CHÚA NHẬT II MÙA CHAY NĂM C
Lc 9,28b-3
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
28b Khi ấy, Đức Giê-su lên núi cầu nguyện đem theo các ông Phê-rô, Gio-an và Gia-cô-bê.
29 Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà. 30 Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Mô-sê và ông Ê-li-a.
31 Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem.
32 Còn ông Phê-rô và đồng bạn thì ngủ mê mệt, nhưng khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giê-su, và hai nhân vật đứng bên Người.
33 Đang lúc hai vị này từ biệt Đức Giê-su, ông Phê-rô thưa với Người rằng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a.” Ông không biết mình đang nói gì.
34 Ông còn đang nói, thì bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ.
35 Và từ đám mây có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!”
36 Tiếng phán vừa dứt, thì chỉ còn thấy một mình Đức Giê-su. Còn các môn đệ thì nín thinh, và trong những ngày ấy, các ông không kể lại cho ai biết gì cả về những điều mình đã thấy.
SUY NIỆM 1: QUA ĐAU KHỔ ĐẾN VINH QUANG
Lời Chúa: “Đang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường” (Lc 9, 28).
Nhập lễ:
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,
Phụng vụ Lời Chúa chúa nhật 2 mùa chay hôm nay cho chúng ta thấy, Chúa Giêsu đưa ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê lên núi cao và đã tỏ hiện vinh quang của Người cho các môn đệ. Đồng thời, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ bước vào con đường khổ giá để đến vinh quang:
Núi cao Chúa tỏ vinh quang,
Tông đồ bỡ ngỡ ngất ngây tôn thờ.
Rõ ràng đâu phải giấc mơ,
Muốn cùng chia sẻ đợi chờ nữa chi.
Bỏ mình thập giá vác đi,
Qua đường đau khổ tới đồi hiển vinh.
Hiệp dâng thánh lễ hôm nay, xin Chúa giúp chúng ta biết tín thác và vâng nghe lời Chúa dạy để biến đổi và sống thánh thiện trong cuộc sống thường ngày. Trong tâm tình đó, giờ đây chúng ta cùng thành tâm sám hối.
Sám hối:
X. Lạy Chúa, Chúa là sự sáng và là Ðấng Cứu Ðộ chúng con. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa Kitô, Chúa đã tỏ vinh quang thập giá trong cuộc biến hình của Chúa. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa, Chúa mời gọi chúng con bước vào con đường khổ giá để đến vinh quang. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
Kết: Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.
CĐ: Amen.
Suy niệm:
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Chúa nhật thứ nhất mùa chay, chúng ta được dẫn vào sa mạc chứng kiến cuộc chiến đấu và chiến thắng của Chúa Giêsu trước những cám dỗ, thử thách. Chúa nhật hôm nay, cùng với ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan chúng ta được dẫn lên núi để chứng kiến vinh quang của Chúa Kitô: “Đang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường và áo Người trở nên trắng tinh sáng láng.” Đồng thời, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ bước vào con đường khổ giá để đến vinh quang.
Thưa anh chị em, chịu đau khổ, chịu chết và sống lại là một mầu nhiệm khó chấp nhận. Nó đã trở nên cớ vấp phạm cho nhiều người, ngay cả các môn đệ thân tín của Chúa Giêsu cũng không tránh khỏi. Vì thế, Thiên Chúa đã chuẩn bị tâm hồn mọi người để có thể hiểu và chấp nhận phần nào mầu nhiệm ấy.
Bài đọc một hôm nay cho thấy Thiên Chúa đã thử thách niềm tin của ông Abraham: “Hãy đem Isaac, đứa con một yêu dấu của ngươi dâng nó làm của lễ toàn thiêu!” Một thử thách thật ghê gớm! Nhưng ông Abraham không thắc mắc, không phản đối, mà hoàn toàn tin tưởng và thực hiện theo lời Thiên Chúa truyền dạy. Khi thấy lòng trung thành của ông, Thiên Chúa đã ban phúc lành cho ông và hậu duệ ông đông như sao trời cát biển.
Cũng vậy, Chúa Giêsu đã chuẩn bị cho các môn đệ đón nhận mầu nhiệm thập giá. Người đưa ba ông lên núi cao và “đang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường.” Đây là hình ảnh báo trước về cuộc phục sinh của Chúa. Nhưng để đạt đến vinh quang ấy, con đường phải đi qua là đau khổ và thập giá. Chính Người đã tiên báo: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại.” Các môn đệ lúc bấy giờ chưa hiểu được ý nghĩa của thập giá. Các ông cần được huấn luyện, cần được chuẩn bị hơn nữa. Và mãi đến khi Chúa Giêsu phục sinh, các ông mới thực sự nhận ra con đường qua đau khổ để đến vinh quang.
Chuyện kể rằng, có một người thợ lặn chuyên tìm kiếm ngọc trai quý. Ông biết rằng những viên ngọc đẹp nhất chỉ có trong những con trai đã từng chịu tổn thương. Khi một hạt cát nhỏ lọt vào trong vỏ trai, con trai cảm thấy đau đớn và bắt đầu tiết ra một lớp xà cừ bao bọc lấy hạt cát. Theo thời gian, chính những lớp xà cừ đó đã biến hạt cát thành một viên ngọc quý giá.
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Câu chuyện trên giúp chúng ta nhận ra rằng, từ những đau khổ trong cuộc sống nếu được đón nhận với lòng tin tưởng vào Thiên Chúa, sẽ giúp thanh luyện tâm hồn chúng ta, biến đổi chúng ta trở nên những viên ngọc sáng trong Nước Trời. Năm Thánh là thời điểm đặc biệt để chúng ta canh tân đời sống đức tin. Đây là cơ hội để mỗi người nhìn lại hành trình đức tin của mình, để nhận ra rằng con đường nên thánh không dễ dàng nhưng đầy thử thách. Giống như hành trình của Abraham, của các môn đệ Chúa Giêsu, và của chính Giáo Hội qua bao thế kỷ, chúng ta cũng được mời gọi bước vào hành trình vượt qua thập giá để đạt đến vinh quang. Như thê, trong mùa chay thánh này, mỗi người hãy tự vấn: Tôi có dám từ bỏ những ích kỷ, hẹp hòi để sống quảng đại yêu thương không? Tôi có sẵn sàng vác thập giá mỗi ngày, đón nhận những hy sinh, đau khổ để tiến về Nước Trời không?
Xin Chúa ban cho chúng ta ơn can đảm để đón nhận thập giá trong đời sống, để theo Chúa và vâng nghe lời Chúa dạy: “Ðây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người.” Nhờ đó, chúng ta sẽ được chia sẻ vinh quang với Người trong Nước Trời. Amen.
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang.
SUY NIỆM 2: BIẾN ĐỔI ĐỜI CON CHÚA ƠI
Cả 3 bài đọc Lời Chúa hôm nay đều muốn nói với chúng ta cùng 1 điều này, đó là: Thiên Chúa có thể biến đổi tất cả mọi sự.
Bài đọc thứ nhất kể lại việc Thiên Chúa tuyển chọn Abraham, khi ông vẫn còn là một người ngoại đạo. Ông từng đặt vấn đề với Chúa, là làm sao ông có thể tin vào những lời Chúa nói. Thế nhưng, Thiên Chúa đã biến đổi Abraham từ một người nghi ngờ Thiên Chúa, thành cha của những kẻ tin và là tổ phụ của cả đoàn dân được tuyển chọn.
Thiên Chúa có khả năng biến đổi mọi sự. Điều này được chứng minh cách nhãn tiền qua việc Chúa Giêsu biến hình trên núi, được thuật lại trong bài Tin mừng hôm nay.
Sự biến đổi dung mạo của Chúa Giêsu, cũng đã làm biến đổi suy nghĩ của 3 môn đệ đang hiện diện ở đó. Nếu trước đây, Phêrô, Gioan và Giacôbê theo Chúa vì chỉ muốn được điều này điều nọ ở đời, thì sau khi được chiêm ngưỡng dung nhan sáng chói của Thầy mình, các ông chỉ muốn ở mãi trong tình trạng ấy để chiêm ngắm vinh quang của Ngài.
Còn trong bài đọc 2, Thánh Phaolô cho biết, Chúa Giêsu cũng sẽ dùng quyền năng như thế để biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta, trở nên giống thân xác vinh hiển của Người. Lời khẳng định ấy của Thánh Phaolô, cũng phải là niềm xác tín và là khát vọng của mỗi tín hữu chúng ta, khát vọng được Chúa biến đổi cuộc đời.
Vậy anh chị em muốn Thiên Chúa biến đổi bản thân mình về điều gì? Chắc chắn là mỗi người có những nguyện ước khác nhau. Tuy nhiên, trong tinh thần của mùa Chay thánh này, thiết nghĩ có hai điều mà chúng ta cần phải xin Chúa biến đổi ngay và liền.
Thứ nhất, là mỗi người hãy xin Chúa biến đổi tâm hồn mình, một tâm hồn đang bị hoen ố vì tội lỗi. Nếu sống mùa Chay thánh mà thiếu việc sám hối lỗi lầm và lãnh nhận Bí tích Hòa giải, thì quả là một thiếu sót và là một thiệt thòi lớn cho phần rồi linh hồn thưa anh chị em. Bởi qua Bí tích Hòa giải, chính Thiên Chúa sẽ rửa sạch tâm hồn chúng ta khỏi mọi vết nhơ tội lỗi. Ngài sẽ ban ơn tha thứ để biến đổi tâm hồn chúng ta trở nên tinh tuyền sạch trong.
Thử hỏi, ngoài Bí tích Hòa giải ra, còn có cách nào khác để rửa sạch tâm hồn mình không thưa cộng đoàn? Ngoài mùa Chay ra, thử hỏi trong một năm được mấy lần chúng ta tự động xét mình đi xưng tội thưa anh chị em? Do đó, mỗi người hãy tận dụng khoảng thời gian quý báu của mùa Chay Thánh này, để xin Chúa biến đổi tâm hồn mình qua việc lãnh nhận Bí tích Giao hòa.
Còn những ai nghĩ rằng, tôi có tội tình gì đâu, cần gì phải biến đổi! Những anh chị em đó hãy nhớ rằng, mình đã mất cảm thức về tội, chứ không phải mình vô tội và không cần phải được biến đổi.
Thứ hai, là mỗi người hãy xin Chúa biến đổi trái tim mình, một trái tim chai lì khô cứng trước những mảnh đời quanh ta. Trong mùa Chay, người Kitô hữu được mời gọi hãy sống đức ái Kitô giáo một cách cụ thể nhất. Một đức ái không chỉ dừng lại ở bên trong, cũng không chỉ nằm trên đầu môi chót lưỡi; nhưng phải được thể hiện bằng hành động cụ thể, là chia cơm sẻ áo cho người nghèo.
Quanh ta còn biết bao người đói lả, biết bao mảnh đời đang rất cần đến trái tim rộng lượng và những nghĩa cử đẹp của tất cả chúng ta. Do đó, mỗi người hãy xin Chúa biến đổi trái tim mình, một trái tim không chỉ biết thổn thức với tình cảm lứa đôi, trước những người thân yêu ruột thịt, nhưng còn biết rung cảm trước những mảnh đời cô quạnh.
Xin đừng một ai ngoảnh mặt làm ngơ khi mình có thể. Nhưng mỗi người hãy cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặt, viếng kẻ liệt cũng kẻ tù rạc, cho khách đỗ nhà, chuộc kẻ làm tôi, chôn xác kẻ chết; Bởi Chúa Giêsu đã từng nói: “Mỗi khi các ngươi làm những điều ấy cho một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các người đã làm cho chính Ta vậy”.
Tóm lại, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa, một Thiên Chúa có thể biến đổi mọi sự nên tốt đẹp hơn. Mỗi người cũng hãy xin Chúa biến đổi tâm hồn mình khỏi mọi vết nhơ tội lỗi, và biến đổi trái tim ta luôn biết rộng mở yêu thương; để mùa Chay Thánh này trở nên mùa ân phúc của tất cả mọi người. Amen.
Lm. Antôn
SUY NIỆM 3: HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN
Sau biến cố Gioan Tẩy Giả bị chém đầu (Mt 14,1-12; Mc 6,14-29), Chúa Giêsu tiên báo về cuộc khổ nạn sắp tới, Người sẽ lên Giêrusalem để chịu thương khó và chịu chết. Một đám mây đen che phủ các môn đệ.
Họ chao đảo niềm tin. Phêrô đại diện anh em phản đối kịch liệt. Phêrô không chấp nhận thập giá khổ nhục. Để khai quang đám mây đen đó và để cũng cố niềm tin cho các môn đệ, Chúa Giêsu đưa họ lên núi Tabor. Người biến hình, cho họ thấy một thoáng Phục sinh trước Phục sinh, cho họ hưởng nếm một chút Thiên đàng trước Thiên đàng. Nhờ đó các môn đệ thêm niềm tin, thêm mạnh mẽ, thêm xác tín.
Chúa đưa ba môn đệ lên núi cao. Các ông được đi vào một thế giới vừa kỳ diệu vừa lạ lùng, làm biến đổi ý nghĩa cuộc đời.
Các ông thấy: “Dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy” (Mc 9,3); “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng” (Mt 17,2); “Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa” (Lc 9,29). Khi biến đổi hình dạng nên sáng láng, Chúa Giêsu cho các tông đồ thoáng nhận ra vinh hiển tương lai của Người.
Suy niệm biến cố Biến Hình, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI viết: “Chính nơi đây nổi bật sự liên hệ và sự khác biệt với gương mặt ông Môisen: “Khi ông Môisen từ trên núi Sinai xuống, tay cầm hai tấm bia Chứng Ước, khi xuống núi, ông Môisen không biết rằng da mặt ông sáng chói bởi đã đàm đạo với Thiên Chúa” (Xh 34,29-35). Qua việc đàm đạo với Thiên Chúa, ánh sáng của Thiên Chúa chiếu sáng trên ông và làm cho ông sáng chói. Như thế, ánh sáng từ bên ngoài chiếu vào ông làm cho ông sáng chói. Đức Giêsu chói sáng tự bên trong, không những Người đón nhận ánh sáng mà chính Người là ánh sáng bởi ánh sáng”. (x.Đức Giêsu thành Nazareth, Lm Aug Nguyễn Văn Trinh biên dịch, trang 268).
Cuộc kết hiệp đã đưa Chúa Giêsu đi vào thiên giới. Cảnh vật chung quanh cũng biến đổi theo cuộc kết hiệp vĩ đại đó: “Y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa”. Cuộc kết hiệp thần kỳ đã mở ra tất cả bí mật của thế giới Thiên Chúa. Rõ nét nhất là tương quan phụ tử: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn” (Lc 9,35). Tiếng Chúa Cha phán ra từ đám mây bao phủ các ông. Đám mây thiên linh, là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Đám mây ngự trên Lều Hội Ngộ cho thấy sự hiện diện của Đức Chúa. Đức Giêsu là Lều Thánh, đám mây của sự hiện diện Thiên Chúa đậu trên Người và từ đó cũng sẽ “bao phủ” mọi người. Sự kiện thánh tẩy Đức Giêsu được tái hiện, nơi đó Chúa Cha từ đám mây công bố Đức Giêsu là Con: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” (Mc 1,11). (sđd, trang 172).
Các môn đệ còn thấy: “Có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Êlia”. Đây là hai nhân vật quan trọng nhất trong Cựu ước, đại diện cho hai thực tại quan trọng nhất của Do Thái giáo. Môisen đại diện cho luật pháp. Êlia đại diện cho các ngôn sứ. Hai ông là biểu tượng tiên báo sự ra đời của Đức Giêsu. “Lề luật và ngôn sứ đàm đạo với Đức Giêsu và nói về Người. Trong một chú thích ngắn ngũi, thánh Luca trình thuật cho chúng ta về điều hai chứng nhân của Thiên Chúa nói với Đức Giêsu: “Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem” (Lc 9,31). Đề tài đàm đạo của các ngài là thập giá, nhưng hiều ngầm là cả cuộc “Xuất hành của Đức Giêsu” phải diễn ra tại Giêrusalem. Thập giá Đức Giêsu là cuộc xuất hành, một việc bước ra khỏi cuộc sống này, vượt qua Biển Đỏ của cuộc khổ nạn và tiến đến vinh quang, dù vẫn còn mang thương tích của cuộc khổ nạn” (sđd trang 268).
Ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê có những trải nghiệm tuyệt vời về Thầy của mình. Cũng vẫn là Đức Giêsu bằng xương bằng thịt mà các ông vẫn thường gặp gỡ tiếp xúc hằng ngày, nhưng lần này, các ông được nhìn thấy Người dưới một dung mạo mới: thật sáng ngời, thật hấp dẫn và đầy uy nghi. Các ông vững lòng tin tưởng.
Trên núi cao, Chúa Giêsu gặp gỡ thân mật với Chúa Cha. Bỗng chốc Người biến hình. Các môn đệ ngất ngây trong niềm hạnh phúc tuyệt vời. Các ông muốn ở lại trên núi để sống niềm hạnh phúc ngập tràn ấy. Các ông muốn níu kéo khoảnh khắc thần tiên ấy lại nên Phêrô thay mặt anh em thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môisen, và một cho ông Êlia”. Phêrô muốn dừng lại để định cư với những túp lều lý tưởng trên núi cao.
Các môn đệ muốn đăng ký thường trú trên núi Tabor, muốn đắm mình trong hào quang rực rỡ. Họ bỏ lại dưới chân núi các bạn đồng môn, các cuộc truyền giáo của Thầy. Họ muốn xa rời dân chúng đang khao khát Lời Chúa. Nhưng Chúa Giêsu đưa các môn đệ trở xuống. Người chỉ lên đỉnh Tabor trong chốc lát rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá lên núi Golgotha. Xuống núi để chu toàn nhiệm vụ trần gian. Chúa Giêsu phải chịu khổ nạn, chịu chết rồi mới Phục Sinh mở lối vào thiên đàng. “Cảm nghiệm sự kiện Hiển Dung đã giúp cho thánh Phêrô nhận thức trong lúc ngất trí, những thực tại được biểu trưng trong các nghi thức của ngày lễ đã được hoàn tất, biến cố Hiển Dung loan báo thời đại Messia đã bắt đầu. Mãi khi xuống núi, thánh Phêrô lại phải học hỏi một lần nữa, thời đại Messia trước tiên là thời đại của thập giá và việc Hiển Dung, Chúa biến dạng thành ánh sáng, sẽ bao trùm chúng ta trong ánh sáng của cuộc khổ nạn.” (sđd trang 269).
Chứng kiến Chúa Hiển Dung, thấy rõ tất cả sự thật về Thầy, các môn đệ vững tin hơn. Từ nay, các ông tin tưởng tuyệt đối “Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,21).
Sự kiện Chúa Giêsu biến hình cùng với sự xuất hiện của hai chứng nhân Cựu Ước, Môisen và Êlia, thêm một lần nữa, khẳng định sứ mệnh của Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế. Và còn hơn thế nữa, lời Chúa Cha giới thiệu: “Này là con Ta, người được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người”. Mọi người, mọi thời phải nghe Lời Chúa Giêsu, vì đây là Lời Chúa Cha, vì chỉ một mình Chúa Giêsu là Thầy mà thôi. Những chứng cứ về Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế thật quá rõ ràng. Con người muốn được sống và hưởng vinh quang Thiên Chúa, điều kiện cần và đủ, là tin vào Chúa Giêsu Kitô.
“Vâng nghe lời Người” là tất cả những gì cần thiết để con người đi đến bến bờ vinh quang của Thiên Chúa. Đó là cuộc hành trình của Đức Tin: “Con người trên đường lữ hành về với Đấng Tuyệt Đối. Đời sống con người trên trái đất là một cuộc lữ hành. Đức Tin lữ hành của con người hướng con người về Thiên Chúa, giúp con người chọn lựa những gì sẽ làm cho mình đạt tới sự sống vĩnh hằng. Do vậy, mỗi giây phút trong cuộc lữ hành trên trái đất đều quan trọng, quan trọng với những thách đố và chọn lựa của nó” (x.Tiến về ngàn năm thứ ba, ĐGH Gioan Phaolô II).
Tin vào Đức Kitô là đi con đường Thập Giá cùng với Người. Muốn ở lại trong vinh quang của Đức Kitô, phải vác thập giá với Người: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9,23).Vác thập giá hằng ngày là chấp nhận những khổ đau theo thánh ý Chúa, là đối diện với những thách đố của cuộc đời với lòng thanh thản trong sự phó thác vào tình yêu Thiên Chúa, là biết từ bỏ và chọn lựa những gì cần thiết để nuôi dưỡng niềm tin vào Thiên Chúa. Cuộc lữ hành Đức Tin đầy hiểm nguy sóng gió. Satan “như sư tử gầm thét, ngày đêm rình mò chờ chực cắn xé” (1 Pr 5,8).Satan luôn rình rập chung quanh chúng ta, nó “chờ đợi thời cơ” (Lc 4,13) thuận tiện và khai thác tất cả mọi thứ trong cuộc sống để làm lung lay niềm tin của chúng ta,
Nếu chúng ta”có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này ‘rời khỏi đây, qua bên kia!’ nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được” (Mt 17,20-21). Sức mạnh đức tin thật lớn lao!
Bài đọc 1 kể về đức tin của Abraham. Nhờ “tin Đức Chúa” (St 15, 6), Abraham được “Đức Chúa lập giao ước” (St 15,18). Không những thế, ông còn trở thành tổ phụ của dòng dõi đông như sao trên trời (x. St 15,5). Nhưng trên hết, nhờ lòng tin, ông được “Đức Chúa kể ông là người công chính” (St 15,6). Lòng tin đã thực hiện một cuộc biến hình ngoạn mục trong đời Abraham. Đức tin đã khiến Abraham vượt núi băng rừng đến miền đất hứa.
Đất hứa đó, ngày nay không đóng khung trong ranh giới Do thái, vì miêu duệ Abraham là Giáo hội đã trải rộng khắp mặt đất. Mặc dù niềm tin đó đã gặp nhiều thử thách, nhưng Giáo hội vẫn sống mạnh mẽ với niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Nhờ đó, Giáo hội đã biến hình và luôn phản ánh vinh quang Thiên Chúa giữa muôn dân.
Cuộc biến hình hôm nay còn ngoạn mục hơn Abraham nhiều. Chính cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu sẽ biến Kitô hữu thành người công chính, thành bạn hữu của Người để có thể đi vào cuộc hiệp thông sâu xa với Thiên Chúa.
Trong bài suy niệm “Việc ĐGH Bênêđictô XVI từ nhiệm là một sứ điệp của Năm Đức Tin”, Đức Cha Bùi Tuần viết: “…Tin Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI từ nhiệm đã và đang gây xôn xao trong mọi tầng lớp xã hội và Giáo Hội. Đức Giáo Hoàng từ nhiệm, đó là biến cố rất bất ngờ. Bất ngờ đó gây ra trong tôi một nỗi bàng hoàng choáng váng.Lấy lại sự bừng tỉnh nhờ cầu nguyện, tôi cúi đầu lắng nghe Chúa dạy bảo. Chợt tôi nhớ lại một chi tiết nhỏ riêng tư, lần tôi được gặp Đức Giáo Hoàng lúc Ngài còn là Hồng Y Bộ trưởng Bộ Đức Tin. Trong trao đổi, tôi thấy Ngài chú ý đặc biệt đến sự gặp gỡ Đức Kitô. Như thế căn cốt của đức tin là gặp gỡ riêng tư và thân mật với Đức Kitô, để bước theo Đức Kitô… Nên trong thinh lặng nội tâm lúc này, Chúa dạy tôi hãy dùng chi tiết đó như một ánh sáng để hiểu sự từ nhiệm của Đức Giáo Hoàng. Nhờ ơn Chúa giúp, tôi dần dần nhận ra rằng: Sự từ nhiệm của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô chứng tỏ Ngài đã và đang gặp gỡ Đức Kitô và bước theo Đức Kitô… Theo Ngài, tin là gặp gỡ Đức Kitô và bước theo Đức Kitô trong sự từ bỏ quyền lợi riêng, và bước xuống thân phận con người hèn yếu, vì yêu thương con người và để cứu chuộc loài người…”. (x.gplongxuyen.net).
Đức Thánh Cha đã đi trọn hành trình theo Đức Kitô,đã trở nên giống Chúa Kitô. Đức Thánh Cha từ nhiệm vào đầu Mùa Chay để sống tinh thần Mùa Chay: sám hối, chay tịnh, cầu nguyện cho Giáo Hội, thể hiện một tình yêu vô biên đối với Giáo Hội.
Gặp gỡ Đức Kitô và bước theo Đức Kitô là một hành trình đức tin đi đến sự sống mới.Thánh Phaolô đã đi trọn hành trình ấy và ngài đúc kết kinh nghiệm về cuộc sống biến đổi trở nên giống Chúa Kitô. Tư tưởng “trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô” (Pl 3,10) bàng bạc trong các bức thư của ngài và đã trở thành nguyên lý căn bản đưa chúng ta đến ơn cứu rỗi. Cuộc biến đổi để trở nên giống Chúa Kitô mỗi ngày một hơn là một tiến trình kéo dài cả đời người. Mỗi ngày một chút, rũ bỏ con người cũ, loại dần lối sống tội lỗi để làm con người mới với lối sống mới theo Thánh Thần, chúng ta sẽ gắn bó và thuộc về Chúa Kitô, và Người sẽ “biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Bài đọc 2).
Thiên Chúa yêu thương con người là một tình yêu không “môn đăng hộ đối”, hoàn toàn do sáng kiến và lòng xót thương của Ngài. Thiên Chúa đã đi bước đầu trong mối tương quan và thiết lập giao ước với Apraham.Thiên Chúa hứa ban cho ông một dòng dõi đông đúc và nguyên vẹn. Thiên Chúa cũng hứa thông qua ông, tất cả các dân tộc trên trái đất sẽ được chúc phúc, bởi vì Đấng Messia sẽ đến từ dòng dõi của ông. Lời hứa ấy đã được nên trọn vẹn nơi Chúa Giêsu. Biến cố biến hình chính là một mạc khải về tình thương lạ lùng đó. Thiên Chúa hiến mình cho con người: Cha hiến ban Con và Con hiến ban chính bản thân mình chịu chết để vào Phục Sinh khai mở con đường dẫn tới sự sống. Tin vào tình thương Thiên Chúa, nên chúng ta học theo lối sống của Chúa Giêsu bằng cách đọc và suy gẫm Tin Mừng, đem Lời Chúa vào cuộc sống, để cho Lời Chúa thay đổi cách suy nghĩ, nói năng và hành động của chúng ta được trở nên giống với cung cách của Chúa Giêsu. Đó là được biến hình trong Chúa, nên đồng hình đồng dạng với Chúa như Thánh Phaolô đã từng cảm nghiệm: ‘Tôi sống nhưng không phải tôi sống, chính Chúa Kitô sống trong tôi” (Gal 2,10).
“Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở trong người đó…sẽ sinh nhiều hoa trái” (Ga 15,5). Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con mỗi ngày nên giống Chúa trong lời nói việc làm, xin cho đời sống chúng con nên dấu chỉ yêu thương của Chúa giữa cuộc đời hôm nay. Amen.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
SUY NIỆM 4: HÃY HIỂN DUNG HÌNH ẢNH CHÚA CHO ANH EM
Cái quý nhất của con nguời là được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa. Cái hạnh phúc lớn nhất của con người là gìn giữ nét đẹp cao qúy đó nơi phẩm giá làm người của mình. Và điều cần thiết nhất để có một cuộc sống tốt với mọi ngừơi là nhận ra tha nhân cũng chính là hình ảnh của Thiên Chúa.
Thế nhưng, nhiều người đã phủ nhận điều cao qúy nơi phẩm giá làm người của mình. Họ không tin rằng có Thiên Chúa. Họ chối từ sự sống thần linh mà Thiên Chúa đã ban cho con người. Từ đó người ta cũng không lo gìn giữ cái đẹp của phẩm giá làm người của mình. Họ chỉ thấy con người là một loài vật có ăn có uống. Thế giới của họ là một thế giới mạnh thắng, yếu thua, và “cá lớn nuốt cá bé”. Họ không nhận ra sự liên đới giữa người với người đều là hình ảnh Thiên Chúa, cần phải tôn trọng và sống tốt với nhau. Con người đã tự khước từ phẩm giá cao qúy là hình ảnh Thiên Chúa nên cũng dễ dàng từ khước nhau và đầy đoạ lẫn nhau. Thế giới vẫn đầy những bất công và hận thù. Con người vẫn vì những tham sân si mà làm hại lẫn nhau.
Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Ngày xưa thỏ và sư tử sống gần nhau, nhưng sư tử rất kiêu ngạo, vẫn cho mình là to khoẻ nên xem thường loài thỏ. Sư tử thường mắng thỏ và doạ nạt thỏ suốt ngày. Thỏ tức mình không chịu nổi mới nghĩ ra cách báo thù.
Một lần kia nó nói với sư tử rằng:
-Thưa ông anh, em vừa gặp một thằng to lớn và trông giống anh lắm. Nó bảo em rằng: “Trên đời này nó chưa sợ ai, và cũng chưa ai dám đối mặt với nó”. Thằng cha này không coi ai ra gì cả!
Sư tử tức giận và bảo rằng: “Thế mày có nhắc đến tên tao không?”
-Thỏ trả lời: Sao lại không? Em vừa nhắc đến tên anh thì nó lồng lộng lên và bảo rằng anh chỉ đáng đàn em nó thôi.
Sư tử càng tức điên người lên và hỏi: Nó ở đâu? dẫn tao đến ngay.
Thỏ liền dẫn sư tử ra sau núi, và chỉ một cái giếng ở đàng xa và bảo: Đấy, nó ở trong đó đấy!
Sư tử đi lại gần giếng vẻ mặt căm tức nhìn xuống đáy giếng. Quả thực, nó trông thấy ngay một tên, với cặp mắt giận dữ đang trừng trừng nhìn nó. Sư tử rống lên một tiếng, tên kia cũng rống lên một tiếng. Sư tử xù lông cổ lên tên kia cũng xù lông cổ lên. Sư tử nhe nanh múa vuốt đe doạ, tên kia cũng hăm dọa lại. Sư tử căm tức đến tột độ dồn hết sức mình nhảy phốc xuống giếng để cho thằng khốn nạn kia một trận. Thế là, con sư tử ngạo mạn tự huỷ diệt đời mình dưới giếng sâu…
Thất bại của sư tử là không nhận ra mình nên đã lao vào cắn xé chính hình ảnh của mình. Sư tử chỉ muốn nhất. Sư tử chỉ muốn làm bá chủ nên sẵn sàng loại trừ tất cả các đối thủ có nguy cơ nguy hại đến vị trí số 1 của mình.
Nếu con người của mọi thời đại biết nhìn nhận mình là hình ảnh của Thiên Chúa và mọi người là anh em với nhau, sẽ có những cách hành xử tốt với nhau hơn. Nếu con người nhận ra hình ảnh Chúa nơi tha nhân, chắc chắn sẽ không đối xử tàn bạo với nhau. Nhưng tiếc thay, nhiều người chỉ muốn làm chúa sơn lâm nên lao đầu vào cắn xé đồng loại, hành hạ đồng loại của mình và sẵn sàng làm đủ trò để loại trừ đồng loại.
Hôm nay, lễ Chúa hiển dung nghĩa là Chúa tỏ hiện đúng dung nhan thật của Ngài. Một dung nhan thánh thiện rạng ngời mà bấy lâu nay nhân tính đã che phủ thiên tính của Ngài. Một dung nhan tinh tuyền của một vì Thiên Chúa là Thánh, ngàn trùng chí thánh đến nỗi cả ba môn đệ đều ngây ngất vì được chiêm ngắm dung nhan thật của Thầy Giêsu. Ba môn đệ đã cúi mình kính phục trước dung nhan thật của Chúa Giêsu. Đó chính là sứ điệp mà mùa chay đang mời gọi chúng ta: hãy tỏ hiện dung nhan thật của chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa ra lời nói và việc làm của mình. Hãy thể hiện sự thánh thiện của hình ảnh Thiên Chúa nơi chính mình để anh em được chiêm ngưỡng. Hãy biểu lộ lối sống tinh tuyền, chân thật của phẩm giá làm ngừơi để anh em được hạnh phúc khi sống với chúng ta.
Mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy tìm lại hình ảnh ban đầu của tạo dựng. Hãy gạn đục khơi trong để hình ảnh của Chúa luôn tỏ hiện ra nơi bản thân của chúng ta. Hãy tìm lại hình ảnh tinh tuyền ban đầu của mình, một hình ảnh chưa bị lòng ham muốn danh lợi thú làm hoen ố, mới thấy phẩm giá cao đẹp của con người thật cao qúy hơn muôn loài. Có ý thức được sự cao qúy nơi phẩm giá làm người mới biết trân trọng và gìn giữ cho mình và cho anh em. Phẩm giá con người cao qúy hơn mọi danh lợi thú trần gian, thế nên đừng bao giờ vì một chút bổng lộc trần gian, một chút vui sướng mau qua mà đánh mất phẩm giá của mình và làm tổn thương đến phẩm giá của tha nhân.
Xin Chúa giúp chúng ta can đảm tẩy rửa những bợn nhơ tội lỗi làm hoen ố lương tri, và xin Chúa thêm ơn trợ giúp để chúng ta luôn gìn giữ nét đẹp nơi phẩm giá làm người của mình và của tha nhân. Amen.
Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
SUY NIỆM 5: KHÔNG PHẢI HẾT CÁC TÔNG ĐỒ ĐƯỢC THẤY CHÚA BIẾN HÌNH
Chúa Giêsu nhận thức rằng cuộc khổ nạn của Người sẽ để lại một kinh nghiệm đau thương cho các tông đồ, nhất là cho Phêrô, Giacôbê và Gioan. Bộ ba tông đồ sẽ chứng kiến cảnh khổ nạn của Chúa trong Vườn Cây dầu. Việc ba Tông đồ phản ứng về cuộc Biến hình của Chúa đáng cho ta lưu ý. Thoạt tiên các ông tỏ ra phấn khởi với thị kiến biến hình, nên Phêrô đại diện ba Tông đồ thốt lên: Thưa Thày, chúng con mà được ở đây thì tuyệt vời (Lc 9:33). Cái hiệu quả của thần linh hiện diện khiến họ say mê đến nỗi muốn lưu trữ kinh nghiệm biến hình để làm bảo vật bằng cách xin dựng lều ở lại. Tuy nhiên khi nghe tiếng từ trời phán, họ lâm vào tình trạng sợ hãi.
Người Kitô giáo sống đức tin cũng có thể trải qua những kinh nghiệm biến hình nào đó trong cuộc sống. Có những khi họ phấn khởi trước tiếng gọi nên thánh. Đôi khi việc bày tỏ sự thánh thiện không là gì khác ngoài cảm giác cao hứng sống đạo giống như hiệu quả của thuốc kích thích thần kinh. Sách tu đức thần bí diễn tả cái hiện tượng khác thường như vậy là xuất thần hoặc bay bổng. Tuy nhiên những cảm giác đạo đức khác thường như vậy không bảo đảm cho sự thánh thiện. Người Kitô giáo cũng không nhất thiết phải có cảm giác thiêng liêng về đạo giáo như vậy. Đôi khi người ta nghe những lời phàn nàn cho rằng đạo giáo không giúp gì cho đời sống của người theo đạo được thay đổi. Người ta thấy không có gì khác biệt giữa người Kitô giáo và người không phải Kitô giáo. Cách suy tư hay lý luận như thế chẳng qua nảy sinh ra từ cái tiềm thức muốn thấy đức tin phải tạo ra những gì khác biệt hay những hiệu quả kỳ diệu. Những người mang tâm trạng như vậy ôm ấp cái ảo tưởng cho rằng đạo giáo phải cung ứng cho họ những cảm giác đạo giáo khác lạ. Có những người đòi hỏi Chúa làm cuộc biến hình trước mắt họ, nghĩa là đòi Chúa làm phép lạ cho họ thấy những việc kỳ diệu trước khi họ đặt tin tưởng vào Người. Họ muốn đi tìm những cảm giác thiêng liêng về đạo giáo. Nếu có cảm giác rồi, họ muốn đi tìm thêm nữa, nghĩa là họ nghiền cảm giác. Họ để cho cảm giác điều khiển cuộc sống thiêng liêng, nghĩa là khi cảm thấy thích thú thì họ giữ đạo, còn không thì bỏ cuộc.
Họ là loại người nhanh chân đi tìm đến những nơi mà người ta cho rằng có phép lạ hay hiện tượng lạ. Cái tính tò mò về đạo giáo của họ là muốn có kinh nghiệm bằng cảm giác, và khi cái tò mò tính của họ không được toại nguyện, họ đổ lỗi cho đạo giáo, đã không cung ứng cho họ cảm giác. Hôm nay ta cần nhận thức rằng cảm giác chỉ là cảm giác. Ngay cả cảm giác về đạo giáo cũng chỉ có ích lợi tới mức mà có thể là khởi điểm của việc hoán cải nội tâm, hoặc là khởi điểm cho việc thiết lập mối liên hệ gần gũi với Chúa. Ước mong quá nhiều cảm giác đạo giáo, hay tuỳ thuộc quá nhiều vào cảm giác đạo giáo là dấu hiệu chưa trưởng thành về đời sống đức tin.
Người công giáo không thể chỉ mong Chúa làm phép lạ biến hình cho thấy vinh quang của nước Chúa, hoặc cho họ cảm giác đạo giáo như là điều kiện để theo Chúa và để sống đạo. Người công giáo không thể để cho cảm giác đạo giáo điều khiển cuộc sống, như là hễ có cảm giác vui, hứng khởi về đạo giáo thì mới giữ đạo và thực hành đức tin. Người công giáo phải nhớ rằng không phải hết các tông đồ đều được thấy cảnh biến hình của Thầy mình, mà chỉ có ba ông được thấy. Và Chúa căn dặn các ông đã thấy cảnh biến hình ‘ không được nói với ai về việc đã thấy, cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại’ (Mt 17:9). Phúc âm ghi lại các Tông Đồ ‘tuân giữ lời căn dặn đó’ (Mc 9:10) và ‘suốt thời gian đó, các môn đệ giữ kín không nói với ai những điều mình đã chứng kiến.’ (Lc 9:36). Các Tông đồ không thấy cảnh biến hình của Chúa cũng đã chấp nhận hy sinh, đau khổ và thánh giá. Vậy nếu thấy được cảnh Chúa biến hình, hoặc nếu có được cảm giác đạo giáo, thì là điều tốt. Tuy nhiên người Kitô giáo không thể để cho cảm giác điều khiển cuộc sống. Chỉ có quyết định mới là quan hệ, vì những quyết định người ta làm bây giờ sẽ định hướng cho tương lai của cuộc đời. Để được tham dự vào cuộc phục sinh vinh hiển của Chúa, người Kitô giáo phải sẵn sàng vác thánh giá Chúa gửi đến, chứ không phải chỉ tìm cảm giác vui thích và hứng khởi về đạo giáo.
Lm Trần Bình Trọng
SUY NIỆM 6: CHÚA GIÊSU BIẾN HÌNH ĐỔI DẠNG
Chúng ta cũng giống như Đức Giêsu: có bản chất cao quí ẩn trong thân xác yếu đuối của kiếp người trần Cuộc biến hình của Đức Giêsu cho ta thấy bản chất sâu thẳm của Ngài, Ngài không chỉ là một con người yếu đuối, phải đau khổ, và chịu bao hạn chế của kiếp người như bao người khác, mà còn là một vị Thiên Chúa đầy vinh quang và quyền năng. Trước khi Ngài bước vào cuộc khổ nạn và chịu chết, Ngài đã cho ba môn đệ yêu dấu nhất của Ngài thấy được bản chất sâu thẳm của Ngài, để củng cố niềm tin của các ông. Nhất là trong những ngày sắp tới, đức tin của các ông sẽ bị chao đảo dữ dội, vì lúc ấy các ông chỉ có thể thấy được con người hết sức bất lực và hạn chế của Ngài. Nhưng thật ra, sự yếu đuối bất lực ấy chỉ là tạm thời, bản chất thường hằng của Ngài là bản chất đầy vinh quang, cao cả như các môn đệ đã chứng kiến trên núi Ta-bo. Bản chất ấy vẫn còn trong tình trạng ẩn dấu, chưa tỏ lộ.
Chúng ta cũng một phần nào tương tự như Đức Giêsu, chúng ta cũng có hai bộ mặt, với hai cách hiện hữu hết sức khác nhau. Một đằng chúng ta là con người như bao nhiêu người khác, nhưng đằng khác, chúng ta là con cái Thiên Chúa. Là con cái Ngài, ta được Ngài ban những ơn đặc biệt để trở nên xứng đáng với địa vị đó. Căn bản và cao quí nhất là Ngài thông ban cho chúng ta chính bản tính Thiên Chúa của Ngài. Thánh Phê-rô đã cho ta biết chân lý ấy: “Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quí báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa, sau khi thoát khỏi cảnh hư đốn do dục vọng gây ra trong trần gian” (2Pr 1,4).
- Bản chất cao quí của chúng ta: là con cái của Thiên Chúa
Thông thường, ta ít khi ý thức được phẩm giá hết sức cao quí của mình cũng như của những Ki-tô hữu sống gần ta, chung quanh ta, tất cả đều là con cái Thiên Chúa. Không ý thức được điều ấy, nên ta không trân trọng đủ chính bản thân ta cũng như không trân trọng những Ki-tô hữu khác. Chúng ta sống giống như mình không phải là con cái của Ngài, vì nếu ta xác tín được mình là con cái của Ngài, đời sống chúng ta sẽ thay đổi rất nhiều. Chúng ta thử nghĩ, nếu ta là con một vị vua, là một hoàng tử, thì ta sẽ xử sự thế nào? Trước mặt mọi người, ta sẽ phải cư xử cho đúng với tư cách một vị hoàng tử. Đi đâu ta cũng không sợ bị ai ăn hiếp hay bắt nạt, vì đằng sau ta có cả một hậu thuẫn mạnh mẽ.
Tuy cũng có cái vỏ bề ngoài yếu đuối và đầy hạn chế như bao nhiêu người khác, nhưng bản chất của chúng ta vượt hẳn cái vỏ bề ngoài yếu đuối ấy. Chúng ta là con cái Thiên Chúa, được thông phần bản tính của Thiên Chúa, đầy vinh quang, quyền năng, tình thương. Tình trạng của chúng ta giống như bức tượng bằng vàng trong câu chuyện minh họa sau đây.
Một ngôi chùa kia có một tượng Phật bằng vàng, nhưng trong thời chiến tranh loạn lạc, người ta phải che dấu sự quí giá ấy bằng một lớp đất sét bọc bên ngoài. Thành thử mọi người tới xem chỉ thấy đó là một bức tượng bằng đất sét, chẳng quí giá hơn những tượng đất sét khác. Chiến tranh kéo dài quá lâu, nên sau chiến tranh, người ta không còn nhớ bức tượng đó bằng vàng nữa, cho đến một hôm… Một hôm, sư trụ trì vô tình để một vật cứng chạm mạnh vào bức tượng, khiến bức tượng bị bể một mảnh lớn, và để lộ ra chất vàng lấp lánh sáng chói. Thế là ông bèn đập bỏ tất cả lớp đất sét bọc bên ngoài. Và tượng Phật bây giờ đã trở thành một bức tượng bằng vàng sáng chói, đầy giá trị.
Mỗi người Ki-tô hữu chúng ta đều có một cái gì giống như bức tượng đó. Bên ngoài dù chúng ta không khác gì ai, không hơn gì ai, nhưng thực ra, chúng ta là con cái Thiên Chúa, là hình ảnh của chính Thiên Chúa, mang bản tính Thiên Chúa nơi bản thân. Dù ta có yếu hèn, tội lỗi, hay xấu xa đến thế nào đi nữa, thì bản tính Thiên Chúa trong chúng ta vẫn là bản tính của Thiên Chúa, đầy quyền năng, mạnh mẽ, trong sạch, thánh thiện. Vào thế kỷ thứ nhất của Ki-tô giáo, một giám mục thuộc phái Ngộ Đạo (gnosticisme) nói rằng: “Chúng ta, những người Ki-tô hữu, cũng giống như một thỏi vàng nguyên chất, dù có bị ném xuống bùn nhơ, cũng vẫn là một thỏi vàng nguyên chất với đầy đủ giá trị của nó. Chỉ cần rửa sạch lớp bùn bám bên ngoài, thì thỏi vàng lại sáng lên ánh sáng đặc trưng của nó”. Hay tương tự như một hoàng tử trong thời gian bị lưu lạc xa vua cha, dù có làm nghề gì thấp hèn đến đâu để sinh sống, thì cũng vẫn là hoàng tử. Chỉ cần hoàng tử ấy trở về với vua cha, thì hoàng tử sẽ lại trở thành hoàng tử chính hiệu, với quyền kế vị vua cha.
- Chúng ta thường quên không ý thức được bản chất cao quý ấy
Rất nhiều khi người Ki-tô hữu chúng ta đã quên mất bản chất hết sức cao quí của mình là con cái Thiên Chúa, là hình ảnh Thiên Chúa (nghĩa là giống như Thiên Chúa), là người mang trong mình bản tính của Thiên Chúa, và vì thế chúng ta có quyền thừa hưởng gia nghiệp cua Ngài với tư cách là con cái Ngài. Chính vì quên mất cái bản chất cao quí ấy, nên nhiều khi chúng ta đã sống không xứng đáng với bản chất ấy, nghĩa là cũng chỉ sống giống như bao người khác, thậm chí sống như con cái của ma quỉ, của thế gian, không phù hợp với phẩm giá của mình. Là con cái Thiên Chúa, nhưng nhiều khi chúng ta tin tưởng, cầu xin, khiếp sợ hoặc trông cậy vào những thế lực khác, vào sự can thiệp của những quyền lực không phải của Thiên Chúa, thậm chí đối nghịch với Thiên Chúa. Chúng ta đã hành xử như thể Thiên Chúa là một hữu thể xa lạ đối với mình, không phải là người Cha rất yêu thương mình, mà hành xử như một người có bản chất thấp hèn. Hành xử như thế, vô tình, chúng ta đã hạ thấp hoặc xúc phạm đến hình ảnh và bản tính Thiên Chúa trong chúng ta.
- Hãy thường xuyên biểu lộ bản tính cao cả của chúng ta trong tư tưởng, qua lời nói và hành động
Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy thần tính hay bản chất vinh quang cao cả của Đức Giêsu, vốn ẩn dấu trong thân xác đầy hạn chế của Ngài, nay hiện ra một cách tỏ tường trước mặt các tông đồ. Điều đó cũng nhắc cho chúng ta ý thức về bản tính hay hình ảnh của Thiên Chúa nơi thân xác yếu đuối của chúng ta. Chúng ta cần thường xuyên biểu lộ bản tính hay hình ảnh của Thiên Chúa nơi chúng ta qua tư tưởng, lời nói, hành động của mình. Làm sao để mỗi tư tưởng, mỗi lời nói, cũng như mỗi hành động của chúng ta đều nói lên được bản chất cao quí của chúng ta là con cái Thiên Chúa, là hình ảnh trung thực của Thiên Chúa. Giống như người ta có thể nhìn vào cách ăn nói, xử sự của một người mà đoán được bản chất của người ấy. Hay như khoa học thời nay có thể căn cứ vào một sợi tóc, một tế bào của một người mà biết được tính chất hay tình trạng thể lý của người ấy. Cuộc sống của một người con cái Chúa cũng phải toát lên được bản chất ấy của mình.
Bài đọc 2 cũng nhắc lại cho ta biết quê hương đích thật của chúng ta là ở trên trời. Và trong tương lai thân xác yếu hèn của chúng ta cũng sẽ trở nên vinh hiển, mạnh mẽ như thân xác của Ngài. Tất cả những đau khổ, hạn chế của ta chỉ là tạm thời, sẽ qua đi, nhưng bản chất cao quí của ta thì mãi mãi tồn tại và không thay đổi.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin giúp con ý thức được bản chất cao quí của con là con cái Chúa, là hình ảnh của Chúa, và được Chúa thông phần bản tính của Chúa cho con. Xin cho con biết luôn ý thức bản chất cao quí của mình, và sống xứng đáng với bản chất ấy. Amen.
John Nguyễn