, mà có lẽ chỉ thời dịch bệnh này mới có.

Như vậy, đợt dịch bệnh kéo dài này tuy gây nhiều mất mát đau thương, nhưng lại là cơ hội để con người nhìn nhận thân phận của mình mà sám hối và có những hành xử yêu thương và công bằng hơn!

Lời Chúa nói với chúng ta: “mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người” (Rm 8,28). Vì thế, đợt dịch bệnh xảy ra cũng nên kinh nghiệm hữu ích cho chúng ta. Chúa dành thời gian để từng người chúng ta phải sống chậm lại, khiêm nhường hơn và sống thực tế hơn. Chúa cũng nhắc nhở Mẹ Hội Thánh phải không ngừng củng cố đức tin để người tín hữu không chao đảo trước mọi biến cố. Hội Thánh cũng phải gieo niềm hy vọng và xây dựng tình hiệp thông mạnh mẽ hơn nữa. Thời gian phải căng mình chống dịch, cũng là lúc Chúa nói với xã hội nhân loại phải biết mình là ai: là thụ tạo chứ không phải là chúa tể. Xã hội nhân loại cũng phải biết sám hối về những sai sót và lỗi lầm của mình, đồng thời phải cư xử công bằng với nhau giữa cuộc sống này. Hy vọng, những tấm lòng chúng ta thể hiện lúc dịch bệnh sẽ còn tiếp tục kéo dài để những hận thù ghen ghét được phủ lấp bởi tình yêu thương; đau khổ được phủ lấp bằng những hy sinh, bất công được phủ lấp bởi lòng quảng đại.

 

 

12.Chọn lựa của người Kitô hữu giữa đại dịch Covid

(Chuỗi suy tư về Sàigòn Mùa Covid Thứ 04 – Jorathe Nắng Tím)

TMĐP- Ngay giữa cuồng phong nguy hiểm của đại dịch Covid, người Kitô hữu vẫn chọn bước theo Đức Giêsu trên đường sứ vụ, vẫn chọn hy vọng vào Đức Giêsu, vẫn chọn hết tình yêu thương và hết mình chia sẻ, phục vụ đồng loại bằng mở rộng trái tim hay chạnh lòng thương; bằng trái tim sốt sắng thờ phượng Thiên Chúa; bằng dành ưu tiên cho đức ái trong mọi lựa chọn, quyết định. 

Những ngày đầu của đại dịch Covid, không ít người đã bỡ ngỡ và có những phản ứng tiêu cực trước quyết định ngưng các sinh hoạt tôn giáo như thánh lễ, học giáo lý của nhiều toà giám mục. Nhưng đến hôm nay, ở vào thời điểm mà  số người bị lây nhiễm và tử vong vượt ngưỡng đang làm mọi người kinh hãi, khiếp sợ, thì biện pháp chống dịch như chống giặc đã ngưng mọi sinh hoạt bình thường, và người dân chỉ còn được phép ra vào, đi lại khi có việc khẩn cấp, cho một số nhu cầu thực sự thiết yếu.

Ở giữa tâm dịch với vô số khó khăn và bất ngờ, không ít những suy tư đã được rộng rãi chia sẻ giúp chúng ta phân định và chọn lựa hợp với Tin Mừng:

  1. Đóng cửa nhà thờ, nhưng không đóng cửa lòng:

Trong thư mục vụ ngày 27.07.2021, Đức Cha Giuse Nguyễn Năng, Tổng Giám Mục Sàigòn đã chia sẻ nỗi  ưu tư và đường lối mục vụ của ngài trước làn sóng đại dịch Covid ngày càng dữ dội, khủng khiếp khi viết: “Chúng ta đóng cửa nhà thờ, chứ không đóng cửa lòng”.

Lời kêu gọi dấn thân phục vụ của ngài nhắc nhở sứ vụ của người Kitô hữu là được sai đi để phục vụ như “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28), và địa chỉ được sai đến chính là người nghèo hèn, bị giam cầm, áp bức, và tật nguyền, khốn khổ, bị bạc đãi, bỏ rơi (x. Lc 4,16-19).

Sứ vụ ấy đã được chính Đức Giêsu khai triển, và trình bày cách rõ ràng, cụ thể  khi mô tả  quang cảnh “cuộc Phán Xét chung”, ở đó, mỗi người sẽ phải trả lời trước Thiên Chúa về đời sống phục vụ và những việc làm bác ái của mình nơi những anh em bé nhỏ nhất của Đức Giêsu mà Ngài tự đồng hoá với họ (x. Mt 25,40). Sở dĩ được gọi là  “anh em bé nhỏ nhất” vì ho đói khát, trần truồng, đau yếu, tù đầy, tha hương tỵ nan … (x. Mt 25,35-36); họ bị người đời xếp vào hàng những người hèn mọn nhất, vì thấp cổ bé miệng, không tiếng nói, không địa vị, không chức quyền, không ảnh hưởng, không cả khả năng tự giải cứu mình ở hiện tại cũng như khả thể bảo đảm sự tồn tại của mình ở tương lai.

Quả thực, lòng người Kitô hữu là Đền Thờ của Thánh Thần Tình Yêu. Chính Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và tác động tâm hồn người Kitô hữu để người ấy không chỉ  biết yêu mến Thiên Chúa như con cái yêu mến cha mình và được kêu lên “Áp – ba, Cha ơi !” (Gl 4,6), mà còn nhận ra mọi người là anh em cùng Cha trên trời, và được hưởng “hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (Gl 5, 22-23).

Tâm tình của vị cha chung tổng giáo phận cũng là lời mời gọi mỗi người đổi mới con tim, và công trình đổi mới sẽ chỉ được thực hiện, nếu chúng ta kiên trì và khiêm tốn nài xin Đấng đã hứa với dân Ngài: “Ta sẽ ban tặng các ngươi một qủa tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi qủa tim bằng đá và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng thịt. Chính thần trí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thi hành” (Ed 36, 26-27). Thánh chỉ, phán quyết ấy chính là yêu mến Thiên Chúa và chạnh lòng  xót thương anh em mình.

  1. Thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật:

Những ngày cách ly, phong toả, giáo đường không bóng giáo dân, sân nhà thờ lặng lẽ, hiu quạnh. Cũng may còn phương tiện truyền thông internet, nếu không thì chẳng có lễ trực tuyến mà thông công, và người trong xứ có đói khát, sống chết ra sao cũng chẳng ai hay biết.

Rơi vào tình trạng không gặp được ai, không đến được nơi nào, không tập trung đông đảo, nhiều người tín hữu không tránh khỏi tâm trạng hụt hẫng, chênh vênh, bởi từ lâu đời sống đức tin luôn rộn ràng sinh động, các cuộc lễ được tổ chức quy mô, hoành tráng, đông đảo, và mọi người cảm thấy an toàn khi được tập thể, cơ cấu bảo vệ, gìn giữ. Bỗng nhiên không còn gì, không được làm gì, không gặp gỡ, quy tụ được ai, và tình trạng này đã đặt ra cách sống đức tin mới, đòi người tín hữu phải linh động thể hiện niềm tin của mình cách phù hợp với hoàn cảnh mới do đại dịch gây ra.

Quả thực, Covid đang bao trùm thế giới, đe doa mọi người trên địa cầu, và đặt ra cho chúng ta, những người Kitô hữu một hoàn cảnh “giữ đạo” không đến được nhà thờ, một cách “sống đạo” không phong trào,  đoàn thể. Hoàn cảnh này không mấy khác hoàn cảnh không còn Đền Thờ của dân Do Thái khi họ bị tản mác lưu đầy, không còn nơi thờ phượng Thiên Chúa Giavê, khi quân thù tàn phá “Nhà Thiên Chúa”.

Đức Giêsu khi đối thoại với người đàn bà Samari bên giếng Giacóp đã  nói với chị ta: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem… Nhưng giờ đã đến, và chính lúc này đây – giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai  thờ phượng Người như thế.” (Ga 4, 21.23).

Trong thần khí và sự thật, nghĩa là trong Thánh Thần, Đấng ngự trong Đền Thờ tâm hồn mỗi người, như Đức Giêsu đã căn dặn: “Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em” (Ga 14,17), “Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thày đã nói với anh em” (Ga 14,26).

Có Thần Khí sự thật ở giữa chúng ta và ở trong tâm hồn mỗi người, mọi hoàn cảnh dù khó khăn đến đâu, mọi tình huống dù nhiêu khê, phức tạp thế nào, sự thật của Thiên Chúa vẫn ngời sáng trong tâm hồn và hướng dẫn đời sống chúng ta, để chúng ta không lầm đường lạc lối, không hoang mang, lo sợ, không thối chí, tuyệt vọng, nhưng tuyệt đối tin tưởng vào lòng thương xót và ơn phù trợ của Thiên Chúa.

  1. Ưu tiên của đức ái:

Không lúc nào đức ái cần thiết và “gặp thời” như những ngày giữa tâm dịch, khi mà người sống cũng khổ và cô đơn như người chết, người chết cũng tức tưởi, và  tang thương như người sống.

Chính trong tâm bão của mọi nỗi khổ, niềm đau, thánh Giacôbê Tông Đồ khuyên nhủ người tín hữu chúng ta: “Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu được người ấy chăng? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: “Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no”, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì? Cũng vậy, đức tin không có hành động thì qủa là đức tin chết. Đàng khác, có người sẽ bảo: “Bạn, bạn có đức tin ; còn tôi, tôi có hành động. Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin” (Gc 2, 14-18). “Thật thế, một thân xác không hơi thở là một xác chết, cũng vậy, đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2,26). Và hành động của đức tin chính là đức ái.

Đức ái đang làm chứng đức tin sống động ở những nữ tu tình nguyện quét dọn vệ sinh, lau chùi nhà cầu trong các bệnh viện chữa trị bệnh nhân Covid; đức ái đang chiếu sáng dung mạo Đức Giêsu, Thiên Chúa của lòng thương xót nơi các thầy dòng ngày đêm  phân phát lương thực, xăng dầu cho đoàn người di tản thiếu thốn mọi sự trên đường  trốn dịch, bỏ thành phố về quê; đức ái thực là dấu chỉ  của người môn đệ Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ  nhân hậu qua “mùi chiên và mùi Covid” toát ra từ những mục tử dám hy sinh hiến mạng vì đoàn chiên, như lời cha Phạm Quang Long, giáo họ Na, thuộc giáo phận Hà Tĩnh, khi viết về cha Phêrô Nguyễn Ngọc Long, Nhà Thờ Mỹ Lợi B, Cái Bè, Tiền Giang, thuộc giáo phận Mỹ Tho, người  đã  ưu tiên chọn đức ái, khi lấy hết tiền xây nhà thờ để mua nhu yếu phẩm từ miền Tây gửi giúp bà con Sài Gòn đang lâm cảnh khan hiếm lương thực trầm trọng; đức ái đang “loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại” ở những giáo dân âm thầm chia sẻ từng bó rau, cọng cải với gia đình lương dân hàng xóm, những  thành viên của các hội đoàn công giáo tích cực đóng góp trong công trình cứu trợ nạn nhân Covid  bên cạnh anh chị em của các tôn giáo bạn; và đức ái đã tạo nên những nhịp cầu nối trái tim này với tấm lòng kia, nối vùng miền này với địa phương nọ, nhất là nối con người với Thiên Chúa qua thiện tâm và công tác thiện nguyện.

Tóm lại, Covid tuy là tai họa của nhân loại, là sự dữ gây nhiều đau khổ cho con người, nhưng  với đức tin, “chúng ta biết rằng: Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người..” (Rm 8, 28), nên ngay giữa cuồng phong nguy hiểm của đại dịch Covid, người Kitô hữu vẫn chọn bước theo Đức Giêsu trên đường sứ vụ, vẫn chọn hy vọng vào Đức Giêsu đã chết và đã sống lại, vẫn  chọn hết tình yêu thương và hết mình chia sẻ, phục vụ đồng loại bằng mở rộng trái tim được Chúa biến đổi từ chai đá vô cảm thành quả tim bằng thịt hay chạnh lòng thương; bằng xây dựng trái tim sốt sắng thờ phượng thành  Đền Thờ của Thiên Chúa; bằng dành ưu tiên cho đức ái trong mọi lựa chọn, quyết định.

Và như thế, không một giây phút nào của thời Covid sẽ trở nên vô ích, vì chúng ta không ngừng chọn Chúa; không một sự kiện, biến cố trái ý, nghịch lòng nào từ đại dịch sẽ bị coi là vô nghĩa, vô vị, vì trong mọi sự luôn có sự hiện diện và tác động của Thần Khí sự thật; và không một ý nghĩ, lời nói, việc làm nào giữa cơn đại dich của chúng ta sẽ bị xếp xuống hàng vô phúc, vì tất cả đều được Tình Yêu Đức Kitô khai sinh, thúc bách.

 

 

 

13.Sao chưa có lòng tin?

(Suy niệm của Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.)

“Sóng gió” là từ thường được dùng để chỉ những thử thách

mà ai cũng có lần gặp trong cuộc đời.

Chẳng đời ai hoàn toàn êm đềm như biển lặng.

Cả cuộc đời của những người đi theo Đức Giêsu cũng vậy.

Các môn đệ không tránh khỏi sóng gió, hiểu theo nghĩa đen.

Hồ Galilê thường hay có những cơn bão bất ngờ.

Giữa lúc trời yên bể lặng thì sóng gió ập tới.

 

Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện về một kinh nghiệm sóng gió

mà Thầy trò trải qua trên hồ Galilê.

Có nhiều yếu tố làm tăng độ khó cho kinh nghiệm này.

Trời lúc đó đã là chiều tối, chứ không phải ban ngày.

Đức Giêsu và các môn đệ đang ở bên này của biển hồ.

Chính Thầy đưa ra lệnh: “Chúng ta hãy sang bờ bên kia đi!”

Bờ bên kia là vùng Thập Tỉnh, nơi ở chủ yếu của dân ngoại.

Không rõ tại sao khi trời tối, Thầy lại muốn mọi người qua đó.

Thầy đã từ thuyền mà ngồi giảng các dụ ngôn cho dân (Mc 4,1).

Bây giờ Thầy vẫn đang ở trong con thuyền đó (Mc 4,36).

 

Hành trình trên biển của Thầy trò xem ra không suông sẻ,

vì bất ngờ một trận cuồng phong nổi lên.

Cùng với gió mạnh là sóng to.

Cùng với sóng to là nước lớn ào vào.

Con thuyền chòng chành vì gió, nghiêng ngả vì sóng,

và ngập nước đến độ có nguy cơ bị chìm.

Các môn đệ quen đánh cá ban đêm có kinh nghiệm này không?

Vậy mà Thầy lại nằm ngủ say, trên một chiếc gối, ở đàng lái.

Các môn đệ thật không sao hiểu được

làm sao Thầy có thể ngủ bình yên

trong hoàn cảnh hiểm nghèo như thế (G 11,18-19; Tv 4,9).

Họ cuống lên nên trách móc Thầy mình:

“Chúng ta sắp chết mà Thầy chẳng quan tâm sao?” (Mc 4,38).

Dường như họ muốn Thầy mình làm một điều gì đó.

 

Thầy Giêsu đang ngủ, bị đánh thức và Thầy đã thức dậy.

Thầy ngăm đe gió như đã ngăm đe quỷ (Mc 1,25; 3,12),

và ra lệnh cho biển động phải yên lặng như tờ.

Những sức mạnh tự nhiên đe dọa con người bị khuất phục.

Thầy Giêsu không chỉ có quyền uy trên bệnh tật, ma quỷ,

Thầy còn có quyền trên các năng lực tự nhiên trong trời đất.

Khi biển lặng, sóng yên, Thầy mới bắt đầu trách môn đệ:

“Tại sao anh em nhát thế? Anh em vẫn chưa có lòng tin sao.”

Khi sống bên Thầy, lẽ ra họ phải có lòng tin vững mạnh,

nhưng sóng gió đã làm lộ ra chuyện họ yếu tin.

Sau phép lạ của Thầy Giêsu, chỉ bằng một lời quyền năng,

các môn đệ hoảng sợ, sợ hơn cả lúc gió to sóng lớn.

Nhưng đứng trước Đấng làm chủ cả gió và biển,

họ vẫn chưa trả lời được câu hỏi: “Người này là ai?” (Mc 4,41).

 

Các môn đệ đã trải qua bao kinh nghiệm trong đêm nay:

kinh nghiệm bị sóng gió dập vùi, kinh nghiệm cận kề cái chết,

kinh nghiệm tuyệt vọng và hoảng loạn,

kinh nghiệm trách móc đối với sự thinh lặng của Thiên Chúa,

và kinh nghiệm bình an khi biển lặng sóng yên.

Con thuyền Giáo hội và thế giới cũng có khi gặp sóng gió.

Chúng ta chỉ cần có Chúa trong thuyền, Ngài ngủ cũng được.

Cũng cần kêu xin Ngài với lòng tin, chứ không hoảng hốt.

Rồi mọi sự sẽ qua, bình an trở lại.

 

LỜI NGUYỆN

Lạy Chúa Giêsu,

Sống ở đời chẳng ai thích sóng gió,

nhưng sóng gió lúc nào cũng có trong đời người.

Các môn đệ đầu tiên đã nhiều lần gặp sóng gió ở hồ Galilê.

Sóng gió đến khi Chúa đang ngủ vùi trên thuyền,

khiến môn đệ phải vội vàng đánh thức.

Sóng gió đến khi Chúa không ở trong thuyền,

khiến môn đệ phải chèo chống vất vả.

 

Chúa không tránh cho đời chúng con khỏi mọi sóng gió,

vì Chúa biết sóng gió làm chúng con trưởng thành,

tập vượt qua nỗi sợ hãi bằng lòng tin,

tập vượt qua nỗi lo âu bằng hy vọng.

Chúa để chúng con chiến đấu suốt đêm với gió ngược,

nhưng lại đến với chúng con khi trời gần sáng.

 

Xin cho chúng con yêu quý sự bình an,

nhưng lại không ngỡ ngàng trước sóng gió.

Giữa cơn sóng gió, xin cho chúng con tin rằng

Chúa vẫn hiện diện gần bên chúng con,

và đang đưa con thuyền Giáo Hội về đến bến.

 

 

14.Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.

Suy niệm

Chẳng hiểu tại sao lúc chiều xuống,

Đức Giêsu lại bảo các môn đệ đưa mình qua bờ phía đông của Biển hồ,

trên con thuyền mà Ngài ngồi giảng các dụ ngôn (Mc 4,1).

Do địa thế đặc biệt, hồ Galilê hay có những trận cuồng phong ập đến bất chợt,

tạo ra những cơn bão lớn trên sóng nước.

Tối hôm ấy, thầy trò đã gặp một cơn bão như vậy.

Thầy Giêsu phó thác mọi sự cho các môn đệ vốn là ngư phủ lành nghề.

Thầy mệt nên ngủ say ở đuôi thuyền, ngủ trên một cái gối.

Trong khi đó các môn đệ phải vật lộn với sóng gió, nước tràn đầy thuyền.

Họ có vẻ mất bình tĩnh khi thấy cơn giông bão không đánh thức Thầy được.

Chính họ đánh thức Thầy bằng một lời trách móc:

“Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi mà Thầy chẳng lo gì sao?” (c.38).

Thầy Giêsu đã thức dậy, và đã làm cho biển lặng, gió yên.

Đời con người ai tránh được sóng gió bất chợt.

Nếu biết trước sẽ gặp sóng gió, ai dám vượt biến ban đêm.

Sóng gió xảy ra trong đời riêng của mỗi người, trong gia đình,

trong đất nước, trong Giáo Hội, trên thế giới.

Sóng gió làm ta thấy mình con thuyền đời mình chòng chành, mong manh,

và khiến ta sợ hãi, hoảng loạn.

Giữa cơn sóng gió có khi người tín hữu lại thấy Chúa lạnh lùng, vô cảm.

Như các môn đệ, chúng ta không hiểu tại sao Chúa có thể ngủ được

khi đời ta bị đe dọa bởi cuồng phong,

tại sao Chúa vắng mặt, thinh lặng và khoanh tay

vào lúc chúng ta cần đến Ngài hơn cả.

“Tại sao anh em sợ? Anh em không có lòng tin sao?” (c.40).

Anh em không tin là Thầy đang ở trong cùng một con thuyền với anh em sao?

Lẽ ra chúng ta phải cảm thấy yên tâm

khi nhìn Chúa ngủ giấc ngủ tín thác của trẻ thơ ngay giữa cơn giông bão.

Nhìn Chúa ngủ bình an, chúng ta hiểu rằng chẳng có gì đáng sợ.

Vâng lời Chúa để qua bờ bên kia, và có Chúa trong con thuyền đời mình,

điều đó không làm chúng ta tránh được giông bão,

có khi lại gặp bão tố nhiều hơn.

Nhưng điều chắc chắn là chúng ta sẽ qua được bờ bên kia

với lòng tin được tôi luyện của người tín hữu dày dạn.

Chúng ta dám tin Chúa có quyền trên sóng gió của đời ta không?

Cầu Nguyện

Lạy Cha từ ái,

đây là niềm tin của con.

Con tin Cha là Tình yêu,

và mọi sự Cha làm đều vì yêu chúng con.

Cả những khi Cha mạnh tay cắt tỉa,

cả những khi Cha thinh lặng hay vắng mặt,

cả những khi Cha như chịu thua sức mạnh của ác nhân,

con vẫn tin Cha là Cha toàn năng nhân ái.

Con tin Cha không chịu thua con về lòng quảng đại,

chẳng để con thiệt thòi khi dám sống cho Cha.

Con tin rằng nơi lòng những người cứng cỏi nhất

cũng có một đốm lửa của sự thiện,

được vùi sâu dưới những lớp tro.

Chỉ một ngọn gió của tình yêu chân thành

cũng đủ làm đốm lửa ấy bừng lên rạng rỡ.

Con tin rằng chẳng có giọt nước mắt nào vô ích,

thế giới vẫn tồn tại nhờ hy sinh thầm lặng của bao người.

Con tin rằng chiến thắng cuối cùng thuộc về Ánh sáng.

Sự Sống và Tình yêu sẽ chiếm ngự địa cầu.

Con tin rằng dòng lịch sử của loài người và vũ trụ

đang chuyển mình tiến về với Cha,

qua trung gian tuyệt vời của Chúa Giêsu

và sức tác động mãnh liệt của Thánh Thần.

Con tin rằng dần dần mỗi người sẽ gặp nhau,

vượt qua mọi tranh chấp, bất đồng, mọi dị biệt, thành kiến,

để cùng nắm tay nhau đi qua sa mạc cuộc đời

mà về nhà Cha là nơi hạnh phúc viên mãn.

Lạy Cha, đó là niềm tin của con.

Xin Cha cho con dám sống niềm tin ấy. Amen.

15.Suy niệm (TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu đang ở trên thuyền với các môn đệ. Ngài dùng quyền năng để dẹp tan sóng gió. Hôm nay Chúa cũng đang hiện diện trong cuộc đời chúng ta. Hãy lên tiếng cầu cứu, Chúa sẽ ra tay cứu giúp.

 

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, thật là thú vị khi chứng kiến cảnh Chúa dẹp tan bão táp giữa biển khơi. Phép lạ Chúa làm thật bất ngờ. Điều đó khơi dậy nơi tâm hồn con ý thức về một Thiên Chúa quyền uy và đầy sức mạnh.

 

Sống giữa biển đời với bao sóng gió gian nan thử thách, tâm hồn con chao đảo tưởng chừng như đắm chìm. Lạy Chúa, xin ban thêm niềm tin để con nhận ra Chúa đang hiện diện nơi cuộc đời con. Chúa vẫn “hiện diện một cách vắng mặt”, hiện diện một cách kín đáo.

 

Con muốn xác tín rằng: Thiên Chúa con tin thờ là Thiên Chúa quyền uy. Con biết rằng nếu Chúa muốn, Chúa sẽ ra tay dẹp yên sóng biển. Nhưng đối với con, điều quan trọng nhất là xin Chúa nâng đỡ cuộc đời con, để con vượt thắng những gian nan thử thách trong cuộc sống: một sự hiểu lầm, người thân đau ốm lâu ngày, mùa màng thất thu, con cái ngỗ nghịch ngang bướng…

 

Con tin Chúa vẫn đang hiện diện nơi cuộc đời con. Đôi vai trĩu nặng những trái ý, con không chịu đựng một mình nhưng được chia sẻ trên đôi vai của Chúa nữa. Xin giúp con nhận ra được sự hiện diện của Chúa trong gia đình. Sự hiện diện ấy là ánh sáng giúp nhận ra con người thật của con, như luồng sáng soi tỏ những hạt bụi li ti. Sự hiện diện ấy là sức mạnh đỡ nâng và giải thoát, như hôm nào trên biển, Chúa uy quyền dẹp yên bão tố. Amen.

 

Ghi nhớ: “Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?”

 

 

16.Sóng gió cuộc đời

(Suy niệm Lời Chúa Hằng Ngày của Ðài Phát Thanh Chân Lý Á Châu – “Mỗi Ngày Một Tin Vui”)

Sự kiện Chúa Giêsu và các môn đệ sang bên kia biển hồ, như được trình thuật trong Tin Mừng hôm nay, không phải chỉ có ý nghĩa địa lý: di chuyển từ nơi này sang nơi nọ, cũng như sóng gió nổi lên không chỉ mang ý nghĩa về khí tượng thuần tuý; nhưng các biến cố đó còn mang ý nghĩa thần học nữa. Chúa Giêsu và các môn đệ rời bỏ miền đất Israel để đi sang phía dân ngoại, điều đó mang ý nghĩa truyền giáo; sóng gió nổi lên tượng trưng cho sức mạnh của sự dữ, của ma quỷ nổi lên chống lại Chúa và các môn đệ.

Tuy nhiên, như trình thuật Tin Mừng cho thấy, lúc đó Chúa Giêsu đang ở đàng lái, gối đầu mà ngủ. Giấc ngủ ấy khiến ta liên tưởng đến cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá. Trong cái chết đó, Chúa Giêsu dường như đã thất bại, trong khi đó các quyền lực sự dữ tưởng chừng như đã thành công, vì đã thủ tiêu được người mà họ coi như kẻ thù, như kẻ quấy rầy nền đạo đức tôn giáo của họ. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã thức dậy, nghĩa là Ngài đã phục sinh, và sự Phục Sinh của Ngài loan báo cuộc chiến thắng vĩ đại của Ngài trên mọi quyền lực của ma quỷ và sự dữ cũng như của bất cứ thế lực nào chống đối Giáo Hội.

Ðời sống của Giáo Hội cũng như của mỗi Kitô hữu được ví như một cuộc ra khơi. Thiên Chúa vẫn luôn hiện diện, ngay cả khi chúng ta tưởng như Ngài vắng mặt trong những thử thách, phong ba của cuộc đời. Ðiều quan trọng là chúng ta biết chạy đến cầu nguyện với Chúa để Ngài làm yên cơn sóng gió và dẫn đưa con thuyền cuộc đời chúng ta về tới bến bờ bình an.

Ước gì chúng ta luôn có được xác tín của thánh Phaolô Tông đồ: Thiên Chúa không để chúng ta bị thử thách quá sức chịu đựng, Ngài sẽ ra tay cứu giúp mỗi khi chúng ta kêu cầu đến Ngài.

 

 

17.“Anh em vẫn chưa có lòng tin sao?”

(Suy niệm của Hiền Lâm)

Câu chuyện thầy trò Chúa Giê-su và các môn đệ vượt biển đã gặp phải cuồng phong đe dọa, cho chúng ta hình ảnh một Đức Giê-su Con Thiên Chúa đầy quyền năng trừ phong dẹp vũ, trong một con người Giê-su mệt mỏi nằm ngủ trên thuyền sau một ngày làm việc vất vả.

Câu chuyện này gợi lại hình ảnh được nói tới trong Thánh Vịnh 78:

“Bấy giờ Chúa như người đang ngủ,

như tướng hùng đã thấm men say,

bỗng tỉnh giấc, đánh cho quân thù quay lưng chạy,

phải thảm thê nhục nhã muôn đời”.

(Tv 78,65-66).

Kẻ thù ở đây là biển cả cuồng phong. Theo não trạng người Do-thái, biển là biểu tượng của quyền lực ma quỷ. Biển cũng nhắc mọi người nhớ lại thời hỗn mang nguyên thủy: tại đây hải thần thủy quái vẫy vùng và chỉ có một mình Thiên Chúa Toàn Năng mới thách thức và chế ngự được chúng. Khi Chúa Giê-su thức dậy “ngăm đe gió và biển” như khi Người truyền cho ma quỷ (x. Mc 1,25), cho thấy Chúa Giê-su chứng tỏ thần lực của Người trên quyền lực sự dữ.

Chúa Giê-su chứng minh sức mạnh và sự phát triển không có gì chống lại được của Nước Thiên Chúa. Người chứng tỏ điều này bằng một dấu chỉ quyền năng là phép lạ dẹp tan sóng gió trước khi đi vào miền đất dân ngoại, nghĩa là chiến thắng của Tin Mừng trên ma quỷ vượt ra ngoài biên giới Israel.

Khi đối mặt với mọi hình thức sự dữ đang tấn công con người trong các trận cuồng phong nó gây nên, đôi khi chúng ta tự hỏi: Phải chăng Thiên Chúa đang ngủ?

Thật vậy, cảm nhận của con người giữa biển đời lắm khi như Thiên Chúa ẩn mình hay vắng bóng. Và rồi giữa phong ba bão tố cuộc đời, con người lựa chọn đương đầu ít nhất với 3 cách:

– Dùng sức mình để vật lộn với sóng gió để rồi thất bại tuyệt vọng,

– Chạy đến với Thiên Chúa mọi nơi mọi lúc nên không bao giờ sợ hãi,

– Gặp khi khó khăn mới chạy đến kêu cứu Chúa, nghĩa là coi Chúa chỉ như một phương thế giải quyết tức thời, mà thiếu đi đức tin thật sự và lòng yêu mến nồng nàn.

Trường hợp thứ ba này là trường hợp của dân Do-thái xưa, sách Xuất Hành và đặc biệt là sách Thủ Lãnh là một câu chuyện lặp đi lặp lại khi dân bị quân thù ức hiếp thì kêu cứu Chúa, Chúa giải cứu rồi lại tiếp tục phản nghịch Người.

Và có thể nói, đây cũng là thái độ của các môn đệ của Chúa Giê-su trong bài Tin Mừng hôm nay, khi họ chưa có niềm tin và lòng yêu mến Thầy cho đủ, đến nỗi ngay khi chứng kiến phép lạ rồi vẫn ngỡ ngàng không hiểu Thầy là ai. Thầy Giê-su đang ở trên thuyền nhưng có vẻ như không có Người hiện diện, cho đến khi sóng gió bủa vây mà kinh nghiệm chống đỡ của dân làng chài như mấy ông đã bất lực mới chạy đến cầu cứu Thầy.

Đó cũng là cách sống và giữ đạo của không ít người trong chúng ta ngày nay. Khi an vui hạnh phúc chúng ta quên mất sự hiện diện của Thiên Chúa, đến khi gặp khó khăn thất bại mới tìm về cầu cứu Chúa. Sống đạo như thế là hời hợt, thiếu niềm tin đích thật và thiếu lòng lòng mến Chúa Giê-su. Cũng không thiếu những người ỷ lại vào khả năng mình mà thiếu đi lòng tín thác vào Chúa nên khi gặp sóng gió đã dễ ngã lòng kêu trách Người.

Lạy Chúa Giê-su, xin cho mọi người chúng con luôn tin tưởng vào sự hiện diện của Chúa trên con thuyền cuộc đời chúng con giữa biển đời sóng gió. Để chúng con không bao giờ nao núng vì Chúa đã chiến thắng nên chúng con cũng sẽ chung phần chiến thắng và cập bến Nước Trời. Amen.

18.Ơn thánh lạ lùng

(Suy niệm của Lm. Mark Link, SJ)

John Newton là con của một thuyền trưởng người Anh. Khi John mười tuổi, mẹ chết và cậu đi biển với cha mình.

Cậu học nghề biển cách thành thạo. Nhưng khi 17 tuổi, John chống lại cha mình, bỏ tầu, và bắt đầu một cuộc sống phóng túng.

Sau đó John nhận việc trên một chiếc tầu chở hàng, đưa nô lệ từ Phi Châu sang Mỹ Châu. Anh được thăng chức mau chóng và không lâu được trở nên thuyền trưởng của chiếc tầu này.

John không bao giờ nghĩ đến việc buôn bán nô lệ là đúng hay sai. Anh chỉ thi hành công việc. Đó là một cách để kiếm tiền. Sau đó một điều xảy ra đã làm đảo lộn tất cả.

Một đêm kia, cơn bão dữ dội như thổi tung biển cả. Những ngọn sóng dâng cao như núi. Chúng nhồi dập con tầu của John như món đồ chơi. Mọi người trên tầu đều ngập tràn sợ hãi.

Sau đó John thi hành một điều mà chưa bao giờ anh làm kể từ khi rời chiếc tầu của cha mình. Anh cầu xin. Bằng cả sức lực, anh nói lớn, “Chúa ơn, nếu Ngài cứu chúng con, con hứa sẽ trở nên nô lệ cho Ngài muôn đời.” Thiên Chúa đã nghe tiếng anh kêu xin và con tầu được thoát nạn.

Khi John đặt chân lên đất liền, anh đã giữ lời hứa và bỏ nghề buôn bán nô lệ. Sau này anh học làm mục sư và đã trông coi một nhà thờ nhỏ ở Olney, Anh Quốc. Ở đây anh trở nên một nhà rao giảng nổi tiếng và là một người sáng tác thánh ca.

Một trong những bài thánh ca cảm động nhất mà John Newton viết là bài ca ngợi Thiên Chúa đã giúp anh hoán cải, với dòng chữ như sau: “Ôi ơn thánh lạ lùng! Dịu ngọt dường bao, đã cứu vớt một người tồi tệ như tôi! Trước đây tôi đã lạc lối, nhưng giờ đây tôi đã biết đường – đã mù, giờ đây đã thấy…

“Tôi đã từng kinh qua những hiểm nguy, lao nhọc, và cạm bẫy; ơn thánh đã đưa tôi đến sự an toàn, và ơn thánh sẽ dẫn tôi về nhà.”

Câu chuyện của John Newton rất tương tự như bài phúc âm hôm nay.

Cũng như Newton, các Tông Đồ cũng gặp một cơn bão dữ dội. Cũng như Newton, các ông đã lớn tiếng xin Chúa, “Hãy cứu chúng tôi với!” Cũng như Newton, các ông cũng đã thay đổi cuộc đời sau khi lời cầu xin được nhận lời.

Bài phúc âm hôm nay chấm dứt tường thuật cơn bão ở biển khi nói về các Tông Đồ: “Họ vô cùng kinh hãi và bắt đầu nói với nhau, ‘Người này là ai? Ngay cả sóng gió cũng phải vâng theo Người!’”

“Người này là ai?” Chắc chắn đó là câu hỏi quan trọng. Và dĩ nhiên, câu trả lời nằm trong bài đọc một và thánh vịnh đáp ca.

Bài đọc một diễn tả cách Thiên Chúa tạo nên biển và ra lệnh cho nó những gì có thể hay không thể làm.

Thánh vịnh đáp ca nói về các thủy thủ gặp nạn trong một cơn bão trên biển. Tác giả thánh vịnh nói về họ: “Trong cơn hoạn nạn, họ kêu cầu đến Chúa, và Người đã cứu họ… Người làm yên cơn bão lớn, và dẹp tan sóng cả.” (TV 107:6, 29).

Trong cả hai bài đọc thuộc Cựu Ước này, chúng ta thấy Thiên Chúa sử dụng quyền hành trên sóng gió. Thiên Chúa ra lệnh chúng và chúng tuân theo Người.

Đây chính là điều Đức Giêsu thi hành trong bài phúc âm. Chúng ta thấy Người sử dụng quyền hành trên sóng gió. Người ra lệnh và chúng tuân theo Người.

Do đó, các bài đọc hôm nay cho thấy Thiên Chúa trong Cựu Ước và Đức Giêsu trong Tân ước sử dụng cùng một quyền hành.

Cả hai sử dụng cùng một quyền lực bởi vì cả hai giống nhau. Đức Giêsu nói: “Ai thấy ta là thấy Chúa Cha… Ta ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong ta.” (Gioan 14:9, 11). “Chúa Cha và ta là một.” (Gioan 10:30).

Câu chuyện về cơn bão ở biển trả lời câu hỏi “Người này là ai?” Đức Giêsu là Con Thiên Chúa.

Chúng ta hãy trở về điểm thứ hai. Chúng ta hãy xem thử bằng cách nào cơn bão ở biển chứa đựng một thông điệp mỹ miều, thực tế cho các gia đình nhân Ngày Hiền Phụ.

Khi John Newton bỏ tầu của cha mình, cha của anh thật đau lòng. Chúng ta có thể hinh dung cha anh đứng trên sàn tầu đêm ấy và cầu xin Thiên Chúa với những lời như sau:

“Lậy Chúa, sao điều này lại xảy ra? Sao John không nhìn thấy là con thương nó? Sau nó không thấy là Ngài thương nó? Lậy Chúa, ngay cả khi John từ bỏ hai chúng ta, xin Chúa hãy bảo vệ nó. Hãy bảo vệ nó vì hai chúng ta.”

Hoàn cảnh bi thảm này, hay hoàn cảnh tương tự, đã lập lại nhiều lần, trong nhiều mái nhà. Nó không phải là một hiện tượng mới trong thời đại ngày nay. Nó cũ như câu chuyện của người con hoang đàng trong Phúc Âm Luca.

Nhưng ngay cả khi con cái không từ bỏ mái nhà về thể lý, chúng thường rời xa mái nhà về tinh thần.

Chúng không còn đồng lòng với cha mẹ khi đề cập đến Thiên Chúa hay tôn giáo.

Và sự xa lìa tinh thần này có thể đau lòng hơn từ giã mái nhà về thể lý.

Khi điều này xảy ra, cha mẹ không được nghĩ về mình hay về con cái như một thất bại. Đúng hơn, họ phải nhớ lại câu chuyện người con hoang đàng và câu chuyện của John Newton.

Trong cả hai câu chuyện, sau cùng người con đã trở về nhà. Và trong cả hai câu chuyện, khi trở về nhà người con đã tốt hơn là khi từ bỏ, người cha cũng trở nên tốt hơn khi con cái bỏ đi.

Lý do cả hai người – cha và con – trở nên tốt hơn là vì, ở một thời điểm nào đó khi xa cách, cả hai đã kêu cầu đến Chúa xin giúp đỡ. Và đó là khi cả hai trở nên tốt hơn.

Thật không may khi phải nhờ đến một cơn bão để khám phá ra, không chỉ người cha hay người con ở trần thế, nhưng còn biết đến Cha chúng ta ở trên trời và Đức Giêsu, Con của Người.

Do đó, chúng ta hãy hân hoan, và hôm nay hãy cảm tạ vì hai người cha: một người cha trần thế và một người Cha trên trời.

Chúng ta cũng hãy nhớ rằng khi tìm thấy một trong những người cha này, chúng ta cũng thường tìm thấy người cha kia.

Hãy kết thúc bằng cách lập lại những lời thánh ca mà John Newton đã viết để ca tụng Thiên Chúa.

“Ôi ơn thánh lạ lùng! Dịu ngọt dường bao, đã cứu vớt một người tồi tệ như tôi! Trước đây tôi đã lạc lối, nhưng giờ đây tôi đã biết đường – đã mù, giờ đây đã thấy…

“Tôi đã từng kinh qua những hiểm nguy, lao nhọc, và cạm bẫy; ơn thánh đã đưa tôi đến sự an toàn, và ơn thánh sẽ dẫn tôi về nhà.”

 

 

19.Niềm tin vượt thắng sợ hãi

Có một câu chuyện kể rằng: Người ta tổ chức một cuộc du lịch xuyên qua Đại Tây Dương. Trong lúc tàu chạy yên hàn, mọi người ra hong tàu khoan khoái nhìn ngắm cảnh hoàng hôn tươi thắm. Bỗng sóng to gió lớn nổi lên làm cho chiếc tàu nghiêng ngửa dữ dội. Mọi người hoảng sợ chạy vào phòng, duy chỉ còn một cậu con trai vẫn tiếp tục ở lại xem cảnh. Thấy vậy, nhiều người lo sợ nguy hiểm cho em, nên gọi em vào phòng trú ẩn, nhưng em không vào. Được hỏi tại sao em không sợ hãi trước cơn giông tố hãi hùng như thế. Em thản nhiên trả lời: vì cha tôi là người cầm lái con tàu.

Như khách du lịch sợ hãi trên tàu khi phong ba bão táp, chúng ta bình thường cũng mang nhiều nỗi sợ hãi trong cuộc đời. Người thì sợ lái xe trên xa lộ. Kẻ khác sợ phải nói chuyện trước công chúng. Sợ thi rớt. Sợ bị bệnh ung thư. Sợ bị nhiễm HIV. Sợ cô đơn. Sợ thất nghiệp. Sợ gia đình tan vỡ. Sợ con cái hư hỏng… thậm chí sợ ma nữa. Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy các Tông đồ sợ bão tố, sợ nguy hiểm và sợ chết. Bão lớn, nước sắp đầy thuyền thì ai mà không sợ. Vậy mà Chúa còn trách các Tông đồ: “Sao nhát thế? Anh em vẫn chưa có lòng tin sao?”. Các Tông đồ lâm nguy thật sự. Trong hoàn cảnh đó, chẳng những nên kêu cứu Chúa, mà đúng là phải kêu cứu Chúa. Nhưng đừng kêu cứu với tâm trạng sợ hãi đến tuyệt vọng như vậy. Phải kêu cứu nhưng hãy kêu cứu trong niềm cậy trông và tín thác tuyệt đối. Lời trách cứ của Chúa Giêsu mở cho chúng ta một kinh nghiệm đức tin quý báu: niềm tin vững vàng làm chúng ta thêm can đảm và bớt sợ hãi, thậm chí an bình trong gian nguy. Nhưng cũng phải can đảm lắm mới có thể tin.

Trong câu chuyện trên, vì tin vào tài cầm lái con tàu của cha mình mà cậu con trai thản nhiên không lo sợ nguy hiểm trước mắt. Cũng vậy, đối với mỗi người chúng ta đang sống trên cuộc đời này cũng giống như con thuyền của các Tông đồ lênh đênh trên biển cả và gặp gió bão. Chúng ta cũng gặp không ít những cơn dông tố bất ngờ. Thật vậy, có lẽ ai trong chúng ta cũng đã có lần trải qua một nỗi lo sợ nào đó hoặc kinh nghiệm qua những giờ phút đen tối trong cuộc sống. Bởi vì cuộc đời này luôn có những cam go, gian truân, thử thách, nguy hiểm, đau thương… đứng trước những hoàn cảnh như thế, ai cũng lo lắng, sợ hãi. Nhưng đối với chúng ta, những người có đức tin, không phải chúng ta không biết sợ hãi, nhưng chúng ta tin rằng Thiên Chúa ở đàng lái, là Cha yêu thương luôn quan tâm săn sóc chúng ta. Nhưng có thể đã có những lần chúng ta đau đớn vì Chúa lại ngủ giữa phong ba. Niềm tin không phải là giải đáp dễ dãi, không miễn trừ những khó khăn. Nhưng trong những khó khăn đó, chúng ta phải hoàn toàn phó thác vào Chúa. Chúa có thể ngủ, nhưng Chúa luôn thức vào lúc khó khăn, nguy hiểm để trợ giúp những ai bằng lòng để cho “Chúa ở đàng lái”. Với niềm tin đó sẽ giúp chúng ta có thái độ lạc quan hơn trước cuộc sống và bình tĩnh để đối phó với những khó khăn thử thách. Nếu niềm tin không đem lại cho chúng ta sự an bình, thanh thản, thì đó là dấu chỉ cho thấy niềm tin của chúng ta chưa mạnh mẽ đủ, chúng ta cần phải cầu xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng ta.

Chính vì thế, qua Lời Chúa hôm nay, ước gì mỗi khi chúng ta gặp khó khăn, thử thách, gian nan, vất vả trong cuộc đời, chúng ta biết chạy đến kêu cầu Chúa Giêsu với một niềm tin tưởng sâu xa, phó thác trọn vẹn và cầu nguyện chân thành, xin Chúa cứu giúp. Amen.

 

 

20.Quyền năng của Chúa Giêsu

Trong cuộc đời, kinh nghiệm đã cho chúng ta nhiều bài học về sự dữ. Sự dữ là một thực tại khả thể, hiện hữu và hoạt động trong thế trần. Tự sức mình con người chúng ta khó có thể chiến thắng sự dữ, nhưng nếu có ơn Chúa trợ giúp thì chúng ta có thể chiến thắng. Tuy nhiên nhiều khi chúng ta cũng còn lờ mờ, đi trong đêm tối của đức tin để tìm kiếm chân lý, sự thật, Thiên Chúa.

Trên con đường theo Chúa Giêsu, mặc dù các môn đệ được Người đào tạo, dậy dỗ, uốn nắn… các ông vẫn chưa hiểu về đường lối của Chúa: Người đã giảng dạy, làm nhiều phép lạ nhưng các môn đệ vẫn sống trong sự mờ ảo của cuộc sống, các ông chưa làm sao hiểu được ý của Thầy Giêsu. Do đó, có lúc các ông tưởng Thầy mình là ma, có lúc các ông lánh xa Chúa, các ông phản ứng lại bằng lời nói, cách sống, cử chỉ, thái độ của Thầy mình. Đức tin của các môn đệ nhiều lúc tưởng như lu mờ, hay nói một cách khác các ông chưa có lòng tin. Tin Mừng Mc 1,35- 41 là một bằng chứng nói lên quyền năng vô biên của Chúa giống như sách Gióp khẳng định: “Chỉ Thiên Chúa là Đấng sáng tạo quyền năng, chủ tể muôn loài, muôn vật, chủ tể mọi sự”. Phép lạ Chúa Giêsu làm cho sóng to, gió lớn phải im bật nói lên quyền uy của Chúa. Đáng lẽ các môn đệ phải vui mừng vì Thầy có quyền năng khiến gió to, biển động im hơi lặng tiếng, các môn đệ lại hoảng hốt sợ sệt. Chúa Giêsu phải lên tiếng:” Sao nhát thế? Anh em chưa có lòng tin sao?”. Sự dữ trong đời sống đã che mắt đức tin của họ.

Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta hãy tin vào Chúa, bám chặt lấy Chúa, tin vào uy quyền tuyệt đối của Chúa trên mọi loài, mọi vật, mọi sự để chiến đấu ới sự dữ cuộc đời. Tiếng la hoảng hốt của các môn đệ trước trận cuồng phong bão táp, phải chăng đang là thử thách của con người, của mỗi người khi họ gặp cơn cám dỗ, gặp sự thử thách gian nan giữa cuộc đời, giữa hành trình đức tin đầy cam go? Liệu Chúa có bỏ con người hay con người chỉ ngờ ngợ, yếu tin chưa có lòng tin mạnh mẽ và gắn chặt vào Chúa Giêsu? Nếu đọc lại nhiều dụ ngôn trong Tin Mừng, chúng ta sẽ thấy nhiều lòng tin làm ta ngạc nhiên. Và khi ta tin thật sự vào Chúa, chắc chắn sự an bình sẽ đến với chúng ta. Thiên chúa không ở xa ta, Ngài ở bên ta, Ngài yêu thương ta, Ngài sẵn sàng can thiệp vào mọi biến cố của đời ta. Nhưng chắc chắn chúng ta cũng có thái độ như các môn đệ hoảng hốt, như ông Môsê trước bụi gai bốc cháy (Xh 3,1), như ngôn sứ Isaia khi nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa trong Đền Thờ (Is 6,5). Tất cả đều tùy thuộc vào lòng mến và vào sự phó thác tuyệt đối của mỗi người chúng ta trong bàn tay yêu thương của Thiên Chúa.

Bình thường ta nghĩ mình chẳng kém thua ai. Nhưng khi gặp thử thách mới biết mình thật yếu đuối. Đã chứng kiến biết bao phép lạ Chúa làm, nhưng khi gặp gió bão vẫn hoảng kinh. Thử thách giúp ta biết mình. Biết mình để thêm khôn ngoan, thêm trông cậy và nhất là để biết rèn luyện bản thân cho tiến bộ hơn.

Thử thách giúp ta biết yêu mến, cậy trông vào Chúa hơn. Vì thế gặp nhiều thử thách giúp ta biết cậy trông phó thác vào Chúa hơn. Gặp thử thách ta mới biết chẳng ai yêu thương ta bằng Chúa. Chúa sẽ không để ta bị thử thách quá sức chịu đựng, nên ta sẽ biết yêu mến Chúa hơn.

Thử thách giúp đức tin vững mạnh. Chúa chỉ cho thử thách một thời gian. Rồi Chúa lại can thiệp để sóng yên biển lặng. Khi sóng yên biển lặng rồi, các môn đệ càng vững tin nơi Chúa hơn. Đời sống mỗi người chúng ta cũng như vậy. Ai càng gặp nhiều thử thách thì càng trở nên từng trải, vững vàng.

Đời sống không thiếu thử thách. Hãy biết rằng Chúa cho phép thử thách vì yêu thương ta, để rèn luyện ta nên người. Nhưng Chúa luôn ở bên ta. Nên ta hãy vững tin, cậy trông phó thác và biết tận dụng những khó khăn để đức tin thêm mạnh mẽ. Thử thách rồi sẽ qua đi. Nhưng cách ta phản ứng trước thử thách lại tồn tại và tạo thành giá trị đời ta. Xin Chúa cho mọi thử thách ta gặp trong đời đều biến thành cơ hội cho ta được thêm lòng, lòng cậy và lòng mến Chúa.

Lạy Chúa, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn bám chặt lấy Chúa vì Chúa là Đấng uy quyền và hay thương xót để chúng con có thể vượt qua thử thách, chiến đấu với sự dữ trong cuộc sống và thêm tin yêu vào Chúa hơn.

21.Sang bên kia bờ

Dẫu biết dòng đời không êm ái như dòng sông nhưng tôi vẫn thích cách so sánh dòng đời giống như dòng sông. Cách so sánh đó gợi lên một hình ảnh rất thực về cuộc sống. Nếu dòng sông khi đầy khi vơi thì dòng đời có khi ngập đầy có khi thiếu thốn. Nếu dòng sông đem nguồn nước tưới mát cho cánh đồng, cho vườn tược thì dòng đời cũng đem lại cho con người nguồn sức sống nơi sự thịnh đạt và những niềm vui. Nếu dòng sông có những đợt sóng dâng trào thì dòng đời cũng có những mênh mông của buồn chán.

Buổi chiều trên biển hồ Tibêriat như là điểm hẹn của từng đợt sóng dữ. Thời điểm ai cũng biết hiểm nguy, vậy mà Thầy Giêsu bảo các môn đệ “Chúng ta sang bờ bên kia đi”. Lời thúc giục tưởng chừng Chúa Giêsu muốn tìm chỗ nghỉ ngơi sau một ngày giảng dạy mệt lã. Thật ra Chúa không tìm nghỉ ngơi, Ngài tiếp tục dạy dỗ. Nếu từ sáng đến chiều Ngài giảng dạy cho đám đông thì giờ đây Ngài muốn dành ưu tiên cho các môn đệ yêu dấu của mình. Chúa Giêsu dạy họ từ những lời được ghi chép trong Thánh Kinh đến những biến cố thường ngày đã xảy ra trong đời sống.

Sang bên kia bờ để nhận ra quyền năng của Chúa

Nơi Thiên Chúa, quyền năng của Ngài không phải để phô diễn làm loé mắt người đời. Ngài không muốn người khác theo Ngài chỉ vì tính hiếu kỳ của họ được đáp ứng. Vì vậy mà Ngài không hoá đá thành bánh, không nhảy xuống từ nóc đến thờ để mọi người tung hô. Ngài không làm phép lạ cách phung phí để “dằng mặt” những kẻ thách thức Ngài.

Quyền năng của Ngài tỏ hiện nhằm đem đến những giá trị sâu xa hơn: nâng đỡ đức tin những người yếu kém, ban niềm vui cho kẻ u sầu, đem bình an cho những ai đang phải khốn đốn. Rõ ràng quyền năng Thiên Chúa không chỉ để giải quyết những vấn nạn tức thời nhưng là củng cố một cuộc sống luôn tiếp nối nhiều bất an.

Sang bên kia bờ để lòng tin được củng cố mỗi ngày

Chúa có mặt trên tàu nhưng sóng dữ vẫn bùng lên. Sóng dữ không kiên nễ người nào vì đó là quy luật mà Thiên Chúa đã đặt để. Điều đó cho ta hiểu rằng bình an của người vượt sóng không phải là sự bất động của dòng sông nhưng là một tâm thái biết cậy nhờ, biết ứng phó để vượt qua sóng gió. Biết rõ buổi chiều biển hồ sóng mạnh, Chúa vẫn bảo sang bờ bên kia. Biết sóng dữ sắp làm đắm con thuyền, Chúa vẫn ngon giấc bình thường như việc gì đến sẽ đến. Tưởng chừng Chúa không biết gì nhưng thật ra Ngài biết tất cả, Ngài lo tất cả.

Dĩ nhiên hiệu quả của niềm tin không do Thiên Chúa làm cách độc lập nhưng cần có sự “tận lực” của con người, “tận nhân lực, tri thiên mênh”. Tận lực của các môn đệ ở chỗ sẵn sàng nghe thầy sang bên kia. Tận lực sau cùng là lời kêu cầu có vẻ trách móc: “Thầy ơi, chúng ta chết tới rồi, Thầy chẳng lo gì sao?” Tận lực của các tông đồ có thế thôi nhưng đó là lời kêu cầu cần thiết.

Chúng ta không thể kêu cầu chấm dứt chiến tranh vì Chúa cho chúng ta có khả năng kiến tạo hoà bình. Chúng ta không thể nài xin Thiên Chúa xoá đi nghèo đói vì Ngài đã ban cho chúng ta của cải để biết cùng nhau chia ngọt sẻ bùi. Chúng ta không xin Chúa dẹp bỏ những nghi kỵ hờn ghen, vì Ngài ban cho chúng ta một lương tâm ngay chính và một trái tim biết cảm thông. Chúng ta cũng không nài xin Chúa cất di sự tuyệt vọng bởi vì Ngài ban cho ta đầy đủ nghị lực để vượt thắng khổ đau mà vươn lên hy vọng.

Sang bên kia bờ để tâm hồn được đổi mới

Từ chỗ thay đổi địa điểm Thầy Giêsu đã thay đổi tâm hồn của các học trò. Khi sang đến bờ bên kia các ông đã có cái nhìn khác hẳn trước đây. Niềm tin đã vững vàng hơn. Các ông không tự mãn vì có Thầy ở bên nhưng tự hào vì mình có thêm sức mạnh. Lời trách cứ về Thầy có vẻ vô tâm giờ đã đổi thành những lời tán dương không ngớt.

Sự yên lặng của biển kéo theo sự lắng đọng của cõi lòng. Chính khi tâm hồn lắng đọng thì hiểu biết mới được khai sáng. Khi tâm trí sáng suốt ta mới hiểu được rằng Chúa luôn có mặt để cùng vượt sóng với ta. Những sóng gió của hiện tại không làm nhạt mờ biết bao điều tốt đẹp Chúa đã ban cho ta. Sợ hãi không làm ta cuống cuồng vì biết rằng Chúa sẽ hướng dẫn ta về tới bến bình an.

Nếu dòng đời còn nhiều nổi trôi thì thuyền đời kitô hữu không bao giờ êm ả. Nó chỉ bình yên khi ta về tới bến mong chờ. Nhưng dù thế nào thì lòng ta vẫn một lòng tin tưởng vào quyền năng của Chúa. Dẫu có lúc ta nghĩ Ngài đã ngủ quên, Ngài không nghe đến tiếng cầu cứu của ta nhưng ta luôn tin rằng Ngài sẽ cứu lấy ta theo cách của Ngài.

22.Chúa làm yên lặng sóng gió

(Suy niệm của Rev. Raniero Cantalamessa)

Bài giải thích của Cha Capuchin Raniero Cantalamessa, cha giảng Phủ giáo hoàng, về những bài đọc phụng vụ Chúa nhật này với đề tài: “Chợt có Một Cơn Bão Lớn”

Bài Tin Mừng Chúa nhật này là sự làm yên lặng sóng gió. Trong buổi chiều, sau một ngày làm việc cực nhọc, Chúa Giêsu xuống một chiếc thuyền và bảo các tông đồ chèo qua bờ bên kia. Vì mệt nhọc, Chúa nằm ngủ ở đàng lái.

Lúc đó, một trận bảo lớn nổi lên dọa phá hủy chiếc thuyền

Hoảng sợ, các tông đồ đánh thức Chúa Giêsu dậy, thưa với Người: “Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?” Sau khi thức dậy, Chúa Giêsu truyền cho biển yên lặng: “Hãy im đi! Hãy lặng đi!” Tức thì gió ngừng và biển lặng như tờ. Rồi Chúa nói với các ông: “Tại sao anh em sợ hãi thế? Anh em không có đức tin sao?”

Chúng ta cố gắng tìm hiểu sứ điệp gởi đến chúng ta hôm nay trong trang Tin Mừng này.

Sự vượt Biển Galilée chỉ cuộc hành trình sự sống. Biển là gia đình tôi, cộng đồng tôi, chính cõi lòng tôi. Trong những biển nhỏ, như chúng ta biết, những trận bảo lớn và thình lình có thể được tháo xích

Ai không biết một số những trận bảo này, khi tất cả ra tối tăm và con thuyền nhỏ sự sống chúng ta bắt đầu đầy nước tứ phía, đang khi Chúa xem ra vắng mặt hay ngủ thiếp. Một sự chẩn đoán báo động của bác sĩ, và hết sức thình lình chúng ta đang ở trên cao đỉnh cơn bảo.

Phải làm gì? Chúng ta có thể bám vào cái gì và chúng ta phải thả neo phía nào? Chúa Giêsu không cho chúng ta phương pháp ma thuật để trốn thoát mọi cơn bảo. Người không hứa với chúng ta là chúng ta sẽ tránh khỏi mọi sự khó khăn. Tuy nhiên, Người đã hứa ban cho chúng ta sức mạnh để vượt thắng chúng nếu chúng ta xin Chúa cho phép như vậy.

Thánh Phaolo nói với chúng ta về một vấn đề nghiêm chỉnh ngài phải đối mặt trong cuộc sống của ngài, mà ngài gọi là “một cái dầm trong thân xác tôi,” “Ba lần”—nghĩa là, vô số lần—ngài nói ngài xin Chúa giải thoát ngài khỏi nỗi khổ này, và Chúa đã trả lời ngài ra sao?

Chúng ta hãy đọc chung câu này: “Ơn của Thầy đã đủ cho coni, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối.”

Từ ngày đó, ngài nói với chúng ta, ngài rất tự hào vì những yếu đuối, nhửng cơn bắt bớ và những nổi âu lo của mình, đến độ có thể nói: “Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 Co 12:7-10).

Sự tin tưởng vào Chúa: Đó là sứ điệp của Tin Mừng. Trong ngày đó điều đã cứu sống các môn đệ khỏi đắm thuyền là hành vi rước Chúa Giêsu trong thuyền, trước khi khởi sự vượt biển.

Đối với chúng ta đó cũng là sự bảo đảm tốt nhất chống lại những cơn bảo sự sống: đưa Chúa Giêsu đi với chúng ta. Những phương tiện rước Chúa Giêsu xuống thuyền của sự sống chúng ta và của gia đình chúng ta là đức tin, sự cầu nguyện và sự tuân giữ các điều răn.

Khi một cơn bảo tung hoành trong biển, ít nhất trong quá khứ, những người thủy thủ có thói quen đổ dầu trên sống để làm yên lặng chúng. Trong những đợt sóng sợ hải và âu lo chúng ta phải đổ sự tin tưởng vào Chúa.

Thánh Pherô khuyên những Kitô hữu đầu tiên tin tưởng vào Chúa trong những cơn bắt bớ, ngài nói: “Mọi âu lo hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em” (1 Pt 5:7). Sự thiếu đức tin của các môn đệ mà Chúa Giêsu quở trách trong dịp này là do sự kiện các ông nghi ngờ Người “quan tâm” về mạng sống và sự an toàn của các ông: “ Thưa thầy chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?”

Thiên Chúa chăm sóc đến chúng ta, Người quan tâm về mạng sống chúng ta! Một giai thoại thường được trưng dẫn nói về một người có một giấc mơ. Ông thấy hai cặp dấu chân in trong cát sa mạc và ông hiểu một cặp vết chân là của mình và cặp kia là của Chúa Giêsu, Đấng đi bên mình.

Tới một lúc, một cặp vết chân biến mất, và ông ấy hiểu rằng sự đó đã xảy ra đúng lúc cuộc sống của ông gặp khó khăn.

Lúc đó ông phàn nàn với Chúa Kitô, đã để ông một mình trong lúc thử thách. “Nhưng, Ta đã ở với con!” Chúa Giêsu trả lời.

“Làm sao được việc Chúa ở với con, khi chỉ có một cặp vết chân trong cát?” người đó nói.

“Đó là những vết chân của Ta,” Chúa Giêsu trả lời. “Trong những lúc đó, Ta vác con trên vai Ta.”

Chúng ta hãy nhớ điều này khi chúng ta cảm thấy cơn cám dỗ phàn nàn với Chúa là Chúa bỏ chúng ta một mình.

 

23.Khi Đức Giêsu ngủ say

(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)

Đức Cha Agatho, Giám Mục Giáo phận Palermo, đi từ đảo Sicily đến Rome. Trong cuộc hành trình, ngài gặp nguy cơ chìm tàu. Một cơn giông tố hãi hùng nổi lên, sắp sửa đánh chìm con tàu ngài đang đi. Không còn hy vọng gì, ngoại trừ lòng thương xót nhân lành của Thiên Chúa toàn năng.

Khi ấy, tất cả mọi người bắt đầu cầu nguyện và dâng lên Chúa lời cầu xin hãy gìn giữ mạng sống cho họ. Trong khi họ cầu nguyện như thế, thì người thủy thủ đang cầm bánh lái, tuy được cột chặt vào tàu, nhưng một cơn giông mạnh mẽ đã làm đứt dây cột và kéo người thủy thủ xấu số kia xuống sóng nước, và Đức Cha Agatho coi anh ta như đã chết. Trong lúc đó, con tàu vẫn đi, sau những cơn hiểm nguy, đã đến được đảo Ostika. Tại đây, Đức Giám Mục dâng thánh lễ cầu cho người thủy thủ không may; nhưng ngay khi con tàu được sửa chữa xong, tiếp tục hành trình đến Rome. Khi vừa lên bờ, Đức Giám Mục đã thấy anh thủy thủ, người mà ngài tưởng rằng đã chết, đang đứng trên bờ. Tràn ngập niềm vui, ngài hỏi anh đã thoát những nguy hiểm dữ dằn suốt nhiều ngày như thế nào. Người thủy thủ khi ấy kể lại chiếc xuồng nhỏ bé của anh lúc nào cũng như sắp sửa lật úp, nhưng lại luôn luôn trồi lên trên những làn sóng, vô hại. Hết ngày lại đêm, anh ta mới thành công trong việc chinh phục những ngọn sóng; nhưng đuối sức vì đói và khát, chắc chắn anh cũng bị chết chìm nếu như không được phù giúp. Anh ta kể tiếp, “Thế rồi bỗng nhiên, khi tôi đã hoàn toàn vô vọng, như thể xuất thần, không biết mình đang ngủ hay thức, tôi nhìn thấy một người đứng trước mặt và cho tôi bánh. Vừa khi tôi lãnh nhận bánh ấy, sức lực của tôi liền hồi phục, và ngay sau đó, tôi được một con tàu cứu vớt và chở về đây.” Khi hỏi biết ngày giờ sự việc này xảy ra, Đức Giám Mục nhận thấy trùng với ngày giờ ngài dâng thánh lễ tại đảo Ostika để cầu cho người thủy thủ xấu số. (Joan Carroll Cruz, Phép Lạ Thánh Thể)

Tin Mừng Thánh Máccô hôm nay thuật lại Đức Giêsu dẹp yên sóng gió, cứu các môn đệ khỏi cơn bão bất ngờ, xảy ra khi Người đang say ngủ. Với câu chuyện trên, Chúa Giêsu Thánh Thể đã cứu người tài công rơi xuống biển, theo lời cầu nguyện của Đức Giám Mục Agatho và toàn thể khách trên con tàu bị bão. Trong cuộc đời mỗi người, thường vẫn gặp những sóng gió, ba đào. Chúng càng dữ dội hơn mỗi khi thiếu vắng Thiên Chúa Quan Phòng che chở, ở cùng.

Khi Đức Giêsu ngủ say

Thực ra, Chúa Giêsu luôn ở cùng, mà con người không nhận ra Người luôn canh thức, che chở lúc nguy nan, tai ương, hoạn nạn, chỉ vì quên mất Người vô hình, chỉ vì sống quá thực dụng, quá dung tục, chỉ luôn biết trông cậy vào hữu hình, vào phương tiện thế gian, vào sức người, sức của, khoa học, kỹ thuật, dịch vụ. Nhưng những thứ hữu hình đó thường không thể giải quyết trọn vẹn như mong đợi, mà chỉ tạm bợ, chắp vá, lưng chừng, nửa vời, bế tắc, chia lìa, đổ vỡ, mất mát, đau khổ, chết chóc, như ly dị, điên loạn hay tự vẫn.

Vì thế, để kính mời Đức Giêsu thức cùng, sống cùng, an ủi, chăm sóc, chở che, Thánh Phaolô khuyên nhủ đừng bắt chước theo thế gian, mà sống theo Lời Chúa đã chỉ dạy, để được cứu giúp an toàn: “Tôi khuyên Anh Chị Em: đừng ăn ở như dân ngoại nữa, vì họ sống theo những tư tưởng phù phiếm của họ. Tâm trí họ đã ra tối tăm, họ xa lạ với sự sống Thiên Chúa ban.” (Ep 4, 17-18)

Khi Đức Giêsu ngủ say

Người vẫn còn say ngủ, khi con người kiêu căng, tự phụ, cậy vào sức mình, tài năng, tri thức, chuyên môn, phương tiện, không cần đến Chúa, không cần đến sức mạnh Chúa Thần Linh, không màng đến Lương Thực trường sinh Thánh Thể, không dựa vào Lời Chúa, ngọn đèn soi dẫn, ánh sáng đi đường, không chạy đến với Chủ Chiên, hay những tâm hồn dâng hiến giúp đỡ, chia sẻ.

Để kính mời Đức Giêsu thức dậy đồng hành, thì Thánh Phaolô ân cần khuyên bảo những ai còn do dự, luyến tiếc những phù phiếm, hãy đoạn tuyệt, để mưu cầu bình an và hạnh phúc vĩnh cửu: “Anh Chị Em đã được trỗi dậy cùng với Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới. (Cl 3, 1- 2)

Khi Đức Giêsu ngủ say

Người vẫn tiếp tục ngủ say khi người tín hữu Kitô còn thiếu các nhân đức Tin Cậy Mến, còn chưa đặt vào Người hết niềm tin, niềm trông cậy và nhất là tình yêu. Bởi vậy, sau khi dẹp yên bão tố, Đức Giêsu quay lại quở trách các môn đệ yếu niềm tin cậy: “Sao nhát thế? Làm sao anh em vẫn chưa có lòng tin?” (Mc 4, 40)

Lo sợ, thất vọng vì thiếu đức tin, bất an, khủng hoảng vì thiếu đức cậy, lạc lõng, bơ vơ vì thiếu đức mến, khi người tín hữu Kitô chưa sẵn sàng khẩn khoản, trọng kính mời Đức Giêsu ngự vào trung tâm điểm đời sống, để có thể quy chiếu mọi sự về với Người. Khi hoàn toàn nhờ Người, với Người và trong Người, thì Người sẽ thức dậy và truyền cho sóng gió, ba đào “im đi, câm đi,” tức thì tâm hồn tín hữu liền được bình an giữa biển đời đen tối.

Mặc cho sóng gió đe dọa tứ bề, mặc cho sự dữ hoành hành áp đảo, không sức mạnh thế gian nào uy hiếp được tín hữu Kitô, khi có Chúa cùng đồng hành. Chính các thánh, các người công chính và các chứng nhân đã trân trọng xác tín điều đó qua cuộc đời.“Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? (Rm 8, 35)

“Người Công giáo là ánh sáng giữa đen tối, là muối sống giữa thối nát, là hy vọng giữa một nhân loại thất vọng,” (Đường Hy Vọng, số 950)

Con tưởng rằng con vững tin, tin vào Chúa là Cha nhân hiền, khi cuộc sống nhẹ trôi êm đềm với tháng ngày lặng lẽ bình yên. Nhưng khi đường đời gieo nguy khó, bên trời ngập tràn cơn giông tố. Con lo âu lạc bến xa bờ, con mới biết rằng con chưa vững tin.

ĐK. Thì lạy Chúa, Chúa biết con yếu đuối và đổi thay, con luôn cần đến Chúa từng phút giây. Nhờ ơn Chúa, con kiên trì tín thác kể từ đây, khi yên vui cũng như khi sầu đầy. (Lm Nguyễn Duy, Cho con vững tin)

Lạy Mẹ Maria, Mẹ từng trải qua biết bao sóng gió từ khi thưa hai chữ “Xin Vâng,” nhưng Mẹ chẳng bao giờ nao núng, hoảng sợ, kinh hãi, thậm chí khi cùng Thánh Gia vượt biên, tránh quân Hêrôđê truy sát Hài Nhi, vì Mẹ luôn có Chúa ở cùng. Kính xin Mẹ an ủi, cầu bầu, che chở chúng con trên đường về Quê Trời. Amen.

 

 

24.Lòng tin

(Suy niệm của Xuân Hạ, OMI)

“Người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?” đó là lời kinh ngạc thốt lên từ miệng các môn đệ, khi các ông cùng với Đức Giêsu đi thuyền qua bên kia Biển Hồ. Các ông thốt lên lời kinh ngạc đó, bởi đã chứng kiến một phép lạ lớn lao chưa từng thấy bao giờ.

Tin mừng Mác-cô thuật lại rằng: khi Đức Giêsu đã giảng dạy cho đám đông dân chúng xong, Ngài bảo các môn đệ chèo thuyền qua bờ bên kia. Nhưng, đang khi đi thì một trận cuồng phong nổi lên, nước ập vào đầy thuyền, và mọi người kinh sợ, bởi thuyền có thể bị chìm; đang khi đó, Đức Giêsu vẫn nằm ngủ say sưa. Họ đến lay Đức Giêsu dậy, với âm giọng như trách móc “chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?” Đức Giêsu đã trỗi dậy, và truyền cho trận cuồng phong dừng lại và sóng yên biển lặng. Kèm theo uy quyền ấy, Ngài trách mắng các môn đệ “Sao nhát thế, anh em vẫn chưa có lòng tin sao?”.

Với phép lạ lớn lao ấy, Đức Giêsu đã lần nữa tỏ cho các môn đệ và muôn dân biết Ngài là Đấng Mêsia, cho họ thấy thần tính của Ngài và chính Ngài là con Thiên Chúa thật như lời Gioan tẩy giả đã giới thiệu. Chúng ta hãy đọc chậm rãi đoạn tin mừng và chú ý đến vài chi tiết mang tính biểu tượng: “Biển Hồ” là nơi đầy nguy hiểm, ở đó đầy “thủy quái dị hình” là ma lực của bóng tối, của tà thần. “Trận cuồng phong” là sức mạnh của sự dữ, nó như một con thủy quái kinh khiếp và mạnh mẽ đến nổi làm cho mọi người kinh hồn bạc vía. Đối lại với tà lực ấy, thì Đức Giêsu vẫn “đang ngủ”, điều này cho thấy Ngài chẳng bận tâm hay lo lắng gì về thế lực sự dữ, bởi lẽ Ngài luôn tin tưởng vào Thiên Chúa Cha. Khi được gọi dậy, Ngài ngăm đe gió và biển “im đi, câm đi”, một vẻ giọng khỏe khoắn đầy quyền năng. “Im đi, câm đi” là một mệnh mệnh vì cơn bão được xem như con thú dữ, điều này cho ta hiểu Đức Giêsu đang chứng tỏ Ngài có thể kiểm soát được mãnh lực của tà thần, của sự dữ. Quả thế, mệnh lệnh được phán ra là “biển lặng như tờ”.

Cuộc sống trần thế của mỗi người chúng ta cũng thế, luôn bị vây hãm với biết bao nhiêu là thế lực của tà thần, với đầy dẫy những cạm bẫy của trần tục (tình, tiền, danh vọng, quyền lực, tham lam, ghen tương, đố kỵ,..) như chiếc thuyền đang đi trên biển vậy. Tuy nhiên, trong niềm tin của người Ki-tô hữu, chúng ta cần xác tín rằng Thiên Chúa đang lữ hành cùng chúng ta trên chiếc thuyền ấy. Khi gặp những khó khăn trong cuộc sống, lúc gặp nghi nan và phạm tội, chúng ta có dám chạy đến với Chúa, để xin ơn trợ lực với thái độ tin tưởng tín thác, hay ngược lại  ta tự mình tìm cách để cải thiện tình trạng bi thảm của mình mà không hề nghĩ đến ơn Chúa, và thậm chí ta chẳng dám tin vào sự trợ lực của Ngài. Như các môn đệ trong đoạn tin mừng, ta cứ tìm cách chèo chống mà quyên đi sự hiện diện của Chúa bên cạnh “Ta ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20). Ta mãi ngồi than thân trách phận và nói “sao Chúa mãi im lặng? Ngài chẳng bận tâm đến sự khốn khổ của con sao?”

Chúng ta hãy đọc lại đoạn tin mừng và nghe lời Đức Giêsu trách mắng các môn đệ “Sao nhát thế, anh em vẫn chưa có lòng tin sao?”, mà đó cũng là lời trách mắng chúng mỗi khi chúng ta thờ ơ và không tin tưởng nơi Chúa. Vì chúng ta vẫn đọc thường ngày “cứ xin thì sẽ được, cứ tìm sẽ thấy, cứ gõ cửa thì được mở cho” (x. Lc 11, 9) nhưng thiếu lòng tin tưởng. Lạy Chúa, Chúa biết chúng con tin Chúa, nhưng xin trợ lực cho lòng tin yếu kém của mỗi chúng con. Để trong mọi biến cố của cuộc đời, chúng con biết tìm đến Chúa và phó thác cậy tin nơi lòng lân tuất của Ngài. Amen!

 

25.Sóng gió

Con thuyền của các môn đệ trong bài Tin Mừng sáng hôm nay chính là hình ảnh cuộc đời chúng ta. Thực vậy, cuộc đời chúng ta với bao nhiêu phong ba bão táp, đó là những thất bại của bản thân, những khó khăn của cuộc sống, của xã hội, những khổ đau của những người xunh quanh, làm cho chúng ta nhiều lúc chán nản tuyệt vọng.

Tại sao lại có những sóng gió trong cuộc đời? Phải chăng Thiên Chúa đã bỏ rơi chúng ta? Có người cho rằng chính Thiên Chúa thử thách để rèn luyện và củng cố niềm tin nơi chúng ta. Có người lại cho rằng do trình độ hạn chế của con người trước sức mạnh của thiên nhiên. Nhưng có lẽ nguyên nhân trực tiếp nhất vẫn là do cách đối xử của con người đối với con người trong cuộc sống.

Thực vậy, chính thái độ vô trách nhiệm của những người làm cha làm mẹ đã dẫn đến tình trạng tuổi trẻ lang thang, bụi đời. Chính sự ích kỷ tàn nhẫn của một số người đã tước đoạt đi những phương tiện sống và phẩm giá của những người khác.

Nghịch cảnh và sóng gió như vẫn tồn tại song song với số phận và lịch sử con người. Các môn đệ cũng như chúng ta phải đương đầu, phải đối phó với cuồng phong. Thế nhưng chúng ta sẽ tìm thấy niềm an ủi nơi Thiên Chúa bởi vì dưới bàn tay quyền năng và yêu thương của Ngài, sóng gió cũng phải khuất phục và sự bình an sẽ trở lại với chúng ta.

Sự dữ tuy tràn lan, nhưng ơn sủng của Ngài vẫn dư đầy, bởi vì Ngài luôn yêu thương chúng ta, Ngài không hề bỏ rơi con người. Bằng chứng là Đức Kitô đã đến, Ngài tìm mọi phương cách, thậm chí cả đến cái chết của mình để cho chúng ta thêm xác tín vào tình thương của Ngài. Một vị Thiên Chúa nhân lành như vậy, nhất định sẽ không bao giờ muốn cho con người phải đau khổ, nhất định Ngài sẽ cứu chúng ta.

Làm sao chúng ta có thể thất vọng và chán nản khi Ngài vẫn ở bên chúng ta và vẫn yêu thương chúng ta. Mặc dù ngày nay Thiên Chúa không còn trực tiếp làm phép lạ để truyền cho sóng gió phải yên lặng, nhưng Ngài dùng bàn tay của những người nhiệt tâm làm vơi giảm những nghịch cảnh, những bất công trong cuộc sống. Và cũng không ít những con người đang đấu tranh cho công bằng xã hội. Nhiều khi họ cũng đã phải trả giá cho những đấu tranh ấy bằng chính mạng sống của mình.

Còn chúng ta thì sao? Niềm tin vào một Thiên Chúa toàn năng và yêu thương lẽ nào lại để cho chúng ta phải buông xuôi và tuyệt vọng bởi vì Đức Kitô chính là niềm hy vọng, chính là sức sống trong cuộc đời chúng ta.

 

 

26.Chưa có lòng tin

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)

Biển khơi là một sức mạnh đáng sợ. Nhất là khi biển nổi sóng gió. Các môn đệ sợ hãi là bình thường. Tại sao Chúa mắng các ông: “Sao nhát thế? Anh em vẫn chưa có lòng tin sao”. Vì đã trải qua nhiều sự kiện như phép lạ hoá bánh ra nhiều, Chúa Giê-su đi trên mặt nước. Tất cả chứng tỏ Chúa làm chủ vật chất. Là Chúa Tể muôn loài. Đã được chứng kiến những phép lạ như thế mà các ông vẫn còn chưa có lòng tin. Đó là điều khiến Chúa buồn. Và hôm nay nữa. Sau khi Chúa quát mắng “ngăm đe gió, và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi!” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ”. Thế mà các ông vẫn chưa nhận biết Chúa. Lại còn thắc mắc hỏi nhau: “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”

Chẳng sánh được với tổ phụ Áp-ra-ham. Luôn tin tưởng nơi Chúa. Tin vào lời Chúa hứa cho một miền đất chảy sữa và mật. Nên sẵn sàng ra đi. “Ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu”. Tin vào lời Chúa hứa cho một dòng dõi đông như sao trên trời như cát dưới biển. nên “bà Xa-ra, vốn hiếm muộn, cũng đã có thể thụ thai và sinh con nối dòng vào lúc tuổi đã cao, vì bà tin rằng Đấng đã hứa là Đấng trung tín”. “Tất cả các ngài đã chết, lúc vẫn còn tin như vậy, mặc dù chưa được hưởng các điều Thiên Chúa hứa”. Dám sát tế I-xa-ác, đứa con duy nhất. “Quả thật, ông Áp-ra-ham nghĩ rằng Thiên Chúa có quyền năng cho người chết trỗi dậy”. Quả là một đức tin lớn lao. Trọn vẹn. Không lay chuyển.

Xin cho chúng ta có một đức tin vững vàng vì “đức tin là bảo đảm cho những điều ta hi vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy”. Để ta an vui sống giữa dòng đời đầy biến động thăng trầm này.

 

27.Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

THỬ THÁCH TRONG CUỘC ĐỜI

Trong đời ta gặp nhiều trường hợp giả vờ rất đáng yêu. Chẳng hạn bà mẹ trẻ giả vờ trốn đứa con nhỏ, để nó phải lo âu đi tìm. Và khi thấy nó đã lo âu đến độ tuyệt vọng, sắp khóc đến nơi, bấy giờ bà mẹ mới xuất hiện. Vừa thấy bà mẹ xuất hiện, đứa trẻ vui mừng khôn xiết. Và nó càng yêu mến, càng bám chặt lấy mẹ nó hơn nữa.

Chúa Giêsu cũng có nhiều lần giả vờ như thế. Lần giả vờ được minh nhiên ghi lại trong Tin Mừng là khi Người cùng hai môn đệ đi trên đường Emmaus. Khi đã đến nơi, Người giả vờ muốn đi xa hơn, làm cho các môn đệ phải tha thiết nài nỉ Người mới chịu ở lại. Khi Người ở lại, các môn đệ vui mừng khôn xiết. Và niềm vui lên đến tuyệt đỉnh khi các môn đệ nhận ra Người lúc bẻ bánh.

Hôm nay tuy Tin Mừng không minh nhiên ghi lại, nhưng ta có thể đoán biết Chúa Giêsu đang giả vờ. Vì sóng to gió lớn dập vùi làm cho thuyền chòng chành nghiêng ngả, nước tràn vào đến nỗi thuyền có nguy cơ bị chìm đắm, trong khi đó các tông đồ xôn xao chạy ngược chạy xuôi, hò hét nhau tìm cách tát nước ra. Giữa khung cảnh như thế, làm sao có thể nằm ngủ ngon lành được. Chỉ có thể là giả vờ. Việc giả vờ của Chúa phát xuất do tình yêu.

Vì yêu thương ta, Chúa muốn ta đáp lại tình yêu thương của Chúa. Đó là định luật thông thường trong tình yêu. Khi yêu ai cũng muốn được đáp trả. Chúa không đi ra ngoài định luật thông thường đó. Người tha thiết yêu ta. Người mong ta yêu mến gắn bó với Người, nên đôi khi Người giả vờ lãng quên để ta nhớ mà chạy đến với Người, gắn bó với Người hơn. Như bà mẹ muốn đứa con tỏ ra cần đến mẹ, tha thiết đi tìm mẹ, hốt hoảng khi không thấy mẹ, Chúa cũng mong ta cần đến Chúa, tha thiết đi tìm Chúa và hốt hoảng lo âu khi thấy vắng bóng Chúa.

Vì yêu thương ta, Chúa muốn rèn luyện ta nên người. Để rèn luyện ta, Chúa gửi những thử thách tới. Cuộc đời ví như mặt biển cả mênh mông. Mỗi người là một con thuyền lênh đênh trên mặt nước. Sóng gió là những thử thách trong cuộc đời. Những thử thách Chúa gửi đến giúp ta trưởng thành ở ba phương diện.

Những thử thách giúp ta biết mình hơn. Bình thường ta nghĩ mình chẳng kém thua ai. Nhưng khi gặp thử thách mới biết mình thật yếu đuối. Thánh Phêrô thấy Chúa đi trên mặt nước thì tưởng mình cũng đi được. Nhưng chỉ được mấy bước đã chìm xuống. Các tông đồ là những bạn chài đã quen với sóng nước. Thế mà vẫn kinh hoảng trước bão tố. Đã chứng kiến biết bao phép lạ Chúa làm, nhưng khi gặp gió bão vẫn hoảng kinh. Thử thách giúp ta biết mình. Biết mình để thêm khôn ngoan, thêm trông cậy và nhất là để biết rèn luyện bản thân cho tiến bộ hơn.

Thử thách giúp ta biết yêu mến, cậy trông vào Chúa hơn. Có thử thách ta mới biết sức mình, biết có những việc ở ngoài tầm tay của mình, chẳng ai có thể giúp mình ngoài Chúa. Vì thế gặp nhiều thử thách giúp ta biết cậy trông phó thác vào Chúa hơn. Gặp thử thách ta mới biết chẳng ai yêu thương ta bằng Chúa. Chúa sẽ không để ta bị thử thách quá sức chịu đựng, nên ta sẽ biết yêu mến Chúa hơn.

Thử thách giúp đức tin vững mạnh. Chẳng có thử thách nào kéo dài mãi mãi. Chúa chỉ cho thử thách một thời gian. Rồi Chúa lại can thiệp để sóng yên biển lặng. Khi sóng yên biển lặng rồi, các môn đệ càng vững tin nơi Chúa hơn. Để từ nay các ngài không còn cuống quít lo sợ mỗi khi gặp gian nan nữa. Đời sống mỗi người chúng ta cũng thế. Ai càng gặp nhiều thử thách thì càng trở nên từng trải, vững vàng.

Đời sống không thể thiếu thử thách. Hãy biết rằng Chúa cho phép thử thách vì yêu thương ta, để rèn luyện ta nên người. Hơn nữa Chúa luôn ở bên ta. Vì thế ta hãy vững tin, hãy cậy trông phó thác và hãy biết tận dụng những khó khăn để đức tin thêm vững mạnh. Thử thách rồi sẽ qua đi. Nhưng cách ta phản ứng trước thử thách lại tồn tại và tạo thành giá trị đời ta. Ước gì mọi thử thách ta gặp trong đời đều biến thành cơ hội cho ta được thêm lòng, lòng cậy và lòng mến Chúa.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Tại sao Chúa cho ta bị thử thách? Thử thách có cần thiết không?

2) Thử thách giúp ta trưởng thành thế nào?

3) Ta phải sống thế nào trong thử thách để vượt lên trên thử thách?

 

 

28.Chú giải của Noel Quesson

Tin mừng Mc 4: 35-41 Biển, theo quan niệm của người Do Thái, là nơi ẩn náu của kẻ thù nghịch, chống lại Thiên Chúa và con người.

Sau một loạt những dụ ngôn, Marcô đề cập đến một chuỗi những phép lạ. Bốn phép lạ mà Marcô trích dẫn ở đây không được thực hiện trước đám đông quần chúng, nhưng chỉ dẫn ra trước môn đệ, nhằm giáo dục các ông. Chỉ có một ít dụ ngôn, mà Marcô đã chăn chú nhắc nhở ta nhiều lần: Còn khi ở riêng, Chúa Giêsu đã giải nghĩa tất cả cho môn đệ của Người” ‘(Mc 4,10 + 4,34).

Chúa Giêsu đã giảng dạy dân chúng… Khi chiều đến, Người phán cùng các môn đệ rằng: “Chúng ta hãy sang bờ bên kia”.

Các ông giải tán đám đông, vì Người đang ở dưới thuyền, nên các ông cho Người đi.

Tôi tưởng tượng ra những giây phút thân mật trên.

Đó là những khoảnh khắc êm ả hơn, để Chúa Giêsu có dịp hiện diện một mình cùng với Nhóm nhỏ của Người.

Chúa Giêsu đã xếp đặt và dự kiến những giây phút này: “Chúng ta hãy sang bờ bên kia”. Người rời Galilêa, nơi mà dân chúng báo động và tìm cách quấy rầy Người. Từ phía dân ngoại, Người tiến đến những người xứ Giêrasa, một xứ mới mà Lời Thiên Chúa chưa được vang lên, miền truyền giáo… ở đó, đã tiềm tàng những tín hữu mới và hứa hẹn những cuộc trở lại mới cần thực hiện.

Và Người trẩy đi. “cùng với các môn đệ của Người”. Họ sẽ có một chút thời gian hơn để nói năng với suy nghĩ chín chắn, cách thanh thản, xa hẳn dân chúng.

Lạy Chúa, nếu Chúa muốn, xin hãy nâng bước xuống thuyền của con. Chúng ta cùng trẩy đi.

Chợt có một cơn bão lớn. Những lớp sóng nã vào thuyền đến nỗi sắp đầy nước.

Thật là kinh hồn!

Không. Họ trẩy đi không phải chỉ để gặp cảnh trên?

Thiên Chúa không dự kiến như thế. Cơn gió mạnh đang vỗ đập trên chiếc buồm và làm cho con thuyền nghiêng ngã: điều mà người ta không ngờ được. Xem ra như biển hồ Tibêriát quen thuộc với những cuộc tấn công dữ dội kiểu này, mà người ta không ngờ. Thiên Chúa đánh lạc hướng.

Thiên Chúa gây bối rối!

Tôi có chấp thuận để cho Thiên Chúa hướng dẫn tôi, đến nỗi có thể không biết Người sẽ dẫn tôi đi đâu không?

Còn Người thì ở đàng lái, dựa gối mà ngủ.

Thất là chưng hửng!

Xét theo phương diện nhân loại, để đạt được điều đó, nghĩa là để có thể ngủ nghỉ êm ả giữa trận phong ba như thế, thì cần:

Hoặc là phải Có một sự quân bình tự nhiên phi thường.

Hay là phải vô cùng mệt mỏi.

Tôi chiêm ngắm Chúa Giêsu ngủ, đầu đặt trên gối, phía dưới thuyền.

Các ông đánh thức Người và nói: “Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?”

Quang cảnh thật ngoạn mục.

Chúng ta lập lại lời kêu xin: một tiếng kêu la…. một sự thân tình dạn dĩ …một lời chất vấn… như chúng ta vẫn thường có cảm tưởng như thế…

Lạy Chúa. Chúa ngủ sao? Xin hãy thức dậy.

Trỗi dậy, Người đe gió và phán với biển rằng: “Hãy im đi, hãy lặng đi”. Tức thì gió ngưng, biển lặng như tờ.

Lạy Chúa, con thường mơ ước đến cảnh yên lặng như tờ tiếp theo như thế.

Với Chúa, làm sao con phải sợ hãi?

Chúa Giêsu nói với các ông: “Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?”. Bấy giờ các ông kinh hãi và nói với nhau rằng: Người là ai mà cả gió lẫn biển đều vâng lệnh Người?”.

Đây là lần đầu tiên Marcô ghi nhận câu hỏi này trong Nhóm môn đệ. Câu hỏi chủ yếu về con người sâu rắc của người Thầy trẻ trung này, mà các ông cùng đang đi thuyền: Người là ai? Phiêu lưu gì đây? Người sẽ dẫn chúng ta tới đâu? Lúc đó, không có câu trả lời… khiến họ kinh hãi. Ta cũng thông cảm cho họ.

 

 

29.Chú giải của Giáo phận Nha Trang

Chúa dẹp yên sóng gió

HOÀN CẢNH:

Sau những dụ ngôn về Nước Thiên Chúa (4,1-33), thánh Mác-cô ghi lại một số phép lạ. Phép lạ Chúa dẹp yên sóng gió trong bái Tin Mừng hôm nay là một trong những phép lạ Chúa làm, để tỏ uy quyền thiên sai của Người.

Ý CHÍNH:

Bài Tin Mừng hôm nay ghi lại phép lạ Đức Giê-su dẹp yên sóng gió để trình bày sứ vụ cứu thế của Người.

NHẬN THỨC VÀ ÁP DỤNG:

  1. Biển, theo quan niệm của người Do Thái, là nơi hỗn mang. Từ đó phát xuất những sức mạnh đối nghịch với Thiên Chúa và con người. Việc Chúa dẹp yên sóng gió trên biển tỏ bày quyền năng của Chúa trên sự dữ.
  2. Việc Chúa Giê-su nằm ngủ, gợi đến sự vắng bóng của Chúa. Chúa nằm ngủ trên thuyền là hính bóng của Hội Thánh tại thế: vẫn có Chúa hiện diện nhưng bề ngoài ta không cảm thấy. Sự hiện của Chúa nơi Hội Thánh, chỉ có thể nhìn thấy qua các dấu chỉ và qua con mắt đức tin.
  3. Chúa lên thuyền và truyền lệnh cho các tông đồ chở sang bờ bên kia. Chi tiết này cho thấy Chúa trao quyền điều khiển Hội Thánh cho các Tông Đồ để các ngài lèo lái Hội Thánh đến bến bình an là Nước Trời.
  4. Con thuyền sang bờ bên kia, là hình ảnh Hội Thánh vượt biển trần gian. Cuộc hành trình vượt biển này đầy cam go và thử thách.
  5. Có Chúa hiện diện trong thế ngủ (hiện diện cách vô hình), các Tông Đồ đã không nhận ra quyền năng của Người, nên các ông hoảng sợ khi gặp sóng gió bão táp.

Chúa vẫn hiện diện trong Hội Thánh với tư cách là Đầu Nhiệm Thể. Bất cứ lúc nào ta tin tưởng vào Người, ta liền được hiệp nhất với Người, được hiệp thông quyền năng như Người:

– Khi gặp đau khổ mà tin vào Chúa, ta sẽ cùng được Người thống trị.

– Khi phải chết mà tin vào Chúa, ta sẽ cùng được phục sinh với Người.

– Khi còn sống mà tin vào Chúa, thì ta sẽ cảm nghiệm được hạnh phúc với Chúa ở đời này và đời sau.

  1. Chi tiết “Chúa thức dậy, ngăm đe gió …” gợi đến việc Chúa phục sinh.

Lời Chúa ngăm đe sóng và biển, giống như lời Chúa vẫn sử dụng khi trừ quỷ, lời đó diễn tả việc Chúa chiến thắng trên ma quỷ sau khi Chúa phục sinh.

  1. Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta xác tín hơn vào sự hiện diện cách vô hình của Chúa trong Hội Thánh và an tâm hơn khi gặp thử thách vì luôn có Chúa hiện diện để gìn giữ, che chở và giúp đỡ ta trên đường về quê trời.

Hành Trang Mục Vụ Khóa 10 – ĐCV Thánh Giuse Sài Gòn

 

30.Người dựa vào chiếc gối mà ngủ

(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)

“Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi mà Thầy chẳng lo gì sao?”

Cũng như hai dụ ngôn ‘hạt giống tự mọc’ và ‘hạt cải nhỏ bé’ được kể trước đó, sự kiện cuồng phong nổi lên và sóng nước ập vào làm cho con thuyền các môn đệ hòng chìm, trong khi đó Đức Giê-su ‘đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ’ buộc ta phải suy nghĩ khi giáp mặt với những nghịch lý đầy thách thức trong chính đời sống Tin Mừng. Tự nhiên, khi nghĩ về Thiên Chúa cũng như về vương quốc của Ngài, thì quyền năng và sức mạnh mới chính là điều mà mọi người thường nghĩ tới trước nhất. Chính vì vậy mà khi nhìn thấy đau khổ tràn lan, bất công ngập tràn và sự ác thống trị, trong khi sự thiện lại thoi thóp trong tuyệt vọng, nhiều người đã cho rằng, đó là một bằng chứng thuyết phục cho thấy không hề có Thiên Chúa; vì nếu Ngài thật sự hiện hữu, thì với tất cả quyền năng và thánh thiện như thế, tại sao lại không can thiệp, không giáng phạt bằng tất cả sức mạnh của Ngài? Thiên Chúa lẽ nào lại vô tâm tới mức đó sao? Giải đáp duy nhất mà người ta thường nại tới để giải quyết nghịch lý này là sự kiên nhẫn chịu đựng có giới hạn của Thiên Chúa, sự nhẫn nhục này chỉ tồn tại trong thời gian ngắn ngủi của cuộc đời này, để rồi tới kiếp sau sự công thẳng và quyền bính của Ngài sẽ hiển trị qua việc nghiêm minh xét xử, với phần thưởng thiên đàng dành cho người thiện, hay hình phạt hỏa ngục dành cho người dữ. Giải đáp này trên thực tế hình như được hầu hết các tôn giáo trưng ra, tuy với những hình thái khác nhau, chẳng hạn như thuyết luân hồi của Phật Giáo.

Vẫn biết Thiên Chúa là quyền năng và quyền năng này vượt trên tất cả mọi sự, ‘Thức dậy, Người ngăn đe gió và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi!” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ’. Thiên Chúa đương nhiên có quyền trên cả sự dữ! Trong trường hợp cụ thể này, theo lối suy nghĩ của các môn đệ, biển cả dậy sóng là hình ảnh quen thuộc của sức mạnh sự dữ, của tà thần (xem Mc 1:25). Có điều là ít tôn giáo nào dám nghĩ rằng quyền năng lớn lao nhất của Thiên Chúa (Thượng Đế…) lại chính là quyền năng buộc Ngài phải câm nín. Ngoài Ki-tô giáo, có tôn giáo nào dám nghĩ rằng có một Thiên Chúa mà quyền năng và bản chất tuyệt hảo nhất của Người lại chính là lòng nhân từ và thứ tha? Đặc tính ‘nhân từ và hay thương xót’ của Thiên Chúa, nếu có tìm thấy trong Do Thái giáo, Hồi giáo…, thì cũng chỉ mang tính tạm bợ và hạn hẹp, và chỉ dành cho một số đối tượng nhất định mà thôi (các tín hữu trung thành, những người công chính chẳng hạn). Chỉ riêng Tin Mừng của Đức Giê-su mới cho ta hiểu rằng Thiên Chúa là tình yêu, và bản chất của Tình Yêu đó trước hết và trên hết là thứ tha và hay thương xót. Phải chăng từ muôn thuở yếu tính của Thiên Chúa chính là điều này… và sẽ còn tiếp tục mãi mãi cho tới muôn đời? Mạc khải lớn nhất của Đức Giê-su Ki-tô chính là đây: Thiên Chúa không lên án, Ngài không luận phạt, Ngài chỉ làm một điều duy nhất là cứu độ và xót thương. Luận phạt hay lên án là do chính con người tự quàng vào cổ mình “vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3:16-21). Kể từ mạc khải vĩ đại này, thinh lặng trước sự dữ, thay vì là yếu đuối sợ hãi, lại biểu lộ sức mạnh vô địch nhất của Thiên Chúa. “Ông không nói lại được một lời sao? Mấy người này tố cáo ông gì đó?… Nhưng đức Giê-su vẫn làm thinh” (Mt 26:62-63).

Thần lực Người làm cho gió im biển lặng đã làm cho các môn đệ hoảng sợ, mối hoảng sợ này có lẽ lớn không kém lúc cuồng phong bão tố nổi lên, ‘Các ông hoảng sợ nói với nhau…’ Mô-sê trước bụi gai bốc cháy (Xh 3:1), hoặc I-sai-a khi thoáng nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa (Is 6:5), hoặc bất cứ ai khác cũng đều run sợ trước mọi biểu hiện của quyền lực thần linh. Chỉ duy uy quyền tình yêu của Thiên Chúa là không gây sợ hãi! Và chỉ có sức mạnh tình yêu tha thứ mới làm cho con người được thư thái và an bình thực sự. “Bình an cho anh em… Thầy đây đừng sợ!” (Lc 24:36). Một khi được Đức Giê-su tỏ cho biết Thiên Chúa là ai trong thực chất của Ngài, và Thần Khí giúp ta khám phá ra Thiên Chúa thật gần gũi, thấu hiểu hết các yếu đuối lỗi lầm của con người cho dù họ có gian ác tội lỗi tới đâu đi nữa, bất cứ ai cũng sẽ cảm thấy tràn ngập một niềm an bình độc đáo, một thứ an bình không ai trên cõi đời này có thể ban cho. “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy… không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi…” (Ga, 14:27)

Tuy nhiên, một khi khám phá ra và hiểu rõ hơn về sức mạnh tình yêu tha thứ và xót thương của Thiên Chúa, con người sẽ không khỏi cảm thấy một mối kinh ngạc thú vị, gần giống như một cảm giác ngất ngây. Hy vọng rằng các Ki-tô hữu chúng ta, một khi nghiệm thấy cảm giác tuyệt diệu đó, hãy để cho mối ‘kinh ngạc ngất ngây’ này tiếp tục tràn ngập tâm hồn mình… bây giờ và cho tới muôn đời!

Lạy Vua Tình Yêu nhân ái, cảm tạ Chúa đã một lần cho con nếm cảm được uy lực tình yêu nhân ái Chúa trong đời sống con. Xin cho con luôn nghiệm thấy Thiên Chúa tình yêu đang thinh lặng hiện diện trong con giữa mọi sóng gió cuộc đời. Xin đừng bao giờ cất khỏi lòng con sự bình an ngây ngất của Thần Khí hiện diện trong con, để con luôn có thể mở miệng kêu lên ‘Áp-ba’ giữa mọi nghịch cảnh. Amen.

 

31.Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn

PHÓ THÁC VÀ TIN TƯỞNG VÀO CHÚA

KHI GẶP NGHỊCH CẢNH HAY ĐAU KHỔ?

Rất nhiều người trong chúng ta đã một lần lâm vào khó khăn, nghịch cảnh. Lúc ấy, chúng ta luôn tự chất vấn mình: “Sao cuộc đời lại đầy rẫy khó khăn, đau khổ?”; “Tại sao điều này lại xảy ra với mình?”; “Tại sao đời bất hạnh đến vậy?”; hay ““Tôi có làm gì đâu mà tôi ra như thế này?”. Nhưng nếu suy tư một chút, chúng ta thấy rằng nghịch cảnh hay đau khổ trong cuộc đời là điều không thể tránh được. Chẳng hạn, người thì bị mất việc, kinh doanh thất bại, mất đi người thân, khủng hoảng tài chính, người thì đổ vỡ trong các mối quan hệ, hoặc thậm chí sức khỏe sa sút và bệnh tật. Lời Chúa trong các bài đọc hôm nay giúp chúng ta có cái nhìn và lối sống trước nghịch cảnh trong đời.

Bài đọc 1 kể Ông Gióp là người công chính, đạo đức và kính sợ Chúa vì thế ông được Chúa chúc phúc, con đàn cháu đống và của cải sung túc. Nhưng chẳng bao lâu ông gặp những cơn bão táp trong đời sống vật chất lẫn tinh thần: mất hết bà con bạn bè, tán gia bại sản, còn thân thể thì bị ung nhụt khủng khiếp. Thế nhưng, ông không nguyền rủa Thiên Chúa trái lại tin tưởng, phó thác và cậy trông vào Chúa. Cuối cùng Chúa thương ban cho ông có lại tất cả và phong phú hơn trước đây. Còn trong Bài Tin Mừng, Thánh Mác-cô kể khi gặp bão táp cuồng phong nỗi lên, các tông đồ hoảng sợ quá đến nỗi quên mất Chúa đang ở với mình. Các ông kêu Chúa và Chúa dẹp tan sóng gió.

Thật ra, mỗi khi thử thách đến trong đời, mỗi người đối diện và phản ứng một kiểu, chẳng ai giống ai. Có người thì quay lưng lại với chúng. Có người lại không dám tiến lên vì sợ thất bại. Lại có người không bao giờ hành động… vì lo không vượt qua nỗi. Có người kiên trì chịu đựng và can đảm vượt qua, nhưng có người thì nhụt chí thất vọng và tuyệt tự…

Khởi đi từ nguyên tắc cứu độ của Đức Giêsu trong nguyên lý của hạt lúa mì: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24); rồi chính Đức Giêsu đã đi trên con đường tự hủy đó để cứu độ con người. Đỉnh cao của mầu nhiệm này là cái chết trên thập giá như Ngài đã tiên báo: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại” (Mc 8, 31). Tinh thần này đã được thánh Phanxicô Assisi lựa chọn và sống, ngài viết: “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.

Quả thế, đằng sau sự mục nát của hạt lúa, chúng ta thấy trổ sinh nhiều cây và bông hạt khác. Cũng vậy, nếu không có thập giá hôm nào thì không có sự phục sinh của Đức Giêsu và niềm hy vọng của chúng ta. Chính Tôi Tớ Chúa, Đức Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận cũng đã nói: “Đừng nản lòng vì thất bại. Nếu con tìm ý Chúa thực sự, thì chính sự thất bại đó là thành công. Chúa muốn như vậy. Chỉ có một sự thất bại là không hy vọng vào Chúa. Con đã hy vọng vào Chúa và con sẽ không hổ thẹn đến muôn đời” (Đường Hy Vọng, số 41. 43).

Lửa thử vàng, gian nan thử đức tin”. Trong hành trình sống đạo của chúng ta, hẳn không thiếu những nghịch cảnh, những sóng gió cuộc đời. Tuy nhiên, khi đối diện với chúng, mỗi người chúng ta hãy kiên trì và trung thành với ý Chúa. Mỗi khi khó khăn thử thách đến với chúng ta, đừng vì thất vọng mà buông xuôi nhưng biết chạy đến kêu cầu Chúa ra tay giúp đỡ như các Tông đồ hôm nay. Hãy trung thành, tin tưởng và cậy trông vào Chúa. Đừng than oán mỗi khi rơi vào nghịch cảnh nhưng nhớ rằng Chúa là Cha của chúng ta ở trên trời, Chúa luôn yêu thương chúng ta, Ngài biết trước những gì chúng ta cần, vì thế chúng ta nên phó thác trong tay Ngài. Hãy tin tưởng vào Chúa quan phòng (Mt 6,25-34).

Cuối cùng, mỗi khi gặp nghịch cảnh, khó khăn xảy đến, chúng ta đừng quá bận tâm cho câu hỏi tại sao? Mà hãy chú tâm và khám phá ra ý định của Thiên Chúa trong nghịch cảnh đó. Thật vậy, chính lúc ấy, Chúa sẽ cho biết lý do tại sao, hay cần phải làm gì để chúng ta nhận biết được những hồng ân quý báu Chúa ban cho trong nghịch cảnh đó. Mọi sự đều trở nên ích lợi cho những người yêu mến, tin tưởng và cậy trông ở Chúa. Vì thế, không còn chuyện than thân trách phận hay buồn bực, chán nản và thất vọng nữa. Ông Gióp là người đã sống mầu nhiệm đau khổ qua những nghịch cảnh một cách xuất sắc. Ông xin Chúa cho chịu thật nhiều đau khổ để đền vì tội mình. Ông sẵn lòng chịu khổ cực thay cho người khác vì lòng yêu mến Chúa. Ông luôn chiến đấu với sự yếu đuối bản thân, với những nghịch cảnh từng ngày từng giờ, từng phút, từng giây trong cuộc sống.

Xin hãy nhớ rằng những điều tốt đẹp ngày hôm nay là kết quả của những thử thách ngày hôm qua. Cho nên, Đức Hồng Y Phanxicô Xavie nói: “‘Khổ’. Đúng vậy. Thương khó, bỏ dễ. Khó mới quí, bỏ là quỉ” (ĐHV, số 60). Ước gì, Lời Chúa hôm nay là động lực và nguồn an ủi và sức mạnh để chúng ta dám đương đầu và chiến đấu với với bao nghịch cảnh trong đời ngõ hầu nhờ ơn Chúa con thuyền đức tin của chúng ta về thiên đàng bình an. Amen.

 

 

32.Suy niệm (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

CHÚA DẸP YÊN SÓNG GIÓ (Mc 4,35-41)

Sau một loạt bài nói về mầu nhiệm Nước Thiên Chúa, hôm nay thánh Marcô kể lại cho chúng ta phép lạ Chúa dẹp yên sóng gió trên biển cả. Chúa Giêsu ngồi trên thuyền giảng dạy dân chúng. Giảng xong, Người bảo các môn đệ chèo thuyền qua biển hồ Tibêriat mà sang miền Ghêrasa… Bỗng cơn bão lớn nổi lên, sóng tạt nước vào thuyền sắp chìm. Các môn đệ sợ hãi, còn Chúa thì nằm ngủ ở sau lái. Các ông vội vã đánh thức Người và nói: “Thầy ơi! Chúng ta chết mất”. Người trỗi dậy truyền khiến sóng gió yên lặng, rồi bảo các ông: “Sao anh em nhát đảm quá! Anh em chưa tin Thầy sao?” Còn các ông thì khiếp vía hỏi nhau: Người là ai mà sóng gió phải vâng phục Người?

Biển hồ Tibêriat này cũng có tên gọi là Galilê. Biển có chiều dài 21km và chỗ rộng nhất là 13 km. Thung lũng Jordan là một vết nứt sâu trên mặt đất và biển Tibêriat là một phần của vết nứt đó. Nó thấp hơn mặt biển 200 mét nên khí hậu ấm áp dễ chịu, nhưng cũng đem lại nhiều nguy hiểm. Bên phía tây có núi non, thung lũng, khe suối, nên khi gió lạnh từ phía tây thổi đến thì thung lũng, khe suối này có tác dụng như những cái phễu lớn. Gió bị nén trong đó và thổi ào ào xuống hồ bất thình lình với sức gió dữ dội đến nỗi mặt hồ phẳng lặng biến thành sóng gió gào thét. Vì thế, biển Tibêriat hay nổi lên những cơn sóng gió bão táp vào ban chiều hay ban đêm.

Các môn đệ chưa hiểu rõ con người Đức Giêsu, các ông coi Ngài cũng chỉ là một Đấng tiên tri có quyền phép, làm được nhiều phép lạ để cho nhiều người tin theo, nên các ông mới thắc mắc với câu hỏi “Người này là ai?” Khi bão tố yên lặng, các ông chứng kiến một việc mà chỉ Thiên Chúa mới có thể hoàn thành. Điều đó có ý nghĩa là Đức Giêsu có quyền năng của Thiên Chúa. Thực ra, họ mới biết Đức Giêsu theo quan niệm của người đương thời. Đồng thời, nhờ phép lạ này cho thấy Đức Giêsu chăm sóc các môn đệ của Ngài.

Theo suy luận của J. Hervieux thì “khi đọc lại câu chuyện Chúa đi qua biển và dẹp yên sóng gió như vậy, Marcô cố gắng đáp ứng những nhu cầu hiện thực của Giáo hội thời Ngài. Những tín hữu Rôma đang phải điêu đứng vì những cuộc bách hại. Họ đang sống trong nỗi lo sợ, giống như các môn đệ trong con thuyền vượt biển xưa. Đối với họ, Đức Kitô hình như đang ngủ. Việc Ngài ‘vắng mặt’ rõ ràng trong những biến cố bi thảm họ đang sống, tạo cho họ thêm e dè sợ sệt! Chúa phải làm gì để giải thoát họ khỏi cảnh chết chóc đang rình rập” (Fiches dominicales, năm B, tr 207).

Đường lối sư phạm của Chúa rất huyền diệu, ta không hiểu nổi, nhưng dầu sao nó cũng nhắm giúp chúng ta tin tưởng rằng: trong mọi nơi mọi lúc “Con thuyền Giáo hội lúc nào cũng bị sóng gió dập dồn” (theo Tertullianô), nhưng không sao, không bị chìm được vì luôn có Ngài ở đó, Ngài có vẻ ngủ nhưng thực ra Ngài vẫn thức, để theo dõi chúng ta chèo chống và chờ đợi chúng ta kêu cầu Ngài giúp đỡ. Theo nhận xét của chúng ta, dù có Đức Giêsu ở trong thuyền với các môn đệ thì bão tố vẫn xảy ra. Vì thế, dù bão tố có chụp xuống chúng ta, điều đó không có nghĩa là Thiên Chúa đã bỏ rơi chúng ta. Nếu chúng ta có đức tin, chúng ta sẽ không nghi ngờ Ngài ở với chúng ta, và chúng ta sẽ hướng về Ngài để cầu xin và tin chắc rằng Ngài sẽ đến giúp đỡ.

Một ngày kia, viên lái đò chở hoàng đế César qua sông, thấy sóng cả đã ngả tay chèo, được hoàng đế phán ra một câu bất hủ: “Anh không biết là anh đang chở hoàng đế César sao?”

Một vị hoàng đế bất lực trước cơn cuồng phong dữ dội, thế mà dám nói những lời như thế! Thì huống hồ ở đây, không phải là vị vua trần thế mà là vua cả trên trời Ngài làm sao cho sóng gió bão táp phải lặng yên sao! Thánh vịnh đã nói:

Đổi phong ba thành gió thoảng nhẹ nhàng

Sóng đang gầm, bỗng im tiếng.

Họ vui mừng vì trời yên bể lặng

Và Chúa dẫn đưa về bến mong chờ (Tv 107,29-30).

Mỗi người chúng ta không khác gì chiếc thuyền nan chông chênh giữa biển trần gian đầy sóng gió bão táp, khó khăn nối tiếp khó khăn. Nếu chúng ta chỉ dựa vào sức mình hay dựa vào một quyền năng nào đó thì chúng ta sẽ thất bại. Ai có thể cứu chúng ta thoát khỏi sóng gió ba đào khi chiếc thuyền của chúng ta sắp chìm? Chỉ còn có Thiên Chúa. Ngài như người Cha lái con tàu vững chắc trên biển cả, chúng ta là con chỉ biết tin tưởng vào quyền năng của Người Cha trên trời. Có Chúa trong đời, Ngài sẽ hướng dẫn cuộc đời của mỗi chúng ta. Lúc đó, những cô đơn như bị xoá nhoà, những khó khăn dường như nhỏ lại, những yếu đuối như được sức mạnh. Chúng ta không cầu xin cho cuộc đời mình như biển lặng, nhưng xin cho cõi lòng chúng ta được tĩnh lặng ngay giữa lúc biển động.

Truyện: Cha tôi cầm lái con tàu

Một thi sĩ người Anh, ông Byron, có viết một câu chuyện như sau:

Hôm ấy, một con tàu đang rẽ sóng lướt đi trên mặt biển mênh mông. Bỗng chốc, bầu trời kéo mây đen đặc. Rồi giông tố ầm ầm nổi lên, sấm chớp kinh hoàng. Mưa càng lớn, gió càng mạnh. Các hành khách kêu la hỗn loạn. Duy có một em bé cứ ngồi chơi trên boong tàu như không có gì xảy ra cả.

Lạ lùng, một thuỷ thủ dương to đôi mắt hỏi em:

– Em không sợ chết sao?

Cậu bé thản nhiên trả lời:

– Sao lại sợ? Chính ba em cầm lái con tàu này mà!

 

33.Quyền năng của Thiên Chúa

(Suy niệm của Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. DẪN NHẬP

Các bài đọc trong Thánh lễ hôm nay nhắc nhở chúng ta trong cuộc sống hiện tại có nhiều gian nan thử thách, hãy tin cậy vào Chúa quan phòng. Thực vậy, trong cuộc sống hằng ngày không thiếu gì những giông tố xẩy đến cho Giáo hội, quốc gia, thế giới và riêng của từng người chúng ta nữa. Trước những trạng huống đó, chúng ta cảm thấy hoang mang không biết phải xoay sở ra sao, có khi đã nản lòng trước những biến cố bất ngờ xẩy đến.

Nhưng trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã nói với chúng ta như đã nói với các Tông đồ xưa kia trên biển hồ Tibériade:”Việc gì phải sợ, người đâu mà kém tin thế”? Qua lời kêu cứu của các Tông đồ, Đức Giêsu đã truyền cho giống tố ngưng lại và biển trở nên phẳng lặng như tờ. Sở dĩ các Tông đồ chưa đủ tin tưởng vào Đức Giêsu và sợ hãi như vậy vì các ông chưa nhìn ra con người thật của Ngài, nên mới đặt câu hỏi:”Ngài là ai mà cả gió và biển phải vâng lời vậy”?

Trong suốt lịch sử của mình, Giáo hội đã trải qua những cảnh huống bi đát như bị bách hại, chia rẽ nội bộ, lạc giáo… nhưng Giáo hội vẫn đứng vững vì có Chúa “nằm ngủ” ở đó, Ngài sẽ ra tay khi cần thiết. Ngoài ra, trong cuộc sống hằng ngày của mỗi người cũng không thiếu gì những gian nan thử thách, hãy tin tưởng vào tình yêu quan phòng của Chúa, hãy vững tin và cầu nguyện, Ngài sẽ đến cứu giúp.

  1. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

+ Bài đọc 1: G 38,1.8-11.

Ông Gióp gặp nhiều tai ương hoạn nạn mặc dầu ông là người công chính. Trước những đau khổ đó, ông biểu lộ những hoài nghi về sự công bằng của Thiên Chúa: ông muốn hỏi Thiên Chúa tại sao lại để cho đau khổ xẩy đến với ông cách bất công như vậy? Đâu là nguyên do những nỗi bất hạnh ấy?

Thiên Chúa không trực tiếp giải đáp thắc mắc của ông, Ngài chỉ cho ông biết Ngài là Chúa tể muôn loài, Ngài có thể làm được mọi sự theo ý Ngài: chính Ngài điều hành sức mạnh của nước, cho nó chảy đi đâu, Ngài dẹp yên sóng cả ngoài biển khơi.

Như vậy, Thiên Chúa gián tiếp trả lời cho ông Gióp: mọi sự lành hay sự dữ được Ngài cho phép mới xẩy ra, con người phải biết phó thác vào sự sắp xếp của Ngài, đừng nên mở miệng than trách.

+ Bài đọc 2: 2Cr 5,14-17.

Thánh Phaolô cho tín hữu Côrintô biết: Đức Kitô đến trần gian này để làm một cuộc tạo dựng mới nhờ sự chết và phục sinh của Ngài. Nhờ cái chết của mình, Đức Kitô làm cho nhân loại thực sự chết cho tội lỗi và nhờ sự sống lại của mình, Ngài làm cho con người hoàn toàn đổi mới, mặc lấy cuộc sống mới đã được biến hình đổi dạng, được trở nên một tạo vật mới tốt lành thánh thiện

Nếu Đức Kitô đã ban cho chúng ta một cuộc sống mới thì chúng ta cũng phải bỏ nếp sống của con người cũ để sống một cuộc sống mới hoàn toàn trong Đức Kitô để thông hiệp vào sự sống của Ngài.

+ Bài Tin mừng: Mc 4,35-41.

Buổi chiều, khi đã giảng dạy cho dân chúng xong, Đức Giêsu bảo các Tông đồ xuống thuyền vượt biển hồ Tibériade sang bờ bên kia. Biển hồ này thường có bão, nhất là vào buổi chiều. Khi ra giữa biển, một cơn bão táp nổi lên, nước đã tràn vào thuyền, các môn đệ cuống cuồng lên. Trong khi đó, Đức Giêsu, bị mệt mỏi vì rao giảng suốt ngày, nằm gối đầu ở đàng lái mà ngủ, như không có sự gì xẩy ra.

Các ông sợ hãi đánh thức Ngài và còn có sự trách móc:”Chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm sao”? Đức Giêsu bình tĩnh đứng lên phán một lời vắn tắt:”Im đi, câm đi”, tức thì gió im, biển lặng như tờ. Sau đó Đức Giêsu vừa trách các môn đệ vừa khuyên họ hãy tin vào quyền năng của Ngài.

Các môn đệ chưa nhận ra con người thật của Đức Giêsu nên mới nói:”Ngài là ai mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh”? Có lẽ thánh Marcô thuật lại cảnh dẹp yên sóng gió trên đây nhằm trấn an và củng cố các Kitô hữu đầu tiên tại Rôma đang hoảng sợ trước cơn bách hại của hoàng đế Néron?

  1. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

Đừng sợ, hãy vững tin.

  1. SÓNG GIÓ TRÊN BIỂN KHƠI.
  2. Gió và biển.

“Trong ngôn ngữ Do thái, cùng một tiếng “gió” cũng có nghĩa là “thần trí”. Ngoài ra trong Kinh thánh, biển thường là biểu tượng những thế lực gian tà mà Thiên Chúa phải đánh gục để kế hoạch của Người toàn thắng. Ở đây, biển động dữ dội do ảnh hưởng của cuồng phong. Ta phải hiểu là có “thần trí xấu” (Satan chăng?) đang tung những ma lực dưới quyền để ùa đến tấn công con thuyền, tức là tấn công các môn đệ”(Boismard, Jésus, un homme de Nazareth, 1966, tr 78).

Làm cho bão tố yên lặng là một dấu chỉ đặc biệt về quyền năng của Thiên Chúa, bởi vì biển và gió được coi như là những sức mạnh của xấu xa và hỗn loạn, mà chỉ Thiên Chúa mới có thể làm chủ, điều khiển chúng (Bài đọc 1).

  1. Biển hồ Tibériade.

Biển hồ này cũng có tên gọi là biển hồ Galilê. Biển có chiều dài 21 km và chỗ rộng nhất là 13 km. Thung lũng Jordan là một vết nứt sâu trên mặt đất và biển Tibériade là một phần của vết nứt đó. Nó thấp hơn mặt biển 200 mét nên khí hậu ấm áp dễ chịu, nhưng cũng đem lại nhiều nguy hiểm. Bên phía tây có núi non, thung lũng, khe suối, nên khi gió lạnh từ phía tây thổi đến thì thung lũng, khe suối này có tác dụng như những cái phễu lớn. Gió bị nén trong đó và thổi ào ào xuống hồ bất thình lình với sức gió mạnh dữ dội đến nỗi mặt hồ phẳng lặng biến thành sóng gió gào thét. Vì thể, biển Tibériade hay nổi lên những cơn sóng gió bão táp vào ban chiều hay ban đêm.

  1. CHÚA DẸP YÊN SÓNG GIÓ.
  2. Câu chuyện giông tố.

Đức Giêsu cũng có một số môn đệ để giúp phổ biến giáo thuyết của Ngài. Các môn đệ này không phải là những nhà trí thức hay ít ra là những người học thức trung bình, nhưng thực ra họ là những người ít học: họ là những người chài lưới. Chúa cần phải giáo dục họ từng bước để trở thành những môn đệ kiên cường và trung thành trong việc rao giảng Tin mừng. Họ cần phải đặt tin tưởng vào Chúa nhất là trong những cơn gian nan khốn khó lúc này và về sau.

Ngài phải thử thách họ bằng những tình huống nguy hiểm. Vi thế, sau một ngày giảng cho dân chúng những dụ ngôn về Nước Trời. Đức Giêsu bảo các môn đệ xuống thuyền sang bờ biển bên kia, là vùng của dân ngoại để truyền giáo cho họ. Nhưng mục đích chính là để thử thách họ và cho họ thấy quyền năng của Ngài.

Vì thế, một cơn sóng gió nổi lên hầu nhận chìm con thuyền của các ông mà Đức Giêsu thì nằm ở đàng lái mà ngủ, coi như không có chuyện gì xẩy ra. Các môn đệ vừa cầu cứu vừa có vẻ hơi trách móc Ngài. Lúc ấy Ngài mời bình tĩnh đứng lên, truyền lệnh cho sóng gió phải ngưng hoạt động, tức thì gió im, biển trở nên lặng như tờ. Trước cảnh tượng này các môn đệ hết sức kinh ngạc và thán phục Đức Giêsu nên mới nói với nhau:”Ngài là ai mà cả gió và biển đều phải tuân lệnh Ngài”? Các ông đã nhìn ra quyền năng của Ngài và tin tưởng vào Ngài hơn.

  1. Ý nghĩa câu truyện.
  2. a) Củng cố niềm tin cho môn đệ.

Đức Giêsu truyền cho các môn đệ xuống thuyền ra biển là có ý tỏ quyền năng của Ngài để các ông tin tưởng vào Ngài. Sóng gió bão táp cũng có nghĩa là những thử thách và đau buồn mà người công chính phải chịu đựng và chỉ có quyền năng của Thiên Chúa mới có thể cứu họ ra khỏi tình trạng ấy.

Các môn đệ chưa hiểu rõ con người Đức Giêsu, các ông coi Ngài cũng chỉ là một đấng tiên tri có quyền phép, làm được nhiều phép lạ để cho nhiều người tin theo nên các ông mới thắc mắc với câu hỏi “Người này là ai”? Khi bão tố yên lặng, các ông chứng kiến một việc mà chỉ Thiên Chúa mới có thể hoàn thành. Điều đó có ý nghĩa là Đức Giêsu có quyền năng của Thiên Chúa. Thực ra, họ mới biết Đức Giêsu theo quan niệm của loài người. Đồng thời, nhờ phép lạ này cho thấy Đức Giêsu chăm sóc các môn đệ của Ngài.

Theo suy luận của J. Hervieux thì “khi đọc lại câu chuyện Chúa đi qua biển và dẹp yên sóng gió như vậy, Marcô cố gắng đáp ứng những nhu cầu hiện thực của Giáo hội thời Ngài. Những tín hữu Rôma đang phải điêu đứng vì những cuộc bách hại. Họ đang sống trong nỗi sợ hãi, giống như các môn đệ trong con thuyền vượt biển xưa. Đối với họ, Đức Kitô hình như đang ngủ. Việc Ngài “vắng mặt” rõ ràng trong những biến cố bi thảm họ đang sống, tạo cho họ thêm e dè sợ sệt! Chúa phải làm gì để giải thoát họ khỏi cảnh chết chóc đang rình rập” (Fiches dominicales, năm B, tr 207).

  1. b) Chúa vẫn có mặt ở đó.

Cơn sóng gió nổi lên dữ dội, các môn đệ bất lực, không chèo chống nổi, nước tràn vào đầy thuyền và sắp ngập, khi đó Đức Giêsu lại đang nằm ngủ ở đàng lái! Ngài ở chỗ quan trọng nhất vì số phận con thuyền tùy ở tay lái. Thế mà đang lúc khó khăn nguy hiểm tột độ, Ngài lại nằm ngủ.

Đối với Marcô, Ngài nằm ngủ như thế là hình ảnh về Thiên Chúa như nhắm mắt làm ngơ và ngủ say quên mất rằng loài người chúng ta sắp chết rồi, con thuyền Hội thánh đang sắp chìm và bản thân chúng ta sắp bị vùi giập trong nguy hiểm. Thái độ lạ lùng này khiến loài người phải đặt ra nhiều câu hỏi về vấn đề đau khổ và sự dữ: có Thiên Chúa hay không? Ngài không biết chúng ta đang đau khổ sao? Ngài bất lực hay đa đoan như người ta thường nói về “Con Tạo”?

Bài đọc 1 cũng đặt ra cho chúng ta một câu hỏi, giống như thời ông Gióp; chúng ta cũng tra hỏi, chất vấn, sửng sốt, đòi hỏi Chúa phải giải thích và trình bầy cho ra nhẽ! Tại sao vẫn xẩy ra những vụ tàn sát những người vô tội, những cảnh chém giết nhau không nương tay, những cuộc bách hại đẫm máu, những trận dịch kinh hoàng, những bất công chỉ biết kêu trời báo oán, những cảnh chết đói khiến phải đào mồ chôn tập thể?

Thật ra, đường lối sư phạm của Thiên Chúa rất huyền diệu, ta không hiểu nổi, nhưng dầu sao nó cũng nhằm giúp chúng ta tin tưởng rằng trong mọi nơi mọi lúc “Con thuyền Giáo hội lúc nào cũng bị sóng gió dập dồn” (theo Tertullianô), nhưng không sao, không bị chìm được vì luôn có Ngài ở đó, Ngài có vẻ ngủ nhưng thực ra Ngài vẫn thức để theo dõi chúng ta chèo chống và chờ đợi chúng ta kêu cầu Ngài giúp đỡ.

Theo nhận xét của chúng ta, dù có Đức Giêsu ở trong thuyền với các môn đệ thì bão tố vẫn xẩy ra. Vì thế, dù bão tố có chụp xuống chúng ta, điều đó không có nghĩa là Thiên Chúa đã bỏ rơi chúng ta. Nếu chúng ta có đức tin, chúng ta sẽ không nghi ngờ Ngài ở với chúng ta, và chúng ta sẽ hướng về Ngài để cầu xin và tin chắc rằng Ngài sẽ đến giúp đỡ.

Một ngày kia, viên lái đò chở hoàng đế César qua sông, thấy sóng cả đã ngã tay chèo, được hoàng đế phán ra một câu bất hủ:”Anh không biết là anh đang chở hoàng đế César sao”?

Một vị hoàng đế sẽ bất lực trước cơn cuồng phong dữ dội, thế mà dám nói những lời như thế. Thì huống hồ ở đây, không phải là vị vua trần thế mà là vua cả trên trời Ngài làm cho sóng gió bão táp phải lặng yên sao? Thánh vịnh đã nói:

Đổi phong ba thành gió thoảng nhẹ nhàng

Sóng đang gầm, bỗng im tiếng.

Họ vui mừng vì trời yên bể lặng

Và Chúa dẫn đưa về bến mong chờ.

(Tv 107, 29-30)

III. THÁI ĐỘ CỦA CHÚNG TA.

Câu chuyện trong bài Tin mừng hôm nay dạy chúng ta bài học: hãy tin cậy vào Chúa và cầu nguyện. Ai cũng thích sóng yên bể lặng, xuôi chèo mát mái. Nhưng cuộc đời nào mà chẳng có giông tố? Tuy nhiên, chính giông tố mới giúp chúng ta nhận ra chính mình: mình còn yếu đuối và bất lực, còn nhát đảm và kém tin. Cũng chính giông tố sẽ đưa ta đến với Chúa, để ta hoàn toàn phó thác cho sự quan phòng của Ngài. Cũng chính giông tố sẽ giúp chúng ta biểu lộ đức tin. Có thể nói, đức tin sẽ lớn lên ít nhiều sau mỗi lần giông tố. Khi đã biết con người hoàn toàn yếu đuối và bất lực thì chỉ còn biết trông cậy vào Chúa và xin Ngài đến cứu giúp, không phải chỉ cầu xin khi gặp hoạn nạn, nhưng phải tin Chúa và cầu xin Ngài mọi nơi mọi lúc trong lúc được bình yên.

Truyện: Cầu nguyện khi bình yên.

Có câu chuyện về một đại úy hải quân, khi về hưu làm thuyền trưởng trên một chiếc tầu đưa khách đến đảo Shetland tham quan trong ngày. Trong một chuyến đi chơi, tầu chở toàn thanh niên. Họ cười nhạo ông đại úy gìa khi thấy ông này cầu nguyện trước lúc ra khơi, bởi vì đó là một ngày trời đẹp và biển êm.

Nhưng biển không êm lâu khi một trận cuồng phong bất ngờ thổi tới và chiếc tầu bắt đầu chồm lên chồm xuống dữ dội. Các hành khách hoảng sợ chạy đến ông đại úy thuyền trưởng để yêu cầu ông cùng cầu nguyện với họ. Nhưng ông đáp:”Tôi đã cầu nguyện lúc trời êm bể lặng. Khi sóng gió nổi lên, tôi phải lo cho con tầu của tôi”.

Đó là một bài học cho chúng ta. Nếu chúng ta không thể hoặc không muốn tìm đến Thiên Chúa trong những lúc yên tĩnh của đời mình thì chúng ta có lẽ sẽ không tìm thấy Người khi cơn rối loạn chụp xuống. Có lẽ chúng ta hoảng sợ nhiều hơn. Nhưng nếu chúng ta đã biết tìm đến Người và phó thác nơi Người trong những lúc bình yên thì hầu như chắc chắn chúng ta sẽ tìm thấy Người khi sóng gió nổi lên (Flor McCarthy, Phụng vụ Chúa nhật B, tr 458).

Mỗi người chúng ta không khác gì chiếc thuyền nan chồng chềnh giữa biển trần gian đầy sóng gió bão táp, khó khăn nối tiếp khó khăn. Nếu chúng ta chỉ dựa vào sức mình hay dựa vào một quyền năng nào đó thì chúng ta sẽ thất bại. Ai có thể cứu chúng ta thoát khỏi sóng gió ba đào khi chiếc thuyền của chúng ta sắp chìm? Chỉ còn có Thiên Chúa. Ngài như người cha lái con tầu vững chắc trên biển cả, chúng ta là con chỉ biết tin tưởng vào quyền năng của người Cha trên trời.

Có Chúa trong đời, Ngài sẽ hướng dẫn cuộc đời của mỗi chúng ta. Lúc đó, những cô đơn như bị xóa nhòa, những khó khăn dường như nhỏ lại, những yếu đuối như được mạnh sức. Chúng ta không cầu xin cho cuộc đời mình như biển lặng, nhưng xin cho cõi lòng chúng ta được tĩnh lặng ngay giữa lúc biển động.

Truyện: Cha tôi câm lái tầu.

Một thi sĩ người Anh, ông Byron, có viết một câu chuyện như sau:

Hôm ấy, một con tầu đang rẽ sóng lướt đi trên mặt biển mênh mông. Bỗng chốc, bầu trời kéo mây đen đặc. Rồi giông tố ầm ầm nổi lên, sấm chớp kinh hoàng. Mưa càng lớn, gió càng mạnh. Các hành khách kêu la hỗn loạn. Duy có một em bé cứ ngồi chơi trên boong tầu như không có gì xẩy ra.

Lạ lùng, một thủy thủ giương to đôi mắt hỏi em:

– Em không sợ chết sao?

Cậu bé thản nhiên trả lời:

– Sao lại sợ? Chính ba cháu cầm lái con tầu này mà!

Câu chuyện trong bài Tin mừng hôm nay thách đố sự tin tưởng của chúng ta vào quyền năng của Thiên Chúa. Khi đã có đức tin, chúng ta không cần đứng ra chỉ huy mọi sự. Đã có Chúa Tình yều, Ngài sẽ làm tất cả.

 

34.Bão táp cuộc đời – Cố Lm. Hồng Phúc

Một phái đoàn quan khách đến thăm quan một trại cùi. Họ rất cảm phục vì thấy các nữ tu vui vẻ săn sóc cho bệnh nhân. Một người trong phái đoàn hỏi một chị: “Vì sao chị lại sống ở đây? Cho tôi một triệu tôi cũng không dám!” Người nữ tu trả lời: “Cho tôi hai triệu tôi cũng không ở. Sở dĩ tôi muốn ở đây và sống chết ở đây vì tình yêu Chúa Kitô thúc đẩy tôi.” Với giáo đoàn Côrintô, Thánh Phaolô cũng từng nói như vậy: “Lòng yêu mến Đức Kitô thúc bách tôi”. Từ ngày ngài được biết Chúa Kitô và cảm thấy tình thương của Chúa đến độ “hiến thân mình vì tôi” (Ga.2,20), Phaolô như bị đè nặng dưới khối tình yêu của Chúa. Từ trong thâm tâm, người nghe như có tiếng vọng lại: Hãy yêu mến Ta như Ta đã yêu mến ngươi. Hãy tiến lên nữa. Hãy để Ta dùng ngươi để yêu mến kẻ khác. “Chúa Kitô đã chết thay cho hết mọi người, để những ai đang sống không sống cho mình nữa, mà chỉ sống cho Đấng đã chết và sống lại vì ta.”

Đối với tất cả chúng ta, tình yêu Thiên Chúa cũng thúc bách và đè nặng như vậy.

Bài Phúc Âm hôm nay, dưới ngòi bút linh động của Marcô, là một bài phóng sự một cơn bão táp xảy ra trên mặt biển hồ Tiberiade hay có những cơn gió lốc về chiều do bầu khí bị dồn ép trong thung lũng sông Giordan. Sau khi giải tán đám đông, Chúa truyền cho các môn đệ chèo thuyền qua bên kia biển hồ. Ngài lên thuyền. Sau một ngày giảng dạy mệt nhọc, Ngài đến phía sau lái, dựa trên một chiếc gối và ngủ say. Một cơn gió lốc thổi đến, cuộn lên những ngọn sóng lớn làm cho thuyền đầy nước. Các môn đệ tay chống tay tát…, còn Ngài, Ngài vẫn ngủ. Các ông đến thức Ngài dậy: “Chúng con chết mất, Thầy không quan tâm sao?” Ngài bèn đe gió và phán với biển, như một người bị quỉ ám: “Hãy im đi!” Tức thì gió và biển lặng.

Tường thuật cơn bão táp im lặng có ý nghĩa gì? Đối với Chúa Giêsu, Ngài muốn dạy cho chúng ta phải có niềm trông cậy và phó thác nơi Chúa: “Sao các con sợ hãi? Các con không có đức tin ư?” Trong mọi hoàn cảnh, mọi hiểm nguy, chúng ta đều nằm trong bàn tay của Cha trên trời. Trong một hoàn cảnh tương tự, viên lái đò chở hoàng đế César qua sông, thấy sóng cả đã ngã tay chèo, được nghe một câu nói bất hủ: Anh không biết là anh đang chở vua César? Thì huống hồ ở đây, không phải là một vị vua trần thế mà là Vua Cả trên trời, “Ngài làm cho bão táp dừng yên phăng phắc, sóng biển yên lặng như tờ” (Tv. 107, 29).

Đối với nhiều người đã chứng kiến, vì Marcô nói: “Có nhiều thuyền khác theo”, thì đây là một phép lạ nói lên quyền năng của Chúa Giêsu, Đấng chỉ cần phán lên một lời thì gió yên biển lặng, Đấng có quyền trên vạn vật, là Đấng tạo thành vạn vật. Các Thánh Giáo phụ nhìn thấy ở đây tác động của hai bản tính của Chúa Giêsu. Thánh Gioan Kim-Khẩu nói: “Họ vừa nhìn thấy Ngài, dựa trên gối, ngủ say, đó là một con người, họ nhìn thấy Ngài bắt biển cả phải lặng yên, đó là vị Thiên Chúa.” Trong khi các nhà thần học minh giáo lại đề cao ý tưởng “con thuyền Giáo hội” giữa sóng gió ba đào (Tertullien). Chúa Kitô vẫn ở trong con thuyền Giáo hội cũng như Ngài ở trong tâm hồn chúng ta. Một hôm Bà Thánh Catarina Sienna phải chiến đấu mãnh liệt với chước cám dỗ, Bà kêu lên: “Lạy Chúa, trong khi con phải chống lại những ý tưởng nhuốc nha thì Chúa ở đâu? Chúa phán: Ta đang ở trong tâm hồn con, để hỗ trợ con và để chia sẻ sự toàn thắng của con.”

Lạy Thầy, xin cứu chúng con vì chúng con sắp chết mất!

 

35.Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?

(Trích trong ‘Tin Vui Xuân Lộc’)

Lời Chúa trong đoạn Tin Mừng hôm nay thánh Maccô thuật lại một hành trình trên biển để “sang bờ bên kia” của Chúa Giêsu và các môn đệ. Hành trình này được ví như hành trình đức tin của mỗi chúng ta. Hành trình trên biển gặp sóng gió là chuyện không lạ lắm đối với những người thường xuyên đi biển và sống bằng nghề biển như các môn đệ. Tuy nhiên, chiếc thuyền của Chúa Giêsu và các môn đệ hôm nay không gặp những con sóng ngọn gió hiền lành bình thường, mà là gặp “cuồng phong”… “sóng ập vào”… “thuyền đầy nước”… Các môn đệ lo lắng như “chết đến nơi rồi”, còn Chúa Giêsu thì “chẳng lo gì”… Các môn đệ kêu cầu đến Chúa và Chúa đã ra tay uy quyền, Chúa mắng các môn đệ “làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”

Chúng ta ngắm nhìn xem, tại sao Chúa Giêsu lại mắng các môn đệ chưa có lòng tin?

Qua trình thuật này chúng ta có thể hiểu rằng, giữa Chúa Giêsu và các môn đệ đã có một tương quan rất thân thiện với nhau rồi. Cùng làm việc và cùng thi hành sứ vụ chung với nhau. Tuy nhiên, chúng ta cũng dễ dàng cảm nghiệm rằng, dường như tương quan ấy chỉ mới có ở bề mặt bên ngoài, có nghĩa là các môn đệ mới chỉ gặp gỡ, gần gũi làm việc chung, mới tương quan trên bình diện công việc và cuộc sống, chứ các môn đệ chưa đi vào tương quan sâu, chưa hiểu hết Chúa như thế nào, quyền năng của Ngài ra sao?

Chúa mắng các môn đệ “chưa có đức tin” quả thật là phải lẽ, vì hành trình của các ông đang có Chúa đó, nhưng các ông chẳng ý thức về sự hiện diện đồng hành của Ngài, các ông không nhận biết quyền năng của Chúa, các ông cũng chẳng trông cậy vào Ngài… Sóng gió ập đến, các môn đệ mới sực nhớ đến Chúa, và rồi các ông vội trách Chúa “chẳng lo gì”.

Cuộc sống thường ngày của chúng ta dường như cũng thế, chúng ta ít khi ý thức sự hiện diện của Chúa, chúng ta thường đi với Chúa cách vô ý thức, coi như Chúa không biết gì, Chúa chẳng quan tâm. Đến lúc nguy khó mới nhớ chạy đến Chúa và kêu la rối rít. Thái độ sống này, chắc chắn sẽ bị Chúa mắng là “chưa có lòng tin”. Tuy nhiên, một thái độ ngược lại cũng đáng quan tâm. Cuộc sống đôi lúc chúng ta cũng rơi vào tâm trạng thất vọng nặng nề, chúng ta cũng chẳng còn nhớ đến Chúa, và quên rằng Ngài ở bên chúng ta và chờ chúng ta khiêm tốn lên tiếng kêu cầu Ngài. Thái độ chỉ kêu đến Chúa khi gặp khó khăn, hoặc là thất vọng đến quên cả Chúa mà lầm lũi bước đi đó là thái độ “chưa có lòng tin”.

Thánh Maccô thuật tiếp, sau khi các môn đệ kêu đến Chúa, tin tưởng vào quyền năng của Chúa, Chúa bắt đầu ra tay. Nhưng sau khi Chúa ra tay truyền sóng biển im lặng, thì các ông hoảng sợ và nói với nhau: “Vậy người này là ai…?”

Gặp sóng gió, các môn đệ hoảng sợ, không tin đủ vào Chúa. Sau khi Chúa tỏ quyền năng thì các ông lại thắc mắc “Ngài là ai?” Điều này chứng tỏ nền tảng đức tin của các môn đệ chưa vững chắc, đi bên Chúa, gặp gỡ Chúa nhưng không khao khát tìm biết Chúa là ai? Lẽ ra các ông phải tìm hiểu về Chúa, biết Chúa là ai khi bắt đầu cất bước theo Ngài! Còn nghi ngờ vào chính Thiên Chúa thì chắc chắn là chưa có lòng tin. Tin Chúa là phải học cho biết Ngài là ai và đi vào trong tương quan sâu để cảm nghiệm Ngài như ta đã được học biết. Tin vào Chúa là hiểu điều Chúa làm, mong điều Chúa muốn và phó thác cho Ngài cuộc sống của ta.

Sau phép lạ Chúa làm truyền sóng biển im lặng, chắc chắn các môn đệ phải tìm được câu trả lời Chúa là ai khi quan sát sự kiện và khi tương quan gần gũi song hành với Chúa. Vậy mà không hiểu sao các ông lại còn hoảng sợ và thắc mắc “ông này là ai?” Câu hỏi này chứng tỏ lòng tin của các ông chưa có và bị Chúa mắng thì cũng không oan uổng gì.

Bởi vì các môn đệ chưa có lòng tin, nên chưa ý thức sự hiện diện của Chúa. Chưa có niềm tin nên còn nghi ngờ “ông này là ai?”. Chưa có lòng tin nên còn dành quyền điều khiển và kiểm soát hành trình. Khi các môn đệ dành quyền kiểm soát và điều khiển hành trình đời mình, thì Chúa dành cho họ ưu tiên đó, Ngài nghỉ ngơi. Giả như chúng ta tin tưởng trao phó cho Chúa để Ngài điều khiển và an tâm nghỉ ngơi, thì chính lúc ấy Chúa sẽ giang tay ra hành động, Ngài chở che, bao bọc và cứu giúp.

Thái độ của những người “chưa có lòng tin” là thái độ của những người ưa thích đảo lộn tình thế, đứng vào vị trí điều khiển của Chúa, quên đi vai trò lệ thuộc của chính bản thân mình.

Có lòng tin là ý thức Chúa hiện diện trong mọi nẻo hành trình; Có lòng tin là trả lời xác tín với mọi người về chính Chúa, bằng sự cảm nghiệm của chính cá nhân mình; Có lòng tin là để Chúa điều khiển và kiểm soát cuộc sống của mình; Có lòng tin là khiêm tốn kêu xin khi gặp gian nan khốn khó.

Giờ đây, chúng ta khiêm tốn dâng lên Chúa lời nguyện xin ơn đức tin:

Lạy Chúa Giêsu,

Chúng con cám ơn Chúa vẫn hiện diện trong cuộc sống chúng con.

Xin cho chúng con tin vào quyền năng Chúa vẫn hiển trị trong cuộc đời chúng con.

Lạy Chúa, cuộc sống quanh chúng con có biết bao điều xảy đến.

Tất cả đều nằm dưới bàn tay tình thương quan phòng của Chúa.

Xin Chúa giúp chúng con biết cùng với vạn vật dâng lời ca khen quyền năng Chúa.

Xin giúp chúng con biết đón nhận ân ban của Chúa trong sự khiêm tốn thẳm sâu.

Xin dạy chúng con biết chạy đến với Chúa khi gặp những gian nan thử thách,

Xin giúp chúng con biết bám vào Chúa để đi qua những giông bão trong cuộc đời.

Lạy Chúa, Chúa luôn nâng đỡ những ai kêu cầu Chúa.

Chúng con xin phó dâng cuộc sống trong tình thương quan phòng của Chúa. Amen.

 

36.Sóng gió cuộc đời

(Suy niệm của Lm Anphong Trần Đức Phương)

Tôi đã được nghe một câu chuyện về Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII (1881-1963). Ngài chỉ ở trên ngôi vị Giáo Hoàng trong vòng 5 năm (1958-1963), nhưng được nhiều người sùng mộ. Sau khi Ngài qua đời, rất nhiều người đã đến viếng mộ của Ngài, đến nỗi di hài của Ngài đã được đưa từ hầm mộ lên trên nền Đền Thờ Thánh Phêrô để dễ dàng cho giáo dân kính viếng. Ngài có một niềm ưu tư đặc biệt về việc hiện đại hóa Giáo Hội. Ngài cũng luôn quan tâm về nền hòa bình thế giới. Một trong những thông điệp nổi tiếng của Ngài là Thông Điệp “Hòa Bình Trên Thế Giới” (Pacem in Terris), ra ngày 11-4-1963, trong đó Ngài kêu gọi mọi người có thành tâm thiện chí hãy chung tay xây dựng Hòa Bình và sự Công Chính trên thế giới, để “làm cho trái đất này trở nên nơi ở tốt đẹp hơn cho nhân loại!”(Lời kết Thông Điệp) Một đêm khi Ngài đang ngủ, Ngài chợt nghĩ đến bao nhiêu những điều cần phải thực hiện trong Giáo Hội. Ngài mong cho đến sáng để xin vào trình bày với Đức Giáo Hoàng về những việc cần phải làm ngay. Nhưng Ngài sực tỉnh và mới nhận ra chính Ngài đang là Giáo Hoàng! Lúc đó, Ngài cảm thấy hết sức sợ hãi! Nhưng như có tiếng Chúa nói với Ngài: “Giáo Hội là của Cha chứ không phải của con!” Bấy giờ Ngài mới lấy lại can đảm và cầu nguyện xin Chúa soi sáng cho Ngài biết phải làm gì để canh tân Giáo Hội. Rồi Ngài đã mở Đại Công Đồng Vatican II (1962-1965), mời các vị Hồng Y và Giám Mục từ các nơi trên thế giới trở về Rôma họp để cùng nhau đưa ra những ý kiến hiện đại hóa Giáo Hội.

Thánh Lễ Chúa Nhật hôm nay, trong Bài Phúc Âm (Mc 4, 35-41), chúng ta thấy các Thánh Tông Đồ đang chèo thuyền trên Biển Hồ Tibêriat trong đêm tối, thì sóng to gió lớn nổi lên, nước ùa vào trong thuyền đến nỗi thuyền sắp chìm, mà Chúa Giêsu cứ ‘ngủ yên’ trên mạn thuyền, như không biết gì cả. Các Tông Đồ phải đánh thức Chúa dậy: “Chúng con sắp chết đến nơi mà Thày không quan tâm đến sao?” Chúa Giêsu đã ‘thức dậy’ và làm phép lạ cho gió yên, biển lặng! Rồi Chúa trách các Tông Đồ: “Các con không có đức tin ư? Sao mà qúa sợ hãi như vậy!”

Trong cuộc đời mỗi người chúng ta, mỗi gia đình chúng ta có nhiều lúc cũng gặp “bão tố nổi lên” và chúng ta có cảm tưởng Chúa cứ ‘ngủ yên’ mà không thương cứu giúp chúng ta. Y như trong trường hợp khổ đau của ông Gióp trong Bài Đọc I (Gióp 38, 1.8-11). Nhưng ông Gióp đã luôn vững tin nơi Chúa, không phàn nàn, kêu trách; rồi Chúa đã làm cho sóng gió cuộc đời ông chấm dứt, và ban lại cho ông một cuộc sống tốt đẹp hơn. Trong Bài Đọc II (2Cr 5,14-17), Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: Vì thương yêu chúng ta, “Chúa Giêsu Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, nhưng Ngài đã sống lại!..”, đem lại cho chúng ta một niềm tin vững chắc vào tình thương của Chúa.

Là những tín hữu của Chúa, chúng ta hãy noi gương ông Gióp, luôn biết tin tưởng, phó thác nơi Chúa trong mọi biến cố xảy ra cho chúng ta, gia đình chúng ta, thế giới chúng ta và ngay trong Giáo Hội Chúa nữa; vì Chúa là Thiên Chúa toàn năng, và là Cha yêu thương của chúng ta. Trong Phúc Âm Chúa Giêsu cũng bảo chúng ta hãy luôn tin tưởng nơi sự quan phòng của Chúa là Cha luôn yêu thương chúng ta và lo lắng mọi điều cần thiết cho chúng ta. (Mt 6, 25-34)

Trong thế giới ngày nay, người ta thường thiếu niềm tin nơi Chúa, và vì thế dễ lo lắng, sợ hãi trước những biến cố đau thương xảy ra trong cuộc đời, và trở nên khủng hoảng tinh thần, bất mãn với cuộc đời, tâm trí bị căng thẳng, rồi suy nhược (depressed) và có những trường hợp đưa đến loạn trí, hành động điên rồ gây nên những tội ác khủng khiếp: như tự hủy chính mình, có khi giết hại mạng sống cả gia đình, có khi giết hại những người vô tội, như những cuộc bắn giết tại các trường học, tiệm ăn, sở làm và các trung tâm thương mại v.v…

Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta hãy cầu nguyện cho chúng ta được vững niềm tin phó thác nơi tình thương che chở của Chúa là Cha chúng ta. Xin cho chúng ta biết nhìn lên Thánh Giá Chúa để chấp nhận mọi đau khổ, thử thách xảy ra cho chúng ta, gia đình chúng ta. Chính những đau khổ, thử thách tôi luyện đức tin của chúng ta, làm cho đức tin của chúng ta trở nên vững chắc hơn. Đau khổ và thử thách cũng là những dịp để chúng ta được thông phần với sự đau khổ Chúa đã chịu để cứu chuộc chúng ta (Xin xem 1 Pr 1, 6-9; 2 Cr 4, 17-18; Rm 8,18).

“Anh em hãy phó thác mọi nỗi lo âu cho Chúa; vì Chúa luôn lo lắng cho anh em!” (1Pr 5,7).

“Hãy phó thác đường đời cho Chúa,

Người sẽ lo liệu mọi sự cho chúng ta!”

(TV 37).

“Tôi tin, tôi tin Chúa đã thương tôi, nên Người đã chết, chết vì tôi…

“Tôi tin Chúa vẫn thương tôi, cho dù đời tôi bao phen giông tố…”

(Bản Thánh ca “Tôi Tin” của Thành Tâm)

 

37.Tái tạo

(Suy niệm của Lm Vũ Đình Tường)

Để tái tạo vật mới từ vật cũ thì vật cũ cần phải tháo gỡ cho việc tái tạo. Hành động tháo gỡ mang í nghĩa chết và í nghĩa sống. Chết hiểu theo nghĩa từ nay hình dạng cũ thuộc về quá khứ, không còn nữa. Thay vào đó là hình dạng mới với đời sống mới. Thí dụ điển hình nhất là sau cơn hoả hoạn, cây cũ cháy rụi, chết đi nhường chỗ cho mầm non phát sinh.

Thiên tai tàn phá và tái tạo. Quan trọng hơn nữa thiên tai hi vọng giúp ta nhận biết thân phận nhỏ bẻ của con người. So với vũ trụ bao la con người nhỏ hơn hạt cát biển và tàn lụi nhanh hơn hạt sương trước ánh dương. Dù nhỏ bé như thế nhưng con người có tham vọng làm chủ tể của vũ trụ có trước con người nhiều tỉ năm. Tìm hiểu để biết hơn về vũ trụ là điều tốt nhưng tìm cách làm chủ, chối bỏ công trình sáng tạo của Thiên Chúa là việc hạt cát đòi làm chủ đại dương, sương sớm đòi làm chủ mặt trời.

Sóng gió trong đời là điều không thể tránh khỏi và khi chúng đến con người thường có hai chọn lựa. Người có đức tin mạnh mẽ thường chạy đến Chúa trong lời kinh. Khi bão tố đến họ bám chặt hơn vào Thiên Chúa, tìm an bình nơi Ngài. Đồng thời họ cũng tìm sự hỗ trợ của đồng loại. Các tông đồ khi gặp sóng gió các ông cũng vừa chèo chống vừa chạy đến cùng Đức Kitô và các ông kinh ngạc chỉ một lời phán bảo sóng gió im lặng nghe lời Ngài. Con người không có khả năng ra lệnh cho thiên tai. Con người chỉ có những nhà chuyên môn trong ngành có khả năng tiên đoán tai ương có thể sẽ xảy đến và chuẩn bị trước mong tránh càng nhiều thảm hại càng tốt. Con người chấp nhận khi các chuyên gia tiên đoán sai về thiên tai sẽ xảy đến nhưng khi Chúa không đáp đúng lởi chúng ta cầu xin chúng ta phàn nàn Chúa không thương con người. Vì sao lại có thái độ đó? Thưa vì chúng ta đặt í ta trên í Chúa.

Người có đức tin mạnh nơi Đức Kitô tin vào phép lạ và qua phép lạ giúp cho đức tin mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên khi không có phép lạ đức tin vẫn không yếu kém vì đức tin đặt nền tảng trên Đức Kitô, không phải dựa vào phép lạ để tin. Để có phép lạ cần có đức tin như thế đức tin phát sinh phép lạ, không phải phép lạ sinh ra đức tin. Trong Kinh Thánh Đức Kitô luôn khẳng định với người Ngài ban ơn: Đức tin con đã cứu con. Như thế Đức tin luôn đi trước, phép lạ theo sau.

Kitô hữu tin chúng ta sống nơi trần thế chỉ trong giai đoạn và khi đi trọn con đường chúng ta trở về với Chúa. Thời gian khi nào trở về không thuộc về khả năng con người nhưng do Chúa định đoạt. Kitô hữu mong sống hạnh phúc và sống lâu dài nơi trần gian nhưng Kitô hữu cũng biết rằng đó là í muốn của ta; ngoài í ta muốn còn có í Chúa mà ta luôn tôn trọngg và xin lắng nghe và chấp nhận như điều chúng ta tuyên xưng khi đọc kinh Lậy Cha.

Đức Kitô đón nhận sóng gió trong đời với môt niềm tin mãnh liệt nơi Chúa Cha và Ngài đã cảm thấy bình an trước sóng gió cuộc đời. Học từ Đức Kitô khi sóng gió đến chúng ta cũng xin ơn biết đặt trọn niềm tin vào Đức Kitô, xin ơn khôn ngoan biết xử thế trước sóng gió và nhận ra ý Chúa mặc khải qua biến cố cuộc đời.

 

38.Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái

  1. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Đồng bào chúng ta vẫn tin ở Ông Trời, coi Ông Trời là Đấng làm chủ gió mưa, thời tiết, mùa màng và nắm vận mạng của con người. Phần chúng ta, nhờ đức tin, chúng ta được biết Ông Trời ấy chỉ là một ý thức mơ hồ về Thiên Chúa. Chúng ta cảm tạ Thiên Chúa đã cho chúng ta được biết Ngài và chúng ta hãy cố gắng yêu mến thờ phượng Ngài cho xứng đáng, nhất là trong Thánh lễ này.

  1. Gợi ý sám hối

Thiên Chúa là chủ tể thiên nhiên. Đối với Ngài, chúng ta thường cầu xin ơn này ơn nọ, nhưng ít khi để ý tới việc thờ phượng Ngài.

Thiên Chúa là Đấng quan phòng chăm sóc mọi loài. Nhưng ít khi chúng ta trông cậy phó thác vào Ngài.

Ngày xưa, Đức Giêsu đã trách các môn đệ thiếu đức tin. Huống chi chúng ta, đức tin chúng ta cũng rất yếu kém.

III. Lời Chúa

  1. Bài đọc I (G 38,1.8-11)

Gióp là một người công chính nhưng phải gặp rất nhiều tai họa. Thân nhân ông trách móc Chúa và không tin vào Chúa nữa. Phần ông, ông không dám trách mà chỉ than thở và cầu xin Chúa cho ông một lời giải đáp về lý do những khổ sở ông đang chịu.

Trong trích đoạn này, Thiên Chúa đưa ra một lời giải đáp gián tiếp: Ngài là chủ tể của thiên nhiên. Chính Ngài điều hành sức mạnh của nước: Ngài tạo dựng ra nó, ấn định cho nó được chảy tới đâu, ngăn không cho nó tràn bờ…

Lời giải đáp hàm chứa trong Lời Chúa là: mọi sự lành hay sự dữ đều được Chúa cho phép mới xảy tới, con người phải biết phó thác vào sự sắp xếp của Ngài.

  1. Đáp ca (Tv 106)

Tv này là một bài ca tụng uy quyền Thiên Chúa trên biển cả.

  1. Tin Mừng (Mc 4,35-41)

Biển hồ Galilê thường có bão, nhất là vào buổi chiều. Chiều hôm ấy Đức Giêsu bảo các môn đệ dùng thuyền đi từ bờ bên này sang bờ bên kia. Xem ra Ngài cố ý để cho họ gặp bão.

Khi bão đến, Đức Giêsu lại bình thản dựa vào chiếc gối sau lái mà ngủ. Đây lại là một việc làm cố ý để thử xem các môn đệ phản ứng thế nào trong cơn bão.

Phản ứng của họ là “kinh hãi”, lại còn trách Chúa “Chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm sao!”

Đức Giêsu đứng lên, và chỉ cần phán một lời, bão liên ngưng. Một bằng chứng rõ ràng Ngài là chủ tể của thiên nhiên.

Sau đó, Đức Giêsu vừa trách các môn đệ vừa kêu gọi họ hãy tin vào uy quyền của Ngài.

  1. Bài đọc II (2 Cr 5,14-17)

Chúng ta có thể tóm tắt ý tưởng của Phaolô trong trích đoạn này là: Đức Giêsu Kitô là tất cả.

Sau đây là các chi tiết trong lập luận của thánh Phaolô:

Vì Đức Kitô đã chết thay cho chúng ta, nên đáp lại chúng ta phải sống cho Ngài chứ đừng sống cho mình nữa.

Chúng ta cũng chẳng cần biết ai khác ngoài một mình Đức Kitô.

Đức Kitô đã ban cho chúng ta một cuộc sống mới, vậy từ nay chúng ta phải bỏ hết những gì thuộc cuộc sống cũ để sống một cuộc sống hoàn toàn mới trong Đức Kitô.

  1. Gợi ý giảng

* 1. Chúa tể thiên nhiên

Bài đọc thứ I của Thánh Lễ hôm nay trích từ sách Gióp, trong đó có một hình ảnh hơi lạ: Chúa đã đóng cửa và gài chốt để ngăn không cho nước chảy tràn lan khắp mặt đất. Đó là một lối diễn tả, dựa theo vũ trụ quan của thời kỳ quyền sách này được biên soạn, tức thế kỷ thứ V trước Công nguyên, nghĩa là cách đây đến 2.500 năm. Thời đó người ta nghĩ rằng trái đất như một cái đĩa nổi bồng bềnh trên mặt đại dương. Chung quanh trái đất và bên dưới trái đất toàn là nước. Phía trên trái đất là vòm trời như một cái chụp tròn úp xuống, và cũng chứa đầy nước. Tất cả lượng nước trên vòm trời và dưới biển ấy được chặn lại bằng những cánh cửa. Khi cửa trời mở ra thì nước mưa rơi xuống; khi cửa biển mở ra thì nước thuỷ triều dân lên; còn khi cả cửa trời và cửa biển đều đóng kín lại trong một thời gian lâu dài thì đó là hạn hán. Và người giữ quyền đóng hay mở các cửa đó chính là Thiên Chúa. Đây quả là một lối nhìn vũ trụ rất là đơn sơ và có phần ngây ngô nữa. Tuy nhiên chúng ta có thể thông cảm với tác giả, vì ông sống cách chúng ta đến 2.500 năm, làm sao ông có thể diễn tả chính xác như các nhà khoa học thế kỷ 21 này được. Chúng ta chỉ cần ghi nhận tư tưởng của ông, đó là: chính Thiên Chúa là Đấng làm chủ thiên nhiên, và điều khiển thiên nhiên vận hành để giúp có thể sinh sống.

Có một điều hay, là tư tưởng ấy được chính các nhà khoa học ngày nay xác nhận. Mặc dù không trực tiếp nói đến Chúa như là Chúa tể thiên nhiên, nhưng các nhà khoa học đã cho thấy thiên nhiên đã vận hành theo một trật tự xít xao, nhờ đó mà loài người mới có thể sinh sống được. Thí dụ như trật tự vận hành của trái đất, mặt trời và mặt trăng. Cả 3 đều di chuyển không ngừng, mỗi cái theo quỹ đạo riêng của nó. Nhưng khoảng cách của chúng thì hình như đã được tính toán và điều khiển thật xít xao: chỉ cần mặt trời và trái đất gần nhau hơn một chút nữa thì trái đất sẽ nóng khủng khiếp, do đó loài người sẽ chết cháy; ngược lại chỉ cần trái đất và mặt trời xa nhau thêm một khoảng nữa thì mặt đất, sẽ giá lạnh, loài người sẽ chết cóng. Còn khoảng cách giữa mặt trăng với trái đất cũng thế: xích gần hơn chút nữa thì thuỷ triều sẽ dâng phủ ngập mặt đất, loài người chết chìm; còn dang xa hơn một chút thì không còn thuỷ triều, mọi loài trên mặt đất sẽ chết khô.

Ngay cả một hiện tượng thiên nhiên mà người ta thường coi là tai hoạ, đó là giông bão, nhưng khoa học cũng xem là có lợi. Khi nào có giông bão? Thưa là khi một vùng quá nóng, không khí bốc lên cao tạo thành một khoảng trống. Không khí ở các vùng khác liền ùa về để lấp đầy khoảng trống đó. Dĩ nhiên, khi mà không khí di chuyển như thế với một tốc độ nhanh thì sẽ tạo ra những luồng gió mạnh, có thể làm gãy cây cối, sập nhà, và có người chết. Nhưng nếu nhìn hiện tượng ấy một cách bao quát thì sẽ thấy giông bão là có lợi, và cần thiết nữa, vì nhờ đó mà không khí trên mặt đất được điều hoà.

Rõ ràng thiên nhiên đã được điều khiển theo một trật tự diệu kỳ bởi một Đấng đầy quyền năng. Đấng quyền năng ấy là ai? Nhiều người chưa được biết, nhưng từ xưa tác giả sách Gióp đã biết và gọi đó là Thiên Chúa. Hôm nay Tin mừng lại nói cho chúng ta biết thêm một lần nữa. Chúng ta hãy nói đến cơn giông bão trên biển hồ Gênêzarét. Vị trí của Biển hồ này hơi đặc biệt: nó giống như một cái lòng chão dưới thấp, chung quanh được bao bọc bởi những rặng núi. Như đã nói ở trên giông bão là do không khí di chuyển đổi vùng với một tốc độ nhanh mạnh. Vậy thì cái Biển Hồ này, do địa thế đặc biệt của nó nên nó rất thường gặp giông bão. Bởi vì khi những luồng gió mạnh thổi qua, gió bị núi ngăn chặn nên không lướt ngay đến vùng khác được., nhưng chạy vòng vòng giữa các rặng núi tạo thành những cơn lốc xoáy, và thế là có bão trên mặt biển. Tuy nhiên những cơn bão này cũng chóng tan. Hôm ấy, Đức Giêsu và các tông đồ đang di chuyển bằng thuyền trên mặt Biển Hồ thì gặp giông bão. Đức Giêsu vì đã nắm rõ bản chất của những cơn bão loại đó nên an tâm cứ nằm ngủ. Còn các tông đồ thì hoảng sợ cuống cuồng. Các ông còn trách móc Chúa “Thưa Thầy, chúng con chết đến nơi rồi mà Thầy không quan tâm sao?” Đức Giêsu bình tĩnh đứng dậy ra lệnh cho gió và biển, lập tức bão yên, biển lặng. Sau đó Chúa trách lại các tông đồ “Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?” Qua sự kiện này, Đức Giêsu muốn chứng tỏ rằng Ngài chính là chúa tể của thiên nhiên, và mời gọi chúng ta hãy tin vào Ngài.

Thế nào là tin vào Chúa là chúa tể thiên nhiên?

– Trước hết là đừng kiêu căng: có một số người có chút ít kiến thức về khoa học, hay có được một vài công trình khoa học ứng dụng trên thiên nhiên, rồi tưởng mình đã là giỏi lắm, đã hoàn toàn điều khiển được thiên nhiên, và từ đó tự coi mình là chúa tể, phủ nhận cả Thiên Chúa. Thực ra khoa học không tạo ra thiên nhiên, khoa học cũng không sửa đổi được những quy luật điều khiển thiên nhiên. Tất cả những gì mà khoa học có thể làm được chỉ là nghiên cứu thiên nhiên có sẵn, tìm hiểu những quy luật có sẵn trong thiên nhiên, rồi ứng dụng để mưu lợi ích cho loài người. Thí dụ như khoa học làm ra được một chiếc tàu chạy trên mặt biển, thì cũng nhờ dựa vào những quy luật thiên nhiên có sẵn, như luật về sức đẩy Archimède khiến cho thân tàu có thể nổi trên mặt nước, luật về sức đẩy của gió được ứng dụng để thổi những cánh buồm v.v. Có gì là ghê gớm lắm đâu? có gì mà đã lên mặt coi mình giỏi hơn cả Thiên Chúa? Có gì mà kiêu căng?

– Thứ hai là đừng mê tín dị đoan: nếu như người kiêu căng là người quá tự phụ vì những hiểu biết khoa học của mình đến nỗi phủ nhận vai trò của Chúa, thì người mê tín dị đoan là người vì không có những kiến thức cơ bản của khoa học và của giáo lý nên không đủ tin vào Chúa mà lại tin những điều nhảm nhí. Ngày xưa vì ngu dốt nên người ta nhìn đâu đâu cũng cho là có thần: như thần sấm sét, thần gió, thần lửa, thuỷ thần, hà bá… Còn ngày nay cũng có người coi các thứ bệnh tật như là do tà ma, do quỷ ám, do bị thư, bị bùa, bị ngãi… Thực ra bệnh tật là gì? Theo giáo lý, đó là thân phận tự nhiên của loài người kể từ sau tội nguyên tổ. Còn theo khoa học, bệnh là do cô thể suy yếu mà ra. Có bệnh thì phải chữa trị bằng vệ sinh, bằng y dược, chứ không phải chỉ cầu xin, khấn vái hay uống bùa uống ngãi mà hết được, vừa không hết bệnh, lại vừa phạm tội thiếu lòng tin vào Chúa.

– Điều thứ ba để tỏ lòng tin vào Chúa là Chúa tể thiên nhiên là an tâm vui sống dưới ánh mắt Chúa Quan phòng: Chúa đã tạo dựng muôn loài, Chúa còn tiếp tục chăm sóc cho muôn loài, trong đó đương nhiên và hơn hết là loài người chúng ta. Đức Giêsu đã phán “không một sợi tóc nào trên đầu chúng con rụng xuống mà không do ý của Chúa”. Vì thế cho dù sự đời có lúc suy, cuộc đời có lúc thăng lúc trầm, nhưng nếu ta biết mọi sự đều năm trong tay Chúa quan phòng thì chúng ta hãy an tâm phó thác đời mình cho Chúa, không có gì phải sợ hãi quá “Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?”

* 2. Quyền năng Thiên Chúa và phát minh khoa học.

Trong vài thế kỷ gần đây, loài người đã có nhiều phát minh khoa học rất to lớn:

Cuối thế kỷ 19, Lilienthal làm ra chiếc máy bay có 2 cánh rộng để lượn theo chiều gió. Sau đó Ader đã cải tiến cho chiếc máy bay chạy bằng động cơ.

Cũng trong thế kỷ 19 đó, Thomas Edison đã phát minh ra bóng đèn điện. Phát minh đó đã khiến cho người ta mừng rỡ và nhiều người đã coi ông như là Thần Ánh Sáng.

Đến thế kỷ 20, người ta đã bước lên cung trăng và còn đang tiếp tục đi đến các hành tinh khác.

Cách đây vài năm, người ta đã biết phương pháp “nhân bản” sinh vật (cloning), nghĩa là lấy một tế bào của một sinh vật rồi làm cho thụ tinh để sinh ra một hoặc nhiều sinh vật giống y sinh vật gốc.

Và hiện nay người ta đang giải mã bộ gien của người và các sinh vật. Kết quả này sẽ giúp trị được rất nhiều chứng bệnh nan y.

Những thành công to lớn ấy của khoa học đã khiến cho một số người nghĩ rằng loài người có thể làm được mọi sự, không cần đến Thiên Chúa nữa… Có kẻ còn cho rằng chẳng có Thiên Chúa nữa. Có đúng như vậy không?

– Xét kỹ những phát minh khoa học chúng ta sẽ nhận ra rằng loài người thực ra chẳng làm gì hơn là khám phá ra những quy luật có sẵn trong thiên nhiên và áp dụng những quy luật ấy để phục vụ cho đời sống. Chẳng hạn như những phát minh mà chúng ta vừa nói ở trên:

Chiếc máy bay: đây không phải là sáng kiến mới mẻ gì, mà chỉ là bắt chước khả năng của loài chim thôi.

Còn về dòng điện: cũng không phải là do con người sáng tạo ra. Điện đã có sẵn trong thiên nhiên từ khi mới có vũ trụ. Đến cuối thế kỷ 18, Benjamin Franklin mới khám phá ra nó có trong sấm sét. Về sau người ta mới đưa điện vào sử dụng trong nhiều việc.

Và việc người ta tạo ta những bào thai trong ống nghiệm cũng không phải là vượt quyền Chúa sáng tạo nên một con người. Người ta vẫn phải dùng đến những tế bào nam nữ có sẵn và cho kết hợp trong ống nghiệm thay vì kết hợp trong bụng mẹ thế thôi.

Tóm lại, Khoa học chỉ là bắt chước thiên nhiên, làm lại những gì mà thiên nhiên đã từng làm từ ngàn triệu năm trước. Do đó, nếu ai biết nhìn xa cho tới Đấng đã sáng tạo nên thiên nhiên thì người đó càng đi sâu vào khoa học chừng nào thì càng ngưỡng mộ Thiên Chúa bấy nhiêu. Chỉ có những kẻ thiển cận mới tưởng những khám phá ấy là do chính mình sáng tạo và phủ nhận quyền năng của Thiên Chúa. Chúng ta thấy có 2 thái độ nơi những nhà khoa học: một là thái độ khiêm tốn của một nhà thiên văn kia, ông nói “Tôi đã nhìn ra Thiên Chúa qua ống kính viễn vọng của tôi”; và một nhà du hành vũ trụ khác thì ngạo mạn tuyên bố “Tôi đã bay lên tận trời, nhìn khắp nơi mà chẳng thấy có Thiên Chúa đâu cả”. Hai thái độ khác nhau ấy xuất phát từ hai lối nhìn khác nhau: một nhìn xa và một nhìn gần; xuất phát từ hai tâm trạng khác nhau: một là khiêm tốn, hai là kiêu căng.

– Bài Tin mừng hôm nay giúp chúng ta xác định rõ ai là chủ thực sự của thiên nhiên: chỉ có Chúa mới là chủ thiên nhiên đích thực và đúng nghĩa. Con người chẳng làm gì hơn là khám phá những bí mật của thiên nhiên. Nếu có nói con người là chủ thiên nhiên thì chỉ là theo nghĩa con người được Thiên Chúa ban quyền quản lý thiên nhiên và ban cho những khả năng để khám phá những bí mật trong thiên nhiên ấy. Con người biết suy nghĩ chín chắn và khiêm nhường không thể nào phủ nhận vai trò của Thiên Chúa được. Con người chỉ khám phá những gì có sẵn thôi. Chừng nào con người không cần dùng tới những gì có sẵn ấy, chỉ nói một lời mà có được mọi sự (như Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay chỉ phán một lời thì gió liền yên, biển liền lặng) thì khi đó con người mới có quyền tuyên bố mình là chủ thực sự của thiên nhiên.

Chúng ta phải nhìn nhận rằng khoa học kỹ thuật ngày nay đang tiến những bước thật xa thật nhanh đến nỗi có thể khiến chúng ta say sưa khâm phục. Sự say sưa khâm phục ấy có thể giúp con người suy nghĩ xa hơn, tìm đến chính Đấng là tác giả của những việc kỳ diệu ấy trong thiên nhiên. Nhưng cũng sự say sưa khâm phục ấy có thể làm choáng mắt con người khiến con người chỉ thấy tài năng của mình mà ngạo mạn phủ nhận vai trò của Thiên Chúa.

– Cầu mong cho việc học hỏi tìm tòi không làm chúng ta xa Chúa nhưng khiến chúng ta càng tới gần Chúa hơn. Cầu mong cho việc học hỏi tìm tòi của chúng ta không biến chúng ta thành những kẻ kiêu căng, nhưng giúp các bạn càng khiêm nhường hơn, như lời của một danh nhân nọ “Càng học thì thấy mình càng dốt”.

* 3. Cha em là người cầm lái.

Trong một cuộc hải trình vượt Đại Tây Dương, khách du lịch đang thư thái ngắm cảnh hoàng hôn trên boong tàu.

Nơi tít mù xa, mặt trời đỏ cam đang chiếu những ánh vàng cuối cùng của một ngày còn sót lại.

Bỗng mây đen ùn ùn kéo tới, tối sầm cả một vùng trời. Sấm chớp đổ xuống liên hồi, giông tố cuồn cuộn nổi lên, càng lúc càng thét gào dữ dội.

Mọi người trên boong chen lấn nhau chạy về phòng mình. Duy chỉ có một bé trai cứ tiếp tục chạy giỡn trên boong giữa trận cuồng phong.

Được hỏi tại sao em không sợ hãi trước cơn giông tố?

Em thản nhiên đáp lại:

– Vì cha em là người cầm lái con tàu!

***

Giống như khách du lịch trong câu chuyện trên, các môn đệ cũng gặp một trận cuồng phong khi vượt biển. Các ngài kinh hoàng vì thấy mình sắp bị nuốt chững. Bó tay bất lực trước phong ba bão táp, các ngài đã vội đánh thức Đức Giêsu và xin Người ra tay cứu giúp: “Thưa Thầy, chúng con chết mất, Thầy không quan tâm sao” (Mc. 4,38). Người liền đe gió và phán với biển như một người bị quỉ ám: “Hãy im đi”. Tức thì sóng yên biển lặng.

Ai cũng thích sóng yên biển lặng, xuôi chèo mát mái. Nhưng cuộc đời nào mà chẳng có những cơn giông? Đại dương nào mà không có những bão tố?

Tuy nhiên, chính giông tố mới giúp chúng ta nhận ra chính mình: mình còn yếu đuối và bất lực, còn nhát đảm và kém tin.

Cũng chính giông tố sẽ đưa ta đến với Chúa, để ta hoàn toàn phó thác cho sự quan phòng của Người. Cũng chính giông tố sẽ giúp ta biểu lộ đức tin. Có thể nói, đức tin sẽ lớn lên ít nhiều sau mỗi lần giông tố.

Thánh Phaolô viết: “Thiên Chúa không ban cho ta một thần khí nhát sợ nhưng mạnh mẽ, bác ái và tự chủ” (2Tm.1,7),

Mỗi người chúng ta không khác chi chiếc thuyền nan chông chênh giữa cơn lốc cuộc đời, khó khăn nối tiếp khó khăn. Giống như cậu bé đã tin tưởng ở cha mình cầm lái con tàu, mỗi người chúng ta cũng hãy vững tin ở Thiên Chúa tình yêu. Người sẽ hướng dẫn cuộc đời của mỗi chúng ta. Có Chúa trong đời, những cô đơn như bị xóa nhòa, những khó khăn dường như nhỏ lại, những yếu đuối như được mạnh sức. Chúng ta không cầu xin cho cuộc đời mình như biển lặng, nhưng xin cho cõi lòng chúng ta được tĩnh lặng ngay giữa lúc biển động.

Thánh Phanxicô Salêsiô dạy: “Phải ở lại trong con thuyền mà Thiên Chúa đã đặt chúng ta vào, để hành trình từ cõi đời này về chốn đời sau. Chúng ta phải sẵn sàng ở lại trong sự bình an thanh thản”.

***

Lạy Chúa, thuyền đời chúng con chẳng bao giờ được êm ả, nó chỉ êm ả khi tới bến thiên đường. Xin cho lòng chúng con luôn bình an ngay cả khi Chúa còn đang ngủ, miễn là có Chúa trong thuyền, vì Chúa chính là thuyền trưởng của đời chúng con. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)

* 4. Vượt tầm kiểm soát

Chiều hôm ấy, Đức Giêsu và các môn đệ đi thuyền vượt biển. Một cơn bão nổi lên. Ban đầu, các môn đệ còn chèo chống và giữ được con thuyền vẫn còn đứng vững trước phong ba bão táp. Đó là tình trạng còn trong tầm kiểm soát. Khi mọi sự còn trong tầm kiểm soát nghĩa là chúng còn nằm trong khả năng xoay sở của ta. Khi đó ta rất dễ nghĩ rằng mình có đức tin. Lèo lái con thuyền đời mình cũng thế. Khi ta còn kiểm soát được những sự việc xảy ra cho đời mình thì ta cảm thấy hạnh phúc. Ta xác định những mục tiêu, ta hoạch định chương trình, ta làm chủ tình thế. Những khi đó, ta không thực sự cảm thấy cần đến Chúa.

Nhưng giông tố ngày càng lớn. Các môn đệ dù đã làm hết sức mình nhưng vẫn không giữ được con thuyền, nó sắp chìm. Các ông chợt nhận ra rằng tình thế đã vượt tầm kiểm soát của họ. Trong đời chúng ta cũng có những lúc tương tự như thế. Đó là khi ta gặp một hoàn cảnh quá khó khăn, hay khi ta bệnh nặng, ta sắp chết. Những khi đó ta thấy mình như không còn sức lực, ta hoang mang, sợ hãi. Chính những khi đó ta mới biết đức tin của mình còn quá yếu kém, thậm chí không có đức tin thực sự. Ta nghĩ rằng không có Chúa hoặc Chúa đã bỏ ta. Trong bài Tin Mừng này, các môn đệ cũng cảm thấy như thế. Họ chạy đến tìm Đức Giêsu nhưng họ thấy Ngài đang ngủ. Họ còn trách Ngài nữa.

Giữa phong ba bão táp, Đức Giêsu vẫn ngủ. Đó là dấu chỉ một đức tin vững mạnh vào Thiên Chúa. Ngược hẳn với đức tin yếu kém của các môn đệ. Khi họ kêu cầu Ngài, Ngài thức dậy, và chỉ một lời thôi, Ngài dẹp yên bão táp.

Con thuyền trong bão táp, đó là hình ảnh cuộc đời chúng ta. Nên nhớ là trong thuyền có Đức Giêsu. Mặc dù Ngài ngủ nhưng Ngài không ở xa và không bỏ chúng ta một mình. Ngài ngủ để thử đức tin của chúng ta đó thôi, để chúng ta biết được đức tin của mình đã vững mạnh hay vẫn còn yếu kém. Chỉ cần chúng ta nhớ đến Ngài, kêu xin Ngài thì Ngài sẵn sàng thức dậy và dẹp yên bão táp đang đe dọa chúng ta.

  1. Chuyện minh họa

a/ Câu chuyện của cây vả

Một cây vả kia đã đứng vững suốt mùa đông trước bao cơn gió mạnh. Nhưng đến đầu mùa hè, khi gặp một cơn gió trung bình thôi, nó đã ngã sập xuống. Nhiều người lấy làm lạ.

Thực ra cũng chẳng có gì lạ lắm: Trong mùa đông, cũng như hầu hết các cây khác, cây vả này bị rụng trụi lá. Gió đông có thổi đến thì cũng lọt qua các cành trơ trụi khẳng khiu của nó và bay đi. Bởi thế bao nhiều cơn gió mùa đông cũng không làm cho nó nhúc nhích. Nhưng đông tàn, xuân tới, cây vả bắt đầu đâm chồi nẩy lộc. Đến mùa hè thì cành lá đã xum xuê. Khi gió thổi đến, lá cây cản lại làm sức tấn công của gió càng mạnh hơn. Chính vì thế mà cây vả không còn đứng vững được nữa.

Câu chuyện này giúp ta hiểu thế nào là “giông tố mùa đông” và “giông tố mùa hè”. “Giông tố mùa hè” gây hại nhiều hơn “giông tố mùa đông”. “Mùa hè” nói đây là lúc cuộc đời ta đang đầy đủ, thoải mái, sung sướng.

b/ Loại máy bay đầu tiên

Ngày kia, tôi đang ngồi trong phòng, một con ruồi vo ve bay vào. Nó bay dập dờn và vù xuống ăn những thức ăn thừa….Nó làm bất cứ điều gì nó thích và bất cứ khi nào nó muốn.

Một con ruồi chỉ là một sinh vật. Nó hơn hẳn chiếc máy bay…. Nó cất cánh mà không cần chạy như máy bay. Nó đáp xuống ngay tức khắc. Nó không bao giờ rơi và không bao giờ đâm vào bất cứ vật gì hoặc gặp một tai nạn nào. Phi hành đoàn của nó không phải học cách lái hoặc kiểm tra. Nó không có những động cơ trục trặc hay hết nhiên liệu. Và hơn thế nữa: nó có thể sản xuất ra những chiếc máy bay tương tự mà chỉ cần một chút sức lực.

Thật khó có thể kiếm được một thiết bị điện tử hoặc động cơ nào sánh với tất cả những gì một con ruồi có thể làm.

Nó chỉ là một trong nhiều sinh vật của Chúa…..và cho ta thấy rằng có ai đó đã tạo ra nó.

c/ Điều huyền bí.

Một thanh niên đi du lịch tới một thành phố lớn. Đến một nhà thờ, cậu ngả mũ cung kính cúi chào. Thấy điều này, một hành khách vẻ trí thức bên cạnh cậu nhận định:

– Ồ, tôi biết bạn có đạo. Bạn học gì ở đó?

– Tôi học những điều huyền nhiệm của tôn giáo.

– Huyền nhiệm? Bạn không biết rằng chúng ta chẳng bao giờ tin những gì chúng ta không hiểu? Ít ra đó là nguyên tắc của tôi.

– Vậy anh hãy nói cho tôi biết tại sao ngón tay anh cử động khi anh ngoáy nó?”

– Nó cử động vì sự sống trong tôi làm nó cử động.

– Nhưng tại sao nó cử động?

– Vì tôi muốn thế.

– Tại sao tai của anh không cụp lại khi anh muốn?

Lúc đó cuộc đối thoại chấm dứt.

  1. Tin vào quyền năng Thiên Chúa

Một sinh viên y khoa người Tây Ban Nha đi viếng trung tâm hành hương kính Đức Mẹ tại Lộ Đức. Ở đại học Madrid, người sinh viên này đã từng nghe các giáo sư vô tín ngưỡng nói về Lộ Đức như xuất xứ của những thứ mê tín dị đoan vẫn còn được loan truyền đi nhiều nơi. Ba tháng ở Lộ Đức, anh muốn theo dõi việc làm của văn phòng xác minh các phép lạ xảy ra tại trung tâm này.

Vậy thời gian ba tháng ở Lộ Đức, người sinh viên này đã được chứng kiến ba phép lạ. Cả ba trường hợp đều có các bác sĩ vô thần theo dõi để xác minh tính đích thực của phép lạ.

hãy nghe người sinh viên này chia sẻ điều mắt thấy tai nghe về một trong ba phép lạ đó.

Tại Lộ Đức

“Hôm đó tôi đang ở tiền đường vương cung thánh đường Lộ Đức cùng với các chị của tôi hiện có đó chỉ mấy phút trước khi Kiệu Mình Thánh Chúa đi qua. Khi ấy một người đàn bà tuổi trung tuần đang đẩy chiếc xe lăn qua trước mắt chúng tôi. Một người chị tôi lưu ý chứng tôi khi nói “Kìa hãy coi cậu con trai đáng thương trên chiếc xe lăn!” Đó là một chàng trai chừng 20 tuổi bị bệnh bại liệt làm biến dạng. Mẹ của chàng khi ấy lần chuỗi to tiếng, lúc lúc lại thở dài thưa với Đức Mẹ “Lạy Đức Nữ Đồng Trinh, xin giúp đỡ chúng con!” Quả là một cảnh tượng cảm động gợi nhớ lại bệnh nhân xưa đã thưa với Đức Giêsu: “Lạy Chúa, xin cho con được sạch khỏi bệnh phong.” Người đàn bà đẩy xe lăn không muốn chậm trễ nhưng đã tới ngay chỗ những người đang chờ Đức Giám Mục rước Mình Thánh đi ngang qua.

Đã đến lúc Đức Giám Mục sắp ban phép lành Mình Thánh cho chàng thanh niên bại liệt. Khi ấy chàng thanh niên nhìn thẳng mặt nhật đựng Mình Thánh Chúa. Đó xem ra là cách anh biểu lộ niềm tin của anh. Thế rồi khi Đức Giám Mục ban phép lành với dấu thánh giá bao quát, cậu thanh niên bại liệt liền chỗi dậy, ra khỏi xe lăn, hoàn toàn khỏi bại liệt! Dân chúng liền hô to trong niềm vui: “Đó là một phép lạ! Đó là một phép lạ!”

Nhờ có giấy phép đặc biệt, tôi được chứng kiến những xác minh tiếp theo để thấy quả thật, Chúa đã chữa lành người thanh niên. Tôi không thể nào diễn tả hết được những điều tôi cảm nhận và tâm trạng tôi lúc đó. Tôi đến từ trường Y Khoa Đại Học Madrid, nơi có nhiều giáo sư vô tín (và nhiều vị nổi tiếng). Nhiều sinh viên bạn học tôi luôn nhạo báng các phép lạ. Và giờ đây, tôi được thấy tận mắt một phép lạ. Đây là một phép lạ do Đức Giêsu Thánh Thể thực hiện, cũng Đức Giêsu xưa đã từng chữa lành bao người bại liệt và bệnh nhân khác. Tôi nghiệm được một niềm vui lớn lao. Tôi có ấn tượng tôi được ở ngay bên cạnh Chúa. Khi ấy tôi cảm nhận sức mạnh vô song của Chúa và cảm thấy thế giới bao quanh tôi bỗng trở nên cực kỳ nhỏ bé. Tôi đã trở về Madrid, Tây Ban Nha. Những chồng sách, những bài học, những cuộc thí nghiệm tôi đã từng thực hiện với bao là hứng khởi nay không còn là sức nặng lôi kéo tôi nữa. Các bạn tôi hỏi tôi: “Điều gì đã xảy ra cho cậu trong niên học này vậy? Điều gì khiến cậu sững sờ?” Quả thật tôi bị sững sờ do kỷ niệm khiến tôi bị khuynh đảo mỗi ngày. Duy hình ảnh Mình Thánh Chúa được giơ lên để ban phép lành khiến cậu thanh niên bại liệt kia nhảy vọt ra khỏi chiếc xe lăn, hình ảnh ấy in sâu vào ký ức và vào trái tim tôi. Ba tháng sau đó tôi nhập Tập Viện Dòng Tên. Đó là ngày 15 tháng 1, 1927.”

Tại Nhật Bản

Chàng sinh viên ấy tên là Pedro Arrupe. Suốt đời chàng sẽ không bao giờ quên được phép lạ Chúa làm trước mắt anh. Được củng cố mạnh mẽ do phép lạ như dấu chỉ về quyền năng vô cùng của Thiên Chúa, anh sẽ không bao giờ lùi bước trên đường dấn thân phục vụ Người:

+ Bị trục xuất khỏi quê hương Tây Ban Nha ngày 13 tháng 02, 1932 cùng với tất cả các tu sĩ Dòng Tên.

+ Nhận thừa tác vụ Linh Mục ngày 30 tháng 7, 1936 tại Hà Lan.

+ Được phái đi truyền giáo tại Nhật Bản ngày 15 tháng 10, 1938

+ Phục vụ nạn nhân bom nguyên tử giáng trên Hiroshima ngày 6 tháng 8, 1945.

+ Được bầu làm Tổng Quyền thứ 29 Dòng Tên ngày 22 tháng 5, 1965 sau nhiều năm làm giám đốc Tập Sinh và làm giám tỉnh Dòng Tên ở Nhật.

Quả thật phép lạ xưa cũng như nay chỉ có ý nghĩa khi là dấu chỉ về Nước của Thiên Chúa như lời Đức Giêsu tuyên bố với người Pharisêu: “Nếu tôi dựa vào Thần Khí của Thiên Chúa mà trừ quỷ thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (Mt 12,28). Ai nhận ra dấu lạ Chúa làm cũng được thúc đẩy dấn thân hết mình để phục vụ Nước Thiên Chúa.

Câu chuyện phép lạ chàng thanh niên bại liệt được chữa lành tại Lộ Đức khiến chàng sinh viên Pedro Arrupe được hoán cải như thế nào trên con đường phục vụ Nước Chúa. Cuộc hoán cải ấy không thấm vào đâu so với cuộc hoán cải của Simon Phêrô và các bạn một khi nhận biết quyền năng của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Phục Sinh. Họ đã hy sinh cả mạng sống mình để phục vụ Nước Thiên Chúa. Họ đã thực sự trở nên giềng cột của Hội Thánh Chúa nhờ tin vào quyền năng của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu. (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)

  1. Lời nguyện cho mọi người

CT: Anh chị em thân mến

Trong niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa là chủ tể thiên nhiên, chúng ta hãy dâng lên Ngài những lời cầu xin của chúng ta:

  1. Hội Thánh có sứ mạng rao giảng cho mọi người nhận biết Thiên Chúa là chủ tể của thiên nhiên. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho nhân loại đón nhận lời rao giảng của Hội Thánh.
  2. Khoa học kỹ thuật ngày nay rất tiến bộ, phát minh ra nhiều điều kỳ diệu. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những phát minh đó không làm cho loài người kiêu căng chối bỏ Chúa, trái lại giúp loài người càng nhận biết và khâm phục Chúa hơn.
  3. Mặc dù y học đã tiến bộ rất nhiều, nhưng cũng đành phải bó tay trước cái chết, nghĩa là không thể làm cho con người thành bất tử được. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những người mang những chứng bệnh ngặt nghèo và nhất là những người hấp hối, để họ biết bình an phó thác mạng sống của mình trong tay Chúa.
  4. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta thực sự là một cộng đoàn đức tin, một cộng đoàn phượng tự, nghĩa là luôn tin tưởng vào Chúa và thờ phượng Chúa như chủ tể mọi loài.

CT: Lạy Đức Giêsu, ngày xưa Chúa đã trách các môn đệ rằng “Sao các con sợ hãy thế? Các con không có đức tin ư?”. Ngày nay cũng vì thiếu đức tin mà chúng con phải sợ hãi nhiều điều. Xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng con, để trong mọi hoàn cảnh chúng con biết hoàn toàn cậy dựa vào Chúa và phó thác trong tay Chúa. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.

  1. Trong Thánh lễ

Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta có một người Cha “ở trên trời”, nghĩa là một người Cha uy quyền, làm chủ mọi loài mọi vật. Chúng ta hãy tin tưởng cầu nguyện với Ngài.

Chúc bình an: Chúng ta hãy chúc cho nhau được bình an, bình an vì biết mình đang sống trong vòng tay yêu thương của Chúa.

VII. Giải tán

Cuộc sống ví như một cuộc đi thuyền giữa biển cả cuộc đời nhiều phong ba bão táp. Nhưng có Chúa trên thuyền thì mọi sự đều bình an. Chúng ta hãy trở lại cuộc sống với tâm tình trông cậy phó thác tất cả trong tay Chúa. Chúc anh chị em luôn bình an.

 

39.Lời kêu xin.

Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay cho chúng ta thấy các tông đồ đang ở vào một tình thế tuyệt vọng. Lời van xin của họ dường như bị sóng biển vùi lấp:

– Lạy Thầy, xin cứu chúng con.

Chúa Giêsu rất có thể lên tiếng trách cứ các ông:

– Bộ các con không hiểu rằng bao lâu Thầy còn ở với các con, thì không một tai ương hoạn nạn nào có thể xảy ra.

Thế nhưng lời van xin ấy lại rất bình thường và gần gũi với bản tính của chúng ta. Lời van xin xuất phát từ trái tim của một tạo vật nhỏ bé, như muốn xác quyết rằng: Vấn đề thật vô phương cứu chữa, chỉ mình Chúa mới có thể giúp đỡ.

Thế nhưng ngày hôm nay, liệu chúng ta có còn tìm thấy những lời van xin đầy tin tưởng và hy vọng như thế hay không? Nếu chúng ta hỏi những người lính chiến rằng: Vào những lúc nguy hiểm có bao giờ các bạn đã nghĩ tới Chúa và xin Ngài giúp đỡ hay không. Hầu như tất cả đều trả lời rằng không.

Nếu chúng ta hỏi những người lái xe rằng khi xảy ra tai nạn có bao giờ các bạn nghĩ tới đời sau và xin Chúa phù trợ hay không. Hầu như tất cả đều trả lời rằng không.

Chiếc tàu Dora với một ngàn bảy trăm hành khách, chẳng may gặp nạn và chìm dần xuống biển, người ta đã ghi nhận được một cảnh tượng thật trái ngược trong thời điểm hoảng hốt đó. Các cô thì lo giữ lấy đôi giày của mình. Các bà thì lo giữ lấy những bộ áo của mình. Các ông thì lo giữ lấy ví tiền của mình. Chỉ có một em bé năm tuổi là đã quỳ gối cầu nguyện.

Ngay cả bản thân chúng ta cũng thế. Mỗi khi gặp phải tai ương hoạn nạn, chúng ta vùng vẫy, chúng ta kêu gào, chúng ta làm mọi cách để thoát khỏi tai ương hoạn nạn ấy, nhưng lại không biết mở miệng kêu xin:

– Lạy Chúa, xin Chúa cứu giúp con kẻo con chết mất. Chỉ mình Chúa mới có thể bảo đảm cho con được an toàn.

Chúng ta cũng giống như dân ngoại. Chẳng tìm thấy hướng đi cũng như ánh sáng cho cuộc đời chúng ta. Ngày xưa mỗi khi mất mùa đói kém giặc giã xảy ra, người ta kêu cầu Chúa:

– Lạy Chúa xin giúp đỡ con.

Người ta tổ chức những cuộc rước kiệu, những cuộc hành hương để kêu cầu Chúa. Còn chúng ta ngày hôm nay thì sao?

Ngày hôm nay, người ta có rất nhiều phương tiện, chẳng hạn như thuốc trụ sinh, công ty bảo bảo hiểm, và người ta cảm thấy không còn cần đến sự trợ giúp của Chúa nữa. Và tệ hơn nữa, người ta muốn trục xuất Thiên Chúa ra khỏi những sinh hoạt cá nhân và xã hội. Người ta muốn thay trời vắt đất làm mưa. Người ta sống như không còn sự hiện diện của Ngài nữa.

Từ những điều vừa trình bày chúng ta đi tới kết luận: Bao lâu Chúa Giêsu còn ở trong chúng ta thì không một tai nạn nào có thể xảy ra. Tuy nhiên con người thời nay lại không hiểu là như thế. Do đó, vấn đề cần phải đặt ra cho mỗi người, đó là Chúa Giêsu có thực ở trong thuyền đời chúng ta hay không. Tôi đã phản ứng và hành động như thế nào trong những hoàn cảnh đen tối. Tôi có biết hướng tới Chúa và xin Ngài giúp đỡ hay không? Đó là những câu hỏi mà mỗi người chúng ta phải tự tìm lấy lời giải đáp.

 

40.Tin cậy Thiên Chúa toàn năng

MINH HỌA LỜI CHÚA

  1. Bám sát vào Chúa

Blondin là một tay xiếc nổi danh. Ông đi nhiều lần trên sợi dây căng qua thác Niagara độ cao khoảng 500 thước, tay đẩy chiếc xe cút kít.

Ngày nọ ông mời ai dám ngồi trên xe đó, để ông đẩy qua sợi dây căng. Nhiều người muốn nhưng không ai dám, vì sợ té xuống thác nước là chết. Sau cùng có người chấp nhận. Ông liền cho anh ngồi trên xe và đẩy đi. Trong khi đó nhiều người đánh cá với nhau. Thấy ông ta đi được nửa đường cách dễ dàng, người đánh cá nhiều tiền sợ bị thua nên lén cắt đức một sợi trong số các dây căng. Tức thì dây căng rung chuyển dữ dội. Ông Blondin biết nguy hiểm sắp đến, nên bảo người trong xe:

– Hãy đứng dậy và bám sát vào tôi.

Nhưng người đó quá sợ hãi, không dám làm theo lời ông. Ông liền ra lệnh:

– Hãy đưa hai tay ôm cổ tôi, hai chân kẹp vào hông tôi, bằng không, chúng ta sẽ ngã xuống thác nước mà chết.

Người đó liền bám chặt vào ông. Và ông đã đưa anh ta qua bờ bên kia an toàn…

***

Câu chuyện trên minh họa Lời Chúa trong Tin mừng hôm nay tuyệt vời. Lúc các tông đồ trên thuyền sang biển hồ, thấy sóng to gió lớn thì sợ chết, kêu cầu Chúa, Chúa phán một lời biển yên gió lặng.

Tin cậy vào quyền năng Chúa là bám sát vào Chúa mỗi khi gặp gian nan thử thách. Tin cậy vào quyền năng Chúa là biết kêu cầu Chúa cứu giúp mỗi lần gặp sóng to gió lớn, để Người dẫn dắt chúng ta qua bờ bên kia.

Nói “tin cậy vào quyền năng Chúa” rất dễ, ai nói cũng được. Nhưng có mấy ai không nhát đảm sợ sệt khi để cho Người đưa qua biển cả sóng to gió lớn của cuộc sống như người để cho ông Blondin dẫn đi trên sợi dây căng qua thác Niagara. Chúa Giêsu đã trách các môn đệ: “Sao nhát thế? Làm sao mà anh em chưa có lòng tin?” Các môn đệ hoảng sợ vì “chưa có lòng tin”, còn chúng ta thì sao?… (Theo “Chuyện hay ý đẹp”).

  1. Cha tôi là người cầm lái

Người ta tổ chức cuộc du lịch xuyên qua Đại tây Dương.

Trong lúc tàu chạy yên hàn, mọi người ra bong tàu khoan khoái nhìn ngắm cảnh hoàng hôn tươi thắm. Bỗng sóng to gió lớn nổi lên làm cho chiếc tàu nghiêng ngửa dữ dội. Mọi người hoảng sợ chạy vào phòng, duy chỉ còn một cậu trai vẫn tiếp tục ở lại xem cảnh. Thấy vậy, nhiều người lo sợ nguy hiểm cho em, nên gọi em vào phòng trú ẩn, nhưng em không vào. Được hỏi tại sao em không sợ hãi trước cơn giông tố hãi hùng như thế. Em thản nhiên trả lời:

– Vì cha tôi là người cầm lái con tàu.

***

Như khách du lịch sợ hãi trên tàu khi phong ba bão táp, trong Tin mừng hôm nay chúng ta cũng thấy các tông đồ khiếp đảm sợ chết trong trận cuồng phong khi vượt biển hồ. Cùng ở trong thảm cảnh đó, cậu trai thản nhiên không sợ, vì “cha em là người cầm lái con tàu, còn các Tông đồ khiếp vía, đang khi có Chúa Giêsu ở bên các ông. Thế nên Chúa quở các ông: “Chưa có lòng tin” là đáng.

“Ai cũng thích sóng biển yên lặng, xuôi chèo mát mái. Nhưng cuộc đời nào mà chẳng có những cơn giông tố? Đại dương nào mà chẳng có những cơn sóng to? Chính giông tố mới giúp chúng ta nhận biết bất lực yếu đuối, nhát đảm kém tin của chúng ta. Chính bão tố mới đưa chúng ta đến với Chúa, tin tưởng phó thác vào quyền năng cao cả của Người. Và chính nhờ bão tố của cuộc đời, mà lòng tin cậy của chúng ta sẽ lớn lên, sẽ vững vàng, sẽ kiên cố…” (Theo “Như Thầy đã yêu”).

  1. Tin nhưng không dám theo

Nhà làm xiếc thời danh Blondin đã băng qua thác nước Niagara trên dây căng nhiều lần mà không cần dùng lưới an toàn.

Ngày nọ, đông đảo dân chúng đến xem cuộc thử nghiệm nguy hiểm nhất của ông. Ông tuyên bố vừa đi trên dây căng vừa đẩy chiếc xe cút kít chở một bao xi măng nặng trên sợi dây căng đó, để đi từ bờ vực này sang bờ vực bên kia thác nước.

Lúc ông bắt đầu đi như thế, mọi người nín thở theo dõi nhưng ông cứ bình tĩnh đẩy xe đi, bất chấp tiếng gầm thét của thác nước dưới chân ông. Khi ông sang đến bờ bên kia, mọi người đều thở phào và reo vang:

-Thật là một kỳ công!…

Ông Blondin mới hỏi một phóng viên gần đó:

-Anh có tin rằng: thay vì chở một bao xi măng, tôi có thể chở một người trên xe cút kít này, đi sang bờ bên kia thác nước mà không cần giăng lưới an toàn không?

-Tôi tin! Tôi tin chớ.

Ông Blondin liền nói:

-Vậy tôi xin mời anh ngồi vào.

Anh phóng viên xanh mặt, vội vàng biến mất trong đám đông.

***

Tin Thiên Chúa quyền năng là một việc, nhưng sống đức tin ấy lại là việc khác. Có người nói tin Thiên Chúa toàn năng nhưng không đi theo Chúa, mà theo ma quỷ xác thịt thế gian, theo của cải danh vọng, lạc thú ở đời.

Thánh Phaolô khuyên bảo chúng ta: Anh em hãy mặc lấy tâm tình của Đức Kitô, hết lòng tin kính Thiên Chúa là Đấng toàn năng, để anh em đứng vững trong mọi nghịch cảnh và thử thách, để Người cứu giúp anh em mỗi khi gian nan khốn khó, để Người đưa tay hùng mạnh của Người nắm lấy anh em, khi anh em gặp sóng to gió lớn trong cuộc đời.

Phải chăng thánh Phaolô mời gọi chúng ta noi gương các tông đồ trong Tin mừng hôm nay? Các ông thấy “trận cuồng phong nổi lên sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước gần chìm”. Các ông kêu lên Chúa Giêsu: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi” Người ngâm đe gió và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi!”. Gió liền tắt và biển lặng như tờ” (Mc.4,38-39) (Theo “Chuyện hay ý đẹp”).

  1. Người này là ai?

John Newton là thuyền trưởng chiếc tàu buôn nô lệ từ Phi châu đến Mỹ châu. Cậu không bao giờ nghĩ đến việc buôn bán nô lệ là đúng hay sai, là tốt hay xấu; cậu chỉ làm việc để kiếm tiền, để xài phí cho thỏa thích thôi.

Một đêm nọ, cơn bão dữ dội xuất hiện trên mặt biển. Sóng dâng cao như thác núi xô đẩy và quay vòng chiếc tàu của cậu. Cậu và mọi người trong tàu đều kinh khiếp! Lúc đó cậu lại buột miệng cầu xin. Điều mà cậu chưa bao giờ làm. Cậu kêu to: “Lạy Chúa, xin thương cứu vớt chúng con. Con nguyện sẽ mãi làm nô lệ cho Ngài”.

Chúa đã nhận lời cậu cầu xin. Khi được vào bờ, cậu đã giữ lời hứa: bỏ nghề buôn bán nô lệ, và sau đó cậu đi tu, trở thành nhà truyền giáo và soạn thánh ca trứ danh.

***

Câu chuyện trên đây có nhiều điểm tương tự với diễn biến bài Tin mừng hôm nay.

Như Newton, các tông đồ cũng gặp bão tố dữ dội. Các ngài đã kêu cầu Chúa và Chúa cũng đã cứu giúp; và như Newton, các ngài cũng biến đổi: từ những kẻ “chưa có lòng tin” trở thành những người hoàn toàn tin tưởng phó thác vào quyền năng vô cùng của Chúa; “Các ông hoảng sợ và nói với nhau: Vậy người này là ai? Mà cả đến gió và biển cũng phải tuân lệnh?” (Mc.4,41).

“Người này là ai?” Đây là câu hỏi quan trong. Và câu trả lời nằm ngay trong bài đọc thứ nhất, khi ông Gióp đau khổ kêu xin Chúa cứu giúp. Đặc biệt câu trả lời ở trong bài Tin mừng hôm nay, khi Chúa Giêsu thực thi quyền năng của Người trên sóng gió: “Im đi! Câm đi! Gió liền tắt, và biển lặng như tờ”.

Như thế, câu chuyện bão biển trong Tin mừng đã trả lời cho chúng ta câu hỏi: “Ông này là ai?” “Là Con Thiên Chúa toàn năng. Tin cậy phó thác vào Người sẽ được Người giải thoát khỏi mọi sự dữ phần hồn phần xác”. (Theo “Sunday Homilies”).

 

41.Muốn có đức tin mạnh – Cần phải thử thách

(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)

Tin Mừng Lc 1: 57-66.80: Người tài là người được lớn lên trong thử thách. Người có đức là người biết vượt qua thử thách, trung thành và can đảm trong lòng mến.

Có một câu chuyện kể rằng: đêm nọ, có một người thấy giấc mơ lạ. Anh ta thấy mình đang đi trên bãi biển với Chúa. Những lúc vui, thành công, anh thấy có hai đôi chân in trên cát, một của Chúa và một của anh. Nhưng lúc anh gặp khó khăn, đau buồn thì khi nhìn lại, anh chỉ còn thấy một đôi chân!

Anh trách Chúa rằng: “Tại sao những lúc khó khăn, thất bại, Chúa lại bỏ con?” Chúa trả lời: “Ta không bỏ con đâu, vì những lúc đó, Ta đã cõng con trên vai, vì thế, con chỉ còn thấy có một đôi chân của Ta nữa mà thôi”.

Hôm nay, thánh sử Máccô thuật lại câu chuyện Đức Giêsu và các môn đệ gặp phải sóng gió trên biển hồ. Ngay trong lúc gặp sóng gió, Đức Giêsu vẫn ngủ yên, còn các môn đệ thì vất vả vì chèo trống. Sứ điệp Tin Mừng chỉ bắt đầu có ý nghĩa lớn khi các ông trách Thầy của mình vô cảm trước sự vất vả của các ông, và, ngược lại, Đức Giêsu quở trách các ông kém lòng tin và ra lệnh dẹp yên bão tố, ban lại sự bình an cho mọi người trên thuyền.

  1. Địa lý của Biển Hồ Galilê và nỗi hoang mang sợ hãi của các môn đệ

Để thấy được nỗi sợ hãi của các môn đệ và quyền năng của Đức Giêsu, chúng ta cùng nhau tìm hiểu đôi nét về Biển Hồ này để thấy được đâu là nguyên nhân dẫn đến trận cuồng phong dữ dội như vậy.

Khi nói đến biển hồ, chắc có lẽ nhiều người trong chúng ta nghĩ ngay đến độ rộng lớn, mênh mông, nhìn không thấy bờ…. Tuy nhiên, với Biển Hồ Galilê lại hoàn toàn khác! Khác ở chỗ Biển Hồ này chỉ vỏn vẹn 21km chiều dài và 13km chiều rộng. Địa thế nằm ở thung lũng vùng Giodan do một vết nứt sâu trên mặt đất, có thể do núi lửa tạo nên! Biển Hồ Galilê là một phần của vết nứt đó.

Nó thấp hơn mặt biển 210 mét, vì thế, khí hậu rất ấm áp và dễ chịu, nhưng cũng tạo nên tiền đề cho những nguy hiểm bất ngờ ập đến. Lý do: bên phía tây có núi non cao hiểm trở kết hợp với thung lũng và nhiều khe suối. Vì thế, khi có gió nổi lên, thì khu vực trũng của Biển Hồ này giống như cái phễu lớn thu hút những làn gió từ trên cao và nơi các khe suối thổi về. Gió bị dồn nén trong đó và thổi mạnh xuống hồ cách bất thình lình như vũ bão, khiến mặt hồ đang phẳng lặng, bỗng chốc trở nên hung thần, dữ tợn và có thể vùi lấp mọi thứ trên mặt hồ.

Khi các môn đệ và Đức Giêsu có một chuyến vận hành trên Biển Hồ Galilê sau một ngày làm việc mệt nhọc để sang bờ bên kia thì cũng là lúc trận cuồng phong ập tới. Các môn đệ của Đức Giêsu là những nhà ngư phủ chuyên nghiệp và hẳn các ông có rất nhiều kinh nghiệm trong việc chống chọi với những bất trắc xảy ra trên biển, thế nhưng, trận cuồng phong hôm nay vừa bất thình lình vừa vượt quá khả năng của các ông, nên họ rất hốt hoảng, lo sợ và kêu la ầm ĩ: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?” (Mc 4, 38). Câu nói này chứng tỏ cho thấy sự nguy hiểm đã lên tới tột độ và vượt sức cũng như kinh nghiệm của các ông. Ngay sau đó, sự nguy hiểm của Biển Hồ và nỗi lo sợ của các ông đã động đến lòng trắc ẩn của Đức Giêsu, vì thế, Ngài đã truyền lệnh dẹp yên bão tố qua lời nói: “Im đi! Câm đi! ” ‘Gió liền tắt, và biển lặng như tờ’” (Mc 4, 39), khiến các ông không khỏi ngỡ ngàng là bảo nhau: “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?” (Mc 4, 41).

  1. Có Chúa, chúng ta sẽ sang “bờ bên kia” cách an toàn

Từ câu chuyện Tin Mừng trên, liên tưởng đến đời sống đức tin của chúng ta:

Trong cuộc sống đời thường, người ta thường nói: tư cách thật của một con người chỉ được bộc lộ thật khi gặp gian nan. Lúc bình thường thì ai cũng như ai, khó thấy được tư cách ấy.

Đức tin của mỗi người cũng thế. Muốn biết ai vững vàng trong đức tin phải đợi tới lúc đức tin đó chịu thử thách. Điều này cho thấy, “lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Chỉ khi gặp khó khăn, bất trắc, lúc ấy mới có thể lượng định được phẩm chất của đức tin.

Khó khăn, trở ngại là một thứ “kiểm tra chất lượng”. Có kiểm tra thì mới thấy cái gì tốt, cái gì xấu, cái gì thật, cái gì giả.

Một mẫu số chung cho nhiều người, đó là: đức tin phải được rèn luyện, gọt giũa để đứng vững trước mọi thử thách, giông tố của cuộc đời. Khi có được nền tảng này, lúc gặp thử thách, chúng ta sẽ can đảm, trung thành, vững vàng hơn. Sẵn sàng đối phó với chúng và cậy trông vào Chúa Quan Phòng. Lúc đó, chúng ta sẽ coi những thử thách ập đến là điều kiện cần thiết để thanh lọc những thứ không phù hợp với giá trị Tin Mừng, nó giống như: “Bão tố quật ngã cây cối, bẻ gẫy cành khô, cành sâu. Nhưng không thể nhổ được cây thánh giá đã cắm vào lòng đất. Đừng tiếc những cành kia, dù không gió cũng gẫy, không gẫy cũng phải chặt vì nó làm hại” (ĐHV. số 691), có thế, mới có những cành cây khác trưởng thành hơn khi chúng đủ sức mạnh đâm trồi nảy lộc.

Từ những nguyên lý trên, chúng ta liên tưởng đến đời sống hôn nhân của người Công Giáo. Lúc mới cưới, ai dám nói là mình không chung thủy! Lúc du ngoạn tuần trăng mật, ai dám bảo mình không vui và hạnh phúc! Chỉ khi nào ốm đau, bệnh tật, thất bại trong công việc, thiếu sự chung thủy, lúc đó mới thực sự có vấn đề! Hay trong đời sống đạo đức cũng thế: lúc xin gì được đấy, hay xin một được mười, đâu cần ai phải nhắc đi lễ, đọc kinh hay chia sẻ bác ái! Chỉ khi xin hoài không được, làm ăn thất bát, lúc đó có đẩy cũng không đi. Hoặc trong đời tu cũng thế: mới khấn, mới chịu chức, sức khỏe dồi dào, chúng ta giống như những vị thánh. Tuy nhiên, lâu ngày, giá trị và ý nghĩa đời dâng hiến bị nhạt phai, sự hiểu lầm, cô đơn, đau bệnh, việc phụng vụ nhàm chán, lúc ấy mới thực sự thấy con người thật của chúng ta. Những trạng thái này, một lần nữa sách Đường Hy Vọng có viết: “Đường con đi, có hoa thơm, cảnh đẹp, có chông gai, có hùm beo, có bạn hiền, có trộm cướp, lúc mưa sa, lúc nắng cháy, chuyện không thể tránh được. Con cứ đi, miễn lòng con đầy Chúa, đi như Phanxicô, như Cyrillô, Athanasiô… đừng mất thì giờ đứng lại, đừng sợ tiếng chửi, đừng ăn mày tiếng khen” (ĐHV. số 693).

Nếu không bền chí cũng như đức tin mạnh thì không phải là người tài đức song toàn. Người tài là người được lớn lên trong thử thách. Người có đức là người biết vượt qua thử thách, trung thành và can đảm trong lòng mến.

Giuđa và Gioan chỉ khác nhau ở lòng mến mà thôi. Trong tâm hồn chúng ta cũng vẫn còn đó hai hình ảnh và hai lối sống lẫn lộn: Gioan và Giuđa. Bao lâu chúng ta còn yêu mến, sẵn sàng hy sinh, kiên trung, bền chí, và hy vọng, ấy là dấu chỉ ta theo Gioan để đi trọn con đường tình yêu dưới chân thập giá. Còn giờ phút nào chúng ta nhát đảm, sợ sệt, ham tiền, ham danh, ấy là lúc chúng ta đã chọn Giuđa làm quan thầy và thắp hương tôn thờ vị “quan thầy phản bội”.

Cần xác tín rằng: Chúa vẫn còn đó. Ngài không bỏ chúng ta. Ngài sẽ lên tiếng, can thiệp, làm sóng gió im lặng, trả lại cho chúng ta niềm hy vọng, qua đó, ta và Ngài, cả hai cùng “sang bờ bên kia” được trọn vẹn trong bình an.

Lạy Chúa Giêsu, con thuyền của cuộc đời chúng con luôn gặp phải những sóng to vũ bão của tội lỗi, hưởng thụ, trụy lạc và những chân lý nửa vời, khiến đôi khi cuộc đời chúng con bị nước ập đầy thuyền làm cho đức tin bị lung lay và tưởng mình đơn côi giữa dòng đời. Xin Chúa ban cho chúng con đức tin mạnh mẽ và xác tín chắc chắn rằng: Chúa luôn còn đó trên con thuyền cuộc đời của mỗi người, để chúng con vững tin bám chặt lấy Chúa. Amen.

 

42.Thầy không lo sao?

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

Các môn đệ gặp trận cuồng phong khi vượt biển. Họ kinh hoàng vì thấy mình sắp bị nuốt chửng. Bất lực trước cơn cuồng nộ của sóng gió, họ đã đánh thức Đức Giêsu, xin Ngài giúp đỡ.

Cuộc đời nào tránh được mọi cơn giông tố?

Ai trong chúng ta cũng thích biển lặng sóng yên, nhưng giông tố lại giúp ta nhận ra mình: yếu đuối, chao đảo, mong manh, bất lực, không đủ khả năng đương đầu với bao thách đố.

Giông tố đưa ta đến với Đức Giêsu, và phó thác cho sự trợ giúp của Ngài. “Chúng con chết mất!”

Cái chết thể lý và cái chết tinh thần. Cái chết của bản thân và của tập thể mình gắn bó. Cái chết của những công trình mình xây dựng.

Chúa là sự sống, sao Chúa lặng yên để chúng con chịu chết? Sao Chúa để sự dữ tung hoành trên thế giới? “Mà Thầy không lo sao?”. Một lời trách móc?

Nhiều khi chúng ta cũng trách Chúa như vậy. Có vẻ Chúa quá vô tư, lãnh đạm, hững hờ. Chúa yên ngủ khi đời ta gặp cơn giông tố.

Đức Giêsu đã thức dậy, ra lệnh cho gió và biển: “Câm đi! Im đi!”. Gió ngừng ngay và biển lặng xuống.

Sự lặng đi của biển đưa đến sự trầm lặng của lòng. Nỗi kinh hoàng tan biến, nỗi sợ chết cũng bay xa.

Nhưng chúng ta không đòi phép lạ biển lặng trong đời. Điều quý hơn, đó là lòng ta được lặng.

Lòng lặng không phải vì biển lặng, mà lặng ngay giữa lúc biển động. Đó là một phép lạ lớn hơn nhiều, và đó cũng là thái độ Chúa muốn ta phải có.

Tại sao các anh lại kinh sợ? Sóng gió làm gì được các anh khi Thầy đang cùng các anh ở chung một con thuyền?

Đức Giêsu đòi các môn đệ không được khiếp sợ.

Thầy đã làm bao phép lạ trước mắt các anh, vậy mà các anh vẫn chưa có lòng tin ư? Nếu có lòng tin thì đâu có cuống cuồng như vậy.

Đức tin chỉ lộ ra khi biển động. Và có thể nói, biển động giúp hình thành đức tin. Đức tin lớn lên ít nhiều sau mỗi lần biển động.

Thuyền đời Kitô hữu chẳng bao giờ êm ả. Nó chỉ êm ả khi về tới bến. Nhưng lòng ta lại phải giữ cho bình yên, ngay cả khi Ngài không thức dậy, dù ta đã gọi Ngài nhiều lần giữa tiếng sóng gào thét. Ta tin rằng Ngài sẽ cứu ta theo cách của Ngài.

Gợi Ý Chia Sẻ

Điều gì khiến bạn sợ hơn cả trong cuộc sống? (Sợ thất nghiệp, sợ thi rớt, sợ không được yêu, sợ mất uy tín, hay sắc đẹp…). Sự sợ hãi có làm đời bạn bớt vui không? Có làm bạn bớt tự do không?

Khi bạn bị căng thẳng, lo âu, mất bình an, bạn thường làm gì để trở lại bình thường? Cầu nguyện có giúp gì cho bạn không?

Cầu Nguyện

Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào, xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.

Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc, xin cho con quý chuộng những lúc được an nghỉ trước nhan Chúa.

Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo, xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa để nghe lời Người.

Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng, xin cho con thoát được lên cao nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.

Lạy Chúa, ước gì tinh thần cầu nguyện thấm nhuần vào cả đời con. Nhờ cầu nguyện, xin cho con gặp được con người thật của con và khuôn mặt thật của Chúa.

 

43.Chất vấn

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

Hai từ “chất vấn” xem ra ít gây thiện cảm hơn là các từ “hỏi” hay là “đặt vấn đề”. Dù là đặt vấn đề hay đặt câu hỏi hay chất vấn thì mục đích nhắm đều là để được sáng tỏ một vấn đề nào đó mà người chất vấn chưa nắm rõ hay chưa đồng thuận. Dĩ nhiên ở các xã hội độc tài, chuyên chế thì ít có ai dám to gan chất vấn người cầm quyền, vì sợ mang vạ vào thân. Lại có những thể chế muốn chứng tỏ rằng có sự dân chủ nên “cho phép” người ta chất vấn nhưng thực chất vẫn không muốn người bị trị có quyền chất vấn.

Nhân dịp mẹ Hội Thánh dọn cho đoàn tín hữu bài đọc thứ nhất và bài Tin Mừng trong Chúa Nhật XII TN B, xin đặt câu hỏi làchúng ta có được phép chất vấn Thiên Chúa không? Một trận cuồng phong trên biển cả xem ra là chuyện thường tình của giới tự nhiên. Thế nhưng, khi gió lớn, sóng to ập vào thuyền của tôi, thì đó không còn là chuyện bình thường. Những tai ương, hoạn nạn, dịch bệnh do thiên tai hay do nhân họa vẫn mãi là những sự dữ đối với những người trực tiếp hay gián tiếp gánh chịu. Chúng ta có quyền hỏi Thiên Chúa không hay chúng ta có nên đặt vấn đề không, nhất là những vấn đề liên quan đến sự dữ?

Trước vấn nạn sự dữ thì dường như không chỉ khó hiểu mà còn khó chấp nhận. Người làm sự lành mà phải gánh sự dữ thì vẫn có đó trước mắt chúng ta, không riêng gì mình ông Gióp thuở nào. Về vấn đề này, sách Gióp và Cựu ước nói chung, thường có câu trả lời rằng như chiếc bình sànhkhông thể và không có quyền chất vấn người thợ gốm, thì con người trong kiếp thụ tạo hữu hạn không có quyền chất vấn Thiên Chúa, Đấng dựng nên vũ trụ vạn vật, dựng nên con người từ hư vô. Ông Gióp cuối cùng đã biết phận để rồi “lấy tay che miệng” (x.G 40,4) và “xin rút lại những gì đã nói” (x.G 42,6).

Tân ước lại cho chúng ta một cái nhìn có vẻ như ngược lại nhưng thực ra là bổ túc, là hoàn thiện cái nhìn của Cựu ước. Đến thế gian, Chúa Kitô không ngại ngần trước các vấn nạn người ta đặt ra. Người còn gợi ý để cho các môn đệ chất vấn bằng việc đặt câu hỏi trước. “Người ta bảo Con Người là ai?… Còn các con, các con bảo thầy là ai? (Mt 16,13). Cáctông đồ, các môn đệ đã không ngại ngần “chất vấn” Thầy chí Thánh. “Thầy ơi, chúng ta chết mất, Thầy chẳng lo gì sao?” (Mc 4, 38). Chúa ơi, Chúa ở đâu khi con đang trong cảnh khốn cùng? Con biết Chúa không vui thích gì khi con người phải khổ, phải chết, thế mà sao cái khổ, cái chết vẫn mãi đe dọa chúng con? Saocon làm người trong cái hình hài này, ở một thời đại, một hoàn cảnh không chút gì thuận lợi? Tại sao những người độc tài, độc quyền, độc ác cứ mãi nhởn nhơ trong nhung lụa? Nhiều câu hỏi tại sao thỉnh thoảng lại đến mà như không có lời giải đáp, đúng hơn là khó làm thỏa lòng thỏa trí chúng ta.

Điểm tới của những lời chất vấn là lòng tin. “Anh em vẫn chưa có lòng tin sao?” Dù như khiển trách, nhưng Chúa Giêsu đãbiết các môn đệ vốn có lòng tin vào Người nhưng lòng tin ấy đang còn non yếu. Không tin vào Thầy thì cớ sao các ngài lại đánh thức Thầy dậy để xin cứu giúp. Đức tin không phải là một thực tại đã hoàn thành mà là một quá trình dấn thân. Niềm tin của Kitô hữu là tiến trình bước theo Đức Kitô. Tiến trình ấy không luôn trơn tru, thẳng tắp, kiểu thuận buồm xuôi gió. Có khi chững lại vì gặp vật cản, có khi chệch hướng, thậm chí có lúc bị giật lùi. Những câu hỏi, những lời chất vấn xuất hiện là một trong những động lực hay là cách thế để ta vượt qua vật cản, chỉnh hướng và tiến lên. Như thế, các câu hỏi hay những lời chất vấn trở thành một phương thế củng cố niềm tin, thanh luyện đức tin.

Ðức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI thời làm HồngY đã từng khẳng định: “Chúng ta đã học biết, đã sống, và đáng khác chúng ta đã thấy đức tin được xây dựng hết sức hoàn hảo và được hệ thống hoá quá đáng, tới độ người ta không còn dễ dàng đến được với đức tin nữa. Vậy tôi nghĩ rằng chúngta cần một thứ cách mạng đức tin, theo một nghĩa phức hợp. Trước hết chúng tacần đến một cuộc cách mạng này để có được lòng can đảm nói ngược lại với những xác tín tổng quát” (Muối cho đời – trang 42). Khi trên ngai giáo hoàng, mở đầu cho tập sách “Đức Giêsu thành Nagiarét”, ngài cũng thẳng thắn và sẵn sàng đón nhậnnhững ý kiến “chống lại” những “tìm hiểu” của ngài về “diện mạo của Chúa”(x. Phần I – trang 31).

Chúa Kitô không ngần ngại trước những lời chất vấn của người Do Thái và các câu hỏi của các môn đệ, vì nhờ chúng mà căn tính và sứ mạng của Người ngày càng được tỏ bày, và qua đó đức tin của nhiềungười được hình thành và vững mạnh. Quả thật, chẳng có ai dám to gan cho rằng mình đã nắm trọn chân lý hay đã vững vàng trong đức tin. Thế mà đã có lúc chúng lại ngại ngần và có khi lại sợ người đồng đạo, sợ người “ngoại đạo” chất vấn niềm tin của chúng ta. Cần thú nhận rằng chính chúng ta cũng rất ngại ngùng chất vấn niềm tin của mình, đúng hơn là đặt vấn đề về một vài nội hàm của đức tin vì sợ rằng sẽ có nguy cơ lạc đạo hay bị gán ghép là rối đạo. Trong tình bạn thì các câu hỏi hay những lời chất vấn là chuyện thường tình như lẽ đương nhiên. Chúng chỉ là bất thường trong mối quan hệ chủ tớ. Chúa Kitô đã khẳng định Người không muốn chúng ta làm người tôi tớ mà là bạn hữu (x. Ga 15,15).

Chúa Kitô mãi là dấu hỏi cho con người đến tận cùng lịch sử. Hiện nay, chúng ta chỉ thấy lờ mờ như trong gương, sau này chúng ta sẽ thấy Người như chính Người là. Ngưòi thế nào, chúng ta sẽ thấy như vậy (x.1Cor 13,12). Chính vì thế, vị trí, vai trò của những câu hỏi luôn còn đó. Và một trong những vai trò chính yếu của chúng là dẫn chúng ta đến với niềm tin. Mỗi khi chúng ta không còn biết đặt vấn đề thì rất có thể là chúng ta đang ở trong tình trạng “cuồng tín” hay là vô tín. Khi chúng ta ngần ngại tha nhân đặt vấn đề hay chúng ta thấy khó chịu khi tha nhân, khi người dưới quyền chất vấn chúng ta thì có lẽ chính chúng ta đang có vấn đề. Một trong những vấn đề thật khó chối cãi, đó là chúng ta chưa thực sự tin vào sự ngay chính của bản thân hay của công việc mình đang thực hiện. Và một điều khá chắc chắn nữa, đó là người ta cũng chưa tin vào chúng ta. Mong sao những lời sau đây của ngài Hồng Y J.Ratzinger mà nay là Đức Bênêđictô XVI có điều kiện thành hiện thực: “Chúng ta phải có can đảm đứng lên chống lại cái được coi như chuẩn mực cho conngười vào cuối thế kỷ XX này, và tái khám phá đức tin nguyên tuyền” (Muối cho đời – trang 43).

 

44.Ai có thể trở nên một người như thế?

(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tng’ – Charles E. Miller)

Chiếc tàu Titanic được chào hàng như một chiếc tàu không bao giờ chìm. Và sau đó là đụng một tảng băng ngay trong cuộc hành trình đầu tiên của nó, chiếc Titanic đã chìm xuống đáy của Đại Tây Dương với hầu hết những người đi trên con thuyền đó trong vài phút. Đại dương quyền năng hơn bất cứ một con tàu nào, đã nuốt trọn con tàu Titanic giống như nó đã nuốt một hộp cá mòi vậy.

Đó là một mầu nhiệm sâu xa về biển cả, và đó không có gì là ngạc nhiên về quyền năng của nước được xem là một thuộc tính của thần linh. Trong sách Gióp chính Thiên Chúa đã làm chứng về quyền năng thần linh của Ngài, bằng việc biểu dương quyền năng của Ngài là chủ tể của nước sâu. Những tông đồ là những người đánh cá, hơn ai hết họ không cần ai nói cho họ biết về việc phải sợ hãi cái vẻ bề ngoài đáng sợ của biển Galilê. Thình lình, tai họa có thể xảy ra một cách bất thường. Biển thì ở 685 bộ bên dưới mực nước biển và bao quanh bởi những ngọn núi. Với một làn không khí lạnh thổi xuống từ những ngọn núi hầu như nhanh chóng biến đổi làn nước đại dương thành những con sóng nguy hiểm cao đến bảy hoặc tám bộ.

Thật chính xác những gì đã xảy ra vào buổi chiều hôm đó, khi Chúa Giêsu vào thuyền của các môn đệ ở trên biển Galilê. Đó giống như một ngày của sáng tạo, những yếu tố tự nhiên đang chờ đợi khoảnh khắc khi mà Chúa là chủ tể của chúng xác quyết quyền năng và tỏ hiện sự thần linh của Ngài. Sau khi Chúa Giêsu làm cho biển bình yên bởi những lời của Ngài, các tông đồ đã kinh ngạc hỏi nhau rằng: “Người này là ai mà làm cho gió biển phải vâng lời?”

Gió và biển đã biết Chúa Giêsu là ai và cả chúng ta cũng như thế. Chúng ta có thể trả lời cho câu hỏi của các tông đồ. Nếu chúng ta không có đức tin, chúng ta xem Người một cách giới hạn bởi xét đoán của con người nhưng bởi đức tin mà chúng ta nhận biết rằng Chúa Giêsu là Chúa, là Đấng Cứu Độ. Vì Chúa là Đấng cứu độ của chúng ta, Ngài ước ao giải thoát chúng ta khỏi những tai họa của đời sống trên biển. Sự sợ hãi những căn bệnh như ung thư hoặc Siđa, lo lắng về tận cùng của tương lai một cách bất an, những lo lắng về con cái trong một xã hội say sưa và hỗn tạp, sự không vững chắc hay gãy đổ của đời sống hôn nhân, sự khủng hoảng hay sự cô độc, bị bỏ rơi, sự khủng khiếp mà viễn cảnh của sự chết có thể phát sinh.

Trong lời tuyên xưng Thánh Thể chúng ta đã kêu lên: “Bởi thánh giá và sự Phục Sinh của Ngài, Ngài đã giải thoát chúng ta”. Sau kinh Lạy Cha chúng ta cầu nguyện: “Lạy Chúa xin giải thoát chúng con khỏi mọi sự dữ và ban cho chúng con bình an trong ngày hôm nay, bởi lòng thương xót Chúa sẽ giữ gìn chúng con khỏi tội lỗi và bảo vệ chúng con khỏi mọi lo âu”. Lời nguyện này muốn nói lên lời diễn tả đức tin của chúng ta nhưng cấp độ bình an và quang đãng của chúng ta không tùy thuộc và sự diễn tả đức tin của chúng ta nhưng ở chiều sâu của nó. Đức tin của chúng ta phải sâu như biển cả vậy.

Khi chiếc Titanic chìm xuống, số người bị lâm nạn đã tăng lên gấp bội bởi vì thuyền đã không trang bị đủ những thuyền cứu sinh. Chúng ta còn được hơn thuyền cứu sinh cứu nữa. Chính Chúa Giêsu đã cứu chúng ta khi chúng ta bị chìm trong biển cám dỗ sâu nhất của cuộc đời. Chúng ta có con người của Chúa Giêsu Kitô, luôn luôn hiện diện với chúng ta trong Giáo Hội và hướng về Người, chúng ta có thể cầu nguyện một cách tin tưởng. Trong cơn bão trên biển hồ, các tông đồ đã phàn nàn: “Lạy Thầy chúng con sắp chết mà Thầy không quan tâm đến sao?” Với đức tin chúng ta biết rằng, không có vấn đề gì với Chúa Giêsu. Vấn đề là sự cứu độ của chúng ta không đến từ những lời nói, tuy nhiên ở nơi. Lời quyền năng của Ngài: “Hãy yên lặng, hãy im đi”. Sự cứu độ của chúng ta đến từ hy tế nơi thánh giá. Đức tin của chúng ta là: “Lạy Chúa bởi thánh giá của Người, và sự Phục Sinh của Người xin giải thoát chúng con, Người là Đấng cứu độ chúng con”.

 

45.Suy niệm của Achille Degeest.

NỖI KINH HOÀNG CỦA CON NGƯỜI

VÀ SỰ YÊN TĨNH CỦA THIÊN CHÚA

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)

Giai thoại bão táp yên lặng là một cơ hội tốt cho những ai ngã theo khuynh hướng “giải huyền thoại” trong phúc âm (khuynh hướng này ngày nay đã giảm). Để giản lược biến cố vào một sự kiện tự nhiên, họ chỉ cần tưởng tượng và rồi sau khi đã chiều theo sức ép của trí tưởng tượng, quả quyết rằng bão táp tự nó ngưng lại, vừa lúc Đức Giêsu ra lệnh cho biển; và như thế là do tình cờ. Có một loại não trạng tự gọi là khoa học, chủ trương ngay từ đầu chối bỏ mọi can thiệp của Thiên Chúa trong vũ trụ và giải thích một số sự kiện bằng một định kiến như thế thật dễ dàng. Trong trường hợp này chúng ta có thể bám vào lời này: Ở khởi điểm của truyền thống Phúc Âm, có thật là biến cố, nhưng liền được giải thích trong môi trường của Giáo Hội sơ khai, dựa trên một não trạng Kinh Thánh và một niềm tin vào sự Sống Lại” (X.L. Dufour, Etudes d’Evangile, Paris, 1965).

Ưu tư của Giáo Hội sơ khai là minh chứng: Đức Giêsu có cùng một quyền năng trên tạo vật như Thiên Chúa (não trạng Kinh Thánh) và dẫn đưa người tín hữu đến một niềm tin nơi Đức Giêsu Phục Sinh, một niềm tin trọn vẹn, truyền giáo (Hãy sang bên kia bờ) và có khả năng đương đầu với mọi nghịch cảnh.

Giải quyết xong điều trên, câu chuyện bão táp yên lặng gợi cho chúng ta một vài suy nghĩ rất đơn sơ:

1) ‘Thưa Thày, chúng con chết mất mà Thày không quan tâm đến sao?’

Lời trách móc này cho thấy rõ sự mâu thuẫn giữa nỗi kinh hoàng của các môn đệ và sự yên tĩnh của vị Thày. Một bên sóng gió nguy hiểm, một bên Đức Giêsu vẫn ngủ. Biển hồ Giê-nê-sa-rét, như các biển hồ được núi đồi bao phủ khác, thường có những cơn bão táp đột ngột và dễ sợ. Con thuyền bị sa vào một trong các cơn bão táp như thế. Chúng ta hiểu Đức Giêsu sau một ngày trọn rao giảng mệt nhọc, đã ngủ thiếp đi. Các môn đệ không hiểu được sóng gió mạnh mẽ như thế, lại tràn ngập vào thuyền mà không làm cho Ngài tỉnh dậy. Họ không mường tượng được rằng: chỉ duy có sự hiện diện của Đức Giêsu với họ, đã là một sự bảo đảm an toàn vững chắc.

Họ có lỗi vì đánh thức thày dậy không? Chắc là không. Đó chỉ là phản ứng bình thường của con người hoảng hốt, sự yếu hèn của họ (nhưng họ chưa có niềm tin sau Phục Sinh) ở chỗ họ không đặt sự an toàn của mình nơi con người Đức Giêsu. Chúng ta cũng gặp phải những giây phút thử thách nghiêm trọng. Chúng ta không có lỗi khi kêu đến Thiên Chúa, khi đánh thức Người dậy. Chúng ta không thể chế ngự một số âu lo tự nhiên. Ít là chúng ta nên nhớ Đức Giêsu đang ở với chúng ta để giữ vững niềm tin của chúng ta.

2) Hình ảnh con thuyền gợi lên con thuyền Giáo Hội, theo như ngôn từ của các thánh phụ.

Trong thời đại của chúng ta, cũng như trong mọi thời đại, Giáo Hội tựa con thuyền bị lay động và cản trở mạnh mẽ do các lầm lạc, bách hại, thao túng của thế gian. Một vài lầm lỗi hình như xâm chiếm cả Giáo Hội. Những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi thuyền đầy nước. Điều này có lẽ tạo nên nỗi lo âu lớn nhất cho nhiều người ưu tú trong nhóm môn đệ Đức Kitô. Hãy nhớ rằng chỉ một lời của Chúa vào lúc ngài muốn, có khả năng cứu thoát tất cả. Ngài nói: “Im đi….”, tức thì gió ngừng biển lặng như tờ. Điều quan trọng là hãy giữ niềm tin cho sống động và mạnh mẽ. ‘Các con không có đức tin ư?’.

 

46.Đức tin trưởng thành.

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

John Newton là con trai một đại uý hải quân người Anh. Khi John lên 10 tuổi, mẹ cậu qua đời. Từ đó cậu bé thường theo bố đi biển. Nhờ vậy mà cậu rành rẽ đường lối ngoài biển khơi. Tuy nhiên vào năm cậu 17 tuổi, cậu bé bất mãn với bố. Cậu bỏ thuyền ra đi lao vào cuộc đời gió bụi. Cuối cùng cậu nhận được việc làm trên chiếc tàu hàng buôn nô lệ từ Phi Châu đến Mỹ Châu. Cậu thăng quan tiến chức rất lẹ và chẳng bao lâu đã trở nên thuyền trưởng. Chẳng bao giờ Newton bận tâm suy nghĩ đến việc buôn nô lệ là đúng hay sai. Cậu chỉ làm công việc của mình nhằm mục đích kiếm tiền mà thôi. Thế nhưng một biến cố quan trọng đã xẩy đến thay đổi tất cả cuộc đời cậu.

Một đêm nọ một cơn bão dữ dội xuất hiện trên mặt biển. Sóng dâng cao như thác núi xô đẩy và quay vòng chiếc thuyền của Newton như món đồ chơi trẻ con. Mọi người trên thuyền vô cùng kinh khiếp. Lúc bấy giờ bỗng dưng Newton buột lời cầu nguyện. Đây là điều cậu không hề làm kể từ khi rời khỏi thuyền của bố cậu, cậu kêu to: “Lạy Chúa, nếu Ngài thương, xin cứu vớt chúng con, con nguyện sẽ mãi mãi làm nô lệ cho Ngài”.

Chúa nhậm lời cầu xin của cậu và cứu vớt con thuyền. Thế rồi sau khi vào được bờ, Newton đã giữ lời hứa và bỏ nghề buôn nô lệ. Sau đó cậu đi tu, và một thời gian sau trở thành mục sư coi sóc một nhà thờ nhỏ ở Olney, nước Anh. Ở đây vị mục sư trở nên một nhà giảng thuyết kiêm nhà soạn thánh ca lừng danh. Một trong những bản thánh ca cảm động nhất mà Newton đã sáng tác là bản nhạc ca ngợi Chúa về cuộc trở lại của cậu.

Giống như Newton, các Tông đồ cũng gặp phải bão biển dữ dội. Giống như Newton, các ông đã kêu to lên cùng Chúa: “Xin hãy cứu chúng con”. Giống như Newton, các ông cũng đã được biến đổi hoàn toàn sau khi Chúa nhậm lời cầu xin. Các ông hoảng sợ và nói với nhau: “Ông này là ai, mà cả đến gió và biển cũng phải tuân lệnh?”.

“Ông này là ai?”. Đây chắc chắn là một câu hỏi căn bản. Dĩ nhiên câu trả lời đã có sắn trong bài đọc 1 và trong Thánh Vịnh đáp ca hôm nay. Bài đọc 1 mô tả Chúa là Đấng Tạo Hoá, chính Ngài đã tạo dựng biển cả, đã đặt ranh giới cho chúng và truyền lệnh cho chúng tuân theo ý muốn của Ngài. (x.G 38,1.8-11). Thánh Vịnh đáp ca là lời kêu cầu Chúa của những thuỷ thủ gặp bão biển. Và Chúa đã ra tay cứu họ. Họ vui sướng, vì trời yên biển lặng. Và Chúa dẫn đưa về bờ bến mong chờ. Họ tạ ơn Chúa, vì Chúa từ nhân (x. Tv 107).

Trong cả hai bài đọc Cựu Ước này, chúng ta thấy Chúa đang thi hành chủ quyền của Ngài trên sóng gió. Ngài truyền lệnh cho chúng và chúng tuân phục Ngài. Đây cũng là điều chúng ta thấy Chúa Giêsu đang thực hiện trong Tin Mừng hôm nay.ngài đang biểu lộ chủ quyền của Ngài trên sóng gió. Ngài truyền lệnh và chúng tuân phục ngay. Như thế các bài đọc hôm nay cho thấy Thiên Chúa trong Cựu Ước và Đức Giêsu của Tân Ước là một. Ngài đang thực thi quyền năng của một Thiên Chúa. Thánh Marcô không chỉ muốn nói lên quyền năng của Chúa mà còn muốn khẳng định Ngài chính là Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ, và mời gọi chúng ta hãy hoàn toàn tin vào Ngài.

Các môn đệ ở chung một thuyền với Chúa, các ông đã biết Chúa quyền năng, có thể làm nhiều phép lạ, nhưng khi sóng gió nổi lên, các ông vẫn hoảng hốt. Các ông quên rằng dù thức hay ngủ, Chúa vẫn là Chúa. Các ông chưa hoàn toàn tin vào Chúa. Chúng ta thường nghĩ mình có đức tin, nhưng trong thử thách, khi cần biểu lộ lòng tin thì nhiều khi ta lại hoảng sợ.

Đời tự nó đã là khó. Đi trong cuộc đời với niềm tin theo cách Chúa dạy lại càng khó hơn. Chúng ta đã vâng lệnh Chúa mà nhổ neo ra khơi, đã tin tưởng vì có Chúa ở đàng lái, ở vị trí hoa tiêu, nhưng có thể đã có lần chúng ta đau đớn vì Chúa lại ngủ giữa phong ba. Điều đó có thật, là kinh nghiệm muôn đời của những ai tin Chúa. Niềm tin không phải là giải đáp dễ dãi, không miễn trừ những khó khăn. Cần phải dày công học tập mới chấp nhận được thực tế đó. Người có niềm tin trưởng thành là người “giữa phong ba khốn cùng ngàn nỗi vẫn luôn thành tín ngợi khen Chúa là thuẫn đỡ, là khiên che, là đồn luỹ”. Phải dám ra đi dù trời đã về chiều, dù có thể gặp phong ba. Nếu không thì chẳng bao giờ sang được “bờ bên kia” của cuộc sống. Chúa có thể ngủ, nhưng Chúa luôn thức vào lúc quyết định để trợ giúp những ai bằng lòng để cho “Chúa ở đằng lái”.

Bão lớn, nước sắp đầy thuyền thì ai mà không sợ? Vậy mà Chúa còn trách: “Sao các con sợ thế, các con không có đức tin ư?”. Các môn đệ lâm nguy thật sự. Trong hoàn cảnh đó, chẳng những nên kêu cứu Chúa, mà đúng là phải kêu cứu Chúa. Nhưng đừng kêu cứu với tâm trạng sợ hãi đến tuyệt vọng như vậy. Phải kêu cứu nhưng hãy kêu cứu trong niềm cậy trông tín thác tuyệt đối. Lời trách cứ của Chúa Giêsu khai mở cho chúng ta một kinh nghiệm đức tin quý báu: niềm tin vững vàng làm chúng ta thêm can đảm lắm mới có thể tin. Vì tin Chúa, thực tế chính là “ trao thân gởi phận” cho Chúa. Người tin Chúa thực sự thì không sợ, còn người sợ thực sự thì không tin. Trong rất nhiều trường hợp, “yếu tin” đồng nghĩa với “hèn tin”!

Câu hỏi của các môn đệ sau khi được Chúa cứu nguy: “Ngài là ai mà cả gió lẫn biểu cũng đều vâng lệnh?” phải là câu hỏi căn bản cho những ai muốn tin và muốn đạt tới niềm tin trưởng thành vào Chúa Giêsu. Phải trả lời cho thật, cho đúng, cho sâu và sát với hoàn cảnh đời mình. Tin không phải chỉ là xác tín về một chân lý lý thuyết cho thoả trí óc, nhưng là “trao thân gởi phận” cho Chúa, nên phải biết rõ Chúa là ai, đáng tin đến mức nào. Thánh Phaolô là chứng nhân đức tin kiệt xuất, đã trải qua bao gian nan mà vẫn tín trung với Chúa, vì thánh nhân “biết mình đã tin vào ai” (2Tm 1,13). Nếu thực sự muốn tin, chúng ta cũng phải biết: Chúa Giêsu Kitô là ai? Tin Mừng cho chúng ta biết: Chúa Giêsu chính là Thiên Chúa. Chân lý ấy quá đơn sơ, chúng ta đều đã biết. Nhưng có thể chúng ta mới biết bằng “cái đầu”, bằng trí óc, chứ chưa biết bằng “con tim”, bằng lòng yêu mến. Tin cuối cùng là yêu, là trung thành gắn bó với Chúa Giêsu trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Vậy lòng ta cần phải biết Ngài là Chúa, nghĩa là không chỉ biết rằng Ngài quyền trên cuộc đời mình, Ngài là Chúa của mình. Khi lòng ta chưa biết điều đó, thì dù không nói hay không dám nói ra, tự thâm tâm ta vẫn nghĩ: Lời Chúa chói tai quá! Lệnh Chúa truyền khó khăn qúa! Và sẽ bỏ đi như người Do Thái, vì thầy tin Chúa là phải là phiêu lưu và quá khó khăn! Người có đức tin trưởng thành là người “biết điều”: họ nhận ra Đấng mời gọi là Đấng có quyền, nên họ dấn thân theo lời mời gọi của Ngài vì đó là đòi hỏi của tình yêu.

Hãy vận dụng đức tin để dấn thân vào đời, lấy sức chèo chống, ngăn chận sự ác đang hoành hành. Hãy chạy đến Chúa và phó thác cho Ngài mọi lo lắng của cuộc đời, kiên trì tin tưởng Chúa sẽ cứu thoát chúng ta.

 

47.Các con không có lòng tin sao? – Noel Quesson.

Một sĩ quan người Anh cùng gia đình xuống tầu đi tới một miền xa lạ. Đang lênh đênh trên biển thì bỗng có giông bão khủng khiếp ập tới. Hành khách trên tầu cuống cuồng lo sợ, nhất là bà vợ của viên sĩ quan. Bà thấy ông vẫn bình thản thì bực bội và trách ông không quan tâm đến nỗi lo lắng của bà và các con. Ông này ra khỏi phòng một lát rồi trở lại, ông nghiêm nét mặt, rút kiếm ra dí vào ngực vợ. Bà vợ hơi tái mặt, nhưng lát sau bà phá lên cười. Viên sĩ quan hỏi: – Thấy mũi kiếm sắp đâm vào người mà em không sợ sao? – Việc gì em phải sợ? Em biết anh vẫn thương em mà.

– Thế tại sao em bắt anh phải sợ khi anh biết Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta? Và cơn bão này cũng ở trong bàn tay Thiên Chúa?

Chúng ta thường nghĩ mình có đức tin, nhưng trong thử thách, khi cần biểu lộ lòng tin thì nhiều khi ta lại hoảng sợ. Chính vì thế, Chúa nhắc bảo ta luôn nhớ cầu nguyện để xin ơn tăng cường đức tin. Các môn đệ ở chung một thuyền với Chúa, các ông đã biết Chúa có quyền năng có thể làm nhiều phép lạ, nhưng khi sóng gió nổi lên, các ông vẫn hoảng hốt. Các ông quên rằng dù thức hay ngủ, Chúa vẫn là Chúa. Các ông chưa tin vào Chúa hoàn toàn. Chúng ta có thể nghĩ rằng Chúa làm ra vẻ ngủ say để thử lòng tin của các môn đệ. Nhưng cũng có thể Chúa ngủ thực, vì Chúa cũng mang bản tính con người như ta. Chúa mệt mỏi vì bao công chuyện dồn dập mấy bữa qua: đi lại, giảng dạy, chữa bệnh cho bao nhiêu người. Sự mệt mỏi đã đưa Chúa vào giấc ngủ say.

Có những bất trắc, những tai nạn, rủi ro xảy tới cho đời ta, ta kêu cầu hoài mà không thấy Chúa đáp cứu. Những nhà duy vật thời nay thường nói: “Thiên Chúa đã chết”. Đôi khi, chính chúng ta là tín hữu Kitô, cũng có cảm tưởng như vậy. Chúng ta bị đe dọa, bị xô đẩy, bị chèn ép, chúng ta bất lực mà Thiên Chúa cứ làm thinh cho thiên nhiên hoành hành, cứ để cho bạo động xảy tới, xem ra Thiên Chúa đang ngủ quên. Tuy hoảng sợ, các môn đệ cũng còn chút tin tưởng ở Chúa, các ông tới đánh thức Chúa: “Thưa Thầy, chúng con chết đến nơi mà Thầy không quan tâm sao?”. Chúa thức dậy, đứng lên, quát nạt sóng gió và sóng gió trở lại yên tĩnh tức thì.

Sau khi trời yên biển lặng, Chúa bảo các môn đệ: “Sao các con sợ hãi? Các con không có đức tin ư?”. Chúa trách các môn đệ thiếu lòng tin. Không tin rằng có Chúa đang ở với mình trong thuyền. Không tin rằng Chúa vẫn yêu thương săn sóc các ông. Nhiều khi chúng ta còn đáng trách hơn các môn đệ, vì những lần chúng ta than thân trách phận, oán trời, trách Chúa: Sao Chúa để chúng ta đau khổ, kêu mãi kêu hoài mà Chúa vẫn làm ngơ.

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sức mạnh để chúng con lướt thắng mọi thử thách trên đường đức tin. Xin giúp chúng con luôn nhận ra Chúa trong những biến cố cuộc đời để chúng con an tâm phục vụ Tin Mừng. Quyền năng và tình thương của Chúa luôn làm cho con vững dạ an lòng (Tv 23,4).

 

48.Mời gọi qua sông – Jean-Yves Garneau.

Chúng ta phải liên lỉ băng qua bờ bên kia. Thường thường biển động. Nhưng Chúa Kitô ở với chúng ta. Việc băng qua hồ Tibêriát, như thánh Marcô kể lại, mang một ý nghĩa tượng trưng, cho ta thấy một kinh nghiệm quan trọng và sâu sắc mà các môn đệ đã có được. Kinh nghiệm này có một giá trị gương mẫu đối với chúng ta. Thường thường chúng ta phải sống những kinh nghiệm tương tự.

Sang bờ bên kia.

Chúa Giêsu bảo bạn hữu của Chúa sang bờ bên kia. Vấn đề không phải chỉ đơn giản là đi từ nơi này đến nơi khác, nhưng là sống một biến cố sẽ giúp họ lớn lên. Lúc đó họ chưa biết được điều này.

Nhiều lần cả chúng ta nữa, chúng ta đứng trước một tiếng gọi của Chúa Kitô. Gọi vươn lên, gọi sống đời sống Kitô hữu của chúng ta mãnh liệt hơn, gọi dấn thân một cách mới mẻ… Nếu chúng ta đáp trả tiếng gọi ấy chúng ta không biết trước những gì sẽ xảy ra cho mình hoặc nó sẽ đưa mình đến tận đâu.

Từ biển lặng đến sóng gió.

Không chút do dự các tông đồ chấp nhận qua bờ bên kia, thậm chí họ còn có sáng kiến chuẩn bị nữa. Lúc khởi hành, mọi sự diễn ra suôn sẻ. Biển hồ yên lặng. Họ là những tay chèo giỏi. Chúa Kitô nằm ngủ ở mạn thuyền.

Rồi gió nổi lên. Đó là giông bão. Các môn đệ hoảng hốt. Từ đáy lòng họ la lên: “Lạy Thầy, chúng con chết mất!”.

Sự kiện này có thể áp dụng vào chính cuộc sống của chúng ta. Nhiều lần chúng ta phải đáp lại những lời mời gọi của Thiên Chúa. Không thể nghi ngờ thiện chí của chúng ta: Như các môn đệ, chúng ta thưa vâng trước những tiếng gọi này. Nhưng việc thực hành những gì tiếng gọi ấy thường có vẻ khó khăn và gắt gao hơn ta tưởng. Các khó khăn nhất thiết sẽ xảy đến. Chúng rất thường nhiều hơn và lớn hơn điều ta dự tính.

Thế giới này trong đó chúng ta sống cũng giống như mặt biển động vậy. Sống đạo trên một mặt biển như thế không dễ dàng, không đơn giản! Không dễ dàng lớn lên về mặt Kitô hữu trong một xã hội như xã hội của chúng ta, đang loan truyền đủ mọi thứ khác trừ sứ điệp của Chúa Kitô và lôi cuốn đến mọi nơi khác trừ những con đường của Tin Mừng.

Lúc đó ta bị cám dỗ buông xuôi hết. Trở thành những kẻ không dấn thân. Không đi nhà thờ nữa, chỉ còn sống cho mình, chỉ còn mang tên là tín hữu mà thôi. Người ta vớt vát cho bộ mặt bên ngoài nhưng trong lòng thì không còn gì nữa.

Phải làm một hành vi đức tin.

Giữa cơn giông tố, các tông đồ có ý tưởng rất hay là quay về với Thầy của mình và cầu cứu Ngài. Kết quả thật lạ lùng. Chúa Kitô ra lệnh cho biển. Biển lặng như tờ. Ngài trách họ: “Sao lại sợ? Tại sao các con không có lòng tin?”. Phản ứng của các môn đệ có thể làm chúng ta ngạc nhiên. Thay vì kêu lên: “Lạy Chúa, chúng con tin”, họ lại tự hỏi: “Ngài là ai mà ngay cả đến phong ba và biển cả cũng phải vâng phục Ngài?”.

Không phải một sớm một chiều mà ta có được một niềm tin vững chắc và sâu xa. Cần thời gian. Phải trải qua nhiều kinh nghiệm trong cuộc đời làm Kitô hữu.

Ba điểm cần nhớ.

Những gì cần nhớ trong bài Tin Mừng hôm nay có thể tóm tắt trong ba điểm.

Một là: đừng sợ qua bờ bên kia. Đây là một điều kiện phải có để lớn lên. Khi cứ ở lại mãi trên bờ yên tĩnh của thế giới bé nhỏ an toàn của mình, người ta không bao giờ trở thành một Kitô hữu biết nhìn xa thấy rộng được Chúa Kitô luôn luôn mời gọi đi xa hơn, cao hơn.

Hai là: đừng ngạc nhiên về những khó khăn gặp phải khi muốn sống một cuộc đời Kitô chân chính. Biển động là thành phần của cuộc sống ấy, đó là dịp để tiến bộ.

Ba là: không nghi ngờ về sự hiện diện và quyền năng của Chúa Kitô. Ngài ở với chúng ta. Cùng với Ngài, chúng ta luôn luôn tới được những bến bờ khác. Chính Ngài đã đi qua cái chết… và đã tới bờ của một cuộc sống mới. Những lần chúng ta phải đi từ bờ bên này sang bờ bên kia trong cuộc sống hằng ngày đó là chúng ta được chuẩn bị cho cuộc vượt qua cuối cùng.

Coi chừng những cuộc sống Kitô quá yên ổn, quá an toàn. Chúa Kitô chờ đời chúng ta trên biển động. Thường thường đó chính là nơi mà Ngài tự mặc khải cho chúng ta cách mạnh mẽ. Và chính ở đó, ở ngoài khơi mà rất thường đức tin của chúng ta có thể được thức tỉnh hơn hết và có thể lớn lên.

 

49.Giông bão.

Qua hình ảnh mặt biển dạy sóng Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta những gì?

Mặt biển dạy sóng trước hết là hình ảnh của tâm hồn chúng ta.

Thực vậy, nhiều lúc chúng ta đã cảm thấy: những quyến dũ bất chính, những đam mê mù quáng, những cám dỗ nặng nề, quả thực đã trở nên như những ngọn sóng ngầm. Những quyến dũ ấy, những đam mê ấy, những cám dỗ ấy như muốn đè bẹp con thuyền nhỏ bé là tâm hồn chúng ta, nhận chìm nó xuống đáy nước tội lỗi, nếu như Chúa Giêsu, Đấng có quyền làm cho gió yên biển lặng đã không đến can thiệp và giúp đỡ chúng ta. Vì thế chúng ta hãy kêu xin Chúa như các tông đồ ngày xưa:

– Lạy Chúa, xin hãy cứu giúp chúng con không thì chúng con chết mất.

Mặt biển dạy sóng còn là hình ảnh của thế gian.

Đúng vậy, thế gian là một mặt biển dạy sóng, trong khi đó Giáo hội chỉ là một con thuyền nhỏ bé, mà người cầm lái, là Đức Kitô thì dường như lại đang ngủ say. Những phong ba bão táp và những ngọn sóng trào dâng là những cấm cớ bách hại, là những lập trường bài bác vu khống và chụp mũ, khiến cho chúng ta, những môn đệ của Chúa cũng phải bàng hoàng kinh hãi, nếu không muốn nói là đã đi đến chỗ tuyệt vọng.

Tại sao chúng ta lại sợ hãi? Phải chăng là vì yếu đức tin. Chúng ta nên nhớ rằng, tình thương và sự quan phòng của Ngài luôn canh giữ chúng ta. Chỉ một cái nhìn của Ngài cũng đã đủ để làm cho sóng yên biển lặng, tất cả trở lại trật tự.

Kinh nghiệm của Giáo hội, cũng như của bản thân mỗi người cũng làm chứng như vậy. Điều quan trọng, chúng ta phải luôn xác tín rằng: Chúa Giêsu luôn ở với chúng ta. Mặc dù đôi lúc Ngài dường như có vẻ ngủ say, nhưng thực sự thì tình thương của Ngài luôn canh giữ chúng ta. Và một khi Ngài đã ở với chúng ta thì không ai có thể chống lại chúng ta.

Thánh nữ Cartarina Sienna ngày kia đã hỏi Chúa, sau khi đã thoát khỏi sự cám dỗ nặng nề:

– Lạy Chúa, Chúa ở đâu khi con phải chiến đấu. Chúa Giêsu đã trả lời:

– Ta ở bên cạnh con để giúp đỡ con.

Chính vì thế, giữa những gian nguy thử thách, giữa những cám dỗ đe dọa, chúng ta hãy biết chạy đến và kêu van:

– Lạy Chúa, xin cứu chúng con, không thì chúng con chết mất.

Điều quan trọng là làm thế nào để Chúa Giêsu thực sự ở trong chúng ta với tất cả tình thương của Ngài?

Tôi xin đưa ra một pháp đó là hãy xa tránh tội lỗi. Vì tội lỗi sẽ đẩy chúng ta xa lìa tình Chúa và làm dấy lên trong tâm hồn cũng như xã hội một trận cuồng phong thảm khốc.

Chính vì thế muốn trấn áp cuồng phong, muốn tái lập trật tự, chúng ta phải biết hãm dẹp những dục vọng xấu xa, những khuynh hướng tội lỗi. Tuy nhiên, để bảo đảm sự thành công, chúng ta hãy bắt chước các môn đệ đã kêu lên với Chúa giữa cơn phong ba bão táp:

– Lạy Chúa, xin cứu giúp chúng con, không thì chúng con chết mất.

 

50.Điều khiển.

Rufus Jones có thuật lại câu chuyện sau đây: “Một cậu bé đang chơi trên boong tàu, khi đó một cơn bão tố đang nổi lên. Một hành khách tiến lại hỏi cậu bé: Này cháu, cháu không sợ cơn bão đang đến hay sao? Cậu bé trả lời: “Không, cháu không sợ. Bởi vì cha cháu đang điều khiển con tàu”.

Bài Tin Mừng hôm nay cũng thuật lại một câu chuyện xảy ra trong một cơn bão tố. Nhưng nó chỉ giống ở khung cảnh mà lại khác hẳn về nội dung. Nỗi sợ hãi của các môn đệ hoàn toàn trái nghịch với lòng tín thác của cậu bé trong câu chuyện của Jones, một lòng tín thác xuất phát từ một niềm tin vững mạnh.

Không có gì ngạc nhiên khi chúng ta nghe Chúa Giêsu quở trách: “Tại sao các con nhát gan thế? Các con vẫn chưa có lòng tin sao?” Chúng ta cần nhớ lại lời Kinh Thánh đã chép: “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy”.

Chúng ta không luôn luôn thấy những đối tượng đức tin của chúng ta, đặc biệt khi niềm tin của chúng ta bị che phủ bởi nỗi sợ hãi và lo âu xao xuyến, và nhất là khi chúng ta bị những cơn giông tố trong cuộc đời vùi lấp một cách phũ phàng. Trong những cơn thử thách mãnh liệt như vậy, chúng ta hãy đặt tất cả niềm tin tưởng phó thác vào chính Thiên Chúa. Vào thế kỷ 19, tiểu thuyết gia kiêm thi sĩ người Tô Cách lan George MacDonald đã viết: “Con người hoàn hảo về đức tin là kẻ có thể đến với Thiên Chúa trong sự trống rỗng về cảm giác, không có một chút cảm hứng và an ủi nào, chỉ có những thất bại nặng nề, bị bỏ rơi, bị quên lãng hoàn toàn, và vẫn nói với Thiên Chúa: “Lạy Chúa, Chúa là nơi con náu ẩn, là thành lũy che chở con”.

Lạy Chúa Thánh Thần, Chúa là Trạng Sư và là bạn thân thiết của con. Xin Chúa dạy con biết từ bỏ bản thân mà lệ thuộc hoàn toàn vào Chúa Giêsu. Con không muốn trốn tránh trách nhiệm của con đối với cuộc đời của mình, nhưng con muốn để Chúa Giêsu chi phối toàn bộ cuộc sống của con.

 

51.Bão tố.

Hồ Tibêria nằm ở mạn bắc Palestine, còn gọi là hồ Gênêsarét hay biển Galilê, nhưng quen gọi là Biển Hồ, có hình bầu dục, chiều dài 21 km, chiều ngang 12 km, thấp hơn mặt biển Địa Trung Hải 208m, lại nằm bên rặng núi Hemon cao ngất, luôn có tuyết phủ, vì thế, các luồng gió mạnh đều dốc đổ vào hồ, gây nên những cơn giông và bão tố bất thường.

Cựu Ước ít nhắc tới Biển Hồ này, nhưng trong Tân Ước, hồ này nổi tiếng, vì nơi đây Chúa Giêsu đã làm một số phép lạ và giảng dạy nhiều điều. Phép lạ kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay xảy ra ở Biển Hồ này, vào một buổi chiều đầy kỷ niệm của một ngày tháng chạp, năm thứ nhất công khai giảng dậy của Chúa.

Hôm ấy, sau khi dùng thuyền làm tòa giảng dạy dân chúng nhiều dụ ngôn, Chúa Giêsu giải tán cho họ ra về, rồi bảo các môn đệ kéo buồm ra khơi sang bờ bên kia đến thành Gêrasa. Khi thuyền ra gần giữa khơi thì gặp biển động mạnh, gió thổi dữ dội, sóng nước quật mạnh vào thuyền khiến thuyền chòng chành, chồm lên chồm xuống muốn chìm. Các môn đệ ra sức chèo chống, tuy là những ngư phủ đã quen với những cơn giông bão trên biển, mà lần này các ông cũng hoảng sợ, vậy mà Chúa Giêsu vẫn nằm ngủ ngon lành ở cuối thuyền như không có sự gì nguy hiểm đang xảy ra.

Các môn đệ không còn biết xoay sở làm sao đưa thuyền vào bờ, trở lui không được vì bị sóng gió cản lại, mà tiến sang bờ bên kia thì còn xa quá. Thật là tiến thoái lưỡng nan, các ông chỉ còn biết cầu cứu đến Chúa, mà Chúa thì lại đang ngủ. Các ông đánh thức Chúa dậy và xin Chúa cứu giúp. Lời kêu cứu này chứng tỏ các môn đệ tin Chúa có quyền phép. Nhưng Chúa đã quở trách các ông: “Sao nhát thế? Anh em vẫn chưa có lòng tin sao?” Chúa trách các môn đệ như vậy là vì mấy tuần qua các ông đã được chứng kiến Chúa làm nhiều phép lạ tỏ ra Chúa là Đấng có quyền phép, nên đáng lẽ các ông phải tin tưởng nơi Chúa mà không hoảng sợ trước cơn giông bão. Nhưng đức tin của các ông còn yếu kém, gặp cơn giông bão, tuy có Chúa ở trong thuyền mà các ông vẫn hốt hoảng sợ hãi, nên Chúa mới quở trách như vậy. Tuy nhiên, Chúa vẫn đứng dậy, truyền cho sóng gió yên lặng, tức khắc biển trở lại bình thường.

Qua phép lạ này, Chúa Giêsu muốn cho các môn đệ thấy uy quyền Thiên Chúa toàn năng của Ngài, đồng thời cũng cho họ biết: họ phải vững tin vào Ngài, có Ngài ở bên, họ không được sợ hay không phải lo sợ gì cả, vì không có gì Ngài không làm được, mọi sự đều tùy thuộc uy quyền toàn năng của Ngài.

Khi tìm hiểu về cơn bão tố xảy ra trên Biển Hồ, một nhà chú giải Kinh Thánh đã giải thích: “Chúa Giêsu đã muốn đem các môn đệ của mình đi trên biển, giữa bão tố kinh hoàng để cho họ thấy trước những bão tố sau này là những bắt bớ, những hành hạ mà họ sẽ gặp trên đường tông đồ. Đối với họ, là những người sẽ cầm lái thế giới sau này, con thuyền nhỏ bị sóng gió dữ tợn đánh chòng chành sắp chìm, là hình ảnh của những trận bão tố sau này sẽ tấn công Giáo hội mà họ phải kiên gan chống đỡ”.

Các nhà giảng thuyết thường áp dụng việc Chúa Giêsu làm cho sóng gió yên lặng vào việc Chúa luôn ở cùng Giáo hội, và bênh vực gìn giữ Giáo hội trải qua những cơn sóng gió trần gian. Chiếc thuyền của Phêrô là tượng trưng cho con thuyền Giáo hội của Chúa mà Phêrô là đầu. Những cơn sóng gió là những cơn thử thách bách hại mà Giáo hội luôn gặp phải. Cũng như khi xưa các tông đồ trên thuyền đã được an toàn qua cơn sóng gió vì có Chúa Giêsu ở với các ông, thì ngày nay cũng nhờ có Chúa Giêsu luôn hiện diện trong Giáo hội mà trải qua bao cơn thử thách bách hại, Giáo hội vẫn đứng vững và trường tồn.

Nhìn vào lịch sử Giáo hội, qua dòng thời gian, trải qua các thời đại, chúng ta thấy Giáo hội đã gặp phải bao cơn gió bão, thuyền Phêrô, tức là Giáo hội, đã vượt biển được hai ngàn năm, thuyền đó ra đi, mặc dầu gặp bao sóng gió, nhưng vẫn luôn đứng vững, lý do là vì Chúa Giêsu luôn hiện diện trong Giáo hội như Ngài có mặt trên thuyền của các môn đệ xưa kia. Đôi khi xem ra Ngài ngủ và có vẻ buông xuôi tay lái, nhưng thực ra đó chỉ là những cơ hội để nêu cao sự hiện diện đầy quyền năng của Ngài.

Đối với mỗi người chúng ta cũng vậy, Thiên Chúa toàn năng cai trị những bão tố bên ngoài, thì Ngài cũng thống trị những cơn bão, những sóng gió trong tâm hồn, trong cuộc sống, trong cuộc đời thăng trầm của mỗi người. Cuộc đời chúng ta là một đời lữ khách, vui buồn chen nhau. Là thân lữ khách, chúng ta biết phận mình là thế, và trong muôn cảnh ngộ, chúng ta luôn có hy vọng về tới bến. Đức tin vững chắc là bánh lái thuyền đưa chúng ta về tới bến cứu độ. Chúa Giêsu luôn ngồi đàng sau con thuyền để trợ giúp chúng ta. Chúng ta cứ yên trí lớn chèo thuyền ra đi, điều cần thiết nhất là chúng ta có luôn tin tưởng vững chắc vào Chúa hay không?

Vì thế, giữa những bão tố, những sóng gió của biển đời, chúng ta cần bắt chước gương các tông đồ, chạy lại với Chúa Giêsu và xin Ngài cứu giúp: Lạy Chúa, xin cứu chúng con kẻo chúng con chết mất. Tin tưởng và cầu xin Chúa, chúng ta sẽ được bình an.

 

52.Cha em là người cầm lái. – Thiên Phúc

(Trích trong “Như Thầy đã yêu”)

Trong một cuộc hải trình vượt Đại Tây Dương, khách du lịch đang thư thái ngắm cảnh hoàng hôn trên boong tàu.

Nơi tít mù xa, mặt trời đỏ cam đang chiếu những ánh vàng cuối cùng của một ngày còn sót lại.

Bỗng mây đen ùn ùn kéo tới, tối sầm cả một vùng trời. Sấm chớp đổ xuống liên hồi, giông tố cuồn cuộn nổi lên, càng lúc càng thét gào dữ dội.

Mọi người trên boong chen lấn nhau chạy về phòng mình. Duy chỉ có một bé trai cứ tiếp tục chạy giỡn trên boong giữa trận cuồng phong.

Được hỏi tại sao em không sợ hãi trước cơn giông tố?

Em thản nhiên đáp lại:

– Vì cha em là người cầm lái con tàu!

***

Giống như khách du lịch trong câu chuyện trên, các môn đệ cũng gặp một trận cuồng phong khi vượt biển. Các ngài kinh hoàng vì thấy mình sắp bị nuốt chững. Bó tay bất lực trước phong ba bão táp, các ngài đã vội đánh thức Đức Giêsu và xin Người ra tay cứu giúp: “Thưa Thầy, chúng con chết mất, Thầy không quan tâm sao” (Mc. 4,38). Người liền đe gió và phán với biển như một người bị quỉ ám: “Hãy im đi”. Tức thì sóng yên biển lặng.

Ai cũng thích sóng yên biển lặng, xuôi chèo mát mái. Nhưng cuộc đời nào mà chẳng có những cơn giông? Đại dương nào mà không có những bão tố?

Tuy nhiên, chính giông tố mới giúp chúng ta nhận ra chính mình: mình còn yếu đuối và bất lực, còn nhát đảm và kém tin.

Cũng chính giông tố sẽ đưa ta đến với Chúa, để ta hoàn toàn phó thác cho sự quan phòng của Người. Cũng chính giông tố sẽ giúp ta biểu lộ đức tin. Có thể nói, đức tin sẽ lớn lên ít nhiều sau mỗi lần giông tố.

Thánh Phaolô viết: “Thiên Chúa không ban cho ta một thần khí nhát sợ nhưng mạnh mẽ, bác ái và tự chủ” (2Tm.1,7),

Mỗi người chúng ta không khác chi chiếc thuyền nan chông chênh giữa cơn lốc cuộc đời, khó khăn nối tiếp khó khăn. Giống như cậu bé đã tin tưởng ở cha mình cầm lái con tàu, mỗi người chúng ta cũng hãy vững tin ở Thiên Chúa tình yêu. Người sẽ hướng dẫn cuộc đời của mỗi chúng ta. Có Chúa trong đời, những cô đơn như bị xóa nhòa, những khó khăn dường như nhỏ lại, những yếu đuối như được mạnh sức. Chúng ta không cầu xin cho cuộc đời mình như biển lặng, nhưng xin cho cõi lòng chúng ta được tĩnh lặng ngay giữa lúc biển động.

Thánh Phanxicô Salêsiô dạy: “Phải ở lại trong con thuyền mà Thiên Chúa đã đặt chúng ta vào, để hành trình từ cõi đời này về chốn đời sau. Chúng ta phải sẵn sàng ở lại trong sự bình an thanh thản”.

Lạy Chúa, thuyền đời chúng con chẳng bao giờ được êm ả, nó chỉ êm ả khi tới bến thiên đàng. Xin cho lòng chúng con luôn bình an ngay cả khi Chúa còn đang ngủ, miễn là có Chúa trong thuyền, vì Chúa chính là thuyền trưởng của đời chúng con. Amen.

 

53.An tâm – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Sau một ngày giảng dạy dân chúng, Chúa Giêsu bảo các môn đệ chèo thuyền đưa Ngài sang bên kia Biển Hồ. Biển Galilê dài 21km, rộng 12km, xung quanh có những rặng núi bao bọc. Nhiệt độ ở Galilê thuộc miền Bắc Israel và ở Biển Chết thuộc miền Nam chênh lệch nhau, thỉnh thoảng tạo ra những cơn gió mạnh. Biển Galilê nổi sóng dữ dội vì hình thể lòng chảo với núi non bao quanh. Vì thế, người xưa quan niệm rằng, biển là biểu hiện cho những gì nguy hiểm, tối tăm và sợ hãi. Biển động sóng gào biểu trưng cho một thế giới hỗn loạn và phường tội lỗi (x. Is 57, 20). Ý định băng qua bên kia Biển hồ lúc trời đã về chiều quả là một ý định táo bạo, liều lĩnh, bất chấp hiểm nguy.

Tuy vậy, Chúa Giêsu quyết định ra đi và thực hiện phép lạ trên biển với mục đích củng cố đức tin cho các môn đệ, đồng thời biểu lộ uy quyền của Thiên Chúa vượt trên mọi thế lực sự dữ.

Chúa Giêsu cùng với các môn đệ và có một số thuyền khác vượt biển giữa trời đêm. Thuyền lướt sóng ra khơi giữa màn đêm. Bão tố cuồng phong bỗng dưng ập đến. Các môn đệ, dù nhiều trải nghiệm về biển cả vẫn hốt hoảng lo lắng hoang mang. Chỉ mình Chúa Giêsu vẫn an nhiên tự tại, vẫn ngủ như không có gì xảy đến. Lạy Chúa, đến nước này mà Ngài vẫn ngủ sao? Trong dòng lịch sử, không ít lần dân Do thái thấy như Chúa ngủ quên: “Lạy Chúa, Ngài quên con mãi tới bao giờ? Tới bao giờ còn ngoảnh mặt làm ngơ? Tới bao giờ hồn con vẫn còn lo lắng và lòng con ủ rũ đêm ngày? Tới bao giờ kẻ thù con thắng mãi?” (Tv 13,1-2).

Các môn đệ cuống cuồng lo sợ và hỏi: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?” Tiếng kêu cứu trong tuyệt vọng. Gặp bão tố cuồng phong trên biển cả, không lẽ những dân chài thứ thiệt như các ngư phủ lại phải cậy đến sự trợ giúp của một bác thợ mộc ư? Kinh nghiệm thợ mộc giúp được ích gì cho các ông lúc này? Ở đây rõ ràng là các ông cần sự trợ giúp thần linh, cần một phép lạ. Khi con người đối diện với những gian nan khốn khó, với những mãnh lực ác thần, họ mới thấy sức người quá hèn yếu, nhỏ bé. Bài đọc 1 cho thấy con người yếu đuối tìm đâu được một chỗ dựa vững vàng ngoài niềm tin vào Thiên Chúa toàn năng: “Bấy giờ, giữa cơn bão táp, Đức Chúa lên tiếng trả lời ông Gióp như sau: Cửa đại dương, ai ra tay khép lại khi nước tuôn trào từ đáy vực sâu, khi Ta giăng mây làm áo nó mặc, phủ sương mù làm tã che thân?” (G 38,1.8-9). Đứng trước số phận ngàn cân treo sợi tóc, họ mới thấy cần biết bao quyền năng Thiên Chúa trợ giúp. Thiên Chúa sẽ ra tay đúng lúc để đáp ứng tiếng van nài của họ.

Không phải bằng một kỹ năng hàng hải mà bằng uy quyền của trời cao, Chúa Giêsu thức dậy và ra lệnh cho sóng biển: “Im đi! Câm đi!”. Cử chỉ và lời nói của Chúa giống như lúc Ngài trừ quỉ. Lập tức, gió ngừng thổi và biển yên lặng như tờ. Rồi Chúa quở các môn đệ: sao các con lại sợ hãi thế? Đức tin của các con như thế nào? Rõ ràng, Chúa không nói các môn đệ không có đức tin; Chúa cũng không nói các môn đệ có đức tin bé nhỏ; ở đây đức tin của các môn đệ giới hạn quyền năng của Thiên Chúa, thua sức mạnh thiên nhiên, sự hiện diện của Chúa Giêsu không thể cứu nguy cho những người cùng thuyền được nên họ phải đánh thức Chúa dậy.

Khi Chúa dùng lời quyền năng dẹp yên gió bão, các môn đệ ngạc nhiên và hỏi: “Người này là ai mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”. Thông cảm với các môn đệ vì các ông chưa biết rõ Chúa là ai, quyền năng thế nào để phó thác mạng sống mình cho Chúa. Nhờ phép lạ này, các ông nhận ra Thầy có quyền trên cả gió và biển, có quyền như Thiên Chúa vậy. Từ đó, các ông suy nghĩ, tìm hiểu con người Thầy hơn.

Những trắc trở đến từ thiên nhiên chỉ nói lên một phần nhỏ sự yếu đuối của con người khi phải đối diện với trăm ngàn đợt sóng mãnh liệt từ các dục vọng làm xáo động tâm hồn họ. Những sự ác dữ dội như sóng biển ấy chẳng để ai ngủ yên, mà bắt người ta phải đặt niềm tin vào Chúa trong khi chống cự để có được sự sống muôn đời: “Xin Chúa thấy cho: thù địch con đông vô kể, chúng ghét thân này, ghét cay ghét đắng. Xin bảo toàn sinh mạng và giải thoát con, đừng để con tủi nhục, bởi vì con ẩn náu bên Ngài” (Tv 25,19-20).

Giông bão bắt người ta phải tin, nhưng niềm tin lại cần đến thử thách của giông bão, vì niềm tin cần được thử thách để lớn lên. Sóng gió là những thử thách trong cuộc đời. Những thử thách Chúa gửi đến giúp ta giúp ta biết mình hơn, biết yêu mến cậy trông vào Chúa hơn và giúp đức tin vững mạnh hơn. Chúa phán với ông Gióp trong gió bão, dạy dỗ ông những lẽ khôn ngoan. Ông Gióp đã luôn vững tin vào Chúa, không phàn nàn, kêu trách; rồi Chúa đã làm cho sóng gió cuộc đời ông chấm dứt, và ban lại cho ông một cuộc sống tốt đẹp hơn. Các Tông đồ cũng gặp bão táp trên biển cả. Chúa dùng lời quyền năng dẹp yên giông bão. Khi sóng yên biển lặng rồi, các môn đệ càng vững tin nơi Chúa hơn, từ nay các ngài không còn cuống quít sợ hãi mỗi khi gặp gian nan nữa. Ai càng gặp nhiều thử thách thì càng trở nên từng trải, vững vàng hơn. Thánh Phaolô nhắc nhở: vì thương yêu chúng ta, “Chúa Giêsu Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, nhưng Ngài đã sống lại!” đem đến cho chúng ta một niềm tin vững chắc vào tình thương của Thiên Chúa.

Tàu thuyền một khi đã lênh đênh trên mặt biển rồi thì không thể nào tránh được những cơn sóng to nhỏ và chẳng có cách chi thoát khỏi những chao đảo, bập bềnh và lắc lư do bão táp và cuồng phong gây nên. Cũng vậy, mọi người không ai tránh khỏi những sóng gió và bão tố to nhỏ do biển đời này gây ra!

– Khi tôi lâm vào cảnh hoang mang, sợ hãi, lúng túng, lo lắng, bất an, phiền muộn, chán chường, thất vọng…

– Khi gia đình tôi chạm trán với những biến cố đau thương như tai nạn xe cộ, tai nạn nghề nghiệp, thất nghiệp, vợ chồng con cái bất hòa xung đột với nhau, đau ốm, tang chế…

– Khi trong cộng đoàn giáo xứ của tôi xảy ra những gương mù, gương xấu: đố kị, ghen tương, kèn cựa, tranh giành quyền lợi, chia bè, kéo phái, tố cáo nhau, mạt sát, thù ghét nhau …

– Khi trong cộng đoàn dòng tu của tôi phải đương đầu với những khủng hoảng về mặt nhân sự, tài chánh, huấn luyện, đào tạo, kỳ thị, chia rẽ, phân biệt, thiên vị…

– Khi Giáo Hội bị bêu xấu, hạ nhục, và bị công kích bởi gương mù gương xấu do một số nhỏ giáo sĩ gây ra…

Thuyền trên biển gặp sóng gió, bão táp là chuyện rất bình thường. Khi thuyền đời của mình không thể tránh được sức va chạm và những ảnh hưởng của sóng gió, bão táp giông tố của cuộc đời này thì tôi phải làm gì để giữ cho thuyền khỏi bị lật úp?

Cách hay nhất là bắt chước các môn đệ, chạy đến với Chúa Giêsu để xin Ngài dẹp tan sóng gió và bão tố bảo vệ thuyền của mình khỏi bị nhận chìm. Chỉ khi nào tin vào sự hiện diện của Chúa Giêsu Kitô, Đấng có quyền năng trên sóng gió mưa bão và mở miệng van xin Ngài ra tay cứu giúp thì lúc đó thuyền đời mới được bình an, bởi lẽ “Không có Thầy thì các con không thể làm gì được!” (Ga 15,5).

Tin mừng hôm nay giúp chúng ta luôn sống an tâm. An tâm, bởi con thuyền cuộc đời chúng ta ra khơi, giữa phong ba bão táp, giữa những thử thách gian truân vẫn luôn có Chúa là thuyền trưởng hướng dẫn thuyền vượt sóng. An tâm, bởi Chúa luôn xuất hiện đúng lúc đúng thời để ra tay nâng đỡ chúng ta trước những khó khăn. An tâm, bởi chúng ta biết chúng ta tin vào Đấng chiến thắng mọi thế lực ác thần và sự chết. An tâm, bởi từ nay, cuộc đời chúng ta đã trao vào tay Chúa, tín thác mọi sự trong sự quan phòng của Thiên Chúa, vì như thánh Phaolô, “tôi biết tôi tin vào ai” (2 Tm 1,12).

Xin cho Lời Chúa hôm nay giúp mỗi người chúng ta vững tin vào sự hiện diện của Chúa, để trong mọi hoàn cảnh cuộc đời, chúng ta luôn có Chúa ở vị trí hoa tiêu để hướng dẫn và can thiệp kịp thời, giúp chúng ta đến bến bờ bình an.

 

54.Biển đời và biển khơi – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền.

Cuộc ra khơi nào cũng chứa đựng những bất trắc, những hiểm nguy. Dòng đời nào cũng có biết bao cạm bẫy giăng ngang. Biển khơi luôn làm cho con người sợ hãi. Dòng đời luôn làm cho con người lo âu. Con người luôn cảm thấy mình quá nhỏ bé trước biển khơi và biển đời. Biển đời và biển khơi mãi mãi làm cho con người cảm thất bất lực. Sóng gió vẫn thét gào. Sự dữ vẫn tung hoành. Con người luôn phải đối phó trước những tình huống rủi ro có thể xảy đến.

Thời gian qua báo chí nói nhiều về những nguy hiểm của các ngư dân Việt Nam đánh cá xa bờ. Lênh đênh trên biển. Không được bảo vệ. Một mình đối phó với biết bao hiểm nguy do thiên nhiên đưa đến, và ghê sợ hơn là do chính con người gây ra. Sự táo bạo của bọn cướp biển. Sự tranh giành phần biển đánh cá của các nước lân bang. Nhiều ngư dân cảm thấy sợ hãi khi phải rời bến xa bờ. Họ cảm thấy bất lực trước gian nguy trước mặt. Họ không dám mạo hiểm đánh đổi tính mạng mình để đổi lấy một vài con cá. Họ đành rút lui. Họ sợ không thể đương đầu với bao sóng gió nghi nan. Kẻ bán thuyền. Người để thuyền nằm bờ chờ đợi thời cơ. Có mấy ai đủ can đảm ra khơi lúc này? Họ biết rằng ở nhà thì đói. Nhưng ra đi càng thêm nợ nần, có khi còn mất cả tính mạng!

Năm xưa các tông đồ đã từng hoảng loạn, sợ hãi trước sức mạnh của thiên nhiên, của giông bão. Giông bão như muốn nhấn chìm tất cả: con người và tài sản. Con thuyền của họ thật mong manh! Họ đâu nghĩ rằng đêm nay biển dậy sóng trào. Họ đâu lường hết được những rủi ro có thể đến với họ đêm nay. Họ phải đối đầu với nguy nan, với bất trắc, với rủi ro. Một chiếc thuyền nan mong manh trên biển cả biết bám víu vào đâu? Làm sao họ có thể vào bờ an toàn trước gió biển và cuồng phong lồng lộng. Họ bất lực. Họ muốn buông xuôi cho dòng đời xô đẩy. Nhưng may thay, họ đã nhớ đến Thầy. Thầy vẫn hiện diện bên họ. Có Thầy hiện diện tại sao không cầu cứu? Thầy có thể làm cho kẻ chết sống lại. Thầy có thể đẩy lùi sự dữ. Thầy có thể làm mọi sự. Tại sao không chạy đến cùng Thầy? Dầu sao Thầy cũng là một cái phao duy nhất để các ông bám víu trong lúc nguy nan của dòng đời.

Các ông đã chạy đến kêu cầu Thầy: “Thầy ơi, chúng con chết mất!”. Đó là tiếng kêu từ thẳm sâu tâm hồn cần đến sự trợ giúp từ Thầy Chí Thánh. Đó là tiếng cầu cứu nói lên sự bất lực của con người trước sóng gió ba đào.

Đó cũng là tiếng kêu cứu của con người hôm nay khi đứng trước biết bao nghịch cảnh xảy đến trong đời. Biển đời vẫn đưa đẩy những sóng gió nghi nan, những bất trắc đau thương. Thiên tai vẫn ập xuống địa cầu. Sự dữ vẫn đang tung hoành. Có nhiều người như muốn thất vọng buông xuôi vì không tìm được lối thoát. Có nhiều người oán trời oán đất vì quá sức chịu đựng. Có nhiều người ôm phiền muộn trong đau thương một mình vì chẳng tìm được sự an ủi, cảm thông và tin tưởng nơi tha nhân. Dòng đời vẫn còn đó tiếng kêu van tha thiết dâng lên Đấng tối cao. “Xin cứu chữa chúng con, Chúa ơi!”.

Vâng, cuộc đời vẫn còn đó biết bao sóng gió nổi trôi. Cuộc đời tựa như chiếc thuyền nan chòng chành trước bao cám dỗ mời mọc, bao sự dữ bủa vây. Chúa vẫn mời gọi chúng ta hãy tín thác vào Chúa. Hãy kêu cầu Chúa. Hãy đưa tay để Chúa dìu chúng ta đi qua những thăng trầm của dòng đời. Dòng đời đâu mấy khi bình yên. Con người mãi chơi vơi trong bể khổ trần gian. Nhưng có Chúa vẫn đang đi trong cuộc đời chúng ta. Hãy tin tưởng phó thác vào Chúa. Hãy tin tưởng vào tình thương quan phòng của Chúa, Ngài sẽ luôn làm những điều tốt đẹp nhất cho con cái của Ngài.

Nguyện xin Chúa Giêsu là Đấng luôn hiện diện bên cạnh các tông đồ và bên cuộc đời chúng ta, xin thương đến những cảnh đời đầy khó khăn thử thách của kiếp người chúng ta. Amen.

 

 

55.Chúa luôn đồng hành với chúng ta

(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)

Sau khi kết thúc những loạt bài giảng về các dụ ngôn, Chúa Giêsu cùng với các tông đồ rời bỏ ven biển hồ Galilê lên thuyền đi sang “bờ bên kia”. “Bờ bên kia” chính là thành Gêrasa. Đây là vùng có đông dân cư là người ngoại. Trong khi thuyền đang lướt sóng, thì bổng chốc “một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước”. Thấy cảnh tượng đó, Thánh Phêrô sợ hãi, đánh thức Chúa dậy : “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao? “. Chúa Giêsu chổi dậy, chỉ phán một lời “Im đi, câm đi”. Gió liền tắt, biển lặng như tờ.

Phép lạ này cho chúng ta thấy quyền phép của Chúa Giêsu. Ngài chính là Thiên Chúa. Vì chỉ có Thiên Chúa mới truyền cho gió yên, biển lặng. Con người bình thường không thể làm được điều đó. Phép lạ này cũng kêu mời chúng ta tin tưởng phó thác vào Chúa, nhất là khi gặp thử thách gian nan.

Tại sao Chúa trách các tông đồ chưa có lòng tin? Theo tin mừng Marcô, trước biến cố này, các tông đồ đã từng chứng kiến nhiều phép lạ Chúa Giêsu làm. Phép lạ Chúa Giêsu chữa lành một người bị quỷ ám (Mc 1,21-28). Phép lạ Chúa Giêsu chữa nhạc mẫu ông Simon(Mc 1,29-31). Phép lạ Chúa Giêsu còn chữa cho nhiều người (Mc 1,32-34). Phép lạ Chúa Giêsu chữa người bị phong hủi (Mc 1,41-45). Phép lạ Chúa Giêsu chữa người bị bại liệt (Mc 2,1-12). Phép lạ Chúa Giêsu chữa người bị bại tay (Mc 3,1-6). Chứng kiến nhiều phép lạ như thế, đáng lẽ các tông đồ phải tin tưởng vào Chúa. Các ông không lo sợ khi có Chúa ở cùng. Nhưng các ông vẫn lo sợ, chứng tỏ các ông chưa có lòng tin. Các ông vẫn chưa tin vào quyền năng của Chúa. Cho nên, Chúa trách các ông “chưa có lòng tin”. Dẫu sao, sau khi phép lạ xảy ra, các ông xác tín hơn niềm tin của mình vào Chúa Giêsu. Bằng chứng là các ông hỏi nhau : “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”. Hỏi tức là trả lời. Chỉ có Chúa là Thiên Chúa mới có thể làm được điều đó.

Qua đó cho chúng ta thấy, tuyên xưng đức tin khi bình an, sau khi chứng kiến phép lạ thì rất dễ. Nhưng tuyên xưng đức tin trong đau khổ, trong khi gặp hoạn nạn rủi ro thì không dễ chút nào.

Hội Thánh như con thuyền vượt biển thế gian, luôn gặp sóng to gió lớn là sức chống phá của ma quỷ và tay sai của chúng. Nhìn lại lịch sử Giáo hội chúng ta thấy rõ điều đó. Sự bách hại Giáo hội thời sơ khai. Sự bách hại Giáo hội khắp mọi nơi qua mọi thời đại. Sự bách hại Giáo hội Việt Nam trong thời kỳ đầu. Tuy vậy, Giáo Hội luôn đứng vững và phát triển. Bởi vì, Giáo Hội là của Chúa. Chúa luôn can thiệp và đồng hành với Giáo Hội.

Gia đình, bản thân mỗi kitô hữu chúng ta cũng giống như con thuyền vượt biển thế gian. Có những lúc bình an. Có những lúc gặp sóng to gió lớn. Thử thách về đức tin. Thử thách về đời sống gia đình. Chúng ta có vượt qua được “những cơn cuồng phong” hay không là tuỳ thuộc vào chúng ta. Nghĩa là, trong thử thách, đau khổ, hoạn nạn rủi ro, chúng ta có cầu xin Chúa cứu giúp chúng ta không? Chúng ta có tin tưởng vào quyền năng của Chúa không? Nếu chúng ta chỉ dựa vào sức riêng của mình, hay dựa vào một thế lực khác ngoài Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ thất bại. Còn nếu chúng ta biết cậy dựa vào Chúa, tin tưởng phó thác vào Chúa chúng ta sẽ được Chúa cứu giúp. Mặc dầu có những lúc chúng ta cảm thấy như Chúa đang ngủ.

Có một người nọ ví cuộc đời của mình như một người lữ hành đang đi trên một bãi biển đầy cát. Khi nhìn lại cuộc hành trình, anh nhận ra hai điều kỳ lạ.

– Khi anh thành công, hạnh phúc, vui sướng… anh thấy có bốn dấu chân trên cát. Đó là hai dấu chân của anh và hai dấu chân của Chúa. Thiên Chúa đồng hành để chia sẻ niềm vui với anh.

– Khi anh thất bại, đau khổ, buồn sầu…anh chỉ thấy có hai dấu chân trên cát. Và anh nghĩ đó là hai dấu chân của mình. Thiên Chúa đã bỏ rơi khi anh thất bại. Thiên Chúa đã vắng bóng khi anh đau khổ.

Sau đó, anh thắc mắc với Chúa: “Khi con thành công, hạnh phúc… Chúa lại đồng hành với con, đi với con…Nhưng khi con thất bại, đau khổ…những lúc con cần Chúa nhất thì Chúa lại bỏ rơi con. Tại sao Chúa lại đối xử với con như thế?”. Chúa Giêsu trả lời: “Khi con vui thì Ta đi bên cạnh con, đi với con, song hành cùng con. Còn khi con buồn, đau khổ, thất vọng thì Ta lại vác con trên vai của Ta. Cho nên dấu chân trên cát là của Ta chứ không phải của con”.

Ngày kia, sau khi đã thoát khỏi sự cám dỗ nặng nề Thánh nữ Cartarina Sienna đã hỏi Chúa:

– Lạy Chúa, Chúa ở đâu khi con phải chiến đấu. Chúa Giêsu đã trả lời:

– Ta ở bên cạnh con để giúp đỡ con.

Lạy Chúa, Chúa luôn ở bên cạnh chúng con, đồng hành với chúng con trên mọi nẻo đường trần thế. Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng con. Chúa luôn cứu giúp chúng con trong cơn gian nan khốn khó. Chúng con hết lòng cám ơn Chúa. Xin cho chúng con hằng tin cậy phó thác vào quyền năng vô cùng của Chúa. Amen.

 

56.Vẫn chưa có lòng tin?

(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)

Nằm trong văn mạch 4:35-5:43, trình thuật 4:35-41 là một trong những đoạn trình bày quyền năng của Chúa Giêsu được biểu lộ cho các môn đệ sau khi Người đã giảng dạy (4:1-34): giải thoát khỏi nguy hiểm sự chết (4:35-41); khỏi quyền lực thù nghịch với Thiên Chúa (5:1-20), khỏi bệnh tật (5:25-34), và khỏi sự chết (5:21-24.35-43). Điểm chung của các trình thuật nầy là: – sự hiện diện của các môn đệ ( 4:35; 5:13; 5:31.37); – sự bất lực của con người – cầu cứu ở Chúa Giêsu (4:38; 5:3; 5:23; 5:26); – Chúa Giêsu giải thoát mọi sự dữ (4:39; 5:12-13; 5:29; 5:41tt); – Người đòi hỏi lòng tin (4:40; 5:34.36). Cấu trúc của đoạn 4:35-41 có thể phân ra như sau: 1- Nhập đề: bối cảnh và nhân vật (cc. 35-36); 2- Chúa Giêsu làm sóng gió lặng yên (cc. 37-29); 3- Kết luận: Thắc mắc của cả Chúa Giêsu và các môn đệ (cc. 40-41).

Câu 4:34 là móc nối giữa hai đoạn 4:1-34 và 4:35-5:43. Như khi ở riêng với các môn đệ, Chúa Giêsu đã thường cắt nghĩa mọi sự cho họ, Người cũng sẽ tỏ chân dung của Người qua những việc quyền năng Người thực hiện khi Người và họ đã tách khỏi dân chúng (x. 3:9.20.32; 4:1). Họ cần “ở với Người” (c. 36) như lần đầu tiên họ được kêu gọi để có thể có kinh nghiệm sâu đậm về Người (3:14; x. 5:37). “Buổi chiều” trong Marcô thường là khung cảnh của những việc không tốt lành sẽ xảy đến (4:35; x. 6:47; 11:11; 14:17; 15:42). Đây là lần duy nhất Marcô nói là các môn đệ “đem Người theo” (paralambano). Động từ nầy nói đến quan hệ giữa Chúa Giêsu-môn đệ. Thông thường Người đem các môn đệ theo để tỏ cho họ chân tính của Người (9:2), cho họ hiệp thông vào cuộc thương khó của Người (10:32; 14:33). Ngược lại, các môn đệ đem Người theo và cuối cùng tỏ lộ cho Người thấy sự yếu đuối của họ (4: 40).

Trong hành trình sang bờ bên kia, các môn đệ kinh nghiệm ba điều: vũ lực của gió bão kéo theo nguy hiểm chết người, sự bất lực của con người và quyền năng của Chúa Giêsu (cc. 37-39). Gió bão được kể là quyền lực thù nghịch gây hại cho con người. Chúa Giêsu ngăm đe và ra lệnh “Im đi!” cho ma quỷ và gió bão (x. 1:25; 3:12; 4:38; 8:33; 9:25). Các môn đệ thấy lâm nguy cho tất cả “chúng ta”, nhưng lại tỏ ra bất lực chế ngự gió bão, nên phải làm Người chỗi dậy (egeirò). Mỗi lần Chúa Giêsu “làm ai chỗi dậy” là Người đã chữa lành người đó (x. 1:31; 5:41; 9:27). Trái lại, các môn đệ chờ đợi sự can thiệp từ phía Người. Việc Người ngủ trong khi thuyền gặp bão tố cho thấy Người không sợ bị hại do những gì có thể xảy ra (x. 13:36; 14:37.40tt). Không cần ngăn ngừa và tránh né, vì Người làm chủ trên gió bão.

Khi gió bão đã biến mất, Chúa Giêsu đặt câu hỏi với các môn đệ, cũng như họ cũng tự hỏi về Người là ai. Hai câu hỏi của Người không mâu thuẫn nhau; trái lại, mở một con đường. Trong tình huống gió bão có thể gây chết người, vì đã để mình cuốn lôi bởi vũ lực vô nhân tính, nên các môn đệ đã cảm nghiệm cách thâm sâu sự bất lực mà biểu hiện của nó là sự sợ hãi. Trái lại, cũng trước nguy hiểm ấy, nếu để Chúa Giêsu và sự hiện diện của Người dẫn dắt vô điều kiện, sẽ không cảm thấy bị đe dọa và không sợ hãi. Đó là đức tin vô điều kiện Người muốn nơi môn đệ của Người (x. 11:22). Còn câu tự hỏi của các môn đệ rất giống với những câu hỏi của dân chúng trước đây, chỉ sự kinh ngạc và thán phục trước công cuộc cao cả tỏ hiện quyền năng của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu (x. 1:27).

Biết Chúa Giêsu không chỉ bằng tri thức, mà cả kinh nghiệm bản thân. Đức tin cần thiết để nhận biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa đang thực hiện những điều không thể cho con người, và để sống hiệp thông với Người (x. 4:11).

 

57.Lạy Thầy cứu chúng con với, chết mất

(Suy niệm của Lm. Thu Băng, CRM)

  1. Lo sợ và tin tưởng

Kinh nghiệm cho thấy Sợ hãi vẫn đi theo đời sống của con người và mỗi chặng đường cuộc sống là một cái gì đó làm cho con người sợ hãi.

Từ cái sợ mơ hồ của thời còn nhỏ như:

* Sợ người lớn, sợ bóng gió, sợ con vật.

Đến cái sợ chính đáng của tuổi trưởng thành:

* Sợ thất nghiệp, sợ gia đình phân tán, sợ thiên tai, sợ chiến tranh, sợ chết…

Câu chuyện của Phêrô đi trên biển hôm nay gợi lại cho chúng ta thấy phần nào cái sợ của con người và niềm tin mỏng manh vào Chúa.

  1. Sợ hãi chiếm một địa vị khá lớn trong cuộc sống:

– Đứng trước một nghịch cảnh, ta thấy lòng nao nao rung động.

– Nhìn núi cao hùng vĩ, ngó vực thẳm hun hút, chân đứng trên đá vững chắc cũng vẫn thất run run trong lòng.

– Gặp một con thuyền lạ tiến đến với súng ống lăm le chĩa vào thuyền, ta thấy nguy cho tính mạng.

– Một tiếng động trong đêm hoang vắng làm ta lạnh xương sống.

– Nhìn vào thực tại cuộc sống còn biết bao nhiêu cái lo cái sợ khác nữa: Thất nghiệp lấy gì mà trả tiền nhà? Sợ thiếu thuốc men, sợ bệnh tật, sợ con hư thân, sợ cả bà nội tướng la nữa… Sợ hãi chỉ vì lúc đó cái ý tưởng nguy nan ám ảnh làm ta mất bình tĩnh, tâm thần rối loạn.

  1. Ngước nhìn về lịch sử con người từ thời thượng cổ:

– Ađam Evà cũng đã mang cái sợ khi lỗi luật Chúa: Ăn trái cấm, trần truồng nên không dám bước ra khỏi bụi cây (Gen 3:9-10).

– Con trẻ sơ sinh vừa lọt lòng mẹ đã cảm thấy sợ hãi mà khóc.

  1. Sợ có nhiều cấp bậc và nhiều phương diện:

– Kẻ bạo động giết người vì sợ người khác giết mình.

– Kẻ độc tài như Tần Thủy Hoàng tàn sát, đốt làng vì sợ dân hại mình.

– Các cường cuốc trên thế giới võ tranh ráo riết cũng vị sợ mình bị tiêu diệt.

– Tóm lại, thế giới này là thế giới sợ hãi, ngoại trừ kẻ điếc không sợ súng còn chúng ta ai cũng sợ cả.

Nhưng phải nhận thực: Chỉ nên sợ cái nào đáng sợ, lại phải biết trấn át sợ hãi để mình bình yên.

– Chúa Kitô sau khi truyền cho sóng gió im lặng, Ngài bảo các môn đệ: “Sao các con sợ? Các con không có đức tin ư?” Điều đó không khác gì Ngài nói: “Các con không biết Thầy ở cùng thuyền sao? Các con không biết Thầy có quyền năng lấn át gió biển sao? Thầy đã chẳng cho Phêrô đi trên mặt biển đến với Thầy sao? Vậy sao các con sợ chìm thuyền?”

  1. Có Chuyện kể rằng:
  2. Một người làm xiệc rất giỏi, ông đi trên một sợi dây từ nóc nhà này qua nóc nhà kia, hai tay kẹp thêm hai người nữa. Ông vừa đi vừa nhảy mà không sao cả. Hai người hai bên còn cười và dẫy dụa mua vui cho khán giả.

Nhìn xuống dưới đất, ông làm xiệc thấy em bé đứng há hốc miệng nhìn lên cách thú vị. Ông hỏi: “Em có tin tôi cũng bế em trên dây được không?” Em trả lời: “Tôi tin chứ”. Nhưng khi ông làm xiệc tới gần, em bé liền chạy mất. Đó là tin tưởng ngoài miệng nhiều hơn là tin tưởng trong lòng. Còn kẻ tin tưởng thật vào Chúa thì khác.

Một Chuyện khác:

  1. Một cậu bé 5 tuổi đang ngủ ngon trên thuyền, bỗng thức giấc vì bão nổi lên. Cậu mở mắt thấy mọi sự đang chìm trong bóng tối. Tiếng gió lách qua khe cửa rít lên từng cơn. Bỗng bé xao động, cậu hoảng hốt goị cha:

– Cha ơi. Cha ơi! Con sợ quá.

Người cha nghe tiếng con hối hả đáp lời:

– Cha đây con. Nghe tiếng cha cậu đáp vọng lại: Cha đâu? Con không thấy?

Cậu đưa tay quờ quạng lung tung. Đụng được vào cha, cậu níu lất cha. Cha ôm con vào lòng, vỗ về và ru cậu ngủ lại trong giấc ngủ lại.

Mặc dù trời vẫn mưa, bão vẫn lớn, màn đêm vẫn dầy đặc, nhưng sợ hãi trong lòng cậu bé không còn nữa.

Trong những ngày đau khổ của cuộc sống trần gian, những lúc hiểm hoạ cuộc đời, chớ gì chúng ta cũng biết cầu cứu Chúa với niềm tin, một niềm tin phó thác. Chỉ vậy thôi, không cần gì hơn nữa, chúng ta sẽ cảm thấy an tâm với cuộc sống.

Chúa sẽ không cất lấy sự lo lắng của chúng ta cho tới khi ta quyết định phó thác cho Ngài.. Lăng xả vào lòng Ngài và Ngài sẽ vỗ về ta vào trong giây phút bình an. Chúa không chịu thua chúng ta khi chúng ta biết phó thác nơi Ngài.

 

58.Bão tố yên lặng

(Suy niệm của Lm. Minh Vận, CRM)

Lịch sử tường thuật một phép lạ sau đây: Khi Đô Đốc Magella hướng dẫn đoàn tầu thám hiểm Phi Luật Tân, vừa ra giữa biển khơi thì gặp cơn bão dữ dội, khiến đoàn tầu đắm chìm hầu hết, chỉ còn duy chiếc tầu của Đô Đốc đang bồng bềnh trôi dạt trên sóng nước. Mọi người đều kinh hoàng khiếp sợ, tụ họp lại trên bong tầu để chờ đợi tử thần. Nhìn thấy bên cạnh mình, một thiếu phụ ẵm đứa con thơ, Đô Đốc xin được ẵm đứa bé. Rồi ông bồng nó trên tay, dâng lên trời cao và dâng lời cầu nguyện thống thiết lên Chúa: “Lạy Chúa, chúng con là những kẻ tội lỗi, đáng chết chìm dưới vực thẳm này, nhưng xin Chúa hãy đoái thương nhìn đến em bé thơ ngây vô tội này, mà tha thứ tội lỗi cho chúng con”. Lịch sử xác nhận sự kiện lạ lùng này bằng lời chứng: “Lời ông nguyện vừa dứt thì cơn bão tố yên lặng” (Trích sách “Gặp Gỡ Chúa” trang 94).

  1. TẠI SAO CHÚNG CON SỢ HÃI

Cũng một tâm trạng hoảng sợ như đoàn thám hiểm của Đô Đốc Magella trên đây, các Tông Đồ cũng hãi hùng kinh khiếp khi thấy phong ba nổi lên dữ dội, khiến các ngài tới đánh thức Chúa dậy và có vẻ trách giỗi Chúa: “Thưa Thầy, chúng con hầu chết chìm mà Thầy cứ làm ngơ, không quan tâm gì sao?” Chúa chỗi dậy ngay và quát bảo giông tố: “Hãy im đi! Hãy im đi!” Với lời uy quyền đó của Chúa, lập tức giông tố ngừng và biển lặng như tờ. Quay lại nhìn các môn đệ, Chúa hỏi như quở trách các ông: “Tại sao các con sợ hãi? Các con không có Đức Tin ư?” Thấy phép lạ Chúa làm, lại được nghe lời Chúa khiển trách, các Tông Đồ tự cảm thấy hổ thẹn vì thiếu lòng tin nơi Thầy, nên các ngài kinh hãi nói với nhau: “Người là ai mà gió bão và giông tố cũng đều phải vâng lệnh Người?”

  1. TRẦN GIAN LÀ BIỂN KHƠI

Trần gian là biển khơi, lúc phẳng lặng, lúc gợn sóng, lúc phong ba giông tố. Nhân loại như đoàn lữ hành vượt biển, cầu mong tới bến bình an.

Trần gian lúc được sánh ví như là biển khổ, như thung lũng nước mắt; như nơi giao chiến với biết bao kẻ thù, phải vật lộn vất vả, đổ mồ hôi sôi nước mắt vì sinh kế.

Nhưng với cái nhìn hy vọng và lạc quan, Thánh Tông Đồ Phaolô đã nói với chúng ta: “Đây là thời thuận tiện, đây là ngày cứu độ” (1 Cor 6:2). Như thế, thời gian Chúa ban cho chúng ta được sống trên trần gian này, lại không phải là một ơn ban, một cơ hội thuận tiện giúp chúng ta lập công luyện đức, để thánh hóa bản thân và cứu độ tha nhân, cùng nhau phụng sự tôn thờ và yêu mến Thiên Chúa để đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu mà Chúa đã sắm sẵn cho chúng ta là con cái Chúa trên Quê Trời sao?

Toàn thể nhân loại, nhất là con cái Chúa, sống trên trần gian này là như đoàn lữ hành đang trên đường tiến về Quê Hương vĩnh cửu, lòng luôn khát mong đạt tới bến bình an, nơi hạnh phúc, nơi mà lòng chúng ta được toại nguyện, được thỏa mãn trong Chúa là cùng đích tối chung của chúng ta.

Kết Luận

Để đạt tới cùng đích mong chờ của ơn gọi làm con cái Thiên Chúa, chúng ta cần phải đặt trót niềm tin cậy phó thác nơi một mình Chúa. Có Chúa hiện diện nơi cuộc sống, được Chúa ngự trong tâm hồn, chúng ta còn sợ hãi gì? Chúa đã chết thay cho chúng ta, để tái sinh chúng ta trong ơn thánh, cho chúng ta được phục hồi ơn làm con cái Chúa nhờ công nghiệp Ơn Cứu Độ của Chúa Giêsu Kitô Con Chúa, chúng ta còn sợ hãi gi?

Vậy chúng ta hãy sống cho Chúa, hãy biến đổi và trở nên một tạo vật mới của Chúa. Nếu chúng ta có tâm hồn trong sạch thánh thiện, luôn sống trong ơn nghĩa Chúa, giông tố bão táp có nổi lên mạnh mẽ thế nào đi nữa, đời sống chúng ta cũng sẽ luôn được an bình và được thưởng nếm niềm vui sướng hạnh phúc chân thật của Chúa ngay trên trần gian này.

 

59.Bão biển – Lm VIKINI

Cơn bão số hai đổ bộ vào tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng từ chiều 24 đến 25 tháng 05 năm 1989, sức gió giật cấp 12 kèm theo mưa to đổ xuống như thác. Đây là cơn bão mạnh nhất từ trước đến nay ở tỉnh này. Thống kê đầu tiên cho biết gần 500 người bị chết và mất tích. Hàng trăm người bị thương, hàng vạn ngôi nhà, nhiều trường học, bệnh viện, trạm trại, kho tàng … bị sụp đổ, hàng nghìn tầu thuyền bị chìm, hư hỏng, thất lạc. Trên 50.000 mét khối kinh mương thủy lợi bị vỡ lở … Bị tổn thất rất to lớn chưa thể tính hết được.

Chỉ một cơn bão ở một miền nhỏ so sánh với cả nước, và nếu sánh với cả địa cầu nó chỉ là một chấm nhỏ đã phải chịu một cơn bão khủng khiếp như thế, thì trên trái đất này còn phải chịu bao nhiêu cơn bão khủng khiếp đến chừng nào! Biển cả đối với loài người vẫn là mối nguy cơ lớn đe dọa ghê gớm, một mãnh lực không thể chế ngự được. Trước nguy cơ của biển, con người quá bé nhỏ mong manh không ai dám cậy tài, cậy sức vào bất cứ một con tàu nào, dù nó là con tàu khổng lồ như Titan, hay tối tân như con tàu nguyên tử, chỉ đụng sơ vào tảng băng, đá ngầm đều vỡ tan, chìm mất tích dưới đáy đại dương.

Biển hồ Tibêria xưa tới nay vẫn nổi tiếng sóng gió đột ngột nổi lên dữ dội do những luồng gió thổi từ cao nguyên Giôlăng tới. Thêm vào đó, thời các tông đồ, thuyền bè chỉ là mấy miếng gỗ, tre, nứa thô sơ, khi gặp bão biển, chỉ còn cách nộp mình cho thần chết. May cho các môn đệ, các ông đã biết Đức Giêsu, Đấng đã trừ khử quỷ dữ (Mc. 1, 25), Đấng chế ngự thần chết (Mc. 5, 35-43), Ngài đang ngủ ở đàng sau thuyền, chắc chắn sẽ khắc phục được bão biển.

Nhưng sao Ngài vẫn ngủ yên trước cuồng phong dữ dội? Thật lạ lùng! Các ông không thể kiên nhẫn chờ Ngài thức dậy. Sóng đã ập vào thuyền đầy tràn nước rồi, mau mau chạy đến kêu gào Ngài cứu nguy: “Lạy Thầy, xin Thầy cứu vớt, chúng con chết mất”.

Chìm thuyền, chết đến nơi rồi, thế mà Ngài còn than trách: “Sao nhát đảm, hỡi kẻ yếu lòng tin?”. Lòng tin quá yếu, nhưng các ông vẫn còn một chút tin tưởng cầu xin Ngài, nhờ đó, Thầy đã quát bảo bão biển phải im lặng ngay. Kinh ngạc bao nhiêu, Ngài là ai mà bão tố, sóng gió biển cả phải tuân lệnh. Thứ mãnh lực vô tri, vô giác, sao biết nghe lời Ngài? Sao những thứ có tri, có giác, không biết nghe lời Ngài mà lặng yên đi, đừng nổi loạn nữa? Tại sao loài người dám nổi loạn chống lại Ngài? Phải chăng họ cậy có tri, có giác, có tài? Vì cậy có tri, có giác, có tài nên đã bị những thứ vô tri, vô giác, vô tài nổi loạn chống lại loài người. Chừng nào loài người mới biết mở mắt ra thấy mình quá yếu đuối, quá bất lực trước thiên nhiên vô tri giác, lúc đó loài người mới biết chạy đến cầu cứu Đấng đã dựng nên và an bài mọi sự. Thiên Chúa nhiều lần đã dạy cho loài người những bài học đích đáng như đại hồng thủy, động đất, cháy rừng, hạn hán, bệnh tật để đừng bao giờ dám cậy mình đòi bằng Thiên Chúa hay chối bỏ Ngài.

Các môn đệ, phải chăng lúc ra khơi cũng tự mãn cho mình là dân biển lành nghề, chẳng sợ chi ai, mặc kệ Thầy nằm đó, Thầy đang nhờ cậy ta vượt biển! Viết đoạn Phúc Âm này, Marcô không phải chỉ giản dị kể lại một phép lạ, mà chủ đích làm nổi bật câu hỏi: “Ngài là ai mà bão và biển phải tuân lệnh?”. Không phải Ngài vô tình dẫn môn đệ sang bờ biển đối diện bên kia, miền đất của lương dân thù địch với Galilê, miền đất của dân Do thái. Suốt cuộc đời Ngài phải trải qua những cuộc chiến gay go chống lại kẻ tin ma thờ quấy, sự dữ, tội lỗi, bệnh tật và cái chết khốc liệt. Những sự dữ đó Kinh thánh thường gọi đêm tối, vực sâu biển cả, Ngài ngủ trong đêm tối giữa biển cả trần gian, bao nhiêu cuồng phong bão lực đang phá xiềng, phá xích, xổ lồng tung hoành khủng khiếp. Giấc ngủ kinh hoàng của Ngài là cuộc thương khó; Ngài ở đàng lái, cuối thuyền, dựa đầu vào gối mà ngủ giữa đêm bão biển. Cuối đời Ngài, Ngài cũng phải dựa đầu vào cây thập giá mà chết giữa những địch thù khát máu. Hôm nay, giữa bão biển đêm tối, Ngài muốn thao dượt đức tin non yếu của các ông, để ngày mai giữa cơn khủng hoảng thương khó của Ngài, các ông “đừng sợ”. Nhưng các ông vẫn khiếp sợ chạy trốn. Phúc cho các ông, Ngài thức dậy, dẹp yên sóng gió. Ngài chỗi dậy từ trong kẻ chết cho các ông được bình an! được chỗi dậy với Ngài trong vinh quang, Ngài bảo trước cho Phêrô: “Khi con chỗi dậy, con hãy làm cho anh em con nên vững mạnh” (Lc. 22, 32).

Giờ đây Phêrô đang kể lại kinh nghiệm sống chết này cho giáo đoàn Rôma đang lâm cảnh cuồng phong bão táp gây nên cảnh chết chóc tử đạo khốc liệt để họ kiên trì vững mạnh trong đức tin mà biết dựa đầu vào Đức Giêsu mà chỗi dậy trong “Đấng đã chết và sống lại vinh quang vì họ” (2Cr. 5, 17).

Lạy Chúa, biển đời đầy dẫy những nguy hiểm: “nguy hiểm về sông ngòi, nguy hiểm về trộm cướp, nguy hiểm về đồng bào, nguy hiểm về dân ngoại, nguy hiểm nơi thành thị, nguy hiểm chốn hoang vu, nguy hiểm trên biển cả, nguy hiểm vì anh em giả dối … nào ai yếu đuối mà tôi không yếu đuối? Ai vấp ngã mà tôi không bỏng xót!” (2Cr. 11, 26-29).

Lạy Chúa xin cho chúng con biết dựa đầu vào Chúa mà chỗi dậy luôn luôn.

 

60.Những đợt sóng

(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)

Có lẽ chẳng ai lạ gì với câu ca dao này: “Người ta đi biển có đôi, còn tôi đi biển mồ côi một mình”. Đó là nói về tình trạng một phụ nữ có chồng nhưng chẳng nhờ chồng được gì, cứ phải mình ên lo toan mọi thứ cho gia đình.

Nói đến sóng là nói đến nước, sông và biển. Sóng có nhiều loại: Sóng lớn (to), sóng nhỏ, sóng cao, sóng thấp, sóng cồn, sóng cả, sóng bạc đầu, sóng thần,… Sóng còn mang nghĩa khác như sóng truyền hình, sóng phát thanh, sóng điện từ,… thậm chí còn gọi là làn sóng người. Chắc hẳn nguy hiểm nhất và đáng sợ nhất là sóng cám dỗ, sóng tội lỗi, sóng mê đắm, sóng thù hận,… Các xu hướng xấu càng ngày càng xuất hiện nhiều, đó cũng là những “con sóng” nguy hiểm cần phải lưu ý!

Về điện tử, sóng còn gọi là bước sóng, có chuyển động với tần số dài hoặc ngắn, và có tác dụng khác nhau. Ví dụ: Sóng phát thanh có tần số ngắn thì có thể phát đi xa, sóng phát thanh có tần số dài thì có thể phát đi gần. Trong vật lý, sóng là sự lan truyền của dao động, sóng có thể mang theo năng lượng, lan truyền trong nhiều môi trường khác nhau, cũng có thể bị đổi hướng (bởi khúc xạ, phản xạ, tán xạ, nhiễu xạ,…), và có thể thay đổi năng lượng (bởi hấp thụ, bức xạ,…), thậm chí là thay đổi cấu trúc (như thay đổi tần số, môi trường phi tuyến tính,…).

Trong ca khúc “Sóng Về Đâu”, cố NS Trịnh Công Sơn đã từng nói với biển: “Biển sóng biển sóng đừng xô tôi, đừng xô tôi ngã dưới chân người; biển sóng biển sóng đừng xô nhau, ta xô biển lại sóng về đâu?”.

Sóng là hình tượng của nỗi gian truân, cực khổ của con người. Không ai muốn gặp đau khổ, nhưng chính đau khổ mới làm cho người ta thành nhân. Vả lại, thử thách càng lớn, cơ hội càng lớn. Ngạn ngữ Phi châu có câu: “Biển lặng chẳng tạo nên thủy thủ tài ba”. Tục ngữ Việt Nam cũng nói: “Lửa thử vàng, gian nan thử sức”. Chính gian khổ cho chúng ta biết ai là người đáng là thầy ta hay không.

Thomas Carlyle (1795-1881, triết gia, nhà văn châm biếm, nhà viết luận, sử gia và nhà giáo người Tô Cách Lan) đã nhận định: “Tai ương là bụi kim cương mà Thiên Đường dùng để đánh bóng châu báu” (Adversity is the diamond dust that Heaven polishes its jewels with).

Từ cổ chí kim – và có thể cho đến tận thế, có lẽ không ai phải lao đao chịu khốn khổ như Thánh Gióp, thậm chí còn bị Satan thử thách đủ kiểu (Sách Gióp, chương 1). Nhưng dù thế nào thì ông Gióp vẫn một niềm tín trung. Và rồi ngay giữa cơn bão táp, Đức Chúa đã lên tiếng trả lời ông: “Cửa đại dương, ai ra tay khép lại khi nước tuôn trào từ đáy vực sâu, khi Ta giăng mây làm áo nó mặc, phủ sương mù làm tã che thân? Đường ranh giới của nó, chính Ta vạch sẵn, lại đặt vào nơi cửa đóng then cài” (G 38:8-10). Rồi Thiên Chúa nói với ông Gióp: “Ngươi chỉ tới đây thôi, chứ không được tiến xa hơn nữa, đây là nơi các đợt sóng cao phải vỡ tan tành!” (G 38:11).

Trong tâm tình tạ ơn vì được Thiên Chúa giải thoát, tác giả Thánh Vịnh cho biết: “Họ vượt biển ngược xuôi nghề thương mãi, giữa trùng dương lèo lái con tàu, mắt đã tường việc Chúa làm nên và kỳ công Người thực hiện giữa dòng nước lũ. Chúa truyền lệnh khiến bùng lên bão táp, lớp sóng xô cuồn cuộn dập dồn. Họ nhô lên tận trời, nhào xuống vực sâu, lúc nguy hiểm, hồn xiêu phách lạc, bị quay cuồng, lảo đảo như say, khéo cùng khôn đã chìm đâu mất” (Tv 107:23-27). Thiên Chúa là Tạo Hóa, là Đấng cầm quyền sinh tử, Ngài có quyền “đẩy xuống âm phủ rồi lại kéo lên” (1 Sm 2:6). Quả thật, đúng như ông Gióp nhận định: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Đức Chúa!” (G 1:21). Xác định được như ông Gióp thì không gì phải lo. Nhưng muốn được vậy, vấn đề quan trọng là chúng ta có dám chấp nhận thân phận mình mà vẫn chúc tụng Chúa hay không. Điều này không dễ chút nào!

Có tin tưởng thì mới trung thành, và ai trung thành thì chắc chắn không phải thất vọng. Tác giả Thánh Vịnh nói về những người thành tín với Thiên Chúa: “Khi gặp bước ngặt nghèo, họ kêu lên cùng Chúa, Người đưa tay kéo họ ra khỏi cảnh gian truân. Đổi phong ba thành gió thoảng nhẹ nhàng, sóng đang gầm, bỗng đâu im tiếng, họ vui sướng, vì trời yên bể lặng và Chúa dẫn đưa về bờ bến mong chờ. Ước chi họ dâng lời cảm tạ vì tình thương của Chúa, và vì những kỳ công Chúa đã thực hiện cho người trần” (Tv 107:28-31).

Thánh Phaolô cho biết: “Tình yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi, vì chúng tôi nghĩ rằng: nếu một người đã chết thay cho mọi người thì mọi người đều chết. Đức Kitô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình” (2 Cr 5:14-15). Tình yêu có sức mạnh hơn cả tử thần, khả dĩ khiến người ta làm được những điều lạ lùng, ngỡ như không bao giờ làm được. Tình yêu biến đổi tất cả. Vì yêu thương mà người mẹ liều lấy thân mình che cho đứa con dù biết mình sẽ bị thương hoặc thiệt mạng. Vì yêu thương mà Thánh Lm Maximilian Maria Kolbe (1894-1941, Dòng Phanxicô) đã dám chết thay cho một tử tù. Đó là tình yêu vị tha (vì người khác) chứ không hề có chút gì vị kỷ (vì mình).

Loại tình yêu cao thượng như vậy được Đức Kitô gọi là “tình yêu vĩ đại nhất” (Ga 15:13). Và chính Ngài đã thể hiện tình yêu này vì yêu thương và để cứu độ các tội nhân chúng ta: Ngài bị đóng đinh vào Thập Giá và chết trên đồi Can-vê. Thật hợp lý khi Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta phải “sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình”.

Và vì thế, Thánh Phaolô xác định: “Từ đây, chúng tôi không còn biết một ai theo quan điểm loài người. Và cho dù chúng tôi đã được biết Đức Kitô theo quan điểm loài người, thì giờ đây chúng tôi không còn biết Người như vậy nữa. Cho nên, phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi” (2 Cr 5:16-17). Người ta luôn thích mọi thứ đổi mới (quần áo, vóc dáng, giày dép, điện thoại, xe cộ,…), nhưng có lẽ người ta chưa thực sự quan tâm việc đổi mới tâm hồn, đặc biệt là tâm linh. Chúng ta đã được Đức Kitô đổi mới, nhưng chúng ta chưa tích cực duy trì sự đổi mới đó nên tâm hồn chúng ta vẫn có cái gì đó “cũ” lắm!

Mỗi khi con sóng duyềnh lên, nó không chỉ “đổi mới” mà còn đem theo phù sa bồi đắp cho vùng đất đó. Tâm hồn chúng ta cũng cần có những đợt sóng mới để đổi mới, để hoàn thiện. Các đợt sóng đó vẫn hằng ngày như thủy triều: Sóng tình yêu, sóng ân sủng, sóng thứ tha, sóng thương xót,… Ước gì “vùng đất” chúng ta để cho Sóng Tình Chúa biến đổi bất cứ lúc nào!

Trình thuật Tin Mừng hôm nay là đoạn Mc 4:35-40, nói về việc Đức Giêsu dẹp yên sóng gió (tương đương Mt 8:23-27 và Lc 8:22-25).

Hôm ấy, khi chiều đến, sau khi giảng dạy cho dân chúng về một loạt các dụ ngôn (người gieo giống, ngọn đèn, cái đấu, hạt giống tự mọc, hạt cải), Đức Giêsu bảo các môn đệ cho thuyền sang bờ bên kia. Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Ngài đi, có những thuyền khác cũng chèo đi theo Ngài. Bỗng dưng một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước. Trong khi đó, Đức Giêsu đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các môn đệ thấy Thầy “vô tư” thế không biết, nên họ vội đánh thức Ngài, gọi giật dậy và hốt hoảng la toáng lên: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”.

Có lẽ chúng ta cũng như các môn đệ xưa, chứ chẳng “ngon lành” gì hơn ai, ở ngay bên Thầy Giêsu mà vẫn chưa thấy an tâm khi gặp giông tố cuộc đời. Gọi như điện giật thế thì ai mà chợp mắt nổi. Ngài thức dậy, rồi ngăm đe gió, và truyền cho biển phải “im ngay và câm ngay”. Thế là gió liền tắt, và biển lặng như tờ.

Đâu vào đấy rồi, Ngài nghiêm mặt và nghiêm trách các ông: “Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”. Họ chỉ có nước ngậm tăm chứ nói chi được. Đúng quá mà! Cãi gì nổi? Các ông hoảng sợ – vừa sợ vì thấy phép lạ vừa sợ vì Thầy mắng thẳng, rồi họ xì xầm với nhau: “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”. Theo Thầy vì tin Thầy hay thích điều gì ở Thầy mà giờ này còn hỏi nhau “người này là ai” vậy chứ?

Vâng, thật buồn! Buồn cho họ và buồn cho chính chúng ta, vì chúng ta cũng vẫn “thắc mắc” như vậy, dù chúng ta không nói ra thôi. Chúa Giêsu cũng buồn, Ngài không buồn vì Ngài chưa được chúng ta tin thật, mà Ngài buồn cho đức tin của chúng ta còn non nớt, còn ấu trĩ, chỉ chạy theo “sự lạ” chứ chưa “bén rễ sâu” vào đất-ân-sủng và chưa lưu thông “nhựa” của Cây Nho.

Kinh Thánh đã cho chúng ta biết chắc rằng Thiên Chúa là “Đấng gìn giữ chúng ta, không để chúng ta lỡ chân trật bước”, chắc chắn “Ngài không ngủ quên” và cũng “không chợp mắt ngủ quên” bao giờ (Tv 121:3-4). Thiên Chúa không hề vô tâm vô tính như chúng ta tưởng, đừng suy bụng ta ra bụng người! Miệng thì nói tin, nhưng khi gặp sóng đời duyềnh lên là chúng ta hốt hoảng ngay, mà sóng đời đâu đã to gì cho cam, chỉ mới “lăn tăn” thôi! Chúng ta có đáng trách không nhỉ?

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết vững tay chèo, chống, bát, cậy,… dù sóng đời nhỏ hay to. Chúng con không dám xin Ngài đưa thuyền của chúng con ra khỏi vùng biển động hoặc nước xoáy, nhưng xin Ngài làm Hoa Tiêu hướng dẫn chúng con chèo lái để có thể vượt qua mọi con sóng dữ. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

 

61.Bão tố – Lm. Giuse Đỗ Vân Lực

Hôm qua ngồi nghe sư huynh Phong giảng tĩnh tâm tại giáo xứ Lộ Đức, Hoa Kỳ, tôi thấy rùng mình khi thấy những cô bé Việt nam bị bán sang các lầu xanh bên Cambodia. Có những em mới chỉ hơn mười tuổi. Kết quả một số em bị mắc bệnh liệt kháng và đã sớm kết thúc cuộc đời trong hoang lạnh. Có cảnh bé thơ Việt nam bị bán đi với giá hai trăm đô. Nhưng em bị trả lại vì có bệnh liệt kháng. Suýt nữa em đã bị giết ngay trước mặt người mua. May thay, đứng trước cảnh đau lòng đó, người mua đành hy sinh mất hai trăm để cứu mạng em.

Những cảnh tang thương đó đã đập vào mắt các bạn trẻ Việt nam hải ngoại. Sư huynh lạc quan về giới trẻ Việt nam Hải ngoại. Chỉ cần năm ngàn đô để cứu các cô gái kém may mắn. Nhưng các bạn trẻ ở Los Angeles đã lạc quyên được mười lăm ngàn. Với số tiền lớn gấp ba như thế, sư huynh đã hết sức cảm động và đầy tin tưởng xông pha đi tìm đường cứu sống những cô gái đó. Nhiều nơi các bạn trẻ, như tại Lộ Đức, tự động đứng ra rửa xe, lạc quyên, hớt tóc giúp người nghèo khổ, bệnh tật, già nua, xây trường học v.v.

Tất cả những khốn cùng của dân tộc đều do sự nghèo đói. Đứng trước biển cả nghèo đói bao la của dân tộc, nhiều người đã tự hỏi: Thiên Chúa ở đâu? Chúa có biết gì về những khốn cùng của kiếp người không? Chúa đang ngủ hay thức? Thất vọng tràn trề. Thất vọng như những môn đệ của Chúa trên khoang thuyền năm xưa.

Hôm ấy, sau khi rời đám đông sang bờ bên kia (x. Mc 5:35), Chúa Giêsu đã lôi cuốn một số thuyền theo Người. Chắc lúc đó trời yên bể lặng nên các thuyền mới có thể nối đuôi nhau như thế. Các thuyền đi đông vừa vui vừa cảm thấy an toàn khi hữu sự. Chúa Giêsu cũng chỉ là một người ngồi trong khoang thuyền nào đó mà thôi. Gió biển thổi lên mát quá. Chúa chìm vào giấc điệp bao giờ không hay. Chắc Chúa phải ngủ say lắm mới không nghe tiếng các môn đệ đang thi nhau thét gào cùng sóng biển.

Gió rít mạnh. Các con thuyền lắc lư quá đến nỗi nước trào vào đầy khoang thuyền (x. Mc 5:38). Mạnh đến thế mà sóng gió cũng không kéo Chúa ra khỏi giấc nồng. Đó là dấu chứng tỏ, sau một ngày hoạt động mục vụ, Chúa bị dân chúng “quần thảo” dữ dội lắm. Nhưng như thế mới biết tâm hồn Chúa bình an chừng nào! Quả thế, “ai có tâm hồn trong sạch, mới ngủ được. Và ai ngủ được đều có tâm hồn trong sạch.”(Péguy 1962:27) Đố ai ngủ được như Chúa!

Nhưng Chúa càng bình an, các môn đệ càng bấn loạn lên. Bao nhiêu chiếc thuyền vẫn không thể nương dựa nhau trong cơn sóng bão. Bao nhiêu ngư phủ lành nghề vẫn không đủ tài trí bảo đảm an toàn cho bấy nhiêu sinh mạng đang treo sợi mành. Vận dụng hết năng lực vẫn không tát hết nước ra khỏi các khoang thuyền. Tình hình càng lúc càng nguy ngập. Bí quá, các môn đệ mới chợt nhớ đến Thày như giải pháp cuối cùng. Các ông vội vàng đến kéo Chúa ra khỏi giấc nồng. Các ông không ngại gài thêm một lời trách móc: “Thày ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thày chẳng lo gì sao?” (Mc 5:38) Đối với các ông, Thày thuộc loại người “vô ăn vô lo.” Sao Thày vô tư đến thế?!

Choàng tỉnh khỏi giấc nồng, Thày liền bắt tay vào việc. Các ông nghĩ, nếu mình không đánh thức, chắc chìm xuống đáy biển Thày vẫn còn ngủ. Nhưng thực ra, họ đánh thức Thày, hay Thày đánh thức họ? Thực tế, họ còn ngủ sâu hơn Thày nữa. Họ ngủ vùi trong sự hèn nhát và vô tín (x. Mc 5:40). Bởi vậy, sau khi dẹp tan biển cả, Chúa lôi các ông ra khỏi cảnh tối tăm. Té ra, chính họ mới cần đánh thức, chứ không phải Chúa. Chứng kiến cảnh Chúa ra tay uy quyền trên biển cả, họ mới ngạc nhiên về quyền năng vô biên của Chúa. Từ đó, họ mới biết Chúa là ai.

Nếu chỉ là người phàm, hẳn Chúa không thể nào có quyền năng lớn lao như vậy. Trước sức mạnh biển cả, họ mất bình tĩnh. Nhưng trước quyền năng của Chúa, họ mới “hoảng sợ.” (Mc 5:41) Biển cả có gầm thét cũng chỉ làm cho các ông đâm lo vì sự bất lực của mình. Nhưng quyền năng Chúa mới thực sự làm cho các ông phải đứng trước một thần lực lớn lao trổi vượt hơn thủy thần như Bơhêmốt, Giao long, Raháp. Biển cả vẫn là nơi quỷ dữ hoành hành. Như thế, “Chúa Giêsu chứng tỏ thần lực của Người trên quyền lực sự dữ.” (Các Giờ Kinh Phụng Vụ 2005:184) Nếu không là Thiên Chúa, làm sao Chúa Giêsu có thể có quyền toàn năng đến như vậy?!

Đứng trước những thống khổ mênh mông như biển cả của hàng triệu người Do thái đã bị Đức Quốc Xã tiêu diệt hồi thế chiến thứ hai, ĐGH Bênêđictô XVI cũng đã ngạc nhiên về sự im lặng của Chúa. Có lẽ cũng như các môn đệ trên biển cả, ĐGH cũng thắc mắc: “Thày chẳng lo gì sao?” (Mc 5,38) Câu hỏi đó đã dẫn nhiều người xa Chúa. Nhưng cũng chính thắc mắc đó lại đặt môn đệ trước một mầu nhiệm vô cùng lớn lao. Mầu nhiệm này vượt quá khả năng con người. Bởi thế, muốn đi sâu vào mầu nhiệm đó, con người phải có đức tin. “Chỉ có lòng tin tưởng vào Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng đã chiến thắng quyền lực sữ dữ, mới cho phép họ vượt qua sự sợ hãi.” (Các Giờ Kinh Phụng Vụ 2005:184) Đức tin trở thành sức mạnh khiến ta đứng vững trước tất cả mọi giông tố cuộc đời. Chỉ có đức tin mới là câu trả lời đích xác nhất cho những gì chúng ta đang quan tâm lo lắng hôm nay. Đức tin sẽ không trình bày một Chúa Kitô theo quan điểm loài người (x. 2 Cr 5:16), nhưng một Chúa Kitô đã chết cho mọi người theo đúng ý định Thiên Chúa.

Cám ơn Chúa vẫn cho đức tin sống mạnh trong các bạn trẻ Việt nam hôm nay. Nhìn kỹ vào niềm tin tuổi trẻ chúng ta sẽ thấy tất cả sức mạnh của niềm tin. Bạn trẻ đã mở ra một lối thoát mới cho những bế tắc hôm nay. Chúng ta có quyền hy vọng và học hỏi nơi các bạn!

 

62. Sao nhát thế? Anh em chưa có lòng tin.

Trên con đường theo Chúa Giêsu, mặc dù các môn đệ đã được Người đào tạo, dậy dỗ, uốn nắn… các ông vẫn chưa hiểu gì về đường lối của Chúa: Người đã giảng dậy, đã làm nhiều phép lạ nhưng các môn đệ vẫn sống trong sự mờ ảo của cuộc sống, các ông vẫn chưa làm sao hiểu được ý của Thầy Giêsu. Do đó, đã có lúc các ông tưởng Thầy mình là ma, đã có lúc các ông lánh xa Chúa, đã có lúc các ông phản ứng lại những lời nói, cách sống, cử chỉ, thái độ của Thầy mình. Đức tin của các môn đệ nhiều lúc tưởng như lu mờ, hay nói một cách khác các ông chưa có lòng tin. Tin Mừng Mc 1, 35-41 là một bằng chứng nói lên quyền năng vô biên của Chúa giống như sách Gióp khẳng định:” Chỉ Thiên Chúa là Đấng sáng tạo quyền năng, chủ tể muôn loài, muôn vật, chủ tể mọi sự”. Phép lạ Chúa Giêsu làm cho sóng to, gió lớn phải im bật nói lên quyền uy của Chúa. Đáng lẽ các môn đệ phải vui mừng vì Thầy có quyền năng khiến gió to, biển động im hơi lặng tiếng, các môn đệ lại hoảng hốt sợ sệt. Chúa Giêsu đã phải lên tiếng:” Sao nhát thế? Anh em chưa có lòng tin sao?”.

CÁI TRỚ TRÊU CỦA CÁC MÔN ĐỆ

Theo Chúa gần ba năm, các môn đệ đã được Chúa dậy bảo nhiều điều: Người đã nói thực tế, đã làm những phép lạ, đã dùng những dụ ngôn, những ví dụ xẩy ra chung quanh các môn đệ để làm sáng tỏ lòng tin của các ông, nhưng các ông vẫn còn u tối, các ông vẫn chưa cảm nghiệm được quyền năng và tư cách thần linh của Chúa Giêsu. Các môn đệ luôn tỏ ra không hiểu hay tỏ ra hiểu lờ mờ về Thầy mình. Các ông luôn mơ tưởng đến việc Chúa Giêsu sẽ khôi phục lại nước Israen và rồi các ông được ăn trên ngồi trốc trước mọi người khi Chúa Giêsu đăng quang làm vua theo ý nghĩ trần gian của các ông. Điều đó không lấy gì làm lạ khi phép lạ hôm nay xẩy ra. Bối cảnh phép lạ được Chúa Giêsu thực hiện vào một buổi chiều trên biển hồ. Thuyền của các môn đệ rời bến để qua bờ bên kia. Chi tiết này giúp chúng ta hiểu phép lạ diễn ra trong đêm. Chúa Giêsu ngồi ở đằng lái, gối đầu mà ngủ. Bỗng gió to, sóng lớn nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước.

Các môn đệ hoảng hốt, xôn xao, nhốn nháo đánh thức Chúa: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo sao?”(Mc 4, 38). Chúa Giêsu liền can thiệp bằng một lời và chỉ một lời truyền của Người: “Im đi! Câm đi!”(Mc 4,39). Gió liền im. Biển lặng như tờ. Điều làm chúng ta ngạc nhiên không phải là phép lạ, nhưng là cách Chúa Giêsu thực hiện phép lạ: “Tại sao Chúa biết trước sẽ có cuồng phong, biết trước việc Người sẽ làm?. Tại sao Người không can thiệp liền, tại sao Người cứ gối đầu mà ngủ?

Thực ra khi gió to, biển động, sóng gào, các môn đệ xốn xáo, chạy lại đánh thức Chúa dậy, các ông xin Chúa can thiệp hai điều xem ra như là một tối hậu thư: “Thầy ơi, chúng con chết đến nơi rồi”. Điều thứ hai: “Thầy chẳng lo gì sao?”. Câu nói thứ hai của các môn đệ hàm ý sao Thầy vô tư quá, chúng con sắp chết mà Thầy cứ tỉnh bơ ngủ say. Chúa Giêsu đã trả lời cả hai điều các môn đệ yêu cầu. Điều thứ nhất, Chúa truyền cho biển yên, gió lặng. Điều thứ hai, Người khiển trách: “Sao nhát thế? Anh em chưa đủ đức tin hay sao?” (Mc 4, 40). Cái trớ trêu hầu như khờ khạo của các môn đệ ở chỗ Chúa luôn có mặt, luôn hiện diện dù Người đang ngủ, Người hay biết mọi sự nhưng các môn đệ đâu có nhận ra điều ấy. Vậy, khi Người khiếm diện, khi Người không có mặt ở đấy, các môn đệ sẽ ra thế nào!: “Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”(Mc 4, 40). Anh em để đức tin ở đâu? Ở đây, trong tình huống này, các môn đệ có thể nghĩ đến những can thiệp của Thiên Chúa đối với số mệnh của dân tộc các ông. Thiên Chúa đã cứu thoát cha ông của các ông, đã giữ lời Giao Ước của Ngài cho dù có lúc Thiên Chúa hầu như im lặng. Thiên Chúa đã không bỏ rơi dân tộc. Bốn mươi năm sau, dân lưu đầy bên Ai Cập đã được Thiên Chúa giải thoát, đoàn người lưu đầy kéo về Giêrusalem được thanh luyện và lớn lên trong thử thách.

CHÚA MỜI GỌI CÁC MÔN ĐỆ VÀ NHÂN LOẠI TIN VÀO CHÚA:

Đối diện với quyền lực của sự dữ, của ma quỷ vì theo não trạng của người Do Thái, biển là biểu tượng của quyền lực ma quỷ. Các môn đệ cuống quýt đã quên cả lòng tin của mình vào Chúa Giêsu. Vậy phải chăng Tin Mừng hôm nay mời gọi con người, nhân loại hãy tin vào Chúa, hãy bám chặt lấy Chúa, hãy tin vào uy quyền tuyệt đối của Chúa trên mọi loài, mọi vật, mọi sự. Tiếng la hoảng hốt của các môn đệ trước trận cuồng phong bão táp, phải chăng đang là thử thách của con người, của mỗi người khi họ gặp cơn cám dỗ, gặp sự thử thách gian nan giữa cuộc đời, giữa hành trình đức tin đầy cam go? Liệu Chúa có bỏ con người hay con người chỉ ngờ ngợ, yếu tin chưa có lòng tin mạnh mẽ và gắn chặt vào Chúa Giêsu? Chúng ta hãy đọc lại nhiều dụ ngôn trong Tin Mừng, chúng ta sẽ thấy nhiều lòng tin làm ta ngạc nhiên. Và khi ta tin thật sự vào Chúa, chắc chắn sự an bình sẽ đến với chúng ta. Thiên chúa không ở xa ta, Ngài ở bên ta, Ngài yêu thương ta, Ngài sẵn sàng can thiệp vào mọi biến cố của đời ta. Nhưng chắc chắn chúng ta cũng có thái độ như các môn đệ hoảng hốt, như ông Môsê trước bụi gai bốc cháy (Xh 3,1), như ngôn sứ Isaia khi nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa trong đền thờ (Is 6,5). Tất cả đều tùy thuộc vào lòng mến và vào sự phó thác tuyệt đối của mỗi người chúng ta trong bàn tay yêu thương của Thiên Chúa.

Lạy Chúa, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn bám chặt lấy Chúa vì Chúa là Đấng uy quyền và hay thương xót.

 

63.Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

Thiên Chúa ở đâu nơi Trại Tử Thần Đức Quốc,

nơi Sóng Thần Nam Á v.v.

Vẫn biết Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống là thời điểm mở đầu cho Mùa Thường Niện Hậu Phục Sinh, tiếp Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh bị cắt quãng bởi Mùa Chay, Tuần Thánh và Mùa Phục Sinh. Tuy nhiên, Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh thường được Giáo Hội mở màn bằng các Lễ Trọng vào 3 Chúa Nhật Liên, trước hết là Lễ Thánh Thần Hiện Xuống, Đấng ban sự sống, sau đó là Lễ Thiên Chúa Ba Ngôi, nguồn mạch Sự Sống, tiếp tới là Lễ Mình Máu Thánh Chúa, bí tích Sự Sống, (chưa kể đến Lễ Trọng Thánh Tâm Chúa, động lực Sự Sống, bao giờ cũng được cử hành vào Thứ Sáu sau Chúa Nhật Lễ Mình Máu Thánh Chúa). Chiều hướng Mầu Nhiệm Chúa Kitô Là Sự Sống mở đầu Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh bằng ba Lễ Trọng như thế, cũng được thể hiện ở bài Phúc Âm của Thánh Ký Marcô cho Chúa Nhật hay tuần lễ XII Thường Niên, ở chỗ, “caœ gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người”?, một quyền lực phục sinh của Chúa Kitô, Lời Nhập Thể, một quyền lực, dù trong trường hợp được bài Phúc Âm hôm nay thuật lại Người chưa Vượt Qua, vẫn tiềm tàng nơi Người nhờ Mầu Nhiệm Ngôi Hiệp.

Đó là lý do việc Người chẳng những tỏ mình ra trong bài Phúc Âm hôm nay đã cho thấy trước biến cố phục sinh, mà còn cho thấy cả trong đó việc Người tỏ ra câm nín bất lực trên cây thập tự giá, việc Người âm thầm nằm trong lòng đất ba ngày, việc Người gieo giống rồi đi ngủ để cho kẻ thù chẳng những lợi dụng gieo cỏ lòng vực mà còn nhất định không cho nhổ những thứ cỏ rất nguy hại cho lúa tốt này cho tới mùa gặt cánh chung (x Mt 24-30). Đây là Mầu Nhiệm Quan Phòng Thần Linh theo đức tin Kitô Giáo, một mầu nhiệm mà chỉ có đức tin mới có thể giải mã và chấp nhận, ở chỗ, tin rằng Thiên Chúa là Chủ Tế muôn loài và cai quản mọi sự, tới giờ của Ngài thì mọi sự sẽ xẩy ra, tới lúc của Ngài thì Ngài sẽ ra tay (mà thường là lúc cuối cùng, lúc con người cảm thấy bất lực, trần gian bó tay, Ngài mới xuất hiện để cứu độ, hầu con người tin vào Ngài hơn, và không cảm thấy rằng họ là Chúa chứ không phải là Ngài). Chính vì Ngài ngủ (chứ không phải chết) mà Ngài mới nghe được tiếng kêu cứu của họ, như các vị tông đồ trong bài Phúc Âm đã hoảng hốt la lên: “Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao”?

Tuy nhiên, thực tế đặt ra vấn đề ở đây là, việc Thiên Chúa quá im hơi lặng tiếng, nhất là trong những lúc quá khủng khiếp đối với niềm tin của con người, dường như đối với nhiều người và thật sự đối với một số người, Ngài là Vị Thiên Chúa đã chết, nếu không muốn nói chẳng có chúa bà nào cả, vì tại sao có Ngài, một vị Thiên Chúa, qua Mạc Khải Thánh Kinh Kitô Giáo, là Đấng toàn thiện và toàn năng, mà lại có thể để cho sự dữ xẩy ra, để cho bao nhiêu nạn nhân vô tội bị thảm sát như thế chứ, chẳng hạn như đã xẩy ra ở các Trại Tử Thần Đức Quốc trong Thế Chiến Thứ Hai thuộc thế kỷ 20, hay ở cuộc Sóng Thần Nam Á vào ngày 26/12/2004?

Trước hết, về việc câm nín lặng thinh đến kinh hoàng của Thiên Chúa ở các trại tử thần Đức Quốc Xã hồi Thế Chiến Thứ II, chúng ta hãy đọc lại những lời của chính vị Giáo Hoàng đương kim Đức Quốc của chúng ta cảm nhận và diễn tả trong cuộc tông du mục vụ Balan cuối tháng 5/2006, khi ghé thăm trại tử thần Auschwitz, nơi đã có hai vị thánh Công Giáo là Thánh Maximilian Kolbe người Balan và Thánh Edith Stein, Theresia Benedicta a Cruce, người Đức gốc Do Thái, trước khi ngài lên đường về Rôma Chúa Nhật 28/5, nguyên văn như sau:

“Không thể nào nói được bất cứ điều gì ở nơi kinh hoàng này đây, ở nơi đã xẩy ra vô vàn tội ác chưa từng có phạm đến Thiên Chúa và con người, nhất là lại nói bởi một Kitô hữu, bởi một vị Giáo Hoàng xuất thân từ Đức. Ở một chốn như thế này thì lời nói đành câm nín; để rồi chỉ còn duy nỗi lặng thinh kinh hãi – một thứ lặng thinh tự mình là một lời kêu gào chân tình lên Thiên Chúa: Lạy Chúa, tại sao Chúa lại cứ thinh lặng chứ? Làm sao Chúa lại có thể chịu đựng được tất cả những thứ này? Bởi vậy, trong thinh lặng, chúng ta cúi đầu trước vô tận những ai đã chịu khổ cực và bị sát hại ở nơi đây; tuy nhiên việc thinh lặng của chúng ta lại trở thành một lời van xin tha thứ và hòa giải, một lời van nài Vị Thiên Chúa hằng sống đừng bao giờ để điều này tái diễn nữa.

“Hai mươi bảy năm trước đây, vào ngày 7/6/1979, Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đứng ở nơi này. Ngài đã nói rằng: ‘Hôm nay tôi đến đây như một người hành hương. Như anh chị em biết, tôi đã đến đây nhiều lần rồi. Rất nhiều lần rồi! Và nhiều lần tôi đã đi xuống tới ngục thất tử thần của Maximilian Kolbe, dừng lại trước bức tường hành quyết, và bước đi giữa những đổ nát hoang tàn của các lò thiêu Birkenau. Tôi không thể nào không tới đây như một vị Giáo Hoàng’. Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tới đây như là một người con của một dân tộc, cùng với dân Do Thái, đã chịu khổ nhất ở nơi chốn này, nói chung suốt cả cuộc chiến. ‘Sáu triệu người Balan đã bị mất mạng trong Thế Chiến Thứ II, tức 1/5 dân số của quốc gia này, ngài đã nhắc nhở chúng ta như thế. Cũng ở nơi đây, ngài đã trang trọng kêu gọi tôn trọng các thứ nhân quyền và quốc quyền, như các vị tiền nhiệm của ngài là Gioan XXIII và Phaolô VI đã làm trước ngài, và thêm rằng: ‘Con người đang nói những lời lẽ này đây là … người con của một quốc gia theo lịch sử của mình đã bị khổ đau rất nhiều bởi kẻ khác. Ngài nói điều này, không phải là để cáo tối mà là để tưởng nhớ. Ngài nói nhân danh tất cả những quốc gia có quyền lợi bị vi phạm và bị gạt bỏ ra ngoài…’

“Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đến đây như là một người con của nhân dân Balan. Tôi đến đây hôm nay như là một người con của nhân dân Đức quốc. Chính vì lý do ấy mà tôi có thể làm vang vọng và cần phải làm âm vang những lời của ngài, đó là tôi không thể nào không tới đây. Tôi cần phải tới nơi đây. Đó là một nhiệm vụ trước sự thật và công lý đối với tất cả những ai đã phải chịu khổ ở nơi đây, một nhiệm vụ trước Thiên Chúa, mà đối với tôi cần phải đến đây như là vị thừa kế của Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và là một người con dân Đức quốc – một người con thuộc dân tộc bị một nhóm những tay tội ác nổi lên nắm quyền hành bằng những hứa hẹn liên quan tới cái cao cả mai hậu cùng với việc phục hồi vinh dự, nổi nang và thịnh vượng cho dân tộc , nhưng qua việc khủng bố và đe dọa, hậu quả dân tộc chúng tôi đã phải hứng chịu đó là bị sử dụng và làm dụng như công cụ cho khát vọng hủy diệt và quyền bính của họ. Phải, tôi đã không thể nào không tới nơi đây. Vào ngày 7/6/1979, tôi đã đến đây với tư cách là một vị Tổng Giám Mục ở Munich-Freising, cùng với các vị Giám Mục khác đi hộ tống Đức Giáo Hoàng này, lắng nghe những lời ngài nói và liên kết với việc nguyện cầu của ngài. Vào năm 1980, tôi đã trở lại với nơi chốn rùng rợn này với một phái đoàn đại biểu những vị Giám Mục Đức quốc, những vị cảm thấy kinh hoàng trước sự dữ xẩy ra cho nó, nhưng lại lấy làm biết ơn trước sự kiện xuất hiện một vì tinh tú hòa giải ở bên trên các tầng mây mù vây phủ nó. Đó cũng chính là lý do tại sao hôm nay tôi đã đến đây để xin ơn hòa giải thứ tha – trước hết từ Thiên Chúa là Đấng duy nhất có thể mở lòng chúng ta và thanh tẩy tâm can của chúng ta, từ những con người nam nữ đã chịu khổ đau ở nơi đây, và sau cùng nguyện xin ơn hòa giải cho tất cả những ai, vào chính giây phút lịch sử này đây đang chịu khổ đau một cách mới mẻ bởi quyền lực của hận thù và bởi bạo lực do thù hận gây ra.

“Biết bao nhiêu là vấn đề được xuất phát ở nơi chốn này! Vấn đề liên lỉ hiện lên đó là Thiên Chúa ở đâu trong những ngày ấy? Tại sao Ngài lại thinh lặng chứ? Làm sao Ngài lại có thể để xẩy ra cuộc tàn sát khôn cùng này chứ, cuộc chiến thắng của sự dữ ấy chứ? Những lời của bài Thánh Vịnh 44 đã hiện lên trong tâm trí, đó là lời than vãn của dân Yến Duyên về các kẻ thù địch của họ: ‘Ngài đã vùi dập chúng tôi trong hang động chó rừng, và phủ chụp tăm tối kín mít lên chúng tôi… vì Ngài chúng tôi đá bị sát hại suốt ngày, và đã bị coi như con chiên mang đi làm thịt. Xin Ngài hãy ra tay! Ôi Chúa, tại sao Ngài lại ngủ chứ? Xin hãy tỉnh giấc, đừng mãi mãi bỏ mặc chúng tôi! Tại sao Ngài lại cứ ẩn mặt đi? Tại sao Ngài lại chẳng lưu ý gì tới nỗi đau thương và tình trạng bị đàn áp của chúng tôi chứ? Vì chúng tôi bị dìm xuống cát bụi; thân thể chúng tôi dính liền với mắt đất. Xin hãy vùng lên và ra tay cứu giúp chúng tôi! Xin hãy cứu chúng tôi vì tình yêu trung kiên của Ngài!’ (19,22-26). Tiếng kêu thống khổ này, tiếng kêu được dân Yến Duyên dâng lên Thiên Chúa trong cảnh khổ đau của họ, trong giây phút hết sức sầu thương của họ, cũng là tiếng kêu cứu giúp của tất cả những ai thuộc mọi thời đại – hôm qua, hôm nay và ngày mai – chịu khổ vì tình yêu Thiên Chúa, vì lòng yêu chuộng chân lý và sự thiện hảo. Họ nhiều biết bao, thậm chí ở cả thời đại của chúng ta đây!

“Chúng ta không thể nào nhìn thấu được dự án huyền nhiệm của Thiên Chúa – chúng ta chỉ thấy được một phần nào, và chúng ta có thể sai lầm một khi cho mình là những kẻ thẩm phán của Thiên Chúa và lịch sử. Bấy giờ chúng ta không phải là kẻ đang bênh vực con người mà chỉ góp phần vào việc sụp đổ của con người mà thôi. Không – một khi tất cả những gì đã nói và đã làm, chúng ta cần phải tiếp tục khiêm nhượng song cương quyết kêu lên cùng Thiên Chúa rằng: Xin hãy đứng lên! Đừng quên nhân loại là tạo vật của Ngài! Và lời chúng ta kêu lên Thiên Chúa cũng phải là một tiếng kêu xuyên thấu chính tâm can của chúng ta, một tiếng kêu đánh động trong chúng ta sự hiện diện âm thầm của Thiên Chúa – nhờ đó, quyền năng của Ngài, một quyền năng Ngài đã cấy trồng nơi tâm can của chúng ta, sẽ không bị chôn vùi hay chết nghẹt trong chúng ta bởi bùn lầy của lòng vị kỷ, của tính nhu nhược, của thái độ lạnh lùng hay của chủ trương thời cơ. Chúng ta hãy kêu lên Thiên Chúa bằng tất cả tâm can của mình, vào giờ khác hiện tại này đây, khi đang đổ xuống trên chúng ta những bất hạnh mới, khi tất cả mọi mãnh lực của tối tăm dường như đang xuất phát một cách mới mẻ từ tâm can nhân loại của chúng ta: một là việc lạm dụng danh Thiên Chúa như phương tiện để biện minh cho việc bạo động vô nghĩa phạm tới những con người vô tội, hai là tỏ ra chủ trương yếm thế chối bỏ việc nhận biết Thiên Chúa và nhạo cười niềm tin tưởng vào Ngài. Chúng ta hãy kêu lên Thiên Chúa, để Ngài làm cho con người nam nữ biết hoán cải và giúp họ thấy được rằng bạo động không phải là những gì mang lại hòa bình song chỉ gây thêm bạo loạn mà thôi – gây ra một cuộc sa lầy tàn hại mà cuối cùng tất cả moị người đều là những kẻ thua cuộc. Vị Thiên Chúa mà chúng ta tin tưởng là một Thiên Chúa của lý trí – một lý trí chắc chắn không phải là một thứ toán học lạnh lùng về vũ trụ này mà là một lý trí biết yêu thương và thiện hảo. Chúng ta hãy dâng lời nguyện cầu lên Thiên Chúa và chúng ta kêu gọi nhân loại, để lý trí này, tức lý lẽ của yêu thương và việc nhìn nhận quyền lực hòa giải và bình an, được thắng vượt những thứ đe dọa xuất phát từ khuynh hướng vô tri hay từ một thứ lý trí sai lạc và phi thần linh”.

Sau nữa, về việc câm nín lặng thinh đến kinh hoàng của Thiên Chúa ở biến cố thiên tai Sóng Thần Nam Á ngày 26/12/2004.

Về nguyên tắc, Thiên Chúa thực sự chủ động muốn sử dụng sự dữ để làm ích cho nhân loại. Thần học Kitô giáo rất cẩn thận về điểm này. Ở chỗ, thường sử dụng chữ “để”, “để sự dữ xẩy ra”, nghĩa là thái độ “mần ngơ” thụ động, chứ không chủ động nhúng tay vào, chủ động sử dụng chính sự dữ, nên tránh cả việc sử dụng chữ “gửi”, “gửi sự dữ đến cho”. Thật ra, như những xác tín đầu tiên trên đây cũng công nhận rằng “Thiên Chúa là Đấng Toàn Thiện không dựng nên sự dữ và không thể nào tạo nên sự dữ”, và “sự dữ phát xuất từ tội lỗi của con người, bắt nguồn từ nguyên tội, từ việc con người có tự do đã tự ý chấp nhận sự dữ”. Tuy nhiên, một khi sự dữ đã xuất hiện như cỏ lùng do kẻ thù của Ngài gây ra (x Mt 13:25,28), Thiên Chúa phải chủ động và tích cực ra tay diệt trừ nó cho con người, bằng cách, nơi Chúa Giêsu Kitô Con Mình, Ngài đã trở thành tội lỗi (x 2Cor 5:21), thành một thứ đồ bị nguyền rủa (x Gal 3:13). Và, chỉ trở thành sự dữ như thế Vị Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan và toàn năng mới làm cho con người thấy được sự chết nơi họ và của họ đã được sự sống của Ngài và nơi Ngài nuốt đi (x 1Cor 15:54).

Việc Thiên Chúa chủ động muốn sử dụng sự dữ để làm ích cho chung nhân loại là những gì rất hiển nhiên trong Thánh Kinh. Trước hết là câu Ngài tuyên bố qua miệng Tiên Tri Isaia: “Ta làm nên ánh sáng và tạo ra bóng tối, Ta làm nên phúc hạnh và gây ra khốn nạn” (45:7). Sau nữa, việc Ngài muốn (bằng cách ra lệnh cho) tổ phụ Abraham sát tế đứa con duy nhất của mình là Isaac (x Gen 22:2), trước con mắt của Dân Ngoại, không phải là một điều quái ác hay sao, không phải là một hành động của một vị ác thần, một vị thần linh ăn thịt người hay sao, tìm vinh danh nơi khổ ải và chết chóc của tạo vật? Cả trong việc Ngài lệnh cho vua Saolê bắt buộc phải sát hại tất cả người lẫn vật của Amalek vì đã cản đường đi của Dân Chúa cũng không quá tàn ác hay sao (x 1Sam 15:2-3,18-19; Ex 17:8)? Thật ra, Chúa ra tay dữ dằn với các Dân Ngoại, như dân Ai Cập, Amalek hay các dân vốn ở Đất Hứa là để cho cả Dân Ngài lẫn Dân Ngoại nhận biết Ngài qua những việc Ngài làm theo quyền năng và phép công bằng của Ngài. Trong trận lụt Đại Hồng Thủy, Thiên Chúa Hóa Công “để” cho thiên tai vô tiền khoáng hậu này xẩy ra, hay Ngài cố ý muốn gây ra biến cố ấy để thanh tẩy loài người đã quá băng hoại làm ô uế cả mặt đất (x Gen 6:5-7)?? Nếu bảo rằng Thiên Chúa được quyền dùng tai ương để trừng phạt con người tội lỗi thì phải nói làm sao khi Ngài cố tình bắt chính Người Con vô tội vô cùng thánh thiện của Ngài phải uống cạn chén đắng khổ đau (x Mt 26:39 và Rm 8:32), chứ không phải chỉ “để” thập giá xẩy ra cho Người.

Tuy nhiên, việc Thiên Chúa thực sự chủ động sử dụng sự dữ để làm ích cho nhân loại đây, điển hình là trường hợp tử nạn của Chúa Giêsu Kitô, không phải là Ngài chủ động xui bẩy kẻ dữ làm bậy hay phạm tội. Không. Hoàn toàn không phải là như thế. Ở chỗ này đúng là Ngài “để” cho kẻ dữ làm bậy hay phạm tội tùy theo tự do của họ. Sở dĩ Ngài “để” xẩy ra như thế, trước hết, là vì tự do của con người, thành phần chịu trách nhiệm về hành vi cử chỉ của họ; sau nữa, là vì Ngài thấy rằng Ngài có thể lợi dụng sự dữ do họ gây ra để tạo nên một thiện ích lớn hơn; bằng không, sau hết, nếu sự dữ do con người gây ra không mang lại hay chưa tới lúc mang lại lợi ích hơn ít là cho chính đương sự, thì Đấng làm chủ lịch sử con người như Ngài không để cho những sự dữ ấy xẩy ra, như nơi những vụ tự tử không thành hay những vụ thoát chết trong đường tơ kẽ tóc.

Trong trường hợp tử nạn của Chúa Kitô, thành phần cố tình nhúng tay vào việc giết Con Thiên Chúa, như hầu hết Hội Đồng Do Thái bấy giờ, cũng như thành phần trực tiếp ra tay sát hại Người, như thẩm quyền đế quốc Rôma qua Tổng Trấn Philatô và lực lượng quân đội của họ, đã được Thiên Chúa “để” cho họ phạm đến Con của Ngài, hay cho phép họ thi hành được hành động phạm thượng đáng lẽ họ không làm được (về quyền năng thể lý) và không được làm (về quyền hạn luân lý), bằng cách “để” cho “họ lầm không biết việc mình làm” (Lk 23:34; x Acts 3:17), nhờ đó, chính họ, cũng có thể nhờ chính việc xấu họ làm, nhận ra Chân Lý (x Lk 23:47-48), bằng không, nếu họ biết được mầu nhiệm của Thiên Chúa, họ sẽ không dám làm như họ đã làm (x 1Cor 2:8). Đó là lý do Chúa Kitô đã minh nhiên tuyên bố: “Khi nào Tôi được treo lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo tất cả mọi người lên cùng Tôi” (Jn 12:32). Ôi, Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan và thượng trí là dường nào! Ôi, Ngài toàn thiện và toàn năng biết bao!!

Phải, chỉ có một mình Thiên Chúa mới là Đấng duy nhất, về phương diện luân lý, chẳng những có quyền hạn (right/authority) được làm, mà còn có cả quyền năng (power/ability) làm được, trong việc sử dụng phương tiện biện minh cho mục đích, tức trong việc sử dụng ngay chính sự dữ để mang lại sự lành thôi. Nếu thấy nhà của mình bị hư hại không thể ở được nữa, chẳng lẽ chúng ta không có quyền phá nó đi để xây lại ngôi nhà mới. Cũng thế, việc Thiên Chúa “phá” con người cũ của nhân loại đã bị băng hoại, như ở thời Noe, bằng những sự dữ, như trận đại hồng thủy bấy giờ, dù là việc dữ hay sự dữ Ngài vẫn muốn làm và cần làm cho họ, để nhờ đó, họ mới được nên tốt hơn, mới được tái sinh bởi trời (x Jn 3:3).

Ngoài ra, bất cứ ai muốn nên ngang hàng với Thiên Chúa hay nên bằng Thiên Chúa (x Gen 3:3-5), trong việc tự mình quyết định lành dữ (như việc hợp thức hóa vấn đề hôn nhân đồng tính chẳng hạn), cũng như trong việc tự động biến sự dữ thành sự lành (như trong việc triệt sinh an tử hay tạo sinh sao bản trị liệu chẳng hạn), họ sẽ thấy rằng những gì họ làm chỉ khiến cho chính họ nói riêng và xã hội của họ nói chung dần dần đi đến chỗ hỗn loạn và diệt vong mà thôi, như hiện trạng thế giới văn minh về vật chất (khoa học và kỹ thuật) cũng như về nhân bản (văn hóa và quyền lợi) ngày nay thê thảm cho thấy.

Chính vì con người văn minh càng ngày càng tội lỗi và băng hoại mà Thiên Chúa đã phải sử dụng đến nhiều sự dữ khủng khiếp, không phải để trừng phạt con người cho bằng để lay tỉnh con người đang quay cuồng say men tự do thái quá của mình, hay nói một cách dung hòa hơn, để trừng phạt con người cho con người có thể bừng tỉnh. Đó là lý do, trong phần Bí Mật Fatima thứ hai, Mẹ Maria cũng đã nói đến vấn đề tai ương liên quan đến việc trừng phạt của Thiên Chúa để cứu độ con người như sau:

“Các con vừa thấy hỏa ngục, nơi tội nhân khốn nạn rơi xuống. Để cứu họ, Thiên Chúa muốn thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới. Nếu những điều Mẹ dạy được thi hành thì nhiều linh hồn được cứu rỗi và thế giới sẽ có hòa bình. Chiến tranh sắp chấm dứt, nhưng nếu người ta không thôi xúc phạm đến Thiên Chúa, một cuộc chiến khốc liệt hơn sẽ bùng nổ trong đời Đức Piô XI. Khi các con thấy ánh sáng lạ lùng chiếu giữa ban đêm, thì các con hãy biết rằng đó là điềm lạ vĩ đại Thiên Chúa muốn cho các con hay Ngài sắp sửa trừng phạt thế giới tội lỗi, bằng chiến tranh, đói khát và việc bắt bớ Giáo Hội cùng Đức Thánh Cha. Để ngăn ngừa điều này, Mẹ sẽ đến để xin dâng hiến Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ và xin rước lễ đền tạ các ngày Thứ Bảy Đầu Tháng. Nếu người ta nghe lời Mẹ yêu cầu, Nước Nga sẽ trở lại và sẽ có hòa bình. Bằng không, Nước Nga sẽ truyền bá lầm lạc khắp thế giới, gây chiến tranh và bách hại Giáo Hội. Nhiều người lành bị giết, Đức Thánh Cha sẽ khổ; nhiều nước sẽ biến mất, nhưng cuối cùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ sẽ thắng. Đức Thánh Cha sẽ dâng hiến Nước Nga cho Mẹ, Nước Nga sẽ trở lại, và thế giới sẽ được hưởng một thời gian hòa bình”.

Như thế, con người nạn nhân gặp tai ương hoạn nạn về thiên tai hay nhân tai có thể là vì chính tội lỗi của họ, như trường hợp thành Sôđôma và Gômôra trong Cựu Ước (x Gen 18:20-21, 19:4-11,24-25), cũng có thể là vật hy sinh cho việc Thiên Chúa tỏ hiện như trường hợp người mù từ lúc mới sinh (x Jn 9:3).

Chính Chúa Giêsu đã xác nhận tính cách lưỡng đôi của sự dữ gây ra cho cả người vô tội lẫn có tội, khi Người trả lời cho những kẻ báo tin về vụ một số người Galilêa đã bị Tổng Trấn Philatô lấy máu của họ hòa với các lễ tế của họ, như sau: “Quí vị có nghĩ rằng những người Galilê này tội lỗi nhất ở Galilê vì họ phải chịu như thế hay chăng? Không phải đâu! Nhưng Tôi nói cho quí vị nghe là nếu không xám hối tất cả quí vị cũng sẽ phải chịu y như thế thôi. Hay vụ 18 người bị thác Siloe đè chết. Quí vị cho rằng họ là những người tội lỗi hơn các người ở Giêrusalem hay chăng? Chắc chắn không! Thế nhưng, tôi nói cho quí vị hay, nếu quí vị không hoán cải, tất cả quí vị cũng chịu y như thế thôi” (Lk 13:1-5).

Qua câu huấn đáp này, Chúa Giêsu muốn nói rằng, thành phần nạn nhân của vụ nhân tai bị Philatô đổ máu hay của vụ thiên tai bị tháp Siloe đè chết là những người vô tội, nhưng cũng có thể là hình phạt cho ai có tội, cho ai không biết ăn năn hối cải. Qua câu huấn đáp này, Chúa Giêsu còn có ý muốn nói rằng, sự dữ nhân tai hay thiên tai là những gì được Thiên Chúa dùng để cảnh giác con người về đời sống luân lý của họ, nhất là thành phần nghĩ mình công chính hơn người, không có tội nên không bị tai ương hoạn nạn như thành phần tội lỗi xấu số.

Những nạn nhân của thiên tai và nhân tai, nếu là thành phần vô tội thì là vật hy sinh được Chúa dùng để cảnh giác phần rỗi nơi anh chị em đồng loại của họ, (tất nhiên sự hy sinh của họ sẽ được Ngài đền bù cân xứng như trường hợp các Thánh Anh Hài chết thay cho Người được Phúc Âm Thánh Mathêu thuật lại ở đoạn 2 câu 16, chẳng hạn nhờ sự hy sinh vô tội của họ mà nhiều người còn sống sợ chết nghĩ lại sống tốt lành hơn), và nếu nạn nhân may mắn còn sống là thành phần thực sự có tội thì tai ương họ trải qua chính là một thứ hình phạt được Thiên Chúa dùng để cứu độ họ, nếu họ biết nhìn ra dấu chỉ thời đại mà giác ngộ trở về với Ngài.

Từ những suy tư được căn cứ vào Mạc Khải Thần Linh trên đây, chúng ta cảm nhận được rằng: Qua biến cố nhân tai khủng bố tấn công ngày 11/9/2001 ở Hoa Kỳ, và thiên tai biển động sóng thần ở Nam Á ngày 26/12/2004, Thiên Chúa muốn lay tỉnh loài người càng ngày càng duy vật vô thần hiện đại nhớ rằng: Ngài vẫn còn hiện diện trong lịch sử loài người đấy, chứ chưa có chết như họ tưởng bở đâu, và Ngài là Đấng rất công thẳng, nếu không biết ăn năn thống hối, Ngài sẽ làm hết sức, kể cả bằng các thứ sự dữ do chính con người gây ra, như khủng bố và chiến tranh, để cho họ nhận biết Ngài mới thôi, chỉ vì Ngài yêu thương họ, muốn họ nhận biết chân lý để được cứu độ.

Tóm lại, vì phần rỗi của loài người, và chính vì phần rỗi của loài người là vấn đề hệ trọng trên hết mọi sự trên thế gian này mà Thiên Chúa toàn thiện và toàn năng vô cùng khôn ngoan làm mọi cách, thậm chí sử dụng cả sự dữ, để cứu độ con người yếu đuối và mù tối vô cùng đáng thương. Đó là lý do, trong Thông Điệp Tình Yêu Nhân Hậu gửi Các Hồn Nhỏ, Chúa Giêsu đã tâm sự với người nữ sứ giả giáo dân biệt danh Magarita ở Bỉ của mình vào ngày 19/12/1973 như sau:

  • “Một Thiên Chúa báo oán chỉ là một người Cha tội nghiệp, khi phải trừng phạt con cái mình để buộc chúng phải hồi tâm nghĩ lại”.

 

64.Trong vòng tay Chúa

(Suy niệm của Br. B.M.Thiện Mỹ CRM)

SUY NIỆM:

Blondin là một tay xiếc nổi danh. Ông đi nhiều lần trên sợi dây căng qua thác Niagara, độ cao khoảng 500 thước, tay đẩy chiếc xe cút kít.

Ngày nọ ông mời ai dám ngồi trên xe đó, để ông đẩy qua sợi dây căng. Nhiều người muốn nhưng không ai dám, vì sợ té xuống thác nước là chết. Sau cùng có người chấp nhận. Ông liền cho anh ngồi trên xe và đẩy đi. Trong khi đó nhiều người đánh cá với nhau. Thấy ông ta đi được nửa đường cách dễ dàng, người đánh cá cược nhiều tiền sợ bị thua, nên lén cắt đứt một sợi trong số các dây căng. Tức thì dây căng rung chuyển dữ dội. Ông Blondin biết nguy hiểm sắp đến nên bảo người trong xe:

– Hãy đứng dậy bám sát vào tôi.

Nhưng người đó quá sợ hãi, không dám làm theo lời ông. Ông liền ra lệnh:

– Hãy đưa hai tay ôm cổ tôi, hai chân kẹp vào lòng tôi, bằng không, chúng ta sẽ ngã xuống thác nước mà chết.

Người đó liền bám chặt vào ông. Và ông đã đưa anh ta qua bờ bên kia an toàn ….

Cuộc đời là bể dâu, cho dù có đề phòng đến mấy cũng không sao có thể tránh được bão tố: Hết thiên tai rồi đến hiểm họa do con người gây ra cho nhau. Những đau thương bên ngoài cũng đã quá ghê gớm, thế nhưng những thù nghịch của tâm hồn mới đáng sợ, nhiều lúc nó muốn nhận chìm chúng ta vào vực thẳm tội lỗi khốn nạn. Tuy nhiên đó lại là điểm đáng yêu của mối tình Giêsu, nhờ vậy chúng ta có dịp chạy đến cầu xin sức mạnh vạn năng của Đấng Cửu Trùng như Phúc Âm thuật lại hôm nay:

Biển Ga-li-lê chỉ dài độ 21 km theo chiều từ bắc chí nam, và chỗ rộng nhất là 13 km theo chiều từ đông sang tây, thung lũng Gio-đan là một vết nứt sâu trên mặt đất, và biển Ga-li-lê là một phần của vết nứt đó. Nó thấp hơn mặt biển 210 mét nên khí hậu ấm áp dễ chịu, nhưng cũng lại nhiều nguy hiểm. Bên phía tây có núi non, thung lũng, khe suối, nên khi gió lạnh từ phía tây thổi đến thì những chỗ trũng, khe suối này có tác dụng như những cái phễu lớn. Gió bị nén trong đó và thổi ào ào xuống hồ bất thình lình với sức mạnh dữ dội, đến nỗi mặt hồ đang phẳng lặng, trong giây lát biến thành sóng gió gầm thét. Những cơn bão biển Ga-li-lê vừa bất ngờ vừa mãnh liệt độc đáo.

Cảnh tượng trong bài Tin Mừng kể lại là cảnh thường xảy ra trên biển Ga-li-lê. Chúa Giêsu đang ngủ, Ngài ngủ vì mệt mỏi sau khi dùng thuyền làm giảng đài dạy dỗ dân chúng. Các môn đệ là các ngư phủ chuyên nghiệp, và vùng biển này là địa bàn hoạt động của các ông, thế mà lúc này các ông hoảng sợ kêu cứu: “Thưa Thầy, chúng con chết mất”.

Chắc ai trong chúng ta cũng hiểu rằng theo Chúa không phải lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió hay được hưởng thái bình thịnh vượng. Ngay cả lúc chúng ta gần Ngài nhất, giông tố vẫn có thể nổi lên. Chúa không hứa cho chúng ta được thư thái an nhàn, nhưng là chiến đấu và thậm chí phải hy sinh cả đến tính mạng.

Hôm nay chúng ta hãy đặt tâm hồn vào hoàn cảnh hôm đó: Vào lúc chiều đến, tức là màn đêm bắt đầu buông xuống, đây là thời gian của sự tăm tối, hình bóng của những sự dữ hoành hành. Chúa Giêsu nhắc nhủ các môn đệ chuẩn bị một cuộc vượt qua những thử thách và nguy hiểm, Ngài nói: “Chúng ta hãy sang bên kia Biển Hồ”. Theo ý nghĩa của Kinh Thánh thì biển được trình bày như một sự hỗn mang, từ đó phát sinh những quyền lực chống lại Thiên Chúa và con người. Chỉ có quyền năng của Thiên Chúa mới có thể bắt ba đào hung hăng phải tuân nghe và cứu con người khỏi cơn bão tố. Ở đây bối cảnh diễn tả việc Thiên Chúa giải thoát con người khỏi mọi sự dữ của ma quỉ để đưa họ đến bến bình an là sự sống đời đời. Như vậy chúng ta luôn sẵn sàng đón nhận mọi tình huống tăm tối của cuộc đời bằng cách:

  1. Khẩn cầu xin Chúa:

– Cho dù ai có là vĩ nhân đối với con người, thì đối với Thiên Chúa họ vẫn chỉ là rất nhỏ bé. Cho nên chẳng có gì phải ngại ngùng đến van xin ơn Chúa cho bản thân, nhất là những lúc éo le của cuộc đời.

– Tiên vàn trong việc cầu xin là chúng ta phải tuyệt đối tin tưởng vào quyền năng vô cùng của Thiên Chúa, Ngài là Đấng thống trị địa cầu, là vua cả trời đất.

– Chúng ta có thể kêu xin Chúa bằng nhiều cách, như các tông đồ đã đánh thức Chúa, và thắc mắc “sao Thầy không quan tâm đến ….”. Lời trách yêu này biểu lộ một tâm trạng khát mong được Chúa cứu thoát hơn là sự nghi ngờ vào sức mạnh của Ngài.

– Khi theo Chúa chúng ta có cảm tưởng như Chúa có nhiệm vụ che chở cho các mọn đệ của Ngài. Tuy nhiên chúng ta vẫn luôn phải lấy lòng con thảo khiêm tốn nài xin Chúa, chứ không được đòi hỏi theo ý riêng một cách thiếu tế nhị.

  1. Bình an tâm hồn:

– Trong cơn bão tố tâm hồn, tự nhiên chúng ta sẽ tự đặt nhiều thắc mắc: Tại sao Chúa lại để cho sự dữ xảy ra? Tại sao Chúa lại để cho nghĩa tử yêu dấu của Ngài phải tan nát tâm tư? Giữa nghịch cảnh khốn khó đau thương, chúng ta còn tìm được sự hiện diện của Chúa trong tâm hồn không?

– Đứng trước ngã rẽ cuộc đời, chẳng biết phải làm gì, chúng ta hãy thưa lên cùng Chúa: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?”. Trốn tránh đau khổ theo ý riêng, có phải là sự bình an nội tâm không? Theo gương Chúa Giêsu, trước giờ chiến đấu quyết liệt nhất, Ngài đã thưa lên cùng Chúa Cha rằng: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa Con. Tuy nhiên, xin đừng làm theo ý Con, mà làm theo ý Cha” (Lc.22.42).

Ước gì trong mọi hoàn cảnh chúng ta luôn phó thác nơi tay Chúa như em thơ nương náu ở cung lòng mẹ hiền. Thiên Chúa là Cha nhân từ luôn nhìn đến những giọt lệ cần thiết nơi con cái loài người. Sự sợ hãi chỉ làm phiền lòng Chúa, nhưng tin tưởng vào Ngài là dịp Chúa tỏ uy quyền trên sự dữ, cứ mỗi lần như thế chúng ta có dịp gần gũi Ngài. Ngày xưa Chúa nói với các tông đồ sang bên kia Biển Hồ trải qua nhiều sóng gió, ngày nay Chúa mời gọi mọi người vượt qua biển thương đau của trần gian để về đến bến bình an đời đời trên Thiên Quốc. Chúng ta hãy mạnh dạn đáp lại tiếng Chúa mà tiến bước: “Có Chúa đi với ta, ta sẽ không còn sợ chi; có Chúa đi với ta, ta sẽ không lo lắng gì……”.

 

65.Gợi ý suy niệm của Hiền Lâm

Câu chuyện thầy trò Chúa Giêsu và các môn đệ vượt biển đã gặp phải cuồng phong đe dọa, cho chúng ta hình ảnh một Đức Giêsu Con Thiên Chúa đầy quyền năng trừ phong dẹp vũ, trong một con người Giêsu mệt mỏi nằm ngủ trên thuyền sau một ngày làm việc vất vả.

Câu chuyện này gợi lại hình ảnh được nói tới trong Thánh Vịnh 78:

“Bấy giờ Chúa như người đang ngủ,

như tướng hùng đã thấm men say,

bỗng tỉnh giấc, đánh cho quân thù quay lưng chạy,

phải thảm thê nhục nhã muôn đời”.

(Tv 78,65-66).

Kẻ thù ở đây là biển cả cuồng phong. Theo não trạng người Do-thái, biển là biểu tượng của quyền lực ma quỷ. Mỗi ngày, biển cũng nhắc mọi người nhớ lại thời hỗn mang nguyên thủy: tại đây hải thần thủy quái vẫy vùng và chỉ có một mình Thiên Chúa Toàn Năng mới thách thức và chế ngự được chúng. Khi Chúa Giêsu thức dậy “ngăm đe gió và biển” như khi Người truyền cho ma quỷ ( x. Mc 1,25), cho thấy Chúa Giêsu chứng tỏ thần lực của Người trên quyền lực sự dữ.

Chúa Giêsu chứng minh sức mạnh và sự phát triển không có gì chống lại được của Nước Thiên Chúa. Người chứng tỏ điều này bằng một dấu chỉ quyền năng là phép lạ dẹp tan sóng gió trước khi đi vào miền đất dân ngoại, nghĩa là chiến thắng của Tin Mừng trên ma quỷ vượt ra ngoài biên giới Israel.

Khi đối mặt với mọi hình thức sự dữ đang tấn công con người trong các trận cuồng phong nó gây nên, đôi khi chúng ta tự hỏi: Phải chăng Thiên Chúa đang ngủ?

Thật vậy, cảm nhận của con người giữa biển đời lắm khi như Thiên Chúa ẩn mình hay vắng bóng. Và rồi giữa phong ba bão tố cuộc đời, con người lựa chọn đương đầu ít nhất với 3 cách:

– Dùng sức mình để vật lộn với sóng gió để rồi thất bại tuyệt vọng,

– Chạy đến với Thiên Chúa mọi nơi mọi lúc nên không bao giờ sợ hãi,

– Gặp khi khó khăn mới chạy đến kêu cứu Chúa, nghĩa là coi Chúa chỉ như một phương thế giải quyết tức thời, mà thiếu đi đức tin thật sự và lòng yêu mến nồng nàn.

Trường hợp thứ ba này là trường hợp của dân Do-thái xưa, sách Xuất Hành và đặc biệt là sách Thủ Lãnh là một câu chuyện lặp đi lặp lại khi dân bị quân thù ức hiếp thì kêu cứu Chúa, Chúa giải cứu rồi lại tiếp tục phản nghịch Ngài…

Và có thể nói, đây cũng là thái độ của các môn đệ của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay, khi họ chưa có niềm tin và lòng yêu mến Thầy cho đủ, đến nỗi ngay khi chứng kiến phép lạ rồi vẫn ngỡ ngàng không hiểu Thầy là ai. Thầy Giêsu đang ở trên thuyền nhưng có vẻ như không có Người hiện diện, cho đến khi sóng gió bủa vây mà kinh nghiệm chống đỡ của dân làng chài như mấy ông đã bất lực mới chạy đến cầu cứu Thầy.

Đó cũng là cách sống và giữ đạo của không ít người trong chúng ta ngày nay. Khi an vui hạnh phúc chúng ta quên mất sự hiện diện của Thiên Chúa, đến khi gặp khó khăn thất bại mới tìm về cầu cứu Chúa. Sống đạo như thế là hời hợt, thiếu niềm tin đích thật và thiếu lòng lòng mến Chúa Giêsu. Cũng không thiếu những người ỷ lại vào khả năng mình mà thiếu đi lòng tín thác vào Chúa nên khi gặp sóng gió đã dễ ngã lòng kêu trách Người.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho mọi người chúng con luôn tin tưởng vào sự hiện diện của Chúa trên con thuyền cuộc đời chúng con giữa biển đời sóng gió. Để chúng con không bao giờ nao núng vì Chúa đã chiến thắng nên chúng con cũng sẽ chung phần chiến thắng và cập bến Nước Trời. Amen.

 

66.Suy niệm của Lm. Nguyễn Ngọc Thế

“Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”

* Vài hàng sơ lược

– Từ đoạn thánh kinh này Mc 4,35-41 đến 5,43, Mác-cô bắt đầu kể về những phép lạ của Chúa Giêsu. Qua đó những hành động quyền năng của Chúa được nêu bật. Vì vậy mà sau đó người ta bắt đầu thắc mắc về Giêsu: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?” (Mc 6, 2)

Ngoài ra, tất cả những phép lạ này đều có một khung cảnh chung, đó khung cảnh biển hồ Ga-li-lê-a. Và hình ảnh thuyền đều xuất hiện trong mỗi phép lạ (x. 4, 36.37; 5,2.18.21)

Một điều luôn được nhấn mạnh trong chuỗi phép lạ này. Đó là niềm tin tưởng. (x. 4, 40; 5. 34.36) Thêm vào đó có thể nhắc đến việc thiếu lòng tin trong 6,6. Ngoài ra, một thái độ đi đôi với niềm tin tưởng được nhắc lại 3 lần trong chuỗi phép lạ này. Đó là thái độ bái lạy, sụp xuống và phủ phục trước Đức Kitô (x. 5, 6.22.33) Điều này làm nổi bật sự “chào thua” của những quyền lực đe dọa trước Chúa Giêsu: quyền lực thiên nhiên (4, 35-42), quyền lực ma quỷ 5, 1-20, quyền lực của bệnh hoạn (5, 24-34) và quyền lực của sự chết (5, 21-23 và 35-43)

– Liên quan đến những đoạn thánh kinh về các dụ ngôn trước đó, chúng ta thấy đoạn thánh kinh này nối kết với đoạn 4,1, mở đầu cho các bài giảng với các dụ ngôn: “Đức Giê-su lại bắt đầu giảng dạy ở ven Biển Hồ”. Như vậy, khung cảnh biển hồ đức Giêsu giảng dạy vẫn là khung cảnh của câu chuyện phép lạ này, chỉ khác là giờ đây Giêsu lên thuyền và đi trên biển hồ. Ngoài ra, theo Adolf Pohl thì sau những bài giảng bằng lời nói của Giêsu, thì tiếp nối bằng những hành động của Ngài, để qua đó chứng thực về một Thiên Chúa không chỉ nói hay mà còn làm giỏi nữa. Lời nói và hành động đi đôi với nhau.

– Ngoài ra, khi đọc đoạn Thánh Kinh này, người ta có thể liên hệ ngay với đoạn thánh kinh ở Giona chương 1. Theo Rudfolf Pesch thì đoạn thánh kinh là câu chuyện kể lại câu chuyện của Giona, với sự phụ họa của thánh vịnh 107, 23-30. Mục đích chính là sự tuyên xưng: Giêsu lớn hơn tiên tri.

Ở đây, chúng ta có thể so sánh hai câu chuyện với nhau:

(a) Trong Giona 1, 4 ĐỨC CHÚA tung ra một cơn gió to trên biển. Còn ờ trong đoạn phúc âm của Mác-cô thì gió bão đến như là quyền lực muốn chống lại Thiên Chúa.

(b) Trong Giona 1, 5 Giona đi ngủ vì không muốn tuân phục Thiên Chúa. Còn theo Mác-cô thì Giêsu ngủ vì mệt mỏi sau những ngày tuần phục Thiên Chúa làm việc phục vụ mọi người.

(c) Trong Giona 1, 14 mọi người trên tàu sợ hãi và kêu cầu Thiên Chúa. Còn ở Mác-cô thì chính Giêsu là Thiên Chúa đã lên tiếng.

(d) Trong Giona 1, 14 các người dân ngoại trên tàu có niềm tin vào Chúa, còn các môn đệ trong đoạn Mác-cô này lại là những người thiều niềm tin.

(e) Trong Giona 1, 15 Biển dừng cơn giận dữ, vì Giona đã vâng lời Chúa và đồng ý để người ta quăng xuống biển. Ở Mác-cô thì biển hồ và cuồng phong vâng lệnh Giêsu.

– Trong đoạn Thánh Kinh Mc 4, 35-41 này tích cách Kitô học và Giáo Hội học được nêu bật, trong khi những sự kiện lịch sử cụ thể không đóng vai trò quan trọng.

– Ngoài ra, theo Johannes Bours, trong câu chuyện mà Mác-cô kể lại ở trên, có hai câu hỏi đã đụng độ nhau. Câu hỏi đầy sợ hãi của các môn đệ đã gặp gỡ câu hỏi đầy trách cứ của Giêsu. Khi đọc câu chuyện này, tôi cảm nhận rằng, câu chuyện đang kể về chính cuộc đời của chúng ta. Và câu hỏi sống còn của các môn đệ cũng liên hệ đến chính câu hỏi sống còn của mỗi người chúng ta: Cái gì có thể chiến thắng sự sợ hãi? Ai là người mạnh hơn? Thần Dữ, kẻ muốn nhấn chìm chúng ta xuống biển sâu, hay là Đấng mà trong đoạn Thánh Kinh này đã nhắc đến: “Người thức dậy.”

– Biển hồ Genesareth được người Ả-rập gọi là “Ajn Allah” – Mắt của Chúa”. Biển hồ này theo Adolf Pohl, nằm 212 m dưới mặt nước biển và ba phía của biển hồ được bao bọc bởi ba vách núi cao đến 300 m. Và biển hồ này có khí hậu bán nhiệt đới. Giữa tháng 5 và tháng 6 nhiệt độ nóng đến 40 độ C. Sự điều hòa nhiệt độ nhờ luồng khí lạnh trong miền cao, kết hợp với nhiệt độ nóng nực ở trên biển hồ, có thể được những trận gió lớn kéo theo một cách bất ngờ, như Luca diễn tả: “Một trận cuồng phong ập xuống hồ; các ngài bị ngập nước và lâm nguy” (8,23). Vì sự bất ngờ không thể dự đoán trước của các trận cuồng phong tại biển hồ này, mà các ngư dân ở đây rất sợ hãi. Và để tránh sự bất ngờ này nên các con thuyền đều cố gắng hướng về phía đông, nơi mà các ngư dân qua tiếng gió thổi, có thể đoán được xem có cuồng phong hay không.

* Suy niệm

– “35 Hôm ấy, khi chiều đến, Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Chúng ta sang bờ bên kia đi!”

“Hôm ấy, khi chiều đến” Câu chuyện được bắt đầu như vậy. Chiều đến nghĩa là ngày sống từ từ chào tạm biệt, công việc từ từ được gác xuống, giờ đây là thời gian để nghỉ ngơi. Ngày sống vừa qua của Giêsu là một ngày làm việc miệt mài. Ngài đi giảng dạy ở ven Biển Hồ. Ngài đã giảng gì vậy? Đọc lại các đoạn trước đó, chúng ta nhận ra rằng, Giêsu đã giảng dậy nhiều dụ ngôn khác nhau: Dụ ngôn người gieo giống; dụ ngôn cái đèn và đấu đong, dụ ngôn hạt cải. Từ ở trên thuyền Giêsu đã giảng dạy những điều đó cho dân chúng. Giờ đây khi bóng dương từ từ ngả xuống, Giêsu cũng từ từ muốn ngả lưng, Ngài cũng cần giờ cho mình, cần giờ để nghỉ ngơi, để ngủ nữa chứ. Vì thế, các môn đệ đã chở thầy mình qua bờ bên kia. Trên thuyền Giêsu mệt nhoài đã thiếp ngủ. Theo sau thuyền của Giêsu là rất nhiều thuyền khác nữa.

– 36 Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Người đi, vì Người đang ở sẵn trên thuyền; có những thuyền khác cùng theo Người.

Giêsu bỏ đám đông ở lại mà không chia tay gì với họ, là dấu hiệu Ngài mệt mỏi lắm rồi. Điều này được chứng minh qua câu 38 qua sự thiếp ngủ của Chúa. Thuyền mà Giêsu đang ở sẵn trên đó theo Adolf Pohl thì chắc không nhỏ, vì trên đó có cả một nhóm người. Ngoài ra, có những thuyền khác theo Người. Động từ “theo với, ở với” trong Mác-cô luôn hướng về Giêsu (x. 1, 13; 2,19; 3, 14; 5, 18; 14,57). Điều này nói lên tương quan chặt chẽ với Chúa Giêsu. Không chỉ là nhóm 12 thôi, mà còn cả những môn đệ khác nữa (ss. 4, 10)

– 37 Và một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước.

Hôm ấy, khi chiều đến cũng còn là thời gian ánh dương từ từ lặn dần để nhường bước cho đêm đen.

Và đêm càng đen hơn nữa, khi những con thuyền lênh đênh trên mặt hồ bao la kia. Phải chăng đêm đen này như đang dẫn đời người vào trong cái vòng ma quái? Hay đêm đen kia đang như muốn nuốt chửng không chỉ ánh mặt trời, mà tất cả những con người đang ở trên thuyền kia, những con người mệt mỏi sau một ngày vất vả với công việc?

Không chỉ đen, mà thêm vào đó là một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước. Ở đây cần nhắc đến một yếu tố. Trong bản gốc của Hy-lạp, câu chuyện này được kể tiếp nối với nhau trong thì hiện tại và quá khứ. Ngoài ra, chữ “Kai” trong tiếng Hy-lạp, có nghĩa là “Và”, được nhắc đến tất cả 12 x. Theo Johannes Bours, thì điều đó làm cho câu chuyện ly kỳ hơn. Cái thảm cảnh trong câu chuyện theo đó được diễn tả thảm não hơn. Thêm vào đó, trong thời cổ đại, thì thần dữ luôn gắn liền với cuồng phong bão táp của biển khơi. Phải chăng đại dương là nơi chốn của thần dữ với sức mạnh tàn phá và nuốt chửng?

Vâng, sự ly kỳ và thảm não của câu chuyện trong Thánh Kinh bắt tôi phải dừng bước một chút, để lật lại những trang sách kể về các chuyến vượt biển của người Việt thân thương. Lênh đênh trên mặt biển chứ không phải là mặt hồ đâu. Đêm đen không chỉ làm đen cả bầu trời xanh ngát, mà còn làm đen cả bao tâm hồn chan chứa hy vọng, khi xuống thuyền ra đi. Rồi chiếc thuyền có lớn lao bao nhiêu đâu. Xăng dầu cũng đã gần cạn rồi. Thuyền nào chẳng may bị bọn hải tặc “ghé thăm” một lần hay nhiều lần, thì còn thê thảm hơn nữa. Có một số thuyền không chỉ đầy nước mà còn bị vỡ tan tành, giờ đây chỉ là những mảnh gỗ của thuyền, làm bè cho một vài thân xác mệt nhoài, lực đã tàn sức đã kiệt, thả cuộc đời trôi theo sóng, trôi theo biển, trôi theo bóng đen, mà không còn nhìn thấy một tia hy vọng, không còn nhận ra một bến bờ để tấp vô. Mà có bờ đâu để tấp để đậu. Phải làm sao đây? Không lẽ đứng chết chân một chỗ? Hay chấp nhận một cái chết thê thảm trong bóng đêm, trong lòng biển? Không, ít nhất cần phải hò hét! Nhưng “hò” thì ai “thưởng thức” và hét thì có ai nghe giữa đại dương mênh mông này không? Đó là câu hỏi của những con người đụng tới đường cùng của cuộc sống. Truớc đường cùng này, tôi cũng xin không chỉ dừng bước, mà với tất cả tấm lòng xin cầu nguyện cho bao người Việt đã qua đời trên biển cả. Xin Chúa thương nhìn đến và đón nhận tất cả vào Nước của Chúa.

Vâng, chúng con dù sao vẫn tin vào lòng nhân từ và ơn giải thoát của Chúa, như Chúa đã nói:

“1 Bấy giờ, giữa cơn bão táp, ĐỨC CHÚA lên tiếng trả lời ông Gióp như sau:

8 Cửa đại dương, ai ra tay khép lại

khi nước tuôn trào từ đáy vực sâu,

9 khi Ta giăng mây làm áo nó mặc,

phủ sương mù làm tã che thân?

10 Đường ranh giới của nó, chính Ta vạch sẵn,

lại đặt vào nơi cửa đóng then cài;

11 rồi Ta phán: “Ngươi chỉ tới đây thôi,

chứ không được tiến xa hơn nữa,

đây là nơi các đợt sóng cao phải vỡ tan tành!” (Gióp 38, 1.8-11)

Dù tin đấy, nhưng không dậm chân tại chỗ. Niềm tin cũng cần biết tạo sáng kiến. Niềm tin cũng cần phải lên tiếng. Vâng, lên tiếng để đánh thức Chúa dậy. Một hành động tuyệt vời. Đến đường cùng rồi, vì thế cần phải đánh thức Ánh Dương, cần phải đánh thức Thiên Chúa đang ngủ dậy. Bóng đêm kia không thể mạnh hơn Ánh Sáng. Cuồng phong kia không thể mạnh hơn Thần Khí Thiên Chúa được. Cuồng phong và biển cả đều phải có ranh giới. Chúng phải ở đàng sau cánh cửa kia. Thiên Chúa chính là người không chỉ vạch ranh giới, không chỉ đặt then cài, mà Ngài còn là người có đủ quyền năng để gài then cửa.

– 38 Trong khi đó, Đức Giê-su đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các môn đệ đánh thức Người dậy và nói: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”

Và quyền năng của Thiên Chúa cũng được trao cho Giêsu, Người con dấu ái. Vì thế, các môn đệ đã đánh thức thầy: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”

Một câu hỏi chất chứa sợ hãi và âu lo, một câu hỏi mang chút trách cứ và hờn giận Thiên Chúa. Joachim Gnilka, một nhà chú giải thánh kinh đã cắt nghĩa rằng, câu hỏi của các môn đệ đã diễn tả thái độ sai lầm của họ: Khi gặp hiểm nguy họ chỉ nghĩ về mình và về sự an toàn của mình mà thôi. Một cách nào đó họ đã không chia sẻ nỗi hiểm nguy của họ với Thiên Chúa. Họ không để cho Thiên Chúa cùng gánh vác nỗi hiểm nguy của họ. Thái độ này được nhắc lại rất rõ ràng trong biến cố họ chạy trốn trước thánh giá tử nạn của Giêsu. Còn với Rudolf Pesch thì lòng yếu tin của các môn đệ nằm ở chỗ, là họ không hiểu được và chấp nhận được một Thiên Chúa ẩn mình. Và trên con đường thương khó, các ông cũng đã ngựa quen đường cũ, không hiểu được tại sao Giêsu thầy mình phải chịu bắt bớ, tra khảo, kết án và chết tất tưởi trên thập tự.

Đâu rồi niềm tin và sự cậy trông vào một Thiên Chúa đã sinh ra làm người nghèo khổ trong hang lừa, để chia sẻ và gánh vác với đời người những âu lo, những khổ đau? Đâu rồi sứ điệp và tin mừng Phục Sinh của một Giêsu chiến thắng sự chết? Giêsu đó, Thiên Chúa đó ngay từ đầu và mãi mãi nói với con người chúng ta rằng: “Đừng sợ!”

Hay sức mạnh của bóng đêm và sự đe dọa của cuồng phong bão táp đã làm tắt lịm đi chút ánh sáng của niềm tin, và chút hơi ấm của niềm hy vọng? Không, ngay từ ngày đầu tiên, khi Thiên Chúa sáng tạo con người, Thiên Chúa đã thấy rằng, hành động sáng tạo này là hành động tuyệt vời nhất. Còn tạo vật nào hơn con người mà Thiên Chúa yêu thương nữa. Vì thế, dù biển sâu hay cuồng phong, dù bão táp hay đêm đen, dù thần dữ hay lòng người gian dối, không có gì có thể làm cho tình yêu của Thiên Chúa phai nhòa.

Thiên Chúa vẫn hiện diện. “Emmanuel – Thiên Chúa luôn ở cùng với chúng ta”.

Ngay cả trong những đêm tăm tối nhất của cuộc sống, Ngài vẫn không hề bỏ mặc chúng ta một mình. Ngay cả trong những lúc khó khăn nhất của cuộc đời, Ngài vẫn luôn hiện diện với chúng ta. Và thậm chí, ngay cả trong đêm cuối đời, trong giây phút cô đơn hiu quạnh cuối cùng của cuộc sống, vốn dĩ không ai có thể đồng hành cùng với chúng ta, trong đêm cuối cùng trước giờ lâm tử đó, Thiên Chúa vẫn không hề từ bỏ chúng ta…. (Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI)

Lời của Đức Thánh Cha chất chứa niềm hy vọng. Niềm hy vọng này cũng chính là nguồn sống cho Alfred Delp, một linh mục dòng Tên bị phát xít Đức giam cầm trong ngục tù đen tối. Cha Alfred kể lại rằng: “Vào một buổi tối tôi cảm thấy tâm hồn mình chao đảo. Tôi bị hành hạ rất dã man và sau đó bị tống trở lại vào ngục. Những tên lính phát xít giải tôi vào ngục đã nói những lời như sau: “Như vậy là đêm nay mày không thể nhắm mắt được đâu. Mày sẽ cầu nguyện, nhưng không có một Thiên Chúa và cũng chẳng có một thiên thần nào đến, để cứu thoát mày. Phần chúng ta sẽ đánh một giấc ngon lành, và sáng sớm ngày mai chúng ta sẽ tiếp tục hành hạ mày.’

Alfred kể tiếp: Thiên Chúa đã thử thách tôi. Giờ đây làm thế nào để có thể bền bỉ đứng vững được thôi. Tôi vẫn luôn tin tưởng vững vàng và hy vọng nơi Bàn Tay nhân từ, Bàn Tay đã đón nhận chúng ta và hướng dẫn chúng ta…. và Thiên Chúa đã ban tặng cho tôi một không gian thật đẹp với sự bình tâm thẳm sâu. Tôi cảm thấy lúc này Chúa thật gần và thương tôi thật nhiều….Với tôi có những lúc thật là khó khăn. Tôi đã trải qua những giờ phút rất đau thương với nước mắt và máu. Nhưng tôi đã luôn luôn cố gắng đưa những giọt nước mắt và máu của mình vào trong hai hành động thật nhỏ bé, để nhờ đó có thể đứng vững được. Hai hành động đó là: Cầu Nguyện và Yêu Thương. Tất cả mọi hành động khác trong lúc đó đều sai cả…. Hôm nay là một ngày tồi tệ. Thiên Chúa như đang thử thách tôi, xem tôi có giữ những lời mà tôi đã từng xác tín không: Chỉ với Chúa thì cuộc sống mới tồn tại và phận người mới đứng vững được.

Giờ phút của Phêrô lại đến. Gió bão và sóng lớn lại đe dọa… Phêrô bắt đầu run lẩy bẩy… Giờ đây mọi sự nằm trong bàn tay của Chúa… Ngài có nhiều cách để vực chúng ta dậy và dìu chúng ta tiếp tục tiến bước. Tôi đã thường cảm thấy điều này trong những tuần lễ thê thảm đầy sợ hãi và dài đằng đẵng. Tôi luôn hy vọng vào Thiên Chúa, và vào tình yêu cùng sự trung thành của Ngài…Tôi muốn đốt lên những ngọn lửa cho các bạn. Các bạn đã cùng đi với tôi trong những đêm đen của cuộc đời. Các bạn cũng đã từng bị gió bão và cuồng phong đe dọa, và các bạn đã đứng vững. Vai kề vai chúng ta cùng gánh vác chung với nhau nhé… Giữa đêm đen Ánh Sáng sẽ bừng lên!”

Hành động của Cha Alfred chắc chắn là một bài học thật quý giá cho chúng ta. Thực vậy, trên con thuyền của cuộc đời, chúng ta chỉ cần tin thôi. Chúng ta hãy cứ an tâm. Dù cho Giêsu có ngủ, nhưng ngủ ở đàng lái đấy! Và không chỉ ngủ ở đàng lái, mà theo Hans Urs von Balthasar, thì Giêsu còn nằm nghỉ trong lòng của Chúa Cha, Đấng canh giữ cuộc sống của Giêsu và sứ mạng của Giêsu, không bao giờ cho phép sức mạnh của thiên nhiên ảnh hưởng đến sứ mạng của Giêsu.

Nhưng sứ mạng của Giêsu là gì? Là yêu thương mọi người, là trao ban tình yêu của Cha cho mọi người, là chở che mọi người trước bao nỗi hiểm nguy, là giải thoát con người khỏi mọi nỗi sợ hãi, và đưa mọi người về với bờ bến của bình an, của hạnh phúc. Vâng, chúng ta hãy an tâm và đừng sợ, Giêsu luôn gìn giữ chúng ta, và không bao giờ để cho chúng ta mất đi. Như người mục tử nhân lành, chính Ngài chứ không ai khác sẽ che chở đoàn chiên trước thú dữ đang nhâm nhe đe dọa.

Vì thế, dù gió có lớn, bão có to đến mấy, thì Giêsu vẫn vững tay lái, vững mái chèo trên con thuyền của cuộc đời. Và dù Ngài đang ngủ, nhưng Ngài vẫn hiện diện. Dù vì mệt mỏi đang nghỉ ngơi, nhưng Ngài nghỉ ngơi trên con thuyền của chúng ta, của con người yếu đuối, chứ ngài không nằm nghỉ trên giường êm nệm ấm. Và kìa Ngài đã nghe tiếng kêu của các môn đệ. Chúng ta hãy nhìn xem. Ngài đứng dậy. Rồi Giêsu làm gì? Ngài sẽ mắng các môn đệ chăng? Không, điều đầu tiên là:

– “39 Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi!” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ.”

Tuyệt vời quá sức! Tuyệt vời như từ thuở xa xưa:

“Khi gặp bước ngặt nghèo, họ kêu lên cùng CHÚA,

Người đưa tay kéo họ ra khỏi cảnh gian truân.

Đổi phong ba thành gió thoảng nhẹ nhàng,

sóng đang gầm, bỗng đâu im tiếng,

họ vui sướng, vì trời yên bể lặng

và Chúa dẫn đưa về bờ bến mong chờ.” (Tv 107, 28-30)

Vâng, dù tiếng sóng có gầm vang, có thét lên đến long trời lở đất, thì cũng cần phải im tiếng đi, cần phải nhường bước cho Thiên Chúa, Đấng là tình yêu, Đấng từ thuở đời đời luôn ở đó bên người con nhỏ yêu dấu của Ngài:

“Sóng nước đã gầm lên, lạy CHÚA,

sóng nước đã gầm lên tiếng thét gào.

Sóng nước đã gầm lên, long trời lở đất.

Nhưng hơn hẳn tiếng nước ngàn trùng,

hơn hẳn sóng oai hùng ngoài biển cả,

CHÚA oai hùng ngự trị chốn cao xanh.” (Tv 93, 3-4)

Sự hiện diện đầy quyền năng của Chúa đã làm cho biển phải câm lặng. Quyền năng này các môn đệ ngày xưa không thể hiểu được. Có lẽ chính vậy mà niềm tin của các ông còn nhỏ lắm. Và có lẽ Giêsu hiểu thấu được niềm tin của môn đệ mình, nên Ngài chỉ mắng:

– “40 Rồi Người bảo các ông: Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”

Ở đây một điều thú vị là, trước hết Giêsu ra lệnh cho biển phải im lặng, sau đó Ngài mới mắng các môn đệ. Vâng, ngài đã hiểu thấu sự sợ hãi của các ông, nên điều đầu tiên cần làm không phải là trách mắng người đang sợ hãi, mà ra tay giúp đỡ giải thoát họ ra khỏi sự sỡ hãi trước, sau đó muốn nói gì thì nói, muốn mắng gì thì cũng không sao.

Lời mắng các môn đệ nhát sợ được Giêsu lập lại nhiều lần khác (x. Mc 4, 13.40; 7,18; 8,17tt.21.33; 9, 19). Nhưng khi mắng các môn đệ như thế, Giêsu có ý chống lại sự nghi ngờ của các môn đệ vào chính Ngài, Thầy của họ, cũng như chống lại sự nhát sợ của người được chọn, người môn đệ Chúa. Như vậy lời mắng của Giêsu như là lời tỉnh thức giúp cho những ai theo Chúa cần dừng bước lại, để nhận ra sự yếu đuối rất hay nhát sợ của con người mình, và ý thức bám vào Chúa nhiều hơn. Vâng, ai càng bám vào Chúa và sống trong tình thân với Ngài, thì sẽ chẳng sợ gì, họ càng ngày càng bình tâm hơn. Một sự bình tâm tín thác và tin tưởng hoàn toàn vào Chúa, đến nỗi không ước muốn sức khỏe hơn bệnh tật, giàu sang hơn nghèo khổ, danh vọng hơn nhục nhã, sống lâu hơn chết yểu và tương tự thế đối với mọi sự khác, nhưng chỉ ước muốn và lựa chọn cái gì dẫn đưa chúng ta tới cứu cánh của mình hơn cả, và cái gì đúng theo thánh ý của Chúa mà thôi (ss. Sách Linh Thao số 23)

Điều thứ hai mà Giêsu mắng các môn đệ là việc yếu lòng tin của các ông. Về điều này chúng ta cũng thấy Máccô nhắc đến nhiều lần. Vâng, dù cho các ông đã theo Giêsu và ở với Người (ss. Mc 3, 14), dù cho mầu nhiệm Nước Trời đã được trao cho các ông (ss. Mc 4, 11), và giải nghĩa cho các ông cặn kẽ (ss. Mc 4, 34b), nhưng các ông vẫn chưa có lòng tin. Adolf Pohl chú ý chúng ta về từ ngữ “chưa có lòng tin”. Với từ ngữ này chúng ta có thể nhận ra rằng, sự chậm hiểu và thiếu lòng tin của các môn đệ là dấu hiệu của sự thiếu kinh nghiệm thiêng liêng về Thiên Chúa và về niềm tin.

Phải chăng niềm tin không chỉ là một món quà của Chúa ban tặng một lần là xong, mà niềm tin còn cần phải được chăm bón, cần phải được thử sức và tôi luyện, cần phải luôn luôn được lấy ra khỏi “kinh tin kính”, để đem vào cuộc sống, để nhìn lại và để rút ra thêm kinh nghiệm. Và cũng thật quan trọng, khi ý thức như Luca cầu xin Chúa: “Lạy Chúa, con tin Chúa, nhưng xin Chúa tăng thêm lòng yếu tin của con.” Thực vậy, không ai dám nói rằng, khi tôi bước theo Chúa và trở thành môn đệ của Ngài, thì niềm tin của tôi vào Ngài đã vững vàng 100%, đến nỗi tôi không cần phải “vào nhà tập lại”, không cần phải đi tĩnh tâm năm, không cần phải cầu nguyện hằng ngày, không còn phải ra sức học hành và trau dồi Lời Chúa nữa.

Ai dám nghĩ như thế, thì thật là “tuyệt”, vì họ là con người hoàn hảo rồi. Mà đã hoàn hảo rồi thì đi tu để làm gì nữa? Vì vậy, thật hay từ ngữ “tu” của Việt Nam ta: Tu là để sửa chữa, để ngày ngày học biết tinh thần của Giêsu và ý thức sửa đổi bắt chước Giêsu mỗi ngày nhiều hơn một chút. Hay theo thiển ý của tôi, có thể nói theo kiểu của Linh Thao: Tu là một chuỗi ngày tập thể thao cho linh hồn của mình, bằng cách ngày ngày ý thức dọn dẹp và chuẩn bị linh hồn để xa bỏ những quyến luyến lệch lạc và sau đó tìm kiếm ý Chúa trong cách xếp đặt cuộc sống để mưu ích cho linh hồn mình (ss. Linh Thao số 1)

– 41 Các ông hoảng sợ và nói với nhau: “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”

Sau khi chứng kiến quyền năng của Giêsu trên thiên nhiên, thì các môn đệ hoảng sợ. Ở đây, Adolf Pohl so sánh một điều rất hay. Trong câu 37 nói về một trận cuồng phong lớn. Và sau đó ở câu 39 là “biển lặng như tờ” nghĩa là sự thinh lặng lớn. Và ở câu 41 này thì các môn đệ “hoảng sợ”, nghĩa là nỗi sợ thật lớn. Như vậy, nỗi sợ thật lớn này không còn là sự nhát sợ mà Giêsu mắng các ông ở câu 40, mà là sự sợ hãi lớn trước sự mạc khải của Thiên Chúa. Sự sợ hãi này cũng là sự công nhận của con người nhỏ bé trước quyền năng phi thường của Thiên Chúa. Vâng, nỗi sợ lớn lao trước Thiên Chúa này không trói buộc con người lại, mà thúc đẩy con người biết ý thức phủ phục, biết ý thức tỏ lòng thờ lạy Chúa của mình, như trong Giona 1, 16: “Những người ấy sợ ĐỨC CHÚA, sợ lắm; họ dâng hy lễ lên ĐỨC CHÚA và khấn hứa.” Như vậy, trong sự sợ hãi này chứa đựng những điều thật tích cực: Tin tưởng và thờ lạy. Vâng, sau khi biển và cuồng phong đã phải tuân phục và bái lạy Thiên Chúa, thì giờ đây đến lượt con người chúng ta.

Nỗi sợ hãi lớn lao này cũng thúc đẩy con người đi vào trong giao động mới, đó là đi tìm căn tính của Đức Kitô: Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh? Theo R. Pesch thì những ai chứng kiến cảnh tưởng này chỉ có thể trả lời rằng: Đấng mà cả gió và biển phải tuân lệnh thì lớn hơn tiên tri Giona. Ngài hành động với sức mạnh của chính Gia-vê Thiên Chúa. Ngài là Đấng lớn hơn cả sức mạnh và bạo lực của hỗn mang. Phần bạn và tôi, chúng ta hãy luôn để câu hỏi này đi với mình trong cuộc đời: “Đức Kitô là ai đối với tôi vậy?” Chắc chắn rằng, mỗi thời điểm câu trả lời sẽ khác, vì kinh nghiệm về niềm tin và về Giêsu của chúng ta cũng sẽ khác đi và dồi dào hơn.

 

67.Đức Giêsu dẹp yên bão tố

(Chú giải và Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)

1.- Ngữ cảnh

TM Máccô theo một cái khung quen thuộc để kể truyện này: một trở ngại phải vượt qua (một trận cuồng phong trên biển), hành động quyền năng của Đức Giêsu (lệnh truyền im lặng), và sự xác nhận (sự yên lặng hoàn toàn và nỗi sợ hãi của các môn đệ). Bối cảnh của câu truyện này rất có thể là quan niệm cổ xưa của Cận Đông về biển: đây là biểu tượng của những quyền lực của hỗn mang và sự dữ đấu tranh chống lại Thiên Chúa. Các độc giả đầu tiên của Mc nắm được ý nghĩa của biểu tượng này đến mức nào, thì khó mà biết. Nhưng chắc chắn câu hỏi của các môn đệ (“người này là ai?”) cho thấy là tác giả muốn nhấn mạnh trên chân tính của Đức Giêsu. Câu hỏi ấy trở thành một lời tung hô mặc nhiên mang tính Kitô học nhìn nhận bản tính thần linh của Đức Giêsu, bởi vì Người làm được những việc Thiên Chúa làm.

Ở đầu bản văn, rõ ràng Mc bận tâm tạo ra một móc nối với những phần đi trước. Ngày sắp tàn là ngày đã có bài giảng dài trên hồ (x. 4,1). Chiếc thuyền Đức Giêsu dùng để qua hồ vẫn là chiếc thuyền Người đã dùng làm bệ giảng trên hồ (x. hình ảnh con thuyền trong Mc: 5,1.21; 6,45; 8,31). Bỏ đám đông ở đầu c. 36 cũng là một điểm móc nối. Riêng với chiếc thuyền: Chuyến vượt hồ bằng thuyền tương ứng với việc dừng lại nơi một ngôi nhà; và cũng như có những giáo huấn đặc biệt Đức Giêsu ban cho các môn đệ được nối kết với lần dừng lại nơi một ngôi nhà (x. 7,17-23; 9,28t; 9,33-50; 10,10-12), thì cũng có những hành vi quyền lực đặc biệt được liên kết với chuyến vượt hồ bằng thuyền. Chiếc thuyền là nơi để Đức Giêsu mạc khải đặc biệt cho các môn đệ (4,35-41; 6,45-52) và là nơi Người chờ đợi các ông tỏ ra hiểu biết các hành vi quyền lực của Người (8,17-21). Chiếc thuyền là nơi có sự hiệp thông đặc biệt chặt chẽ giữa Đức Giêsu và các môn đệ. Và chính là trong sự hiệp thông rất chặt chẽ này và không thiếu hiểm nguy, mà các hành vi cứu độ và mạc khải quan trọng của Đức Giêsu được thực hiện.

2.- Bố cục

Sau khi đã giản lược một số chi tiết, chúng ta có thể xác định bố cục như sau:

1) Đức Giêsu và các môn đệ trước khi gặp sóng gió (4,35-37);

2) Đức Giêsu và các môn đệ trong sóng gió (4,38-39);

3) Đức Giêsu và các môn đệ sau sóng gió (4,40-41).

3.- Vài điểm chú giải

– Hôm ấy, khi chiều đến (35): Tác giả quen dùng hai thành ngữ đi liền nhau để chỉ thời gian, trong đó vế thứ hai xác định vế thứ nhất (x. 1,32.35).

– sang bờ bên kia: nghĩa là sang bờ phía đông của Hồ Galilê. Tại sao Đức Giêsu muốn sang đó: để tránh sự chống đối? để tìm một vùng đất mới mà rao giảng? Ta không được rõ.

– ngủ (38): Giữa trận cuồng phong dữ dội, Đức Giêsu vẫn có thể ngủ, có lẽ vì Người quá mệt, nhưng cũng chắc chắn vì Người vừa hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa (x. Tv 4,9; 3,24-26) vừa chứng tỏ Người luôn làm chủ mọi tình huống.

– Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao? (38) Câu hỏi này của các môn đệ đã được làm nhẹ đi rất nhiều trong Mt 8,25 (“Thưa Ngài, xin cứu chúng con, chúng con chết mất”) và Lc 8,24 (“Thầy ơi! Chúng ta chết mất!”).

– truyền cho biển (39): x. 1,25. Đức Giêsu có thể kiểm soát biển, đây là mặc nhiên khẳng định rằng Đức Giêsu có quyền năng của Thiên Chúa, bởi vì chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể điều khiển biển (x. Tv 73/74,13-14; 88/89,10-12).

– Câm đi! x. 1,25: động từ phimoô. Cơn bão được coi như một thú dữ. Động từ này cho hiểu rằng Đức Giêsu đang chứng tỏ Người có thể kiểm soát các mãnh lực của tà thần.

– Gió liền tắt và biển lặng như tờ: Nhận định này cho thấy Đức Giêsu hoàn toàn kiểm soát được biển.

– nhát (HL. deiloi, 40): Nhiều lần các tác giả Tân Ước đã cảnh giác về deilia (“sự nhát đảm”). Ở Kh 21,8, những người nhát đảm được kể ra cùng với những người không tin (x. 2 Tm 1,7; Ga 14,1).

– Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin? Lời trách này rất nặng, do nhắm thẳng vào các môn đệ (x. 8,14-21). Phải chăng họ đã mất niềm tin vào Thiên Chúa hoặc vào Đức Giêsu? Nếu họ đã mất niềm tin vào Thiên Chúa, chính là vì họ đã không chịu noi theo Đức Giêsu đặt hết tin tưởng vào Thiên Chúa (4,38). Nếu họ đã mất niềm tin vào Đức Giêsu, chính là họ vì họ đã không cậy dựa vào quyền lực của Đức Giêsu.

– Vậy người này là ai? (41): Bởi vì chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể chế ngự gió và biển, câu hỏi này của các môn đệ hàm chứa một lời tuyên xưng mặc nhiên rằng Người làm được những việc mà truyền thống Cựu Ước thường trình bày là chỉ Thiên Chúa mới làm được.

4.- Ý nghĩa của bản văn

Bản văn vừa cho thấy tương quan mật thiết giữa Đức Giêsu và các môn đệ vừa diễn tả lộ trình các môn đệ khám phá ra mầu nhiệm Đức Giêsu: họ bước theo Người, họ chứng kiến các biến cố trong đó Người can thiệp, họ khám phá ra mầu nhiệm bản thân Người. Chi tiết “có những thuyền khác cùng theo” chỉ được nêu ra ở câu đầu, rồi sau đó cho đến cuối, không xuất hiện nữa.

Đức Giêsu và các môn đệ trước khi gặp sóng gió (35-37)

Sáng kiến vượt hồ là sáng kiến của Đức Giêsu. Các môn đệ luôn thinh lặng bước theo Người và tận tình thực hiện những việc Người đề nghị. Đức Giêsu luôn tỏ ra là chủ, nắm vững mọi hướng đi.

Đức Giêsu và các môn đệ trong sóng gió (38-39)

Nguy hiểm được mô tả bằng các chi tiết về sóng to gió lớn. Nhưng Đức Giêsu vẫn tỏ ra là chúa tể, làm chủ tình hình: Người ngủ. Bình thường các môn đệ chờ đợi Đức Giêsu phản ứng và dạy bảo rồi mới làm theo; nhưng ở đây, thấy bão táp quá nguy hiểm, các ông bị chao đảo trong đức tin, các ông đã phản ứng trước Thầy, các ông thúc bách Thầy bằng giọng hốt hoảng và trách móc. Người đã trỗi dậy, dẹp yên sóng gió. Ở đây, bão và biển được truyền lệnh như những sinh vật; chúng được yêu cầu “im đi!”, “câm mõm lại!”. Quả thật, từ vựng của bản văn là từ vựng của một truyện trừ quỷ.

Đức Giêsu và các môn đệ sau sóng gió (40-41)

Dù sao chúng ta thấy phản ứng của các môn đệ (hoảng sợ và đánh thức Thầy) là chuyện hợp lý. Khó hiểu hơn, đó là những câu hỏi của Đức Giêsu: “Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?” (c. 40). Làm sao có thể cấm các môn đệ sợ hãi khi gặp nguy hiểm chết người? Đức tin này là loại đức tin nào, mà ngay trong nguy hiểm cùng cực vẫn loại trừ được nỗi sợ hãi? Đức Giêsu trách các môn đệ là chỉ nhìn đến nguy hiểm và những sức mạnh đe dọa của thiên nhiên chứ không hiểu biết ai là người đang cùng ở trên thuyền với họ.

Chỉ sau khi đã thực hiện phép lạ, Đức Giêsu mới ngỏ lời với các môn đệ; lúc này, họ lại trở về đúng vị trí là những người bước theo, đón nhận giáo huấn. Câu nói: “Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?” chứng tỏ các môn đệ đã được sống với Đức Giêsu khá lâu rồi. Câu hỏi “Vậy người này là ai…?” vừa nhìn nhận quyền lực của Đức Giêsu vừa như muốn tìm ra câu trả lời nơi những người nghe kể lại sự cố. Ta sẽ gặp câu trả lời được đề nghị trên môi Phêrô ở 8,29.

+ Kết luận

Đoạn văn nêu bật sự cần thiết của đức tin trong đời sống người môn đệ. Nếu chúng ta hiểu rộng ra rằng trận bão trên biển ấy là một hình ảnh báo trước cuộc Khổ Nạn mà Đức Giêsu sẽ đi vào, thì bước theo Đức Giêsu, dù ngày hôm qua hay ngày hôm nay, luôn luôn là bước theo Người xuyên qua Khổ Nạn. Và như thế, cần phải có đức tin. Chỉ với giá ấy, người môn đệ mới được tham dự vào cuộc Phục Sinh vinh quang với sự an bình thẳm sâu được.

5.- Gợi ý suy niệm

  1. Hình ảnh con thuyền trong đó các môn đệ sống chung với Đức Giêsu là biểu tượng cho cộng đoàn gồm những môn đệ hôm nay vẫn đang muốn bước theo Người. Đó chính là một cuộc “cộng đồng sinh mệnh”, sống chết có nhau. Phản ứng của các môn đệ trong biến cố này là một tấm gương và một lời nhắc nhở cho cộng đoàn Kitô hữu là đừng rơi vào một thái độ không tin như thế. Nếu chúng ta gắn bó với Đức Giêsu, thì không có hoàn cảnh nào có thể tiêu diệt chúng ta, bởi vì không có hoàn cảnh nào mà Người không chế ngự được.
  2. Sai lầm của các môn đệ là chỉ nghĩ đến mình chứ không sẵn sàng chia sẻ nguy hiểm với nhau và với Đức Giêsu. Hoàn cảnh này sẽ được lặp lại khi họ chạy trốn trong đêm Đức Giêsu bị bắt và bị đưa đi đóng đinh. Cơn sóng gió cuối cùng chúng ta sẽ gặp, và không có cách nào tránh được, đó là cái chết. Mỗi người chúng ta đều sẽ phải đương đầu với cái chết; cái chết có thể đến bất ngờ một trận cuồng phong hay chậm chạp từ từ. Nhưng cho dù cái chết đến bằng cách nào đi nữa, chúng ta cũng lo sợ. Bài Tin Mừng này cho chúng ta biết là chúng ta phải tin rằng Đức Giêsu luôn nghĩ đến chúng ta, Người sẽ không để chúng ta phải lo sợ quá mức. Chúng ta tin rằng khi chúng ta cần, Người sẽ lên tiếng bảo cơn sóng gió “Câm đi! Im đi!”
  3. Lời mời gọi “Hãy sang bờ bên kia” có nhiều ý nghĩa đối với chúng ta. Với Giáo Hội, “bờ bên kia” mang ý nghĩa là những người hiện giờ không ở trong cộng đoàn chúng ta, họ đang ở “bờ bên kia”, có thể họ là những người vừa di chuyển đến trong xã hội chúng ta, những người “bên phía kia”, là người cao niên, người tàn tật, người bệnh chờ chết, hay người di dân vì chiến tranh trong trại di cư… Đức giáo hoàng Phanxicô dạy trong Tông huấn Niềm vui Tin Mừng: “Mỗi Kitô hữu và mỗi cộng đồng phải phân định đường đi nước bước mà Chúa vạch ra, nhưng tất cả chúng ta đều được yêu cầu vâng theo tiếng gọi của Người là ra đi khỏi khu vực tiện nghi của mình để đến mọi vùng ngoại vi đang cần ánh sáng Tin Mừng” (s. 20).
  4. Lời Đức Giêsu trách các môn đệ: “Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?” rất đúng cho chúng ta là những người đã biết Đức Giêsu từ lâu, đã sống với Người, đã được chứng kiến biết bao nhiêu việc kỳ diệu Người làm trong đời sống chúng ta, mà vẫn không biết phản ứng hay lấy những quyết định tương hợp với kinh nghiệm ấy. Nhận biết đúng đắn chân tính của Đức Giêsu thì sẽ có một thái độ đúng đắn đối với bản thân Người.
  5. Các cộng đoàn chúng ta phải đưa Đức Kitô đến cho người ngoại, nên không thể nào tránh khỏi những khó khăn và đối kháng. Chẳng hạn, không phải mọi nhóm tôn giáo đều tôn trọng tự do của cá nhân; những sứ giả Tin Mừng có thể gặp những nguy hiểm chết người… Tuy nhiên, vì loan báo Tin Mừng là sứ mạng làm nên bản chất Kitô hữu, chúng ta không thể tránh né.

 

68.Chú giải của Noel Quesson.

Giáo huấn bằng dụ ngôn của Đức Giêsu đã nói lên sự phân biệt rõ ràng giữa hai loại người: Đối với những “người ở ngoài”, thì tất cả đều bí hiểm. Còn đối với các “môn đệ”, thì mọi sự đều sáng tỏ trong các mạc khải về mầu nhiệm mà “vị Thầy “ đã thông tỏ riêng cho họ. Trong Tin Mừng theo Thánh Mác-cô, tiếp theo một chuỗi những dụ ngôn là bốn phép lạ. Những phép lạ này có đặc tính rõ ràng: Không được thực hiện trước công chúng, nhưng chỉ “trước mặt các môn đệ”. Phải chăng những phép lạ này là những dụ ngôn bằng hành động, phải được hiểu trên bình diện biểu tượng cũng như bình diện thực tế? Các tông đồ giữa cơn bão tố được kể lại hôm nay, gọi Đức Giêsu là “Thầy” (tiếng Hy Lạp là didaskalos có nghĩa là “Thầy dạy dỗ”), việc này phải chăng có một giá trị mạc khải lớn? Vậy chúng ta hãy lắng nghe giáo huấn của Người trong biến cố này. Đọc một biến cố để nêu ý nghĩa thần học, không làm cho biến cố đó mất tính cách lịch sử, nhưng mang lại cho nó chiều kích sâu xa hơn.

Chiều hôm ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Chúng ta sang bờ bên kia đi?”. Vì Người đang ở trên thuyền, các ông cứ thế chở Người đi bỏ dân chúng ở lại; có những thuyền khác cùng theo Người”.

Trên bình diện thực tế lịch sử, tôi tưởng tượng một buổi chiều hè đẹp trời, Đức Giêsu mượn chiếc thuyền của Simon Phêrô và từ từ rời xa bờ biển Ca-phác-na-um. Sau một ngày nóng bức, bây giờ là buổi chiều tà mát mẻ. Sau khi đã tiếp xúc với đám đông ồn ào, bây giờ là lúc thân mật ân tình với nhóm bạn hữu trên biển. Chính Đức Giêsu đã có sáng kiến tạo ra những giây phút yên tĩnh này:

“Chúng ta hãy qua bờ bên kia”. Gió tốt, cánh buồm căng phồng đang nhẹ rung – Người ta chỉ nghe tiếng nước vỗ nhẹ vào mạn thuyền đang rẽ sóng và tiếng kêu của một vài con chim biển. Sau một ngày giảng dạy bằng dụ ngôn, Đức Giêsu mệt mỏi thiếp ngủ nơi cuối thuyền. Bên cạnh Người là Phêrô đang cầm bánh lái. Nhưng nếu chỉ dừng ở những trang này thì thật đáng tiếc. Chúng ta biết rằng, từng câu, từng chữ trong trình thuật Tin Mừng, đều được khoa Giáo lý ban đầu chú giải. Do đó chúng ta cũng phải đọc và hiểu theo nghĩa tượng trưng, như những chú giải của các Giáo phụ minh chứng.

“Ngày hôm đó”: Đây không phải là một kiểu nói thông thường, có nghĩa là: Ngày giảng dạy bằng dụ ngôn đã chấm dứt. Đối với Thánh Maccô “sự trình bày cán sự kiện nối tiếp nhau là một cấu trúc thần học hơn là một phóng sự “Ngày hôm đó” sẽ không phải một ngày thường. Phêrô sẽ nhớ ngày đó suốt đời. Vì ông gợi nhớ những hình ảnh Thánh kinh: “Ngày hiển hách của “Giavê”, “Ngày Thiên Chúa quyền năng can thiệp mạnh mẽ”, ngày đó có những tai họa cánh chung đi trước (Ga 2,3).

“Chiều tối đến”: Không chỉ là màn đêm buông xuống, mà còn “giờ của bóng tối”, giờ thử thách (Mc 14,17; Ga 9,4-13.30).

“Bờ bên kia”: Không chỉ là bờ hồ đối diện mà còn là bước đi vĩ đại sang bên kia thế giới. Đó là số kiếp của mỗi người vào lúc hoàng hôn của cuộc đời. Đó là ngày trọng đại Ngày của Thiên Chúa”… Tất cả những ngày khác đều phải chuẩn bị cho ngày đó.

Bỗng nổi lên một trận cuồng phong, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước.

Bão tố thực sự. Ngày nay hồ Tibêria vẫn nổi tiếng về những cơn bão bất ngờ và mãnh liệt từ đồi Gôlăng thổi xuống. Hơn ai hết, vì nghề nghiệp Phêrô đã biết rõ điều này. Những cơn gió thổi mạnh đập vào cánh buồm và làm nghiêng ngả chiếc tàu thật nguy hiểm. Nhưng không cần phải đi biển mới bị những cơn bão tố như thế. Tất cả các ngôn ngữ trên thế giới đều dùng chữ bão tố để ám chỉ “một cơn thử thách bất ngờ đổ xuống trên con người”. Trong Thánh Kinh, đề tài bão tố thường được dùng để nói về sức mạnh của sự dữ. Công cuộc tạo dựng ta được hiểu như sự chiến thắng của Thiên Chúa trên cảnh hỗn loạn của biển khơi nổi dậy (St 1,2). Theo khoa huyền thoại xưa của Do Thái. Biển cả là “vực thẳm vĩ đại”, nơi những con rồng, những thủy quái, Lêviathan, biểu tượng của Satan, thống trị (Is 27,1; Tv 74,13; G 9,13; Đn 7; Kh 12,13).

Trong khi đó, Đức Giêsu đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ.

Tôi ngắm nhìn Đức Giêsu đang ngủ, đôi mắt nhắm, hơi thở đều đặn, vẻ bình thản, ở đằng lái thuyền, trong cớn bão tố. Chi tiết này gợi cho tôi tâm tình cầu nguyện nào? Lạy Chúa, Chúa đưa chúng con đi đến đâu? Chúa làm cho chúng con bối rối biết bao? Trong Thánh kinh, có một người khác cùng ngủ trong cơn bão táp, đó là Giona. Người ta phải đến đánh thức ông dậy (Gn 1,3-16). Có phải tình cờ, mà Đức Giêsu nói về “dấu lạ của Gio-na” như một dấu hiệu duy nhất để diễn tả về: Cái chết và sự Phục sinh của Người? (Mt 12,39-40; Lc 11,29-30; Mc 8,12-13). Vả lại các tác giả Kinh thánh thường nói về “cái chết” bằng từ “giấc ngủ” (Tv 13,4; Đn 12,2; Ep 5,14; Ga 11,11; Mc 5,39-41). Hình ảnh này cũng dùng để diễn tả sự “lãnh đạm của Chúa”, sự “vắng mặt của Chúa”: Lạy Chúa, xin Chúa chỗi dậy đi, tại sao Chúa lại ngủ? Chúa hãy thức dậy đi (Tv 44,24; 45,23; 59,6; 78,65; Is 51,9-10). Vâng, đúng vậy trong những cơn bão tố cuộc đời chúng con, dường như Chúa vẫn ngủ. Lạy Chúa, không phải chỉ có con người hiện đại nghĩ ra đề tài “cái chết của Thiên Chúa”, nhưng đó là tình cảm tự nhiên của thân phận con người, khi thấy mình bất lực, bị đe dọa trước một Thiên Chúa không can thiệp để cho lực lượng của thần chết hành động, một Thiên Chúa dường như đang ngủ.

Các môn đệ đánh thức Người dậy, và nói: “Thầy ơi! chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”

Đây là một lời cầu tuyệt diệu, đáng cho chúng ta bắt chước, trước những bão tố cuộc đời.

Người thức dậy, ngăn đe gió, và truyền cho biển: “Im đi? Câm đi?” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ.

Ở đây chữ được dịch là “thức dậy”, “diégertheis” cũng chính là chữ được dùng để nói “được sống lại, Phục sinh” (Mc 5,41- 16,6.14).

Qua tình tiết có thực mà Maccô kể lại (đó là bài giảng của Phêrô), chúng ta có lý do chính đáng để nhận ra cuộc khổ nạn của Đức Giêsu là một cơn bão dữ dội: Nó làm lắc lư con thuyền nhỏ bé của cộng đoàn tông đồ, vào lúc Đức Giêsu đã ngủ yên trong cái chết của Người. Nhưng đối đầu với lực lượng thần chết được tượng trưng là “biển cả” Đức Kitô đã Phục sinh. Chúng ta gặp lại kiểu nói của người Do Thái về biển cả, hình ảnh những lực lượng thù địch với con người, vì ở đây, Maccô dùng chính những từ như khi Đức Giêsu “hăm dọa” quỷ dữ để “bắt chúng im lặng” (Mc 1,25; 9,25).

Đức Giêsu nói với họ: “Tại sao lại sợ? Tại sao các người không có đức tin?”

Câu nói rất nghiêm khắc: “Các anh không có đức tin”, “các anh đã mất lòng tin”, thực sự đã được áp dụng vào lúc Đức Giêsu chịu khổ nạn, lúc này tất cả các tông đồ chạy trốn, chối bỏ, hoài nghi. Chúng ta sẽ nghe lặp lại ba lần rằng, các tông đồ “đã không tin”: “Chúa trách sự cứng lòng tin của họ, vì. họ đã không tin những người đã thấy Chúa Phục sinh” (Mc 16,11-13).

Những cơn bão tố đời tôi thế nào? Chúa có làm nhẹ bớt những cơn bão đó không?

Nếu đọc Thánh kinh một cách ngây ngô, chúng ta có thể tin điều đó. Sự bình lặng của hồ Tibêria làm chúng ta mơ tưởng một cuộc sống an bình, trong đó Chúa sẽ thường xuyên can thiệp vào những nguyện nhân tự nhiên để tránh cho chúng ta sự thử thách và cái chết.

Nhưng đọc Thánh kinh cách đúng đắn, sẽ dẫn chúng ta đến sự “thanh tẩy đức tin” theo lời mời gọi của Chúa. Chính qua giấc ngủ của sự chết, Chúa Kitô đã giải thoát chúng ta khỏi những thế lực của hỏa ngục và sự chết.

Không phải đức tin nào cũng dẹp yên được bão tố, mà chỉ đức tin nới “Đức Kitô tử nạn và Phục sinh” mới có khả năng. Sự cứu độ mà chúng ta tin, không làm cho chúng ta thoát khỏi những đau khổ gắn liền với bản chất con người cách lạ lùng và đặc biệt.

Sự xác tín vào quyền lực của Chúa đã không ngăn cản Chúa Kitô trải qua, giấc ngủ ở trong hồ. Chính chúng ta cũng phải trả qua thử thách mới đến được “bến bờ bên kia”. Nhưng Đức Giêsu đang ở đó với chúng ta trong những thử thách. Quả thật trang Tin Mừng này có một biểu tượng đáng phục.

Các ông hoảng sợ và nói với nhau: “Người là ai, mà cả đến gió và biển cũng phải tuân lệnh?”

Đây là lần đầu tiên Thánh Maccô ghi lại câu hỏi này của các môn đệ. Câu hỏi chủ yếu nhắm đến lai lịch sâu xa của vị “Thầy” trẻ trung. Người phải chăng chỉ là một ông “Thầy” (Rabbi) như bao ông thầy khác? Người là ai? Người sẽ đưa họ đến đâu? Một ngày gần đây, Đức Giêsu sẽ hỏi Phêrô: “Đối với anh, Thầy là ai?” (Mc 8,29).

Không người nào có thể tự miễn cho mình khỏi phải đặt câu hỏi đó. Và nếu không trả lời thì đó là chấp nhận rằng, những cơn bão trong cuộc đời sẽ kết thúc bằng một sự chìm đắm vào hư vô. “Nhưng nếu người nào ở trong Đức Giêsu, người đó sẽ là một tạo vật mới” (1Cr 5,7). Đức tin được thanh luyện đưa chúng ta vào cuộc sống mới. Lạy Chúa, Chúa đã nói: “Chúng ta hãy sang bờ bên kia”.

 

69.Chú giải của Fiches Dominicales.

ĐỨC GIÊSU DẸP YÊN SÓNG GIÓ

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI.

  1. Một trình thuật giống kiểu trừ tà

Đức Giêsu rời bỏ ven Biển Hồ Galilê, nơi Người đã dùng dụ ngôn mà giảng dạy cho dân chúng (x. Tin Mừng CN.11 TN) để phiêu lưu sang “bờ bên kia”, nơi có đông dân cư’ là người ngoại. Trình thuật Maccô ta đọc hôm nay nằm trong bối cảnh đó.

Đọc trích đoạn trên, người đọc chỉ có thể thấy cái hời hợt bên ngoài, nếu không biết gió và biển trong Kinh Thánh có ý nghĩa biểu tượng gì, và nếu không để giờ đối chiếu đoạn văn này với câu chuyện Chúa gặp người bị quỷ ám ở hội đường Capharnaum. Thực vậy, “gió” và “biển” đối với người am tường Kinh Thánh, mang rất nhiều ý nghĩa. M.E.Boismard giải thích: “Trong ngôn ngữ Do Thái, cùng một tiếng “gió” cũng có nghĩa là “Thần trí”. Ngoài ra trong Kinh Thánh, biển thường là biểu tượng những thế lực gian tà mà Thiên Chúa phải đánh gục để kế hoạch của Người toàn thắng. Ở đây, biển động dữ dội do ảnh hưởng của cuồng phong. Ta phải hiểu là có một “thần tríxấu (Satan chăng) đang, tung những ma lực dưới quyền để ùa đến tấn công con thuyền, “tức là tân công các môn đệ” (“Jésus, un homme de Nazareth”, Cerf, 1996, trang 78). Quả là một trở ngại lớn lao cho việc loan báo Tin Mừng trên miền đất dân ngoại!

Còn nếu đối chiếu với phép lạ giải thoát người bị quỷ ám ở hội đường Capharnaum (Mc 1,23-27) ý nghĩa lại càng rõ.

+ Nơi Mc 1,25: Đức Giêsu đã quát mắng “thần ô uế”. “Câm đi” hãy xuất khỏi người này!”. Còn ở đây, sau khi được các bạn đồng hành đánh thức dậy, vì Người đang ngủ ở đàng lái, Đức Giêsu ngăm đe gió và truyền cho biển: “Im đi, câm đi”.

+ Nơi Mc 1,26: thần ô uế, sau khi đã lay mạnh người ấy, thì thét lên một tiếng và xuất khỏi anh ta. Còn ở đây, gió và biển đều tuân phục Đức Giêsu: “ Gió liền tắt và biển lặng như tờ”.

+ Nơi Mc 1,27: cảnh kết thúc với lời bàn tán của những người chứng kiến: Mọi người đều kinh ngạc và bàn tán: Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh. Còn ở đây, các môn đệ cũng bàn tán: các ông hoảng sợ và nói với nhau. Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh”.

Thế nên, trong chuyện kể về bão táp được dẹp yên, không chỉ đơn thuần là việc Đức Giêsu biểu dương quyền lực đối với thiên nhiên mà chính là vấn đề trữ quỷ đích thực: Đức Giêsu có quyền trấn áp Satan và những thế lực của sự ác đang hoạt động song hành với Người.

Còn về lời bàn tán của các môn đệ “Vậy người này là ai mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh”, thì rõ ràng là lời mạc khải. J.Potin chú giải: theo cách nhìn của Kinh Thánh, bão táp là biểu hiện của những ma lực tiềm ẩn trong biển cả. Chỉ mình Thiên Chúa hoặc kẻ được Chúa ban quyền mới có thể chế ngự được những ‘thế lực ấy’. Ở đây các môn đệ được mời gọi khám phá ra chân lý tiềm ẩn đàng sau cảnh dẹp yên sóng gió là: Đức Giêsu được Thiên Chúa trao ban quyền lực để thu hồi mọi lực lượng về phục tùng Thiên Chúa. Nhờ thế lực của Đức Giêsu mà các môn đệ đã khắc phục được hiểm nguy lớn lao. Việc hồi tưởng lại một biến cố rõ rệt đã trải qua, sự hộ phù che chở của Chúa trong chuyến vượt biển nguy hiểm ấy. Đều là biểu tượng ơn nâng đỡ người sẽ ban cho các ông trong lúc con thuyền Giáo Hôi lâm cảnh lênh đênh sóng gió “Jésus, l’histoire vaie”, Centurion, 1994, trang 256-257).

  1. Khi đọc lại câu chuyện dưới ánh sáng phục sinh.

Một sự đối chiếu khác không kém phần lý thú và chứa đựng nhiều giáo huấn. Đó là cảnh khởi đầu của sách Giona mà trích đoạn Tin Mừng này coi như đã sao họa lại.

Trong cả hai trường hợp, câu chuyện đều cùng mở đầu bằng việc hành khách xuống thuyền (Ga 1,31 Mc 4,35-36).

+ Nếu Giona xuống thuyền để đi Taxê là vì ông nghĩ mình có thể trốn lánh mặt Chúa, Người đã lệnh cho ông phải đi tới Ninivê, một thành phố lớn của dân ngoại để kêu gọi dân thành ở đây trở lại.

+ Còn Đức Giêsu xuống thuyền là để tới ven bờ bên kia của Biển Hồ, miền đất thuộc dân ngoại, cũng là để rao giảng Tin Mừng ở đây. Đây là một khúc quanh quan trọng trong sứ vụ của Người.

Trong cả hai trường hợp đều có một trận cuồng phong nổi lên khiến biển động dữ dội.

Trong khi đó, Giona và Đức Giêsu đều cùng ngủ mệt: Giona ngủ vùi dưới lòng tàu, còn Đức Giêsu thì dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ ở đàng lái, chỗ thường dành cho người thủy thủ cầm lái (T.O.B). Tất cả đều “cùng sợ hãi”: các thủy thủ trong Giona 1,5, các môn đệ Đức Giêsu trong Mc 4,40. Cùng xoay sở và cùng buông lời trách móc. Nói với Giona: “Ông làm nghề gì”? Sao ngủ mê mệt như vậy? Hãy chỗi dậy cầu khẩn cùng Thiên Chúa của ông, may ra Người sẽ đoái đến chúng ta, và chúng ta khỏi chết chăng? Nói với Đức Giêsu trong Mc 4: “Thầy ơi chúng ta chết đến nơi rồi. Thầy chẳng lo gì sao?”.

– Cùng cảnh êm ả trở lại.

+ ở Giona 1: Sau khi các thủy thủ đã kêu cầu Chúa, trước khi ném Giona xuống biển theo yêu cầu của ông.

+ Nơi Mc 4: Theo lệnh truyền của chính Đức Giêsu.

– Cùng một phản ứng từ phía những người chứng kiến sự việc:

+ Nơi Giona 1: “Mọi người đều rất kính sợ Chúa, họ làm lễ tế dâng lên Chúa cùng với lời khân hứa”.

+ Nơi Mc 4: “Các ông hoảng sợ và nói với nhau: Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”.

Ở đây “dấu chỉ Giona” há chẳng phải là một lối ám chỉ và là một biểu tượng loan báo cuộc đối đầu quyết liệt của Ngày Thứ Sáu Thánh (nhất nữa, giấc ngủ theo Kinh Thánh thường là biểu ttượng của sự chết và động từ chỗi dậy” được trình thuật sử dụng vốn là một trong những động từ thế hệ Kitô giáo ban đầu dùng để chỉ sự phục sinh)?.

J.Hervieux đưa ra nhận xét: “Câu chuyện Chúa dẹp yên sóng gió không chỉ đơn giản là một tường thuật về một phép lạ. Câu chuyện đó được coi như một biểu tượng nói lên một cách cô đọng số phận nghiệt ngã của Đức Giêsu. Nếu Người có đưa các môn đệ vào trận cuồng phong, thì cũng không phải do ngẫu nhiên! Toàn bộ cuộc đời Người là một cuộc chiến cam go với những thế lực của sự ác. Người phải tiến lên đối đầu với một cuộc chạm trán khốc liệt nhất: đối đầu với chính cái chết của mình. Việc Người ngủ – chẳng ai lại ngủ giữa lúc phong ba bão táp – lại là điều rất có ý nghĩa. Trong Kinh Thánh, giấc ngủ thường là biểu tượng sự chết. Ở đây cuộc khổ nạn của Đức Giêsu như được diễn trước bằng kịch câm. Đức Giêsu thiếp ngủ đi như chết giữa cảnh xôn xao náo động của hỏa ngục được gợi hình bằng những đợt sóng lồng lộng điên cuồng. Trong một tình huống như vậy, mà Thầy vẫn ngủ, thì chuyện các môn đệ hoảng sợ cũng là điều dễ hiểu. Trước cảnh tượng của thập giá sau này, cũng như ở đây lúc này, các ông sẽ mất lòng tin là điều hiển nhiên” (“Evanglle de Marc”, Centurion, trang 75).

Cũng tác giả J.Hervieux kết luận: “Khi đọc lại câu chuyện Chúa đi qua biển và dẹp yên sóng gió như vậy, Maccô cố gắng đáp ứng những nhu cầu hiện thực của Giáo Hội thời ngài. Những tín hữu Rôma đang phải điêu đứng vì những cuộc bách hại. Họ đang sống trong nỗi sợ hãi, giống như các môn đệ trong con thuyền vượt biển xưa, đối với họ, Đức Kitô hình như đang ngủ. Việc người: “vắng mặt” rõ ràng trong những biến cố bi thảm họ đang sống, tạo cho họ thêm e dè, sợ sệt! Chúa phải làm gì để giải thoát họ khỏi cảnh chết chóc đang rình rập?

Cuối cùng ta đừng quên, bão táp xảy đến trong lúc Đức Giêsu đã quyết đinh đem các bạn hữu theo mình đi truyền giáo ở phía bên kia Biển Hồ, nơi các dân ngoại. Người ta có thể nghĩ bụng phải chăng các tín hữu đầu tiên ở Rôma không linh cảm việc loan báo Tin Mừng cho những người đương thời của họ là một công việc đáng dễ sợ sao?” (Sđd)

BÀI ĐỌC THÊM

  1. “Vậy người này là ai”.

“Có một thứ mâu thuẫn trong cách phản ứng của các môn đệ: khi sợ hãi trong lúc gặp sóng gió, các ông liền lên tiếng kêu cứu Chúa, đánh thức Người dậy: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao? Thế nhưng khi Chúa truyền cho gió yên bể lặng rồi, thì các ông lại kinh ngạc: “Vậy người này là ai mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh? Đức Giêsu biết rõ lòng các ông còn lẫn lộn bán tín bán nghi: “Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin? Lắm lúc chúng ta cũng mang một tâm trạng như vậy. Ta cậy dựa vào Chúa, biết rõ mình có thể kêu cầu Chúa, chẳng cần phải đánh thức Người dậy! Cùng lúc ấy, tâm trí ta lại vương nỗi do dự này: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, mà Thầy những lo gì sao? Chúa liền ra tay để củng cố lòng tin cho ta. Tin như vậy là tiếng kêu gọi thiết tha, là niềm cậy trông còn nhỏ bé và mong manh thúc đẩy ta chạy đến với Chúa. Rồi lòng tin ấy trở nên tâm tình cảm phục, vững tin khi Chúa cho ta biết Người là ai, Người có thể làm gì cho những ai dám đến cùng Người. “Vậy người này là ai? Lời đó phải vừa là câu hỏi, vừa là tiếng kêu bày tỏ lòng suy tôn vậy”.

  1. “Từ sợ hãi đến tin tưởng”

“Hãy xem ông Gióp, bị điêu đứng vì những thử thách trăm bề, về mặt vật chất cũng như tinh thần, mặt đạo đức cũng như thiêng liêng. Một người chính trực như ông mà đã phải gánh chịu bao bất công, phải chao đảo vì những tai ương dồn dập, và vì sự thinh lặng của Chúa. Ông tố cáo Chúa, Chúa sẽ chẳng đưa ra lời giải thích nào, và sẽ chẳng vén lên bức màn bao trùm mầu nhiệm khôn dò về sự ác. Thế nhưng chỉ giữa lúc phong ba bão táp thì Chúa mới nhắc nhở cho ông biết rằng Người là Chúa tể của bão, Người có quyền đặt ranh giới và ngăn chặn những đợt sóng kiêu hùng của bão. Thế là ông Gióp nghiêng mình bái phục Chúa với lòng tin, đồng thời thú nhận sự ngu muội của mình.

Maccô dùng cũng thứ ngôn ngữ ấy để nói với các tín hữu của giáo đoàn Rôma đang hốt hoảng và bị chấn thương vì cơn bách hại. Ngài để lại cho họ một kinh nghiệm bản thân: chính các tông đồ cũng đã từng biết đến một Đức Giêsu ấy nằm ngủ và tỉnh bơ trước thảm cảnh của những bạn đồng hành, hoảng hốt thấy mình sắp “đi đời” rồi, dù họ là những tay ngư phủ dày dạn. Thực tế là các ông đã chỉ thiếu lòng tin mà thôi, hay nói cách khác là lòng tin tưởng và yêu mến, vì theo kiểu nói của thánh Phaolô, họ đã chỉ biết Đức Kitô theo quan điểm loài người (Bài đọc 2).

Đường lối sư phạm của Chúa vẫn trước sau như một. Những lớp sóng vẫn liên lì và ồ ạt vập vào thuyền khiến thuyền đầy nước. Vậy mà Đức Kitô luôn có mặt ở đó, vẫn cứ ngủ. Giống như thời ông Gióp, ta cũng thường tra hỏi, chất vấn, sửng sốt, đòi hỏi Chúa phải giải thích và trình bày. Tại sao vẫn xảy ra những vụ tàn sát những người vô tội, những cảnh anh em chém giết nhau không nương tay, những cuộc bách hại đẫm máu, những trận dịch kinh hoàng, những bất công chỉ biết kêu trời báo oán, những cảnh chết đói khiến phải đào mồ chôn tập thể.

Ta đừng chờ đợi phép lạ, có chăng chính là phép lạ của lòng tin, cậy, mến. Thực ra “Đức Kitô hôm qua, hôm nay và ngày mai” cũng vẫn là một. Hằng ngày ta vẫn còn thấy Người thực hiện những điều kỳ diệu khi làm nẩy sinh những tạo vật mới, khi tạo dựng một thế giới mới. Đó là mỗi lần mà tha thứ thay thế cho hận thù, ích kỷ nhường chỗ cho quảng đại và lòng can đảm quét sạch đi những hèn nhát.

Còn một câu hỏi và nỗi sợ hãi khác từ phía những tín hữu vốn khư khư với những tập quán, quan niệm hẹp hòi, với những chương trình và kế hoạch tương lai cho Giáo Hội do họ suy luận ra, nên họ la ó lên rằng: những hết cả rồi, khi họ nhìn thấy những bảng thống kê sụt giảm, những cơ cấu rạn nứt, những hình thức đổi thay và những cánh cửa canh tân mở toang. Câu trả lời của Chúa vẫn không thay đổi: “Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin? Há các bạn không nhìn thấy trong “cơn gió chướng mạnh” Thần Khí vẫn đang thổi hơi, làm nổi lên cho mãi tới những gốc cây cổ thụ đang chết một giải đất. bao la đầy những chồi non đang vươn lên ngợi ca sự sống và hy vọng. Bởi lẽ “cái cũ đã biến mất, và cái mới đã có đây rồi” (Bài đọc 2)

 

70.Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt

BÃO TỐ DẸP YÊN

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

  1. Người tín hữu thường quên chiều kích vũ trụ trong hành động của Chúa Kitô, trong khi thời đại này, các khoa học kỹ thuật nói nhiều đến việc khai thác, nhân hóa, bảo tồn, chinh phục thiên nhiên, các khoa học nhân văn nói nhiều đến mối liên quan giữa con người và vật chất, thiên nhiên, vũ trụ, môi trường sống. Kitô hữu phải hiểu cùng làm cho người khác hiểu rằng Chúa Kitô không xa lạ với vật chất đã làm nên vũ trụ. Trái lại qua việc nhập thể và phục sinh trong thân xác, Người đã mở rộng ơn cứu rỗi tới cho tất cả những gì hiện hữu. Chúa Giêsu đã đến không phải chỉ để cứu linh hồn con người mà thôi, nhưng cứu toàn thể con người xác hồn, và qua thân xác con người, Người biến đổi sâu xa cả vũ trụ vật chất (x. Rm 8,19): chính vũ trụ vật chất đang trên đường về với Thiên Chúa.
  2. Câu chuyện xảy ra được Maccô kể lại theo lời chứng nhân tận mắt là Phêrô nên có nhiều chi tiết. Nhưng một trong những điểm quan trọng, chủ yếu của trình thuật là chính thắc mắc của các sứ đồ sau khi bão yên: “Người là ai mà gió cùng biển phải tuân phục Người?”. Ngày nay với phát minh khoa học kỹ thuật, con người khắc phục được thiên nhiên rất nhiều đã từng nghiêng đồng đổ nước, thay trời làm mưa, bắt sông uốn khúc, ép núi cúi đầu, nên dễ quên Đấng Tạo Hóa. Kitô hữu phải biết khám phá thấy trong mọi chuyển động tự nhiên của vũ trụ cũng như trong mọi khắc phục thiên thiên của con người bàn tay quan phòng của Thiên Chúa.
  3. “Xảy đến một trận gió táp thổi mạnh, và sóng ập tràn vào đò, làm đò đã hòng ngập đầy”. Ngày nay, đâu là cơn bão tố lớn đang vùi dập con đò Phêrô? Là trào lưu vô thần, là sự tục hóa, là thái độ tấn công tinh vi hay dửng dưng với tôn giáo. Nhưng Kitô hữu đừng lo! Giáo Hội đã trải qua nhiều cơn bão lớn hơn trong lịch sử rồi, như những sa đọa trong hàng ngũ lãnh đạo, sự cấu kết thái quá với thế quyền, sự chểnh mảng trong việc trau dồi đức tin, những xâu xé nội bộ, thế mà Giáo Hội vẫn không chìm đắm. Vì Chúa Kitô và Thánh Thần luôn ở với Giáo Hội.
  4. “Tại sao sợ hãi? Các ngươi không có đức tin ư”. Lời chất vấn và trách cứ của Chúa Giêsu cũng như lời mời gọi hãy tin tưởng đang được gởi đến những tín hữu mà niềm tin vào Thiên Chúa hôm nay đang bị lung lay vì bao bão tố, đau khổ. Kitô hữu hãy nhớ: tin trước hết là xác tín rằng dù gặp phải bao yêu thương, là hiểu rằng mọi chướng ngại chỉ là dấu chỉ tình yêu Thiên Chúa, là phương tiện giúp ta về với Thiên Chúa.
  5. Chúa Giêsu không hứa với Giáo Hội là sẽ che chở cho khỏi cơn bão tố, trái lại người hứa là Giáo Hội sẽ thắng bão tố, sẽ không bị chìm ngập và con thuyền Giáo Hội, cho dầu có xảy ra gì chăng nữa, sẽ đến bờ như đã hứa. Chúa Kitô đã chẳng trải qua cơn bão tố Tử nạn để rồi đạt đến bờ Phục sinh ư? Cuộc sống Giáo Hội và cuộc sống mỗi Kitô hữu chúng ta không thoát khỏi định luật này, là định luật của tất cả những ai, những gì muốn về với Thiên Chúa. Dĩ nhiên, đây không phải là định luật Thiên Chúa ra một cách độc đoán, như thể Ngài muốn ta phải trả giá Nước Trời, hành hạ ta đã rồi mới cho được nghỉ ngơi. Bão tố, gian nan, thử thách chính là những gì xảy ra khi ta quyết tâm trung thành với Thiên Chúa, khi ta từ bỏ chính mình, từ bỏ mọi sự để chiếm đoạt cho được Thiên Chúa là hạnh phúc đích thực của ta.

 

71.Chú giải của William Barclay.

BÌNH AN CỦA SỰ HIỆN DIỆN

Biển hồ Galilê nổi tiếng về bão tố. Những cơn bão từ nguồn đến hết sức thình lình với sự tàn phá kinh khủng. Một tác giả đã mô tả chúng như vậy: “Các trận cuồng phong khủng khiếp lồng lộn trên mặt nước mà bình thường rất phẳng lặng, ngay cả khi bầu trời hoàn toàn trong trẻo, thình lình cơn bão đến không phải là điều không thường thấy. Vô số các thung lũng từ hướng đông bắc và hướng đông trải ra ở phần trên của hồ tạo thành rất nhiều hẻm núi nguy hiểm bọc gió từ cao nguyên Hauran, vùng đồi Tracônít và đỉnh núi Hetmôn tạo thành một sức nén, ào đến với một lực kinh khủng qua một khoảng trống hẹp rồi thình lình thoát ra làm xao động hồ Giênêdarét bé nhỏ trong một tình trạng kinh hoàng nhất. Những khách vượt hồ luôn luôn có cơ hội phải đối diện với những cơn bão thình lình như vậy”.

Chúa Giêsu đang ở trong thuyền, tại chỗ dành cho bất cứ một vị khách quý nào. Chúng ta được biết, “Trong những thuyền này, tại đó có sắm sẵn một tấm thảm và gối. Người lái thuyền đứng cách đó một chút gần bánh lái thuyền để có thể dễ dàng nhìn phía trước”.

Thật thú vị khi ghi nhận được những lời của Chúa Giêsu truyền cho gió và sóng hoàn toàn giống như điều Người đã truyền cho người bị quỷ ám trong Maccô 1,25. Sức mạnh phá huỷ của bão tố cũng như sức mạnh tàn phá của ma quỷ khi nó nhập vào con người, vì vậy dân chúng tại Palestine vào thời ấy tin rằng quyền lực xấu xa của ma quỷ cũng đang hoạt động trong lãnh vực thiên nhiên.

Thật thiếu công bằng khi chúng ta chỉ suy nghĩ câu chuyện này theo nghĩa đen. Nếu nó chỉ thuật lại một phép lạ vật chất trong đó một cơn bão thực sự yên lặng thì đó là một điều rất lạ lùng và là điều đáng cho chúng ta kinh ngạc, nhưng đó là điều xảy ra một lần. Trong trường hợp đó nó hoàn toàn ở bên ngoài đối với chúng ta. Nhưng nếu chúng ta đọc nó theo ý nghĩa biểu tượng thì sẽ thấy giá trị hơn. Khi các môn đệ nhận thức được sự hiện diện của Chúa ở với họ thì cơn bão yên lặng. Một lần nữa họ kinh nghiệm sợ hãi tan biến và bình an vào trong lòng họ. Ra khơi với Chúa Giêsu là ra khơi an toàn ngay cả trong bão tố. Giờ đây là sự thật cho mọi trường hợp. Đó không phải là điều chỉ xảy ra một lần, nhưng vẫn còn đang xảy ra và có thể xảy ra cho chúng ta. Trong sự hiện diện của Chúa Giêsu chúng ta có được bình an ngay cả trong bão tố khủng khiếp nhất của cuộc sống.

1/ Ngài ban cho chúng ta bình an trong bão tố của sầu muộn.

Khi sầu muộn đến, Ngài nói với chúng ta về vinh quang của cuộc đời sẽ đến. Ngài biến đổi bóng tối của sự chết thành ánh sáng của sự sống vĩnh cửu. Ngài nói với chúng ta về tình yêu của Thiên Chúa. Một câu chuyện cổ nói về một người làm vườn, nơi ấy có một đoá hoa mà ông rất yêu quý. Một ngày nọ khi ra vườn thấy bông hoa đó đã mất. Ông ta vô cùng phật ý, bực tức và phàn nàn. Trong lúc đang bực tức ông gặp chủ vườn và phàn nàn với chủ. Chủ vườn nói “Anh yên tâm! Chính tôi đã hái nó cho tôi”. Giữa bão tố của sầu muộn, Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng những người chúng ta thương yêu đã đi ở với Thiên Chúa và Ngài đảm bảo rằng rồi đây chúng ta sẽ gặp lại những người thân thương mà chúng ta đã thiếu vắng họ một thời gian.

2/ Ngài ban cho chúng ta bình an khi những nan đề của cuộc sống cuốn hút chúng ta vào trong cơn bão của nghi ngờ, căng thẳng và không chắc chắn.

Rồi có những lúc chúng ta chẳng biết phải làm gì, khi chúng ta đứng trước ngã ba của cuộc sống không biết đi đường nào. Lúc ấy chúng ta quay sang Chúa Giêsu và thưa cùng Ngài rằng “Lạy Chúa, Ngài muốn con làm chi?”. Con đường sẽ được khai thông. Thảm kịch không phải là chúng ta không biết phải làm gì, nhưng chính là chúng ta thường không hạ mình tuân phục sự hướng dẫn của Chúa Giêsu. Câu hỏi ý Ngài và tuân phục ý đó là đường dẫn đến bình an trong những lúc như vậy.

3/ Ngài ban cho chúng ta bình an trong bão tố của lo âu.

Kẻ thù hàng đầu của bình an là lo lắng, lo lắng cho chính mình, lo lắng về tương lai ngoài sự hiểu biết, lo lắng về những người mình yêu. Nhưng Chúa Giêsu nói với chúng ta về một người Cha không bao giờ làm đổ những giọt lệ không cần thiết nơi con Ngài, và về một tình yêu vượt trội giữa chúng ta và những người thân yêu của chúng ta khỏi trôi giạt. Trong bão tố của lo âu, Ngài đem đến cho chúng ta bình an của tình yêu Thiên Chúa.

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây