CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN – NĂM B
Êd 2,2-5; 2 Cr 12,7-10; Mc 6,1-6
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô.
1Khi ấy, Đức Giêsu trở về quê quán của Người, có các môn đệ đi theo. 2Đến ngày sabat, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên. Họ nói: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì? 3Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông Gia-cô bê, Giô-xết, Giu-đa và Si-môn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?” Và họ vấp ngã vì Người. 4Đức Giêsu bảo họ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.” 5Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. 6Người lấy làm lạ vì họ không tin. Rồi Người đi các làng chung quanh mà giảng dạy.
CÁC BÀI SUY NIỆM
Suy niệm 1: Thân phận của Ngôn sứ - Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang
Suy niệm 2: Óc thành kiến - Lm. Antôn
Suy niệm 3: Họ khước từ Ngài Lm. Giacôbê Tạ Chúc
Suy niệm 4: Đừng để lỡ cơ hội gặp Chúa - Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Suy niệm 5: “Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” - Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
Suy niệm 6: Hãy rao giảng Tin Mừng, dù gặp điều bất lợi - Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Suy niệm 7: Thành kiến và tự mãn - Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Suy niệm 8: Ơn gọi làm Ngôn sứ - Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn
Suy niệm 9: Gỡ bỏ định kiến bằng cách sống yêu thương - Lm Paul Nguyễn Nguyên
Suy niệm 10: Cao ngạo đánh mất tất cả - Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
SUY NIỆM 1: THÂN PHẬN CỦA NGÔN SỨ
Lời Chúa: "Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương" (Mc 6,4)
Nhập lễ:
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Phụng vụ Lời Chúa chúa nhật 14 thường niêm hôm nay cho chúng ta thấy thân phận của ngôn sứ. Thiên Chúa, “Ngài đã đến nơi nhà của Ngài, nhưng người nhà đã không đón nhận”:
Không tin chẳng có chi thành
Ngay cho việc nhỏ cũng đành luống công
Xem kìa dân chúng bản hương
Vì coi khinh Chúa, nên không được gì !
Phần ta luôn phải khắc ghi:
Vững tin nơi Chúa mỗi khi khấn cầu.
Hiệp dâng thánh lễ hôm nay, xin Chúa ban thêm niềm tin cho chúng ta, để trong từng biến cố của cuộc đời, chúng ta khiêm tốn lắng nghe Lời Chúa và thực thi sứ mạng ngôn sứ của mình. Trong tâm tình đó, giờ đây chúng ta hãy thành tâm sám hối.
Sám hối:
X. Lạy Chúa, Chúa đã sinh ra làm con Đức Trinh Nữ Maria, và đã sống thân phận con người như chúng con. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa Kitô, Chúa đã cứu chuộc chúng con bằng giá máu của Chúa. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa, Chúa là Đấng Thiên Sai, là Đấng muôn dân trông đợi. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
Kết: Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.
CĐ: Amen.
Suy niệm:
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Chúng ta vẫn thường nghe nói: “bụt nhà không thiêng”, hay “Quen quá hoá nhàm”. Có lẽ trong bất cứ xã hội nào cũng có những con người quan niệm như vậy. Sự quen thuộc hay quen quá dễ dẫn đến xem nhẹ và coi thường biết bao. Định luật tâm lý đó cũng đã chi phối ngay trong xã hội người Do thái thời Chúa Giêsu. Chính vì thế, sứ điệp phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy thân phận của vị Ngôn sứ ngay tại quê hương mình: "Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương".
Thưa anh chị em, bài đọc 1 hôm nay Ezéchiel thuật lại ơn gọi và sứ mạng ngôn sứ của mình. Ông được Thiên Chúa kêu gọi và cho biết trước sứ mạng đầy cam go vì được sai đến với một dân nổi loan, phản nghịch, một dân tộc bất tuân đã chống lại Chúa. Đã nhiều lần, Chúa báo cho dân Israel biết rằng: nếu họ cứ cố chấp trong sự bất tuân, họ sẽ bị phạt. Lời răn đe đó đã bị bỏ ngoài tai, chứng nào tật ấy, nên họ đã bị lưu đầy ở Babylon. Trong giai đoạn sau khi thành và đền thờ Giêrusalem bị phá hủy, Thiên Chúa đã trao cho Ezéchiel nhiệm vụ cảnh tỉnh dân chúng, làm cho họ nhận biết tội lỗi và sám hối. Đồng thời, động viên dân Do thái lưu đày bên Babylon tin tưởng và hy vọng vào Thiên Chúa là Đấng làm chủ lịch sử và Đấng luôn giữ lời hứa. Nhưng ông cũng bị từ chối. Điều đó, càng cho chúng ta xác tín hơn thân phận của vị Ngôn sứ ngay trong trang Tin mừng hôm nay. Tin mừng thánh Marcô thuật lại, hôm nay Chúa Giêsu trở về quê hương Nazareth. Đến ngày Sabbat, Người vào giảng dạy trong Hội đường, những người đồng hương đã kinh ngạc về giáo lý, về sự khôn ngoan và quyền năng của Người. Khiến họ sửng sốt và nói: “Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế?”. Thế nhưng, không mấy chốc họ lại thành kiến làm cho bụt nhà không thiêng. Thái độ tiêu cực gần như tẩy chay Chúa Giêsu khi họ không thể chấp nhận một người mà họ đã quen biết: thân thế tầm thường, gia đình nghèo nàn, họ hàng chẳng có danh giá gì. Biết rõ như thế thì làm sao người đó có thể là vị Cứu tinh, là Đấng Cứu thế, là Đấng giải thoát cho dân tộc mình được? Sự thành kiến bịt mắt họ lại nên họ đã không nhận ra Chân Lý, nhận biết Chúa Kitô, một con người tầm thường đã từng sống giữa họ, với họ và gần họ. Quả thực, họ đã vấp phạm vì Người như thánh Gioan đã viết: “Ngài đã đến nơi nhà của Ngài nhưng người nhà đã không đón nhận”.
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta hiểu được thân phận của ngôn sứ. Chỉ với con mắt thành kiến, thiển cận và hẹp hòi đã làm cho dân làng Nazareth, là những người đồng hương với Chúa Giêsu phán đoán sai về Người. Họ đã không nhận ra khuôn mặt thật của Người là Đấng Cứu tinh nhân loại. Chính con mắt thành kiến, lòng ghen tỵ là một trong những nguyên nhân khiến “các ngôn sứ không được kính trọng ở quê hương mình”. Mc. Kenzie nói: "Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, còn người ghen tỵ nhìn bằng kính hiển vi". Đối với chúng ta cũng vậy, thành kiến có thể làm chúng ta mù quáng, không nhận định đúng đắn và dễ phê phán một cách theo chủ quan của mình. Thành kiến không thể làm chúng ta đối thoại, cởi mở với người khác và không nhìn thấy cái hay, cái tốt nơi người khác. Vì thế, chúng ta cần phải loại bỏ tất cả những gì là thành kiến về bản thân để khỏi tự ti mặc cảm; cũng như thành kiến về những người chung quanh, để có một cái nhìn đúng đắn hơn, một nhận xét chân thành hơn, một phán đoán khách quan hơn, và một đời sống yêu thương cởi mở hơn.
Nguyện xin Chúa ban thêm niềm tin cho chúng ta, giúp chúng ta nhận ra sự hiện diện của Chúa trong từng biến cố của cuộc sống, để từ đó chúng ta được vững tin và gieo rắc niềm tin ấy đến trong lòng mọi người. Amen.
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang.
SUY NIỆM 2: ÓC THÀNH KIẾN
Người đời hay nói với nhau rằng:“Bụt nhà thì không thiêng”. Thật ra quan niệm này đã có từ thời của Chúa Giêsu, và ăn sâu trong tiềm thức của con người thời ấy. Bài Tin mừng hôm nay cho biết, có lần Chúa Giêsu trở về quê hương của mình là Nadaret, để giảng dạy và làm các phép lạ. Mặc dầu có nhiều người đã ngỡ ngàng và sửng sốt trước sự uyên bác của Chúa Giêsu, nhưng cũng có không ít người đặt ra nghi vấn với Ngài.
Người ta thắc mắc tại sao con của ông Giuse thợ mộc và bà Maria thêu thùa, một người hàng xóm láng giềng gia thế thấp hèn mà lại làm được những điều vĩ đại như thế. Có người còn “vơ đũa cả nắm” mà rằng: “Ở Nadaret thì chẳng có cái gì hay”, ngụ ý những người xuất thân từ Nadaret thì chẳng làm được trò trống gì.
Trước sự phủ phàng đó, Chúa Giêsu đành phải nói lên một sự thật đáng buồn là: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám đông bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6,4). Hôm nay, nhắc lại đôi nét đáng buồn trong cuộc đời của Chúa Giêsu, chỉ muốn nhắn gởi đến chúng ta 2 điều này:
Thứ nhất, mỗi người hãy loại bỏ đi óc thành kiến với anh chị em xung quanh mình. Đừng “xem mặt mà bắt hình dong”, cũng đừng đánh giá người khác ở dáng vẻ bên ngoài. Đừng dựa vào gia cảnh, cũng đừng nhìn vào quá khứ của họ; nhưng hãy nhìn đến tương lai và trân trọng những điều tốt đẹp mà họ đang làm được. Vì nếu chúng ta xét đoán thì sẽ bị Thiên Chúa xét đoán.
Thứ hai, còn những ai đang rơi vào hoàn cảnh như thế cũng đừng tuyệt vọng. Hãy noi gương Chúa Giêsu, hãy vượt qua dư luận của người đời và tiếp tục hướng đến những điều thiện hảo mà tâm tư thôi thúc. Hãy làm những gì tốt nhất có thể được, bằng những nỗ lực cố gắng và bản lĩnh của chính mình, vì Chúa Giêsu đã từng nói: “Phúc thay ai khao khát sự trọn lành vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa chí toại lòng”. Amen.
Lm. Antôn
SUY NIỆM 3: HỌ KHƯỚC TỪ NGÀI
Nhìn nhận một Đức Giêsu của lịch sử, người ta dễ dàng chấp nhận. Thế nhưng khi đối diện với một Giêsu của niềm tin, con người như rơi vào hòan cảnh lúng túng. Liệu Đức Giêsu thành Nazareth có phải là Đấng Messia không? Não trạng của dân Do Thái ngày xưa cũng chẳng khác gì con người trong thời đại ngày hôm nay. Mãi mãi Ngài vẫn là một ẩn số trong một phương trình hoặc có một nghiệm, nhiều nghiệm hay vô nghiệm. Con người không thể tự sức mình mà khám phá hết về Chúa Giêsu, chỉ khi nào họ biết khiêm nhường và biết nhìn vào cuộc đời của Chúa Giêsu với tâm tình tin tưởng và lắng nghe, lúc đó họ mới có thể biết về Ngài.
Tiên tri Êdêkien sống vào khỏang năm 593-571 trước công nguyên, ông có kinh nghiệm về một dân tộc bội ước quên thề, trong thời lưu đày Babylon, Thiên Chúa sai ông đến với nhà Itrael, đến với một dân tộc ương nghạnh:”Người phán với tôi:”Con người hỡi, Ta sai ngươi đến với nhà It-ra-el, đến với những dân phiến lọan, đã từng dấy lọan chống lại Ta, chúng và cha ông chúng đã từng làm nghịch với Ta, cho đến mãi ngày hôm nay”(Ed 2, 3). Quả là bi đát cho số phận của các Tiên tri, họ luôn phải sống với những con người lọan tặc, và tâm trạng của các Tiên tri là khiếp sợ, vì bị chống đối, bị ruồng bỏ. Chúa Giêsu số phận của Ngài cũng chẳng khác gì với những Tiên tri trong thời cựu ước. Ngài trở về quê hương Nazareth, nơi sinh trưởng của mình. Nhưng lạ lùng thay, dân ở đây không tin vào Ngài. Một cuộc tranh luận xảy ra, Đức Giêsu thành Nazareth là ai? Do đâu mà Ngài có quyền năng trên bệnh tật, thiên nhiên và con người. Các phép lạ xảy ra một cách nhãn tiền. Lý luận mãi cũng không xong, sau cùng người ta quy về thân thế của Ngài:” Ông ta không phải bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Giuse, Giuda và Simon sao?”( Mc 6,3). Như thế một cách có chủ ý, người ta phủ nhận một Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, điều này được chứng tỏ khi họ không đón nhận và tin vào Ngài. Chi tiết mà thánh Marcô ghi nhận là Ngài bị xem thường ở chính tại quê hương mình. Dân Do thái ngạc nhiên về những việc làm của Chúa Giêsu, nhưng tiếc thay họ vẫn cứng lòng. Chúa Giêsu cũng biết được điều này khi Ngài thốt lên:”Tiên tri có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính tại quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi”(Mc 6, 4).Thiên Chúa đến với con người, nhưng con người vẫn không đón nhận và tin vào Ngài. Trái đất này là quê hương của Chúa, nhưng khi Chúa đến con người vẫn chối từ Ngài. Ngài là Con Thiên Chúa, nhưng người ta vẫn khăng khăng khẳng định Ngài chỉ là con ông thợ mộc Giuse và Mẹ Maria là Mẹ Ngài.
Thế giới ngày nay cũng có vô số những con người không nhìn nhận Thiên Chúa có chủ quyền trên cuộc đời mình. Từ chỗ khước từ Thiên Chúa, họ cũng phủ nhận anh em mình. Vì không có niềm tin, con người sẵn sàng hành động theo bản năng của mình. Một khi sống và làm việc theo bản năng hạ đẳng con người không còn biết tôn trọng phẩm giá của mình và anh chị em xung quanh. Chúa Giêsu đến để kêu mời nhân lọai cộng tác với Ngài xây dựng một cuộc sống chan hòa tình yêu thương.
Lm. Giacôbê Tạ Chúc
SUY NIỆM 4: ĐỪNG ĐỂ LỠ CƠ HỘI GẶP CHÚA
Đức Giêsu trở về thăm quê nhà. Ngày Sabat, ngày lễ nghỉ hàng tuần, dân làng đến hội đường nghe đọc sách thánh và hát thánh ca từ 9 giờ đến 12 giờ trưa.
Đức Giêsu và các môn đệ cùng tiến vào hội đường cầu nguyện. Đọc sách luật và thánh vịnh xong, Đức Giêsu đăng đàn giảng thuyết như một giáo dân tham dự vào chức tư tế. Vẻ uy nghi trang trọng của Ngài khác thường. Gương mặt Ngài luôn tỏa ra nét dịu hiền, mến yêu, đầy thiện cảm. Giọng điệu tự nhiên của Ngài càng hấp dẫn dân chúng hơn. Ý tứ Ngài trình bày đơn sơ trong sáng hợp với tâm trí mọi người. Họ cảm thấy thấm thía sự kỳ diệu của nước Thiên Chúa. Họ cảm nhận lòng nhân ái Chúa Cha trên trời. Họ cảm phục về tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Đức Giêsu đòi hỏi mọi người phải sống thương yêu nhau như anh em ruột thịt. Họ ngạc nhiên thì thầm với nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế? Sao ông ta được khôn ngoan như vậy? Ông ta làm được nhiều phép lạ như thế nghĩa là gì?”.
Họ chẳng biết sự khôn ngoan và quyền phép của Đức Giêsu bởi đâu? Họ tìm về nguồn gốc chỉ thấy: “Mẹ ông là bà Maria, anh em họ hàng là Giacôbê, Giosê, Giuđa và Simon”. Tất cả bà con lối xóm đều coi ông như bạn bè từ gần 30 năm nay ở Nagiarét này, một thôn ấp nhỏ bé chỉ có độ 150 gia đình nghèo nàn, tối tăm, mấy ai quan tâm đâu. Ông lại là anh thợ mộc, con nhà lao động, làm thuê làm mướn, lang thang từ nhà này sang nhà khác, đóng bàn sửa ghế, ráp giường ghép tủ, đục đẽo cầy bừa, thành phần địa vị thấp kém trong xã hội. Có bao giờ thấy ông nói năng, làm được gì hay lạ đâu? Ông bỏ quê nhà đi lang thang mấy tháng, nay trở về, sao thay đổi nhanh như thế! Một quá khứ và hiện tại như thế đã khiến họ vấp phạm. Họ không tin Ngài là một Ngôn Sứ, lại càng không thể tin Ngài là Mêsia, và chắc chắn họ chẳng bao giờ dám nghĩ rằng mình là người đồng hương với Ngôi Hai Con Thiên Chúa.
Còn Đức Giêsu, ai đã huấn luyện Ngài? Ai đã ban quyền phép làm những việc kỳ diệu như thế? Thân nhân bảo Ngài “mất trí”. Kinh sư chụp mũ Ngài “nhờ tướng quỷ mà trừ quỷ”. Dân chúng chỉ biết ngạc nhiên: chưa từng thấy ai ăn nói, hành động có uy quyền lạ lùng như vậy. Môn đệ đi theo sát Ngài cũng chỉ biết hỏi: “Ngài là ai mà bão biển phải tuân lệnh”. Chẳng thấy ai huấn luyện Ngài, chẳng thấy Ngài học tập kinh sư nào. Chỉ thấy Ngài vào nơi thanh vắng, ngước mắt lên trời cầu nguyện. Trong âm thầm Ngài cầu nguyện cùng Chúa Cha trên trời. Đó chính là bí quyết làm cho Ngài khôn ngoan và đầy quyền phép để trừ hàng ngàn quỷ dữ, chữa hàng trăm bệnh nhân mà loài người phải bó tay, cho kẻ chết sống lại, bắt cuồng phong lặng yên…
Dân làng biết Ngài khôn ngoan. Kinh sư thấy Ngài trừ quỷ. Môn đệ được Ngài cứu khỏi chết giữa biển cuồng phong. Nhưng họ chẳng biết Ngài là Con Một Thiên Chúa, chẳng biết Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa; vì thương yêu loài người, đã xuống thế làm người sống với họ như anh em, như bạn bè, để cứu họ khỏi chết đời đời.
Dân làng Nazarét quá biết về gốc gác, gia cảnh, biết rõ ràng lý lịch của Đức Giêsu. Với đầu óc thủ cựu, lại nặng thành kiến nên họ không thể nhận ra thiên tính nơi con người của Ngài. Đức Giêsu trở thành nạn nhân của “chủ nghĩa lý lịch”. Mc. Kenzie nói: Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, còn người định kiến hẹp hòi nhìn bằng kính hiển vi”.
Còn Đức Giêsu thì luôn âm thầm, kiên nhẫn, nhỏ nhẹ nói với họ bằng câu ngạn ngữ: “Không ai là tiên tri cho xứ sở mình”. Một câu chuyện quen thuộc nhưng đáng buồn “Ngôn sứ không được quê hương mình chấp nhận”. Đức Giêsu thật ngạc nhiên vì thấy họ không tin. Ngài rất muốn giúp đỡ họ nhưng cũng đành phải bó tay. Họ chỉ biết nhìn Ngài theo lối nhìn bên ngoài đầy thành kiến, chẳng thấy được những điều sâu lắng bên trong, những cái tinh thần cao thượng, những mầu nhiệm thiêng liêng chân thật.
Chính những điều sâu xa bí ẩn mới làm ích rất lớn cho con người. Chính những chất màu mỡ nằm ẩn trong đất mới làm cho cây trái, hoa mầu trổ sinh tươi tốt, đâm chồi nẩy lộc, nuôi sống muôn người, muôn vật. Chính những kho tàng nằm sâu trong lòng đất, như mỏ dầu, mỏ vàng, mỏ bạc, đồng, sắt, kim cương, đá quý mới là nguồn tài nguyên phong phú giúp phát triển nền văn minh nhân loại. Chính những tài năng thượng đẳng, thiêng liêng trong con người như: tinh thần tự do, trí khôn sáng suốt, ý chí mạnh mẽ, tình cảm nhân từ mới có sức thăng tiến con người hơn chân tay, mắt mũi. Thế nhưng loài người vẫn thích thờ bò vàng óng ánh hơn thờ Thiên Chúa siêu việt.
Chuyện ngày xưa cũng như chuyện ngày nay. Rất nhiều khi chúng ta phán đoán giá trị lời nói của một người dựa trên bằng cấp, sự giàu có, uy tín của họ, nhiều hơn là dựa vào sự hợp lý, tính chính xác của câu nói ấy. Hễ ai có chức có quyền, có địa vị, có của cải, có học vấn mà nói thì chúng ta tiên thiên cho rằng họ nói đúng. Còn ai nghèo nàn, rách rưới, thấp cổ bé miệng, ít học mà nói thì ta tiên thiên cho rằng họ nói sai hoặc chẳng có giá trị gì. Chính vì tâm lý sai lạc này mà các ngôn sứ giả thường được người đời ưu đãi, còn ngôn sứ thật thì thường bị bạc đãi (x. Lc 6,23.26). Lối hành xử như vậy là coi trọng của cải, tiền bạc, chức quyền, địa vị chứ không phải là người coi trọng chân lý, công lý và tình thương. Thực ra, một điều sai trái, dù kẻ nói ra có quyền thế, học vấn hay giàu sang tới đâu thì cũng vẫn là sai trái. Còn một điều đúng, thì dù người nói ra một đứa trẻ, một người nghèo thì cũng vẫn là đúng. Lời nói sai đâu thể biến thành đúng, hay lời nói đúng đâu thể biến thành sai vì thế giá hay trình độ học vấn của người nói ra câu nói đó.
Đức Giêsu buồn nhưng không cay cú, không tức giận. Ngài quyết định đem ánh sáng và quà tặng thần linh đi đến nơi khác.Những người ở làng quê Nagiarét đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế. Con Thiên Chúa làm một thường dân đến sống giữa họ mà họ không biết. Họ chỉ biết đó là con ông thợ mộc Giuse. Họ chỉ biết gia đình Ngài rất nghèo, chẳng có danh giá gì trong làng. Họ coi thường Ngài. Họ không tin Ngài. Họ hất hủi Ngài. Họ đã để lỡ cơ hội nghìn năm một thuở. Đức Giêsu không làm một phép lạ nào ở đó. Ngài bỏ Nagiarét đi đến các làng chung quanh. Và Ngài sẽ chẳng bao giờ trở lại Nagiarét nữa. Đó là cơ hội cuối cùng cho họ.
Hằng ngày chúng ta cũng đã bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội như thế. Ta đã bỏ lỡ không tiếp đón Chúa đến thăm khi ta bịt mắt không nhìn thấy những cảnh khổ chung quanh; khi ta bưng tai không nghe những tiếng kêu than khóc lóc; khi ta làm ngơ trước những cảnh ngộ nghiệt ngã, khi ta ngoảnh mặt quay lưng trước những nạn nhân của thiên tai hoạn nạn. Nhất là ta bỏ lỡ không nghe thấy tiếng Chúa cảnh báo để ăn năn sám hối. Chúa đã nhắc nhở ta nhiều lần nhiều cách: qua các vị bề trên; qua các tai nạn; qua lời khuyên của những người thân; qua lời phê phán của những người thù ghét ta. Hôm nay, Chúa còn tiếp tục nhắc nhở. Nếu ta không nghe, biết đâu hôm nay sẽ là lần cuối cùng. Chúa sẽ không bao giờ nhắc nhở nữa. Chúa sẽ bỏ ta mà đi như đã bỏ làng Nagiarét và không bao giờ trở lại. Như thế thì thật nguy hiểm cho linh hồn ta. Để nhận biết Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một đức tin mạnh mẽ. Ánh mắt đức tin giống như ngọn đèn soi chiếu vào đêm đen giúp ta nhận ra Chúa trong anh em, trong những biến cố Chúa gửi đến.
Để đón tiếp Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một trái tim luôn luôn rộng mở yêu thương. Một trái tim yêu thương sẽ rất bén nhạy để nghe được tiếng nói của Chúa, dù tiếng nói ấy chỉ thì thầm trong sâu thẳm lòng mình; hiểu được những dấu chỉ của Chúa, dù những dấu chỉ ấy chỉ mơ hồ thoáng qua; nhận được khuôn mặt của Chúa, dù khuôn mặt ấy đã bị biến dạng qua những đau thương của cuộc đời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con tỉnh thức để nhận ra và đón nhận Chúa mỗi lần Chúa đến với con.
Lạy Chúa Giêsu, xin mở con mắt đức tin cho mọi người được thấy những sự khôn ngoan, quyền phép lạ lùng của Thiên Chúa đang âm thầm hoạt động trong Giáo Hội, trong thế giới và cả trong vũ trụ, mà con mắt phàm trần không thể thấy được, để họ biết ca ngợi Chúa muôn đời. Amen.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
SUY NIỆM 5: “ KHI TÔI YẾU, CHÍNH LÀ LÚC TÔI MẠNH”
Cả ba thánh sử Mátthêu, Luca và Máccô đều thuật lại câu chuyện Chúa Giêsu trở về quê nhà và bị những người đồng hương, thậm chí những người họ hàng thân thiết coi thường. Lý do vì Người từng sống giữa họ với một cuộc sống thật giản dị tại Nadarét, quê hương của Người, và dân làng ai cũng biết Người!
Thiên Chúa yêu thương loài người đến nỗi tìm mọi cách để đến gần với con người. Người mong chờ con người mở rộng lòng và tin tưởng vào Người, nhưng Người chỉ gặp sự khước từ và hoài nghi khiến cho: “Người lấy làm lạ vì họ không tin”.
Suốt ba năm rao giảng Tin mừng, không phải lúc nào Chúa Giêsu cũng được mọi người tin nhận, nhất là những người nắm rõ luật Chúa và giữ luật nghiêm ngặt như giới Pharisiêu và luật sĩ, thậm chí các tông đồ cũng có lúc bị Chúa khiển trách là “cứng lòng, kém tin”. Hơn hai ngàn năm sau, trong thời đại chúng ta, tình trạng không tín ngưỡng, không tin vào Thiên Chúa vẫn còn! Có biết bao nhiêu phụ huynh đã tận tâm giáo dục con cái mình theo đạo Chúa, trong tinh thần Giáo Hội. Thế nhưng, hôm nay, con cháu họ không còn tin vào Thiên Chúa hoặc không còn giữ đạo nữa! Chúng ta thấy rằng chính Chúa Giêsu đã giảng dạy, đã làm những phép lạ, nhưng Người không thể làm cho dân làng của Người và ngay trong chính họ hàng thân thuộc tin vào Người, dù rằng họ vẫn tưởng rằng họ biết rất rõ về Người.
Cả ba bài đọc hôm nay đều nói về “linh đạo của sự thất bại”, đó là nhận biết sự bất toàn của mình và dám đi vào thất bại để qua đó mọi người nhận biết quyền năng của Thiên Chúa. Trong bài đọc I, tiên tri Êdêkien được Chúa sai đến nói lời của Người với một dân “lòng chai dạ đá, phản nghịch và chống lại Thiên Chúa”. Dù ông có thể thất bại vì họ có thể không nghe lời ông, nhưng họ sẽ được nhận biết có một ngôn sứ đang ở giữa họ. Trong bài đọc II, thánh Phaolô lại vui mừng và tự hào về những yếu đuối của mình, vì nhờ đó mà sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong ngài. Còn trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu không vì sự thất bại nơi quê hương mà từ bỏ sứ mạng của mình. Trái lại, vì sự cứng lòng tin của những người đồng hương mà các làng chung quanh được nghe Người rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa.
“Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (c. 10). Điều này phải trở thành nguyên tắc cho những ai muốn làm việc tông đồ. Họ không hãnh diện về những tài năng mình có, cũng không nhát đảm vì mình yếu đuối, bởi họ biết phải cậy trông vào ai để thi hành sứ mạng Chúa trao phó. Vì như lời Chúa Giêsu nói với vị tông đồ: “Ơn của Thầy đã đủ cho con, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối” (c. 9). Như thế, chính ơn Chúa cứu rỗi chứ không phải do công lênh hay cố gắng của con người!
Khi kể lại việc thất bại của Chúa Giêsu tại Nadarét, thánh sử Máccô nghĩ đến Giáo Hội, đến mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa vẫn đang còn tiếp diễn, mà chỉ với con mắt đức tin người ta mới nhận ra được tầm quan trọng của nó. Ngày xưa, dân làng Nadarét khinh thường Chúa Giêsu, hôm nay, vẫn còn những nhóm Kitô hữu tỏ thái độ chống lại một số lập trường của Giáo Hội khi họ tuyên bố chỉ tin vào Chúa chứ không tin vào Giáo Hội!
Bản chất của Giáo Hội là Thánh nhưng gồm những con người tội lỗi, yếu đuối và đầy giới hạn. Tuy vậy, Chúa vẫn luôn nói với chúng ta qua Giáo Hội. Người tiếp tục công trình của Người qua con người, qua những người mà chúng ta quen biết, có khi quá quen biết. Nếu việc thiếu đức tin của dân làng Nadarét làm cho Chúa Giêsu ngạc nhiên và bị xúc phạm, thì phải chăng Giáo Hội hôm nay vẫn còn bị tê liệt bởi sự thiếu đức tin hoặc sự cứng lòng tin của chính những người ở trong Giáo Hội chăng?
Trong mỗi thời đại, Chúa đều gửi đến các ngôn sứ loan báo lời Người. Ngày xưa, có các ngôn sứ như Êdêkien hay tông đồ Phaolô. Ngày nay chúng ta cũng có những vị “ngôn sứ” như mục sư Martin Luther King, Mẹ Thánh Têrêsa Calcuta, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Đức Giáo Hoàng Phanxicô, v.v... Các ngài đã không vì sợ những người có quyền thế hay búa rìu dư luận mà im lặng, nhưng đã lên tiếng chống lại bất công, lên án chiến tranh, bạo lực để bảo vệ những người bé nhỏ bị áp bức. Nhưng những lời nói của họ chỉ được đáp lại bằng những phản ứng thù nghịch, chống đối. Nếu họ khuyên sống chung thủy trong đời sống vợ chồng để tránh bệnh Siđa, họ lại bị dân chúng lên án. Nếu họ kêu: “Hãy ngừng mọi bạo động!”, người ta lại ám sát họ. Nếu họ mạnh dạn tố cáo bất công xã hội, nhất là đối với những người nghèo, vô gia cư, người ta lại tìm cách bịt miệng họ!
Chúng ta luôn cần đến các ngôn sứ của Chúa, nhất là trong thời đại hôm nay, mặc dù đôi lúc các vị ấy khiến chúng ta cảm thấy phiền hà, khó chịu. Họ nhắc nhở chúng ta những gì Tin Mừng truyền dạy, về luật Chúa và luật con người. Trong xã hội hôm nay, nơi những bạo lực, bất công ngự trị, nhân quyền bị vi phạm, chúng ta cần lắng nghe các ngôn sứ nhắc nhở chúng ta về tình thương yêu qua từng chặng đường của cuộc đời.
Ước gì chúng ta biết lắng nghe và đón nhận các thông điệp mà Chúa gửi đến qua trung gian của những người thân quen của chúng ta, ngay cả qua trung gian của những người bé mọn và nơi các trẻ thơ.
Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
SUY NIỆM 6: HÃY RAO GIẢNG TIN MỪNG, DÙ GẶP ĐIỀU BẤT LỢI
Phụng vụ lời Chúa hôm nay giúp chúng ta khám phá những cảm xúc từ Trái Tim Chúa Giêsu đối với những người đồng hương khi vào hội đường rao giảng. Thánh sử Marcô viết rằng, Chúa Giêsu “ngỡ ngàng về sự cứng lòng tin của họ” (Mc 6,6). Đây là một bất lợi cho chính Chúa Giêsu, một đàng có các môn đệ theo cùng về quê, đàng khác ngay tại quê hương, Thầy mình cũng không được đón nhận, vậy tương lai công việc của họ theo Thầy sẽ ra sao? Hẳn các môn đệ Chúa cũng sửng sốt về sự thiếu lòng tin của những người đồng hương với Thầy Giêsu và phản ứng của Thầy sau này nữa. Sự ngạc nhiên của Chúa Giêsu tương ứng với sự sửng sốt của những người đồng hương, theo một nghĩa nào đó cũng lấy làm đau buồn! Mặc dù Chúa biết không tiên tri nào được đón nhận nơi quê hương, nên Người đã thốt lên câu nói để đời “Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình“, nghĩa là không có tiên tri nào được đón nhận nơi những người đã nhìn thấy tiên tri ấy sinh ra và lớn lên (x. Mc 6,4).
Cứ sự thường, khi người ta đã nghe biết những việc Chúa Giêsu làm, lẽ ra họ phải chào đón Người bằng tình yêu và lòng mến, hay hơn thế là hồ hởi lắng nghe lời Chúa Giêsu giảng dạy với lòng thán phục. Điều ngược lại là sự thật: “Họ sửng sốt về giáo lý của Người” (Mc 6,3). Những người đồng hương của Chúa “sửng sốt” vì sự khôn ngoan của Chúa, một loạt câu hỏi được đặt ra: “Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?” Sự gần gũi, thân thiện gia đình, tình làng nghĩa xóm ấy làm cho họ ngạc nhiên. Từ ngạc nhiên bởi sự khôn ngoan và lời nói thốt ra từ miệng Người, cũng như các phép lạ Người làm tại Galilê sang từ chối, khiến họ không nhận ra Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người ở giữa làng họ và họ “vấp phạm vì Người” (Mc 6, 3).
Thiên Chúa muốn làm người để cảm thông, thân thiện, chia sẻ thân phận hèn mọn của con người. Nhưng xót xa thay! Chính điều Thiên Chúa muốn gần con người lại là điều làm con người vấp phạm.
Thánh Bernard nói rất hay khi viết: “Con Thiên Chúa đã đến và làm những điều kỳ diệu trong thế giới này, Người xé nát tâm trí chúng ta từ tất cả những điều trên thế gian, để chúng ta suy niệm và không bao giờ ngừng ca tụng những kỳ quan của Chúa. Người mở cho chúng ta những chân trời vô tận và dòng sông ý tưởng tuyệt vời, dồi dào đến mức không bao giờ vơi cạn. Có ai hiểu lý do tại sao Đấng uy nghi tối thượng muốn chết để ban cho chúng ta sự sống, để phục vụ cho chúng ta, Người đã sống lưu vong để mang chúng ta trở về quê trời, Người đã hạ thấp bản thân mình, nhận lấy những điều hèn hạ và bình thường nhất để nâng con người chúng ta lên? “
Thời nào cũng thế, thế gian không ưa các tiên tri. Trong Cựu Ước, nhiều vị đã phải chết vì sứ vụ của mình. Như Giêrêmia, Dacaria và nhiều vị khác. Còn tiên tri Êlia chỉ nhờ chạy trốn mới có thể thoát chết. Chúa Giêsu cũng không đi ngoài qui luật ấy. Tuy nhiên, dù bị đe dọa, Chúa Giêsu không nao núng. Dù bị một số người khước từ, Lời của Chúa vẫn được loan truyền đi khắp nơi và không gì có thể ngăn cản Người được.
Chúng ta sống trong một thế giới bất tín và dửng dưng. Nhưng chính trong môi trường khước từ siêu nhiên như thế mà chúng ta được sai đến như các tiên tri của Chúa. Tiên tri là phát ngôn nhân, là người nói thay cho Thiên Chúa. Sứ vụ của tiên tri là loan báo Tin mừng và chứng nhân mang đến niềm hy vọng và các giá trị kitô giáo cho những nơi vắng bóng và thù địch với niềm tin kitô.
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Giêsu dấn thân vào sứ vụ loan báo Tin mừng cho người nghèo khó mà Thiên Chúa Cha đã giao phó. Người đã đi vào một môi trường hoàn toàn bất lợi và xung khắc với Người, nhưng Người đã không lùi bước, trái lại, Người đã trung thành cho đến giây phút cuối cùng. Còn chúng ta, vì đã được rửa tội và thêm sức, tất cả chúng ta được liên kết vào trong sứ vụ ấy. Và cũng như Người, có thể chúng ta sẽ gặp chống đối. Mang trong mình chứng từ của tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, ngày nay, người kitô hữu dễ bị phê phán và bị chế nhạo, và phải đi ngược dòng với tâm tưởng của thế gian. Nhưng nếu chúng ta trung thành với Đức Kitô, thì không gì có thể tách rời chúng ta khỏi tình yêu của Người. Lời Người là lời mang lại sự Sống đời đời. Khi tiếp nhận Lời, chúng ta có thể giữ được niềm hy vọng trong ta.
Lạy Chúa, xin ban ơn can đảm cho chúng con, đễ dầu gặp khó khăn thử thách, chúng con vẫn nhất quyết đem Tin Mừng của Chúa đến với anh chị em chúng con. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
SUY NIỆM 7: THÀNH KIẾN VÀ TỰ MÃN
Trong đời sống cộng đoàn có những cách ứng xử nó có thể khuyến khích một con người vươn lên, và cũng có những cách cư xử là nguyên nhân chính yếu cản trở sự phát triển và cản trở sự vươn lên của con người cả trong bình diện trí tuệ lẫn thiêng liêng, và một trong những cách cư xử ấy là thói quen xét đóan, phê bình và nó trở thành nguy hiểm khi nó mang cái nhìn chủ quan và óc thành kiến, tự mãn. Khi đã mang thành kiến xấu về một người nào hoặc một sự kiện gì, người ta thường có xu hướng không muốn chấp nhận hoặc loại trừ, hoặc dẫn đến thái độ coi thường, và khi đã tự mãn với những cái mình đang có đang suy nghĩ thì người ta không thể đón nhận được điều gì khác nữa.
Thưa quý OBACE, những dân làng Nazaret ngày xưa họ cũng mang nặng một cái nhìn thành kiến về Chúa Giêsu, vì họ chỉ nhìn Đức Giêsu với cái nhìn Ngài là con ông Giuse và bà Maria mà thôi. Nhiều người Nazareth có lẽ cũng đã nghe và đã thấy những việc lạ lùng Chúa Giêsu đã làm tại các vùng xung quanh, nào là cho nước hóa thành rượu, nào là hóa bánh ra nhiều, nào là cho người mù được thấy kẻ què được đi, đáng lẽ ra họ phải tự hào về một người con trong làng thành đạt (theo kiểu nói bây giờ) nay trở về với dân làng, trái lại họ tỏ ra rất dửng dưng về cuộc trở về này. Tại sao thế? Có lẽ những người Nazareth chờ đợi một cái gì đó khác hơn ở Chúa Giêsu, họ nghĩ rằng Chúa Giêsu phải làm cho Nazaret trở thành nổi tiếng, dân làng mọi người được giàu có mà không phải vất vả làm ăn, tức là họ chờ đợi Chúa Giêsu mang đến cho họ tài sản vật chất và tiếng tăm trần thế hơn là mong đợi Tin Mừng nước Thiên Chúa và những lời Người rao giảng.
Thánh Marcô cho thấy, Chúa Giêsu đã vào Hội Đường ngày Sabath để giảng dạy và giải thích Lời Ngôn Sứ và lề luật, những người Nazareth thấy chàng thanh niên Giêsu thực sư thông thái trổi vượt, họ ngạc nhiên về sự khôn ngoan thông thái của Ngài và tự hỏi Bởi đâu ông ta được như thế? Tại sao ông ta lại được khôn ngoan và làm được nhiều phép lạ như vậy? Đáng lẽ những câu hỏi này sẽ dẫn những người Nazaret đi tìm câu trả lời về nguồn gốc và nguyên nhân của sự khôn ngoan thông thái nơi Đức Giêsu, nhưng rất tiếc, họ đã không đi đến tận cùng của câu hỏi để tìm câu trả lời, họ đã để cho suy nghĩ và cái nhìn tự nhiên che mắt, nên chỉ nhận ra Ngài là con bác thợ mộc trong làng. Những người Nazaret chỉ thấy rằng bác thợ mộc trong làng và bà Maria là một gia đình nghèo, bình dân như mọi gia đình, không có gì đặc biệt xét theo cái nhìn bên ngoài, hay nói đúng hơn họ tỏ ra kinh thường gốc gác của Đức Giêsu bởi vì họ mang nặng một thành kiến khiến họ không thể nhận ra địa vị thần linh nơi Chúa Giêsu, và quyền năng Thiên Chúa ở nơi Ngài, dù họ đã được chứng kiến hoặc đã nghe về các phép lạ Chúa Giêsu đã làm ở làng xung quanh. Chính vì mang cái nhìn như thế, nó trở thành rào cản khiến những người Nazaret không thể đón nhận được lời mời gọi sám hối và tin vào Tin Mừng, và cũng không biết chuẩn bị và đón nhận Nước Thiên Chúa đã đến nơi chính con người của Đức Giêsu.
Còn Đức Giêsu khi chứng kiến cách đối xử của dân làng, Ngài lấy làm tiếc cho họ và Ngài rút ra một bài học chung cho thân phận của tất cả các ngôn sứ: Không có ngôn sứ nào được tôn trọng nơi quê hương bản quán của mình. Thánh Marcô còn nói thêm: Ngài không thể làm được phép lạ nào tại đó vì họ cứng lòng tin. Đây là lý do chính yếu khiến họ từ chối Đức Giêsu, trong khi đó đức tin là điều kiện cần thiết trước tiên để cho phép lạ có thể xảy ra, song người Nazaret đã từ chối điều kiện đầu tiên này.
Thái độ của người Nazaret đã phản ánh sự cứng lòng của cả dân tộc Do Thái trong lịch sử, họ đã nhiều lần không đón nhận các Ngôn sứ của Chúa sai đến cảnh báo và kêu gọi họ sám hối, và họ còn chống đối lại chính Thiên Chúa, như lời Chúa nói qua tiên tri Êzekien: Ta sai ngươi đến với con cái Israel, đến với một dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại ta,… chúng là những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá. Và dù chúng có nghe hay không nghe các lời cảnh báo, thì chúng cũng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng. Sự ngỗ nghịch và cứng lòng này phát xuất từ sự tự mãn, vì họ cho rằng họ là con cháu ông Apraham, thì đương nhiên họ được ơn cứu độ, mà không cần phải cố gắng, và vì đã được Thiên Chúa chọn làn dân riêng thì họ từ chối tất cả những người khác dù họ là ngôn sứ hay là những người nói lời nhân danh Thiên Chúa.
Thánh Phaolô, một con người đã từng kiêu căng tự mãn về lòng nhiệt thành và về sư thông thái của mình, ông đã bị Thiên Chúa quật ngã khỏi con đường kiêu căng, và còn rèn dũa ông bằng những thử thách để giúp ông khiêm tốn hơn, nhận ra sư bất toàn yêu kém của mình để tin tưởng vào Thiên Chúa nhiều hơn, vì ân sủng của Thiên Chúa chỉ đậu lại trên những tâm hồn khiêm nhường và quyền năng của Thiên Chúa chỉ thực hiện trên những con người thực sư nhận mình yếu đuối. Thánh Phaolô đã cảm nghiệm và chia sẻ trong bài đọc hai, và ông còn cho thấy, Thiên Chúa luôn giúp ông nhận ra tình trạng yếu kém của mình, trước những điều lạ lùng Thiên Chúa đã làm cho ông, bằng cách để cho ông luôn cảm thấy yếu đuối về thể xác như bị gai đâm và yếu đuối cả về phần linh hồn như bị ma quỷ quấy nhiễu, có những lúc ông muốn xin Chúa giúp ông gỡ khỏi những sự yếu đuối ấy, thì Thiên Chúa đã không hứa sẽ loại trừ khỏi ông khỏi yếu đuối và sự tấn công của ma quỷ, nhưng Ngài hứa sẽ ban ơn dư đủ để ông chiến đấu với nhưng thử thách: Ơn ta đủ cho con, và sức mạnh của ta được thể hiện trọn vẹn nơi sự yếu đuối.
Thưa quý OBACE, để nhận ra Đức Giêsu và quyền năng của Ngài, cần có một tâm hồn khiêm tốn, gỡ bỏ mọi thứ thành kiến và cái nhìn kiêu căng tự mãn, vì Thiên Chúa chống lại người kiêu căng và nâng cao kẻ khiêm nhường. Khiêm tốn để nhận ra tình trạng tội lỗi và yếu đuối của mình để xin ơn nâng đỡ và tha thứ; khiêm tốn còn để chúng ta biết tín thác vào Chúa cách mạnh mẽ hơn, vì chỉ khi có một tâm hồn khiêm tốn chúng ta mới nhận ra rằng mọi sư chúng ta có hôm nay là do Chúa ban, và nhận ra rằng không có Chúa chúng ta không thể làm được việc gì.
Một trong tình trạng của con người ngày hôm nay đó là tính tự mãn, nhất là khi con người đang làm được những việc lớn lao, làm chủ khoa học và kỹ thuật, đã giải quyết được nhiều vấn đề, thì dường như con người đã rơi vào tình trạnh tự mãn với những thành công ấy và muốn tự mình giải quyết tất cả, và loại trừ Thiên Chúa ra khỏi thế giới và ra khỏi tâm hồn họ, tình trạng này thật hết sức nguy hiểm, vì nó tự biến con người và thế giới này thành một thế giới, thành những con người trống rỗng không còn chỗ cho cho Thiên Chúa và còn là kẻ chống lại Thiên Chúa nữa.
Một khi con người tự mãn với thành công của mình, họ sẽ để cho sự kiêu căng và tiền của che mờ con mắt khiến họ không thể cúi xuống, không thể lắng nghe và không thể nhìn thấy những nhu cầu của anh chị em xung quanh. Hay nói khác đi họ sẽ để mình trở thành những con người vô cảm hoặc khinh thường và loại trừ người khác ra khỏi sự quan tâm của họ, tạo nên một thứ giai cấp đẳng cấp nào đó.
Tình trạng thành kiến tự mãn nó cũng đang diễn ra nơi các gia đình và xóm ngõ, khi chúng ta mang thành kiến về một người nào đó và gán cho họ những cái nhìn theo quan điểm của mình, đeo kiếng màu gì thì nhìn thế giới ra màu đó, có thể chúng ta cũng nhìn anh em chòm xóm của chúng ta qua cặp kiếng đen của chúng ta như thế, nên chúng ta không thấy được điều hay điều tích cực nơi anh chị em, mà chỉ nhìn thấy những mặt tiêu cực mà thôi, khi đã mang thành kiến, người ta khó có thể vui khi thấy anh em mình thành công, khó có thể tha thứ và khó có thể cho anh chị em mình những cơ hôi sửa chữa sai lầm.
Còn trong cuộc sống của các bạn trẻ ngày nay, sự tự cao tự mãn và thành kiến nó cũng đang thể hiện dưới nhiều hình thức, cái tự mãn của tuối trẻ ngày nay là cho rằng mình có thể làm được tất cả mọi sự mà không cần Thiên Chúa, không cần đến cha mẹ, muốn tự khẳng định mình mà không cần lắng nghe lời khuyên dạy của cha mẹ và những người có trách nhiệm, đồng thời nó cũng hình thành ở giới trẻ một nếp sống chuộng đẳng cấp, coi mình hơn người khác, nó thể hiện qua những thói ăn chơi được giới trẻ coi như là một mốt thời thượng, và đánh giá con người và sự việc qua thang điểm vật chất mà thôi.
Đó là những tình trạng đang xảy ra nơi nhiều người nhiều gia đình và nơi các bạn trẻ. Xin cho chúng ta biết khiêm tốn đón nhận Đức Giêsu và tin tưởng hoàn toàn vào quyền năng của Ngài. Amen
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
SUY NIỆM 8: ƠN GỌI LÀM NGÔN SỨ
“Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương mình” (Mc 6,4).
Theo Điển Ngữ Đức Tin của Linh mục Hồng Phúc, danh từ tiên tri hay ngôn sứ có nguồn gốc từ tiếng Hy lạp là chữ prophẻte, có nghĩa là nói nhân danh người khác. Tiên tri là người được Thiên Chúa soi sáng và sai đến nói cho người ta nhân danh Thiên Chúa, để truyền đạt các mệnh lệnh của Ngài. Họ chuyển đến cho dân những đòi hỏi có trong sách luật, lời cảnh cáo hay lời hứa cho dân.
Không ít lần Thánh Kinh đã nhắc đến cảnh dân Do thái bị lưu đày, sầu khổ, hoạn nạn, truân chuyên, và các ngôn sứ được phái tới để loan báo cho dân một niềm hy vọng hay niềm vui của sự cứu thoát. Tiên tri Êgiêkien, Isaiah, Giêrêmia đã loan báo về lòng thương xót cảm thông của Giavê đối với nỗi khổ của dân, và Ngài sẽ ra tay cứu thoát họ.
Thế nhưng không ít lần các tiên tri cũng vạch cho dân biết các nỗi thống khổ là do họ đã bỏ Thiên Chúa. Các ngài can đảm lên tiếng phê phán, cảnh cáo lối sống sai lạc, và báo trước một hình phạt sẽ sảy đến hoặc sẽ kéo dài nếu người ta không đổi mới cuộc đời.
Kết quả của lời cảnh báo thường sẽ là: “hoặc họ nghe, hoặc họ không nghe” (Ez 2:5). Thậm chí, lắm khi mạng sống của vị ngôn sứ còn bị đe doạ, nhất là khi phải nói lời Chúa cho những vị có quyền lực trong dân.
Ai lại không biết trong một quốc gia phong kiến, vua là trên hết. Mọi uy quyền sức mạnh đều nằm trong tay vua. Đụng đến vua thì chẳng khác chi tự đưa mình vào hang cọp. Thế mà để chu toàn sứ mạng, các tiên tri đã không quản liều mình.
Thánh Kinh có ghi lại hình ảnh của một tiên tri Nathan đầy khôn ngoan, dám tố cáo tội ngoại tình, giết người, cướp vợ của vua Đavít; hay hình ảnh can đảm của tiên tri Elia, dám nói thẳng với hai vợ chồng vua Akhab việc họ đã giết Nabot và chiếm đoạt tài sản của ông cách bất công, nên Thiên Chúa sẽ giáng phạt tội ác của họ; hoặc dưới triều vua Yosya, tiên tri Sophonia đã trách cứ các tư tế và chỉ trích thói tục ngoại lai khi tôn sùng các thần giả.
Trước lời loan báo, cảnh tỉnh của tiên tri, “hoặc là họ nghe, hoặc là họ không nghe”- một là người ta sẽ lùi bước trước điều gian ác để sám hối canh tân hoặc chính các tiên tri sẽ phải chuốc hoạ khổ đau, như trường hợp của ngôn sứ Gioan Tiền hô khi dám lên tiếng phản đối hành động loạn luân của Hêrôđê.
Các tiên tri của Chúa không những dám đánh mất sự sống thân xác khi đụng đến những kẻ có thế lực và quyền hành trong dân, các ngài còn dám hy sinh cả an toàn tình cảm khi lên tiếng cảnh cáo răn đe dân chúng. Như tiên tri Giêrêmia, Amos, Giôna, Nahum, Mica, những vị dám lên án dân Do thái, dám thoá mạ bọn nhà giàu cướp bóc người nghèo, những kẻ cho vay vô lương tâm, những con buôn gian lận, những gia đình chia rẻ, các tư tế tham lam, hay các quan án hối lộ.
Giữa một xã hội vô luân, giữa một dân tộc bị tục hoá, giữa những con người đang chạy theo những điều vô đạo, vô phép, mà một mình dám đứng lên để mở ra một hướng đi mới, dạy dỗ một giáo lý mới nhân danh Chúa, tất khó tránh khỏi cảnh kẻ chê người ghét, kẻ phản đối người hận thù.
Đức Giêsu, vị tiên tri tối cao, cũng không được miễn trừ. Phúc âm nói rõ: khi trở về quê nhà Nazaret, Ngài vào hội đường để giảng dạy. Ngài rao truyền một giáo lý yêu thương “họ không nghe.” Hơn nữa họ còn “vấp phạm vì Người” (Mc 6:3b).
Tất nhiên sự vấp phạm này không chỉ là thái độ thiếu kính trọng đối với “anh thợ mộc con bà Maria” của những người hàng xóm, nhưng còn cả hành vi phủ nhận không tin của bà con thân cận (Ga 7:5). Chính Chúa Giêsu đã phải thốt lên: “Không tiên tri nào mà không bị khinh bỉ nơi quê quán, bà con, họ hàng nhà mình” (Mc 6:4).
Thế nhưng, dù bị ngược đãi khinh khi, dù phải đối diện với lòng chai dạ đá, Đức Giêsu vẫn không ngã lòng từ bỏ sứ vụ. Thánh kinh ghi nhận: lúc đám đông không tin phục thì Ngài đi đến với “một vài bệnh nhân;” khi thành này từ khước Tin Mừng thì Chúa Giêsu lại đi rao giảng cho “các làng chung quanh.” Đây phải là thái độ không thể thiếu được nơi các ngôn sứ, những người được mời gọi rao truyền Lời Chúa cho muôn dân.
Nói đến ngôn sứ xin đừng chỉ liên tưởng đến các vị tiên tri trong Cựu ước hay những đấng “bạo mồm bạo miệng” dám lên tiếng hăm doạ, kết án những kẻ sống đời nghịch luân, nghịch thường. Song, ngôn sứ chính là “tất cả những người Kitô hữu, nhờ phép rửa tội, được hiệp thân với Đức Kitô, kết thành dân của Chúa và do đó, họ tham dự theo cách thế riêng vào chức vụ tư tế, sứ ngôn, và vương giả của Đức Kitô. Theo điều kiện của mỗi người, họ được kêu gọi thực hành sứ mạng mà Thiên Chúa giao phó cho Giáo hội chu toàn trong thế giới” (Giáo Luật số 204).
Như thế, ẩn sâu trong bản chất Kitô hữu của tôi là cả một chức năng ngôn sứ. Với chức năng đó, đời sống tôi phải đi đôi với việc loan báo chân lý, bảo vệ luân lý, bênh vực nhân lý nhân danh Thiên Chúa Hằng sống.
Nhưng thử hỏi mấy ai sẽ nghe lời tôi khi đời tôi là một phản chứng. Làm sao người ta nhận ra chân lý khi mà tôi cứ mãi sống trong gian dối, lọc lừa, tham lam. Ai có thể nghe tôi dạy dỗ về luân lý khi mà đời tôi đầy dẫy những thứ vô luân, rối vợ rối chồng, nghiện ngập đam mê. Và ai có thể đồng tình với tôi để bênh vực nhân phẩm đang khi tôi xúc phạm nhân phẩm, huỷ diệt thai nhi, cắt đứt tình người.
Như vậy, để đóng trọn vai trò ngôn sứ, đời tôi phải là một nỗ lực chứng tá liên lỉ. Nhưng tôi tự hỏi: ngay như cuộc đời toàn hảo của Chúa Cứu Thế cũng không được mọi người chấp nhận và bước theo, huống hồ là cuộc đời chứng tá của mình?
Nhưng tính chất cần có của đời ngôn sứ vẫn là không ngã lòng bỏ cuộc. Dù với khó khăn trắc trở của môi trường hay của lòng người, tôi vẫn cứ tiến tới. Trong niềm tin như Thánh Phaolô, tôi dám nói: “Ơn Chúa luôn đủ cho tôi. Vì chính trong sự yếu hèn của tôi mà quyền năng Thiên Chúa được tỏ bày” (2 Cr 12,9).
Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn
SUY NIỆM 9: GỠ BỎ ĐỊNH KIẾN BẰNG CÁCH SỐNG YÊU THƯƠNG
Người ta kể lại rằng: khi Đức Hồng Y Ron-cal-li được bầu làm Giáo hoàng với tước hiệu Gioan 23, vì xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo, với hình dáng mập mạp, quê mùa, chất phát, thì nhiều người đã khóc cho Giáo hội sắp đến ngày tàn. Họ nói rằng, Giáo Hội không còn ai hay sao, mà phải bầu một ông lão gần đất xa trời với cái tuổi 77 tuổi lên lãnh đạo. Nhưng có ngờ đâu con người khiêm tốn, bình dân, giản dị và vui tươi ấy đã thu hút mọi người. Và chỉ thời gian rất ngắn sau đó, báo chí đã đưa những tin “giật gân” về ông già hồn nhiên, vui vẻ, mà tin làm cho mọi người sửng sốt nhất là việc tuyên bố họp Công Đồng Chung Vatican 2, thực hiện cuộc canh tân vĩ đại cho Giáo hội và cả thế giới. Cũng từ đó, ngài đã trở thành một “siêu sao”của thời đại, trổi vượt hơn các vị tiền nhiệm của mình.
Có một điều tương tự cũng đã xảy ra với Chúa Giêsu. Sau thời gian miệt mài rao giảng ở Caphácnaum và quanh biển hồ Galilê, Chúa Giêsu trở về Nagiarét, quê hương dấu yêu. Những tưởng sự hiện diện cũng như những lời rao giảng trong Hội đường Do thái của Ngài sẽ được người thân cũng như dân làng Nagiarét đón nhận hay ít nữa cũng có điều gì đó tự hào về người con của dân làng. Nhưng không, với con mắt định kiến, thiển cận và hẹp hòi, những người đồng hương với Chúa đã không nhận ra khuôn mặt thật của Ngài. Họ không tin Ngài là một tiên tri, lại càng không thể tin Ngài là Đấng Cứu Thế, bởi vì xưa nay, họ nuôi quan niệm sai lầm về Đấng Cứu Thế. Theo họ thì Vị Thiên Sai phải là một nhà lãnh đạo chính trị lỗi lạc, một nhà cải cách xã hội tài ba, một vị tướng lãnh tài giỏi, bách chiến bách thắng, để có thể đưa dân tộc họ lên hàng bá chủ hoàn cầu. Đấng Thiên Sai Cứu Thế thì phải xuất thân từ dòng dõi “trâm anh thế phiệt”, phải là một “trang anh hùng xuất chúng” đầy uy thế và quyền lực. Đàng này, ông Giêsu này thì quá nghèo nàn, tầm thường, từ xuất xứ, lý lịch gia đình đến nghề nghiệp và địa vị xã hội. Trước mắt họ, Ngài chỉ là một anh thợ đụng, một kẻ từng làm thuê cho họ, từ việc đóng chuồng gà đến việc dựng nhà, sửa cửa,… làm sao lại có thể trở thành một tiên tri nổi danh trong một thời gian ngắn? Một người như vậy mà có thể là ngôn sứ, là Đấng Mêsia ư? Trăm lần không, ngàn lần không. Vì thế, họ không tin. Họ đã để lỡ mất một cơ hội đón nhận ân phúc từ trên cao, đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế, đón nhận ơn cứu chuộc. Thật là thiệt hại cho làng quê Nagiarét. Vì họ không tin, nên Chúa Giêsu không thể làm phép lạ nào ở đó. Ngài bỏ họ mà đi, không bao giờ trở lại Nagiarét nữa.
Lắng nghe tin mừng hôm nay, có lẽ chúng ta thầm trách dân làng Nagiarét đã tẩy chay Chúa hoặc tiếc thay cho họ vì họ đã bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng. Nhưng biết đâu, hằng ngày chúng ta cũng đã bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội như thế vì quan niệm hay cái nhìn hẹp hòi của chúng ta. Ta đã bỏ lỡ không tiếp đón Chúa đến thăm khi ta bịt mắt, làm ngơ trước những cảnh ngộ nghiệt ngã chung quanh; khi ta bưng tai không nghe những tiếng kêu than khóc lóc ; khi ta ngoảnh mặt quay lưng trước những nạn nhân của thiên tai hoạn nạn. Khi vì tính ganh tị mà ta không nhìn thấy những ưu điểm tốt lành nơi tha nhân. Khi ta để cho thành kiến len lỏi vào óc phán đoán của ta để rồi ta đánh giá lời nói hay việc làm của người khác chỉ dựa trên bằng cấp, sự nghiệp, chức quyền và gia cảnh của họ. Khi ta để cho óc hẹp hòi lấn át nên khi nghe những lời nói hay việc làm mang khuyết điểm của người khác ta vội vã đóng cửa lòng lại, không tìm đến với họ, không cho họ cơ hội để bày tỏ lý do. Khi ta có cái nhìn nông cạn hay thái độ quen quá hoá nhàm xâm chiếm tư tưởng của ta, để rồi gặp người khác lướt qua một vài lần, nói mấy lời xã giao mà đã kết luận người đó tốt xấu. Hay khi buồn giận một linh mục nào đó mà không tìm đến thờ phượng Chúa ở bất cứ nhà thờ công giáo nào khác thuận lợi, thì chẳng phải là hành động giận cá chém thớt, khước từ Chúa hay sao?
Như vậy Lời Chúa hôm nay là lời nhắc nhở và mời gọi chúng ta phải xác định lập trường, thái độ của mình đối với Chúa cũng như đối với anh chị em xung quanh. Ở trên đời có rất nhiều sự việc xảy ra mà chúng ta không ngờ tới, không dám nghĩ tới, nhưng nó vẫn cứ xảy ra, huống hồ người anh em của chúng ta, hôm qua họ là người thô lổ cộc cằn, nhưng hôm nay họ trở nên hiền lành dễ thương, hôm qua họ buôn gian bán lận, hôm nay họ trở thành kẻ lương thiện, hôm qua họ là tên không ra gì, nhưng hôm nay họ trở thành một linh mục, một tu sĩ, một nữ tu...cho nên, đừng nhìn cái ngày hôm qua của người anh em để rồi có thành kiến là họ không tốt, nhưng hãy nhìn cái việc làm ngày hôm nay của họ để khuyến khích và động viên.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta đủ khôn ngoan nhận ra giá trị lớn lao của nhau, để có thái độ tôn trọng và tri ân. Xin Chúa ban cho chúng ta một tâm hồn rộng mở và giầu lòng quảng đại để chúng ta đón nhận nhau trong yêu thương. Bởi, có yêu thương, ta sẽ không còn đố kỵ, không còn kỳ thị, không còn chấp nhất, không còn định kiến, không thiển cận và cũng hết hẹp hòi. Nguyện xin Chúa chúc lành cho những cố gắng sống yêu thương của mỗi người chúng ta. Amen
Lm Paul Nguyễn Nguyên
SUY NIỆM 10: CAO NGẠO ĐÁNH MẤT TẤT CẢ
Cao ngạo khiến con người đánh mất Thiên Chúa, đánh mất đồng loại và đánh mất chính mình.
Sự cao ngạo không bao giờ có lối dẫn người ta đến gặp Thiên Chúa. Đó là một nguyên tắc đã trở thành kinh nghiệm ngàn đời, không phải của riêng ai, nhưng là của cả nhân loại.
Cao ngạo làm người ta xa Chúa đã vậy, nó còn có thể giết chết sự sống con người. Tất nhiên không phải sự sống thể lý, nhưng là những giá trị thánh thiêng, những giá trị làm nên sự quý báu, làm nên ý nghĩa của cuộc đời, của mỗi người nói riêng và cả nhân loại nói chung. Chẳng hạn:
* Niềm tin (chưa phải là đức tin của người Kitô giáo). Đó có thể là lòng tin tưởng giữa người với người bị đánh mất. Đó cũng có thể là lòng tin giữa con người với đấng thượng đế nào đó mà con người đặt niềm tin vào, nay bị đánh mất bởi cao ngạo.
* Hay như đức tin của những anh chị em Kitô giáo. Đó là lòng tín thác tuyệt đối mà họ đặt nơi Thiên Chúa vô biên, Đấng luôn yêu thương và quang phòng săn sóc mọi loài, mọi người. Đức tin làm nên giá trị vĩnh cửu của đời người. Nhưng vì cao ngạo, con người có thể hoàn toàn đánh mất đức tin.
* Hay chí ít là những giá trị thường hằng của đời sống như: tình yêu, lòng khoan dung, sự tha thứ, thái độ siêu thoát đối với của cải, lòng tự chủ đối với bản năng quyền lực… cũng bị đánh mất do cao ngạo.
Đó là những giá trị làm nên những mối tương quan tương quan sâu đậm trong mỗi tâm hồn con người. Để gìn giữ những giá trị vô cùng ấy, ta cần loại trừ mọi thứ cao ngạo trong đời mình. Bởi mối nguy hiểm do cao ngạo là mối nguy hiểm lớn. Nó làm ta đánh mất Thiên Chúa, đánh mất cả đồng loại quanh ta.
Sự mất mát do cao ngạo, dù đã quá lớn, nó vẫn chưa dừng. Nó biến ta thành kẻ trơ trụi. Trơ trụi đến mức trần trụi: ta chỉ quay quắt với chính mình, cố thủ trong pháo đài của riêng mình. Những danh từ như lòng tin tưởng, bạn bè, người thân… chỉ còn là những khái niệm mơ hồ, xa xăm. Con người có bao giờ thành người trọn vẹn khi tự mình che chắn, bao bọc lấy mình. Vì không là người trọn vẹn, do đó, cao ngạo xô ta đánh mất chính mình.
Từ thuở tạo thiên lập địa, Kinh Thánh đã chứng minh nỗi đau, sự nghiệt ngã do lòng người cao ngạo gây ra: Tổ tông loài người đã cao ngạo đến mức không thể hiểu nổi. Được làm người hạnh phúc, tự do, và thấm đẫm tình yêu Thiên Chúa đã là một ân phúc tuyệt vời, vậy mà tổ tông đã không coi đó làm đủ, lại dám nuôi một giấc mộng tầm cỡ thiên đàng: đòi bằng Thiên Chúa, Đấng mà mình phải phát xuất từ đó. Tổ tông không ngờ giấc mộng của mình lại chính là ảo vọng và tội lỗi.
Bởi cao ngạo quá đỗi, tổ tông đã kéo theo những mất mát cũng lớn không kém: mất Thiên Chúa. Bằng chứng là tổ tông đã tìm cách trốn Thiên Chúa. Mất cả tương quan với đồng loại. Mới ngày nào Ađam còn reo to vui mừng khi được Eva làm bạn: “Đây xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi”. Nhưng sau khi phạm tội, tình nghĩa thắm thiết đã không còn. Nguyên tổ bắt đầu đổ lỗi cho nhau: “Người đàn bà Chúa ban cho con đã hại con”. Và trong tội, nguyên tổ đã đánh mất chính mình, trở thành những kẻ vong thân, sống trong lầm lũi, sợ hãi và tủi nhục.
Và hôm nay, một lần nữa, bài Tin Mừng lại cho thấy người đương thời của Chúa Giêsu, cụ thể là chính đồng hương của Chúa đã sai lầm vì cao ngạo. Chính cái lý lịch xem ra rất tầm thường của Chúa mà họ đã xúc phạm nặng nề với Chúa: “Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao?”. Cũng chính cái lý lịch ấy, làm cho họ, thay vì được nhiều ơn lành từ Chúa Giêsu, thì ngược lại, họ đánh mất tất cả. “Người đã không làm phép lạ nào được”. Có Thiên Chúa ở với mình, nhưng không biết đón nhận, vì thế, họ đã đánh mất cả Thiên Chúa: Không những không thể làm phép lạ, Chúa Giêsu còn bỏ ra đi. Người “qua các làng chung quanh mà giảng dạy”. Khi cố tình đẩy Chúa Giêsu ra khỏi cuộc đời mình, những người đồng hương của Chúa đã làm tổn thương mối liên hệ với Chúa Giêsu xét như một con người: tổn thương mối tương quan giữa người với người.
Mãi đến tận bây giờ, vì không nhìn nhận Chúa Kitô là Thiên Chúa, sự cao ngạo quá mức ấy, đã làm cho người Dothái, là những đồng hương của Chúa Giêsu, đã qua hai mươi thế kỷ, vẫn cứ vuột mất ơn cứu độ, vẫn là những người mỏi mòn trông chờ Đấng Cứu Thế của lời hứa. Ngày xưa, vì cao ngạo, tổ tông đã thất bại thảm hại. Bây giờ, cũng vì cao ngạo, quê hương của người Dothái, cũng chính là quê hương của Chúa Giêsu, đã tự mình tách khỏi ơn cứu độ. Đó quả là một thất bại thảm hại còn lớn gấp ngàn lần thất bại của tổ tông.
Dấu vết thất bại ấy, đã để lại một tấm gương ngàn đời cho muôn thế hệ. Vậy mà bài học trong tội tổ tông và bài học từ những trang Tin Mừng, lắm khi cả tôi và bạn vẫn chưa thuộc. Sự cao ngạo của ta đã nhiều lần làm gãy đổ tương quan giữa ta với Thiên Chúa, giữa ta với nhau, và với chính ta. Có một cách để chữa trị lòng cao ngạo đó chính là tình thương. Sự cao ngạo của những người đồng hương của Chúa Giêsu, trước hết là một lối mòn của những kẻ không biết yêu thương. Chúng ta hãy dành tặng nhau lòng yêu thương. Có yêu, ta sẽ không còn đố kỵ, không còn kỳ thị, không còn chấp nhất, không còn định kiến, không thiển cận và cũng hết hẹp hòi. Tất cả những điều đó (đố kỵ, kỳ thị, chấp nhất, định kiến, thiển cận, hẹp hòi…) là con đẻ của cao ngạo. Bởi đó, tình thương sẽ giúp ta dẹp bỏ thói cao ngạo. Mọi người hãy yêu thương. Chỉ có tình yêu thương mới là giải pháp trọng vẹn hòng chữa trị cao ngạo.
Lm. JB Nguyễn Minh Hùng