Thứ Ba tuần 2 mùa vọng.

Thứ hai - 09/12/2019 08:12

Thứ Ba tuần 2 mùa vọng.

"Chúa không muốn những kẻ bé nhỏ phải hư đi".

 

LỜI CHÚA: Mt 18, 12-14

Khi ấy Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con nghĩ sao? Nếu ai có một trăm con chiên mà lạc mất một con, thì người đó lại không bỏ chín mươi chín con trên núi, để đi tìm con chiên lạc sao? Nếu người đó tìm được, thì quả thật, Thầy bảo các con, người đó sẽ vui mừng vì con chiên đó hơn chín mươi chín con chiên không thất lạc.

Cũng vậy, Cha các con ở trên trời không muốn để một trong những kẻ bé nhỏ này phải hư đi".

Suy Niệm 1: Không muốn ai hư mất

Suy niệm :

Chăn chiên là một nghề đã có từ lâu.

Nhiều nhà lãnh đạo dân Do Thái như Môsê, Đavít, đều làm nghề này.

Trên những đồng cỏ mênh mông, giữa trời và đất, chỉ có chiên và mục tử,

nên giữa đôi bên có một sự thân thiết và hiểu biết nhau thật gần gũi.

Chính vì thế trong Cựu Ước, Thiên Chúa hay ví mình với người chăn chiên.

Đàn chiên là dân Do Thái, là dân riêng Ngài rất mực quý yêu:

“Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa…

Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng,

bầy chiên mẹ cũng tận tình dẫn dắt” (Is 40,11).

Như Thiên Chúa, Đức Giêsu cũng ví mình với người mục tử tốt lành.

“Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi” (Ga 10, 14).

Sự hiểu biết thân thương này mạnh đến độ

Ngài dám hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên (Ga 10, 15).

Sau khi chết và phục sinh, Đức Giêsu muốn ông Simon nhận sứ mạng mục tử.

Ngài mời ông chăm sóc và chăn dắt chiên của Ngài (Ga 21, 15-17).

Như thế đoàn chiên mới của Đức Giêsu lúc nào cũng được bảo vệ.

Qua bao thế kỷ Giáo Hội vẫn không ngừng có những mục tử mới,

nối gót Simon Phêrô để phục vụ và hiến mạng vì đoàn chiên.

Nhưng Đức Giêsu không dạy người mục tử chỉ lo cho cả đoàn,

mà quên chăm sóc cho từng con chiên một.

Ngài mời ta để ý đến tập thể lớn, nhưng không được quên từng cá nhân nhỏ.

Có khi chỉ một con chiên lạc lại khiến người mục tử bận tâm lo lắng

đến nỗi để chín mươi chín con trên núi mà đi tìm con bị mất (c. 12).

Không phải vì coi thường chín mươi chín con không bị lạc,

nhưng vì người mục tử không muốn mất con nào.

Con chiên lạc lại có chỗ đứng đặc biệt trong trái tim mục tử.

Chúng ta ai cũng có kinh nghiệm về chuyện tìm lại được điều đã mất.

Khi mất thì đứng ngồi không yên,

khi tìm thấy thì bình an và niềm vui òa vỡ.

Người mục tử lo âu, vất vả tìm kiếm con chiên lạc,

nhưng khi tìm được rồi thì niềm vui là vô bờ.

Có thể nói còn vui hơn chuyện chín mươi chín con không bị lạc (c. 13).

Dường như người ta bắt đầu quý một điều từ khi mất điều đó.

Có khi một người bắt đầu hiện diện từ khi người ấy vắng mặt và mất đi.

Cha không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất (c. 14).

Cha muốn cho mọi người được cứu độ và không muốn mất một ai (1 Tm 2, 4).

Mùa Vọng là thời gian chúng ta nhìn lại những người bé mọn quanh ta,

những người từ lâu đã bỏ nhà thờ, những người mất lòng tin vào Chúa.

Mỗi người chúng ta phải là mục tử cho nhau, chăm sóc nhau, quý nhau,

khởi đi từ những người trong gia đình, trong nhóm bạn thân quen.

Chúng ta quý nhau vì Thiên Chúa quý từng người chúng ta.

Chúng ta chẳng thể mừng Lễ Giáng sinh nếu còn một người đang lạc ở đâu đó.

Nếu chịu mất công đi tìm về, chúng ta mới được hưởng niềm vui trọn vẹn.

 

Cầu nguyện :

Lạy Chúa Giêsu,

Khi làm người, Chúa đã nhận trái đất này làm quê hương.

Chúa đã ban nó cho chúng con như một quà tặng tuyệt vời.

Nếu rừng không còn xanh, dòng suối không còn sạch,

và bầu trời vắng tiếng chim,

thì đó là lỗi của chúng con.

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa đã đến làm người để tôn vinh phận người,

vậy mà thế giới vẫn có một tỷ người đói,

bao trẻ sơ sinh bị giết mỗi ngày khi chưa chào đời,

bao kẻ sống không ra người, nhân phẩm bị chà đạp.

Đó là lỗi của chúng con.

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa đến đem bình an cho người Chúa thương,

vậy mà trái đất của chúng con chưa một ngày an bình.

Chiến tranh, khủng bố, xung đột, có mặt khắp nơi.

Người ta cứ tìm cách giết nhau bằng thứ vũ khí tối tân hơn mãi.

Đó là lỗi của chúng con.

Lạy Chúa Giêsu ở Belem,

Chúa đã cứu độ và chữa lành thế giới bằng tình yêu khiêm hạ,

nhưng bất công, ích kỷ và dối trá vẫn thống trị địa cầu.

Chúa đến đem ánh sáng, nhưng bóng tối vẫn tràn lan.

Chúa đến đem tự do, nhưng con người vẫn bị trói buộc.

Đó là lỗi của chúng con.

Vì lỗi của chúng con, chương trình cứu độ của Chúa bị chậm lại,

và giấc mơ của Chúa sau hai ngàn năm vẫn chưa thành tựu.

Mỗi lần đến gần máng cỏ Belem,

xin cho chúng con nghe được lời thì thầm gọi mời của Chúa

để yêu trái đất lạnh giá này hơn,

và xây dựng nó thành mái ấm cho mọi người.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

Suy Niệm 2: Phải tha thứ luôn luôn

Sống ở trên đời, ai cũng mong ước mình gặp được nhiều sung túc, hạnh phúc và nhất là gặp được nhiều may mắn thành công. Ai cũng muốn là mình gặp được mối tình thông cảm cho đến đỉnh cao của tiền tài, danh vọng. Ai cũng sợ thất bại, sợ gian khổ cùng cực cất đầu không lên được với những người xung quanh. Dù rằng ai cũng tự an ủi mình bằng câu: "Thất bại là mẹ thành công". Ðau khổ nhiều, con người mới thấy giá trị đích thực của hạnh phúc. Có gian nan vất vả nhiều, con người mới cảm thấy giá trị của đau khổ, mới đánh giá chính xác về sự thành công từ những nhẫn nhục, chịu đựng, âm thầm làm việc sau bao nhiêu ngày tháng. Nếu như con người từ nhỏ đến lớn sống hoàn hảo như một vị thánh, người ấy chưa chắc đã cảm thấy mình hạnh phúc nếu không phải là người đặc biệt Thiên Chúa gìn giữ. Vì thế theo thông thường chúng ta không ai thoát khỏi những lầm lỗi, không khía cạnh này thì vướng mắc khía cạnh khác, không nặng thì nhẹ, không phải khuyết điểm lầm lỗi nặng hay nhẹ, cố tình hay vô tình nhưng quan trọng là chúng ta có nhận ra được khuyết điểm sai lỗi của chính mình hay không? Và khi nhận ra được khuyết điểm sai lỗi ấy, chúng ta có sửa đổi, rút kinh nghiệm cho lần sau hay không?

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng: "Nếu ai trong các ngươi có một trăm con chiên mà bị lạc mất một con thì người đó không bỏ chín mươi chín con trên núi để đi tìm con chiên lạc ấy sao?" Ðó là điều an ủi cho chúng ta, vì khi lầm lỗi, con người thường ít khi tha thứ hoặc có tha thứ cho nhau thì vẫn có thành kiến không tốt về người đó, nghĩa là chúng ta có ý nghĩ không tốt, bớt sự niềm nở tự nhiên trước đó.

Từ thái độ đó thường làm cho người có lỗi mang một tâm trạng tự ti mặc cảm, vì dù sao đi nữa thì trong tâm trạng đó con người cũng không có cái nhìn hồn nhiên, vui vẻ lạc quan yêu đời như trước khi họ chưa lầm lỗi. Khi đã sống trong tình trạng nghi kỵ lẫn nhau, nhìn nhau không thân thiện, chúng ta sẽ mắc vào một câu nói của một triết gia nọ: "Tha nhân là hỏa ngục của tôi". Ai cũng nhìn nhau bằng cặp mắt hận thù, ganh tị, hững hờ, chê bai lẫn nhau. Bao nhiêu cặp mắt hận thù, ganh tị, hững hờ, chê bai lẫn nhau. Bao nhiêu cặp mắt hình như cứ soi mói vào chúng ta, xét xem để rồi bắt lỗi chúng ta thì chẳng hỏa ngục là gì? Có bị như thế chúng ta mới cảm nghiệm được tình yêu bao la dung thứ của Thiên Chúa đối với chúng ta hôm nay: "Người chăn chiên sẽ bỏ chín mươi chín con trên núi để đi tìm con chiên lạc, khi tìm được rồi người chăn chiên sẽ vui mừng vì con chiên đó hơn chín mươi chín con chiên không bị lạc".

Thiên Chúa đã dạy chúng ta không những phải tha thứ cho nhau bảy lần mà là bảy mươi lần bảy, nghĩa là phải tha thứ luôn luôn. Và trong một đoạn Tin Mừng khác Chúa Giêsu nói: "Nếu trong một ngày người anh em con phạm đến con bảy lần và bảy lần người ấy đến nói với con rằng tôi hối hận thì con cũng phải tha cho nó". Khi thấy điều đó khó thực hiện được nên người môn đệ của Chúa đã thưa: "Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con". Ðó là Lời Chúa nhắn nhủ dạy bảo chúng ta, còn đối với Thiên Chúa Ngài càng phải khoan dung tha thứ hơn, yêu thương chúng ta nhiều hơn nữa bằng một tình thương tha thứ vô cùng.

Trong dụ ngôn "Người Con Hoang Ðàng Trở Về" sau những tháng ngày ăn chơi trác táng thì bấy giờ nó suy nghĩ và thành tâm ăn năn thống hối trở về để xin cha tha thứ. Nhưng khi nhìn thấy con từ đàng xa, chưa kịp nghe con nói lên lời xin lỗi thì người cha đã bảo gia nhân đem áo mặc cho cậu, lấy nhẫn đeo vào tay cậu. Qua những cử chỉ yêu thương mặn nồng như thế đã nói lên tình thương của cha vẫn luôn luôn yêu thương con cái và người cha vẫn coi cậu như người con trong nhà. Vì thế, ông nói với gia nhân hãy làm thịt con bê béo để mừng con đã chết nay được sống lại. Tình thương của người cha bao la đã bỏ qua tất cả mọi lỗi lầm của đứa con hoang đàng trở về.

Trong đoạn Tin Mừng nói về một người mắc nợ ông vua như sau: Có một người mắc nợ ông vua kia đến mười ngàn nén bạc nhưng anh không có gì để trả nợ. Chủ ra lệnh bán anh và vợ con cùng tất cả gia sản anh để trả nợ. Anh liền sấp mình xuống dưới chân chủ mà van lơn: "Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn rồi tôi sẽ trả cho ngài tất cả". Người chủ động lòng thương trả tự do và tha nợ cho anh ta. Khi ra về anh ta gặp một người bạn mắc nợ anh ta một trăm nén bạc, anh ta tóm lấy bóp cổ người ấy mà nói:Hãy trả nợ cho ta, khi ấy người bạn sấp mình dưới chân và nói: Cho tôi khất một kỳ hạn. Nhưng anh ta không nghe, bắt người bạn đó tống giam vào ngục cho đến khi trả xong nợ. Người xung quanh thấy cảnh tượng thương tâm đó thuật lại với người chủ và người chủ đã bắt trao anh cho lý hình hành hạ cho đến khi trả hết nợ một ngàn nén bạc của anh.

Chúng ta đôi khi cũng thế, lòng Chúa khoan dung yêu thương, tha thứ cho chúng ta không biết bao nhiêu, vậy mà đối với anh em ta lại xét nét, chê bai, xử tệ, không tha thứ cho nhau dù chỉ là những lầm lỗi không đáng kể gì trước mặt Chúa là người Cha đầy tình thương dung thứ.

Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con cảm nhận được lòng khoan dung tha thứ của Thiên Chúa để chúng con đáp lại tình thương nhỏ bé của chúng con đối với Ngài. Xin Chúa cho chúng con biết tha thứ cho nhau không những bảy lần nhưng là bảy mươi lần bảy, nghĩa là tha thứ cho nhau luôn luôn trong suốt cuộc sống. Amen.

(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)

 

Suy Niệm 3: Chiên lạc

Một nhà truyền giáo trong vùng Thái bình dương có kể lại sự kiện như sau: Ngày nọ có một người đàn bà bước vào lều của Ngìa với đôi bàn tay nắm chặt cát ướt. Bà hỏi ngài:

- Cha có biết cái gì trong tay con không?

Vị linh mục đáp:

- Hình như chị đang cầm cát trong tay thì phải?

Người đàn bà lại hỏi tiếp:

- Cha có biết tại sao con mang cát ấy đến đây không?

Nhà truyền giáo lắc đầu.

Người đàn bà liền giải thích:

- Thưa cha, đây là tội lỗi của con, tội con nhiều như cát biển, làm sao con có thể được tha thứ?

Lúc bấy giờ vị linh mục mới an ủi:

- Có phải chị lấy cát từ bờ biển không, vậy chị hãy quay trở lại bờ biển và giống như các em bé vẫn thường làm, chị hãy xây một núi cát, rồi chị ngồi đó và ngắm những đợt sóng biển, sóng biển sẽ vỗ vào bờ và cuốn đi ngọn núi cát của chị. Ơn tha thứ của Chúa cũng giống như thế, lòng nhân từ của Ngài bao la như đại dương, chị hãy thành tâm thống hối và Chúa sẽ tha thứ cho chị.

Một lần nữa, Giáo Hội lại tha thiết kêu gọi chúng ta quay trở về với Chúa. Với hình ảnh người mục tử bỏ 99 con chiên khỏe mạnh về tìm một con chiên lạc, trước hết Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta về lòng nhân từ bao la của Thiên Chúa đối với con người. Chúng ta chỉ có thể tin tưởng quay về với Chúa, nếu chúng ta ý thức được tình yêu và lòng tha thứ của Ngài.

Tuy nhiên, con người chỉ có thể cảm nhận được lòng tha thứ của Thiên Chúa khi biết tha thứ cho anh em mình mà thôi. Đó là điều Chúa Giêsu muôn nêu bật trong Tin Mừng hôm nay. Thật thế, dụ ngôn người mục tử bỏ 99 con chiên khỏe mạnh để tìm một con chiên lạc được nhắm trước tiên đến những người biệt phái. Họ khó chịu khi thấy Chúa Giêsu kết thân với những người tội lỗi. Đề ra những khoản luật nghiêm nhặt về sự thanh tẩy, đặc biệt là thanh tẩy trước khi ăn, những biệt phái đã loại trừ nhiều tội nhân và những người thu thuế. Qua cử chỉ này, Ngài không những muốn nói với các tội nhân rằng Thiên Chúa yêu thương họ, Thiên Chúa đi tìm kiếm họ, Thiên Chúa tha thứ cho họ, nhưng Ngài còn mời gọi chính những người biệt phái, tức là những kẻ tự cho mình là lành thánh cũng phải hoán cải. Hoán cải trong quan niệm của họ về lòng nhân từ của Thiên Chúa, nhất là hoán cải trong cái nhìn của họ đối với người tội lỗi. Con người chỉ cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa khi họ biết cảm thông và tha thứ cho tha nhân. Điều đó cũng có nghĩa là lòng nhân từ của Thiên Chúa không hề làm cho con người ra vong thân, nhưng biến nó trở thành người hơn, có trách nhiệm và dấn thân hơn. Con người chỉ thực sự thống hối khi nó biết thực thi lòng nhân ái với tha nhân.

Mỗi lần bước ra khỏi tòa giải tội ai trong chúng ta cũng cảm thấy như trút được một gánh nặng và tìm được bình an và niềm vui. Quả thực, như đại dương, lòng nhân từ Chúa sẽ xóa sạch tội lỗi chúng ta. Tuy nhiên để được tắm gội trong đại dương của lòng nhân từ ấy, chúng ta được mời gọi sống lòng nhân từ đối với tha nhân. “Con hãy về và đừng phạm tội nữa”. Lời Chúa Giêsu nói với người phụ nữ ngoại tình cũng được lặp lại cho mỗi người chúng ta. Bước ra khỏi tòa giải tội là được sai đi để thể hiện lòng nhân từ với tha nhân. Và đó là món quà cao đẹp và ý nghĩa mà chúng ta có thể gửi cho nhau trong mùa vọng này.

 

Suy Niệm 4: Đón rước Đấng Cứu Thế là đón kẻ bé mọn

 “Anh em nghĩ sao? Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao? Và nếu may mà tìm được, thì Thầy bảo thật anh em, người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn chín mươi chín con không bị lạc. Cũng vậy, Cha anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất. (Mt. 18, 12-14)

Nếu người ta đọc lại đầu chương 18 Tin mừng theo thánh Mát-thêu, người ta thấy rằng dụ ngôn chiên lạc được tiếp sau câu hỏi của các môn đệ: “Thưa Thầy, ai là người lớn nhất trong nước trời?” (18, 1). Đức Giêsu không trả lời ngay mà lần lượt trả lời theo ba nhịp độ sau:

1) Câu 2-5: Theo kiểu các ngôn sứ xưa, Đức Giêsu trả lời trước hết bằng một cử chỉ tượng trưng: “Người gọi một em bé đến, đặt giữa các ông và bảo: Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không trở lại nên như trẻ em, thì chẳng sẽ được vào nước trời” (c. 3). Qua cử chỉ này, Đức Giêsu đảo lộn thứ bậc theo quan niệm của môn đệ. Tiếp theo, Người tự giới thiệu mình như trẻ nhỏ trước mặt Chúa Cha, môn đệ cũng phải trở nên nhỏ bé như em này, thì mới là người lớn nhất trong tình yêu của Chúa Cha.

2) Câu 6-9: Vì thánh ý của Chúa Cha là muốn cho mỗi người lớn lên trong tình yêu của Ngài, cho nên điều quan trọng là phải chăm lo săn sóc những bé nhỏ này, bằng cách tránh mọi gương mù và mọi khinh thường có thể làm chúng sa ngã.

3) Câu 10-14: Dụ ngôn chiên lạc nói đến kẻ bé mọn và gương mù (c. 6) hay cảm thấy bị khinh bỉ (c. 10) và hậu quả là dần dần xa cộng đồng vì cộng đồng không tiếp nhận nó vào cuộc sống cụ thể hằng ngày, và ngăn cản nó lớn lên trong tình yêu của Chúa Cha. Chính ra mỗi phần tử trong cộng đồng đều được đón nhận thánh ý của Chúa Cha đã muốn cho tất cả đều lớn lên trong tình yêu của Ngài, để không còn thấy mình bị xa lạc nữa, nhưng luôn luôn được đón tiếp, được tôn trọng như một nhân vị độc nhất.

Chúng ta cũng theo gương các môn đệ, cần thiết phải thanh tẩy óc địa vị của mình. Chúng ta có luôn luôn ý thức mình phải hoạt động theo tiếng gọi của Chúa Cha để thi hành trách nhiệm, mà Ngài đã trao phó cho chúng ta với danh nghĩa là môn đệ của Chúa Con và là phần tử của nước trời không?

Trong đời sống thực tế cụ thể hằng ngày, chúng ta có biết tránh mọi gương mù, gương xấu cho những kẻ bé mọn không? Có giúp chúng khám phá và lớn lên trong tình yêu của Chúa Cha không?

Hãy nhớ rằng Đức Giêsu đã tự đồng hóa mình với những kẻ bé mọn: “Ai tiếp đón một em nhỏ như thế này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy” (c. 5).

J.M.R

 

Suy Niệm 5: TẤT CẢ VÌ TÌNH YÊU

Đức Giêsu thường làm những chuyện gây “sốc” cho những người xung quanh. Vì thế, người đương thời với Ngài và đôi khi cả chính chúng ta cũng có lối suy nghĩ rằng: Ngài chuyên làm những chuyện ngược đời, nghịch lý và khó hiểu...!

Quả thật, nếu xét theo kiểu con người thì Đức Giêsu có rất nhiều những khuyết điểm. Những khuyết điểm đó là:

Ngài kém trí nhớ. Khi cả một đời tội lỗi ngập đầu, đến giờ chết xin Ngài tha thứ tội lỗi thì lại cho họ lên Thiên Đàng trước nhất: "Tôi bảo thật với anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng" (Lc 23, 42-43).

Ngài cũng là một người không giỏi luận lý. Có đời thủa nào lại bày cho chủ tiệc đi mời những người nghèo nhất đến dự tiệc cưới của con mình: “...hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì để đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc...” (Lc 14, 12-14).

Ngài còn là một người không biết tổ chức công việc. Người làm đầu tiên cũng như người làm giờ chót, tất cả đều được một đồng! (x. Mt 20, 1-16).

Trong mối liên hệ, bạn số một của Ngài lại là những người tội lỗi (x. Mt 9, 11. 12-13; Lc 15, 2; 19, 2. 5.7. 9...)

Hôm nay, Tin Mừng cũng thuật lại một sự nghịch lý đó ngang qua việc Đức Giêsu bỏ 99 con chiên lại để đi tìm một con chiên lạc. Điều này chứng tỏ Ngài không biết tính toán, là người dốt toán hạng chót...!

Nếu chúng ta đứng về phía những người làm kinh tế, hẳn chúng ta sẽ kết luận Đức Giêsu là kẻ điên khùng vì những điều bất thường trên!

Tuy nhiên, Đức Giêsu muốn dùng những nghịch lý đó để làm sáng tỏ chân lý. Chân lý đó chính là: Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Ngài cho mưa xuống trên kẻ dữ cũng như người lành. Ngài đến để cứu những gì đã mất. Ngài yêu thương đặc biệt những người tội lỗi....

Thật vậy, vì yêu thương, Đức Giêsu không để ý đến quá khứ tội lỗi của con người. Cũng vì yêu thương, Ngài đã chấp nhận chuộc những kẻ tội lỗi bằng tình yêu và cái chết.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có cái nhìn như Chúa, hành xử như Chúa. Hãy tin tưởng cậy trông vào lòng thương xót của Thiên Chúa như Maria Mađalêna; Phaolô, Augustinô, Charles de Foucauld.... Thiên Chúa không kết án con người vì tội lỗi quá khứ của họ. Nhưng Thiên Chúa nhìn vào thực tại của chúng ta như chúng ta là... trong giây phút hiện tại này.

Mùa Vọng là Mùa mời gọi chúng ta quay về với lòng thương xót của Thiên Chúa bằng thái độ sám hối để được Đức Giêsu “vác lên vai, đưa về nhà”.

Mặt khác, Mùa Vọng cũng mời gọi chúng ta noi gương Đức Giêsu để “đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an bình vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm ...”.

Lạy Chúa Giêsu, hình ảnh Chúa đi tìm con chiên lạc, khi tìm được, Chúa đã vác lên vai và yêu thương chúng đặc biệt, điều này đã khích lệ chúng con rất nhiều, bởi vì mỗi người chúng con đều cần đến sự tha thứ của Chúa như con chiên lạc khi xưa. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Thiên Chúa sẽ ôm chúng ta vào lòng- Suy niệm song ngữ ngày 10.12.2019

 

Tuesday (December 10): God carries us in his bosom

 

Scripture: Matthew 18:12-14   

12 What do you think?  If a man has a hundred sheep, and one of them has gone astray, does he not leave the ninety-nine on the hills and go in search of the one that went astray?  13 And if he finds it, truly, I say to you, he rejoices over it more than over the ninety-nine that never went astray. 14  So it is not the will of my Father who is in heaven that one of these little ones should perish.

Thứ Ba    10-12           Thiên Chúa sẽ ôm chúng ta vào lòng

 

Mt 18,12-14

12 “Anh em nghĩ sao? Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao?13 Và nếu may mà tìm được, thì Thầy bảo thật anh em, người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là vì chín mươi chín con không bị lạc.14 Cũng vậy, Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.

Meditation: 

 

Do you know what it’s like to lose your bearings and to be hopelessly adrift in a sea of uncertainty? To be alone, lost, and disoriented without a sense of direction is one of the worst fears we can encounter. What we would give to have a guide who would show us the way to safety and security, the way to home and family. Scripture comforts us with the assurance that God will not rest until we find our way home to him. The Scriptures use the image of a shepherd who cares for his sheep to describe what God is like. God promised that he would personally shepherd his people and lead them to safety (Isaiah 40:11). That is why God sent his only begotten son as the Messiah King who would not only restore peace and righteousness to the land, but who would also shepherd and care for his people with love and compassion. Jesus describes himself as the good shepherd who lays down his life for his sheep (John 10:11).

The Good Shepherd feeds, protects, and provides the best care possible for his flock

What can we learn from the lesson of Jesus’ parable about a lost sheep? This parable gives us a glimpse of the heart of a true shepherd, and the joy of a community reunited with its lost members. Shepherds not only had to watch over their sheep by day and by night; they also had to protect them from wolves and lions who preyed upon them, and from dangerous terrain and storms. Shepherds often had large flocks, sometimes numbering in the hundreds or thousands. It was common to inspect and count the sheep at the end of the day. You can imagine the surprise and grief of the shepherd who discovers that one of his sheep is missing! Does he wait until the next day to go looking for it? Or does he ask a neighboring shepherd if he might have seen the stray sheep? No, he goes immediately in search of this lost sheep. Delay for even one night could mean disaster leading to death. Sheep by nature are very social creatures. An isolated sheep can quickly become bewildered, disoriented, and even neurotic. Easy prey for wolves and lions!

 

Jesus, the Good Shepherd, watches over every step we take – do we follow him?

The shepherd’s grief and anxiety is turned to joy when he finds the lost sheep and restores it to the fold. The shepherd  searches until what he has lost is found. His persistence pays off. What was new in Jesus’ teaching was the insistence that sinners must be sought out time and time again. How easy to forget and be distracted with other matters while the lost become prey for devouring wolves of the soul. The Apostle Peter reminds us that the “devil prowls around like a roaring lion, seeking some one to devour” (1 Peter 5:8).

God does not rejoice in the loss of anyone, but desires that we be brought back and restored to friendship with him. That is why the whole community of heaven rejoices when one sinner is found and restored to fellowship with God. God is on a rescue mission today to save us from the destructive forces of sin and evil. Jesus, the Good Shepherd, watches over every step we take. Do you listen to his voice and heed his wise counsel? Do you follow the path he has set for you – a path that leads to life rather than death?

 

“Lord Jesus, nothing escapes your watchful gaze and care. May I always walk in the light of your truth and never stray from your loving presence.”

Suy niệm:

 

Bạn có biết điều gì giống như mất phương hướng và lênh đênh một cách vô vọng trên biển cả bất định không? Bị cô đơn, mất mát, và bối rối không có nhận thức định hướng là một trong những nỗi sợ hãi nhất chúng ta có thể gặp phải. Điều mà chúng ta cần là người hướng dẫn, người sẽ chỉ cho chúng ta biết con đường về tới chỗ an toàn và bảo đảm, con đường về tới nhà và gia đình. Kinh thánh an ủi chúng ta với lời xác tín rằng Thiên Chúa sẽ không an nghỉ cho tới khi chúng ta đang trên đường về nhà với Người. Kinh thánh dùng hình ảnh người mục tử, người chăn dắt đoàn chiên mình để diễn tả Thiên Chúa là Đấng nào. Thiên Chúa hứa rằng chính Người sẽ chăm dắt dân Người và dẫn dắt họ đến nơi an toàn (Is 40,11). Đó là lý do tại sao TC sai Con một mình tới với tư cách là Vua Mêsia, Đấng không chỉ phục hồi sự bình an và công chính cho trái đất, mà còn chăn dắt và săn sóc cho dân Người với tình yêu thương và trắc ẩn. Ðức Giêsu mô tả chính Ngài là Mục tử nhân lành, Đấng đã hiến mạng sống mình cho đoàn chiên (Ga 10,11).

Mục tử Nhân lành nuôi nấng, bảo vệ, và làm những điều tốt nhất cho đoàn chiên của mình

Chúng ta có thể học được bài học gì từ dụ ngôn con chiên lạc của Ðức Giêsu? Dụ ngôn này cho chúng ta một ý niệm lờ mờ về tâm hồn của một người mục tử đích thật, và niềm vui của một cộng đoàn hợp nhất với những thành viên thất lạc của nó. Các mục tử không chỉ canh chừng đoàn chiên của họ ngày đêm, mà còn phải bảo vệ chúng khỏi bị sói dữ và sư tử rình mồi chúng, và khỏi địa thế nguy hiểm và bão tố. Các mục tử thường có những đàn chiên lớn, thỉnh thoảng con số lên đến cả trăm hay cả ngàn. Thông thường vào cuối ngày, người ta kiểm soát và đếm chiên. Bạn có thể hình dung sự kinh ngạc và đau khổ của người mục tử khi khám phá ra rằng một trong số những con chiên của họ bị thất lạc! Có phải họ chờ đợi cho tới ngày mai mới đi tìm nó không? Hay họ sẽ hỏi thăm người mục tử láng giềng xem có nhìn thấy con chiên bị lạc không? Không, ngay lập tức họ lên đường đi tìm con chiên lạc này. Trì hoãn thậm chí một đêm, có thể tai họa dữ dằn kia sẽ dẫn đến cái chết. Theo bản tính tự nhiên, chiên là loài vật có tính xã hội. Một con chiên lìa đàn có thể nhanh chóng trở nên lúng túng, cô đơn, và thậm chí sẽ bị điên loạn. Nó dễ dàng trở thành mồi ngon cho sói và sư tử !

Đức Giêsu, Mục tử Nhân lành, dõi theo từng bước chân chúng ta, bạn có theo Người không?

Nỗi buồn và lo lắng của người mục tử sẽ trở thành niềm vui khi họ tìm thấy con chiên lạc và đem nó về đàn. Người mục tử tìm kiếm cho tới khi những gì họ mất được tìm thấy. Sự kiên trì của họ được đền bù xứng đáng. Điều mới lạ trong giáo huấn của Ðức Giêsu là sự nhấn mạnh rằng các tội nhân phải được tìm kiếm nhiều lần. Thật dễ dàng để quên lãng và bị những điều khác lôi cuốn trong khi con chiên lạc đang trở nên mồi ngon cho lũ sói thèm muốn các linh hồn. Thánh Phêrô tông đồ nhắc nhở chúng ta rằng “ma quỷ như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1Pr 5,8).

Thiên Chúa không vui vẻ khi có một ai bị hư mất, nhưng Người mong ước rằng tất cả đều được cứu rỗi và phục hồi tình bằng hữu với Người. Đó là lý do tại sao cả triều đình thiên quốc vui mừng khi một người tội lỗi được tìm thấy và trở về với Thiên Chúa. Ngày hôm nay, TC vẫn thực hiện sứ mạng giải thoát chúng ta khỏi sức mạnh tiêu diệt của tội lỗi và ma quỷ. Ðức Giêsu, vị Mục tử nhân lành, hằng theo dõi từng bước chúng ta đi. Bạn có lắng nghe tiếng nói của Ngài và chú ý tới lời khuyên bảo khôn ngoan của Ngài không? Bạn có bước theo con đường mà Ngài đã vạch ra cho bạn – con đường dẫn tới sự sống hơn là sự chết không?

Lạy Chúa Giêsu, không có gì thoát khỏi cái nhìn và sự quan tâm tỉ mỉ của Chúa. Chớ gì con luôn luôn bước đi trong ánh sáng chân lý Chúa và không bao giờ lạc khỏi sự hiện diện yêu thương của Chúa.

Tác giả: Don Schwager
(http://dailyscripture.servantsoftheword.org/readings/)
Bro. Paul Thanh Vu – chuyển ngữ

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây