CHÚA NHẬT XXXIII THƯỜNG NIÊN – B
KÍNH TRỌNG THỂ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Mát-thêu.
17Khi ấy, Chúa Giê-su phán cùng các Tông đồ rằng: “Các con hãy coi chừng người đời, vì họ sẽ nộp các con cho công nghị, và sẽ đánh đập các con nơi hội đường của họ. 18Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại được biết. 19Nhưng khi người ta bắt nộp các con, thì các con đừng lo nghĩ phải nói thế nào và nói gì. Vì trong giờ ấy sẽ cho các con biết phải nói gì: 20vì chưng, không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các con nói trong các con. 21Anh sẽ nộp em, cha sẽ nộp con, con cái sẽ chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. 22Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét, nhưng ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ”.
SUY NIỆM 1: HẠT GIỐNG ĐỨC TIN (Ga 12,24-26)
Nhập lễ:
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,
Hôm nay, Giáo hội Việt Nam mừng kính trọng thể các Thánh Tử Đạo tại quê hương đất Việt. Các ngài là những công dân hiền hòa, đủ mọi thành phần dân Chúa, mẫu mực trong đời sống đức tin và đã dám lấy chính mạng sống để làm chứng niềm tin kiên vững của mình vào Chúa Kitô:
Hiên ngang lên chốn pháp trường,
Một vì danh Chúa, coi thường gian lao.
Dẫu cho đau khổ chẳng nao,
Trung thành theo Chúa, máu đào chứng minh.
Việt Nam bao đấng hy sinh,
Bạn ơi noi giữ trọn tình làm con.
Mừng lễ các Thánh Tử đạo Việt Nam hôm nay, xin Chúa giúp chúng ta biết noi gương cha ông, can đảm làm chứng đức tin của mình trên quê hương đất nước thân yêu và trước mặt những đồng bào ruột thịt của mình. Trong tâm tình đó, giờ đây chúng ta hãy thành tâm sám hối.
Sám hối:
X. Lạy Chúa, Chúa đã hiến dâng thân mình trên thập giá để cứu chuộc chúng con. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa Kitô, Chúa đã được các Thánh Tử Đạo Việt Nam tuyên xưng bằng chính máu đào. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa, Chúa đã làm cho hạt giống đức tin của người Kitô hữu được triển nở nhờ máu của các chứng nhân anh dũng. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
Kết: Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.
CĐ: Amen.
Suy niệm:
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Hôm nay, chúng ta hân hoan mừng kính trọng thể các thánh tử đạo Việt Nam. Đây là ngày trọng đại và vui mừng của người dân Việt mang trong mình dòng máu con Rồng, cháu Tiên nói chung và những Kitô hữu nói riêng. Cách đây gần 400 năm, hạt giống Tin mừng đã được gieo vãi trên mảnh đất hình chữ “S” thân yêu này vào lễ Phục sinh năm 1.615 tại Hội An, khi cha Bu-giơ-mi người Ý dâng thánh lễ đầu tiên. Cha ông chúng ta là những con người có tâm hồn hiền hậu, chất phác đã đón nhận hạt giống đức tin và sẵn sàng dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho Tin mừng. Các ngài đã chấp nhận vác thập giá để cùng với Chúa Kitô tiến lên đỉnh đồi Canvê: “Nào Đức Kitô lại chẳng phải chịu đau khổ như thế mới được vinh quang sao?”.
Thưa anh chị em, hơn ai hết các thánh tử đạo đã sống mầu nhiệm thập giá cách triệt để nhất. Các ngài đã thực sự uống “chén đắng” và trải qua cuộc “thanh tẩy” bằng máu mà chính Chúa Kitô đã trải qua. Cuộc đời của các ngài lập lại từng bước những chẳng đường thập giá của Chúa Giêsu và cũng kết thúc bằng lời phó thác: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha”. Bằng đời sống chứng nhân, các ngài đã nói lên xác tín của mình: “Ai sẽ tách biệt chúng ta ra khỏi lòng mến của Đức Kitô được?”. Hay là gian truân, buồn sầu, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo sao?. Cũng như Thánh Phaolô, các ngài xác tín rằng: “Không có gì có thể tách rời chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa”. Như thế, tình yêu của Thiên Chúa mạnh hơn sự chết và là yếu tố tạo nên chiến thắng: “Trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu thương chúng ta”. Đó là chứng tá của các thánh Tử Đạo: Tình yêu mạnh hơn sự chết, chết vì yêu thương, chết vì được nên giống Chúa Giêsu. Các ngài thà chịu đòn roi, thà chịu án tử hình để trung kiên theo Chúa, để lãnh phúc triều thiên vinh quang bất diệt trên quê trời còn hơn là làm tôi mọi cho ma quỷ. Như trường hợp ông đội trưởng Bường đã thẳng thắn trả lời với quan quân: "Bên đạo chúng tôi ai chết trẻ là đi đường tắt, ai chết già là đi đường trường. Song đàng nào cũng tới quê thật là nước thiên đàng vậy". Thế nên, thánh nhân đã khuyên nhủ các đồng đạo rằng: "Chúng ta hãy vui lòng chịu mọi sự khốn khó để giữ nghĩa cùng Chúa cho đến khi nào thánh ý Chúa định thể khác. Nếu quan có hành hạ thì hãy can đảm chịu đựng. Hễ xác chết rồi thì hồn chúng ta bay thẳng về trời, không sợ gì roi đòn. Chịu sự khó như vậy là vác thánh giá theo Chúa Giêsu. Nếu có đau đớn quá thì hãy xin Đức Mẹ phù trợ cho được bền lòng đến cùng".
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Là con cháu các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta luôn tự hào vì có các vị tiền nhân đã quả cảm để sống niềm tin, nhưng liệu rằng chúng ta hôm nay còn mấy ai dám khước từ những thoả hiệp trần gian để trung kiên với đức tin của cha ông để lại? Có những con người vì chút bổng lộc trần gian đã bỏ đạo, đã chống đối đạo. Có những con người vì miếng cơm manh áo, vì tương lai của con cái đã chẳng giữ đạo hay theo đạo một cách hời hợt. Có Đạo cũng như không. Hội Thánh thời nào cũng cần những người dám sống vì đức tin, dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời. Sống đức tin là một loại tử đạo không đổ máu, không đòi hy sinh mạng sống, nhưng lại đòi hy sinh cả tương lai vững vàng ổn định. Mỗi ngày, chúng ta thường bị đặt trước những chọn lựa, trước thập giá của Chúa Giêsu, y hệt như các thánh tử đạo ngày xưa. Có khi chúng ta đã bước qua thập giá, khi chọn mình, đã chối Chúa bằng chính cuộc sống. Càng có tự do, chúng ta lại càng dễ sa sút đức tin. Tiền bạc, tiện nghi, khoái lạc vẫn là những thụ tạo gây ra những cuộc bách hại êm ả và khủng khiếp mà cuối cùng chúng ta cũng phải đối diện.
Nguyện xin các thánh TĐVN giúp cho chúng ta là con cháu được trung kiên giữ vững đức tin. Dẫu xã hội có nhiều cám dỗ, cạm bẫy, xin Chúa giúp chúng ta can trường giữ đạo trong mọi thử thách như cha ông xưa. Amen.
Lm. Nguyễn Văn Quang
SUY NIỆM 2: SỐNG ĐẠO TÍCH CỰC CŨNG LÀ MỘT CÁCH TỬ ĐẠO
Người Việt nam nói chung có rất nhiều điều tự hào: tự hào mình là dòng dõi con rồng cháu tiên, tự hào đất nước bốn ngàn năm văn hiến, tự hào dân tộc có tính cần cù chịu khó và thông minh… Tuy nhiên, là người Kitô hữu Việt Nam, chúng ta còn có một niềm tự hào khác. Đó là niềm tự hào được làm những người con, người cháu của các thánh anh hùng Tử đạo Việt Nam mà Giáo Hội Việt Nam hân hoan mừng kính hôm nay.
Nhưng tử đạo nghĩa là gì? Tử đạo có phải là ôm bom tự sát, hay đánh bom liều chết như những kẻ khủng bố hay không? Tử đạo có phải là suốt cả đời sống xa Chúa, xa Tin Mừng, rồi lúc khó khăn cấm cách gồng mình lên giơ cổ cho người ta chém để làm anh hùng không? Không. Tử đạo là kết quả một đời sống chứng nhân bằng cách gắn bó hằng ngày với Chúa, với Đạo và rồi chóp đỉnh mới là chết vì Đạo, chết vì Chúa Kitô.
Hiểu như thế thì các vị Tử Đạo không phải như những anh hùng liệt sĩ mà nhà nước thường phong tặng. Các ngài còn vượt xa hơn nhiều anh hùng thế gian, vốn là những người chết vì tranh đấu cho tổ quốc hay cho lý tưởng mà mình theo. Cái chết ấy gây đau khổ cho chính bản thân họ, cho gia đình họ, và còn gây hận thù giữa họ và những kẻ gây ra đau khổ chết chóc cho họ.
Các thánh tử đạo là những người chết vì yêu mến Chúa Giêsu. Sự chết của các ngài là nguồn hoan lạc cho chính các ngài, và là hạnh phúc cho gia đình và dân tộc các ngài. Hơn thế nữa sự chết ấy lại còn sinh hoa trái cứu độ trên những kẻ giết các ngài. Biết bao người ghét đạo đã được trở lại nhờ máu và lời cầu nguyện của các vị tử đạo. Chính niềm tin, lòng mến và lòng cậy trông đó đã đưa các ngài lên đài cao vinh quang nhận lãnh vương miện của người chiến thắng. Nhưng không phải vương miện hay hư nát mà là vương miện bất hoại, vương miện trường tồn.
Mẫu gương của các vị tử đạo là ai? Thưa là chính Đức Giêsu, như Ngài nói: “Quả thật, quả thật ta bảo các ngươi, giả như hạt lúa gieo xuống đất không chết đi, thì nó trơ trọi một mình, nhưng nếu nó chết đi, nó mới sinh nhiều hoa quả” (Ga 12, 24). Đức Giêsu là hạt lúa tinh tuyền được Cha ban cho thế gian để chết đi. Ngài là vị tử đạo đầu tiên của nhân loại trước Thiên Chúa Cha. Các vị tử đạo đã nhìn vào Đức Giêsu như mẫu gương duy nhất của mình. Đức Giêsu yêu Chúa Cha hơn mạng sống của mình, thì trong Đức Giêsu các vị tử đạo cũng yêu mến Thiên Chúa và anh em hơn mạng sống mình.
Mừng kính các thánh tử đạo hôm nay, chúng ta không mừng các ngài như những bậc anh hùng hảo hán, cũng không chỉ cử hành linh đình bên ngoài như một ngày giỗ lớn. Nhưng tất cả chúng ta hãy cảm tạ Thiên Chúa đã yêu thương ban cho ông cha chúng ta được phúc thông phần vào việc khai sinh Hội Thánh Việt Nam bằng chính máu đào của mình.
Mừng kính lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta không chỉ tự hào về đức tin kiên cường của Cha ông chúng ta, không chỉ hãnh diện vì được là con cháu của các Thánh Tử Đạo, không chỉ tri ân những giọt máu trổ sinh mầm sống Đức Tin nơi chúng ta, mà thiết thực hơn, chúng ta cần còn được mời gọi làm chứng nhân cho Đức Kitô trong mọi môi trường mà ta đang sống, đang làm việc hay đang học tập.
Dẫu chúng ta không có cơ hội để chết vì đạo như các ngài ngày xưa, nhưng xã hội hôm nay đang cho chúng ta bao cơ hội để “sống vì đạo”. Sống vì đạo hôm nay cũng khó khăn không kém như chết vì đạo năm xưa. Để trung thành với Chúa và Tin Mừng, chúng ta phải chọn lựa quyết kiệt mỗi ngày. Những chọn lựa đó cũng đau đớn không kém những khổ hình cha ông chúng ta đã chịu; những hy sinh vì Tin Mừng đó cũng khiến tim chúng ta rỉ máu không kém việc chịu tử hình.
Một cách cụ thể, tử đạo ngày hôm nay là biết vui lòng chấp nhận những hy sinh, những thập giá hằng ngày, ngay trong chính môi trường mà mình đang sống. Trong đời sống gia đình, có nhiều thánh giá lắm. Thánh giá có khi là bệnh tật, tai ương hoạn nạn, là nghèo túng; thánh giá có khi là sự khó tính khó nết của người bên cạnh; đối với người chồng, đôi khi Thánh giá của mình chính là vợ; đối với vợ thánh giá của mình có khi chính là chồng mình; đối với cha mẹ thánh giá có khi chính là con cái của mình, v.v…
Có ông chồng nọ đi xưng tội. Xưng tội xong, ông về nhà ngay. Khi vừa về đến nhà, ông liền chạy tới ôm lấy vợ và hôn tới tới tấp 10 cái. Bà vợ vô cùng ngạc nhiên, vì từ ngày lấy nhau đến giờ, ông chưa bao giờ hôn bà như thế. Bà hỏi:
- Tại sao bữa nay ông lại nổi hứng như vậy?
Ông chồng liền trả lời:
- Bữa nay tôi đi Nhà Thờ và đã xưng tội. Cha giải tội bảo tôi phải về hôn Thánh giá 10 lần mà việc đền tội.
Bà vợ liền nói:
- Vậy thì ông đi lấy Thánh giá mà hôn đi chứ!
Người chồng đáp lại:
- Bà ơi! Trên đường từ Nhà Thờ về đây tôi đã suy nghĩ kỹ rồi. Tôi thấy Thánh giá của tôi chính là bà đó!
Thế đấy, Thánh giá đối với ông chồng này chính là bà vợ. Vậy nếu ông chồng này biết đón nhận người vợ của mình với tất cả sự trái tính trái nết, cũng là một cách tử đạo.
Một cách tử đạo nữa đó là luôn sống yêu thương. Bởi lẽ người ta thường nói: “Yêu là chết trong lòng một ít”. Đôi khi là chết “cả mớ” kìa. Yêu nhiều, yêu Chúa yêu người nhiều cũng phải chết đi nhiều. Chết vì yêu hay yêu nên phải chết. Dù là chết trong lòng cũng là chết, và đó cũng là tử đạo.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta được thông phần vào vinh quang của các thánh tử đạo nhờ biết can đảm đón nhận những thánh giá hằng ngày với tất cả lòng yêu mến: mến Chúa và yêu anh em như Chúa đã dạy. Amen.
Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
SUY NIỆM 3: SỨC MẠNH CỦA ĐỨC TIN
Nói đến sức mạnh, chúng ta tự nhiên sẽ nghĩ đến những chàng trai võ sĩ thân hình lực lưỡng, cân đối rắn chắc,với những bắp thịt vạm vỡ, với những quả đấm thôi sơn ngàn cân. Nói đến sức mạnh, chúng ta cũng nghĩ đến những trận cuồng phong, những cơn lũ lụt phá đổ cây cối nhà cửa làng mạc, đê điều, đường sá, cầu cống. Nói đến sức mạnh, chúng ta cũng thường nghĩ tới những đám cháy lớn thiêu rụi cả một khu rừng, thiêu huỷ các tầng lầu.
Nói đến sức mạnh, chúng ta nghĩ đến những trận động đất san bằng nhiều thành phố, giết hại hàng triệu người trong vài giây đồng hồ. Nói đến sức mạnh, chúng ta cũng liên tưởng đến những cuộc chiến tranh đã giết hại bao sinh mạng, tàn phá bình địa nhiều thành phố làng mạc nhà cửa dinh thự đền đài.
Nhưng còn có một sức mạnh vạn năng khác, mãnh liệt hơn cả, quyết thắng tất cả mà lại luôn luôn ở trong tầm tay con người. Đó chính là sức mạnh niềm tin tôn giáo.
Niềm tin tôn giáo không bao giờ bị bóp nghẹt do bất cứ quyền lực nào. Không có quyền lực nào có thể xoá bỏ được niềm tin tôn giáo. Lịch sử Giáo Hội đã chứng minh xác tín đó.
- Sức mạnh đức tin vượt thắng những thách đố.
Trong chuyến hành hương Rôma, tôi có dịp đi viếng những hang toại đạo. Đi trong hang như là tìm về cội nguồn đức tin. Nơi đây biểu lộ sức mạnh đức tin của bao thế hệ tiền nhân. Giáo hội giữ vững niềm tin trên nền tảng tử đạo của biết bao con người nằm dưới hang này trong 300 năm đầu bị bách hại. Hang toại đạo là hệ thống đường hầm đào sâu dưới lòng đất tại các khu nghĩa trang ngoại thành Rôma. Những hang hầm dài nhiều cây số. Không phải chỉ một tầng mà đến 3, 4 tầng sâu dưới lòng đất. Không khí trong hang rất lạnh lẽo. Mùi tử khí vẫn còn thoang thoảng đâu đây. Đi trong hầm mộ lạnh lùng, hoang vắng, lối ngõ ngoằn ngoèo, tôi cảm nghiệm được ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết. Sự chết luôn luôn đe dọa rình rập cướp lấy mạng sống con người. Bước đi trong lòng tin và lòng cảm phục nên người hành hương lại cảm nhận sự ấm áp, thân tình gần gũi với các thế hệ tiền bối. Gia sản của Giáo Hội là đây.Tại nơi này, các tín hữu sơ khai đã ẩn trốn những cơn bách hại liên tiếp trong ba thế kỷ. Sức mạnh đức tin thật là kỳ diệu.
Suốt ba trăm năm bắt Đạo, trải qua sáu triều Vua: Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Giáo Hội Việt Nam đã có hơn trăm ngàn Vị Tử Đạo được ghi nhận trong sổ sách. Trong số này, có 58 Giám mục và Linh mục ngoại quốc thuộc nhiều nước như Pháp, Tây Ban Nha, Bồ đào Nha, Hà Lan, Italia, 15 Linh mục Việt Nam, 340 Thầy Giảng, 270 Nữ tu Mến Thánh Giá, 99.182 Giáo dân.
Trải qua ba trăm năm, với 53 sắc dụ cấm đạo dữ dội, Giáo Hội Việt Nam đã chịu bách hại và đã biểu lộ hào hùng sức mạnh đức tin qua dọc dài lịch sử.
Các Thánh Tử Đạo đã chịu đủ mọi cực hình: bị xiềng xích, lao tù, bị tra tấn, bị bỏ đói, bị chém đầu, bị thắt cổ, bị bá đao, phanh thây, bị kìm kẹp, bị voi dày, bị thiêu sống, bị buộc đá thả trôi sông, bị tống cổ ra khỏi nhà cửa, làng mạc, sống vất vưởng trong rừng sâu nước độc. Các ngài đã bị chết đói, chết khát, chết bịnh và bị dã thú ăn thịt…Với sức mạnh đức tin, các ngài đã chiến thắng mọi thứ cực hình dã man. Cho dù là gông cùm, xiềng xích, nhốt trong cũi, đánh đòn, bỏ đói, voi giầy, trói ném xuống sông, đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng, chặt đầu, thắt cổ, thiêu sống, phân thây ra từng mảnh…các ngài chấp nhận tất cả nhờ đức tin mạnh mẽ. Trong 117 Thánh Tử Đạo được tuyên phong, có 79 vị bị trảm quyết (bị chặt đầu); 18 vị bị xử giảo (bị thắt cổ); 8 vị chết rũ tù; 6 bị thiêu sinh; 4 bị lăng trì (phân thây ra từng mảnh); 1 bị tử thương và 1 bị bá đao.
Người ta nghĩ ra mọi thứ hình phạt tàn ác để buộc các tín hữu chối bỏ đức tin.
– Thật kinh hoàng sởn tóc gáy khi nghe kể về cái chết của Cha Cố Du theo kiểu bị xử bá đao: “Ngày 30.11.1835, họ chọn Thợ Đức làm pháp trường để xử ngài.Sáng sớm hôm đó, họ điệu ngài đến nơi hành hình. Bên một lò than đang cháy đỏ rực có 5 tên lính cầm 5 chiếc kìm sắt đã được nung đỏ.Nghe lệnh, cùng một lúc cả 5 tên kẹp kìm nung đỏ vào mình ngài kéo ra những miếng thịt khét lẹt.Họ vu cho ngài móc mắt trẻ con khi rửa tội. Làm điều ám muội khi cử hành lễ cưới và cho ăn thịt người khi rước lễ. Sau đó họ tiếp tục gây thêm những thương tích nữa cho đến khi ngài bất tỉnh thì họ mới hành quyết. Họ cột chân tay ngài vào cây cột. Hai bên lính cầm kìm chờ sẵn. Cha Du ngửa mặt lên trời cầu nguyện dâng mạng sống mình cho Chúa. Sau hồi trống báo hiệu, hai tên lính cầm kìm kẹp vào ngực ngài kéo ra 2 miếng thịt nơi vú liệng xuống đất, một tên lính khác cầm dao xẻo thịt phía sau hông, rồi đến bắp đùi thì chúng lấy kìm kéo ra rồi lấy dao xẻo đứt từng miếng… làm cha rất đau đớn. Không được bao lâu thì ngài ngất đi, đầu rũ xuống và ngài về chầu Chúa lúc 17g ngày 30.11.1835. Cha Du chết rồi bọn lính còn chặt đầu ngài cho vào một chiếc thùng đầy vôi, cởi trói lật xác úp xuống rồi phân thây ra từng khúc bỏ tất cả vào thùng vôi. Đầu ngài họ đem treo 3 ngày ở giữa chợ rồi xay nát, bỏ chung với thùng vôi đựng xác ngài đoạn quăng cả xuống biển cho mất tích”.
– Thánh Giám mục Xuyên, chân tay bị trói vào bốn cọc. Năm lý hình cầm 5 cái rìu, sẵn sàng nghe lệnh quan án sát. Vừa nghe lệnh, hai lý hình chặt hai chân, hai lý hình chặt hai tay, đến lượt lý hình thứ năm chặt đầu. Rồi họ mổ bụng ngài cắt lấy ruột gan.
– Cha Điểm và Cha Khoa bị trói chân tay vào cột, lý hình tròng dây vào cổ. Nghe hiệu lệnh, lý hình cầm hai đầu dây xiết mạnh cho đến khi hai vị nghẹt thở và lịm dần.
Dù chịu mọi cực hình tàn bạo, bị hành hạ tra tấn khủng bố, các ngài vẫn không chối bỏ đức tin. Vua chúa, quan quyền, binh lính phải sững sờ kinh ngạc và kính phục lòng tin sắt son của các ngài.
Thánh Hồ Đình Hy làm quan lớn trong triều đình. Quan Án Phạm Trọng Khảm. Nhờ sức mạnh đức tin, các ngài chấp nhận mất chức quyền, mất danh vọng thế gian và sẵn sàng hiến dâng mạng sống.
Thánh Lê Thị Thành, thân phận phụ nữ yếu ớt, gánh nặng gia đình, nhờ sức mạnh đức tin nên ngài đã sẵn sàng chịu mọi cực hình để minh chứng tình yêu đối với Đức Giêsu Kitô.
Thánh Tôma Thiện, Phaolô Bột, đầu xanh tuổi trẻ, tương lai còn dài, nhiều hứa hẹn. Các ngài đã dâng hiến tuổi thanh xuân cho Chúa nhờ sức mạnh đức tin.
Các Thánh Tử Đạo vui lòng đón chịu mọi cực hình đau đớn, chấp nhận mọi thua thiệt, vui lòng mất hết địa vị bổng bộc và hiên ngang tiến ra pháp trường đón nhận cái chết như một mối phúc, minh chứng lòng trung thành của mình đối với Đức Kitô. Cái chết của các ngài làm sáng lên sức mạnh đức tin.
- Những thách đố Đức Tin thời nay.
Làm sao chúng ta có thể sống đức tin mạnh mẽ như các Thánh Tử Đạo. Ngày nay đâu còn cảnh cấm đạo, bắt đạo, giết người có đạo như thời xưa.
Nhưng ngày nay có rất nhiều thách đố đức tin với tín hữu Việt Nam.
– Vô thần duy vật
Thách đố trước hết đối với Đức Tin chính là môi trường mà chúng ta đang sống và “hít thở”, đó là một xã hội vô thần duy vật. Đây một xã hội tự bản chất chối bỏ Thiên Chúa, đề cao vật chất và quyền lực. Sự chối bỏ Thiên Chúa sẽ là nguyên nhân đưa tới sự sa đọa của con người và xã hội. Khi một xã hội vắng bóng Thiên Chúa, người ta sẽ tạo ra những “thiên chúa khác” nơi một con người hoặc nơi vật chất như người Do Thái trong Cựu Ước đã đúc ‘bò vàng” để thờ như thờ Thiên Chúa. Xã hội chạy theo sức hấp dẫn của đồng tiền. Của cải và quyền lực lên ngôi. Thang giá trị đạo đức bị đảo lộn. Người ta tìm mọi cách kiếm tiền để có quyền. Khi có chức quyền thì càng kiếm được nhiều tiền. Đồng tiền đang trở thành một quyền lực chi phối toàn bộ đời sống con người. Ai cũng muốn có nhiều tiền. Để có nhiều tiền, nhiều người đã không từ chối một phương cách nào: lường gạt, lừa đảo, làm hàng gỉa, buôn bán ma túy, tham nhũng, hối lộ… Tiền bạc qủa là một cơn cám dỗ đang làm chao đảo thế giới, tàn phá những gía trị, biến chất con người. Trong xã hội đó, nhiều người Công Giáo cũng bị cuốn hút vào ma lực của đồng tiền, nên dễ đánh mất Niềm Tin, xa rời Giáo Hội.
– Gian dối và lừa lọc lên ngôi
Thách đố thứ hai của Đức Tin, đó là xã hội Việt Nam đang báo động bởi đầy dẫy những bất công, lạm quyền và giả dối lan tràn. Đạo đức suy thoái, lương tâm và nhân phẩm bị xúc phạm. Mấy câu thơ sau đây có thể tóm tắt thực trạng xã hội:
“Nhân phẩm ngày nay giảm giá rồi,
Chỉ còn thực phẩm tăng giá thôi,
Lương tâm bán rẻ hơn lương thực,
Chân lý chân giò một giá thôi.”
Sống trong môi trường như thế, nhiều người lập luận: người ta gian dối mà mình trung thực là mình thua thiệt! Có những người Công Giáo cũng hành xử như người không tin, cũng lừa lọc, gian lận đủ cách để làm sao mình có lợi.
– Sự đề cao hưởng thụ cá nhân
Chúng ta đang phải đối diện với một nền văn hóa bị thống trị bởi lối sống hưởng thụ ích kỷ. Trong đó, con người chạy theo lối sống hưởng thụ cá nhân, biến người khác thành một món hàng để chiếm đoạt và mua bán. Tương quan yêu thương và nhân bản bị xếp sau tương quan trao đổi và lợi ích kinh tế. Xã hội này đã sinh ra những đứa con “quái thai” trong cách sống: bằng mọi cách để kiếm tiền và hì hục hưởng thụ! Khi sống theo lối sống này, con người trở nên ích kỷ, quy ngã, hời hợt, và ít quan tâm đến người khác, thiếu khả năng liên vị, không biết tôn trọng và yêu thương người khác. Quan sát cách hành xử của người Việt Nam ở nơi công cộng và nhất là khi tham gia giao thông, sẽ thấy người ta tranh giành nhau, chụp giật và manh mún theo kiểu mạnh ai người ấy thắng, cá lớn nuốt cá bé. Cách sống nói lên não trạng và tâm tính con người. Đó là một tình trạng đáng buồn cho xã hội Việt Nam hôm nay!
– Chủ trương duy tương đối
Còn có một thách đố lớn hơn đối với Đức Tin mà Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI luôn cảnh báo, đó là chủ trương duy tương đối. Chủ trương này khiến cho con người hôm nay không còn muốn chấp nhận các chân lý tuyệt đối nữa, không quy chiếu và sống theo một chuẩn mực luân lý hay giá trị đạo đức khách quan nào nữa. Tất cả là tương đối và mỗi người có thể thay đổi các chân lý và sống theo những chọn lựa và chuẩn mực cá nhân. Đây là sai lầm căn bản dẫn đến những sai lầm khác của con người hôm nay. (x. Những thách đố đối với Đức Tin trong xã hội hôm nay; lamhong.org).
Những lối sống và não trạng trên đã và đang len lỏi vào các ngõ xóm, các xứ đạo của chúng ta.
- Hãy bén rễ sâu trong Đức Kitô
Năm Đức Tin là thời gian và cơ hội quý báu giúp mọi Kitô hữu “tái khám phá hành trình Đức Tin để luôn làm nổi bật niềm vui và lòng hăng say mới của việc gặp gỡ Đức Kitô” đồng thời, “khơi dậy nơi mỗi tín hữu khát vọng tuyên xưng Đức Tin trong sự toàn vẹn và với niềm xác tín được đổi mới, trong niềm tín thác và hy vọng” (Tự sắc Porta Fidei, số 2 và 9).
Đức Giáo Hoàng Biển Đức dạy: “Năm Đức Tin sẽ là một cơ hội thuận tiện để tăng cường việc cử hành Đức Tin”. Cử hành đức tin là tuyên xưng, sống và làm chứng cho Đức Tin. Tuyên xưng Đức Tin như Kinh Tin Kính dạy và như Hội Thánh công bố. Tuyên xưng Đức Tin trong mọi hoàn cảnh sống khi an vui, hạnh phúc và thành công, cũng như khi đau khổ, bệnh tật, thất bại hay khủng hoảng. Cử hành Đức Tin bằng việc nhiệt thành dấn thân thực hiện công cuộc truyền giáo với cách thức mới mẻ và hiệu năng hơn. Cử hành Đức Tin bằng sự chuyên cần cử hành và lãnh nhận các bí tích. Cử hành các bí tích là cử hành mầu nhiệm các đức tin, nhất là bí tích Thánh Thể và Hòa Giải.
Đức Tin là hồng ân vô giá mà Thiên Chúa đã ban tặng. Đức Tin là “cửa” mở ra, đưa chúng ta đi vào đời sống kết hiệp thân tình với Thiên Chúa và bước vào Hội Thánh của Người. Đức Tin là bảo chứng mang lại ơn cứu độ đời đời cho chúng ta.
Đức Tin bừng lên mãnh liệt trong mầu nhiệm tự huỷ và hiến dâng. Mừng lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam là dịp để học hỏi nơi cuộc đời chứng nhân của các ngài. Chúng ta được tiếp thêm sức mạnh Đức Tin để sống đạo giữa biết bao thách đố của thời đại hôm nay. “Hãy bén rễ sâu trong Đức Kitô, xây dựng trên nền tảng Đức Kitô và được củng cố trong đức tin” (Cl 2, 7), chúng ta sẽ được tràn đầy sức mạnh Đức
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
SUY NIỆM 4 : BẢN HÙNG CA VÔ TẬN
Khi đọc lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn từ thế kỷ XVI-XIX, nhiều người có cảm nhận và sánh ví Giáo Hội Việt Nam tựa như một “bản ai ca” buồn hiu hắt. Vì ngay từ lúc hạt giống đức tin vừa được gieo vãi vào lòng những người dân Việt, cũng là lúc các kitô hữu phải bắt đầu đối diện với sự bách hại và bắt bớ.
Chỉ trong vòng 3 thế kỷ, đã có hơn 100.000 tín hữu bị giết chết vì mang danh kitô hữu. Những nhà cầm quyền đã dùng đủ mọi hình thức để tra tấn và tiêu diệt. Những tín hữu nào không chịu chối đạo và không chịu bước qua Thánh giá, đều bị chặt đầu, thiêu sống, thắt cổ, lăng trì… hay bằng nhiều cực hình dã man khác. Thật đau xót cho những con người ấy!
Thế nhưng, đối với Giáo Hội Công Giáo nói chung, và cách riêng với Giáo Hội Việt Nam, đó không phải là một “bản ai ca” buồn hiu quạnh, nhưng là một “bản hùng ca” đầy khí phách, mà các bậc tiền nhân đã tấu lên bằng lòng tin cậy mến và tô đẹp bằng máu của ngài. Bản hùng ca vang dậy những tấm gương anh dũng, đã dùng mạng sống để làm chứng cho Chúa Kitô, và dùng máu hồng để làm trổ sinh các kitô hữu. Bản hùng ca ấy đã vang lên và còn vang mãi qua muôn thế hệ.
Chính cái chết anh dũng của các Thánh Tử đạo Việt Nam là bằng chứng cho thấy, các ngài đã sống triệt để lời mời gọi của Chúa Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”.
Người ta cứ thắc mắc là, không biết tại sao các ngài lại có được sự can đảm mãnh liệt đến thế. Trong bài đọc II, Thánh Phaolô đã trả lời rằng: Những ai có lòng yêu mến thật sự và luôn gắn bó đời mình với Chúa Giêsu, thì không gì có thể tách họ ra khỏi tình yêu với Ngài; cho dù là gian truân, khốn khổ, đói rách hiểm nguy, bắt bớ hay gươm giáo; cho dù là đó sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, trời cao hay vực thẳm, hoặc bất cứ một loài thụ tạo nào. Thật vậy, cũng như Thánh Phaolô, đối với các Thánh Tử đạo Việt Nam lúc ấy, “sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi”.
Những điều vừa kể trên chỉ là một vài chi tiết trong trang sử hào hùng của các Thánh Thánh Tử đạo Việt Nam. Thiết nghĩ, bấy nhiêu cũng đủ để chúng ta hãnh diện và tự hào về đời sống đức tin của cha ông chúng ta.
Phần chúng ta,“con nhà tông không giống lông thì cũng phải giống cánh”. Cha ông chúng ta đã có một đời sống đức tin đầy oai hùng và mãnh liệt. Các ngài đã sống đạo, giữ đạo và tử vì đạo. Chúng ta được mời gọi noi gương các bậc tiền nhân để cũng biết sống “tử đạo” vì đức tin. Tuy nhiên, tử đạo ngày nay không cần phải đón nhận gươm đao hay tuôn đổ máu đào, nhưng mỗi người có thể noi gương cha ông sống tinh thần tử vì đạo qua 2 việc làm cụ thể sau:
Thứ nhất, đó là đón nhận những khó khăn thử thách vì danh Chúa Kitô với lòng tin cậy mến: không than vãn, không kêu ca hay trách móc. Thánh Phaolô cho biết: “Không một thử thách nào đã xảy ra cho chúng ta mà lại vượt quá sức loài người. Thiên Chúa là Đấng trung tín: Người sẽ không để chúng ta bị thử thách quá sức; nhưng khi để chúng ta bị thử thách, Người sẽ cho kết thúc tốt đẹp” (1Cr 10,13).
Thật ra đau khổ chính là con đường dẫn tới vinh quang. Chúa Giêsu đã đi trên con đường này. Các Thánh Tử đạo Việt Nam cũng thế. Đó là con đường ngắn nhất, đẹp nhất và hiệu quả nhất để nhận được ngành lá tử đạo. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy can đảm nối gót cha ông để bước đi trên con đường ấy. Và Ngài cũng khẽ nói với ta rằng: “Ơn Ta đủ cho con” (2Cr 12,9).
Thứ hai, đó là chấp nhận chịu thiệt thòi vì danh Chúa Kitô. Có thể vì mang danh kitô hữu mà chúng ta bị thiệt thòi điều này điều kia so với người khác, chẳng hạn như lương không cao, chức không tiến, ghế không êm… Nhưng Chúa Giêsu đã từng khẳng định rằng: “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người ghen ghét. Nhưng ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ” (Mt 10,22). Điều đó là chính đáng phải đạo thưa anh chị em, vì nếu “được lời lãi cả thế gian mà mất phần linh hồn thì nào có ích gì?” (Lc 9,25).
Như thế, mỗi người kitô đều có thể trở nên chứng nhân đức tin kiên cường giữa lòng thế giới, và có thể nhận được ngành lá tử đạo vinh quang. Điều quan trọng là chúng ta có thật sự yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn của chúng ta hay không mà thôi.
Và để kết thúc, chúng ta hãy lắng nghe lại những lời sau đây của Chúa Giêsu, hầu chúng ta có 1 niềm xác tín và động lực để cố gắng: "Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 10,32). Amen.
Lm. Antôn
SUY NIỆM 5: VÁC THẬP GIÁ HAY THÁNH GIÁ (Lc 9,23-26)
Trong bài giảng lễ đầu tiên của mình tại nhà nguyện Mácta trước khi khai mào sứ vụ ngai tòa Phêrô, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói: “Khi chúng ta đi mà không có Thánh Giá, khi chúng ta xây dựng mà không có Thánh Giá, và khi chúng ta tuyên xưng Ðức Kitô mà không có Thánh Giá, chúng ta không phải là môn đệ của Chúa: chúng ta thuộc về thế gian, chúng ta là Giám Mục, Linh Mục, Hồng Y, Giáo Hoàng, nhưng không phải là môn đệ của Chúa”. Như vậy, gắn bó với thánh giá là dấu chỉ duy nhất để biết rằng chúng ta thuộc về Chúa Kitô và là môn đệ của Người.
Khi được rửa tội, chúng ta được mang danh Kitô hữu, nhưng để trở thành Kitô hữu đích thực, luôn đòi chúng ta, nhiều hay ít, phải làm những cuộc chọn lựa và từ bỏ, phải chấp nhận bị hiểu lầm, thậm chí bị bách hại. Và như Chúa Giêsu đã nói trong bài Tin Mừng hôm nay, để theo Người, để trở thành môn đệ của Người, chúng ta phải “từ bỏ chính mình”, “vác thập giá mình”, liều “mất mạng sống mình”.
Thập giá, tự nó là hoàn toàn vô nghĩa, vì nó được dùng để đóng đinh những kẻ tử tội, thậm chí nó là “một điều ô nhục đối với người Do Thái, và là một sự điên rồ đối với dân ngoại” (xem 1 Cr 1,23). Nhưng Chúa Giêsu đã biến cây thập giá vô nghĩa đó thành cây Thánh giá cứu chuộc nhân loại khi Người đã vác nó bằng tất cả tình yêu, và trên cây thập giá đó Người trao hiến sự sống cho nhân loại.
Thập giá được trồng ở mọi nẻo đường của cuộc sống. Chúng ta chắc chắn rằng, không ai có thể tránh được thập giá. Thế nhưng, người Kitô hữu được mời gọi hãy “vác thập giá”. Vác chứ không kéo lê, không tránh né, không đẩy qua cho người khác. Chúng ta không vác thập giá với thái độ chịu đựng, nhưng là đón nhận thập giá như cơ hội để chúng ta bày tỏ tình yêu của mình đối với Thiên Chúa. Đó là khi chúng ta sẵn sàng chấp nhận những bất tiện của tuổi tác, đón nhận những khó chịu gặp phải trong cuộc sống hằng ngày, hoặc nặng nề hơn như bệnh tật, tang tóc, chia ly, và mọi đau khổ về thể xác hoặc tinh thần,... Đó cũng có thể là những đòi hỏi hy sinh để sống tình bác ái huynh đệ, hoặc nỗ lực để tiếp tục thực hành đức tin của mình trong một môi trường thờ ơ nguội lạnh, hoặc trong hoàn cảnh không thuận lợi.
Hôm nay chúng ta mừng 117 vị Thánh Tử Đạo trong số hơn 130.000 Kitô hữu đã tử đạo trên đất nước Việt Nam. Tuy thuộc nhiều thành phần khác nhau là linh mục, giáo dân và cả các nhà truyền giáo đến từ Pháp và Tây Ban Nha, nhưng các ngài đều là những người đã vác thập giá mình theo Chúa Kitô đến cùng. Máu các ngài đổ ra để làm chứng cho đức tin và tình yêu đối với Thiên Chúa đã làm cho cây thập giá trổ sinh hoa trái là đức tin của Giáo hội Việt Nam, và của chính mỗi người chúng ta.
Chúng ta không được phúc đổ máu tử đạo như các bậc tiền nhân, và thường thì chúng ta cũng không có nhiều cơ hội thực hiện những việc lớn lao, những nghĩa cử anh hùng để làm chứng cho đức tin. Tuy nhiên, lời mời gọi sống trung thành với những đòi hỏi của Tin Mừng có thể làm chúng ta phải “tử đạo” mỗi ngày, vì nó đòi chúng ta phải hy sinh, phải từ bỏ nhiều thứ. Và đó là cách để làm chứng cho đức tin và tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã hoàn tất cuộc đời của Người trên cây Thánh Giá. Và chúng ta cũng phải hoàn tất cuộc đời mình với cây thánh giá của mình nếu muốn trở thành môn đệ của Chúa Kitô. Đó là con đường duy nhất đưa đến sự phục sinh và sự sống vĩnh cữu.
Thập giá khi được đón nhận và vác lấy với tình yêu nó sẽ trở thành cây Thánh giá có sức thánh hóa và cứu độ. Vác thập giá và làm cho nó trở thành Thánh giá, hay kéo lê cây thập giá như một bản án, điều đó hoàn toàn tùy thuộc vào thái độ và sự chọn lựa của mỗi người chúng ta.
Mừng lễ các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam hôm nay, chúng ta hãy xin các ngài cầu bầu cho Giáo Hội Việt Nam, cho mỗi người chúng ta biết yêu mến thập giá của mình, và can đảm vác lấy thập giá mình mỗi ngày, để tất cả những hy sinh, những đau khổ chúng ta mang lấy trong cuộc đời, đều được trổ sinh hoa trái đức tin sự sống cho chính chúng ta, cho các thế hệ tiếp nối chúng ta trên quê hương Việt Nam thân yêu này.
Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
SUY NIỆM 6:
Ngày 24 tháng 11, là ngày lễ thánh linh mục tử đạo Anrê Dũng Lạc. Giáo Hội Việt Nam đã xin Giáo Hội hoàn vũ để mừng lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam vào ngày này, và nhận Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là bổn mạng Giáo Hội Việt Nam. Vì là bổn mạng của Giáo Hội Việt Nam, nên lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là lễ trọng và được dời vào ngày Chúa Nhật. Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ là lễ Kitô Vua, nên lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam được mừng vào Chúa Nhật trước lễ Kitô Vua.
Các thánh tử đạo là những người dám chết để làm chứng Thiên Chúa yêu thương con người. Các ngài là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa đang làm những điều kỳ diệu nơi những con người yếu đuối mỏng dòn.
Đời sống trong sáng đáng quý như châu ngọc
Bài đọc thứ nhất trong sách Maccabêô quyển thứ hai, thuật chuyện một người đáng kính, từ chối không ăn thịt heo cho dù phải chết. Ông được nhiều người quý mến nên đổi thịt heo thành thịt mà luật cho phép ăn, rồi đề nghị ông giả vờ ăn thịt heo để thoát chết. Êlêazarô từ chối mánh khóe để được sống này, vì khi làm như vậy gây gương xấu cho thế hệ tương lai. Thế hệ trẻ đâu biết đó không phải là thịt heo, nên tưởng rằng Êlêazarô tham sống sợ chết mà vi phạm luật Chúa.
Thái độ sống của Êlêazarô rất trong sáng, rất tự do ngay cả đối với cái chết. Ông cũng là người cho thấy tình yêu và trách nhiệm đối với thế hệ tương lai. Nơi con người mỏng dòn, Thiên Chúa đã và đang làm những điều tuyệt vời. Các thánh tử đạo Việt Nam cũng là những người sống thái độ tự do và yêu mến như vậy. Các ngài là những người cha, người mẹ, người chồng, người vợ, người con hiếu thảo và tốt lành; tuy vậy các ngài sẵn sàng chấp nhận cái chết vì yêu mến Thiên Chúa, yêu mến con người và những người thân.
Cái chết của các ngài, làm rạng danh gia tộc, giúp cho những người con người chồng người vợ nhìn lên tấm gương của những bậc cha anh thân yêu mà phấn đấu sống cho nên người và nên người con ngoan của Chúa. Các thánh tử đạo là những người ảnh hưởng rất lớn trên thế hệ tương lai mà nhiều người không thấy rõ điều này, khi cho rằng các ngài chết thì đâu có dạy dỗ hoặc ảnh hưởng gì được trên ai. Nơi các anh hùng tử đạo, lời dạy không bằng ngôn từ nhưng bằng chính cuộc sống. Và chúng ta biết, lời bằng hành động hay cuộc sống thì có sức thuyết phục hơn lời nói nhiều.
Không có gì tách tôi ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa
Bài đọc thứ hai trong thư của thánh Phaolô gởi tín hữu Roma, cho thấy xác tín của thánh nhân. Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, và không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Yêsu. Bằng cớ cho thấy Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, đó là Ngài đã ban chính Con Một Ngài cho chúng ta. Nếu Thiên Chúa ban chính Con Một Ngài cho chúng ta, thì Ngài còn tiếc gì với chúng ta nữa?
Không có gì tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa. Không phải vì chúng ta yêu Thiên Chúa đến độ không có gì tách chúng ta khỏi tình yêu của Thiên Chúa, nhưng vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta, Thiên Chúa giữ chúng ta trong tình yêu của Ngài. Nếu chính Thiên Chúa giữ, thì ai giựt chúng ta ra khỏi tay Thiên Chúa được? Nếu chỉ là bản thân con người ghì chặt Thiên Chúa, thì người mạnh hơn có thể giựt họ ra được, nhưng đây chính Thiên Chúa giữ. “Không ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Yêsu Kitô”. Không ai, cho dù đó là thiên thần hay quỷ dữ, bất cứ quyền lực nào cũng không thể làm điều này, vì Thiên Chúa là Đấng vô cùng mạnh.
Vì tin vào Thiên Chúa yêu thương tôi, nên tôi vững dạ an tâm, nên tôi ung dung thư thái bất chấp tất cả. “Nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, chính là Chúa”. “Đức Chúa là ánh sáng và Đấng cứu độ tôi, tôi còn sợ chi ai, tôi còn kinh khiếp chi ai”! Chính Thiên Chúa làm cho các thánh tử đạo trung thành với Ngài, cho dù “kiếm sắc, đầu rơi, gươm đao, xá gì”. Thiên Chúa là Đấng trung thành, Ngài sẽ hoàn tất những gì Ngài đã khởi sự nơi chúng ta.
Vác thập giá hằng ngày mà theo Ta
Đức Yêsu nói trong tin mừng theo thánh Luca: “ai muốn theo Ta, phải bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà theo Ta”. Theo Đức Yêsu, là một thái độ sống liên lỉ chứ không chỉ là một hành vi riêng lẻ một lần cho tất cả. Để có thể có hành vi dám chết cho tình yêu, các anh hùng tử đạo đã luôn chết cho chính mình trong cuộc sống hằng ngày để sống cho Chúa trong từng hành vi sống của mình.
“Được lời lãi cả thế gian, mà phải mất mạng sống mình, thì ích gì?” Điều quan trọng là phải sống. Nhưng nếu chỉ sống một trăm năm, mà phải khổ nhục vĩnh viễn thì ích lợi gì? Sự khôn ngoan đi kèm với hành vi anh hùng nơi các thánh tử đạo. Các thánh tử đạo, là những người khôn ngoan, anh hùng và đức hạnh. Các ngài là những người dám sống và dám chết cho tình yêu. Các ngài chọn đời sống vĩnh cửu hơn đời sống chóng qua này.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Tại sao các vị tử đạo dám chết? Những người thân của họ được gì?
2. Có người nói: “sống tốt cuộc sống này, đã là tử đạo rồi”. Bạn có đồng ý không? Tại sao?
3. Để giúp nhau hiểu thêm về lịch sử Giáo Hội Việt Nam và gương anh dũng của các bậc cha anh, xin bạn kể tiểu sử một vị thánh tử đạo Việt Nam!
Lm. Phạm Thanh Liêm.
SUY NIỆM 7: KHÔNG ĐI THEO ĐẠO YÊU THƯƠNG CỦA CHÚA GIÊSU LÀ BỎ ĐẠO
Khi nào ta bỏ đạo?
Một trong những thử thách mà vua quan ngày xưa thường bày ra để xử tội người có đạo là đặt một cây thánh giá dưới đất rồi truyền cho họ bước qua. Ai chấp nhận bước qua là tỏ dấu công khai từ bỏ đạo Chúa thì được tha về. Ai kiên quyết không bước qua thì được xem là người ngoan cố, không chịu từ bỏ đạo Chúa thì phải chịu tra tấn, tù ngục, chịu hành hình và chịu chết.
Có nhiều người kiên quyết không bước qua thánh giá, dù bị khiêng qua thì cũng co chân lại để khỏi dẫm đạp lên. Có người lỡ dại dột bước qua, nhưng về sau ân hận nên quay trở lại, khẳng định với quan quân mình không bỏ đạo nữa và xin được chịu chết vì Chúa.
Tất nhiên có nhiều người vì sợ ngục tù xiềng xích, gông cùm và tra tấn hoặc sợ chết nên đã bước qua thánh giá. Nhưng trái lại, cũng nhiều người dứt khoát không bước qua thánh giá, cho dù phải mất hết mọi sự và mất cả mạng sống mình.
Không đi theo đạo yêu thương của Chúa Giêsu là bỏ đạo
Đạo là gì? Người Á đông quan niệm rằng đạo là đường, đường đưa về chân thiện mỹ. Thiên Chúa là Tình Yêu nên đạo của Ngài cũng là đạo Tình Yêu. Chúa Giêsu đến trần gian để lập nên đạo yêu thương như một con đường đưa nhân loại về cõi phúc.
Chỉ có những ai giữ tròn quy luật yêu thương mới thực sự là người người theo đạo Chúa. Chúa Giêsu khẳng định rằng: “Người ta căn cứ vào dấu nầy để nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau.” (Ga 13, 35).
Những ai theo đạo yêu thương, tức là giữ tròn giới luật yêu thương Chúa dạy, thì được liệt vào hàng ngũ người con cái Chúa. Ngày phán xét, Chúa Giêsu mở cửa đón nhận họ vào Vương Quốc của Ngài: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa”; ai không sống theo luật yêu thương, là người bỏ đạo Chúa, thì bị liệt vào hàng ngũ những người bị nguyền rủa và bị loại trừ vĩnh viễn khỏi nhan Thiên Chúa: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó” (Mt 24, 34. 41)
Ngày trước trong thời bách hại, hành động bước qua thập giá Chúa Giêsu là dấu chỉ cho biết ai là người bỏ đạo. Ngày nay, hành động chà đạp lên nhân phẩm, chà đạp tình người, là dấu hiệu chứng tỏ người thực hiện điều đó đã chối bỏ đạo yêu thương của Chúa Giêsu.
Nói cụ thể:
Trong đời sống chung giữa xã hội, ai nuôi lòng thù oán anh em mình, xúc phạm đến người khác, gây tổn thương thanh danh, phẩm giá người khác… là người đã từ bỏ đạo yêu thương của Chúa Giêsu.
Trong phạm vi gia đình, đạo yêu thương của Chúa dạy vợ chồng phải nên một với nhau, phải yêu thương và tôn trọng nhau suốt đời. Thế nên khi vợ chồng không còn sống yêu thương hiệp nhất nữa mà sống phân li chia cắt, thì lúc đó, hai người đã lìa bỏ đạo yêu thương của Chúa Giêsu.
Đạo yêu thương Chúa dạy cha mẹ phải chăm lo, giáo dục con cái, rèn đúc con cái nên người tài đức. Nếu cha mẹ thờ ơ không làm tròn nhiệm vụ đó, là cha mẹ đã bỏ đạo Chúa.
Đạo yêu thương Chúa dạy con cái phải thờ cha kính mẹ, thảo hiếu với ông bà tổ tiên; nếu con cái không giữ tròn chữ hiếu với cha mẹ, với ông bà tổ tiên là họ đã từ bỏ đạo yêu thương của Chúa rồi.
Trái lại, khi chúng ta theo lời Chúa dạy mà tha thứ cho người khác khi họ xúc phạm đến mình, cứu giúp những người hoạn nạn, chia cơm sẻ áo cho người nghèo thiếu, quên mình phục vụ những người chung quanh… là chúng ta đang đi theo đạo yêu thương của Chúa Giêsu cách triệt để nhất.
Các thánh tử đạo Việt Nam đã rất anh dũng bước theo đường lối Chúa Giêsu, theo đạo yêu thương của Chúa Giêsu. Dù ngục tù, gươm đao, dù bị róc xương xẻ thịt cũng vẫn không làm cho các ngài từ bỏ đạo Chúa. Chúng ta là con cháu các ngài, mang dòng máu bất khuất anh dũng của các ngài trong huyết quản mình, thì chúng ta cũng kiên quyết đi theo đạo yêu thương của Chúa như các ngài, để mai ngày đáng được hưởng triều thiên vinh hiển với các ngài trên thiên quốc.
Nguyện xin các thánh tử đạo Việt Nam là ông bà tổ tiên của chúng ta luôn phù giúp chúng ta vững bước đi theo đạo yêu thương của Chúa.
Lm. Ignatiô Trần Ngà
SUY NIỆM 8: SỐNG CHỨNG NHÂN
“Tin đạo chứ không tin người có đạo”. Câu nói này tôi đã nghe nhiều người nói. Nhưng đáng tiếc không phải là những người ngoại đạo nói mà là những người có đạo nói. Đa số họ là những người đã lâu năm không tới nhà thờ. Họ bỏ xưng tội rước lễ. Họ bỏ đồng đạo. Họ có đạo nhưng không sống đạo. Họ mang danh ky-tô hữu nhưng lại bảo rằng “đạo tại tâm” nên không thể hiện ra bên ngoài dấu chỉ là người ky-tô hữu. Thế nhưng, họ lại biện minh cho hành động chối đạo của mình là vì chê ghét một ai đó trong đạo. Họ không đến nhà thờ vì ông A, ông B đã không tốt với họ. Họ bỏ Chúa vì cha xứ quá khắc khe trong lề luật của Chúa. Họ không còn xưng tội rước lễ vì bà A, bà B vẫn chứng nào tật ấy có tốt hơn họ đâu? Họ đòi người khác phải làm chứng cho họ còn bản thân họ thì lại không chịu làm chứng cho tin mừng. Họ đòi người khác sống tốt còn bản thân họ thì lại nuôi thù oán. Họ đòi người khác phải bác ái yêu thương còn bản thân họ thì cô lập một mình không gắn bó với giáo xứ. Họ chính là những cỏ dại đang làm mất đi vẻ đẹp của cánh đồng lúa Giáo hội Chúa Kitô. Họ chính là những người có đạo nhưng không đáng tin vì tính cố chấp, nuôi thù hận mà bỏ Chúa, bỏ anh em.
Các thánh Tử đạo Việt Nam năm xưa đã lãnh nhận cái chết tử đạo nhiều khi cũng bởi chính những con người mang danh ky-tô hữu nhưng đã không còn sống men tin mừng. Họ đã tố giác anh em vì một chút bổng lộc. Họ đã bán đứng anh em vì cố chấp trong tội lỗi. Như trường hợp thánh An-rê Kim Thông, ngài đã bị tố giác bởi chính người cháu tội lỗi, ngang ngược. Ngài đã từng nhắc nhở người cháu sửa đổi nhưng chứng nào tật ấy. Hắn đã không sửa đổi mà còn tố giác ngài để cầu vinh.
Trường hợp Thánh Phaolô Hạnh cũng thế. Ngài là một thanh niên nổi tiếng về sự quen biết những tay anh chị trong giới giang hồ tại chợ Quán. Một lần, chứng kiến một phụ nữ bị đàn em bóc lột không thương tiếc. Thánh nhân bỗng xúc động ra tay can thiệp, làm áp lực buộc chúng trả lại tất cả những gì đã lấy của nạn nhân. Vì hành động nghĩa hiệp này, thánh nhân phải trả giá: họ tố cáo ngài ngoài tội là Kitô hữu, còn tiếp tay với quân đội Pháp. Thánh nhân bị bắt, bị cầm tù, sau cùng bị trảm quyết tại Chí Hoà ngày 28-5-1859.
Trường hợp Cha Thánh Luca Vũ Bá Loan còn đáng thương và cảm động hơn. Có hai tên tội phạm đang chờ xét xử. Họ bàn tính với nhau đến bắt Cha Loan để lập công chuộc tội. Thế là họ đang tâm nộp Cha cho quan huyện Phú Xuyên, nhưng quan không chịu nhận, họ phải đưa Cha về Thăng Long. Sau cùng, ngày 5-6-1840, Thánh Luca Loan bị chém đầu.
Điểm chung của các thánh Tử Đạo chính là can đảm đón nhận thập giá Chúa gửi đến mà không oán hận kẻ làm hại mình. Các ngài đã vui nhận hy lễ thập giá vì yêu mến Chúa Kitô. Các ngài luôn xác tín rằng: những đau khổ đời này không đáng gì so với vinh quang bất diệt mai sau. Các ngài dầu có chịu khổ hình trong giây lát nhưng được sống lại vinh quang muôn đời. Đó là điều mà thánh Đaminh Hạnh đã xác tín, khi mà quan triều đình nói với ngài: “Xem kìa, đạo trưởng Duyệt đã chịu bỏ đạo, được tha về, ông cứ làm như thế tôi sẽ tha cho ông”. Nhưng thánh Đaminh Hạnh bình tĩnh trả lời: “Kẻ trung thành với Chúa, khi chết sẽ được lên thiên đàng”.
Mừng kính các thánh Tử đạo Việt Nam là dịp nhắc nhở chúng ta hãy sống thể hiện niềm tin trung kiên của mình trong mọi tình huống. Đừng vì một chút cỏ dại lấn át mà chán nản bỏ đạo. Đừng vì một chút giận hờn mà thù hận cả niềm tin của mình. Đừng chối đạo vì ghét ai đó hay đánh mất niềm tin vì bên trong Giáo hội vẫn có cỏ lung xen lẫn. Và nhất là đừng bán đứng anh em để cầu vinh.
Ngày nay chúng ta không còn những bạo chúa bách đạo bằng gươm đao súng đạn, nhưng đề sống niềm tin đòi hỏi chúng ta phải chiến thắng chính mình. Không ai bắt chúng ta bỏ đạo nhưng vẫn còn đó những người bỏ đạo vì chức vụ trần gian, vì lười biếng ham chơi, vì đam mê truỵ lạc. Không ai ngăn cản chúng ta thực hành đạo nhưng vẫn còn đó những người luôn nuôi dưỡng hận thù, luôn bất mãn với tha nhân nên đã sống thiếu yêu thương trong lời nói và việc làm. Không ai dụ dỗ chúng ta bỏ đạo nhưng nhiều người đã lao vào những con đường tội lỗi, những quan hệ bất chính nên đã không còn xứng đáng mang danh là ky-tô hữu.
Quả thực, ngày nay không cần những cuộc bắt đạo những vẫn có hàng ngàn người bỏ đạo vì những danh lợi thú trần gian. Ngày nay không ai bắt chúng ta bước qua thập giá nhưng vẫn còn đó nhiều người vì danh lợi thú đã tự tháo bỏ thập giá khỏi bàn thờ gia đình, khỏi cuộc sống của mình. Họ đích thực là loại người mà nhân loại kết án “tin đạo chứ không tin người có đạo”, vì lẽ họ không còn sống niềm tin của mình.
Lạy các thánh Tử đạo Việt Nam, là cha ông chúng con. Xin cho chúng con biết tôn thờ Chúa trên hết mọi sự, biết noi gương các ngài để thể hiện niềm tin trung kiên của mình trước những cám dỗ lợi lộc của thế gian. Xin giúp chúng con biết thể hiện niềm tin của mình qua đời sống thánh thiện, bác ái yêu thương. Amen.
Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
SUY NIỆM 9: LÀM CHỨNG
Hôm nay Giáo Hội cho phép chúng ta mừng kính chung toàn thể Các Thánh Tử Đạo Việt nam. Đây thực là một ngày giỗ tổ làm cho mọi tâm hồn con dân đất Việt phấn khởi vui mừng. Chúng ta đều biết từ khi đạo Chúa chính thức bắt rễ vào đất nước chúng ta cho đến cuối thế kỷ XIX, nghĩa là từ khoảng năm 1638 đến năm 1886, gần 300 năm. lịch sử Giáo Hội Việt Nam là cả một cuộc tử đạo kéo dài gần như liên tực năm này qua năm khác, không mấy khi ngừng, mà nếu có ngừng thì chỉ là tạm ngừng để chuẩn bị tiến sang một giai đoạn chịu bách hại khác dữ dội hơn và đẫm máu hơn.
Trong suốt ba thế kỷ bị bách hại, tính ra có trên 130 ngàn anh hùng tử đạo, và như thế nước Việt nam chúng ta, tuy nhỏ hẹp và nghèo khổ nhưng rất hào hùng. Nước nhỏ hẹp nhưng danh tiếng vang lừng quốc tế. Chúng ta đã đóng góp cho gia sản của Giáo Hội một sự nghiệp đức tin to lớn. Tuy nhiên, trong số đó mới chỉ có 117 vị được phong chân phước. Và ngày 19-6-1988, cả 117 vị này đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn hiển thánh để cho toàn thể thế giới tôn kính và noi gương anh dũng của các ngài. Đồng thời để cho chúng ta, những người Công Giáo Việt Nam, là con cháu các ngài, biết nối gót cha ông, dù sống trong hoàn cảnh nào cũng luôn trung thành với Chúa, với Giáo Hội, với Tin mừng giữa lòng dân tộc.
Các vị tử đạo cũng là những con người mang thân xác dòn mỏng như chúng ta, cũng biết rung cảm, cũng biết ham sống sợ chết như chúng ta. Nhưng giờ phút hy sinh đến, các ngài sẵn sàng tiến lên dâng hiến cuộc đời cho Thiên Chúa. Do đó cái chết của các ngài có một ý hướng nhất định: các ngài là những nhân chứng cho đạo Chúa. Đúng thế, danh từ “tử đạo” có nghĩa là kẻ làm chứng, và dùng đau khổ, tử hình để bảo đảm cho lời chứng. Mỗi vị tử đạo chết bằng nhiều hình khổ khác nhau, nhưng tất cả các ngài đều hiên ngang dùng lời nói và mạng sống mình để giảng đạo, bênh vực chân lý và tuyên xưng đức tin. Tóm lại, tất cả các ngài đều là những nhân chứng bằng chính đời sống của mình. Và cái chết của các ngài là một câu trả lời hùng hồn, quyết liệt cho những ai còn nghi ngờ tôn giáo của các ngài.
Người ta thường nói: “ăn quả nhớ kẻ trồng cây” hay “uống nước nhớ nguồn”. Chúng ta là con cháu các vị tử đạo, chúng ta được thừa hưởng một di sản đức tin phong phú, được chiêm ngưỡng một Giáo Hội phát triển tốt đẹp như ngày nay, chúng ta không thể quên đó là kết quả của những giòng máu cha ông đã đổ ra. Bởi vậy, chúng ta phải tưởng niệm đến công lao to lớn của tiền nhân mà đáp đền cho xứng đáng và ra công phát huy di sản quý báu cha ông đã để lại. Nhưng nếu chỉ có những cảm tình hân hoan phấn khởi và biết ơn mà thôi thì chưa đủ, chúng ta còn phải chú ý lắng nghe tiếng gọi tha thiết của giòng máu tử đạo và khám phá ra những bài học cao quý để áp dụng vào đời sống. Vậy máu tử đạo nói gì với chúng ta?
Trước hết, máu tử đạo nói lên niềm tin mãnh liệt, sâu xa và lòng trung thành sắt son của cha ông đối với đạo thánh Chúa. Đức tin đã thấm nhập và đâm rễ sâu vào tâm hồn các ngài đến nỗi không một sức mạnh trần gian nào có thể lay chuyển được. Đối với các vị tử đạo, đức tin là một cái gì cao quý vô cùng, phải bảo vệ bằng mọi giá. Dầu bị đe dọa, tra tấn với muôn khổ hình dã man ghê rợn, dầu phải đổ đến giọt máu cuối cùng, các ngài cũng cam chịu, miễn sao bảo tồn được đức tin nguyên vẹn.
Đàng khác, được hấp thụ tinh thần Nho giáo, các ngài đặt chữ “trung” lên trên hết. Không những trung thành với vua chúa trần gian, với quê hương tổ quốc, mà nhất là trung thành với vua trên các vua, chúa trên các chúa, trung thành với quê hương tổ quốc siêu nhiên là Giáo Hội. Đó là tấm gương sán lạn cha ông để lại cho chúng ta.
Thứ hai, máu tử đạo cũng nói lên đức hy sinh can đảm phi thường của tiền nhân. Người ta ai mà không sợ đau khổ, ai mà không tham danh tranh lợi, ham sống sợ chết. Nhưng với ơn Chúa, các vị tử đạo đã thắng vượt mọi trở lực, dầu khó khăn đến đâu, để duy trì đức tin. Ai kể được những khổ hình dã man các ngài đã phải chịu: kìm kẹp, xiềng xích, voi giày, thiêu sinh, trầm hà, trảm quyết, lăng trì, bá đao…Nhưng các ngài can đảm chịu đựng, các ngài đã thắng tất cả: thắng vũ lực, thắng quyền bính vua chúa trần gian, thắng ma quỷ, và thắng chính mình.
Các vị tử đạo đã chết để nêu cao lòng hiếu trung. Các ngài đã từ bỏ tất cả, nhận lấy cái chết, không chút oán giận những kẻ giết mình. Các ngài đã hy sinh đời sống để theo một tôn giáo, minh chứng cho mọi người biết tôn giáo đó là từ trời ban xuống và đạo Chúa Ki-tô là đạo thật. Các ngài chết nhưng luôn sống trong ký ức chúng ta. Các ngài là những hạt giống tốt đã được gieo để đem lại hoa trái phong phú cho chúng ta. Chúng ta đang thừa hưởng gia sản của các ngài, chúng ta hãy sống tốt đẹp, xứng đáng với những hy sinh của các ngài.
Chúng ta hãy nhớ rằng: tử đạo là một ân huệ đặc biệt Chúa ban cho ai tùy ý Ngài muốn, nhưng nỗ lực làm chứng cho Chúa thì không dành riêng cho ai cả. là Ki-tô hữu là có nhiệm vụ làm chứng: làm chứng bằng lời nói, bằng hành động và bằng cả cuộc đời cụ thể của mình. Nói rõ hơn, cách làm chứng tốt nhất cho Chúa, cho đạo là sống bác ái yêu thương. Chúng ta cần phải thuyết phục những người chưa có đạo, những người không hiểu về chính nghĩa của đạo chúng ta bằng cách sống trọn vẹn, quyết liệt, dứt khoát tinh thần bác ái yêu thương đối với nhau và đối với những người chung quanh.
Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP