GIÁO PHẬN PHAN THIẾT

http://gpphanthiet.com


Các Bài Suy Niệm Chúa Nhật III Phục Sinh C

Các Bài Suy Niệm Chúa Nhật III Phục Sinh C

CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA

CHÚA NHẬT III PHỤC SINH- C


DẪN NHẬP
Nhập lễ:
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,
Phụng vụ Lời Chúa chúa nhật 3 Phục sinh hôm nay cho chúng ta thấy, Chúa Kitô Phục sinh hiện ra với các Tông đồ sau một đêm các ông vất vả luống công tại bờ hồ Tibêria. Các Tông đồ đã vâng nghe lời Chúa thả lưới và bắt được nhiều cá. Từ đây, các Tông đồ được mời gọi trở nên những kẻ đánh lưới người:
Ngỡ ngàng trước mẻ cá đầy,
Thêm vào bằng chứng chính Thầy Phục sinh.
Ra đi chấp nhận hy sinh,
Bằng lời, bằng việc chứng minh Tin mừng.
Phần ta cũng phải không ngừng,
Chứng nhân loan báo xin đừng chớ quyên.
Hiệp dâng thánh lễ hôm nay, xin Chúa giúp chúng ta biết vâng nghe thánh ý Chúa trong từng biến cố của cuộc đời để chúng ta trở nên những chứng nhân Tin Mừng của Đấng Phục sinh. Trong tâm tình đó, giờ đây chúng ta hãy thành tâm sám hối.
Sám hối:
X. Lạy Chúa, Chúa dạy chúng con vâng nghe lời Chúa và đem ra thực hành. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa Kitô, Chúa đã Phục sinh khải hoàn và hiện ra với các Tông đồ để củng cố niềm tin cho chúng con. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa, Chúa mời gọi chúng con hãy trở nên chứng nhân Tin Mừng Phục sinh của Chúa. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
Kết: Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.
CĐ: Amen.
Suy niệm:
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Điều gì đã làm cho các Tông đồ vừa thất vọng não nề, vừa khiếp sợ và bỏ cuộc chạy trốn, di tản để lánh nạn trở về cuộc sống cũ với những công việc bình thường, nếu không phải đó là sau biến cố đau thương của Chúa Giêsu bị kết án tử chết treo trên thập giá tại đồi Canvê. Và điều gì đã làm cho các Tông đồ từ những con người khiếp đảm sợ sệt, buồn bã chán chường lại trở thành những con người can đảm phi thường, anh dũng trung kiên nếu không phải đó Đấng Phục sinh khải hoàn đã hiện diện ở giữa họ trao ban bình an và giúp các ông vững tin: “Chính Thầy đây, đừng sợ”; “anh em là chứng nhân những điều đó”.
Thưa anh chị em, Chúa đã sống lại rồi, Alleluia!. Người đã Phục sinh khải hoàn và chính Người đã biến đổi toàn bộ cuộc đời của các Tông đồ. Chúa Giêsu Phục sinh là Tin Mừng lớn lao trọng đại đem lại ý nghĩa cho cuộc đời. Nên các Tông đồ không thể không loan báo Tin Mừng lớn lao đó. Sách Tông đồ Công vụ hôm nay đã kể lại một trong nhiều trường hợp các Tông đồ đã làm chứng về việc Chúa Giêsu Phục sinh. Sau khi chữa lành một số bệnh nhân, các thượng tế đã cấm các Tông đồ không được giảng dạy về Chúa Kitô Phục sinh. Các Tông đồ bị các vị thượng tế và hội đồng cố vấn bắt giam, các ông lại bị điệu đến Thượng hội đồng để hạch hỏi và xét xử. Phêrô và các tông đồ trả lời cách quả quyết rằng: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta. Thiên Chúa cha ông chúng ta đã cho Ðức Giêsu sống lại, Ðấng mà các ông đã giết khi treo Người trên thập giá. Thiên Chúa đã dùng quyền năng tôn Người làm thủ lãnh và làm Ðấng Cứu Ðộ, để ban cho Israel được ăn năn sám hối và được ơn tha tội. Chúng tôi là nhân chứng các lời đó cùng với Thánh Thần, Ðấng mà Thiên Chúa đã ban cho mọi kẻ vâng lời Người!”. Nhờ sự vâng nghe lời Người mà các Tông đồ đã trở nên can đảm làm chứng nhân Tin Mừng Chúa KiPhục sinh. Từ đây, các ông không còn sợ hãi, không sợ người Do thái đến bắt cũng không sợ đối diện với công quyền. Nhờ sự vâng nghe lời Chúa mà các tông đồ thả lưới và các ông đã đánh bắt được nhiều cá, để từ đây các Tông đồ được mời gọi trở nên những kẻ đánh lưới người. Dù chưa nhận ra Đấng Phục sinh nhưng ngỡ ngàng trước m cá lớn vừa đánh bắt các ông đã nhận ra Người đến nỗi người môn đệ Chúa Giêsu yêu liền reo vui lên với Phêrô: “Chính Chúa đó”!. Chúa đến với các Tông đồ sau một đêm các ông mệt mỏi và thất vọng, để đem lại cho các ông niềm vui hoan lạc và phá tan sự u ám của bóng tối tội lỗi đang bao phủ. Và qua đó, Người như muốn báo trước về sứ mạng của các ông sau này, các ông được mời gọi trở nên chứng nhân của mầu nhiệm Phục sinh.
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Các Tông đồ đã thấy Chúa Giêsu Phục Sinh nên các Tông đồ đã trở thành những sứ giả loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Hôm nay, Chúa Giêsu Phục Sinh cũng đang hiện diện với chúng ta qua bàn tiệc Thánh Thể, Người cùng bẻ bánh và ở lại với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Nhờ bí tích Thánh tẩy, chúng ta được tháp nhập vào thân mình Chúa Kitô, Đấng đã chia sẻ kiếp người và nay đã Phục sinh khải hoàn. Là Kitô hữu, chúng ta được mời gọi trở nên nhân chứng Tin Mừng của Chúa Kitô Phục sinh. Vì Chúa Kitô Phục sinh là một Tin Mừng không thể không chia sẻ như Thánh Phaolô đã quả quyết: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”. Niềm tin Phục sinh mời gọi chúng ta phải biết làm chứng cho Chúa Kitô bằng lời tuyên xưng, bằng đời sống cầu nguyện và hoạt động trần thế, nhất là những hoạt động tông đồ truyền giáo: yêu thương giúp đỡ mọi người, nhất là những người nghèo khổ bệnh tật, biết tôn trọng phẩm giá con người, của hôn nhân gia đình, của đời sống công bằng và bác ái.
Nguyện xin Chúa giúp mỗi người chúng ta luôn biết vâng nghe và sống theo lời Chúa dạy, để nhờ sức mạnh của lời Chúa nâng đỡ, chúng ta đủ can đảm trở nên những chứng nhân Tin Mừng của Đấng Phục sinh. Amen.
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang.


BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC- (Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973) 2

HÃY THEO THẦY (*) – Chú giải của Noel Quession. 8

ĐỨC GIÊSU PHỤC SINH VẪN HIỆN DIỆN- Chú giải của Fiches Dominicales  16

CHÚA GIÊSU PHỤC SINH Ở TRÊN BỜ (*)-  Lm. Inhaxiô Hồ Thông. 23

KHI TRỜI SÁNG, ĐỨC GIÊSU ĐỨNG TRÊN BÃI BIỂN- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 43

HÃY CHĂN DẮT CHIÊN CỦA THẦY- Lm. Giuse Đinh Lập Liễm.. 66

MẦU NHIỆM GIÁO HỘI– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 83

HÃY THEO THẦY (*)-  Lm. Giuse Đinh Tất Quý. 87

CHÚA PHỤC SINH ĐỂ Ý ĐẾN CÁC TÔNG ĐỒ– Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ  94

YÊU MẾN CHÚA– Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 98

HÃY TIN VÀO TÌNH THƯƠNG CHÚA-  Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền. 105

THỦ LÃNH PHÊRÔ- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC.. 108

TÌNH MẸ TRONG TRÁI TIM CHÚA GIÊSU – Lm. Inhaxiô Trần Ngà. 113

CHÚA NHẬT III PHỤC SINH- NĂM C

BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC- (Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973)

BÀI ÐỌC I: Cv 5, 27b-32. 40b-41

“Chúng tôi là chứng nhân các lời đó cùng với Thánh Thần”.

Trích sách Tông đồ Công vụ.

Trong những ngày ấy, thầy thượng tế hỏi các tông đồ rằng: “Ta đã ra lệnh cấm các ngươi nhân danh ấy mà giảng dạy. Thế mà các ngươi đã giảng dạy giáo lý các ngươi khắp cả Giêrusalem; các ngươi còn muốn làm cho máu người đó lại đổ trên chúng tôi ư?” Phêrô và các tông đồ trả lời rằng: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta. Thiên Chúa cha ông chúng ta đã cho Ðức Giêsu sống lại, Ðấng mà các ông đã giết khi treo Người trên thập giá. Thiên Chúa đã dùng quyền năng tôn Ngài làm thủ lãnh và làm Ðấng Cứu Ðộ, để ban cho Israel được ăn năn sám hối và được ơn tha tội. Chúng tôi là nhân chứng các lời đó cùng với Thánh Thần, Ðấng mà Thiên Chúa đã ban cho mọi kẻ vâng lời Người!” Họ ra lệnh đánh đòn các tông đồ và tuyệt đối cấm không được nhân danh Ðức Giêsu mà giảng dạy nữa, đoạn tha các ngài về. Vậy các ngài ra khỏi công nghị, lòng hân hoan vì thấy mình xứng đáng chịu sỉ nhục vì Danh Ðức Giêsu.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 29, 2 và 4. 5 và 6. 11 và 12a và 13b

Ðáp: Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con (c. 2a).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con, và không để quân thù hoan hỉ về con. Lạy Chúa, Ngài đã đưa linh hồn con thoát xa Âm phủ, Ngài đã cứu con khỏi số người đang bước xuống mồ.

Xướng: Các tín đồ của Chúa, hãy đàn ca mừng Chúa, và hãy cảm tạ thánh danh Ngài. Vì cơn giận của Ngài chỉ lâu trong giây phút, nhưng lòng nhân hậu của Ngài vẫn có suốt đời. Chiều hôm có gặp cảnh lệ rơi, nhưng sáng mai lại được mừng vui hoan hỉ.

Xướng: Lạy Chúa, xin nhậm lời và xót thương con, lạy Chúa, xin Ngài gia ân cứu giúp con. Chúa đã biến đổi lời than khóc thành khúc nhạc cho con; lạy Chúa là Thiên Chúa của con, con sẽ tán tụng Chúa tới muôn đời.

BÀI ÐỌC II: Kh 5, 11-14

“Chiên Con đã bị giết, xứng đáng lãnh nhận quyền năng, …vinh quang và lời chúc tụng”.

Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.

Tôi là Gioan, đã thấy và nghe tiếng các thiên thần đông đảo vòng quanh ngai vàng, tiếng các sinh vật và các vị kỳ lão; số họ đông hằng ngàn hằng vạn, họ lớn tiếng tung hô rằng: “Chiên Con đã bị giết, xứng đáng lãnh nhận quyền năng, phú quý, khôn ngoan, sức mạnh, danh dự, vinh quang và lời chúc tụng”. Tôi lại nghe mọi thọ tạo trên trời, trên đất, dưới đất, trên biển và dưới biển, tung hô rằng: “Chúc Ðấng ngự trên ngai và chúc Chiên Con được ca tụng, danh dự, vinh quang, quyền năng đến muôn đời”. Bốn sinh vật thưa: “Amen”, và hai mươi bốn vị kỳ lão sấp mặt xuống và thờ lạy Ðấng hằng sống muôn đời.

Ðó là lời Chúa.

ALLELUIA: Ga 10, 27

Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng theo Ta”. – Alleluia.

PHÚC ÂM: Ga 21, 1-14 {hoặc 1-19}

“Chúa Giêsu đến, cầm bánh và cá trao cho họ ăn”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, lúc các môn đệ đang ở bờ biển Tibêria, Chúa Giêsu lại hiện đến. Công việc đã xảy ra như sau: “Simon-Phêrô, Tôma (cũng gọi là Ðiđymô), Nathanael quê tại Cana xứ Galilêa, các con ông Giêbêđê, và hai môn đệ khác nữa đang ở với nhau. Simon Phêrô bảo: “Tôi đi đánh cá đây”. Các ông kia nói rằng: “Chúng tôi cùng đi với ông”. Mọi người ra đi xuống thuyền. Nhưng đêm ấy các ông không bắt được con cá nào. Lúc rạng đông, Chúa Giêsu hiện đến trên bờ biển, nhưng các môn đệ không biết là Chúa Giêsu. Người liền hỏi: “Này các con, có gì ăn không?” Họ đồng thanh đáp: “Thưa không”. Chúa Giêsu bảo: “Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được”. Các ông liền thả lưới và hầu không kéo nổi lưới lên, vì đầy cá. Người môn đệ Chúa Giêsu yêu liền nói với Phêrô: “Chính Chúa đó”. Simon Phêrô nghe nói là Chúa, liền khoác áo vào, vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào và kéo lưới đầy cá theo, vì không còn xa đất bao nhiêu, chỉ độ hai trăm thước tay.

Khi các ông lên bờ, thấy có sẵn lửa than, trên để cá và bánh. Chúa Giêsu bảo: “Các con hãy mang cá mới bắt được lại đây”. Simon Phêrô xuống thuyền kéo lưới lên bờ. Lưới đầy toàn cá lớn; tất cả được một trăm năm mươi ba con. Dầu cá nhiều đến thế, nhưng lưới không rách. Chúa Giêsu bảo rằng: “Các con hãy lại ăn”. Không ai trong đám ngồi ăn dám hỏi “Ông là ai?”, vì mọi người đã biết là Chúa. Chúa Giêsu lại gần, lấy bánh trao cho các môn đệ; Người cũng cho cá như thế. Ðây là lần thứ ba, Chúa Giêsu đã hiện ra với các môn đệ khi Người từ cõi chết sống lại.

[Vậy khi các Ngài đã điểm tâm xong, Chúa Giêsu hỏi Simon Phêrô rằng: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?” Ông đáp: “Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy”. Người lại hỏi: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?” Ông đáp: “Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy”. Người hỏi ông lần thứ ba: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?” Phêrô buồn phiền, vì thấy Thầy hỏi lần thứ ba: “Con có yêu mến Thầy không?” Ông đáp: “Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự: Thầy biết con yêu mến Thầy”. Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các chiên mẹ của Thầy. Thật, Thầy bảo thật cho con biết: khi con còn trẻ, con tự thắt lưng lấy và đi đâu mặc ý, nhưng khi con già, con sẽ giang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho con và dẫn con đến nơi con không muốn đến”. Chúa nói thế có ý ám chỉ Phêrô sẽ chết cách nào để làm sáng danh Thiên Chúa. Phán những lời ấy đoạn, Người bảo ông: “Con hãy theo Thầy”.

CHÚA NHẬT iiI PHỤC SINH- NĂM C

HÃY THEO THẦY (*)  Chú giải của Noel Quession

Sau đó, Đức Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển hồ Ti-bê-ri-a, Người tỏ mình ra như thế này. Ông Simon Phêrô, ông Tôma gọi là Điđymô, ông Nathanaen người Cana miền Galilê, các người con ông Dêbêđê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. Ông Simon nói với các ông: “Tôi đi đánh cá đây”. Các ông đáp: “Chúng tôi cùng đi với anh”.

Công cuộc Phục sinh cần được thực hiện giữa đời thường. Các nhân chứng đầu tiên không phải là những siêu nhân. Họ lại hoạt động với nghề cũ. Họ tiếp tục đánh cá ở Biển hồ. Tất cả là bảy người, đều đã sống với Đức Giêsu. Nhưng Đức Giêsu không hiện diện ở đó nữa. Chúng ta cần ghi nhận một chi tiết, Phêrô đóng vai chủ động khởi xướng. Đó là một biểu tượng đầy ý nghĩa.

Mọi người ra đi, lên thuyền nhưng đêm đó họ không bắt được gì cả.

Đánh cá vào ban đêm là một cách thông dụng. Đó là nét thực tế, mang tính lịch sử. Nhưng ở đây, ta cũng có thể nhận ra một ý hướng của người thuật chuyện: trong cảnh mù tối.. trong đêm khuya… họ đã mất giờ vô ích. Một mẻ lưới không bắt được con cá nào. Chúng ta cũng thường gặp như thế trước những lo lắng về gia đình, nghề nghiệp, xã hội, giáo hội. Đêm tối đời tôi là gì?

Khi trời đã sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận đó chính là Đức Giêsu.

Bảy người đang sống trên “biển nổi sóng”, giữa cảnh mù tối. Đối với người Xê-mít, biển là nơi các thế lực ngầm, các lực lượng âm phủ, thù nghịch, thường gieo khiếp hãi. Còn Đức Giêsu đang đứng trên đất liền, trước ánh sáng của một ngày mới lên… nét tương phản cố ý để minh chứng rằng, kể từ nay Đức Giêsu ở một bến bờ khác? Người vừa mới trải qua một cuộc vượt biển và đang hiện diện ở phía bên kia, đang chờ đợi ta ở đó! Nhưng họ không nhận ra Người! Trên bến bờ đời đời.

Hôm nay, Ngài cũng luôn chờ đợi chúng ta như thế.

Đức Giêsu nói với các ông: “Này các chú, không ăn gì ư?”. Các ông trả lời: “Thưa không”. Người bảo các ông: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, anh em sẽ bắt được cá”. Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá.

Đức Giêsu biết rõ, đêm tối của họ đầy thất vọng và nao núng. Người chia sẻ tình trạng khổ cực của họ. Người chủ động giúp đỡ họ… ngay lúc họ đang bối rối lo lắng. Còn tôi, tôi có thể nghe thấy gì, nếu tôi biết lắng nghe tiếng nói của Người vọng đến từ “bờ” bên kia?

Người môn đệ được Đức Giêsu thương mến nói với ông Phêrô: “Chúa đó”. Vừa nghe nói “Chúa đó” ông Simon – Phêrô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển.

Phêrô nhảy xuống biển. Ông bơi vội vã. Ta biết Phêrô là thế ông là một con người xung động. Nhưng, cũng như trong cảnh đến thăm mồ Chúa, tại Giêrusalem, Gioan vẫn là người phát hiện ra trước Phêrô. Ông sống “yêu thương”, nên ông đoán định theo trực giác. Nhận biết một người, chính là một công việc của tình yêu.

Do đó, đức tin luôn liên hệ với tình yêu. Đức Giêsu Phục sinh không biểu lộ mình ra với những kẻ thù nghịch, những đối phương. Người không có ý định khuất phục họ. Người không thích bá chủ, chiếm hữu và hiển thắng họ! Nếu bạn tìm kiếm Chúa với tình yêu, Người sẽ tỏ hiện ra với bạn, trong một cuộc gặp gỡ đầy tinh tế và chân thành. Bạn hãy kiếm tìm dung mạo Người, sự hiện diện của Người.

Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước.

Đây là một chi tiết rõ ràng, như chữ ký xác thực của một nhân chứng.

Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa.

Đức Giêsu bảo các ông: “Đem ít cá mới bắt được tới đây!”

Đây cũng là một chi tiết nữa, rất khác thường, và do đó đầy tính biểu tượng. Chính. Đức Giêsu đã chuẩn bị một “bữa ‘ăn” cho họ. Không phải bữa ăn họ chờ đợi, do nỗ lực sửa soạn của họ. Đó là một bữa ăn đã được dọn sẵn! Họ được kêu mời cứ việc tham dự, bằng cách tăng cường những hải sản mà họ vừa mới đánh bắt được, theo lệnh truyền của Đức Giêsu. Thực ra, chính Đức Giêsu đang nuôi dưỡng họ.

Ta biết tầm quan trọng của “bữa ăn” trong những lần hiện ra sau biến cố Phục sinh: vào chiều tối Thứ Năm Thánh Đức Giêsu cũng đã “phục vụ” các bạn hữu của Ngài như thế. Ngày nay cũng vậy, đối với các Kitô hữu, việc bẻ bánh và chia bánh luôn là một dấu chỉ đặc biệt sự hiện diện của Chúa Phục sinh. Vâng, Đức Giêsu đang ở trên một bến bờ khác và chờ đợi chúng ta, để chia sẻ cho ta sự sống mới trong một mối hiệp thông mà bữa ăn Thánh Thể là biểu tượng.

Ông Simon – Phêrô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con.

Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách.

Sau trực giác yêu thương của Gioan, con người chiêm niệm… bây giờ đến thái độ dấn thân của Phêrô, con người hoạt động. Đó là hai vai trò cần thiết để xây dựng Giáo hội, được coi như “tấm lưới” không bị rách. Cũng như trong đoạn văn diễn tả “chiếc áo của Đức Giêsu không bị xé rách” (Ga 19,24). Ở đây ta gặp lại sự ám chỉ Giáo hội cần phải được giữ gìn khỏi mọi ly giáo và chia rẽ.

Đức Giêsu nói: “Anh em đến mà ăn”. Không ai trong các môn đệ dám hỏi: “ông là ai”, vì các ông biết rằng đó là Chúa.

Nhận xét đơn sơ trên đây giúp ta bước sâu vào “mầu nhiệm”. Cuộc Phục sinh đã khiến Đức Giêsu, người bạn thân và kẻ đồng hành với họ hôm qua Đức Giêsu Nadarét sống trong một trạng thái hoàn toàn khác… Rõ ràng đúng là Người, nhưng đồng thời không phải như người hôm qua. Người đã trở nên “O kiirios, Đức Chúa!”. Và trong trường hợp này, từ đó mang một ý nghĩa mạnh nhất. Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng!

Đức Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho các ông, rồi cá, Người cũng làm như vậy. Đó là lần thứ ba Đức Giêsu tỏ mình ra cho các môn đệ sau khi chỗi dậy từ cõi chết.

Đây là bữa ăn thực sự… đồng thời, cũng là bữa ăn mầu nhiệm.

Chúng ta hãy nhớ lại diễn tả dài của Đức Giêsu về Bánh ban sự sống, chiếm gần hết chương sáu Tin Mừng theo thánh Gioan, sau khi Chúa dùng “năm chiếc bách lúa mạch và hai con cá nhỏ”, từ trong túi ăn của một cậu bé trên bờ hồ Tibêriát, để biến hoá ra nhiều…

Vâng, hiện nay Đức Giêsu đang ở “trên bến bờ khác”, trên một vùng đất khác, để trao ban cho ta “lương thực từ trời ” Bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian” (Ga 6,33). “Tôi là Bánh hằng sống… Thịt Tôi thật là của ăn… Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời….” (Ga 6,51-55-58).

Chúng ta cũng nên nhớ rằng, vào thời gian mà thánh Gioan viết trình thuật Tin Mừng trên đây, các Kitô hữu thường dùng hình ảnh con cá làm biểu tượng cho Đức Giêsu. Thực vậy, từ “con cá” (tiếng HyLạp là iktus) gồm năm chữ đầu các từ định nghĩa Đức Giêsu:

Lèsous Kristos Théou Unios Sôter

Giêsu Kitô Thiên Chúa Con Đấng cứu độ

Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giêsu hỏi ông Simon Phêrô: “Này anh Simon, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?”. Ông đáp: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy. Người nói: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy”.

Trong cuộc đối thoại trên bãi biển, đã ba lần vang lên những lời hỏi thừa thế, Đức Giêsu biến đổi anh thuyền chài đó trở thành người mục tử. Người thông truyền cho Phêrô quyền điều khiển Giáo hội. Đừng quên rằng, vị Mục tử duy nhất là chính Đức Giêsu. “Tôi chính là Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho chiên” (Ga 10,11). Giờ đây Đức Giêsu phải ra đi.. Người. không còn hiện diện “bằng xương, bằng thịt” nữa. Người trao cho Phêrô trách vụ phải tiếp tục sứ vụ của Người trên thế giới và trong lịch sử. Nhưng các chiên vẫn là chiên của Đức Giêsu: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy”.

Lần thứ hai… rồi lần thứ ba, Đức Giêsu lại hỏi: “Này anh Simon, con ông Gioan, anh có mến Thầy không?”.

Ông Phêrô buồn, vì Người hỏi tới ba lần: “Anh có yêu mến Thầy không?”. Ông đáp: Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Đức Giêsu bảo: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy”.

Bị hạch hỏi tới ba lần, Phêrô cảm thấy đau xót khi liên tưởng tới ba lần ông chối Thầy. Đó là thái độ cực kỳ tế nhị của Đức Giêsu. Người không hề nhắc lại với Phêrô về tội lỗi của ông! Người chỉ yêu cầu ông ba “lần biểu lộ tình yêu! “Anh có mến Thầy không?”: Câu hỏi đó, ngày nay đức Giêsu cũng đang đặt ra cho chính tôi. Trong thinh lặng, tôi lắng nghe câu hỏi trên: “‘Này anh X… anh có yêu Thầy không?”. Tôi hãy thay tên X bằng tên riêng của tôi.

Tôi sẽ trả lời ra sao? Tôi không thể dựa dẫm vào câu trả lời của kẻ khác. Chính tôi đang được để ý và hỏi han….

Như thế, người đã phạm tội nặng nhất, kẻ đã trói Đức Giêsu vào ngày Người bị kết án và chịu khổ hình (thật là một tội khủng khiếp!) hoàn toàn được phục hồi trong tương quan thân mật và yêu thương. Và Đức Giêsu lại uỷ thác cho con người tội lỗi đó, trách nhiệm trọng đại nhất trong toàn thể lịch sử nhân loại. Oi, tình yêu thật là quan trọng! Tình yêu phải trở nên khuôn thước cho hành động. Quyền bính trong Giáo hội, tác vụ trong Giáo hội, là một phục vụ, một tình yêu: cần phải phục vụ yêu thương anh em mình (Mc 9,35; Ga 13,4-16)… nhưng trong chính tác động đó, cũng là phục vụ yêu thương Đức Giêsu… Đó là một trong những nguồn gốc mầu nhiệm của đời độc thân tận hiến.

Thật Thầy bảo thật cho anh biết: “Lúc còn trẻ anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn”. Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông: “Hãy theo Thầy”.

Anh chị em, chúng ta hãy suy niệm dụ ngôn nhỏ bé cuối cùng của Đức Giêsu: Về tuổi trẻ như biểu tượng của tự do và hoạt động (“Anh đi đâu tuỳ ý”)… và tuổi già như biểu tượng của sự gò bó và thụ động (“một người khác sẽ thắt lưng cho anh”), nghĩa là sự từ bỏ triệt để của tuổi già đầy yếu đuối khiến ta không thể tự mình ăn mặc được nữa)… Thái độ thụ động, đành phải chấp nhận này, cũng là cách thế thuận theo của Đức Giêsu trên thập giá. ” Đó là hoạt động cuối cùng của con người khi chỉ còn biết phó mình trong bàn tay của một Đấng khác: đó chính là tác động yêu thương. Thái độ này không làm giảm thiểu hay làm mất thể diện Thiên Chúa, nhưng là tôn vinh Người. Đối với Đức Giêsu, cái chết là hoạt động cuối cùng.

(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt

 CHÚA NHẬT III phục sinh – NĂM C

ĐỨC GIÊSU PHỤC SINH VẪN HIỆN DIỆN- Chú giải của Fiches Dominicales

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:

*1. Tảng sáng, Đức Giêsu đã có mặt trên bờ biển hồ.

Các câu 30-31: “Còn nhiều phép lạ… ” kết thúc bài Tin Mừng Chúa nhật trước hiển nhiên là đoạn kết của Tin Mừng thánh Gioan. Bới vậy, nhiều nhà chuyên môn coi đoạn 21 như một phụ lục được thêm vào sau.

Alain Marchadour nhanh chóng quả quyết: “đoạn phụ lục này không phải chỉ là một “lời bạt “, nhưng là một nối tiếp có tính Giáo Hội học cho một Tin Mừng nặng tính Kitô học. Giữa Tin Mừng tập trung vào Đức Kitô coi như kết thúc sau đoạn 20 là phụ lục là đoạn 21 không có mâu thuẫn mà chỉ là sự chuyến hướng nhắm vào Giáo hội (I. Zumstein). Những trung gian cần thiết để Đấng Mạc Khải tiếp tục công trình đều được trưng diễn: bữa ăn tạ ơn trong đó sự hiện diện của Người được tiếp tục nhiệm vụ mục tử của Phêrô là các Đấng kế vị, nhiệm vụ của người môn đệ được Chúa yêu và Giáo Hội của Ngài ” (“Levangile de Jean “, Centurion, trg 253).

Một lần nữa, chúng ta lại thấy 3 giai đoạn của tiến trình Phục sinh:

– sáng kiến của Đấng Phục sinh

– nhận ra Đức Giêsu đang sống sau khi biết Người đã chết

– sứ mệnh Đấng Phục sinh trao cho Phêrô

*a/ Khung cảnh diễn ra trên bờ hồ Tibêriát, nơi họ gặp Đức Giêsu Nadarét.Simon Phêrô và 6 anh em khác: Tôma, Nathanael quê Cana xứ Galilêa, hai con ông Zêbêđê và hai môn đệ nữa đang dưới thuyền đánh cá. Nhưng không được gì hết. “Nhưng suốt đêm ấy họ không bắt được gì.? (so sánh với bản tướng thuật khởi đầu sứ vụ tại Galilê của Luca 5,1-11).

*b/ Tảng sáng, Đức Giêsu phục sinh hiện đến trên bờ hồ.

Các môn đệ không nhận ra Người. A. Marchadour chú giải rằng: “Họ không nhận ra Người. Sự Phục sinh đã tạo một biến đổi nào đó nơi Đức Giêsu. Vì sự biến đối đó nên các bản tường thuật cũng có những chi tiết khác biệt. Ở đây, cả sự hiện diện thể lý, cả giọng nói cũng không làm cho các môn đệ nhận ra, trừ người môn đệ được Chúa yêu.” (Sđd, trg 256).

Khi Đức Giêsu hỏi: “Các con bắt được con cá nào không? (Hãy nghĩ tới câu Chúa hỏi các môn đệ trên đường đi Emmaus: các bạn nói chuyện gì mà rầu rĩ thế?) họ thú thật: vất vả thâu đêm mà chẳng được gì, nhưng, vâng lời Người, “họ thả lưới “.

*c/ Sau đó, mẻ cá lạ lùng được trình bày như một biểu trưng cho sứ mệnh tông đồ của cộng đoàn. Các tông đồ tự sức mình, không thể thành công trong sứ mệnh, nhưng, dựa vào lời Đấng Phục sinh, họ bắt tay vào việc, và ngoài sự mong đợi, họ tập hợp được muôn người khắp nơi (bội thu: 153 con cá, gợi nhớ ở tiệc cưới Cana nơi Ga 2; bánh hoá nhiều Ga 6). Lại còn hình ảnh hợp nhất (chính sử đã muốn tượng trưng bằng chi tiết: lưới không bị rách, theo ngữ nghĩa Hy Lạp, không bị phân ly, không có chia rẽ).

*2. Chúa đó

– Gioan, người môn đệ Chúa yêu (như nơi Ga 20,2-10: “ông thấy và ông tin”), đã tỏ ra bén nhạy với dấu lạ. Và nhờ trực giác chiêm niệm này mà mắt các anh em khác mở rộng để thấy Đấng Phục sinh hiện diện trên bờ hồ: “Chúa đó “. Thánh Phêrô Chrysologue chú giải: ” Kẻ được yêu thấy trước vì con mắt tình yêu tinh hơn, và kẻ được yêu cảm nhận bén nhạy hơn.”

Lời của Gioan làm cho Phêrô tin tưởng, ông vội khoác áo vào và nhảy ùm xuống (Thi vị thật. Phêrô đang ở trần. Xin nhớ đến Luca 5,8: “Lạy Thầy, xin xa con ra, con chỉ là tên thuyền chài”)..

– Cái gì làm cho tâm trí Phêrô trì trệ vậy ông vẫn là người ban phát cho người khác mà bây giờ phải nhờ người khác mách bảo. Vẫn thánh Phêrô Chrysologue chú giải: “Đâu rồi lời tuyên xưng ” thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa ‘hằng sống “. Hay tại ông đã chối Thầy khi nghe một đứa nữ tỳ tra vấn? Khi bạn ông nói “Thầy đó”. Ông vội lấy áo vì đang ở trần, nhảy xuống biển, như muốn rửa sạch các vết tội như chối Thầy 3 lần. Ông, người đứng đầu các Tông Đồ, trở thành kẻ sám hối đầu tiên”.

Vào tới bờ các môn đệ thấy bánh và cá đã nướng sẵn đó. Trong bữa ăn mà Chúa đã chuẩn bị để đãi họ (“đến mà ăn “). Anh sáng thâm nhập tâm hồn: Không môn đệ nào còn hỏi Người Thầy là ai? Vì họ đều biết đó là Chúa?

Marchadour chú thích rằng: ” Trong những bích hoạ cổ, bánh và cá biểu tượng tiệc Thánh Thể. Như vậy, trình thuật này của thánh Gioan, muốn nhắc độc giả nhớ rằng: cử hành Thánh Thể là sự nối dài là hiện thực hoá điều mà các chứng nhân tiên khởi của biến cố Phục sinh tin nhận trong sứ vụ cũng như công việc đời thường, tín hữu cần nhớ: Chúa Giêsu vinh hiển đang chờ họ, đang chuẩn bị cho họ bữa ăn nuôi sống họ và làm cho họ có sức mà gặp được Người” (Sđd, trg 257).

*3. Hãy chăn các chiên của Ta.

Toàn bộ trình thuật của Gioan khẩn khoản mời chúng ta hướng về Phêrô. Ở bờ hồ, Phêrô được liệt kê trước hết trong danh sách các môn đệ. Ông là kẻ khởi xướng chuyến ra biển, các anh em khác theo ông và xuống thuyền của ông; chính ông nhào xuống nước lội vào gặp Đấng mà Gioan vừa chỉ ra là Chúa; và rồi, chính ông trở lại thuyền để kéo lưới vào tận bờ, đầy những cá lớn và trình mẻ cá cho Đức Giêsu thấy.

Và bây giờ, trong câu chuyện có tính quyết định, Phêrô đóng vai trò chính yếu nhất, khi Đấng phục sinh long trọng xác nhận sứ mệnh tông đồ đặc biệt của ông cũng như những điều kiện cần thiết để chu toàn sứ mệnh ấy.

Ba lần hỏi: “Con có yêu mến Thầy Không? Con có yêu mến Thầy hơn những người này không? ” những câu hỏi vừa gợi lại vừa sửa lỗi ba lần Phêrô đã chối Thầy (Ga 13,37 và 18, 17.25.27). Đức Giêsu đón nhận một tội nhân sám hối.

Ba lần trao nhiệm vụ. Kẻ mới chối Người, Người lại trao một nhiệm vụ đặc biệt trong Giáo Hội Người. Ba lần trao nhiệm vụ theo thói quen thời đó, Đức Giêsu đã chính thức uỷ thác cho Phêrô nhiệm vụ chăm sóc đàn chiên. Nhiệm vụ này, Phêrô đã chu toàn khi “theo ” Thầy mình cho tới cái chết để làm chứng. (Ga 13,36): tham dự vào sứ mệnh của Đức Giêsu, chính là tham dự vào mầu nhiệm chết và sống lại của Người; và cũng chính là chấp nhận hiến dâng mạng sống cho những anh em đã được Chúa trao phó như Đức Giêsu.

BÀI ĐỌC THÊM:

*1. Đức Giêsu trên bờ biển Hồ (“Bible du Dimanche”” trg 582).

Đức Giêsu đã hứa với các Tông đồ: Người sẽ gặp các ông ở Galilê sau khi sống lại. Người đang ở bờ biển Hồ (biểu tượng của vĩnh cửu), trong khi các môn đệ đang vất vả trên.mặt biển, trong thử thách, hiểm nguy. Các Tông đồ không nhận ra Người ngay. Chỉ đức tin mới làm cho người ta nhận ra Người qua những dấu chỉ Người tỏ bày.

Đức Chúa vinh hiển, Đấng từ xa kêu gọi và chỉ tỏ mình trong đức tin, lại cũng chính là người mời phục vụ chuẩn bị bữa ăn và mới gọi chúng ta ngồi chia sẻ bữa ăn ấy. Đức Kitô sai các Tông đồ đi chài lưới người ta. Mẻ chài này, Người điều khiển. Người làm cho cá vào đầy lưới, biểu tượng Nước Trời (Mt.13,47). Người trao nhiệm vụ chủ chăn cho Phêrô. Uy quyền này được trao cho một con người rất bình thường (Simon con Giona), một con người mỏng giòn, đã chối bỏ Người và không thể yêu Người sâu xa hơn ngoài sự gắn bó thuần tình cảm.

Nhưng từ đây, Đức tin của Phêrô dựa trên Đức Giêsu chứ không dự’ trên sức mình: ” Thầy biết “. Phêrô không đòi chia sẻ mọi tâm tư của Thầy, ông chỉ còn việc duy nhất phải làm: theo Thầy.

Số phận của Phêrô cũng sẽ là số phận của các tín hữu: từ lòng tin nhiệt thành phác hoạ lối đi, ông tiến tới đức tin chín chắn, dám để cho Chúa dẫn dắt cuộc đời cho tới chết, tới tử đạo.

*2. Người của bờ biển Hồ (G. Bessière, trong dieu si proche, Nãm C”. DDB, trg 57-58).

Không ai nhận ra con người đứng trên bờ biển Hồ. Người môn đệ Đức Giêsu yêu đã kêu lên: ” Chúa đó! ” Vào sáng phục sinh, ông là người đã đến mồ trước tiên, “ông đã thấy và đã tin; và trong ánh sáng của tình yêu, ông còn là người đầu tiên nhận ra Đấng Phục sinh. Phêrô cũng là người có phản ứng rất đặc biệt: nhảy ùm xuống nước mà lội vào với Chúa.

Bản tướng thuật như quên những anh em khác để tập chú vào hai nhân vật này. Mỗi người một vẻ. Người thì được Đức Giêsu quá yêu thương. người thì là.thủ lãnh năng động của tập thể. Giáo Hội sơ khai cần nhận ra đặc điểm của hai khuôn mặt vĩ đại này. Đó là hai cực sống động của những cộng đồng quan trọng tiên khởi, hai trào lưu khác nhau của Kitô giáo thuở đầu. Cả hai vị đều tiếp nhận từ Đức Giêsu vai trò đặc biệt của mình.

Còn một biểu tượng rất giàu ý nghĩa: người ta chèo thuyền, người ta thả lưới, đêm dài vô tận, bình mình nhợt nhạt, mà thuyền cá nhẹ tênh. Phải nhìn ra đấng Phục sinh đang ở xa xa, phải biết đi tới tận cùng thế giới. Nghe người chỉ mà quay lại quăng lưới. Chỉ Người có thể dẫn ta vào những cuộc mạo hiểm khi nhắc cho ta những đòi hỏi và hạnh phúc của cuộc mạo hiểm đó, đời sống của Giáo Hội phải luôn được “hiệu chỉnh ” dưới ánh mắt của Đức Giêsu”

Lưới không rách. Cộng đồng Kitô giáo cũng vậy. Nhiều dị biệt. Nhưng là nơi người ta nghe nhau, hiệp thông với nhau dù rất khác biệt. Đức Giêsu luôn mời gọi. Người hiến tặng bánh và cá, như thời nuôi dân trong hoang địa, như bữa tiệc chiều ly biệt. Chúng ta thoáng nhận ra hình ảnh bữa tiệc ngày thế mạt mà Người muốn mời cả loài người. Chân trời này gợi nơi ta một mối quan tâm vô cùng sâu sắc.

Các Kitô hữu, thực hiện sứ mệnh mỗi người mỗi cách, nhưng phải trùng hợp với ý Đức Giêsu, nhận ra Người, nghe “được tiếng Người khi thi hành sứ mệnh Chính Người nuôi dưỡng và làm cộng đồng sống động: chúng ta nghĩ đến Bữa tiệc ly Thánh Thể. Và như tại Emmaus, chúng ta nhận ra Đấng Phục Sinh nhờ cử chỉ khi hiện diện, phục vụ và chia sẻ của Người.

CHÚA NHẬT III PHỤC SINH – NĂM C

CHÚA GIÊSU PHỤC SINH Ở TRÊN BỜ (*)-  Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật III Phục Sinh hôm nay dâng hiến cho chúng ta những chứng từ mới về biến cố Phục Sinh.

Cv 5: 27b-32, 40b-41

Trong sách Công Vụ Tông Đồ, thánh Lu-ca tường thuật lời chứng của các Tông Đồ trước Thượng Hội Đồng. Các Tông Đồ khẳng định đầy xác tín rằng Đức Giê-su, mà các ông đã đóng đinh, đã sống lại và được tôn vinh.

Kh 5: 11-14

Trong sách Khải Huyền, thánh Gioan mô tả thị kiến về phụng vụ thiên quốc tôn vinh Con Chiên chịu sát tế, được cả triều thần thánh thiên quốc cũng như muôn loài thụ tạo chúc tụng tôn vinh.

Ga 21: 1-19

Tin Mừng tường thuật Đấng Phục Sinh lại hiện ra với các môn đệ Ngài trên bờ Biển Hồ Ti-bê-ri-a. Đây là giây phút Chúa Giê-su trao gởi con thuyền Giáo Hội của Ngài cho thánh Phê-rô và tấn phong thánh nhân làm Mục Tử tối cao trên toàn thể đoàn chiên Ngài, căn cứ  trên tình yêu của thánh nhân đối với Ngài.

BÀI ĐỌC I (Cv 5: 27b-32, 40b-41)

Sự kiện các Tông Đồ bị điệu ra trước Thượng Hội Đồng, tức là tòa án tối cao ở Giê-ru-sa-lem, được đặt vào trong hoàn cảnh rất đặc thù. Trước đó, thánh Phê-rô và thánh Gioan đã bị bắt sau khi đã chữa lành một người bại liệt ở cửa Đền Thờ và đã ngỏ lời với đám đông tụ tập chung quanh các ngài. Sau khi tra hỏi các ngài, các thành viên Thượng Hội Đồng ngăm đe và nghiêm cấm các ông không được rao giảng Đức Giê-su nữa, rồi thả các ông về “vì họ sợ dân chúng” (4: 21).

Thánh Phê-rô, thánh Gioan cũng như các Tông Đồ khác, chẳng những đã không nín lặng, lại càng lớn tiếng rao giảng Đức Giê-su. Thánh Lu-ca xác định: “Đầy lòng ghen tức, họ bắt các Tông Đồ, nhốt vào nhà tù công cộng” (5: 18). Vào ban đêm, thiên sứ mở cửa ngục, đưa hai ông ra ngoài. Ngay từ sáng sớm, các ông lại xuất hiện trong Đền Thờ để giảng dạy đám đông. Các thượng tế càng nỗi giận và bắt các ngài một lần nữa. Chính đây là đoạn trích dẫn hôm nay: các Tông Đồ lại bị điệu ra trước Thượng Hội Đồng.

*1.Vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời loài người:

Vì thế, vị thượng tế hỏi những kẻ tái phạm ngoan cố này: “Chúng tôi đã nghiêm cấm các ông không được giảng dạy về danh ấy nữa, thế mà các ông đã làm cho Giê-ru-sa-lem ngập đầy giáo lý của các ông, lại còn muốn cho máu người ấy đổ trên đầu chúng tôi!” (5: 28)

Nhân danh nhóm Mười Hai, thánh Phê-rô khôn khéo trả lời. Thánh nhân giải thích cho các tư tế được thánh hiến để phụng sự Thiên Chúa trong Đền Thờ rằng chính “vị Thiên Chúa của cha ông chúng ta” này đã cho Đức Giê-su sống lại, tôn vinh Ngài và đặt Ngài làm Thủ Lãnh và Đấng Cứu Độ. Vì thế, nếu thánh nhân cũng như các bạn đồng môn đã không thể nào nín lặng, vì phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời loài người.

*2.Chúng tôi cùng Chúa Thánh Thần xin làm chứng:

Thánh Phê-rô biết rằng lời chứng của mình có thể bị bác bỏ. Luật Do thái đòi hỏi việc xét xử chỉ có giá trị nếu căn cứ ít nhất trên hai nhân chứng (Đnl 17: 6). Chứng nhân thứ hai mà vị Tông Đồ viện dẫn, quả thật bất ngờ, là Chúa Thánh Thần:“Về những sự kiện đó, chúng tôi xin làm chứng, cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng phục Người” (5: 33).

Cũng vẫn ở nơi Thiên Chúa mà thánh Phê-rô quy giá trị những lời nói được Thánh Thần linh hứng cho mình. Như vậy, thánh nhân kết thúc bài diễn từ của mình với cùng viễn cảnh như thánh nhân đã bắt đầu: “Vâng phục Thiên Chúa” (5: 29 và 32).

Qua bài diễn từ này và những bài diễn từ khác nữa của thánh Phê-rô (tổng cộng là năm bài diễn từ), thánh Lu-ca cho chúng ta biết những đề tài cốt yếu của giáo lý tiên khởi; vào lúc đó, giáo lý này chỉ ngỏ lời với các thính giả Do thái.

Thượng Hội Đồng lại miển cưỡng thả các Tông Đồ. Quả thật, vào gần cuối của đoạn trích này, thánh Lu-ca đặt ông Ga-ma-li-ên, một người Pha-ri-sêu, đồng thời một kinh sư đáng kính có khuynh hướng cởi mở, lên tiếng bênh vực cho các Tông Đồ. Như vậy, ngay ở giữa lòng Thượng Hội Đồng xảy ra những căng thẳng nội bộ. Những đối thủ hung dữ nhất của các Tông Đồ không là những người Pha-ri-sêu (thánh Lu-ca đã không nêu tên họ trong suốt bài tường thuật Thương Khó), nhưng giới giáo sĩ, đặc biệt nhà Kha-nan (“vị thượng tế cùng những người thân cận”).

Tuy nhiên, các Tông Đồ, trước khi được thả ra, phải bị đánh đòn theo luật Mô-sê cho là có tội, và chỉ được phép đánh không quá bốn mươi đòn, “sợ rằng đánh thêm sẽ bị trọng thương, và người anh em của anh em sẽ bị nhục trước mặt anh em” (Đnl 25: 2-3).

*3.Niềm vui của những người bị khổ nhục vì danh Đức Giê-su:

Dù bị đánh đòn, “các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giê-su”. Chúa Giê-su đã nói trước với các ông: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại, vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao” (Mt 5: 11-12). Thánh Phê-rô, khi viết cho các cộng đoàn Ki-tô hữu bị bách hại, cũng phát biểu như vậy: “Được chia sẻ những đau khổ của Đức Ki-tô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu” (1Pr 4: 13).

BÀI ĐỌC II (Kh 5: 11-14)

Sách Khải Huyền được chi phối bởi hai thị kiến khai mạc. Chúng ta đã đọc thị kiến thứ nhất vào Chúa Nhật trước. Thị kiến thứ hai giới thiệu phần chính yếu thứ hai sách Khải Huyền. Thị kiến này bao gồm các chương 4 và 5 và được chia thành hai phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất mô tả một lễ nghi hùng vĩ tôn thờ Thiên Chúa cực thánh, Đấng Sáng Tạo muôn loài muôn vật, và phân đoạn thứ hai là một phụng vụ trang trọng tôn vinh Con Chiên chịu sát tế. Bản văn của chúng ta được trích dẫn từ phân đoạn thứ hai này.

*1.Đức Ki-tô, Con Chiên chịu sát tế:

Trong sách Khải Huyền, đây là lần đầu tiên Đức Ki-tô được gọi là Con Chiên và Con Chiên chịu sát tế. Danh xưng này từ nay sẽ ngự trị toàn bộ sách Khải Huyền. Tước hiệu này mang đậm nét truyền thống Gioan. Trong Tin Mừng Thứ Tư, thánh Gioan Tẩy Giả chứng nhận Đức Giê-su là “Chiên Thiên Chúa” (Ga 1: 36); cũng trong Tin Mừng Thứ Tư, Phi-la-tô trao Đức Giê-su cho người Do thái đóng đinh vào thập giá “hôm ấy vào ngày áp lễ Vượt Qua, vào khoảng mười hai giờ trưa” (Ga 18: 14), đúng vào giờ trong sân Đền Thờ người ta sát tế những con chiên dành cho bữa ăn Vượt Qua.

Hình ảnh con chiên ẩn hiện trong tư tưởng của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, khi ông gợi lên Người Tôi Trung bị đem đi giết “như chiên bị đem đi làm thịt” (Is 53). Ngược dòng lịch sử, sách Xuất Hành tường thuật máu chiên vượt qua đã bảo vệ dân Do thái khỏi chết như thế nào khi họ bôi máu con chiên trên khung cửa nhà mình (Xh 12: 7-13).

Trong thị kiến của mình, tác giả sách Khải Huyền xác định rằng ông thấy “con chiên đã bị sát tế”, nghĩa là được ghi dấu bởi những vết thương hy tế. Trong vinh quang của mình, Chúa Ki-tô muôn đời mang lấy những dấu tích cuộc Tử Nạn của mình mà giá trị của chúng không bao giờ phai nhạt. Chính ở nơi Con Chiên này mà muôn vàn thiên thần và muôn vị chư thánh dâng lời tôn vinh chúc tụng.

*2.Lời chúc tụng của các thiên thần và con số 7:

Muôn vàn thiên thần đứng chầu chung quanh ngai. Ngai chỉ Thiên Chúa, Đấng không bao giờ được miêu tả, ngoại trừ qua những ám chỉ đến ánh sáng huy hoàng nhiệm mầu của Ngài, được sánh ví với những viên đá quý lung linh rực rỡ. Ấy vậy, ở đây, ngai cũng chỉ Con Chiên, cách thức công bố thần tính của Chúa Giê-su.

Các thiên thần tán dương Con Chiên qua bảy phẩm tính: “Con Chiên đã bị giết quả xứng đáng lãnh nhận phú quý và quyền năng, khôn ngoan và uy lực, danh dự với vinh quang, cùng muôn lời chúc tụng!”. Bảy là con số chỉ sự viên mãn. Xa hơn một chút, chúng ta gặp lại lời chúc tụng khác cũng về bảy phẩm tính, mà cộng đoàn được tuyển chọn dâng lên cho chính Thiên Chúa: “A-men! Xin kính dâng Thiên Chúa chúng ta lời chúc tụng và vinh quang, sự khôn ngoan và lời tạ ơn, danh dự, uy quyền và sức mạnh, đến muôn thuở muôn đời! A-men!” (7: 12). Nếu Con Chiên đón nhận cùng một phụng thờ như thế, đó là một cách thức mới khẳng định thần tính của Ngài.

Cả triều thần thánh trên trời đều tán dương Con Chiên, như thế khẳng định thần học của thánh Phao-lô và thần học của tác giả thư gởi tín hữu Do thái: Chúa Ki-tô đã được đặt trên các thiên thần (x. Ep 1: 21; Dt 1: 4-14).

*3.Lời chúc tụng của các Con Vật, các Kỳ Mục và con số 4:

Chung quanh ngai có các Con Vật và các Kỳ Mục. Các Con Vật và các Kỳ Mục này đã được nêu lên và đã được mô tả trước đây. Các Con Vật được biểu tượng bởi con số bốn, con số có nghĩa hoàn vũ (“bốn phương”). Chúng được mô tả có cánh, giống như con vật hay con người (4: 7), gần với bốn con vật có hình thù kỳ lạ nâng đỡ ngai Thiên Chúa trong thị kiến của ngôn sứ Ê-dê-ki-en (Ed 1: 18). Ở đây, chúng đại diện vũ trụ.

Các Kỳ Mục có tất cả là hai mươi bốn vị. Họ biểu thị mười hai chi tộc Ít-ra-en và mười hai Tông Đồ, tức là vừa Giao Ước Cũ vừa Giao Ước Mới; như vậy, hai mươi bốn Kỳ Mục ngụ ý rằng chỉ có một Giao Ước duy nhất. Dù thế nào, họ thuộc về nhân loại và đã đóng vài trò của những người thờ phượng trong phụng vụ trước đó: mình mặc áo trắng, đầu đội triều thiên (4: 10-11). Họ cũng tôn thờ Con Chiên: “Các Kỳ Mục phủ phục xuống thờ lạy”.

*4.Lời chúc tụng của muôn loài thọ tạo và con số 4:

Muôn loài thọ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất và ngoài biển khơi đều tung hô Con Chiên. Vũ trụ được chỉ rõ bởi bốn miền. Bài thánh thi tung hô Con Chiên với bốn phẩm tính: “Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời!”.

*5.Mầu nhiệm vượt qua:

Con Chiên được tôn thờ, tán dương, chúc tụng vì nó đã được sát tế. Tất cả mầu nhiệm Vượt Qua được tiềm ẩn ở nơi khía cạnh hy tế và cứu chuộc, rồi đến vinh quang, vinh quang mà Chúa Giê-su đã xin Cha Ngài trong lời cầu nguyện hiến tế của Ngài: “Vậy, lạy Cha, giờ đây, xin Cha tôn vinh con bên Cha : xin ban cho Con vinh quang mà con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian” (Ga 17: 5).

*6.Sứ điệp:

Ngoài phụng vụ tôn vinh Con Chiên – phản ảnh nào đó cuộc sống phụng vụ Giáo Hội – nổi bật sứ điệp then chốt của sách Khải Huyền: những người Ki-tô hữu bị bách hại, dẫn đến cuộc tử đạo, chính họ là những con chiên bị sát tế, “bị đem đi làm thịt”; họ theo bước chân của Chúa Ki-tô; họ dự phần vào vận mệnh và vinh quang của Ngài. Lời hứa đã được ban cho họ một cách long trọng: “Ai thắng, Ta sẽ cho ngự bên Ta trên ngai của Ta, cũng như Ta đã thắng và ngự bên Cha Ta trên ngai của Người” (3: 21).

TIN MỪNG (Ga 21: 1-19)

Chương 21 Tin Mừng Gioan là phần phụ chương. Tác phẩm đã đóng lại rồi ở 20: 30-31: “Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được chép trong sách này. Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người”. Chung chung, người ta nghĩ rằng phần phụ chương này đã được thêm vào, hoặc bởi chính tác giả hay bởi một trong các môn đệ của ông.

Dù thế nào, người ta nhận ra ở đây văn phong của Gioan: những thực tại được mô tả chất nặng những dấu chỉ đến mức chúng ban cho câu chuyện nghĩa thứ hai, tròn đầy hơn nghĩa của từ ngữ. Đoạn Tin Mừng hôm nay gồm hai bài trình thuật, nhưng có chung một đề tài: quyền lãnh đạo tối thượng của thánh Phê-rô trên Giáo Hội truyền giáo (21: 1-14) và quyền mục tử tối cao của thánh nhân trên toàn thể đoàn chiên của Chúa Giê-su (21: 15-19).

*1.Quyền lãnh đạo tối thượng của thánh Phê-rô trên Giáo Hội truyền giáo (21: 1-14)

*A-Cuộc hội ngộ bên biển hồ Ti-bê-ri-a miền Ga-li-lê:

Sau những cuộc gặp gỡ ban đầu với Đấng Phục Sinh ở Giê-ru-sa-lem, các Tông Đồ trở về Ga-li-lê. Về điểm này, thánh Gioan đồng thuận với thánh Mát-thêu. Theo thánh Mát-thêu, vào lúc trên đường đến đồi Ô-liu, sau Bữa Tiệc Ly, Đức Giê-su đã nói với các môn đệ: “Đêm nay tất cả anh em sẽ vấp ngã vì Thầy. Vì có lời đã chép: Ta sẽ đánh người chăn chiên, và đàn chiên sẽ tan tác. Nhưng sau khi chỗi dậy, Thầy sẽ đến Ga-li-lê trước anh em” (Mt 26: 31-32). Thiên sứ đã lập lại sứ điệp này cho những người phụ nữ đến mồ: “Người đã chỗi dậy từ cõi chết, và Người đi Ga-li-lê trước các ông” (Mt 28: 6-7).

Theo Tin Mừng Gioan, không phải tất cả các Tông Đồ đều có mặt ở đó, nhưng chỉ có bảy người, con số chỉ sự viên mãn, và tất cả họ đều lên thuyền, thuyền của thánh Phê-rô. Người ta nhận ra rồi ở nơi tình tiết này ý nghĩa Giáo Hội. Cũng giống như mẻ lưới cá lạ lùng thứ nhất được thánh Lu-ca tường thuật (Lc 5: 1-11), “Đêm ấy không bắt được gì cả”. Ấy vậy, những mẻ lưới ban đêm, theo kinh nghiệm nghề nghiệp, được xem là những mẻ lưới đánh nhiều cá hơn những mẻ lưới ban ngày.

*B-Chúa Giê-su Phục Sinh ở trên bờ:

“Khi trời đã sáng, Đức Giê-su đứng trên bãi biển” như một khách vãng lai vui miệng hỏi thăm công việc của các ngư phủ như thế nào. Họ trả lời là chẳng bắt được gì cả. Vâng theo lời chỉ dẫn của Ngài “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được nhiều cá”, họ đánh bắt được một mẻ lưới đầy những cá. “Người môn đệ Chúa yêu” nhận ra ngay chính Chúa đó. Trong Tin Mừng Gioan, độ nhạy bén của con tim luôn luôn trổi vượt hơn sự suy luận của lý trí. Tuy nhiên, thánh Phê-rô là người phản ứng trước tiên: không đợi thuyền cập bến, thánh nhân lao mình xuống nước đến gặp Thầy.

Thánh Lu-ca tường thuật mẻ lưới cá lạ lùng được định vị vào lúc Chúa Giê-su kêu gọi các môn đệ đầu tiên, theo đó Đức Giê-su đã ở trong thuyền với các môn đệ của Ngài (Lc 5: 1-7). Thánh Gioan cũng tường thuật mẻ lưới cá lạ lùng, nhưng được định vị sau biến cố Phục Sinh, theo đó Đức Giê-su Phục Sinh không còn ở trên thuyền với các môn đệ, nhưng ở bên bờ cuộc sống đời đời của Ngài. Chỉ một mình các môn đệ của Ngài trên biển, theo truyền thống được xem như nơi trú ngụ của những quyền lực sự dữ. Tuy nhiên, Đức Giê-su vẫn tiếp tục quan tâm đến công việc của họ và hướng dẫn họ. Chính nhờ sự can thiệp của Ngài mà công việc của họ đâm hoa kết trái. Rõ ràng, con thuyền giữa sóng nước mênh mông là biểu tượng của Giáo Hội giữa trần thế. Và công việc đánh cá của các ông được Chúa Giê-su xác định với thánh Phê-rô ngay từ mẻ lưới cá lạ lùng đầu tiên: “Từ nay anh sẽ là người chài lưới người” (Lc 5: 10).

*C-Riêng một mình thánh Phê-rô:

Thánh Phê-rô một mình bơi vào bờ, trong khi các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá. Khi Chúa Giê-su bảo các ông đem ít cá mới vừa mới đánh bắt được đến đây, thì chỉ mình thánh Phê-rô lại xuống thuyền, rồi kéo lưới đầy cá lớn lên bờ, công việc vượt quá sức của một người, và lưới dù đầy cá đến thế mà không bị rách (21: 11). Chính nơi thánh Phê-rô mà Chúa Giê-su trao phó trách nhiệm hàng đầu đối với Giáo Hội truyền giáo của Ngài; chính thánh nhân phải dẫn đến với Chúa những ai mà sứ mạng truyền giáo đã thu phục được và chính ở nơi thánh nhân mà Ngài ủy nhiệm bổn phận ân cần săn sóc để không có bất kỳ một ai phải bị mất đi. Thời điểm được xác định ngay từ đầu câu chuyện: “trời đã sáng”, hình ảnh rất tâm đắc của thánh Gioan, đây là thời điểm ánh sáng, thời điểm cứu độ.

Còn con số “một trăm năm mươi ba con” được thánh Giê-rô-ni-mô giải thích theo đó vào thời của thánh nhân, các nhà động vật học liệt kê được một trăm năm mươi ba loài cá. Như vậy, qua con số biểu tượng này, tác giả ám chỉ đến công việc truyền giáo các Tông Đồ sẽ thực hiện theo lệnh của Đức Ki-tô dưới sự hướng dẫn của thánh Phê-rô, đồng thời tác giả cũng tiên báo công trình ấy sẽ đem muôn dân muôn nước về với Đức Ki-tô.

*D-Bữa ăn của Chúa:

Biết các môn đệ vất vả suốt đêm trong cái lạnh của nước và gió, Đức Giê-su chuẩn bị sẵn cho các ông một bếp than hồng để sưởi ấm và một bữa ăn để no lòng. Tất cả đã sẵn sàng: “Anh em đến mà ăn”. Bữa ăn gồm bánh và cá, hai yếu tố này xem ra không phù hợp với bàn tiệc Thánh Thể, tuy nhiên biểu thức: “Đức Giê-su cầm lấy bánh và trao cho các môn đệ ăn” rõ ràng là biểu thức của bàn tiệc Thánh Thể. Hơn nữa vào thời Giáo Hội tiên khởi “bánh” và “cá” biểu tượng Thánh Thể, như được thấy trong phép lạ “Bánh và Cá hóa nhiều” được cả bốn sách Tin Mừng ghi lại như tiên trưng bàn tiệc Thánh Thể. 

“Mẻ cá lạ lùng” và “bữa ăn của Chúa” diễn tả hai khía cạnh bất khả phân của thực tại Giáo Hội: hoạt động truyền giáo và bàn tiệc Thánh Thể. Giáo Hội được mời gọi nối tiếp sứ mạng của Đức Giê-su, loan báo Tin Mừng cứu độ cho muôn dân. Đây là một công việc đòi hỏi nhiều gian nan vất vả như cuộc đời cứu thế của Đức Giê-su đã cho thấy. Chính vì thế, Chúa Giê-su đã dọn sẵn cho các môn đệ của Ngài bữa ăn của Ngài để sưởi ấm lòng mến của các ông và nuôi dưỡng đức tin kiên vững của các ông trong sứ mạng.

*2-Quyền mục tử tối cao của thánh Phê-rô trên toàn thể đoàn chiên của Chúa Giê-su (21: 15-19)

*A-Cuộc đối thoại của Chúa Giê-su Phục Sinh với thánh Phê-rô:

Sau đó diễn ra một cuộc đối thoại thật cảm động giữa Chúa Giê-su và thánh Phê-rô. Chúa Giê-su long trọng hỏi thánh Phê-rô ba lần cùng một câu hỏi: “Này anh Si-mon, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không?”, và cả ba lần thánh nhân đều khẳng định là mình yêu mến Thầy.

Ngoài ra, có một sắc thái ngữ nghĩa rất tinh tế giữa hai động từ Hy lạp: “agapaô”: diễn tả một tình yêu cho đến mức sẵn sàng chết cho người mình yêu, và “phileô”: diễn tả tình bằng hữu. Trong hai lần đầu, Chúa Giê-su hỏi thánh nhân với động từ “agapaô”, nghĩa là Ngài đòi hỏi thánh nhân yêu mến Ngài đến mức dám chết cho Ngài. Tuy nhiên, cả ba lần thánh nhân điều trả lời cho Thầy với cùng một động từ “phileô”, nghĩa là, từ kinh nghiệm mình đã chối Thầy ba lần, thánh nhân không dám hứa với Thầy rằng thánh nhân yêu mến Thầy theo cùng mức độ tình yêu tận mức mà động từ “agapaô” đòi hỏi, nhưng chỉ theo tầm mức mà động từ “phileô” diễn tả. Vì thế, đến lần thứ ba, một cách tế nhị, Chúa Giê-su hạ mức độ lòng yêu mến của thánh nhân đối với Ngài xuống cho ngang tầm với yêu cầu của thánh nhân khi hỏi thánh nhân với động từ “phileô”. Chính với câu hỏi lần thứ ba này, thánh nhân buồn vì mình không thể đáp trả lòng mến của mình đối với Thầy trên cùng mức độ “agapaô” như Chúa muốn: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy”.

*B-Các bản văn Tin Mừng nói đến quyền tối thượng của thánh Phê-rô:

Trong các sách Tin Mừng, chúng ta có đến ba bản văn thiết lập quyền tối thượng của thánh Phê-rô: Mt 16: 13-19, Lc 22: 31-34 và Ga 21: 15-17. Không là một nhưng cả ba bản văn bổ túc cho nhau thắp sáng dung mạo tuyệt đẹp của vị lãnh đạo Giáo Hội của Chúa Giê-su.

Theo bản văn Mt 16: 13-19, Đức Giê-su đã long trọng tấn phong thánh Phê-rô làm lãnh đạo tối thượng của Giáo Hội Ngài căn cứ trên niềm tin của thánh Tông Đồ. Sau lời tuyên xưng đức tin của thánh Phê-rô ở Xê-da-rê: “Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa Hằng Sống”, Chúa Giê-su đã long trọng công bố thánh nhân là đá tảng trên đó Ngài sẽ xây Giáo Hội của Ngài cách vững chắc, ngay cả thế lực sự dữ cũng không thể nào làm lay chuyển được.

Theo bản văn Lc 22: 31-34, sau khi báo trước thánh nhân sẽ chối Thầy và các ông sẽ bỏ rơi Thầy trong cuộc thương khó của Thầy, Chúa Giê-su đã nói với thánh Phê-rô: “Thầy cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em mình nên vững mạnh” (Lc 22: 32). Thánh Phê-rô ý thức hơn ai hết về sự yếu đuối ngay chính trong bản thân mình: đã ba lần mình đã chối Thầy, và thánh nhân có kinh nghiệm sâu xa hơn ai hết về sự yêu thương tha thứ vô bờ của Thầy. Từ đó, thánh nhân phải thông cảm những yếu đuối của anh em mình và ra sức nâng đỡ niềm tin của anh em mình.

Theo bản văn Ga 21: 15-17, Đức Giê-su Phục Sinh thiết lập quyền mục tử tối cao của thánh Phê-rô căn cứ trên “tình yêu”. Cho đến lúc đó, Chúa Giê-su đã cho thánh nhân thấy rằng Ngài đã yêu mến Giáo Hội Ngài và toàn thể nhân loại đến mức hy sinh mạng sống mình. Chính trên cùng mức độ tình yêu như thế mà Ngài đòi hỏi thánh Phê-rô phải có khi đặt thánh nhân làm “mục tử chăm sóc đoàn chiên của Ngài”, như Ngài đã phác họa ở nơi dụ ngôn “Người Mục Tử Nhân Lành”: quyết tâm bảo vệ đoàn chiên cho dù phải hy sinh mạng sống mình để “chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10: 10). Chính đó cũng là tiêu chuẩn để nhận dạng người mục tử đích thật với kẻ chăn chiên thuê (Ga 10: 11-15).

Như vậy, trong bản văn Gioan này, điều quan trọng không chỉ ghi nhận quyền mục tử tối cao của thánh Phê-rô, nhưng còn cả tấm lòng yêu thương của Chúa Giê-su dành cho đoàn chiên của Ngài nữa. Trước khi trao gởi đến ba lần đoàn chiên của Ngài cho thánh Phê-rô chăn dắt, Chúa Giê-su đã hỏi thánh nhân cũng đến ba lần có yêu mến Ngài không. Như vậy, tấm lòng của thánh nhân dành cho Đức Giê-su như thế nào, thì tấm lòng của thánh nhân đối với đoàn chiên của Ngài cũng phải như vậy. Nói cách khác, chính qua cách thức người mục tử cư xử với đoàn chiên của Đức Giê-su như thế nào, người ta đo lường được lòng yêu mến của người mục tử ấy đối với Đức Ki-tô cũng như vậy.

Vì thế, trong phần kết (21: 18-19), Chúa Giê-su cho thánh nhân hiểu rằng với tư cách Mục Tử tối cao, thánh nhân sẽ hy sinh mạng sống mình vì đoàn chiên như Ngài: “Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào đẻ tôn vinh Thiên Chúa”. Cuối cùng, Chúa Giê-su mời gọi thánh nhân:“Hãy theo Thầy” trên cùng một con đường yêu thương vô bờ dành cho đoàn chiên như Ngài. Như vậy, trong cuộc đối thoại, khi ý thức thân phận yếu đuối của mình, thánh nhân không dám đáp trả bằng một tình yêu tròn đầy như Chúa muốn; nhưng trong khi thi hành sứ vụ mục tử, thánh nhân đã đi cho đến cùng tình yêu bằng cuộc tử đạo của mình.

Trước khi chấm dứt bài suy niệm này, chúng ta đừng quên rằng chính Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đương nhiệm đã chọn đoạn Tin Mừng Gioan này trong ngày lễ đăng quang của mình nhân dịp lễ thánh Giu-se. Trong bài giảng vào ngày lễ đăng quang của ngài, được xem như định hướng toàn bộ hoạt động mục vụ của tân Giáo Hoàng, chính dựa trên đoạn Tin Mừng Gioan này mà Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã phác họa chân dung thật đẹp của vị Mục Tử tối cao như sau: “Ngày nay, cùng với lễ Thánh Giuse, chúng ta cử hành khởi đầu sứ vụ của tân Giám Mục Roma, người Kế Vị Thánh Phêrô, cũng bao gồm cả quyền bính. Dĩ nhiên Chúa Giêsu Kitô đã ban quyền cho thánh Phêrô, nhưng đó là quyền bính gì thế? Sau ba câu Chúa Giêsu hỏi thánh Phêrô về tình yêu, có ba lời mời gọi: hãy chăn dắt các chiên con, hãy chăn dắt các chiên mẹ của Thầy. Chúng ta không bao giờ được quên rằng quyền bính đích thực là phục vụ và cả Giáo Hoàng, để thi hành quyền bính này, ngày càng phải tiến sâu hơn vào việc phục vụ ấy, việc phục vụ có tột đỉnh sáng ngời trên Thập Giá; Giáo Hoàng phải nhìn đến sự phục vụ khiêm tốn, cụ thể, đầy đức tin, của thánh Giuse và như thánh nhân, mở rộng vòng tay để giữ gìn toàn thể Dân Chúa và yêu thương, dịu dàng, đón nhận toàn thể nhân loại, nhất là những người nghèo nhất, yếu đuối nhất, những người nhỏ bé nhất, những người mà thánh Matthêu mô tả trong cuộc phán xét chung về đức ái: những người đói, khát, ngoại kiều, người trần trụi, bệnh nhân, tù nhân (x. Mt 25,31-46). Chỉ những ai phục vụ với lòng yêu mến mới biết giữ gìn!”.

Cuối cùng, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô mời gọi tất cả mọi người: “Giữ gìn Chúa Giêsu với Mẹ Maria, giữ gìn toàn thể công trình sáng tạo, giữ gìn mỗi người, đặc biệt là người nghèo nhất, giữ gìn chính chúng ta; đó là một công tác phục vụ mà Giám Mục Roma được kêu gọi chu toàn, nhưng đó cũng là ơn gọi mà tất cả chúng ta được mời gọi làm cho ngôi sao hy vọng được chiếu sáng rạng ngời: Chúng ta hãy gìn giữ với lòng yêu mến những gì Thiên Chúa đã ban cho chúng ta!”.

CHÚA NHẬT III PHỤC SINH- NĂM C

KHI TRỜI SÁNG, ĐỨC GIÊSU ĐỨNG TRÊN BÃI BIỂN- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

*I. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện Chúa Giêsu phục sinh hiện ra với các môn đệ trên Biển Hồ. Chúa chỉ cho các môn đệ bắt được nhiều cá, Chúa còn nướng cá và bánh cho các ông ăn. Khung cảnh thật ấm cúng.

Khung cảnh Thánh lễ cũng ấm cúng như vậy: chúng ta đang ngồi quanh bàn tiệc của Chúa. Chính Chúa dọn tiệc cho chúng ta và đang ở giữa chúng ta.

Xin cho bữa tiệc thánh này giúp chúng ta tin Chúa vững vàng hơn và yêu mến Ngài nồng nàn hơn.

*II. Gợi ý sám hối

  • Rất nhiều lần chúng ta dự Thánh lễ mà không ý thức sự hiện diện thân mật gần gũi của Chúa.
  • Rất nhiều lần chúng ta rước lễ mà không ý thức mình đang hưởng dùng lương thực do chính Chúa dọn cho chúng ta.
  • Rất nhiều lần chúng ta họp nhau trong Thánh lễ mà không chút tâm tình liên kết với những anh chị em cùng dự tiệc thánh với mình.

*III. Lời Chúa

*1. Bài đọc I (Cv 5,27b-32.40b-41)

Trích đoạn này từ sách Công vụ nhấn mạnh đến Danh Chúa Giêsu phục sinh:

  • Vì rao giảng Danh Chúa Giêsu nên các tông đồ bị Thượng Hội Đồng Do Thái bắt.
  • Dù vậy, ngay giữa Thượng Hội Đồng, các ông lại rao giảng Danh Chúa Giêsu.
  • Sau khi được thả ra, các ông sung sướng vì đã có dịp chịu khổ vì Danh Chúa Giêsu, và tiếp tục rao giảng Danh Ngài.

*2. Tin Mừng (Ga 21,1-9)

Phần cuối của Tin Mừng Gioan (có lẽ không do Gioan viết, mà do các đồ đệ của Gioan), tường thuật cuộc hiện ra cho các tông đồ trên biển hồ Tibêria:

  • Theo gợi ý của Phêrô, người số tông đồ khác trở lại nghề cũ là đi đánh cá.
  • Khi đó xảy ra lại một tình huống giống y lần đầu tiên Phêrô gặp Chúa Giêsu và được Ngài gọi: các ông không đánh được cá, nhưng nhờ Chúa Giêsu nên sau đó đánh được rất nhiều cá (x. Lc 5,4-11)
  • Các tông đồ nhận ra Chúa Giêsu: đầu tiên là Gioan, kế đến là các ông khác.
  • Bữa ăn thân mật bên bờ hồ sau khi Thầy trò nhận ra nhau.

*3. Bài đọc II (Kh 5,11-14)

Trong một thị kiến, Thánh Gioan nhìn thấy Chúa Giêsu trong hình dáng của Con Chiên:

  • Con Chiên đã bị giết, nhưng đã sống lại và xứng đáng được hưởng mọi quyền lực và vinh quang.
  • Tất cả các thụ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất và ngoài biển khơi đều tôn thờ và tung hô Con Chiên.

*IV. Gợi ý giảng

*1. Sức khám phá của tình yêu

Một giọt nước nếu nhìn bằng mắt thường thì cũng chỉ là một giọt nước, nhưng nếu nhìn bằng kính hiển vi thì lại là cả một thế giới sống động. Một cái hồ nếu được nhìn bởi một người nông dân thì cũng chỉ là một cái hồ, nhưng dưới mắt của một nghệ sĩ thì lại là cả một cảnh đẹp thiên nhiên tuyệt vời không thể nào tả xiết.

Như thế nghĩa là gì? Nghĩa là cùng một sự việc nhưng có thể mang nhiều ý nghĩa khác nhau tùy những cách nhìn khác nhau. Sự việc đã xảy ra trên hồ Tibêria cũng thế: lúc ấy trời còn tờ mờ tối, Chúa Giêsu phục sinh hiện đến với các tông đồ đang lúc các ông thả lưới đánh cá. Các ông tưởng là ma nên run sợ và định chạy trốn. Riêng có Gioan là nhận ngay ra ấy là Thầy. Do đâu mà Gioan đã nhận định sắc sảo được như thế? Thưa vì Gioan là tông đồ yêu mến Chúa nhiều nhất. Chính Tình yêu đã mở mắt cho Gioan và giúp Gioan thấy được cái mà người khác không thấy. Người ta nói rằng Tình yêu là một năng lực diệu kỳ, làm cho người ta mạnh thêm, có thêm nhiều nghị lực để vượt qua những chướng ngại, chịu đựng những hy sinh và cuộc sống thêm lạc quan.

Điều này thật ra rất bình thường chẳng có gì khó hiểu. Chúng ta thử điểm lại một số kinh nghiệm trong cuộc sống của mình xem. Tại sao khi yêu, người ta thích tặng quà cho nhau? thích chở nhau đi chơi? thích lặn lội mưa nắng đến tìm nhau? Nếu không yêu thì đem số tiền dành dụm để mua một món đồ đưa cho người khác thì quả là dại! Nếu không yêu thì gò lưng đạp xe chở người ta đi chơi thì quả là ngu! Nếu không yêu mà lặn lội mưa nắng đi tìm người ta thì quả là khờ! Phải không? Nhưng khi đã yêu thì tất cả đều đổi khác: Tặng quà là một niềm vui, được chở người ta là một sự sung sướng, lặn lội mưa nắng tìm đến nhau là bằng chứng của cả một tấm lòng thiết tha! Cho nên Thánh Augustinô đã nói rất đúng: “Ubi amatur, non laboratur”: khi đã yêu thì không còn biết cực nhọc.

Đối với Chúa cũng thế. Nếu ta không yêu mến Chúa hay yêu mến quá ít thì cầu nguyện là việc chán ngán, đến nhà thờ là một gánh nặng, vác thánh giá là một cực hình. Còn nếu ta yêu Chúa nhiều thì đương nhiên ta thích cầu nguyện, thì đương nhiên ta ham đến nhà thờ, đương nhiên ta sẵn sàng vác những thánh giá hy sinh Chúa gởi đến hàng ngày. Cho nên muốn sống đạo tốt thì cần thiết phải có lòng yêu mến chúa. Yêu mến Chúa nhiều thì hăng say sống đạo tích cực, yêu mến Chúa ít thì ít hăng hái tích cực hơn, và nếu không yêu mến Chúa thì đạo trở thành gánh nặng, làm những bổn phận trong đạo không khác nào con trâu kéo cày.

*2. Thủ lãnh giáo hội

Câu chuyện truyền kỳ về những ngày sau cùng của một con người đã hết lòng yêu mến Chúa, và đã cảm nghiệm sâu xa ơn thứ tha của Người, được kể lại như sau:

Ông đến Rôma giữa lúc Nêrông đang bắt bớ đạo thánh. Một số người đã chịu tử đạo. Tình thế nguy kịch, nên các tín hữu khuyên ông hãy chạy trốn ra khỏi thành, để còn người duy trì và giữ vững đạo thánh.

Khi ra khỏi cổng, ông gặp một người đang vác thập giá đi vào thành Rôma. Ông lên tiếng hỏi: “Quo vadis?” nghĩa là “Người đi đâu đó?” Người ấy trả lời: “Thầy đi vào Rôma để cho người ta đóng đinh một lần nữa”. Ông chợt hiểu, vội vàng quay lại Rôma. Ông nhập vào hàng ngũ các tín hữu sắp chịu cực hình để an ủi họ và giúp họ giữ vững niềm tin. Sau khi chứng kiến các tín hữu bị làm mồi cho thú dữ ăn thịt, bị hoả thiêu trên một rừng thập giá, thì chính ông cũng bị đóng đinh ngược, đầu quay xuống đất, theo lời ông xin, vì nghĩ mình không xứng đáng được đóng đinh như Thầy.

Con người ấy chính là Phêrô, và cái chết ấy đã được Chúa Giêsu tiên báo trong bài Tin Mừng hôm nay: “Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải giương tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn. Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa” (Ga 21,18-19).

Vâng, Phêrô một con người rất bộc trực, nóng nảy, hay sa ngã và sa ngã thậm tệ. Có lần Chúa đã gọi ông là Satan, và mới đây nhất, ông đã chối Chúa tới ba lần. Nhưng con người đầy khuyết điểm ấy Chúa đã chọn làm “Đá tảng”, thủ lãnh của Giáo Hội. Vai trò lãnh đạo của Phêrô được tỏ rõ trong bài Tin Mừng hôm nay:

Sau biến cố Phục Sinh, các tông đồ trở về đời sống thuyền chài. Phêrô vẫn là người quyết định: “Tôi đi đánh cá đây”. Các môn đệ khác cũng đồng tình: “Chúng tôi cùng đi với anh”. Đêm ấy, không bắt được con cá nào. Trời sáng, theo lời người khách lạ, thả lưới bên phải mạn thuyền, một mẻ cá bất ngờ. Khi vừa nghe Gioan nói: “Chúa đó!” Phêrô liền nhảy xuống biển, đến với Người. Ông rất nồng nhiệt, năng nổ, hăng hái.

Sau khi Thầy trò đã ăn điểm tâm xong, Người bắt đầu phỏng vấn thủ lãnh Phêrô để trao cho ông sứ vụ mới: “Này anh Simon, con ông Giona, anh có mến Thầy hơn các anh em nầy không?”. Thật tình, ông rất ngượng ngùng vì ông mới chối Thầy tới ba lần, mà giờ đây Người lại hỏi ông có yêu mến Thầy không? Mới phản bội mà giờ lại nói yêu thương, quả là rất khó khăn; hơn nữa, Người lại hỏi tới ba lần! Có lẽ Phêrô đang nhớ lại lời Chúa nói trước đây: “Kẻ nào được tha nhiều thì sẽ yêu nhiều hơn” (x. Lc 7,47). Vâng, Chúa đã tha thứ cho Phêrô ngay lúc Người quay xuống nhìn Ông từ trên dinh thượng tế, khiến nước mắt ông tuôn trào.

Ba lần chối Chúa thì ba lần Người cho ông cơ hội để nói lời yêu thương, để tuyên xưng lại niềm tin. Ông đã không bỏ lỡ cơ hội: “Thưa Thầy có, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Và cũng ba lần, Người trao cho ông sứ mạng cai quản Hội thánh của Người: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy” (Ga 21,17).

Từ đấy, Phêrô đích thực trở nên thủ lãnh của Giáo hội, chăm sóc đoàn chiên của Thầy, và cuối cùng đã hiến mạng sống vì đoàn chiên. Phêrô đã chịu đóng đinh trên thập giá, để giữ vững niềm tin cho đoàn chiên, và để yêu thương đoàn chiên cho đến cùng, yêu “Như Thầy Đã Yêu”.

*

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã tha thứ cho thánh Phêrô thật nhiều, và thánh nhân cũng đã yêu mến Người thiết tha.

Xin cho chúng con luôn cảm nghiệm được ơn tha thứ của Chúa, cảm nghiệm được tình Chúa yêu thương, để như thánh Phêrô, chúng con sẽ đi bất cứ nơi nào Chúa muốn đưa chúng con đi, cho dù nơi đó là thập giá, là cái chết thương đau.

Như thánh Phêrô, xin cho chúng con xác tín rằng: Hiến thân vì Chúa là lãnh nhận, nô lệ cho Chúa là tự do, và chết với Chúa là sống mãi muôn đời Amen. (TP)

*3. Tình yêu và lý luận

Bài Tin Mừng tuần trước thuật lại cách mà Tôma đã nhận ra Chúa Giêsu phục sinh: Tôma đã tuyên bố “nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở bàn tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin”. Đây là kiểu tin bằng lý luận, nghĩa là chỉ tin khi nào đã có đủ bằng cứng rõ ràng hiển nhiên. Còn bài Tin Mừng tuần này thuật lại cách mà Gioan đã nhận ra Chúa: một bóng người mờ mờ đi trên mặt biển, mọi người khác đều tưởng là ma, chỉ có Gioan là tức khắc nhận ra đó là Thầy mình. và Tin Mừng ghi chú “Gioan là người môn đệ Chúa yêu”. Chính Tình Yêu đã mở mắt cho Gioan nhận ra điều mà mọi người khác không nhận ra.

Như thế có hai con đường dẫn tới đức tin: Con đường thứ nhất là bằng lý luận để chỉ tin sau khi có đủ bằng chứng rõ ràng hiển nhiên; và con đường thứ hai là bằng tình yêu, nghĩa là vì yêu thương nên tin ngay không cần thắc mắc lý luận.

Trong vở tuồng “Tiếng hò Sông Hậu” có hai anh em sinh đôi tên Chơn và Chất, giống hệt nhau từ nét mặt, tướng đi đến giọng nói. Trong một cuộc tranh đấu với địa chủ, Chơn bị bắt đày đi Côn Đảo. Nhưng một thời gian sau anh vượt ngục trở về thăm mẹ già khi ấy đã mù lòa cả hai mắt. Trong lúc Chơn đang ở nhà thì tên Hương Quản đến, Chơn nhanh trí giả làm Chất nên không bị lộ, nhưng ngay sau khi tên Hương Quản đi thì bà mẹ mù lòa ấy nói ngay: “Phải mày là thằng Chơn đó không?” Chơn chưa muốn cho mẹ biết nên trả lời “Không, con là thằng Chất đây mà, anh Chơn con còn đang ngồi tù mà”. Nhưng bà mẹ nói “thôi mà, con gạt ai được chứ gạt mẹ làm sao được, con chính là thằng Chơn của mẹ mà”. Chính tình yêu đã giúp cho người mẹ mù lòa ấy nhận ra con mình trong khi mọi người đều không nhận ra. Trường hợp của Thánh Gioan cũng vậy: trong khi mọi người đều không nhận ra Chúa Giê-su thì chỉ mình Gioan đã nhận ra, vì Gioan yêu thương Chúa nhiều.

Có lẽ vì thường nghe những luận điệu bôi bác niềm tin tôn giáo cho nên chúng ta bị ảnh hưởng và cũng nghĩ rằng chỉ có con đường nhận thức bằng lý luận, với những bằng chứng rõ ràng hiển nhiên là con đường độc nhất đúng. Nhưng chúng ta hãy bình tĩnh suy nghĩ lại xem, trong cuộc sống có bao nhiêu điều chúng ta tin tưởng mà đủ bằng chứng rõ ràng hiển nhiên đâu? Rất ít, hầu hết những điều ta tin tưởng là do người khác dạy lại, nói lại cho ta biết, và vì yêu thương những người đó mà ta tin. Chẳng hạn những gì cha mẹ dạy ta khi ta còn nhỏ, những gì thầy cô dạy ta khi ta còn học ở trường. Vốn liếng kiến thức của chúng ta hầu hết là từ hai nguồn đó. Nhưng xét xem những điều ấy ta có được thấy tận mắt, sờ tận tay hay không, hay là khi được dạy thì ta tin ngay, vì ta yêu thương cha mẹ, yêu thương thầy cô mà tin vào lời nói của các đấng ấy. Cho nên xét cho cùng, chỉ trích những người có đạo đã tin không có đủ bằng chứng mà chỉ vì yêu thương mà tin thì là lời chỉ trích không đứng vững. Tác giả vở tuồng “Tiếng hò Sông Hậu” nói trên cũng đâu phải là người có đạo, thế mà tác giả đã đề cao cách nhận thức rất cảm động của một người mẹ nhận ngay ra con mình nhờ vào tình mẫu tử thiêng liêng. Nghĩa là: ai cũng vậy, dù có đạo hay không có đạo, ai cũng có những nhận thức, những niềm tin không hẳn dựa vào những lý luận hiển nhiên mà chỉ dựa vào tình yêu.

Mà xem ra con đường tình yêu lại nhanh chóng hơn, nhẹ nhàng hơn, thoải mái hơn. Khi các Tông đồ nói cho Tôma hay là Chúa Giê-su đã sống lại, Tôma đã không tin ngay, ông đòi phải thấy tận mắt, sờ tận tay, thậm chí còn đòi thọc cả bàn tay vào vết thương cạnh sườn Chúa. và rồi đang khi các Tông đồ kia vui mừng vì Thầy đã sống lại thì Tôma vẫn còn hoài nghi, ray rứt. Đến 8 ngày sau khi Chúa Giê-su hiện đến một lần nữa thì Tôma mới tin và mới được vui mừng như các ông kia. Còn đối với Gioan, vì yêu Chúa nhiều, nên chỉ vừa thấy bóng dáng lờ mờ của Chúa là Gioan đã nhận ra ngay và đã tin, một niềm tin rất nhanh chóng, rất nhẹ nhàng mà cũng không kém phần vững chắc.

Các bạn trẻ còn ở lứa tuổi hay thắc mắc về đức tin và cũng dễ bị lung lạc bởi những luận điệu bài bác đức tin. Hôm nay, chúng ta đã thấy có hai con đường dẫn tới đức tin, một con đường bằng lý luận với những bằng chứng rõ ràng, và con đường thứ hai là dựa vào tình yêu thoạt xem có vẻ tầm thường nhưng thực ra lại nhanh chóng, nhẹ nhàng và cũng không kém phần vững chắc. Chúng ta hãy cũng cố đức tin của mình bằng cả hai con đường đó. Nghĩa là một mặt chúng ta phải có những suy nghĩ lý luận thật vững chắc về Chúa, mặt khác chúng ta cũng hãy cố gắng yêu mến Chúa ngày càng nhiều hơn, bởi vì nếu có thêm sức mạnh của tình yêu, chúng ta sẽ được mở mắt rộng thêm để nhận biết thêm được những gì mà người không yêu Chúa không nhận biết được, như thánh Gioan trong bài Tin Mừng hôm nay vậy!

*4. Sự hiện diện của Đấng phục sinh

Các bài tường thuật về việc Chúa Giêsu phục sinh hiện ra muốn giúp cho chúng ta hiểu biết về cách thức hiện diện của Ngài:

  • Chúa đã hiện ra lúc các môn đệ đang làm công việc thường ngày là chài lưới à Người không ở đâu xa nhưng vẫn hiện diện bên cạnh chúng ta và trong những công việc bình thường của chúng ta.
  • Người đầu tiên nhận ra Chúa Giêsu là Gioan, vị tông đồ yêu mến Chúa đặc biệt à Tuy Chúa Giêsu luôn hiện diện bên cạnh chúng ta, nhưng thường thì chúng ta không nhận ra Ngài. Muốn nhận ra Ngài thì cần có lòng yêu mến, như Thánh Gioan tông đồ.
  • Chúa Giêsu đã nướng cá và bánh cho các môn đệ và sau đó cùng ngồi với họ quanh bếp lửa hồng để ăn bánh và cá nướng à Chúa Giêsu phục sinh không chỉ hiện diện bên cạnh chúng ta, mà còn chăm sóc chúng ta.
  • Mặc dù Thánh Phêrô đã 3 lần chối Chúa, nhưng Chúa tha thứ cho ông và vẫn trao cho ông nhiệm vụ chăm sóc đàn chiên của Ngài à Chúa hiện diện bên cạnh chúng ta không phải để bắt lỗi chúng ta, mà để trao cho chúng ta sứ mạng làm chứng về Ngài.

*5. Đừng xóa sổ người ta

Một nhà độc tài kia không chấp nhận thuộc cấp của mình phạm sai lầm. Hễ lỡ phạm sai lầm, dù chỉ một lần, thì lập tức bị “xóa sổ”. Đôi khi chúng ta cũng cư xử như thế, nghĩa là xoá sổ người khác. Thế nhưng ai trong chúng ta lại muốn bị phán xét chỉ vì một lần lầm lỡ trong đời?

Sau khi Phêrô chối Thầy, lẽ ra Chúa Giêsu có thể xóa sổ ông vì tội yếu đuối, hèn nhát. Nhưng Ngài đã không làm như vậy. Ngài không giáng cấp ông. Thậm chí Ngài còn không nhắc lại lỗi lầm của ông. Việc Giuđa phản Thầy là một việc có dự mưu và được thi hành một cách lạnh lùng theo đúng tính toán. Còn việc Phêrô chối Thầy không phải là có dự mưu. Nó là hậu quả của tính yếu đuối chứ không phải do tính xấu. Chúa Giêsu hiểu điều đó, bởi Ngài là kẻ thấu suốt lòng mọi người.

Sau bữa ăn sáng, Chúa Giêsu quay nhìn Phêrô và hỏi: “Phêrô, con có mến Thầy hơn những người khác không?” Một câu hỏi lạ. Phải chăng Ngài còn chưa biết rằng ông rất yêu mến Ngài? Dù vậy Chúa Giêsu vẫn hỏi. Và Phêrô thưa: “Thưa Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Phêrô đã nói thật, vì thực sự ông rất yêu mến Chúa Giêsu.

Mặc dù Phêrô có lỗi, nhưng Chúa Giêsu biết nơi ông cũng còn một phương diện khác, tốt hơn. Mạnh mẽ và yếu đuối cùng tồn tại trong cùng một con người. Chúa Giêsu khuyến khích Phêrô tiến lên. Ngài muốn ông bày tỏ công khai lòng yêu mến của ông đối với Ngài, bởi vì trước đó ông đã công khai chối Ngài.

Chúa Giêsu không ghi sổ tội của Phêrô, nhưng Ngài muốn ông làm một cái gì đó vì Ngài: chăm sóc đàn chiên của Ngài, nghĩa là yêu thương và phục vụ anh chị em trong cộng đoàn. Có thể coi đây là việc đền tội cũng được, vì đây là cách đền tội tốt nhất, như sau này Phêrô viết: “Tình yêu che phủ muôn vàn tội lỗi” (1 Pr 4,8)

Tôi dám chắc rằng Phêrô không bao giờ quên tội ông đã chối Thầy. Nhưng tôi không chắc rằng tội đó ám ảnh ông như cách nhiều người khác bị tội lỗi họ ám ảnh. Từ lần sa ngã ấy Phêrô đã học được một bài học lớn. Ông đã biết rằng ông không mạnh mẽ như ông nghĩ. Học được một điều gì từ kinh nghiệm thì tốt hơn rất nhiều so với học bằng lý thuyết. Điều chúng ta học được từ một lần sa ngã, mỗi khi nhớ lại sẽ khơi lên trong lòng chúng ta sự biết ơn hơn là sự dằn vật cắn rứt.

Phêrô còn học biết một sự thật tuyệt vời về Chúa Giêsu. Ông học được rằng mặc dù ông đã chối Ngài nhưng Ngài vẫn yêu thương ông. Chính tình thương của Ngài đã mang ông trở về cuộc sống. Cái cảm nghiệm được yêu thương trong chính sự yếu đuối và tội lỗi của mình đúng là một cảm nghiệm sửng sốt. Được yêu trong cái tốt của mình thì là chuyện bình thường. Được yêu ngay trong cái xấu của mình, đó mới là sửng sốt. Chính đó là ân sủng.

Phêrô có cơ sở để đứng dậy sau khi sa ngã. Chúng ta có thể hình dung rằng Phêrô trở thành một người lãnh đạo tốt. Người lãnh đạo tốt là người biết tự cảnh giác về sự yếu đuối của mình. Kinh nghiệm sa ngã đã giúp Phêrô thoát khỏi tính tự phụ và tin tưởng mù quáng vào khả năng của mình, đồng thời giúp ông thông cảm với yếu đuối của người khác. Đọc sách Công vụ Tông đồ, chúng ta thấy Phêrô đứng vững trước Thượng Hội Đồng để làm chứng cho Chúa Giêsu.

Chuyện của Phêrô là một an ủi lớn cho chúng ta. Xét cho cùng, chúng ta đều là những người tội lỗi, không kiên trì sống theo những điều chúng ta tin tưởng. Nhìn gương thánh Phêrô, chúng ta phải học biết tha thứ cho chính mình vì những yếu đuối và sa ngã nhất thời. Chúng ta không nên xét đoán bản thân mình hay xét đoán người khác dựa trên những sa ngã nhất thời ấy, mà phải xét đoán dựa trên cam kết sống suốt đời theo những điều mình tin tưởng. (FM)

*6. Ơn gọi thứ hai

Ngày xưa có một người làm nghề đốt lửa. Một buổi chiều mùa đông khi anh đang trên đường về nhà thì trời đổ tuyết. Muốn tới nhà sớm, anh đi tắt qua một cánh đồng. Bỗng anh thấy một nhúm lửa, một nhúm lửa nhỏ thôi, chỉ cháy âm ỉ nhờ một vài que củi nhỏ. Quanh nhúm lửa ấy có một nhóm người vừa run lập cập vừa cố đứng sát nhúm lửa ấy để sưởi ấm. Nhưng nào có thấm tháp vào đâu. Anh dừng lại, nói vài lời ngắn ngủi với họ về giá trị của lửa, rồi vội vã đi tiếp.

Nhưng mới đi được một chút thì anh cảm thấy hối hận. Lẽ ra anh phải nán lại lâu hơn để giúp đám người ấy khơi to ngọn lửa. Nhưng mà nếu làm thế thì phải mất thêm giờ, có thể bị viêm phổi nữa. Vả lại chắc gì người ta sẽ biết ơn anh. Những suy nghĩ trái ngược nhau ấy khiến anh chần chừ. Nhưng sau cùng anh quay lại. Vừa thấy anh, mọi người đều vui mừng reo lên: “Tới đây, tới đây”. Không chờ mời lần thứ hai, người thợ đốt lửa ngồi xuống và khơi ngọn lửa to lên. Thế là mọi người đều được sưởi ấm. Ai nấy đều đồng thanh “Xin cám ơn anh đã dừng lại giúp chúng tôi”.

Về đến nhà, người thợ nhóm lửa lên giường ngủ ngay. Đêm đó anh mơ thấy Chúa hiện ra nói: “Ta đã chọn con làm người thợ nhóm lửa, nhưng con đã làm Ta thất vọng”. Anh giật mình thức dậy và không tài nào ngủ tiếp. Anh nhớ lại thời gian đầu làm nghề nhóm lửa anh đã coi việc đem lửa sưởi ấm cho mọi người là một nhiệm vụ cao đẹp thế nào; khi đó anh đã nhiệt tình giúp đỡ mọi người thế nào. Vậy mà với năm tháng dần trôi, anh trở nên lười biếng, tính toán, sợ mất giờ, sợ người ta không biết ơn anh. Tình yêu của anh đối với lửa đã lạnh nhạt. Ơn gọi của anh đã đông cứng.

Nhưng đêm nay Chúa đã hiện ra với anh. Ngài đã gọi anh lần thứ hai. Từ đó trở đi người thợ nhóm lửa hăng say trong nhiệm vụ, không sợ mất giờ, không ngại cực khổ nữa.

Trong Tin Mừng, có hai lần Chúa gọi Phêrô. Lần thứ nhất là lúc Chúa Giêsu mới bắt đầu sứ vụ (Mc 1,16-18). Lần thứ hai là sau khi Ngài sống lại, và được ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay. Hai lần cách nhau 3 năm. Trong 3 năm ấy, nhiều sự việc đã xảy ra, Phêrô đã khám phá thêm nhiều điều về Đấng đã kêu gọi mình, về nhiệm vụ mà Ngài muốn ông làm, và nhất là về chính bản thân của ông. Khi Chúa gọi Phêrô lần thứ hai, ông đã khôn ngoan hơn và khiêm tốn hơn. Vì thế, tiếng “Vâng” thứ hai của ông chín chắn và sáng suốt hơn nhiều so với tiếng “vâng” lần thứ nhất.

Câu chuyện của Phêrô là chuyện kêu gọi – sa ngã – và kêu gọi lại. Ơn gọi không phải là một lần Chúa gọi, một lần con người đáp trả, rồi xong. Tiếng Chúa gọi phải được ta nghe nhiều lần và đáp trả nhiều lần. Mỗi ngày Chúa mở ra một đoạn đường mời ta tiến bước, ngày hôm sau Chúa mở thêm một đoạn khác nữa. Ta càng bước theo, tiếng gọi của Ngài càng rõ hơn và lời đáp trả của ta càng sâu xa hơn và xác tín hơn.

Mọi ơn gọi đều là ơn gọi yêu thương: yêu thương Chúa, và yêu thương những chiên con chiên mẹ của Ngài, tức là yêu thương các anh chị em trong cộng đoàn của ta. (FM)

*7. Chịu khổ vì Chúa

Bài trích sách Công vụ kể chuyện các tông đồ gặp sự chống đối của các nhà cầm quyền Do Thái. Nhưng khi các ông được thả ra, thì uy tín của các ông tăng thêm, đặc biệt là Phêrô. Thật khó mà tin được rằng cùng một con người ấy chỉ trước đó không bao lâu đã từng chối Chúa 3 lần. Bây giờ ông đứng giữa quãng trường mạnh dạn lớn tiếng làm chứng cho Chúa. Hơn nữa ông còn chịu khổ vì đã làm chứng như thế. Phêrô cùng các bạn đã bị nhốt vào tù, bị đánh đòn. Nhưng các ông lại hãnh diện vì đã chịu khổ vì Chúa. Bởi đâu Phêrô có lại sự can đảm như thế? Thưa bởi Chúa Thánh Thần, Đấng phù trợ các tông đồ.

Từ thời các tông đồ trở đi, vẫn luôn có nhiều kitô hữu, nhờ ơn Chúa giúp, đã vượt thắng sự sợ hãi để luôn can đảm làm chứng cho Chúa dù giữa muôn vàn khó khăn.

Rất dễ tin Chúa khi bạn quỳ gối nhắm mắt cầu nguyện trong nhà thờ. Rất dễ tin Chúa khi bạn sống an toàn xa cách những xáo trộn khó khăn. Nhưng tin Chúa như thế đó là một thứ tín ngưỡng quá nghèo nàn. Chúa mà bạn tin trong những lúc như thế đó là một Thiên Chúa bị giam hãm trong một cái khung chật hẹp.

Chúng ta là môn đệ Chúa Giêsu. Ngài cần chúng ta làm chứng cho Ngài trong thế giới hôm nay. Mặc dù chúng ta không phải chịu nhiều gian truân bắt bớ như các tông đồ xưa, nhưng chúng ta phải can đảm được đầu với những loại khó khăn khác, đó là đương đầu với sự xấu, đương đầu với khuynh hướng thờ ơ tôn giáo của nhiều người thời nay.

Chúng ta không thể biết trước ơn gọi làm kitô hữu sẽ dẫn chúng ta đi đến đâu và sẽ đòi hỏi chúng ta những gì. Nếu chúng ta mà biết trước những nơi đó và những khó khăn đó thì có lẽ chúng ta rất sợ hãi. Về điều này thì chúng ta giống như Phêrô. Lần đầu tiên Chúa gọi ông thì ông chưa biết rốt cuộc ông sẽ chịu tử đạo. Nhưng chúng ta hãy cố gắng sống như Phêrô. Chúa dẫn ta đi đâu thì ta đi đấy. Chúa muốn ta chịu gì thì chúng ta chịu nấy. Và chúng ta tin tưởng rằng những gian truân chúng ta phải chịu vì Chúa sẽ được thưởng gấp trăm. (FM)

*V. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu đã chết và sống lại vinh quang, đem niềm vui cho toàn thế giới. Chúng ta hãy hân hoan ca tụng Người và dâng lời cầu xin:

  1. Đức Thánh Cha (Gioan Phaolô II) kế vị thánh Phêrô / để củng cố niềm tin của Dân Chúa trên khắp hoàn cầu / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa gìn giữ Người luôn được bình an / và ban choi Người được sức khỏe dồi dào.
  2. Vâng lệnh Chúa Giêsu / các tông đồ đã thu được một mẻ cá lạ lùng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho hoạt động rao giảng Tin mừng của các nhà truyền giáo / cũng đạt được những kết quả như lòng ước mong.
  3. Không có Thầy / anh em không làm gì được / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi tín hữu hiểu rằng / với ơn Chúa trợ giúp / họ sẽ đạt được những kết quả bất ngờ.
  4. Hãy đi theo Thầy / Chúa Giêsu mời gọi thánh Phêrô / nhưng cũng mời gọi hết thảy những ai tin Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn dấn thân theo Chúa / bất chấp mọi hiểm nguy gian khổ trong đời sống thường ngày.

Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con cũng biết noi gương thánh Phêrô mà xác nhận lòng thương mến của chúng con đối với Chúa, không phải bằng những lời nói suông mà bằng những việc làm cụ thể trong đời sống đức tin thường ngày. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.

*VI. Trong Thánh Lễ

– Trước kinh Lạy Cha: Chúa Giêsu đã giao trách nhiệm cho Phêrô chăm sóc đàn chiên của Ngài là Giáo Hội. Giờ đây, chúng ta hãy hợp ý với Đức Giáo Hoàng và các Giám mục cầu nguyện cho Nước Cha trị đến.

– Sau kinh Lạy Cha: Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin Cha ban thêm cho chúng con lòng can đảm và trung thành dù phải sống giữa những thử thách khó khăn, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an…

*VII. Giải tán

Chúa đã tha thứ cho Phêrô và trao cho ông sứ mạng phục vụ anh chị em mình. Chúa cũng đã tha thứ tội lỗi chúng ta và khuyến khích chúng ta phục vụ anh chị em chúng ta. Anh chị em hãy ghi nhớ và thực hiện Lời Chúa. Chúc anh chị em ra về bình an.

 CHÚA NHẬT III PHỤC SINH- NĂM C

HÃY CHĂN DẮT CHIÊN CỦA THẦY- Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

DẪN NHẬP

Sau khi sống lại, Đức Giêsu tiếp tục hiện ra với các môn đệ. Việc hiện ra với các môn đệ đều nhằm một mục đích nào đó chứ không phải cứ hiện ra khơi khơi, thích hiện ra thì hiện. Theo bài Tin mừng hôm nay, đây là lần thứ ba Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ sau ngày Phục sinh. Trong khi các môn đệ còn ở trong tâm trạng hoang mang, vui buồn lẫn lộn thì Chúa hiện ra để củng cố niềm tin cho các ông, trao ban cho các ông một sứ vụ mới : trao quyền lãnh đạo cho Phêrô và trao cho các ông sứ mạng đi truyền giáo.

Qua phép lạ mẻ lưới lạ lùng, Đức Giêsu muốn báo cho các ông biết trước Giáo hội của Ngài sẽ được phổ biến khắp nơi dưới quyền lãnh đạo của Phêrô và không quyền lực nào có thể làm cho tan rã vì Giáo hội của Ngài được xây trên nền tảng vững chắc. Vì danh Chúa, các ông phải mạnh dạn tuyên xưng đức tin và bảo vệ Giáo hội :”Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm”(Cv 5,29).

Bài học mà Chúa dạy các môn đệ hôm nay là các ông phải tùy thuộc vào ơn Chúa và quyền năng của Ngài, chứ không dựa vào khả năng chuyên môn của mình. Trong việc thi hành chương trình cứu dộ, Chúa dùng các ông như những dụng cụ tầm thường nhưng dụng cụ ấy lại hữu hiệu khi biết vâng theo ý Chúa và nhiệt tình cộng tác dưới sự hướng dẫn của Ngài.

Ngoài ra, qua bí tích rửa tội, chúng ta đã trở nên những thành viên trong Giáo hội, mỗi người đều được gọi để sống và làm chứng cho đức tin trong gia đình, xóm làng và cộng đồng, tùy theo khả năng và hoàn cảnh của từng người. Hôm nay chúng ta cầu xin Chúa cho chúng ta  cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa và được nhậïn thức rằng Chúa hiện diện với chúng ta trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời mặc dù chúng ta không cảm thấy.

  1. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

+  Bài đọc 1 : Cv 5,27-32.40-41.

Sau khi chữa lành mộât số bệnh nhân, các Tông đồ bị các vị thượng tế và hội đồng cố vấn bắt giam, nhưng được giải thoát một cách lạ lùng. Phêrô cùng các Tông đồ khác lại xuất hiện và rao giảng cho dân chúng trong Đền thờ. Các ngài lại bị điệu đến Thượng hội đồng để hạch hỏi và xét xử. Phêrô trả lời cách quả quyết :”Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,29). Lời biện hộ của Phêrô  có thể làm cho ngài bị kết án tử hình, nhưng Gamaliel, một tiến sĩ luật, đã can thiệp và các ngài được tha sau khi bị đánh đòn.

Nhưng vị thủ lãnh các tông đồ luôn kiên quyết bảo vệ quyền tự do của các Kitô hữu đối với quyền bính đời này, không gì có thể ngăn cản các ngài giảng dạy và loan báo Tin mừng về Đức Giêsu ; các ngài vui mừng vì được coi là xứng đáng bị khổ nhục vì danh Đức Kitô, xác tín về đời sống chứng nhân của mình và trở nên mạnh mẽ vì Chúa Thánh Thần luôn ở với các ngài.

+  Bài đọc 2 : Kh 5,11-14.

Thánh Gioan kết thúc thị kiến thứ nhất về Con Chiên Thiên Chúa, tượng trưng cho Đức Giêsu, bằng một nghi lễ phụng vụ, trong đó vũ trụ  hiệp cùng các thiên thần ngợi khen tung hô quyền năng vô hạn của Con Chiên đã bị sát tế. Hình ảnh Con Chiên cũng gợi lên con chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông. Bị sát tế, nhưng từ nay đã trỗi dậy, Con Chiên được vô số các thiên thần tung hô như vị vua và Thiên Chúa : “Xin chúc tụng, ngợi khen, tôn vinh và bái phục Đấng ngự trên ngai và Con Chiên đến muôn thở muôn đời”.

+  Bài Tin mừng : Ga 21,1-19.

Đoạn cuối của Tin mừng Gioan tập trung kể lại câu chuyện thánh Phêrô nhận lãnh chức vụ thủ lãnh tối cao của các Tông đồ. Lúc đó các môn đệ gồm 7 người sinh sống tại Galilê, nơi lao động thường xuyên của các ông…. Sau mẻ cá lạ lùng, Đức Giêsu Phục sinh trao cho thánh Phêrô chức vụ chủ chăn. Vì thánh Phêrô đã ba lần chối Thầy nên Đức Giêsu cũng ba lần đòi ông tuyên xưng lòng yêu thương. Ba lần hỏi như thế để khẳng định một tình yêu mạnh mẽ, dứt khoát (bù lại ba lần chối) để Đức Giêsu trao cho Phêrô trách nhiệm thật cao quí và cũng thật nặng nề :”Lãnh đạo toàn thể Giáo hội” mà vị lãnh tụ tiên khởi vềà sau đã phảiõ trả giá bằng cuộc tử đạo (+64) thời Néron để nên giống Thầy mình.

Địa vị tối thượng trao cho Phêrô là một thể chế chứng tỏ tình yêu của Đức Kitô đối với loài người, và nếu vị chủ chăn thật sự yêu thương đoàn chiên của mình thì dấu chỉ tình yêu của Đức Kitô đối vớ nhân loại sẽ được bầy tỏ cho thế giới.

THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

Sứ mệnh làm chứng cho Chúa.

*I. MỘT MẺ LƯỚI LẠ LÙNG.

*1. Tâm trạng của các môn đệ.

Sau khi Đức Giêsu chịu tử nạn, các môn đệ tỏ ra hoang mang lúng túng, có ông tỏ ra thất vọng trước ý đồ của mình như hai môn đệ đi làng Emmau. Nhưng sau khi Đức Giêsu hiện ra với họ thì tâm trạng của họ lúc này trở nên khó tả : buồn vì cuộc tử nạn của Thầy mình, vui vì thấy Thầy mình đã sống lại, nhưng vẫn còn hoang mang vì sự hiện diện của Thầy sống lại không còn thường xuyên như xưa nữa, mà có lúc ẩn lúc hiện. Trong cái tâm trạng vui buồn và hoang mang lẫn lộn đó, các ông bèn rủ nhau đi đánh cá cho khuây khỏa và để kiếm gì để ăn chứ ! Các ông theo Phêrô, xuống thuyền đánh cá, nhưng suốt đêm mà chẳng bắt được con cá nào. Kinh nghiệm đánh cá của Phêrô cũng chẳng giải quyết được gì.

*2. Đức Giêsu hiện ra lần thứ ba.

Trong lúc hiện ra lần thứ nhất với các môn đệ (Ga 19,23) các ông đều nhận lấy từ nơi Thầy những ơn là : sự bình an, sứ mạng, ơn Thánh Thần, ơn “tha tội cho ai thì kẻ ấy được tha”(Ga 19,23). Phêrô và Gioan không có vai trò gì trổi vượt. Lần hiện ra thứ hai với các môn đệ (Ga 19,24-29), Tôma chứ không phải là Phêrô hoặc Gioan nhận được sự chú ý của Thầy. Chính Tôma, tuyên xưng :”Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con”! mà Thầy Giêsu đã chúc lành cho những người không thấy mà tin”(Ga 19,29). Rồi đến lần hiện ra thứ ba với các môn đệ (Ga 21,1-19), xem ra hai ông Phêrô và Gioan  tìm kiếm  điều hai ông đã đạt được. Các ông được thấy Thầy các ông trong sự sống và hoạt động hoàn toàn mới : tất cả qui về tập thể mà các ông là thành viên và các ông chính là người đứng đầu điều khiển mọi sự trong hậu trường.

*3. Một mẻ lưới kỷ lục.

Sáng sớm, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, các ông từ thuyền trông thấy, nhưng không nhận ra Ngài. Ngài hỏi các ông  câu hỏi thường thức  như người ta quen hỏi các người đi đánh cá : Có kiếm được gì ăn không ? Các ông đồng thanh trả lời :”Thưa không”. Ngài bảo họ :”Cứ thả lưới bên phải thuyền thì sẽ có cá đấy”. Họ thả lưới, và kết quả là mẻ lưới của các ông đầy cá. Lúc đó các ông mới nhận ra Ngài. Và do đó, các ông nhận thức rằng mẻ lưới đầy cá là do quyền năng của Chúa, chứ không do sự chuyên nghiệp của các ông  vì các ông đã thất bại suốt một đêm trắng.

Các ông kéo lưới vào bờ và đếm được 153 con cá lớn mà lưới vẫn không rách. Lưới không rách là hình ảnh Giáo hội, sự hiệp nhất không bị phá vỡ do số nhiều (Mt 13,47-50), những con cá là hình ảnh giáo hữu đã chinh phục cho Chúa  bằng lời giảng dạy của các Tông đồ.

Còn về vấn đề 153 con cá lớn, theo thánh Giêrônimô, một học giả Thánh Kinh, thì con số 153 có nghĩa là  các nhà chuyên khảo cứu về cá lúc bấy giờ biết được 153 loại cá khác nhau. Như vậy thì 153 có nghĩa là các tông đồ bắt được rất nhiều cá  chứ không nhất thiết là 153 con. Nếu con số 153 mang ý nghĩ như vậy, thì Chúa muốn các Tông đồ phải đi rao giảng Tin mừng cứu độ cho cả thế giới và như vậy con số 153 là biểu tượng con số đông đảo những tân tòng, những người lãnh nhận đức tin sau này.

PHÊRÔ LÀM THỦ LÃNH GIÁO HỘI.

*1. Đức Giêsu chọn Phêrô làm thủ lãnh.

Để qui tụ mọi dân tộc, mọi giống nòi về một Giáo hội duy nhất, điều Đức Giêsu muốn  là phải có một người dẫn dắt đoàn chiên như lòng Chúa ước mong, người đó không ai khác, lại chính là Phêrô – vị Tông đồ có không ít những lỗi lầm. Chúng ta thấy là, để được Đấng Phục sinh long trọng xác nhận tư cách là thủ lãnh để lãnh nhận sứ mệnh tông đồ đặc biệt thì tiên quyết không phải là “văn hay chữ tốt”, “tài đức vẹn toàn” mà chỉ được gói gọn trong hai chữ “yêu mến” mà thôi :”Phêrô, con có yêu mến Thầy không” ? Thật ra đây chính là điều kiện nền tảng để có thể chu toàn sứ mệnh mà Chúa trao phó, bởi không có lòng yêu mến, công việc của người mục tử cũng như của tất cả chúng ta  dù thành công cũng chỉ điểm tô, đánh bóng cho cá nhân của mình; trái lại, với lòng yêu mến, chúng ta sẽ thấy bất cứ công việc nào cũng mang đến một giá trị cao cả không chỉ cho chính đương sự mà còn mưu ích cho nhiều người.

Chính vì thế, Đức Giêsu đã phải hỏi Phêrô đến ba lần – có thể là sự gợi nhớ  ba lần ông chối Thầy mà cũng có thể theo thói quen thời đó, để chính thức ủy thác cho ông nhiệm vụ chăm sóc đoàn chiên. Với nhiệm vụ này, Phêrô đã chu toàn. Phêrô đã đi theo Thầy của mình trong quãng đời còn lại và đã lấy cái chết của mình để làm chứng về Thầy. Phêrô đã tham dự vào sứ mệnh của Thầy tức là tham dự vào cái chết và sự Phục sinh của Chúa, đồng thời hiến dâng mạng sống mình cho anh em, cho đoàn chiên mà hôm nay chính Đức Giêsu – Đấng Phục sinh, đã trao phó cho ngài.

*2. Con người thủ lãnh Phêrô.

* Yêu Chúa tận tình.

Ai cũng biết tính tình của Phêrô là nóng nảy, vụt chạc, nghĩ sao nói vậy. Liên hệ đến tính tình nóng nảy của ông là sự cứng đầu của ông. Trong bài đọc 1 trích từ sách Công vụ tông đồ, chúng ta thấy rõ một hình ảnh khác của Phêrô, không phải chỉ là một Phêrô đã ăn năn hối cải, nhưng còn là một con người mới, một tạo vật mới, rất can trường. Ôâng rất cứng đầu vì tình yêu Chúa Kitô. Khi Phêrô bị điệu ra trước thầy cả thượng phẩm để bị tra hỏi vì đã rao giảng nhân danh Đức Giêsu, Phêrô không chút sợ hãi mà tuyên xưng rằng:”Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm”(Cv 5,29). Sau này Phêrô đã xin được đóng đinh vào thập giá, nhưng để khác với Thầy vì cảm thấy mình không xứng đáng, Phêrô đã xin treo ngược đầu xuống. Có tình yêu nào sánh được với ngọn lửa tình yêu của Phêrô dành cho Đức Giêsu không ?

* Yếu đuối và gan dạ.

Chúng ta thấy trong con người Phêrô có pha trộn sự yếu đuối và can đảm, gan dạ. Ôâng yếu đuối vì đã chối Chúa nhưng ông trở nên gan dạ sau khi đã chỗi dậy.Tôi tin chắc rằng Phêrô không bao giờ quên sự kiện ông đã chối Đức Giêsu. Tuy nhiên, tôi hồ nghi không biết lỗi lầm này có ảnh hưởng ông hay không, giống như một số người đã bị ám ảnh vì những tội lỗi của họ.Ôâng đã học được một bài học vĩ đại từ sự vấp ngã của mình. Ôâng nhận ra rằng ông không được can đảm giống như ông đã nghĩ về mình. Khi học được một bài học, thì đó là một điều tốt đẹp và bổ ích hơn, so với khi được dạy một bài học. Một khi chúng ta rút ra được kinh nghiệm từ một lần vấp ngã, thì lúc nhắc lại sự vấp ngã này, thì chắc chắn càng khơi gợi lòng biết ơn, hơn là tự buộc tội bản thân mình.

Và Phêrô cũng học hỏi được một sự thật tuyệt vời về Đức Giêsu. Ôâng nhận ra rằng bất chấp những lần ông chối Ngài, Ngài vẫn cứ yêu thương ông. Chính tình yêu đó đã dẫn đưa Phêrô quay trở lại với cuộc đời. Thật là một kinh nghiệm tuyệt vời, khi vẫn được yêu thương ngay trong tình trạng yếu đuối và tội lỗi. Khi người ta đươc yêu thương vì sự tốt lành của mình, thì điều đó không có gì là vĩ đại cả. Nhưng khi được yêu thương trong tình trạng xấu xa, đó mới quả thật là một tình yêu bao la. Và đó là một ân sủng 

Phêrô có sự gan dạ, để lại chỗi dậy sau khi vấp ngã. Chúng ta có thể hình dung ra rằng ông là một nhà lãnh đạo rất tốt, một nhà lãnh đạo có ý thức về sự yếu đuối của bản thân mình. Kinh nghiệm này đã loại trừ nơi ông  thói tự hào  và tin tưởng một cách mù quáng vào những năng lực riêng của bản thân, đồng thời, làm cho ông có khả năng thấu hiểu được sự yếu đuối của người khác (McCarthy).

*3. Phêrô can đảm thi hành sứ mệnh.

Sau khi Đức Giêsu về trời, Phêrô sang Rôma lãnh đạo giáo đoàn và thiết lập tòa thánh ở đó.  Phêrô đến Rôma giữa lúc hoàng đế Néron đang ra tay bách hại các tín hữu Chúa Kitô. Ôâng vua này sai thủ hạ đi đốt nhà dân chúng  sống trong các khu ổ chuột tồi tàn để xây dựng nhà mới cho khang trang hơn. Khi dân chúng nổi lên chống đối, thì Néron đổ tội đốt nhà ấy cho các Kitô hữu và ra lệnh bắr bớ những ai theo đạo, kết án tử hình và xử tử tại khu hí trường ở thủ đô Rôma. Một số khá đông tín hữu  đã trở thành miếng mồi ngon  cho lũ sư tử đói khát vồ xé,  một số khác thì bị chết  trong các cuộc thi giác đấu, số còn lại thì bị lên giàn hỏa thiêu hay bị đóng đinh chân tay vào thập giá… Trước tình thế nguy hiểm ấy, công đoàn ở Rôma đã khuyên Phêrô cấp thời cải trang chạy trốn khỏi thành.

Nhưng khi ra được ngoài thành, Phêrô gặp thấy một người mặc áo trắng đang đi ngược chiều vào thành. Ôâng nhận ra đó là Đức Giêsu, ông lên tiếng hỏi :”Thầy đi đâu” (Quo vadis) ? Đức Giêsu đáp :”Thầy đi vào thành Rôma để chịu đóng đinh thêm một lần nữa”. Sau đó, Ngài biến mất. Phêrô hiểu ý Chúa muốn ông quay vào thành để chịu chết vì danh Chúa, và ông đã làm theo lời Chúa. Ôâng bị bắt, bị kết án tử hình và bị giam chung với các tín hữu sắp bị hành hình. Ông đã động viên an ủi họ và giúp họ giữ vững đức tin. Sau cùng, ông đã lãnh nhận lấy cái chết trên thập giá theo gương Thầy mình.

III. SỨ MỆNH LÀM CHỨNG CHO CHÚA.

*1. Phải biết nhận ra Chúa.

Thật là mâu thuẫn đến độ khó hiểu vì cùng một Con Người Giêsu đã đến trong thế gian, đã sinh sống trên đất Galilê, đã chịu khổ hình đến chết và nay đã sống lại, hiện ra nhiều lần với nhiều người đương thời, thế thì tại sao xưa cũng như nay có kẻ tin người không, kẻ phục người chối bỏ ? Dĩ nhiên, có sự trái ngược này không  do Chúa không hiện diện khắp mọi nơi, nhưng do nơi cách thức mà con người sử dụng để tìm kiếm sự hiện hữu của Thiên Chúa. Nói khác đi, ai biết tìm Chúa đúng cách thì dù Ngài có khuất dạng họ vẫn nhận ra, trái lại kẻ không biết cách tìm Chúa dù Ngài có hiện ra một bên cũng chẳng thấy được Ngài…

Muốn nhận ra được Chúa hiện diện trong đời mình, phải có một quả tim nhạy cảm trong tình yêu, một tâm hồn muốn thao thức tìm Chúa.  Nhưng trong thực tế, rất nhiều người rất hững hờ với sự hiện diện của Chúa. Họ không tìm thấy sự hiện diện của Chúa là vì họ hững hờ, không muốn tìm ra Chúa.                                     

Truyện : Chỉ vì vô tình.

 Một bề trên tu viện Công giáo đến tìm một ẩn sĩ Aán giáo tại chân núi Hy mã lạp sơn và trình bầy về tình trạng bi đát của tu viện ông : Trước kia tu viện này là một trung tâm thu hút nhiều khách hành hương. Nhà thờ lúc nào cũng vang tiếng hát của giáo dân từ khắp nơi đến. Trong tu viện không còn chỗ nhận thêm người vào tu hằng ngày đến gõ cửa nữa. Thế mà bây giờ tu viện chẳng khác nào một ngôi chùa hoang phế.  Nhà thờ vắng lặng, tu sĩ leo teo mấy người, cuộc sống thật là buồn tẻ. Vị bề trên hỏi ẩn sĩ Aán giáo cho biết nguyên do nào hay lỗi lầm nào đã đưa tu viện tới tình trạng hiện nay. Tu sĩ Aán giáo ôn tồn bảo :”Các tội đã và đang xẩy ra  trong cộng đoàn đó là tội vô tình”. Và ông giải thích :”Đấng Cứu Thế đã cải trang thành một người trong quí vị, nhưng quí vị không nhận ra Ngài”

Nhận được lời giải đáp, vị bề trên hớn hở trở về tu viện. Ôâng tập họp mọi người lại và loan báo cho họ biết Đấng Cứu Thế đang cải trang thành một người trong nhà. Các tu sĩ đều mở to đôi mắt và quan sát nhau. Ai là Đấng Cứùu Thế cải trang vậy ? Nhưng có điều chắc là một khi Ngài đã cải trang thì không ai có thể nhận ra Ngài được. Mỗi người trong họ đều có  thể là Đấng Cứu Thế.

Vậy là từ đó mọi người đều đối xử với nhau như với Đấng Cứu Thế. Chẳng bao lâu, bầu khí yêu thương huynh đệ, sức sống và niềm vui đã trở lại với tu viện. Từ khắp nơi người ta lại tìm đến tu viện để tĩnh tâm và cầu nguyện. Nhiều người trẻ cũng đến xin gia nhập cộng đoàn (Trích trong Món quà Giáng sinh).

*2. Làm cho nhiều người trở lại với Chúa.

Chính trong ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống, Phêrô đứng lên cùng với mười một Tông đồ giảng cho dân chúng một bài rất hùng hồn (x. Cv 2,14t). Nghe xong bài đó, dân chúng bị cảm kích đến cực độ nhao nhao hỏi :”Chúng tôi phải làm gì” ? Phêrô bảo :”Hãy hối cải và mỗi người hãy chịu thanh tẩy nhân danh Đức Giêsu Kitô để được tha thứ tội lỗi, và các ngươi sẽ được ơn Chúa Thánh Thần”.

Qua bí tích rửa tội, mỗi người công giáo được gọi để sống và làm chứng cho đức tin trong gia đình, hàng xóm và cộng đồng. Có nhiều hình thức để làm chứng cho đức tin bằng lời cầu nguyện, bằng gương sáng, bằng cách sống đức tin, bằng việc từ thiện bác ái, bằng việc rao giảng Tin mừng… Thiên Chúa hằng hiện diện giữa chúng ta. Chính những khi các Tông đồ cảm thấy thất đảm sợ hãi sau cuộc tử nạn của Thầy mình, thì Chúa ở giữa họ: Chúa đồng hành với họ trên đường  đi Emmau, Chúa hiện ra với họ khi họ không bắt được cá. Chúng ta cầu xin Chúa cho ta cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa và được nhận thức rằng Chúa hiện diện với ta trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời mặc dù ta không cảm thấy.

Truyện : gương bày lôi kéo.

Một cô xướng ngôn viên đài phát thanh ở tỉnh kia tự nhiên đến xin học đạo với một Linh mục. Nguyên nhân thúc đẩy cô theo đạo, như cô kể, là nhờ sống gần gia đình công giáo tốt mà cô thấy hấp dẫn và đánh động : họ sống đầm ấm yên vui, giữ đạo chân thành, thân thiện với hàng xóm. Gia đình này không những đã tìm được hạnh phúc cho chính họ, cho vợ chồng con cái an vui, mà còn làm chan hòa hạnh phúc đó sang người lối xóm. Không giảng đạo mà cụ thể đã lôi kéo người khác đến với Chúa.

*3. Phải dựa vào quyền năng Chúa.

Bài học mà Chúa muốn dạy các Tông đồ hôm nay là các ông phải tùy thuộc vào ơn Chúa và quyền năng của Ngài. Các ông phải nhận thức rằng dù mình là thuyền chài chuyên nghiệp cũng không nhất thiết bắt được cá. Cái dụng cụ mà Chúa dùng để thi hành công cuộc cứu độ không tùy thuộc vào tài năng và sự hiểu biết của con người, nhưng tùy thuộc vào sự cộng tác của loài người với ơn Chúa. Quyền năng Chúa Phục sinh đã biến đổi các Tông đồ. Trước đó các ông còn sợ hãi trốn tránh. Bài trích sách Công vụ tông đồ hôm nay ghi lại việc các ông trả lời công nghị :”Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,29). Là chứng nhân, các Tông đồø phải nói lên sứ điệp đã lãnh nhận dù sứ điệp đó không được hưởng ứng, mà còn bị đe dọa đến tính mạng.

Trong việc chọn Phêrô làm thủ lãnh các Tông đồ, thủ lãnh Giáo hội, Đứùc Giêsu không dựa vào những điều kiện như “văn hay chữ tốt” hoặc “tài đức vẹn toàn” mà chỉ dựa theo con người biết “yêu mến” và tuân theo ý Chúa như những dụng cụ hữu hiệu. Do đó, trong khi tham gia vào trong công cuộc rao giảng Tin mừng, chúng ta đừng cậy dựa vào sức mình mà chỉ cậy dựa vào ơn Chúa như những dụng cụ trung thành.

Trong toán học, chúng ta biết tầm quan trọng của vị trí con số “không” trong tương quan với dấu chấm thập phân : số “một” càng bị nhiều số “không” ngăn cách nó xa dấu chấm thập phân thì giá trị của nó càng thấp. Thí dụ : 000.0001.

Tuy nhiên nếu số một đứng đầu thì sau đó càng có nhiều số “không” chừng nào thì giá trị của nó càng cao chừng nấy. Thí dụ : 1.000.000.

Chúa chính là số một. Khi ta đặt Chúa hàng đầu trước những công việc của ta thì ta càng làm nhiều chừng nào, giá trị chúng càng cao chừng nấy. Ngược lại, Chúa càng xa tâm trí ta chừng nào thì công việc ta làm càng ít giá trị chừng nấy (Frank Mihalic).      

                          

CHÚA NHẬT III PHỤC SINH- NĂM C

MẦU NHIỆM GIÁO HỘI– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Sau khi Phục Sinh, Chúa Giêsu quan tâm đến việc thiết lập Giáo Hội để tiếp tục công cuộc cứu chuộc của Người trên trần gian. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy hình ảnh về Giáo Hội mà Người mong muốn khi thiết lập.

Hình ảnh về một Giáo Hội có nền tảng là yêu thương. Chúa Giêsu không thiết lập một cơ chế, nhưng thiết lập một gia đình. Người đứng đầu Giáo Hội không phải là người chỉ huy ra lệnh, nhưng là người chăm sóc. Sức mạnh của Giáo Hội vì thế không phải ở kỷ luật, uy quyền, nhưng ở tình yêu thương. Mọi người yêu thương nhau vì lẽ là anh chị em trong một gia đình. Để duy trì tình yêu thương, người đứng đầu phải là người yêu thương nhiều nhất. Chính vì thế, trước khi tuyển chọn thánh Phêrô làm Giáo hoàng. Chúa Giêsu đã 3 lần hỏi: “Phêrô, con có mến Thầy không?”. Có yêu mến Chúa thì mới biết yêu mến anh chị em mình. Tình yêu mến là nền tảng của Giáo Hội. Bao lâu tình yêu mến còn, Giáo Hội còn vững vàng. Khi nào tình yêu mến suy giảm, Giáo Hội sẽ suy yếu.

Hình ảnh về một Giáo Hội có sức sống truyền giáo. Giáo Hội như con thuyền của ngư phủ. Ngư phủ sinh sống bằng nghề đánh bắt tôm cá. Sức sống của Giáo Hội là truyền giáo, là đánh bắt các linh hồn như Chúa Giêsu, khi kêu gọi các Tông đồ đầu tiên đã nói: “Hãy theo Thầy, Thầy sẽ đào tạo anh em thành những tay chài lưới linh hồn người ta”. Muốn đánh bắt được tôm cá, ngư phủ không được neo thuyền, ngồi trên bờ mà nghỉ ngơi nhàn nhã, nhưng phải dong buồm ra khơi, ra chỗ nước sâu mới có nhiều cá. Cũng vậy, muốn cứu được nhiều linh hồn, Giáo Hội không được ngồi yên ngơi nghỉ, mà phải lên đường, phải ra đi đến những nơi xa xôi, phải nỗ lực tìm kiếm. Ra khơi là phải mệt nhọc, phải làm việc và nhất là phải đương đầu với sóng to gió lớn, có khi nguy hiểm đến tính mạng. Cũng vậy, lên đường truyền giáo là phải vất vả, khổ cực và chấp nhận những nguy hiểm, rủi ro. Phải ra đi vì đó là ước nguyện của Chúa. Phải lên đường vì đó chính là sứ mạng Chúa trao cho Giáo Hội.

Hình ảnh về một Giáo Hội hoạt động có hiệu quả nhờ tuân theo Lời Chúa. Giáo Hội quy tụ những con người. Giáo Hội hoạt động với những cố gắng của con người. Nhưng chỉ với sức con người. Giáo Hội không làm được việc gì. Phêrô và các bạn mệt nhọc suốt đêm mà chẳng bắt được con cá nào là hình ảnh của những hoạt động không có Chúa hướng dẫn. Khi nghe Lời Chúa dạy, các ngài đã đánh được một mẻ cá lớn lạ lùng. Hôm nay Chúa không còn ở với các Tông đồ. Không còn ngồi chung thuyền với các ngài. Không còn dẹp yên sóng gió cho các ngài. Chúa đã về trời. Chúa đứng ở một bến bờ khác. Nhưng Chúa vẫn theo dõi những hoạt động của các ngài. Chúa sẽ đưa ra những chỉ dẫn để hoạt động của các ngài có kết quả tốt đẹp. Tuy không hữu hình, nhưng Chúa vẫn hiện diện bên Giáo Hội như lời Người hứa: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”.

Giáo Hội thật là một mầu nhiệm vì xét theo bề ngoài chỉ gồm những con người hữu hình, nhưng thật sự bên trong có sự hiện diện của Thiên Chúa vô hình. Sự vững mạnh của Giáo Hội không nhờ luật lệ, quân đội, hay vũ khí, nhưng nhờ tình yêu thương. Càng yêu thương, càng tha thứ thì Giáo Hội càng mạnh mẽ. Hiệu quả của Giáo Hội không ở tại việc ổn định, yên vị, nhưng ở tại mạo hiểm ra đi. Chính khi ra đi, Giáo Hội thâu lượm được nhiều kết quả. Càng gặp khó khăn, Giáo Hội càng vững mạnh vì Chúa hằng ở với Giáo Hội luôn mãi.

Lạy Chúa, con yêu mến Chúa. Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Bạn có nghĩ rằng Giáo Hội mạnh nhờ có nhiều tiền bạc, có nhiều người tài giỏi không? Bạn suy nghĩ thế nào về bài Tin Mừng hôm nay?
  2. Trong đời sống đạo, bạn có bao giờ quan tâm làm cho người khác biết và yêu mến Chúa không?
  3. Giáo Hội đã trải qua rất nhiều khó khăn thử thách, nhưng vẫn bền vững qua 2000 năm. Bạn nghĩ gì về điều này?

CHÚA NHẬT III PHỤC SINH- NĂM C

HÃY THEO THẦY (*)-  Lm. Giuse Đinh Tất Quý

“Người bảo ông: “Hãy theo Thầy”(Ga 21,19).

Những bài đọc hôm nay có thể hướng những suy tư chúng ta về vận mạng tương lai của Giáo Hội. Vận mạng tương lai của Giáo Hội Chúa được xây dựng trên nền tảng vững chắc, là niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô Phục sinh, Đấng cứu rỗi duy nhất của tất cả mọi người và trên sự dấn thân của mỗi người cộng tác với ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, để làm chứng và thông truyền cho anh chị em những sự thật có sức mạnh cứu rỗi.

Bài đọc thứ nhất được trích từ sách Tông đồ Công vụ, cho chúng ta nhìn thấy các tông đồ đã sống thái độ trên như thế nào. Các ngài dù bị những vị lãnh đạo tôn giáo đầy uy quyền ngăn cấm, không cho phép được lên tiếng làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô Phục sinh, không được rao giảng sự thật về Chúa, nhưng tông đồ Phêrô đã mạnh dạn trả lời: “Phải vâng Lời Thiên Chúa hơn là vâng lời loài người”. Thiên Chúa Cha chúng ta đã cho Chúa Giêsu sống lại, đấng mà các ông đã giết chết bằng cách đóng đinh Ngài trên thập giá, Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Ngài bên hữu Người và làm cho Ngài trở thành thủ lãnh và là đấng Cứu Thế để ban cho dân Israel ơn ăn năn trở lại và sự tha thứ các tội lỗi. Về tất cả những điều này, chúng tôi và Chúa Thánh Thần mà Thiên Chúa Cha đã ban cho tất cả những ai tùng phục Chúa. Chúng tôi và Chúa Thanh Thần cùng làm chứng”(CVTD 5,29-35).  Thật là can đảm! Khó tìm thấy những lời tuyên xưng rõ rệt, dứt khoát như thế!.

Vâng! Vận mạng tương lai của Giáo Hội được xây dựng trên những thái độ can đảm như vậy. “Chúng tôi phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời con người”. Đây là một câu trả lời rõ ràng dứt khoát cho những hành động lạm dụng quyền hành của mình để xen vào việc của Chúa. Hoàn toàn không phải là một lời kêu gọi dân chúng nổi loạn, chống lại quyền bính chính trị lúc đó.

Và đây cũng là câu trả lời của một con người mà trước đó không lâu đã phạm những lỗi lầm thật nghiêm trọng. Chúng ta hãy nhớ lại bối cảnh lúc đó một chút.

Chỉ cách biến cố này không bao xa, vào đêm Thứ Năm Tuần Thánh,  Phêrô đã yếu đuối, hèn nhát, như thế nào. Ba lần ông đã chối Thầy chí thánh của mình!

Giả như Chúa có loại trừ ông, thì hầu chắc mọi người sẽ nói rằng Người đã không còn sự lựa chọn nào khác. Phêrô là thủ lãnh của các tông đồ, vậy mà ông đã làm gương xấu cho người khác. Nếu Chúa có cất chức ông thì việc đó cũng chẳng có gì là lạ!

Nhưng Chúa Giêsu đã không làm thế, Người không loại trừ ông. Thậm chí Người không giáng chức ông. Và cũng chẳng có sự buộc tội nào. Sự phản bội của Giuđa là một việc có hoạch định trước, và được thực hiện với thái độ lạnh lùng, có đắn đo suy nghĩ. Còn hành động chối Thầy của Phêrô không hoạch định trước. Đây chỉ là hậu quả của sự yếu đuối hơn là ác tâm. Chúa Giêsu, Người thấu suốt mọi tâm hồn, đã biết điều này.

Và sáng hôm nay, sau buổi điểm tâm, Chúa Giêsu đã quay nhìn Phêrô và nói : “Này Simon con Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?”

Thật là một câu hỏi kỳ lạ, khi hỏi: “Anh có mến Thầy không ?” Phải chăng Phêrô không còn yêu mến Thầy nữa. Và chúng ta nghe ông thưa lại:

– Lạy Thầy, Thầy biết con mến Thầy.

Ông đã thành thật nói lên những lời này. Đó là sự thật. Thật sự lúc nào ông cũng yêu mến Chúa. Chúa Giêsu còn biết Phêrô nhiều hơn chính ông biết về mình. Người biết ông lúc nào ông cũng đặt Người là số 1. Sự mạnh mẽ và yếu đuối có thể cùng hiện hữu nơi một con người. Và bây giờ Chúa mời gọi Phêrô tiến bước. Người yêu cầu ông phải công khai tuyên bố tình yêu của mình với Thầy, vì lẽ ông đã công khai chối Thầy.

Chúa Giêsu đã không ghi tội của Phêrô. Nhưng Người mời gọi ông chăn dắt đoàn chiên của Người, tức là yêu thương và phục vụ anh chị em trong cộng đoàn. Đây là dịp để ông ăn năn hối lỗi. Đó là cách tốt nhất để chuộc tội. Sau này chính Phêrô đã viết: lòng yêu thương che phủ muôn vàn tội lỗi” (I Pr 4,8).

Chắc Phêrô không bao giờ quên được biến cố ông đã chối Thầy Giêsu. Không biết biến cố ấy có ám ảnh ông theo cách mà mọi người thường bị ám ảnh bởi tội lỗi của họ hay không, nhưng chắc chắn là ông đã rút ra được một bài học lớn từ sự vấp ngã này. Ông biết ông đã không can đảm như ông nghĩ. Và ông cũng biết mặc dù ông đã chối Thầy, nhưng Thầy Giêsu vẫn yêu ông. Đó là tình yêu đưa Phêrô trở lại với cuộc sống. Đó là kinh nghiệm đáng kinh ngạc vì được yêu cả khi mình yếu đuối và tội lỗi. Yêu một người vì sự tốt đẹp của họ là lẽ thường tình. Nhưng yêu một người với cả những cái xấu của họ – đó mới thật phi thường. Điều đó cho biết ân sủng là như thế nào.

Phêrô đã can đảm đứng dậy sau lần vấp ngã. Kinh nghiệm đã giải thoát ông khỏi sự kiêu ngạo và sự tin tưởng mù quáng vào tài xoay sở của mình. Kinh nghiệm đó cũng có thể giúp ông hiểu được sự yếu đuối nơi người khác.

Phêrô đã trở nên tốt. Qua bài đọc của sách Công Vụ Tông Đồ, chúng ta thấy ông đã đứng dậy trước công nghị và đã làm chứng cho Chúa Giêsu như thế nào. Ông là nguồn an ủi rất lớn và cũng là một tấm gương thật sáng ngời cho chúng ta.

Tháng 3 năm 1983, nhà thơ Nga – Irina Ratushinskaya, bị kết án 7 năm lao động khổ sai và 5 năm lưu đày. Tội của bà là – sáng tác những bài thơ mà chính quyền không chấp nhận. Trong tù, bà chịu đựng sự đánh đập, bị biệt giam trong điều kiện khí hậu lạnh cứng, rất khắc nghiệt.

Thân xác còn tệ hơn. Tim, gan, cật, đều có vấn đề. Hơn nữa bà còn bị viêm phế quản kinh niên. Dù phải sống trong điều kiện như vậy, bà vẫn tiếp tục viết, rồi chuyển những bài thơ được viết trên những mảnh giấy vụn ra bên ngoài qua những người gác ngục, những người lính và những khách đến thăm. Vào tháng 10 năm 1986 Bà được phóng thích.

Làm sao bà có thể sống được như thế? Thưa đó là niềm tin Kitô Giáo.

Niềm tin Kitô giáo đã quyết định sự sống còn của bà. Bà nói: 

– Khi bạn đang phiền muộn, hay trong cơn quẫn bách, dường như Chúa luôn luôn gần bên bạn hơn. Chúa bên tôi trong những ngày tôi ở trong tù, như cánh tay liền sát vai.

Một điều quan trọng khác nữa giúp cho sự tồn tại của Irina trong những ngày lao tù là mối tương quan tốt đẹp bền vững thật khó tin mà bà đã có với những nữ tù nhân. Gian nguy đã nối kết mọi người lại với nhau và làm cho họ cảm thấy có trách nhiệm với nhau.

Irina và những bạn bè của bà thường biểu tình tuyệt thực nếu một trong số họ bị ngược đãi. Bà nói:

– Tôi cảm thấy hạnh phúc khi tất cả chúng tôi vẫn còn sống. Trong thời gian tôi ở tù, một phần ba nam tù nhân trong trại đã chết. Tất cả phụ nữ đã từng ở trong trại giờ đây đều là các Kitô hữu. Trong số đó có người nay là nữ tu công giáo. Niềm tin cũng giúp cho đời sống tâm lý của tôi tránh khỏi bị huỷ hoại bởi lòng căm thù và cay đắng. Kinh nghiệm đã dạy cho tôi rất nhiều về khả năng vô song của tinh thần con người để có hạnh phúc trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Chúng ta là môn đệ của Chúa Giêsu. Người trông mong chúng ta làm chứng cho Người trong thế giới hôm nay. Một số người trong chúng ta đã được kêu gọi đón nhận những đau khổ như những đau khổ mà các tông đồ hay những người như Irina và bạn bè của bà đã trải qua. Chúng ta có thể không phải đối diện với những việc tồi tệ và thái độ hết sức dửng dưng của người đương thời như thế, nhưng con đường làm chứng của chúng ta là con đường lúc nào cũng rộng mở thênh thang. Hãy sống như Chúa đã sống! Hãng làm như Chúa đã làm! Hãy đối xử với những người khác như là chính Chúa đối xử với họ! Bằng cách ấy chúng ta đang làm chứng cho Chúa Giêsu phục sinh đang sống giữa loài người. Amen.

(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt

CHÚA NHẬT III PHỤC SINH- NĂM C

CHÚA PHỤC SINH ĐỂ Ý ĐẾN CÁC TÔNG ĐỒ– Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ

Đức Giêsu Phục Sinh vẫn luôn luôn ở với con người, nhưng có thể họ không nhận ra Ngài. Đức Giêsu Phục Sinh luôn quan tâm săn sóc con người, như xưa Ngài quan tâm săn sóc các tông đồ. Ngài không bao giờ bỏ con người, Ngài sẽ ở với con người cho đến ngày tận thế.

Hành vi không bình thường

Các tông đồ trở lại Galilê và ít nhất có bảy người tham dự đêm đánh cá với Simon Phêrô. Sau một đêm mệt nhọc mà không được gì, Đức Giêsu đã chờ họ sẵn ở bờ hồ. Ngài gợi chuyện, hỏi thăm, và tìm cách giúp đỡ: “thả lưới bên mạn thuyền thì có đó”.

Mẻ cá lạ giúp Gioan nhận ra Đức Giêsu Phục Sinh: “Thầy đó”. Chúa vẫn hiện diện đó, nhưng người ta không nhận ra Ngài. Vẫn cần một dấu lạ, ngay cả đối với các tông đồ, để con người có thể nhận ra Đức Giêsu Phục Sinh; và cũng phải nói, không phải ai cũng nhận ra.

Thái độ của Phêrô rất là tức cười. Đang ở trần, nghe Gioan nói đó là Thầy, ông liền mặc đồ vào, rồi nhẩy xuống biển bơi vào bờ để gặp Chúa, bỏ các bạn ở lại với lưới cá dù rằng chính ông là người đề nghị các bạn đi đánh cá!Tại sao vậy? Vào bờ, ông nói gì với Chúa, hay ông chỉ làm vậy vì muốn gần Thầy mà thôi?

Cách hành xử của Đức Giêsu

Đức Giêsu đã dọn sẵn bánh và cá cho các tông đồ bên bờ hồ. Đức Giêsu dọn ăn cho các tông đồ. Đức Giêsu vẫn làm công việc của một người đầy tớ, Ngài vẫn luôn là người phục vụ những người Ngài yêu thương.

“Hãy mang cá các anh vừa bắt được lại đây”. Một khi có bếp và lửa, có bánh và cá, tại sao Ngài không dọn cho đủ? Thiên Chúa vẫn muốn có sự đóng góp của con người, ngay cả trong chuyện nhỏ nhất.

Tại sao lại là con số 153 con cá? Có người nói rằng, vì đó là tất cả các loại cá mà con người ngày đó tìm được. Con thuyền Giáo Hội, tung một mẻ lưới với sự trợ giúp của Đức Giêsu Phục Sinh, bao gồm tất cả mọi dân tộc trên hoàn vũ này.

Không một ai trong các ông dám hỏi “Ngài là ai”, vì tất cả đều biết đó là Chúa. Dường như Ngài vẫn có một cái gì đó khác trước, vì nếu không thì tại sao lại “không ai dám hỏi Ngài là ai”. Tuy vậy, không ai dám hỏi “Ngài là ai”, vì tất cả đều biết đó là Thầy.

Số phận và thái độ cần có của con người

Sau bữa ăn, Đức Giêsu hỏi Phêrô: “anh có yêu Thầy hơn những người này không?”Nếu chỉ là câu hỏi: “anh có yêu Thầy hơn yêu những người này không”, chắc là Phêrô không cảm thấy khó khăn để trả lời. Có lẽ câu hỏi là: “Phêrô, anh có yêu Thầy hơn những người này yêu Thầy không?”Phêrô, trước đó khi ở bữa tiệc ly đã quả quyết: “dù tất cả mọi người bỏ Thầy, con thà chết chứ không bỏ thầy”, và hậu quả là Phêrô đã chối Thầy ba lần. Bây giờ, Phêrô khiêm tốn hơn: “Vâng, Thầy biết rằng con yêu Thầy”. Ba lần hỏi, bù vào ba lần chối. Phêrô không còn dám tin vào mình nữa: “Lạy Chúa, Chúa biết mọi sự, Chúa biết rằng con yêu Chúa”. Dường như Phêrô muốn nói: Với bao lần phản bội, Chúa biết con sẽ như thế nào trong tương lai, nhưng lúc này, Chúa biết rõ rằng con yêu Chúa. Khiêm tốn là thái độ rất quan trọng của người lãnh đạo, chăn dắt đàn chiên của Chúa.

“Khi con còn trẻ, con muốn đi đâu tuỳ ý, nhưng khi con về già, con sẽ giang tay và người ta sẽ dẫn con tới nơi con không muốn”. Phêrô được ơn biết tương lai mình. Còn những người khác? Tương lai của chúng ta ở trong tay Chúa, chúng ta không dám tin vào sức mình, nhưng có một điều rất chắc chắn: Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, và Ngài sẽ làm điều tốt nhất cho chúng ta. Thiên Chúa của chúng ta, là Thiên Chúa quyền năng trong tình yêu.

“Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người ta”. Phêrô đã trả lời những người lãnh đạo dân Do Thái như vậy. Đây là một tiêu chuẩn mà mỗi người tin vào Thiên Chúa đều phải áp dụng trong cuộc sống hằng ngày, dù điều này có gây hại cho mình. Thái độ tương tự như vậy, đã dẫn Phêrô và những người “làm chứng”đến cái chết.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

*1. Xin bạn trình bày lý do tại sao bạn tin Đức Giêsu đã phục sinh!

*2. Bạn thích điều gì nhất trong đoạn Tin Mừng hôm nay? Tại sao?

*3. Tại sao “phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời con người”?

CHÚA NHẬT III PHỤC SINH- NĂM C

YÊU MẾN CHÚA– LmGiuse Nguyễn Hữu An

Chúa Phục Sinh hiện ra với Maria Mađalêna và nhắn gởi là sẽ gặp các môn đệ ở Galilê (Mt 28,10). Trong khi chờ đợi, họ trở về với nghề xưa, trở về Biển Hồ quen thuộc đầy ắp kỷ niệm tình thầy trò.

Phêrô kêu gọi anh em đi đánh cá. Tối hôm ấy, họ thức trắng đêm mà vẫn trắng tay, chẳng được con cá nào. Họ sửa soạn giũ lưới đi nghỉ, Chúa hiện đến trên bờ. Trời vừa tảng sáng để có thể nhận biết người và thuyền. Nhưng họ vẫn không nhận ra Chúa Giêsu đứng đó, cũng giống như trường hợp của Maria Mađalêna bên ngôi mộ (Ga 20,14), cũng như hai môn đệ Emmau (Lc 14,13).

Từ xa xa, Chúa Giêsu gọi các môn đệ một cách thân mật: “Các chú có gì ăn không?”. Một câu hỏi đối với dân miền biển nên phải hiểu là: đánh cá có được gì không? Các môn đệ trả lời một tiếng vắn vỏi: “Thưa không” xem ra mệt mỏi chán chường. Chúa bảo: Hãy thả lưới bên hữu thuyền. Họ vâng lời và họ kéo được quá nhiều cá hơn sức họ mong tưởng. Thấy thế hẳn các môn đệ nhớ lại phép lạ ngày nào bên bờ biển hồ Galilê, Chúa cũng bảo Phêrô ra khơi và họ đã bắt cá nhiều đến nỗi phải nhờ thuyền bạn bè chở giúp (Lc 5,1-11).

Gioan là người đầu tiên nhận ra Thầy: “Chúa đó”. Lúc ấy Phêrô cho thuyền vào bờ. Chúa bảo đem đến ít cá để nướng ăn điểm tâm. Cho đến lúc này các môn đệ mới nhận ra là Chúa và không ai dám hỏi gì nữa, không còn ai hồ nghi gì nữa. Sau bữa ăn thân mật ấy, Chúa tâm sự riêng với Phêrô. Ngài hỏi Phêrô ba lần: Con có yêu mến Thầy không? Trước khi đặt Phêrô làm đầu Hội Thánh, Chúa muốn ông phải yêu mến Ngài một cách quảng đại hơn những người khác. Phêrô đã bày tỏ tình yêu của mình một cách đơn sơ và chân thành: Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy. Chúa Giêsu đã ân thưởng lòng yêu mến ấy bằng cách trao ban cho Phêrô sứ mạng : Hãy chăn dắt đoàn chiên của Thầy.

Ba lần được hỏi và thưa về tình yêu của Phêrô đối với Thầy cũng là ba lần Phêrô được giao phó việc chăm sóc đoàn chiên. Đó là vai trò mục tử của Phêrô. Bằng tất cả trải nghiệm về đức ái mục tử theo gương Mục Tử Tối Cao, Phêrô đã dạy cho các mục tử trong Giáo hội tinh thần:”Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèm, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tụy. Đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên. Như thế khi Vị Mục Tử Tối Cao xuất hiện, anh em sẽ được lãnh triều thiên vinh hiển không bao giờ hư nát” (1Pr 5,2-4). Phêrô trở thành một người lãnh đạo tốt. Người lãnh đạo tốt là người biết tự cảnh giác về sự yếu đuối của mình. Kinh nghiệm sa ngã đã giúp Phêrô thoát khỏi tính tự phụ và tin tưởng mù quáng vào khả năng của mình, đồng thời giúp ông thông cảm với yếu đuối của người khác. Như thế Phêrô còn học biết một sự thật tuyệt vời về Chúa Giêsu. Ông học được rằng, mặc dù ông đã chối Ngài nhưng Ngài vẫn yêu thương ông. Chính tình thương của Chúa đã mang ông trở về cuộc sống. Cái cảm nghiệm được yêu thương trong chính sự yếu đuối và tội lỗi của mình đúng là một cảm nghiệm sửng sốt. Được yêu trong cái tốt của mình là chuyện bình thường. Được yêu ngay trong cái xấu của mình, đó mới là sửng sốt. Chính đó là ân sủng.

Đức Cố Hồng Y FX Nguyễn Văn Thuận suy niệm bài tin mừng hôm nay và nhắn gởi các mục tử như sau: Chúa Giêsu hỏi ba lần : “Con có yêu mến Thầy không ?”, đáp lại ba lần “Có” cũng là để bù lại ba lần chối Thầy. Trước thái độ ba lần từ chối của Phêrô, Chúa không đòi hỏi Phêrô ba lần xin lỗi hay để trừng phạt, song ba lần Chúa muốn được nghe Phêrô nói : “Con yêu mến Thầy”. Như trước đây với Madalena, lần này là Phêrô và sau này là mỗi người chúng ta, Chúa Giêsu muốn nói : “Con yêu nhiều thì sẽ được tha thứ nhiều và ngược lại, con được tha thứ nhiều vậy con hãy yêu nhiều”. Tiếng gọi lãnh đạo của Chúa là tiếng tình yêu, Chúa Giêsu cũng không hỏi Phêrô, con đã có chìa khóa lãnh đạo cao cấp chưa ? Hay có bằng cấp gì ? Tốt nghiệp đại học nào chưa ? Song như có lần Chúa Giêsu nói : “Ai yêu mến Ta thì hãy giữ lề luật của Ta” thì bây giờ Ngài nói : “Con yêu mến Thầy thì hãy chăm sóc chiên con của Thầy”. Chúa Giêsu quan niệm về lãnh đạo là yêu thương, là phục vụ, rửa chân cho những người mình lãnh đạo, Chúa Giêsu không quan niệm nền tảng và phương pháp lãnh đạo là thao tác thôi. Đối với những người lãnh đạo không phải là thao tác bắt người ta làm theo ý mình, song bằng tình yêu giúp nhau thực hiện ý Chúa. Như trong trường hợp của Phêrô, tình thương của Chúa đối với Phêrô và của Phêrô đối với Chúa, tình thương ấy xóa bỏ hận thù, xóa bỏ lỗi lầm xưa và đưa người yêú kém kia trở lại sống trong tình yêu của Chúa. “Anh em yêu mến Thầy thì hãy chăm sóc chiên của Thầy”. Lời mời gọi ấy nhằm vào hàng giáo sĩ. Dĩ nhiên, sau cùng là lời mời gọi đối với mỗi người tín hữu, ai cũng có trách nhiệm liên đới đối với vận mệnh phần rỗi của mỗi anh em mình, về phận sự chăn dắt, nuôi nấng và đưa anh em về đoàn chiên và gìn giữ họ an toàn trong Đức tin. Hãy vì yêu mến Chúa mà làm phận sự chăn dắt và yêu người, tức là làm việc Tông đồ truyền bá Tin mừng và làm cho anh em mình nhận biết và phụng thờ Thiên Chúa (dmhcg.org).

Nhìn lại cuộc đời của Thánh Phêrô, chúng ta thấy một điều rất rõ là trong trái tim vị Tông đồ, lúc nào cũng yêu Chúa. Ngay cả khi Chúa bảo Phêrô là Satan thì Phêrô cũng không giận Chúa. Chỉ vì sự sợ hãi yếu đuối mà chối Thầy, chứ trong tâm hồn lúc nào Phêrô cũng yêu mến Chúa. Không phải Phêrô yếu đuối vấp ngã mà Chúa bỏ rơi, chính tình yêu chân thành trong tâm hồn Phêrô mà Chúa đã yêu thương chọn làm Tảng Đá.

Chúa Giêsu hỏi Phêrô đến ba lần có yêu mến Ngài không. Phêrô cảm thấy nhói đau vì câu hỏi đụng đến vết thương chưa lành của ba lần chối Chúa. Sự cắn rứt dày vò vì lầm lỗi của mình có thể làm người ta trở nên cứng lòng và chai lỳ trong tội lỗi. Tuy nhiên, Phêrô đã trả lời; và ba lần trả lời là cả ba lần Phêrô đối lại việc mình đã chối Thầy trước đây bằng tâm tình thống hối và bằng việc khẳng định tình yêu không thay đổi dành cho Thầy Giêsu.Việc chăm sóc đàn chiên yêu dấu mà Ngài đã đổ máu ra để cứu chuộc, Chúa chỉ giao cho người nào dám khẳng định tình yêu của mình dành cho Đức Kitô đến độ say mê như thế mà thôi.

Chúng ta tự hỏi: Tại sao Chúa Giêsu không trao Giáo hội cho một người trí thức thông thái, có tài lãnh đạo, có uy tín, mà Chúa lại trao Giáo hội cho Phêrô, một Tông đồ nhiều khuyết điểm, bị la mắng nhiều hơn khen ngợi? Chắc chắn nơi Phêrô có một lòng mến Chúa thiết tha. Sau ba lần hỏi: Con có yêu mến Thầy không? Và sau ba lần Phêrô xác định tình yêu ấy, Chúa Giêsu trao Giáo Hội cho Ngài. Ngài vâng lời Chúa về Giêrusalem, bài giảng đầu tiên hùng hồn mang về cho Chúa 3.000 người xin rửa tội. Kể từ đó, Ngài đi vào cánh đồng truyền giáo bao la, là thành đô Roma. Đối diện với gian nguy bắt bớ tù đày, Thánh Nhân đã can trường làm chứng cho Đức Giêsu Phục sinh. Ngài đã lấy máu đào tử đạo minh chứng cho lòng yêu mến Thầy. Ngài đã viết nên trang sử vàng, hào hùng, vẻ vang cho Giáo Hội sơ khai.

Thánh Phêrô đã sửa chữa lỗi chối Chúa bằng cách tuyên xưng tình yêu, và rồi sẽ hiến mình vì đàn chiên được giao phó. Lòng khiêm nhường, lòng mến Chúa của Thánh Phêrô, kinh nghiệm về ơn tha thứ của Chúa, tất cả đều dẫn đưa Thánh Nhân đến với tình yêu của Chúa. Nhờ tình yêu Chúa dẫn lối mà Ngài đã đi bất cứ nơi nào Chúa muốn, cho dẫu nơi đó là ngục tù, là cái chết, bởi lẽ vì tình yêu của Chúa lớn hơn tất cả.

Khi Thánh Phêrô yêu mến và gắn kết đời mình với Chúa, ông có thể vượt thắng mọi yếu đuối và làm điều Chúa muốn.Chúng ta đừng thất vọng vì lỗi lầm đã phạm. Hãy can đảm tuyên xưng tình yêu đối với Chúa và hoàn thành tốt sứ mạng được giao phó là đem Tin Mừng Tình Yêu đến trong môi trường mình đang sống và làm việc. Lòng mến Chúa sẽ mở cửa cho chúng ta đi vào Nước Trời. Chúa không đòi hỏi nơi mỗi người sự khôn ngoan, tài năng. Chúa chỉ cần lòng mến “con có yêu mến Thầy hơn những người này không?”. Khi yêu mến Chúa, chúng ta sẽ làm mọi sự đẹp lòng Chúa. Lòng mến là thước đo cho mọi giá trị đạo đời.    

CHÚA  NHẬT III PHỤC SINH- NĂM C

HÃY TIN VÀO TÌNH THƯƠNG CHÚA-  Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Nếu như Thánh Phaolô với biến cố té ngựa trên đường Damát đã thay đổi cuộc đời, thì thánh Phêrô với ba lần công khai nói lên lời “yêu mến Thầy”, là dịp để ông đứng dậy làm lại cuộc đời. Hay nói đúng hơn là Chúa đã tạo cơ hội để Phêrô chuộc lại lỗi lầm. Lỗi lầm mà bởi nhất thời yếu đuối ông đã vấp phạm trong đêm tối vườn Cây Dầu.

Thực vậy, người ta tưởng rằng đêm tối vườn cây dầu đã tiêu hủy sự nghiệp của một tông đồ miền duyên hải. Một ngư dân chất phát, bộc trực và ngay thẳng tên là Simon Phêrô. Một con người đã từng tuyên bố: “nếu anh em có bỏ Thầy, riêng con thì không bao giờ”. Thế mà đêm đó, ông đã bỏ chạy, tuy đã rút gươm chém đứt một tai của người lính. Một hành động mà Chúa chẳng hoan nghênh lại còn kết án: “Ai dùng gươm sẽ chết vì gươm”. Ông ân hận. Ông muốn chuộc lại lỗi lầm. Ông vẫn đi theo Chúa xen lẫn đám đông dân chúng đang cuồng nhiệt đòi kết án từ hình Thầy Chí Thánh. Một hành động táo bạo biểu lộ lòng thật chân thành, đầy cảm thông với Thầy Chí Thánh. Ông muốn biểu lộ một tình yêu sâu xa với Thầy mình, nhưng “lực bất tòng tâm”. Ông không đủ can đảm đối phó với sự dữ. Ông đã sợ hãi chối Thầy đến ba lần. Nhưng may mắn cho cuộc đời ông. Tiếng gà gáy đêm khuya tựa như tiếng lương tâm đã thức tỉnh lòng ông. Ông biết lỗi của mình. Ông đã đứng dậy và bước ra ngoài sự dữ. Ông đã dứt bỏ nơi chốn nên cớ vấp phạm. Ông đã ra khỏi sân tiền đình và khóc lóc ăn năn.

Và sau một “cuối tuần mất mát” đầy đau khổ. Có lẽ Phêrô đã sống trong dằn vặt của lương tâm. Tại sao ông lại bỏ Thầy? Tại sao ông lại chối Thầy đến ba lần? Ông biết trái tim ông yêu Chúa rất chân thành. Thế mà vì yếu đuối và hồ đồ ông đã phạm qúa nhiều sai lầm. Làm sao ông có thể chuộc lại lỗi lầm? Chúa đã sống lại và hiện ra nhiều lần, nhưng ông không hề dám nói một lời nào với Thầy. Vì ngại ngùng. Vì hổ thẹn. Phêrô dường như không dám nghĩ mình còn xứng đáng là trụ cột cho các anh em.

Hôm nay Chúa Phục sinh hiện đến và cho Phêrô một cơ hội chuộc lại lỗi lầm. Sau khi đã cho các ông một mẻ lưới đầy cá và cùng ngồi ăn uống với các ông, Chúa đòi Phêrô phải công khai nói lên tình yêu của mình với Thầy Chí Thánh trước mặt các môn đệ khác. Chúa hỏi Phêrô con ông Giona, “con có yêu mến Thầy không?”. Câu hỏi được lập lại ba lần như cơ hội cho Phêrô chuộc lại lỗi lầm vì tội ba lần chối Chúa. Chúa đã cho Phêrô cơ hội để nói lên lòng mình yêu mến Chúa. Chúa còn trao trọng trách cho Phêrô chăn dắt đàn chiên của Chúa, như dấu chỉ sự tín nhiệm mà Chúa đã ưu ái dành cho ông.

Cuộc đời của chúng ta đôi khi cũng giống như Phêrô năm nào. Đã nhiều lần chúng ta chối Chúa, bỏ Chúa để chạy theo danh lợi thú trần gian. Đã nhiều lần chúng ta xúc phạm tới tha nhân trong lời nói và hành động. Và chắc chắn cũng có nhiều lần chúng ta bị mặc cảm vì những hành động tội lỗi của mình. Chúa vẫn tha thứ cho chúng ta. Chúa vẫn tạo cho chúng ta rất nhiều cơ hội để chuộc lại lỗi lầm. Chúa vẫn muốn trao cho chúng ta rất nhiều trọng trách trong việc hướng dẫn anh em. Dù rằng chúng ta không xứng đáng. Dù rằng chúng ta vẫn còn đó bản tính xác thịt yếu đuối. Chúa không muốn chúng ta mãi mãi sống trong mặc cảm tội lỗi, nhưng hãy chuộc lại lỗi lầm, hãy hết mình phục vụ cho danh Chúa được cả sáng trên trần gian.

Lời Chúa hôm nay còn mời gọi chúng ta hãy vì Chúa mà tha thứ cho nhau. Hãy tạo cho nhau những cơ hội để sửa lại lỗi lầm. “Ai nên khôn mà không dại một lần”. Ai cũng cần tình yêu để sống và cần sự tha thú để tồn tại. Vì vậy, chúng ta cũng hãy tha thứ cho nhau và giúp nhau hoàn thiện con người của mình.

Nguyện xin Chúa là Đấng luôn đi trước trong tình thương tha thứ giúp chúng ta học nơi Chúa để đối xử khoan dung với nhau. Amen.

CHÚA NHẬT III PHỤC SINH- NĂM C

THỦ LÃNH PHÊRÔ- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC

Thưa anh chị em,

Cả bốn tác giả Tin Mừng và sách Tông đồ công vụ ghi lại, sau khi Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Ngài hiện ra có đến 18 lần dưới nhiều hình thức khác nhau. Chẳng hạn như: Ngài hiện ra với bà Maria Mađalenna như một người làm vườn, bà không nhận ra Chúa. Ngài hiện ra với hai môn đệ đi làng Emmaus, như khách bộ hành chưa từng quen biết. Ngài hiện ra với bảy tông đồ trên biển hồ Tibêria, đang lúc các ông đi đánh cá, xem ra như một người xa lạ.

Bà Mađalenna nhận ra Chúa sống lại, khi Chúa gọi đúng tên bà. Hai môn đệ đi làng Emmaus nhận ra Chúa phục sinh qua cử chỉ quen thuộc, lúc Ngài bẻ bánh trao cho họ. Các Tông đồ nhận ra Thầy Giêsu sống lại, khi Ngài ăn điểm tâm với các ông.

 Tin Tibêria. Sau một đêm thất bại ê chề vì không bắt được con cá nào, nhưng vâng Thầy, Phêrô chèo thuyền ra chỗ nước sâu thả lưới, nên bắt được hai thuyền đầy cá. Lúc bấy giờ, Đức Giêsu lên tiếng gọi: “Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các con trở thành những tay chài lưới người ta” (Lc 5,10).

Hôm nay, tại biển hồ Tibêria, cũng sau một đêm vất vả thả lưới mà không bắt được con cá nào, nhưng vâng lời Thầy, các ông thả lưới bên hữu thuyền, và kìa, đã bắt được 153 con cá lớn. Theo các nhà chú giải Thánh kinh cho rằng: con số 153, là số tượng trưng tất cả mọi thứ cá trong biển. Hàm ý nói rằng: Giáo hội mang tính phổ quát, rồi đây trên hành trình truyền giáo, các tông đồ sẽ quy tụ muôn dân, làm thành một cộng đoàn duy nhất là Giáo Hội Công Giáo.

Ở đây chúng ta nghiệm thấy rằng, Đức Kitô hiện ra không phải lúc các tông đồ chìm đắm cầu nguyện trong đền thờ, nhưng là lúc các ông đang làm việc ở ngoài biển cả.

Đức Kitô Phục Sinh đến với các tông đồ giữa những công việc thường ngày, và Ngài thể hiện bằng cử chỉ trao ban, là dọn điểm tâm cho các ông. Đồng thời, cùng ăn uống với họ, đó là niềm hạnh phúc lớn lao mà Chúa dành cho các môn sinh của mình.

Sau khi điểm tâm, là phần Chúa trao quyền thủ lãnh cho Phêrô. Trước khi trao sứ vụ, Đức Giêsu không đòi Phêrô học vị bằng cấp hay đã tốt nghiệp trường đại học nào, mà chỉ hỏi “Con có yêu mến Thầy không?”.

Qua đó, chúng ta nhận thấy rằng, Đức Giêsu thiết lập Hội thánh trên nền tảng yêu thương. Người đứng đầu Hội thánh không phải là người ra lệnh chỉ huy, nhưng là người phục vụ. Sức mạnh của Giáo Hội không dựa trên quyền hành thống trị, nhưng trên tình yêu thương. Cho nên, người đứng đầu phải là người yêu thương nhiều nhất.

Chính vì thế, trước khi trao quyền thủ lãnh cho Phêrô. Đức Giêsu hỏi tới 3 lần: “Phêrô, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?”. Vì có lòng yêu mến Chúa, thì mới có khả năng yêu thương anh em đồng loại. Như vậy, tình yêu là cốt lõi của đạo Công giáo. Bao lâu còn tình yêu, Giáo Hội còn hiệp nhất và phát triển, khi nào tình yêu suy giảm, Giáo Hội sẽ suy tàn.

Thế thì, tại sao Đức Giêsu không trao quyền thủ lãnh cho một người thông thái, có tài lãnh đạo, mà lại trao cho Phêrô, một Tông đồ nhiều khuyết điểm, bị la mắng nhiều hơn khen thưởng, như vậy, chắc chắn Phêrô có lòng mến Chúa thiết tha lắm.

Và sau ba lần Phêrô xác định tình yêu đối với Thầy, Đức Giêsu bảo “Hãy chăm sóc đàn chiên của Thầy”. Kể từ đó, Phêrô vâng lời Thầy về Giêrusalem, bài giảng đầu tiên hùng hồn đầy sức thuyết phục, đã có 3.000 người xin rửa tội. Rồi Ngài đi đến thành đô Rôma, một cánh đồng truyền giáo bao la, là. Nơi đây, Ngài đối diện với biết bao gian nan, bắt bớ, tù đày, nhưng thánh nhân đã can đảm làm chứng cho Chúa đến cùng. Ngài lấy máu đào để minh chứng cho lòng yêu mến Thầy. Ngài đã viết lên trang sử vàng, vẻ vang cho Giáo Hội sơ khai.

Anh chị em thân mến,

Ngày nay, Giáo Hội được thừa hưởng đức tin do các tông đồ để lại. Các ngài đã can đảm làm chứng cho Chúa bằng cái chết đẫm máu của mình. Như vậy, muốn sống làm chứng cho Tin mừng phục sinh, chúng ta không được an phận, mà phải lên đường, phải ra đi đến những vùng ngoại biên, phải nỗ lực tìm kiếm các linh hồn. Có nghĩa là phải chèo thuyền ra chỗ nước sâu, đôi lúc phải đương đầu với sóng to gió lớn, có khi nguy hiểm đến tính mạng.

Bởi vì Giáo Hội của Chúa chỉ có thể phát triển qua những vất vả, khó khăn, cấm cách trăm bề như các Tông đồ năm xưa, nhưng chúng ta hãy vững tin rằng, Đức Kitô Phục sinh vẫn luôn đồng hành thiêng liêng với chúng ta trên mọi nẻo đường.

Ngày nay, mỗi lần cử hành Thánh lễ, Đức Kitô Phục sinh vẫn tiếp tục dọn cho chúng ta những bữa ăn nơi bàn Tiệc Thánh, một bữa ăn hiệp nhất đong đầy tình yêu thương.

Cử chỉ bẻ bánh và cá nướng trao cho các tông đồ năm xưa, gợi lên cho chúng ta thấy Thánh lễ cũng là một bữa ăn. Ngày nay, Đức Kitô phục sinh vẫn tiếp tục dùng đôi tay linh mục bẻ tấm bánh, là Mình và Máu thánh Ngài trao cho chúng ta. Và phúc cho những ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa.

Chúa Kitô hôm qua, hôm nay và ngày mai vẫn là một. Ngày nay, Ngài vẫn đến với chúng ta qua cử chỉ trao ban ấy.

Xin Đức Kitô mở ánh mắt đức tin, để chúng ta nhận ra dung mạo của Chúa trong mọi biến cố thường ngày. Xin cho chúng ta biết sống quảng đại đối với tha nhân, như Chúa đã từng quảng đại đối với chúng ta. Amen.

CHÚA NHẬT III PHỤC SINH- NĂM C

TÌNH MẸ TRONG TRÁI TIM CHÚA GIÊSU – Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Thánh Gioan tông đồ giới thiệu cho chúng ta biết Thiên Chúa là Tình Yêu và qua bốn sách Tin Mừng, Chúa Giê-su mặc khải cho biết Thiên Chúa là Cha yêu thương. Người dạy chúng ta gọi Thiên Chúa Cha bằng tiếng “Áp-ba” rất thân thương, đó là tiếng bập bẹ của đứa con thơ gọi cha mình.

Tuy nhiên, điều đặc biệt là Thiên Chúa không chỉ yêu thương chúng ta bằng tấm lòng bao la của một người cha mà còn bằng trái tim dịu hiền của một người mẹ nữa. Chính Thiên Chúa đã hé mở cho chúng ta thấy khối tình từ mẫu của Người qua miệng ngôn sứ I-sa-i-a:

“Như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy” (Is 66,13) và sau nầy, qua thánh sử Mát-thêu, Chúa Giê-su phán:

“Giê-ru-sa-lem… đã bao lần Ta muốn tập hợp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập hợp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu.” (Mát-thêu 23,37)

Trích đoạn Tin Mừng của thánh Gioan hôm nay phác họa rõ nét hơn mối tình từ ái của người mẹ được biểu lộ qua tấm lòng của Chúa Giê-su.

Khi biết các môn đệ phải thức thâu đêm chài lưới giữa biển khơi, vừa phải chịu đói lạnh, vừa mệt nhoài, mối tình từ mẫu nơi Chúa Giê-su đã khiến Người dấn bước đến với đàn con để chia sẻ sự nhọc nhằn vất vả của họ, ngay lúc trời vừa hừng sáng.

Sở dĩ Chúa Giê-su đến sớm như vậy vì Người không muốn để cho các môn đệ phải chịu đói lạnh lâu hơn. Như người mẹ hiền, Chúa Giê-su mang đến cho họ sự chăm sóc giúp đỡ ngay khi họ đang cần.

Biết rằng các môn đệ vất vả suốt đêm mà không bắt được con cá nào, Người dạy họ thả lưới đúng nơi để bắt được nhiều cá.

Đối với người đi biển vừa mới lên bờ còn đang đói và lạnh thì không gì sung sướng bằng được thưởng thức ngay những miếng bánh và những con cá nướng còn nóng hổi và thơm ngon. Chính vì thế, khi đến với các môn đệ, ngoài những thực phẩm khô, Chúa Giê-su còn mang theo than để nướng bánh và cá.

Rồi Chúa Giê-su ngồi trên bãi biển như một người mẹ gia đình, nhóm lửa lên, đem cá và bánh nướng trên than hồng cho sẵn, để khi các môn đệ vừa bước lên bờ là có ngay bữa ăn sáng còn đang nóng.

Sau đó, Chúa Giê-su còn gọi các môn đệ mang thêm cá mới bắt được, để Người tiếp tục phục vụ như người mẹ gia đình, tiếp tục nướng những con cá còn tươi rồi trao cho từng đứa con đang đói. Thật đầm ấm như người mẹ hiền giữa đàn con ngoan, dạt dào tình mẫu tử.

***

Sự chăm sóc ân cần mà Chúa Giê-su dành cho các môn đệ hôm xưa, nay cũng được dành cho chúng ta. Hôm nay, Chúa Giê-su vẫn tiếp tục chăm sóc và dọn bữa hằng ngày cho chúng ta.

Nơi bàn tiệc thánh, Chúa Giê-su đem Lời hằng sống của Thiên Chúa để ban tặng chúng ta. Nhờ Lương Thực tuyệt vời nầy, tâm hồn chúng ta được dưỡng nuôi và được dồi dào sức sống. Cũng nơi bàn tiệc yêu thương nầy, Chúa Giê-su phục sinh trao chính thân mình Người làm bánh nuôi dưỡng chúng ta, để chúng ta được hiệp thông nên một với Người, và qua đó, Người thông ban sự sống thần linh của Người cho chúng ta.

Hôm nay, Thiên Chúa còn tiếp tục nhờ Mẹ Maria để trao ban tình từ mẫu của Người cho chúng ta. Như mặt trăng đón nhận ánh sáng mặt trời rồi phản chiếu xuống mặt đất làm cho trái đất được chiếu sáng, thì Mẹ Maria cũng đón nhận tình yêu của Thiên Chúa và trao lại cho chúng ta. Qua Mẹ Maria, Thiên Chúa yêu thương ấp ủ chúng ta bằng một tình mẹ rất dịu dàng, dìu dắt chúng ta như đứa con thơ bé, vượt qua biển đời sóng gió về bến an bình.

Thiên Chúa yêu thương chúng ta bằng tình Cha bao la lẫn tình Mẹ dịu dàng. Ước gì chúng ta cũng biết đền đáp lại mối tình cao cả ấy với tất cả tấm lòng hiếu thảo của một người con ngoan.

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây