SUY NIỆM THỨ BẢY TUẦN VIII THƯỜNG NIÊN

Thứ năm - 30/05/2024 22:32
SUY NIỆM THỨ BẢY TUẦN VIII THƯỜNG NIÊN
Mc 11,27-33

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô.
27 Đức Giêsu và các môn đệ lại vào Giêrusalem. Người đang đi trong Đền Thờ, thì các thượng tế, kinh sư và kỳ mục đến cùng Người và hỏi: 28 “Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy, hay ai đã cho ông quyền làm các điều ấy?”
29 Đức Giêsu đáp: “Tôi chỉ xin hỏi các ông một điều thôi. Các ông trả lời đi, rồi tôi sẽ nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy. 30 Vậy, phép rửa của ông Gioan là do Trời hay do người ta? Các ông trả lời cho tôi đi!”
31 Họ bàn với nhau: “Nếu mình nói: “Do Trời,” thì ông ấy sẽ vặn lại: “Thế sao các ông lại không tin ông ấy? 32 Nhưng chẳng lẽ mình nói: “Do người ta”?” Họ sợ dân chúng, vì ai nấy đều cho ông Gioan thật là một ngôn sứ. 33 Họ mới trả lời Đức Giêsu: “Chúng tôi không biết.”
Đức Giêsu liền bảo họ: “Tôi cũng vậy, tôi cũng không nói cho các ông là tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy.”

SUY NIỆM 1: NHỊN NHỤC, HOA TRÁI CỦA CHÚA THÁNH THẦN
Để có thể hiểu được bài Tin mừng hôm nay, chúng ta hãy trở về với đoạn Tin mừng trước đó (Mc 11, 11-26), và nhớ lại xem, Chúa chúng ta đã hành động những gì. Thứ nhất, Chúa Giêsu đã đánh đuổi những người buôn bán tại đền thờ, và thẳng thắn chỉ trích: đừng biến nhà cầu nguyện thành sào huyệt của bọn trộm cướp (x.Mc 11,17). Thứ hai, Chúa Giêsu đã làm một việc thuộc thẩm quyền của bậc tư tế và thầy dạy, đó là giảng dạy trong đền thờ, nhưng lại chưa có phép của nhà hữu trách. Và thứ ba, Chúa Giêsu tự nhận nhà của Thiên Chúa là nhà của Ngài. Đây là một sự đụng chạm đến niềm tin độc thần của người đương thời. Giới lãnh đạo Do Thái xem cả 3 hành động ấy của Chúa Giêsu như một sự khiêu khích; không thể tha thứ! Và họ quyết định tìm cách để giết Ngài (x.Mc 11,18).
Tin mừng hôm nay cho biết, các thượng tế, kinh sư và kỳ mục đã tìm gặp để chất vấn Chúa Giêsu: “Ông lấy cái quyền gì mà làm những điều ấy?”. Đây không đơn thuần là đối thoại nhưng đúng hơn là một cuộc đối đầu để đưa Chúa Giêsu vào chỗ chết. Nhưng điều đáng nể và đáng phải học là Chúa chúng ta luôn giữ một thái độ ôn hòa trước xung khắc đang xảy ra. Ngài không đôi co, không biện minh cũng không giải thích. Nhưng Ngài đã khéo léo kết thúc cuộc va chạm để đôi bên tự tìm ra câu trả lời.
Cuộc sống với những tương quan giữa con người với nhau làm sao tránh khỏi những va chạm như thế phải không thưa anh chị em. Lời Chúa hôm nay mời gọi người kitô hữu chúng ta hãy mang lấy tinh thần ôn hòa của Chúa Giêsu, như chìa khóa để giải mã những xung khắc xảy ra trong cuộc sống.
Chắc ít nhiều anh chị em cũng có kinh nghiệm này, đôi lúc chúng ta muốn gào thét cho thật to, chúng ta tìm mọi cách để bảo vệ cho quan điểm và suy nghĩ của mình, chúng ta hạ quyết tâm làm cho tới chuyện…, nhất định mình phải thắng. Kết quả được gì? Có thể là ta thắng, nhưng mất tình làng nghĩa xóm; mất tình nghĩa bạn bè; không khí gia đình thì ảm đạm nặng trĩu; khoảng cách giữa vợ chồng, giữa cha mẹ con cái ngày càng xa -xa đến nỗi không thể hàn gắn lại.
Không vô lý khi ông bà ta luôn cảnh báo rằng: “Giận quá thì mất khôn”. Thật vậy, sự giận dữ không bao giờ mang lại cho chúng ta kết quả tốt đẹp, nhưng chỉ để lại những hậu quả khó lường. Nhiều người cho rằng nhịn là nhục. Thưa, không nhục! Nhưng ngược lại, “một sự nhịn thì bằng chín sự lành”. Thánh Giacôbê tông đồ còn cho biết, nhịn nhục chính là hoa trái mà Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta.
Ước gì những lời sau đây của Thánh Phaolô sẽ giúp mỗi người có thêm động lực, để quyết tâm sống lời Chúa dạy hôm nay: “Nếu người này có chuyện phải oán trách người kia, thì anh em hãy mặc lấy những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hoà, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau, và hãy tha thứ cho nhau” (Cl 3,12). Amen.
Lm. Antôn

SUY NIỆM 2:
“Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy  hay ai đã cho ông quyền làm các điều ấy?” (c. 28).  Ba giới chức cao nhất của Do Thái giáo  đã đặt câu hỏi như vậy với Đức Giêsu khi Ngài đi đi lại lại  trong Đền Thờ Giêrusalem vào những ngày cuối đời. Ông lấy quyền nào mà dám đuổi những kẻ buôn bán ở đây?  Ông lấy quyền nào mà lật bàn của những người đổi tiền,  và xô đổ ghế của những người bán bồ câu? (c. 15).  Tất cả những người làm chuyện buôn bán  đều nhằm phục vụ cho nhu cầu tế tự của Đền Thờ.  Nếu không cho buôn bán ở đây thì người dân lấy gì mà dâng cúng?  Có phải ông định phá hoại các sinh hoạt ở Đền Thờ không?  Tại sao ông dám nói nơi Thánh này đã trở nên hang ổ của bọn cướp ? Các thượng tế, kinh sư và kỳ mục muốn giết Đức Giêsu (c. 18).  Họ nghiêm chỉnh đến gặp Ngài và đòi Ngài phải trả lời câu hỏi của họ.  Họ muốn biết người nào đã cho Đức Giêsu quyền đó.  Đức Giêsu dùng phương pháp của các rabbi,  trả lời một câu hỏi bằng cách đặt ngược một câu hỏi khác.  “Tôi chỉ xin hỏi các ông một điều thôi.  Các ông trả lời đi, rồi tôi sẽ nói cho các ông biết  tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy” (c. 29).  Ngài đặt cho họ câu hỏi về nguồn gốc của phép rửa bởi Gioan:  “Phép rửa của ông Gioan là do Thiên Chúa hay do loài người?” (c. 30).  Câu hỏi tưởng như đơn giản này lập tức đưa họ vào thế kẹt.  Nếu trả lời phép rửa của Gioan là bởi Thiên Chúa  thì họ sẽ bị tố cáo vì đã không tin vào lời giảng của Gioan. 
Hơn nữa khi tin vào Gioan, họ cũng phải tin vào Đức Giêsu,  Đấng đã được Gioan hết lòng khiêm cung làm chứng.  Nếu trả lời phép rửa của Gioan là bởi loài người  thì họ sẽ vấp phải sự chống đối từ phía dân chúng,  vì họ tin Gioan là một vị ngôn sứ đích thực.  Như thế câu hỏi của Đức Giêsu đã đưa họ vào thế tiến thoái lưỡng nan.  Câu hỏi của Ngài dồn họ vào thế phải trả lời:  “Chúng tôi không biết.” (c. 33). Có thật họ không biết hay chỉ là né tránh sự thật?  Họ đã không tin Gioan, vì sợ tin Gioan sẽ phải tin cả Giêsu nữa.  Nhưng họ lại sợ không dám nói ra điều đó cho dân chúng biết.  Nỗi sợ bị mất uy tín, mất chỗ đứng, khiến họ trở nên câm lặng.  Câu hỏi của Đức Giê su đòi họ trở về với lòng mình  để tự tìm thấy câu trả lời cho câu hỏi của họ: “Ông lấy quyền nào?”  Quyền của Đức Giêsu là quyền năng của Thánh Thần Thiên Chúa.  Làm thế nào để chúng ta thoát khỏi thành kiến và nỗi sợ hãi  để có được sự tự do khi trao đổi với nhau?  Làm thế nào để chúng ta không tìm cách tránh né sự thật,  dù chấp nhận sự thật đòi chúng ta phải thay đổi tận căn và trả giá?  Làm thế nào để chúng ta can đảm nhận mình sai để lại bắt đầu?
Cầu nguyện:
Lạy Cha, xin dạy chúng con biết cộng tác với nhau trong việc xây dựng Nước Trời ở trần gian. Xin cho chúng con đến với nhau không chút thành kiến, và tin tưởng vào thiện chí của nhau. Khi cộng tác với nhau, xin cho chúng con cảm thấy Cha hiện diện, nhờ đó chúng con vượt qua những tự ái nhỏ nhen, những tham vọng ích kỷ và những định kiến cằn cỗi. Ước gì chúng con dám từ bỏ mình, để tìm kiếm chân lý ở mọi nơi và mọi người, nhất là nơi những ai khác quan điểm. Lạy Cha, xin sai Thánh Thần đến trên chúng con, để chúng con biết lắng nghe nhau bằng quả tim, và hiểu nhau ngay trong những dị biệt. Nhờ sống mầu nhiệm cộng tác, xin cho chúng con được triển nở không ngừng và Thánh Ý Cha được thể hiện trên mặt đất. Amen.  
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J
SUY NIỆM 3: ĐỐI DIỆN VỚI SỰ THẬT
Bài Phúc âm hôm nay tiếp nối Tin Mừng hôm qua. Sau khi Chúa Giê-su thanh tẩy Đền thờ: xua đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền thờ, giới chức tôn giáo Do thái đã đến để chất vấn Chúa, điều tra sự việc.
Thoạt nhìn, việc điều tra có vẻ logic. Chúa Giê-su mới đây đã đòi cho mình có quyền đối với Nhà Chúa, còn đối với người Do thái thì đây là một đòi hỏi ngạo mạn chưa từng có. Nên họ chất vấn Ngài: “Lấy quyền nào mà làm các điều ấy?”.
Thực ra, những người đến điều tra đều là những quan tòa nặng óc thành kiến. Họ đến không phải để tìm biết một sự thật, mà để gài bẫy. Là con người hiền hoà, Chúa Giê-su cũng tỏ ra thành thật và thích đối thoại. Tuy nhiên, khi những người đối thoại với Ngài tỏ ra gian manh, thì Chúa lại giữ thái độ thinh lặng, như Ngài đã đứng trước Cai-pha, Hê-rô-đê, Phi-la-tô. Trong trường hợp kẻ đối thoại muốn gài bẫy để bắt bẻ Chúa, thì Chúa lại chứng tỏ sự trổi vượt của Ngài.
Nhận thấy thái độ không thành thật của những người đến chất vấn Ngài. Chúa Giê-su đã vặn lại: “Phép rửa của Gio-an là do trời hay do người ta?”. Khi Chúa đặt ra câu hỏi như thế, không phải để lẩn tránh vấn đề, nhưng cốt để lột mặt nạ che giấu tính xảo quyệt của họ. Sau khi cân nhắc ảnh hưởng lợi hại của câu trả lời, những người được sai đi ấy không dám bày tỏ ý kiến riêng. Họ nói: “Chúng tôi không biết.”
Cách thức trả lời của những kẻ chống đối cho thấy họ tìm ra giải đáp cho câu hỏi đặt ra. Họ không thể chối cãi sự kiện phép rửa của Gio-an là do từ trời. So sánh phép rửa của Gio-an với việc làm và phép lạ của Chúa, chắc chắn phép lạ của Chúa hơn phép rửa của Gio-an. Do đó, theo lý luận nghiêm chỉnh và thành thật, những kẻ chống đối phải biết Chúa lấy quyền từ đâu để làm các điều ấy.
Như thế, câu hỏi của Chúa Giê-su: “Phép rửa của Gio-an là do từ trời hay do người ta?” là câu hỏi để đánh thức lương tâm những kẻ chống đối Ngài. Chỉ những ai chấp nhận đi theo con đường sự thật, người đó mới có thể vào được Nước Trời.
Ai tránh né đối diện với sự thật, bóp méo và vặn cong sự thật sẽ phải lâm vào tình trạng vô vọng, phải chịu ngậm miệng mà không thốt được lời nào. Người dám đối diện với chân lý, có thể sẽ phải xấu hổ tự nhận rằng mình sai hoặc có thể phải đứng ra làm chứng cho sự thật, nhưng ít ra tương lai người ấy cũng còn xán lạn, vững mạnh. Kẻ không dám đối diện với chân lý sẽ chẳng còn gì khác hơn là cứ ngày càng chìm sâu hơn vào một tình trạng khiến kẻ ấy phải gặt lấy tuyệt vọng và chịu bó tay chẳng xoay trở gì được.
Nhìn vào cuộc sống của mình, chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta biết canh tân đời sống, khiêm tốn đón nhận và sống sự thật của Chúa cho đến cùng.
Lm. Giu-se Vũ Công Viện
SUY NIỆM 4: AI HƠN AI?
Sau khi đánh đuổi con buôn trong đền thờ, Đức Giêsu bị các vị lãnh đạo Dothái đến chất vấn Ngài về nội dung việc đuổi dân chúng ra khỏi đền thờ. Đây cũng chính là một trong 5 cuộc tranh luận sôi nổi giữa Ngài với những người lãnh đạo Dothái trước khi chịu chết.
Khởi đi từ việc họ cất tiếng hỏi Đức Giêsu: “Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy?”. Đây là câu hỏi ranh mãnh và đầy nguy hiểm. Nếu Đức Giêsu trả lời là Ngài tự ý lấy quyền của riêng mình mà làm vậy, thì họ ngay lập tức có lý để bắt Ngài vì những lời nói đầy ngông cuồng. Nếu Ngài nói là lấy quyền của Thiên Chúa thì họ cũng thừa cớ để loại trừ Ngài vì những lời nói lộng ngôn.
Tuy nhiên, tình thế được lật ngược khi Đức Giêsu đặt họ vào một thế bí khi thức tỉnh lương tâm bằng câu hỏi: “Theo ý các ông, thì công việc của Gioan Tẩy giả là theo ý người ta hay theo ý muốn của Thiên Chúa?”. Câu hỏi này đã đẩy họ vào đường cùng, khiến họ gặp phải một nan đề khó giải quyết, bởi lẽ, nếu trả lời là đến từ Thiên Chúa thì họ đoán trước có thể sẽ bị Đức Giêsu nói rằng: tại sao các ông lại chống? Hay nếu đến từ Thiên Chúa thì tại sao không tin Gioan đã làm chứng về Ngài? Và tại sao không công nhận Ngài là Mêsia? Còn nếu nói là đến từ con người thì chắc chắn họ bị dân chúng chống đối và phản loạn, bởi vì Gioan được coi như Ngôn Sứ và là chứng nhân. Đứng trước tình thế bí bách đó, họ chỉ còn biết thốt lên: chúng tôi không biết!
Khi sự thật lên ngôi thì những sự gian trá ranh mãnh phải lui về vị trí của chúng.
Trong xã hội hôm nay vẫn còn đó những người sống giả hình, man trá, tránh né hoặc trốn chạy sự thật. Khi không chấp nhận chân lý, thì họ chỉ còn sống trên sự tàn ác, độc địa, giã tâm khi bóp méo sự thật, bẻ cong ngòi bút để dồn anh chị em chúng ta vào chân tường.
Tuy nhiên, cũng như những nhà lãnh đạo Dothái thời bấy giờ. Nếu không dám đối diện với sự thật và nâng đỡ nhau trong chân lý, thì ắt sẽ lãnh nhận hậu quả là rơi vào trong tình trạng tuyệt vọng và đáng xấu hổ, lầm lũi ra về.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay sẽ đánh thức lương tâm của mỗi người, nếu chúng ta đang sống trong sự giả trá, thiếu chân thành và không phục thiện.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con biết sống đơn sơ, chân thành để gặp được Chúa và thuộc về Chúa để được sống đời đời. Amen.

Giuse Vinhsơn Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 5:  
Bối cảnh đoạn Tin mừng Mác-cô hôm nay cho chúng ta thấy một cuộc đối thoại đầy ẩn ý giữa Đức Giêsu với các nhà hữu trách tôn giáo.
Đã đến lúc Đức Giêsu tỏ hiện cho muôn dân biết Ngài là ai, Đức Giêsu cùng các môn đệ lên Giê-ru-sa-lem và Ngài thấy cảnh tượng ô uế của đền thờ. Đền thờ là nơi thợ phượng tôn vinh Thiên Chúa, nhưng giờ đây chốn thánh thiêng này đã trở nên lộn xộn và bát nháo bởi cảnh mua bán, đổi chác, trộm cắp và gian lận, cảnh tượng của một cái chợ. Thấy lòng dạ dân chúng trở nên chai đá, một cuộc sống đầy tục hóa nơi chốn thánh thiêng, Đức Giêsu đã nổi cơn giận dữ, Ngài đã lấy dây thừng đánh đuổi tất cả mọi người ra khỏi đền thờ, nơi mà chỉ để dành riêng cho việc tôn thờ và gặp gỡ Gia-vê Thiên Chúa.
Chính hành động ấy của Đức Giêsu càng làm cho các thượng tế, kinh sư và kỳ mục càng thêm thù ghét Đức Giêsu. Các nhà hữu trách tôn giáo đã để cho cảnh tượng buôn bán, đổi chác bát nháo ấy xảy ra, bởi họ cho rằng, cần có thêm một khoản lợi tức cho đền thờ, nhưng họ lại quên đi giá trị thánh thiêng của nơi thờ tự. Chính hành động của Đức Giêsu sẽ làm cho Đền thờ mất đi mối lợi tức ấy. Do vậy, họ đã chặn Đức Giêsu lại để gài bẩy lên án và kết tội Ngài. Họ chặn Đức Giêsu và hỏi: “Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy, hay ai đã cho ông quyền làm các điều ấy?” Họ hỏi thế, không phải vì lòng chân thành muốn biết rõ Đức Giêsu có phải là Đấng Mê-si-a hay không, nhưng đúng hơn là với một giả tâm muốn gài bẩy để giết Đức Giêsu. Biết được ác ý của họ, thay vì trả lời câu hỏi thì Đức Giêsu lại hỏi ngược lại họ. “Phép rửa của ông Gio-an là do Trời hay do người ta? Các ông trả lời cho tôi đi!” Trước một tình thế bất ngờ, họ trở nên luống cuống nên đã họp bàn nhau để tìm câu trả lời. “Nếu mình nói: ‘Do Trời’, thì ông ấy sẽ vặn lại: ‘Thế sao các ông lại không tin ông ấy?’ 32 Nhưng chẳng lẽ mình nói: ‘Do người ta’?” Họ sợ dân chúng, vì ai nấy đều cho ông Gio-an thật là một ngôn sứ”.
Quả vậy, trong đời sống con người thường hay tìm cho mình sự tư lợi, tìm cho mình một địa vị trong xã hội. Khi mục đích đời họ là đi tìm những thứ phù phiếm của tiền tài danh vọng, họ rất ghét những ai có và sẽ có tầm ảnh hưởng hơn họ. Bởi lẽ, họ không muốn mình là hạng hai và thứ yếu so với kẻ khác và cũng vì đó mà họ khó đón nhận sự hiện diện của những điều thánh thiêng, và càng khó hơn khi đón nhận những “ngôn sứ” của Thiên Chúa. Các thượng tế, kỳ mục và kinh sư đã rơi vào vòng “kim cô” của thế tục ấy, nên họ càng ghét Đức Giêsu hơn, bởi Ngài có một tầm ảnh hưởng lớn lao trong dân chúng. Chính thái độ và cung cách ấy mà họ đâm ra sợ hãi, họ mới trả lời với Đức Giêsu rằng: “Chúng tôi không biết”. Họ trả lời không biết không phải vì họ không biết mà là họ không dám biết và không muốn biết, bởi cái biết ấy sẽ ảnh hưởng trên thế lực, địa vị và quyền lợi của họ.
Do vậy, Đức Giêsu cũng không nói cho họ biết Ngài lấy quyền gì để làm điều ấy, vì lẽ, chính Ngài đã nói rõ ràng với họ rồi “Đừng biến nhà Cha ta thành nơi sào huyệt của trộm cướp”, nhưng họ đã không dám đón nhận sự thật ấy.
Lạy Chúa, trong cuộc sống hằng ngày chúng con thường cũng giả hình như những luật sĩ và kinh sư vậy, muốn tìm cho mình một vị thế mà không ai có thể tranh dành được và chính lẽ đó, chúng con thường để ngoài tai những giáo huấn của Ngài. Nguyện xin Thánh Thần cải hóa tâm hồn mỗi chúng con, để mỗi khi nghe Lời của Ngài, chúng con cũng dám đứng phắc dậy và vứt bỏ sau lưng mọi thứ bám víu như anh mù Bác-ti-mê vậy, để nhờ đó đôi mắt tâm hồn chúng con được mở rộng, mà sống giáo huấn của sự sống của Ngài. Amen.
Xuân Hạ, OMI
SUY NIỆM 6:
Bài Tin Mừng hôm nay kể về việc “nhà cầm quyền tôn giáo” đến đòi kiểm tra “giấy phép hoạt động rao giảng Tin Mừng” của Đức Giêsu. Tiếc cho họ là bị Đức Giêsu bẻ lại một câu hỏi về phép rửa của Gioan Tiền Hô làm họ tiến thoái lưỡng nan rồi bỏ cuộc.
Qua sự kiện này, chúng ta đi tìm bài học mà Chúa muốn dạy chúng ta về quyền rao giảng Tin Mừng không dành cho riêng ai, mà mọi người đều có quyền lợi và nghĩa vụ đem Lời Chúa đến cho người khác tuỳ theo bậc sống của mình.

Có hai vấn đề được đặt ra, là đặc quyền và năng quyền.
 
* Đặc quyền rao giảng.
Điều đáng nói ở đây là người đặt vấn đề “giấy phép” với Chúa Giêsu không phải là nhà cầm quyền dân sự, mà là “các đấng các bậc” tôn giáo, là mấy ông “thượng tế, tư tế, ký mục” Do-thái.
Chính sự “đòi giấy phép” để rồi làm thui chột đi những sáng kiến truyền giáo và cản trở việc mở rộng Nước Chúa. Và đôi khi, sự cản trở lại đến từ chính các đấng các bậc bề trên của mình, vì những lý do quyền bính và lợi lộc, hơn là vì lý do Hiệp Nhất.
Ngày nay không thiếu những vị giữ cho mình cái đặc quyền nhân danh Chúa để loan giảng Tin Mừng, sợ “mất quyền lợi” hoặc “nhỏ đi miếng bánh” hay “ảnh hưởng đến thế giá” và ganh tỵ với những người khác, dù ai cũng có quyền làm chứng cho Chúa bằng nhiều cách thế, mà không ngược với đức tin Kitô Giáo. 
Đôi khi cộng đoàn này phản đối cộng đoàn kia, nhóm từ thiện này lên án nhóm từ thiện nọ, và ai cũng nhân danh Chúa để khiển trách các hoạt động của nhau.
Là người con Chúa trong lòng Giáo Hội, chúng ta không ganh tỵ với việc thiện của người khác, không tự cho mình có đặc quyền lo việc Chúa, nhưng tất cả đều được mời gọi có những sáng kiến làm chứng cho Chúa và giúp đỡ tha nhân. 
 
* Năng quyền rao giảng Tin Mừng.
Cần nắm vững rằng, “giấy phép” rao giảng Tin Mừng dành cho tất cả mọi Kitô hữu trong chức vụ ngôn sứ cộng đồng. Tuy nhiên, để có một Giáo Hội Hiệp Nhất và tránh những sai lạc đức tin, việc rao giảng Lời Chúa cần phải được đặt dưới sự hướng dẫn của Giáo Hội. 
Đây là một điều khác biệt của đạo Công Giáo với anh em Tin Lành. Các anh em Tin Lành tự do chú giải và rao giảng theo những gì họ cho là được Thánh Thần soi sáng, nên ngày nay họ đã có đến hàng trăm chi phái khác nhau. Còn chúng ta, là con cái Giáo Hội Công Giáo, chúng ta đừng vịn cớ “tự do” này, nhưng cần biết vâng theo sự hướng dẫn của Giáo Hội, để cùng hiệp nhất trong một đoàn chiên và một chủ chăn.
Tóm lại, là Kitô hữu, chúng ta có quyền lợi và nghĩa vụ đem Chúa đến cho mọi người, thực thi nghĩa vụ truyền giáo trong bậc sống của mình, từ vai trò ngôn sứ cộng động đến vai trò ngôn sứ thừa tác. Tất cả cho vinh quang sự nghiệp Nước Chúa và Tin Mừng được loan báo, chứ không phải vì vinh quang và chỗ đứng cá nhân.
 
Lạy Chúa Giê-su, khi lãnh Bí Tích Thanh Tẩy, chúng con đã nhận lấy sứ vụ ngôn sứ là rao giảng Tin Mừng, xin cho chúng con ý thức sứ vụ cao cả này, để trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù thuận tiện hay không thuận tiện, chúng con vẫn làm chứng cho sự hiện diện của Chúa giữa trần gian. Amen. 
Lm. Hiền Lâm

SUY NIỆM 7: TRANH LUẬN VỀ QUYỀN CỦA ĐỨC GIÊ-SU
1. Việc Đức Giê-su đánh đuổi những người buôn bán trong Đền thờ đã khiến các trưởng tế, luật sĩ và kỳ lão nổi giận. Họ đến chất vấn Ngài: ”Ông lấy quyền nào mà làm sự đó”?
Đức Giê-su không tự đưa ra câu trả lời, nhưng hỏi ngược lại họ về nguồn gốc của phép rửa của Gio-an Tẩy Giả. Không phải ngài tránh né vấn đề, nhưng là cách Ngài khuyến khích họ suy nghĩ: nếu họ đừng có thành kiến nhưng biết sáng suốt nhận định thì họ sẽ thấy rõ sứ mạng của Gio-an là bởi trời, và sứ mạng cùng quyền năng của Đức Giêsu cũng bởi trời.
Nhưng vì họ muốn bám chặt vào thành kiến nên họ đã không chịu suy nghĩ. Họ hỏi Đức Giê-su không phải để tìm biết sự thật mà tin, nhưng để lập mưu tìm kế giết Chúa. Họ là hạng lòng khác miệng khác, hay đúng hơn là “khẩu phật tâm xà”.
2. Sau việc Đức Giê-su đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền thờ, những người cầm đầu Do thái căm giận Đức Giê-su. Họ đã ra lệnh bắt Ngài. Nhưng họ chưa dám cương quyết thi hành, vì sợ dân chúng. Trong lúc chờ cơ hội, họ tìm đến mở cuộc tranh luận với Ngài.
Qua sự kiện đó, các thượng tế và kỳ lão trong đền thờ hội họp nhau lại để chất vấn Chúa. Họ hỏi Chúa hai câu: ”Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy”, “Ai đã ban quyền ấy cho ông”? Cả hai câu hỏi đó đều minh chứng họ không tin gì vào sứ mệnh thần linh của Đức Giê-su. Họ không hỏi để biết nhưng là để gài bẫy Chúa và muốn đưa Ngài vào ngõ bí.
3. Tinh thần chân thành và đối thoại là tinh thần của Phúc âm. Là con người hiếu hòa, Đức Giê-su cũng tỏ ra chân thành và thích đối thoại. Tuy nhiên, khi những người đối thoại với Ngài tỏ ra gian manh, thì Đức Giêsu lại giữ thái độ yên lặng, như khi Ngài đứng trước Cai-pha, Hê-rô-đê, hay Phi-la-tô. Nhưng trường hợp những kẻ đối thoại bắt bẻ điều gì, thì Chúa lại chứng tỏ sự trổi vượt của Ngài. Ngài cũng đáp lại bằng một phương thế khác, khi những người đối thoại muốn gây áp lực để buộc Chúa phải trả lời, như khi họ hỏi Chúa có nên nộp thuế cho hoàng đế Cê-ra không, hoặc có nên ném đá người phụ nữ  bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình không?
4. Nhưng hôm nay, đúng là “vỏ quít dầy có móng tay nhọn”, thay vì trả lời, Đức Giê-su đảo ngược thế cờ bằng cách đưa ra một câu hỏi ngược lại :”Các ông trả lời cho tôi biết :”Phép rửa của Gioan bởi đâu ? Bởi trời hay bởi người ta”?
Bây giờ đến lượt họ lúng túng. Nếu trả lời bởi trời, thì tại sao lại không tin Chúa, vì Gio-an Tiền Hô đến trước để loan báo về Đấng Cứu Thế, do Thiên Chúa sai đến và có uy quyền Thiên Chúa. Ngược lại, nếu trả lởi bởi người ta thì sẽ gặp phản ứng của dân chúng, vì họ tin Gio-an là tiên tri bởi trời đến  loan báo về Đấng Cứu Thế.
Trả lời đằng nào cũng không được, nên họ cũng khôn khéo trả lời: ”Chúng tôi không biết”, đây là một lần nói dối công khai trước Chúa và mọi người. Nhưng Chúa biết và Chúa trả lời: ”Vậy thì tôi cũng không nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy”.
5. Các nhà lãnh đạo Do thái luôn có thành kiến với Đức Giê-su nên họ không chịu nhận ra sứ mạng cao quí của Ngài. Thành kiến là ngục tù giam hãm con người. Thành kiến làm cho người ta phán đoán sai lệch vì “Đã thương quả ấu cũng tròn, ghét nhau quả bồ hòn cũng méo”.
Có một nhà thiên văn nọ sáng chế được một viễn vọng kính. Đêm nọ ông bỗng phát hiện một con rồng trên mặt trăng. Ông chạy khắp thành phố  mời bạn bè đến xem khám phá của ông. Mọi người đến xem tấm tắc khen ngợi tài năng của ông. Nhưng trong đám đông hiếu kỳ, có một nhà thiên văn học kỳ cựu cũng đến để tìm hiểu thực hư. Vừa đưa mắt vào viễn vọng kính, ông mỉm cười một cách bí ẩn rồi mở ống kính ra, cho mọi người thấy một con ruồi đã chết cứng trong đó. Thì ra con rồng trên mặt trăng không là gì khác hơn là con ruồi nằm trong ống kính.
Chúng ta dễ có khuynh hướng nhìn người khác qua lăng kính  những thành kiến có sẵn.
6. Truyện: Gậy ông đập lưng ông.
Hẳn chúng ta đã nghe câu chuyện “Cò với Cáo”. Chuyện kể thế này: Có một dạo cáo và cò rất hay thăm viếng nhau, có vẻ như hai người bạn thân. Rồi cáo mời cò đến ăn cơm, và để chơi xỏ bạn, cáo chỉ đặt trước mặt cò một chiếc đĩa bằng.
Món này thì cáo liếm sạch dễ dàng, nhưng cò chỉ nhúng ướt  đầu cái mỏ của mình trong đĩa xúp và ăn xong vẫn thấy đói. “Xin lỗi”, cáo nói: ”Món xúp này không hợp với bạn”.
“Thôi mà, đừng xin lỗi”, cò nói: ”Hy vọng rằng mình đã đến chơi với bạn thì bạn cũng ghé chơi với mình, mai kia mời bạn đến chơi ăn cơm với mình nhé”. Và đôi bạn xếp ngày  cho cáo đến thăm cò. Lúc cáo đến, cả hai ngồi vào bàn ăn.
Mâm cơm hôm đó chỉ có một cái bình, cổ dài, miệng hẹp, cáo không thể nào cho mồm vào được, chỉ ngồi đó mà liếm bên ngoài bình. Cò liền nói :”Ăn như thế này mình chẳng có gì phải xin lỗi, ác giả ác báo mà”.
Lm. Giu-se Đinh Lập Liễm


 

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây