GIÁO PHẬN PHAN THIẾT

http://gpphanthiet.com


Các bài suy niệm Lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa

phong đài mẹ

phong đài mẹ

LỄ ĐỨC MARIA, MẸ THIÊN CHÚA

 

Lời Chúa: Ds 6, 22-27; Gl 4, 4-7; Lc 2, 16-21

——- 

Mục lục

1. Lắng nghe và suy nghĩ (Gm. Phêrô Nguyễn Văn Khảm)

2. Cưu mang và sinh  hạ một thế giới mới  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Maria Mẹ Chúa Trời (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

4. Không ai bằng Mẹ  (Anna Cỏ May, Tiền Tập sinh MTG.Thủ Đức)

5. Mẹ Chúa  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

6. Nữ vương ban sự bình an (Tu sĩ Jos.Vinc. Ngọc Biển, SSP)

7. Thánh Maria, Mẹ Thiên Chúa (JM. Lam Thy, ĐVD)

8. Thiên chức làm Mẹ  (Trầm Thiên Thu)

9. Để nên con thảo của Mẹ Maria  (Lm. Đan Vinh)

10. Hãy giữ nụ hôn của Mẹ  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

11. Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời (P.Trần Đình Phan Tiến)

12. Lễ Mẹ Thiên Chúa (Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải, CRM)

13. Kính Mừng Mẹ (Trầm Thiên Thu)

14. Cuộc trao đổi diệu kỳ (JM. Lam Thy, ĐVD)

15. Công đức sinh thành  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

16. Mẹ Thiên Chúa – Nữ Vương Hòa Bình  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

17. Hồng ân cao vời  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

18. Phúc đức tại mẫu (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

19. Đức Maria, Thiên Mẫu và mẫu gương (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)

 

.

LẮNG NGHE VÀ SUY NGHĨ

Gm. Phêrô Nguyễn Văn Khảm

Nếu bạo lực hay hoà bình đều bắt nguồn từ bên trong, và vì thế, phải gieo vãi và vun trồng hạt giống hoà bình trong tâm hồn từ tấm bé, vậy còn nơi nào lý tưởng hơn môi trường gia đình…

1. Đã thành thông lệ, cứ vào ngày đầu năm dương lịch, Đức Giáo hoàng lại ban hành Sứ điệp Ngày Hoà bình Thế giới. Điều đặc biệt của Sứ điệp năm 2017: đây là dịp kỷ niệm 50 năm Hội Thánh Công giáo cử hành Ngày Hoà bình Thế giới, và Sứ điệp Hoà bình năm nay là Sứ điệp lần thứ 50.

Năm mươi năm trôi qua nhưng nội dung của Sứ điệp đầu tiên, năm 1967 của Chân phước Giáo hoàng Phaolô VI, vẫn còn nguyên tính thời sự: “Hoà bình là hướng đi duy nhất đích thực của sự phát triển con người – chứ không phải là những căng thẳng tạo ra do những thứ chủ nghĩa quốc gia đầy tham vọng, cũng như những cuộc chinh phục bằng bạo lực, hoặc những cuộc đàn áp nhân danh trật tự xã hội giả tạo” (Sứ điệp, số 1). Có lẽ được gợi hứng từ khẳng định căn bản này cũng như từ thực tế mà thế giới đang đối diện, chủ đề của Sứ điệp năm 2017 là: Bất bạo động, kiểu mẫu của nền chính trị phục vụ hoà bình.

2. Nói đến bất bạo động, người ta dễ nghĩ đến những khuôn mặt nổi bật như Mahatma Gandhi và Khan Abdul Ghaffar Khan trong công cuộc giải phóng Ấn Độ, hoặc mục sư Martin Luther King trong phong trào chống phân biệt và kỳ thị chủng tộc tại Hoa Kỳ. Đúng thế, nhưng đừng quên rằng chính Đức Giêsu Kitô mới là đấng khơi nguồn cho chủ trương bất bạo động: “Khi Người ngăn cản những kẻ tố cáo định ném đá người phụ nữ bị bắt vì phạm tội ngoại tình (x. Ga 8,1-11), và trong đêm Người bị bắt, khi Người ra lệnh cho Phêrô xỏ gươm vào bao (x. Mt 26,52), Chúa Giêsu đã mở ra con đường bất bạo động. Người đã bước đi trên con đường đó đến cùng, đến tận thập giá, ở đó Người trở thành sự bình an và chấm dứt mọi hận thù (x. Eph 2,14-16)” (Sứ điệp, số 3).

Chính vì thế, tất cả những ai mang danh Kitô hữu phải là người thực hành bất bạo động: “Ngày nay, để là những môn đệ đích thực của Chúa Giêsu, phải ôm ấp giáo huấn của Chúa về bất bạo động… Với các Kitô hữu, bất bạo động không chỉ là một ứng xử mang tính chiến thuật nhưng là một lối sống, là thái độ của một người xác tín vào tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa đến nỗi không sợ hãi đối diện với sự ác bằng vũ khí của tình yêu và chân lý mà thôi… Mệnh lệnh ‘Hãy yêu thương kẻ thù’ (x. Lc 6,27) phải được xem như hiến chương của bất bạo động Kitô giáo. Điều đó không có nghĩa là bị khuất phục trước cái ác nhưng là lấy sự lành đáp lại điều ác (x. Rm 12,17-21) và do đó, bẻ gẫy dây chuyền của bất công” (Sứ điệp, số 3).

Cũng vì thế, trong thời điểm hiện nay, khi đang có những cuộc khủng bố được dán nhãn tôn giáo, Đức Giáo hoàng Phanxicô có những khẳng định thật mạnh mẽ trước toàn thế giới: “Không có tôn giáo nào là khủng bố cả”; “Không thể lấy Danh Chúa để biện minh cho bạo lực. Chỉ có hoà bình là thánh thiện. Chỉ có hoà bình mới được gọi là thánh, không có chiến tranh nào là thánh cả!” (Diễn văn tại Assisi, ngày 20-10-2016)

3. Vì Chúa Giêsu là đấng khơi nguồn lối sống bất bạo động, nên để sống tinh thần bất bạo động cách đích thực, hãy lắng nghe giáo huấn và chiêm ngắm cách hành xử của Người. Theo Chúa Giêsu, bạo động hay hoà bình đều bắt nguồn từ trong lòng người: “Chính từ bên trong, từ lòng người, mà những ý định xấu xuất hiện” (Mc 7,21). Thế nên, phải bắt đầu xây dựng hoà bình từ bên trong. Phải gieo vãi và ươm trồng hạt giống hoà bình trong tâm hồn. Những phát minh và tiến bộ kỹ thuật, dù tinh vi đến đâu, cũng chỉ là phương tiện. Cội rễ chiến tranh hay hoà bình là ở trong lòng người: “Thật khó để biết rằng thế giới chúng ta hiện nay có nhiều hay ít bạo lực hơn quá khứ, hoặc những phương tiện truyền thông hiện đại và sự năng động ngày nay có làm cho chúng ta ý thức hơn về bạo lực không, hay ngược lại, còn làm gia tăng bạo lực” (Sứ điệp, số 2). Người ta vẫn nhắc đến câu châm ngôn “Muốn có hoà bình, hãy chuẩn bị chiến tranh”. Sẽ thật tuyệt vời nếu hiểu câu nói này từ góc nhìn nội tâm: hãy chiến đấu và chiến thắng những mầm mống tội lỗi trong tâm hồn, hoà bình sẽ xuất hiện trong mọi tương quan của đời sống xã hội.

Nếu bạo lực hay hoà bình đều bắt nguồn từ bên trong, và vì thế, phải gieo vãi và vun trồng hạt giống hoà bình trong tâm hồn từ tấm bé, vậy còn nơi nào lý tưởng hơn môi trường gia đình để làm công việc này? Vì gia đình là nơi vợ chồng, cha mẹ và con cái, anh chị em, học biết chia sẻ và quan tâm đến nhau. Gia đình là nơi những va chạm, kể cả xung đột, được giải quyết không phải bằng bạo lực nhưng bằng đối thoại, tôn trọng, thương xót và tha thứ (x. Sứ điệp, số 5). Một khi đã cảm nhận được tình yêu thương, mối quan tâm, lòng quảng đại và sự tha thứ trong bầu khí gia đình, người ta cũng sẽ bước vào đời với tâm hồn rộng mở, biết sẻ chia và nâng đỡ tha nhân hơn là chỉ hành động theo bản năng bạo lực.

Trong suốt ba năm 2017-2019, người Công giáo Việt Nam được mời gọi quan tâm đặc biệt đến đời sống gia đình. Ước gì mỗi gia đình Công giáo thực sự là cái nôi bình an và cống hiến cho đời những sứ giả hoà bình: “Trong gia đình, chúng ta không cần đến bom đạn để hủy hoại hay phục vụ hoà bình – chỉ cần ở với nhau, yêu thương nhau… Và chúng ta sẽ vượt qua mọi cái ác trong thế gian” (Mẹ Têrêxa Calcutta, Diễn văn nhận giải Nobel, 1979).

Về mục lục

.

 

CƯU MANG VÀ SINH HẠ MỘT THẾ GIỚI MỚI

Tgm. Ngô Quang Kiệt

Hôm nay các mục đồng vào hang đá và nhận thấy một Hài Nhi sơ sinh nằm trong máng cỏ. Hài Nhi Giêsu chào đời khai sinh một thế giới mới. Đức Mẹ đã sinh ra một con người mới.

Đức Mẹ sinh ra một thế giới mới để sửa chữa thế giới cũ do Evà sinh ra. Thế giới cũ của bà Evà là một thế giới đổ vỡ. Từ chỗ bất tuân lệnh Thiên Chúa, thế giới đã đi đến chỗ bất hoà với nhau: ông Adong đổ lỗi cho bà Evà, bà Evà đổ lỗi cho con rắn. Không những bất hoà với nhau mà còn bất hoà cả với súc vật, cỏ cây, ruộng đất. Và từ chỗ bất hoà đi đến bất hạnh: Anh em Cain và Aben giết lẫn nhau. Con người phân tán, chia rẽ. Thế giới đổ vỡ này phát sinh từ lòng kiêu ngạo và thói ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân mình.

Thế giới mà Đức Mẹ sinh ra là một thế giới vâng phục Thiên Chúa. Chúa Giêsu hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha nên đã sinh xuống thế làm người và từ bỏ ý riêng, sẵn sàng vâng phục thánh ý Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết trên thập giá. Đức Mẹ vâng phục thánh ý Thiên Chúa khi thưa “Xin vâng” với thiên thần. Thánh Giuse vâng phục Thiên Chúa nên trở về nhận Đức Mẹ làm bạn. Các mục đồng vâng theo lời thiên thần đến hang Bêlem tìm Chúa. Ba Vua vâng phục theo ánh sáng ngôi sao đến thờ lạy Chúa.

Thế giới mà Đức Mẹ sinh ra là một thế giới hài hoà. Sự hài hoà không phải chỉ có giữa Chúa Giêsu với Đức Mẹ và Thánh Giuse. Cảnh Chúa Giêsu nằm giữa thiên nhiên, trong hơi ấm của bầy chiên bò, với đoàn mục đồng và Ba Vua quây quần chung quanh nói lên một thế giới chung sống hoà bình. Chúa sống hoà hợp với trời đất, với con người và với thiên nhiên. Con người sống hoà hợp với Chúa và với nhau.

Thế giới mới mà Đức Mẹ sinh ra là một thế giới quên mình. Chúa Giêsu đã quên địa vị mình là Thiên Chúa để xuống ở với nhân loại. Chúa Giêsu đã quên mình là Đấng thánh thiện để đến với người tội lỗi. Chúa đã quên mình là Thầy, là Cha, nên quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, các con cái của mình. Và nhất là Chúa đã quên mình là vô tội đến nỗi sẵn lòng hiến thân chịu chết cho loài người tội lỗi. Thánh Giuse và Đức Mẹ quên mình để đi vào chương trình của Thiên Chúa. Mục đồng quên mình, giữa đêm khuya lạnh lẽo, bỏ giấc ngủ đến tìm Chúa. Ba Vua quên mình bỏ nhà cửa tiện nghi, lên đường, chịu vất vả khó nhọc đến thờ lạy Chúa. Sự quên mình, quan tâm lo lắng chăm sóc cho người khác đã khai sinh một thế giới mới chan chứa tình yêu thương và ấm áp sự hoà thuận. Đó chính là cảnh thái bình đáng mong ước.

Ngày đầu năm mới, Giáo Hội mừng kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, với mong muốn thế giới luôn được sinh lại, được đổi mới. Chỉ khi sinh lại trong Chúa và trong Đức Mẹ, thế giới mới thực sự có hoà bình.

Ngày đầu năm mới, Giáo Hội mừng kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, với mong muốn đặt thế giới vào tay Đức Mẹ để thế giới luôn được sinh lại, được đổi mới. Chỉ khi sinh lại trong Chúa và trong Đức Mẹ, thế giới mới thực sự có hoà bình.

Ngày đầu năm mới, Giáo Hội cầu nguyện cho hoà bình thế giới, mong ước con người hãy biết sống hài hoà với nhau trong vâng phục Thiên Chúa, trong quên mình vì người khác để có một nền hoà bình thực sự trường cửu. Vì hoà bình không chỉ là vắng bóng chiến tranh nhưng còn là con người sống hài hoà trong tình tương thân tương ái.

Ngày đầu năm mới, Giáo Hội cũng mời gọi tất cả mọi người chúng ta hãy cùng với Đức Mẹ cưu mang và góp phần sinh hạ một thế giới mới. Cưu mang chắc chắn phải nặng nhọc. Sinh hạ chắc chắn phải đớn đau. Nhưng nếu mỗi người đều noi gương Chúa Giêsu, Đức Mẹ, Thánh Giuse, Ba Vua, các mục đồng và cả súc vật trong hang đá Bêlem biết vâng phục Thiên Chúa, biết sống hài hoà và quên mình thì mới mong kiến tạo được một nền hoà bình viên mãn.

Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con trở nên con người mới, góp phần cưu mang và sinh hạ một thế giới mới như lòng Chúa mong ước. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Bạn có mơ ước một thế giới mới không? Thế giới đó phải bắt đầu từ đâu trước? Từ chính bạn hay từ người khác?
  2. Thế giới của Đức Mẹ có gì khác thế giới của bà Evà?
  3. Đầu năm mới này, bạn dự tính làm gì để đổi mới thế giới chung quanh bạn?

Về mục lục

.

MARIA MẸ CHÚA TRỜI

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

“Họ đã gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi… và tám ngày sau được gọi tên là Giêsu” (Lc 2,16-21).

Với đoạn Tin Mừng trên đưa chúng ta về với người mẹ vừa mới sinh con là chính Đức Maria sinh ra Chúa Giêsu. Đó là lý do Giáo hội cử hành lễ Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa sau lễ Chúa Giêsu giáng sinh tám ngày, để mời gọi con cái mình tỏ lòng kính trọng và biết ơn Đức Maria, đồng thời tuyên xưng Mẹ là Mẹ Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, vì nhờ Mẹ, Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho chúng ta.

Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, Vua Thái Bình (x.Is 9, 5) sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria, Nữ Vương Hòa Bình. Vì thế, ngày đầu năm, Giáo hội khấn xin Mẹ chuyển cầu cùng Chúa cho thế giới được hòa bình.

Đức Maria cưu mang và sinh hạ Chúa Giêsu

Tại Belem Chúa Giêsu đã được sinh ra từ Đức Trinh Nữ Maria. Người đã không sinh ra “do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra” (Ga 1,13). Người là ân ban do tình yêu thương của Thiên Chúa, là “Đấng đã yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một Ngài, để bất cứ ai tin nơi Ngài không bị hư mất, nhưng có cuộc sống đời đời” (Ga 3,16).

Sau Đức Maria và thánh Giuse thì đến các kẻ chăn chiên trên cánh đồng Belem trông thấy vinh quang khiêm tốn của Đấng Cứu Thế. Nghe theo lời loan báo của các thiên thần, « họ đã ra đi vội vã đến thành Belem, và thấy Maria, Giuse và Hài Nhi mới sinh năm trong máng cỏ” (Lc 2, 16).

Hôm nay, Giáo hội chiêm ngắm thiên chức làm Mẹ Chúa Giêsu của Đức Maria. Thánh Luca giới thiệu cho chúng một “cuộc gặp gỡ” của mục đồng với “Hài Nhi”, cùng với Đức Maria, Mẹ Người và thánh Giuse. Sự hiện diện âm thầm của Giuse gợi lên sứ mệnh quan trọng của thánh nhân trong tư cách là người gìn giữ mầu nhiềm cao cả của Con Thiên Chúa. Đức Maria, Giuse và các mục đồng vây quanh “Hài Nhi mới sinh ” (Lc 2,16) để tôn thờ, làm nên hình ảnh sống động và tuyệt đẹp của Giáo hội.

Chúa Giêsu nằm trong “Máng cỏ” ám chỉ Thánh Thể mà chính Đức Maria là nhà tạm chứa đựng! Nếu không có kinh nghiệm về “gặp gỡ” cá nhân với Thiên Chúa, người ta không thể tin được. Chỉ có “gặp gỡ” cộng thêm là “nhìn thấy tận mắt”, rồi “chạm tới”, các mục đồng mới có thể trở nên những sứ giả của Tin Mừng ” thuật lại cho người khác về Hài Nhi Giêsu ” (Lc 2,17).

“Tất cả những người nghe, đều ngạc nhiên về điều các mục tử thuật lại cho họ” (Lc 2,18), là hoa trái đầu tiên của “cuộc gặp gỡ” Đức Kitô. “Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và đã xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ” (Lc 2, 20) là hoa trái thứ hai. Đức Maria, là mẫu gương của sự chiêm ngắm “Còn Maria thì ghi nhớ tất cả những việc đó và suy niệm trong lòng” (Lc 2,19). Người ta gọi tên người là Giêsu nghĩa là “Thiên Chúa cứu độ”. Tên của Người cũng là Bình An. Chúng ta hãy đón nhận Tên Cực Thánh và rất ngọt ngào này vào lòng và thường xuyên lặp lại trên môi!

Đức Maria Mẹ Thiên Chúa

Không có gì lạ, khi có người đặt câu hỏi: chúng ta có nên gọi Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Thiên Chúa không? Vì nếu Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa, thì chẳng lẽ Đức Maria, Đấng đã hạ sinh Chúa Giêsu lại không phải là Mẹ Thiên Chúa? […]

Ngôi Lời đã làm người, có hồn có xác. Thánh Công đồng Nicêa dạy, chính Con duy nhất của Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha, đồng bản thể với Chúa Cha, nhờ Người mà muôn vật được tạo thành, và tất cả tồn tại trong Người, vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế, nhập thể, làm người, chịu chết, đã sống lại, và Người sẽ lại đến trong vinh quan để phán xét; Công đồng tuyên phán: chỉ có Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Lời Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha, giống Chúa Cha. Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi sánh sáng, được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Đức Chúa Cha… Nên Đức Maria vừa được gọi là Mẹ Chúa Kitô, và Mẹ Thiên Chúa nữa.

Như thánh Ignatiô thành Antiokia (+ 110) là người đầu tiên nêu tên Đức Maria sau các sách Tin Mừng và viết : “Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô đã được Đức Maria cưu mang trong lòng theo nhiệm cục cứu độ” và “ Đức Giêsu cũng được sinh ra bởi Đức Maria và bởi Thiên Chúa”. Thánh Grégoire de Nazianze (330 – 390) khẳng định: “Đức Kitô sinh bởi một Trinh Nữ, người nữ ấy là Mẹ Chúa Kitô”. Vì thế, nếu Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật và là người thật, sinh bởi Đức Maria, thì chúng ta cũng có thể gọi mà không sợ sai lầm rằng: Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa.

Ngày cầu cho hòa bình

Ngày đầu năm, Giáo hội cử hành biến cố trên với niềm vui, sống lại với niềm tin trong phụng vụ lễ Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, Con Thiên Chúa đã đảm nhận lấy xác phàm hay hư nát của chúng ta, trở thành bé nhỏ và nghèo nàn để cứu độ chúng ta.

Còn món quà nào cao quí hơn là chính Con Thiên Chúa, Đấng là Hoàng Tử Bình An được Chúa Cha ban tặng cho chúng ta. Hoà bình là món quà Thiên Chúa ủy thác cho con người. Vì lòng thương xót, Thiên Chúa đã “ban Người Con duy nhất của Ngài” cho nhân loại (Ga 3,16). Để cầu chúc cho nhau, chúng ta mượn lời sách Dân Số: “Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh chị em” (x. Ds 6,26).

Lạy Chúa Giêsu, Hoàng Tử Bình An ban cho thế giới được hòa bình và hòa hợp giữa các dân tộc.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giêsu, Nữ Vương bình an giúp chúng ta hiểu và sống sứ điệp bình an mà Chúa Giêsu Con Mẹ đã mang đến, để chúng con có thể mang bình an đến cho mọi người trên trái đất yêu dấu này.

Nữ Vương Bình An, cầu cho chúng con. Amen.

Về mục lục

.

KHÔNG AI BẰNG MẸ

Anna Cỏ May

Mọi người đang làm việc, một tiếng nhỏ nhẹ:

          – Bà bà, chiều nay cả chuyền đi nhậu, bà đi không?

          – Thật à!, nhưng tớ chưa đi lễ.

          – Hôm nay là thứ hai mà, lễ gì nữa, Chúa Nhật bà đi rồi.

         – Lễ Chúa Nhật khác, hôm nay lễ Mẹ Thiên Chúa, là lễ trọng. Buổi sáng tớ chưa đi, chiều phải đi.

          – Thế à! Tiếc quá à.

          – Ùm!

          Đôi khi ta nối tiếc điều này, nhưng chúng ta lại được điều khác hay được ơn từ Thiên Chúa và Mẹ Maria. Vì Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa. Việc Mẹ là Mẹ Thiên Chúa được chứng minh và được ghi lại trong Kinh Thánh « Các người chăn chiên đã hối hả ra đi đến Bêlem. Họ đã gặp bà Maria, ông Giuse và Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ » (Lc 2,16). Quả thật, Mẹ Maria sinh ra Chúa Giêsu bởi quyền năng Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, Chúa Giêsu trở nên con người thật và Thiên Chúa thật. Bởi vậy, Mẹ cũng trở nên Mẹ thật của Chúa Giêsu và Mẹ Thiên Chúa, với một đặc ân, tước vị tuyệt vời không một ai dám nghĩ tới. Mẹ  hằng suy ngẫm những gì được thấy và được nghe về Thiên Chúa trong cuộc sống. Mẹ đã sống một đời vâng theo ý Chúa vọn vẹn trong bốn chữ lầm-lỳ-liều-làm. Mẹ mặc cho mọi người hiểu lầm về Mẹ. Mẹ đứng vững trước lời mời gọi của sứ thần Gaprien, cùng liều mình nói lời xin vâng với sứ thần và làm mọi việc vì Chúa trong sự âm thầm.

          Vì Mẹ là Mẹ Thiên Chúa chúng ta tôn thờ, thì Mẹ cũng trở thành Mẹ của chúng ta. Trên đời này không có người mẹ nào lại không thương con mình. Tình mẹ thương con lại còn bao la như bầu trời, mênh mông như biển thái bình. Mẹ Maria thương chúng ta cách riêng theo từng hoàn cảnh. Người tội nhân, Mẹ xin cho họ được ơn thống hối. Người nghèo khổ, Mẹ xin cho họ được ơn bình an và niềm tin vững bền. Với những người thánh thiện công chính, Mẹ xin cho họ được ơn khiêm nhường. Nhưng để đẹp lòng với Mẹ, chúng ta phải mở lòng với Mẹ. Chúng ta phải luôn khiêm nhường và nhận thấy mình là kẻ tội lỗi trước mặt Thiên Chúa và nơi Mẹ. Chúng ta hãy có niềm tin nơi Mẹ. Mẹ sẽ  không khước từ một ai kêu cầu đến Mẹ, nhưng ơn xin ấy phải là điều tốt cho chúng ta. Chúng ta thật là hạnh phúc, khi có Mẹ chuyển cầu và bênh đỡ cho chúng ta. Có Mẹ, lời cầu xin của chúng ta luôn đẹp lòng Thiên Chúa. Vì thế, trong ngày lễ hôm nay, cũng là ngày đầu năm mới, chúng ta hãy ca ngợi, chúc tụng và dâng lên Mẹ những lời tâm tư chân thành nhất của chúng ta.

          Lạy Mẹ Maria, Mẹ là Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ của chúng con. Chúng con cám ơn Mẹ rất nhiều. Chúng con nguyện xin Mẹ hãy tiếp tục nâng đỡ chúng con mỗi ngày. Nhờ đó, chúng con mãi là con Thiên Chúa và con của Mẹ. Amen.

Về mục lục

.

MẸ CHÚA

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Ma-ri-a Mẹ Chúa Trời,

Hồng ân phúc lộc, tuyệt vời Chúa ban.

Con người thụ tạo bụi tan,

Phận hèn tớ nữ, tỏa lan sáng ngời.

Xin vâng làm mẹ Chúa Trời,

Ngợi khen chúc phúc, ngàn đời quang vinh.

Mẹ sinh Con Chúa huyền linh,

Nằm trong máng cỏ, thân mình trẻ thơ.

Mục đồng chầu lạy kính thờ,

Loan tin khắp chốn, vọng chờ đêm thâu.

Con dân mong đợi bấy lâu,

Giê-su tên gọi, kính tâu Vua Trời.

Cung lòng trinh nữ cao vời,

Cưu mang Con Chúa, làm người thế nhân.

Ma-ri-a Mẹ thần dân,

Xứng danh Mẹ Chúa, nhân trần kính tôn.

 

Ngày đầu năm Dương Lịch, ngày dành riêng để Trọng Kính Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa. Thiên Chúa đã yêu thương chọn gọi Đức Maria cộng tác vào công trình cứu độ. Maria đã đáp lời Xin Vâng. Qua hiệu qủa công trình cứu độ của Chúa Giêsu, Đức Maria đã được Thiên Chúa gìn giữ vẹn toàn và thánh thiện.

Đức Maria đã sống phó thác hoàn toàn trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Mỗi ngày, Maria sống trong ân sủng vì có Chúa ở cùng. Maria đã trải qua bao gian khó giữa trần đời. Đức Maria không khoe khoang ơn phúc lạ và không than van kêu trách số phận. Maria âm thầm đón nhận thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa với niềm tin tuyệt đối. Đức Maria xứng đáng với danh hiệu là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ của Giáo Hội và là Mẹ của chúng sinh.

Giáo Hội kính dâng Mẹ ngày đầu tiên của Năm mới. Chúng ta biết nhà có mẹ là nhà có mái ấm và có tình thương. Có mẹ chúng ta có tất cả. Giáo Hội Công Giáo có Mẹ. Giáo Hội mừng kính Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa, đây là tín điều đã được tuyên tín. Qua lời xin vâng khi thiên thần truyền tin, Mẹ Maria đã trở thành Mẹ của Con Chúa. Khi Mẹ đến viếng thăm chị họ Isave, bà đã lên tiếng ngợi khen: Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm.

Mẹ Maria đã sinh hạ con trai và đặt tên là Emmanuel nghĩa là Chúa ở cùng chúng ta. Người Con có hai bản tính không thể tách rời: Bản tính Thiên Chúa và bản tính loài người. Đức Maria là Mẹ của Chúa Giêsu bao gồm trọn vẹn cả hai bản tính. Chúa Giêsu vừa là người, vừa là Chúa, nên Đức Mẹ là Mẹ của Con Chúa.

Ơn làm Mẹ hoàn toàn là hồng ân Thiên Chúa ban cho Mẹ. Không do công lênh của con người, mà do tình yêu của Chúa ban cho con người. Mẹ đã xin vâng theo thánh ý Chúa mọi lúc trong cuộc đời. Thái độ khiêm tốn nơi Mẹ đã trở nên nguồn ân sủng cho mọi người. Mẹ đã trải qua muôn vàn khó khăn từ khi nói lời Xin Vâng cho đến khi đứng dưới chân thập giá nhìn con mình đớn đau trút hơn thở cuối cùng. Mẹ giữ kín và suy niệm tất cả những gì xảy ra trong đời và vâng theo thánh ý Chúa.

Giáo Hội đã biệt kính Đức Mẹ qua các danh hiệu: Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Mẹ Đồng Trinh Trọn Đời, Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời và Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Mỗi năm Giáo Hội dành riêng hai tháng, tháng 5 và tháng10, để dâng kính Đức Mẹ. Trong năm có 18 lễ kính Đức Mẹ, ngoài ra còn kính nhớ vào các thứ bảy đầu tháng và các việc sùng kính riêng. Giáo Hội đã tôn vinh danh Mẹ qua rất nhiều tước hiệu khác nhau.

Chúng ta có Kinh Cầu Đức Bà và tôn vinh Mẹ trên 70 danh hiệu khác nhau. Đức Mẹ hiện ra nhiều lần với con cái loài người, 39 lần hiện ra chính thức được Giáo Hội chuẩn nhận. Ngoài ra còn rất nhiều lần Đức Mẹ hiện ra riêng tư và ban phát muôn ơn lành qua việc chữa bệnh cả hồn lẫn xác.

Không có đau khổ nào của các bà mẹ trần thế có thể sánh ví được với những khổ đau của Mẹ. Mẹ đã chịu đựng tất cả và mẹ đã trở thành Đấng Đồng Công Cứu Chuộc. Chúng ta hãy chạy đến với Mẹ, Mẹ sẽ cầu bầu cho chúng ta. Chúng ta cùng Mẹ dâng lời chúc tụng ngợi khen lòng Chúa bao dung. Chúng ta rất vui mừng vì chúng ta có Mẹ ở bên. Xin Mẹ dẫn dắt chúng con đến gần Chúa, để chúng con cùng chia xẻ niềm vui ơn Chúa Cứu Độ.

Về mục lục

.

NỮ VƯƠNG BAN SỰ BÌNH AN

Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển

Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta hân hoan mừng lễ Đức Maria – Mẹ Thiên Chúa. 

Nếu các tước hiệu khác nơi Mẹ Maria, Giáo Hội muốn biểu dương công đức ưu việt nơi Mẹ, thì với danh xưng Mẹ Thiên Chúa, Giáo Hội muốn đề cao uy quyền của Mẹ Maria trong vai trò là thân mẫu Thiên Chúa. Bởi vì ngay khi đáp lại lời Thiên Chúa qua tiếng “xin vâng”, Mẹ đã đón nhận, cưu mang và sinh hạ Đấng Cứu Thế, Ngài là Hoàng Tử Hòa Bình, đã đến chuộc tội nhân loại, làm cho Trời – đất kết chữ tình; xe chữ đồng; là chiếc cầu nối liền giữa trời và đất; đem lại sự bình an và giao hòa giữa con người với Thiên Chúa. 

Chính vì uy quyền độc nhất vô nhị nơi Mẹ Maria bắt nguồn từ Thiên Chúa, nên Giáo Hội cũng chọn ngày này để cầu nguyện cho hòa bình trên khắp thế giới khi mời gọi con cái mình hướng về Mẹ Maria là Nữ Vương Hòa Bình, để cầu nguyện cho nhân loại được an bình thư thái.

  1. Đức Maria Mẹ Thiên Chúa

Danh xưng Mẹ Thiên Chúa được dành cho Đức Maria đã khởi đi từ việc Giáo chủ Constantinople là giám mục Nettôriô từ chối không công nhận thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria. Ông cho rằng: “Mẹ Maria chỉ là Mẹ của Đức Giêsu về mặt nhân tính, còn thiên tính thì không thể. Nơi Đức Giêsu nhân tính và thiên tính tách biệt, không hòa chung thành một”. Từ đó ông rút ra kết luận: “Mẹ Maria không thể là Mẹ Thiên Chúa”. Từ những lập luận trên mà Công Đồng Chung Êphêsô (431) đã đuợc triệu tập để làm sáng tỏ cũng như khẳng định và tuyên bố tín điều “Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa”. Công đồng tuyên tín: “Giây phút long trọng nhất trong đời Đức Mẹ là giây phút Ngôi Hai xuống thai trong lòng Mẹ. Từ giây phút ấy, Đức Mẹ trở nên Mẹ Thiên Chúa”.

Vậy, dựa vào đâu mà Công Đồng có những phán quyết chắc chắn như vậy:

Thưa, Công Đồng dựa vào Thánh Kinh:

Trước tiên, tước hiệu Mẹ Thiên Chúa nơi Đức Maria đã được hé mở từ thời Cựu Ước khi tiên tri Isaia tiên báo: “Một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh con trai và sẽ đặt tên con trẻ là Emmanuel” (Is 7,14). Lời tiên báo về việc hạ sinh Đấng Cứu Thế đã được sứ thần Gabriel chính thức và trực tiếp báo tin cho Mẹ Maria: “Bà sẽ thụ thai, sinh con trai và sẽ đặt tên con trẻ ấy là Giêsu…. Vì thế Con Trẻ sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (x. Lc 1,31-35). 

Rõ nét hơn cả, chính là lời chào mừng của bà Êlisabét khi được Đức Maria ghé thăm. Lúc ấy, bà được đầy Thánh Thần, nên đã thốt lên: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Lc 1, 43).

Và, khi thời đã điểm, những gì được tiên báo thì nay đã được tỏ hiện trong đêm đông giá lạnh nơi cánh đồng Belem khi Con Thiên Chúa Giáng Sinh làm người để ở cùng chúng ta (x. Lc 2, 1-20). Khi sinh ra Ngôi Lời Thiên Chúa, Đức Maria đã thực sự trở thành Mẹ Thiên Chúa trong vai trò là thân mẫu Đấng Emmanuel.

Với biến cố trọng đại này, Công Đồng Vatican II (1962-1965) tái khẳng định khi viết: “Từ muôn đời, Đức Trinh Nữ đã được tiền định làm Mẹ Thiên Chúa cùng một lúc với việc Nhập Thể của Ngôi Lời Thiên Chúa…. Đức Trinh Nữ nhờ ơn huệ và vai trò làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ được hợp nhất với Con Mẹ là Đấng Cứu Chuộc và hiệp nhất với Giáo Hội. Mẹ Thiên Chúa là mẫu mực của Giáo Hội trên bình diện đức tin, đức ái và hoàn toàn hiệp nhất với Chúa Kitô” (Lumen Gentium, số 61).

Chính vì những xác quyết trên mà Giáo Hội không ngớt kêu xin Mẹ Maria trong vai trò là Mẹ Thiên Chúa: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử”. 

  1. Hòa bình chỉ có khi mỗi người cùng ý thức xây dựng

Như vậy, khi sinh hạ Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, là Hoàng Tử Hòa Bình, Chúa của sự bình an, Mẹ Maria cũng trở thành Nữ Vương Hòa Bình cho nhân loại. 

Khi chọn ngày mồng 01 tháng 01 hằng năm để cử hành lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa và cầu nguyện cho hòa bình thế giới, Giáo Hội muốn đặt để nhân loại dưới sự che chở đầy uy thế của Mẹ trước tòa Thiên Chúa. 

Truyền thống này được bắt đầu từ ý định và mong muốn của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, nên chính ngài đã dời ngày lễ này vào 01-01 hằng năm để xin Đức Maria bầu cử cho thế giới được an bình, hạnh phúc. 

Nhân dịp này, mỗi người chúng ta cũng hãy hướng nhìn về đất nước, dân tộc Việt Nam thân yêu, để thấy được sự cần thiết của hai chữ hòa bình! 

Có lẽ ngày nay trên thế giới, nhiều nước rất ngưỡng mộ Việt Nam, vì nơi đất nước này, tiếng bom đạn đã chấm dứt hàng chục năm, dân chúng xem ra có vẻ được an bình thư thái!!! 

Chúng ta không phủ nhận điều đó, nhưng nếu hiểu hòa bình theo nghĩa không có tiếng bom đạn thì chưa đủ, bởi vì theo quan điểm học thuyết của Kitô giáo, thì: hòa bình không phải chỉ là chấm dứt chiến tranh. Nó cũng không chỉ dừng lại ở chỗ có cơm ăn áo mặc, điện, đường, trường, trạm, được ổn định hay các trung tâm du lịch, vui chơi giải trí được mọc lên…! Không! Hòa bình đích thực nó còn phải tiến xa và sâu hơn nhiều. 

Về mặt cá thể:

Trước hết, đó là: mỗi cá thể cần có một mối liên hệ mật thiết với Thiên Chúa là Chủ Tể và nguồn gốc của hòa bình. 

Thứ đến, phải đạt được một trạng thái an bình thư thái ngay trong tâm con người. Sống hài hòa trong mối tương giao thân thiện với mọi người. 

Cuối cùng, đó là mọi thành phần phải có trách nhiệm, liên đới với nhau trong tình huynh đệ. 

Về mặt quốc gia:

Xét trên góc độ quốc gia: một đất nước được coi là hòa bình khi và chỉ khi con người được đảm bảo và quyền tự do tôn giáo được đề cao. Nhân phẩm được coi trọng và bảo vệ. Những lợi ích công cộng được ưu tiên. 

Trong lãnh vực giáo dục: hệ thống và các nhà giáo dục cần đào tạo con người phát triển toàn diện cả về chất lượng tri thức lẫn đạo đức, biết kính trên nhường dưới, biết tôn sư trọng đạo, biết lưu giữ và bảo tồn những truyền thống, văn hóa tốt đẹp, biết phát huy những cái mới phù hợp với đạo lý dân tộc….

Về mặt gia đình và tôn giáo:

Trong lãnh vực tôn giáo: cần trú trọng đến “nhân chi sơ tính bổn thiện” nơi con người và phát huy tinh thần bác ái, yêu thương, liên đới dựa trên tình yêu giữa Thiên Chúa và con người. 

Trong đời sống gia đình: mỗi thành viên cần ý thức vai trò và bổn phận của mình. Người làm cha cho đáng làm cha; người làm mẹ cho xứng thiên chức làm mẹ; người làm con cần sống hiểu thảo vâng lời….

Như vậy, muốn có hòa bình đúng nghĩa, chúng ta không thể ngồi ù lỳ và mong đợi, mà mọi thành phần phải sống tinh thần trách nhiệm. Trách nhiệm mà không sợ hãi. Trách nhiệm mà vẫn đảm bảo được sự tôn trọng và đối thoại chân thành. Nói cách khác, muốn có hòa bình thì phải chiến đấu. Chiến đấu cho lẽ phải để bảo vệ công bằng, xây dựng sự thật nhằm tiêu diệt cái xấu, nhất là những điều mà người ta vẫn thường ngụy trang khi nhân danh cái xấu để biện minh cho mục đích tốt. 

Được như thế, chúng ta mới có một trạng thái tâm hồn an vui thanh thản với bản thân, hiền hòa và nhân ái với mọi người.

Mừng lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa hôm nay, chúng ta hãy biết noi gương Mẹ, để suy đi nghĩ lại trong lòng những ân huệ của Thiên Chúa và những biến cố trong cuộc đời cũng như xã hội, từ đó, biết xắn tay áo lên và hành động vì một nền hòa bình đích thực. 

Mong sao, sau khi dâng thánh lễ, mỗi người ra về với tâm tình đổi mới, đổi mới tư duy, đổi mới phương cách, đổi mới hành động. Đổi mới trong sự vâng phục Thiên Chúa. Đổi mới trong sự hài hòa thiên nhiên. Đổi mới trong sự hy sinh, quên mình. Có thế, lòng chúng ta mới thực sự vui mừng phấn khởi như các mục đồng xưa, để ra đi loan báo tin mừng, tin vui, tin bình an của Hoàng Tử Hòa Bình cho mọi người.

Lạy Mẹ Maria, trong ngày đầu năm mới này, chúng con xin dâng năm sống mới của từng người cho Mẹ, xin Mẹ che chở, cầu thay nguyện giúp, để cho chúng con được an bình thư thái.

Đặc biệt, xin Mẹ giúp chúng con biết noi gương Mẹ, luôn suy gẫm Lời Chúa và đem ra thực hành trong đời sống, để Lời của Chúa là cội nguồn bình an được sinh hoa kết qủa dồi dào trong lòng mỗi người chúng con. Amen.

Về mục lục

.

THÁNH MARIA, MẸ THIÊN CHÚA

JM. Lam Thy

Theo luật của Do Thái giáo, khi một con trẻ (nam giới) được tám ngày tuổi thì phải đem trẻ tới Đền Thờ để chịu phép cắt bì và đặt tên. Vì Ngôi Lời Nhập Thể làm người, nên Đức Maria và Thánh Cả Giu-se cũng giữ đúng luật (“Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su; đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ.” – Lc 2, 21). Sự kiện tôn trọng và giữ đúng Lề Luật đã được Đức Giê-su chính thức ghi nhận khi Người bắt đầu công khai rao giảng Tin Mừng: “Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn Lề Luật. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành.” (Mt 5, 17-18). Và Lịch Phụng vụ Giáo hội đã gọi ngày Đức Giê-su chịu phép cắt bì là ngày Lễ Cắt Bì và Đặt Tên. Nhưng vì sao ngày lễ này còn được gọi là lễ Thánh Maria Mẹ Thiên Chúa? 

Tước hiệu Ðức Maria Mẹ Thiên Chúa là một tước hiệu đã có từ lâu đời trong Giáo hội. Ngay từ những thế kỷ đầu tiên, các Ki-tô hữu đã cầu khẩn Đức Maria dưới tước hiệu “Theotokos” (Đức Mẹ Chúa Trời). Tuy nhiên, vào thế kỷ V, giáo chủ Nes-tô-ri-ô (phái Thệ Phản) đã phản kháng, không công nhận tước hiệu Mẹ Thiên Chúa của Ðức Trinh Nữ Maria. Theo Nes-tô-ri-ô, chỉ nên gọi Maria là Mẹ của Ðức Giê-su Ki-tô, chứ không được gọi là Mẹ Thiên Chúa. Một cuộc xung đột tư tưởng lớn đã xẩy ra trong Giáo hội xoay quanh việc Ngôi Lời nhập thể và danh xưng Mẹ Thiên Chúa của Đức Trinh Nữ Maria. Kể cũng kỳ khôi khi một lý luận như vậy cũng có nhiều người a dua theo. Họ quên mất một điều là đã làm tới chức Giáo chủ, tức là Nes-tô-ri-ô đã tin thật Đức Giê-su là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật giáng trần cứu độ nhân loại. Tin Đức Giê-su là Thiên Chúa mà người sinh ra Đức Giê-su không được gọi là Mẹ Thiên Chúa! Một mâu thuẫn trong lý luận lạ lùng đến ngớ ngẩn! 

Có thể họ lập luận như vậy vì cho rằng 2 bản vị Thiên Chúa và loài người không thể cùng tồn tại trong một con người. Nói khác hơn, họ cho rằng Thiên Chúa là Đấng vô hình đã dựng nên nhân loại từ bụi đất. “Cái vỏ bằng đất” Maria không thể sinh ra Thiên Chúa được. Mới thoạt nghe thì thấy cũng có lý, nhưng phải trở lại nguyên ủy của vấn đề: Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng Hằng Hữu chỉ phán một lời là dựng nên cả vũ trụ và con người. Tại sao Người không phán một lời để cứu rỗi nhân loại mà lại phải sai Con Một xuống thế “chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy.” (Mt 16, 28; Mc 9, 1; Lc 9, 22)? Ấy cũng bởi vì với “con mắt thịt”, loài người chỉ thích được “thực mục sở thị” (trông thấy nhãn tiền) mới tin, nếu chỉ phán một lời thì nhân loại không thấy được nên tất nhiên là họ không tin. Vì thế, rất cần một con người bằng xương bằng thịt thực hiện công trình cứu độ, con người đó tất nhiên là chàng thanh niên Giê-su Na-da-ret với 2 bản vị (Thiên tính + nhân tính) đã trở nên một: Ngôi Lời Nhập Thể. 

Tuy nhiên, vì Thệ phản là một phái có thế lực, nên vào năm 431, Hội Thánh đã triệu tập Công đồng Ê-phê-sô dưới sự chủ tọa của thánh Cy-ril-lô, đại diện Đức Giáo Hoàng. Các nghị phụ trong Công đồng này đã tuyên bố giải nhiệm chức giáo chủ của Nes-tô-ri-ô và phủ nhận hoàn toàn giáo thuyết sai lầm của ông ta. Công đồng Ê-phê-sô đã định tín: “Tuyệt thông cho những ai không tuyên xưng rằng Đấng Emmanuel thực sự là Thiên Chúa, và bởi thế, Đức Trinh Nữ là Mẹ của Thiên Chúa (Theotokos) vì Mẹ đã hạ sinh Ngôi Lời Thiên Chúa hóa thành nhục thể theo xác thịt.” Tín điều này tiên vàn tuyên xưng rằng Đấng Em-ma-nu-en (Thiên Chúa ở cùng chúng ta) đã thực sự giáng trần “ở cùng loài người” để cứu độ nhân loại, nên thực sự Người đã hóa thành nhục thể trong lòng Đức Maria. Nói cách khác, khi tuyên xưng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, Hội Thánh cũng khẳng định rằng Ngôi Lời đã thực sự trở thành con người, do một bà mẹ trần gian sinh ra. 

Giáo điều ấy liên tục được các Đức Giáo Hoàng tuyên xưng. Điển hình như: Đức Giáo Hoàng Pi-ô XI, đã ban hành Thông điệp “Mediator Dei” mừng kỷ niệm 1.500 năm Công Đồng Ê-phê-sô và công bố lễ Mẹ Thiên Chúa, mừng trong toàn thể Giáo hội vào ngày 11/10. Bước sang thế kỷ XX, Đức Thánh Cha Pi-ô XII đã thiết lập Năm Thánh Mẫu vào năm 1954 và tuyên bố rằng thiên chức Mẹ Thiên Chúa là nguồn gốc tất cả mọi ân sủng và đặc sủng của Mẹ Maria. Đặc biệt là Công Đồng Va-ti-ca-nô II đã dành cả chương VIII trong Hiến chế về Giáo hội “Lumen Gentium”, nói về Mẹ Thiên Chúa. Đồng thời với Hiến chế về Mục Vụ “Gaudium et Spes” (số 22-23), Công Đồng còn khẳng định: “Chính Con Thiên Chúa khi nhập thể, một cách nào đó đã kết hợp với tất cả mọi người. Người đã làm việc với bàn tay con người, đã suy nghĩ bằng trí óc con người, đã hành động với ý chí con người, đã yêu mến bằng quả tim con người. Sinh bởi trinh nữ Maria, Người đã thực sự trở nên một người giữa chúng ta, giống chúng ta mọi sự, ngoại trừ tội lỗi.” Và trong Hiến chế về Phụng vụ “Sacrosanctum Concilium”, các Nghị Phụ Công Đồng đã chuyển lễ Mẹ Thiên Chúa từ ngày 11/10 sang ngày 01/01 hàng năm (Tết dương lịch).

Gần đây nhất, Đức GH Bê-nê-đic-tô XVI trong Tông huấn Lời Chúa “Verbum Domini” (số 20) cũng khẳng định: “Vì Đức Maria hoàn toàn thấm nhuần Lời Chúa, nên ngài có khả năng trở thành Mẹ của Lời Nhập Thể … Khi chiêm ngưỡng nơi Mẹ Thiên Chúa một cuộc đời hoàn toàn do Lời lên khuôn, ta hiểu được rằng cả ta nữa cũng được mời gọi bước vào mầu nhiệm đức tin, nhờ đó, Chúa Ki-tô tới cư ngụ trong đời ta. Thánh Am-brô-si-ô nhắc nhở ta rằng xét theo một phương diện nào đó, mọi tín hữu Ki-tô đều tượng thai và sinh hạ Lời Thiên Chúa: mặc dù chỉ có Mẹ Thiên Chúa là tượng thai bằng xương bằng thịt, còn chúng ta, Chúa Ki-tô là con cái của mọi người chúng ta trong đức tin. Như thế, điều xẩy ra cho Đức Maria cũng hàng ngày xẩy ra nơi mỗi người chúng ta, trong việc nghe Lời Chúa và trong việc cử hành các bí tích.” 

Như vậy, vì có mầu nhiệm Đức Ki-tô Ngôi Lời nhập thể nên mới có mầu nhiệm Đức Mẹ Thiên Chúa. Mầu nhiệm này gắn liền với Con Thiên Chúa làm người. Trong lịch sử Giáo hội, chỉ sau khi xác định chân tướng Đức Giê-su Ki-tô, vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật, Giáo hội mới xác định Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Nếu Chúa Ki-tô chỉ là Thiên Chúa thôi thì không làm gì có “Mẹ Thiên Chúa”. Hay nếu Chúa Ki-tô chỉ là người thôi, cho dầu là “siêu nhân” đi nữa, thì Đức Maria càng không thể là “Mẹ Thiên Chúa”. Cho nên, ngày nay người tín hữu tuyên xưng đức tin mầu nhiệm Đức Mẹ Thiên Chúa là bởi vì mầu nhiệm ấy gắn liền với mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể, như trong kinh Tin Kính đã định tín: “Người là Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật… Người đã từ trời xuống thế bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria và đã làm người”. Chúng ta tin nhận Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa chính là vì chúng ta tin Chúa Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa thật và là người thật.

Đêm Ngôi Lời giáng thế, cả trời đất mừng vui hoan hỷ, tụng ca Thánh danh Thiên Chúa, mừng đón Ngôi Hai giáng trần. Ngày trọng đại đó, toàn thể vũ trụ được chứng kiến bao thiên sứ của Thiên Chúa không ngớt lời tôn vinh: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Trời đất giao hòa chào mừng kỷ nguyên mới khai sinh. Đấng Cứu độ đến giữa lòng nhân loại để thi ân giáng phúc và đem bình an cho mọi người. Vì thế, đêm Noel là đêm của vui mừng, là đêm của bình an, đêm của hồng phúc đến từ Thiên Chúa. Như vậy thì ngày tôn vinh Mẹ Thiên Chúa vì Mẹ đã làm cầu nối đem sứ giả hòa binh là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, cũng tất nhiên là ngày vị Con Trời đem bình an xuống cho nhân loại. 

Thật vô cùng ý nghĩa khi Giáo hội đặt ngày cầu nguyện cho Thế giới Hòa bình vào ngày lễ Mẹ Thiên Chúa, lại đúng vào dịp đầu năm, ngày mà bất cứ một người nào – không phân biệt màu da, sắc tộc – cũng hoan hỉ chúc mừng lẫn nhau được bình an hạnh phúc. Khi quyết định dời Thánh lễ kính trọng thể Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa vào ngày 01/01 mỗi năm, chính Chân phước GH Phao-lô VI đã viết trong Tông huấn Tôn kính Đức Maria “Marialis Cultus” (số 5) như sau: “Vì sự trùng hợp tốt đẹp giữa ngày 01 tháng giêng với ngày thứ tám giáp lễ Giáng Sinh mà chúng tôi đã đặt ngày đó là ngày Thế Giới Hòa Bình, mà thế giới mỗi ngày càng hưởng ứng thêm, và thành quả của hòa bình đã phát sinh trong lòng nhiều người.”

Hiểu được ý nghĩa cao vời ngày Lễ kính Đức Trinh Nữ Maria Mẹ Thiên Chúa, cũng là ngày cầu cho thế giới hòa bình, người Ki-tô hữu hãy tin rằng trong Giáo hội, chúng ta là các chi thể của một thân thể duy nhất, hỗ trợ nhau, bởi vì mỗi người được trao ban một ân sủng theo tiêu chuẩn quà tặng của Đức Ki-tô, vì lợi ích chung (1Cr 12, 4-7). Đức Ki-tô đã đến thế gian để mang cho chúng ta ân sủng thần linh, nghĩa là khả năng chia sẻ đời sống trong Người. Điều này đòi hỏi một sự xây dựng một cơ cấu các mối tương quan huynh đệ được đánh dấu bởi mối tương quan hỗ tương, sự tha thứ và sự trao ban trọn vẹn, theo chiều sâu và chiều rộng của tình yêu Thiên Chúa được trao ban cho con người nơi Đấng Cứu Độ, đã chịu chết và sống lại, để lôi cuốn mọi người đến với Người. 

Sứ điệp ngày Thế Giới Hòa Bình 2015 (số 6) đã khẳng định: “Đây chính là tin vui đòi hỏi từng người chúng ta thực hiện một  bước tiến nữa, thực hành liên lỉ sự cảm thông, lắng nghe những nỗi đau khổ và hy vọng của người khác, thậm chí là những ai ở xa chúng ta nhất và bước đi trên con đường tình yêu ấy, một tình yêu sẽ giúp ta biết phải trao ban thế nào và dùng chính mình cách tự do vì lợi ích của anh chị em mình. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa sẽ hỏi mỗi người chúng ta rằng: “Ngươi đã làm gì em ngươi vậy?” (x. St 4, 9-10). Toàn cầu hóa sự thờ ơ, vốn ngày nay đè nặng trên cuộc sống của nhiều anh chị em của chúng ta, đòi buộc chúng ta phải làm nên một sự toàn cầu hóa tình liên đới và tình huynh đệ, để có thể trao ban lại cho họ niềm hy vọng mới và giúp họ tiếp tục bước đi với sự dũng cảm qua những vấn đề của thời đại chúng ta và những chân trời mới mở ra và được Thiên Chúa đặt để vào tay chúng ta.” 

Nguyện xin Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Giáo Hội và là Nữ Vương Hòa Bình, giúp chúng con hiểu và sống mọi ngày tình huynh đệ vốn bắt nguồn từ Thánh tâm chí nhân chí ái Chúa Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa và cũng là Con của Mẹ, để chúng con có thể mang bình an đến cho mọi người trên trái đất yêu dấu này. Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng, ngày Ðức Trinh Nữ Maria sinh hạ Ðấng Cứu Thế, Chúa đã tặng ban cho nhân loại, kho tàng ơn cứu độ muôn đời. Xin cho chúng con được nhờ lời Ðức Mẹ nguyện giúp cầu thay, vì chính nhờ Ðức Mẹ chúng con mới được nhận lãnh nguồn sức sống vĩnh cửu là Ðức Giê-su Ki-tô, Con Chúa, Chúa chúng con. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ lễ Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời). 

Về mục lục

.

THIÊN CHỨC LÀM MẸ

Trầm Thiên Thu

Làm mẹ là một bản năng, đồng thời là một thiên chức kỳ diệu và cao quý trong hai thiên chức đặc thù của nữ giới: Làm vợ và làm mẹ.

Bản chất làm mẹ là nguyên lý nội tại soi rọi mọi lĩnh vực sống người phụ nữ, gắn liền với nữ tính, được hình thành và phát triển theo chiều hướng nữ tính ngay khi sự sống được hình thành trong cung lòng người mẹ. Sau nhiều năm nghiên cứu tâm lý con người – đặc biệt là nữ giới, nhà phân tâm học Helene Deutsch (1884-1982, Ba Lan, đồng nghiệp với Sigmund Freud) đã nhận định: “Nơi con người, không một cấu tố nào đứng biệt lập khỏi cấu tố khác. Chính thế, người là một hữu thể quá phức tạp nhưng đầy hấp dẫn”.

Trong Hiến chế Tín lý về Giáo hội “Lumen Gentium” (tháng 11-1964) ĐGH Phaolô VI cho biết: “Vì đã cưu mang, sinh hạ và nuôi dưỡng Chúa Kitô, đã dâng Chúa Kitô lên Chúa Cha trong đền thánh, và cùng đau khổ với con mình chết trên thập giá. Đức Maria đã cộng tác rất đặc biệt trong công trình của Đấng Cứu Thế, nhờ lòng vâng phục, nhờ đức tin, đức cậy và đức ái nồng nhiệt, để tái lập sự sống siêu nhiên cho các linh hồn. Bởi vậy, trên bình diện ân sủng, Người thật là Mẹ chúng ta” (số 61).

HẠNH PHÚC CÓ MẸ

Khởi và Kết luôn liên quan lẫn nhau. Năm cũ qua và năm mới tới. Ngày đầu năm dương lịch là ngày Tết, là ngày cầu cho hòa bình thế giới, và đặc biệt là ngày lễ mừng kính Thánh Mẫu Thiên Chúa. Ai cũng có mẹ, và có mẹ là có niềm vui và an toàn đối với con cái. Mẹ là tất cả của con, là “sợi dây” mong manh nhưng vững bền khả dĩ đưa cánh-diều-con bay lên cao vút.

Thật kỳ diệu khi Thiên Chúa tạo nên Người Mẹ, Con Thiên Chúa đã sống trong sự che chở và đùm bọc của Đức Mẹ suốt 30 năm trời, chắc chắn không bao giờ chúng ta hiểu hết Tình Mẫu Tử. Biết bao tác phẩm nghệ thuật diễn tả Tình Mẹ nhưng chẳng bao giờ đầy đủ, không thể trọn vẹn, chỉ có thể diễn tả một phương diện nào đó. Các danh nhân cũng diễn tả Tình Mẹ theo cảm nhận riêng của mỗi người: “Nơi ẩn náu yên ổn nhất là lòng mẹ” (Florian), “Trên môi và trong trái tim đứa con: Mẹ chính là tên của Thượng Đế” (Thackeray), “Tương lai của con là công trình của mẹ” (Napoléon I), “Trái tim người mẹ là kiệt tác của Thượng Đế” (Gretry), “Lòng mẹ là vực sâu mà dưới đáy luôn có sự khoan dung” (Balze).

Mỗi người đều có một vị trí riêng, người cha và người mẹ cũng vậy, nhưng vị trí của mẹ luôn có điều đặc biệt, hầu như không thể thay thế. Có lẽ thấy Tình Mẫu Tử quá đặc biệt và kỳ diệu mà thi sĩ Chế Lan Viên đã xác định: “Con dù lớn vẫn là con của mẹ; Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con” (thi phẩm “Con Cò”). Con vui thì mẹ mừng, nhưng con đau một thì mẹ đau mười. Còn có mẹ thật hạnh phúc, nhưng thật bất hạnh cho những ai chịu mồ côi: “Mồ côi cha là một lần mồ côi, mồ côi mẹ là bảy lần mồ côi”. Thảo nào tục ngữ Việt Nam phân biệt: “Mất cha ăn cơm với cá, mất mẹ liếm lá đầu đường”. Mồ côi mẹ khổ thật!

Phàm ngôn không thể diễn tả đầy đủ về Tình Mẫu Tử. Có thể nói rằng Tình Mẹ là nốt trầm trong “bản giao hưởng cuộc đời”, nốt trầm ít được lưu ý nhưng lại vô cùng quan trọng, vì đó là nốt làm nền để làm nổi bật những nốt khác, làm nổi bật cả giai điệu. Cố NS Y Vân đã cảm nhận sâu sắc về Tình Mẹ, và ông so sánh: “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào, Tình Mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào…” (Lòng Mẹ).

Từ xa xưa, Đức Chúa đã phán với ông Môsê: “Hãy nói với A-ha-ron và các con nó rằng: Khi chúc lành cho con cái Ít-ra-en, anh em hãy nói thế này: Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em! Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh (em) và dủ lòng thương anh em! Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em! Chúc như thế là đặt con cái Ít-ra-en dưới quyền bảo trợ của danh Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng” (Ds 6:22-27). Lời chúc bình an luôn được sử dụng nhiều, cả trong tôn giáo lẫn xã hội. Lời chúc lành đẹp nhất chắc hẳn là lời chúc bình an: “Bình an dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 2:14). Cuộc sống trần gian luôn thiếu bình an – cả tinh thần và thể lý, thế nên chúng ta luôn tha thiết cầu xin ơn bình an: “Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, xin ban bình an cho chúng con”.

Ai cũng khả dĩ biết rằng chiến tranh rất nguy hiểm, vì thế mà hòa bình vô cùng cần thiết, dù hòa bình về phương diện xã hội hoặc tinh thần, nhưng phải là sự hòa bình đích thực. Nền hòa bình trọn vẹn phải được an toàn cả về thể lý lẫn tinh thần. Một đất nước không xảy ra chiến tranh bom đạn được cho là có hòa bình, nhưng rất có thể đó chỉ là sự hòa bình giả tạo, bởi vì nhân dân còn bất an về nhiều phương diện khác, chưa thực sự có công lý nghiêm minh thì không thể có hòa bình đích thực.

Với ý thức đó, Thánh Vịnh gia đã chân thành tha thiết cầu xin: “Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài” (Tv 67:2-3). Ước nguyện là một dạng cầu chúc, ước cho chính mình và mong cho người khác: “Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa, chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài! Ước gì muôn nước reo hò mừng rỡ, vì Chúa cai trị cả hoàn cầu theo lẽ công minh, Người cai trị muôn nước theo đường chính trực và lãnh đạo muôn dân trên mặt đất này. Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa, chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài” (Tv 67:4-6). Ước nguyện cũng là một dạng cầu nguyện.

Trong suốt Mùa Vọng, chúng ta xin trời cao đổ sương thánh xuống và ngàn mây mưa Đấng Cứu Tinh, và chúng ta đã được thỏa nguyện ngay trong đêm Con Thiên Chúa giáng sinh: “Đất đã sinh ra mùa màng hoa trái: Chúa Trời, Chúa chúng ta, đã ban phúc lộc” (Tv 67:7). Đấng Emmanuel đang ở với chúng ta. Nhưng chúng ta không thể dừng lại ở đó, rồi lo hưởng thụ mà quên cầu nguyện. Chúng ta rất dễ “ngủ quên trong chiến thắng”, vì thế mà chúng ta vẫn phải luôn tỉnh thức và cầu xin không ngừng: “Nguyện Chúa Trời ban phúc lộc cho ta! Ước chi toàn cõi đất kính sợ Người!” (Tv 67:8).

Thật kỳ diệu, tất cả các lời tiên tri đã ứng nghiệm rạch ròi, hai năm rõ mười, hoàn toàn chính xác: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã dùng các tiên tri mà phán dạy cha ông, nhưng đến THỜI SAU HẾT, tức là TRONG NHỮNG NGÀY NÀY, Người đã phán dạy chúng ta nơi người Con” (Dt 1:1-2). “Những ngày này” không chỉ là Tuần Bát Nhật Giáng Sinh hoặc Mùa Giáng Sinh, mà còn là thời đại chúng ta đang sống.

Nhân loại đang sống trong thế kỷ XXI, thế kỷ của khoa học tiến bộ đa dạng, đặc biệt là về Internet, nhưng lại là thời cánh chung, thời viên mãn. Thánh Phaolô cho biết: “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử. Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: Áp-ba, Cha ơi!” (Gl 4:4-6). Không gì có thể so sánh với niềm hạnh phúc quá lớn như vậy. Tại sao thế?

Đây là lời giải thích của Thánh Phaolô: “Anh em KHÔNG còn phải là nô lệ nữa, nhưng là CON, mà đã là con thì cũng là NGƯỜI THỪA KẾ, nhờ Thiên Chúa” (Gl 4:7). Hạnh phúc tăng theo cấp số nhân, vì chúng ta chỉ là tội nhân khốn nạn đáng án tử, thế mà lại được trắng án, đặc biệt hơn nữa là chúng ta được phục hồi nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền, được làm con cái của Thiên Chúa và được kế thừa di sản thánh: “Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa, mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa (1 Ga 3:1). Chuyện như không tưởng mà lại là sự thật trăm phần trăm, không hề mơ hồ, cũng chẳng hề ảo tưởng.

PHÚC ĐỨC TẠI MẪU

Chúng ta mất Người Mẹ thứ nhất: Bà Tổ Êva. Thiên Chúa lại ban cho chúng ta Người Mẹ thứ nhì: Đức Maria. Không chỉ vậy, Ngài còn ban cho chúng ta Người Mẹ thứ ba: Mẹ riêng của mỗi người. Kế hoạch của Thiên Chúa kỳ diệu vô cùng! Trong đời thường, người ta xác định: “Phúc đức tại mẫu”. Về tâm linh, ân phúc chúng ta được tận hưởng nhờ lời “xin vâng” của Đức Mẹ: Ngôi Hai nhập thể và khởi đầu công trình cứu độ.

Trình thuật Tin Mừng Lc 2:16-21 đề cập Thánh Mẫu Thiên Chúa, một phụ nữ vốn dĩ là một thôn nữ bình thường, nhưng lại có đức tính nhu mì khác thường.

Thánh sử Luca cho biết rằng khi nghe các thiên thần báo tin lạ, các mục đồng liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp Đức Maria, Đức Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. Tận mắt tỏ tường, sự thật minh nhiên chứ không mơ hồ hoặc mộng mị. Chắc chắn lúc đó lũ trẻ chăn chiên léo nhéo nói cười với nhau vì thích thú, và cũng nựng Bé Giêsu nhiều lắm. Thật đáng yêu biết bao!

Các mục đồng là đám dân nghèo, khi thấy hoàn cảnh của Thánh Gia như thế, chắc họ cũng được an ủi và vui sống kiếp nghèo của họ. Vâng, họ chỉ là những người chăn chiên thuê nhưng họ thật diễm phúc vì được trở nên các chứng nhân đầu tiên về sự giáng sinh của Con Thiên Chúa. Vấn đề quan trọng là các mục đồng đã TIN thật lòng, và họ đã tin đúng. Nếu là chúng ta, liệu chúng ta có đủ lòng tin hay còn đắn đo, nghi ngờ? Có lẽ chúng ta muốn “xét lại” lắm đấy!

Sau khi mục sở thị, đám mục đồng liền kể lại điều đã được thiên thần nói về Hài Nhi được “bọc tã, nằm trong máng cỏ” (Lc 2:12). Dân Việt có câu: “Đi xa hỏi già, về nhà hỏi trẻ”. Trẻ em hoàn toàn vô tư và đơn sơ, không biết giấu giếm, lọc lừa, cứ có sao nói vậy. Nghe các lũ trẻ chăn chiên thuật “chuyện lạ”, ai cũng ngạc nhiên. Không ngạc nhiên sao được vì chuyện quá lạ lùng, ngoài sức tưởng tượng. Thế nhưng họ cũng đã tin lời kể của lũ trẻ nghèo kia là thật. Thật phúc thay cho họ!

Chỉ riêng Người Mẹ Trẻ Maria có động thái khác lạ: “Hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng”. Rõ ràng Đức Mẹ ít nói lắm, chỉ cười thôi. Hiền quá chừng luôn! Thật vậy, khi hiện ra với cô bé Bernadette ở Lộ Đức (1858), Đức Mẹ cũng hay cười. Bernadette hỏi mãi rồi Đức Mẹ mới xác nhận Mẹ là Mẹ Vô Nhiễm. Sau khi đã tỏ tường, các người chăn chiên ra về, họ vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được thiên thần báo trước với họ.

Và rồi Thánh sử Luca tiếp tục cho biết: “Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giêsu, đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ”. Mọi điều diễn biến hoàn toàn ứng nghiệm đúng như lời tiên tri đã nói từ xa xưa.

Chắc hẳn ai cũng khả dĩ nhận thấy Người Mẹ rất lạ lùng, và Tình Mẹ rất kỳ diệu. Khi Thiên Chúa muốn Con Một Giêsu giáng sinh làm người, Ngài biết đường đời gian nan lắm nên Ngài đã tiền định cho Con Trẻ Giêsu một Người Mẹ đặc biệt. Chúng ta thật hạnh phúc vì cũng được tiền định làm con cái của Đức Thánh Maria – Thánh Mẫu Thiên Chúa. Hợp cùng Đức Mẹ, chúng ta hãy đồng ca Ân Khúc Magnificat của Đức Mẹ, và cùng dâng lời Kinh Hòa Bình của Thánh Phanxicô Assisi, đặc biệt là hôm nay – ngày cầu bình an cho thế giới, cho mọi dân nước và cho Nước Việt yêu dấu của chúng ta.

Đầu năm kính Mẹ Chúa Trời

Hân hoan cảm tạ muôn lời chúc khen

Lạy Thiên Chúa toàn năng và hằng hữu, xin thương xót những người mồ côi, nhất là các trẻ em, xin giúp chúng con luôn kiên trung tôn thờ một Cha trên trời và chu toàn bổn phận làm con. Xin Ngài cũng giúp chúng con luôn chân thành tôn kính cha mẹ của chúng con cho trọn đạo làm con, biết quý trọng chữ Hiếu với tiền nhân và chữ Tình với anh chị em. Xin Ngài biến đổi chúng con thành khí cụ bình an của Ngài.

Lạy Thánh Mẫu Thiên Chúa và Hiền Mẫu của chúng con, xin an ủi những người mồ côi, xin thương nguyện giúp cầu thay và thúc đẩy chúng con quyết tâm thực hiện đúng lời khuyên của Mẹ, đặc biệt là các Mệnh Lệnh Fátima. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

ĐỂ NÊN CON THẢO CỦA MẸ MARIA

Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI Chúa

  1. TIN MỪNG: Lc 2,15-21.

(15) Khi các thiên sứ từ biệt mấy người chăn chiên để về trời, những người này bảo nhau: “Nào chúng ta sang Bê-lem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết. (16) Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. (17) Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này. (18) Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên. (19) Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng. (20) Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ. (21) Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ Cắt Bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su. Đó là tên mà sứ thần đã đặt, trước khi Hài Nhi thành thai trong lòng Mẹ.

  1. Ý CHÍNH: Các mục đồng liền vội vã lên đường đi tìm Đấng Cứu Thế theo dấu chỉ thiên sứ cho biết (x Lc 2,12), và họ đã gặp được Hài Nhi mới sinh, cùng với cha mẹ Người là hai ông bà Giu-se và Ma-ri-a (c 16). Sau đó tới ngày thứ tám, là lễ Cắt Bì và Hài Nhi được đặt tên là Giê-su, đúng như lời thiên thần truyền tin cho trinh nữ Ma-ri-a (x Lc 1,31).
  2. CHÚ THÍCH:

– C 8-9: +Trong vùng ấy có những người chăn chiên…: Sau khi bà Ma-ri-a sinh con trong cảnh khó nghèo tại Bê-lem, các mục đồng vốn là những kẻ nghèo hèn sống bên lề xã hội Do thái và luôn bị khinh dể vì không giữ Luật Mô-sê, nhưng đã được ưu tiên đón nhận Tin Mừng.

– C 10-14: +“Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại…”…Những người nghèo khó, đau khổ và bị bỏ rơi vốn bị thua thiệt thì giờ đây lại được Chúa chúc phúc (x Mt 5,3.5.7).

– C 16: +“Đến nơi, họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ”: Ở đây, Lu-ca kể theo thứ tự tư nhiên: Ma-ri-a, Giu-se và Hài Nhi. Nhưng đúng ra phải được kể theo thứ tự siêu nhiên như sau: Hài Nhi Giê-su, Ma-ri-a và Giu-se. Vì Hài Nhi là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa, Đức Ma-ri-a là Đấng thánh được nhiều đặc ân làm Mẹ Đấng Thiên Sai.

– C 19: +Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng”: Ma-ri-a để tâm suy gẫm để tìm ra ý nghĩa của những sự kiện đã xảy ra trong cuộc đời Chúa Giê-sù, qua đó khám phá ra thánh ý Thiên Chúa muốn mình phải làm gì để đáp lại tình thương cứu độ của Thiên Chúa.

– C 21: +Phép Cắt Bì: Cắt bì là cắt một ít da thừa nơi bộ phận sinh dục của bé trai. Luật Mô-sê quy định phép cắt bì phải được thực hiện vào ngày thứ tám sau khi đứa trẻ chào đời (x Lv 12,3). Đây là một lễ nghi tôn giáo được thực hiện với con dao bằng đá (x Gs 5,2). Việc chảy máu như một dấu chỉ tượng trưng cho “máu giao ước giữa Đức Chúa với dân Ít-ra-en (x Xh 4,26). Qua nghi lễ này đứa trẻ được chính thức gia nhập vào dân riêng của Đức Chúa và được cha mẹ đặt tên, giống như trẻ Gio-an đã được chịu phép cắt bì và đặt tên (x Lc 1,59-63).

– C 21: +Tên gọi Giê-su: Trong Tin Mừng Mát-thêu, khi hiện ra với ông Giu-se trong giấc mộng, Thiên thần đã lệnh cho ông hãy làm cha của con trẻ khi truyền cho ông đặt tên Giê-su cho đứa trẻ do Ma-ri-a sắp sinh, “vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội của họ” (Mt 1,21.25).

  1. CÂU HỎI: 1) Những người chăn chiên là hạng người nào? 2) qua sự kiện các mục đồng nghèo khó được loan báo Tin Mừng trườc tiên, chúng ta có thể rút ra bài học gì về tình thương cứu độ của Thiên Chúa? 3) Lu-ca kể ra ba nhân vật trong thánh gia theo thứ tự tự nhiên, đang khi nếu xét về đức tin thì phải theo thứ tự nào? 4) Cắt Bì là gì? Ai được chịu phép Cắt Bì? Nghi lễ này được củ hành khi nào và nhằm mục đích gì? 5) Tên Giê-su do ai đã đặt cho hài nhi khi truyền tin? Tên ấy nghĩa là gì? Còn trong Tin Mừng Mat-thêu thì thiên thần đã lệnh cho ai đặt tên cho con trẻ là Giê-su (x Mt 1,21.25) ?

II. SỐNG LỜI CHÚA:

  1. LỜI CHÚA: Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là Mẹ của anh”. Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình (Ga 19,27)
  2. CÂU CHUYỆN:

1) ROSE KENEDY LÀ MẸ CỦA MỘT VỊ TỔNG THỐNG HOA KỲ:

Ngày 20 tháng giêng 1961 John Kennedy làm Tổng Thống thứ 35 của Hoa Kỳ. Một người Công Giáo đầu tiên giữ chức vụ chóp bu. Trong ngày nhậm chức, có mặt tất cả dòng họ Kennedy, cùng bà mẹ đứng một chỗ danh dự. Vào lúc John Kennedy thề nhậm chức và trở thành Tổng Thống thì Rose Kennedy cũng trở thành Mẹ của một Tổng Thống Hoa Kỳ.

Khi bà sinh John vào năm 1917, Bà đã cho đất nước Hoa kỳ một con người mà sau này sẽ làm Tổng Thống. Bà không sinh ra một con người Tổng Thống, nhưng bà thật sự là mẹ của một vị Tổng Thống.

2) MẸ MA-RI-A LUÔN CỨU GIÚP NHỮNG KẺ CẬY TRÔNG VÀO MẸ:

Trưa ngày 12 tháng 10 năm 1972, một chiếc phi cơ chở 45 giáo viên và học sinh đi từ Mông-tê-viu đến Săng-chi-a-gô nước Chi-Lê thi đấu thể thao đã bị rớt khi bay qua dãy núi Ăng-đét và vỡ ra nhiều mảnh. Có 28 học sinh còn sống sót. Khi màn đêm buông xuống, 28 học sinh này đã ngồi tụm lại bên nhau trong một khoang máy bay. Cũng may, trên phi cơ vẫn còn một số đồ ăn như thịt nguội, bánh mì và rượu vang… kèm theo một chiếc ra-đi-ô cát-xét. Nhờ chiếc ra-đi-ô này mà họ có thể theo dõi cuộc cứu hộ đang triển khai tại các quốc gia trong vùng này. Sau tám ngày, họ nghe được các đoàn cứu hộ báo cáo không thể tìm ra chiếc máy bay gặp nạn và không hy vọng còn hành khách nào sống sót. Thế là các nạn nhân hiểu rằng: họ có sống được hay không là do quyết tâm của chính họ.

Ít ngày sau, thêm 12 người nữa theo nhau qua đời do bệnh viêm màng phổi vì không chịu được giá rét khủng khiếp. Đoàn người còn lại 16 người. Bây giờ họ chỉ còn biết trông chờ phép lạ. Thế là cả 16 học sinh này quyết định họp nhau cầu nguyện vào mỗi tối. Vào khoảng 9 giờ tối, khi trăng bắt đầu mọc trên triền núi, thì mọi người ngồi quây quần đọc chung kinh Mân Côi. Giờ kinh được tiếp tục bằng lời cầu tự phát và hát các bài thánh ca. Cuối cùng kết thúc bằng kinh Hãy Nhớ để nài xin Mẹ Chúa Trời thương cứu giúp. Những buổi cầu nguyện như thế trở thành nguồn động lực lớn lao giúp các học sinh hy vọng sẽ được cứu thoát. Thấm thoát đã sang tuần lễ thứ tám. Thời tiết bắt đầu bớt băng giá. Hai cậu khỏe nhất trong bọn và có kinh nghiệm leo núi quyết định sẽ leo xuống núi cầu cứu. Cuộc hành trình của họ vô cùng khó khăn nguy hiểm. Cũng may họ tìm được một cuộn dây thừng bằng ny-lông và dùng làm dây an toàn để leo xuống vách núi đá trơn trượt. Chỉ cần bất cẩn một chút là cả hai sẽ lao xuống vực thẳm. Mọi người còn lại đều hợp ý cầu xin Mẹ Ma-ri-a nâng đỡ cho hai bạn được an toàn. Chín ngày sau, hai cậu đã xuống được đến một trạm kiểm soát ở dưới chân núi, và ít giờ sau, đã có hai chiếc trực thăng cứu hộ xuất hiện trên đỉnh núi cao để cứu mười bốn học sinh còn lại. Nhờ sự thành tín kêu cầu Đức Ma-ri-a, mà các học sinh này đã sống được tới 70 ngày trên đỉnh núi cao giá lạnh, đang khi không ai trong các thân nhân của họ hy vọng họ còn sống và có ngày sẽ trở về. Suốt 70 ngày gian khổ trên núi, 16 cậu học sinh này đã cảm nghiệm được rằng: Đức Ma-ri-a không những là Mẹ Thiên Chúa, mà Người còn là Mẹ của tất cả những ai thành tâm tin cậy cầu xin với Ngài.

  1. THẢO LUẬN: 1) Môn đệ Gio-an đã rước Đức Ma-ri-a về nhà mình mà phụng dưỡng. Còn chúng ta hôm nay phải làm gì để tỏ lòng hiếu kính đối với Mẹ Ma-ri-a và trở nên con ngoan hiếu thảo của Mẹ? 2) Ngày nay khi gặp gian nan thử thách, các đôi vợ chồng cần làm gì để được Mẹ Thiên Chúa trợ giúp?
  2. SUY NIỆM:

1) ĐỨC MA-RI-A LÀ MẸ THIÊN CHÚA VÀ MẸ HỘI THÁNH:

– Đức Ma-ri-a đã được bà Ê-li-sa-bét khi được đầy ơn Thánh Thần đã ca tụng như sau: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Lc 1,43). Thân Mẫu Chúa tôi hay là Mẹ Thiên Chúa, vì Mẹ đã sinh ra Chúa Giêsu vừa là Thiên Chúa vừa là người phàm, là Emma-nu-en “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Đức Maria không sinh ra Thiên tính của Chúa Giê-su. Mẹ chỉ là một nữ tỳ của Thiên Chúa, nhưng đã được Thiên Chúa chọn để làm Mẹ Đấng Cứu Thế Giê-su vừa là người phàm, vừa là Con Thiên Chúa. Đó là chân lý chúng ta mừng lễ hôm nay.

– Thánh Phao-lô đã viết trong thư Ga-la-ta như sau: “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” (Gl 4,4-5). Như vậy, khi sinh hạ Chúa Giê-su Con Thiên Chúa, Đức Ma-ri-a cũng hạ sinh một nhân loại mới được ơn cứu độ là Hội Thánh, trong đó gồm mọi tín hữu chúng ta. Vì Chúa Giê-su là đầu của nhiệm thể của Người là Hội Thánh, nên nếu Đức Ma-ri-a đã sinh ra Đầu thì Mẹ cũng sinh ra thân mình là các tín hữu chúng ta.

– Rồi khi đứng dưới chân thập giá, Đức Ma-ri-a được Chúa Giê-su trăn trối làm mẹ của môn đệ Gio-an đại diện cho Hội Thánh. Tin Mừng thuật lại như sau: “Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giê-su nói với thân mẫu rằng: Thưa Bà, đây là con của Bà. Rồi Người nới với môn đệ: Đây là mẹ của anh. Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình (Ga 19,26-27). Câu này cho thấy Gio-an là đại diện Hội Thánh đã tiếp nhận Đức Ma-ri-a làm mẹ và rước Mẹ về nhà mình mà phụng dưỡng thay cho Thầy Giê-su.

2) PHẢI LÀM GÌ ĐỂ NÊN CON THẢO CỦA MẸ MA-RI-A ? :

– Yêu mến Mẹ Ma-ri-a: Chúng ta có bổn phận yêu mến biết ơn Mẹ Ma-ri-a vì Mẹ đã đón nhận ơn cứu độ khi Mẹ thưa “Xin Vâng” với sứ thần. Sau khi có Chúa, Mẹ đã đem Thai Nhi Giê-su đến chia sẻ cho gia đình Gia-ca-ri-a, làm cho thai nhi Gio-an nhẩy mừng trong dạ mẹ vì đã nhận được ơn cứu độ. Sau khi sinh con tại Be-lem, Đức Ma-ri-a luôn gắn bó mật thiết với Hài Nhi Giê-su khi tiếp đón các mục đồng đến viếng thăm. Mẹ cũng thay cho Hài Nhi tiếp nhận ba lễ vật là vàng, nhũ hương và mộc dược do các đạo sĩ từ Đông phương đến kính viếng.

– Tin cậy Mẹ hằng cứu giúp: Mẹ Ma-ri-a luôn yêu thương chăm sóc giúp đỡ những ai có lòng cậy trông yêu mến Mẹ và vâng lời Mẹ làm theo lời Chúa Giê-su truyền, noi gương các người giúp việc tại tiệc cưới Ca-na xưa (x. Ga 2,1-11). Trước tòa Chúa phán xét sau này, Mẹ sẽ làm trạng sư bầu chữa đắc lực để Chúa tha tội cho chúng ta và ban hạnh phúc Nước Trời đời đời cho chúng ta.

– Hãy chạy đến với Đức Maria: Với vai trò làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ có đủ khả năng để bầu cử và giúp đỡ chúng ta. Với địa vị làm mẹ chúng ta, Mẹ có dư tình thương, để sẵn sàng thực hiện những điều chúng ta van xin, như kinh Hãy Nhớ: “Lạy Thánh nữ đồng trinh Ma-ri-a là Mẹ rất nhân từ, xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Mẹ, xin bầu chữa cứu giúp, mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhậm lời…”

Thánh Bê-na-đô cũng đã nói: “Kêu cầu Mẹ, chúng ta sẽ không bao giờ bị nhầm đường lạc lối”.

– Học tập các nhân đức của Mẹ: Hãy luôn sống kết hiệp với Chúa Cha bằng sự cầu nguyện, chuyên cần lắng nghe Lời Chúa, tìm hiểu ý Chúa muốn bằng việc “suy đi nghĩ lại trong lòng” và cúi đầu “Xin Vâng”. Sau khi được thụ thai bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Đức Ma-ri-a đã cùng Thai Nhi Cứu Thế đi thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét, và ban ơn cứu độ cho thai nhi Gio-an. Đức Ma-ri-a luôn lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa, Mẹ cũng luôn dâng lời ngợi khen chúc tụng thánh danh Đức Chúa; Mẹ còn trung thành bước theo chân Chúa Giê-su trên đường thánh giá và đứng bên thánh giá Chúa để hiệp công đền tội loài người, và đã đón nhận những lời trăn trối cuối cùng của Chúa.

– Hiệp cùng Mẹ làm giờ kinh tối chung gia đình hằng ngày: Ngày nay Mẹ Ma-ri-a vẫn luôn hiện diện để cầu bầu cho các gia đình biết tin cậy phó thác vào Chúa. Mẹ cũng sẽ giúp họ vượt qua các thử thách trong cuộc sống. Nếu có lúc nào đó tình yêu bị nhạt phai như nước lã, Mẹ sẽ cầu bầu cùng Chúa Giê-su biến nên rượu nồng. Điều quan trọng là các gia đình cần lập bàn thờ Chúa nơi phòng khách để đọc kinh tối chung, cùng lắng nghe Lời Chúa và cầu xin thực thi ý Chúa.

3) KẾT HIỆP VỚI MẸ THIÊN CHÚA XÂY DỰNG TRỜI MỚI ĐẤT MỚI:

– Trong ngày đầu năm mới hôm nay, Hội Thánh kêu gọi mọi người chúng ta hãy cầu nguyện cho hoà bình thế giới, cầu cho mọi người biết sống chan hòa yêu thương nhau trong sự vâng phục thánh ý của Thiên Chúa, mỗi người biết quên mình phục vụ lẫn nhau để kiến tạo một nền hòa bình viên mãn. Hoà bình không chỉ là vắng bóng chiến tranh mà còn là hoà hợp yêu thương nhau.

– Hôm nay Hội Thánh cũng mời gọi mọi tín hữu chúng ta cùng hợp tác với Mẹ Ma-ri-a cưu mang và sinh hạ một thế giới mới. Cưu mang chắc chắn đòi sự nhẫn nại hy sinh. Sinh hạ cũng đòi chúng ta phải biết chấp nhận gian khổ. Nhưng nếu mỗi người đều vâng phục thánh ý Thiên Chúa, biết sống hòa hợp và sẵn sàng hy sinh quên mình phục vụ… thì chúng ta sẽ có thể góp phần kiến tạo một Trời Mới Đất Mới, một thế giới mới công bình nhân ái và chan hòa hạnh phúc.

  1. NGUYỆN CẦU:

LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin cho chúng con biết luôn tìm Chúa, lắng nghe Lời Chúa để biết phải sống thế nào. Xin cho chúng con mỗi ngày biết năng cầu nguyện, tham dự thánh lễ và rước lễ sốt sắng. Nhờ đó, chúng con hy vọng sẽ trở nên môn đệ trung tín của Chúa, luôn chiếu ánh sáng tin yêu trước mặt người đời, để họ thấy các việc lành chúng con làm mà ngợi khen Cha trên trời. Xin cho chúng con luôn kết hiệp với Mẹ Ma-ri-a “làm vinh danh Thiên Chúa và cứu rỗi các linh hồn”.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.

HÃY GIỮ NỤ HÔN CỦA MẸ

   Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

 Có một câu thơ viết rằng:

Ta đi trọn kiếp con người
Cũng không qua nổi mấy lời mẹ ru

  Người mẹ thật dịu hiền. Lời mẹ ru còn đằm thắm tình yêu thiết tha hơn. Lời ru ấy đã nâng đỡ bước chân con vào đời. Lời ru ấy phảng phất “cánh cò bay lả bay la” với cảnh quê bình dị yên hàn. Giấc ngủ của con thật yên bình trong lời ru à ơi của mẹ. 

  Hòa quyện trong những lời ru là hình ảnh về một người mẹ. Một người mẹ miền quê chân chất bình dị, dịu dàng nhưng lại ấm áp vô  cùng. Một người mẹ hy sinh tất cả vì con. Mẹ chín tháng cưu mang nặng nề đau đớn. Mẹ tần tảo sớm khuya đồng ruộng, chợ hôm. Mẹ chắp cánh cho mọi ước mơ của con đi vào đời. Người mẹ là tặng phẩm quý báu nhất mà Thượng Đế đã ban cho trần gian.

  Có một câu chuyện kể rằng: một em bé có tên là Mến Thương. Ở trường, người ta lấy làm lạ vì bàn tay trái của em luôn nắm chặt như cất giữ một cái gì quý lắm. Ai cũng thắc mắc không biết em đang giữ bí mật gì vậy. Cô giáo em gặng mãi, em mới nói: con đang giữ chiếc hôn của mẹ. Mỗi sáng, khi đưa em đến trường, mẹ hôn vào tay em và nhẹ nhàng gấp những ngón tay xinh xắn của em lại rồi mỉm cười nói: Con yêu dấu, con hãy luôn giữ lại mùi hương của tình yêu mẹ trong tay dù con làm bất cứ việc gì con nhé!

  Chiếc hôn ấy Mến Thương giữ mãi vì nó chứa đựng cả bóng hình của mẹ thật thân thương trì mến.

  Hôm nay khởi đầu cho một năm mới, Giáo hội cũng mời gọi chúng ta hướng về một người mẹ. Một người Mẹ vẫn thổi tình yêu của mình cho chúng ta. Một người Mẹ vẫn ân cần bảo chúng ta hãy giữ mãi lời ru của Mẹ. Lời ru không có cây đa, giếng nước nhưng lời ru có tình Chúa, tình Mẹ luôn ấp ủ gìn giữ con thơ. Lời ru ấy không có chuyện cổ tích nhưng có biết bao lời giáo huấn của Chúa Giê-su con Mẹ. Lời ru ấy có bóng dáng của Mẹ thật yêu kiều, thật trong sáng, thanh thoát không vương vấn tội truyền.

  Thật hạnh phúc cho chúng sinh khi có Mẹ bao bọc chở che. Giữa cuộc đời có quá nhiều cám dỗ, cạm bẫy giăng lối. Chính Mẹ sẽ là người bảo vệ con cái khỏi những hiểm nguy của sự dữ. Giữa những giá băng của tình người cạn kiệt, chính Mẹ sẽ thổi hơi ấm tình thương vào lòng con cái và bảo rằng “hãy giữ mãi nụ hôn cũa Mẹ”. Giữa những đêm tối của lòng người, chính Mẹ sẽ là sao Bắc Đẩu dẫn lối đi trong chân thiện mỹ.

  Vâng, là người ky-tô hữu chúng ta tin rằng Mẹ Maria luôn đồng hành với chúng ta. Với Mẹ chúng ta là “cục cưng” của Mẹ. Mẹ sẽ làm hết khả năng để mang lại một bầu trời bình yên cho con cái. Mẹ sẽ canh giữ giấc ngủ cho chúng ta được yên hàn khỏi những phá phách của ma quỷ, sự dữ.

  Xin cho chúng ta luôn biết tin tường phó thác nơi Mẹ. Xin cho chúng ta đừng bao giờ lạc xa tình Mẹ. Ước gì chúng ta luôn giữ mãi hơi ấm tình Mẹ khi biết sống theo lời Mẹ dạy bảo là hãy làm theo Lời Chúa Giê-su con Mẹ. Ước gì chúng ta mãi mãi là con của Mẹ khi nói không với tội lỗi và trung thành theo giáo huấn của Chúa.

  Lạy Mẹ Maria, Mẹ là Nữ vương trời đất. Mẹ thật quyền thế trước tòa Chúa. Chúng con xin phó dâng cuộc sống cho Mẹ. Xin Mẹ làm chủ cuộc cuộc sống của chúng con. Xin Mẹ dẫn dắt chúng con đi trong tình yêu của Mẹ. Chúng con xin phó dâng một năm mới cho Mẹ. Xin Mẹ hãy chúc lành và ban bình an cho chúng con. Amen

Về mục lục

.

THÁNH MARIA ĐỨC MẸ CHÚA TRỜI

P.Trần Đình Phan Tiến

Thưa quý vị, thưa các bạn, lời tuyên tín của Giáo Hội Công giáo về Đức Maria là như vậy. Và , quả thật như vậy, Bởi vì, ai tin vào Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật, thì cũng phải xác tín điều ấy. Bởi vì, Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa không thể tách rời Mầu Nhiệm làm Người của Chúa Giêsu, Ngôi Lời của Thiên Chúa Nhập Thể trong cung lòng của Đức Trinh Nữ Maria. Rồi chính Mẹ hạ sinh Người trong máng cỏ Bê-lem, như trong câu 16 của trang Tin Mừng (Lc 2 ) hôm nay:” … Đến nơi họ gặp bà Maria, ông Giuse , cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ” ( c 16)

Vâng, hình ảnh nầy cũng là Thánh Gia, cảnh tượng nầy là cảnh tượng của Mầu Nhiệm Nhập Thế của Ngôi Hai Thiên Chúa, Người được gọi là “ CON THIÊN CHÚA “. Vâng, quả thật Người là Con Thiên Chúa, vì thế, Đấng sinh ra Ngôi Lời bởi sự hữu thể, chính là “MẸ THIÊN CHÚA “.

Khi xác tín như thế, Giáo Hội Công giáo không thể “đặt” sự tuyên tín nầy trên Thiên Chúa Cha, mà là tuyên tín một chân lý của Mầu Nhiệm Nhập Thể. Bởi vì, Mầu Nhiệm Cứu Độ không thể tách rời Mầu Nhiệm Nhập Thể được.

Vì chúng ta biết Chúa Giêsu có hai bản tính : Một là bản tính Thiên Chúa, hai là bản tính nhân loại. Bản tính nhân loại không thể không có người mẹ sinh ra, bởi vì , dù là Thiên Chúa, nhưng , Người đã tự nguyện mặc lấy mầu nhiệm làm Người, để cứu độ nhân loại bởi sự hữu hình, theo đó, Người phải chọn cho mình một Mẫu Thân. Vì thế, Mẫu Thân của Chúa Giêsu là Đức Trinh Nữ Maria. Bởi vì, chính Đức Trinh Nữ Maria không thể tự chọn cho mình Thiên Chức làm Mẹ Ngôi Hai Thiên Chúa được.

Tật cả các mầu nhiệm cứu độ nhân thế đều phát sinh từ mầu nhiệm “ yêu thương “ của Thiên Chúa. Đức Trinh Nữ Maria cũng vậy, Mẹ được chọn để được cứu độ, Mẹ được gọi để trở nên tình thương của Thiên Chúa được thực hiện trên nhân loại.

Không ai cao cả hơn Thiên Chúa, chính Ngài ở trên cao và chọn kẻ dưới đất thấp, dù chúng nhân có xây dựng cho mình những tòa lâu đài kiên cố, hoặc những dinh thự nguy nga đi chăng nữa, nhưng tất cả mọi thứ ấy đều bị hủy hoại, đều bị bỏ đi. Vì , bộ mặt thế gian sẽ qua đi, nhưng , những chân lý thì không thể hư mất.

Nhân thế được sinh ra trên mặt đất không thể “vĩnh cư” trên mặt đất, công sức con người trên mặt đất chỉ là hư vô, bởi lẽ, con người chẳng biết mình từ đâu và do đâu, nếu như họ phủ nhận Thiên Chúa.

Chúng ta thấy như thế, con người thật đáng thương, dù họ tội lỗi, vì thế, Thiên Chúa là tình yêu, để làm cho nhân thế nhận biết chân lý nơi tình yêu duy nhất từ Thiên Chúa.

Theo đó, không có mầu nhiệm nào lớn hơn ơn Cứu Độ, từ Mầu Nhiệm Cứu Độ nơi Thiên Chúa, Người ban cho tất cả chúng nhân những ân sủng siêu nhiên, trong đó có những mầu nhiệm liên đới., như mầu nhiệm Nhập Thể và Nhập Thế, Mầu Nhiệm Mẹ Thiên Chúa, Mầu Nhiệm Giáng Sinh, Phục Sinh . v.v…

Trọng trách Mẹ Thiên Chúa nơi Đức Trinh Nữ Maria chỉ là một trọng trách “làm Mẹ” bình thường với trọng trách người mẹ, có nghĩa là Mẹ dâng chúa Giêsun vào đền thờ ,thanh tẩy theo luật Môi-sen, tiến dâng làm lễ cắt bì cho Chúa Giêsu, đặt Tên cho Chúa Giêsu, Tên mà sứ thần đã loan báo, nhưng, điểm đáng chú ý nơi Đức Mẹ là, Mẹ hằng suy tưởng những những điều kỳ diệu xảy ra với Chúa Giêsu, dù là Con của Mẹ, nhưng, Mẹ hằng suy đi nghĩ lại trong lòng, có nghĩa là Mẹ luôn chú tâm đến các mầu nhiệm xảy ra với Chúa Giêsu.

Như thế, các mục đồng là những chứng nhân tiên khởi cho mầu nhiệm Giáng Sinh của Con Thiên Chúa làm Người, đồng thời vinh quang nơi Đấng Cứu Thế được tỏ hiện nơi nhân loại.

Như vậy, “GIÊSU “ là “Tên” của một Ngôi Vị Thiên Chúa làm Người, để ở giữa nhân loại, chứ Thiên Chúa không có “Danh tính” bởi vì , Ngài là Thiên Chúa. Có lần chính Thiên Chúa tỏ cho Môi-sê biết “Danh Ngài” là ADONAI nghĩa là “YEHOWA “, “YAHVE”, nghĩa là Đức Chúa, Danh tính nầy chưa từng tỏ cho ai, kể cả Áp-raham, Isaac, và Gia-cóp.

Theo đó, khi nói về Mẹ Thiên Chúa, chính là Mẹ Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế. Rõ ràng, nơi Đức Mẹ không thể nhận tước hiệu là :”Con Thiên Chúa “ được. Vì , chân lý là Đức Mẹ đã sinh ra Chúa Giêsu. Như vậy, “GIÊSU” có nghĩa là “Đấng Cứu Độ”. Như vậy, Đức Mẹ được gọi là “ Mẹ Đấng Cứu Chuộc “, thì chính xác hơn là “ Mẹ Đồng Công”.

Chúng ta thấy, mỗi vị Giáo Hoàng có một “đặc ân”, ơn bất khả ngộ của các Đức Giáo Hoàng là riêng biệt, mỗi vị  đều nhận được mặc khải riêng tư. Vì thế, chúng ta tôn trọng, vâng lời tuyệt đối các Vị Giáo Hoàng là điều minh chính vậy.

Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh, không có sự thật nào lớn hơn chân lý, cũng không có ân sủng nào lớn hơn tình yêu. Vì thế, Thiên Chúa đã biểu lộ chân lý và tình yêu nơi Đức Giêsu- Kitô, một mặc khải lạ lùng và một ân sủng lớn lao, trong đó Mầu Nhiệm làm Người của Người phải có một Người Mẹ. Vì thế, Đức Trinh Nữ Maria, từ một thụ tạo, được kêu mời làm Mẹ Đấng Cứu Thế, xin cho chúng con mỗi ngày biết kính tin sùng mộ một mầu nhiệm quá đỗi lớn lao của Mẹ Rất Thánh, hầu phát sinh ân sủng siêu nhiên cho chúng con./. Amen

Về mục lục

.

LỄ MẸ THIÊN CHÚA

Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải

“Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa,

Và lòng tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi.

Từ nay muôn thế hệ sẽ khen rằng tôi diễm phúc,

Vì Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả…”.

Thưa anh chị em,

Lời ca mừng tràn đầy niềm vui của Đức Trinh Nữ Maria trên đây vẫn đang âm vang và sẽ còn âm vang mãi qua muôn thế hệ. Tại sao vậy? Thưa, vì Đấng Toàn Năng đã làm cho Mẹ Maria những điều trọng đại, và một trong những điều trọng đại ấy mà chúng ta mừng kính Đức Mẹ hôm nay, đó là đặc ân: làm Mẹ Thiên Chúa.

Sau khi ông bà nguyên tổ phạm tội, Thiên Chúa quyền năng làm được mọi sự. Ngài có thể tạo thành một nguyên tổ khác; Ngài là tình yêu có thể tha bổng cho ông bà; hay Ngài có thể đích thân từ trời xuống để cứu cuộc con người, nhưng trong muôn vàn cách thế ấy thì Thiên Chúa đã chọn con đường Maria đến với nhân loại chúng ta. Bởi lẽ do sự cứng lòng tin của bà Evà không nghe Lời Chúa, nên bị loại trừ; thì nhờ lòng tin của Mẹ Maria thưa lời xin vâng, nên được Thiên Chúa tuyển chọn.

Thiên chức Mẹ Thiên Chúa có nền tảng trong Thánh kinh và Thánh Truyền:

– Trong biến cố truyền tin, thiên thần Gabriel nói với Đức Mẹ  rằng: “Người Con Bà sinh ra sẽ là Đấng thánh và được gọi là Con Thiên Chúa” ( Lc 1,30-32).

– Rồi khi Đức Mẹ đi thăm người chị họ, bà Isave được Chúa Thánh Thần soi dẫn nên cất tiếng nói rằng: “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi”(Lc 1,43).

Tín điều Mẹ Thiên Chúa được Công đồng Êphêsô tuyên tín vào năm 431 như sau: “Nếu ai không tin Đấng Emmanuel là Thiên Chúa thật và Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Thiên Chúa, thì người đó bị vạ tuyệt thông”.

Và để kỷ niệm ngày công bố tín điều, Đức thánh cha Piô XI đã thành lập lễ này vào ngày 1 tháng 1 năm 1931.

Anh chị em thân mến,

Theo tư tưởng của thánh Mông-pho nói rằng: “ Khi Đức Mẹ cưu mang Chúa Giêsu là đầu Nhiệm thể, thì đồng thời Đức Mẹ cũng cưu mang tất cả chúng ta là những chi thể trong thân mình mầu nhiệm ấy”.

Đức Mẹ sinh chúng ta ở đâu? Thưa, Đức Mẹ sinh chúng ta trong nguồn ân sủng dưới chân cây thập giá qua lời trối của Chúa Giêsu, và lúc bấy giờ Gioan tông đồ đại diện cho toàn thể nhân loại đón nhận Đức Mẹ về nhà phụng dưỡng thay cho Chúa Giêsu.

 Công Đồng Vaticanô II trong Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân số 62  đã xác nhận:

 “Đức Maria được Thiên Chúa mời gọi cộng tác vào chương trình cứu độ cách rất đặc biệt, nhờ lòng vâng phục, Đức Tin, Đức Cậy, và Đức Ái nồng nhiệt để tái lập sự sống siêu nhiên cho các linh hồn. Bởi vậy, trên bình diện ân sủng Ngài thật là Mẹ chúng ta”.

Thiên Chúa ban cho người phụ nữ nào cũng có tấm lòng người mẹ, và người mẹ nào cũng thương con, vì thương con nên người mẹ đó hi sinh, bao dung, tha thứ mỗi khi con mình lầm lỡ. Cho nên tục ngữ ca dao Việt nam có những vần thơ diễn tả về tầm lòng hi sinh của người mẹ hết sức sâu sắc:

Ngày đêm mẹ ẵm, mẹ bồng, bên ướt mẹ nằm, bên ráo cho con.

Miếng ăn miếng mặc mẹ lo, làm sao con được ấm lo mẹ mừng.

Cũng vì con, chính vì con, mỗi ngày mẹ một gầy mòn tấm thân.

Trong lịch sử nhân loại cho thấy khi đứa con gặp hoạn nạn, có nhiều người mẹ hy sinh tấm thân mình để cứu sống con mình.

Mẹ Maria hi sinh cho chúng ta gấp bội phần. Mẹ nghèo khó lắm, nhưng Đức Mẹ có một kho tàng cao quý nhất của lòng Mẹ đó chính là Chúa Giêsu, Đấng ban nguồn ơn sủng. Mà vì yêu thương nhân loại, Mẹ sẵn sàng hi sinh trao ban Chúa Giêsu cho chúng ta.

Mừng lễ Mẹ Thiên Chúa, chúng ta chung lời tạ ơn Thiên Chúa vì đã ban Đức Mẹ cho chúng ta. Cám ơn Đức Mẹ đã thương nhận chúng ta là con của Mẹ.

Giáo hội mừng lễ Mẹ Thiên Chúa trong ngày đầu năm mới, là có ý xin Đức Mẹ là mẹ của Vua Hoà Bình, ban cho quốc thái dân an. Cùng nhau xây dựng một nền văn minh tình thương. Nhà nhà được ấm no hạnh phúc. Chớ gì mỗi người chúng ta hãy bắt chước Chúa Giêsu sống hiếu thảo đối với Đức Mẹ.

 Hiếu thảo với Mẹ không phải chúng ta đi rao giảng về Mẹ, viết nhiều sách về Mẹ, hay xây nhiều đền đài, nhà thờ tôn kính Mẹ. Điều đó tốt lắm, nhưng chưa tốt bằng an ủi Mẹ là chúng ta sống vâng lời Mẹ dạy Mẹ khuyên: Mẹ khuyên chúng ta điều gì? Mẹ khuyên: hãy thực hiện ba mệnh lệnh Mẹ ban ở Fatima.

 Hiếu thảo với Mẹ không phải chúng ta mua nhiều hoa dâng kính Mẹ điều đó tốt thật, nhưng cũng chưa tốt bằng chúng ta sống hiệp nhất yêu thương nhau, vì cha mẹ nào cũng hạnh phúc khi thấy con cái sống yêu thương. Biết nhường phần hơn, nhịn nết xấu, đoán ý lành cho nhau.

 Hiếu thảo với Mẹ không phải là chúng ta bỏ thời giờ đi hành hương Đức Mẹ nơi này nơi khác, điều đó tốt lắm, nhưng cũng chưa tốt bằng noi gương Chúa Giêsu sống phó thác cuộc đời cho Mẹ. Chúa Giêsu là Thiên Chúa nhưng đã làm gương cho chúng ta sống phó thác vào Đức Mẹ. Khi sinh ra nằm trong vòng tay âu yếm của Mẹ, và khi chết rồi cũng nằm trong vòng tay từ mẫu của Mẹ.

Nếu chúng ta yếu đuối, Mẹ là sức mạnh tay đỡ tay nâng.

Nếu chúng ta gặp những đau khổ trên đường đời, có Mẹ là người đồng hành nâng đỡ ủi an.

Nếu chúng ta là tội nhân, Mẹ là Trạng sư bầu cử đắc lực trước tòa Chúa.

Cuối cùng, trước thềm năm mới, chúng ta cầu xin Chúa tha thứ những lỗi lầm, những thiếu sót trong năm cũ. Ước gì bước sang năm năm mới mỗi người nên có những quyết tâm đổi mới. Chẳng hạn như quyết định chừa một nết xấu nào đó như: giảm bớt uống rượu và hút thuốc lá; giảm bớt nói hành nói xấu người khác. Quyết định dành nhiều thời giờ cho Chúa, dành nhiều thời giờ cho gia đình và quan tâm đến con cái… có như vậy mỗi năm thêm tuổi mới, thêm được một điều hữu ích cho bản thân và gia đình của mình. Amen.

Về mục lục

.

KÍNH MỪNG MẸ

Trầm Thiên Thu

Mẹ Xin Vâng Trở Thành Mẹ Thiên Chúa

Con Hạnh Phúc Mừng Kính Trinh Nữ Vương

Sau khi được sứ thần truyền tin, Đức Mẹ đi thăm bà chị họ Êlidabét, mẹ của Thánh Gioan Tẩy Giả, và bà Êlidabét đã tuyên xưng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa lần đầu tiên: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Lc 1:43). Thế nhưng mãi đến năm 431, Giáo Hội mới định tín “Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Thiên Chúa” qua Công Đồng Êphêsô, ngày 22 tháng 6.

Niềm hạnh phúc dâng cao trong ngày đầu năm vì chúng ta được bày tỏ lòng thảo kính đối với Mẹ Thiên Chúa. Trong cuộc sống đời thường, đứa con rất cần mẹ, vì có mẹ là có tất cả, có mẹ thì con luôn cảm thấy bình an, dù cho chuyện gì xảy ra xung quanh, kể cả sự nguy hiểm.

Con người rất coi trọng sự khởi đầu, với công việc thì gọi là khai trương. Ngày đầu năm dương lịch là ngày Tết, là ngày cầu cho thế giới được hưởng nền hòa bình đích thực của Thiên Chúa, và đặc biệt là ngày lễ kính mừng Thánh Mẫu Thiên Chúa – cũng là Mẹ của mọi tín nhân Công giáo. Trong đời thường, có mẹ là có niềm vui và an toàn đối với con cái. Mẹ là tất cả của con, là “sợi dây” đưa cánh-diều-con bay vút lên cao và vươn ra xa. Mẹ thật là kỳ diệu và tuyệt vời!

Ai cũng có mẹ. Các danh nhân cảm nhận sâu sắc và diễn tả Tình Mẹ theo cảm nhận riêng của mỗi người, Florian nhận định: “Nơi ẩn náu yên ổn nhất là lòng mẹ”. Ở bên mẹ thì cảm thấy an toàn. Thật vậy, những đứa con ngoan hiền luôn nghĩ về mẹ vì mẹ quá tuyệt vời: “Trên môi và trong trái tim đứa con: Mẹ chính là tên của Thượng Đế” (Thackeray). Tương tự, mẹ cũng luôn nghĩ về con vì con là “cục vàng” của mẹ: “Tương lai của con là công trình của mẹ” (Napoléon I). Mẹ chứng tỏ công trình của Tạo Hóa dành tặng cho con người: “Trái tim người mẹ là kiệt tác của Thượng Đế” (Gretry). Người mẹ sinh học chỉ là phàm nhân mà chúng ta cũng không thể hiểu hết: “Lòng mẹ là vực sâu mà dưới đáy luôn có sự khoan dung” (Balze). Thế thì chúng ta chẳng bao giờ hiểu hết tình thương bao la và sâu thẳm của Người Mẹ tâm linh – Đức Maria. Đặc biệt là, trước Tôn Nhan Thiên Chúa, Đức Mẹ luôn bênh vực cho chúng ta.

Đấng toàn năng là Thiên Chúa đã tạo nên Người Mẹ thật độc đáo, chẳng bao giờ chúng ta có thể hiểu được Tình Mẫu Tử. Từ cổ chí kim, biết bao tác phẩm nghệ thuật diễn tả Tình Mẹ nhưng chẳng bao giờ có thể diễn tả trọn vẹn. Cha và mẹ đều có vị trí riêng, nhưng vị trí của mẹ luôn có điều đặc biệt. Có lẽ đặc biệt vì lý do kỳ diệu mà thi sĩ Chế Lan Viên đã mô tả: “Con dù lớn vẫn là con của mẹ, đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con” (thi phẩm “Con Cò”). Con vui thì mẹ mừng, nhưng con đau một thì mẹ đau mười. Có mẹ thật hạnh phúc, nhưng thật bất hạnh cho những ai chịu mồ côi: “Mồ côi cha là một lần mồ côi, mồ côi mẹ là bảy lần mồ côi”. Thảo nào tục ngữ nói: “Mất cha ăn cơm với cá, mất mẹ liếm lá đầu đường”. Mồ côi mẹ khổ lắm, khó có thể tưởng tượng mức độ khổ của kẻ mồ côi, nhất là đối với những đứa trẻ!

Trong “bản giao hưởng cuộc đời”, Tình Mẹ như nốt trầm êm ả, có thể không được lưu ý nhưng lại vô cùng quan trọng, vì đó là nốt nền để làm nổi bật những nốt khác, và làm nổi bật cả giai điệu: “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào…” (Lòng Mẹ, cố NS Y Vân). Cách mô tả của ông về người mẹ đơn giản mà sâu sắc lắm.

Từ ngàn xưa, Đức Chúa đã căn dặn ông Môsê: “Hãy nói với A-ha-ron và các con nó rằng: Khi chúc lành cho con cái Ít-ra-en, anh em hãy nói thế này: Nguyện Đức Chúa CHÚC LÀNH và GÌN GIỮ anh em! Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh (em) và dủ lòng thương anh em! Nguyện Đức Chúa GHÉ MẮT NHÌN và BAN BÌNH AN cho anh em! Chúc như thế là đặt con cái Ít-ra-en dưới quyền bảo trợ của danh Ta, và Ta, Ta sẽ CHÚC LÀNH cho chúng” (Ds 6:22-27). Lời chúc bình an luôn được sử dụng nhiều, cả trong tôn giáo lẫn xã hội. Lời chúc lành đẹp nhất chắc chắn là lời chúc bình an: “BÌNH AN dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 2:14). Đó là sự bình an đích thực của Thiên Chúa, không phải của thế gian. Vì thiếu bình an nên cảm thấy bồn chồn, thế nên chúng ta luôn cầu xin bình an: “Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, xin ban BÌNH AN cho chúng con”. Có Chúa thì mới cảm thấy bình an: “Tâm hồn con khắc khoải không ngừng cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa” (Thánh Augustinô).

Tai ương và chiến tranh rất nguy hiểm, vì thế mà cần hòa bình, dù là hòa bình về phương diện xã hội hoặc tinh thần, nhưng phải là sự hòa bình đích thực. Hòa bình trọn vẹn phải là hòa bình cả thể lý lẫn tinh thần. Rất cần!

Thành tâm và tha thiết, Thánh Vịnh gia miệt mài cầu xin: “Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài” (Tv 67:2-3). Ước nguyện là một dạng cầu chúc, ước cho chính mình và chúc cho người khác: “Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa, chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài! Ước gì muôn nước reo hò mừng rỡ, vì Chúa cai trị cả hoàn cầu theo lẽ công minh, Người cai trị muôn nước theo đường chính trực và lãnh đạo muôn dân trên mặt đất này. Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa, chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài” (Tv 67:4-6). Ước nguyện cũng là một dạng cầu nguyện, tất nhiên cũng phải thành tâm thiện chí.

Trong suốt thời gian Mùa Vọng, chúng ta tha thiết cầu xin trời cao đổ Sương Thánh xuống và ngàn mây mưa Đấng Cứu Tinh, và rồi chúng ta đã được thỏa nguyện ngay trong đêm Giáng Sinh: “Đất đã sinh ra mùa màng hoa trái: Chúa Trời, Chúa chúng ta, đã ban phúc lộc” (Tv 67:7). Đấng Emmanuel đang ở với chúng ta. Nhưng đừng dừng lại ở đó, lo hưởng thụ mà quên cầu nguyện. Con người yếu đuối, rất dễ “ngủ quên trong chiến thắng”, vì thế mà chúng ta vẫn phải luôn tỉnh thức và cầu xin không ngừng: “Nguyện Chúa Trời ban phúc lộc cho ta! Ước chi toàn cõi đất kính sợ Người!” (Tv 67:8). Tuy nhiên, Mùa Vọng cuộc đời chưa chấm dứt, vẫn tiếp tục… và rồi sẽ đến hồi kết thúc.

Lễ Giáng Sinh chứng tỏ rằng tất cả các lời tiên tri đã ứng nghiệm rạch ròi, chính xác, hai năm rõ mười: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã dùng các tiên tri mà phán dạy cha ông, nhưng đến thời sau hết, tức là trong những ngày này, Người đã phán dạy chúng ta nơi người Con” (Dt 1:1-2).

Vào thời điểm này, chúng ta đang được sống trong thế kỷ XXI, thời kỳ khoa học tiến bộ, nhưng lại là thời kỳ cánh chung, thời kỳ viên mãn. Thánh Phaolô cho biết: “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, SINH LÀM CON MỘT NGƯỜI ĐÀN BÀ, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử. Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến NGỰ TRONG LÒNG ANH EM mà kêu lên: Áp-ba, Cha ơi!” (Gl 4:4-6). Không gì có thể so sánh với niềm hạnh phúc quá lớn này. Tại sao không thể chứ?

Theo “nguyên tắc tự nhiên”, cái gì cũng có lý do và nguyên nhân. Hãy nghe Thánh Phaolô giải thích: “Anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa” (Gl 4:7). Hạnh phúc tăng theo cấp số nhân, vì chúng ta chỉ là tội nhân khốn nạn đáng án tử, thế mà lại được trắng án, đặc biệt hơn nữa là chúng ta được làm con cái của Thiên Chúa và được kế thừa di sản thánh: “Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa, mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa” (1 Ga 3:1). Chuyện như không tưởng mà lại là sự thật trăm phần trăm, không hề mơ hồ, không hề ảo tưởng.

Thiên Chúa thương ban cho chúng ta Người Mẹ thứ nhất là Bà Tổ Êva – Mẹ của chúng sinh (St 3:20), nhưng chúng ta hóa “mồ côi” vì Bà bất tuân lệnh Thiên Chúa. Tình thương của Thiên Chúa không suy giảm, Ngài lại ban cho chúng ta Người Mẹ thứ nhì là Đức Maria – Mẹ Thiên Chúa. Không chỉ vậy, Ngài còn ban cho chúng ta Người Mẹ thứ ba là Người Mẹ sinh học của mỗi người. Kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa kỳ diệu, chúng ta không thể hiểu thấu.

Trình thuật Lc 2:16-21 đề cập việc các mục đồng hối hả đến thờ lạy Vương Nhi Giêsu, họ cũng gặp Đức Mẹ – Thánh Mẫu Thiên Chúa, với đức tính nhu mì khác lạ, và gặp Đức Dưỡng Phụ Giuse rất ít nói. Họ tận mắt tỏ tường thấy Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ, sự thật chứ chẳng mơ hồ hoặc chiêm bao. Chắc chắn lúc đó lũ trẻ chăn chiên léo nhéo nói cười vì thích thú, và cũng nựng Bé Giêsu nhiều lắm. Ôi, ai cũng dễ thương quá chừng!

Thấy mà thương, Thánh Gia nghèo khó quá, chắc hẳn các mục đồng nghèo cũng cảm thấy được an ủi và chấp nhận kiếp nghèo như Chúa muốn. Vâng, họ chỉ là những người chăn chiên thuê, nghèo lắm, khổ lắm, cựa lắm, mệt lắm. Nhưng họ thực sự diễm phúc vì được trở nên các chứng nhân đầu tiên về Con Thiên Chúa giáng sinh. Vấn đề quan trọng là các mục đồng đã TIN ngay và TIN thật lòng. Nếu là chúng ta, liệu lòng tin của chúng ta có đủ mạnh như họ? Đơn giản mà nhiêu khê, chưa chắc có thể tin được như họ!

Sau đó, các mục đồng trở về và kể lại điều đã được thiên thần nói với họ về Hài Nhi này. Dân nghèo chất phác, mộc mạc, vô tư và đơn giản, không biết dựng chuyện, giấu giếm hoặc lọc lừa, cứ có sao nói vậy. Nghe những người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên. Mà ngạc nhiên cũng phải thôi, chứ không sao được, bởi vì chuyện kể của các mục đồng quá lạ lùng, ngoài sức tưởng tượng. Thế nhưng những người nghe kể cũng đã tin câu chuyện của các mục đồng là thật. Ôi, họ cũng là những người hạnh phúc biết bao!

Mọi thứ có vẻ “bình thường”, nhưng có điều “khác thường” ở Người Mẹ Trẻ Maria. Kinh Thánh cho biết “điều lạ” đó: “Bà Maria hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng”. Rõ ràng Đức Mẹ ít nói lắm, nhưng chắc là hay cười lắm. Thế thì hiền quá chừng! Đúng thế chứ chẳng sai đâu, bởi vì khi hiện ra với cô bé Bernadette ở Lộ Đức (1858), Đức Mẹ cũng hay cười.

Thánh Luca cho biết rằng khi các người chăn chiên ra về, họ vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ. Đức tin làm cho họ vui mừng và họ sẵn sàng loan báo Tin Mừng cho người khác…

Và Thánh sử Luca tường thuật thêm chi tiết khác: “Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giêsu, đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ”. Mọi điều diễn biến hoàn toàn ứng nghiệm như lời tiên tri từ trước, đúng từng chi tiết, từng dấu chấm và dấu phẩy.

Ai cũng có mẹ và cũng đã và đang cảm nhận tình mẫu tử. Người mẹ lạ vô cùng, Tình Mẹ kỳ diệu lắm. Khi Thiên Chúa muốn Con Một Giêsu giáng sinh làm người, Ngài biết đường đời gian nan lắm, và Ngài đã tiền định cho Con Trẻ Giêsu một Người Mẹ. Chúng ta thật hạnh phúc vì cũng được tiền định làm con cái của Đức Trinh Nữ Maria – Mẹ Thiên Chúa. Trong niềm hân hoan Chúa giáng sinh, chúng ta hãy hát lên Bài Ca Ngợi Khen Magnificat của Đức Mẹ, và Kinh Hòa Bình của Thánh Phanxicô Assisi, đặc biệt là hôm nay – ngày cầu bình an cho toàn thế giới, và cầu xin cho trái đất này duy trì môi sinh để xứng đáng là Hành Tinh Xanh, nơi Thiên Chúa giao cho chúng ta có trách nhiệm phát triển và bảo vệ.

Lạy Thiên Chúa duy nhất của chúng con, xin giúp chúng con biết chu toàn lề luật của Ngài và bổn phận làm con. Xin giúp chúng con luôn biết tôn kính song thân, người đại diện Ngài, bằng cách giữ trọn hiếu thảo theo gương Thánh Tử Giêsu, và xin làm cho chúng con trở nên khí cụ bình an của Ngài.

Lạy Thánh Mẫu Thiên Chúa và Hiền Mẫu của chúng con, xin giúp chúng con chuyên cần thi hành những gì Mẹ nhắn nhủ, đặc biệt là ba Mệnh Lệnh Fátima, xin Mẹ cầu cho chúng con trước mặt Thiên Chúa, bây giờ và mai sau. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ của nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

CUỘC TRAO ĐỔI DIỆU KỲ

JM. Lam Thy

Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo (số 526) đã viết về lễ Giáng Sinh: “Mầu nhiệm Giáng Sinh được thực hiện nơi chúng ta khi Đức Ki-tô “thành hình” nơi chúng ta (Gl 4, l9). Việc Giáng Sinh của Chúa Giê-su là mầu nhiệm của việc “trao đổi kỳ diệu” này: Ôi việc trao đổi diệu kỳ! Đấng sáng tạo loài người, đã đoái thương sinh làm con một Trinh Nữ, đảm nhận một xác thể và một linh hồn, và đã ban cho chúng ta thiên tính của Người khi làm người mà không cần đến sự can thiệp của con người! (Tiền xướng tuần bát nhật Giáng Sinh).“ Quả thực là một “trao đổi diệu kỳ”: Thiên Chúa xuống thế trong “một xác thể và một linh hồn” của người phàm “mà không cần đến sự can thiệp của con người”, với mục đích là ban cho con người có được “thiên tính” của Người.

Thường khi sinh con, các bậc cha mẹ phải đặt tên cho con. Có nhiều trường hợp người con chỉ mới được tượng thai trong lòng mẹ, thì cha mẹ đã lo chọn cho người con một cái tên hợp với ý nguyện của họ. Tục lệ dân Do Thái ngày xưa cũng vậy, nhưng còn thêm một điểm, nếu người con ấy là con trai đầu lòng thì phải đem con đến đền thờ chịu lễ cắt bì. Đức Giê-su vâng lệnh Thiên Chúa Cha xuống thế làm người trần thế như mọi người, Người đã “sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật.” (Gl 4, 4-5). Và vì thế nên Đức Mẹ và Thánh Giu-se đều giữ đúng luật, sau khi sinh Con, đến ngày thứ 8 liền dâng Con vào đền thờ để chịu lễ cắt bì. Còn tên của Người Con cao trọng đó cũng được đặt đúng như lời sứ thần truyền: Giê-su.

Các dân tộc Đông phương đều tin rằng những người con được sinh ra, được nuôi nấng dạy dỗ cho nên người đều nhờ “Phúc đức tại mẫu” (Phúc đức tại nơi người mẹ). Cũng vì thế nên ngay từ ngàn xưa, khi mừng Lễ Chúa Giáng Sinh, Dân Chúa vẫn chú tâm đến Người Mẹ đã tượng thai và hạ sinh Con-Thiên-Chúa-làm-người và không ngớt chiêm ngưỡng khuôn mặt phúc hậu no đầy ân sủng của Đức Mẹ nơi máng cỏ Bê-lem. Có thể nói, Mùa Giáng Sinh cũng là mùa lễ Ðức Mẹ. Tuy vậy, vẫn có những ngụy thuyết (ở thế kỷ III, IV, V…) cho rằng tôn vinh Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa là xúc phạm tới Đấng Tối Cao. Họ lý luận: Thiên  Chúa dựng nên (tức là sinh ra) loài người, thì không thể có việc loài người lại sinh ra Thiên Chúa được. Nói Thiên Chúa được sinh ra từ một người đàn bà trần thế, chẳng hóa ra coi Thiên Chúa còn thua kém loài người sao?

Cụ thể như vào những thập niên đầu thế kỷ V (năm 427-429), linh mục Nestorio –  phát ngôn viên của Đức Giám mục Constantinopoli –  khi khẳng định rằng “Đức Maria chỉ là mẹ của một người, bởi vì Thiên Chúa không thể sinh ra từ một người đàn bà được”, thì lập tức các Ki-tô hữu đã coi đó là gương mù, gương xấu và mạnh mẽ phản đối ngay trước mặt Đức Giám Mục. Tuy nhiên, linh mục Nestorio đã không thay đổi tư tưởng của mình, và vì thế, Giáo hội đã phải triệu tập Công Đồng Chung Ê-phê-sô. Công Đồng khai mạc ngày 24/6/431 và đã tuyên tín: “Tuyệt thông cho những ai không tuyên xưng rằng Đấng Emmanuel thực sự là Thiên Chúa, và bởi thế, Đức Trinh Nữ là Mẹ của Thiên Chúa (Theotokos) vì Mẹ đã hạ sinh Ngôi Lời Thiên Chúa hóa thành nhục thể theo xác thịt.” (xc. DS 252, hay “The Christian Faith” trang 149).

Cứ kể ra mới nghe lập luận của phe chống đối thì thấy cũng có lý (Thiên Chúa sinh ra loài người thì làm sao loài người lại sinh ra Thiên Chúa được). Tuy nhiên, đó mới chỉ là “tư tưởng của loài người, không phải tư tưởng của Thiên Chúa” (Mt 16, 23). Thật thế, “Đối với loài người thì điều đó không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa, thì mọi sự đều có thể được.” (Mt 19, 26). Đức Giê-su là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, nhưng khi vâng lệnh Chúa Cha xuống thế làm người thì rất cần phải là một con người cụ thể bằng xương bằng thịt, được sinh ra và nuôi dưỡng như một người phàm, bởi loài người cứ thích được “thực mục sở thị” (trông thấy nhãn tiền) thì mới tin. Và vì thế, khi được sinh ra bởi Đức Maria, thì Đức Giê-su Thiên Chúa là người phàm như bao người khác. Một cách cụ thể, trong Đức Giê-su, thiên tính (bản tính Thiên Chúa) và nhân tính (bản tính loài người) kết hợp bất khả phân ly trong một ngôi vị duy nhất, như Công Đồng Nicea đã khẳng định: “Chúa Ki-tô là Thiên Chúa thật và là người thật, Người có cùng một bản thể như Thiên Chúa Cha.”

Điều đó đã liên tục được công bố bởi các Công Đồng Chung (Công Đồng Chung Ê-phê-sô năm 431; Công Đồng Chalcedonia năm 451 và Constantinople II năm 553; Công Đồng Constantinople III năm 680-681). Ngoài ra, còn có những giáo huấn của các Đức Giáo Hoàng về Mẹ Thiên Chúa như Đức Giáo Hoàng Pi-ô XI, đã ra thông điệp “Mediator Dei” để mừng kỷ niệm 1500 năm Công Đồng Ê-phê-sô và công bố lễ Mẹ Thiên Chúa mừng trong toàn thể Giáo hôi vào ngày 11 tháng 10. Đức GH Pi-ô XII, trong một thông điệp, đã tuyên bố Năm Thánh Mẫu vào năm 1954 và chủ trương rằng tước hiệu Mẹ Thiên Chúa là nguồn gốc tất cả mọi ân sủng và đặc sủng của Mẹ Maria. Sau cùng, Công Đồng Va-ti-ca-nô II trong Hiến Chế “Lumen gentium – Tín Lý Về Giáo Hội” đã dành cả chương VIII để nói về Mẹ Thiên Chúa. Và trong Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh (“Sacrosanctum Concilium”), các Nghị Phụ trong Công Đồng đã chuyển lễ Mẹ Thiên Chúa sang ngày đầu năm (01/01).

Như vậy là đã quá rõ ràng: Đức Mẹ được hồng ân tượng thai và sinh hạ Con-Thiên-Chúa-làm-người đã được tiền định từ trước vô cùng. Vậy thì còn tước hiệu nào xứng hợp hơn để nói về Ðức Maria trong lịch sử Cứu Độ bằng tước hiệu Mẹ Thiên Chúa? Từ xác tín Đức Mẹ đã tượng thai và hạ sinh Đức Giê-su Thiên Chúa, ĐTC Biển Đức XVI còn đi xa hơn khi khẳng định các Ki-tô hữu cũng được vinh dự tượng thai và hạ sinh Ngôi Lời Nhập Thể (“Vì Đức Maria hoàn toàn thấm nhuần Lời Chúa, nên ngài có khả năng trở thành Mẹ của Lời Nhập Thể. Khi chiêm ngưỡng nơi Mẹ Thiên Chúa một cuộc đời hoàn toàn do Lời lên khuôn, ta hiểu được rằng cả ta nữa cũng được mời gọi bước vào mầu nhiệm đức tin, nhờ đó, Chúa Ki-tô tới cư ngụ trong đời ta. Thánh Am-brô-si-ô nhắc nhở ta rằng xét theo một phương diện nào đó, mọi tín hữu Ki-tô đều tượng thai và sinh hạ Lời Thiên Chúa: mặc dù chỉ có Mẹ Thiên Chúa là tượng thai bằng xương bằng thịt, còn chúng ta, Chúa Ki-tô là con cái của mọi người chúng ta trong đức tin. Như thế, điều xẩy ra cho Đức Maria cũng hàng ngày xẩy ra nơi mỗi người chúng ta, trong việc nghe Lời Chúa và trong việc cử hành các bí tích.” – Tông huấn Lời Chúa “Verbum Domini”, số 20).

Ngoài ra, dựa trên mầu nhiệm Ngôi Lời giáng thế đem bình an cho nhân loại, các Đức Giáo Hoàng cũng liên tiếp ban hành những Thông điệp cầu cho thế giới một nền hòa bình vĩnh cửu. Nối tiếp truyền thống tốt đẹp đó, năm 1967 Thánh Giáo hoàng Phao-lô VI thiết lập Hội Đồng Giáo Hoàng “Công Lý và Hòa Bình”, và từ năm 1968, lập ra ngày “Hoà Bình Thế Giới” cử hành vào ngày 01/01 hàng năm. Như vậy là ngày 01/01 hàng năm là ngày tổng hợp 4 ý niệm cao trọng: Lễ Cắt Bì và Lễ Đặt Tên Con Thiên Chúa làm người + Lễ Mẹ Thiên Chúa + Ngày Thế giới hòa bình. Tất cả lại một lần nữa minh nhiên thành ngữ “Phúc đức tai Mẫu” (mà kẻ viết bài này chỉ muốn viết “Phúc đức tại Thánh Mẫu Maria”).

Tóm lại, ngày đầu năm – ngày sum họp gia đình – trong bầu khí nồng ấm của mùa Xuân, hãy “hướng về Đức Trinh Nữ Maria, người mà – như Công Đồng Va-ti-ca-nô II nhắc nhở chúng ta – là “mẫu mực của Giáo hội trong giới luật của đức tin, lòng nhân hậu, và hiệp nhất hoàn hảo với Đức Ki-tô” (Hiến chế Tín lý về Giáo hội “Lumen Gentium”, số 63). Đó chính “Là người con gái của Israel, Đức Maria đã trả lời bằng đức tin trước tiếng gọi của Thiên Chúa và trở thành Mẹ của Con Một Người. Mẹ dạy chúng ta sống một đời sống đức tin bằng sự vâng phục của Mẹ trước ý định của Thiên Chúa và sự tận tâm trung kiên của mình với Chúa Giê-su và công việc của Người.” (Bài Giáo huấn ngày thứ Tư 23/10/2013 của ĐTC Phan-xi-cô).

Hướng về Đức Trinh Nữ Maria trong tâm tình sống 4 ý niệm cao trọng: Lễ Cắt Bì và Lễ Đặt Tên Con Thiên Chúa làm người + Lễ Mẹ Thiên Chúa + Ngày Thế giới hòa bình, người Ki-tô hữu không chỉ gói gọn trong gia đình của mình, mà là mở ra với anh em trên khắp năm châu bốn biển, bởi vì “Đây chính là một tin tốt lành đòi hỏi mỗi người bước về phía trước, thực thi lòng thương xót vô hạn, lắng nghe những đau khổ cũng như hy vọng của người khác, kể cả những người ở xa tôi, và bước đi trên con đường đầy đòi hỏi của tình yêu, một tình yêu biết trao ban và tiêu tốn chính mình một cách tự do cho lợi ích của anh chị em chúng ta.” (ĐTC Phan-xi-cô – Sứ điệp “Ngày Thế giới hòa bình” 2013, số 10).

“Chúng ta hãy lấy cảm hứng từ những lời của Thánh Gio-an Phao-lô II: “Nếu ‘giấc mơ’ về một thế giới hòa bình được chia sẻ bởi tất cả mọi người, nếu sự đóng góp của những người tị nạn và những người nhập cư được đánh giá một cách đúng đắn, thì nhân loại có thể ngày càng trở thành một gia đình phổ quát và trái đất của chúng ta quả thực là một ‘ngôi nhà chung’ thực sự. Trong suốt lịch sử, nhiều người đã tin vào ‘giấc mơ’ này. Và những thành tựu của họ là một bằng chứng cho thấy rằng điều đó không chỉ là một sự ảo tưởng.” (Sứ điệp “Ngày Thế giới hòa bình” 2018, số 6).

Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng, ngày Ðức Trinh Nữ Maria sinh hạ Ðấng Cứu Thế, Chúa đã tặng ban cho nhân loại, kho tàng ơn cứu độ muôn đời. Xin cho chúng con được nhờ lời Ðức Mẹ nguyện giúp cầu thay, vì chính nhờ Ðức Mẹ chúng con mới được nhận lãnh nguồn sức sống vĩnh cửu là Ðức Giê-su Ki-tô, Con Chúa, Chúa chúng con. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ lễ THÁNH MARIA MẸ THIÊN CHÚA”)

Về mục lục

.

CÔNG ĐỨC SINH THÀNH

Lm. Jos. DĐH.

Sống hiếu sống thảo, từ xa xưa vẫn được con cháu thực thi như một sứ mạng cao cả, xuất phát bởi công đức sinh thành, hoặc ơn cha nghĩa mẹ. Để nên vợ thành chồng, để có thánh lễ khấn dòng, để các ứng sinh gia nhập hàng giáo sĩ, tất cả đều được thẩm vấn về tình yêu và sự tự do. Giới văn nghệ sĩ thường lấy tình yêu nam nữ làm đối tượng sáng tác nghệ thuật, diễn tả đời người là một bức tranh gia đình sống động: đôi ta như chỉ xe ba, cha mẹ xe ít, đôi ta xe nhiều. Cũng do vị trí của người vợ rất quan trọng nơi gia đình, nên trong ca dao tục ngữ, khi nói về người vợ, tiền nhân chúng ta nói: giầu vì bạn, sang vì vợ  ; vợ hiền là trăng rằm sáng soi. Lại vì chữ tình trĩu nặng, nhạc sĩ Y-vân đã diễn tả: “Lòng Mẹ bao la như biển thái bình”, gợi lên nhiều cảm xúc cho những ai sống phận làm con.

Mừng lễ Maria Mẹ Thiên Chúa, không phải là lúc chúng ta bày tỏ lòng cảm kích đối với người làm mẹ, làm vợ, đúng hơn, phận làm con trong gia đình Hội-thánh phải lớn lên về ý thức, phải trưởng thành về nhân cách, hầu tiếp tục truyền thống “cha là núi, mẹ là sông”. Mẹ Thiên Chúa là Mẹ cưu mang Ngôi Lời nhập thế, trước khi được gọi, được chọn, làm Mẹ Đấng Em-ma-nu-el, Mẹ là một thiếu nữ Do-thái đạo hạnh. Sau khi hoàn tất sứ mạng làm Mẹ Đấng cứu độ, đứng dưới chân thập giá, Mẹ đã nhận lãnh sứ vụ làm Mẹ Giáo hội, đồng hành, bầu chữa cho kẻ tội lỗi trước toà Chúa. Tất cả những ai là con đều được sinh ra từ người mẹ, tất cả những ai tin thờ Chúa đều vinh dự được gia nhập Đại gia đình của Chúa, được gọi Thiên Chúa là Cha, gọi Đức Giêsu là Đấng cứu độ, gọi Đức Maria là Mẹ từ ái.

Hôm nay đây, ngày cuối cùng tuần bát nhật Giáng Sinh, ngày đầu tháng đầu năm, ngày mà nhân loại đang chào chúc nhau sức khoẻ, niềm vui, phúc lộc dư đầy, cùng ước mong được sống những ngày tháng ở phía trước đầy ý nghĩa. Khi nhắc tới cội nguồn, mọi người đều nghĩ đến công đức sinh thành, khi nói tới lý trí, ý chí, con cháu thường dõi theo người cha, khi nói đến “chữ tình”, chúng ta thường bày tỏ cảm xúc bằng hình ảnh người mẹ. Nơi người mẹ chỉ có tình yêu thương, có trọng trách với con cháu: nuôi con chẳng ngại đến thân, chỗ ướt mẹ nằm chỗ ráo con lăn. Đúng là mẹ theo huyết thống hay mẹ theo đặc ân làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Giáo-hội, đều mang chung một bận tâm: chia sẻ yêu thương, phục vụ trong tin yêu, “còn Maria thì ghi nhớ tất cả các sự kiện đó và suy niệm trong lòng”.

Hôm nay hay hôm xưa, cách sống hay cách bày tỏ tình cảm của con người rất khác nhau, nhưng tình mẹ thì không thay đổi: tương lai của đứa con, luôn là công trình của người mẹ. (Napoleon). Mẹ Maria được thánh sử Luca nhắc tới nhiều ưu tư về Hài-nhi Giêsu từ thời thơ ấu, rồi một chuỗi dài ngày tháng là lời thưa vâng cho đến khi Đức Giêsu hoàn tất mầu nhiệm cứu độ. Mẹ Maria tiếp tục sứ mạng chăm sóc dưỡng dục, hiệp nhất tâm hồn người thế nên một đoàn chiên duy nhất trong Đức Kitô. Người ta có thể đo được độ sâu, kiểm tra được chiều dài chiều rộng của biển cả, nhưng công đức của bậc sinh thành thì làm sao mà cân đo đong đếm ! Giáo hội có thể nói về mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Đức Kitô, phụng vụ hàng tháng trong năm, đều có những ngày lễ kính nhớ Đức Maria, nhưng liệu Giáo-hội có thể hiểu và chia sẻ đầy đủ nhất về “chữ tình” của Mẹ cho con cháu không ?

Các văn sĩ, những thế hệ con cháu, họ có thể nói rất hay về mẹ, có thể tâm phục khẩu phục về tư cách của mẹ mình, mẹ là gương sáng, mẹ từng âm thầm và quyết đoán trong giáo dục đức hạnh cho con cháu: mẹ là người có thể thay thế bất lỳ ai khác, nhưng không ai khác có thể thay thế được mẹ. Hôm nay, phụng vụ đang nói tới Mẹ Thiên Chúa, chúng ta đọc được gì, chúng hiểu gì về tình yêu thương của Mẹ dành cho việc chăm sóc, cộng tác, và đồng công trong mầu nhiệm cứu độ của Đức Giêsu ? Mẹ Thiên Chúa hẳn cũng không cần chúng ta nói hay, nói giỏi về cách sống, cách chu toàn sứ mạng Chúa trao cho Mẹ, nhưng là cần mỗi người chúng ta biết sống tình con thảo, biết thực thi lời thưa vâng như Mẹ.

Cha mẹ thương con biển hồ lai láng, kinh nghiệm ấy không phải là lý thuyết mơ hồ, mỗi chúng ta đều có cơ hội để trả lời về công đức sinh thành mà ta đã nhận, mỗi người có thể nói không lưu loát, nhưng sẽ hành động đẹp và hay. Tương lai ở phía trước, cuộc đời là như vậy, ngày nào chưa đi đến điểm cuối, thì chúng ta chưa thể biết ai sẽ là người cùng ta đi hết chặng đường ? Niềm tin vẫn đang mách bảo: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” là sự thật. Mẹ Maria sẽ là Đấng theo con cái của Mẹ đến ngày cùng tận, đó là tình thương, đó là sứ mạng mà Mẹ đã nhận dưới chân thập giá năm xưa. Chúng con xin chúc tụng Chúa, tôn vinh Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Giáo-hội, Mẹ của từng tâm hồn chúng con. Amen.

Về mục lục

.

MẸ THIÊN CHÚA – NỮ VƯƠNG HÒA BÌNH

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Tám ngày sau lễ sinh nhật của Đức Giêsu Chúa chúng ta, Giáo hội mời gọi con cái mình cử hành lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa với tất cả lòng kính trọng và biết ơn, vì nhờ Mẹ, Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho chúng ta.

Đức Maria Mẹ Thiên Chúa

Không có gì lạ, khi có người đặt câu hỏi: chúng ta có nên gọi Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Thiên Chúa không? Vì nếu Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa, thì chẳng lẽ Đức Maria, Đấng đã hạ sinh Chúa Giêsu lại không phải là Mẹ Thiên Chúa?

Ngôi Lời Thiên Chúa đã làm người, có hồn có xác. Thánh Công đồng Nicêa dạy, chính Con duy nhất của Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha, đồng bản thể với Chúa Cha, nhờ Người mà muôn vật được tạo thành, và tất cả tồn tại trong Người, vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế, nhập thể, làm người, chịu chết, đã sống lại, và Người sẽ lại đến trong vinh quan để phán xét; Công đồng tuyên phán: chỉ có Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Lời Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha, giống Chúa Cha. Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi sánh sáng, được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Đức Chúa Cha… Nên Đức Maria vừa được gọi là Mẹ Chúa Kitô, và Mẹ Thiên Chúa nữa.

Đức Maria đã được các giáo phụ ca ngợi, đặc biệt là thánh Ambrôsiô thành Milan (thế kỷ IV) khi nói: “Đức Maria là Đền Thờ của Thiên Chúa chứ không phải Thiên Chúa của Đền Thờ”. Thánh Ignatiô thành Antiokia (+ 110) là người đầu tiên nên tên Đức Maria sau các sách Tin Mừng: “Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô đã được Đức Maria cưu mang trong lòng theo nhiệm cục cứu độ” và “Đức Giêsu cũng được sinh ra bởi Đức Maria và bởi Thiên Chúa”.

Tại Đông phương, kể từ năm 350, người ta đã gán cho Đức Maria tước hiệu là “Mẹ Thiên Chúa”, tuyên dương Mẹ là “Mẹ của Ngôi Lời Nhập Thể”. Như thánh Grégoire de Nazianze (330 – 390) đã viết: “Đức Kitô sinh bởi một Trinh Nữ, người nữ ấy là Mẹ Chúa Kitô”. Vì thế, Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa.

Ngày cầu cho hòa bình

Ngày đầu năm mới, Giáo hội cử hành lễ Đức Maria Rất Thánh, Mẹ Thiên Chúa, Mẹ của Lòng Thương Xót với niềm hân hoan vui vẻ, và cầu nguyện cho thế giới được hòa bình. Cả hai sự kiện này cùng diễn ra khi chúng ta đang cử hành lễ Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, Vua Thái Bình (Is 9, 5) sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria, Hòa Bình đích thực của chúng ta! Để cầu chúc cho nhau, chúng ta mượn lời sách Dân Số: “Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh chị em” (x. Ds 6, 26). Còn món quà nào cao quí hơn là chính Con Thiên Chúa, Đấng là Hoàng Tử Bình An được Chúa Cha ban tặng cho chúng ta. Hoà bình là món quà Thiên Chúa ủy thác cho con người. Vì lòng thương xót, Thiên Chúa đã “ban Người Con duy nhất của Ngài” cho nhân loại (Ga 3, 16). Thiên Chúa đã nhận lấy dung mạo của một con người và Thiên Chúa tỏ dung mạo thương xót của Ngài trong Người Con của Đức Trinh Nữ Maria, đến đem bình an cho nhân thế.

Chủ đề của Ngày Hoà bình Thế giới lần thứ 52 được thông báo trên Bản tin của Toà Thánh (Bolletino) hôm thứ Ba 6/11/2018 là “Nền chính trị tốt phải phục vụ cho hoà bình”. Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến trách nhiệm của mọi người về chính trị, ngài viết : “Mọi công dân đều có nghĩa vụ chính trị, đặc biệt là những ai gánh trách nhiệm bảo vệ và lãnh đạo” cũng như “Trách nhiệm trong việc bảo vệ luật pháp và khuyến khích đối thoại giữa các tác nhân của xã hội, giữa các thế hệ và giữa các nền văn hoá”. Đức Thánh Cha viết tiếp : “Không có hoà bình nếu không có sự tin tưởng lẫn nhau. Và điều kiện đầu tiên của tin tưởng là tôn trọng những gì đã cam kết”. Ngài đề lòng tin và sự tôn trọng nhau. Bởi theo Đức Thánh Giáo hoàng Gioan XXIII: “Khi một người được tôn trọng trong các quyền lợi của mình, nơi người ấy sẽ nảy sinh một ý thức trách nhiệm phải tôn trọng quyền lợi của người khác” (Thông điệp Pacem in Terris (1963), số 44).

Tương lai của cuộc sống và của hành tinh luôn là mối bận tâm của Giáo hội, trích lời của Đức Thánh Giáo hoàng Phaolô VI : “Việc dấn thân làm chính trị – vốn là một trong những thể hiện cao nhất của đức ái mang mối quan tâm đến tương lai của cuộc sống và của hành tinh, đến những người trẻ nhất và nhỏ bé nhất, trong nỗi khát khao thành tựu của đời mình”.

Vì muốn mang đến cho nhân loại tình yêu, bình an và hạnh phúc. Thiên Chúa tự trở nên Hài Nhi bé bỏng, giống một em bé sơ sinh. Chính trong sự nhỏ bé, thơ ngây, khiêm nhường và tha thứ ấy, Thiên Chúa đã biểu lộ sức mạnh vô biên. Đó là sức mạnh của Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, Hoàng Tử Bình An ban cho thế giới được hòa bình và hòa hợp giữa các dân tộc.

Nữ Vương Bình An, cầu cho chúng con. Amen.

Về mục lục

.

HỒNG ÂN CAO VỜI

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Ngày đầu năm mới và cũng là ngày Quốc Tế Hòa Bình, Giáo Hội hân hoan cử hành lễ Đức Maria rất thánh, Mẹ Thiên Chúa. Cả hai sự kiện này cùng diễn ra khi Giáo Hội đang cử hành mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người, Ngài là Hoàng Tử Bình An, là hòa bình đích thực của nhân loại.

Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban chính Con của Ngài sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria. Đức Maria đã được nâng lên địa vị là Mẹ Thiên Chúa và Giáo Hội muốn đặt lễ hôm nay lên hàng đầu của năm tháng ngày giờ.

  1. Tín điều Mẹ Thiên Chúa

Năm 431, có một cuộc tranh luận gay gắt đã diễn ra trong Giáo Hội Công Giáo, về tước hiệu đặc biệt của Đức Mẹ. Cuộc tranh luận đã đưa tới một công đồng chung, được tổ chức tại thành phố Êphêsô nhằm giải quyết vấn đề đặt ra.

Có hai lập trường hoàn toàn trái ngược nhau, một bên là giám mục Nestorius (Constantinople), bên kia là thánh Cyrilô (Alexanria).

Giám mục Netorius một mực cho rằng, Đức Maria nên được gọi là Christokos “người sinh ra Chúa Kitô”. Linh mục Dwight Longnecker giải thích rằng “Ngôn từ mà giám mục Netorious sử dụng, cho thấy, ông ta chủ trương rằng, Đức Giêsu Kitô có hai ngôi vị tách biệt. Vì thế, Đức Mẹ chỉ là người đã sinh ra Chúa Giê-su về mặt thể xác, nhân tính; và Mẹ nên được gọi là Christokos, tức là “Mẹ của Chúa Kitô” chứ không thể là “Mẹ Thiên Chúa”.

Đối lại với quan điểm trên, thánh Cyrilô và đa phần các giám mục đều cho rằng, Đức Maria phải được gọi là Theotokos, tức là “Mẹ Thiên Chúa”. Tín điều này khẳng định rằng Chúa Giêsu có “một ngôi vị duy nhất, gồm hai bản tính liên kết chặt chẽ với nhau (không hề tách rời nhau)”.

Đa số tuyệt đối đã đồng quan điểm rằng, Theotokos là tước hiệu xứng hạp với Đức Mẹ, và Nestorius đã bị truất phế chức giám mục Constantinople.

“Mẹ Thiên Chúa” không có nghĩa là Đức Maria hiện hữu trước Thiên Chúa hay Mẹ dựng nên Thiên Chúa, nhưng Mẹ là Đấng đã sinh ra Chúa Giêsu, Đấng vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật.

Trong mục nói về tín điều Ðức Maria, Mẹ Thiên Chúa, sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo có đoạn viết: “Quả thế, Ðấng mà Mẹ cưu mang làm người bởi Thánh Thần, Ðấng thực sự là Con Mẹ theo xác phàm, chính là Con hằng hữu của Chúa Cha, Ngôi Hai trong Ba Ngôi chí thánh. Vì vậy, Hội Thánh tuyên xưng Ðức Maria thực sự là ‘Mẹ Thiên Chúa’ (Theotokos) (GLCG, số 495).

Truyền thống Kitô giáo Chính Thống và Byzantine ưa dùng tước hiệu này hơn bất cứ tước hiệu nào khác của Mẹ. Một bản thánh ca có từ lâu đời trong nghi thức phụng vụ của các truyền thống này, đã diễn tả một cách rất thơ văn, chân lý không đơn giản này như sau: “Đấng toàn thể vũ trụ không thể chứa đựng nổi lại được cưu mang trong cung lòng của Mẹ, ôi Mẹ là Mẹ Thiên Chúa!”

Việc Giáo hội Công Giáo quyết định tuyên xưng Mẹ là Theotokos (Mẹ Thiên Chúa), đã đánh dấu một bước ngoạt quan trọng trong dòng lịch sử Giáo hội. Tước hiệu này làm sáng tỏ hơn niềm tin của Giáo hội về Đức Giêsu Kitô, đồng thời cũng xác quyết mạnh mẽ hơn về bản chất của cuộc nhập thể của Đức Kitô. Tất cả những gì Giáo hội đã tin tưởng từ thời các thánh tông đồ, đã được long trọng xác quyết một cách chính thức trong Công đồng Êphêsô.

Hơn nữa, việc vinh danh Đức Mẹ với tước hiệu là Mẹ Thiên Chúa đã khẳng định vai trò ưu tuyển của Mẹ trong dòng lịch sử cứu độ, đồng thời cũng cho thấy rõ hơn mầu nhiệm cao cả đã diễn ra nơi cung lòng của Mẹ.

Để kỷ niệm thánh công đồng này, năm 1931, Đức Piô XI đã cho thiết lập lễ Mẹ Thiên Chúa vào ngày 11 tháng 10. Công đồng Vaticanô II đã chuyển lễ này sang ngày 01 Tháng Giêng và đổi tên thành lễ kính trọng thể Thánh Maria, Mẹ Thiên Chúa. (Philip Kosloski; Sr Anna Nguyễn Tuyết.op, chuyển ngữ từ: aleteia.org).

  1. Tín Điều trong truyền thống Hội Thánh

1). Nền tảng Thánh Kinh.

Tín điều Mẹ Thiên Chúa được xây dựng trên nền tảng Thánh Kinh.

Tiên tri Isaia loan báo: “một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh con trai và sẽ đặt tên con trẻ là Emmanuel” (Is 7,14). Đức Maria sinh ra Đấng Emmanuel, nên Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Lời tiên tri được thực hiện khi sứ thần Gabriel báo tin cho Mẹ Maria : “Bà sẽ thụ thai, sinh con trai và sẽ đặt tên con trẻ ấy là Giêsu… Vì thế Con Trẻ sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.” (Lc 1,31-35).

Thánh Phaolô viết : “Thiên Chúa đã sai con mình đến sinh bởi người nữ và sinh dưới chế độ luật” (Gal 4,14). Trong Tin mừng Gioan, Mẹ Maria được gọi là Mẹ Chúa Giêsu (2,1;19,26), và trong Tin mừng Luca, Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa đến thăm bà Elidabet (1,43).

Các Kitô hữu thời sơ khai được các Tông Đồ hướng dẫn, luôn có một niềm tin vững chắc vào thiên chức Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria. Điều này được chứng tỏ bằng những việc tôn kính phổ quát như Kinh Tin Kính của các Tông Đồ.

2). Truyền thống Hội Thánh

Tước hiệu Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa, đã được các giáo phụ như Thánh Cyrilô, Athanasiô, Ignatiô Antiochia, tin yêu và truyền dạy.

Công Đồng Êphêsô năm 431 tuyên tín Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa.

Công Đồng Constantinople III (680-681) xác quyết rằng: Chúa Giêsu Kitô được sinh ra bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, và Đức Trinh Nữ Maria chính thức và thật sự là Mẹ Thiên Chúa theo nhân tính của Chúa Kitô.

Đức Giáo Hoàng Piô XI, đã ra thông điệp “Mediator Dei” mừng kỷ niệm 1.500 năm Công Đồng Êphêsô và công bố lễ Mẹ Thiên Chúa, mừng trong toàn thể Giáo Hội vào ngày 11 tháng 10.

Đức Piô XII, đã thiết lập Năm Thánh Mẫu vào năm 1954 và tuyên bố rằng chức Mẹ Thiên Chúa là nguồn gốc tất cả mọi ơn sủng và đặc sủng của Mẹ Maria.

Thánh Bônaventura đã nói : “Chức mẹ Thiên Chúa là một ơn vĩ đại phi thường nhất Thiên Chúa có thể ban cho loài thụ tạo. Ơn ấy Ngài đã ban cho Đức Maria”. Thánh Tôma tiến sĩ nói thêm : “Tước vị Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria cao trọng hầu như vô cùng, vì Thiên Chúa không thể cất nhắc ai lên bậc tốt lành và cao sang hơn nữa. Chức Mẹ Thiên Chúa hầu như đã tới biên giới vô cùng”.

Công Đồng Vaticanô II dành chương VIII trong Hiến Chế Lumen Gentium, nói về Mẹ Thiên Chúa. Và trong Hiến Chế về Phụng Vụ, các Nghị Phụ Công Đồng đã chuyển lễ Mẹ Thiên Chúa ngày 11 tháng 10 sang ngày 1 tháng 1 hàng năm.

Thánh Lễ thật phong phú với những lời cầu nguyện cùng Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Giáo Hội. Cả 4 kinh nguyện Thánh Thể đều nhắc tới Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa. Trong kinh nguyện Thánh Thể I, linh mục chủ tế đọc : Hiệp cùng Hội Thánh, chúng con kính nhớ Đức Maria vinh hiển trọn đời đồng trinh Mẹ Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Kinh nguyện Thánh Thể II, III và IV đọc : Cùng với Đức Trinh Nữ Maria Mẹ Thiên Chúa

Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con…” là lời kinh được đọc lên hàng triệu triệu lần mỗi ngày. Danh hiệu Mẹ Chúa Trời được đọc trong phụng vụ của Giáo Hội, trong kinh nguyện riêng tư tại gia đình, trên xe, trên giường bệnh… Càng hiểu biết và yêu mến mầu nhiệm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, chúng ta càng hiểu biết và yêu mến cách trọn vẹn hơn mầu nhiệm Chúa Cứu Thế, Người Con rất yêu dấu của Đức Mẹ.

  1. Nữ Vương ban sự Bình An

Giáo Hội mừng lễ Mẹ Thiên Chúa vào ngày đầu năm Dương lịch,cũng là ngày cầu nguyện cho hòa bình thế giới như một nhắc nhớ việc chiêm ngưỡng Mẹ là một Tạo Vật mới tinh tuyền của Thiên Chúa, một Evà mới khởi đầu một thời đại mới, một tạo dựng mới. Kỷ nguyên cứu độ đã khởi sự qua việc Chúa Giêsu nhập thể trong cung lòng Đức Mẹ sau lời xin vâng. Mẹ được tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế để bắt đầu kỷ nguyên cứu độ. Nếu Evà cũ đã bất tuân để vùi lấp con người trong khổ đau và sự chết, thì Đức Mẹ với tâm tình xin vâng đã đưa Chúa Giêsu đến với nhân loại mang lại sự sống và tình yêu. Từ đây nhân loại sẽ bước đi trong ánh sáng cứu độ. Chúa Giêsu vị Vua Thái Bình, Hoàng Tử Bình An đã đi vào lòng thế giới, để thiết lập vương quốc Nước Trời qua Mẹ Maria.

Ðức Thánh Cha Phaolô VI đã viết: “Vì sự trùng hợp tốt đẹp giữa ngày 01 tháng giêng với ngày thứ tám giáp lễ Giáng Sinh mà chúng tôi đã đặt ngày đó là ngày Thế Giới Hòa Bình, mà thế giới mỗi ngày càng hưởng ứng thêm, và thành quả của hòa bình đã phát sinh trong lòng nhiều người.” (Marialis Cultus, số 5).

Chúa Giêsu được xưng tụng là Hoàng Tử Hòa Bình, đến chuộc tội nhân loại, giao hòa con người với Chúa Cha. Mẹ Maria luôn gắn bó, hợp tác, hiệp công với Con của mình nên đã trở nên Nữ Vương Hòa Bình cho toàn thế giới. Mẹ đã đóng góp cả cuộc đời mình cùng với Chúa Giêsu mà giải phóng con người khỏi ách nô lệ tội lỗi.

Đức Mẹ khuyên mọi tín hữu siêng năng lần hạt và coi chuỗi kinh Mân Côi như là phương tiện hun đúc hòa bình. Ngày 13 tháng 10 năm 1917 tại Fatima, Đức Mẹ đã hiện ra để lại lời nhắn nhủ dưới hình thức của huấn lệnh là: cải thiện đời sống, siêng năng lần hạt, tôn sùng trái tim Mẹ. Đây chính là lộ trình nên Thánh bao gồm ba bước tiếp theo nhau và chuỗi Mân Côi được đặt như là một nhịp cầu giữa một bờ là tội lỗi nhân loại và bờ bên kia chính là ơn thánh hóa của Thiên Chúa. Cũng như việc lần hạt chuyên cần là một phương tiện hiệu quả giúp người ta đạt được hòa bình. Chính trong ý nghĩa này, kinh Mân Côi phải được gọi là Kinh của hòa bình. Ở đâu kinh Mân Côi được cổ võ thì ở đó cũng vang lên lời cầu nguyện tha thiết: “Nữ Vương ban sự bình an, cầu cho chúng con”.

Lễ Mẹ Thiên Chúa kết thúc tuần Bát Nhật Giáng Sinh làm tỏa sáng vẻ đẹp kỳ diệu của tình yêu cứu độ. Ngôi Hai đã vâng phục nhập thể cứu rỗi nhân loại. Với tiếng xin vâng, Đức Maria làm Mẹ Ngôi Lời nhập thể và làm Mẹ hết thảy những ai được tháp nhập vào thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô.

Ngày đầu Năm Mới, xin Mẹ ban bình an và cho chúng con thêm tuổi thêm khôn ngoan, thêm nhân đức, thêm ơn nghĩa trước mặt Thiên Chúa và mọi người. Amen.

Về mục lục

.

PHÚC ĐỨC TẠI MẪU

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Người ta cho rằng: Phần lớn những nhà lãnh đạo nổi tiếng thế giới hay những người thành công đều có một điểm chung: họ luôn coi thành công ngày hôm nay có được một phần là nhờ mẹ của mình. Như Abraham Lincoln, cựu Tổng thống Hoa Kỳ từng nói: “Những gì tôi có được ngày hôm nay hay mãi về sau, tất cả là nhờ người mẹ thiên thần của mình”.

Đặc biệt tỷ phú nổi tiếng thế giới Bill Gates từng nói trong đám cưới của mình rằng, mẹ của tôi từng viết lên một tấm thiệp và gửi cho tôi: “Nếu chúng ta được nhận nhiều điều trong cuộc sống, hãy biết cho đi”. 6 tháng sau, mẹ ông qua đời nhưng Bill Gates vẫn luôn ghi lòng tạc dạ câu ói đấy.

Quả thực mẹ là người thầy dạy tốt nhất cho chúng ta những bài học làm người. Nơi mẹ ta học được rất nhiều bài học về cuộc sống. Tình yêu, trí tuệ và sức mạnh của người mẹ dành trọn vẹn cho ta. Có thể nói : tâm huyết của mẹ đã làm nên cuộc đời ta.

Bản thân tôi cũng được lớn lên trong lời dạy của mẹ, mộc mạc qua những câu ca dao nhưng luôn đi sâu vào lòng người. Tôi nhớ mỗi khi tôi ham chơi không lo học bài thì mẹ tôi nhắc:

– Rừng như biển thánh khôn dò
Nhỏ mà không học, lớn mò sao ra
Khi tôi không nghe lời dạy bảo thì mẹ tôi nhắc:
– Cá không ăn muối ca ươn
– Con cãi cha mẹ trăm đường con hư
Đôi khi anh em chúng tôi chơi với nhau một lúc rồi cãi lộn khiến mẹ tôi buồn quá, nói:
– Em thuận, anh hoà là nhà có phúc
– Con một mẹ như hoa một chùm
Nơi tôi ở, có người con trai nghe lời vợ đối xử bất hiếu với cha mẹ thì mẹ lại dạy chúng tôi rằng:
– Lúc sống thì chẳng cho ăn
Để đến khi chết làm văn tế ruồi
– Sanh con ai dễ sanh lòng
Sanh con ai cũng vun trồng cho con
Thỉnh thoảng trong nhà có món gì ngon, mẹ tôi thường đem chia sẻ với những người hàng xóm và dạy anh em chúng tôi rằng:
– Họ hàng xa không bằng láng giềng gần

Nếu hỏi ai có ảnh hưởng nhiều trên bạn? Có lẽ đa phần sẽ cho là mẹ. Vì mẹ thường dậy dỗ con tỉ mỉ mới được  nên người hôm nay.

Khi nhập thể làm ngừơi Con Thiên Chúa cũng được sinh ra từ một người mẹ, được nuôi dưỡng bằng sữa mẹ, được sống trong vòng tay âu yếm chở che của mẹ, và suốt cuộc sống của Chúa Giê-su dường nhưluôn có bóng dáng của Mẹhiện diện đểan ủi, khích lệ, nhất là trong lúc chịu đau thương trên thập giá. Mẹđã ởbên Chúa, cùng hiệp thông trong đau khổvới Chúa đểcứu độtrần gian. Có lẽ vì muốn chúng ta được sống trong tình mẫu tửcủa Mẹ– Chúa Giê-su đã trao ban Đức Mẹ cho chúng ta, khi Chúa nói với Gioan, Đây là Mẹ của con, và Thánh Kinh đã ghi lại, “kể từlúc đó, người môn đệChúa yêu đã đón Mẹvề nhà của mình”.

Thánh Gioan đại diện cho nhân loại đểnhận Mẹ làm Mẹ của chúng sinh. Với lòng từ mẫu của người mẹ, chúng ta tin rằng Mẹsẽkhông bỏchúng ta mồcôi, Mẹsẽ lại tiếp tục hiện diện trong cuộc đời chúng ta đểsăn sóc, lo lắng và chởche cho đời sống thiêng liêng của chúng ta. Mẹ sẽ dạy chúng ta sống đạo mến yêu. Mẹ sẽ tận tụy dạy chúng ta thực thi lời Chúa như Mẹ đã từng bảo các gia nhân: “Người bảo gì anh em hãy làm theo như vậy”. Mẹ sẽ tiếp tục hiện diện trong cuộc đời từng người con để vỗ về, để yêu thương, để dìu dắt như ngày nào Mẹ đã yêu thương Con Chúa Trời. Mẹ tiếp tục đứng đó trên những đỉnh đồi thương đau của từng người con như Mẹ đã từng đứng bên thập giá để chia sẻ với Con yêu quý của mình. Mẹ vẫn đang đứng đợi con cái về bên Mẹ như bao bà mẹ vẫn mong con sum vầy bên Mẹ để được Mẹ dậy bảo, để được Mẹ vỗ về yêu thương.

Hôm nay, ngày đầu năm mới, Giáo hội mừng lễ Mẹ Thiên Chúa để nhắc nhở cho chúng ta về sự hiện diện của Mẹ Maria vẫn đi bên cạnh cuộc đời chúng ta. Sự hiện diện của Mẹ bên cuộc đời chúng ta qua biết bao ơn lành hồn xác chúng ta lãnh nhận nhờ lời cầu bầu của Mẹ. Biết bao người vẫn được ơn này ơn kia qua lời cầu khẩn của Mẹ. Biết bao người vẫn đang bám vào Mẹ như sự ủi an duy nhất giữa chốn ba đào đầy khó nguy. Và có lẽ, Mẹ Maria vẫn đang chờ những con cái Mẹ biết chạy đến cùng Mẹ mỗi khi khó khăn, biết nương tựa vào Mẹ mỗi khi thất bại, biết cầm lấy tay Mẹ mỗi khi vấp ngã để Mẹ tiếp tục chia sẻ những thăng trầm trong cuộc đời chúng ta.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ thật có phúc vì đã cưu mang Con Thiên Chúa. Mẹ thật diễm phúc vì Mẹ được chọn làm Mẹ Thiên Chúa. Và  hôm nay chúng con cũng thật có phúc vì có Mẹ là Mẹ của chúng con. Chúng con xin cám ơn Mẹ đã nhận chúng con là con của Mẹ để tiếp tục chăm sóc chúng con. Xin cho chúng con luôn biết chạy đến cùng Mẹ mỗi khi gặp những khó khăn. Xin cho chúng con luôn sum vầy bên Mẹ để được Mẹ yêu thương chúc lành. Amen.

Về mục lục

.

MẪU MARIA, THIÊN MẪU VÀ MẪU GƯƠNG

Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương

Hôm nay là ngày đầu tiên của năm mới, chúng ta cử hành trọng thể lễ Mẹ Thiên Chúa với ý nguyện cầu bình an cho toàn thế giới.

1. Một tín điều để tin

Tước hiệu Mẹ Thiên Chúa là một đặc ân rất cao trọng, được Giáo Hội tuyên tín như là một chân lý đức tin buộc mỗi người chúng ta phải tin.

Tuy nhiên, nếu không có sự hiểu biết đúng đắn, tước hiệu này có thể làm cho chúng ta bối rối và thắc mắc: phải chăng tước hiệu Mẹ Thiên Chúa là một sự phạm thượng? Làm sao một thụ tạo bất toàn lại có thể sinh ra Thiên Chúa được?

Thực ra, thắc mắc này đã có từ rất xa xưa. Vào khoảng năm 428 Nestorius, giám mục ở Constantinople, phủ nhận tước hiệu này. Ông chủ trương rằng: “Chúa Giêsu có hai bản tính nên có hai ngôi vị. Đức Maria chỉ là Mẹ ngôi vị nhân tính của Chúa Giêsu, nên không phải là Mẹ Thiên Chúa.” Theo ông, Đức Maria chỉ là Mẹ Chúa Giêsu thôi, cùng lắm là Mẹ Chúa Kitô, không thể là Mẹ Thiên Chúa.

Trước lạc giáo này, Công Đồng Chung họp tại Êphêsô vào năm 431 để giải quyết tranh luận và đã tuyên tín rằng: “Ngôi Lời Thiên Chúa đã kết hợp với nhục thể trong lòng Đức Maria, do đó Đức Maria đã sinh ra Ngôi Lời nhập thể, và đáng được gọi là Mẹ Thiên Chúa” (Théotokos).

Tước hiệu này không có nghĩa là Đức Maria đã sinh ra Ba Ngôi Thiên Chúa, nhưng là người sinh ra Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa thật và người thật, nên Đức Maria được gọi là Mẹ Thiên Chúa. Hay nói chính xác hơn Đức Maria là Mẹ Chúa Kitô, người đã sinh Con Thiên Chúa trong thời gian.

Chúng ta chỉ có thể hiểu được ý nghĩa của tín điều này khi đặt nó trong mối tương quan với Chúa Kitô và dựa trên nền tảng Kinh Thánh.

2. Nền tảng Kinh Thánh

Trong Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, chúng ta có thể tìm thấy nền tảng Kinh Thánh cho tín điều Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa.

Bài đọc II là một trích đoạn của Thư của thánh Phaolô Tông Đồ gửi tín hữu Galát. Đây là bản văn cổ nhất của Tân Ước nói về Đức Maria: “Thưa anh em, khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người phụ nữ, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” (Gl 4,4). Quả thế, người phụ nữ được nói ở đây chính là Đức Maria, người đã cưu mang và sinh hạ Con Đức Chúa Trời làm người.

Đặc biệt, chúng ta còn tìm thấy trong Tin Mừng Luca tước hiệu này dành cho Đức Maria khi Người đi thăm bà Êlisabét (1,38-48). Bà Êlisabét được tràn đầy Thánh Thần và kêu lên rằng: “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến thăm tôi. Bởi thế, tai tôi vừa nghe lời bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng.” Bà Êlisabét gọi Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa bởi vì Mẹ đang mang trong lòng Ngôi Hai Thiên Chúa và sẽ sinh ra cho loài người Đấng Cứu Độ là chính Đức Giêsu Kitô.

Trong bài Tin Mừng hôm nay thánh Luca kể lại chứng tá của các mục đồng về biến cố Chúa Giêsu được sinh hạ bởi Đức Maria tại Bêlem. Các mục đồng hết sức ngạc nhiên vì đã chứng kiến những sự việc xảy ra đúng như lời các thiên thần loan báo cho họ. Con Thiên Chúa sinh ra trong cảnh cơ hàn. Họ đến thờ lạy Người và gặp Đức Maria, thánh Giuse và Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ (Lc 2,16-21).

Như thế, Đức Maria là người được Thiên Chúa tuyển chọn, chuẩn bị nên xứng đáng để mang thai và sinh hạ Con Thiên Chúa. Mẹ đã hoàn toàn vâng phục và công tác với chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Nên Giáo Hội đã tôn kính Mẹ với tước hiệu rất cao trọng là Mẹ Thiên Chúa.

Chúng ta cũng nên biết rằng: Trong phụng vụ, bậc thứ nhất là sự tôn thờ được dành cho Thiên Chúa Ba Ngôi. Như Kinh Thánh dạy: “Người phải tôn thờ Thiên Chúa người hết lòng hết sức hết linh hồn người” (Đnl 6,4). Bậc thứ hai gọi là sự biệt kính hay sự tôn kính đặc biệt được dành cho Đức Maria. Sau Thiên Chúa phải là Đức Maria, bởi vì Đức Maria có một địa vị hết sức cao cả trong chương trình cứu độ. Mẹ là người sinh ra Đấng Cứu Độ. Nhờ Mẹ, chúng ta mới có Chúa Kitô. Bậc thứ ba là sự tôn kính dành cho các chư thánh.

3. Đức Maria là Mẹ và là mẫu gương

Khi cử hành lễ Mẹ Thiên Chúa, chúng ta không chỉ dừng lại ở việc suy tôn và chiêm ngắm dung mạo cao cả của Đức Maria, nhưng chúng ta còn được mời gọi noi gương Đức Maria để sống như Mẹ đã sống.

Thánh Luca nhắc đi nhắc lại mẫu gương của Đức Maria: “Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng.” Mẹ là người luôn lắng nghe Lời Chúa, suy niệm Lời Chúa và đem ra thực hành. Trước khi Mẹ cưu mang Ngôi Lời trong dạ, thì Mẹ đã cưu mang Lời Chúa trong tâm hồn rồi. Mẹ là mẫu gương tuyệt hảo cho chúng ta về việc lắng nghe và sống Lời Chúa.

Nếu Đức Maria được vinh dự làm Mẹ Thiên Chúa, thì mỗi người Kitô hữu cũng được chia sẻ sự vinh dự đó. Bởi vì, như Chúa Giêsu nói: “Ai nghe Lời Chúa và đem ra thực hành là anh chị em Ta, và là Mẹ của Ta.”

Giáo Hội là mẹ, nghĩa là Giáo Hội tiếp tục sứ mạng của Đức Maria, người phải tiếp tục sinh Chúa Kitô cho người khác. Mỗi người Kitô hữu là Giáo Hội. Chúng ta được mời gọi sinh Chúa Giêsu cho người khác bằng sự hy sinh, lời cầu nguyện và đời sống chứng tá của chúng ta, đặc biệt nhờ việc dạy giáo lý, huấn luyện đức tin cho con cái và giới trẻ.

Nhân dịp bước vào Năm Mới, dưới sự phù trì và cầu bầu của Đức Maria, xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta được bình an và dồi dào phúc lành của Thiên Chúa. Amen.

Về mục lục

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây