GIÁO PHẬN PHAN THIẾT

http://gpphanthiet.com


 Thứ hai tuần 19 thường niên.

tải xuống 11

tải xuống 11

 Thứ hai tuần 19 thường niên.

"Họ sẽ giết Người, nhưng Người sẽ sống lại. Con cái thì được miễn thuế".

 

Lời Chúa: Mt 17, 21-26

Khi ấy, các môn đệ và Chúa Giêsu còn đang ở Galilêa, thì Chúa Giêsu bảo các ông rằng: "Con Người sắp bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết người, nhưng ngày thứ ba, Người sẽ sống lại". Các môn đệ rất đỗi buồn phiền.

Khi các ngài đến Capharnaum, thì những người thu thế đền thờ đến gặp Phêrô và hỏi rằng: "Thầy các ông không nộp thuế "đền thờ' sao?" Ông nói: "Có chớ".

Khi ông về đến nhà, Chúa Giêsu hỏi đón trước rằng: "Simon, con nghĩ sao? Vua chúa trần gian thu thuế má hạng người nào? Đòi con cái mình hay người ngoài?" Ông thưa rằng: "Đòi người ngoài". Chúa Giêsu bảo ông rằng: "Vậy thì con cái được miễn. Nhưng để chúng ta không làm cho họ vấp phạm, con hãy ra biển thả câu: con cá nào câu lên trước hết thì bắt lấy, mở miệng nó ra, sẽ thấy một đồng tiền, con hãy lấy tiền đó mà nộp cho họ, trả phần Thầy và phần con".

 

 

Suy niệm 1: Nộp Thuế Cho Ðền Thờ

Vào thời Chúa Giêsu, người Do thái không những phải đóng thuế cho nhà nước tức là thuế dân sự, mà còn phải đóng thuế cho Ðền thờ nữa: ngoại trừ đàn bà, các thiếu niên và các nô lệ, tất cả những ai từ 20 tuổi trở lên đều phải nộp thuế để bảo trì và tu sửa Ðền thờ Giêrusalem.

Câu chuyện trong Tin Mừng hôm nay xẩy ra vào khoảng tháng 10, năm thứ hai cuộc đời rao giảng của Chúa Giêsu, tức là ít lâu sau biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi Thabor. Chúa Giêsu và các môn đệ trở lại Capharnaum, và ở đó, những người thu thuế đến yêu cầu Phêrô nộp thuế. Dĩ nhiên là Phêrô sẵn sàng nộp thuế.

Khi Phêrô về tới nhà, Chúa Giêsu hỏi đón ông: "Simon, con nghĩ sao? Vua chúa trần gian lấy thuế của ai? Con cái mình hay người ngoài? Phêrô đáp: "Thưa, người ngoài. Chúa Giêsu liền bảo thế thì con cái được miễn". Ðây cũng là một mạc khải, bởi vì qua câu: "Thế thì con cái được miễn", Chúa Giêsu muốn nói rằng xét về bản tính Thiên Chúa, Ngài không phải nộp thuế; nhưng xét về bản tính loài người, Ngài cũng tuân giữ việc nộp thuế cho Ðền thờ như bất cứ ai. Tuy nhiên, Ngài nộp thuế bằng một phép lạ: Chúa Giêsu bảo Phêrô đi câu cá, bắt được con cá đầu tiên, trong miệng có một đồng bạc, đủ để nộp thuế cho Ngài và cho Phêrô. Chúa không bảo Giuđa xuất quĩ mà nộp, cũng không bảo các phụ nữ đạo đức dâng cúng, nhưng Ngài đã làm phép lạ để các môn đệ tin vào quyền năng của Ngài.

Nếu ngày xưa, người Do thái có bổn phận nộp thuế cho Ðền thờ để lo việc phụng sự Nhà Chúa, thì ngày nay trong Giáo Hội cũng có những cách đóng góp hay dâng cúng, đó cũng là một việc thờ phượng và là một sự chia sẻ cho những anh chị em nghèo khó. Chúng ta hãy nhận ra nét đặc biệt trong nhân cách của Chúa, khi hòa nhập vào nếp sống cụ thể của những người đồng thời với Ngài. Mầu nhiệm nhập thể đòi buộc Chúa phải chia sẻ trọn vẹn đời sống con người. Ước gì chúng ta cũng biết noi gương Chúa, chấp nhận như hạt lúa mì rơi xuống đất và chết đi để trổ sinh nhiều hoa trái tốt đẹp.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy niệm 2: Quy Luật Của Cuộc Sống (Mt 17,22-27)

Bác sĩ Ý Antinori đã tạo ra một chấn động mạnh trong lương tâm nhân loại khi ông tuyên bố việc tạo sinh con người theo phương pháp vô tính. Phương pháp tạo sinh vô tính đã được áp dụng thành công vào việc sản sinh ra con cừu có tên là Doli tại Anh Quốc cách đây vài năm và đã được áp dụng vào những loài vật khác nhau từ chuột đến bò, heo. Vấn đề cần đặt ra không phải là chuyện phương pháp kỹ thuật tạo sinh vô tính có hoàn hảo không. Tất nhiên, đem thí nghiệm tạo ra một con người mà không biết chắc sẽ sinh ra một con người bình thường hay một quái thai, quả là một hành động liều lĩnh, vô trách nhiệm. Nhưng ngay cả khi phương pháp tạo sinh vô tính đã được nghiên cứu tới mức hoàn hảo đi nữa thì câu hỏi vẫn là con người có quyền sản sinh vô tính con người không? Không riêng gì những con người có niềm tin tôn giáo mà ngay cả với những ai không thuộc tôn giáo nào đi nữa, đã là con người có lương tri, người ta không thể trốn tránh một câu hỏi như thế.

Tựu trung, đạo đức vẫn luôn luôn là chiều kích bao trùm toàn bộ mọi khía cạnh của cuộc sống con người. Trong bất cứ sinh hoạt nào, con người cũng luôn luôn phải tự hỏi: Tôi có được phép làm điều này không? Tôi phải cư xử như thế nào cho xứng với phẩm giá con người? Ðã làm người là phải chấp nhận những giới hạn. Không ai được hỏi ý kiến khi sinh ra. Không ai chọn lựa cha mẹ, quê hương để sinh ra. Con người đến trong cõi đời không do chọn lựa của mình. Ðiều ấy cho thấy tính giới hạn là tất yếu đối với con người. Cái chết lại càng là một khẳng định về những giới hạn ấy, mà đã có giới hạn, cho nên con người không thể sống mà không tuân theo những qui luật của cuộc sống. Bên cạnh những qui luật của thiên nhiên, quan trọng hơn cả là những qui luật đạo đức. Chỉ khi nào tuân hành những qui luật đạo đức ấy, con người mới có thể triển nở trong nhân cách và thành toàn.

Là người tín hữu Kitô chúng ta được mời gọi để suy nghĩ về thân phận con người dưới ánh sáng mầu nhiệm nhập thể. Chỉ trong Ngôi Lời nhập thể làm người, chân lý về con người mới được sáng tỏ. Chúng ta biết về mình và chúng ta biết phải sống như thế nào cho ra người khi nhìn vào con người và cuộc sống của Chúa Giêsu. Trong thư gởi cho giáo đoàn Philipphê, thánh Phaolô đã tuyên xưng mầu nhiệm nhập thể như sau: "Chúa Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì sự ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Ngài lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập tự".

Quả thật, Chúa Giêsu là mẫu gương của vâng phục. Suốt ba mươi năm ẩn dật tại Nazareth, Ngài đã vâng phục cha mẹ, tuân thủ các Lề Luật của Môsê. Tin Mừng hôm nay ghi lại việc Ngài đóng thuế cho đền thờ, đây là một điển hình của rất nhiều cử chỉ vâng phục mà Chúa Giêsu đã thể hiện trong suốt cuộc đời trần thế của Ngài.

Vâng phục là nói lên tính cách bất toàn và giới hạn của thân phận con người. Ðã làm người, Chúa Giêsu đã không đi ra ngoài những qui luật ấy của thân phận con người, nhưng chính vì vâng phục mà Ngài đã chọn kiếp sống con người. Ngài là một mẫu người hoàn hảo. Hoàn hảo không phải vì không có giới hạn trong kiếp người mà chính là vì đã vâng phục. Thánh Phaolô đã khẳng định rằng: "Chính vì Ngài đã vâng phục mà Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và tặng ban cho Ngài danh hiệu, vượt lên trên muôn ngàn danh hiệu".

Vâng phục để được suy tôn, tự hạ để được nâng lên. Sống những giới hạn của kiếp người với tinh thần trách nhiệm để được là người hơn. Ðó là qui luật của cuộc sống mà Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy niệm 3: Tình yêu của con người? … của Thiên Chúa.

Khi thầy trò tụ họp ở miền Galilê, Đức Giêsu nói với các ông: “Con người sắp bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ngày thứ ba Người sẽ chỗi dậy.” Các môn đệ buồn phiền lắm. (Mt. 17, 22-23)

Lần thứ nhất Đức Giêsu loan báo Người sẽ phải chịu chết, Phê-rô, nhân danh mình và các bạn tông đồ ra mặt phản đối. Tại sao? Thưa, Người đã không làm điều gì dữ. Người phải xa lánh Giê-ru-sa-lem vì thảm họa sẽ xảy ra ở đó. Chớ gì người ta chẳng cho phép bảo vệ Người. Những kẻ muốn mưu hại tính mạng thường đến đó. Thầy không muốn nghe về những chuyện đó. Phê-rô và các tông đồ nhớ rõ Thầy đã khiển trách các ông như thế rồi. Không có chuyện tái can Thầy nữa. “Các ông buồn!” Người ta nổi khùng khi đứng trước một người thân yêu lâm bệnh nguy tử, đành khoanh tay ngồi nhìn trước cảnh tượng vô phương đó, chúng ta cũng buồn. Người thân yêu của chúng ta sắp ra đi. Còn yêu gì được nữa.

Trống rỗng và nặng nề.

Con tim trống rỗng làm chúng ta cảm thấy bị đè nặng.

Các tông đồ buồn sầu. Còn nói gì được nữa? các ông biết chắc sẽ xẩy ra như thế vì Chúa đã nói rồi. Làm sao không tin được? Mọi sự Người đã nói, đã loan báo, thì đã thực hiện. Những công việc của Thiên Chúa mà Thầy hoàn tất chứng tỏ Thầy biết rõ ý định của Chúa Cha.

Phép lạ!

Nhân dịp kẻ thu thuế đòi đóng thuế, Đức Giêsu làm một phép lạ rất giản dị và dịu êm.

Thấy một con cá nuốt một vật, chẳng phải lạ, dù là một đồng tiền hay vật khác. Nhưng lạ lùng là chính Phê-rô đã bắt được con cá này để lấy đồng tiền ra nộp thuế đền thờ.

Đức Giêsu cho biết: Con không phải nộp thuế cho Cha. Cuộc thương khó và cái chết của Thầy nói cho biết Thầy là Con Chúa Cha. Để chứng tỏ Con luôn luôn vâng lời hết mọi sự.

J.M

 

Suy niệm 4: CON ĐƯỜNG CỨU ĐỘ CỦA ĐỨC GIÊSU  (Mt 17, 21-26)

Trong cuộc sống, có lẽ không ai muốn mình phải nghe, hay đụng chạm đến những tin không vui. Vì thế, với não trạng của con người, chúng ta thường thích nghe tin mừng, tin thành công và tin chiến thắng.

Tuy nhiên, hôm nay, bài Tin Mừng lại tường thuật việc Đức Giêsu loan báo một tin buồn và nghịch lý với lối hiểu của con người, Ngài nói: "Con Người sắp bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ngày thứ ba Người sẽ chỗi dậy".

Khi nghe thấy tin đó, các môn đệ buồn phiền và thất vọng. Với các ông và cả những người Dothái cùng thời, Đức Giêsu phải là người mang lại tự do, thoát khỏi cảnh áp bức, bóc lột của đế quốc, Ngài phải là người đánh đông dẹp bắc và thống lãnh bằng quyền lực... Tuy nhiên, điều này hoàn toàn ngược lại với sứ vụ của Đức Giêsu, vì thế Ngài đã không làm. Con đường cứu độ và giải thoát của Ngài là con đường vâng phục thánh ý Chúa Cha, mà ý Chúa Cha là muốn Đức Giêsu phải chịu chết để cứu chuộc nhân loại. Vì thế, Ngài đã vâng lời đến cùng để thánh ý của Cha được nên trọn.

Nhưng vì biết các môn đệ luôn mang trong mình tâm tưởng phàm tục, nên Đức Giêsu đã loan báo trước cuộc khổ nạn, để các ông dần dần hiểu ra sứ vụ và tiếp tục tiến bước trên con đường mà chính Ngài đã đi.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy hướng lòng lên trời để tìm vinh danh Chúa và ích lợi cho phần rỗi của mình. Đồng thời, sẵn sàng khước từ những điều không phù hợp với thánh ý Thiên Chúa.

Mặt khác, cần phải xác định thật rõ con đường chân phúc để được hưởng niềm vui, hạnh phúc và bình an trong Nước Trời, con đường đó là: “Phải qua đau khổ rồi mới đến vinh quang".  Tinh thần này cũng được Đức Cố Hồng Y Fx. Thuận nói đến trong sách Đường Hy Vọng, Ngài nói: “Tránh gian khổ con đừng trông làm thánh”(x. ĐHV., số 702) , thánh mà không vượt qua đau khổ là thánh giả, vì khi: “Phong ba dồn dập, nước sơn sẽ phai nhạt và tượng thánh sẽ hiện hình quỷ” (ÐHV., số 44).

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con khám phá ra ý nghĩa của sự đau khổ và luôn biết kết hợp với ơn Chúa, sẵn sàng đón nhận tất cả vì Chúa và vì Nước Trời. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy niệm 5: Để khỏi làm cớ sa ngã

Suy niệm:

Đọc bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta không khỏi mỉm cười,

khi nghĩ đến việc anh Phêrô đi ra hồ Galilê để thả câu bắt cá,

một chuyện bắt cá rất bất thường, vì một mục đích cũng bất thường.

Thầy Giêsu dặn anh hãy túm lấy con cá đầu tiên câu được,

bắt lấy, mở miệng nó ra, thấy ngay một đồng tiền trị giá bốn quan,

vừa vặn để nộp thuế Đền Thờ cho cả Thầy lẫn trò.

Đây là thứ thuế mà hàng năm, theo sách Xuất hành (30, 14)

những người đàn ông Do Thái trên hai mươi tuổi phải nộp

để lo việc tu bổ Đền Thờ và việc tế tự trong đó.

Ta không thấy kể chuyện anh Phêrô đã vâng lời Thầy ra sao,

và phép lạ đã xẩy ra như thế nào.

Chỉ biết chẳng khi nào trong Tân Ước

Thầy Giêsu lại có ý làm một phép lạ vì lợi ích cho mình như vậy.

Nhưng chuyện bắt cá để lấy tiền nộp thuế

lại không phải là chuyện quan trọng của đoạn Tin Mừng này.

Điểm chính yếu nằm ở những câu nói của Thầy Giêsu.

Ai cũng biết con cái của vua chúa trần gian thì được miễn thuế,

vì các vua chỉ đánh thuế người ngoài thôi (c. 26).

Đức Giêsu chính là Người Con tuyệt hảo của Vị Vua thiên quốc.

Và những Kitô hữu cũng là con cái của Đức Vua tối cao.

Họ là những người đã mở lòng đón nhận Nước Trời (Mt 13, 38),

và đã gọi Thiên Chúa là Cha trên trời của chúng con (Mt 6, 9).

Như thế Thầy Giêsu và các môn đệ của mình đều được miễn thuế.

Thầy trò không phải nộp thuế Đền Thờ như những người Do Thái khác.

Tuy Thầy trò có quyền không nộp thuế,

nhưng Thầy Giêsu lại không muốn làm cớ cho người khác vấp phạm.

Khi về đến nhà của anh Phêrô ở Caphácnaum,

Thầy Giêsu bày tỏ ý muốn nộp thuế Đền Thờ cho cả Thầy lẫn trò.

Thầy chấp nhận giữ luật mà các người đàn ông Do Thái đều giữ.

Thầy biết mình có tự do,

nhưng Thầy cũng dám hy sinh tự do ấy vì lợi ích cho người khác.

Thánh Phaolô cũng sẽ nói về nguyên tắc này khi bàn về việc ăn đồ cúng.

“Đành rằng mọi thức ăn đều thanh sạch,

nhưng ăn mà gây cớ vấp ngã, thì là điều xấu” (Rm 14, 20).

Chúng ta cần lưu tâm đến những người “yếu” trong cộng đoàn.

Chính tình yêu đối với họ khiến tôi cân nhắc điều mình được phép làm.

Tự giới hạn tự do của mình là một cách để biểu lộ tình yêu.

Thế giới hôm nay ca ngợi tự do, nên cũng đầy cớ gây vấp phạm.

Bao sa ngã của giới trẻ là do sự phóng túng của người lớn.

Con người hôm nay quá gần nhau bởi các phương tiện truyền thông,

nên ảnh hưởng xấu lan đi vừa nhanh lại vừa rộng.

Nếu chúng ta tự ý làm hay tránh làm một điều gì đó

chỉ vì tôn trọng lương tâm mong manh của người khác,

thì Thiên Chúa cũng sẽ giúp ta bằng những phép lạ thật ngỡ ngàng.

 

Cầu nguyện :

Lạy Chúa,

xin dạy con luôn tươi tắn và dịu dàng

trước mọi biến cố của cuộc sống,

khi con gặp thất vọng, gặp người hờ hững vô tâm,

hay gặp sự bất trung, bất tín

nơi những người con tin tưởng cậy dựa.

Xin giúp con gạt mình sang một bên

để nghĩ đến hạnh phúc người khác,

giấu đi những nỗi phiền muộn của mình

để tránh cho người khác phải đau khổ.

Xin dạy con biết tận dụng đau khổ con gặp trên đời,

để đau khổ làm con thêm mềm mại,

chứ không cứng cỏi hay cay đắng,

làm con nhẫn nại chứ không bực bội,

làm con rộng lòng tha thứ,

chứ không hẹp hòi hay độc đoán, cao kỳ.

Ước gì không ai sút kém đi

vì chịu ảnh hưởng của con,

không ai giảm bớt lòng thanh khiết, chân thật,

lòng cao thượng, tử tế,

chỉ vì đã là bạn đồng hành của con

trong cuộc hành trình về quê hương vĩnh cửu.

Khi con loay hoay với bao nỗi lo âu bối rối,

xin cho con có lúc

thì thầm với Chúa một lời yêu thương.

Ước chi đời con là cuộc đời siêu nhiên,

tràn trề sức mạnh để làm việc thiện,

và kiên quyết nhắm tới lý tưởng nên thánh.

Amen. (dịch theo Learning Christ)

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

SUY NIỆM

Có một người kia cứ phàn nàn trách Chúa vì đã gửi đến cho mình một thập giá quá nặng… Chúa bèn đưa người đó đến một cửa hàng có các thập giá đủ cỡ để người đó chọn lựa.

Người đó hăm hở bước vào cửa hàng và dựng cây thập giá của mình vào tường. Người đó tự nhủ trong lòng: “Ðây là chuyện cả đời người, ta phải hết sức cẩn thận”.

Thế là anh ta đi rảo khắp hết mọi lối đi của cửa hàng và thử hết cây thập giá này đến cây thập giá khác. Nhưng không có một cây nào làm anh vừa lòng. Cây thì quá dài, cây thì quá ngắn. Cây thì quá nhẹ, cây thì quá nặng… Anh lại tiếp tục tìm kiếm. Cuối cùng, anh đã tìm được cây thập giá mà anh cho là ưng ý nhất. Anh mang đến với Chúa và nở nụ cười mãn nguyện: “Lạy Chúa, đây chính là cây thập giá mà con hằng tìm kiếm. Con xin vác lấy”. Khi anh vừa hí hửng ra khỏi cửa hàng, thì Chúa mỉm cười nói với anh: “Ta rất vui mừng vì con đã chấp nhận cây thập giá. Ðây cũng chính là cây thập giá mà con đã vác vào và dựng ở tường của cửa hàng”.

Theo bản tính tự nhiên, ai cũng thích cuộc đời mình thảnh thơi, thoải mái, không ai muốn phải vác gánh nặng cực nhọc, chính vì thế mà con người dễ trốn tránh nó.

Các môn đệ Chúa Giêsu cũng thế, khi Ngài vừa nói với các ông: “Con người sắp bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ngày thứ ba Người sẽ trỗi dậy”. Phản ứng đầu tiên là: các môn đệ buồn phiền lắm. Vì các ông thích chiêm ngắm Chúa Hiển Dung, thích Chúa thành công chứ nào ai thích Thầy của mình phải cực hình như thế đâu.

Việc Chúa Giêsu loan báo về thập giá như là một sự toàn thắng. Ở đây, Ngài đã điều khiển trên ma quỷ và làm cho dân chúng sẵn sàng hoan hô Ngài thì Ngài loan báo cho các môn đệ, Ngài đang đi tới cái chết. Lúc đó thật dễ dàng cho Chúa Giêsu đi tới thành công thắng lợi theo ý dân chúng; nhưng sự cao cả của Ngài bộ lộ rõ rệt khi Ngài gạt bỏ thành công đó và chọn lấy thập giá. Ngài không muốn chính mình trốn tránh thập giá trong khi kêu gọi kẻ khác vác thập giá theo Ngài.

Ngài mời gọi chúng ta nhìn lên thập giá để thấy được án phạt của tội lỗi và đồng thời cũng thấy được tình yêu bao la của Chúa. Một tình yêu không ngừng tha thứ, một tình yêu vượt trên mọi tư tưởng, mọi tiêu chuẩn phán đoán, mọi khát vọng của con người.

Nhìn thánh giá Chúa, chúng ta cảm nếm được hồng ân bao la và cảm nếm ơn tha thứ của Ngài. Từ đó, chúng ta được mời gọi để cảm thông, để tha thứ đối với anh chị em mình. Càng nhận ra tình yêu tha thứ, càng được mời gọi để thứ tha. Càng tha thứ, chúng ta càng dễ cảm nếm được ơn tha thứ của Chúa.

Lm. Pherô Nguyễn Bùi Quốc Khánh SDB

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây