Thứ bảy đầu tháng, tuần 22 thường niên.

Thứ sáu - 06/09/2019 07:34

Thứ bảy đầu tháng, tuần 22 thường niên.

“Tại sao các ông làm điều không được phép làm trong ngày Sabbat?”

 

Lời Chúa: Lc 6, 1-5

Trong một ngày Sabbat, khi Chúa Giêsu đi qua đồng lúa, thì các môn đệ bứt bông lúa miến, vò xát trong tay, rồi ăn. Có mấy người biệt phái nói với các ông rằng: “Tại sao các ông làm điều không được phép làm trong ngày Sabbat?”

Chúa Giêsu trả lời họ rằng: “Các ông chưa đọc điều Đavit đã làm khi ông và các người tuỳ tùng bị đói sao? Ngài đã vào đền thờ Thiên Chúa, lấy bánh dâng hiến mà ăn và cho các người bạn tuỳ tùng ăn, bánh đó họ không được phép ăn, nhưng chỉ dành cho các trưởng tế mà thôi”. Và Người bảo họ rằng: “Con Người làm chủ cả ngày Sabbat”.

 

 

 

Suy Niệm 1: Điều không được phép làm

Suy niệm

“Tại sao các ông lại ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi?”

“Tại sao môn đệ ông lại không ăn chay?”

“Tại sao môn đệ ông không chịu rửa tay khi dùng bữa?”

Mấy người Pharisêu có vẻ thích đặt những câu hỏi tại sao.

Và trong bài Tin Mừng hôm nay, họ lại đặt một câu hỏi nữa :

“Tại sao các ông làm điều không được phép làm trong ngày sabát?”

Câu chuyện đơn giản như sau.

Thầy Giêsu và các trò đi ngang qua một cánh đồng lúa chín.

Các môn đệ đói nên bứt những bông lúa, vò trong tay cho vỏ tróc ra mà ăn.

Hành vi này được phép làm, dựa theo sách Đệ nhị luật (23, 26).

Nhưng vì đó là ngày sa-bát, nên lại không được phép làm.

Thật ra sách Xuất hành chỉ cấm gặt lúa vào ngày sa-bát thôi (34, 21).

Nhưng truyền thống đã dựng thêm một hàng rào bảo vệ,

bằng cách coi bứt lúa cũng là một hình thức gặt lúa.

Bởi thế các môn đệ bị coi là đã vi phạm luật giữ ngày sa-bát.

Thầy Giêsu lại một lần nữa bênh vực học trò của mình.

Ngài bắt đầu câu trả lời bằng việc đưa các ông Pharisêu về với Kinh Thánh.

Chẳng lẽ những người trí thức như họ mà đã không đọc chuyện này rồi sao.

Đó là chuyện vua Đa-vít và thuộc hạ đói bụng, đã được ăn “bánh thánh”,

khi họ đến đền thờ Nốp, gặp tư tế Akhimêléc (1 Sm 21, 2-7).

Vị tư tế này đã cho họ ăn thứ bánh đặt trước nhan Đức Chúa (Xh 25, 30)

mà chỉ tư tế mới được phép ăn (c. 4; Lv 24, 9),

khi 12 bánh cũ của tuần trước được thay bằng bánh mới vào ngày sa-bát.

Akhimêléc đã làm điều không được phép, vì bánh thường không còn.

Đứng trước cơn đói của Đavít, ông đã không quay đi vì nệ luật.

Đức Giêsu dùng câu chuyện này để bênh các môn đệ đang đói của Ngài,

dù nó không liên quan gì đến chuyện giữ ngày sabát.

Như tư tế Akhimêléc, Ngài cũng không quay đi vì nệ luật.

Hơn nữa, Ngài khẳng định mình là chủ ngày sa-bát (c. 5).

Đức Giêsu không dẹp bỏ ngày sa-bát, nhưng đặt nó ở dưới quyền của Ngài.

Chính Ngài cho ta biết cách giữ ngày sa-bát theo đúng ý Thiên Chúa.

Tội nghiệp các môn đệ bị đói, vì họ đã bỏ mọi sự mà theo Thầy Giêsu.

Họ chấp nhận bữa đói bữa no với một vị Thầy lang thang đây đó,

sống hoàn toàn nhờ lòng tốt của người nghe.

Mấy bông lúa có là gì để tránh cái cồn cào trong ruột.

Thầy Giêsu đã từng nếm cái đói, và thèm một trái vả (Mc 11, 13).

Thầy đã từng khát và xin nước của người phụ nữ (Ga 4, 7).

Bởi đó Thầy hiểu được cái đói khát hành hạ con người mọi thời.

Mọi luật lệ được đặt ra để phục vụ con người và thăng tiến nó.

Đôi khi chúng ta phải nhìn lại những luật đã quen giữ từ lâu

để điều chỉnh lại cho phù hợp với những nhu cầu mới của con người.

Làm sao để luật không đè bẹp, nhưng nâng đỡ con người sống tốt hơn?

Làm sao để khi áp dụng luật, tôi vẫn giữ được sự mềm mại của tình yêu?

 

Cầu nguyện

Lạy Chúa,

con được no nê mà vẫn thiếu ăn,

vì bên con còn có người đói lã

Con uống nước mát mà lòng vẫn khô ran

vì bên con còn có người đang khát

Con vui cười mà nước mắt tuôn rơi

vì bên con còn có người phiền muộn.

Con sáng mắt mà vẫn ở trong bóng đêm

vì bên con còn có người mù tối

Con mặc áo đẹp mà vẫn rách tả tơi.

vì bên con còn có người trần trụi

Con nằm trong nệm êm mà vẫn thao thức,

vì bên con còn có bao nhiêu người thiếu thốn.

(Myrtle Householder)

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

 

Suy Niệm 2: Ý nghĩa đích thực của lề luật

Một trong những sợi chỉ chạy xuyên suốt các sách Tin Mừng là cuộc đối đầu giữa Chúa Giêsu và các nhà lãnh đạo tôn giáo, tức là những người đứng ra bảo đảm cho việc thi hành Lề Luật. Thật ra, như Chúa Giêsu đã từng khẳng định Ngài đến không phải để hủy bỏ Lề Luật mà để hoàn thành nó.

Với Chúa Giêsu, sống tốt lành, thánh thiện không hệ tại ở chỗ thi hành Lề Luật mà chính là sống theo tinh thần Lề Luật. Một người có thể giữ hết mọi Lề Luật nhưng có thể chưa phải là một người thánh thiện. Lề Luật tự nó là tiêu cực, Lề Luật thường đưa ra những điều cấm đoán. Chúa Giêsu thì trái lại, luôn tích cực. Ngài công bố Lề Luật mới xây dựng trên tình yêu. Con người phải nên thánh thiện như Cha trên trời. Thiên Chúa thánh thiện không phải do tuân giữ Lề Luật. Thiên Chúa thánh thiện bởi vì Ngài là tình yêu và vì Thiên Chúa là tình yêu cho nên ai sống trong tình yêu thì thuộc về Thiên Chúa và nên thánh thiện. Trong bài diễn văn chung luận về ngày sau hết, Chúa Giêsu sẽ không dùng Lề Luật để phán xét con người mà chỉ hỏi con người có yêu thương tha nhân không mà thôi.

Trong bài Tin Mừng hôm nay sự kiện các môn đệ đi qua cánh đồng lúa và bứt lúa ăn trong ngày sabát làm nổi bật sứ điệp của Chúa Giêsu. Cuộc chạm trán ngắn ngủi giữa Chúa Giêsu và các biệt phái cho thấy ý nghĩa đích thực của Lề Luật. Bánh thánh là biểu hiện sự hiện diện của Thiên Chúa giữa cộng đồng. Bánh Thánh của người Do Thái cũng mầu nhiệm như bánh thánh của Chúa Kitô, nó biểu hiện phép Thánh Thể. Không người Do Thái nào dám sờ đến bánh thánh cũng như không một người công giáo nào dám mở nhà chầu lấy bánh thánh để ăn trưa. Thật là trái tai khi nghe Chúa Giêsu biện hộ cho hành vi của vua Ðavít. Tuy nhiên, qua lời biện hộ này chúng ta hiểu được quan niệm của Chúa Giêsu về Lề Luật. Lề Luật là chỉ để hướng dẫn và hỗ trợ cho con cái của Thiên Chúa, không nên biến nó thành một gánh nặng, nó phải đáp lại nhu cầu của con người. Chính vì thế mà Chúa Giêsu tuyên bố: "Lề Luật được lập ra cho con người chứ không phải con người cho Lề Luật, ngày sabát được lập ra cho con người chứ không phải con người cho ngày sabát". Con cái của Thiên Chúa là thánh thiện chứ không phải Lề Luật.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại cách sống đạo của chúng ta, có khi chúng ta giữ đạo một cách chi ly nhưng chưa thực sự sống đạo, chúng ta tuân giữ mọi Lề Luật nhưng chưa sống tinh thần của Lề Luật. Cốt lõi của Lề Luật chính là tình yêu. Tất cả mọi Lề Luật đều thu tóm về giới răn yêu thương, sống yêu thương là chu toàn Lề Luật. Lời của thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrintô đoạn 13 cần được chúng ta đem ra suy niệm và thực hành:

"Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác nào thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri và được biết hết mọi chuyện bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu hay có được tất cả những đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giá như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi".

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 3: Vì con người hay vì ngày sa-bát

Vào ngày sa-bát, Đức Giêsu đi băng qua một cánh đồng lúa; các môn đệ bứt lúa, vò trong tay mà ăn. Nhưng có mấy người Pha-ri-sêu nói: “Tại sao các ông lại làm điều không được phép làm trong ngày sa-bát?” (Lc. 6, 1-2)

Không quá đáng khi nói trên trái đất này luôn luôn xảy ra cuộc tranh đấu quyết liệt giữa con người và luật lệ. Có thể nói: rút cuộc con người hình như bị bại trận.

Suốt thời gian thi hành chức vụ công khai, Đức Kitô chống lại óc pháp trị không ngừng áp đặt luật sa-bát trên con người. Thà phải chịu chết đói hơn là phạm tới luật thánh để tôn trọng ngày của Chúa. Đức Giêsu muốn cho biệt phái hiểu rằng họ đã khắt khe vô lý đến tột độ. Người kể trường hợp của vua Đa-vít đã cứu đoàn tùy của mình, ông không ngần ngại vào đền thờ lấy bánh hiến tế dành riêng cho tư tế đưa cho họ ăn. Sự bó buộc của biệt phái thật vô nhân đạo, và Người kết luận: luật lệ vì con người chứ không phải con người nô lệ luật pháp.

Người không thành công cũng như bao nhiêu người khác trước và sau Người, họ đã thử bảo vệ sứ điệp này. Kẻ thù không tha cho ai muốn lãnh đạo hay phục vụ như Người. Một ngày nào đó, họ sẽ lên án Người. Kể từ lúc đó, trong thế giới lương cũng như giáo, xuyên suốt dòng lịch sử, có hàng ngàn đàn ông, đàn bà bị loại trừ và thanh lọc vì đòi quyền ưu tiên cho người trên pháp luật bất chính.

Đức Kitô không phải là con Người ngây ngô. Người biết rất rõ cần thiết phải có luật pháp. Người không ngừng nhắc đi nhắc lại: Người đến không phải để phá hủy luật lệ, nhưng để kiện toàn. Tuy nhiên, Người không chấp nhận luật đặt ra để đè bẹp con người, nhưng luật là để giúp con người thăng tiến. Luật không để giết hại mà để phục vụ. Nhiều người công giáo ngày nay chưa ý thức được bài học này. Họ sẵn sàng chia rẽ, xé lẻ để bảo vệ hình thức luật lệ. Có những luật tốt cho xưa kia, nhưng không còn thích hợp với những yêu cầu nhân loại ngày nay. Thế giới đã có những cuộc cách mạng tiến bộ rõ rệt, không còn nữa những hạng quá bảo thủ và quá cấp tiến nếu bài học của Chúa được đón nhận.

GF

 

Suy Niệm 4: LUẬT VÌ CON NGƯỜI (Lc 6,1-5)

Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc môn đệ Đức Giêsu bứt lúa và ăn trong ngày Sabát. Thời điểm này vào khoảng tháng tư trong năm và rơi vào cuối mùa hạ.

Câu chuyện những người Pharisêu hôm nay lên tiếng khiển trách thầy trò đã đến mức căng thẳng. Họ cảnh cáo Đức Giêsu và các môn đệ không giữ Luật. Lý do:

1) Một là đi qua đồng lúa, tức vi phạm luật chỉ được đi 100 mét ngoài thành vào ngày hưu lễ;

2) Hai là bứt lúa rồi chà trấu trong tay để ăn, một hành vi tương đương với viêc gặt lúa, vậy là vi phạm luật cấm việc xác.

Khi cảnh cáo như thế, ngầm hiểu rằng họ đã ra “tối hậu thư” cho thầy trò Đức Giêsu, nếu còn vi phạm thì sự việc sẽ bị coi là cố tình trước mặt các nhân chứng và đáng chịu tử hình, vì coi thường ngày hưu lễ.

Đáp lại, Đức Giêsu đã lật ngược vấn đề và đặt ra cho họ câu hỏi: "Các ông chưa đọc điều Ðavít đã làm khi ông và các người tuỳ tùng bị đói sao? Ngài đã vào đền thờ Thiên Chúa, lấy bánh dâng hiến mà ăn và cho các người bạn tuỳ tùng ăn, bánh đó họ không được phép ăn, nhưng chỉ dành cho các trưởng tế mà thôi". Hay như các tư tế trong đền thờ. Khi hưu lễ trùng với một đại lễ, các tư tế và các phụ tá phục dịch phải giết chiên nhiều hơn, thế mà vẫn không bị buộc tội vi phạm hưu lễ!

Khi nói như thế, Đức Giêsu mặc khải cho họ rằng: Ngài chính là đền thờ mới, là Con Thiên Chúa, có một quyền bính tự Trời ban cho. Vì thế, Ngài đến để lập lại trật tự nguyên thủy của Lề luật. Lề luật không thể có vai trò tuyệt đối. Nó chỉ được lập ra vì con người, chứ không được trở thành gánh nặng áp bức con người. Ngài đến với tư cách là Chủ của Lề Luật, có quyền ngang với Thiên Chúa, để hoàn chỉnh Lề Luật hoặc sửa đổi nó, một khi không còn thích hợp với ý định của Thiên Chúa.

Sứ điệp Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy giải thoát khỏi tâm trí chúng ta một thứ ý thức hệ vụ hình thức, chuộng cơ cấu, cứng nhắc làm tê liệt tình yêu đối với Chúa và lòng nhân ái đối với tha nhân. Nếu cứ bán vào Luật thuần túy, hẳn không thể có một trái tim biết yêu thương nhạy bén với ơn Chúa và sứ vụ.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sống cốt lõi của Luật. Biết dùng Luật như là phương tiện để giúp nhau sống tốt hơn chứ không phải dùng Luật để cưỡng ép nhau. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 5: Ý nghĩa của lề luật

Về triết gia Ðavít Hume của Anh vào thế kỷ 18, người ta kể một giai thoại như sau:

Một hôm, có một quận công hỏi ông: - Theo ông thì đối tượng của luật pháp là gì?

Ðavít Hume trả lời: - Ðó là để phục vụ cho lợi ích lớn nhất của số lớn nhất.

Quận công hỏi lại: - Thế thì theo ông số lớn nhất là gì?

Triết gia đáp: - Số lớn nhất là số một.

Ðây là thực tế thường xảy ra trong luật pháp của nhiều quốc gia: số lớn nhất thường chỉ là một thiểu số. Luật pháp được làm ra không phải là để phục vụ mọi người, mà chỉ nhắm đến quyền lợi của thiểu số mà thôi.

Vào thời Chúa Giêsu, không thiếu những người nhân danh luật pháp để triệt hạ và chối bỏ người khác. Truyện được ghi trong Tin Mừng hôm nay là một điển hình cho biết bao trường hợp nhân danh pháp luật để đè bẹp con người. Chúa Giêsu đã thách thức cho đến cùng thái độ như thế. Thật ra, Chúa Giêsu không phải là một con người sống ngoài luật pháp, Ngài đến để kiện toàn lề luật. Nhưng sở dĩ Chúa Giêsu chống lại luật pháp là bởi vì luật pháp đó phi nhân hoặc chối bỏ con người. Các môn đệ vì đói nên bứt bông lúa mà ăn, thật ra không phải là vi phạm ngày Hưu lễ. Không có khoản luật nào trong các sách luật xem một hành động như thế là vi phạm ngày Hưu lễ; nếu có thì chỉ là vi phạm một trong 39 hành động mà các nhà chú giải Do thái đã thêm vào qui định của ngày Hưu lễ mà thôi. Hơn nữa, Chúa Giêsu đã dẫn chứng hành động của Vua Ðavít và Ngài khẳng định: hành động của các môn đệ không hề vi phạm ngày Hưu lễ. Lề luật vì con người, chứ không phải con người vì lề luật. Ðó là ý nghĩa của luật pháp mà Chúa Giêsu nêu bật trong cuộc tranh luận với những Biệt phái. Khi luật pháp chống lại con người, nghĩa là chối bỏ phẩm giá và quyền lợi cơ bản của con người, thì luật pháp đánh mất ý nghĩa và không còn lý do để hiện hữu nữa; trong trường hợp đó, dĩ nhiên không tuân hành luật pháp là một thái độ thích đáng.

Thật ra, khi luật pháp chối bỏ hoặc chà đạp những quyền cơ bản của con người, thì luật pháp đó cũng xúc phạm đến chính Thiên Chúa. Thánh Phêrô và thánh Gioan đã hành động một cách cương quyết khi dõng dạc tuyên bố trước Công nghị Do thái: "Thà vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời loài người". Chẳng hạn, khi luật pháp một quốc gia cho phép phá thai, nghĩa là tước đoạt quyền sống của con người, thì chống lại luật pháp đó là một nghĩa vụ. "Thà vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời loài người". đó là nguyên tắc nền tảng hướng dẫn người Kitô hữu trong các quan hệ xã hội của họ. Chúa Giêsu luôn đòi hỏi các môn đệ của Ngài một thái độ dứt khoát tận căn: không thể vừa vâng lời Thiên Chúa, vừa chạy theo những gì chống lại Thiên Chúa.

Nguyện xin Chúa cho chúng ta ơn can đảm để luôn biết nói không với những gì loại trừ con người và xúc phạm đến Thiên Chúa. Xin Chúa gìn giữ chúng ta trong niềm xác tín và vâng phục cho đến cùng, để trong mọi sự, chúng ta chỉ tìm thánh ý Chúa và xây dựng những giá trị Nước Trời.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy niệm: 

A. Phân tích (Hạt giống...)

Chúa Giêsu và biệt phái tranh luận nhau về việc sống ngày Sa bát:

Biệt phái chỉ biết giữ luật nghỉ ngơi ngày Sabát. Nên khi họ thấy các môn đệ của Chúa Giêsu bứt lúa trong ngày này thì họ lên án.

Chúa Giêsu hiểu luật Sabát nhằm giải phóng con người, nên trách biệt phái đã quá câu nệ ý nghĩa của luật mà không hiểu tinh thần.

B. Suy niệm (...nẩy mầm)

1. Ngày Chúa nhật, nếu tôi chỉ biết nghỉ việc và đi Lễ thì chưa chắc tôi đã "thánh hóa" ngày đó theo đúng ý muốn của luật Giáo hội. Tôi còn phải yêu mến Chúa nhiều hơn và quan tâm đến anh em tôi hơn.

2. Nếu tôi giữ luật chỉ vì đó là luật thì việc giữ luật của tôi không đem lại lợi ích thực nào cho tôi mà lại thêm nặng nề khó chịu. Nếu tôi buộc người khác giữ luật chỉ vì đó là luật thì cũng chẳng có ích lợi gì cho người khác, trái lại càng làm cho người khác khổ sở thêm.

3. “Con người là chủ của ngày hưu lễ”: Chúa Giêsu là chủ của ngày Chúa Nhật. Ngày Chúa Nhật tôi có quy hướng mọi sự về Chúa Giêsu không?

4. “Con người làm chủ ngày Sabát.” (Lc 6,5).

Hồi bé, tôi luôn phải nghe đi nghe lại điệp khúc: “nghỉ chơi đi lễ, lễ xong về chơi chẳng muộn”. Vâng, tôi đã đi lễ, nhưng đi một cách miễn cưỡng. Giáo hội thật “ác”, đặt ra bao điều phải theo.

Bây giờ tôi đến với Thánh lễ không phải vì những luật lệ, những “điệp khúc” hồi bé, nhưng bằng chính tấm lòng, bằng sự khao khát của con tim, của tâm hồn muốn có được sự bình an vĩnh cửu. Nghĩ lại, tôi thầm cám ơn Chúa vì những luật lệ trong Hội thánh.

Lạy Chúa, xin cho con đến với Chúa không phải vì lề luật đòi buộc, nhưng với cả tấm lòng một người con. (Hosanna).

5. Mầm khác.

A-rit-tit là một tướng lãnh và chính trị gia nổi tiếng của Hy Lạp vào thế kỷ thứ V trước công nguyên. Ông thanh liêm tới nỗi dân chúng đã tặng ông biệt hiệu "A-rit-tit người công chính"

Nhưng càng được người đời khen ông lại càng có nhiều kẻ thù. Và các đối thủ của ông đã cấu kết với nhau để kết án ông 10 năm lưu đày.

Có một thị dan không biết chữ, vừa khi thấy A-rit-tit đứng ở một góc phố mà chẳng biết đó là chính kẻ mới bị kết án, người ấy bèn nhờ ông viết tên A-rit-tit vào vỏ sò.

Sau kkhi đã viết xong và trao vỏ sò cho người ấy, A-rit-tit mới hỏi:

-Tại sao,ông viết phiếu ủng hộ việc bắt A-rit-tit đi đầy.

Người ấy trả  lời:

-Tại sao ư? Bởi vì tôi không thể nào chịu được khi nghe thiên hạ cứ gọi ông ta là người cống chính, thế thôi.

Không chịu được sự hiện diện của người công chính có thể là vì ghen tương mà cũng có thể là tại không muốn cải thiện cuộc đời.

Trong sách Khôn Ngoan có thuật lại việc những kẻ gian ác về hùa với nhau và bàn tính tiêu diệt người công chính. Vì nếp sống của người công chính làm cho chúng bực mình. Nhất là vì nếp sống ấy luôn luôn đập vào mắt chúng như một lời khiển trách. Và thế là chúng hết chịu nổi.

Thay gì nhìn vào những người anh em có cuộc đời gương mẫu để tự kiểm điểm và tu chỉnh, phải chăng có khi chúng ta lại bỉu môi, dèm pha, hoặc công kích?

Ai lại không hiểu rằng một thái độ như thế chỉ có thể là biểu hiện của tính tự ái, hẹp hòi và cố chấp.

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây