Thứ Bảy tuần 4 Phục Sinh.

Thứ sáu - 08/05/2020 08:44

Thứ Bảy tuần 4 Phục Sinh.

"Ai thấy Thầy là xem thấy Cha".

 

Lời Chúa: Ga 14, 7-14

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, các con biết và đã xem thấy Người".

Philipphê thưa: "Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha và như thế là đủ cho chúng con". Chúa Giêsu nói cùng ông rằng: "Philipphê, Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là xem thấy Cha. Sao con lại nói: Xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha? Con không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy ư? Những điều Thầy nói với các con, không phải tự mình mà nói, nhưng chính Cha ở trong Thầy, Ngài làm mọi việc. Các con hãy tin rằng Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy. Ít ra các con hãy tin, vì các việc Thầy đã làm.

Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm được những việc Thầy đã làm; người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha. Và điều gì các con nhân danh Thầy mà xin Cha, Thầy sẽ làm, để Cha được vinh hiển trong Con. Nếu điều gì các con nhân danh Thầy mà xin cùng Thầy, Thầy sẽ làm cho".

 

 

SUY NIỆM 1: Làm những việc lớn hơn nữa

Suy niệm:

Sau khi ông Tôma hỏi Thầy Giêsu về đường (Ga 14, 5),

thì ông Philípphê lại xin Thầy cho các môn đệ thấy Chúa Cha (c. 8).

Không rõ Philípphê muốn thấy Thiên Chúa theo kiểu nào,

bởi lẽ theo niềm tin chung của người Do thái

không ai thấy Thiên Chúa chí thánh mà sau đó còn sống được (x. Xh 33, 20).

Dù sao khát vọng được thấy Thiên Chúa là ước mơ chính đáng.

Thiên Chúa đã thỏa mãn ước mơ mà Ngài đã đặt vào lòng con người.

Nơi Đức Giêsu, là Ngôi Lời nhập thể và là Con Thiên Chúa,

chúng ta có thể thấy được Thiên Chúa bằng mắt phàm.

“Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (c. 9).

Nhìn ngắm khuôn mặt Thiên Chúa nơi Đức Giêsu

chúng ta chẳng những không phải chết, nhưng được sống.

Theo quan niệm của người Do thái,

sứ giả là đại diện trọn vẹn cho người sai mình.

Đức Giêsu đã là sứ giả cho Cha một cách tuyệt vời.

Ngài là một với Thiên Chúa, Đấng sai Ngài :

“Thầy ở trong Chúa Cha, và Chúa Cha ở trong Thầy” (c. 11).

Các lời Ngài nói, Ngài không tự mình nói.

Các việc Ngài làm, Ngài không tự mình làm.

“Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy,

chính Người làm những việc của mình” (c. 10).

Nhìn những việc Đức Giêsu làm, chúng ta nhận ra đó là việc của Cha.

Cha làm việc của Cha qua Con của mình là Đức Giêsu.

“Ai tin vào Thầy, người đó sẽ làm được những việc Thầy làm.

Người đó còn làm được những việc lớn lao hơn nữa,

bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha” (c. 12).

Chúng ta vẫn ở trong mùa Phục sinh, mùa của sự sống chiến thắng.

Đức Giêsu đã về với Chúa Cha và được vào trong vinh quang.

Khi tin vào Ngài, khi gắn bó với một Đấng phục sinh quyền năng như thế,

chúng ta có thể làm được những điều như Ngài đã làm:

trừ quỷ, chữa bệnh, hoàn sinh kẻ chết (Mc, 16, 17-18; Cv 9, 34.40).

Và như Đức Giêsu, điều vĩ đại mà chúng ta có thể làm cho thế giới hôm nay

là yêu thương, yêu như Thầy đã yêu, yêu đến hiến mạng.

Hãy mạnh dạn nhân danh Đức Giêsu mà xin,

vì biết thế nào Ngài cũng làm cho người gắn bó với Ngài.

Tất cả để Cha được tôn vinh nơi Con (c. 14).

 

Cầu nguyện :

Lạy Chúa Giêsu,

xin cho con biết con,

xin cho con biết Chúa.

Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa,

quên đi chính bản thân,

yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa.

Xin cho con biết tự hạ,

biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa.

Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa.

Ước gì con biết nhận từ Chúa

tất cả những gì xảy đến cho con

và biết chọn theo chân Chúa luôn.

Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa.

Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa.

Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa.

Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen. (Thánh Âu-Tinh)

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

SUY NIỆM 2: Cầu nguyện nhân danh Chúa.

Thường tình chúng ta không tiếc lời ca ngợi kẻ xa lạ vì đã làm được những việc đáng kể, nói ra nhiều câu chí lý, có một hành động đáng phục. Trong khi đó chúng ta lại rất hà tiện lời khen đối với người sống gần bên cạnh, trong chính tập thể chúng ta, dù người đó không những đã làm, đã nói, đã sống, mà còn hơn cả những người được ca ngợi, nhưng lại sống xa chúng ta. Ðây có thể phần nào là hoàn cảnh sống của các môn đệ, nhất là của Philipphê. Họ đã sống gần Chúa Giêsu, Thầy của mình, bao nhiêu năm qua, nhưng dường như họ vẫn chưa hiểu Chúa và mối tương quan của Ngài với Thiên Chúa Cha. Chính vì thế, mà trong câu nói của Chúa Giêsu cho các môn đệ có mang chút ít sự chua xót và trách móc: "Thầy đã ở với các con lâu rồi mà các con không biết Thầy sao? Hỡi Philipphê, ai xem thấy Thầy thì cũng xem thấy Cha. Hãy tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy. Ít nhất, các con hãy tin điều đó vì thấy các việc Thầy đã làm".

Thật thế, không thiếu những dấu chỉ cho chúng ta biết mối quan hệ thâm sâu và đặc biệt giữa Chúa Giêsu và Thiên Chúa Cha. Ðặc biệt trong đoạn Phúc Âm vừa đọc trên, chúng ta có thể ghi nhận một dấu chỉ đặc biệt, đó là Chúa Giêsu qua Chúa Thánh Thần mà Ngài sẽ ban xuống, sẽ ban cho các môn đệ làm những việc cả thể hơn nữa. Họ sẽ hành động nhân danh Chúa, sẽ khai sinh một cộng đoàn mới, một Giáo Hội của Chúa. Nhưng chắc chắn các môn đệ sẽ gặp khó khăn và phương thế để vượt qua những khó khăn là cầu nguyện, cầu nguyện nhân danh Chúa. Hai lần trong cùng một đoạn văn vừa đọc, Chúa Giêsu đã yêu cầu các môn đệ của Ngài hãy cầu nguyện, cầu nguyện hết lòng tin tưởng, cầu nguyện nhân danh Chúa. Chúng ta có xác tín về những gì Chúa Giêsu giãi bày cho chúng ta hay không?

Lạy Chúa, trong ánh sáng phục sinh của Chúa, chúng con được mạc khải cho biết thực thể đúng thực của Chúa, là Ðấng sống hiệp nhất với Thiên Chúa Cha, nhưng đồng thời không bỏ quên chúng con. Chúa muốn chúng con hướng về Chúa. Xin đừng để chúng con đi tìm một vì Thiên Chúa khác, mà quên chính Chúa, là Ðấng luôn luôn hiện giữa chúng con mọi nơi mọi lúc.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

SUY NIỆM 3: Cảm nghiệm lời chứng

Phi-líp dám liều như Mô-sê và Ê-li-a đã xin thấy mặt Thiên Chúa. Các ông đã nhận được tiếng Chúa nói từ trong bụi gai bốc lửa và trong tiếng gió nhè nhẹ, đó là sự cảm nghiệm huyền nhiệm. Nhưng họ chỉ được đáp lời thật sự lúc Thiên Chúa hiện hình trong Đức Giêsu. Đó là lúc biến hình mà Chúa Cha đã cho thấy Con Ngài vinh quang sáng láng và bao phủ bằng tình yêu dấu của Chúa Cha trước mặt các tông đồ làm cho các ông ngất đi trong ánh sáng.

Ánh sáng này được Đức Giêsu tỏ ra cho những người đồng bàn trong bữa tiệc ly, khi nói về Chúa Cha vô hình, đó là ánh sáng của tình yêu hy sinh tận tình. Chính Đức Giêsu đã đón nhận tình yêu Chúa Cha trong Người, và tình yêu này sẽ đốt cháy Người đến lúc chết.

Thực sự, điều chúng ta thiếu, đó là thiếu nhận biết về Đức Giêsu bằng cảm nghiệm thân mật. Nhờ vốn kiến thức, nhờ nghiên cứu những bản văn thánh, chúng ta chỉ mới nhận được một Đức Giêsu bên ngoài chúng ta, bằng định nghĩa và bản tóm. Đó chỉ là bước đầu: cần thiết nội tâm hóa tất cả những hiểu biết đó trở nên cảm nghiệm sống động làm nguồn suối đặt nền móng cho chính mình, cam kết gắn bó riêng tư với Ngài. Nhưng nhiều lần sự cam kết gắn bó ấy vọt chảy ra một tình cảm luyến ái từ tâm can, một ước muốn cảm mến xúc động như được đụng chạm một niềm vui sướng chóng qua.

Cần thiết phải đào sâu và đi xa hơn nữa, đến tận căn tính trong bản vị tinh thần của chúng ta, mới thực sự là sự hiệp nhất dưới tác động của Thánh Thần. Chỉ có sức mạnh Thánh Thần mới làm cho chúng ta sống sâu sắc mầu nhiệm cứu độ của Đức Kitô. “Tái sinh bởi Thánh Thần” như Đức Giêsu đã nói với ông Ni-cô-đê-mô, là làm cho con người chúng ta từ tâm trí, tình yêu và linh hồn được hiệp thông với Chúa Cha trong Đức Kitô.

Đức Giêsu đã làm chứng cho ta thấy Chúa Cha và Người đã trở nên chứng nhân cho tình yêu của Ngài và cho mọi người bằng việc Ngài làm. Vậy chúng ta làm chứng cho tình yêu nào? Tình yêu đó có được làm chứng bằng việc làm của chúng ta không? Bằng chứng có thể hiện được tài năng nhân tính và sức sống tinh thần của chúng ta không? Những chứng nhân của lòng yêu thương đôi khi trở thành tử đạo như Đức Kitô.

L.P

 

SUY NIỆM 4: Nhìn thấy Chúa trong cuộc sống

Một vị vua nọ có lần nẩy ra ý nghĩ táo bạo: ông cho triệu mời các lãnh đạo tôn giáo đến và ra lệnh trong một tuần phải làm thế nào cho ông thấy được Thiên Chúa, nếu không sẽ bị chém đầu. Thật là một đòi hỏi nan giải và hóc búa: làm thế nào có thể thỏa mãn được một ước muốn càn gở như thế. Biết được nỗi lo âu của các nhà lãnh đạo, một kẻ chăn chiên dẫn nhà vua đến đồng cỏ nơi anh thường chăn súc vật. Họ đi bộ, chứ không dùng xe, khi tới nơi, mặt trời đã gần đỉnh ngọ. Kẻ chăn chiên đưa tay chỉ mặt trời và xin nhà vua nhìn. Vua nổi giận bảo anh muốn làm mù đôi mắt của ông hay sao. Bấy giờ kẻ chăn chiên mới quì xuống trước mặt vua và thừa: “Tâu bệ hạ, chỉ một vật do bàn tay Thiên Chúa tạo dựng mà ánh quang của nó rực rỡ đến nỗi bệ hạ chẳng dám nhìn, thì làm sao bệ hạ có thể nhìn thấy Thiên Chúa được”. Chính lúc ấy, nhà vua đã nhìn thấy Thiên Chúa không phải bằng đôi mắt, nhưng bằng niềm tin.

Trong Tin Mừng hôm nay, Philip, một trong mười hai đã xin Chúa Giêsu tỏ cho thấy Thiên Chúa Cha. Chắc hẳn khi nói điều đó Philip đã liên tưởng đến hình ảnh một Thiên Chúa quyền năng đã tỏ vinh quang Ngài trên núi Sinai, một Thiên Chúa mà Môsê chỉ được thấy phía sau lưng Ngài. Tâm trạng của Philip cũng là tâm trạng của rất nhiều người trong chúng ta, đó là một niềm tin đòi hỏi sự lạ. Bởi thế, không ít người sẵn sàng hao tổn tiền bạc và thời giờ để tìm đến những nơi xẩy ra sự lạ, đối với họ, một lần hành hương có ý nghĩa và giá trị cho cả cuộc đời.

Đáp lại yêu cầu của Philip, Chúa Giêsu đã đưa ra một khẳng định và một câu hỏi: trước hết Ngài nêu lên một chân lý: “Ai thấy Thày là thấy Cha Thày”, đó là một thực tại đã phá hiển nhiên; câu hỏi tiếp sau đó như một nhắc nhở cho Philip: hãy nhìn lại cuộc sống thân tình giữa Thày và các môn đệ. Những lời Thày nói, những việc Thày làm, không phải là của Thày, mà là của Thiên Chúa Cha ở trong Thày. Sự thân tình quen thuộc đã khiến cho các môn đệ không nhận ra Ngài là Thiên Chúa. Lời nhắc nhở của Chúa Giêsu đối với Philip cũng là lời nhắc nhở chúng ta: đừng để những nét quen thuộc bên ngoài che mất thực tại bên trong. Tìm kiếm Thiên Chúa là điều tốt, nhưng thật đáng trách khi đứng trước mặt Ngài mà chẳng nhận ra Ngài. Chúng ta nôn nao tìm dấu lạ, nhưng dấu lạ xẩy ra trước mặt mà chẳng nhìn thấy: hàng ngày qua lời truyền phép, Chúa Giêsu hiện diện trên bàn thờ, nhưng đã mấy khi chúng ta tỏ thái độ cung kính tin nhận Ngài? Trong cuộc sống biết bao lời cầu xin được dâng lên Thiên Chúa nhưng đã mấy lần chúng ta phải tỉnh để nhận ra ơn lành Ngài ban.

Ước gì chúng ta giữ mãi thái độ tìm kiếm, một sự tìm kiếm không ở đâu xa, nhưng trong chính cuộc sống quen thuộc hàng ngày. Đập vỡ chiếc vỏ quen thuộc bằng cách ngạc nhiên đặt câu hỏi, chắc chắn chúng ta sẽ nhận ra khuôn mặt của Thiên Chúa.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

SUY NIỆM 5: KẾT HỢP VỚI CHÚA – LÀM ĐƯỢC MỌI SỰ (Ga 14, 7-14)

Chúng ta nghe nói đây đó nhiều vị thánh đã làm phép lạ cách phi thường. Có nhiều đấng làm phép lạ ngay khi còn sống, chẳng hạn như thánh Giêrađô, Vinh Sơn, Mattinô...

Đứng trước những phép lạ đó, chúng ta không khỏi ngỡ ngàng và ngạc nhiên! Tuy nhiên, chìa khóa để mở ra sự bất ngờ này, chính là sự kết hiệp mật thiết sâu xa giữa các thánh và Đức Giêsu. Vì thế, việc phi thường các thánh làm thực ra không phải, mà là Chúa đang hành động nơi các ngài.

Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nói rất rõ về sự kết hiệp này. Câu chuyện được khởi đi từ sự ngỡ ngàng và ngạc nhiên của Philípphê khi ông cất lên hỏi Đức Giêsu về một sự kiện có tính siêu nhiên: "Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện". Đức Giêsu đã trách nhẹ ông, vì Ngài đã ở với các ông bấy lâu, giảng dạy nhiều điều, đã làm những dấu lạ điềm thiêng, cũng như mạc khải cho ông biết Ngài từ Chúa Cha mà đến, và làm những việc của Chúa Cha, vậy thì tại sao ông và các môn đệ vẫn không tin??? Thật là đáng buồn! Vì thế, Đức Giêsu nói với ông Philípphê rằng: “Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm”.

Khi nói như thế, Đức Giêsu muốn dạy cho các Tông đồ một bài học về sự kết hiệp. Không kết hiệp với Ngài thì không thể làm được việc gì. Nhưng nếu kết hiệp với Ngài thì sẽ làm được mọi chuyện như chính Ngài đã làm và có khi còn hơn thế nữa... Khuôn mẫu của sự kết hợp chính là giữa Đức Giêsu và Thiên Chúa Cha. Người môn đệ khi ra đi loan báo Tin Mừng cũng vậy! Phải kết hợp chặt chẽ với Chúa như cành liền cây. Có thế, chúng ta mới trở thành người mang Tin Mừng cho anh chị em mình. Không có điều này, chúng ta sẽ chỉ làm những chuyện mà chúng ta thích chứ không phải là Thiên Chúa muốn! Và theo lẽ đương nhiên, chúng ta sẽ chẳng làm được việc gì vì chúng ta đã không nhân danh Đức Giêsu mà xin với Thiên Chúa. Chính vì điều này, mà chúng ta thấy nhiều sứ giả của Chúa bị thất bại, gãy cánh...

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sống sự hiệp thông chặt chẽ với Chúa để chúng con trở thành chứng nhân chân thật nhờ biết gắn bó với Ngài. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Xin Chúa tỏ cho chúng con biết Cha – SN song ngữ 9.5.2020

 

Saturday (May 9): “Lord, show us the Father”

 

Scripture: John 14:7-14  

7 If you had known me, you would have known my Father also; henceforth you know him and have seen him.” 8 Philip said to him, “Lord, show us the Father, and we shall be satisfied.” 9 Jesus said to him, “Have I been with you so long, and yet you do not know me, Philip? He who has seen me has seen the Father; how can you say, `Show us the Father’? 10 Do you not believe that I am in the Father and the Father in me? The words that I say to you I do not speak on my own authority; but the Father who dwells in me does his works. 11 Believe me that I am in the Father and the Father in me; or else believe me for the sake of the works themselves. 12 “Truly, truly, I say to you, he who believes in me will also do the works that I do; and greater works than these will he do, because I go to the Father. 13 Whatever you ask in my name, I will do it, that the Father may be glorified in the Son; 14 if you ask anything in my name, I will do it.

Thứ Bảy     9-5         Xin Chúa tỏ cho chúng con biết Cha

 

Ga 14,7-14

7 Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người.” 8 Ông Phi-líp-phê nói: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện.”9 Đức Giê-su trả lời: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha”?10 Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình.11 Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm.12 Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha.13 Và bất cứ điều gì anh em nhân danh Thầy mà xin, thì Thầy sẽ làm, để Chúa Cha được tôn vinh nơi người Con.14 Nếu anh em nhân danh Thầy mà xin Thầy điều gì, thì chính Thầy sẽ làm điều đó.

Meditation: 

 

What’s the greatest thing we can aim for in this life? – Is it not to know God personally as your Father and Redeemer? What is the best thing we can possess in this life, bringing more joy, contentment, life and happiness, than anything else? – Is it not true knowledge and understanding of who God is and what kind of relationship he wants to have with you? Scripture tells us the greatest thing we can know and possess is true knowledge of God: Thus says the Lord: “Let not the wise man glory in his wisdom, let not the mighty glory in his might, let not the rich man glory in his riches; but let him who glories glory in this, that he understands and knows me” (Jeremiah 9:23-24).

We can know God the Father personally and be united with him

One of the greatest truths of the Christian faith is that we can know the living God. Our knowledge of God is not simply limited to knowing something about God, but we can know God personally. The essence of Christianity, and what makes it distinct from Judaism and other religions, is the personal knowledge of God as our Father.

Jesus makes it possible for each of us to personally know God as our heavenly Father. To see Jesus is to see what God is like. In Jesus we see the perfect love of God – a God who cares intensely and who yearns over men and women, loving them to the point of laying down his life for them upon the Cross. Jesus is the revelation of God – a God who loves us unconditionally, unselfishly and perfectly – without neglecting or forgetting us even for a brief moment. If we put our trust in Jesus and believe in him, Jesus promises that God the Father will hear our prayers when we pray in his name. That is why Jesus taught his followers to pray with confidence, Our Father who art in heaven ..give us this day our daily bread (Matthew 6:9,11; Luke 11:2-3) Do you pray to your Father in heaven with joy and confidence in his personal love and care for you?

“Lord Jesus, you fill us with the joy of your saving presence and you give us the hope of everlasting life with God our Father in Heaven. Show me the Father that I may know and glorify him always.”

Suy niệm:

 

Điều lớn nhất chúng ta có thể nhắm tới trong cuộc đời này là gì? – Chẳng phải là để biết Thiên Chúa là Cha và là Đấng cứu độ cách cá vị đó sao? Điều gì là điều tốt nhất chúng ta có thể sở hữu trong cuộc đời này, đem lại cuộc sống an vui, mãn nguyện, và hạnh phúc hơn những điều khác? – Chẳng phải là sự nhận thức và hiểu biết đích thật về Đấng mà Thiên Chúa là, và mối quan hệ nào mà Người muốn có với chúng ta đó sao? Kinh thánh nói với chúng ta điều lớn nhất chúng ta có thể biết và có được là sự hiểu biết đích thật về Thiên Chúa: Thiên Chúa nói thế này: “Kẻ khôn ngoan, đừng tự hào mình khôn ngoan; kẻ hùng mạnh, đừng tự hào mình hùng mạnh; kẻ giàu có, đừng tự hào mình giàu có; nhưng ai tự hào thì hãy tự hào về điều này, là hiểu biết Ta” (Gr 9,23-24).

 

Chúng ta có thể biết Chúa Cha cách cá vị và hiệp nhất với Người

Một trong những chân lý lớn nhất của niềm tin Kitô giáo là chúng ta có thể nhận biết Thiên Chúa hằng sống. Sự hiểu biết của chúng ta về Thiên Chúa không chỉ đơn giản giới hạn để biết điều gì đó về Thiên Chúa, nhưng chúng ta có thể hiểu biết chính Thiên Chúa. Bản chất của Kitô giáo, và những gì làm cho nó khác với đạo Dothái và những tôn giáo khác, là sự nhận biết Thiên Chúa là Cha chúng ta.

 

Ðức Giêsu cho phép mỗi người chúng ta được biết Thiên Chúa là Cha của mình cách cá vị. Xem thấy Ðức Giêsu là xem thấy Thiên Chúa như thế nào. Nơi Ðức Giêsu, chúng ta nhìn thấy tình yêu hoàn hảo của Thiên Chúa – một Thiên Chúa quan tâm săn sóc và yêu thương cả người nam lẫn người nữ, yêu thương họ đến nỗi hiến mạng sống mình vì họ trên thập giá. Ðức Giêsu là sự mặc khải của Thiên Chúa – một Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô điều kiện, quảng đại, và hoàn hảo – không có bỏ rơi hay quên lãng chúng ta, thậm chí chỉ một giây ngắn ngủi. Nếu chúng ta đặt niềm tin cậy của mình nơi Ðức Giêsu và tin tưởng Người, Ðức Giêsu hứa rằng Chúa Cha sẽ nghe lời cầu nguyện của chúng ta khi chúng ta cầu nguyện nhân danh Người. Đó là lý do tại sao Ðức Giêsu dạy các môn đệ phải cầu nguyện với lòng tin cậy: Lạy Cha chúng con ở trên trời… xin cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày (Mt 6,9.11; Lc 11,2-3). Bạn có cầu nguyện với Cha trên trời với niềm vui và lòng tự tin trong tình yêu và sự quan tâm của Người dành cho bạn không?

 

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa lấy đầy lòng chúng con niềm vui của sự hiện diện cứu độ của Chúa, và ban cho chúng con niềm hy vọng về sự sống vĩnh cửu với Cha trên trời. Xin tỏ cho con Chúa Cha để con có thể hiểu biết và đem lại vinh quang cho Người luôn.

Tác giả: Don Schwager
(http://dailyscripture.servantsoftheword.org/readings/)
Bro. Paul Thanh Vu – chuyển ngữ

 

 SUY NIỆM:

1. Lòng ước ao Thiên Chúa

Tông đồ Phi-líp-phê nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện” (c. 8). Lời nguyện xin này của tông đồ Phi-líp-phê diễn tả cho chúng ta lòng ước ao Thiên Chúa; và lòng ước ao Thiên Chúa không chỉ có nơi tông đồ Phi-líp-phê và nơi các tông đồ và các môn đệ, nhưng còn nơi mọi con người, nơi mỗi người chúng ta. Bởi vì, một khi đã hiện hữu, chúng ta luôn ước ao hiện hữu vô hạn, nhất là khi chúng ta đón nhận hiện hữu hữu hạn của chúng như một ơn huệ từ Hiện Hữu Vô Hạn (x. St 3, 1-7).

Ước ao Thiên Chúa được thể hiện một cách rõ nhất, đó là khi chúng ta có kinh nghiệm tình yêu ngay trong hiện hữu giới hạn của chúng ta: hữu hạn không tương hợp với năng động của tình yêu, vì tình yêu luôn hướng tới chiều kích mãi mãi và viên mãn, và hữu hạn không thể chứa đựng được tình yêu; vì thế tình yêu chỉ có thể đến từ Thiên Chúa và tìm được no thỏa trong Thiên Chúa mà thôi. Lòng ước ao Thiên Chúa rốt cuộc là lòng ước ao Tình Yêu Vô Biên, và Thiên Chúa là Tình Yêu Vô Biên (x. 1Ga 4, 8).

Hơn nữa, con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, nên con người không thể không khát khao Thiên Chúa, dù ý thức hay không ý thức: “Lạy Chúa, chúng con được dựng nên cho Chúa; vì thế, chúng con luôn thao thức cho đến khi được nghỉ ngơi hoàn toàn trong Chúa mà thôi” (Sách Tự Thuật của thánh Augustinô).

 2. Thiên Chúa bày tỏ chính mình

Thiên Chúa dựng chúng ta theo hình ảnh của Ngài, để chúng ta khao khát Ngài; và khi chúng ta khao khát Ngài, Ngài sẽ đáp lại. Thực vậy, để đáp lại lòng khát khao Ngài, Thiên Chúa bày tỏ cho chúng ta qua nhiều dấu chỉ. Trước tiên, đó là những điều tốt đẹp trong sáng tạo:

Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa,
không trung kể lại việc tay Người làm…
Chẳng một lời một lẽ, chẳng nghe thấy âm thanh,
mà tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu
và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển. 
(Tv 19, 2-5b)

Thánh Phao-lô đã trích dẫn lời Thánh Vịnh này khi nói về sứ điệp tin Mừng mà các chứng nhân loan báo: “Tiếng các ngài đã dội khắp hoàn cầu, và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển” (Rm 10, 18), vì ngài nhận ra rằng, sứ điệp Tin Mừng và sứ điệp của sáng tạo là một, vì cùng đến từ Ngôi Lời và diễn tả Ngôi Lời.

Thiên Chúa còn tỏ mình cho chúng ta qua những dấu chỉ trong cuộc đời và trong hành trình ơn gọi của chúng ta, nhưng nhất là qua Dấu Chỉ lớn nhất, là chính Đức Giêsu Kitô: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Dt 1, 1-2).

Xin Thiên Chúa khởi dậy lòng khát khao Người nơi chúng ta, để chúng ta biết hướng về Người trong mọi sự, biết nhận ra mọi sự trong sự thật, biết bình tâm với mọi sự, biết tương đối hóa mọi sự, biết định hướng mọi sự và nhất là để nhận biết Người nơi Đức Giê-su Ki-tô.

 3. « Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy »

Ai trong chúng ta cũng gặp khó khăn trong nỗ lực thỏa mãn lòng ước ao Thiên Chúa, bởi vì Thiên Chúa muốn chúng ta “hiểu biết thâm sâu” Đức Giê-su, như chính Người trách tông đồ Phi-líp-phê: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư?”, và tin rằng, Đức Giê-su ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong Đức Giê-su (c. 10 và 11). Tuy nhiên, đối với tông đồ Philiphê và các môn đệ, Đức Giêsu mới chỉ được nhận biết như là một vị Thầy, một Ngôn sứ… nghĩa là một con người rất đặc biệt, nhưng dù sao cũng là một con người; làm sao nhìn ra Thiên Chúa nơi Thầy Giê-su, quê ở Nazareth được? Như thế, Thiên Chúa đã bày tỏ chính mình cho loài người chúng ta cách minh nhiên nhất nơi Đức Giê-su Ki-tô, nhưng lại gây ra cho các môn đệ, cho loài người và cho chính chúng ta khó khăn lớn nhất.

Thật vậy, khi Đức Giê-su nói với các môn đệ : « Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi ». Thì tông đồ Tô-ma, đại diện cho các môn đệ, lại nêu câu hỏi: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?” Và khi Đức Giê-su nói: “Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người”, thì tông đồ Phi-líp-phê nói: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha”!

Khó khăn này tăng lên gấp bội, một khi chúng ta có sẵn một hình ảnh về Thiên Chúa: Thiên Chúa phải là uy hùng, mạnh mẽ, sẵn sàng ra tay quyền lực, Thiên Chúa phải là Thiên Chúa của những điều lạ lùng “từ trời xuống”, theo quan niệm của người Do thái; Thiên Chúa phải thật thượng trí, thật công bằng, theo quan niệm của người Hy lạp. Trong khi nơi Đức Giêsu, chúng ta được mời mọi nhận ra một Thiên Chúa của đời thường, hòa mình vào cuộc sống hằng ngày, nhất là với những người nhỏ bé, đau khổ, tội lỗi; một Thiên Chúa trao ban nhưng không, tha thứ nhưng không; và nhất là một Thiên Chúa bày tỏ mình qua phục vụ, qua sự hiến dâng chính mình trong mầu  nhiệm Thương Khó và nơi Thập Giá. Chính ở nơi Đức Giê-su, chúng ta được mời gọi nhận ra, hiểu và gặp gỡ Thiên Chúa, Thiên Chúa đích thật vượt xa mọi hình ảnh có sẵn của chúng ta.

Tông đồ Phi-líp-phê ngỏ lời xin Đức Giê-su: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện” (c. 8). Kết thúc bài Tin Mừng, Đức Giê-su nói: “Nếu anh em nhân danh Thầy mà xin Thầy điều gì, thì chính Thầy sẽ làm điều đó” (c. 14). Xin cho chúng ta biết xin điều tông đồ Phi-líp-phê đã xin. Và như Đức Giê-su đã nói, chắc chắn Ngài sẽ ban cho chúng ta, và ban cho chúng ta cách dư tràn mỗi ngày ngang Lời và Mình Thánh của Ngài; bởi vì Ngài và Thiên Chúa là một. Kinh nghiệm “thấy” Chúa Cha nơi Chúa Giê-su chỉ có thể là một kinh nghiệm đích thân; và vì thế, không thể chứng minh, và không thể thay thế bằng những suy tư khúc chiết hay những kiến thức lịch sử chính xác. Chúng ta chỉ có thể “đến mà xem”, “đến học với Ngài”, tin và đón nhận tình yêu đến cùng Ngài dành cho chúng ta:

Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha
và Chúa Cha ở trong Thầy;
bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm. 
(c. 11)

Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây