GIÁO PHẬN PHAN THIẾT

http://gpphanthiet.com


Thứ Sáu 28/10/202228/10 – Thứ Sáu tuần 30 thường niên – THÁNH SIMON VÀ THÁNH GIUĐA TÔNG ĐỒ. Lễ kính. – Chọn Lựa Của Chúa.

CN XXX TN T2 GIUDA SIMON TONG ĐO

CN XXX TN T2 GIUDA SIMON TONG ĐO

Chọn Lựa Của Chúa.

28/10 – Thứ Sáu tuần 30 thường niên – THÁNH SIMON VÀ THÁNH GIUĐA TÔNG ĐỒ. Lễ kính.

“Người chọn mười hai vị mà Người gọi là tông đồ”.

* Tông đồ Simon có biệt danh là Nhiệt Thành, có lẽ vì người thuộc nhóm cực đoan, chống người Rôma. Người được xếp thứ mười một trong bản danh sách các Tông Đồ.

Còn thánh Giuđa, cũng được gọi là Ta-đê-ô, là người đã hỏi Chúa trong Bữa Ăn Tối: “Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình cho chúng con, mà không tỏ mình cho thế gian?”. Và ông đã nhận được lời Chúa hứa: “Ai yêu mến Thầy, thì Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”.

 

Lời Chúa: Lc 6, 12-19

Trong những ngày ấy Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện, và suốt đêm Người cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Sáng ngày, Người gọi các môn đệ và chọn mười hai vị mà Người gọi là tông đồ: Đó là Simon mà Người đặt tên là Phêrô và em ông là Anrê, Giacôbê và Gioan, Philipphê và Bartôlômêô, Matthêu và Tôma, Giacôbê con ông Alphê và Simon cũng gọi là nhiệt thành, Giuđa con ông Giacôbê và Giuđa Iscariốt, kẻ phản bội.

Người đi xuống với các ông, và dừng lại trên một khoảng đất bằng phẳng, có nhóm đông môn đệ cùng đoàn lũ dân chúng đông đảo từ khắp xứ Giuđêa, Giêrusalem và miền duyên hải Tyrô và Siđôn đến nghe Người giảng và để được chữa lành mọi bệnh tật. Cả những người bị quỷ ô uế hành hạ cũng được chữa khỏi, và tất cả đám đông tìm cách chạm tới Người, vì tự nơi Người phát xuất một sức mạnh chữa lành mọi người.

 

1. Gọi và chọn--Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Theo Tin Mừng Luca, Đức Giêsu thường cầu nguyện vào những thời điểm quan trọng.

Ngài cầu nguyện khi nhận phép rửa của Gioan Tẩy giả (3, 21).

Ngài cầu nguyện một mình trước khi loan báo cuộc khổ nạn (9, 18).

Khi đang cầu nguyện trên núi, Ngài được hiển dung (9, 29).

Khi đứng trước cái chết gần kề, Ngài cầu nguyện trong xao xuyến (22, 41).

Lúc bị treo trên thập giá, Ngài cũng cầu nguyện cho kẻ giết mình (23, 34).

Đức Giêsu suốt đời là con người cầu nguyện.

Cầu nguyện đối với Ngài đơn giản là một cuộc gặp gỡ Cha.

Ngài thích gặp Cha vì Ngài là người con thảo hiếu.

Ngài cần gặp Cha vì Ngài là người được Cha sai, để làm việc Cha giao.

Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy một lần cầu nguyện đặc biệt của Ngài.

Đức Giêsu vẫn thích cầu nguyện trên núi.

Núi cao làm Ngài thấy nhẹ nhàng và gần Cha trên trời hơn.

Tối hôm nay, Ngài muốn dành nhiều giờ để gặp Cha

trước khi đi đến một quyết định quan trọng,

quyết định chọn những môn đệ thân tín nhất mà Ngài gọi là tông đồ,

để đi sát với Ngài hơn và cộng tác với Ngài trong sứ vụ.

Đức Giêsu không chọn theo ý mình.

Ngài muốn gặp Thiên Chúa là Cha của Ngài để hỏi ý (c. 12).

Tìm ý Cha, ngay cả đối với Đức Giêsu, cũng không phải là quá dễ dàng.

Ngài đã thức suốt một đêm để cầu nguyện,

để tìm xem Cha muốn Ngài chọn ai trong số những môn đệ ở đây.

“Những kẻ Cha đã chọn từ giữa thế gian mà ban cho con…

Họ thuộc về Cha, Cha đã ban họ cho con…” (Ga 17, 6).

Đức Giêsu coi các tông đồ là một quà tặng của Cha.

Bởi đó, thật ra Ngài chỉ chọn những người Cha đã chọn,

Ngài chỉ muốn những người Ngài biết Cha muốn (Mc 3, 13).

Khi làm người ở đời, chúng ta cũng phải chọn như Đức Giêsu.

Cuộc đời là một chuỗi những chọn lựa.

Những chọn lựa nhỏ và lớn làm nên cuộc đời.

Chúng ta có thể chọn dựa trên ý thích hay phán đoán riêng của mình.

Nhưng chúng ta cũng có thể chọn dựa trên ý Đấng Tạo Hóa.

Điều này đòi chúng ta phải ra khỏi mình, không coi mình là trung tâm.

Thánh Inhaxiô mời người làm linh thao

“không ước muốn sức khỏe hơn bệnh tật, giàu sang hơn nghèo khổ,

danh vọng hơn nhục nhã, sống lâu hơn chết yểu,

và tương tự như thế đối với mọi sự khác.”

Khi có thái độ siêu thoát như trên, ta mới có thể chọn điều Chúa muốn.

Sau một đêm cầu nguyện, đến sáng Đức Giêsu mới quyết định.

Ngài gọi và chọn nhóm Mười Hai tông đồ theo ý Cha.

Chúng ta cũng được gọi và chọn, dù là giáo dân hay tu sĩ.

Chúng ta cũng rất khác nhau như mười hai khuôn mặt các vị tông đồ.

Chỉ mong chúng ta đừng dùng tự do mình để trở nên kẻ phản bội.

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa, chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon,

một người đánh cá ít học và đã lập gia đình,

để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.

Chúa xây dựng Giáo Hội trên một tảng đá mong manh,

để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.

Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con theo Chúa, sống cho Chúa,

đặt Chúa lên trên mọi sự: gia đình, sự nghiệp, người yêu.

Chúng con chẳng thể nào từ chốiviện cớ mình kém đức kém tài.

Chúa đưa chúng con đi xa hơn,

đến những nơi bất ngờ, vì Chúa cần chúng con ở đó.

Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon,

bỏ mái nhà êm ấm để lên đường,

hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.

 

2. Người chọn mười hai vị--TGM Giuse Nguyễn Năng

Sứ điệp: Các tông đồ là những người được Chúa tuyển chọn. Chúa tự do chọn lựa cả những người bình thường, và Ngài cũng để con người tự do đáp trả.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, hôm nay chúng con mừng kính hai thánh tông đồ Simon và Giuđa. Cuộc sống chứng nhân của các Ngài đáng ngưỡng mộ và là những tấm gương sáng cho mỗi tín hữu chúng con. Trong danh sách mười hai tông đồ, con thấy có người chối Chúa, có kẻ bán Chúa. Điều này chứng tỏ Chúa không chỉ chọn lựa những người đã hoàn toàn thánh, nhưng Chúa chọn lựa là để mời gọi các Ngài trở nên thánh thiện.

Các Ngài được gần gũi Chúa, lắng nghe Chúa dạy bảo, được cùng Chúa đi khắp các xóm làng, lên núi cao, vào nơi thanh vắng, bên bờ hồ, bên bờ giếng, rao giảng Nước Trời và chữa lành bệnh tật. Các Ngài được sống bên Chúa, gần kề với sự thánh thiện và kết hợp với Chúa, để được Chúa biến đổi nên thánh thiện hơn.

Lạy Chúa, hôm nay con cũng được diễm phúc nghe Chúa dạy bảo, được Lời Chúa uốn nắn, và con cũng mong muốn được hiến dâng lên Chúa thiện chí tông đồ của con. Con muốn được qui tụ bên Chúa, lắng nghe Chúa nói, được tình yêu và ơn thánh Chúa biến đổi, để cùng Chúa dấn thân giữa đời. Con tin rằng Chúa vẫn ở bên con, nâng đỡ con và thánh hoá con.

Lạy Chúa, lời mời gọi của Chúa vẫn vang vọng trong tâm hồn con, con muốn trở thành một tông đồ như thánh Simon và Giuđa, chứ nhất định không là một Giuđa phản Chúa. Xin Chúa chúc phúc cho những ước nguyện chân thành của con. Amen.

Ghi nhớ: “Người chọn mười hai vị mà Người gọi là tông đồ”.

 

3. Người chọn lấy mười hai ông--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

A. Hạt giống...

Sau một thời gian thi hành sứ vụ, Chúa Giêsu đã được nhiều người biết đến, trong số đó có kẻ ngưỡng mộ, có kẻ nghịch thù. Chung quanh Ngài cũng có nhiều môn đệ (5,30.33 6,1). Bây giờ đến lúc Ngài tuyển chọn một nhóm nồng cốt sẽ lãnh trách nhiệm phổ biến lời Ngài.

Một số chi tiết đáng lưu ý:

- Trước khi tuyển chọn, Chúa Giêsu ”cầu nguyện”: Chúa Giêsu trong Lc là một người thường xuyên cầu nguyện (Lc 5,16 6,12 9,18.28.29 10,21 11,1 22.32.40-46 23,34.46). Trong những lúc quan trọng, Ngài cầu nguyện tha thiết hơn nữa (Lc 3,21 9,28-29 22,41). Lần này Ngài cầu nguyện ”suốt đêm”, chứng tỏ việc Ngài sắp làm (tuyển chọn 12 môn đệ làm tông đồ) là hết sức quan trọng, quan trọng đối với sứ vụ của Ngài mà cũng quan trọng đối với toàn thể lịch sử cứu độ.

- Con số 12 là con số các chi tộc Israel bị tản lạc khắp nơi sau biến cố lưu đày. Vậy khi Chúa Giêsu chọn con số 12, ý Ngài muốn cho biết là đã đến lúc Ngài quy tụ một dân Israel mới.

- Trong số 12 tông đồ, có vài vị nổi bật:

“Simon mà Ngài gọi là Phêrô”: trong Thánh Kinh, ai đặt tên mới cho một người nào thì có quyền hành trên người đó (2 V 23,34 24,17); người đặt tên cũng xác định một định mệnh mới cho kẻ mang tên mới.

Bộ ba Phêrô, Giacôbê và Gioan lại là một nhóm nhỏ đặc biệt hơn nữa trong nhóm lớn 12 (Lc 8,51 9,28). Họ sẽ đóng những vai trò quan trọng trong quyển Công vụ.

- Sau khi đã tuyển chọn nhóm 12, Chúa Giêsu cùng họ xuống núi và đến một cánh đồng. Dân chúng rất đông từ khắp nơi tuôn đến để nghe Ngài giảng và để được Ngài chữa bệnh.

B....nẩy mầm

1. Trước khi chọn 12 tông đồ, Chúa Giêsu đã cầu nguyện suốt đêm: Dù là con Thiên Chúa, Chúa Giêsu vẫn cảm thấy cần cầu nguyện thường xuyên, nhất là trước những việc khó khăn, quan trọng. Ngài cũng khuyên môn đệ: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa cám dỗ”. Phêrô đã sa cám dỗ chối Thầy vì trước đó trong vườn Cây Dầu, ông đã ngủ thay vì cầu nguyện. Giuđa, sau bữa Tiệc Ly, đã bỏ ra ngoài đang khi Chúa Giêsu và các tông đồ khác cầu nguyện. Cho nên Giuđa đã sa ngã nặng nề.

- Ta hãy noi gương Ngài thường xuyên cầu nguyện, nhất là trước mỗi khi làm một việc quan trọng.

2. Mặc dù Chúa Giêsu đã cân nhắc và cầu nguyện nhiều trước khi lựa chọn, nhưng vẫn có một người là Giuđa sau này phản bội Ngài. Khi ơn Chúa không được con người hợp tác thì cũng bị thất bại.

- Ta hãy cầu nguyện cho ơn gọi của chính mình. Xin cho con hợp tác với ơn Chúa, để ơn gọi con ngày càng triển nở tốt đẹp.

- Ta hãy cầu nguyện đặc biệt cho Đức Giáo Hoàng và các Đức Giám mục là những người ngày nay đang kế thừa nhiệm vụ của các tông đồ.

3. Lịch sử ơn cứu rỗi đã khởi đầu và tiếp diễn bằng những cuộc tuyển chọn… Tất cả những sự chọn lựa của Thiên Chúa đều bất ngờ, vượt lên trên những tiêu chuẩn chọn lựa thông thường của con người… Từ một hai người thất học, Chúa Giêsu đã xây dựng Giáo Hội của Ngài. Nến tảng của Giáo Hội không phải là sức riêng của con người mà là sức mạnh của Đấng đã hứa “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”… về việc Chúa Giêsu tuyển chọn 12 tông đồ của Ngài, chúng ta được mời gọi nhận ra thân phận yếu đuối bất toàn của chúng ta, đồng thời nói lên niềm tín thác tuyệt đối và tình yêu của Ngài (“Mỗi ngày một tin vui”).

4. Một thanh niên thời đại mới lên một chiếc đò của một ông cụ già. Hai mái chèo của chiếc đò này rất đặc biệt: một mái có ghi chữ “Pray” (cầu nguyện), mái kia ghi chữ “Work” (làm việc). Chàng thanh niên mỉa mai: “Ông ơi, ông lỗi thời quá rồi. Khi người ta đã làm việc thì sẽ có đủ mọi thứ, cần chi đến cầu nguyện nữa?”. Cụ già chẳng nói chẳng rằng, lẳng lặng buông bỏ mái chèo “cầu nguyện”, chỉ còn chèo mái “làm việc” thôi. Kết quả là con đò cứ xoay vòng vòng, chẳng tiến được chút nào (Đức Cha Tihamer Toth).

5. Một cha xứ nọ muốn dạy trẻ nhỏ một cách dễ hiểu về sự cầu nguyện. Cha có sáng kiến dùng một chiếc máy diện thoại: - Chúng con biết chiếc máy điện thoại rồi chứ. Khi ta nói chuyện với ai bằng điện thoại, mặc dù ta không thấy mặt người đó nhưng ta vẫn tiếp xúc được với người đó. Cũng thế, dù chúng con không thấy Chúa nhưng chúng con vẫn tiếp xúc được với Ngài nhờ cầu nguyện. Đúng không?

Tất cả đều thưa đúng.

Nhưng một đứa đưa tay hỏi: Thế số điện thoại của Chúa là số nào? (Arthur Tonne).

Ta hãy thay cha xứ trả lời cho câu hỏi trên.

6. Một triết gia kia buồn vì người học trò xuất sắc của mình ngày càng ham suy tư hơn nhưng càng bớt cầu nguyện đi. Khi ông hỏi lý do thì người học trò đáp:

- Thứ nhất, Chúa biết hết mọi sự, không cần chúng ta nói. Thứ hai Chúa tốt lành vô cùng, Ngài sẽ cho chúng ta mọi thứ chúng ta cần. Thứ ba Ngài là Đấng vĩnh cửu, lời cầu nguyện của chúng ta chẳng thay đổi Ngài gì cả.

Triết gia không nói gì. Ông đến ngồi dưới bóng cây, mặt buồn bã. Người học trò hỏi:

- Tại sao Thầy buồn thế?

- Người bạn của Thầy có một thửa ruộng rất tốt, hằng năm sản xuất rất nhiều hoa màu. Nhưng bây giờ ông ta bỏ mặc không chăm sóc gì cho nó nữa.

- Bộ ông ta khùng ư?

- Không đâu. Ông còn khôn nữa là đàng khác. Ông nói: Chúa yêu thương vô cùng. Ngài sẽ lo cho tôi mọi thứ cần để sống nên chẳng cần làm ruộng nữa. Chúa quyền phép vô cùng, dù tôi không cày xới, Ngài vẫn thừa sức cho nó sinh sản hoa màu.

- Như thế nghĩa là thử thách Chúa rồi còn gì nữa?

- Thì con cũng thế thôi. (Đức Cha Tihamer Toth).

7. Đoàn lũ dân chúng từ khắp miền Giuđê, Giêrusalem cũng như miền duyên hải Tia và Xiđôn đến để nghe Ngài giảng và để được chữa lành tật bệnh” (Lc 6,17-18)

Cả 4 chúng tôi đã tham gia chiến dịch “ánh sáng văn hóa hè” tại vùng biên giới thuộc tỉnh Tây Ninh. Chúa nhựt tuần đầu tiên, chúng tôi phải hỏi thăm hết một giờ rưỡi mới tới được nhà thờ. Chỗ chúng tôi ở chỉ có một vài gia đình công giáo và hầu hết thỉnh thoảng mới đi lễ vì nhà thờ quá xa. Mà xa thật, mưa thì lầy lội, còn nắng thì bụi mù.

Trên đường đi, chúng tôi cứ nghĩ là nhà thờ chắc không đông. Nhưng đến nơi, chúng tôi thấy cả một nhà thờ đông đúc. Nhà thờ không rộng, cũng chưa có cha xứ. Cha thì từ nơi khác về dâng lễ, còn giáo dân thì đến từ nhiều nơi khác nhau.

Chúng tôi còn được biết ở đây chỉ có một lễ vào sáng Chúa nhựt nên nhiều gia đình phải thay phiên nhau đi lễ hàng tuần. Họ ước ao có cha xứ để được dự lễ thường xuyên hơn. Ra về, ai nấy trong chúng tôi đều cảm thấy như được thúc bách đến gần Chúa hơn, hạnh phúc dù có phải đi xa và mệt nhọc.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết tìm kiếm Chúa trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. (Hosanna)

 

4. Thánh Simon và thánh Giuđa tông đồ, lễ kính--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Mátthêu ghi lại việc Chúa Giêsu tuyển chọn 12 Tông đồ và sai các ông đi loan báo Nước trời đã gần đến. Sứ mệnh này không phải chỉ dành riêng cho các Tông đồ hoặc những người có trách nhiệm mà cả chúng ta nữa, những người Kitô hữu, mỗi người một cách, phải loan báo về Chúa Giêsu và kêu mời mọi người vào trong Giáo hội, vào trong tình yêu của Chúa.

Theo truyền thống, bất cứ một bậc thầy nào cũng cần có các môn sinh, môn đệ để tiếp tục lý tưởng và sự nghiệp của mình. Các bậc hiền nhân trong lịch sử và các tiên tri trong Cựu ước có các môn đệ, thánh Gioan Tiền Hô cũng có nhiều môn đệ. Chúa Giêsu cũng vậy, trong ba năm giảng dạy, Chúa đã kêu gọi nhiều môn đệ, trong số đó Chúa chọn 12 người làm Tông đồ, để tiếp tục sự nghiệp cứu rỗi nhân loại mà Ngài đã khởi đầu.

Chúa gọi và chọn chứ họ không tự mình được chọn hoặc tự ứng cử, nghĩa là Chúa ở một vị trí cao hơn, Chúa là trung tâm chứ không phải họ được quyền lấy mình làm chuẩn; như thế, điều kiện đầu tiên để trở thành Tông đồ là được Chúa chọn. Các môn đệ ở lại với Người, nghĩa là họ phải được tách ra khỏi đám đông và đến; như thế, điều kiện thứ hai là khi được gọi họ phải được tách riêng ra, nghĩa là phải có sự thay đổi đời sống nên tốt hơn.

Có lẽ chẳng ai trong chúng ta xa lạ với xuất xứ của các Tông đồ: đa số họ là những ngư phủ nghèo nàn, thất học. Họ được chọn từ đám đông giai cấp lao động, trong số họ cũng có hai khuôn mặt tiêu biểu cho sự tranh chấp của xã hội Do thái lúc đó: Mátthêu người thu thuế và Simon nhiệt thành. Nhóm Nhiệt thành cương quyết chống ngoại xâm, sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ lề luật, còn đám thu thuế thì lại chạy theo ngoại bang, hợp tác với những kẻ đang thống trị xứ sở để trục lợi.

Có thể nói, những người mà Chúa Giêsu chọn lựa tiêu biểu cho sự thấp kém trong xã hội Do thái. Chúa Giêsu biết rõ điều đó, nhưng Ngài vẫn tuyển chọn, vì đường lối Thiên Chúa khác với đường lối con người. Điều Ngài cần nơi họ không phải là cái đang là, mà là cái sẽ là. Họ tầm thường khiếm khuyết, nhưng với ơn Chúa, họ sẽ làm nên được những việc phi thường (Mỗi ngày một tin vui).

Chúng ta thấy: mười hai Tông đồ yếu kém về mọi mặt, thế mà đã thay đổi được cả một đế quốc Rôma và cả thế giới sau này nữa. Quả thật, khi Chúa còn sống bên cạnh, các ông còn quê mùa, hay sợ sệt, tham vọng tầm thường, và khi Chúa chết, các ông bỏ trốn vì sợ liên luỵ. Thế mà sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, các ông can đảm, khôn ngoan, đấu lý với hết mọi bậc người, ra tù vào khám vì danh Chúa, và các ông đã xây dựng nước Chúa ngay tại nơi đế quốc đã từng tiêu diệt Thầy mình và cả các ông nữa.

Tại sao họ yếu kém như thế mà dám đương đầu với những thế lực kình địch và biến đổi được cả thế giới như vậy? Thưa, họ đã trở thành những dụng cụ hữu hiệu trong bàn tay Thiên Chúa toàn năng, Ngài làm được mọi sự Ngài muốn. Còn các Tông đồ thì có một đức tin vững mạnh, nếu các ông không tin vào quyền năng Thiên Chúa đã lựa chọn các ông, ở với các ông, hỗ trợ các ông, chắc chắn các ông không bao giờ dám nhận một công việc to lớn và nặng nề như thế.

Chúa cũng sai chúng ta đi vào đời đem Tin mừng của Chúa đến cho mọi người như Chúa đã sai các Tông đồ ngày xưa, đấy là vinh dự và bổn phận của các Kitô hữu.

Nếu công đồng Vatican II khẳng định: “Bản tính của Hội thánh là truyền giáo” thì mọi Kitô hữu cũng chính là những sứ giả Tin mừng, cũng có trách nhiệm như Hội thánh. Những lời Chúa Giêsu nói với các Tông đồ ngày xưa vẫn còn vang vọng nơi chúng ta, vẫn còn có tính cách thời sự của nó. Chúa muốn chúng ta đi vào cánh đồng truyền giáo rộng rãi bao la bát ngát để đem nhiều người về với Chúa. Cảm xúc của Chúa Giêsu đứng trước cánh đồng lúa chín vàng ối “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”, cũng phải là cảm xúc của chúng ta đứng trước tình hình thế giới hiện nay: chúng ta hãy xin Chúa sai nhiều sứ giả Tin mừng đến cánh đồng truyền giáo, đồng thời chúng ta cũng có thể góp phần vào công việc loan báo Tin mừng bằng chính “cuộc sống chứng tá” của chúng ta.

Truyện: Chúa chọn họ làm Tông đồ

Có một tác giả đã tưởng tượng ra việc Chúa chọn các Tông đồ như sau: Sau những đêm dài cầu nguyện, Ngài rảo bước khắp nơi nhưng không chọn được người nào. Ngài đành đăng quảng cáo, nhưng trong số những người đến trình diện, Ngài không chọn được một ai.

Ngài đành tổ chức thế vận hội. Môn đầu tiên là cầu nguyện: nhiều người biểu diễn cầu nguyện rất hay, nhưng Chúa không chọn được ai cả. Môn thứ hai là thờ phượng, cũng thế. Môn thứ ba là giảng thuyết, cũng thế.

Chán nản vì mất thời gian vô ích, Chúa Giêsu rời vận động trường để ra bờ biển hóng gió và ở đây Ngài thấy đám dân chài. Ngài đứng quan sát và nhận ra có một số người để hết tâm hết lực vào công việc họ đang làm. Ngài nghĩ thầm trong lòng, họ là những người có quả tim. Và thế là Ngài chọn họ làm Tông đồ của Ngài (Chờ đợi Chúa).

 

5. Người chọn mười hai ông--Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ

Câu chuyện

 Samuel đang ngủ trong đền thờ Đức Chúa, nơi đặt Hòm Bia Thiên Chúa. Đức Chúa gọi Samuel. Cậu thưa: “Dạ con đây!”, rồi chạy lại với Thầy Êli và thưa: “Dạ, con đây, thầy gọi con”. Ông bảo: “Thầy không gọi con đâu. Con về ngủ đi”. Cậu bèn đi ngủ. Đức Chúa lại gọi Samuel lần nữa. Samuel dậy, đến với ông Êli và thưa: “Dạ, con đây, thầy gọi con”…

Được sự hướng dẫn của thầy Êli, Samuel nhận ra tiếng Chúa và đáp trả: “Xin Chúa hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe”. Đức Chúa ở với cậu, và cậu không để một lời nào của Chúa ra vô hiệu (x. 1Sm 3,10.19). Samuel đã biến đổi nhờ Lời Chúa, đã trở thành vị ngôn sứ vĩ đại trong lịch sử Israel…

Suy niệm

Thầy Giêsu gọi và chọn mười hai môn đệ không chỉ là những người học trò nhỏ lắng nghe lời Thầy nhưng trở nên người bạn hữu với Thầy (x. Ga 15), người bạn hữu tiếp tục sứ mạng của Ngài khi mang nhiều hoa trái (x. Ga 15) trong sứ vụ đem Tin Mừng cho nhân gian, đó là sứ vụ đem ánh sáng cứu độ mà Chúa Kitô được ủy thác khi Ngài đến thế gian.

Ngài gọi các môn đệ “Các anh hãy theo Thầy” (Mt 4,19) một lời mời gọi lên đường. Hãy gắn bó với Thầy và chia sẻ thao thức của Thầy: Lên đường cùng Thầy chung tay gánh vác sứ vụ mang ánh sáng tình yêu cứu độ.

Người môn đệ theo Chúa bỏ lại cái an toàn êm ấm bên gia đình, bên vợ con như Phêrô, êm ấm bên nghề nghiệp trong khoang thuyền, cạnh người cha đang vá lưới như trường hợp của Giacôbê và Gioan, chấp nhận ra khơi, bóc mình ra khỏi khung cảnh sống quen thuộc. Chấp nhận bấp bênh, không nhà cửa, không nghề nghiệp, để có thể đi đến mọi nhà, gặp mọi người, trong sự tận tụy chu toàn sứ mệnh loan báo nước Thiên Chúa.

Trong cuộc sống hằng ngày, Thiên Chúa vẫn gọi tôi và bạn trở nên môn đệ, bạn hữu trong bất cứ vị trí nào của cuộc sống: Người linh mục, tu sĩ, làm người môn đệ qua ơn gọi thánh hiến cuộc sống cho sứ mạng, là bạn hữu và là người môn đệ đem ánh sáng Tin Mừng cho anh chị em. Người tín hữu Chúa Kitô trong bí tích Thanh Tẩy, chúng ta được trao một ngọn nến cháy sáng, ánh sáng đó trong thời gian trở nên sáng rực trong tinh thần nghe tiếng gọi và từ bỏ bước theo…

Ý lực sống

“Người gọi các ông, lập tức các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người” (Mt 4,22).

 

6. Thánh Simon và Thánh Giuđa, Tông Đồ--tgpsaigon.net

Thánh Simon

Tân ước ngoài việc đặt thánh Simon vào danh sách nhóm 12, đã không cung ứng một chỉ dẫn trực tiếp nào liên quan đến vị tông đồ này. Ngài được phân biệt với Simon Phêrô bằng danh hiệu “nhiệt thành” (Lc 6,15; Cv 1,13), một danh hiệu không có ý nói rằng: Ngài là phần tử thuộc nhóm quá khích Do Thái mang tên này, nhưng chỉ cho biết nhiệt tâm của Ngài đối với lề luật. Theo tiếng Aram, nhiệt thành là “Cana”. Điều này giải thích tại sao các thánh sử nhất lãm gọi Ngài là người xứ Cana (Mt 10,4; Mc 3,18). Có người cho rằng sinh quán của người là Galilêa. Một truyền thống còn nói thánh Simon là chàng rể phụ trong tiệc cưới tại Cana (Ga 2,1-12). Sách các thánh tử đạo kể rằng Simon sau khi chứng kiến phép lạ của Chúa Kitô, đã “bỏ rượu”, bỏ lễ cưới để theo Chúa Kitô và được liệt vào số các tông đồ. Thực sự, chẳng có chứng cớ lịch sử nào nói tới việc này.

Cũng như thánh Giacôbê Hậu, có lẽ thánh Simon là một trong các “anh em của Chúa” (Mc 6,3). Nhưng người ta không thể đồng hóa thánh tông đồ với thánh Simon mà theo truyền thống là Đấng kế vị anh mình làm Giám mục Giêrusalem.

Chúng ta không thu lượm được chi nhiều về hoạt động và cái chết của vị tông đồ. Có những tường thuật cho rằng: Ngài đi truyền giáo ở Phi Châu và các đảo Britania.

Những tường thuật này không có nền tảng. Một truyền thống khác cho rằng Ngài đi truyền giáo ở Ai Cập và cuối cùng ở Ba Tư. Truyền thống này đáng tin hơn. Nhiều nguồn tài liệu đồng ý cho rằng Ngài chịu tử đạo ở Ba Tư. Một số ít hơn nói rằng Ngài cùng chịu tử đạo với thánh Giuđa. Dầu vậy, vì không có tài liệu nào đủ tính cách cổ kính nên khó nói rõ về nơi chốn và hoàn cảnh thánh nhân qua đời.

Thánh Giuđa

Vị tông đồ này mang nhiều tên khác nhau như Tađêô (Mt 10,3; Mc 3,18) hay Giuđa (Lc 6,16; Cv 1,13).

Chính Ngài là vị tông đồ trong cuộc đàm luận sau bữa tiệc ly đã hỏi Chúa Giêsu:

 “Thưa Thầy, tại sao Thầy tỏ mình ra cho chúng con mà không cho thế gian?”

Chúng ta có thể đồng hóa Ngài với tác giả bức thư, trong đó có trình bày Ngài là: “Giuđa, nô lệ của Đức Giêsu Kitô, anh em với Giacôbê” (Gl 1) không? Thực sự tiếng Hy Lạp phải đọc câu văn này như ở Lc 6,16 là: “Giuđa, con của Giacôbê”. Hơn nữa câu 17 của bức thư, tác giả như tách mình ra khỏi số 12. Dĩ nhiên, điều này không làm giảm giá sự chính lục của bức thư. Có thể nói, tác giả “anh em với Chúa” (Mc 6,3) không phải là tông đồ nhưng có thể giá trong Giáo Hội sơ khai như Giacôbê (Cv 15,13).

Thánh Giuđa tông đồ, theo truyền thống, đã đi rao giảng Tin Mừng ở Mesopotamin và chịu tử đạo ở đó. Một thời Ngài được tôn kính như đấng bảo trợ cho các trường hợp “vô vọng”. Lòng sùng kính này bị quên lãng, có lẽ vì Ngài trùng tên với Giuđa phản bội.

 

7. Người chọn lấy mười hai ông--Lm. Giuse Đinh Tất Quý

1. Đôi hàng lịch sử.

Hôm nay Giáo Hội cho chúng ta mừng kính hai thánh Simon và Giuđa Tông Đồ. Chúng ta không có được những tài liệu lịch sử chính xác khách quan về các ngài. Việc các ngài được mừng kính cùng một ngày là vì có sự trùng hợp giữa các ngài về cuộc đời truyền giáo cũng như khi tuyên xưng đức tin.

Thánh Simon được gọi là Simon người Cana, hay Simon Nhiệt Thành có họ hàng với Chúa Giêsu.

Thánh Giuđa, có biệt danh là Tađêô, con của Giacôbê, là cháu của Đức Mẹ và thánh cả Giuse, và là bà con của Đức Giêsu. Ngài là anh của thánh tông đồ Giacôbê hậu. Cha của ngài là ông Clêôpha, và mẹ của ngài cũng có tên là Maria. Bà này đã đứng dưới chân thập giá Chúa Giêsu lúc Chúa chịu chết, rồi sau đó đã ra mồ để xức xác Chúa bằng dầu thơm.

Theo Thánh Truyền thì hai ngài đi giảng Tin Mừng ở hai nơi khác nhau. Thánh Simon giảng tại Ai Cập, còn thánh Giuđa tại Mésopotamia. Sau khi đã thu lượm được nhiều kết quả tốt đẹp, thì hai ngài như được ơn Chúa thôi thúc để cùng nhau đi sang Ba Tư. Chính tại nơi đây, hai ngài đã đem Tin Mừng tới và cũng chính tại nơi đây mà các ngài được diễm phúc lãnh nhận cái chết để tôn vinh Ðức Kitô như các anh em tông đồ khác.

Truyền thuyết kể lại khi đến thành Suamyr một trung tâm lớn của Ba Tư, hai thánh tông đồ Giuđa và Simon đã đến trọ nơi nhà ông Semme, đồ đệ của các ngài. Ngay sáng sớm hôm sau, các tư tế ngoại giáo của thành phố, bị thấm nhiễm độc dược của Zaroes và Arfexat, đã hô hào dân chúng đến bao vây nhà ông Semme. Họ gào thét:

- Hỡi ông Semme, hãy giao nộp hai kẻ thù các thần linh cho chúng tôi. Nếu không, chúng tôi sẽ đốt cháy nhà ông!

Nghe lời dọa nạt độc dữ ấy, hai Thánh Tông Đồ Giuđa và Simon đã quyết định tự nộp mình. Họ buộc các ngài phải thờ lạy các thần linh ngoại giáo. Dĩ nhiên các ngài từ chối. Họ tàn nhẫn đánh đập các ngài. Giữa máu đào, trong giây phút linh thiêng cuối đời, Thánh Giuđa còn lấy chút nghị lực cuối cùng, nhìn thẳng vào thánh Simon và nói:

- Hiền huynh dấu ái, tôi trông thấy Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Ngài gọi chúng ta về với Ngài!

2. Bài học

Bài Tin Mừng được Giáo Hội chọn đọc trong thánh lễ hôm nay nói về việc Chúa tuyển chọn những người để cộng tác với Chúa mà Ngài đặt tên cho họ là “Tông Đồ”, chúng ta thấy:

* Trước khi chọn, Chúa đã cầu nguyện

Theo Tin Mừng Luca, Đức Giêsu thường cầu nguyện vào những thời điểm quan trọng. Ngài cầu nguyện khi nhận phép rửa của Gioan Tẩy giả (Lc 3,21). Ngài cầu nguyện một mình trước khi loan báo cuộc khổ nạn (Lc 9,18). Ngài cầu nguyện khi ở trên núi, trước khi Ngài được hiển dung (Lc 9,29). Ngài cầu nguyện trong xao xuyến khi đứng trước cái chết gần kề (Lc 22,41). Lúc bị treo trên thập giá, Ngài cũng cầu nguyện cho kẻ giết mình (Lc 23,34).

Cầu nguyện đối với Chúa đơn giản là một cuộc gặp gỡ Cha. Ngài muốn gặp Thiên Chúa là Cha của Ngài để hỏi ý. Việc tìm ý Chúa Cha, không phải lúc nào cũng là việc dễ dàng. Chính vì thế mà có những lần Chúa đã phải thức thâu đêm để cầu nguyện, để tìm xem ý Cha muốn gì. Thí dụ hôm nay Chúa cầu nguyện để xem Chúa Cha muốn chọn ai trong số những môn đệ ở đây để họ trở thành những người mà Ngài gọi là tông đồ.

“Những kẻ Cha đã chọn từ giữa thế gian mà ban cho con… Họ thuộc về Cha, Cha đã ban họ cho con…” (Ga 17, 6)

Sau một đêm cầu nguyện, đến sáng Đức Giêsu mới quyết định. Ngài gọi và chọn nhóm Mười Hai tông đồ theo ý Cha.

* Tiêu chuẩn để được Chúa chọn là tông đồ

Ðọc lại tiểu sử của các thánh, chúng ta thấy khi chọn gọi ai, Chúa không dựa trên những tiêu chuẩn của người đời. Người đời khi tuyển chọn ai thì thường người ta phải dựa trên những tiêu chuẩn như thế giá, học thức, địa vị xã hội, trải nghiệm vễ cuộc sống vv.

Còn Chúa thì Ngài hoàn toàn khác. Nhìn vào danh sách những người được tuyển chọn làm tông đồ hôm nay, chúng ta thấy họ chỉ là những con người bình thường. Bình thường chứ không tầm thường như nhiều người nghĩ. Họ không phải là những người xuất chúng, giàu có, có học thức, có chỗ đứng cao trong xã hội. Chúa Giêsu lựa chọn họ không phải vì họ xuất chúng. Dĩ nhiên là Chúa có sự khôn ngoan của Ngài. Khi chọn những người như thế, hẳn Chúa đã nhìn thấy ở nơi họ những phẩm chất cần cho một người được trao cho một nhiệm vụ phải hoàn thành.

* Chúa gọi họ là tông đồ nghĩa là những người được sai đi

Đây là những lời rất cảm động của Chúa Giêsu:

Người lại nói với các ông: ”Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (Ga 20,21).

Người gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một (Mc 6,7).

Thật, Thầy bảo thật anh em: tôi tớ không lớn hơn chủ nhà, kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi (Ga 13,16).

Này, Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói. Vậy anh em phải khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu (Mt 11,16).

Rồi Người nói với các ông: ”Khi Thầy sai anh em ra đi, không túi tiền, không bao bị, không giày dép, anh em có thiếu thốn gì không?” Các ông đáp: “Thưa không” (Lc 22,35).

Như vậy công việc của các tông đồ là tiếp nối công việc của chính Chúa Giêsu, tiếp nối mãi cho đến ngày tận thế.

Bao lâu còn con người trên trần thế thì bấy lâu Chúa còn sai các sứ giả tức là các tông đồ của Ngài đến với con người.

Đây là một câu chuyện tưởng tượng nhưng nó cũng có một ý nghĩa của nó:

Khi Đức Giêsu hoàn tất sứ mạng dưới thế, người trở về trời và được thiên thần Gabriel đón tiếp. Gặp Chúa, thiên thần lên tiếng hỏi ngay:

- Xin Chúa cho biết công trình của Chúa sẽ được tiếp tục như thế nào ở dưới thế?

- Ta đã chọn mười hai tông đồ, một nhóm môn đệ và một vài người phụ nữ - Chúa đáp -. Ta đã giao cho họ sứ mạng rao giảng Tin Mừng đến tận cùng trái đất.

Nghe Chúa trả lời như thế, thiên thần Gabriel hình như chưa hoàn toàn thoả mãn nên hỏi tiếp: - Nhưng nếu số môn đệ ít ỏi đó thất bại thì Chúa có dự tính chương trình nào khác không?

Chúa Giêsu mỉm cười và dường như muốn biểu đồng tình là thiên thần Gabriel đã có lý khi nghi ngờ, tuy nhiên người vẫn quả quyết:

- Ta không dự tính một chương trình nào khác cả, ta tin vào họ!

Vâng mỗi người chúng ta hãy cố gắng để trở nên tông đồ của Chúa. Amen.

 

8. Thánh Simon và Thánh Giuđa--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Ðọc lại tiểu sử của các Vị Thánh, có thể mọi người sẽ cảm thấy thật bất ngờ vì Chúa chọn các Ngài vượt trên những tiêu chuẩn của người đời, vượt trên những suy nghĩ của con người. Môsê trong Cựu Ước là một con người ăn nói ngọng nghịu, không trôi chảy, không lưu loát. Ðavít, cậu bé có mái tóc hoe hoe vàng, thua sút anh em. Nhiều ngôn sứ cũng ấp a ấp úng khi được Thiên Chúa chọn lựa. Mười hai tông đồ trong Tân Ước cũng thế. Chúa Giêsu lựa chọn họ không phải vì họ xuất chúng. Ngài chọn lựa họ thật bất ngờ.

Thánh Simon Tông Ðồ

Hai Ðấng thánh này cũng đã được Chúa tuyển chọn sau nhiều giờ cầu nguyện, sau những phút giây Chúa Giêsu hỏi ý Thiên Chúa Cha. Việc cầu nguyện để nói lên tính cách quan trọng của sự chọn lựa. Vì không có Chúa, con người chả là gì cả, con người chỉ là không không. Ðiều nay đã cho nhân loại hiểu: Phêrô, vị lãnh đạo Giáo Hội cảm thấy sức mình quá yếu đuối khi chối Chúa ba lần dù rằng trước đó ông cương quyết yêu mến Chúa. Các môn đệ, thân tín của Chúa, nhưng đã sớm ca bài tẩu thoát khi Thầy mình gặp khốn khổ trong cuộc thương khó đi về núi Sọ. Giuđa đã hoàn toàn thất vọng khi cậy vào quyền lực và sức riêng của con người. Quả thực không có Chúa, con người không làm được gì cả. Thánh Simon sinh tại Cana, còn được gọi là Simon nhiệt thành. Thánh Giuđa, có biệt danh là Tađêô, con của Giacôbê, anh em với Chúa Giêsu. Thánh Simon đi rao giảng Tin Mừng tại Ai Cập, thánh Giuđa tại Mésopotamia. Hai thánh tông đồ đã gặt hái được rất nhiều kết quả trong việc rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa, đã đem được nhiều người quay trở về với Chúa Giêsu, với Giáo Hội. Ðược thúc đẩy bởi Chúa Thánh Thần, với lòng nhiệt tình truyền giáo, thánh Simon và thánh Giuđa đã ra đi loan báo Tin Mừng tại Ba Tư. Tại xứ sở Ba Tư, vì ghen ghét các Ngài, các Ngài đã như mọi tông đồ khác được phúc tử vì đạo để làm chứng cho Chúa Kitô.

Thánh Giuđa Tông Ðồ

Theo Thánh Truyền, thánh Giuđa đã cương quyết chống lại những nhà thông thái, trí thức chống báng Tin Mừng của Chúa Kitô. Ngài không hề sợ đau khổ, không hề sợ chết, với ơn Chúa ban, Ngài đã chiến thắng các người trí thức luôn khích bác Tin Mừng và Giáo Hội Chúa Kitô. Thánh Si-mon luôn trung thành với Giáo lý chân chính của Chúa Kitô. Vì sự cương quyết, lòng can đảm của hai tông đồ Simon và Giuđa, người ta đã âm mưu ám hại hai Ngài. Họ đã bắt bớ, đánh đòn và làm cho hai Ngài phải chết. Thánh Simon và thánh Giuđa đã can đảm đổ máu mình ra để tô điểm Giáo Hội. Chính dòng máu của các Ngài đã làm cho nền tảng Giáo Hội Chúa Kitô vững chắc ở trần gian này. Hai thánh Simon và Giuđa đã hân hạnh được lãnh nhận triều thiên nước trời.

Xin Chúa ban cho mọi người chúng con lòng nhiệt thành loan báo Tin Mừng trong niềm tin, cậy, phó thác vào tình thương và vào giáo lý chân chính của Chúa.

 

9. Chọn Lựa Của Chúa--‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’

Chúng ta nên nhớ thánh Simon này khác với Simon được Chúa Giêsu đặt tên là Phêrô và thánh Giuđa này khác với Giuđa Iscariốt. Phụng vụ trong ngày lễ mừng hai thánh Simon và Giuđa hôm nay, Chúa muốn cho chúng ta chứng kiến lại việc chọn các tông đồ.

Simon nhiệt thành và Giuđa mà chúng ta mừng kính hôm nay, không có những nét nổi bật như Simon Phêrô, Giacôbê và Gioan, và ngay cả Philipphê hay Batôlômêô mà cũng còn được nhắc đến thêm đôi ba lần nữa trong sách Tin Mừng, nhưng hai vị này thì chỉ nhìn thấy trong Nhóm Mười Hai, được Chúa Giêsu chọn sau khi Ngài đã trải qua một đêm cầu nguyện với Chúa Cha. Tuy nhiên cuộc sống và cái chết chứng tá của thánh Simon và thánh Giuđa sau này đủ để nói lên rằng các ngài đã sống trọn vẹn trong cung cách tông đồ của mình và xứng đáng với sự lựa chọn của Chúa.

Trọn vẹn trong phong cách tông đồ và xứng đáng với sự lựa chọn của Chúa, đó là điều mà ai ai cũng thế, khi đã theo Chúa thì chỉ ước mơ được như vậy. Ðã ước mơ thì phải cố gắng mà vươn tới để ước mơ được thành hiện thực. Mặc dù các sách Tin Mừng không nói nhiều về Simon nhiệt thành và Giuđa, nhưng chúng ta cứ nhìn vào các vị kia thì cũng biết được đôi chút về tính tình, về mong muốn, về cách sống của hai ông là bộc trực, tham vọng và cùng ăn cùng ở với Chúa Giêsu với hy vọng tìm được một địa vị xứng đáng hơn trong cuộc đời làm môn đệ.

Chúa Giêsu không chỉ nhìn thấy cái hiện trạng bất toàn đó của cả nhóm mà Ngài biết rằng với thời gian huấn luyện, với ơn Chúa Thánh Thần thì những con người ấy biết dùng ngay những bất toàn của mình vào trong công cuộc loan báo Tin Mừng và sẽ thành công. Vấn đề là làm sao để cho các ông nhận chân được mục đích của con đường mà các ông quyết định. Cũng với sự bộc trực ấy, cũng với những tham vọng ấy, cũng với những tình huynh đệ keo sơn ấy nhưng các ông không còn chỉ ước mơ danh vọng, địa vị tầm thường nữa mà khát vọng lan rộng biên giới Nước Trời, khát vọng cho mọi người nhận ra Thiên Chúa yêu thương họ. Nỗi niềm khát vọng ấy mãnh liệt đến độ đưa các ông là những con người sợ sóng gió, sợ quyền lực, sợ đủ mọi thứ đến chỗ gan dạ tột cùng của sự làm chứng, bằng lòng để bị treo như Thầy.

Lạy Cha,

Công trình của Cha vẫn nối tiếp cho đến thời sau hết với những con người mong manh thân phận nhưng kiên cường lập trường. Chúng con cảm tạ Cha vì gương sáng của hai vị tông đồ Simon nhiệt thành và Giuđa. Mừng kính hai ngài hôm nay, chúng con cũng muốn nói với chính mình rằng bởi sức riêng chúng con thật là vô ích, nhưng cùng với sức mạnh của Chúa Thánh Thần chúng con có thể làm được mọi sự. Giáo Hội đang nặng trĩu ưu tư cho công cuộc truyền giáo tại lục địa Á Châu to lớn, hai thánh tông đồ Simon và Giuđa sẽ là những khích lệ tuyệt vời cho những bước chân truyền giáo trên đất nước chúng con và trên lục địa Á Châu này.

 

10. Thánh Simon và Giuđa tông đồ--giaophanvinhlong.net

Chúng ta được biết rất ít về hai thánh tông đồ vì hình như các ngài chỉ được Chúa Giêsu chọn như những người “phụ tá”. Trong Phúc âm, thánh Máccô (Mc 3,18) và thánh Matthêu (Mt 10,4) xếp thánh Simon đứng thứ 11 và thánh Luca (Lc 6,15) ghi tên ngài vào hàng thứ 10 trong số các tông đồ. Còn thánh Giuđa, chúng ta đọc thấy đứng thứ 11 trong Phúc âm thánh Luca và mang tên là Thađêô, đứng thứ 10 trong Phúc âm thánh Maccô và Matthêu. Sự kiện về ngôi thứ của hai thánh nhân gợi cho chúng ta hình dáng những người thợ được thuê vào lúc 5 giờ chiều (Mt 20,6), và những khách mời hèn mọn (Lc14,10) mà Chúa nói trong Phúc âm. Vậy, chúng ta có thể hiểu một cách đơn sơ rằng sở dĩ các ngài có một chỗ ngồi kém quan trọng trong số các tông đồ, có lẽ vì đã theo Chúa sau cùng hay vì còn trẻ tuổi.

Thánh Simon mang tên hiệu là Cananêan. Theo tiếng Hy lạp, có nghĩa là “nhiệt thành”; nó nhắc cho chúng ta lời tiên tri Êlia: “Sự nhiệt thành với Chúa Giavê đã nung nấu tôi” (III Reg 29,10). Riêng về cuộc đời giảng đạo và cuộc tử nạn của ngài, chúng ta có nhiều sử liệu khác nhau. Theo ông Nicêphorê Callistô, một tác giả thời danh vào thế kỷ XIV, thì thánh nhân giảng đạo ở Phi châu và miền Granda Britania. Ý kiến này phù hợp với sự quyết đoán của nhiều sử gia Hy lạp, tuy nhiên ít được coi là chính xác. Vì theo thánh Fortuna, Giám mục thành Poitiers và ở cuối thế kỷ thứ VI, chúng ta biết thánh Simon và thánh Giuđa được mai táng tại Ba tư. Tác giả cuốn “Dã sử về các tông đồ” cũng chép: Hai thánh nhân lãnh phúc tử đạo tại Suanir thuộc Ba tư. Đàng khác, và ở thế kỷ IX, tu sĩ dòng Êpiphanô trong cuốn “Tiểu sử thánh Anrê tông đồ” lại viết: Tại Nicopsis, một tỉnh nhỏ gần miền Caucasie, người ta còn giữ được hài cốt thánh Simon. Cũng nơi đây và ở quãng thế kỷ thứ VII, nhiều giáo hữu Hy lạp đã góp tiền xây một nhà thờ kính thánh nhân. Sau hết, từ xưa, trong đền thờ cổ kính thánh Phêrô tại Rôma, vẫn có một bàn thờ kính riêng hai thánh Simon và Giuđa. Vậy phải chăng căn cứ theo những sử liệu trên mà trong cuốn “tử đạo” của dòng thánh Giêrônimô, người ta đã quyết hai thánh tông đồ tử đạo ngày 01 tháng 07, và kính lễ các ngài vào ngày 28.10.

Thánh Giuđa, mặc dầu được nhắc đến nhiều hơn trong Phúc âm, cũng không cho chúng ta biết rõ mấy về dòng tộc, cuộc đời rao giảng và cuộc tử đạo của ngài. Tuy nhiên, điều chắc chắn, ngài là một trong mười hai vị tông đồ, mang tên hiệu là Thađêô và đã được thánh Giêrônimô tặng khen là “Người có bản lĩnh”. Trong bữa tiệc ly, chính ngài đã hỏi Chúa Giêsu: “Lạy Thầy, sao Thầy lại chỉ tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ ra cho thế gian?” (Ga 14,22); và Chúa Giêsu đã trả lời: “Ai mến Thầy sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến họ, và chúng ta sẽ đến với họ và chúng ta sẽ ở lại nơi họ... (Gn 14,23).

Thánh Giuđa sung sướng vì là người đầu tiên được biết cách sống thân mật với Thiên Chúa cách hoàn hảo và thân tình hơn ông Giakêu. Hơn thế, theo Phúc âm (Mt 13,55; Mc 6,3), thánh Giuđa là người làng Nagiarét, con ông Clôpas và bà Maria, anh em với Chúa Giêsu, thánh Simon và thánh Giacôbê sau làm giám mục thành Giêrusalem. Về sau, ông Ôrigênê tìm được một bức thư nhỏ của thánh Giuđa; nhờ đó, người ta có thể đoán rằng thánh Giuđa cùng đi rao giảng Phúc âm với “Những anh em Chúa Giêsu” (x. 1Cr 9,5). Tuy nhiên không biết rõ ngài đi rao giảng những nơi nào!

Vì theo thánh Giêrônimô, thánh Giuđa giảng Tin mừng tại Osrosênê, và theo ông Nixêphôrê Callistô, ngài truyền bá Phúc âm tại Mêsôpôtamia. Đàng khác, thánh Paulinô Nola lại chủ trương thánh Giuđa là tông đồ xứ Libia. Riêng về cuộc tuẫn giáo của thánh Giuđa, hiện nay không có một sử liệu nào xác thực. Tuy nhiên cho đến bây giờ các sách “tử đạo La tinh” vẫn giữ ý kiến của thánh giám mục Phôtuna cho rằng xác thánh tông đồ đã được mai táng tại Ba tư.

Sau hết, để bổ khuyết vào những sử liệu trên, chúng ta cùng với tác giả Tillemont kết luận rằng: “Không gì chắc chắn hơn trong sự kiện này là thú nhận chúng ta không hiểu chi về những điều thực sự chúng ta không biết và hãy hãm dẹp tính tò mò, ngưỡng mộ sự khôn ngoan của Thiên Chúa, Đấng muốn dùng đời sống mai ẩn của các vị đại thánh dạy chúng ta ăn ở khiêm nhường, ẩn dật, trước mặt nhân loại hầu được hiển sáng hơn trong vinh quang của Người.

 

11. Thánh Simon và Giuđa

1. Đôi hàng lịch sử.

Hôm nay Giáo Hội cho chúng ta mừng kính hai thánh Simon và Giuđa Tông Đồ. Chúng ta không có được những tài liệu lịch sử chính xác khách quan về các ngài. Việc các ngài được mừng kính cùng một ngày là vì có sự trùng hợp giữa các ngài về cuộc đời truyền giáo cũng như khi tuyên xưng đức tin.

Thánh Simon được gọi là Simon người Ca-na, hay Simon Nhiệt Thành có họ hàng với Chúa Giêsu.

Thánh Giuđa, có biệt danh là Tađêô, con của Giacôbê, là cháu của Đức Mẹ và thánh cả Giuse, và là bà con của Đức Giêsu. Ngài là anh của thánh tông đồ Giacôbê hậu. Cha của ngài là ông Clêôpha, và mẹ của ngài cũng có tên là Maria. Bà này đã đứng dưới chân thập giá Chúa Giêsu lúc Chúa chịu chết, rồi sau đó đã ra mồ để xức xác Chúa bằng dầu thơm.

Theo Thánh Truyền thì hai ngài đi giảng Tin Mừng ở hai nơi khác nhau. Thánh Simon giảng tại Ai Cập, còn thánh Giuđa tại Mésopotami-a. Sau khi đã thu lượm được nhiều kết quả tốt đẹp, thì hai ngài như được ơn Chúa thôi thúc để cùng nhau đi sang Ba Tư. Chính tại nơi đây, hai ngài đã đem Tin Mừng tới và cũng chính tại nơi đây mà các ngài được diễm phúc lãnh nhận cái chết để tôn vinh Ðức Kitô như các anh em tông đồ khác.

Truyền thuyết kể lại khi đến thành Suamyr một trung tâm lớn của Ba Tư, hai thánh tông đồ Giuđa và Simon đã đến trọ nơi nhà ông Semme, đồ đệ của các ngài. Ngay sáng sớm hôm sau, các tư tế ngoại giáo của thành phố, bị thấm nhiễm độc dược của Zaroes và Arfexat, đã hô hào dân chúng đến bao vây nhà ông Semme. Họ gào thét:

- Hỡi ông Semme, hãy giao nộp hai kẻ thù các thần linh cho chúng tôi. Nếu không, chúng tôi sẽ đốt cháy nhà ông!

Nghe lời dọa nạt độc dữ ấy, hai Thánh Tông Đồ Giuđa và Simon đã quyết định tự nộp mình. Họ buộc các ngài phải thờ lạy các thần linh ngoại giáo. Dĩ nhiên các ngài từ chối. Họ tàn nhẫn đánh đập các ngài. Giữa máu đào, trong giây phút linh thiêng cuối đời, Thánh Giuđa còn lấy chút nghị lực cuối cùng, nhìn thẳng vào thánh Simon và nói:

- Hiền huynh dấu ái, tôi trông thấy Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Ngài gọi chúng ta về với Ngài!

2/ Simon - Tông đồ nhiệt thành:

- Ông là người Ca-na-an.

- Thánh Mác-cô gọi là Simon Nhiệt Thành, Thánh Luca gọi là Simon thuộc nhóm Quá Khích. Lý do vì ông thuộc một đảng phái chính trị: Họ là những người ái quốc cuồng nhiệt, họ là một nhóm người Do-thái tin tưởng ở sự độc lập của Ít-ra-en và không hợp tác với Rô-ma.

- Chúng ta không biết ông theo Chúa trong hoàn cảnh nào. Có giả thuyết cho rằng ông tin Chúa là Đấng Thiên Sai, là Đấng đến giải phóng dân Ít-ra-en, Đấng sẽ đem độc lập đến cho dân tộc Do-thái.

- Chúa Ki-tô phục sinh đã thay đổi suy nghĩ của ông và dùng “sự nhiệt thành” của ông để mở rộng Nước Trời cho mọi người.

- Giả thuyết cho rằng Si-môn đã chịu chết trên thập giá. Chỉ có thể mô tả ông: một người quả quyết, hăng say, dám nghĩ, dám làm, một người nóng bỏng nhất trong các Tông Đồ.

3/ Giu-đa Ta-đê-ô - Tông đồ trung kiên:

- Ông được Phúc Âm nhắc đến chỉ một lần duy nhất: Trong phòng Tiệc Ly, sau bữa ăn, ông đã hỏi Đức Giêsu: "Bấy giờ, Giu-đa, không phải Ít-ca-ri-ốt, hỏi Người: "Thưa Thầy, làm sao Thầy lại chỉ tỏ mình ra cho chúng con, mà lại không tỏ ra cho thế gian?" (Ga 12, 22).

- Ông được kể như một Tông đồ trung thành với Chúa suốt 3 năm đi rao giảng. Sự trung kiên ấy càng mạnh mẽ hơn khi Chúa xác quyết: "Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ Lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy…”

- Tân Ước nói nhiều về lòng trung tín và bền đỗ, đây là điểm chính yếu trong Thư của Giu-đa.

- Giu-đa đã trung tín đến cùng, Giu-đa rao giảng về Chúa đến cùng, Giu-đa rao giảng Lời Chúa hết sức nhiệt tình... Về cuối đời, ông rao giảng ở vùng Odessa, Arménia và Persia. Truyền thống cho rằng ông tử đạo ở Persia.

 

12. Thánh Simon và Giuđa-- J.M

Bí quyết cầu nguyện mà thánh Luca tường thuật lại mỗi khi có biến cố quan trọng xảy ra trên con đường truyền đạo của Đức Giêsu cho chúng ta thấy cuộc linh thao của Người đi sâu vào tình liên kết với Chúa Cha, một bí quyết liên kết độc nhất và siêu việt để cho chúng ta được thông hiệp với Người: “Thần khí làm cho anh em nên nghĩa tử khiến chúng ta được kêu lên: “Áp-ba! Cha ơi”. (Rm 8, 15). Nhưng lời cầu đó chẳng đáng gì vì lời cầu của Đức Giêsu bao bọc và gói gém mọi lời cầu của mọi người. Chỉ có Người mới có thể nói được: “Cha chúng con” với toàn diện sự thật. Chỉ có Người biết được Chúa Cha vì Người bởi Cha mà ra. Chỉ có Người sở hữu được thần khí vô lượng vô biên”. (Ga 3, 34)

Cầu nguyện

Sự liên kết độc nhất giữa Chúa Con với Chúa Cha là một sự cầu nguyện huyền nhiệm đã trở nên nền tảng cho mọi cầu nguyện khác. Chúng ta được nối kết với sự cầu nguyện ấy khi Đức Giêsu dạy chúng ta thưa: Lạy Cha! chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho đẹp lòng Chúa Cha, hay lại cầu nguyện sai lầm. Chúng ta phải nhớ rằng trung tâm của sự cầu nguyện chân chính là chính Đức Giêsu chứ không phải chúng ta. Chính Người đem lại ý nghĩa cầu nguyện cho chúng ta. Chính Con Người thâu nhận mọi lời than van kêu khấn của mọi người. Không phải vì độc đoán tự phụ cho riêng Người, nhưng là đem lời cầu nguyện của Đức Giêsu vào trong lòng chúng ta để chúng ta tiếp tục lời cầu nguyện của Người. Được như thế là vượt lên mọi cảm tình cá nhân, là từ bỏ mọi sự mà gắn bó với đức tin.

Tin

Tin là điều kiện độc nhất của lời cầu nguyện có giá trị. Chúa không đòi chúng ta phải lên hoàn hảo, Người chỉ đòi chúng ta tin vào Người. Nhiều người cầu nguyện nhiều, tuy không có gì trách mình, nhưng họ tưởng xin còn ít nên lời cầu của họ hình như không được nhận lơi. Họ tưởng họ tin nhiều, thực ra họ còn thiếu đức tin. Chúng ta tưởng chính ra phải được nếm thử sự đời đời trong lời cầu nguyện của chúng ta thì lại chỉ được nếm sự nghèo khó.

Hãy xem những người tội lỗi trong Tin Mừng đã được Chúa đoái thương vì họ có lòng tin. Niềm tin đó cho họ thấy họ chẳng đáng giá gì dưới đôi mắt của Đức Giêsu, nhưng họ chỉ tin vào giá máu của Người.

 

13. Thánh Simon và Giuda Tông Đồ--giaophanxuanloc.net

(Ep 2,19-22; Lc 6,12-19)

Ý thức ơn gọi

Ta cần nhớ thánh Simon mà ta mừng lễ hôm nay khác với Simon được Chúa Giêsu đặt tên là Phêrô, và thánh Giuđa này khác với Giuđa Iscariốt. Phụng vụ trong ngày lễ mừng hai thánh Simon và Giuđa hôm nay, Chúa muốn cho chúng ta chứng kiến lại việc chọn các tông đồ.

Simon nhiệt thành và Giuđa mà chúng ta mừng kính hôm nay, không có những nét nổi bật như Simon Phêrô, Giacôbê và Gioan, và ngay cả Philipphê hay Batôlômêô mà cũng còn được nhắc đến thêm đôi ba lần nữa trong sách Tin Mừng, nhưng hai vị này thì chỉ nhìn thấy trong Nhóm Mười Hai, được Chúa Giêsu chọn sau khi Ngài đã trải qua một đêm cầu nguyện với Chúa Cha.

Tuy nhiên cuộc sống và cái chết chứng tá của thánh Simon và thánh Giuđa sau này đủ để nói lên rằng các ngài đã sống trọn vẹn trong cung cách tông đồ của mình và xứng đáng với sự lựa chọn của Chúa.

Tất cả những chọn lựa của Thiên Chúa đều bất ngờ, nghĩa là vượt lên trên những tiêu chuẩn chọn lựa thông thường của con người. Từ Abraham qua Môsê, đến các ngôn sứ và Ðavít, tất cả đều được chọn lựa không phải vì tài năng đức độ riêng của họ: Môsê chỉ là một người ăn nói ngọng nghịu; Ðavít là cậu bé kém cỏi nhất trong số anh em mình, Yêrêmia, Isaia đều nhận ra nỗi bất lực yếu hèn của mình khi được Thiên Chúa chọn làm ngôn sứ.

Tiếp tục đường lối của Thiên Chúa, Chúa Giêsu cũng đã chọn các môn đệ của Ngài theo những tiêu chuẩn bất ngờ nhất. Mười hai Tông đồ được Ngài chọn làm cộng sự viên thân tín nhất và đặt làm cột trụ Giáo Hội, không phải là bậc tài ba xuất sắc, cũng không phải là thành phần ưu tú thuộc giai cấp thượng lưu trong xã hội; trái lại họ chỉ là những dân chài quê mùa dốt nát miền Galilê; có người xuất thân từ hàng ngũ thu thuế tức là hạng người thường bị khinh bỉ.

Thánh Luca đã ghi lại một chi tiết rất ý nghĩa trong việc lựa chọn của Chúa Giêsu: Ngài đã cầu nguyện suốt đêm. Không ai biết rõ nội dung, nhưng sự liên kết với Thiên Chúa trong cầu nguyện và việc chọn lựa cho thấy tính cách nhưng không của ơn gọi: Thiên Chúa muốn gọi ai tùy Ngài và sự lựa chọn đúng không dựa vào tài đức của con người. Chúa Giêsu đã cầu nguyện, bởi vì Ngài biết rằng tự sức riêng, con người không thể làm được gì. Phêrô đã cảm nghiệm thế nào là sức riêng của con người khi ông chối Chúa ba lần; sự đào thoát của các môn đệ trong những giờ phút nguy ngập nhất của cuộc đời Chúa, và nhất là sự phản bội của Yuđa, là bằng chứng hùng hồn nhất của sức riêng con người. Bỏ mặc một mình, con người chỉ chìm sâu trong vũng lầy của yếu đuối và phản bội.

Từ mười hai người dân chài thất học, Chúa Giêsu đã xây dựng Giáo Hội của Ngài. Nền tảng của một Giáo Hội không phải là sức riêng của con người, mà là sức mạnh của Ðấng đã hứa: "Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế". Chính sự hiện diện sinh động và ơn thánh của Ngài mới có thể làm cho Giáo Hội ấy đứng vững đến độ sức mạnh của hỏa ngục không làm lay chuyển nổi.

Thánh Phaolô, người đã từng là kẻ thù số một của Giáo Hội cũng đã bất thần được Chúa Giêsu chọn làm Tông đồ cho dân ngoại. Ngài luôn luôn cảm nhận được sức mạnh của ơn Chúa: "Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi", hoặc "Nếu phải vinh quang, thì tôi chỉ vinh quang về những yếu đuối của tôi mà thôi, vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh".

Suy niệm về việc Chúa Giêsu tuyển chọn mười hai Tông đồ của Ngài, chúng ta được mời gọi nhận ra thân phận yếu đuối bất toàn của chúng ta, đồng thời nói lên niềm tín thác của chúng ta vào tình yêu của Ngài. Chỉ có một sức mạnh duy nhất để chúng ta nương tựa vào, đó là sức mạnh của ơn Chúa. Với niềm xác tín đó, thì dù phải trải qua lao đao thử thách, chúng ta vẫn luôn hy vọng rằng tình yêu của Chúa sẽ mang lại những điều thiện hảo cho chúng ta.

Các Tông Đồ được chọn ở trên núi, nhưng chính là để theo Chúa Giêsu xuống núi, vì cả một nhân loại đông đúc đang mong chờ để nghe lời Chúa Giêsu và để được chữa lành. Nhưng các ông chưa phải làm gì cả, chỉ lắng nghe Chúa Giêsu giảng và nhìn ngắm Ngài chữa lành bệnh tật, nhất là nhìn ngắm sự kiện: Tất cả đám đông tìm cách đụng vào Ngài, vì có một năng lực tự nơi Ngài phát ra, chữa lành hết mọi người. (c. 19)

Các Tông Đồ và cả chúng ta nữa, sẽ được Chúa Giêsu tin tưởng trao ban sứ mạng thực hiện cùng những gì mà Ngài đã làm, nghĩa là rao giảng Lời Chúa và phục vụ sự sống của nhiều người.

Nhưng dù chúng ta làm việc gì, có chức vụ gì, sứ mạng của chúng ta vẫn là giúp người ta “đụng chạm” cho được Đức Kitô.

Hai thánh tông đồ Simon và Giuđa đã hiên ngang làm chứng cho Chúa phục sinh. Các Ngài đã lãnh triều thiên vinh quang Chúa dành cho những kẻ trung tín với Ngài.

Mừng kính thánh Simon và Giuđa Tông Đồ hôm nay, ước gì mỗi người chúng ta cũng ý thức mình được gọi và chọn làm môn đệ của Chúa Giêsu. Chúng ta cùng đi trên hành trình với Chúa. Chúng ta luôn “nói với Chúa” khi lên núi cầu nguyện mỗi ngày; và chúng ta luôn “nói về Chúa” trong tiến trình hoạt động ngày sống của chúng ta. Ước gì chúng ta cũng biết ngưỡng mộ từ tâm của Chúa, cứu giúp những ai khổ đau đang cần được cứu chữa. Ước gì chúng ta cũng biết đi theo con đường kỷ luật Chúa đã đi là “luôn nói với Chúa và nói về Chúa”.

 

14. Thánh Simon và thánh Giuđa-- Enzo Lodi

I. Ghi nhận lịch sử – phụng vụ

Theo chỉ dẫn của sách Breviarium Apostolorum – mở đầu Sách Tử đạo của thánh Hiêrônimô –, lễ hai thánh tông đồ Simon và Giuđa mừng vào ngày 28 tháng 10; người ta đã thấy lễ này được ghi trong các sách bí tích của người Franc vào thế kỷ VIII, và ở Rôma vào thế kỷ X. Một nhà nguyện được dâng kính các ngài trong vương cung thánh đường cổ Thánh Phêrô ở Vatican. Các Giáo Hội phương Đông mừng riêng lễ thánh Simon ngày 10 tháng 5, và thánh Giuđa ngày 19 tháng 6.

Trong danh sách 12 Tông đồ, thánh Simon và Giuđa luôn đi chung với nhau, thánh Simon ở vị trí thứ mười và thánh Giuđa ở vị trí mười một (Mt 10, 3-4; Mc 3, 18; Lc 6, 14-16; Cv 1, 13).

Thánh Simon, “thuộc nhóm quá khích” trong Mc và Lc; “người Canaan (=người thuộc nhóm quá khích)” trong Mt, có lẽ là một cựu thành viên của phong trào quá khích chống đối quyết liệt sự cai trị của Rôma. Theo truyền thống phương tây, có thể ngài đã đi rao giảng ở Ai Cập và Lưỡng Hà Địa, nhưng người ta không biết gì đích xác về cuộc đời ngài. Người ta nói ngài chịu tử đạo, và đôi khi người ta vẽ hình ngài bị các đao phủ cưa dọc thân thể làm đôi.

Thánh Giuđa, tông đồ thứ mười một trong danh sách nhóm Mười hai, được kể tên trước Giuđa Iscariot. Trong tiếng Hi Lạp, tên ngài viết giống hệt Giuđa Iscariot, nhưng để phân biệt, người ta xác định thêm là con hay anh của Giacôbê–(Lc 6, 16) hay không phải Giuđa Iscariot (Ga 14, 22). Ngài cũng được gọi là Lebbée trong một số thủ bản của Mt, và Thaddéô trong Mt và Mc, và đôi khi còn gọi là Giuđa, người thuộc nhóm Quá khích (Zélote). Không nên lẫn tông đồ Giuđa với người cùng tên có họ với Chúa Giêsu và với tác giả của Thư thánh Giuđa.

II. Thông điệp và tính thời sự

Lời Nguyện của ngày nhắc nhớ lời giảng của các tông đồ dẫn ta tới sự hiểu biết Chúa Giêsu, và Giờ Kinh Sách trích dẫn một đoạn chú giải của thánh Cyrille thành Alexandria về Tin Mừng Gioan, minh hoạ sứ mạng của các tông đồ: “…Các ngài có nhiệm vụ kêu gọi người tội lỗi hối cải, chăm sóc người bệnh tật thể xác hay tâm hồn; trong nhiệm vụ là những người quản lý, các ngài không được tìm cách làm theo ý riêng, nhưng theo ý của Đấng sai các ngài; sau cùng, cứu rỗi thế giới bằng cách giúp thế giới đón nhận lời dạy của Chúa.”

Ca hiệp lễ lấy lại câu trả lời của Chúa Giêsu cho thánh Giuđa khi ngài hỏi Chúa: “Lạy Thầy, tại sao thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không cho thế gian?” Câu trả lời của Chúa Giêsu không trực tiếp, nhưng chứa đựng mạc khải về một trong những mầu nhiệm cao siêu nhất của đức tin chúng ta: “Nếu ai yêu mến thầy, thì sẽ giữ lời thầy; Cha thầy sẽ yêu mến người ấy, và chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14, 23). Chúng ta không gặp Thiên Chúa như gặp một nhân vật có chức vị, nhưng bằng việc gắn bó với Lời Người trong tình yêu. Chính đây là sự thể hiện niềm khát vọng của các tín hữu trong Cựu Ước: “… Này Ta đây, ta đến cư ngụ ở giữa ngươi – sấm ngôn của Đức Chúa (Da 2, 14). Ta sẽ đặt thánh điện Ta ở giữa chúng đến muôn đời. Nhà của Ta sẽ ở giữa chúng; Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, và chúng sẽ là Dân của Ta” (Ed 37, 26-27).

 

15. Hai môn đệ trung kiên của Chúa

Ơn gọi là một cái gì huyền nhiệm. Bất cứ ai sinh ra trên thế giới này, một cách nào đó đều nghe được một tiếng mời gọi âm thầm nào đó trong cuộc đời của mình và rồi, con người đi theo tiếng gọi. Chúa Giêsu không chọn bất cứ ai mà không cầu nguyện lâu giờ và không đi vào cõi thâm sâu để hỏi ý Thiên Chúa Cha. Chúa cầu nguyện, chúng ta không biết Chúa nói gì, không biết Chúa trao đổi, bàn luận gì với Đức Chúa Cha, nhưng có một điều chúng ta nhận thấy Chúa luôn luôn làm theo ý Cha của Ngài. Thánh Simon và thánh Giuđa, tông đồ không nằm ngoài dự định của Chúa Giêsu. Ơn gọi của các Ngài cũng na ná trường hợp của các tông đồ khác. Chúa đi ngang nơi nào đó, Ngài kêu gọi, các tông đồ nhận ra tiếng gọi của Chúa và họ bỏ mọi sự để theo Đức Kitô.

Chúa tuyển chọn các Ngài và gọi các Ngài là “ Apostoloi “, nghĩa là người được sai đi. Nhưng, trước khi gọi các Ngài là Apostoloi, Chúa Giêsu đã cầu nguyện thâu đêm với Chúa Cha. Ngài chọn các tông đồ là do sự nhưng không, do ân huệ tuyệt vời của Ngài. Chúa không dựa trên những tiêu chuẩn mà người đời thường dùng để chọn hoặc cất nhắc một nhân vật nào đó như trình độ, tri thức, vóc dáng bề ngoài, cao, lớn, mập, gầy vv…Chúa tuyển chọn các tông đồ hoàn toàn do ý định của Ngài, không ai có quyền đòi Ngài phải chọn hay không chọn, Ngài tuyển chọn là do tình thương của Ngài.

Thánh Simon còn có biệt hiệu Simon người Cana, hay Simon nhiệt thành. Thánh Giuđa, có biệt danh là Tađêô, con của Giacôbê, anh em với Chúa Giêsu. Sở dĩ Hội Thánh mừng thánh Simon và Giuđa cùng một ngày là vì có sự trùng hợp trong việc loan báo Tin Mừng và trong việc tuyên xưng đức tin, đổ máu đào để làm chứng cho Chúa Giêsu. Và thực tế, thánh Simon người Cana hoàn toàn khác với thánh Simon Phêrô, vị tông đồ trưởng và là người làm đầu Giáo Hội tiên khởi. Theo thánh truyền, thánh Simon và thánh Giuđa đi truyền giáo ở hai nơi hoàn toàn khác nhau. Thánh Simon rao giảng, loan báo Đức Kitô tại Ai Cập, còn thánh Giuđa tại miền Mésopotamia. Được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, sau khi gặt hái được nhiều kết quả tốt đẹp trong việc rao giảng, hai thánh Simon và Giuđa đã cùng sang giảng đạo tại xứ Ba Tư. Chính tại nước Ba Tư, hai vị thánh này đã được phúc tử đạo làm chứng cho Chúa như các tông đồ khác.Thánh Giuđa rất trung thành với lời rao giảng, với lời Chúa nên Ngài không sợ hãi mà luôn chống lại những kẻ có thái độ khích bác Tin Mừng.

Hai thánh tông đồ Simon và Giuđa đã hiên ngang làm chứng cho Chúa phục sinh. Các Ngài đã lãnh triều thiên vinh quang Chúa dành cho những kẻ trung tín với Ngài.

Lạy thánh Simon và thánh Giuđa tông đồ, xin cầu bầu cùng Chúa cho chúng con để chúng con luôn hiên ngang làm chứng cho Chúa Kitô chịu đóng đinh thập giá và vinh quang sống lại. Amen.

 

16. Có Chúa Giêsu mới sống thực

Hôm nay Hội Thánh kính hai thánh Tông Đồ Si-mon và Giu-đa. Ông Si-mon có biệt danh là Nhiệt Thành, có lẽ ông là người thuộc nhóm cực đoan, muốn dùng vũ lực chống Roma, còn ông Giu-đa cũng có tên là Ta-đê-ô, là tác giả thư cuối cùng trong bảy Thư Công Giáo. Ông là người hỏi Đức Giêsu trong bữa ăn tối:  “Thưa Thầy, tại sao Thầy tỏ mình cho chúng con mà không tỏ cho thế gian”, và ông đã nhận được Lời Chúa hứa:  “Ai yêu mến Thầy, thì Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,22-23).

Chưa bao giờ Đức Giêsu phải thức suốt đêm để cầu nguyện, ngoại trừ lúc Ngài chọn các môn đệ, để sai họ đi tiếp nối sứ mệnh của Ngài, hầu thâu họp muôn người về cho Chúa. Vì “ai có Chúa Giêsu thì sống, kẻ không có Chúa Giêsu là chết!” (1Ga 5,12). Do đó:

- Con người chỉ tồn tại nhờ được Chúa gọi tên (x Kn 11,25: Bản dịch Lm Nguyễn Thế Thuấn).

- Đụng chạm vào Chúa Giêsu chính là hiệp thông với Hội Thánh.

1/ Con người chỉ tồn tại nhờ được Chúa gọi tên (x Kn 11,25).

Thực vậy, trong danh sách 12 môn đệ Đức Giêsu chọn, họ là những người bình thường như bao người khác, thế nên danh sách Nhóm Mười Hai có tới ba cặp tên trùng nhau:

- Simon em của An-rê và Simon Nhiệt Thành.

- Giacôbê anh của Gioan và Giacôbê con của An-phê.

- Giuđa Nhiệt Thành và Giuđa Iscariot.

Sau khi Đức Giêsu cầu nguyện, sáng sớm Ngài gọi những người muốn chọn, họ có tên bình thường như bao người khác Xoài, Ổi, Mít, Chanh, Cam (x Lc 6,12-16)… Nếu Đức Giêsu không chọn gọi họ, thì nay “họ đã qua đi như không bao giờ có họ trên đời, bởi không người nào trên đời còn nhớ đến họ, họ xong đời là xong hẳn, và cả con cái họ sau này cũng thế thôi!” (Hc 44,9)  Nhưng danh tính, sự nghiệp các môn đệ Đức Giêsu chọn vẫn còn lưu danh  muôn thuở, chỉ vì Đức Giêsu đã gọi họ từ trong thế gian và họ không còn thuộc về thế gian nữa (x Ga 17,6.15), để rồi đi tập họp mọi sự về cho Chúa, như lời thánh Phao-lô nói:  “Mọi sự thuộc về anh em, anh em thuộc về Chúa Ki-tô, Chúa Ki-tô thuộc về Chúa Cha” (1Cr 3,22-23).

2/ Đụng chạm vào Chúa Giêsu chính là hiệp thông với Hội Thánh.

Sau khi Đức Giêsu cầu nguyện để chọn các môn đệ và từ trên núi xuống, có cả đoàn lũ dân Do Thái miền Giu-đê, Giê-ru-sa-lem cùng với dân ngoại miền Tia và Xi-đôn, cả các bệnh nhân cũng lũ lượt kéo đến nghe Lời Đức Giêsu, và các bệnh nhân được chữa lành; cả đến các người bị thần ô uế nhập, cũng tìm cách sờ vào Đức Giêsu, thì họ được lành mạnh ngay (x Lc 6,17-19:  Tin Mừng). Hình ảnh này đã tiên báo về đời sống Hội Thánh Chúa Ki-tô, bởi vì từ núi Sọ, nơi Đức Giêsu bị đóng đinh, Ngài đã cầu nguyện cho cả kẻ hại Ngài được cứu độ, và từ cạnh sườn Ngài bị đâm, nước và máu đổ xuống phát sinh các Bí tích, đó chính là giờ phút Adam cuối cùng sinh Hội Thánh (x Ga 19). Như thế hình ảnh từ trên núi đi xuống trở thành dấu chỉ Đức Giêsu từ cõi chết sống lại, trước khi Ngài lên Trời, Ngài sai các môn đệ đi tập họp muôn dân bằng hai việc:  ban Thánh Tẩy và dạy dân những Lời Đức Giêsu truyền (x Mt 28,19-20). Ai gia nhập Hội Thánh là người đó được Đức Giêsu chộp lấy (x Pl 3,12). Những ai thuộc về Hội Thánh Chúa Ki-tô thì thánh Tông Đồ nói:  “Anh em không còn phải là người xa lạ, hay là người tạm trú, nhưng là người đồng hương với những người thuộc dân thánh, và là người nhà của Thiên Chúa, bởi đã được xây dựng  trên nền móng là các Tông Đồ và ngôn sứ, còn đá tảng góc tường là chính Chúa Ki-tô Giêsu. Trong Người toàn thể công trình xây dựng ăn khớp với nhau và vươn lên thành ngôi đền thánh trong Chúa. Trong Người, cả anh em nữa, cũng được xây dựng cùng với những người khác thành ngôi nhà Thiên Chúa ngự, nhờ Thần Khí” (Ep 2,19-20:  Bài đọc).

Trong đoạn thư này thánh Phao-lô nhấn mạnh:  người được Chúa chọn là người đồng hương, là người nhà của Thiên Chúa, là ông muốn cho các tín hữu hiểu rằng:  Chúa sẽ ra sức bảo vệ mạng sống họ, đến nỗi sợi tóc trên đầu của họ cũng không bị mất! (x Mt 10,30) Điều này quan trọng hơn ông Phao-lô vốn dĩ là người Do Thái, nhưng để việc rao giảng Tin Mừng tránh người Do Thái trù dập tối đa, Phao-lô đã lấy được quốc tịch Roma để bảo vệ ông. Vì ai thuộc về công dân Roma, thì không người nào được quyền đánh họ trên 39 roi! Chính vì vậy mà năm lần ông bị người đồng chủng đánh không quá 39 trượng! Nhiều người Do Thái thấy thế thèm, nên hỏi ông Phao-lô:  “Phải tốn bao nhiêu tiền mới có quốc tịch ấy?” (x Cv 22,28; 2Cr 11,24-25). Còn người Công Giáo chẳng mất xu nào mà có quốc tịch Nước Trời, để cùng với muôn tạo vật diễn tả vinh quang Thiên Chúa, đúng với lời kinh:  “Tiếng các ngài đã vang dội khắp hoàn cầu”.

 

17. Người chọn lấy mười hai ông--Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc

Bài Tin Mừng kể lại cho chúng ta ơn kêu gọi của các Tông Đồ, trong đó có thánh Simon Nhiệt Thành và thánh Giu-đa Ta-đê-ô mà chúng ta mừng kính hôm nay. Chiêm ngắm ơn gọi của các ngài, sẽ giúp chúng ta hiểu được ơn gọi của chính chúng ta; bởi vì ơn gọi của các Tông Đồ là khuôn mẫu của mọi ơn gọi; và mọi ơn gọi khơi nguồn từ ơn gọi của các Tông Đồ và tham dự vào ơn gọi của các Tông Đồ.

Đức Giê-su lên núi

“Trong những ngày ấy, Đức Giê-su đi ra núi cầu nguyện, và Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa” (c. 12).

Trong lịch sử cứu độ, núi là biểu tượng của nơi Thiên Chúa hiện diện:

Lạy Chúa, ai được vào ngụ trong Nhà Chúa,

được ở trên núi thánh của Ngài. (Tv 15)

Con yêu mến Ngài Lạy Chúa, là sức mạnh của con,

Lạy Chúa là núi đá, là thành lũy, là Đấng giải thoát con. (Tv 18)

Với câu Thánh Vịnh được trích dẫn ở trên, núi còn là một tên gọi của Đức Chúa: “Người là Núi Đá. Trong cuộc sống, chúng ta cũng cần một nơi diễn tả sự hiện diện của Thiên Chúa.

Trước đó, Đức Giêsu ở trong hội đường giảng dạy và chữa bệnh; bây giờ Ngài lên núi để cầu nguyện.

Đó chính là hai chiều kích làm nên chính cách sống của Đức Giê-su, chiều kích hoạt động (hay làm việc) và chiều kích cầu nguyện.

Và đó cũng là hai chiều kích làm nên đời sống của tất cả những ai đi theo Đức Giê-su trong ơn gọi gia đình, và nhất là trong ơn gọi dâng hiến, dù đan tu hay Tông Đồ. Và quả thực, hàng ngày chúng ta vẫn sống theo nhịp sống của Đức Giê-su: hoạt động và cầu nguyện đan xen nhau mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm, mỗi giai đoạn huấn luyện và cả đời sống Ki-tô hữu và đời sống dâng hiến của chúng ta.

Đôi khi, nhịp sống này đối với chúng ta trở thành nặng nề, nhất là cầu nguyện. Nhưng dưới ánh sáng cuộc đời của Đức Giê-su, chúng ta được mời gọi nhận ra đó là một ơn huệ, ơn huệ được trở nên giống Chúa ở mức độ đơn sơ nhưng thiết yếu nhất. Nhờ đó, chúng ta dễ dàng đi vào tâm tình tạ ơn và làm trổ sinh hoa trái trong đời sống của chúng ta.

Đức Giêsu chọn các Tông Đồ

Mỗi lần Đức Giê-su lên núi cầu nguyện và cầu nguyện suốt đêm, chính là để chuẩn bị làm một việc hệ trọng. Giống như chúng ta đi tĩnh tâm, trong những thời điểm quan trọng trong hành trình làm người và nhất là trong hành trình ơn gọi. Trước khi Đức Giê-su chọn mười hai vị mà Ngài gọi là Tông Đồ, có thể nói Người đã “tĩnh tâm” trước.

Điều này có nghĩa là, ơn gọi của các Tông Đồ và ơn gọi của chính chúng ta, không phải là một chuyện may rủi, hay do nỗ lực “trụ lại bằng mọi giá”, nhưng là một việc hệ trọng đối với Chúa, Chúa phải chuẩn bị bằng một đêm cầu nguyện trên núi với Thiên Chúa Cha. “Đến sáng, Người kêu các môn đệ lại Giê-su gọi mười hai môn đệ lại và chọn lấy mười hai ông” (c. 13)

Như thế, ơn gọi đến từ chính ý muốn và tiếng gọi của Chúa.

Và ơn gọi của chúng ta cũng vậy, cho dù chúng ta đã đến với đời sống ơn gọi của chúng ta như thế nào, bởi những động lực hay lí do nào. Nhưng với thời gian, nhất là trong thời gian huấn luyện, chúng ta được mời gọi đặt đời sống ơn gọi của mình trên nền tảng tận cùng là “Ơn Được Gọi”. Nếu ơn gọi của chúng ta đặt trên một nền tảng khác, thì chắc chắn sẽ sụp đỗ, không sớm thì muộn; và sụp đổ ngay từ bên trong.

Nhưng Chúa muốn gọi chúng ta từ khi nào? Chúng ta nghe được tiếng gọi của Chúa vào một lúc nào đó trong cuộc đời; nhưng theo Thánh Phao-lô, Chúa đã gọi và chọn chúng ta ngay từ trong bụng mẹ và từ trước muôn đời. Xác tín này giúp chúng ta nhận ra rằng, ơn gọi là một ơn hoàn toàn nhưng không, chúng ta được Chúa tạo dựng là để sống ơn gọi mà chúng ta đang sống (Tv 139; Gl 1, 15). Và Chúa gọi đích danh từng người: Đó là ông Si-môn mà Người gọi là Phê-rô, rồi đến ông An-rê, anh của ông; sau đó là các ông Gia-cô-bê, Gio-an, Phi-líp-phê, Ba-tô-lô-mê-ô, Mát-thêu, Tô-ma, Gia-cô-bê con ông An-phê, Si-môn biệt danh là Quá Khích, Giu-đa con ông Gia-cô-bê, và Giu-đa Ít-ca-ri-ốt…(c. 14-15)

Cũng vậy, Chúa cũng gọi tên từng người chúng ta. Chúng ta hãy hình dung từng khuôn mặt ngang qua tên gọi: ngoại hình, nguồn gốc, tương quan, khuynh hướng, nghề nghiệp, thao thức… Như thế, các môn đệ được Chúa gọi, khi các ông vẫn còn đầy giới hạn, bất toàn như chúng ta. Bởi vì, tiếng gọi của Chúa là nhưng không, đặt hết lòng tin nơi người được gọi.

Ghi nhớ lòng tin “muôn ngàn đời” của Chúa đặt để nơi chúng ta, khi chúng ta chưa là gì và khi đã “là gì”, thì là gì một cách rất bất xứng và sẽ mãi mãi “là gì” rất bất xứng, sẽ khởi dậy nơi chúng ta lòng khát khao đáp trả cách quảng đại và nhưng không.

Đức Giêsu xuống núi cùng với các Tông Đồ

Các Tông Đồ được chọn ở trên núi, nhưng chính là để theo Đức Giê-su xuống núi, vì cả một nhân loại đông đúc đang mong chờ để nghe lời Đức Giê-su và để được chữa lành. Nhưng các ông chưa phải làm gì cả, chỉ lắng nghe Đức Giê-su giảng và nhìn ngắm Ngài chữa lành bệnh tật, nhất là nhìn ngắm sự kiện: Tất cả đám đông tìm cách đụng vào Ngài, vì có một năng lực tự nơi Ngài phát ra, chữa lành hết mọi người.(c. 19)

Các Tông Đồ và cả chúng ta nữa, sẽ được Đức Giê-su tin tưởng trao ban sứ mạng thực hiện cùng những gì mà Ngài đã làm, nghĩa là rao giảng Lời Chúa và phục vụ sự sống của nhiều người.

Nhưng dù chúng ta làm việc gì, có chức vụ gì, sứ mạng của chúng ta vẫn là giúp người ta “đụng chạm” cho được Đức Ki-tô.

Nhưng thật ra, Ngài vẫn đến “đụng chạm” chúng ta hằng ngày ngang qua Lời của Ngài và Thánh Thể của Ngài. Xin cho chúng ta biết để cho Chúa “đụng chạm”, như khi chúng ta còn nằm trong bụng mẹ (x. Tv 139, 13-16) và cảm nhận được, từ nơi Ngài, xuất phát một sức mạnh chữa lành tất cả và tái sinh chúng ta cho sự sống và cho Gia Đình Nhân Loại mới của Chúa.

 
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây