Thứ Ba tuần 2 thường niên.

Thứ hai - 18/01/2021 07:25

Thứ Ba tuần 2 thường niên.

"Ngày Sabbat làm ra vì loài người, chứ không phải loài người vì ngày Sabbat".

 

LỜI CHÚA: Mc 2, 23-28

Vào một ngày Sabbat, Chúa Giêsu đi qua đồng lúa, môn đệ Người vừa đi vừa bứt lúa. Tức thì những người biệt phái thưa Người rằng: "Kìa Thầy xem. Tại sao ngày Sabbat người ta làm điều không được phép như vậy?"

Người trả lời rằng: "Các ông chưa bao giờ đọc thấy điều mà Ðavít đã làm khi ngài và các cận vệ phải túng cực và bị đói ư? Người đã vào nhà Chúa thời thượng tế Abiata thế nào, và đã ăn bánh dâng trên bàn thờ mà chỉ mình thượng tế được ăn, và đã cho cả các cận vệ cùng ăn thế nào?"

Và Người bảo họ rằng: "Ngày Sabbat làm ra vì loài người, chứ không phải loài người vì ngày Sabbat; cho nên Con Người cũng làm chủ cả ngày Sabbat".

 

 

Suy Niệm 1: Con Người làm chủ ngày sabát

Suy niệm:

Các kitô hữu gốc Do Thái của Giáo Hội sơ khai

thường bị chê trách vì đã lơ là trễ nải trong việc giữ ngày sabát.

Giữ ngày sabát là điều hết sức quan trọng đối với người theo Do Thái giáo

Ai vi phạm ngày này có thể bị xử tử (Xh 31, 14), bị ném đá (Ds 15, 32-36).

Qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu hẳn đã soi sáng cho vấn đề này.

Câu chuyện xảy ra vào một ngày sabát.

Khi thầy trò băng qua đồng lúa, các môn đệ đã bứt các bông lúa.

Và hẳn họ đã vò lúa trong tay trước khi có thể ăn hạt bên trong.

Theo sách Đệ nhị luật (23, 26) thì hành động này được phép làm:

“Khi vào đồng lúa của người đồng loại, anh em có thể lấy tay bứt bông lúa.”

Nhưng theo các kinh sư, điều này bị cấm làm trong ngày sabát,

lý do là vì bứt lúa và vò trong tay cũng giống với hành vi gặt và xay lúa,

mà gặt và xay lúa là một trong ba mươi chín việc không được phép làm ngày sabát.

Từ đó người Pharisêu kết luận việc các môn đệ bứt lúa là phạm đến luật Môsê.

Ngày nay chúng ta có thể buồn cười về chuyện này,

nhưng nó nói lên việc các kinh sư vì sợ người ta phạm luật

nên sau này đã thêm thắt những quy định tỉ mỉ chi li.

Đức Giêsu đã trả lời người Pharisêu bằng đức cách trưng dẫn chuyện vua Đavít.

Trong truyền thống Do Thái, vua này thường được coi là đạo đức mẫu mực.

Đavít đã làm điều không được phép làm, đó là ăn bánh tiến (x. 1 Sm 21, 1-6).

Bánh này gồm mười hai ổ lớn được đặt trước nhà tạm (x. Lv 24, 5-9).

Vào mỗi ngày sabát, bánh mới được thay, bánh cũ chỉ dành cho các tư tế.

Khi kể câu chuyện về vua Đavít, Đức Giêsu muốn cho thấy rằng

nếu Đavít và các thuộc hạ có thể được miễn giữ luật liên quan đến bánh thánh

thì Đức Giêsu và các môn đệ trong trường hợp nào đó

cũng có thể được miễn giữ ngày sabát thánh (x. 1 Mac 2, 34-38).

Theo Đức Giêsu, ngày sabát được tạo cho loài người, chứ không phải ngược lại.

Người Pharisêu có lẽ đã quên đi mục đích của việc giữ luật ngày sabát.

Thiên Chúa lập nên ngày sabát để loài người có thời gian nghỉ ngơi

hầu nhớ đến công trình tạo dựng và giải phóng của Ngài (Đnl 5, 14-15).

Ngày sabát đúng là ngày của Chúa, dành cho Chúa,

nhưng nó cũng là ngày cho loài người sau sáu ngày làm việc vất vả.

Ngày nay chúng ta không còn giữ ngày sabát nữa,

nhưng giữ ngày Chúa Nhật, ngày của Chúa.

Cám ơn vị nào đã lần đầu tiên dùng từ này để chỉ ngày đầu tiên của tuần.

Trong thế giới quá cạnh tranh hiện nay, chúng ta cần được nhắc nhở

về chuyện nghỉ ngơi để sống cho mình, cho nhau, cho Chúa.

Ngày Chúa Nhật là thời gian tuyệt vời đề sống cả ba chiều kích ấy.

 

Cầu nguyện:

Ngày lại ngày, lạy Thiên Chúa,

tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan,

hai tay cung kính, lạy Thiên Chúa muôn loài,

tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan.

Dưới bầu trời bao la,

trong cô đơn và thầm lặng,

với tấm lòng thanh tịnh,

tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan.

Trong thế giới ồn ào vì nhọc nhằn,

huyên náo vì đấu tranh,

giữa đám đông hối hả lăng xăng,

tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan.

Và khi đã hoàn tất việc đời,

lạy Thiên Chúa muôn loài,

một mình, lặng lẽ,

tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan. Amen.

(R. Tagore - Ðỗ Khánh Hoan dịch)

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

Suy Niệm 2: THIÊN CHÚA CỦA NIỀM HI VỌNG

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Đời sống con người nhiều khi bế tắc. Thân phận yếu kém. Hoàn cảnh khắc nghiệt. Lãnh đạo thiển cận, hẹp hòi và chuyên quyền. Nhưng thánh Phao-lô khuyên ta nên kiên trì giữ vừng niềm tin, vì Thiên Chúa chính là hi vọng.

Thiên Chúa là hi vọng vì Người trung tín. Lời thề hứa của Thiên Chúa là bất di bất dịch. Vì nếu mọi người phải mượn danh Chúa mà thề vì danh Chúa chí thánh là nền tảng vững chắc. Đằng này chính Thiên Chúa thề hứa thì không thể sai chạy. Điều đó chứng tỏ qua cuộc tuyển chọn Áp-ra-ham (năm lẻ) và Đa-vít (năm chẵn). Và càng chứng tỏ hơn nữa qua việc thực hiện lời thề hứa với các ngài. Giữ lời hứa cho Áp-ra-ham một giòng dõi đông đúc ông đã cao tuổi mà vẫn chưa có con. Giữ lời hứa trung tín với nhà Đa-vít nên đã cho Ngôi Lời sinh trong dòng họ này.

Thiên Chúa là hi vọng vì Người luôn quan tâm và khai thông những bế tắc. Con người sai lầm. Lịch sử bất ổn. Hoàn cảnh khó khăn. Nhưng Thiên Chúa luôn biết cách đổi mới. Khi con người lỗi phạm, Thiên Chúa đã tuyển chọn Áp-ra-ham lập nên một giòng dõi mới. Khi Sa-un đi chệch đường, Thiên Chúa tuyển chọn Đa-vít lập triều đại mới. Và khi Cựu Ước chấm dứt Thiên Chúa sai Con Một xuống lập giao ước mới. Khai mạc triều đại mới. Thiên Chúa luôn mở ra những chân trời mới. Khai thông bế tắc. Đem lại hi vọng lớn lao.

Thiên Chúa là hi vọng vì Người làm chủ vũ trụ. Người có toàn quyền trên muôn vật muôn loài. Làm chủ vũ trụ. Làm chủ vận mạng con người. Làm chủ lề luật. Người tự do và làm cho ta tự do. Người giải thoát ta khỏi mọi ràng buộc. Không bị ràng buộc vào diện mạo bên ngoài. Không phải tuân theo thứ tự trước sau. Người chọn Đa-vít là con út và là người có vóc dáng nhỏ bé. Người chọn Áp-ra-ham là người cao niên mà chưa có con. Lề luật vốn để phục vụ con người. Khi lề luật trở nên gánh nặng, nên gông cùm trói buộc, Người đã giải thoát con người. Vì Người làm chủ lề luật. Chính vì thế Người đem lại niềm hi vọng cho con người.

Khi chưa thấy lời hứa thực hiện ta cũng vẫn tín thác vì Chúa luôn trung tín. Khi ta gặp bế tắc tưởng chừng không lối thoát ta vẫn an tâm vì Chúa luôn quan tâm sẽ khai thông mọi bế tắc. Khi ta bị vây kín trong vòng giam hãm của lề luật ta vẫn tự do vì Chúa làm chủ lề luật sẽ giải thoát ta.

 

Suy Niệm 3: Linh hồn của Lề Luật

Nói về luật pháp của con người, triết gia Schopenhauer đã ví von như sau: "Luật pháp cũng giống như một mạng nhện, những con ong gấu thì vượt qua một cách dễ dàng, những thứ ruồi nhặng thì kẹt lại". Ðây là một sự thật đau lòng mà chúng ta chứng kiến mỗi ngày trên khắp thế giới: những con ong gấu, tức những người làm ra luật, những kẻ có quyền thế trong tay, thường chiu qua những kẽ hở của luật pháp một cách dễ dàng; thế lực của đồng tiền, vây cánh, ô dù, giúp họ luôn đứng trên luật pháp mà chính họ lập ra.

Vào thời Chúa Giêsu không có chuyện ô dù, nhưng có một hạng người tự cho mình có quyền lập ra luật, bắt người khác giữ luật, còn mình thì không muốn lay thử một ngón tay. Tin Mừng hôm nay là khởi đầu của một cuộc đối đầu triền miên giữa Chúa và hạng người này, tức là nhóm Biệt phái về vấn đề luật pháp. Chúa Giêsu không phải là một người vô kỷ luật. Ngài sinh ra khi cha mẹ Ngài tuân theo lệnh kiểm tra dân số do Hoàng đế La mã ban hành; sau này Ngài vẫn đóng thuế như bất cứ một công dân của Ðế quốc nào. Trong lãnh vực tôn giáo Ngài tuân giữ lề luật của Môsê. Ngài cũng chịu cắt bì, được hiến dâng trong Ðền thờ vì là con trai đầu lòng, hằng năm lên Yêrusalem để mừng lễ, mỗi ngày hưu lễ Ngài cũng đến Hội đường.

Tuy nhiên, như Chúa Giêsu đã có lần tuyên bố Ngài đến là để kiện toàn lề luật, và kiện toàn lề luật là gì nếu không phải là mặc cho nó linh hồn là tình yêu; không có tình yêu thì lề luật chỉ là những thây chết, nhưng nói đến tình yêu là nói đến con người. Như vậy luật lệ là vì con người, là để giúp con người sống chứ không phải để đàn áp và giết chết con người; luật lệ chỉ có ý nghĩa và giá trị khi nó là một biểu lộ của tôn trọng và yêu thương đối với con người; trái lại, tất cả những luật lệ nào đi ngược lại với sự sống và tình yêu, đều là những luật lệ bất công. Trong Thông điệp "Tin Mừng Sự Sống" ban hành năm 1995, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã kêu gọi các tín hữu mạnh mẽ và can đảm chống lại những thứ luật lệ xúc phạm đến chính sự sống của con người, như luật cho phép phá thai, luật cho phép kết liễu cuộc sống của bệnh nhân.

Là một xã hội, Giáo Hội cũng ban hành luật lệ. Tất cả lề luật của Giáo Hội được tóm gọn trong một giới luật duy nhất và nền tảng, đó là yêu thương. Ăn chay, giữ ngày Chúa nhật hoặc bao nhiêu khoản luật khác liên quan đến đời sống hôn nhân, tất cả đều qui về một luật duy nhất là để giúp các tín hữu sống tôn trọng và yêu thương con người. Như thế, người Kitô hữu chỉ có một giới răn để tuân giữ, đó là giới răn yêu thương, và họ cũng chỉ có một tinh thần duy nhất để tuân giữ lề luật, đó là tình yêu thương.

Nguyện xin Chúa hướng dẫn để chúng ta luôn sống đạo theo tinh thần yêu thương ấy.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 4: Thiên Chúa phục vụ con người

Vào ngày sa bát Đức Giêsu đi băng qua một cánh đồng lúa. Các môn đệ Người bắt đầu bứt lúa trong khi đi đường. Nhưng người Pha-ri-sêu liền nói với Đức Giêsu: “Ông coi ngày sa bát mà họ làm gì kia? Điều ấy đâu được phép!”

Đức Giêsu nói: “Ngày sa bát được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày sa bát. Bởi đó con người làm chủ luôn ngày sa bát. (Mc. 2, 23-24. 27-28)

Điều khiến ta ngạc nhiên nhất khi đọc trích đoạn Phúc âm này không phải là việc Chúa Giêsu đặt mình ở trên luật về ngày sa-bát hay là muốn cho truyền thống mang một sắc thái khác, mà đúng hơn là việc Người tỏ cho ta biết rằng ngày sa-bát được làm ra vì con người.

Ngày sa-bát, ngày của Thiên Chúa

Khi viết tường thuật về việc Chúa tạo dựng trời đất muôn vật, các tác giả theo truyền thống tư tế đã xếp đặt cho công việc tạo dựng này được hoàn tất trong sáu ngày, còn ngày thứ bảy Chúa nghỉ ngơi: đó là ngàyThiên Chúa dành cho chính mình. Vì thế, “ngày-của-chúa” đó, dân chúng phải sống và làm việc vì Chúa, cho Chúa, và ngày đó vì thế đã trở thành ngày dành cho việc phụng thờ.Cho nên các linh mục là những người phải lo viêc Đền thờ, có giảng giải và nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc giữ ngày chúa nhật như kiêng việc xác, đi lễ đọc kinh, làm việc đạo đức và từ thiện….thì cũng là điều dễ hiểu và bình thường thôi.

Vậy mà Chúa Giêsu lại nói: “Cái ngày mà anh em coi như thuộc về Thiên Chúa, ngày ấy lại được làm ra vì anh em”. Có nghía là cả Ba Ngôi Thiên Chúa đã hướng cuộc sống, sự hiện hữu của mình vì con người.

Một Thiên Chúa phục vụ

Thiên Chúa phục vụ con người, đây không phải là một mạc khải mới mẻ. Tất cả lịch sử của dân được tuyển chọn đều kể lại cho ta hay Đức Giavê đã sẵn sàng phục vụ như thế nào: đem họ ra khỏi Ai cập, đưa họ từ chốn lưu đầy trở về, lập vương quốc cho Đavít… Cả khi họ hối lỗi trở về, thì Chúa vẫn sẵn sàng thứ tha. Vừa thoáng có dấu hiệu của sự hối cải, trở về là Chúa hoan hỉ, và quên đi ngay những đe dọa trừng phạt.

Và đấy chính là điều Chúa muốn khẳng dịnh lại khi nói rằng ngày sa-bát được làm ra vì con người. Tất cả những gì liên quan tới Chúa, thì Người đã ràng buộc nó vào vận mệnh của chúng ta. Thiên Chúa đã hạ mình phục vụ ta, để ta cũng theo gương Người mà phục người khác như vậy.

Mạc khải này đưa chúng ta đến câu hỏi sau đây: Ta có đi đúng đường khi giữ cũng như bảo người khác giữ ngày của Chúa? Phải chăng ta chỉ nhắc lại suông bằng lời mà không thực hành bằng việc, mạc khải Chúa đã tỏ cho ta là Thiên Chúa phục vụ con người? Phục vụ tha nhân, há chẳng phải là nét cao cả, là điểm nổi bật trong đời sống Kitô hữu, và là con dường hay nhất giúp ta đến và sống với tha nhân sao?

Thiên Chúa phục vụ! Thiên-Chúa-vì-con-người!

Ai đón nhận Tin Mừng này sẽ không còn phải sợ mình không thuộc về Chúa vậy.

 

Suy Niệm 5: TRẢ LẠI CHO LUẬT Ý NGHĨA CỦA NÓ! (Mc 2, 23-28)

Luật ngày Sabát chính là luật quan trọng của người Do thái. Tuy nhiên, vì luật này, mà đã biết bao nhiêu lần giữa Đức Giêsu và người Pharisêu xảy ra tranh cãi, bởi lẽ với Đức Giêsu thì coi luật vì con người, còn với kẻ chống đối Ngài thì cho rằng con người nên công chính vì luật.

Thật vậy, Đức Giêsu không phải là người đến để bãi bỏ lề luật, Ngài đến để kiện toàn. Tuy nhiên, Ngài nhìn và coi luật là thứ yếu, nó chỉ nắm vai trò phục vụ con người, vì vậy, nó không phải là tất cả và mang tính sống còn! Nếu luật đưa ra mà không làm cho con người có giá trị nhân linh trước mặt Chúa và sống tốt với nhau hơn hay không đem lại bình an, hạnh phúc cho người thi hành thì luật đó phải được thay thế.

Việc trung thành giữ luật ngày Sabát mà khiến lòng con người ra trai cứng, dửng dưng trước sự đói khát, khổ sở, hay ốm đau, chết chóc thì hoàn toàn không phù hợp với tinh thần cũng như mục đích nguyên thủy của luật. Không thể hoàn toàn dựa trên luật để đánh giá đồng đều lòng đạo đức của mọi người. Cần phải áp dụng theo từng người, trong những hoàn cảnh nhất định. Vì thế: “Ngày Sabát được tạo ra vì con người, chứ không phải con người cho ngày Sabat” (Mc 2, 27).

Ngày nay, qua lối thực hành đạo của chúng ta, vẫn còn đó những người luôn coi việc giữ luật cách nghiêm ngặt, cứng ngắc là điều nên làm và họ luôn coi đây là chuẩn mực để được coi là đạo đức! Tuy nhiên, khi trở về với những lời giáo huấn và tinh thần của Đức Giêsu, nhất là những việc Ngài làm, thì hẳn chúng ta phải xem lại!

Liệu rằng khi chúng ta làm việc thiện rồi để khoe khoang; hay là nhân danh đạo đức để xử sự bất nhân với anh chị em mình; hoặc tự cho mình là người giữ luật cách trung thành, nhưng lại coi thường, khinh bỉ hay luôn cho mình là người mẫu lý tưởng bắt mọi người phải quy phục thì liệu có phù hợp với giáo huấn của Chúa và cốt lõi của Luật không??? Hay chúng ta đang bị chất tố Pharisêu chỉ đạo lối nhìn và quan điểm để rồi mình trở thành bản sao của nhóm người giả hình thời hiện đại?

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho mỗi người chúng con biết giữ luật vì lòng mến; đồng thời luôn biết yêu thương anh chị em mình bằng một tình yêu chân thành, thiết thực dựa trên đức ái. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 6: Cốt lõi của Lề Luật chính là tình yêu

Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ

Câu chuyện

Một cha xứ mới được bổ nhiệm đến một nhà thờ ở tiểu bang Kentucky, không mấy xa trường đua Churchill Downs nổi tiếng. Vào ngày Chúa nhật đầu tiên, cha xứ mới đã giảng về cái xấu của cờ bạc, đánh cá độ và những tai họa do cờ bạc gây nên cho một số gia đình. Sau thánh lễ, ông chủ tịch hội đồng Gx liền đến bên cha tân chánh xứ và bảo rằng, những người dâng cúng cho nhà thờ đa số là những người đua cá ngựa và cờ bạc…

Vào Chúa nhật thứ hai kế tiếp, cha xứ giảng về nạn hút thuốc và những tai họa do hút thuốc gây nên, như bị ung thư phổi và chết sớm... Cũng như lần trước, ông chủ tịch lại kéo cha xứ riêng ra và bảo rằng đa số những người dâng cúng rộng rãi cho nhà thờ là những người trồng cây thuốc lá và tiểu bang Kentucky là nổi tiếng nghề này.

Vào Chúa nhật thứ ba kế tiếp, cha xứ giảng về nạn uống rượu bia và tai họa do rượu bia gây nên cho các gia đình, như gây tai nạn xe cộ và đập phá nhà cửa. Cũng như lần trước, ông chủ tịch lại kéo cha xứ lại và bảo rằng, đa số những người dâng cúng rộng rãi cho nhà thờ là những nhà nấu rượu và tiểu bang Kentucky nổi tiếng về công việc này.

Cha xứ thất vọng mới hỏi lại ông chủ tịch rằng: “Vậy tôi có thể giảng về vấn đề gì ?”. Ông chủ tịch liền trả lời: “Hãy giảng chống lại các nhà chính trị lừa đảo, mà trong Gx chúng ta không có những hạng người này”.

Giữ đạo hình thức, theo cách suy diễn của cá nhân bỏ lề luật Chúa để giữ những điều con người tự coi là đúng… Chúa Giêsu đã nói với những người biệt phái về cách sống đạo hình thức ấy như sau: “Các ông gạt bỏ giới răn của Thiên Chúa qua một bên, mà duy trì truyền thống của người phàm” (Mc 7,8).

Suy niệm

Ngày Sabát là ngày của Chúa, dành cho Chúa, để nhớ đến công trình tạo dựng và giải phóng của Ngài. Nhưng cũng là ngày nghỉ ngơi của con người sau sáu ngày làm việc vất vả (Đnl 5,14 -15).

Đối với người Do Thái, việc giữ ngày Sabát cách tỉ mỉ chu đáo là nói lên tầm quan trọng của đời sống trong Giao Ước với Thiên Chúa… Theo quan điểm của người pharisiêu thì luật giữ ngày Sabát là Luật Môisê, cũng là Luật của Thiên Chúa. Và người công chính phải tuân giữ Lề Luật một cách chi tiết. Do đó, khi thấy Đức Giêsu chữa bệnh trong ngày Sabát, họ bàn thảo với nhau: “Ông ta không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày Sabát” (Ga 9,16). Họ quan niệm: Nếu Đức Giêsu là người của Thiên Chúa thì tất nhiên Ngài phải giữ Luật Môisê. Quan điểm của họ quả hết sức hợp lý vì được xây dựng trên rất nhiều đoạn Kinh Thánh khuyên người ta phải giữ Luật (x. Đnl 27,26; 30,10; Gs 22,5; 23,6; 1V 2,3…).

Đức Giêsu đến để kiện toàn Lề Luật (x. Mt 5,17). Ngài công bố Lề Luật mới xây dựng trên tình yêu. Con người phải nên thánh thiện như Cha trên trời (x. Mt 5,48) - Thiên Chúa là tình yêu, ai sống trong tình yêu thì thuộc về Thiên Chúa (x. 1Ga 4,16) và nên thánh thiện. Trong bài diễn văn chung luận về ngày sau hết, Chúa Giêsu sẽ không dùng Lề Luật để phán xét con người mà chỉ hỏi con người có yêu thương tha nhân hay không mà thôi. Cho nên, giữ Luật của Thiên Chúa với những đòi hỏi của tình yêu hay đức ái, giữ luật vì Luật và Luật với bác ái phải ưu tiên tuân theo luật của đức ái. Đức Giêsu đưa ra trường hợp rất cụ thể khi chữa bệnh cho một người phụ nữ bị quỷ ám: “Còn bà này, là con cháu ông Abraham, bị Satan trói buộc đã mười tám năm nay, thì chẳng lẽ lại không được cởi xiềng xích đó trong ngày Sabát sao ?” (x. Lc 13,10-17). Vì thế, vào ngày Sabát, tình yêu hay đức ái tỏ hiện khi Ngài chữa bệnh cho người phụ nữ bị bệnh 18 năm. Ngoài ra, Đức Giêsu chữa người bị bại tay (x. Mt 12,9-14; Mc 3,1-6; Lc 6,6-11); chữa người mắc bệnh phù thũng (Lc 14,1-6); chữa một người đau ốm ở hồ nước tại Bếtdatha (Ga 5,1-18); chữa một người mù từ thuở mới sinh (Ga 9,1-41), tất cả đều được làm vào ngày Sabát…

Dựa trên luật đức ái mà Chúa Giêsu giảng dạy, sau này thánh Phaolô đã quả quyết: “Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật” (Rm 13,8); “Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Kitô” (Gl 6,2). Thánh Giacôbê thì cho đức bác ái là luật cao nhất của Kinh Thánh: “Luật Kinh Thánh đưa lên hàng đầu: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Gc 2,8).

Cốt lõi của Lề Luật chính là tình yêu. Chúng ta được gọi nhìn lại cách sống đạo: Tuân giữ Lề Luật với tinh thần của Lề Luật - yêu thương, sống yêu thương là chu toàn Lề Luật.

Ý lực sống: “Không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13,3).

 

Suy Niệm 7: Tranh luận về ngày hưu lễ

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Chúa Giêsu đi ngang đồng lúa với các môn đệ. Các ông đói nên bứt lúa ăn. Nhóm biệt phái thấy vậy thì trách các ông làm việc cấm trong ngày hưu lễ. Chúa hỏi họ: Các ông có biết vua Đavít và bạn hữu vua làm gì khi đói không ? Vua đã vào đền thờ lấy bánh ăn, thứ bánh mà không ai được ăn chỉ trừ các tư tế. Ngày hưu lễ được lập ra vì loài người, chớ không phải loài người được dựng nên vì ngày hưu lễ. Và chính tôi là chủ của ngày hưu lễ. Tôi có quyền trên ngày hưu lễ.

2. Để hiểu luật nghỉ làm việc trong ngày hưu lễ (Sabat) được ghi trong Xh 20,8-11), Linh mục Carolô đã giải thích như sau: Nhóm biệt phái chỉ để ý đến mặt chữ, cho nên họ suy nghĩ nông cạn rằng nghỉ là nghỉ. Thậm chí họ còn đưa thêm đến 39 việc không được làm trong ngày sabat, trong đó có việc mót lúa và bứt vài bông lúa. Bởi đó họ phản đối Chúa Giêsu về việc làm của các môn đệ Ngài.

Còn Chúa Giêsu thì để ý đến tinh thần của khoản luật ấy, tức là nhằm phục vụ con người. Ngày xưa khi còn ở bên Ai cập, dân Do thái phải làm nô lệ cực nhọc. Bởi đó khi họ ra khỏi Ai cập, Maisen đã ra luật nghỉ ngày Sabat, trước hết là nhằm phục vụ cho chính những người Do thái: họ phải được một ngày nghỉ ngơi; kế đến là vì quan tâm tới những người tôi tớ và nô lệ: trong ngày đó những người chủ Do thái phải để cho các tôi tớ và nô lệ được nghỉ ngơi, đừng tái phạm điều mà người Ai cập trước kia đã phạm đối với họ.

Theo tinh thần ấy,Chúa Giêsu dám tuyên bố 2 câu “nảy lửa”: a/ Ngày Sabbat được lập ra vì con người chứ không phải con người được tạo nên vì ngày sabbat; b/ Con người (tức là Chúa Giêsu) là chủ của ngày sabbat.

3. Khi muốn hình thành dân Israel, Chúa đã ban cho họ một bộ luật gồm 10 điều răn, nhưng rồi với thời gian, cùng với sự tiép xúc với các nên văn hóa chung quanh, người Do thái đã từ từ hình thành một bộ luật rất chi tiết. Bộ sách Luật ấy người Do thái gọi là Torah. Sách gồm 5 quyển, dầy 250 trang, chứa 613 khoản luật, chia ra 365 khoản cấm và 248 khoản buộc.

Ngoài bộ luật chính ra, còn rất nhiều khoản khác được thêm vào. Đây không phải là luật mà là những tập tục được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Các tập tục này được truyền lại cho những thế hệ mai sau. Và sau cùng thì người chép lại và đóng lại thành tập gọi là Talmud. Talmud là bộ sách giải thích Luật của Do thái giáo. Bộ sách này được chia thành 2 loại: một là Mishna và hai là Gemara. Bộ sách này có tới 523 quyển (Wim Barclay).

4. Nguyên nhân cuộc xung đột này chỉ là việc các môn đệ ngắt mấy bông lúa khi đi qua cánh đồng lúa. Một sự việc tầm thường không đáng kể.  Luật chỉ cấm gặt và trục lúa thôi, nhưng ở đây các người biệt phái coi đó như việc gặt hái, là một trong những việc cấm trong ngày sabat. Sở dĩ người biệt phái xét nét khắt khe như vậy là cái tính ghen tương nghi ngờ, cái thói hay vạch lá tìm sâu, bới lông tìm vết của người biệt phái, đã gây nên cớ xung đột giữa họ với Chúa Giêsu về việc kiêng việc xác ngày sabat. Tính ghen tương hay soi mói và nghi ngờ thường xẩy ra những xung đột, cãi vã, và chia rẽ nhau trong đời sống cộng đoàn và xã hội.

Chúa Giêsu lưu ý chúng ta phải hiểu biết ý nghĩa và mục đích của lề luật. Tất cả mọi khoản luật của Giáo hội cũng như trong cộng đoàn đều nhằm giúp ta thêm mến Chúa yêu người.  Giữ những luật đó mà lòng không mến Chúa và yêu người thì vô ích. Dựa vào những khoản luật đó để làm khổ người khác là phản lại luật.

Maurice Zundel trong quyển “Sự hiện diện khiêm hạ” có viết: ”Việc gặp gỡ Thiên Chúa chỉ có thể thực hiện nếu có tình thân với con người, tình thân ấy sẽ biến thành tình trong suốt. Hình thức mục vụ duy nhất có giá trị là biết cảm xúc trước giá trị con người. Chỉ kẻ biết tôn trọng con người mới làm chứng được cho Thiên Chúa”.

5. Truyện: Luật là để yêu thương.

Một người thợ xây đang ở trên giàn ráo cao thì bị xẩy chân rớt xuống, chẳng may trúng phải một người đang đi bộ ngang qua phía dưới. Điều oái oăm là anh thợ chỉ bị xây xát qua loa, còn người khách bộ hành thì bị chấn thương nặng, hôn mê rồi chết khi người ta đưa vào bệnh viện.

Chiếu theo luật “Mắt đền mắt, răng đền răng” của miền này, gia đình nạn nhân đưa nội vụ ra tòa đòi anh thợ xây phải đền mạng. Vị quan tòa từ lâu đã thấy cái vô lý trong bộ luật địa phương, nhưng truyền thống và hủ tục xưa rất khó thay đổi. Cuối cùng, để cứu người thợ xây oan ức, ông tuyên bố:

- Việc gia đình nạn nhân đòi mạng người thợ xây theo truyền thống là chính đáng, nhưng tôi thấy phải nói rõ. Nếu anh ta đã giết người nhà của các ông bằng cách nào, thì các ông cũng phải  giết anh ta bằng cách đó, nghĩa là một người trong gia đình các ông phải trèo lên giàn ráo, nhảy xuống đúng vào đầu anh thợ xây lúc anh đang đi ở phía dưới.

Nghe tòa phân xử, bên gia đình kiện cáo bèn vội vàng xin bãi nại. Anh thợ xây được tha bổng. Sau đó, nhận thức được sự tàn nhẫn phi lý và mù quáng của bộ luật địa phương mình, dân chúng trong vùng quyết định loại bỏ hẳn tính cách “mắt đền mắt, răng đền răng” trong quan hệ xử thế giữa con người với nhau.



 

 SUY NIỆM

1. Vi phạm lề luật

Đi băng qua cánh đồng lúa, các môn đệ đói bụng và bứt lúa ăn. Thánh Mác-cô không nói rõ lí do : « Dọc đường các môn đệ bứt lúa » (c. 23); nhưng chúng ta có thể đoán ra vì lý do « đói bụng », khi dựa vào lời giải thích của Đức Giê-su :

Các ông chưa bao giờ đọc trong Sách sao?
Ông Đa-vít đã làm gì, khi ông và thuộc hạ
bị thiếu thốn và đói bụng? 
(c. 25)

Các Tin Mừng khác, thì nói rõ lí do « vì đói bụng » (Mt 12, 1-8 ; Lc 6-1-5). Thấy vậy, những người Pha-ri-sêu chất vấn Đức Giê-su:

Ông coi, ngày Sa-bát mà họ làm gì kia?
Điều ấy đâu được phép! 
(c. 24)

Trước hết, chúng ta ta cần cảm thương Đức Giê-su, vì trò phạm lỗi, nhưng người ta lại đi chất vấn Thầy, vì Thầy phải chịu trách nhiệm. Sau này, Đức Giê-su sẽ nhận vào mình tất cả mọi tội lỗi, nhân danh Lề Luật, không chỉ của các môn đệ, nhưng là của cả loài người chúng ta.

Xét về luật, những người Pha-ri-sêu thật có lý để lên án các môn đệ, vì, để ăn hạt lúa, họ phải « gặt và xay » cây lúa. Như thế, họ đã phạm luật cấm lao động trong ngày Sa-bát! Tuy nhiên, lỗi này là chuyện nhỏ, không nghiêm trọng gì mấy; có lẽ Đức Giê-su chỉ cần nhắc nhở các môn đệ là xong chuyện. Nhưng có điều gì đó thật nghiêm trọng và không hề là chuyện nhỏ; Đức Giê-su sẽ mặc khải cho chúng ta điều này.

 2. Dò xét và tố cáo.

Thật vậy, chúng ta có thể tự hỏi : làm sao, ở ngoài đồng bao la như thế, những người Pha-ri-sêu lại biết được việc này, nhất là việc này thường được làm trong sự dè dặt và kín đáo ? Chắc chắn họ đã phải âm thầm đi theo, rình mò, theo dõi và quan sát thật kĩ nhóm của Đức Giê-su, và tin chắc rằng họ sẽ vi phạm lề luật ! Hành động này hàm chứa thái độ không tin tưởng, thậm chí thái độ lên án, và chỉ cần chờ dịp thôi. Và, như chúng ta thấy, khi không có dịp, chính họ sẽ tạo ra dịp để Đức Giê-su và các môn đệ phạm luật ; các Tin Mừng gọi hành động này là thử hay giăng bẫy. Thế mà, hành động này là hành động đặc trưng của sự dữ, của ma quỉ (x. Sách ông Gióp; Kh 12, 10). Đó là hành động thuộc về sự dữ, thậm chí đặc trưng của sự dữ, nhưng hành động này lại không phải là hiếm thấy trong cuộc sống của chúng ta, và có khi chính người hành động như thế, không nhận ra mình đang bị sự dữ chi phối, đang tự biến mình thành tay sai của sự dữ (x. Lc 18, 11).

Hơn nữa, và điều này còn nghiêm trọng hơn, ngày Sa-bát là ngày được lập ra để tưởng nhớ ơn huệ sự sống được cứu khỏi sự chết của cả một dân tộc trong biến cố Xuất Hành, bởi lòng thương xót của Thiên Chúa (x. Đnl 5, 12.15). Nhưng trong thực tế, ngày Sa-bát đã biến thành một bộ luật phức tạp bao gồm những quy định chi li, dùng để dò xét và lên án. Ngày Sa-bát là ngày được lập ra để tưởng nhớ sự sống, nhưng đã biến thành phương tiện để lên án và giết chết chính Đấng Ban Sự Sống, là Đức Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời Thiên Chúa. Điều này sẽ được khởi động rất sớm : « Ra khỏi đó, nhóm Pha-ri-sêu lập tức bàn tính với phe Hê-rô-đê, để tìm cách giết Đức Giê-su » (đó là nội dung của bài Tin Mừng ngày mai : Mc 3, 1-6). Và mưu đồ này sẽ đi đến cùng trong cuộc thương khó, khi người ta nhân danh Lề Luật để giết Đấng Vô Tội tuyệt đối.

 3. Sự sống và lề luật

Như các môn đệ, không ai trong chúng ta không vi phạm luật; và như những người Pha-ri-sêu, không ai trong chúng ta tránh được sức mạnh của Sự Dữ thúc đẩy chúng ta dùng lề luật để dò xét và tố cáo bản thân mình và người khác. Vậy, Thánh Phao-lô nói: « Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta! » (Rm 7, 24-25)

Thật vậy, Đức Giê-su đã đứng về phía các môn đệ, những « bị cáo », và qua các môn đệ, Ngài đứng về phía chúng ta. Ngài biện minh cho họ bằng những lời mạc khải có tầm mức hết sức rộng lớn. Trước hết, Ngài dựa vào Lời Chúa trong Sách Thánh. Trong sách Samuen quyển 1, chương 21, kể lại chuyện vua Đa-vít và những người tùy tùng của ông, lúc đói đã vào nhà Thiên Chúa ăn bánh dùng để dâng tiến, thứ bánh chỉ có tư tế mới được ăn.

Khi nêu ra một biến cố lịch sử, được kể lại trong Sách Thánh, Đức Giê-su muốn nói cho người Pha-ri-sêu, và qua họ, cho chúng ta về chính khuôn mặt đích thật của Thiên Chúa :

  • Sự sống ưu tiên hơn lề luật. Vì Thiên Chúa thông truyền sự sống, nghĩa là ban ơn, trước khi ban lề luật (x. St 2-3). Và xét cho cùng, mọi lề luật được đặt ra để phục vụ cho sự sống. Sự sống chính là cùng đích của lề luật.
  • Luật đúng là thánh, như thánh Phao-lô nói trong thư Roma (Rm 7). Nhưng ngôi vị cũng là thánh, vì vốn được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa. Vì thế, trong hành vi phạm luật, phải chú ý đến hoàn cảnh, quá khứ, giáo dục, môi trường, những vấn đề và vết thương của nội tâm… Như Đức Chúa nói với ngôn sứ Samuen: « Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn ĐỨC CHÚA thì thấy tận đáy lòng » (1Sm 16, 1)
  • Con Người, nguồn sự sống, là chủ ngày Sa-bát. Mặc khải này của Đức Giê-su phải làm cho chúng ta tin tưởng và bình an, vì Đấng ban luật cũng là Đấng thương xót, bao dung, không lên án, nhưng cứu vớt. Không phải Chúa bao che chúng ta, không đòi hỏi và để mặc chúng ta lạm dụng lòng thương xót, nhưng đó là vì chỉ có lòng thương xót mới có sức mạnh biến đổi và chữa lành tận căn con tim của chúng ta, chứ không phải hành xử theo luật, xử phạt và kết án theo Luật.

Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
 

Con Người là Chủ ngày Sabbat – SN song ngữ 19.01.2021

Tuesday (January 19): “The Son of man is Lord of the Sabbath”

 

ScriptureMark 2:23-28

23 One Sabbath he was going through the grain fields; and as they made their way his disciples began to pluck heads of grain. 24 And the Pharisees said to him, “Look, why are they doing what is not lawful on the Sabbath?” 25 And he said to them, “Have you never read what David did, when he was in need and was hungry, he and those who were with him: 26 how he entered the house of God, when Abiathar was high priest, and ate the bread of the Presence, which it is not lawful for any but the priests to eat, and also gave it to those who were with him?” 27 And he said to them, “The Sabbath was made for man, not man for the Sabbath; 28 so the Son of man is lord even of the Sabbath.”

 

Thứ Ba     19-1           Con Người là Chủ ngày Sabbat

 

Mc 2,23-28

23 Vào ngày sa-bát, Đức Giê-su đi băng qua một cánh đồng lúa. Dọc đường, các môn đệ bắt đầu bứt lúa.24 Người Pha-ri-sêu liền nói với Đức Giê-su: “Ông coi, ngày sa-bát mà họ làm gì kia? Điều ấy đâu được phép! “25 Người đáp: “Các ông chưa bao giờ đọc trong Sách sao? Ông Đa-vít đã làm gì, khi ông và thuộc hạ bị thiếu thốn và đói bụng?26 Dưới thời thượng tế A-bi-a-tha, ông vào nhà Thiên Chúa, ăn bánh tiến, rồi còn cho cả thuộc hạ ăn nữa. Thứ bánh này không ai được phép ăn ngoại trừ tư tế.”27 Người nói tiếp: “Ngày sa-bát được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày sa-bát.28 Bởi đó, Con Người làm chủ luôn cả ngày sa-bát.”

Meditation: 

 

What does the commandment “keep holy the Sabbath” require of us? Or better yet, what is the primary intention behind this command? The religious leaders confronted Jesus on this issue. The “Sabbath rest” was meant to be a time to remember and celebrate God’s goodness and the goodness of his work, both in creation and redemption. It was a day set apart for the praise of God, his work of creation, and his saving actions on our behalf. It was intended to bring everyday work to a halt and to provide needed rest and refreshment.

The Lord of the Sabbath feeds and nourishes us

Jesus’ disciples are scolded by the scribes and Pharisees, not for plucking and eating corn from the fields, but for doing so on the Sabbath. In defending his disciples, Jesus argues from the Scriptures that human need has precedence over ritual custom.

When David and his men were fleeing for their lives, they sought food from Ahimelech the priest (1 Samuel 21:1-6). The only bread he had was the holy bread offered in the Temple. On every Sabbath morning twelves loaves were laid before God on a golden table in the Holy Place. Each loaf represented one of the twelve tribes of Israel. No one was allowed to eat this bread except the priests because it represented the very presence of God. In their hunger and need for physical nourishment and strength, David and his men ate of this bread which Ahimelech offered to them.

Seek the Lord’s rest and refreshment Why didn’t the Pharisees recognize the claims of mercy over rules and regulations? Their zeal for ritual observance blinded them from the demands of charity. Jesus reminds the Pharisees that the Sabbath was given for our benefit, to refresh and renew us in living for God. It was intended for good and not for evil. Withholding mercy and kindness in response to human need was not part of God’s intention that we rest from unnecessary labor.

Jesus’ reference to the bread of the Presence (Mark 2:24) alludes to the true bread from heaven which he offers to all who believe in him. Jesus, the Son of David, and the Son of Man, a title for the Messiah, declares that he is “Lord of the Sabbath.” Jesus healed on the Sabbath and he showed mercy to those in need. All who are burdened and weary can find true rest and refreshment in him. Do you honor the Lord in the way you treat your neighbor and celebrate the Lord’s Day?

“Lord Jesus, may I give you fitting honor in the way I live my life and treat my neighbor. May I honor the Lord’s Day as a day holy to you. And may I always treat others with the same mercy and kindness which you have shown to me. Free me from a critical and intolerant spirit that I may always seek the good of my neighbor.”

 

Suy niệm:  

 

Luật “giữ ngày Sabbath” đòi hỏi chúng ta điều gì? Nói đúng hơn mục đích chính đằng sau mệnh lệnh này là gì? Các nhà lãnh đạo tôn giáo tranh cãi với Ðức Giêsu về vấn đề này. “Việc nghỉ ngày Sabbath” được xem là thời gian để tưởng nhớ và tôn kính lòng nhân từ của Thiên Chúa và sự tốt lành về những kỳ công của Người, bao gồm việc tạo dựng và cứu chuộc. Đó là ngày người ta nghỉ việc để ca tụng Chúa, ca tụng sự tạo dựng của Người, và những hành động cứu chuộc của Người thay cho chúng ta. Nó có ý nghĩa tạm dừng công việc hằng ngày để cho thân xác được nghỉ ngơi và bồi dưỡng.

Chúa ngày Sabát nuôi dưỡng chúng ta

Các môn đệ của Ðức Giêsu bị những người luật sĩ và Pharisêu quở trách không phải vì đã bứt bông lúa ăn, nhưng là vì đã làm việc trong ngày Sabbath. Để bênh vực các môn đệ, Ðức Giêsu đã trích dẫn từ Kinh thánh để nói rằng nhu cầu con người có quyền ưu tiên hơn phong tục tập quán.

 

Khi Đavít và đoàn tùy tùng chạy trốn để sống sót, họ tìm kiếm lương thực từ tư tế Ahimelech (1Sm 21,1-6). Bánh duy nhất ông có được là bánh thánh dùng để tế lễ trong Đền thờ. Mỗi sáng ngày Sabát, 12 ổ bánh được đặt trên bàn thờ vàng trước mặt Thiên Chúa trong cung thánh. Mỗi ổ bánh tượng trưng cho một chi tộc Israel. Không ai được phép ăn bánh này ngoại trừ các tư tế vì nó biểu tượng cho sự hiện diện của Thiên Chúa. Trong lúc đói và cần bồi bổ sức lực, vua Đavít và người của ông đã ăn bánh mà tư tế Ahimelech trao cho họ.

 

 

Hãy tìm sự an nghỉ và bồi dưỡng của Chúa

Tại sao những người Pharisêu đã không nhận ra các đòi hỏi của lòng thương xót vượt trên các lề luật? Lòng nhiệt thành giữ lễ nghi của họ đã làm mù quáng họ trước các đòi hỏi của đức ái. Ðức Giêsu nhắc nhở những người Pharisêu rằng ngày Sabát đặt ra là vì lợi ích của chúng ta, để bồi dưỡng và hồi phục chúng ta trong sự sống cho Chúa. Nó được đặt ra cho điều tốt chứ không phải cho điều xấu. Sự ngăn cản lòng thương xót và nhân từ trong việc đáp ứng nhu cầu của con người không nằm trong dự tính của Chúa là chúng ta được nghỉ ngơi không làm những việc không cần thiết.

Đức Giêsu nói rằng bánh Thánh hiến (Mc 2,24) ám chỉ bánh từ trời đích thật mà Người ban cho những ai tin vào Người. Đức Giêsu, Con vua Đavít, là Con Người, danh xưng của Đấng Mêsia, tuyên bố rằng Người là “Chủ ngày Sabát”. Đức Giêsu đã chữa bệnh vào ngày Sabát và tỏ lòng thương xót cho ai cần đến. Tất cả những ai gánh nặng và mệt mỏi có thể tìm thấy sự nghỉ ngơi và bồi dưỡng nơi Người. Bạn có tôn kính Chúa trong cách thức bạn đối xử với tha nhân và tôn kính ngày của Chúa không?

Lạy Chúa Giêsu, chớ gì con bày tỏ lòng tôn kính Chúa một cách thích hợp trong cách thức con sống và trong cách thức con đối xử với tha nhân. Xin cho con biết tôn kính ngày của Chúa như ngày thánh dành cho Chúa. Và chớ gì con luôn luôn đối xử với người khác bằng lòng thương xót và nhân hậu tương tự mà Chúa đã đối xử với con. Xin giải thoát con khỏi tinh thần chỉ trích và cố chấp để con luôn luôn biết tìm kiếm lợi ích cho tha nhân.

 

Tác giả: Don Schwager
(http://dailyscripture.servantsoftheword.org/readings/)
Bro. Paul Thanh Vu – chuyển ngữ

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây