Các bài suy niệm Chúa Nhật 17 Thường Niên – C
Lời Chúa: St. 18, 20-32; Cl. 2, 12-14; Lc. 11, 1-13
MỤC LỤC
(Trích dẫn từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Có nhiều định nghĩa về con người.
Con người là con vật biết sử dụng các dụng cụ. Con người là con vật biết suy nghĩ đắn đo. Nhưng như thế vẫn chưa đủ.
Phải định nghĩa con người là con vật biết cầu nguyện, nghĩa là có khả năng lắng nghe và đáp lời Thiên Chúa. Con người là sinh vật biết chuyện trò với Tạo Hoá.
Cầu nguyện không phải là nói với một sự vật, một ý tưởng, nhưng là nói với một Đấng siêu vượt tôi, mà lại rất gần gũi thân thương và biết tôi. Đấng ấy nói với tôi và nghe được lời tôi nói.
Có nhiều tâm tình khi ta cầu nguyện: thống hối, tri ân, ca ngợi, thờ lạy, dâng hiến, nài xin.
Nài xin chẳng phải là điều hạ giá con người. Con người cảm nghiệm được thân phận mong manh, nên khiêm hạ đi tìm sự nâng đỡ.
Xin cho chúng con bánh cần dùng mỗi ngày. Bánh vật chất, bánh tinh thần, Bánh Thánh Thể. Bánh cho chúng con sự sống.
Xin tha thứ tội chúng con, để chúng con được sống bình an sau những va vấp.
Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ. Cơn cám dỗ lớn nhất là chỉ sống cho mình, và khép lại trước Thiên Chúa và anh em.
Quỳ xuống cầu xin là thái độ của người biết mình, biết những gì mình có thể làm được, và biết những gì nằm ngoài tầm tay của mình.
Khi tương quan giữa Mỹ và I-rắc căng thẳng cực độ, Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Kofi Annan đã tới Bagdad để thuyết phục phía I-rắc ký vào bản thoả thuận.
Lúc trở về, ông nói: “Tôi đặc biệt đã cầu nguyện nhiều. Đừng bao giờ đánh giá thấp sức mạnh của sự cầu nguyện.”
Chẳng phải chỉ cầu nguyện khi gặp chuyện khó. Để hít thở bình thường cũng cần đến ơn trên.
Cần có thái độ kiên trì khi cầu nguyện. Hãy cứ gõ cửa nhà Chúa trong đêm mịt mù. Cần tập đứng đợi, tập quấy rầy Chúa. Thế nào Ngài cũng mở cửa và cho mọi sự ta cần.
Hãy để Ngài tự do cho vào lúc và theo cách Ngài muốn, dù điều đó không hợp với ước mơ của ta.
Lắm khi ta có cảm tưởng Ngài không nhận lời. Có thể vì lời nài xin của ta đầy tính ích kỷ, hay vì Ngài muốn dành cho ta một ơn lớn hơn.
Xin Đức Giêsu dạy ta biết cách cầu xin, đưa ta ra khỏi những bận tâm hẹp hòi về chính mình, để thấy những nhu cầu lớn lao của Hội Thánh.
Ơn cao cả nhất mà chắc chắn Cha muốn ban cho ta đó là Chúa Thánh Thần. Có Thánh Thần là có niềm vui, sức mạnh, ánh sáng, sự sống.
Có khi nào ta nài xin Cha ban Thánh Thần chưa?
Gợi Ý Chia Sẻ
Thiên Chúa là Cha tốt lành. Ngài chỉ cho ta điều tốt. Có khi nào bạn gặp thất bại khổ đau mà bạn thấy lòng tốt của Thiên Chúa không?
Nếu Chúa cho bạn chọn 3 điều ước, bạn sẽ chọn những điều nào?
Cầu Nguyện
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con, những ơn con thấy được, và những ơn con không nhận là ơn.
Con biết rằng con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng, biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì những gì Cha không ban cho con, và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì Cha cương quyết không ban bởi lẽ điều đó có hại cho con, hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha dù con không hiểu hết những gì Cha làm cho đời con.
(Trích dẫn từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Một thách đố lớn đối với đức tin của người Kitô hữu đó là sự thinh lặng của Thiên Chúa.
Gặp cơn cùng khốn, con người cầu cứu Ngài nhưng không nghe thấy tiếng đáp lại.
Người lành bị trù dập, kẻ vô tội bị hàm oan, nỗi đau khổ thể xác tinh thần vây bọc lấy đời người.
Con người quằn quại, rên xiết, gào thét, nổi loạn.
“Chúng tôi tố cáo Thiên Chúa vì Ngài vắng mặt.”
Ngài không được quyền vắng mặt và thinh lặng. Nếu Ngài là Thiên Chúa quyền năng, Ngài phải tiêu diệt sự dữ và kẻ dữ. Nếu Ngài là Cha yêu thương, Ngài không thể quay lưng trước nỗi khổ của con người. Có nhiều người đã lý luận như thế và kết luận: “Vì có đau khổ, nên không có Thiên Chúa.”
Có lúc người ta tưởng đau khổ là một vấn đề có thể đem ra mổ xẻ, giải quyết. Nhưng rồi người ta thấy đó là một mầu nhiệm. Chỉ ai tin mới đến gần được mầu nhiệm ấy, và đón nhận nó trong bình an.
Đức Giêsu đã không trình bày con đường diệt đau khổ, nhưng Ngài mang lấy đau khổ vào thân. Trên thập giá, Ngài nghe được sự thinh lặng của Thiên Chúa, và thấy được sự vắng mặt của Người. “Lạy Thiên Chúa của tôi, tại sao Ngài bỏ tôi?”
Như ta, Ngài cũng bước đi trong bóng tối của lòng tin, dù bị thử thách, vẫn một niềm tín thác: “Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha.”
Thiên Chúa vẫn là Đấng toàn năng và yêu thương, nhưng Ngài hành động không giống điều ta nghĩ.
Ngài không đưa Đức Giêsu xuống khỏi thập giá nhưng đưa Con của Ngài ra khỏi nấm mồ, điều đó khó hơn nhiều.
Hôm nay Đức Giêsu mời chúng ta cứ xin, cứ tìm, cứ gõ và tin chắc sẽ được, sẽ thấy, sẽ mở cho.
Chúng ta tin Thiên Chúa là Cha nhân hậu, Ngài chỉ ban cho ta những điều tốt lành, những điều có lợi thực sự cho ta, những điều làm ta trưởng thành và triển nở, những điều đưa ta gặp hạnh phúc đích thực, thứ hạnh phúc không chỉ hạn hẹp ở đời này.
Chúng ta tin Thiên Chúa là Cha nhân hậu, nhưng Ngài không nuông chiều con cái, Ngài dám cắt tỉa để chúng ta sai trái hơn.
Bạn hãy cứ cầu xin nhưng hãy để cho Ngài định liệu, vì Ngài biết rõ điều gì là tốt hơn cho bạn trong hoàn cảnh này, ở đây, bây giờ.
Cần cầu nguyện nhiều, bạn mới biết điều bạn phải xin, vì những điều chúng ta xin còn mang nhiều cặn bẩn.
Lắm khi chúng ta xin rắn mà không hay. Cũng có khi ta tưởng Chúa cho chúng ta bọ cạp. Cần có đức tin mới nhận ra rằng Chúa đã nhận lời mình rồi, nhưng theo một kiểu khác với kiểu ta muốn.
Cần đợi đến một lúc nào đó bạn mới thấy mọi biến cố trong đời đều là quà tặng yêu thương.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn đã từng cầu xin và thấy Chúa thinh lặng trước nỗi khổ của bạn. Bạn đã sống kinh nghiệm đó như thế nào?
Có khi nào bạn tạ ơn Chúa vì những gì Chúa đã không ban cho bạn theo như ý bạn xin?
Cầu Nguyện
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con, những ơn con thấy được, và những ơn con không nhận là ơn.
Con biết rằng con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng, biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì những gì Cha không ban cho con, và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì Cha cương quyết không ban bởi lẽ điều đó có hại cho con, hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha dù con không hiểu hết những gì Cha làm cho đời con.
Hãy cầu nguyện: Lạy Cha, – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Khi các môn đệ thấy Đức Giêsu cầu nguyện với Cha Người, các ông cảm thấy thèm khát vô cùng tình Cha Con lạ lùng cao cả mà Thầy đang được hưởng: Sự kết hợp của Cha Con duy nhất nên một, Cha toàn năng vinh hiển, cực thánh, cực nhân, thượng trí, khôn ngoan vô cùng, thì con cầu nguyện cùng Cha cùng được hiệp thông với Cha như thế. Con cầu nguyện với Cha bằng ngôn ngữ linh thánh huyền diệu chan chứa yêu thương thảo mến, chất đầy tình con chí hiếu, hiến dâng trọn vẹn cuộc đời Con cho sứ mệnh cứu thế mà Cha đã se định.
Lời nguyện từ miệng Con thốt ra có sức mạnh lạ lùng làm cho các môn đệ rung cảm mãnh liệt, khiến các ông tha thiết đến xin Thầy dạy cầu nguyện và Thầy đã dậy: “Khi cầu nguyện, anh em hãy nói: “Lạy Cha, …”
Kinh Lạy Cha có một hình thức giáo dục tuyệt đẹp, và một nội dung chân lý vô cùng phong phú.
Về hình thức: Kinh Lạy Cha, mở đầu bằng lời chào rất thân yêu kính mến. Ngày nay, trong các hội nghị, chúng ta thường thấy các đại biểu bắt chước mở đầu bài phát biểu của mình bằng một lời chào nồng nhiệt, và toàn thể hội nghị đều vỗ tay phấn khởi. Tiếp đến phần chính trong kinh Lạy Cha là phần thưa chuyện gồm hai vấn đề. Vấn đề trước: thưa ba điều về Cha. Vấn đề sau: thưa bốn điều về con. Thưa về Cha trước là tỏ ra con luôn luôn quan tâm đến Cha, tỏ lòng hiếu thảo, kính trọng, yêu mến Cha hơn con. Sau mới thưa đến việc con là tỏ lòng khiêm tốn, xả kỷ, quên mình.
Người lịch sự, lễ phép, khiêm tốn và có giáo dục, khi viết thơ hay tiếp chuyện bao giờ cũng tỏ ra biết để ý đề cập đến việc người trước việc mình. Kẻ vô tâm, thất lễ, ích kỷ, kiêu căng chỉ biết nghĩ đến mình, nói về mình, lo cho mình trước người.
Qua kinh Lạy Cha, Đức Giêsu đã giáo dục nhân loại từ hai nghìn năm nay, biết đi vào con đường lễ phép, khiêm tốn, nhân từ tuyệt vời đó.
Về nội dung: Kinh Lạy Cha chất đầy những vấn đề vô cùng phong phú và quan trọng.
Chỉ suy niệm về lời chào “Lạy Cha chúng con ở trên trời” đã làm cho các ông cảm động run lên vì sung sướng. Các ông lấy làm vinh hạnh vô cùng và được gọi Cha Đức Giêsu là cha mình. Các ông được Chúa cho thông quyền nghĩa tử của người. Ôi! Hạnh phúc biết bao, từ nay các ông được sống bằng sức sống thần linh của Chúa Con, được quyền rao giảng Tin Mừng, được quyền tha tội, trừ quỷ, chữa lành bệnh nhân cả hồn xác, được quyền ban sự sống, ơn thánh và tình yêu chí thánh của Chúa Thánh Thần. Sau các môn đệ, còn biết bao nhiêu người cũng được diễm phúc cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha như vậy.
“Một bà già quê mùa được thưa chuyện với Chúa trời đất cao sang vô cùng bằng lời chào: Lạy Cha, làm bà nhiều lần xúc động khóc nức nở. Một hôm Đức Giám Mục hỏi bà:
– Bà nổi tiếng cầu nguyện gương mẫu nhất làng, vậy bà thường suy gẫm sách đạo đức nào nhất?
– Thưa Đức Cha, con không biết đọc.
– Vậy bà cầu nguyện thế nào?
– Thưa Đức Cha, con chỉ biết cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha, kinh Kính Mừng và kinh Tin Kính. Mỗi ngày con bắt đầu đến mười lần, nhưng thường con chỉ đọc một câu: “Lạy Cha chúng con” thì con cảm thấy Chúa tốt lành vô cùng đến nỗi cho một bà già khốn nạn như con được gọi Ngài là Cha. Con nghĩ thế rồi con khóc, không thể đọc tiếp được nữa.
Đức Cha ngạc nhiên nói với bà: “Chỉ một lời nguyện đó của bà có giá trị bằng tất cả những lời nguyện của chúng tôi rồi đó” (Sống, tr. 294)
Quả thực, chỉ một lời chào, “Lạy Cha chúng con” đã làm cho biết bao tâm hồn được Chúa Thánh Thần soi sáng cho cảm thấy được hưởng những ơn thiêng lạ lùng, khiến lòng tin mến họ dạt dào đến thổn thức suốt đời.
“Lạy Cha” tiếng chào mừng vô vàn tôn kính mến yêu, tiếng cầu khẩn đầy tin tưởng cậy trông của những người con chí hiếu chí ái.
Phải tôn thờ Cha vì Cha là Đấng sáng tạo mọi sự, muôn loài sống, sinh sôi nảy nở, phát triển, tồn tại đều bởi Cha ban.
Phải trìu mến Cha vì Cha ban cho mọi sự đều tốt đẹp: Hoa cỏ đồng nội, chim trời, cá biển, muôn vàn tinh tú, muôn dân các nước từ văn minh đến mọi rợ đều đầy vẻ xinh tươi, duyên dáng, hào hùng, không một vườn bông nào, một sở thú nào, một triển lãm nào, một hội chợ nào sánh kịp với những kỳ công của Cha.
Phải cầu khẩn Cha vì “mọi sự của Cha là của Con, mọi sự Cha ban cho Con, Con lại ban cho chúng để chúng được sống đời đời và nhận biết Cha đang gìn giữ chúng khỏi sự dữ. Phải tin tưởng Cha, vì Cha đã thánh hóa chúng trong sự thật, ban cho chúng vinh quang mà Cha đã ban cho con. Cha đã yêu mến chúng để chúng yêu thương nhau, hợp nhất nên một như Cha Con ta là một, để tình Cha yêu Con ở trong chúng, để Con ở đâu chúng ở đó để được chiêm ngưởng vinh quang Cha” (Ga 17…)
“Lạy Cha” phải là tiếng kêu đầu tiên và sau cùng trên mọi môi miệng, mọi con tim khối óc và toàn diện con người chúng ta để chúng ta được sống tốt lành, được chết êm ái và được sống lại vinh hiển với Cha trên trời.
Chủ Đề: Cầu xin
“Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện” (Lc 11, 1)
Anh chị em thân mến
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu bảo “Ai xin thì sẽ được, ai tìm thì gặp, ai gõ cửa thì sẽ được mở cho”. Chúa nói thế để khuyến khích chúng ta khi cần điều gì thì hãy cầu xin cùng Thiên Chúa một cách mạnh dạn, tin tưởng và kiên trì.
Trước hết chúng ta hãy xin Chúa tha thứ những tội lỗi của chúng ta, để chúng ta xứng đáng dâng Thánh lễ này lên Chúa.
Xin Chúa tha thứ vì trong tuần vừa qua chúng con đã không kính mến Chúa cho đủ.
Xin Chúa tha thứ vì trong tuần vừa qua chúng ta đã nhiều lần lỗi đức bác ái với người khác.
Xin Chúa tha thứ vì trong tuần vừa qua chúng con chưa chu toàn bổn phận của chúng con.
III. Lời Chúa
Vì dân thành Sôđôma phạm tội quá nhiều, Thiên Chúa cho Abraham biết Ngài sẽ cho lửa từ trời xuống thiêu huỷ thành này. Abraham đã mặc cả với Chúa rằng nếu trong thành có một số người công chính thì xin Chúa tha cho cả thành. Chúa đồng ý, và Abraham đã hạ dần con số những người công chính: từ 50 xuống 45, rồi 40, 30, 20 và 10. Rất tiếc là Abraham đã dừng lại ở đó, không dám xuống nữa.
Câu chuyện cho ta thấy 2 điều quan trọng: a/ Lòng thương xót của Chúa vì những người công chính mà sẵn sàng tha thứ cho những người tội lỗi; b/ Thiên Chúa sẵn sàng nghe lời cầu xin của con người.
Ca tụng Thiên Chúa đã nghe lời cầu xin của con người.
Chúa Giêsu dạy về cầu nguyện:
Vì là một bài kinh rất ngắn gọn cho nên những điều được nói trong đó đều là những điều then chốt nhất. Nói cách khác, những lời xin trong bài kinh này cho ta biết những điều mà kitô hữu cần quan tâm nhất là gì:
a/ Đối với Chúa: sao cho người ta được biết Chúa (“Xin làm cho danh Cha vinh hiển”); sao cho nhiều người gia nhập Nước Chúa (“triều đại Cha mau đến”)
b/ Đối với chính bản thân mình: có lương thực hằng ngày, được Cha tha thứ và mình cũng biết tha thứ cho người khác, đừng sa chước cám dỗ.
Để minh họa cho thái độ kiên trì, Chúa Giêsu đưa dụ ngôn về “người bạn quấy rầy”
– “Quấy rầy” vì đến gõ cửa ban đêm để vay bánh: việc này khiến chủ nhà bị mất ngủ. Và nếu chủ nhà thức dậy thắp đèn lên, rồi lấy bánh, rồi mở cửa, rồi nói chuyện… thì sẽ làm cho vợ con của ông cũng mất ngủ luôn. Bởi thế, chủ nhà đã nói vọng ra lời từ chối. Nhưng người bên ngoài cứ vừa gõ cửa vừa kêu mãi.
– Nhưng người đứng bên ngoài ấy lại là một “người bạn”. Bạn bè thì phải thương yêu nhau và tương thân tương trợ nhau, nhất là trong những khi gặp khó như trường hợp này.
Việc chủ nhà cuối cùng đã cho anh bạn vay bánh có thể vì một trong hai lý do: cho để khỏi bị quấy rầy nữa; cho vì tình bạn. Theo cách diễn tả của dụ ngôn thì người đó đã làm vì lý do thứ nhất. Nếu làm vì lý do thứ hai thì việc cho sẽ có ý nghĩa hơn. Nhưng dù sao thì cuối cùng anh bạn đứng ngoài đã đạt được điều mình xin, và lý do là nhờ anh kiên trì.
Sau khi kể dụ ngôn, Chúa Giêsu lý luận theo kiểu a fortiori (huống chi): người đời dù quen hành động theo lý do ích kỷ (để khỏi bị quấy rầy) thế mà cũng phải chịu thua sự kiên trì của người xin. Huống chi Thiên Chúa vốn tốt lành quen đối xử với chúng ta theo tình thương. Bởi thế nếu ai kiên trì cầu xin với Chúa thì chắc chắn sẽ được nhậm lời.
Thánh Phaolô giải thích những hiệu quả của bí tích Rửa tội:
Giúp chúng ta chết đi cho con người cũ yếu hèn để sống lại thành con người mới kết hợp với Đức Kitô.
Tha thứ mọi tội lỗi trước đây của chúng ta.
* 1. Lời cầu xin của Abraham
Lời cầu xin của Abraham có nhiều điểm hay đáng chúng ta bắt chước:
Ông không cầu xin cho bản thân mình, mà cho người khác, những người không phải là bà con hay bạn bè thân thích gì của ông cả.
Ông không cầu xin cho những người đạo đức công chính, mà xin cho những người tội lỗi.
Ông đã nại vào lòng thương xót của Chúa và vào “uy tín” của một số người công chính.
Nhưng có một điểm mà Abraham chưa làm gương cho chúng ta được. Đó là xem ra ông chưa tin tưởng hoàn toàn vào Chúa cho nên đã dừng lại ở con số 10 người công chính chứ không dám tiến xa hơn vào lòng thương xót vô biên của Chúa.
* 2. Xin, tìm và gõ
Chúa Giêsu khuyến khích chúng ta hãy xin, hãy tìm và hãy gõ cửa. Nghĩa là đức tin của chúng ta phải là một hành động tích cực chứ không phải là một thái độ thụ động chỉ biết đợi chờ.
Tuy nhiên lắm khi vì tự phụ mà chúng ta không xin, nên chúng ta không nhận được; lắm khi vì chúng ta lười biếng mà không tìm, nên chúng ta không gặp; lắm khi vì chúng ta nhút nhát mà không gõ cửa nên không được mở cho.
Đừng thụ động ngồi chờ ơn Chúa như những quả sung từ trời rụng xuống. Hãy khiêm tốn, siêng năng và bạo dạn mà xin, mà tìm và gõ cửa. Nếu điều đó tốt cho chúng ta thì chắc chắn Thiên Chúa là Cha nhân hậu sẽ ban cho chúng ta.
* 3. Tại sao phải cầu xin cách kiên trì?
Phải kiên trì khi cầu xin là để tăng thêm ước muốn của chúng ta, và cũng là để tăng thêm giá trị ơn Người sẽ ban. Nếu chúng ta không nhận được điều mình xin, thì không phải là Chúa không sẵn sàng ban ơn, nhưng có thể điều cầu xin ấy không mang lại ích lợi cho linh hồn chú#ng ta, hoặc Người muốn dành cho chúng ta một ơn lớn lao hơn. Cho dù sự đáp trả của Chúa không như lòng chúng ta mong ước hay không đúng lúc chúng ta mong đợi, thì đó cũng là bởi sự khôn ngoan và lòng yêu thương của một người Cha đầy tình nhân ái.
* 4. Và Chúa nói không
– Tôi xin Người lấy niềm kiêu hãnh của tôi đi. Và Người nói “không”. Người nói việc lấy đi không phải do Người mà là tôi phải từ bỏ nó.
– Tôi xin Người làm cho đứa bé tật nguyền của tôi được lành lặn. Và Người nói không. Người nói tinh thần của tôi mới là tất cả, còn thể xác chỉ là nhất thời thôi.
– Tôi xin Người ban cho tôi sự kiên nhẫn. Và Người nói không. Người nói kiên nhẫn là một phó sản của nỗi gian nan khổ cực, không ban được mà phải tự kếm lấy.
– Tôi xin Người ban cho tôi hạnh phúc. Và Người nói không. Người nói Người ban cho tôi những lời chúc lành, hạnh phúc tuỳ thuộc nơi tôi.
– Tôi xin Người vứt bỏ nỗi đớn đau. Và Người nói không. Người nói khổ đau sẽ đưa con ra khỏi những lo toan trần thế và đưa con lại gần Ta hơn.
– Tôi xin Người làm cho tinh thần tôi phát triển. Và Người nói không. Người nói sẽ cho tôi sự sống để tôi vui hưởng tất cả mọi thứ.
– Tôi xin Người giúp tôi yêu thương những người khác nhiều như Người yêu tôi. Và Người nói: À, cuối cùng thì con cũng có một ý tưởng hay. (Tài liệu nước ngoài. Hải Lý dịch. Đăng trong tuần báo CgvDt, số 1147, ngày 1. 3. 1998)
* 5. Xin điều này được điều khác
Tôi xin Chúa cho tôi sức khoẻ để tôi có thể làm được những việc lớn lao – Ngài lại ban cho tôi sự yếu đuối để tôi làm mọi việc cách tốt hơn.
Tôi xin Chúa cho tôi giàu sang để tôi có thể sống hạnh phúc hơn – Ngài lại ban cho tôi sự nghèo nàn để tôi sống khôn ngoan hơn.
Tôi xin Chúa ban cho tôi quyền lực để được người đời xưng tụng – Ngài lại ban cho tôi sự mọn hèn để tôi ý thức cần đến Ngài hơn.
Tôi xin Chúa ban cho tôi mọi sự, nhờ đó tôi tận hưởng thú vui cuộc sống – Ngài lại ban cho tôi cuộc sống để nhờ đó tôi tận hưởng mọi sự.
Tuy tôi chẳng được tất cả những điều tôi xin, nhưng lại nhận được mọi thứ tôi cần. (Anon)
* 6. Chuyện minh họa
a/ Kiên trì
Một người đưa tin đến một lâu đài cũ kỹ và anh lấy búa gõ cửa. Không ai trả lời. Anh lại gõ và chỉ có tiếng vang dội lại. Nhưng anh biết có người trong nhà, anh nhìn thấy họ qua cửa sổ. Giận sôi lên, anh cầm búa và lấy hết sức giáng mạnh vào cửa hai ba chục lần.
Một khuôn mặt cau có ngó qua lỗ then cửa và lịch sự hỏi xem người khách muốn vào không.
Vị khách nói như mê sảng: “Này ông, tôi vào được không? Chẳng lẽ ai muốn vào cũng phải gõ như tôi?”.
– Ồ, ông biết đấy: Có nhiều trẻ ở xung quanh đến đây, chúng gõ cửa một vài lần rồi bỏ chạy, nên chúng tôi biết là không cần để ý đến chúng. Nhưng khi nghe ông gõ cửa, tôi thực sự thấy ông muốn vào. Vì thế tôi ra mở cửa.
b/ Khiêm tốn
Ngày kia, thánh Clément Hofbauer đi xin đồ viện trợ cho các cô nhi. Ngài vào một quán ăn, có ba người đang đánh bạc, xin họ góp phần vào công việc từ thiện. Một người chửi bới, rồi nhổ vào mặt ngài.
Thánh nhân lặng lẽ rút khăn tay lau mặt và nhẹ nhàng nói: “Đó là phần ông cho tôi. Còn phần cho các cô nhi của tôi đâu?”
Tay cờ bạc kinh ngạc đến thẹn thùng, rồi dốc túi đưa hết cho ngài.
LỜI KINH TUYỆT VỜI (Lc 11, 1-13)
Nhà thần bí Hồi giáo tên là Farid, đến kinh đô Delhi để xin hoàng đế Akbar ban cho dân làng một ân huệ. Farid đến cung điện và gặp lúc Akbar đang đắm mình cầu nguyện.
Khi hoàng đế cầu nguyện xong, Farid hỏi:
– Nhà vua vừa cầu nguyện như thế nào?
Nhà vua đáp:
– Ta cầu xin Đấng nhân từ ban cho ta sự thành công, giàu có và được sống lâu..
Vừa nghe xong, Farid liền quay lưng lại và bỏ đi. Vừa đi ông vừa nói:
– Ta đến gặp một vị vua. Thế mà ta lại gặp một kẻ ăn xin, không khác gì những hạng người khác!
***
Thật vậy, cầu nguyện không chỉ là cầu xin, cũng không phải là bảng liệt kê ước muốn mà cầu nguyện chính là tôn thờ, thống hối, cảm tạ và xin ơn. Trong kinh Lạy Cha, Chúa dạy chúng ta qua bài Tin Mừng hôm nay bao gồm bốn tâm tình đó.
Chúng ta Thờ phượng, ca ngợi, tôn vinh chúa trong câu đầu tiên: “Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, triều đại Cha mau đến” (Lc 11,2).
Sau đó chúng ta bày tỏ tâm tình Thống hối bằng lời xin lỗi: “Xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con” (Lc 11,4).
Rồi chúng ta Cảm tạ Chúa ngay trong tâm tình thờ phượng, vì khi ca ngợi tôn vinh Chúa thì đồng thời chúng ta cũng mặc nhiên cảm tạ những hồng ân người ban.
Cuối cùng, tâm tình Cầu xin được biểu lộ trong câu: “Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy” (Lc 11,3), và “Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ” (Lc 11,4).
Như thế, Kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt vời, vì đã đặt sự cao trọng, Vinh danh, và thánh ý Chúa trên hết; sau đó mới xin cho các nhu cầu của chúng ta, nên rất được Chúa Cha ưa thích.
Kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt vời, vì chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha, còn chúng ta là con cái của Người; chúng ta xin Cha ban ơn không những phần xác mà cả phần hồn; chúng ta xin Cha không chỉ tha tội trong quá khứ mà còn gìn giữ cho khỏi cám dỗ ở tương lai, nên chắc chắn sẽ được Chúa Cha đón nhận.
Sau khi đã dạy chúng ta lời kinh tuyệt vời đó, Người còn khuyên chúng ta hãy kiên nhẫn và trông cậy mà cầu nguyện.
1- Phải kiên nhẫn trong khi cầu nguyện là để tăng thêm ước muốn của chúng ta, và cũng là để tăng thêm giá trị ơn Người sẽ ban. Nếu chúng ta không nhận được điều mình xin, thì không phải là Chúa không sẵn sàng ban ơn, nhưng có thể điều cầu xin ấy không mang lại ích lợi cho linh hồn chúng ta, hoặc Người muốn dành cho chúng ta một ơn lớn lao hơn. Cho dù sự đáp trả của Chúa không như lòng chúng ta mong ước hay không đúng lúc chúng ta mong đợi, thì đó cũng là bởi sự khôn ngoan và lòng yêu thương của một người Cha đầy tình nhân ái.
2- Phải trông cậy trong khi cầu nguyện vì Chúa đã hứa: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy , cứ gõ thì sẽ mở cho” (Lc 11,9). Cha phước Mẹ Têrêxa Calcutta đã chia sẻ kinh nghiệm này như sau: “Chúng tôi có hơn một ngàn tu sĩ, và còn phải nuôi ăn hàng chục ngàn người. Thế mà, chưa bao giờ chúng tôi phải từ chối bất cứ một ai đến xin giúp đỡ. Chúa luôn can thiệp kịp thời để cho chúng tôi thấy rằng Người không bao giờ làm lơ trước lời cầu nguyện của chúng ta”.
***
Lạy Chúa, xin nhắc chúng con siêng năng dùng Kinh Lạy Cha mà cầu nguyện với Cha trên trời. Nhất là xin Chúa mở rộng tâm hồn hẹp hòi ích kỷ của chúng con, để biết cầu nguyện cho các nhà truyền giáo, những người nghèo khổ, những kẻ tội lỗi và những người thân yêu của chúng con. Amen. (Thiên Phúc).
Chủ tế: Anh chị em thân mến, cầu nguyện là hơi thở, là sức sống, là linh hồn của đời sống người Kitô hữu. Chúng ta cùng dâng lời nguyện xin Chúa giúp chúng ta biết cầu nguyện như Chúa đã dạy:
Chủ tế: Lạy Chúa, xin cho chúng con biết luôn cảm tạ Chúa là Đấng đã dựng nên chúng con và gìn giữ chúng con khỏi mọi sự dữ trong cuộc sống thường ngày. Chúng con cầu xin
– Trước kinh Lạy Cha: Khi các môn đệ xin Chúa Giêsu dạy cầu nguyện, Ngài đã dạy họ Kinh Lạy Cha. Chúng ta hãy kết hợp tâm tình với các môn đệ mà cầu nguyện bằng chính lời kinh Chúa dạy.
VII. Giải tán
Trong tuần này, mỗi khi có điều gì cần, chúng ta hãy cầu xin với Chúa cách khiêm tốn, kiên trì và tin tưởng, bởi vì chính Ngài đã hứa: “Ai xin thì sẽ được, ai tìm thì gặp, ai gõ cửa thì sẽ được mở cho”.
Người Âu Mỹ vốn có lòng quý trọngt súc vật. Người ta đã thiết lập những hội bảo vệ súc vật, xây những dưỡng đường để điều trị cho súc vật và có cả những nghĩa trang dành riêng cho súc vật. Phải chăng lòng quý trọng này có cái chi bất ổn và thái quá? Mặc dù con vật thì thấp kém hơn con người rất nhiều, nhưng nó cũng có những điều đáng làm cho chúng ta suy nghĩ. Chẳng hạn một con chó vẫy đuôi chào mừng khi chủ nó trở về; trong khi đó, nhiều người lại chẳng biết mở miệng chào hỏi bề trên và những bậc ân nhân của mình. Dĩ nhiên sự trung thành và biết ơn của một con chó phần lớn la do thói quen và bị hạn chế nhiều lắm.
Từ đó, chúng ta đi vào mối liên hệ với Thiên Chúa. Lòng trung thành và biết ơn của chúng ta đối với Ngài là như thế nào? Buổi sáng khi thức dậy, khởi đầu cho một ngày mới với những ơn huệ Chúa ban, chúng ta có biết cầu nguyện và thân thưa với Chúa hay không? Nhiều người đã đưa ra 1001 lý do để khước từ việc làm tốt đẹp này. Nào là còn biết bao nhiêu công việc phải làm, nào là có biết bao nhiêu tin tức phải lắng nghe và ghi nhận, không còn đủ thời giờ để suy tư và cầu nguyện nữa. Có những người mặc dù còn cầu nguyện, nhưng lại chỉ làm vì thói quen, như một cái máy với một vận tốc hết sức mau lẹ.
Thiên Chúa, Đấng cho mặt trời mọc lên, để khởi đầu một ngày mới, phải được chúng ta ca tụng và chào kính với những tình cảm chân thành nhất, xuất phát từ trái tim. Mặc dù không có trí khôn, nhưng con chó còn biết cách biểu lộ sự biết ơn của minh. Trong khi đó, con người là tác phẩm tuyệt vời nhất của Thiên Chúa, thì lại chỉ biết đón nhận hết điều nọ đến điều kia, mà lại chẳng tỏ ra biết ơn một chút nào cả.
Sở dĩ như vậy là vì con người đã quên mất những kỷ niệm và sự nương nhờ của mình vào Thiên Chúa. Cuộc sống với những tiện nghi và dễ dại đã làm cho chúng ta quên mất những hồng ân của Thiên Chúa và dường như không còn cần đến Ngài nữa. Suy nghĩ và hành động như vậy, nên con người thời nay luôn cảm thấy khắc khoải và bất hạnh hơn lúc nào hết.
Với chúng ta thì khác. Trước khi khởi đầu một ngày mới với những công việc bận rộn, chúng ta hãy tìm gặp Chúa trong những tâm tình cầu nguyện. Đây là một việc làm xuất phát tự con tim, chứ không phải chỉ là một việc làm hoàn toàn máy móc. Bởi vì lời cầu nguyện là tiếng nói của một con tim nghèo nàn trước Đấng Tối Cao: Lạy Chúa, con cần đến Chúa như cần đến khí trời để thở.
Có kẻ lại bảo: Cầu nguyện cũng chẳng ích lợi chi! Chúng ta nên nhớ điều này: Cầu nguyện không phải chỉ là cầu xin, mà trước tiên phải là ca ngợi và cảm tạ Thiên Chúa. Ngài không cần đến chúng ta, trái lại chúng ta luôn cần đến Ngài. Cho dù có quên đi mọi lời kinh, thì ít nữa cũng còn đọng lại kinh Lạy Cha, một lời kinh kiểu mẫu, đơn sơ và xâu xa.
Con người luôn cần đến Thiên Chúa, cho nên hãy tìm gặp Ngài trong những tâm tình cầu nguyện của mình.
(Suy niệm của G. Nguyễn Cao Luật)
Không chỉ là một thái độ, nhưng là một tình trạng
Không xác định nơi chốn, thánh Lu-ca mô tả Ðức Giêsu đang cầu nguyện, có các môn đệ vây quanh. Ðâu là lời cầu nguyện đích thực của Vị Thầy? Khác với lời cầu nguyện của nhà khỗ chế Gio-an Tẩy Giả trong sa mạc, vị ngôn sứ rao giảng sự sám hối, lời cầu nguyện của Ðức Giêsu bày tỏ bí mật thâm sâu trong mối tương giao thân mật của Người với Chúa Cha. Ngoài việc tuân thủ nghi thức và thói quen của người Do-thái, Ðức Giêsu cho thấy lời cầu nguyện còn có ý nghĩa sâu xa hơn nhiều.
Ðức Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha rất lâu giờ và cũng tràn đầy tình yêu mến. Sau cả ngày mệt nhọc với những hành trình rao giảng, chữa bệnh, Ðức Giêsu vẫn thường rút lui vào chốn thinh lặng để cầu nguyện. Dường như Người có thể bỏ việc này việc khác, nhưng không thể bỏ việc cầu nguyện. Ðó là những thời khắc Người tiếp xúc thân mật, tiếp xúc rất riêng tư với Chúa Cha; trong đó Người thông hiệp trọn vẹn với Chúa Cha, đi sâu vào chương trình huyền nhiệm, và gắn bó trọn vẹn với thánh ý của Chúa Cha. Có lần, dân chúng và cả các môn đệ, đi tìm Ðức Giêsu. Các ông gặp thấy Người trong trạng thái đầy vui mừng, hân hoan… Các ông không dám đến gần, không dám lên tiếng… nhưng cuối cùng các ông cũng xin Người chỉ cho cách thức cầu nguyện.
Một tư cách mới, một ý nghĩa mới
Lời cầu nguyện Ðức Giêsu đưa các ông vượt khỏi suy nghĩ bình thường của các ông. Lời cầu nguyện có vẻ như cao ngạo, gây gương mù: Ðức Giêsu truyền cho các ông gọi Thiên Chúa là Cha, Ðấng mà xưa nay họ vẫn hết mực tôn kính, ngay cả việc gọi tên, các ông cũng không dám.
Từ nay trở đi, người nào liên kết với tiếng kêu đầy yêu thương của Ðức Giêsu, hướng về Chúa Cha, người đó đã làm cho Nước Thiên Chúa được thực hiện. Họ cũng làm cho danh Thiên Chúa được hiển thánh khi họ biết trao đổi với Thiên Chúa trong tình yêu, một cuộc trao đổi đưa họ vào chính trung tâm của lòng thương xót được tặng ban cho hết mọi người.
Bài suy niệm này không đề cập đến các lời cầu xin trong lời kinh Ðức Giêsu dạy cho các môn đệ, mặc dù những lời cầu xin ấy có nhiều ý nghĩa. Ðiều muốn nói đến ở đây là một mối tương giao, một tinh thần mới giữa con người và Thiên Chúa. Trong Ðức Giêsu, con người được biết Thiên Chúa là Cha của mình, và họ phải đến với Thiên Chúa trong tâm tình của một người con. Trong Ðức Giêsu, Ðấng nhập thể làm người, nhân loại được gọi Thiên Chúa là Cha, Cha của tất cả mọi người. Ðầy cũng là mặc khải mấu chốt trong sứ điệp của Ðức Giêsu, là chìa khoá cho tất cả cuộc đời và hoạt động của Người. Trong mặc khải này, lề luật của Ít-ra-en được hoàn tất và nảy sinh một giao ước mới: Thiên Chúa trở thành người Cha thân yêu của tất cả mọi người.
Như vậy, so với Cựu Ước, lời kinh của Ðức Giêsu mở ra một viễn tượng lớn lao, hoàn toàn mới mẻ. Thiên Chúa đến với con người không phải để dò xét, để trừng phạt, nhưng là để đem ơn cứu độ, đem ơn tha thứ và tình yêu thương. Ngược lại, con người đến với Thiên Chúa không phải với tâm tình sợ hãi, e dè, cũng không phải là để tìm lợi ích cho riêng cá nhân mình, nhưng là hiện diện trước Thiên Chúa với tâm tình của một người con, sẵn sàng trình bày với người Cha tất cả những gì liên quan đến mình. Và hơn thế nữa, con người hiện diện trước Thiên Chúa để tìm hiểu chương trình của Người, sẵn sàng tuân phục và cộng tác để thánh ý của Thiên Chúa được thể hiện. Sự hiện diện như thế vượt lên trên mọi suy tính cá nhân, ích kỷ, để thở thành một sự hiện diện trong quan điểm của lịch sử cứu độ, trong tương quan mật thiết với Thiên Chúa đang muốn cứu độ tất cả mọi người.
Ngày nay, sau hai mươi thế kỷ, vẫn có những người quan niệm Thiên Chúa theo kiểu Cựu Ước, vẫn có những người tìm đến Thiên Chúa mà chỉ mong tìm lợi cho mình. Lời kinh Lạy Cha vẫn được đọc lên nhưng không thấm sâu, không làm thay đổi cái nhìn của con người về Thiên Chúa. Người ta không cảm thấy vinh hạnh, không cảm thấy sung sướng khi mình được gọi Thiên Chúa là Cha, khi mình là con Thiên Chúa. Thiên Chúa là Cha – loài người là con: đó không phải là kiêu ngạo, nhưng là ý nghĩa đích thực và sâu xa nhất của Ki-tô giáo.
Trong kiên trì và tín thác
Tiếp đó, Ðức Giêsu nói lên điều cốt yếu của việc cầu nguyện. Người nhấn mạnh những đặc tính hết sức quan trọng là kiên trì và tín thác.
Thiên Chúa biết rõ mọi nhu cầu của con người. Không cần họ phải lên tiếng, Thiên Chúa cũng đã thấu suốt mọi điều họ xin. Nhưng tại sao Thiên Chúa lại để cho người ta phải cầu nguyện, phải năn nỉ?
Thật ra, dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay chỉ là một hình ảnh. Việc cầu nguyện liên lỉ nối kết con người với Thiên Chúa cách sâu xa hơn, khiến họ ý thức rõ hơn về sự thiếu thốn, sự bất lực của mình. Khi đó họ sẵn sàng dâng hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa và sau khi được Thiên Chúa nhận lời, họ nhận biết Người cách rõ ràng hơn. Bởi đó, việc cầu nguyện liên lỉ, việc chờ đợi không phải là điều đau khỗ, nhưng lại là một hổng ân lớn lao, một sự vươn tới Thiên Chúa cách quyết liệt và cũng là một tâm tình đích thực.
Ngoài ra, Thiên Chúa là Ðấng thông suốt, Người cũng biết con người cần gì. Lòng thương xót của Người thật vô biên, nhưng Người lại muốn con người phải hoàn toàn tín thác, trông cậy nơi Người. Tại sao vậy?
Thiên Chúa không chỉ đáp ứng những nhu cầu vật chất của con người – trong thực tế, lời cầu nguyện của con người thường chỉ có những điều này. Nếu con người hiện diện trước Thiên Chúa một cách đích thực, nếu mối tương giao của họ với Thiên Chúa không phải để tìm lợi ích cá nhân, thì hẳn việc cầu nguyện chân thành sẽ phải là để cho Thiên Chúa hoạt động, là mở lòng đón nhận Thiên Chúa, hơn là buộc Thiên Chúa phải chiều theo những suy nghĩ, những tính toán tầm thường của mình. Nếu Người có làm thinh như không nghe thấy, chính là để con người đạt tới một điều rất cần thiết, một hổng ân lớn lao mà Ðức Giêsu hứa ban, đó là Chúa Thánh Thần. Hổng ân này vượt lên trên cả nhu cầu về bánh ăn cũng như mọi nhu cầu tinh thần khác.
Mở rộng tâm hồn và sẵn sàng
Hãy xin thì sẽ được – không phải lúc nào cũng như thế.
Việc cầu nguyện khởi đi từ những nhu cầu cụ thể, nhưng sẽ hướng tới điều bất ngờ, hướng tới sự vô biên của Thiên Chúa. Theo thánh Augustino, “Việc cầu xin không nhằm thông báo cho Thiên Chúa, nhưng là huấn luyện con người.” Khi cầu xin, chúng ta thú nhận sự bất lực của mình và công nhận Thiên Chúa là Ðấng Toàn Năng, là Ðấng Chí Ái. Một lời cầu xin với Chúa Cha bao hàm hai cuộc hoán cải.
Thứ nhất, với lời cầu xin cho lợi ích của Nước Thiên Chúa, chúng ta thấy rằng không thể xem xét những điều đó theo quan điểm của mình. Vậy, khi cầu xin, tức là để cho thánh ý Thiên Chúa được thể hiện.
Thứ hai, vì ý thức rõ ràng về lời cầu xin của mình với Thiên Chúa, người Ki-tô hữu khám phá ra một khát vọng nền tảng: gặp gỡ Thiên Chúa tình yêu. Lúc ấy, từ những nhu cầu, chúng ta chuyển sang khát vọng, một cuộc chuyển dịch dần dần và đau đớn.
Người cầu xin là người có thái độ của “kẻ đứng trên con tàu, nắm chắc sợi dây cột tàu vào bờ. Họ không kéo tảng đá về phía mình, nhưng mình tiến dần tới tảng đá, họ và con tàu” (Denys l’Arépagite).
Cầu nguyện, đó không phải là áp đặt ý muốn của mình trên Thiên Chúa, nhưng là xin Thiên Chúa cho chúng ta sẵn sàng tuân theo thánh ý, theo kế hoạch cứu độ của Người đối với thế giới.
Cầu nguyện, đó không phải là làm Thiên Chúa thay đổi, nhưng là xin Thiên Chúa thay đổi chúng ta, và biến tâm hổn chúng ta thành tâm hổn của người con.
Nếu chúng ta kiên trì, chúng ta sẽ được, sẽ tìm thấy và cánh cửa sẽ mở ra. Vì thế, chúng ta không được quyền nản chí. Cầu nguyện, trước hết là kiên trì.
THƯA CHUYỆN VỚI THIÊN CHÚA LÀ CHA GIÀU LÒNG XÓT THƯƠNG
Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gio-an đã dạy môn đệ của ông. Câu đề nghị mà một người môn đệ hỏi Chúa Giêsu, cũng có lẽ là câu đề nghị mà chúng ta đặt ra cho nhau và cho chính mỗi người trong cuộc sống đức tin hôm nay.
Để trả lời câu hỏi này, có lẽ mỗi chúng ta tự hỏi lòng mình: Chúng ta tương quan với Thiên Chúa như thế nào? Chính đời sống tương quan của mỗi người với Chúa sẽ quyết định thái độ cầu nguyện. Nếu ta sống với Thiên Chúa là ông chủ, chúng ta có nhiều khả năng cầu nguyện trong tư cách là tôi tớ. Nếu ta tương quan với Chúa là Đấng ban phát ơn, những lời cầu nguyện nhiều khả năng là những lời xin ơn về lợi lộc trần thế. Nếu ta sống yêu mến Thiên Chúa là Đấng nhân lành, Đấng ban ơn cứu độ, chúng ta dễ dàng biểu lộ tâm tình cầu nguyện trong tư cách là người con hiếu thảo.
Sách Sáng Thế cho chúng ta thấy hình ảnh Apraham sống thân tình với Thiên Chúa. Nhờ đời sống gắn bó mật thiết với Chúa, lời cầu nguyện của ông dâng lên Chúa toát ra từ một đời sống đầy tin tưởng và thân tình. Ông đã tin tưởng rằng Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót và hằng lắng nghe lời ông khẩn cầu.
Thật vậy, khi biết được ý định Thiên Chúa sắp phá hủy thành Sôđôma và Gômôra, nơi có gia đình người cháu là ông Lót ở đó, Ápraham đã kêu xin Thiên Chúa là cha giàu lòng thương xót. Ông tin rằng Thiên Chúa sẽ không tiêu diệt người tội lỗi cùng với công chính. Vì thế, ông đã mượn sự hiện diện của những người công chính để xin Thiên Chúa tha thứ cho những người tội lỗi cùng sống trong thành Sôđôma và Gômôra. Từ 50 người công chính hiện diện trong thành, sau 5 lần xin bớt, ông đã xin Thiên Chúa tha thứ cho thành chỉ với 10 người công chính. Sự kèo nài của Ápraham như một cuộc trả giá trong buôn bán đã cho thấy, ông rất gần gũi và thân thiết với Thiên Chúa, cách riêng, ông rất bền bỉ và kiên nhẫn trong lời cầu nguyện. Những lần ông xin bớt, Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót đã nhận lời ông.
Như thế, Apraham đã sống thân tình trước mắt Thiên Chúa. Lời cầu nguyện của ông dâng lên Thiên Chúa như là một cuộc trò chuyện đầy cởi mở và thân thiện giữa hai người bạn thân, nhưng vẫn có sự tôn kính Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng theo thánh Luca hôm nay cho chúng ta một cách cầu nguyện trong tương quan mới, tương quan giữa Thiên Chúa là Cha và chúng ta là những người con của Ngài. Nhờ Chúa Giêsu và tác động của Chúa Thánh Thần, mỗi Kitô hữu có thể kêu Thiên Chúa là Abba, nghĩa là cha ơi. Tiếng xưng hô: cha ơi,thật đẹp làm sao. Những lời thân thưa trong kinh Lạy Cha lại càng ý nhị và thân tình biết mấy.
Trong tâm tình con cái yêu mến cha mình, người con không xin những gì ngoài ý muốn của cha nhưng luôn thao thức nên một với Cha và làm đẹp lòng Cha. Mọi sự Cha muốn, người con cũng ao ước, mọi sự Cha cần, người con cũng ước ao nên trọn. Vì thế, Lời nguyện đầu tiên của Người con ngoan là xin cho danh Cha cả sáng, xin mọi người đều tin nhận và suy phục Cha mình.
Cuộc sống của người con ở trần gian này là cuộc lữ hành đi về với Thiên Chúa là Cha. Vì thế, người con không tìm vinh danh trần thế này, cũng chẳng mong tích lũy của cải chóng qua nhưng là tìm vinh danh Chúa và hạnh phúc Nước Trời. Vì thế, người con không xin sang giàu, cũng chẳng ước ao chức tước trần thế, nhưng xin đủ lương thực hằng ngày để có thể chu toàn bổ phận là con cái của Thiên Chúa.
Khi cùng nhau tuyên xưng Thiên Chúa là Cha, người con cũng nhận thật, mọi người đều là anh em với nhau. Vì thế, người con khao khát sống hòa thuận với mọi người. Muốn thế, người con xin với Thiên Chúa cho mình biết thứ tha và thông cảm cho nhiều người khác để có thể sống yêu thương hết mọi người. Người con xin cho mình có khả năng tha thứ cho tha nhân để có thể nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa là Cha nhân lành.
Cuối cùng, hạnh phúc của người con là luôn sống thân tình với Cha mình. Muốn thế, người con không chỉ dựa vào cố gắng của bản thân nhưng rất cần sự trợ lực của Thiên Chúa là Cha. Vì thế, người con xin với Cha gìn giữ để khỏi sa vào chước độc của ma quỷ. Có thế, hoàn tất cuộc đời này, người con đều tràn trề hy vọng sẽ được người Cha là Thiên Chúa cho hưởng gia nghiệp gia tài của những người con hiếu thảo.
Ước mong, Lời Chúa hôm nay, giúp chúng ta luôn sống tâm tình của người con hiếu thảo, để mọi lời cầu nguyện chúng ta dâng lên Chúa là bao tiếng thân thương của người con hiếu thảo dâng lên cha mình: Abba, cha ơi!
Trên đường lên Giêrusalem, Chúa Giêsu đã không ngừng cầu nguyện. Các tông đồ và những theo Chúa đã chứng kiến tâm tình và cách thức cầu nguyện liên lỉ của Chúa. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy cho chúng ta phải biết cầu nguyện kiên trì, vì cầu nguyện là cách chúng ta duy trì mối tương quan Cha – con giữa Thiên Chúa với ta.
Chúa Giêsu không muốn đưa ra một công thức cầu nguyện nhất thời nhưng là cả một đời sống cầu nguyện. Dường như thánh sử Luca đã nhận ra điều ấy, nên ngài không kể ra một cách công thức như thế mà chú ý nhiều hơn đến tâm tình cầu nguyện. Chúa Giêsu cầu nguyện trong tâm tình của một người Con thưa với Cha yêu dấu. Ngài đã giữ mãi tâm tình này trong suốt hành trình rao giảng Tin Mừng cho đến khi chịu treo trên thánh giá: “Cha ơi! Sao Cha bỏ Con! Nhưng đừng xin theo ý Con như xin cho ý Cha thành sự.”
Ngoài tâm tình của một Người Con khi cầu nguyện, Chúa Giêsu còn nhắn nhủ thêm những tâm tình cần phải có bằng hai hai dụ ngôn trong trong bài Tin Mừng hôm nay.
Với dụ ngôn người bạn xin bánh nửa đêm, Chúa muốn nhắc chúng ta lưu tâm đến lòng kiên trì cầu nguyện. Đừng chú trọng đến công thức cầu nguyện cho một thời điểm mà lưu tâm hơn đến tâm tình cầu nguyện liên lỉ trong đời. Hãy ở trong tâm tình cầu nguyện nghĩa là luôn gắn bó với Chúa, luôn thưa lên với Chúa mọi nơi mọi lúc.
Chẳng phải đến lúc chúng ta thưa lên những nhu cầu của mình thì Chúa mới biết nhưng Người đã biết trước khi chúng ta cầu xin. Tuy nhiên, Người muốn chúng ta tin tưởng và phó thác. Nếu không kiên trì thì thái dộ nhẹ dạ sẽ đưa chúng ta đến việc van xin hết ông bụt này đến bà thần kia. Chúng ta sẽ đi lang thang khắp cùng trời cuối đất để mong được thỏa mãn những nhu cầu của mình.
Thiên Chúa không làm ngơ trước những nhu cầu của chúng ta, Ngài nhạy cảm trước những gì chúng ta đang thiếu thốn. Vấn đề là chúng ta hãy kiên trì trong cầu nguyện. Hãy biết kiên trì gõ cửa giữa đêm khuya như người bạn xin bánh để học được tính lệ thuộc vào Thiên Chúa. Bàn tay yêu thương của Ngài sẽ ban phát cho chúng ta những ơn lành mà chúng ta cần đến.
Đôi lúc trong cuộc đời, chúng ta cũng đã kêu trách vì những lời cầu xin của mình không được như ý. Nhưng bài Tin Mừng hôm nay còn là lời động viên cho chúng ta đừng tuyệt vọng. Hãy kiên trì trong cầu nguyện. Hãy xin Chúa cho chúng ta nhận ra thánh ý Chúa trong từng biến cố của cuộc sống. Có kiên trì trong cầu nguyện chúng ta mới nhận ra lòng nhân lành của Chúa. Như Chúa đã nói trong dụ ngôn thứ II của bài Tin Mừng hôm nay: Không có người cha nào có con xin bánh mà lại cho hòn đá, xin cá lại cho con rắn. Cũng vậy, Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta những ơn tốt lành nhát từ kho tàng tình thương của ngài. Ước gì chúng ta cũng hãy kiên trì cầu nguyện để nhận ra sự tốt lành đến từ nơi Thiên Chúa.
Lạy Chúa, Chúa thật kiên nhẫn với chúng con. Chúa không trách phạt chúng con như chúng con đáng tội. Chúa muốn chờ đợi sự trở về của chúng con và Chúa hằng thi ân ngay khi chúng con còn mang ách tội nhân. Xin cho chúng con luôn tin tưởng vào tình thương của Chúa. Xin cho chúng con đừng bao giờ nản lòng trước những rủi ro nhưng biết kiên trì chờ đợi cho đến khi lãnh nhận hồng ân từ Chúa.
Xin cho chúng con cũng biết kiên nhẫn lắng nghe tiếng Chúa, biết lắng nghe nhu cầu của tha nhân và sẵn lòng giúp đỡ trong khả năng của mình. Xin cho chúng con biết sống với nhau trong tình bác ái chân thành.
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Tin mừng Lc 11: 1-13: Kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt hảo. Chính lời kinh này đã liên kết chúng ta nên một với Đức Giêsu và với nhau để dâng lên Thiên Chúa những lời nguyện xin trong tâm tình Cha – con.
Trong cuộc sống, chúng ta thấy có nhiều mối liên hệ được thiết lập. Nào là mối liên hệ anh em, bạn bè, đồng nghiệp, cha mẹ, vợ chồng, con cái…, từ đó nảy sinh các mối tương quan như: thỉnh nguyện, kêu cầu, đơn xin, nguyện vọng… Đó là các mối liên hệ tự nhiên. Tuy nhiên, ngoài các mối liên hệ thông thường trên, nơi các tôn giáo và trong đời sống tâm linh, chúng ta cũng có những mối liên hệ và tương quan với Đấng Siêu Việt. Vì thế, với người tín hữu Kitô, chúng ta luôn cầu nguyện với Thiên Chúa là điều không thể thiếu trong đời sống đức tin của mỗi tín hữu.
1) Kinh lạy Cha, khuôn mẫu cầu nguyện
Với người Công Giáo, tâm tình đó được khởi đi từ chính mẫu gương của Đức Giêsu khi Ngài thường cầu nguyện với Thiên Chúa Cha. Không những thế, Ngài còn dạy cho các môn đệ của mình cầu nguyện khi một người trong số họ lên tiếng ngỏ lời: “Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy môn đệ ông”.
Khi được môn sinh bày tỏ ước nguyện, Đức Giêsu đã hướng dẫn các ông cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha.
Qua kinh nguyện này, trước tiên, Đức Giêsu đã giúp cho các môn đệ đi vào mối liên hệ thân tình Cha – con với Thiên Chúa Cha: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”. Đây chính là lời nguyện mà chính Đức Giêsu đã thường xuyên thưa lên với Cha Ngài. Ngài cũng muốn cho các môn đệ có được tâm tình ấy như chính Ngài với Thiên Chúa.
Đây là một hồng ân đặc biệt mà chỉ nơi Kitô Giáo mới có. Từ đây, chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha và mỗi người đều được trở thành nghĩa tử của Người.
Khi đã đi vào mối tương quan Cha – con với Thiên Chúa, Đức Giêsu muốn dẫn các môn đệ đến thái độ tôn vinh Thiên Chúa: “Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển” và “Triều đại Cha mau đến”.
Thật ra, Danh Thiên Chúa mãi mãi rạng ngời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận. Vì thế, không cần đến lời tôn vinh của chúng ta thì những điều đó mới được hiện diện và tồn tại. Không! Nhưng khi chúng ta tôn vinh Thiên Chúa như thế, một lần nữa nói lên sự kết hiệp sâu xa giữa ta với Thiên Chúa và từ đó nảy sinh ơn cứu chuộc nhờ được thánh hóa trong Danh Cha.
Tiếp theo, Đức Giêsu hướng các môn đệ đến những nhu cầu của chính mình. Những lời nguyện đó là: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”. Đây chính là nhu cầu thiết thực, gắn liền với đời sống thường nhật của con người. Lời nguyện này muốn bày tỏ tâm tình phó thác nơi Thiên Chúa là Đấng An Bài và Quan Phòng cho con cái của Người. Vì thế, đây là lời nguyện vừa mang tính thiết thực, vừa mang tâm tình cậy trông.
Kế đến là lời nguyện xin tha thứ: “Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con”.
Lời nguyện này nhắc cho người môn đệ biết rằng: mang trong mình thân phận yếu đuối của kiếp người, nên không ai là người không có những sai phạm với Chúa và với nhau. Vì thế, xin ơn tha tội là điều không thể thiếu trong tâm tình cầu nguyện. Tuy nhiên, chúng ta chỉ có thể được Thiên Chúa thương xót và tha thứ khi chính ta cũng phải rộng lòng xót thương và tha thứ cho anh chị em đã xúc phạm đến mình. Bởi vì: nếu chúng ta không tha thứ cho nhau, thì Thiên Chúa cũng không tha thứ cho chúng ta.
Cuối cùng, lời kinh hướng các môn đệ ý thức sự giới hạn của bản thân, bởi lẽ, con người thường hướng chiều về tội lỗi hơn là điều thiện. Hơn nữa, trước những bẫy cám dỗ đầy hấp dẫn và bắt mắt, khiến con người chẳng khác gì con thiêu thân lao mình vào đống lửa. Trước dịp tội và cám dỗ, người môn đệ cần phải có ơn Chúa trợ giúp thì mới có thể chiến đấu và chiến thắng được ba thù.
Khi dạy các môn đệ xong, Đức Giêsu đảm bảo cho những lời nguyện xin ấy nếu phát xuất từ sự chân thành, tin tưởng, phó thác thì chắc chắn sẽ được Thiên Chúa nhận lời, vì: “Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ thì sẽ mở cho”.
Như vậy, có thể nói, không có lời kinh nào ý nghĩa và giá trị cho bằng Kinh Lạy Cha, bởi vì kinh này do chính Đức Giêsu dạy cho các môn đệ và cho mỗi người chúng ta. Vì thế, đây là lời kinh tuyệt vời trên hết mọi lời kinh.
2) Thực trạng đời sống cầu nguyện nơi chúng ta
Trong đời sống đạo của chúng ta ngày nay, nhiều người đã bỏ cầu nguyện, hay cầu nguyện chẳng khác gì cái máy, hoặc cầu nguyện là trao phó mọi sự nơi Chúa theo kiểu đào nhiệm. Trong khi đó, tâm hồn chúng ta không có tâm tình chi cả. Vì thế, không lạ gì khi thấy nhiều người và có thể chính chúng ta, mỗi khi cầu nguyện là kể ra một dãy dài dằng dặc những nhu cầu của bản thân mà không hề tôn thờ, tạ ơn cũng như hướng tha. Hay nhiều khi chúng ta lại quá tập trung vào nhu cầu thể xác mà quên mất nhu cầu tâm linh.
Lại có những lúc chúng ta cầu nguyện theo kiểu mì ăn liền, tức là: mong sao Chúa phải là người đáp ứng theo lời nguyện xin càng nhanh càng tốt.
Cầu nguyện như thế, vô hình trung, chúng ta biến Thiên Chúa trở thành đối tượng chỉ để đáp ứng nhu cầu của mình, mà không hề nghĩ đến chuyện kết hợp nên một với Người để trở nên giống Người.
Một tâm tình phù hợp với đức tin, ấy là: khi cầu nguyện, không có nghĩa chỉ là xin ơn và cũng chẳng có nghĩa thuần túy là liệt kê những ước muốn, những kỳ vọng, những điều mà mình muốn xin. Nhưng cầu nguyện trước hết là tâm tình tôn thờ, thống hối, tạ ơn rồi mới đến xin ơn.
Tuy nhiên, cần phải kiên trì trong lời cầu nguyện. Chính vì thế, Đức Giêsu đã đưa ra dụ ngôn: “Người bạn bị quấy rầy” và chưng ra hình ảnh trai lỳ của người làm phiền trong đêm.
Cuối cùng, ông chủ khó tính cỡ nào cũng phải mủi lòng và thi ân cho người bạn sỗ sàng này.
Nói thế, không có nghĩa Thiên Chúa như ông chủ trong dụ ngôn, nhưng đây là hình ảnh biểu đạt một vị Thiên Chúa luôn luôn xót thương con người. Thế nên, nếu ai kiên trì cầu xin với Chúa thì chắc chắn sẽ được nhậm lời.
Để làm sáng tỏ ý nghĩa này, thánh Augustinô đã giải thích: “Phải kiên trì khi cầu xin là để tăng thêm ước muốn của chúng ta, và cũng là để tăng thêm giá trị ơn Chúa sẽ ban. Nếu chúng ta chưa nhận được điều mình xin, thì không phải là Chúa không sẵn sàng ban ơn, nhưng có thể điều cầu xin ấy không mang lại ích lợi cho linh hồn chúng ta, hoặc Ngài muốn dành cho chúng ta một ơn lớn lao hơn. Cho dù sự đáp trả của Chúa không như lòng chúng ta mong ước hay không đúng lúc chúng ta mong đợi, thì đó cũng là bởi sự khôn ngoan và lòng yêu thương của một người Cha đầy lòng nhân ái”.
Tắt một lời, kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt hảo. Chính lời kinh này đã liên kết chúng ta nên một với Đức Giêsu và với nhau để dâng lên Thiên Chúa những lời nguyện xin trong tâm tình Cha – con.
Cũng chính trong mối liên hệ thân thương này, mà Thiên Chúa không ngừng thi ân giáng phúc cho những ai thành tâm, tin tưởng, phó thác và chạy đến với Người.
Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con! Xin ban cho chúng con biết năng chạy đến với Chúa như con thơ bên lòng mẹ hiền, để được Chúa yêu thương, ban ơn và tha thứ cho những thiếu xót của chúng con. Amen.
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Chúa Giêsu hôm nay xác quyết rằng “Cứ xin sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ thì sẽ mở cho”. Ấy vậy mà nhiều lần trong đời sống, chúng ta nhận thấy rằng chúng ta xin hoài mà chẳng được, tìm mãi mà chẳng thấy, và gõ hoài, chẳng ai mở. Ngược lại, người khác xin thì được ào ào dù họ chẳng đạo đức hơn gì mình, nhiều khi thua mình nữa là khác nếu xét về đời sống đức tin. Chính lúc ấy, niềm tin của chúng ta bị chao đảo, dễ tàn lụi vì nghĩ rằng Chúa không thương mình nữa, Chúa có thật không hay chỉ là ảo tưởng, thôi ta đi tìm chỗ dựa khác vững chắc hơn, có lợi hơn. Không! Nghĩ như thế là nông cạn lắm, bởi vì trong bài đọc 1, Sách Sáng Thế kể ông Ápraham xin Chúa tha thứ cho dân thánh Xơ-đôm nếu trong thành có 50 người lành. Ông Apraham tìm mãi không có nên nài xin Chúa hạ xuống còn 10 người lành Chúa vẫn tha cho. Cho nên, trong Tin Mừng, Chúa Giêsu khẳng định rằng anh em là những kẻ xấu mà biết cho con cái mình của cái tốt lành, phương chi Cha trên trời không ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người sao? Vì thế, bây giờ vấn đề là tôi xin cái gì và xin như thế nào? Tại sao xin không được?
Khi xin, đương nhiên chúng ta xin những cái tốt. Nhưng, thế nào là tốt? Ngày nay người ta đánh giá tốt hay xấu không bằng thang giá trị của cuộc sống mà bằng cái dáng vẻ bên ngoài. Ngày xưa “cái nết đánh chết cái đẹp”, nhưng ngày nay “cái đẹp đánh bẹp cái nết”. Vì vậy, liệu cái mà chúng ta cho là tốt nhưng nó có thật sự tốt trước mặt Chúa không? Nó tốt trong giây phút hiện tại nhưng không tốt cho tương lai và vĩnh cửu sao? Chính vì thế, Chúa không cho, không phải vì không thương nhưng Ngài thương chúng ta ngay cả đời này và lo cho ta được hưởng đời sau nữa. Ví dụ một đứa trẻ xin cao dao cắt trái cây, cha mẹ có cho không? Mới lớp 8 xin nghỉ đi học để đi làm kiếm tiền giúp đỡ gia đình, cha mẹ có cho không? Hay anh sinh viên xin nghỉ học để chạy Grabike để kiếm tiền, cha mẹ có cho không? Tại sao không cho? Vì một em bé đang chơi với đám trẻ ngoài đồng, bỗng chạy vào nhà xin bố cho nó mượn con dao. Bố không cho? Đợi bố bu bu làm việc dưới bếp nó lẻn cầm dao chạy u ra đồng. Bố tinh ý, chạy theo xem nó làm gì, thì ra nó lấy dao để chặt trái lựa đạn mà nó tưởng đâu một loại trái gì đó ăn được. Bố nó nhảy tới giựt con dao trước khi nó bổ đôi trái lựu đạn. Tầm nhìn đứa trẻ và anh sinh viên còn hạn hẹp. Cha mẹ thì nhìn xa trông rộng luôn biết được tương lai của đứa con sau này sẽ ra sau trong cuộc sống, huống chi là Thiên Chúa, tạo dựng nên con người, Ngài thông biết mọi sự. Cho nên, nếu chúng ta không nhận được điều mình xin, thì không phải là Chúa không sẵn sàng ban ơn, nhưng Chúa biết điều cầu xin ấy không mang lại ích lợi cho chúng ta ngay hiện tại và tương lai, hoặc Người muốn dành cho chúng ta một ơn lớn lao hơn. Vì vậy, Thiên Chúa không ban cho chúng ta như lòng chúng ta mong ước, đó là bởi sự khôn ngoan, lòng thương xót và sự quan phòng của một người Cha đầy tình từ bi nhân ái.
Nhiều khi chúng ta xin mà chưa được hay không được, hãy an tâm vì Chúa có cách tốt nhất Chúa dành cho chúng ta. Chúa biết những gì thiết thực cho phần hồn, phần xác chúng ta nên Ngài ban hay không ban là vì thương và muốn chúng ta xứng đáng là con cái của Ngài để nói như lời thánh Phaolô trong bài đọc hai rằng chúng ta sẽ được sống với Đức Kitô nhờ Thiên Chúa ban muôn ơn tha thứ mọi sa ngã lỗi lầm của chúng ta hầu được hưởng ơn cứu rỗi. Để được như thế, có lúc Thiên Chúa cắt tỉa chúng ta bằng cách không ban cái chúng ta xin để chúng ta tự thăng tiến, trưởng thành trong đời sống tự nhiên và tín thác vào Thiên Chúa trong đời sống siêu nhiên. Có khi chúng ta nhận được thất bại để rút tỉa kinh nghiệm và làm cho cuộc sống thêm chất lượng hơn và trung tín theo Chúa đến cùng để hưởng hạnh phúc bên Chúa. Cho nên, một người tín hữu chia sẻ kinh nghiệm rằng nhiều lần trong đời sống, tôi xin Chúa cho tôi sức khoẻ để tôi có thể làm được những việc lớn lao – Ngài lại ban cho tôi sự yếu đuối để tôi làm mọi việc cách tốt hơn. Tôi xin Chúa cho tôi giàu sang để tôi có thể sống hạnh phúc hơn – Ngài lại ban cho tôi sự nghèo nàn để tôi sống khôn ngoan hơn. Tôi xin Chúa ban cho tôi quyền lực để được người đời xưng tụng – Ngài lại ban cho tôi sự mọn hèn để tôi ý thức cần đến Ngài hơn. Tôi xin Chúa ban cho tôi mọi sự, nhờ đó tôi tận hưởng thú vui cuộc sống – Ngài lại ban cho tôi cuộc sống để nhờ đó tôi tận hưởng mọi sự. Tuy tôi chẳng được tất cả những điều tôi xin, nhưng lại nhận được mọi thứ tôi cần.
Qua Lời Chúa hôm nay, xin cho mỗi người chúng ta biết điều chúng ta cần không phải là chúng ta có được gì sau khi xin, nhưng chúng ta cần có được lòng thương xót Chúa và nhận ra thánh ý Chúa sau mỗi lần xin để chấp nhận thi hành. Vì thánh ý Chúa như một món quà yêu thương mà chúng ta cần lãnh nhận bằng cả niềm tin và lòng tri ân cảm mến. Vì vậy, có được Chúa là có tất cả đồng thời nhận ra cách thức Chúa ban ơn cho chúng ta sẽ giúp chúng ta biết cảm tạ và tín thác đời mình cho lòng thương xót Chúa quan phòng. Như thế, chúng ta sẵn sàng theo Chúa cho đến hết hơi cho đến trọn đời. Sự hiện diện của Chúa Giêsu Thánh Thể mà chúng ta đang cử hành là bảo đảm cho thấy Chúa luôn thương xót, chăm sóc và ban ơn bình an, vui mừng và hy vọng. Ước gì Chúa Giêsu Thánh Thể đồng hành với chúng ta trong mọi biến cố và mọi nẻo đường của cuộc sống hôm nay. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Kinh Lạy Cha là lời kinh Chúa Giêsu dạy các môn đệ và là lời kinh căn bản của Kitô giáo. Lời kinh này là bản tóm lược toàn bộ Tin Mừng, là tâm điểm của Thánh Kinh như Thánh Augustinô nói: “Cứ đọc hết các kinh nguyện trong sách Thánh, chúng ta sẽ tìm thấy những điều được thâu tóm trong lời kinh Chúa dạy. Với lời kinh này, không những chúng ta nguyện xin tất cả những gì chúng ta có thể ao ước cách chính đáng, mà còn theo trật tự những gì nên ao ước. Vì thế, kinh nguyện này không chỉ dạy chúng ta nguyện xin, mà còn huấn luyện tâm tình của chúng ta nữa…Dù chúng ta có đọc lời nào khác, những lời do người cầu nguyện đặt ra để khơi dậy lòng sốt sắng, chúng ta cũng chẳng nói gì khác ngoài điều đã có trong kinh Lạy Cha, nếu chúng ta cầu nguyện cho đúng và thích hợp”(x. Thư thánh Augustinô giám mục gửi cho Pơrôba về kinh Lạy Cha, trong Kinh Sách, IV, tr. 335).
Kinh Lạy Cha độc đáo vì chính là lời kinh “của Chúa” và cũng là lời cầu nguyện của Hội Thánh. Lời kinh này đã ăn sâu vào kinh nguyện phụng vụ. Trong Thánh lễ, các lời nguyện xin của kinh Lạy Cha còn cho thấy đặc tính cánh chung, hướng về ngày Chúa Quang Lâm “cho tới khi Chúa lại đến” (1Cr 11,26).
Kinh Lạy Cha là lời kinh duy nhất Chúa Giêsu để lại, lời kinh tuyệt vời và phong phú vì chất chứa bao điều huyền nhiệm.
“Kinh Lạy Cha chẳng những là một lời cầu nguyện, mà còn là một lời tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa là Cha. Thiên Chúa Cha vừa là nguồn gốc mọi sự, vừa là cùng đích mọi loài. Đó là niềm tin căn bản nhất, bao trùm cả lộ trình đi và về của con người. Vì vậy kinh Lạy Cha vừa có thể đọc xuôi, vừa có thể đọc ngược” (x. Kinh Lạy Cha của Linh Mục trong Năm Đức Tin, ĐGM Matthêô Nguyễn Văn Khôi; Gpquinhon.org).
Đọc xuôi, bắt đầu từ việc tuyên xưng Thiên Chúa là Cha, cầu xin cho danh Người cả sáng, cho Nước Người trị đến, cho thánh ý Người được thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Tiếp đến chúng ta xin Người những ơn cần thiết cho cuộc đời kitô hữu của chúng ta, như được thỏa mãn những nhu cầu cần thiết của cuộc sống, được ơn tha thứ những lỗi lầm thiếu sót, được gìn giữ khỏi sa chước cám dỗ và được giải thoát khỏi quyền lực của ác thần.
Đọc xuôi, Kinh Lạy Cha bao gồm: một lời thân thưa, hai lời nguyện ước và ba lời cầu xin.
Thiên Chúa được gọi bằng nhiều danh hiệu khác nhau: Thiên Chúa vĩnh cửu, Thiên Chúa quyền năng, Thiên Chúa tạo dựng, Thiên Chúa thánh thiện… Mỗi danh hiệu nói lên một ưu phẩm, một đặc tính của Thiên Chúa.
Nhưng không một danh hiệu nào lại đậm đà, trìu mến, ý nghĩa, hy vọng cho bằng danh hiệu Cha. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ là mỗi khi cầu nguyện hãy thân thưa: Lạy Cha chúng con ở trên trời.
Lời mạc khải mối liên hệ chiều sâu giữa Chúa Giêsu với Chúa Cha. Lời diễn tả một chiều kích thiêng liêng, các môn đệ được đi vào đời sống thân mật, liên kết với Chúa Cha và Chúa Con.
Cha không chỉ là nguồn cội phát sinh nhưng còn là vòng tay nâng đỡ, là mái ấm chở che, là động lực thúc đẩy, là lý tưởng mời gọi. Từ ngữ Cha gợi lên cả một trời yêu thương vừa thân thiết vừa huyền nhiệm vô cùng.
Từ đây, lời thân thương “Lạy Cha” luôn vang vọng mãi nơi môi miệng của người Kitô hữu. Lời gắn kết họ với Thiên Chúa. Lời nối kết tương quan cha con trong tình yêu. Hồng ân thật cao quý Chúa muốn ban cho con người. Được gọi Thiên Chúa là Cha, được làm con cái của Thiên Chúa. Đó là tư cách rất riêng của những ai là môn đệ Đức Giêsu. Ơn gọi làm con là ơn gọi căn bản nhất, ơn gọi cao trọng nhất mà Thiên Chúa ban cho chúng ta qua Đức Giêsu. Vì thế chúng ta phải sống hiếu thảo với Thiên Chúa là Cha và huynh đệ với tha nhân là anh chị em. Vì chưng toàn thể nhân loại chỉ có một Cha và tất cả đều là anh em chị em của nhau.
“Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển” và “Triều đại Cha mau đến” là hai lời nguyện ước của những người con thảo hiếu hướng về Cha mình.
Thiên Chúa không cần đến lời chúng ta cầu nguyện để nhờ đó danh Người và triều đại Người mới được hiển thánh, được tôn vinh. Tự bản chất, Thiên Chúa không cần đến những lời cầu xin của chúng ta, có hay không, danh Người mãi mãi vẫn rạng ngời vinh hiển.
Vậy thì chúng ta cầu nguyện như thế để làm gì? Chắc một điều đó là vì phần ơn ích cho chúng ta.
Hai lời nguyện ước là xin cho danh Thiên Chúa được hiển thánh nơi chính con người chúng ta. Thiên Chúa là Đấng Thánh. Là con Thiên Chúa, được gọi Thiên Chúa là Cha, người con xin Cha thánh hoá, xin Cha kiện toàn mỗi ngày để con được nên thánh, được tham dự vào cuộc sống thần linh với Cha. Người con cần sống hiếu thảo. Biết quan tâm, chăm lo đến những công việc thuộc về Cha của mình. Là con của Cha trên trời thì chúng ta phải làm cho Danh Cha được cả sáng và Nước Cha trị đến, Ý Cha được thực hiện. Cha rất vui, hài lòng khi có những người con biết sống hiếu thảo như thế.
“Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày; xin tha tội cho chúng con, xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ”.
Xin cho những nhu cầu chính đáng phần xác phần hồn: lương thực hằng ngày, ơn thứ tha tội lỗi, ơn vượt thắng cám dỗ và ơn thoát khỏi sự dữ. Thân xác cần cơm bánh lương thực. Linh hồn cần ơn thánh. Ba lời cầu xin rất thiết thực đối với sự sống của nhân loại. Lời cầu xin cho có cơm bánh hằng ngày, thiết thực và hữu ích cả trên bình diện thiêng liêng lẫn cuộc sống đời thường. Bởi ngoài nhu cầu thiết yếu của con người là cơm bánh ra, người Kitô hữu cần đến một thứ thần lương tuyệt vời khác chính là Bánh Hằng Sống, là Thánh Thể Chúa Kitô.Ơn tha thứ thật cần thiết. Trước mặt Thiên Chúa, con người là tội nhân. Tha thứ cho nhau là điều kiện cần và đủ để chúa tha thứ cho mình. Được Cha yêu thương chăm sóc và thứ tha các lỗi lầm, con noi gương Cha sống yêu thương tha thứ cho anh em của mình. Như thế mới trọn vẹn tình con thảo hiếu.
Cạm bẫy và cám dỗ vẫn bủa vây tư bề. Cần tỉnh thức trước mọi cơn cám dỗ. Ơn Chúa là nguồn trợ lực là sức mạnh để con người vuột thắng mọi cám dỗ.
Đọc ngược kinh Lạy Cha để đi lại lộ trình đức tin của dân Do thái ngày xưa và để bày tỏ niềm xác tín mới đối với Thiên Chúa vì những gì Người ban cho chúng ta qua kinh Lạy Cha. Vậy chúng ta hãy cùng nhau tuyên xưng:
Cũng như ngày xưa Thiên Chúa đã cứu dân Israel ra khỏi ách nô lệ bên Ai cập, thì nay qua bí tích rửa tội, mỗi người chúng ta cũng đã được Thiên Chúa cứu khỏi quyền lực của Satan là đầu mối của mọi sự dữ.
Sau khi được Chúa giải thoát khỏi ách nô lệ Ai cập, dân Do thái đã đi qua hoang địa tiến về đất hứa, đã gặp rất nhiều cám dỗ và thử thách. Sau khi chịu phép rửa tội, cuộc đời chúng ta cũng là một hành trình xuyên qua hoang địa trần gian để tiến về đất hứa đích thực là thiên đàng. Chúng ta cũng gặp phải những chước cám dỗ như người Do thái ngày xưa. Nhận ra sự yếu đuối của mình, chúng ta tha thiết khẩn cầu Chúa gìn giữ và Người đã gìn giữ chúng ta.
Mặc dù đã nhiều lần phản bội, quay lưng lại với Thiên Chúa, thử thách Thiên Chúa, cứng đầu cứng cổ bất tuân lệnh Chúa, nhưng dân Do thái đã được Chúa tha thứ, nhờ lời chuyển cầu của ông Môsê. Cũng vậy, nhờ công nghiệp của Đức Kitô, chúng ta luôn được Thiên Chúa thứ tha những lỗi lầm thiếu sót và những xúc phạm đến Thiên Chúa và anh chị em là hình ảnh của Người. Được Thiên Chúa tha thứ, chúng ta cũng tha thứ cho nhau, để cùng nhau tiến bước trên con đường của Chúa.
Trong suốt hành trình 40 năm trước khi tiến vào đất hứa là nơi chảy sữa và mật, mỗi ngày dân Do thái đã được Thiên Chúa ân cần ưu ái ban cho manna, thịt chim cút và nước sạch từ tảng đá chảy ra. Ngày nay Thiên Chúa quan phòng cũng luôn lo liệu cho chúng ta mọi nhu cầu vật chất, để chúng ta có thể sống xứng đáng và phát triển các khả năng. Hơn nữa Người còn ban cho chúng ta bánh hằng sống là Lời Chúa và bí tích Thánh Thể để nuôi dưỡng linh hồn chúng ta, cùng với dòng nước ơn thánh vọt ra từ tảng đá là Đức Kitô đang hoạt động qua các bí tích, giúp chúng ta có sức đạt đến đất hứa đích thực là nước thiên đàng, nơi tràn trề sữa và mật thiêng liêng, khiến cho chúng ta không bao giờ đói khát.
Cùng với manna, chim cút và nước từ tảng đá vọt ra, Thiên Chúa còn ban cho dân Do thái các huấn lệnh bày tỏ ý muốn của Người, để họ tuân giữ và được sống. Ngày nay, chúng ta cũng nhận được thánh ý của Thiên Chúa biểu lộ qua Thánh Kinh, qua giáo huấn của Giáo Hội. Đời sống của mỗi người chúng ta hệ tại việc thực thi ý Chúa. Khi kết hiệp sự vâng phục của chúng ta với sự vâng phục của Chúa Giêsu đối với thánh ý Cha, tức là chúng ta làm cho ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.
Sau khi hoàn tất cuộc hành trình xuyên qua sa mạc, Thiên Chúa đã ban cho dân Israel đất hứa làm gia nghiệp, ở đó họ sống hạnh phúc dưới quyền cai trị của Người. Sau khi hoàn tất cuộc hành trình nơi dương thế, chúng ta cũng sẽ được đưa vào Nước Trời, nơi Thiên Chúa hiển trị, để Người mãi mãi là Vua của chúng ta và chúng ta sẽ là dân của Người đến thiên thu vạn đại, và trong Nước Người không còn đau khổ, khóc than và tang tóc, nhưng chỉ có sự sống dồi dào trong hạnh phúc vô biên.
Sống trong đất hứa Thiên Chúa đã ban, những người Do thái đạo đức không ngừng tôn vinh danh Chúa, vì chính nhờ danh Người họ đã được cứu thoát khỏi ách nô lệ Ai cập, được giúp đỡ để vượt qua các chước cám dỗ, được tha thứ mọi tội lỗi, được nuôi dưỡng chăm sóc, được biết thánh ý của Thiên Chúa, được sống dưới quyền cai trị của Chúa. Mai ngày trên thiên đàng, chúng ta cũng sẽ không ngừng ca tụng thánh danh Thiên Chúa và chúng ta có thể khởi đầu kinh Lạy Cha như sau: “Lạy Cha, giờ đây chúng con được ở với Cha trên trời”. (trích từ: Kinh Lạy Cha của Linh Mục trong Năm Đức Tin, ĐGM Matthêô Nguyễn Văn Khôi; Gpquinhon.org).
III. Kinh Lạy Cha, lời kinh tuyệt vời
Kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt vời. Vinh danh và thánh ý Chúa được đặt trên hết. Các nhu cầu của con người được đặt sau.
Kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt vời. Con người được gọi Thiên Chúa là Cha. Mỗi người là con cái của Thiên Chúa.
Kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt vời. Xin Cha ban ơn không những phần xác mà cả phần hồn; xin Cha không chỉ tha tội trong quá khứ mà còn gìn giữ cho khỏi sa chước cám dỗ ở tương lai.
Kinh lạy Cha là lời kinh tuyệt vời và huyền nhiệm nối kết con người với Thiên Chúa. Đây là lời kinh đến từ Thiên Chúa, là quà tặng của Thiên Chúa trao ban cho con người. Chính vì thế, Thiên Chúa ưa thích và không ngừng ban muôn ơn cho con người thông qua lời kinh thân thương, đơn giản và dễ hiểu này.
Lạy Cha,
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con, những ơn con thấy được, và những ơn con chưa nhận thấy được.
Con biết rằng con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng, biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì những gì Cha không ban cho con, và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì Cha cương quyết không ban bởi lẽ điều đó có hại cho con, hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha dù con không hiểu hết những gì Cha làm cho đời con. Amen.
Khó tin nhưng có thật:
Khi biết ý định của hai con là sẽ đưa mình vào viện dưỡng lão, ông đã lần lượt đến quỳ xuống trước mặt mỗi đứa con, khóc lóc và xin đừng đưa mình vào nhà dưỡng lão. Nhưng kết quả là không một ai trong hai người con ấy chấp nhận để ông sống chung với gia đình của họ nữa.
Bạn nghĩ gì về 3 mẩu truyện trên? Và bạn nghĩ gì, nhận định gì về những cách cư xử của những người đó đối với cha mẹ và thân nhân của họ? Bạn bảo họ là những đứa con, đứa cháu vô ơn và bất hiếu? Nhưng tôi lại muốn dùng những mẩu truyện trên để nhắc nhở chính tôi về mối tương quan với đấng mà tôi gọi là “Cha”, Thiên Chúa Cha ngự trên trời.
Thánh sử Luca đã ghi lại lời kinh nguyện mà Chúa Giêsu đã dậy tôi. Là người anh cả, và cũng là người hiểu và biết Cha tường tận, chính Chúa Giêsu đã chỉ vẽ cho tôi về mối tương quan cha con ấy. Cũng như Mẹ Maria trong Kinh Ngợi Khen (Magnificat), Chúa Giêsu trong Kinh Lậy Cha (Lời tâm sự giữa Chúa và tôi), đã nói với tôi về một người Cha rất mực nhân từ, xót thương, và luôn luôn quan tâm, lo lắng đến mọi nhu cầu dù rất nhỏ mọn của tôi.
Lời trần tình ngọt ngào:
Hãy nghe Chúa Giêsu dậy tôi gọi Thiên Chúa là “cha”: “Lậy Cha chúng con ở trên trời”. Để nghe tâm tư của người Cha được thoát ra từ những tâm tư kinh nguyện ấy. Ở đấy tôi tìm được hình ảnh của một Thiên Chúa đầy quyền năng, nhưng cũng là một người cha rất mực yêu thương, chăm lo săn sóc cho từng người con không những mọi sự về tinh thần, mà còn cả thể chất nữa.
Tôi chưa thấy Chúa nào, thần nào lo cho tôi từ miếng cơm, manh áo, như Chúa tôi, cha tôi. Chúa Giêsu bảo tôi hãy xin: “Cha cho chúng con hằng ngày dùng đủ” (Luc 11: 3).
Cơm bánh, áo quần, những nhu cầu cần thiết cho cuộc sống thể lý tuy cần, nhưng cần hơn là sức sống tâm linh. Và đây là những nhu cầu mà Chúa Giêsu cũng dậy tôi cần thiết phải thưa với Cha mình: “Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” (Luc 11:4).
Nhưng nhất là Chúa tôi, Cha tôi không muốn chính tôi phải đối đầu, phải đau khổ vì những sự xấu xa, những nỗi đau kinh hoàng. Ngài dậy tôi hãy thưa với ngài: “Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ” (Mt 6:13). Sự dữ thân xác, sự dữ tâm hồn, sự dữ tâm lý, mà sự dữ lớn nhất, kinh khủng nhất là tội lỗi. Vì tội lỗi sẽ làm cho tôi cắt đứt mối giây giao hảo, và sự mật thiết giữa tôi và Cha, như cành cây bị cắt lìa khỏi cây.
Duy chỉ nghĩ đến việc được gọi Thiên Chúa là Cha mà thôi cũng đã làm cho nhiều thánh nhân cảm thấy xúc động và không cầm nổi nước mắt. Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã khóc khi nhìn thấy đàn gà con được mẹ chúng ủ dưới cánh. Và qua hình ảnh ấy, Thánh nữ đã liên tưởng đến sự ấu yếm, chở che của Cha trên trời.
Thiên Chúa là Cha:
Thiên Chúa là Cha tôi không còn là một điều khiến tôi phải hồ nghi, mà trái lại, đó chính là điều khiến tôi phải suy nghĩ. Vì làm cách nào mà tôi có thể sống đúng với danh nghĩa con của một Cha trên trời, và nhất là làm cách nào để tôi có thể sống đẹp lòng Người.
Không lẽ tôi cũng đối xử với cha tôi…
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Quan sát Đức Giêsu cầu nguyện, các môn đệ đã nhận ra một nét gì đó rất mới mẻ và rất đặc trưng. Nét này không thấy có trong thói tục của người Do Thái nói chung, và của nhóm Biệt Phái nói riêng; khác cả với lối cầu nguyện mà Gio-an tẩy giả, nhóm Ét-sê-ni và các môn đệ ông thường làm. Người Do Thái nói chung cầu nguyện dựa trên việc cất cao giọng đọc các thánh vịnh, các lời ngôn sứ hay sách luật… Chính vì thế mà một vài đại diện trong nhóm môn đệ Đức Giêsu khẩn khoản xin Người dạy cho họ biết cầu nguyện, và cầu nguyên theo cách thức riêng của Người. Lời thỉnh cầu đó quả là chính đáng, và Đức Giêsu sẵn sàng đáp ứng vì nó liên quan tới điều quan trọng nhất mà người đang muốn khảng định: Cầu nguyện chính là đi vào tương quan phó thác với Chúa Cha nhân ái.
Điều mà các môn đệ mong đợi chắc hẳn không phải là được Thầy dạy cho một công thức cầu nguyện, mà chúng ta ngày nay quen gọi là kinh đọc. Người Do Thái thời đó vẫn quen sử dụng các thánh vịnh như công thức nền tảng. Tuy nhiên rất có thể khi quan sát Đức Giêsu cầu nguyện, các môn đệ đã nhận ra một điều gì rất khác lạ, một kiểu cách cầu nguyện không giống ai. Nét này khác xa lề thói các Pha-ri-sêu vẫn thường cầu nguyện nơi công cộng, hoặc các tu sĩ Et-sê-ni làm tại Qum-ram. Nét đặc sắc nhất các ông nhân ra chính là tâm tình con thảo thâm sâu chưa từng thấy bất cứ nơi đâu. Xét cho cùng thì Thánh Vịnh cũng không phải là những ‘kinh’ theo nội dung mà bổn đạo chúng ta vẫn hiểu ngày nay. Tự nó Thánh Vịnh là những tâm tình rất chân thành, nhưng trong tinh thần của ‘Cựu Ước’, mà mỗi người Do Thái diễn tả tương quan thường ngày của mình với Đức Chúa Gia-vê. Tất cả các tâm tình đó đều dựa trên một nền tảng duy nhất được các luật sĩ và Biệt Phái nhấn mạnh, đó là lòng trung thành kiên vững đối với giao ước đã ký kết. Sau này vào thời Đức Giêsu, qua ảnh hưởng của phái Ét-sê-ni, thái độ thống hối để lãnh phép rửa được nhấn mạnh. Nếu vậy thì nét cầu nguyện đặc trưng của Thầy Giêsu, đồng thời cũng là của từng người Ki-tô hữu chúng ta cụ thể là gì?
Đức Giêsu không đơn thuần dạy một công thức diễn đạt mới, cái sau này được đặt tên là ‘kinh Lạy Cha’ (tiêu đề quen thuộc luôn được gán cho đoạn văn này). Ngay trong câu Đức Giêsu nói: “Khi cầu nguyện anh em hãy thưa (thay vì nói hoặc đọc) thế này: ‘Lạy Cha, nguyện ( thay vì cầu xin) cho danh Cha vinh hiển…’, ta sẽ thấy ngay nổi cộm một tâm tình, tâm tình tín thác. Ngay cả các điều ‘xin’ của phần sau cũng toát ra niềm tin tưởng sâu đậm nhất. Chính cái tâm tình này mới là chất tố cốt lõi của lối cầu nguyện mà Đức Giêsu đang muốn thông truyền.
Đương nhiện là bất cứ lời cầu nguyện nào cũng đều ít nhiều mang tâm tình này. Trong mọi tôn giáo, khi tín đồ khấn vái, họ cơ bản tin tưởng sẽ được thần thánh phù trì. Tuy nhiên vấn đề là ở chỗ, dựa trên cơ sở nào mà họ đặt niềm tin tưởng phó thác. Người Do thái có cơ sở của Cựu Ước: một giao ước sòng phẳng giữa Đức Chúa Gia-vê với dân riêng của Ngài. Gio-an nhấn mạnh trên nền tảng thống hối và lãnh phép rửa để được tha tội (xem Lc 3, 3-18). Tín đồ các tôn giáo khác nói chung, dựa trên qui luật ‘có đi có lại’ của giao tế xã hội. Họ thờ cúng dâng hương để mong được thần thánh phù trì… Thế còn Ki-tô hữu chúng ta cầu nguyện dựa trên cơ sở nào?
Đức Giêsu dùng hai hình ảnh để quảng diễn cơ sở của lòng tín thác Ki-tô hữu trong cầu nguyện: người bạn và người cha. Hai hình ảnh này có tác dụng trước hết là triệt tiêu cả ba cơ sở nói trên. Nếu là ‘nguyện xin’ với bạn và cha, thì sẽ không còn sự sòng phẳng của giao kèo ký kết, không còn sự cách biệt trên dưới, và cũng chẳng cần lễ vật quà cáp lót đường. Chỉ còn một điều duy nhất quan trọng là tin tưởng hầu như mù quáng, cố chấp tới độ không ngại gây phiền hà. Câu chuyện gõ cửa nhà bạn vay bánh giữa đêm khuya, hay xin ‘bố’ của ăn, phải chăng là để nêu rõ thái độ rất ‘độc’ này của cầu nguyện Ki-tô hữu?
Và điều này không chỉ đơn thuần là một khảng định trên lý thuyết. Có lẽ vào thời điểm lúc Đức Giêsu trả lời câu hỏi của mộn đệ, nó còn có vẻ lý thuyết xa vời thật, ngược ngạo nữa là đàng khác: Thiên Chúa mà là cha và là bạn sao được! Thế nhưng sau biến cố thập giá và phục sinh, thì đã trở thành một thực tế quá rõ ràng và hiển nhiên. Thực vậy, niềm tin vào thập giá và phục sinh trở thành cơ bản trong tương quan (giao ước mới) giữa người môn đệ với Thiên Chúa của Đức Giêsu Ki-tô. Họ đã nắm bắt được bằng chứng không thể chối cãi về một Thiên Chúa từ nhân tới độ không tiếc bất cứ điều gì đối với những ai kêu cầu Người, ngay cả hy sinh tới Người Con yêu quí nhất Người cũng chẳng từ. Do vậy bất cứ ai tự cho mình là môn đệ Đức Giêsu, mà không biết chất tố này khi cầu nguyện, thì chưa thể được kể là Ki-tô hữu chân chính.
Nếu như thế ta có thể khảng định được chăng: tin tưởng phó thác trong cầu nguyện chính là thước đo chính xác nhất của niềm tin Ki-tô hữu? Thánh Phao-lô xác quyết: chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải lẽ, nếu Thần Khí không rên siết trong ta (xem Rm 8,18-27). Phải chăng Đức Giêsu cũng có ý tưởng tương tự khi nói ‘Cha trên trời ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người’? Thế thì, một chút chiêm ngắm thập giá, một chút vào sâu hơn trong tình yêu nhân ái của Thiên Chúa, là điều tối cần thiết để mọi Ki-tô hữu có thể tiến hành cầu nguyện của mình. Tuy nhiên thật không may, ‘cái chút’ này trên thực tế xem ra vẫn còn thiếu trầm trọng trong cầu nguyện của nhiều Ki-tô hữu chúng ta. Chính vì lẽ đó mà lời khẩn cầu của các môn đệ: “Lạy Thầy, xin dạy chúng con biết cầu nguyện!” vẫn tiếp tục phải là điệp khúc khởi đầu cho mọi cầu nguyện chân thành của mọi Ki-tô hữu chúng ta.
Lạy Thầy Giêsu, xin dạy con cầu nguyện! Xin hãy dạy con cầu nguyện với một Thiên Chúa không tiếc xót con bất cứ điều gì, kể cả phó nộp Người Con yêu quí nhất của Người. Xin cho con biết dành một chút thời giờ cho việc chiêm ngắm tinh yêu nhân ái và lòng thương xót bao la của Chúa trước khi tiến hành cầu nguyện. Xin Thần Khí Chúa hãy luôn nhắc nhở con rằng: dấu Thánh Giá mà con làm đầu giờ cầu nguyện chính là để giúp đưa con vào tâm tình cơ bản và thiết yếu này, là trọn vẹn tin tưởng phó thác nơi lòng Chúa xót thương và cứu độ. Chỉ như thế lời cầu nguyện của con mới có được tâm tình như Chúa muốn. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin mừng Lc 11: 1-13: Khi cầu nguyện, chúng ta không thể làm gì hơn là xin ơn tha thứ, vì dù con người tốt nhất trong chúng ta cũng chỉ là một tội nhân đến trước Thiên Chúa vô cùng thánh thiện.
Vào tháng 5 năm 1998, tại Houston, Texas, một cuộc hội thảo lớn về Y Học và Đức Tin với sự tham dự của hơn 700 bác sĩ, điều dưỡng, dược sĩ, nha sĩ. Những báo cáo cho thấy là những người có Đức Tin và được cầu nguyện cho thì mau lành bệnh gấp 12 lần những người không có Đức Tin sau khi được giải phẫu tim.
Một cuộc khảo cứu kéo dài 28 năm trên một số người lớn tuổi cho thấy là những người chăm đi lễ nhà thờ để cầu nguyện thì ít bệnh tật từ 25% đến 35% so với những người không có tôn giáo. Những người đi lễ nhà thờ thường xuyên có một hệ thống miễn dịch, dễ đề kháng bệnh tật mạnh hơn mức bình thường.
Từ xa xưa, con người đã thấy sự cần thiết và hữu ích của cầu nguyện, chính vì vậy, Gioan đã làm như thế cho môn đệ của ông và bây giờ các môn đệ của Chúa Giêsu cũng đến xin thầy mình dạy cầu nguyện. Đây là bài cầu nguyện Chúa Giêsu dạy, được Luca và Matthêu ghi lại.
Một số điểm chúng ta cần lưu ý:
Danh xưng “Cha” đã có nơi các tôn giáo rất khác nhau, từ dạng thô sơ nhất đến dạng phát triển nhất, của người Hy Lạp, Rôma và Sêmít. Nhưng điều lạ là việc sử dụng một danh xưng thân mật để thưa với Thiên Chúa. Theo các nghiên cứu của Jeremias và Marchel, ’abbâ’ là một danh xưng thân mật, nên không bao giờ được người Do Thái dùng để thân thưa với Thiên Chúa. Đôi khi, cũng rất hiếm, từ này được dùng để nói về Thiên Chúa, chứ không bao giờ để thưa với Thiên Chúa. Và ngay cả nói về Thiên Chúa, các bản Targumim (bản dịch và diễn giải) cũng rất ngại áp dụng danh hiệu “Cha” cho Ngài. Ngược lại, theo chứng từ của Mc 14,36, được củng cố gián tiếp bởi Gl 4,6, Đức Giêsu là người đầu tiên thưa với Thiên Chúa bằng tiếng gọi thân mật Abba, và như thế Người tỏ cho thấy tương quan thân tình như là người con với Thiên Chúa, một thứ tương quan mới mẻ và duy nhất, vô song.
Phần đầu: lời cầu cho Nước Chúa được hiển trị.
Phần hai: xin những sự cần thiết cho chúng ta.
Thiên Chúa là một người Cha luôn quan tâm đến nhu cầu của chúng ta. Đây là một lời cầu nguyện bao quát cả cuộc đời.
– Nó bao trùm các nhu cầu hiện tại. Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu xin lương thực cho chúng ta mỗi ngày. Nên nhớ bánh đủ ăn từng ngày là điều chúng ta cầu xin. Điều này nhắc lại câu chuyện xưa về manna trong hoang địa (Xh 16,11-21). Dân Chúa chỉ được lượm manna đủ ăn trong một ngày mà thôi. Chúng ta đừng lo một tương lai không rõ, nhưng ngày nào lo cho ngày ấy.
– Lời cầu nguyện này cũng bao trùm tội lỗi đã qua
Khi cầu nguyện, chúng ta không thể làm gì hơn là xin ơn tha thứ, vì dù con người tốt nhất trong chúng ta cũng chỉ là một tội nhân đến trước Thiên Chúa vô cùng thánh thiện.
– Lời cầu nguyện này cũng bao trùm các thử thách trong tương lai
Từ “cám dỗ” trong Tân Ước có nghĩa là bất cứ hoàn cảnh thử thách nào. Nó không chỉ có nghĩa là quyến rũ phạm tội mà còn bao gồm mọi hoàn cảnh khiến con người bị thử thách về đức độ, thanh liêm, lòng tín trung. Chúng ta chỉ có thể thắng nó nhờ ơn Chúa ban.
Cầu nguyện cho danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Điều đáng ngạc nhiên nhất là khi đặt tất cả chú ý về Cha như trung tâm, Chúa Giêsu không nói một tiếng về bản thân mình. Không nói gì đến Chúa Giêsu ở đây là một trong những điều thật ý nghĩa: tránh bỏ hết mọi quan tâm đến bản thân, Chúa Giêsu luôn hướng nhìn về Cha.
Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện cho danh Cha cả sáng, Nước Cha hiển trị. Để thể hiện được điều này đòi chúng ta phải cầu cho ý Thiên Chúa, chớ không phải ý của chúng ta. Chúa Giêsu đã làm gương cho chúng ta.
Suốt cuộc đời của Chúa Giêsu là thi hành thánh ý Thiên Chúa Cha, nên lời cầu nguyện của chúng ta cũng phải rập theo lời cầu nguyện của Chúa Giêsu, tức là cầu nguyện để ý của Thiên Chúa Cha được thể hiện. Ý của Thiên Chúa được thể hiện, đó chính là làm cho danh Cha được cả sáng và Nước Cha được hiển trị.
Cầu nguyện cho ý của Thiên Chúa, đó mới là điều quan trọng. Chính vì vậy nhiều khi chúng ta tưởng rằng chúng ta xin một đường mà Chúa lại cho một nẻo như khi
– Chúng ta xin Người vứt bỏ nỗi đau khổ, thì Người lại nói khổ đau sẽ đưa con ra khỏi những lo toan trần thế và đưa con lại gần Thiên Chúa hơn.
– Khi chúng ta xin Chúa cho sức khoẻ để có thể làm được những việc lớn lao – Người lại ban cho chúng ta sự yếu đuối để tôi làm mọi việc cách tốt hơn.
– Khi chúng ta xin Chúa cho giàu sang để có thể sống hạnh phúc hơn – Người lại ban cho chúng ta sự nghèo nàn để chúng ta biết cậy dựa vào Chúa hơn.
– Khi chúng ta xin Chúa ban cho quyền lực để được người đời xưng tụng – Người lại ban cho chúng ta sự mọn hèn để chúng ta biết cần đến Ngài hơn.
– Khi chúng ta xin Chúa ban cho mọi sự, nhờ đó chúng ta có thể tận hưởng thú vui cuộc sống – Người lại ban cho chúng ta cuộc sống để nhờ đó chúng ta tận hưởng mọi sự.
Như thế xem ra chúng ta chẳng được tất cả những điều chúng ta xin, nhưng lại nhận được mọi thứ chúng tai cần. (Anon)
Hiểu được như vậy, khi chúng ta lặp lại lời “cầu nguyện của Đức Giêsu, đến lượt chúng ta, chúng ta mới dám tin rằng “Chúa Cha yêu thương chúng ta bằng chính tình yêu mà Người yêu mến Con Một của Người” (Gioan 20,17). Đó chính là tâm tình của Chúa Giêsu khi dạy chúng ta thân thưa với Thiên Chúa Cha: ABBA, Lạy Cha. Amen.
“Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gioan đã dạy môn đệ của ông”
Lời yêu cầu của một người trong nhóm môn đệ cho chúng ta cảm tưởng là Chúa Giêsu không dạy các ông cầu nguyện. Chúa Giêsu không dạy các ông cầu nguyện vì từ nhỏ, một người Do Thái đã biết cầu nguyện với lời Thánh vịnh rồi. Ngài chỉ dạy họ bằng chính cuộc sống cầu nguyện của Ngài, bằng chứng là sau khi cầu nguyện, người môn đệ kia mới đến xin Ngài dạy cầu nguyện. Các thánh sử nhiều lần đã nhắc đến việc Chúa Giêsu tìm nơi thanh vắng và cầu nguyện thâu đêm. Đó chẳng phải là những bài học sống động sao?
Nhưng khi nghe lời thỉnh cầu của người môn đệ, Chúa Giêsu chấp nhận ngay và dạy họ cầu nguyện như Ngài.
Bài học cầu nguyện này vẫn còn được sử dụng và cho đến tận thế, Giáo hội vẫn cầu nguyện như thế: Vâng lệnh Chúa Cứu Thế và theo thể thức Người dạy, chúng ta dám nguyện rằng:…
Đây là một lời cầu nguyện chính Chúa Con dạy. Trong Cựu Ước không có lời cầu nguyện nào độc đáo như thế. Độc đáo vì Chúa Giêsu dạy chúng ta gọi Chúa là Cha như Ngài. Đây phải chăng là một hồng ân vô giá mà chúng ta không xứng đáng lãnh nhận? Nhờ Chúa Giêsu đến mang cho chúng ta hồng ân vô giá này. Nhưng mấy người đã hiểu được giá trị của nó? Hằng ngày chúng ta vẫn cầu nguyện với những lời này, nhưng chúng ta gần như không mấy khi để ý, vì quá quen thuộc. Thói quen bào mòn tất cả những gì cao quí nhất.
Chúng ta hãy nói lên tiếng Cha như Chúa Giêsu, chúng ta mới cảm thấy niềm hạnh phúc Chúa dành cho chúng ta. Thánh Phanxicô Assisi, một ngày kia đi đường với một thầy trong dòng. Vì đường xa, thánh nhân mới đề nghị: “Chúng ta hãy đọc kinh Lạy Cha trong lúc đi đường”. Thế là hai người im lặng cầu nguyện suốt quãng đường dài. Đến nơi, thánh nhân hỏi thầy: “Thầy đọc được mấy kinh?” Thầy nhanh miệng trả lời: “Con đọc được hai trăm năm chục kinh”.
Thánh nhân nói: “Còn tôi, tôi đọc chưa được một kinh.” Trước sự ngạc nhiên của thầy, thánh nhân nói: “Tôi chỉ nói được một tiếng thôi: lạy Cha, và tôi cảm thấy hạnh phúc đến nỗi tôi chỉ nói có một tiếng lạy Cha thôi”.
Chúng ta hãy cầu xin cho chúng ta nếm được thứ hạnh phúc tuyệt vời đó, hạnh phúc biết mình là con của Cha trên trời.
Nếm được hạnh phúc này, những lời cầu tiếp theo mới có giá trị. Nếu chúng ta không cảm thấy mình là con của Cha thì xin cho Danh Cha cả sáng… có nghĩa gì? Hơn nữa, với tâm tình con thảo thì chúng ta xin gì cũng có thể được.
Nhiều người thắc mắc: sao chúng ta vẫn cầu xin cho Danh cha cả sáng mà không thấy kết quả? Thế giới vẫn vô đạo và con người càng ngày càng từ chối Thiên Chúa?
Chúng ta làm sao biết được kết quả? Hay chúng ta chỉ cầu nguyện ngoài môi miệng mà lòng chúng ta xa Cha muôn trùng?
Danh Cha có cả sáng, Nước cha có trị đến trong chúng ta chưa? Tâm hồn chúng ta thực sự là Nước Cha chưa? Chúng ta mơ mộng nhiều hơn là sống.
Dù sao, Chúa Giêsu vẫn là mẫu mực của việc cầu nguyện. Cầu nguyện như Ngài, với tâm tình con thảo, với trọn tình yêu.
Chúa dạy chúng ta cầu nguyện cho Danh Cha, cho Nước Cha, nhiều người tưởng rằng chúng ta cầu xin cho Chúa. Chúa không cần chúng ta nhưng khi chúng ta cầu cho Danh Cha và Nước Cha thì chúng ta cầu nguyện cho chính chúng ta. Danh Cha và Nước Cha là Tình Yêu. Nếu Nước Tình Yêu của Cha được thực hiện thì người được hưởng đầu tiên là chúng ta. Nước Tình Yêu của Cha là hạnh phúc của chúng ta. Chúng ta là ai mà cầu cho Thiên Chúa? Chúng ta làm được gì cho Chúa? Chúng ta chỉ là tro bụi, chỉ biết lãnh nhận mà thôi. Tất cả những lời cầu xin chúa Giêsu dạy cho chúng ta đều quy hướng về Cha, nhưng lại là hồng ân mà chúng ta đang cần. Nhưng hồng ân ấy đến từ nơi Cha là Tình Yêu mà thôi.
Dạy cho chúng ta cầu xin những gì cần cho chúng ta, Chúa còn dạy chúng ta cầu xin thế nào cho phải; là cầu xin bền bĩ và tin cậy. Dụ ngôn người bạn đang đêm đến mượn bánh, cho chúng ta một bài học rất quí giá, cầu nguyện phải khẩn thiết. Chúng ta thường gấp rút muốn được ngay những gì chúng ta xin, phải có kết quả ngay. Vì thế nhiều người trách Chúa sao không nhậm lời họ xin. Phải nhìn nhận rằng chỉ có Chúa mới biết được những nhu cầu chính đáng của chúng ta: “Cha chúng con ở trên trời biết những gì chúng con cần”.
Cha trên trời là một người cha đầy tình thương, Ngài không bao giờ bỏ rơi chúng ta, vì thế: “xin thì sẽ được, tìm thì sẽ gặp”. Chúng ta là những người xấu xa mà còn biết cho con mình những gì tốt nhất, huống hồ Cha trên trời là một người cha tuyệt đối nhân lành, không lẽ Ngài để chúng thất vọng! Chỉ có chúng ta hèn tin.
“Xin thì sẽ được” sao chúng ta không nhận được những gì chúng ta cầu xin? Chỉ có Chúa mới biết những gì thích hợp cho chúng ta, vì thế Ngài không ban cho chúng ta những gì có thể gây tai hại cho chúng ta, Ngài chỉ ban những gì hữu ích cho chúng ta mà thôi. Chúng ta xin làm ăn phát đạt, điều này xem ra hợp lý, nhưng có lợi cho chúng ta không hay sẽ trở thành một tai hại lớn lao hơn?
Chúng ta hãy cầu xin những gì thích hợp với ý muốn của Chúa Cha, như thế, chúng ta mới thực sự là những người con thảo. Cầu xin với tất cả lòng tin cậy thì chúng ta sẽ thấy những gì chúng ta tìm kiếm, chúng ta sẽ thấy mọi cánh cửa đều mở.
Hơn nữa, Cha trên trời dành cho chúng ta một hồng ân tuyệt hảo đó là Thánh Thần của Người.
Thánh Thần sẽ giúp chúng ta xác nhận tính cách con thảo của chúng ta và ban cho chúng ta những “hoa quả của Thánh Thần là bình an và hoan lạc”. Chính Thánh Thần mới dạy chúng ta cầu nguyện thế nào cho phải và sẽ cầu nguyện trong chúng ta “bằng những tiếng rên khôn tả”. Chính Thánh Thần mới dạy chúng ta cầu nguyện trong tình con thảo. Như thế, khi chúng ta cầu nguyện với những lời Chúa Giêsu dạy, với sự trợ giúp của Thánh Thần, lời cầu nguyện của chúng ta sẽ mang lại kết quả tràn trề dù chúng ta không thấy. Đừng đọc những lời kinh quí báu này theo thói quen mà hãy đọc với con tim tràn đầy tâm tình biết ơn. Hãy để cho Thánh Thần biến chúng ta thành con thảo của Chúa Cha, chúng ta mới đủ sáng suốt và can đảm thực hiện ý Cha dưới đất cũng như trên trời.
Hôm nay, trong Hiến Tế Tạ Ơn và mỗi ngày, chúng ta hãy cùng với Chúa Giêsu có mặt nơi Bí tích Tình Yêu, nguyện xin như Chúa đã dạy và chúng ta sẽ lãnh nhận Ngài trong thân xác hay chết của chúng ta, như một của ăn, để sống trong Ngài, yêu mến Ngài tha thiết hơn. Đó là hạnh phúc Ngài ban tặng cho chúng ta, là “lương thực hằng ngày” mà chúng ta vẫn cầu xin.
(Suy niệm của Lm. Simon Hồ Đức Minh, SVD)
Chúa Giêsu đã cầu nguyện và Ngài cũng dạy các môn đệ cầu nguyện. Điều đó cho chúng ta thấy “cầu nguyện là một nhu cầu thiết yếu”. Và Kinh Lạy Cha trở thành lời cầu nguyện thật tâm tình của chúng ta đối với Thiên Chúa.
Được gọi Thiên Chúa là Cha. Một tiếng gọi thân thương dấu ái đầy kính tin yêu mến. Một lời thốt lên từ con tim, diễn tả một tấm lòng. Môt lời nói chào kính là ân huệ nhưng không ngà ngọc. Một bày tỏ khởi đầu với ý nghĩa thâm sâu từ tâm tình con thảo.
Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển và triều đại Cha dành cho. Sống cho danh thánh Cha, là tôn vinh Cha bằng những cố gắng và hy sinh của chúng ta. Sống cho danh thánh Cha, là nỗ lực sống tốt đời mình mỗi ngày để danh Cha luôn rạng rỡ vinh quang.
Khi sống, chúng ta phải sống thế nào để triều đại Cha mau đến?
Để triều đại Cha mau đến, chúng ta hãy sống với Chúa bằng tình con thảo, bằng tất cả lòng mến yêu. Với tha nhân, chúng ta hãy thể hiện yêu thương một cách cụ thể. Với tha nhân, chúng ta hãy làm những gì mang lại lợi ích phần rỗi cho họ. Chúng ta hãy làm cho xã hội mà chúng ta đang hiện diện luôn có được bình an, công bằng, chân lý và hạnh phúc thật sự.
Để triều đại Cha mau đến, mỗi người phải trả giá không ít. Giá phải trả càng cao thì việc làm đó luôn có giá trị càng lớn.
Tuy nhiên, chúng ta cũng không quên cầu xin lương thực mỗi ngày, xin tha tội chúng ta và cũng xin cho mỗi người chúng ta cũng biết tha lỗi cho người khác, cuối cùng xin đừng để chúng ta sa chước cám dỗ.
Thực ra, những điều chúng ta xin chính đáng. Dầu vậy, mỗi chúng ta phải nỗ lực và cố gắng làm ra lương thực và của cải vật chất, biết đón nhận ơn tha thứ của Chúa thật lòng và cũng biết tha thứ cho người khác. Bởi vì biết đón nhận thì phải biết cho đi. Và điều kiện để được tha thứ thì phải biết thứ tha. Hơn nữa, trong cuộc đời, cạm bẫy và chước cám dỗ thì đầy dẫy! Vượt qua và không bị sa lầy là nhờ ơn Chúa giúp.
Hãy tin vào Chúa vì Ngài là Cha yêu thương. Hãy tựa vào Chúa vì Ngài là nguồn hy vọng. Hãy yêu mến Ngài bằng việc yêu mến tha nhân. Hãy ra sức sống tốt và không ngừng cầu nguyện.
Cầu nguyện liên lỉ và kiên trì, đó là thái độ của mỗi Kitô hữu chúng ta. Cầu nguyện liên lỉ và kiên trì, đó là lời mời gọi của Tin Mừng.
Vì Thiên Chúa là Cha yêu thương, nên chúng ta hãy cầu nguyện với Ngài như chính Chúa Giêsu đã dạy chúng ta. Cầu nguyện là nâng hồn lên cùng Chúa, là gặp gỡ Chúa với bày tỏ thực trạng đời mình, là hồng ân Chúa ban. Chính Chúa gặp gỡ mình hơn là mình gặp gỡ Chúa. Cầu nguyện là một kết ước, là tương giao sống động với Thiên Chúa, là đáp lại tình thương của Chúa, là lắng nghe Chúa nói, là kề sát lòng bên cạnh lòng Chúa, là đi tìm dung nhan Chúa, là yên lặng và vâng phục đức tin, là hợp tác với sự quan phòng của Thiên Chúa, là nói với Chúa bằng lời của Chúa.
Cứ xin thì sẽ được. Cứ tìm thì sẽ thấy. Cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. Lời Chúa nói đã trở thành một xác quyết cho chúng ta. Chính vì vậy: Xin thì phải tin. Xin thì phải tin với cả tấm lòng. Xin thì phải phó thác và hy vọng. Bởi lẽ Thiên Chúa là Chúa của tình thương, nên Ngài luôn muốn nhiều điều tốt lành cho con cái mình. Tin tưởng vào Chúa. Hy vọng nơi Ngài, để rồi cũng cầu xin Thiên Chúa cho mỗi người chúng ta biết bày tỏ lòng tin yêu Chúa qua việc cầu nguyện và qua cách phục vụ tha nhân tận tâm tận tình của chúng ta.
Giữa đêm khuya, một căn nhà ở nơi hẻo lánh bỗng bốc cháy. Trong cơn hoảng hốt, vợ chồng con cái đều thoát ra ngoài và bất lực đứng nhìn ngọn lửa. Rồi mọi người sực nhớ đứa con trai út mới lên năm vẫn còn bị kẹt trên gác. Phải làm gì đây? Không ai có thể đi vào được. Giữa lúc mọi người đang bấn loạn thì từ cánh cửa sổ trên gác, cậu bé thò đầu ra và kêu la thất thánh. Từ phía dưới, người cha nói với cậu: Con hãy nhảy xuống đi. Nhưng làm sao cậu bé dám làm theo lời cha, bởi vì nhìn xuống, cậu chỉ thấy khói và lửa. Cậu bé thốt lên trong tuyệt vọng: Làm sao con dám nhảy xuống vì không thấy ba. Thế nhưng người cha đã trấn an: Con không thấy ba nhưng ba thấy con. Con cứ nhảy xuống đi. Thế là với tất cả tin tưởng, cậu bé nhảy từ trên gác xuống và nằm gọn trong cánh tay của người cha.
Là con cái của Thiên Chúa, cho dầu chúng ta có rơi vào hoàn cảnh nào chăng nữa, chúng ta vẫn luôn rơi vào vòng tay của Thiên Chúa, đó là tất cả Tin Mừng Chúa Giêsu đã đem đến trong thế gian.
Thiên Chúa luôn yêu thương con người, dù con người không biết Ngài, dù con người có khước từ và phản bội tình yêu của Ngài, Ngài vẫn một mực yêu thương. Đó là tất cả những gì Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta qua cuộc sống của Ngài. Cách cư xử và cái chết của Ngài đã cho chúng ta thấy Thiên Chúa là Cha yêu thương chúng ta.
Đồng thời Chúa Giêsu cũng dạy cho chúng ta cách thức đáp trả tình yêu của Thiên Chúa, đó là hãy chu toàn thánh ý của Thiên Chúa. Lời kinh Lạy Cha Ngài để lại cho Giáo Hội chính là chương trình sống của Ngài, chính là tiếng xin vâng của Ngài đối với Chúa Cha. Từ sáng đến chiều, xuyên qua những giao tiếp và giảng dạy, Ngài luôn để lộ một cử chỉ duy nhất, đó là thuộc trọn về Chúa Cha, tin tưởng tuyệt đối vào tình yêu của Chúa Cha. Để lại cho chúng ta kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu không chỉ truyền lại một công thức, mà là cả cuộc sống xin vâng của Ngài.
Do đó, cầu nguyện không có nghĩa là đọc lại một câu kinh, mà chính đi vào tâm tình và cuộc sống của Chúa Giêsu. Một người tín hữu luôn chu toàn thánh ý Thiên Chúa và luôn sống với hai chữ xin vâng hằng sẽ không ngừng kêu lên: Tôi đã cầu xin được khoẻ mạnh để làm những điều vĩ đại, thế nhưng Chúa lại ban cho tôi những bệnh tật để tôi làm những việc tốt hơn. Tôi đã xin giàu sang để được hạnh phúc, thế nhưng Chúa đã ban cho tôi sự nghèo khó để tôi được khôn ngoan hơn. Tôi đã không nhận được điều tôi kêu cầu, nhưng tôi nhận được niềm hy vọng. Những lời cầu xin mà tôi chưa từng thốt lên, tất cả đều được nhận lời. Bởi vì tất cả đều là hồng ân của Chúa.
Chúng ta không thể quán xuyến mọi sự trong tầm tay vì còn có nhiều nguyên nhân tùy thuộc. Có ba điều cần để thành công trong mọi công việc là thiên thời, địa lợi và nhân hòa. Con người sống chung thì trăm người, trăm ý. Môi trường chung quanh thì thay đổi như mây bay gió thổi. Chỉ có một điều là chúng ta thuận theo ý trời. Chúng ta sẽ sống vui vẻ và hạnh phúc. Trong hạnh các Giáo phụ có kể lại: Một người nông dân hạnh phúc hơn bạn bè xóm làng. Được hỏi lý do tại sao, ông ta trả lời: Các ông đừng ngạc nhiên. Chính vì tôi luôn được thời tiết theo lòng tôi ước muốn. Người kia đáp lại: Không thể được. Người nông dân đáp: Không bao giờ tôi ước muốn thời tiết khác thời tiết Thiên Chúa gởi cho. Vì thế, Chúa luôn ban cho tôi mùa màng như lòng tôi ước nguyện.
Câu truyện của ông Abraham cầu xin Thiên Chúa tha thứ tội lỗi cho dân thành Sôđôm và Gômôra và xin đừng đoán phạt. Sự đối thoại trả giá diễn tả tấm lòng nhân từ của Thiên Chúa. Ông Abraham lý luận theo cách suy tưởng của con người. Ông biết rằng trong đời sống con người, có kẻ tốt, người xấu và kẻ lành, người dữ. Thiên Chúa yêu thương mọi người. Chẳng lẽ Chúa phạt cả kẻ dữ lẫn người lành sao: Abraham lại gần và thưa: “Chẳng lẽ Ngài tiêu diệt người lành một trật với kẻ dữ sao? (Stk 18, 23). Ông Abraham ước muốn Thiên Chúa tha phạt cho cả thành, vì nghĩ rằng có một số người lành đang chung sống giữa họ. Ông thưa: Giả như trong thành có năm mươi người lành, chẳng lẽ Ngài tiêu diệt họ thật sao? (Stk 18, 24). Thiên Chúa ban ơn mưa móc xuống cho cả kẻ lành, người dữ. Người lành thánh có thể giúp người tội lỗi hối cải và người tội lỗi cũng có thể giúp cho người lành phấn đấu sống thánh thiện hơn.
Ông Abraham đã trả giá với Thiên Chúa, từ 50 người lành xuống tới chỉ còn 10 người. Cả thành không kiếm được mười người lành, nên thành Sôđôm phải chịu hình phạt. Chúa nhân từ trong mọi lời Chúa phán và thánh thiện trong mọi việc Chúa đã thực hiện. Chúa sửa phạt rồi Chúa lại tha thứ và đón nhận trở về. Lịch sử ơn cứu độ là một cuộc phấn đấu không ngừng để tinh luyện con dân nên thánh thiện. Ông Abraham hết lời: “Xin Chúa đừng giận, cho con nói một lần này nữa thôi: Giả như tìm được mười người thì sao? Chúa đáp: “Vì mười người đó, Ta sẽ không phá hủy Sôđôm” (Stk 18, 32). Nhân loại tồn tại và Giáo Hội tiếp tục sống còn là nhờ đời sống nhân đức của các bậc thánh nhân, những tín hữu nhiệt thành và những con người thành tâm sống gương mẫu giữa đời. Giáo hội luôn luôn cần những gương sáng để soi dọi cho những ai ngồi trong bóng tối sự dữ và sự chết.
Trong đời sống đạo, chúng ta đặt niềm tin tưởng vào Thiên Chúa là Đấng quyền năng vô cùng. Người ban phát ân sủng cho mọi loài thọ tạo. Thế nên, chúng ta rất quen thuộc với những từ ngữ như cầu nguyện, cầu xin, nguyện xin, cầu bầu, xin ơn, phù trợ và nâng đỡ chở che. Trong tâm tình khiêm hạ và nhận biết thân phận yếu hèn, chúng ta cùng cúi đầu thờ lạy và vâng phục Đấng Tạo Hóa chí công. Chúng ta nên thành tâm cầu xin những ơn cần thiết cho đời sống và phần rỗi của chúng ta. Cầu nguyện là chúng ta nối một nhịp cầu tới Thiên Chúa bằng những lời nguyện xin. Chúa Giêsu đã dạy chúng ta cầu nguyện luôn: Thế nên Thầy bảo anh em: Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho (Lc 11, 9). Một điều quan trọng mà Chúa Giêsu dạy là anh em cứ xin, thì sẽ được. Chúng ta xin Chúa điều gì bây giờ?
Chúa Giêsu đã dậy các tông đồ cầu nguyện qua Kinh Lạy Cha. Phần đầu của Kinh là nguyện sáng danh Thiên Chúa, nhưng phần sau là bốn lời xin: Xin cho chúng con lương thực hàng ngày và xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con và xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ (Lc 11, 4). Thiên Chúa không phải là ông chủ giầu có ngồi chờ chúng ta đến xin để phân phát. Hào bao của Thiên Chúa luôn rộng mở. Tùy thuộc chúng ta có xứng đáng lãnh nhận hay không. Nếu tâm hồn của chúng ta không rộng mở thì ơn Chúa không thể tuôn đổ. Nếu lòng chúng ta chất đầy của cải thế gian thì đâu còn chỗ để nhận lãnh thêm. Khi chén của chúng ta đã đầy tràn những thứ lỉnh kỉnh, làm sao ơn Chúa thấm nhập vào lòng. Khi cầu nguyện, chúng ta có thật lòng cầu xin, hay chỉ đọc ruổi một số những kinh kệ và kể lể một số nhu cầu cần thiết trong cuộc sống và nghĩ rằng Chúa sẽ ban phát mọi ơn.
Ước vọng của con người thì nhiều vô kể và cao sâu. Hầu như không khi nào chúng ta ước muốn cho đủ. Nhu cầu đòi hỏi của tâm linh cũng như thể chất luôn réo gọi vươn tới. Sức lực và khả năng của con người thì giới hạn. Mong ước thì to lớn. Khi chúng ta đã có, lại muốn có thêm. Đường nên thánh còn dài và nhiều chông gai. Đường đời thì cặm bẫy giăng giăng. Đường nào cũng phải phấn đấu không ngừng. Người ta thường nói: Lòng tham vô đáy. Không những lòng tham mà mọi khao khát đều không có cùng. Làm sao chúng ta có thể: Tri túc tiện túc, đãi túc, hà thời túc. Biết đủ là đủ. Bao nhiêu mới là đủ chứ? Cuộc sống quá hấp dẫn gọi mời chúng ta tiến thân. Sống một ngày, mong thêm một bước. Cuộc đời là dòng chảy luôn luôn có cái mới. Điều mới mẻ giúp chúng ta hy vọng và sống vui. Nên chúng ta cứ phải cầu xin hoài.
Mấy ai trong chúng ta khi cầu nguyện mà không xin ơn. Ngay cả những người không tin có Thượng Đế hay quyền lực nào bên trên, họ vẫn cầu xin khấn vái cho được mọi sự lành. Người ta chỉ chối từ sự hiện hữu của thần linh, thiên thần, linh hồn trong lý thuyết, nhưng nơi cuộc sống thường ngày, họ cũng vẫn mong cầu thần phật gia hộ cách này hay cách khác. Có khi còn rơi vào sự mê tín dị đoan, tin vào bói khoa, bói toán, bói quẻ, chim kêu, gà gáy, xem tướng, chỉ tay vận số, xin sâm và cả cầu thần dữ để chế ngự. Ngày tư ngày Tết, ngày Rằm, Lễ Hội, vố số người, dù không tin thần linh, họ cũng say mê cúng vái hoa qủa, nhang hương, lẩm rẩm nguyện cầu và xin cho người an bình thư thái và làm ăn phát tài phát đạt. Hằng ngày chúng ta cũng thường cầu nguyện với rất nhiều ý cầu xin. Cầu xin cho sự tốt lành trong gia đình, mọi người khỏe mạnh, làm ăn may mắn và mọi sự bình an xác hồn.
Đôi khi chúng ta cầu xin theo kiểu trừ hao. Xin mười Chúa sẽ ban cho một. Với lòng thành, chúng ta xin những ơn cần thiết cho sự sống và phần rỗi. Chúa bao dung độ lượng sẽ không quay mặt làm ngơ. Thánh Luca viết: Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?(Lc 11, 13). Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy bền tâm và tỉnh thức cầu nguyện. Chúa đã nêu gương cầu nguyện luôn để kết hợp với Chúa Cha. Chúng ta cùng cầu nguyện như Chúa dạy và xin những ơn cần thiết nhân danh Chúa Giêsu Kitô.
Trong thơ gởi tín hữu Côlôsê, thánh Phaolô đã xác tín về hồng ân ơn cứu độ của Chúa Kitô: Người đã xóa sổ nợ bất lợi cho chúng ta, số nợ mà các giới luật đã đưa ra chống lại chúng ta. Người đã hủy bỏ nó đi, bằng cách đóng đinh nó vào thập giá (Col 2, 14). Chúa Kitô đã giao hòa chúng ta với Thiên Chúa Cha qua sự hiến tế của Ngài trên thập giá. Máu Thánh đã xóa sạch lỗi lầm và ban cho chúng ta được phúc làm con và cùng đồng chia sẻ vinh quang sự sống.
Lạy Chúa, Chúa là chủ tể mọi loài. Chúa cho mặt trời soi chiếu trên kẻ lành người dữ. Chúa tiếp tục ban phát hồng ân cho mọi loài. Xin cho chúng con biết tỏ lòng trông cậy vào Chúa là nguồn mọi phúc lộc. Chúng con thờ lạy, cảm tạ và hát ca danh Chúa đến muôn muôn ngàn đời.
(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Nhà thần bí Hồi Giáo tên là Farid, đến kinh đô Delhi để xin hoàng đế Akbar ban cho dân làng một ân huệ. Farid đến cung điện và gặp lúc Akbar đang đắm mình cầu nguyện.
Khi hoàng đế cầu nguyện xong, Farid hỏi: “Nhà vua vừa cầu nguyện như thế nào?”
Nhà vua đáp: “Ta cầu xin Đấng nhân từ ban cho ta sự thành công, giàu có và được sống lâu.
Vừa nghe xong, Farid liền quay lưng lại và bỏ đi. Vừa đi ông vừa nói: “Ta đến gặp một vị vua. Thế mà ta lại gặp một kẻ ăn xin, không khác gì những hạng người khác!”.
***
Thật vậy, cầu nguyện không chỉ là cầu xin, cũng không phải là bảng liệt kê ước muốn mà cầu nguyện chính là tôn thờ, thống hối, cảm tạ và xin ơn. Trong kinh Lạy Cha, Chúa dạy chúng ta qua bài Tin Mừng hôm nay bao gồm bốn tâm tình đó.
Chúng ta thờ phượng, ca ngợi, tôn vinh Chúa trong câu đầu tiên: “Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, triều đại Cha mau đến” (Lc 11,2).
Sau đó chúng ta bày tỏ tâm tình thống hối bằng lời xin lỗi: “Xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con” (Lc 11,4).
Rồi chúng ta cảm tạ Chúa ngay trong tâm tình thờ phượng, vì khi ca ngợi tôn vinh Chúa thì đồng thời chúng ta cũng mặc nhiên cảm tạ những hồng ân Người ban.
Cuối cùng, tâm tình cầu xin được biểu lộ trong câu: “Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy” (Lc 11,3), và “xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ” (Lc 11,4).
Như thế, Kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt vời, vì đã đặt sự cao trọng, vinh danh, và thánh ý Chúa trên hết, sau đó mới xin cho các nhu cầu của chúng ta, nên rất được Chúa Cha ưa thích.
Kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt vời, vì chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha, còn chúng ta là con cái của Người; chúng ta xin Cha ban ơn không những phần xác mà cả phần hồn; chúng ta xin Cha không chỉ tha tội trong quá khứ mà còn gìn giữ cho khỏi sa chước cám dỗ ở tương lai, nên chắc chắn sẽ được Chúa Cha đón nhận.
Sau khi đã dạy chúng ta lời kinh tuyệt vời đó, Người còn khuyên chúng ta hãy kiên nhẫn và trông cậy mà cầu nguyện.
* Phải kiên nhẫn trong khi cầu nguyện là để tăng thêm ước muốn của chúng ta, và cũng là để tăng thêm giá trị ơn Người sẽ ban. Nếu chúng ta không nhận được điều mình xin, thì không phải là Chúa không sẵn sàng ban ơn, nhưng có thể điều cầu xin ấy không mang lại ích lợi cho linh hồn chúng ta, hoặc Người muốn dành cho chúng ta một ơn lớn lao hơn. Cho dù sự đáp trả của Chúa không như lòng chúng ta mong ước hay không đúng lúc chúng ta mong đợi, thì đó cũng là bởi sự khôn ngoan và lòng yêu thương của một người Cha đầy tình nhân ái.
* Phải trông cậy trong khi cầu nguyện vì Chúa đã hứa: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ thì sẽ mở cho” (Lc 11,9). Mẹ Têrêxa Calcutta đã chia sẻ kinh nghiệm này như sau: “Chúng tôi có hơn một ngàn tu sĩ, và còn phải nuôi ăn hàng chục ngàn người. Thế mà, chưa bao giờ chúng tôi phải từ chối bất cứ một ai đến xin giúp đỡ. Chúa luôn can thiệp kịp thời để cho chúng tôi thấy rằng Người không bao giờ làm ngơ trước lời cầu nguyện của chúng ta”.
Lạy Chúa, xin nhắc chúng con siêng năng dùng Kinh Lạy Cha mà cầu nguyện với Cha trên trời. Nhất là xin Chúa mở rộng tâm hồn hẹp hòi ích kỷ của chúng con, để biết cầu nguyện cho các nhà truyền giáo, những người nghèo khổ, những kẻ tội lỗi và những người thân yêu của chúng con. Amen.
Các Tông đồ đã nhiều lần thấy Chúa Giêsu cầu nguyện. Có lẽ khi Người cầu nguyện, có một cái gì đó thật đẹp, thật huyền bí và cũng thật lôi cuốn toả ra. Vì thế, các Tông đồ xin Người dạy cách cầu nguyện. Và Người đã dạy các ông cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha. Kinh Lạy Cha mạc khải cho ta hai điều quan trọng.
Có lẽ vì đã đọc thuộc lòng Kinh Lạy Cha một cách máy móc nên ít khi ta cảm nhận được hết ý nghĩa thâm sâu nằm trong từ ngữ “Cha”.
Một người bạn có đứa con đầu lòng tâm sự: “Lần đầu tiên khi nghe đứa con gọi “Ba ơi”, tôi bủn rủn cả tay chân. Một luồng điện cực mạnh chạy khắp thân thể. Tôi cảm thấy hạnh phúc vô cùng”. Quả thực, mối liên hệ Cha-Con là một mối liên hệ rất thâm sâu, huyền bí và thân thiết.
Gọi ai là Cha tức là nhận người ấy là ân nhân lớn nhất đời mình. Vì nhờ Cha, ta nhận được món quà tặng quí giá nhất đó là sự sống. Có những người cha không chỉ sinh con về mặt thể xác mà còn cho con một đời sống tinh thần. Đó là những người Cha có nhân cách lớn, kiên trì đúc nặn nên những đứa con có tâm hồn cao đẹp, có lý tưởng, có tư cách làm người.
Cha không chỉ là nguồn cội phát sinh nhưng còn là vòng tay nâng đỡ, là mái ấm chở che, là động lực thúc đẩy, là lý tưởng mời gọi. Nói tóm lại, từ ngữ “Cha” gợi lên cả một trời yêu thương vừa thân thiết vừa huyền nhiệm không bút nào tả xiết được.
Khi mạc khải cho biết Thiên Chúa là Cha, Chúa Giêsu đã đưa ra một hình ảnh về Thiên Chúa hoàn toàn khác với hình ảnh các vị thần của các tôn giáo khác. Không những Người cho ta thấy Thiên Chúa Cha yêu thương ta vô cùng, mà còn muốn ta đi vào tình nghĩa thâm sâu, tha thiết với Cha. Vì thế, Người đã dạy ta tiếng “Abba” là tiếng gọi “Ba ơi” rất thân thương của một đứa trẻ vừa nũng nịu, vừa tin tưởng, phó thác mọi sự trong tay Cha.
Trong Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy ta cầu nguyện: Lạy Cha chúng con… Xin Cha cho chúng con… Chứ không dạy ta đọc: Lạy Cha của con… Xin Cha cho con… Nghĩa là tất cả mọi người có cùng một Cha. Mọi người đều thuộc về một gia đình Thiên Chúa. Là anh em nên phải có tình yêu thương đoàn kết, liên đới với nhau. Liên đới trong đời sống, liên đới trong cả lời cầu nguyện.
Một lần dâng lễ chung với những người bạn Mỹ, tôi đã hỏi họ trong giờ chia sẻ: Hằng ngày các bạn vẫn đọc Kinh Lạy Cha. Vậy khi đọc câu “Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày” các bạn cầu xin điều gì? Vì ở Mỹ tôi thấy lương thực dư thừa, không ai phải chết đói. Họ trả lời: Chúng tôi vẫn đọc Kinh Lạy Cha. Và với câu “Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày” chúng tôi vẫn cầu xin tha thiết. Vì tuy chúng tôi đã đủ ăn đủ mặc, chúng tôi vẫn nhớ đến những anh em bên Phi châu, bên Àu châu đang phải đói khát khổ sở.
Câu trả lời thật chính xác. Vâng, chúng ta là anh em nên phải liên đới, có trách nhiệm về nhau. Trong bài đọc 1 hôm nay, tổ phục Abraham đã nêu gương liên đới khi tha thiết cầu nguyện cho thành Sođoma khỏi bị phạt.
Nếu trong gia đình đứa em út yếu đuối bệnh tật luôn được thương yêu cưng chiều, thì trong kinh nguyện, ta cũng phải ưu tiên cầu nguyện cho những anh em bé nhỏ trước hết.
Nếu lời cầu nguyện của ta là lời của đứa con nhỏ nói với Cha, và là tâm tình liên đới yêu thương với mọi anh em trên khắp thế giới, lời cầu nguyện ấy sẽ rất đẹp và Thiên Chúa sẽ hài lòng.
Lạy Cha chúng con ở trên trời, xin thương xót chúng con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Bạn có thực sự cảm thấy Chúa là Cha và sống với Người như người con hiếu thảo không?
2- Thiên Chúa là Cha tốt lành. Người chỉ ban cho ta những điều tốt. Có khi nào Bạn gặp thất bại khổ đau mà bạn thấy lòng tốt của Thiên Chúa không?
3- Bạn cầu nguyện cho người kém may mắn, nhưng bạn có sẵn sàng chia sẻ với họ không?
(Suy niệm của Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc)
Tin mừng Lc 11: 1-13: Nếu phải cầu xin thì chúng ta phải cầu xin một cách kiên trì với một xác tín, tin tưởng vào tình thương của Cha trên trời, Ngài tốt lành, nhân hậu hơn Cha dưới đất vô cùng.
Một buổi sáng kia, một cô giáo dạy vườn trẻ chưng một bình hoa thủy tiên thật đẹp trên chiếc bàn đặt ở giữa phòng. Khi các em bé nhỏ thơ ngây tung tăng tiến vào phòng học, có một em tròn xoe đôi mắt nhìn ngắm những cánh hoa màu vàng lợt và em nói với cô giáo:
“Thưa cô, có phải Chúa đã làm ra những bông hoa nầy không cô? Em muốn gọi điện thoại để cám ơn Chúa đã cho chúng ta những cánh hoa đẹp như thế nầy!”
Nếu đất với trời được nối kết với nhau bằng dây điện thoại, thiết nghĩ Thiên Chúa sẽ phải đặt ra hai đường dây: một đường dây cho những lời cầu xin và một đường dây dành cho những lời cám ơn. Và người ta sẽ thấy một đường điện thoại luôn luôn bận rộn, trong khi đường dây kia thỉnh thoảng mới được dùng đến, như một chuyện ngụ ngôn kia thuật lại như sau:
Hai thiên thần được sai xuống trần gian, mỗi vị mang theo một chiếc giỏ. Họ chia tay nhau để đi khắp hang cùng ngỏ hẻm, đến nhà các người giàu có cũng như nhà những người nghèo khổ, thăm các trẻ em cầu nguyện tại tư gia cũng như tất cả nam phụ lão ấu cầu nguyện tại các nhà thờ.
Sau một thời gian, hai Thiên thần gặp nhau đúng thời điểm đã hẹn để trở về trời. Chiếc giỏ của một Thiên thần nặng như chì, còn chiếc giỏ của Thiên thần kia có vẻ như đựng toàn bông gòn.
– “Ông mang gì mà nặng nề thế?”, một Thiên thần hỏi.
Thiên thần mang giỏ nặng trả lời:
– “Tôi được sai đến để thu nhận tất cả những lời cầu xin của nhân loại. Còn ông, cái giỏ của ông xem ra nhẹ nhàng thế?”
– “À, tôi được sai đến để góp nhặt những lời thiên hạ cám ơn Chúa vì những ơn lành Ngài luôn ban cho họ.”
Thì ra, chiếc giỏ thu nhận lời cầu xin luôn nặng hơn chiếc giỏ thu nhận lời cám ơn. Cũng thế, đường dây điện thoại để xin ơn thì luôn bận rộn, còn đường dây để cám ơn thì không mấy khi có người gọi.
Phải, thưa anh chị em, thường thì chúng ta chỉ biết cầu xin hơn là cầu nguyện. Bởi vì cầu nguyện luôn bao gồm cả lời chúc tụng tôn vinh và cảm tạ tri ân Thiên Chúa. Hôm nay, Chúa dạy chúng ta cầu nguyện. Cầu nguyện là thưa chuyện với Chúa như con cái nói với cha mẹ. Cầu nguyện chủ yếu là một cuộc gặp gỡ, tiếp xúc, kết hiệp thân tình với Thiên Chúa.
Chính Chúa Giêsu khi còn sống ở trần gian cũng đã cầu nguyện, và Ngài đã dạy các môn đệ phải cầu nguyện luôn. Cũng chính Ngài đã đưa ra một “kinh nguyện mẫu” mà chúng ta gọi là “Kinh Lạy Cha” – đúng hơn là “Kinh nguyện của Chúa” để cho chúng ta biết phải cầu xin những điều gì và cầu nguyện như thế nào.
Vậy chúng ta phải cầu xin những điều gì?
Nói một cách vắn gọn, chúng ta phải cầu xin những gì phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa. Ý muốn của Thiên Chúa trước hết là cho mọi người nhận biết Ngài là Cha của tất cả mọi người, và trong Ngài, tất cả mọi người đều nhận ra nhau là anh em. Những gì là chia rẽ, hận thù, bóc lột, chém giết nhau đều đi ngược lại ý muốn của Cha trên trời. Bởi vì, làm sao có thể mở miệng gọi Thiên Chúa là Cha của chúng ta được khi chúng ta không muốn yêu thương người khác như âe của mình; và ngược lại, làm sao có thể nhận ra mọi người là anh em của mình được, khi chúng ta không nhìn nhận có một Cha chung của chúng ta ở trên trời: “Lạy Cha, chúng con là Đấng ngự trên trời”.
Ý muốn của Thiên Chúa còn là “cho chúng ta hôm nay lương thực hàng ngày”, có nghĩa là Thiên Chúa muốn cho mọi người trên trái đất, không phân biệt chủng tộc, màu da, tiếng nói, đều có đủ cơm ăn áo mặc, cũng như được hưởng tiện nghi của nền văn minh hiện đại, chứ không phải chỉ một số rất ít người chiếm hữu hết tài sản trên thế giới, đang khi đại đa số còn lại chỉ được hưởng một phần quá nhỏ trong cảnh lệ thuộc. Ngài cũng chẳng muốn cho một thiểu số sống xa hoa lãng phí, trong khi đồng loại phải thiếu nhà ở, thiếu cơm bánh, áo quần, thuốc men; phải đói khát, dốt nát, ăn xin, nắm đường xó chợ… Nói chung là thiếu những điều kiện tối thiểu để sống cho ra con người.
Ý muốn của Thiên Chúa còn là chúng ta phải tha thứ cho nhau, vì chính bản thân chúng ta cũng là kẻ có tội cần được tha thứ. “Xin Cha tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con.” Như vậy, cầu nguyện là đồng hóa ý muốn của mình với ý muốn của Thiên Chúa và phải hành động để ý muốn của Chúa được thể hiện trên mặt đất nầy: “Xin cho ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Thế nhưng, chúng ta thường chỉ biết cầu xin hơn là cầu nguyện, và có những lời cầu xin hết sức vụ lợi, ích kỷ. Chẳng hạn xin cho “trúng tuyển, trúng số, trúng mánh…” Hoặc chúng ta chỉ nghĩ đến Chúa khi chán nãn, thất vọng, để than thở, kể lể, như bắt Chúa phải thông cảm những nỗi ấm ức trong lòng mình. Còn gì vô lý và sai lầm hơn khi chúng ta cứ coi Thiên Chúa như một “Thần Tài”, như một “Thủ kho” để xin Ngài những nhu cầu mà đúng ra, với tự do, khối óc và hai bàn tay Chúa ban cho, chúng ta phải tự làm lấy, tự xoay xở lấy với sự trợ giúp của Chúa và dưới ánh mắt yêu thương của Ngài. Nếu chỉ cầu xin bằng môi miệng mà chẳng chịu làm gì cả, thì lời cầu xin đó có khác gì những bùa chú, phù phép của hạng người mê tín dị đoan: Xin cho có lương thực hằng ngày mà mình cứ ngồi không, hoặc nằm ngữa chờ sung rụng, thì làm sao có lương thực được? Hoặc xin cho mọi người được ấm no hạnh phúc, mà mình cứ áp bức, bóc lột, làm điều bất công, hay là cứ để cho những chuyện bất công ấy lan tràn mà không chịu tranh đấu để đòi hỏi công bình, đòi quyền sống của con người, thì làm sao có ấm no, hạnh phúc, hòa bình được? Chính vì thái độ nầy mà nhiều khi tôn giáo bị mang tiếng là mê tín, là thuốc phiện ru ngủ dân chúng!
Vậy, thưa anh chị em, chúng ta phải cầu xin như thế nào?
Nếu phải cầu xin thì chúng ta phải cầu xin một cách kiên trì với một xác tín, tin tưởng vào tình thương của Cha trên trời, Ngài tốt lành, nhân hậu hơn Cha dưới đất vô cùng. Vì người đời mà còn cho bạn bè vay mượn khi bạn bè năn nĩ, khuấy rầy, huống chi là Thiên Chúa, Ngài là người Cha yêu thương mọi người, con cái, chắc chắn sẽ ban cho ta điều chúng ta cầu xin: “Hãy xin, sẽ được; hãy tìm, sẽ thấy; hãy gỏ, sẽ mở”. Người cha nào mà không giúp đỡ con cái khi cần thiết, không cung cấp những điều thích hợp khi chúng đã xin. Chúa là Cha nhân từ, Ngài cũng không thể làm khác được, nhất là chẳng bao giờ cho cái gì sinh nguy hại cho con cái. Bởi vậy, điều chúng ta xin Thiên Chúa phải là điều thích hợp, vì Thiên Chúa muốn ban cho chúng ta “bánh” chứ không cho “hòn đá”; muốn ban “cá” chứ không cho “con rắn”, muốn ban “trứng” chứ không cho “bọ cạp”. “Hãy xin sẽ được”, nhưng với điều kiện là xin những gì thực sự giúp đời sống thêm tốt đẹp, tìm những gì dẫn đến ơn cứu độ, đạt đến cứu cánh tuyệt đối của con người, đồng thời phải kết hợp giữa sự giúp đỡ của ơn Chúa với việc làm trong khả năng Chúa đã ban cho mỗi người.
Cuối cùng, ơn đặc biệt mà Chúa sẽ ban cho những ai xin Ngài đó là Thánh Thần, vì Thánh Thần sẽ là Đấng cầu xin trong chúng ta, bảo đảm lời cầu xin là xác đáng, và cũng chính Ngài sẽ ban cho chúng ta những ơn cần thiết, vì Ngài là ơn huệ của Thiên Chúa ban cho loài người.
Anh chị em thân mến,
Phụng vụ Thánh lễ là dịp tốt nhất giúp chúng ta cầu nguyện có hiệu lực. Vì chúng ta cầu nguyện chung với cả Giáo Hội, chúng ta cầu nguyện theo lời Chúa truyền dạy, chúng ta cầu nguyện nhờ công ơn vô cùng của Chúa Kitô, với Người và trong Người. Xin cho chúng ta biết cầu nguyện và xin Chúa nhận lời cầu xin của chúng ta và của tất cả mọi người.
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, tôi muốn chia sẻ một vài ý tưởng đơn sơ về sự cầu nguyện. Vậy trước hết cầu nguyện là gì?
Như chúng ta đã biết cầu nguyện là dừng lại trong giây lát mọi băn khoăn lo lắng, để thưa chuyện với Chúa, để nâng tâm hồn lên hầu thờ lạy và cảm tạ Ngài, đồng thời kêu xin những ơn lành hồn xác.
Từ câu định nghĩa này chúng ta thấy cầu nguyện không phải chỉ là cầu xin, mà trước hết phải là chu toàn những bổn phận của con người đối với Thiên Chúa. Thế nhưng tại sao chúng ta lại phải cầu nguyện?
Trước hết, bởi vì chúng ta chỉ là những tạo vật của Thiên Chúa. Không có Ngài chúng ta không thể tồn tại. Hơn thế nữa, mục đích cuối cùng chúng ta phải theo đuổi trong cuộc sống hiện tại là tìm về quê hương Nước Trời. Muốn đạt tới mục đích cuối cùng ấy, thì ngay từ bây giờ chúng ta phải phụng sự và tôn vinh Ngài.
Đưa mắt nhìn vào vũ trụ, chúng ta nhận thấy từ một giọt sương mai cho đến các vì tinh tú, tất cả đều nói lên quyền năng Thiên Chúa khi tôn trọng những luật lệ mà Thiên Chúa đã an bài sắp xếp. Bởi đó người ta thường nói: Thiên nhiên là một cuốn sách mà mỗi trang của nó đều cho chúng ta được biết về Thiên Chúa. Và như vậy con người chúng ta, một tạo vật tuyệt vời của Thiên Chúa, lại càng phải ca tụng Ngài hơn nữa. Thế nhưng với trí khôn và ý muốn Thiên Chúa đã trao ban, tại sao chúng ta lại không nhận biết Ngài, lại không ca tụng Ngài?
Tiếp đến sở dĩ chúng ta phải cầu nguyện bởi vì Thiên Chúa là Cha chúng ta. Đây là điều mà chính Chúa Giêsu đã tỏ lộ. Ngài nói: Khi cầu nguyện, các con hãy thưa lên: Lạy Cha chúng con ở trên trời.
Thiên Chúa là một người Cha nhân từ, hằng yêu thương chăm sóc chúng ta. Nhờ Ngài, chúng ta mới có được những phương tiện vật chất; nhờ Ngài, chúng ta mới có được những khả năng phần hồn; nhờ Ngài, chúng ta mới có được ơn cứu độ… Vậy tại sao chúng ta lại không biết ơn và cảm tạ Ngài? Thiên Chúa lạ vị ân nhân vĩ đại. Ngài chờ đón nơi chúng ta một câu nói tuyệt vời: Lạy Chúa con yêu mến Chúa. Như vậy khi cầu nguyện, chúng ta bày tỏ niềm biết ơn cũng như tình yêu đậm đà của chúng ta đối với Ngài.
Người ta kể lại trong cuộc chiến tranh tại Algérie, có một viên sĩ quan người Pháp bị bắt làm tù bình. Suốt thời gian bị giam giữ, viên sĩ quan ấy luôn bị một tên lính Ả Rập rủa xả là đồ chó. Bực tức trước lời rủa xả ấy, viên sĩ quan đã lên tiếng:
– Tại sao ngươi lại chửi ta là đồ chó. Ta là một tù binh, điều đó đúng lắm, nhưng ta cũng là người như ngươi.
Tên lính Ả Rập nhìn viên sĩ quan một cách khinh bỉ và nói:
– Ngươi mà cũng đòi là người ư? Đã sáu tháng rồi, ta không hề thấy ngươi cầu nguyện, thế mà ngươi cũng dám mở miệng tự xưng là người hay sao? Là người mà không cầu nguyện cùng Thiên Chúa, thì cũng chỉ là đồ chó mà thôi.
Câu trả lời thật cứng cỏi nhưng cũng đáng cho chúng ta suy nghĩ. Bởi vì người là một con vật có trí khôn. Với trí khôn chúng ta nhận biết có Thiên Chúa. Và một khi đã nhận biết có Thiên Chúa thì tại sao chúng ta lại không ca tụng Ngài.
Để kết luận tôi xin mượn lời sau đây của thánh nữ Jeanne d’Arc: Thiên Chúa phải được phục vụ trước nhất, có nghĩa là bổn phận cầu nguyện phải là bổn phận hàng đầu trong cuộc sống chúng ta.
(Suy Niệm của Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên)
Có nhiều định nghĩa khác nhau về cầu nguyện. Có người định nghĩa đơn giản là nâng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa. Người khác cho cầu nguyện là thương lượng với Thiên Chúa. Người khác nữa cho cầu nguyện là nói chuyện với Thiên Chúa như hai người bạn nói chuyện với nhau. Và cũng có những người cho cầu nguyện là cầu xin những gì mình đang túng thiếu và cần Thiên Chúa ban ơn. Tất cả những định nghĩa trên đây nói lên một khía cạnh của cầu nguyện, tổng hợp tất cả cho chúng ta cái nhìn toàn bộ về việc cầu nguyện.
Trong Phúc Âm, Thiên Chúa dạy cho các môn đệ biết cách cầu nguyện cách xứng hợp qua Kinh Lạy Cha, và hai thái độ cần có trong khi cầu nguyện là tin tưởng và kiên trì.
Có hai sự khác biệt giữa kinh Lạy Cha của Luca và Matthêu: Thứ nhất, trình thuật của Luca thiếu câu “ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.” Thứ hai, trình thuật của Luca cũng thiếu câu “xin cứu chữa chúng con khỏi sự dữ.”
Cả hai trình thuật đều đặt sự quan trọng của việc cầu xin cho Danh Chúa được cả sáng và Nước Chúa được trị đến, trước khi hướng tới những nhu cầu căn bản của con người. Lương thực hằng ngày, sự tha thứ, và sức mạnh để vượt qua mọi cơn cám dỗ là ba điều quan trọng trong đời sống thường nhật của một Kitô hữu.
– Kiên trì: Ví dụ Chúa Giêsu đưa ra có mục đích đòi hỏi con người phải có thái độ kiên khi cầu nguyện. Truyền thống Do-thái rất hiếu khách, nhất là những khách từ xa tới. Người kêu xin bị đặt trong thế kẹt: một là chịu thất lễ với khách, hai là chịu làm phiền hàng xóm, anh đã chọn giải pháp thứ hai để bảo vệ sự sống cho người bạn mình.
Nhà của người Do-thái ngày xưa không rộng mà nhân số trong nhà lại đông, nên cả gia đình thường ngủ chung dưới sàn trên chăn chiếu. Vì thế, nếu một người phải thức và ra mở cửa sẽ làm cho những người khác phải thức theo. Đó là lý do người hàng xóm từ chối lúc đầu; nhưng khi anh bạn có khách cứ gõ và nói mãi, anh phải chỗi dậy lấy bánh cho mượn, không phải vì tình bạn; nhưng vì sự lỳ lợm của anh. Lúc này, chắc những người trong gia đình đang ngủ chung cũng đã thức dậy hết!
– Tin tưởng: Thái độ này còn quan trọng hơn cả thái độ kiên trì, vì nó là động lực giúp con người chạy đến với Thiên Chúa. Hầu như trong tất cả các phép lạ, Chúa Giêsu chỉ làm khi Ngài nhận thấy có dấu chỉ của niềm tin. Ngài từ chối không làm bất cứ phép lạ nào khi chỉ thấy sự cứng lòng hay thử thách.
Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ so sánh người Cha trên trời với các người cha dưới đất: “Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó? Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp? Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta có bổn phận cầu xin Thiên Chúa cho những người tội lỗi được ăn năn trở lại, vì đó là điều đẹp lòng Thiên Chúa.
– Đức Kitô là căn nguyên của tha thứ, hòa giải, và mọi ơn lành. Để lời cầu nguyện chúng ta được Thiên Chúa lắng nghe, chúng ta phải cầu xin nhờ danh và công nghiệp của Ngài.
– Để lời cầu nguyện có hiệu quả, chúng ta cần có thái độ tin tưởng và kiên trì nơi Thiên Chúa. Chúng ta cứ việc cầu xin mọi sự đẹp ý Thiên Chúa, nhưng phải sẵn lòng để chấp nhận thánh ý của Ngài.
Kiên tâm, bền chí là ý tưởng chính trong bài Phúc Âm hôm nay. Dụ ngôn người bạn nửa đêm đến gõ cửa xin thực phẩm cho người bạn khác cho thấy chính nhờ kiên tâm bền chí giúp anh đạt được điều anh mong muốn. Câu chuyện này cũng cho chúng ta thấy mức độ khác nhau trong tình bạn. Tất cả có ba người đều là bạn của nhau. Hai người đầu có vẻ nghèo và người thứ ba có của ăn, của để. Họ nghèo thực sự, ngay cả trường hợp khẩn cấp bạn đến bất tử vào đêm khuya mà trong nhà không có gì cho bạn ăn chống đói. Người kia có lẽ cũng nghèo không tiền mua thực phẩm trên đường đi. Tình bạn thân thiết, chân tình như thế quả hiếm thấy. Người bạn thứ ba có dư của ăn hay ít nhất còn có thực phẩm trong kho. Anh từ chối giúp bạn không phải vì không có để giúp mà đưa ra lí do cửa đã gài then, anh đã lên giường, con cái ngủ say không muốn phiền. Người gõ cửa cảm thông với anh vì những phiền toái đó nhưng anh lâm vào tình trạng túng quẫn không lối thoát. Anh muối mặt tiếp tục gõ xin thực phẩm. Tiếng gõ không làm người bạn mở cửa mà chính là nhờ anh bền chí, kiên trì xin cho bằng được. Kiên tâm, bền chí giúp anh đạt được điều mong muốn, dù gặp khó khăn, tủi nhục.
Thực tế cho thấy có thành công đáng giá nào mà không phải trả giá. Giá càng cao thành công càng rực rỡ. Nhiều năm chăm chỉ học hành mới có kiến thức sống đời. Đôi khi phải cố gắng, chuyên cần gần như vượt quá khả năng để có thể thành công trên đời.
Trong phục vụ tha nhân cũng cần kiên trì. Kẻ thù chính của kiên trì là cám dỗ bỏ cuộc. Lí do chính vì ma quỷ cũng dùng biện pháp tương tự nên chúng rất sợ người Kitô hữu kiên tâm, bền chí trong đức tin. Biện pháp chính của ma quỷ là lì ra, ù lì hay đấu lì. Vì thế cơn cám dỗ thường đến rồi đi rồi lại đến năm lần, bảy lượt nó vẫn đến. Mày chai, mặt đá đến thế. Khi nói đến đấu lì là nói đến vượt quá mọi lí luận hợp lí bình thường. Kẻ đấu lì mong đạt mục đích đen tối, bất kể tai hại gây cho người khác. Trong khi kiên tâm, bền chí cũng là cách ‘đấu lì’ nhưng mục đích mang lợi ích cho người khác, thành tâm vì yêu mến chân thành. Đó là điều khác biệt giữa đấu lì và kiên tâm, bền chí.
Một khi bị cám dỗ Kitô hữu cần kiên tâm trong cầu nguyện. Bền vững trong đức tin. Ai có thể nói kiên tâm cầu nguyện, bền vững trong đức tin là xấu. Điều bình thường xảy ra cho mọi người đó là khi phục vụ và làm chứng nhân cho Chúa, lúc tinh thần cao vời, lúc ngất ngưởng, chao đảo và lúc mệt mỏi, chồn chân, mỏi gối muốn bỏ ngang. Muốn bỏ ngang là một cám dỗ xem có vẻ vô hại nhưng là rất hại, đại hại. Kiên tâm bền chí là kẻ thù của bỏ ngang. Người bền đỗ đến cùng là người kiên tâm trong cầu nguyện, bền vững trong đức tin, dù ngay cả khi muốn bỏ ngang vẫn cố gắng trung kiên, bền chí. Điều rõ ràng là đau khổ, khó khăn đến rồi đi, mà không bao giờ đến ở vĩnh viễn trong ta. Đừng tưởng rằng mọi hy sinh cố gắng phục vụ của mình như sóng biển đại dương biếng mất sau tiếng vỗ bờ. Dù sóng biển có biến mất sau tiếng vỗ nó cũng làm thay đổi bờ cát. Kiên tâm bền chí cũng vậy có sức mạnh chuyển dời mọi cám dỗ. Với kiên trì trong cầu nguyện ơn Chúa chắc chắn thắng mọi cám dỗ của tà thần.
Học từ ơn khôn ngoan của người bạn nghèo kiên tâm, bền chí xin thì sẽ được, gõ thì sẽ mở cho. Người kiên tâm luôn là người thành nhân.
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Năm 1998, khi tương quan Mỹ và Irac căng thẳng cực độ, Tổng thư ký Liên hợp quốc Kofi Annan đã tới Bagđad để thuyết phục Irac ký vào thoả ước hoà bình. Ông đã thành công, chiến tranh không xảy ra ở vùng Trung Đông. Khi trở về, phóng viên báo chí hỏi: Ông đã làm gì trước chuyến đi? Ông trả lời rất chân thật: Tôi cầu nguyện suốt đêm.
Thân xác cần hơi thở để sống. Cầu nguyện là hơi thở của linh hồn. Qua đời sống cầu nguyện, sẽ có một cuộc gặp gỡ thân mật gần gũi giữa cá nhân với Chúa.
Không ít người sớm thất vọng vì cầu xin hoài mà không được. Có người cảm thấy chán nản, khó khăn, thiếu hứng thú, mất thời giờ khi cầu nguyện. Những hoạt động, những tiếp xúc với thế giới hữu hình vẫn luôn hấp dẫn so với thế giới vô hình, thành thử đời sống cầu nguyện ngày càng mờ nhạt.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy kiên trì cầu nguyện và cầu nguyện với tâm tình lắng nghe, đừng nhàm chán.
Cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và Tổ phụ Abraham như là lời nhắc nhở và mẫu gương của đời sống cầu nguyện: kiên tâm bền chí, khiêm nhường cậy trông và mở lòng với tha nhân. Vì muốn cứu hai thành phố đồi truỵ Sôđôma và Gômôra, Abraham đã dám mặc cả với Thiên Chúa. Ông khởi sự bằng việc xin đưa người lành ra khỏi thành trước khi lửa Trời rơi xuống.
Lời cầu của Abraham là cho người tội lỗi, để cứu người tội lỗi cần có người lành. Ông bắt đầu lý luận với Thiên Chúa: Chẳng lẽ Chúa sắp tiêu diệt người công chính cùng với kẻ tội lỗi sao. Nếu có 50 người công chính trong thành họ cũng chết chung sao? Chúa không tha thứ cho cả thành vì 50 người công chính đang ở đó hay sao?
Một loạt câu hỏi được nêu lên để rồi cuối cùng đã kết bằng một lời thỉnh cầu: Xin Chúa đừng làm như vậy, đừng sát hại người công chính cùng với kẻ dữ. Lời thỉnh cầu đó trở nên tha thiết, chân tình và đầy lòng khiêm tốn: Dù tôi chỉ là tro bụi tôi cũng xin thưa cùng Chúa, nếu trong số 50 người công chính đó lại thiếu vắng 5 người thì sao? Cuộc mặc cả đã đi từ con số 50 người lành xuống đến 45 rồi 40, 30, 20 và cuối cùng là 10. Chỉ cần 10 người công chính thôi tất cả mọi người sẽ được tha thứ, tiếc là 10 người cũng chẳng tìm ra!!!
Không hiểu sao Abraham không tiếp tục xin Chúa tha thứ cho dân thành nếu như không tìm được 10 công chính. Phải chăng vì ông cho rằng đây là con số nhỏ quá rồi so với con số quá lớn những người tội lỗi? Hay Abraham chưa hiểu thấu được chiều kích vô biên của lời cầu nguyện cũng như lòng thương xót bao la của Thiên Chúa?
Thiên Chúa luôn vui lòng trước lời cầu nguyện chân thành, bền bỉ, tin tưởng và cậy trông của con người. Ngài sẵn sàng ban ơn cho những ai có tâm tình nguyện cầu như thế.
Thiên Chúa đã phán trong sách Edêkien và sách Giêrêmia: nếu chỉ tìm được ở Giêrusalem một người biết giữ công lý, biết tìm sự thật, thì Người cũng sẽ tha tội cho thành ( Ed 22,30; Gr 5,1) Lời khẳng định này thúc giục chúng ta cố gắng sống đời tốt lành để cầu xin và mang lại lợi ích thiêng liêng cho gia đình, cho quê hương, cho những người tội lỗi.
Hãy xin thì sẽ được, tìm sẽ gặp, gõ sẽ mở cho. Lời đoan hứa của Chúa Giêsu đã làm các Thánh hạnh phúc sung sướng. Lời đoan hứa này không chỉ cho các Thánh mà là cho mọi người. Thiên Chúa yêu thương muốn ban mọi sự tốt lành cho tất cả, không phải vì tất cả đều tốt nhưng tất cả là con cái Ngài. Đức Giêsu đã mạc khải cho chúng ta như thế: Các ngươi còn biết cho con mình những điều lành huống chi Cha các ngươi trên Trời!
Các Tông đồ đã nhiều lần thấy Chúa Giêsu cầu nguyện. Có lẽ khi Người cầu nguyện có một cái gì đó thật đẹp, thật huyền bí và cũng thật lôi cuốn toả ra, vì thế các ông cũng xin Người dạy cách cầu nguyện. Người đã dạy các ông cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha, kinh duy nhất Chúa Giêsu dạy mà chúng ta đọc mỗi ngày nhiều lần. Kinh Lạy Cha mặc khải cho chúng ta điều quan trọng. Thiên Chúa là Cha chúng ta.
Một người bạn có đứa con đầu lòng tâm sư: lần đầu tiên khi nghe đứa con gọi: Bố ơi, tôi bủn rủn cả chân tay, một luồng điện cực mạnh chạy khắp cơ thể, tôi cảm thấy hạnh phúc vô cùng. Quả thật. Mối liên hệ Cha – Con là một mối liên hệ rất thâm sâu huyền bí và thân thiết.
Gọi ai là cha tức là nhận người ấy là ân nhân lớn nhất đời mình. Vì nhờ cha ta nhận được món quà tặng quý giá nhất đó là sự sống. Có những người cha không chỉ giúp con về mặt thể xác mà còn cho con một đời sống tinh thần. Đó là những người cha có nhân cách lớn, kiên trì đúc nặn nên những đứa con có tâm hồn cao đẹp, có lý tưởng, có tư cách làm người.
Cha không chỉ là nguồn cội phát sinh nhưng còn là cánh tay nâng đỡ, là mái ấm chở che, là động lực thúc đẩy, là lý tưởng mời gọi. Từ ngữ “Cha” gợi lên một trời yêu thương vừa thân thiết, vừa huyền diệu.
Khi mạc khải cho ta biết Thiên Chúa là Cha, Cha nhân loại, Đức Giêsu cho thấy:Thiên Chúa Cha yêu thương chúng ta vô cùng, muốn chúng ta đi vào tình nghĩa thâm sâu tha thiết với Cha. Vì thế, Người đã dạy tiếng “Abba” là tiếng gọi “Cha ơi”, rất thân thương của một đứa trẻ, vừa nũng nịu vừa tin tưởng phó thác mọi sự trong tay cha. Thánh Têrêxa Hài Đồng đã tiến đức bằng Con Đường Thơ Au Thiêng Liêng. Ngài sống và hướng tới trọn lành như đứa con, bé nhỏ trong tình thương của Thiên Chúa là Cha, đứa con thảo hiếu trong vòng tay âu yếm của Cha.
Mối quan hệ Cha – Con trở nên thân thiết chình là nhờ đời sống cầu nguyện. Cầu nguyện là một cuộc đối thoại, là nói và nghe. Vì thế, khi chúng ta đến với Chúa không phải bắt Chúa nghe những nhu cầu mình liệt kê mà cần một thái độ lắng nghe tiếng Chúa và sống theo ý Ngài.
Cầu nguyện không chỉ là cầu xin mà còn là tôn thờ, cảm tạ, ngợi khen, chúc tụng. Chỉ có con người mới biết cầu nguyện như là lắng nghe và đáp lời Thiên Chúa. Được nói chuyện với một Đấng Siêu Việt mà lại gần gũi thân thương trong tình Cha Con thì thật là hạnh phúc lớn lao. Đó là nhờ cầu nguyện.
Thiên Chúa là nguồn tình yêu, nguồn sự sống, nguồn trí tuệ, nguồn sức mạnh, nguồn ân sủng. Muốn nhận đựơc những giá trị cần thiết đó, con người phải thông hiệp với cội nguồn là chính Thiên Chúa.Cầu nguyện đựơc ví như hơi thở của linh hồn. Không thở, con người sẽ chết. Cũng vậy, không cầu nguyện, linh hồn không thể sống lành mạnh, sống tốt lành, thánh thiện được. Nhờ cầu nguyện, linh hồn tràn đầy sức sống, tình yêu, trí tue, sức mạnh và đời sống con người trở nên hạnh phúc.
Cầu nguyện là việc rất cần và là việc rất dễ. Ước mong cuộc đời chúng ta là một lời cầu nguyện liên lỉ, kiên trì, một cuộc sống thân mật với Chúa mỗi ngày mỗi thắm đượm để nhờ đó nhịp cầu cầu nguyện nối chúng ta và Thiên Chúa thêm gần gũi trong tin yêu và hy vọng.
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng OP)
Đọc bài Tin Mừng, chúng ta dễ dàng nhận ra đề tài Chúa Giêsu dạy là vấn đề cầu nguyện, đây cũng là điều chúng ta tìm hiểu. Trước hết là một hình ảnh, muốn đi từ bên đây sang bên kia sông, chúng ta phải qua một chiếc cầu, cầu là phương tiện nối hai bờ sông lại, sông càng lớn, cầu càng phải chắc và dài. Nếu bắc một chiếc cầu dài và chắc qua một con sông lớn, chắc chắn sẽ phải tốn phí rất nhiều, thí dụ như cầu Sài Gòn hay cầu Mỹ Thuận, vì hai bờ quá xa nhau. Cũng vậy, giữa con người với Thiên Chúa cũng có một khoảng xa phân cách, khoảng phân cách đó rộng hơn hai bờ bể xa hút ngàn trùng. Để đến với Chúa, con người cũng phải đi trên một chiếc cầu, chiếc cầu ấy mỗi người có thể tự bắc lấy, không tốn kém gì, không phải là cầu gỗ, cầu sắt hay cầu bê tông, nhưng là cầu nguyện, chiếc cầu làm bằng kinh nguyện. Đây là một việc không xa lạ gì đối với chúng ta, nhưng vì quá quen thuộc mà đôi khi chúng ta cần xem xét lại, kẻo nó trở thành việc máy móc, hoặc khi làm khi bỏ.
Chúng ta đều biết cầu nguyện là gặp gỡ thân mật với Chúa. Gặp gỡ ai là đầu tiên phải thấy người đó, gặp Chúa là nhìn thấy Chúa, không phải bằng mắt xác thịt nhưng bằng mắt linh hồn, mắt đức tin. Nhìn thấy Chúa ở đâu? Ở khắp nơi, nhưng cách riêng ở ba nơi sau: trên trời, phép Mình Thánh và trong chúng ta. Nhìn lên trời để cầu nguyện, đó là cử chỉ rất quen thuộc của Chúa Giêsu, nhìn lên trời, đó là thái độ hướng lòng lên Chúa. Nhìn vào phép Thánh Thể để cầu nguyện, đó là cử chỉ của chúng ta khi vào nhà thờ, vì dưới hình bánh trong nhà tạm có thực chính Chúa Giêsu. Thu lòng trí trở vào chính mình, chúng ta cũng sẽ tìm thấy Chúa, vì Chúa thích ngự đó hơn ở trong bình vàng để trong nhà tạm. Tóm lại, Chúa ở trên trời, Chúa ở nhà tạm, Chúa ở lòng chúng ta, đâu đâu Chúa cũng nhìn chúng ta, cũng đợi chúng ta, nhưng nếu chúng ta không nhìn lại, thì không bao giờ có sự gặp gỡ giữa đôi bên.
Nhưng gặp gỡ thân mật để làm gì? Để nói chuyện với Chúa, nói chuyện thì phải dùng lời: lời nói trên môi hay lời nói âm thầm trong lòng trí. Đối với Chúa, chúng ta có thể dùng cả hai cách, vì Chúa thấu suốt tận đáy tâm hồn. Nhưng chúng ta sẽ nói gì với Chúa? Chúng ta có gì, chúng ta muốn gì, chúng ta là ai, tâm hồn chúng ta thế nào, thì chúng ta cứ nói với Chúa như vậy. Nói về dĩ vãng, hiện tại, tương lai, nói về mình, về người khác, về Chúa… bộc lộ cả những âu lo, những niềm vui, những điều sầu muộn… giãi bày lòng mình với Chúa. Tất cả hãy tâm sự với Chúa, tâm sự tất cả với tấm lòng trên môi miệng, nói như con nói với cha, như kẻ thiếu thốn nói với người giàu có. Tâm sự như thế là một việc tin yêu: tin ở sự có mặt của Chúa đang nhìn chúng ta, nghe chúng ta và sẵn lòng đón nhận chúng ta. Tin nhận sự yếu hèn tội lỗi của mình, tin ở quyền năng và tình thương bao la của Chúa, tin ở sự khôn ngoan vô cùng của Chúa luôn biết sự gì tốt cho chúng ta. Cầu nguyện là như thế.
Chúng ta có thể cầu nguyện không? Nói không thể cầu nguyện được, là vì sao? Phải chăng vì không có thời giờ? Mỗi ngày có 24 giờ, tức 1440 phút, trong đó chúng ta có giờ ngủ, giờ ăn, giờ làm việc, giờ giải trí, có giờ để nói với người trong nhà, trong nơi làm việc, ngoài đường, nhỏ nhặt như việc xỉa răng cũng có thời giờ: sáng hai phút, trưa hai phút, tối hai phút, là sáu phút. Chỉ có việc cầu nguyện thì không có thời giờ. Như thế Chúa là một kẻ ăn xin sao? như thể cầu nguyện là một việc bố thí cho Chúa, dư giờ và tiện thì làm, không có giờ thì làm ngơ, thái độ đó có xứng đáng cho một người chịu ơn Chúa, gọi Chúa là cha, là Chúa, do Chúa sinh ra, và một ngày kia trở về với Chúa không? Không cần trả lời, ai cũng quá biết.
Có người lại chữa mình rằng: không thể cầu nguyện, vì không thể đi nhà thờ được, hay vì không thuộc kinh. Những lý do đó không đứng vững, nếu người ta hiểu cầu nguyện là gì như đã nói ở trên. Chúa ở trong nhà tạm, nhưng cũng ở trên trời và ở trong lòng ta, ở bên ta. Như thế, cầu nguyện ở đâu cũng được, ở đâu cũng có thể cầu nguện được. Đàng khác, cầu nguyện không lệ thuộc vào kinh, kinh in trong sách, kinh đọc nơi chung rất ích lợi để gợi ý gợi tình, giúp trí lòng chúng ta dễ cầu nguyện. Nên nhớ chỉ giúp cầu nguyện mà thôi, chứ không làm nên sự cầu nguyện. Sự làm nên việc cầu nguyện phát xuất tự lòng chúng ta. Gặp và nói chuyện với Chúa, đó là cầu nguyện: nói như con nói với cha, như bạn thân nói với kẻ mình thương yêu tin tưởng. Dễ như thế thì ai cũng có thể cầu nguyện được.
Nói rõ hơn, về cầu nguyện, chúng ta hãy nhớ hai điều: Thứ nhất, chúng ta đừng bao giờ coi cầu nguyện một số lúc nào đó là đủ, đừng nghĩ chỉ khi nào đến nhà thờ mới là cầu nguyện. Chúng ta đang ở nhà và đang làm việc vất vả ư? Hãy hướng tâm hồn lên với Chúa, hãy ngước mắt nhìn Ngài, như thế cũng đã là cầu nguyện rồi. Chúng ta đang đi đường ư? Hãy cùng đi với Chúa. Chúng ta đang vui ư? Hãy vui với Chúa. Chúng ta đang buồn khổ hay đang gặp khó khăn ư? Hãy trình bày với Chúa… Nói chung, trong mọi môi trường, mọi hoàn cảnh, mọi việc làm… chúng ta đều có thể cầu nguyện.
Một điều quan trọng nữa, là những điều chúng ta cầu xin Chúa, dù được hay không được, đó là quyền của Chúa, đó là ý Chúa. Chúng ta cho rằng những điều chúng ta cầu xin là tốt đẹp, là cần thiết, chúng ta muốn Chúa nhận lời hay ban cho chúng ta. Nhưng chúng ta có khôn ngoan và hiểu biết bằng Chúa không? Chúng ta phải tin rằng Chúa nhìn xa trông rộng, thông minh vô cùng, Ngài biết những gì tốt và cần cho chúng ta, do đó, nếu vì thương, Chúa đáp ứng lời chúng ta cầu xin , thì trái lại, cũng vì thương mà nhiều khi Ngài từ chối. Cả hai trường hợp, chúng ta đều phải xin vâng và cảm tạ Ngài.
Tóm lại, cầu nguyện là việc rất cần, nhưng cũng là việc rất dễ, ai cũng có thể làm được và cần làm thường xuyên, cho cả đời chúng ta thành một lời cầu nguyện liên lỉ, một cuộc sống thân mật với Chúa mỗi ngày, nhờ đó, như chiếc cầu linh thiêng, chúng ta đến với Chúa, gặp gỡ Chúa, tâm tình, tâm sự với Chúa.
(Trích dẫn từ ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)
Đối với thánh Luca, Kinh Lạy Cha phát xuất từ việc các môn đệ nhìn Chúa Giêsu cầu nguyện: “Khi Ngài cầu nguyện xong, một trong các môn đệ thưa Ngài: Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện”.
Theo chiều hướng đó, chúng ta có thể tái khám phá Kinh Lạy Cha trong bài suy niệm này, bằng cách xem Chúa Giêsu cầu nguyện như thế nào, bằng cách kết hợp với nhiệt tình bên trong hướng về Chúa Cha của Ngài, bằng cách tiếp nhận mỗi lời nói từ chính Chúa Giêsu.
“Lạy Cha chúng con”
Chúa Giêsu, ngay từ những lời nói đầu tiên, “Lạy Cha chúng con”, Cha đã kéo con ra khỏi sự co cụm lại, Cha nhắc nhở con rằng mọi kinh nguyện mở con hướng ra hai thế giới. Trong khi tìm cách tiếp xúc với Cha, con đi vào trong mầu nhiệm Ba Ngôi. Trong khi nói “chúng con”, con cầu nguyện cùng với các anh em và cho các anh em của con.
“Lạy Cha chúng con ở trên trời”
Lạy Cha, Cha ở khắp mọi nơi, nhưng là ở trong một thế giới khác với thế giới hữu hình của chúng con, không phải ở bên trên, cũng không phải ở bên cạnh, ở một nơi mà con không nhận thấy. Cha ở rất xa khi con suy nghĩ bình thường, và rất gần khi con lắng nghe Chúa Giêsu: “Ai thấy Ta là thấy Cha” (Ga 14,9). Lạy Cha, Cha “ở trên trời”, nhưng Cha đúng là Cha chúng con. Con sống trong sự hiện diện của Cha, và Chúa Giêsu nói với con rằng đây là một sự hiện diện tình yêu. Con ở trong Cha và Cha ở trong con. “Nếu ai yêu mến Thầy Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và Chúng Ta sẽ đến ở cùng người ấy” (Ga 14,23). Con hiểu điều này khi con nói với Cha: Lạy Cha.
“Xin cho danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện”.
Danh Cha, chính là Cha. Con muốn tất cả mọi người đều biết Cha. Con muốn họ biết Ngài thánh thiện đến độ nào và Cha là Cha. Con muốn họ có thể phân biệt được hành động, công bằng và vinh quang của Cha. Con muốn cuộc sống của con nói lên danh Cha.
Nước Cha, chỉ có Cha mới có thể thể hiện Nước đó một cách hoàn toàn cùng với những cuộc đời của chúng con khi các cuộc đời này không nổi loạn, đãng trí cũng như gò bó. Xin hãy mở rộng các tư tưởng của chúng con cho đến thời cánh chung khi chúng con sẽ là dân chúng đông đảo của Cha. Xin hãy làm cho Nước của Cha đến qua điều mà con người trên thế giới đang sống. Điều đó là máu và nước mắt, những nỗi thất vọng, những niềm vui, những hoạt động công bằng và những chuyện tình đẹp. Xin cho máy truyền hình, nếu con biết xem cho tốt, luôn luôn đổi mới sự lo lắng của con về Nước Trời và kinh nguyện của con về Nước Trời.
Con không muốn nói với Cha “xin cho ý Cha thể hiện” vì một sự cam chịu đơn giản, con muốn đi vào trong ý muốn của Cha càng tích cực càng tốt bởi vì con biết rằng điều Cha muốn là thánh thiện, công bằng và đầy tình yêu thương.
Nhưng đôi khi tất cả đều đen tối đối với chúng con. Xin cho đừng có chén đắng!… Tuy vậy, nếu phải uống chén đắng, xin cho chúng con có thể hợp với ý của Cha nhiều nhất.
“Xin cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”.
Xin hãy cho chúng con điều cần thiết để sống một cách mãnh liệt ngày hôm nay. Không phải hôm qua cũng không phải ngày mai, nhưng bây giờ đây. Mỗi lần con xin Cha lương thực ngày hôm nay, hãy đặt con lại trong hiện tại, trong điều mà con phải sống. Xin tách con ra khỏi những lo lắng làm con xa Cha. Con không thể nói với Cha là Cha nếu con không tin rằng Cha muốn ban cho con điều gì đó để sống ngày hôm nay.
“Xin tha tội chúng con như chúng con cũng tha”
Cho đến Kinh Lạy Cha cuối cùng của con con sẽ còn xin Cha tha thứ. Con sẽ luôn luôn có những sai lầm với Cha, con biết, nhưng nhờ Chúa Giêsu con sẽ không bao giờ nghi ngờ Cha, Cha là người cha của đứa con hoang đàng. Nhưng xin cho con không quên điều kiện mà nếu không có nó Cha sẽ không thể tha thứ cho con: con phải tha thứ. Không phải tha thứ cho anh em của con nói chung, đây là điều quá dễ. Vào lúc này đây con phải tha thứ cho X… ngay tức thì. Nếu không, tại sao lại đọc Kinh Lạy Cha? Sự tha thứ của Cha không thể được ban cho một tâm lòng đóng kín với chỉ một trong những người anh em của họ.
“Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”
Con không xin Cha cho con được rút lui khỏi cuộc chiến đấu, nhưng để làm vinh danh Cha khi mọi sự trở nên khó khăn. Vào giờ phút tồi tệ, lạy Cha, xin giúp con. Xin giúp chúng con.
(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
Năm 1953, một thanh niên da đen ở nước Trung Phi, tham gia vào quân đội viễn chinh Pháp tham chiến tại Việt Nam. Đó là trung sĩ Bokassa. Ông này kết bạn với một cô gái quê ở Biên Hòa tên là Nguyễn Thị Huệ. Năm 1954, sau khi có hiệp định Genève, trung sĩ Bokassa chia tay cô Huệ theo đoàn quân viễn chinh về Pháp, để lại cho cô Huệ một bào thai.
Cô Huệ sanh được một bé gái, mình mẫy đen ngòm như lọ nồi, tóc quăn, môi dầy, đặt tên là Nguyễn Thị Martine. Gia đình cô Huệ rất túng thiếu nên khi vừa lớn khôn, Martine phải mang đậu phộng, bánh mì, trà đá… bán rong cho khách qua đường để kiếm sống qua ngày.
Đầu năm 1972, lên 18 tuổi, Martine vào làm phu khuân vác trong nhà máy xi măng Hà Tiên, cuộc đời lam lũ tăm tối, đổ mồ hôi đổi lấy áo cơm.
Thế rồi vào một ngày cuối năm 1972, khi Martine đang bốc vác xi măng, bụi bặm đầy người, thì cậu của Martine bất thần xuất hiện và la to: “Martine! Đi về thay đồ chuẩn bị lên máy bay, đi gặp ba mầy làm tổng thống!”
Martine bàng hoàng ngơ ngác chẳng hiểu chuyện gì. Hóa ra, dịp may ngàn năm một thuở đã xảy đến với cô: Cha của Martine là ông Bokassa, người lính da đen thuộc quân đội Pháp tham chiến ở Việt Nam năm xưa, nay đã trở thành tổng thống nước Cộng Hoà Trung Phi, một đất nước nổi tiếng có nhiều kim cương nên được gọi là Vương quốc Kim Cương. Ông Bokassa đã cậy nhờ chính phủ Việt Nam Cộng Hoà thời đó tìm kiếm đứa con lai của mình tại Việt Nam và rước cô này về Trung Phi.
Thế là Cô Martine từ thân phận một cô gái lọ lem nghèo hèn khốn khổ bỗng trở thành công chúa trong vương quốc kim cương! Thật là một cuộc đổi đời thật ngoạn mục, hiếm có và rất tuyệt vời!
***
Qua trích đoạn Tin mừng Lu-ca hôm nay, Chúa Giê-su loan báo cho chúng ta một tin vui triệu lần lớn lao hơn tin vui mà cô Martine đã được nghe biết. Đó là mỗi người trong chúng ta có một Người Cha tuyệt vời nhất thế gian. Đó là Thiên Chúa Cha, Ngài là Đấng dựng nên hoàn vũ bao la tuyệt vời này, là Đấng cao cả quyền năng và đầy lòng yêu thương nhân loại.
Ngài là Cha thật của chúng ta nên Chúa Giê-su dạy chúng ta gọi Ngài là Abba! Abba là tiếng bập bẹ của trẻ thơ Do-thái gọi cha yêu của mình, dịch ra tiếng Việt là Ba ơi! Bố ơi!
Mặc dù Thiên Chúa là Đấng tạo dựng vũ trụ, là Chúa Tể càn khôn, còn loài người chỉ là loại thụ tạo thấp hèn, thế mà Chúa Giêsu không dạy chúng ta tâu với Ngài là “Muôn tâu ngọc hoàng Thượng đế”, mà lại gọi Ngài cách thân thương là Áp-ba, có nghĩa là Bố, là Ba.
Mặc dù Thiên Chúa là Vua trên muôn vua, là Chúa trên các chúa, thế mà Chúa Giêsu không dạy chúng ta thưa với Chúa Cha là: “Muôn tâu thánh thượng”, nghe có vẻ xa cách quá, mà lại gọi Ngài cách thân mật là Ba ơi, Bố yêu ơi!
Mặc dù Thiên Chúa là Ông Chủ cao cả, còn chúng ta là tôi tớ thấp hèn, vậy mà Chúa Giêsu không dạy chúng ta thưa với Ngài bằng câu: “Kính thưa ông Chủ”, mà gọi Ngài là Bố ơi, Ba ơi!
Khi dạy ta gọi Thiên Chúa bằng Ba, Bố, Cha… Thiên Chúa muốn chúng ta nhìn nhận Ngài là Người Cha yêu quý trong gia đình và Ngài nhìn nhận chúng ta là đứa con bé bỏng rất đáng yêu trong nhà.
Được làm con Cha trên trời là một hạnh phúc vô biên, là một niềm vinh dự lớn lao không tưởng được.
Tiếc thay, còn rất nhiều anh chị em đang sống chung quanh ta, chưa được may mắn nhận biết mình có một Người Cha tuyệt vời là Thiên Chúa.
Vì thế, qua ý nguyện đầu tiên trong kinh Lạy Cha là “Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển”, Chúa Giê-su dạy chúng ta hãy cầu xin Cha trên trời ban cho mọi người được diễm phúc nhận biết Thiên Chúa là Cha, là Đấng thánh thiện, đáng được chúc tụng tôn thờ (GLHTCG số 2807 và 2858).
Tiếp theo, qua ý nguyện thứ hai, Chúa Giê-su dạy chúng ta cầu cho “Nước Cha trị đến” nghĩa là cầu cho mọi người đón nhận Chúa Giê-su, Ngài chính là “Nước Thiên Chúa”, đến ngự trị trong tâm hồn mọi người và dẫn đưa nhân loại về với Cha yêu của mình là Thiên Chúa (GLHTCG số 2816).
Lạy Chúa Giêsu,
Chúng con cảm tạ Chúa đã bày tỏ cho chúng con biết mình có một Người Cha rất đỗi tuyệt vời, ngàn trùng chí thánh và giàu lòng yêu thương, nhờ đó, tâm hồn chúng con tràn đầy hoan lạc vì được diễm phúc làm con chí ái của Cha trên trời.
Xin cho chúng con biết chia sẻ diễm phúc này cho những anh chị em khác, để họ cũng được hạnh phúc làm con của Cha trên trời như chúng con và cùng chúng con ca tụng ngợi khen Cha vinh hiển muôn đời.
(Trích dẫn từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Trên đời có nhiều giá trị vật chất hoặc tinh thần rất cao đẹp, rất quý báu nên ai ai cũng đều khao khát ước mơ. Tuy mọi người đều mơ ước, khao khát những giá trị đó nhưng rồi họ cảm thấy khả năng của mình có giới hạn, phương tiện của mình còn thiếu thốn, nên chẳng mấy ai tìm cách chiếm hữu được những giá trị cao quý ấy. Thế là những giá trị cao quý đó chỉ xuất hiện trong ước mơ của mọi người một thời gian rồi tan biến.
Trong câu chuyện cổ Ali Baba và bốn mươi tên cướp, chàng Ali Baba nghèo khổ vào rừng kiếm củi kiếm sống qua ngày, vô tình phát hiện bốn mươi tên cướp mang tài sản cướp được về cất giấu trong kho tàng bí mật. Khi một người trong bọn đứng trước một tảng đá lớn đọc câu thần chú: “Vừng ơi! mở ra”, thì lạ lùng thay, một cánh cửa bí mật mở ra dẫn lối cho lũ cướp đem của cải cướp được vào kho báu nằm chìm trong hang.
Chờ cho bọn cướp ra đi, Ali Baba tiến lại khung cửa thần bí và đọc lại câu thần chú đó. Thật nhiệm mầu, tấm cửa đá nặng nề mở ra, đưa anh vào một kho tàng chứa đầy báu vật và nhờ đó, Ali Baba chiếm hữu được nhiều báu vật trong kho tàng.
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng dạy cho chúng ta một một bí quyết quan trọng giúp ta khám phá và chiếm hữu những kho báu lớn lao, kho báu vật chất cũng như kho báu tinh thần. Đây không phải là câu “Vừng ơi! mở ra” để đưa chúng ta vào kho báu huyền thoại, nhưng là câu: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho”.
Bí quyết nầy giúp mở ra nhiều kho tàng vật chất cũng như tinh thần, tự nhiên cũng như siêu nhiên. Bí quyết được tóm lại trong ba điều rất đơn giản: “xin – tìm – gõ”.
Thật là điều khó tin! Làm sao mà chỉ cần ba hành động đơn giản là xin, tìm, gõ lại có thể giúp người ta đạt được những giá trị lớn lao và cao quý?
Chúa Giêsu cũng biết những thính giả của Ngài đầy ngờ vực khi nghe những lời dạy ấy nên Ngài mới thuyết phục thêm: “Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó? Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp? Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?”.
Thế ra lâu nay chúng ta không chiếm hữu được những giá trị cao quý là vì chúng ta chưa xin, chưa tìm, chưa gõ đó thôi. Còn ai liên lỉ xin, kiên quyết tìm, nhẫn nại gõ thì thế nào cũng đạt được giá trị cao đẹp mình mong muốn.
Cả ngàn ngôi thánh đường cao lớn mọc lên nhanh chóng từ vài chục năm trở lại đây trên đất nước Việt Nam chúng ta, những thánh đường mà trước đây nhiều người giáo dân nghèo chỉ dám ước mơ chứ không dám tin là sẽ có, đã trở thành hiện thực giữa những xóm đạo rất nghèo, cũng là nhờ vào bí quyết “xin-tìm-gõ” mà thành.
Con số linh mục vượt trội lên trong những năm tháng qua trên quê nhà Việt Nam, điều mà trước đây vài chục năm chỉ là điều nằm trong mơ ước, nay cũng đã thành hiện thực nhờ bí quyết “xin-tìm-gõ” đó thôi.
* * *
Cuốn “Góp nhặt cát đá” của thiền sư Muju (dịch giả Đỗ Đình Đồng, nhà xuất bản Lá Bối, xuất bản năm 1972) có ghi lại mẩu chuyện sau đây liên quan đến lời dạy của Chúa Giêsu hôm nay.
Một sinh viên đến viếng Thiền sư Gasan và hỏi: “Thầy đã đọc Thánh Kinh Kitô chưa?”
Gasan bảo: “Chưa. Hãy đọc tôi nghe!”
Sinh viên mở sách ra và đọc một đoạn sách thánh (Mt 6, 28-29): “Còn về áo mặc, các ngươi lo lắng làm chi? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào: chẳng làm khó nhọc cũng không kéo chỉ; nhưng Ta bảo các ngươi, dẫu vua Salômon sang trọng đến đâu, cũng không mặc được áo tốt như như một hoa nào trong giống đó… Vậy chớ lo lắng chi ngày mai, vì ngày mai sẽ lo về việc ngày mai.”
Gasan nói: “Ai nói những lời đó, tôi cho là một người đã giác ngộ.”
Sinh viên đọc tiếp: “Hãy xin thì sẽ được; hãy tìm thì sẽ gặp hãy gõ sẽ mở cho. Bởi vì hễ ai xin thì được; ai tìm thì gặp; ai gõ thì được mở.” (Mt 7, 7-8)
Gasan phê bình: “Thật là tuyệt! Ai nói điều đó không xa Phật tánh.”
* * *
Từ đây, nắm được bí quyết quan trọng để đạt được những giá trị cao quý trên đời, chúng ta không dại khờ ngồi ước mơ suông, nhưng phải ra công thực hiện, vì phương tiện sẵn có trong tầm tay. Chỉ cần liên lỉ xin, kiên quyết tìm và nhẫn nại gõ thì chúng ta sẽ thủ đắc được những giá trị cao quý mà lâu nay chỉ có trong mơ. Với bí quyết nầy, chúng ta có thể biến những ước mơ thành hiện thực.
(Suy niệm chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Chủ đề của Chúa Nhật hôm nay là nhu cầu thiết yếu của cầu nguyện. Bài Đọc I và Tin Mừng nêu bật sự kiện Thiên Chúa vui thích lắng nghe lời cầu nguyện của chúng ta, sự kiện này được mặc khải cả trong Cựu Ước lần trong Tân Ước.
St 18: 20-32
Sách Sáng Thế thuật lại lời cầu bầu thật cảm động của tổ phụ Áp-ra-ham cho dân thành Xơ-đôm tội lỗi. Thiên Chúa lắng nghe lời khẩn nguyện của người công chính.
Cl 2: 12-14
Đoạn trích Thư gởi tín hữu Cô-lô-xê, thánh Phao-lô đề cập đến thành quả của Phép Rửa là đem lại cho chúng ta ơn tha thứ tội lỗi và sự sống đời đời, vì bí tích này được tháp nhập vào cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Giê-su Ki-tô.
Lc 11: 1-13
Tin Mừng Lu-ca thuật lại giáo huấn của Chúa Giê-su về cầu nguyện: cầu nguyện chính là thân thưa với Thiên Chúa là Cha. Đừng ngại quấy rầy Thiên Chúa, vì Người là Cha đầy lòng yêu thương và chúng ta là con cái của Người.
BÀI ĐỌC I (St 18: 20-32)
Chuyện tích Kinh Thánh nổi tiếng này tiếp nối chuyện tích Kinh Thánh tuần trước thuật lại việc ba nhân vật mầu nhiệm viếng thăm ông Áp-ra-ham dưới cụm sồi Mam-rê, không xa thành Khép-rôn.
Bản văn ở đây nói rõ cho chúng ta biết rằng một trong ba vị khách là chính Đức Chúa. Đức Chúa đã thân hành đến trần gian không chỉ để báo tin vui cho ông Áp-ra-ham biết rằng vào độ này sang năm bà Xa-ra sẽ sinh hạ một quý tử cho ông, nhưng còn có một mục đích khác nữa là trừng phạt hai thành Xơ-đôm và Gô-mô-ra tội lỗi. Tuy nhiên, hai thành nầy ở cách xa cụm sồi Mam-rê, vì thế Đức Chúa sai hai người bạn đồng hành của Ngài đến hai thành đó trong khi Ngài còn đứng nán lại chuyện trò với ông Áp-ra-ham.
Tuy nhiên, Đức Chúa xem ra chưa quyết định dứt khoát: “Ta phải xuống xem thực sự chúng có làm như tiếng kêu trách đã thấu đến Ta không. Có hay không, Ta sẽ biết”, vì thế vẫn còn dành chỗ cho lời cầu bầu của ông Áp-ra-ham. Ông Áp-ra-ham là một con người quảng đại, thường hằng quan tâm đến những người khác. Ông đã cảm nghiệm tấm lòng từ bi nhân hậu của Đức Chúa. Ông cũng biết rằng ơn gọi của ông có tầm mức phổ quát: “Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc” (12: 3). Vì thế, ông thu hết cam đảm cầu bầu cho hai thành ngoại quốc đó.
Tiến trình mặc cả của ông Áp-ra-ham với Đức Chúa mang tính chất rất đông phương, nhưng nó dâng hiến một chiều kích tinh thần với một cung giọng đặc biệt, nhất là nếu chúng ta nghĩ đến niên biểu rất cổ xưa của chuyện tích này (có thể vào thế kỷ thứ mười trước Công Nguyên, vào triều đại vua Sa-lô-mon). Chuyện tích này vang dội lời phản kháng đầu tiên chống lại khái niệm trừng phạt tập thể, khái niệm này dần dần nhường chỗ cho lời khẳng định về trách nhiệm cá nhân vào những thế kỷ sau này: “Cha sẽ không bị xử tử vì con, và con sẽ không bị xử tử vì cha: mỗi người sẽ bị xử tử về tội của mình” (Đnl 24: 16).
Ngoài ra, lời cầu bầu trên môi miệng của ông Áp-ra-ham khơi nguồn cảm hứng cho các ngôn sứ. Ông Áp-ra-ham không dám mặc cả với Đức Chúa xuống dưới con số mười người công chính: “Xin Chúa Thượng đừng giận, cho con nói một lần nữa thôi: giả như tìm được mười người thì sao?”. Rồi sẽ đến một ngày, viễn cảnh của ơn cứu độ được dự kiến đạt được nhờ chỉ một người công chính duy nhất, như ngôn sứ Giê-rê-mi-a loan báo: “Hãy rảo quanh đường phố Giê-ru-sa-lem mà xem cho biết. Trên các quảng trường thành phố ấy, hãy tìm xem có gặp được một người, một người biết thi hành luật pháp, biết sống cho chân thật, Ta sẽ dung tha cả thành” (Gr 5: 1). Và chẳng bao lâu sau, một vị ngôn sứ khác, I-sai-a đệ nhị, sẽ mô tả dung mạo Người Tôi Trung, nhờ nỗi thống khổ của chính bản thân mình “sẽ làm cho muôn người nên công chính” (I s 53: 11). Đức Ki-tô sẽ thực hiện những sấm ngôn này; Ngài sẽ là Người Công Chính thập toàn, vì thế lời cầu bầu của Ngài sẽ là độc nhất vô nhị và khôn sánh.
Đoạn trích dẫn hôm nay không nói cho chúng ta biết phần tiếp theo, vì không gặp thấy mười người công chính ở thành Xơ-đôm nên thành Xơ-đôm cũng như thành Gô-mô-ra bị thiêu hủy. Chỉ ông Lót và gia đình ông thoát nạn nhờ hai sứ thần của Đức Chúa can thiệp. Tác giả đặt việc ông Lót và gia đình ông được cứu thoát trong mối liên hệ với lời cầu bầu của ông Áp-ra-ham: “Khi Thiên Chúa phá hủy các thành trong cả Vùng, Thiên Chúa đã nhớ đến đến ông Áp-ra-ham và đã cứu ông Lót khỏi cuộc tàn phá, khi Người phá đổ các thành nơi ông Lót ở” (St 19: 29).
BÀI ĐỌC II (Cl 2: 12-14)
Trong Thư gởi tín hữu Cô-lô-xê, thánh Phao-lô ngỏ lời với cộng đoàn Ki-tô hữu hiện đang hoang mang trước những đạo lý sai lạc làm lu mờ đi đức tin chính truyền và đặc biệt làm giảm thiểu vai trò cứu độ của Đức Ki-tô. Vì thế, sứ điệp cốt yếu của Thư này nhắm đến tính ưu việt của Đức Ki-tô và phẩm tính trung gian duy nhất của Ngài.
Bấy giờ, thánh Phao-lô khai mở cuộc bút chiến quyết liệt: “Hãy coi chừng chớ để ai gày bẫy anh em bằng mồi triết lý và những tư tưởng giả dối rỗng tuếch theo truyền thống người phàm và theo những yếu tố của vũ trụ chứ không theo Đức Ki-tô” (Cl 2: 8). Trong số những đạo lý sai lạc mà Thư nêu lên là phép cắt bì và vai trò trung gian của ơn cứu độ được ban cho các thiên thần. Trong đoạn trích Thư hôm nay, thánh Phao-lô minh chứng sự cao vời khôn ví của Phép Rửa so với phép cắt bì, vì Phép Rửa là phép cắt bì trong tinh thần, nhờ cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki-tô.
Vào thời kỳ đầu tiên, Phép Rửa được thực hành qua việc dìm mình vào trong nước. Người chịu phép rửa, cởi bỏ quần áo, bước vào trong bể nước thanh tẩy; sau đó, bước ra khỏi bể nước trong bộ áo quần mới. Đây là nghi thức mai táng theo đó tội nhân cởi bỏ con người xác thịt, tức là con người tội lỗi của mình để được tái sinh trong một đời sống ân sủng và trở thành một tạo vật mới. Cũng có thể nói như vậy, người chịu Phép Rửa được mai táng với Đức Ki-tô và chết cho con người tội lỗi để được sống lại với Ngài, được tinh tuyền, được ban ơn tha thứ mọi tội lỗi nhờ quyền năng của Chúa Cha; cũng với quyền năng này, Chúa Cha đã phục sinh Con của Người từ cõi chết.
Thần học về Phép Rửa này cũng đã được thánh Phao-lô diễn tả như vậy trong Thư gởi tín hữu Rô-ma: “Khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Giê-su Ki-tô, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Ngài sao? Vì được dìm vào trong cái chết của Ngài, chúng ta đã cùng được mai táng với Ngài. Bởi thế, cũng như Ngài đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới. Thật vậy, vì chúng ta đã nên một với Đức Ki-tô nhờ được chết như Ngài đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Ngài, nhờ được sống lại như Ngài đã sống… Chúng ta cũng sẽ cùng sống với Ngài” (Rm 6: 3-8). Tuy nhiên, chúng ta lưu ý đến nhịp điệu mạnh dần nào đó trong Thư gởi tín hữu Cô-lô-xê. Trong Thư gởi tín hữu Cô-lô-xê thánh Phao-lô không còn đặt động từ “sống lại” ở thì tương lai như trong Thư gởi tín hữu Rô-ma, nhưng ở thì quá khứ: “Anh em đã cùng được mai táng với Đức Ki-tô khi chịu phép rửa, lại cùng được phục sinh với Ngài”; thậm chí thánh nhân còn khai triển xa hơn nữa trong Thư gởi tín hữu Ê-phê-xô: “Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Ki-tô… Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Giê-su Ki-tô trên cõi trời” (Ep 3: 5-6). Vị thế Đức Ki-tô ngự trị bên cạnh Chúa Cha đó cũng là vị thế của chúng ta rồi cho dù chúng ta hiện nay đang sống trên cõi thế.
Mặt khác, trong Thư gởi tín hữu Cô-lô-xê, thánh nhân nhấn mạnh sự tất yếu của đức tin, niềm tin vào Thiên Chúa phải là hàng đầu, vì Ngài là căn nguyên của ơn cứu độ: chính Thiên Chúa đã làm cho Đức Ki-tô sống lại từ cõi chết, chính Thiên Chúa đã ban ơn tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta và chính Thiên Chúa đã xóa sổ nợ bất lợi cho chúng ta. Quả thật, niềm tin vào Đức Ki-tô phát xuất từ niềm tin vào Chúa Cha này, vì chính nhờ thập giá mà ơn tha thứ và sự sống đến với chúng ta.
Hình ảnh sau cùng thánh Phao-lô dùng thật thấm thía. Nếu Phi-la-tô đã cho đóng một tấm bảng trên đỉnh thập giá để chỉ bản án, thì Thiên Chúa đã đóng đinh vào chính thập giá này “các giới luật”: phép cắt bì, những điều khoản giam hãm chúng ta trong vòng tội lỗi, như những lời thánh Phao-lô ngỏ với các tín hữu Rô-ma (Rm 4: 15; 7: 7-25). Như vậy, Phép Rửa là ơn giải thoát, cuộc tái sinh, sự sống đời đời, được khởi sự rồi ngay cả hiện nay chúng ta đang sống tại thế này, vì Đức Ki-tô đã cho chúng ta được liên đới với vận mệnh Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài.
TIN MỪNG (Lc 11: 1-13)
Vào lúc Chúa Giê-su cầu nguyện chính là giờ phút Ngài gặp gỡ thân tình với Cha Ngài. Vì thế, việc Chúa Giê-su cầu nguyện nơi thanh vắng vào lúc sáng sớm tinh sương cũng như khi chiều hôm buông xuống là “chuyện hằng ngày”. Thánh Mát-thêu đặt giáo huấn này vào trong bối cảnh Diễn Từ Trên Núi, trong khi thánh Lu-ca đặt giáo huấn này ngay liền sau khi Ngài cầu nguyện xong. Chúng ta có thể nói, Chúa Giê-su dẫn đưa các môn đệ của Ngài vào trong chính lời cầu nguyện của Ngài; Ngài cho họ thân thưa với Thiên Chúa là “Cha” như Ngài.
Kinh Lạy Cha của thánh Lu-ca ngắn hơn bản văn của thánh Mát-thêu. Trong khi Kinh Lạy Chúa của thánh Mát-thêu có đến bảy lời nguyện, thì Kinh Lạy Cha của thánh Lu-ca thiếu lời nguyện thứ ba và thứ bảy chỉ còn lại năm lời nguyện, tuy nhiên dù bảy hay năm, thì các lời nguyện đều làm thành một tổng thể trọn vẹn, ôm trọn đời sống con người đang bị phân cực giữa hạ giới và thiên giới, giữa thiện và ác, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa sự sống và sự chết. Trong hai bản văn này, thật khó mà biết chính xác hình thức nào cổ xưa nhất; chắc chắn có hai truyền thống.
“Thưa Thầy, xin dạy cho chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gioan đã dạy các môn đệ của ông”. Quả thật, thánh Lu-ca ám chỉ đến việc thánh Gioan Tẩy Giả huấn luyện các môn đệ của ông về việc cầu nguyện cùng với đời sống khổ hạnh của thánh nhân: “Môn đệ ông Gioan năng ăn chay và cầu nguyện” (Lc 5: 33). Ở thánh Lu-ca, Chúa Giê-su bảo các môn đệ là khi cầu nguyện, anh em hãy nói “Lạy Cha”, còn thánh Mát-thêu thì viết: “Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời” (Mt 6: 9). Phải chăng thánh Lu-ca, vì ngỏ lời với người Ki-tô hữu gốc lương dân nên xem ra đã không muốn định vị Đấng Siêu Việt vào một nơi chốn nhất định nào?
Kinh Lạy Cha bao gồm hai phần: phần thứ nhất hướng về vinh quang của Thiên Chúa, phần thứ hai liên quan đến những nhu cầu phàm nhân của chúng ta.
A- Hướng về vinh quang của Thiên Chúa
a- “Xin làm cho danh Cha vinh hiển”:
Theo văn hóa Do thái, “Danh” được áp dụng cho Thiên Chúa là một trong cách thức tránh gọi “tên” cực thánh của Thiên Chúa. Ngoài ra, hình thức thụ động của động từ: “Xin danh Cha được vinh hiển” là cách thức kinh điển để nói đến hành động của Thiên Chúa mà không phải chỉ ra chủ từ là Thiên Chúa. Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giê-su ngỏ lời trực tiếp với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha” (Ga 12: 28), nghĩa là “xin Cha làm thế nào sự thánh thiện của Cha được nhận biết, được công bố, được hiển lộ”.
Cung giọng của lời khẩn cầu hoàn toàn là cung giọng Kinh Thánh. Nhiều bản văn Cựu Ước nêu lên sự thánh thiện của Thiên Chúa và mời gọi con người noi gương sự thánh thiện của Người: “Các ngươi không được xúc phạm đến thánh danh Ta…Ta là Đức Chúa, Đấng thánh hóa các ngươi” (Lv 22: 32), hay “Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh” (Lv 19: 2). Chúa Giê-su cũng sẽ nói: “Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5: 48). Vì thế, thay vì chúng ta nguyện xin Chúa Cha bày tỏ sự thánh thiện của Ngài, chúng ta phải có tấm lòng con thảo bằng góp phần vào sự bày tỏ này bằng đời sống thánh thiện của chúng ta.
Triều đại này là triều đại mà thánh Gioan Tẩy Giả đã loan báo: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 3: 2). Đó cũng là triều đại mà Chúa Giê-su đích thân công bố: “Thời kỳ đã mãn, và Triều đại Thiên Chúa đã đến gần” (Mc 1: 15). Đó không gì khác hơn là ý định cứu độ của Thiên Chúa trên nhân loại.
Ở đây lời khẩn nguyện vẫn còn thuộc Kinh Thánh. Chúng ta đọc thấy lời khẩn nguyện này tại I-sai-a đệ nhị, vị ngôn sứ đặt trên miệng của sứ giả loan báo Tin Mừng “Thiên Chúa ngươi là vua hiển trị” (Is 52: 7). Tại các thánh vịnh gia, Đức Chúa ngự đến, xét xử địa cầu theo đường công chính, xét xử muôn dân theo chân lý của Người (Tv 96, 97, 98, vân vân).
Chúa Giê-su bảo chúng ta cầu xin cho triều đại Cha mau đến, không loại trừ rằng lời khẩn nguyện này nhắm đến việc Nước Trời ngự đến một cách vĩnh viễn. Đây là điểm nhấn ở nơi lời cầu nguyện của các Ki-tô hữu tiên khởi: “Marana Tha!”, nghĩa là “Lạy Ngài, xin hãy đến” (1Cr 16: 22; Kh 22: 20).
B- Liên quan đến những nhu cầu phàm nhân của chúng ta:
a- “Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy”:
Lời khẩn nguyện này của Tin Mừng Lu-ca hơi khác với lời khẩn nguyện của Tin Mừng Mát-thêu. Lời khẩn nguyện của Lu-ca này cầu xin cho ngày nào có đủ lương thực ngày ấy; không được tích trử như Đức Chúa đã căn dặn đối với bánh man-na trong sa mạc: “Đừng có ai để dành cho đến sáng” (Xh 16: 19). Có lẽ rất nhạy bén trước tiếng kêu của người nghèo, thánh Lu-ca diễn tả ở nơi lời khẩn nguyện này nỗi xao xuyến của ngày mai: “Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy”. Chúng ta lưu ý rằng lời khẩn nguyện của thánh Mát-thêu: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày” chỉ một hành động tái diễn hằng ngày, trong khi lời khẩn nguyện của thánh Lu-ca chỉ một hành động đúng thời đúng buổi.
Vấn đề được đặt ra ở đây: lời khẩn nguyện này nhắm đến lương thực vật chất hay lương thực tinh thần?
Có hai cách giải thích. Theo cách giải thích thứ nhất, lương thực mà chúng ta cầu xin ở đây nhằm cuộc sống hằng ngày; cách giải thích này được tăng cường bởi sự hiện diện của đại từ ngôi thứ nhất số nhiều (chúng ta), nghĩa là lương thực của con người. Theo cách giải thích thứ hai, lương thực chúng ta cầu xin ở đây là lương thực thần thiêng nhắm đến Nước Trời; cách giải thích này được ủng hộ bởi văn mạch của phần thứ hai Kinh Lạy Cha, trong đó rõ ràng những lời khẩn nguyện đều thuộc lãnh vực tinh thần: “xin tha tội cho chúng con”, “xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ”; vì thế, lời khẩn cầu này chỉ nhằm lương thực vật chất khó mà hòa hợp với toàn bộ bản văn. Cuối cùng, về phương diện lịch sử, các Giáo Phụ đã giải thích lương thực mà chúng ta cầu xin Chúa ban cho hằng ngày là Thánh Thể.
b- “Xin tha tội cho chúng con…”:
Chúa Giê-su đã truyền cho các môn đệ: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa tha thứ” (Lc 6: 36-38). Chính ở nơi thái độ này mà Ngài mời gọi chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa tha thứ.
– Vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con”: Điều kiện để xin Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta, chính là chúng ta phải tha thứ cho anh chị em mình. Ở đây, lời khẩn nguyện này của thánh Lu-ca hơi khác với lời khẩn nguyện của thánh Mát-thêu. Cả hai thánh ký đều sử dụng hình ảnh pháp lý:”mắc nợ”, nhưng thánh Lu-ca dùng từ “mắc lỗi” để nhấn mạnh việc tha thứ cách tổng quát.
c- “Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ”:
Trong bản văn Mát-thêu, lời khẩn nguyện này không chỉ cầu xin cho khỏi sa chước cám dỗ, nhưng còn chỉ ra cho biết chước cám dỗ này từ đâu đến: “Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ” (Mt 6: 13). Ở tại vườn Ô-liu, Chúa Giê-su bảo các môn đệ: “Dậy mà cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ” (Lc 22: 46). Thánh Lu-ca xác định rằng chính Xa-tan là tác giả của những chước cắm dỗ này: “Si-mon, Si-mon ơi, kìa Xa-tan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo” (Lc 22: 31). Thánh Gia-cô-bê trong thư của ngài xem ra ám chỉ đến cách giải thích sai lạc về lời khẩn nguyện này của Kinh Lạy Cha: “Khi bị cám dỗ, đừng ai nói: ‘Tôi bị Thiên Chúa cám dỗ’, vì Thiên Chúa không thể bị cám dỗ làm điều xấu, và chính Người cũng không cám dỗ ai” (Gc 1: 13).
Tiếp liền theo sau lời dạy về Kinh Lạy Cha, Chúa Giê-su kể cho chúng ta dụ ngôn về người bạn quấy rầy để mời gọi chúng ta đừng sợ quấy rầy Thiên Chúa. Chắc chắn lời nguyện xin của chúng ta được Thiên Chúa lắng nghe và nhận lời. Còn lời nào có thể thuyết phục chúng ta siêng năng cầu nguyện với Thiên Chúa cho bằng những lời này: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho”, có nghĩa “Anh em cứ xin, Thiên Chúa sẽ ban cho; cứ tìm, Người sẽ cho thấy; cứ gõ cửa, Người sẽ mở cho”, bởi vì Đấng mà chúng ta cầu xin là Cha của chúng ta ở trên trời, Ngài sẽ ban cho chúng ta điều thiện hảo nhất, đó là: “Thánh Thần”. Trong bản văn tương ứng, thánh Mát-thêu đơn giản nói về “những của tốt lành” mà Chúa Cha sẽ ban cho những ai cầu xin Người (Mt 7: 7-11), còn thánh Lu-ca thì kể ra “Thánh Thần”, mà thánh ký sẽ nêu bật nhiều lần tác động của Ngài trong Giáo Hội tiên khởi trong sách Công Vụ Tông Đồ. Thánh Phao-lô nói với các tín hữu Rô-ma về vai trò không thể thiếu của Thần Khí trong đời sống của mỗi người Ki-tô hữu: “Phần anh em, anh em đã không lãnh nhân Thần Khí khiến anh em trở thành nô lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên: “Áp-ba! Cha ơi!” (Rm 8: 15) và “Thần khí cầu thay nguyện giúp cho dân thánh theo đúng ý Thiên Chúa” (Rm 8: 27).
(Suy niệm của Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng)
Tin mừng Lc 11: 1-13: Khi dạy mọi người cầu nguyện gọi Thiên Chúa là Cha, Chúa Giêsu đã đưa con người đi vào một mối tương quan hoàn toàn mới mẻ. Qua kinh này, Người thông ban cho môn đệ và những ai tin vào Người quyền gọi Thiên Chúa là Cha như Người.
Cầu nguyện là thái độ sống căn bản của Kitô hữu. Trong cầu nguyện và nhờ cầu nguyện con người gặp gỡ Thiên Chúa, được nối kết và gắn bó mật thiết với Người. Cầu nguyện có khả năng mang lại sức mạnh cho đời sống đức tin. Không cầu nguyện thì không còn là Kitô hữu. Chắc hẳn ý thức được điều đó, các môn đệ đã xin Chúa Giêsu dạy cầu nguyện. Các bản văn lời Chúa hôm nay nêu bật sức mạnh và vai trò quan trọng của việc cầu nguyện trong đời sống đức tin.
Kinh Lạy Cha và hiệu lực của việc cầu nguyện
Đáp lại yêu cầu của các môn đệ xin Người dạy cho biết cách cầu nguyện, Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ kinh Lạy Cha, đồng thời, qua các dụ ngôn sau đó, Người cũng cho thấy sức mạnh và hiệu quả của việc cầu nguyện. Cầu nguyện là đi vào tương quan mật thiết với Thiên Chúa là Cha, để từ đó, đón nhận được ơn sủng của Chúa cũng như khả năng sống theo Ý Chúa.
Theo nhiều nhà tu đức và truyền thống của Giáo hội thì cầu nguyện là hơi thở của linh hồn. Một linh hồn cầu nguyện là một linh hồn đang sống động. Nhờ Bí tích Thánh tẩy, con người được hiệp thông sự sống của chính Thiên Chúa; được gọi Thiên Chúa là Cha. Một mối tương quan tình yêu đã được thiết lập giữa Thiên Chúa và chúng ta. Thiên Chúa là Cha còn chúng ta là con cái của Ngài. Mối tương quan đó có sống động, tồn tại và phát triển hay không tùy thuộc vào thái độ, vào đời sống cầu nguyện của mỗi cá nhân. Chính trong cầu nguyện mỗi người ngày càng thắt chặt và đi sâu vào trong thân tình với Thiên Chúa là Cha. Chúa Giêsu đã luôn luôn cầu nguyện. Người đã dạy kinh Lạy Cha sau khi cầu nguyện riêng. Do đó, kinh này phát xuất từ chính kinh nghiệm cầu nguyện của Người. Kinh Lạy Cha phản ánh mối tương quan giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha, và Người đã hướng dẫn để mọi người cùng sống mối tương quan đó với Người.
Cầu nguyện cần thiết như thế cho nên, phải bắt chước các môn đệ cầu xin Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện. Không thể nào sống mối tương quan mật thiết với Chúa Cha nếu không biết cầu nguyện, không chịu cầu nguyện và không chân thành cầu nguyện.
Khi dạy mọi người cầu nguyện gọi Thiên Chúa là Cha, Chúa Giêsu đã đưa con người đi vào một mối tương quan hoàn toàn mới mẻ. Qua kinh này, Người thông ban cho môn đệ và những ai tin vào Người quyền gọi Thiên Chúa là Cha như Người. Thiên Chúa là Cha là động lực mạnh mẽ của mọi kinh nguyện Kitô giáo. Gọi Thiên Chúa là cha là ơn huệ vô song mà người Kitô hữu nhận được từ nơi Thiên Chúa. Ơn huệ này là nguồn của mọi ơn huệ vì nhờ đó, con người được trở nên con cái, được đồng thừa tự với Chúa Giêsu Kitô, Con Một Chúa Cha. Khi trở nên con Thiên Chúa được gọi Thiên Chúa là Cha thì cũng đồng thời, được nối kết với mọi người để trở nên anh chị em của nhau. Lời kinh “Lạy Cha chúng con ở trên trời” nói lên thân phận của Kitô hữu là con Chúa, là anh chị em của nhau; nói lên niềm hy vọng vì sẽ thuộc về Nước Trời; nói lên tình yêu hiệp nhất của Kitô hữu.
Kinh Lạy Cha là câu kinh quen thuộc chắc hẳn mọi người đều thuộc làu, đều đọc hằng ngày. Tuy nhiên, mỗi khi vang lên lời kinh ấy trên môi miệng, người đọc có thực sự sống hiếu thảo với Thiên Chúa là Cha không? Có thực sự ý thức và sống mối tương quan huynh đệ với mọi người chung quanh không?
Kết thúc dụ ngôn người bạn bị quấy rầy, Chúa Giêsu khẳng định: Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ thấy, hãy gõ thì sẽ mở cho. Những lời này vừa gợi mở cho chúng ta niềm hy vọng trong cầu nguyện vừa dạy chúng ta thái độ tin tưởng và sự bền tâm cầu nguyện. Chắc chắn không ai cầu nguyện nếu không tin tưởng, không hy vọng. Lời Chúa Giêsu không phải là một lời hứa nhưng Người nói lên một thực tại. Thiên Chúa là Cha nhân hậu luôn lắng nghe và thỏa mãn mọi lời con cái nài van. Thiên Chúa sẽ ban không chỉ những gì chúng ta xin mà còn ban hơn nữa, ban chính Chúa Thánh Thần, là nguồn hồng ân. Đấy cũng chính là sức mạnh và hiệu quả của lời cầu nguyện. Từ kinh nghiệm nài van của Abraham khi cầu xin cho thành Sôđôma (bài đọc I) đến dụ ngôn trong Tin mừng, tất cả gợi lên cho chúng ta bài học quí báu: Hãy cầu nguyện, cầu nguyện không ngừng. Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta hơn cả những gì chúng ta ước mong.
Tin mừng hôm nay hướng dẫn chúng ta, những Kitô hữu cách thức, thái độ phải có khi cầu nguyện và giá trị vô song của cầu nguyện. Dựa vào đó, mỗi người hãy nhìn lại đời sống cầu nguyện của mình. Tôi đã và đang cầu nguyện như thế nào?
III. LỜI NGUYỆN TÍN HỮU
Mở đầu: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa là cha chúng ta, Ngài hằng yêu thương chăm lo cho chúng ta với tất cả tình phụ tử. Trong niềm tin tưởng, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện.
Lời kết: Lạy Thiên Chúa là Cha nhân hậu. Xin nhìn đến đời sống đức tin của chúng con là con cái Chúa. Xin gia tăng niềm tin và niềm hy vọng nơi chúng con để tất cả mọi người biết chuyên cần cầu nguyện và mọi lời cầu nguyện chúng con dâng lên làm đẹp lòng Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Tạ Chúc)
Các môn đệ cũng đã nhiều lần thắc mắc, họ không biết phải thân thưa làm sao, hay phải nói thế nào khi cầu nguyện. Rất nhiều lần, các ông thấy Chúa Giêsu đắm mình trong thinh lặng: khi sáng sớm, lúc hoàng hôn, nơi hoang địa, trên biển hồ… Và rồi để giải tỏa những nỗi khắc khoải trong lòng họ, Đức Giêsu đã dạy các học trò cầu nguyện.
Người bảo các công: “Khi cầu nguyện anh em hãy nói Lạy Cha…”
Cha ơi! Như một em bé mới bập bẹ tập nói, nó gọi baba, và lập tức người cha sẽ chạy đến và ẵm em vào lòng. Thiên Chúa là Cha. Thật vậy người Ki-tô giáo luôn tuyên tín vào Mầu nhiệm Thiên Chúa là Cha. Ngài đón nhận con cái mọi người với tình yêu Phụ tử. Mỗi lần con cái kêu lên thì không bao giờ người Cha lại ngoảnh mặt làm ngơ. Trái lại, người cha sẵn sàng và chờ đợi để ban xuống muôn ơn lành cho con cái của mình. Và hơn thế nữa, bao giờ người Cha cũng luôn trao cho con những món quà tốt đẹp nhất.
Và Người nói: “Ai trong anh em là người cha, mà khi con cái xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó? (Lc 11, 11). Thiên Chúa nhân từ, Ngài luôn rộng mở và quảng đại trao ban cho mọi người tất cả. Miễn là chúng ta kiên tâm và vững lòng như hình ảnh một người bạn đi đường, giữa đêm khuya gõ cửa nhờ đến một người bạn khác của mình vậy: “Dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn, thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh ta cần, vì anh ta lì ra đó” (Lc 11, 8).
Cầu nguyện là tạo một mối liên hệ thâm sâu và vững bền với Chúa, bằng lời, bằng con tim và bằng cả trí hiểu. Như thế cầu nguyện không chỉ là mong muốn và đạt thấu những điều thuộc về mình, nhưng là một khám phá trong tình yêu với Đấng mà mình cậy trông.
Đức Giêsu dạy kinh nguyện cầu nguyện, và chính Ngài cũng đã trải nghiệm qua từng phút giây trong cuộc đời. Anh em hãy tỉnh thức và cầunguyện. Như một thong điệp cho mọi người. Kinh Lạy Cha, một lời nguyện xin chân thành và đầy đủ ý nghĩa cho bất cứ ai, muốn gặp gỡ Đức Giêsu, trong cuộc đời của mình.
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Tạ Chúc)
Đời sống của Đức Giêsu luôn chìm đắm trong ân sủng của cầu nguyện, từ sáng sớm cho đến lúc chiều về, Ngài luôn cầu nguyện và dạy các Tông đồ của mình cũng hãy làm như vậy. Bản kinh Lạy Cha được ra đời trong hoàn cảnh: “ Lần kia, Ngài cầu nguyện ở một nơi nọ; Ngài xong rồi thì một môn đồ thưa Ngài: “ Lạy Thầy, xin dạy chúng tôi cầu nguyện, như Gioan đã dạy các môn đồ của ông” (Lc 11, 1). Chẳng phải người môn đồ của Đức Ki-tô, vì chiêm ngưỡng Thầy mình cầu nguyện trước, rồi khao khát cầu nguyện đó sao?
Cầu nguyện là gì?
Có nhiều cách để định nghĩa về điều này, nhưng như Thánh Gioan Đamascênô: “ Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa hay là cầu xin Thiên Chúa ban cho những điều xứng hợp”, còn Thánh Tê-rê-xa Hài Đồng Giêsu thì: “ cầu nguyện là sự hướng lòng lên, là cái nhìn đơn sơ hướng về Trời, là tiếng kêu tri ân và yêu mến cả trong cơn thử thách lẫn trong lúc vui mừng”. Và trong cả những lúc: “ Chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải” (Rm 8,26), thì Thiên Chúa vẫn luôn đáp lời và sẵn sàng đón nhận những lời cầu xin “ Từ vực thẳm” (Tv 130. 1), của mỗi chúng ta.
Tổ phụ Abraham cầu nguyện Thiên Chúa muốn phạt và tiêu diệt dân thành Sô-đôm và Gomora, vì tội lỗi của họ. Abraham muốn cứu dân khỏi tội chết. Ông cầu xin cùng Thiên Chúa, với lời cầu nguyện thống thiết, nài nỉ và kiên trì. Con số năm mươi người công chính có mặt trong thành, rồi từ từ hạ xuống với con số là mười người. nhờ lời cầu bàu của Abraham, Thiên Chúa đã không hủy diệt các dân trong thành.
“Hãy xin thì sẽ được; hãy tìm thì sẽ gặp; hãy gõ thì sẽ mở cho”(Lc 11, 9). Sống cầu nguyện là sống tin, cậy và mến Chúa một cách trọn vẹn. Sự tín thác vào Chúa quan phòng sẽ giúp con người thoát khỏi mọi ràng buộc trên bước đường trần thế, và chỉ để cuộc đời mình được dẫn dắt bởi bàn tay của Thiên Chúa đầy lòng từ bi.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng:
Tôi hỏi đất: đất sống với nhau thế nào?
Đất trả lời: chúng tôi làm nền móng cho nhau
Tôi hỏi nước: nước sống với nhau thế nào?
Nước trả lời: chúng tôi hoà lẫn vào nhau
Tôi hỏi gió: gió sống với nhau thế nào?
Gió trả lời: chúng tôi nâng cánh cho nhau
Tôi hỏi mây: mây sống với nhau thế nào?
Mây trả lời: chúng tôi tan biến vào nhau
Tôi hỏi cỏ: cỏ sống với nhau thế nào?
Cỏ trả lời: chúng tôi hoà quyện và réo rắt bên nhau
Tôi hỏi cây: cây sống với nhau thế nào?
Cây trả lời: chúng tôi che chở và leo quấn cho nhau
Tôi hỏi người: người sống với nhau thế nào?
Không ai trả lời
Không ai trả lời
Không ai nói gì cả
Vì người còn đang bận giận hờn và chà đạp lên nhau
Vì người còn chôn chặt nụ cười và không cùng chia sẻ
Vì người còn nghi kị và mưu chước lẫn nhau
Vì người còn nặng nỗi thương đau
Vì người còn quên cách yêu nhau
Vì người còn chưa biết được rằng sự sống vốn rất mau… tàn lụi…
Quả thực, một cuộc sống chung đòi hỏi phải đón nhận nhau trong sự tôn trọng, chia sẻ và đỡ nâng nhau. Như đất, như nước, như gió… biết hòa tan trong nhau để bảo vệ và nâng đỡ nhau. Nếu cuộc sống chung chỉ muốn độc tôn mình và loại trừ người khác thì cuộc sống sẽ là một bãi chiến trường đẫm máu và nước mắt.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy nhìn nhận một mối giây liên hệ thật gần gũi giữa người với người. Đó là liên hệ anh em con một Cha trên trời. Chúa bảo chúng ta phải sống yêu thương nhau để làm rạng danh Chúa. Chúa bảo chúng ta phải sống tuân theo thiên ý để mọi người được sống yêu thương nhau. Một cuộc sống mà mỗi người cùng nhìn nhận nhau là anh em thì chắc chắc cuộc đời sẽ “gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”, để rồi “chín bỏ làm mười” mà sống hòa thuận yêu thương nhau. Một cuộc sống nhìn nhận nhau có chung một cha trên trời sẽ nâng đỡ chia sẻ với nhau, đến nỗi “chị ngã em nâng” và cùng dìu nhau bước đi trong cuộc đời.
Hãy xem cha chúng ta trên trời thật tốt lành. Ngài luôn yêu thương mọi loài tạo vật. Ngài không thiên vị ai. Ngài cho mưa thuận gió hòa trên kẻ lành cũng như kẻ dữ. Ngài luôn nhẫn nại và từ bi, chậm bất bình và rất mực khoan dung. Thế nên, là con của Chúa chúng ta cũng phải đối xử khoan dung với nhau. Hãy sống đùm bọc, nâng đỡ và chia sẻ với nhau. Xin đừng vì những tham lam ích kỷ mà gây nên những tranh chấp hận thù với nhau. Hơn nữa, chúng ta cần phải tha thứ cho nhau như Chúa cũng đã từng tha thứ chúng ta.
Lời kinh lạy Cha luôn được đọc trên môi không chỉ để chúng ta cầu nguyện mà còn để chúng ta nhận ra một mối dây thật thân tình giữa chúng ta với Chúa và giữa con người với nhau. Một mối dây thật cao sang vì được làm con của Chúa Trời. Một Thiên Chúa quyền năng nhưng luôn yêu thương con người, luôn muốn chia sẻ với những thăng trầm của đời người. Thật hạnh phúc cho chúng ta được làm con Thiên Chúa. Hãy đặt niềm tín thác nơi Chúa. Hãy trao vào tay Chúa những khó khăn cuộc sống. Thiên Chúa như người Cha sẽ luôn lo lắng mọi sự cho con cái. Hãy trao vào tay Chúa những khó nguy trong cuộc đời để Ngài nâng đỡ ủi an chúng ta. Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta vì chính Ngài đã nói: “hãy xin thì sẽ được, hãy gõ thì sẽ mở cho”.
Tin vào Thiên Chúa là Cha cũng mời gọi chúng ta đón nhận nhau như anh em một nhà. Đón nhận nhau trong sự tôn trọng yêu thương. Đón nhận nhau trong bao dung và tha thứ để cùng nhau xây dựng một thế giới thấm nhuần tình Chúa tình người, để triều đại Chúa mau đến và mọi người sẽ tìm kiếm và tuân phục thánh ý Chúa.
Xin cho chúng ta luôn trở thành con ngoan của Chúa, biết lắng nghe và thi hành lời Chúa để danh Chúa được cả sáng và cuộc đời thắm đượm tình yêu thương nhau. Amen.
(Trích dẫn từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
Vào cuối thập niên 80, tại Rumani, một trận động đất lớn đã xảy ra làm hơn 10 ngàn người chết. Ngay sau trận động đất, một người cha đã chạy đến nhà trường tìm đứa con trai của mình.
Ngôi trường nhiều tầng đã sập đổ, nhưng người cha cố đào bới trong đống gạch vụn để tìm con. Những người cứu hộ và cảnh sát bảo ông hãy về nhà và đừng đào bới nữa vì rất nguy hiểm. Nhưng ông không nghe và cứ tiếp tục đào bới.
Ông đào bới trong suốt 12 tiếng đồng hồ cũng chẳng thấy tăm hơi người con đâu. Ông vừa đào bới vừa nghĩ: “Mình đã hứa thì phải thực hiện lời hứa, biết đâu nó còn sống trong đống gạch này thì sao?”
Nghĩ thế rồi, ông lại tiếp tục đào bới, 24 tiếng rồi 48 tiếng đồng hồ trôi qua… ông chợt nghe tiếng động. Ông gọi tên người con và ông nghe thấy tiếng kêu rất nhỏ từ xa vọng lại: “Ba ơi”. Nước mắt ông tuôn trào và ông hăng hái đào tiếp đến tận phòng của đứa con.
Thằng bé còn sống cùng với 20 đứa khác trong một góc phòng chưa bị sập. Nó ôm chầm lấy người cha và nói: “Con đã bảo với các bạn của con rồi: “ba tôi đã nói, dù thế nào ba cũng đến đón tôi. Các bạn cứ yên tâm đi, chắc chắn ba tôi sẽ đến”.
Tiếng kêu ba ơi của đứa bé nghe như âm vang lời kinh Lạy Cha chúng ta đọc hằng ngày: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”. Lời kinh Lạy Cha, là điệp khúc được lập lại nhiều nhất trong cuộc đời người tín hữu. Lời kinh này chúng ta có thể thốt lên bất cứ khi nào, bất cứ nơi đâu. Khi vui, khi buồn. Khi thành công hay khi thất bại. Khi ở nhà hay hành hương nơi xa. Tất cả trong mọi hoàn cảnh chúng ta đều có thể thưa lên Lạy cha chúng con ở trên trời. Đây là điệp khúc được lập đi lập lại mà không bao giờ nhàm chán. Vì lời đó là gạch nối cho tình cha con luôn gần gũi đậm đà yêu thương, là nhịp cầu cho tình con người vươn lên làm con Thiên Chúa.
Thực vậy, Thiên Chúa của Kytô giáo không phải là vị thần ở chốn xa xôi nào đó, càng không phải là một vị thần chỉ để con người đóng khung và “kính nhi viễn chi”, mà là một người cha luôn ân cần chăm sóc người con. Dù người con có hoang đàng tội lỗi cha vẫn thứ tha. Dù người con mải mê thế trần cha vẫn kiên nhẫn tìm con trở về. Một người cha thật đại lượng bao dung đến nỗi cho mưa thuận gió hoà trên kẻ lành người dữ. Một người Cha hết lòng vì loài thụ tạo đến nỗi đã ban Con Một cho trần gian để cứu chuộc trần gian. Một người cha luôn lo lắng cho con cái đến nỗi còn quan tâm đến sự sinh tồn của từng sợi tóc của con người.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sống trong tình con thảo với Cha trên trời. Một người con thảo hiếu luôn sống với Cha trong tình phó thác và với anh em trong tình bác ái. Chính Chúa Giêsu đã sống điều đó. Ngài đã phó thác cuộc đời trong tay Cha đến nỗi chỉ mong ước một điều là tim kiếm ý Cha và làm vinh danh Cha. Ngài đã sống với nhân loại trong tình bao dung và độ lượng. Ngài đã đi đến tận cùng của tình yêu là chết cho người mình yêu. Ngài đã đi đến tận cùng của việc quên mình là tha thứ cho kẻ đã hành hạ và kết án mình. Ngài đã dùng tình yêu để đẩy lùi sự dữ. Ngài đã dùng tình yêu để hoán cải những người lầm lỗi và tạo điều kiện cho kẻ lầm đường lạc lối trở về.
Vâng, cuộc đời chúng ta có vui có buồn. Có những lúc thành công và có những khi thất bại. Có đau khổ và hạnh phúc. Điều đó nói lên sự bấp bênh của giòng đời. Con ngừơi luôn mang yếu tố bất định, chúng ta chẳng biết ngày mai sẽ ra sao. Vì thế, kẻ khôn ngoan là biết phó thác mọi sự cho Chúa là Cha. Chính người sẽ lo liệu những gì tốt đẹp nhất cho cuộc đời chúng ta. Không một người Cha nào lại bỏ rơi con cái thì Thiên Chúa cũng định liệu và an bài mọi sự cho chúng ta, miễn là chúng ta hãy sống hết mình trong tình con thảo với Cha và hết mình sống yêu thương và phục vụ anh em đồng loại. Khi chúng ta sống phó thác cho Chúa là lúc chúng ta tìm được an bình trong thánh ý Thiên Chúa. Cho dù cuộc đời có những lúc nổi trôi, có những trái ngang trắc trở, chúng ta vẫn tràn đầy niềm hy vọng vì có Chúa luôn phù trợ chúng ta. Vì ai bền đỗ đến cùng thì người đó sẽ được ơn cứu thoát. Amen.
(Lm. Nguyễn Đức Vinh Sanh – Mai Tá lược dịch)
“Tôi chấp thuận, trăm lần trong thổn thức,”
“Tôi bàng hoàng, hốt hoảng những đêm đêm.”
(dẫn từ thơ Bùi Giáng)
Bàng hoàng, hốt hoảng hay thổn thức phải chăng đó cũng là động-thái của những người gặp cảnh ngộ “sa chước cám dỗ, vẫn cầu xin. Cầu và xin, như lời cuối kinh Lạy Cha, ta từng đọc?
Trình thuật, thánh Luca ghi về sự thể đồ đệ Chúa từng nghe Thày Chí Thánh dạy cách nguyện cầu qua lời kinh “Lạy Cha”. Ý/lời “sa chước cám dỗ” ở cuối kinh, diễn tả một nhận thức rất rõ về cuộc đời của Chúa có nối kết với “chước cám dỗ” công khai cả một đời. “Chước cám dỗ” Chúa gặp, kể về sự việc xảy đến ở đầu đời, khi Thần Khí dẫn Ngài vào “sa mạc” thanh vắng và Ngài ở đó 40 ngày để “sa chước cám dỗ”, có giáp mặt “quỷ ma”, và có cả thiên sứ đến hầu hạ Ngài.
Sa chước cám dỗ, không chỉ xảy đến vào buổi đầu đời Ngài, mà cả vào ngày Ngài nhận thanh tẩy cho đến thời khắc diễn ra ở vườn Géthsêmani, là yếu tố lịch sử được diễn tả không theo nghĩa hiện tượng, nhưng như sự thể xảy đến suốt một đời. Sự việc này, thánh sử Máccô diễn tả đặc biệt hơn thánh Mátthêu và Luca, chỉ sơ qua ở kinh Lạy Cha mà thôi.
Cụm từ “sa mạc” thánh Máccô tả, không có nghĩa chốn miền nóng cháy đầy những cát ở Giuđêa hay đâu đó, mà là sự việc Chúa đi vào cuộc sống công khai với mọi người. Bởi, với Chúa, tính công khai của cuộc sống mang ý nghĩa mở ra ngoài, hoặc tính chính trị cũng như tính công-khai-hoá như “sa mạc đời người”. Và, Ngài ở đó cho đến ngày trút hơi cuối cùng cuộc đời Ngài, mới thôi. Cuộc sống công khai của Chúa được đề cập ở đầu Tin Mừng, là việc Chúa dấn thân phục vụ người nghèo khó, sống vì nguời khó nghèo. Bởi Ngài ít được người hỗ trợ, nên cứ bị kình chống/đối lập không ngớt. Và, trong đời người, hễ ta công khai có lập trường sống giống như Ngài, rồi cũng bị xa cách/tách biệt khỏi “sa mạc cuộc đời” người; và khi đó, bạn bè ta là người nghèo khó sẽ chẳng giúp ích gì cho ta hết.
Truyện kể Chúa chịu “sa chước cám dỗ”, đề cập việc Ngài giáp mặt/đụng trận với đám “quỷ ma”, tức các lãnh tụ tôn giáo người Do thái thời đó cứ kình chống/khích bác những gì Ngài công khai phục vụ người nghèo. Và cuối cùng, “thiên sứ đến với Ngài”, chính là đồ đệ đến giúp Ngài thực hiện mọi sự cho người nghèo, cách công khai.
Cụm từ “sa chước cám dỗ”, tiếng Hy Lạp là “Peirasmos” nghĩa là khai thác/thử nghiệm giá trị sự việc để xem mình kình chống được bao lăm và xem có khả năng đi xa hơn thế không. Ở Tin Mừng thánh Luca đoạn 22 câu 28, cụm từ này mô tả không chỉ tình huống khó khăn Chúa gặp phải, khi Ngài công khai lo cho người nghèo thôi; mà còn diễn bày những khó khăn của Hội thánh thời tiên khởi quyết theo Chúa đi vào quãng đời công khai sống thực hiện những điều Chúa dạy.
Như thế thì Chúa nhìn vào những gì, khai thác những gì và “sa chước cám dỗ” đến thế nào?
Tin Mừng thánh Luca cho thấy, khả năng trở thành Đấng Mêsia cứu vớt người nghèo theo cách thống trị hoặc thụ động hoặc sinh hoạt đầy tính chất rất kịch.
Thứ nhất, theo cách thống trị. Có người hỏi: nếu Đức Giêsu là Chúa, thì sao Ngài không hạ gục phe đối lập để thống trị? Nếu Ngài làm thế cũng để đem lại lợi ích cho người nghèo, cũng đâu khó. Ở đây, thánh Luca gọi đó là cách làm của ma quỷ. Ở các đoạn sau đó, thánh Luca lại đã coi quyền lực và vinh dự ở đời thuộc dạng quỷ ma, đầy cám dỗ.
Thứ hai, là tính thụ động. Theo thánh sử, thụ động đây, không có nghĩa lười biếng mà là: bắt Chúa làm mọi việc, còn mình thì chẳng làm chút gì hết, cứ rút lui vào bóng tối, thế là xong. Làm như thế, tức: phủ nhận điều lạ kỳ về sự quan phòng của Chúa. Thánh Luca gọi đó là những gì mang tính chất rất “người”, nghĩa là: cứ “mặc xác”, biếng nhác chẳng chịu làm gì, lại coi đó như cách phục vụ Chúa rất hữu hiệu, đây là kiểu cách rất xấu của những người ù lì, bị động.
Thứ ba, sinh hoạt đầy chất kịch. Có thể, đây là tấn thảm kịch bi đát, sẽ còn diễn tiến nhiều lần về sau. Tác giả Luca từng cho thấy người Hy Lạp chẳng cần xem đấng bậc anh hùng hảo hán đi vào hoàn cảnh ra sao, nhưng thần linh của họ cuối cùng cũng ra tay cứu vớt, và người người lại ra về vui vẻ. Cái khó ở đây, không là sống đời thực tế, mà là cung cách biến thái/bay nhảy, không trưởng thành theo cách cuộc sống thực tế vẫn tạo ra. Quả là, sự việc này xem ra thật trẻ con, nhưng cũng đúng.
Lời đáp của Chúa khi “sa chước cám dỗ”, quả thật dứt khoát. Ngài đã nói tiếng “không” với các đề nghị do “quỷ ma” đưa ra. Ngài ra lệnh cho quỷ ma đi cho khuất mắt Ngài. Ngài nguyện cầu Cha Ngài giải thoát Ngài khỏi ác thần/sự dữ. Sự dữ đây, chính là giới cầm-quyền chuyên khuynh-loát những người đưa ra nhiều chính sách cho dân con mọi người. Và, Ngài nguyện cầu Cha, nếu được, “xin Cha cất bỏ chén đắng này khỏi nơi Con.”
Chúa cho thấy bản chất lười biếng của con người đã bớt dần tính “linh đạo”, cứ gãy đổ và lại muốn làm thứ gì đó, khác hẳn. Ngài không ngồi ì một chỗ như ai đó, rồi giao hết việc cho Cha làm. Nhưng, Ngài thừa nhận một số khuôn mẫu về chức năng của Đấng Mêsia có thể viết thành kịch-bản cho sân khấu không thực. Tất cả là bài học để đời về trách nhiệm, ngõ hầu đồ đệ học lấy mà thực thi.
Vùng Cận Đông cũng như Israel khi xưa, con dân trong Đạo vẫn đặt ra một số mẫu kinh để ta nguyện cầu, van xin. Mẫu kinh, gồm ba phần: phần đầu, gồm toàn những chuyện đẹp của đấng bậc được người cầu kinh dâng lời nguyện, như thể tung nâng các đấng trước khi dâng lời khốn khó với các ngài. Thứ hai, lời cầu đơn giản, rõ ràng và ngắn gọn chỉ diễn tả những gì người cầu mong muốnb. Thứ ba, xin lỗi đấng bậc mình dâng lời kinh để đưa ra điều thỉnh nguyện (và hứa sẽ không lặp lại điều ấy một lần nữa). Và, rõ ràng, đây là cấu trúc của “Kinh Lạy Cha”.
Phần đầu kinh, là lời thưa: “Lạy Cha chúng con ở trên trời. Chúng con nguyện Danh Cha cả sang, nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.” Phần hai, là câu: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày.” Phần ba, lại thêm câu: “Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con, và xin chớ để chúng con “sa chước cám dỗ”, nhưng cứu chúng con cho khỏi mọi sự dữ.”
Phần chính của Kinh Lạy Cha là yêu cầu có lương thực hằng ngày, cho người đói nghèo, ngày hôm nay, Kế đó, là việc khởi động rồi xin thứ tha vì đã cầu xin và hy vọng cảnh tình này sẽ không diễn ra nữa. Amen.
Lương thực hằng ngày phải chăng là cơm bánh? Không hẳn thế. Đây chỉ là biểu trưng. Là, biểu tượng đặc trưng cho việc chúng ta và mọi người có nhu cầu sống còn trong cuộc chiến phấn đấu mỗi ngày, cuộc sống thực. Đại ý muốn nói cùng Chúa Cha: “Xin cho chúng con có đủ sức mạnh và khả năng tự tại để đến được đó, hôm nay đây.
“Lương thực hằng ngày” cho người nghèo đó: Ta vẫn “sa chước cám dỗ” như thế, rất nhiều ngày, là: làm điều gì khác thay vì đem “cơm bánh” ban phát cho người nghèo. Thế nên, hãy cầu xin làm sao để ta đừng “chào thua” về những “sa chước cám dỗ” như thế, và sau đó có thể ban phát cơm bánh cho người nghèo đói.
Và tiếp đó, kinh “Lạy Cha” đề cập đến việc thứ tha, và sự dữ. Tại sao thế? Có lẽ Chúa biết rõ Ngài từng có những kẻ đối lập với Ngài trong cuộc sống, và Ngài đã thứ tha chonhững người đứng đằng sau đó. Và có lẽ, Ngài cũng biết Ngài từng phạm một vài sai sót về chính trị trong cuộc sống, như: lời Ngài nói có thể là mạnh đối với người này, nhưng lại quá yếu với người khác. Nên, trong kinh Lạy Cha, Chúa yêu cầu những người bị đau lòng vì những sự việc như thế hãy thứ tha Ngài, như Ngài đã tha thứ họ. Ngài công nhận: không phải mọi người lúc nào cũng làm đúng, chí ít là những chuyện công khai, với chúng dân.
Thánh Luca viết Tin Mừng cho Hội thánh thời tiên khởi, vào nhiều thập niên sau khi Chúa mất, tức: viết cho một Giáo hội tin vào lời lẽ vẫn công nhận rằng: Đức Giêsu là Chúa, nên câu cuối ở kinh Lạy Cha, có ý căn dặn rằng: nếu ta không thận trọng lại để mình “sa chước cám dỗ”, sẽ bị quyền lực và vinh quang lôi cuốn gài bẫy. Ta càng lún sâu vào bẫy đó nếu cứ thử. Và khi đó, chớ trách móc.
Và, tiếp tục kinh Lạy Cha, thánh sử Luca lại kể tiếp truyện dụ ngôn về cuộc sống đời thường ở thôn làng bé nhỏ, như thể cất lên lời kinh gọi mọi người trong nhân loại như lời gọi “Lạy Cha”, tức van nài bạn bè tấm bánh lúc nửa đêm tắt lửa tối đèn, vẫn cần đến tình thương yêu, của mọi người. Chí ít, là bạn bè người thân gần xa, lại cứ quấy rầy mình vào những lúc khó thực hiện lòng thương mến/bác ái.
Nói tóm lại, điều mà thánh Luca muốn nói đến ở lời kinh thần thánh rất “Lạy Cha” hôm nay, sẽ không đem gì nhiều đến với ta, nếu ta không thực thi đối xử với bạn bè gần xa, chỗ thân quen hoặc xa lạ, vẫn là nhân loại bằng lời kinh “Lạy Cha chúng tôi”, rất mọi người.
Trong tinh thần hiểu biết như thế, ta sẽ cất lên câu thơ như lời kinh đêm của thi sĩ họ Bùi như:
“Tôi chấp thuận, trăm lần trong thổn thức,
Tôi bàng hoàng, hốt hoảng những đêm đêm.
Tôi xin chịu cuồng si để sang suốt,
Tôi đui mù cho thoả dạ yêu em.”
(Bùi Giáng – Phụng HIến)
“Thỏa dạ yêu Em”, đúng như lời thánh-nhân từng dặn dò trong lời kinh “Lạy Cha”, rất hôm nay.
(Suy niệm của Phanxicô Xavie)
Bác sĩ Alexis Carrel là một nhà nhân bản. Trong một tác phẩm được cả thế giới biết đến: L’homme inconnu (Con người tuyệt diệu), đã không tiếc lời ca ngợi giá trị và sự cần thiết của việc cầu nguyện. Theo ông thì cầu nguyện đúng nghĩa là thực thi chức năng “con người thụ tạo” của ta với Đấng Tối Cao, tức Thiên Chúa. Theo đó, con người nhờ trí tuệ phong phú, nhờ cuộc sống, nhờ những điều mắt thấy tai nghe, mà càng ngày càng nhận thức được sự cao cả tuyệt vời của Đấng Tạo Hóa. Đồng thời cũng nhận ra sự nhỏ bé, hữu hạn và bất toàn của mình, nhưng lại được tham dự vào cuộc sống tuyệt vời của Đấng Tối Cao. Do đó không thể không thốt lên những lời tôn vinh chúc tụng cảm tạ và cầu xin cùng Ngài. Nhưng cầu nguyện như thế nào cho đúng cách, chúng ta cùng nhau lắng nghe Lời Chúa qua phụng vụ của Chúa nhật XVII mùa thường niên năm C:
Trong bài đọc 1 được trích từ sách Sáng Thế (St 18, 20-32) thuật lại rằng: Abraham không chỉ hiếu khách mà còn quảng đại khi mạnh dạn đứng lên cầu xin cho dân thành Sôđôma. Ông được Thiên Chúa mạc khải cho biết thành Sôđôma tội lỗi thấu trời sẽ bị tiêu diệt. Tất cả sẽ bị chìm trong lửa bởi trời, sẽ bị giáng phạt, nhưng Thiên Chúa chỉ giáng phạt khi Ngài đã biết rõ thực hư. Và Abraham đã kêu xin cho dân thành này. Ông mặc cả với Chúa xin Ngài đừng nỡ lên án những người lành chung với người dữ và hãy vì những người lành mà tha thứ cho cả thành. Thiên Chúa chấp nhận theo ý nguyện của Abraham. Ở đây cho thấy có sự liên đới trong ơn cứu độ. Abraham cầu xin thay cho dân: vì những người tốt lành Thiên Chúa sẽ không trừng phạt những người tội lỗi. Mọi người cùng sống với nhau, cùng chia sẻ một niềm tin thì luôn liên đới và cần cho nhau. Do đó cầu nguyện không chỉ cho mình mà quan trọng phải biết cầu nguyện cho người khác. Vì lời cầu nguyện cho nhau thì dễ được Thiên Chúa chấp nhận hơn lời cầu nguyện cho chính mình.
Đáp lại yêu cầu của các môn đệ xin Người dạy cho biết cách cầu nguyện, Chúa Giêsu đã dạy các ông kinh Lạy Cha. Qua nội dung của lời kinh này, Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ không chỉ biết cách cầu nguyện như thế nào cho đúng, mà còn đưa các ông đi vào trong mối quan hệ mật thiết với Thiên Chúa và tha nhân. Cầu nguyện là sống tương quan con thảo với Thiên Chúa là Cha và sống tương quan huynh đệ với mọi người.
Khi dạy mọi người cầu nguyện gọi Thiên Chúa là Cha, Chúa Giêsu đã đưa con người vào một mối tương quan mới. Người thông ban cho môn đệ và chúng ta quyền gọi Thiên Chúa là Cha, thì cũng đồng thời, được nối kết với mọi người để trở nên anh em với nhau trong đức tin. Lời kinh “Lạy Cha chúng con ở trên trời” nói lên thân phận của người Kitô hữu là con Chúa và là anh em của nhau, nói lên tình yêu hiệp nhất của mọi thành phần dân Chúa. Nên trong lời thư của thánh Phaolô khi nhắc nhở dân Côlôsê cũng chính là lời khuyên ta suy nghĩ về ơn gọi của mình. Nhờ Bí tích Thanh Tẩy, chúng ta được trở nên công chính và trở thành nghĩa tử của Thiên Chúa. Vì vậy, điều cần duy nhất là chúng ta phải giữ vững tư cách con cái Chúa, để luôn nhận được lòng thương xót của Người. Ước gì mỗi khi đọc lời kinh ấy, chúng ta thực sự sống hiếu thảo với Thiên Chúa là Cha, thực sự ý thức và sống tương quan huynh đệ với mọi người chung quanh.
Kết thúc dụ ngôn người bạn bị quấy rầy, Chúa Giêsu khẳng định: hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ thấy, hãy gõ thì sẽ mở cho. Những lời này vừa gợi mở cho chúng ta niềm hy vọng, vừa dạy chúng ta thái độ tin tưởng và sự bền tâm thiện chí trong cầu nguyện. Từ kinh nghiệm nài van của Abraham khi cầu xin cho dân thành Sôđôma đến dụ ngôn trong bài Tin mừng, tất cả gợi lên cho chúng ta bài học quý giá: hãy cầu nguyện, cầu nguyện luôn, cầu nguyện không ngừng. Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta hơn cả những gì chúng ta mong ước.
Không ai là một hòn đảo! Sống trên đời này, mọi người đều có một mối liên hệ này hay liên hệ khác với nhau để rồi nay người này nhờ người kia và mai người kia nhờ người này. Con người, dù muốn dù không vẫn chỉ giúp cho anh chị em đồng loại của mình ở một mức độ cho phép mà thôi.
Khi con người đối diện với những vấn đề ngoài tầm tay thì con người lại chạy đến với những vị thần linh, thần thánh mà mình tôn thờ. Chúa Giêsu khi mặc lấy phận người Ngài cũng phải đương đầu, đối diện với tất cả những khó khăn, những hạn chế của phận người để rồi Ngài lại chạy đến với Chúa Cha mà cầu nguyện.
Với thánh Luca, Ngài thường dành một vị trí hết sức đặc biệt cho lời cầu nguyện của Chúa Giêsu. Thánh Luca thường mở đầu bằng lời cầu nguyện của người Do Thái trong Đền Thờ và kết thúc bằng lời cầu nguyện của cộng đoàn các môn đệ “không ngừng chúc tụng Thiên Chúa trong Đền Thờ”.
Để ghi dấu tất cả những thời điểm quan trọng trong sứ vụ của Chúa Giêsu, Thánh Luca đã ghi lại lời cầu nguyện khi Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan.
Lời nguyện xin hết sức đơn sơ và thân thiết của trẻ thơ khi thốt lên: “Abba”, nghĩa là: “Lạy Cha”.
Các môn đệ đã chứng kiến lời cầu nguyện của Chúa Giêsu với Chúa Cha không chỉ bằng mắt thấy, mà còn bằng tai nghe. Các môn đệ đã phải nghe Chúa Giêsu cầu nguyện lớn tiếng, và chính trong các biến cố quan trọng, mà các ông đã có thể hình thành cho mình một ý tưởng cầu nguyện riêng. Chúa Giêsu đã muốn người ta nghe Người cầu nguyện, Người rõ muốn xác định lời cầu nguyện của chúng ta bắt nguồn từ lời nguyện của Người.
Thánh Matthêu lại khác với Luca, Mátthêu thuật việc truyền lại kinh Lạy Cha.
Thánh Luca trong khuôn khổ Bài Giảng trên núi thì lại đặt chữ “Lạy Cha” trong khuôn khổ của cuộc hành trình về Giêrusalem, thành phố mà nơi đó, Chúa Giêsu sẽ trút hơi thở cuối cùng trong lời nguyện sau cùng. Chúa Giêsu, “ở một nơi nào đó”, “đang cầu nguyện”, và, khi Người đã cầu nguyện xong, một trong các môn đệ xin Người: “Lạy Chúa, xin dạy chúng con cầu nguyện”. Đây không phải là vấn đề cầu nguyện chung chung, mà là lời cầu nguyện, thêm vào những lời cầu nguyện chính thức của niềm tin Do thái, sẽ nêu rõ nét đặc trưng nhóm các môn đệ của Người, theo cách thức – mà chúng ta không biết – mà “Gioan Tẩy Giả dạy các môn đệ ông”. Một lời cầu nguyện tập trung vào điểm chính yếu của sứ điệp Người và xây dựng cộng đoàn các môn đệ chung quanh Người.
Chúa Giêsu đáp lại lời cầu xin của ông bằng một lời cầu nguyện kiểu mẫu. Một lời cầu nguyện mà từ nay, căn cứ vào đó, tất cả các lời cầu nguyện kitô giáo sẽ phải rập theo, cách này hay cách khác: đó là kinh “Lạy Cha”.
Những hoàn cảnh, trong đó lời cầu nguyện kiểu mẫu được phát biểu rất đặc biệt. Chúng giúp các kitô-hữu hiểu rằng, lời cầu nguyện của họ là sự nối dài lời cầu nguyện của Chúa Giêsu; lời cầu nguyện đó phải là sự bắt chước, phản ảnh…Các môn đệ đã nhìn thấy Chúa cầu nguyện, nên đã xin Người hướng dẫn họ cầu nguyện; nói khác đi, đưa dẫn họ vào lời cầu nguyện của Người. Chúa Giêsu đồng ý, bằng cách công bố kinh Lạy Cha. Khi cầu nguyện bằng kinh nầy, và khi hiểu thấu những tình cảm hay ý hướng nó diễn tả, các kitô hữu cầu nguyện như Chúa Giêsu: “Nhờ Người, với Người, trong Người” là một công thức về sau sẽ diễn tả điều mà thánh Luca gợi ý”.
“Kinh Lạy Cha” của thánh Luca ngắn hơn của thánh Matthêu, bao gồm một lời cầu khẩn, hai ước nguyện và ba lời xin ơn.
Một lời cầu khẩn. Để thưa với Thiên Chúa, kinh này lấy lại từ ngữ mà Chúa Giêsu, ngôi Con, dùng trong lời nguyện của riêng ngài: “Lạy Cha” (“Lạy Cha chúng con” trong thánh Mátthêu). Lập tức, lời này mạc khải cho chúng ta chiều sâu của mối liên hệ giữa Chúa Giêsu Kitô và Thiên Chúa.
Lời cầu nguyện kitô giáo, giúp môn đệ Chúa Giêsu bước vào sự thân mật duy nhất liên kết Chúa Con với Chúa Cha. Trong lời cầu nguyện của người con thảo, người kitô hữu có thể lấy lại lời cầu khẩn này của Đức Kitô: “Lạy Cha” (Gl. 4, 6; Rm 8,15 ). Tiếng kêu Cha đó có tính cách riêng biệt, cá nhân. Nó diển tả một sắc thái thân mật và cũng muốn nhấn mạnh là, mối liên hệ duy nhất và đặc biệt mà Chúa Con có với Chúa Cha cũng là mối liên hệ nối kết tất cả các kitô hữu với Thiên Chúa.”
Với hai ước nguyện cùng hiện diện song song trong lời nguyện của người Do Thái.
Sự thánh hóa Danh Thiên Chúa: chớ gì Thiên Chúa can thiệp và tỏ rõ mình là Thiên Chúa, ước mong Người được mọi người nhận biết!
Nước Ngài trị đến: chớ gì Thiên Chúa đích thân ngự đến và tỏ lộ ra sự hiện diện cao cả và năng động của ngài!
“Lạy Cha, xin ngự đến” đã được làm thành công thức dưới hai hình thức khác nhau; Thiên Chúa là “đối tượng” duy nhất của lời cầu nguyện dâng lên Thiên Chúa”
Ba lời xin ơn, được diễn tả, không phải ở ngôi thứ nhất số ít: “Con”, nhưng ở ngôi thứ nhất số nhiều: “Chúng con”, các môn đệ thân thưa với Thiên Chúa cho chính họ với tư cách là một cộng đoàn.
Để tiếp tục cuộc hành trình lữ thứ trần gian, lời xin ơn thứ nhất hướng về “cơm bánh mà chúng con cần mỗi ngày”. “Trước hết ở đó, có sự ám chỉ đến manna, bánh từ trời đã hồi phục dân Thiên Chúa trong thời kỳ Xuất Hành, và, theo sự mong đợi của dân Do Thái, bánh này sẽ lại được trao ban như là lương thực cho cộng đoàn của thời sau hết. Nơi thánh Luca, các tín hữu được mời gọi cầu xin Bánh hằng sống nầy hằng ngày”
“Sự tha thứ tội lỗi của chúng con” đó là điều hai mà lời xin nhắm đến. Ơn tha thứ là ơn huệ nhưng không của Thiên Chúa. Nếu đã trót phạm tội với Chúa mà không có ơn tha thứ, chúng ta sẽ không thể nào sống trong tình thân với Thiên Chúa, vì chúng ta là những con nợ chẳng có gì để mà trả được cả. Ơn tha thứ đó cần thiết cho chúng ta còn hơn là cơm bánh. Hơn nữa, chúng ta còn phải tha thứ cho các con nợ của chúng ta, nếu không, Thiên Chúa sẽ không thứ tha cho chúng ta.
Với con người, vốn mỏng dòn yếu đuối, luôn phải đối diện với những cơn cám dỗ thì lời xin ơn thứ ba, lời xin sau cùng liên hệ đến sự trợ giúp trong “cơn cám dỗ”. Chúng ta không xin cho chúng ta được miễn trừ khỏi cơn cám dỗ hay thử thách: Chính Chúa Giêsu đã được Thánh Thần đưa đến hoang địa để chịu ma quỉ cám dỗ trước khi lên đường thực thi sứ vụ công khai loan báo Tin mừng của Ngài. Chúng ta cầu xin đừng sa chước cám dỗ, theo ý nghĩa của lời cầu cho Phêrô, trong chương 22 câu 32: “Thầy cầu nguyện cho con, để con không mất đức tin”. Chúng ta cầu xin cho thử thách không làm chúng ta ngã quị, cho chúng ta đừng sa vào kế hoạch của Tên Cám Dỗ.
Với lời nguyện tin tưởng và kiên trì. Chúa Giêsu tiếp nối bằng một dụ ngôn và những lời cắt nghĩa cho dụ ngôn được rõ hơn.
Dụ ngôn là dụ ngôn người bạn quấy rầy, nhân danh tình bạn, không sợ làm phiền một trong những người bạn của mình, ngay “lúc giữa đêm”, và không ngại nằn nỉ đến độ “sỗ sàng”, để giúp đỡ một người bạn khác, đường xa mới đến.
Cũng chính với sự tin tưởng, sự kiên trì, táo bạo, làm nền tảng cho tình yêu của Người mà chúng ta dám thân thưa với Thiên Chúa: “Chúa Giêsu nhấn mạnh, các con hãy xin, thì sẽ được; hãy tìm thì sẽ thấy; hãy gõ, thì cửa sẽ mở cho các con…”
Vốn dĩ là một người cha nhân hậu, người cha tốt lành, Thiên Chúa chẳng lẽ không lắng nghe lời cầu nguyện của con cái Người. Tốt lành hơn mọi người cha trên trái đất, Chúa Cha trên trời sẽ trao ban cho những ai cầu xin Người ơn huệ tuyệt hảo: Chúa Thánh Thần.
Các nay hai tuần, khi đọc dụ ngôn Người Samaritanô Nhân Hậu, chúng ta biết rằng, để đi theo Chúa Giêsu lên Giêrusalem, chúng ta phải bước qua con đường tình yêu tha nhân, một tình yêu vượt trên tất cả mọi thứ lề luật. Chúa Nhật vừa qua, trong nhà của Mátta và Maria, chúng ta khám phá ra rằng con đường này là con đường lắng nghe Lời Chúa. Hôm nay, chúng ta được báo cho biết, con đường nầy cũng là “con đường của lời cầu nguyện khiêm nhường, tin tưởng và kiên trì, con đường trao ban Thánh Thần và sẽ được Người tác động”.
Xin cho mỗi người chúng ta học nơi gương của Chúa Giêsu luôn kiên trì, luôn khiêm tốn chạy đến với Cha là Thiên Chúa giàu lòng thương xót để Ngài ban những ơn lành cần thiết cho chúng ta để chúng ta vượt qua tất cả những khó khăn thử thách của cuộc đời.
(Suy niệm của Anphong Nguyễn Công Minh, OFM)
Hôm nay Chúa dạy về cầu nguyện. Nhưng ta không khai triển đề tài cầu nguyện, mà triển khai một góc nhỏ, nhưng là đỉnh lớn của nội dung lời nguyện. Chúa dạy cầu nguyện. Và cầu nguyên bằng kinh Lạy Cha. Ta chỉ dừng lại tiếng xưng hô “Lạy Cha” đó mà thôi.
Câu chúng ta thường nghe “tứ hải giai huynh đệ”: khắp bốn bể đều là anh em, câu này thoạt tưởng là hay, nhưng suy nghĩ lại, lại thiếu một yếu tố quan trọng. Tất cả là anh em, nhưng lại là anh em … mồ côi, vì không có cha. Quan là “dân chi phụ mẫu,” thì quan đó cũng chỉ là cha mẹ của một góc nhỏ dân: dân Tàu, dân Việt… chứ bốn bể làm gì có ông quan nào làm chủ được để gọi là mẹ là cha. Còn suy ra từ kinh Lạy Cha, thì chúng ta là anh em, và không mồ côi vì có chung một Cha trên trời. Anh cũng đọc Lạy Cha, tôi cũng đọc lạy Cha, chị cũng xướng Lạy Cha… và là một Cha thôi, nên tất cả trở thành anh em. Tứ hải giai huynh đệ nhi đồng nhất phụ. Để có thể bao phủ cả bốn bể, chỉ có bầu trời. Để có thể làm cha anh em trong bốn bể chỉ có Ông Trời. Và chính Ông Trời này là Cha của chúng ta. Lạy Cha, Đấng ngự trên Trời.
Trong Thánh lễ, trước kinh Lạy Cha, chúng ta nghe lời dẫn thế nào? Vâng lệnh Chúa Cứu Thế và theo Lời Người dạy, chúng ta dám (cả dám, cả gan, gan cùng mình) nguyện rằng. Một chỗ khác Chúa nói rõ, “Thầy đi về cùng Cha của Thầy và cũng là Cha của anh em.” Không phải Cha của Thầy khác Cha chúng ta, mà Chúa Giêsu và chúng ta có chung một Cha, nên ta là anh em với nhau, và là em (dẫu bảy tám mươi tuổi, dẫu sinh ra trước khi Đức Giêsu xuống thế làm người, thời ông Bành Tổ cổ lai) tất cả đều là em của Đức Giêsu. Ngài là Trưởng Tử, của một đàn em đông đúc (Rm 8,29: “Vì những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc”).
Và Chúa Giêsu chỉ cho ta quyền này thông qua Chúa Thánh Thần. Chính nhờ nước và Thánh Thần, tức Phép Thánh Tẩy, mà Thánh Thần, tức vị thần thánh hoá, biến ta thành thánh, để ta dám, cả dám cùng với Thánh Thần trong ta, kêu lên abba, Cha ơi Cha. (Gl 4,6: Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: “Áp-ba, Cha ơi!”)
Vậy mà chúng ta có thấy chói tai và mâu thuẫn không, khi vào xưng tội, có linh mục nói cách rất tự nhiên: để “đền tội”, con hãy đọc 3 kinh Lạy Cha. Làm như đọc Kinh Lạy Cha là một hình phạt, như để đền tội phá trong lớp, hãy quì gối trên vỏ sầu riêng một giờ!
Đọc Kinh Lạy Cha, được kêu Cha ơi Cha là một ân phúc, đâu phải ai muốn cũng được. Phải những kẻ đã được tái sinh trong Phép Rửa bằng nước và Thánh Thần.
Thời nguyên thuỷ Kitô giáo, và nay khi Công Đồng muốn trở về nguồn để chia thành nhiều giai đoạn khi cử hành bí tích thánh tẩy, thì, dự tòng chỉ được trao kinh Lạy Cha cuối cùng (Kinh Tin Kính được trao trong giai đoạn trước), ngay trước khi lãnh nhận Phép Rửa, để khi được thánh tẩy xong là trở thành em Chúa Giêsu, thành con Chúa Cha, để vinh hạnh đọc kinh Lạy Cha, gọi Chúa Trời là Cha ơi Cha.
Trong một lớp học về phụng vụ khi còn ở Chicago, tôi có nêu lên lưu ý này: tại sao lại nói: để đền tội, hãy đọc kinh Lạy Cha. Cả lớp thấy có lý và cuối giờ ông thầy vẫn còn tâm đắc cho nên nói với cả lớp lúc đứng dậy đọc kinh kết thúc: for penalty say Glory to the Father (one time).
Chị thánh Têrêxa chẳng bao giờ đọc hết câu đầu của kinh Lạy Cha chứ đừng nói là hết cả kinh. Bởi vì mới đọc được hai chữ Lạy Cha, mà tiếng ngoại quốc thì có thể hiểu thân mật hơn: cha ơi, Bố ơi, Ba ơi… là chị không đọc thêm được nữa, vì nghĩ mình là ai. Nhỏ bé, thấp hèn, tội lỗi, mà được phép gọi Chúa Tể đất trời là Ba ơi, không thể hiểu nổi. Chị ngất ngây với tiếng kêu Cha ơi, mà không thể đọc thêm được danh Cha cả sáng nước Cha trị đến gì nữa…
Các chị nữ và các bà mẹ đừng buồn, khi thấy Chúa chỉ được gọi là Cha. Vậy ngài không là Mẹ hay sao?
Trong khoá họp THĐGM về gia đình ở Roma, tháng 10-1980, ĐGM Nguyễn văn Hoà có phát biểu: khi chúng ta gọi Chúa là Cha, chúng ta mới gọi được 50% phẩm tính, danh xưng của Chúa. Sau buổi họp, một chuyên viên Kinh Thánh, và một chuyên gia về luật đến nói với Đức Cha: ngài nói đúng. Nhưng tiếc thay cho đến nay ta chưa tìm được cách nào để vượt ra khỏi, bởi bản văn Kinh Thánh ghi rõ ràng Abba, Cha ơi Cha (chứ không phải Imma: má à má).
ĐGH Gioan Phaolô II hình như còn đi xa hơn khi vào đầu triều đại của ngài, ngài đã nói: Chúa là Cha, hơn thế nữa, Chúa là Mẹ. Vậy là “hơn thế nữa” có thể Chúa là Mẹ 60, Chúa là Cha 40 (tứ lục)! Ta không lạm bàn thêm vì là vấn đề khá nóng bỏng, nhất là tại các nước phương Tây. Gọi Chúa là She or He.
Vậy là ta cứ phải theo truyền thống gọi Chúa là Cha nhưng vẫn ngầm hiểu “hơn thế nữa Ngài là Mẹ,” bởi lẽ để diễn tả tình yêu (chứ không phải uy quyền) thì lòng Mẹ vẫn là biểu tượng vượt trội hơn ý chí của Cha.
Nếu Thiên Chúa tạo dựng nên con người giống hình ảnh Ngài, thì ta cũng có thể nhìn vào ta mà suy ra Chúa.
Một người bạn có đứa con đầu lòng tâm sư: “lần đầu tiên khi nghe đứa con gọi: Bố ơi, tôi bủn rủn cả chân tay, một luồng điện cực mạnh chạy khắp cơ thể, tôi cảm thấy hạnh phúc vô cùng.” Quả thật. Gọi ai là cha tức là nhận người ấy là ân nhân lớn nhất đời mình. Vì nhờ cha, ta nhận được món quà tặng quý giá nhất đó là sự sống.
Tôi có một anh bạn, cùng lớp thời chủng viện, nay anh làm bố đời, tôi làm cha đạo. Anh ở vùng quê Cái Sắn, nhiều nắng lắm sương vất vả nuôi nấng gia đình. Anh nói, “mỗi ngày đi làm ruộng về, mệt muốn chết, nhưng khi về đến nhà nghe đứa nhỏ kêu lên: ba về, bố về… thấy mệt mỏi chạy mất tiêu.”
Vậy khi ta gọi Chúa là “Cha ơi Cha,” ta đã suy xét trong phần I rằng đó là một ân phúc lớn lao, không sao cảm tạ, thì trong phần II này, ta thử “chơi cha” một chút, khi ta gọi Chúa là Cha, Chúa có sung sướng quên đi mệt mỏi, xúc phạm của ta như hai bố đời, bố trần gian trên đây tâm sự không? Có được phép áp dụng tâm trạng của bố dưới trần cho Cha trên trời không? Hẳn là được. Vì ta được tạo dựng giông giống như Chúa mà.
Bởi đó khi cầu nguyện, xin ơn gì, chỉ cần kêu ba ơi ba là Cha trời sẽ “bủn rủn tay chân, sẽ quên hết lỗi lầm của ta, mà ban cho ta hết ơn này đến ơn kia.” Chính bài Tin Mừng đoạn cuối cho ta biết điều này “Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, lại lấy rắn thay vì cá mà cho nó? Hoặc nó xin trứng, mà lại cho nó con bọ cạp? Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha trên trời, Người sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người?”
Không cần nói gì nhiều, Cha trên trời cũng ban ơn dư dật.
Để minh hoạ cho điều này có rất nhiều mẫu gương. Chuyện kể cũng nhiều mà tiểu sử thánh nhân cũng không thiếu. Nên chỉ nhắc đến một, mà là một chuyện:
Số là chàng tu sinh kia đi sớm, quên mang sách kinh để cầu nguyện. Thế là chàng nảy ra lời nguyện này: “Cha ơi, con quên sách rồi, bây giờ con đọc cho Cha 24 mẫu tự, ba lần. Cha muốn ghép (giống chương trình “chiếc nón kì diệu”) chữ nào vào ô nào cho đúng cho đẹp ý Cha thì Cha cứ ghép.”
Chúa Cha trên trời phán với triều thần: từ trước tới nay Ta chưa hề nghe được lời cầu nguyện nào hay như thế.
Hay ở chỗ phó thác hết cho Cha, cho bố. Bố muốn làm gì bố làm.
Ta đang sống trong Năm Đức Tin. Sống đức tin là phải truyền bá đức tin, tức làm cho nhiều người nhận biết và tin Chúa là Cha (Chúng con nguyện danh Cha cả sáng). Chúa thì nhiều người cũng nhận biết rồi, nhưng đây là: Chúa là Cha, ba ơi ba. Rồi từ nhận biết và tin, họ sẽ gia nhập vào gia đình Cha (Nước Cha trị đến).
Nhưng trước tiên, bản thân ta hãy sống cho đẹp tình Cha con. Kêu Chúa thật thân tình “Ba ơi Ba,” chắc Chúa sẽ bủn rủn tay chân và sung sướng vì tiếng gọi phó thác của ta. Amen.
(Trích dẫn từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Đức Giêsu đem một sứ điệp đến cho chúng ta. Trọng tâm sứ điệp là giáo huấn của Người về Thiên Chúa. Không ai biết được Thiên Chúa ngoại trừ Đấng từ Thiên Chúa mà đến. Thiên Chúa hằng hữu, quyền năng vô cùng, chi phối mọi khởi sự cũng như mọi cùng tận, là Chúa tể tối cao điều khiển mọi vận mạng, không ai biết được Thiên Chúa nếu chính Thiên Chúa không mặc khải cho. “Không ai biết Chúa Cha là ai, trừ người Con, và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho” (Lc 10,22). Đức Giêsu dạy cho chúng ta biết về danh thánh Thiên Chúa và cách nói với Thiên Chúa. Các môn đệ hỏi Chúa phải cầu nguyện thế nào. Các ông được Chúa dạy cho Kinh Lạy Cha. Bài đọc hôm nay chỉ dẫn đầy đủ về giá trị kinh nguyện phải có. Lời cầu xin phải bày tỏ lòng tin tưởng thiết tha trong bầu khí thân thiết, hiếu thảo. Thân mật, nhưng phải có thái độ thờ phụng từ trong thâm tâm biểu lộ ra ngoài, điều ấy cần được chúng ta nhấn mạnh. Khi cầu nguyện, Kitô hữu trước hết ước nguyện: “Lạy Cha, ước gì danh Cha hiển thánh”. Vậy thờ phụng cách hiếu thảo là gì?
1) Cầu nguyện, trước hết là ý thức về tầm chính xác của mình trước mặt Thiên Chúa. Thế mà đối với Thiên Chúa toàn thể vũ trụ nhỏ hơn một giọt nước trong lòng đại dương. Kẻ thờ phụng dành tất cả tâm hồn mình cho Thiên Chúa. Điều gì biện minh cho thái độ ấy? Thật ra con người ý thức rất rõ mình có khả năng suy nghĩ, hành động, có cả quyền năng nữa. Lẽ nào chỉ vì Thiên Chúa quyền năng vô cùng mà chúng ta phải nhượng bộ tất cả cho Thiên Chúa ư? Thờ phụng, trước hết không phải là sự quy phục của lương tri trước Đấng có quyền năng hơn con người. Thờ phụng là thái độ lương tri tự do muốn nhìn nhận sự thật. Vậy mà sự thật chính là Thiên Chúa hằng hữu, quyền năng vô biên, Đấng vô cùng tận. Thờ phụng là nhìn nhận sự thật ấy. Điều biện minh cho thờ phụng chỉ xuất phát từ sự thật mà thôi. Vì lẽ có nhìn nhận sự thật, con người mới có được phẩm giá; trong sự thờ phụng, tức là trong sự nhìn nhận sự thật, con người tìm ra tầm mức phẩm giá của mình.
2) Sự thờ phụng của Kitô hữu đậm tình hiếu thảo vì lẽ, nhờ lời giảng dạy của Đức Kitô, Kitô hữu biết rằng Thiên Chúa là Cha. Sở dĩ tâm tình chúng ta thành thật và trong sạch vì giữ được thực chất của nguồn mạch. Phân tích tới cùng, chúng ta thấy nguồn mạch là Thiên Chúa, Đấng tạo thành chúng ta, Cha chúng ta. Đọc lên câu “Lạy Cha, ước gì danh Cha hiển thánh”, chúng ta ý thức, thừa nhận, tuyên xưng Thiên Chúa là sự Tuyệt Đối, đồng thời là Cha mình. Tâm tình ấy phù hợp với sự thật sâu sắc dâng lên trong tâm hồn như một ngọn suối, do chính Đức Giêsu khởi lên. Khi chúng ta thốt ra tiếng “Lạy Cha”, chúng ta phát ra một lời nói tự do và hiếu thảo biểu lộ sự thật tha thiết nhất trong chúng ta. Chúng ta biểu lộ con người đích thật của mình khi thưa với Thiên Chúa: Lạy Cha. Ai cũng biết, chính sự thật đem lại ơn cứu độ…
(Trích dẫn từ ‘Giảng Lễ Chúa Nhật’)
VỚI CHÚA GIÊSU CHÚNG TA CẦU NGUYỆN “LẠY CHA” – “ABBA”
Lời cầu nguyện của Chúa “Kinh Lạy Cha” là một lời nguyện riêng nổi bật trong khi dâng Thánh Lễ. Một nguyên nhân của việc đó là chúng ta hãy cám ơn những sự thay đổi đã diễn ra trong Công đồng Vatican II, đó là tất cả chúng ta có thể nói hoặc hát lời linh này bằng chính ngôn ngữ của mình. (Thật là khó để nhận ra trước đây được gọi là Thánh Lễ theo Công đồng Tridentino, chỉ một mình linh mục được đọc lời nguyện này và ngài đã đọc nói bằng tiếng Latin; không một người nào được phép đọc chung với vị linh mục). Mọi người dâng lời kinh này khi đứng đôi khi họ dang tay, thỉnh thoảng họ hướng mắt lên trời, đôi khi họ nắm tay với những người lân cận, nhưng luôn luôn có vẻ như là lời kinh này có một sự chú ý đặc biệt.
Lời cầu nguyện của Chúa mà chúng ta nghe trong Phúc Âm Thánh Luca có một điểm khác với lời kinh chúng ta dùng trong Thánh Lễ, lời kinh này chúng ta đọc theo đoạn Phúc Âm của Thánh Mathêu (6,9-12) chúng ta sẽ không ngạc nhiên về sự khác nhau này. Thứ nhất, cầu nguyện thì rất quan trọng nên chúng ta giả thiết là Chúa Giêsu đã dạy nó trong nhiều dịp và không luôn luôn chính xác cùng một lời đó. Thứ hai lời nguyện đó đã là một phần của phụng vụ cho hơn một thế hệ trước khi những cuốn Phúc Âm được viết ra. Lời cầu nguyện đó đã được ghi lại theo trí nhớ và kết quả là có những sự khác nhau không đáng kể cho đến khi Thánh Luca và Thánh Mathêu đã viết ra lời kinh chung được đọc trong những cộng đoàn riêng biệt của các ngài.
Tất cả những điều này dẫn đến một kết luận quan trọng. Cái điều mới và đặc biệt trong lời kinh nguyện này thì không phải là bản tính hoặc là số lời cầu xin trong kinh nguyện. Sau hết, người Do Thái thường cầu nguyện rằng, danh của Thiên Chúa phải được thần thánh hoá và ý muốn Ngài phải được thực hiện. Thánh Vịnh 51 từ Cựu Ước là một lời kinh nguyện nồng nhiệt và hùng biện về sự tha thứ đã không “thấm tháp gì” kinh nguyện tha thứ trong kinh Lạy Cha.
Điều đặc biệt của kinh nguyện là cung cách độc nhất mà Chúa Giêsu đã diễn tả về Thiên Chúa. Ngài đã kêu lên Chúa, Đấng quyền năng, Đấng Sáng Tạo nên trời và đất, Đấng phán xét kẻ sống và kẻ chết như là “Cha” không chính xác như là “Cha” nhưng là “Abba” cha ơi, chữ này có nghĩa thân mật hơn như là “papa” hoặc “Daddy”, đó chính là cách mà các trẻ nhỏ gọi cha của mình với một tình yêu thân mật và sự quen thân trong sáng, khi muốn nói với cha của mình. Trong tất cả những lời nói của Chúa Giêsu đã được ghi chép lại trong Phúc Âm thì chắc chắn chữ “Abba” cha ơi là một trong những chữ thánh thiêng nhất.
Hãy suy nghĩ về lời cầu nguyện của Abraham và của Chúa Giêsu khác nhau như thế nào. Abraham, cha của dân tộc được chọn, tổ phụ của chúng ta trong đức tin đã dám đến gần Chúa, nài xin Ngài tha thứ cho dân Sodoma và Gomora. Ông đã không ngại ngùng trả giá với Thiên Chúa. Nhưng ông không dám gọi Thiên Chúa như Chúa Giêsu đã gọi, ông sẽ không bao giờ dám nói: “Được rồi, Cha ơi, Cha hãy thương tình và đối xử nhẹ nhàng với Sodoma và Gomora”. Không một người nào dám gọi Thiên Chúa là “Abba”, “Daddy” (Cha ơi), như Chúa Giêsu đã làm.
Và tất cả chúng ta đều được mời gọi thật sự, để nói về và gọi Thiên Chúa là “Abba”, người Cha thân yêu của mỗi chúng ta. Lý do mà chúng ta có thể làm như vậy, là Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta một đời sống mới thông hiệp với Đức Kitô. Đó là một gia đình sự sống của Ba Ngôi ân phúc, sự sống mà chúng ta đã lãnh nhận nơi phép rửa, khi mà chúng ta trở nên những chi thể của Giáo Hội, gia đình của Thiên Chúa ở đây trên mặt đất này.
Bất kỳ thái độ hay cử chỉ nào mà chúng ta có trong lời kinh của Chúa nơi Thánh Lễ, thì chúng ta cũng phải biết là chúng ta được hạnh phúc biết bao vì được gọi Thiên Chúa là “Abba” cha ơi, như Chúa Giêsu đã gọi, đó là tên gọi của Người “Abba” Cha ơi.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một buổi sáng kia, một cô giáo dạy vườn trẻ chưng một bình hoa thuỷ tiên thật đẹp trên chiếc bàn đặt ở giữa phòng. Khi các em bé nhỏ thơ ngây tung tăng tiến vào phòng học, có một em tròn xoe đôi mắt nhìn ngắm những cánh hoa màu vàng lợt và em nói với cô giáo:
“Thưa cô, có phải Chúa đã làm ra những bông hoa nầy không cô? Em muốn gọi điện thoại để cám ơn Chúa đã cho chúng ta những cánh hoa đẹp như thế nầy!”
Nếu đất với trời được nối kết với nhau bằng dây điện thoại, thiết nghĩ Thiên Chúa sẽ phải đặt ra hai đường dây: một đường dây cho những lời cầu xin và một đường dây dành cho những lời cám ơn. Và người ta sẽ thấy một đường điện thoại luôn luôn bận rộn, trong khi đường dây kia thỉnh thoảng mới được dùng đến, như một chuyện ngụ ngôn kia thuật lại như sau:
Hai thiên thần được sai xuống trần gian, mỗi vị mang theo một chiếc giỏ. Họ chia tay nhau để đi khắp hang cùng ngõ hẻm, đến nhà các người giàu có cũng như nhà những người nghèo khổ, thăm các trẻ em cầu nguyện tại tư gia cũng như tất cả nam phụ lão ấu cầu nguyện tại các nhà thờ.
Sau một thời gian, hai thiên thần gặp nhau đúng thời điểm đã hẹn để trở về trời. Chiếc giỏ của một thiên thần nặng như chì, còn chiếc giỏ của thiên thần kia có vẻ như đựng toàn bông gòn.
– “Ông mang gì mà nặng nề thế?”, một thiên thần hỏi. Thiên thần mang giỏ nặng trả lời:
– “Tôi được sai đến để thu nhận tất cả những lời cầu xin của nhân loại. Còn ông, cái giỏ của ông xem ra nhẹ nhàng thế?”
– “À, tôi được sai đến để góp nhặt những lời thiên hạ cám ơn Chúa vì những ơn lành Ngài luôn ban cho họ”.
Thì ra, chiếc giỏ thu nhận lời cầu xin luôn nặng hơn chiếc giỏ thu nhận lời cám ơn. Cũng thế, đường dây điện thoại để xin ơn thì luôn bận rộn, còn đường dây để cám ơn thì không mấy khi có người gọi.
Phải, thưa anh chị em, thường thì chúng ta chỉ biết cầu xin hơn là cầu nguyện. Bởi vì cầu nguyện luôn bao gồm cả lời chúc tụng tôn vinh và cảm tạ tri ân Thiên Chúa. Hôm nay, Chúa dạy chúng ta cầu nguyện. Cầu nguyện là thưa chuyện với Chúa như con cái nói chuyện với cha mẹ. Cầu nguyện chủ yếu là một cuộc gặp gỡ, tiếp xúc, kết hiệp thân tình với Thiên Chúa.
Chính Chúa Giêsu khi còn sống ở trần gian cũng đã cầu nguyện, và Ngài đã dạy các môn đệ phải cầu nguyện luôn. Cũng chính Ngài đã đưa ra một “kinh nghiệm mẫu” mà chúng ta gọi là “Kinh Lạy Cha” – đúng hơn là “Kinh nguyện của Chúa” để cho chúng ta biết phải cầu xin những điều gì và cầu nguyện như thế nào.
Vậy chúng ta phải cầu xin những điều gì?
Nói một cách vắn gọn, chúng ta phải cầu xin những gì phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa. Ý muốn của Thiên Chúa trước hết là cho mọi người nhận biết Ngài là Cha của tất cả mọi người, và trong Ngài, tất cả mọi người đều nhận ra nhau là anh em. Những gì là chia rẽ, hận thù, bóc lột, chém giết nhau đều đi ngược lại ý muốn của Cha trên trời. Bởi vì, làm sao có thể mở miệng gọi Thiên Chúa là Cha của chúng ta được khi chúng ta không muốn yêu thương người khác như anh chị em của mình; và ngược lại, khi chúng ta không nhìn nhận có một Cha chung của chúng ta ở trên trời: “Lạy Cha, con là Đấng ngự trên trời”.
Ý muốn của Thiên Chúa còn là “cho chúng ta hôm nay lương thực hằng ngày”, có nghĩa là Thiên Chúa muốn cho mọi người trên trái đất, không phân biệt chủng tộc, màu sau, tiếng nói đều có đủ cơm ăn áo mặc, cũng như được hưởng tiện nghi của nền văn minh hiện đại, chứ không phải chỉ một số rất ít người chiếm hữu hết tài sản trên thế giới, đang khi đại đa số còn lại chỉ được hưởng một phần quá nhỏ trong cảnh lệ thuộc. Ngài cũng chẳng muốn cho một thiểu số sống xa hoa lãng phí, trong khi đồng loại phải thiếu nhà ở, thiếu cơm bánh, áo quần, thuốc men; phải đói khát, dốt nát, ăn xin, nằm đường xó chợ… Nói chung là thiếu những điều kiện tối thiểu để sống cho ra con người.
Ý muốn của Thiên Chúa còn là chúng ta phải tha thứ cho nhau, vì chính bản thân chúng ta cũng là kẻ có tội cần được tha thứ. “Xin Cha tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con”. Như vậy, cầu nguyện là đồng hoá ý muốn của mình với ý muốn của Thiên Chúa và phải hành động để ý muốn của Chúa được thể hiện trên mặt đất nầy: “Xin cho ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Thế nhưng, chúng ta thường chỉ biết cầu xin hơn là cầu nguyện, và có những lời cầu xin hết sức vụ lợi, ích kỷ. Chẳng hạn xin cho “trúng tuyển, trúng số, trúng mánh…”. Hoặc chúng ta chỉ nghĩ đến Chúa khi chán nản, thất vọng, để than thở, kể lể, như bắt Chúa phải thông cảm những nỗi ấm ức trong lòng mình. Còn gì vô lý và sai lầm hơn khi chúng ta cứ coi Thiên Chúa như một “Thần Tài”, như một “thủ kho” để xin Ngài những nhu cầu mà đúng ra, với tự do, khối óc và hai bàn tay Chúa ban cho, chúng ta phải tự làm lấy, tự xoay xở lấy với sự trợ giúp của Chúa và dưới ánh mắt yêu thương của Ngài. Nếu chỉ cầu xin bằng môi miệng mà chẳng chịu làm gì cả, thì lời cầu xin đó có khác gì những bùa chú, phù phép của hạng người mê tín dị đoan: Xin cho có lương thực hằng ngày mà mình cứ ngồi không, hoặc nằm ngửa chờ sung rụng, thì làm sao có lương thực được? Hoặc xin cho mọi người được ấm no hạnh phúc, mà mình cứ áp bức, bóc lột, làm điều bất công, hay là cứ để cho những chuyện bất công ấy lan tràn mà không chịu tranh đấu để đòi hỏi công bình, đòi quyền sống của con người, thì làm sao có ấm no, hạnh phúc, hoà bình được? Chính vì thái độ nầy mà nhiều khi tôn giáo bị mang tiếng là mê tín, là thuốc phiện ru ngủ dân chúng!
Vậy, thưa anh chị em, chúng ta phải cầu xin như thế nào?
Nếu phải cầu xin thì chúng ta phải cầu xin một cách kiên trì với một xác tín, tin tưởng vào tình thương của Cha trên trời, Ngài tốt lành, nhân hậu hơn cha chúng ta ở dưới đất vô cùng. Vì người đời mà còn cho bạn bè vay mượn khi bạn bè năn nỉ, khuấy rầy, huống chi là Thiên Chúa. Ngài là người Cha yêu thương mọi người, con cái, chắc chắn sẽ ban cho ta điều chúng ta cầu xin: “Hãy xin, sẽ được; hãy tìm, sẽ thấy; hãy gõ, sẽ mở”. Người cha nào mà không giúp đỡ con cái khi cần thiết, không cung cấp những điều thích hợp khi chúng đã xin. Cha là Cha nhân từ, Ngài cũng không thể làm khác được, nhất là chẳng bao giờ cho cái gì sinh nguy hại cho con cái. Bởi vậy, điều chúng ta xin Thiên Chúa phải là điều thích hợp, vì Thiên Chúa muốn ban cho chúng ta “bánh” chứ không cho “hòn đá”; muốn ban “cá” chứ không cho “con rắn”, muốn ban “trứng” chứ không cho “bọ cạp”. “Hãy xin thì sẽ được”, nhưng với điều kiện là xin những gì thực sự giúp đời sống thêm tốt đẹp, tìm những gì dẫn đến ơn cứu độ, đạt đến cứu cánh tuyệt đối của con người, đồng thời phải kết hợp giữa sự giúp đỡ của ơn Chúa với việc làm trong khả năng Chúa đã ban cho mỗi người.
Cuối cùng, ơn đặc biệt mà Chúa sẽ ban cho những ai xin Ngài đó là Thánh Thần, vì Thánh Thần sẽ là Đấng cầu xin trong chúng ta, bảo đảm lời cầu xin là xác đáng, và cũng chính Ngài sẽ ban cho chúng ta những ơn cần thiết, vì Ngài là ơn huệ của Thiên Chúa ban cho loài người.
Anh chị em thân mến, phụng vụ Thánh lễ là dịp tốt nhất giúp chúng ta cầu nguyện có hiệu lực. Vì chúng ta cầu nguyện chung với cả Giáo Hội, chúng ta cầu nguyện theo lời Chúa truyền dạy, chúng ta cầu nguyện nhờ công ơn vô cùng của Chúa Kitô, với Người và trong Người. Xin cho chúng ta biết cầu nguyện và xin Chúa nhận lời cầu xin của chúng ta và của tất cả mọi người.
(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi…’ – Veritas)
Một giai thoại được kể lại như sau: Một thương gia kia cần một triệu đôla để giải quyết một việc hệ trọng, ông tới nhà thờ cầu nguyện xin cho có được số tiền đó. Tình cờ ông quì ngay cạnh một người đàn ông, người đàn ông này cùng cầu nguyện với những lời nhỏ nhẹ, nhưng ông thương gia kia vẫn nghe biết ông ta đang xin. Ông cầu xin cho có được 100 đôla để trả một món nợ gấp. Vị thương gia liền rút từ ví của mình 100 đôla và đặt vào tay người kia. Quá đỗi vui mừng, người đàn ông đứng lên và ra khỏi nhà thờ ngay tức thì. Vị thương gia giờ đây nhắm mắt lại và bắt đầu cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, giờ đây hẳn Ngài không còn phải bị phân tâm nữa, xin hãy lắng nghe con cầu xin”.
Câu chuyện của hai người đàn ông cho chúng ta thấy điều tích cực là dù ở trong tình trạng thang bậc nào trong xã hội họ vẫn chân thành cầu nguyện. Tuy nhiên, cách nào đó họ đã làm nổi bật vấn đề mà bài Tin Mừng hôm nay nhắm tới, đó là cách cầu nguyện của người Kitô hữu. Trong cả hai trường hợp, Chúa trở thành hay được coi như là ông chủ một nhà tỷ phú. Phải chăng, đó là lối cầu nguyện và cách nhìn phù hợp của người Kitô hữu chúng ta.
Lời các môn đệ thưa với Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện”, có thể được hiểu như là một khát vọng chính đáng của biết bao nhiêu người Kitô hữu về cách cầu nguyện. Lời đáp lại của Đức Giêsu cũng có thể được tóm gọn trong một câu như sau: Lời cầu nguyện của người Kitô hữu phải là lời của một người con đối với cha của mình. Ngài nói: “Khi anh em cầu nguyện hãy nói, Lạy Cha… Nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt, của lành phương chi Cha anh em ở trên trời…” Chúng ta có thể thấy ngay được rằng, cầu nguyện theo Đức Giêsu là vấn đề giữa người cha và người con. Nói cách khác, cầu nguyện là một vấn đề nội bộ trong gia đình, đặt trên nền tảng của hiểu biết, thông cảm và yêu thương. Đức Giêsu dùng hình ảnh người cha ở đây để tả lại hình ảnh mà người ta thường gán cho Thiên Chúa, một ông chủ hay một ông vua, những người thường được người khác sợ hơn là mến.
Chúng ta có thể coi Thiên Chúa như là Cha và cũng có thể coi Ngài như là Mẹ. Cả hai hình ảnh này đều nói với chúng ta về mối tương quan dựa trên tình thương và huyết thống, chứ không phải quyền lực hay chức vụ.
Cầu nguyện của người Kitô hữu là tự đặt mình vào trong mối tương quan này, coi Thiên Chúa như là Cha hoặc Mẹ, thưa chuyện với Ngài, kể chúng ta là con cái. Khi con trẻ thưa chuyện với cha mẹ, việc quan trọng không phải là đúng cách hay sai cách, chúng chỉ đơn thuần tập trung vào một điều là dùng tất cả lời nói, cử chỉ để diễn tả lòng mình. Cũng vậy, trước mặt Chúa, người Cha nhân từ khi chúng ta cầu nguyện mà công thức, thủ tục đều là chuyện thứ yếu, nếu chúng ta không muốn nói là thường. Con cái tin tưởng rằng, cha mẹ luôn luôn làm những gì là tốt nhất cho mình.
Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay cũng nói: “Ai trong anh em là một người cha mà khi con xin cá thay vì cá lại lấy con rắn mà cho nó, hoặc nó xin trứng lại cho nó con bọ cạp”. Cũng vậy, con cái Thiên Chúa đến với Ngài với thái độ tin tưởng, hy vọng, biết rằng Ngài sẽ dành cho họ tất cả những gì là tốt nhất.
Khi nói về cầu nguyện, chúng ta cũng cần nhìn tới về một khía cạnh khác, đó là sự kiên trì, giống như người bạn lúc nửa đêm trong bài Tin Mừng. Con cái chẳng lấy gì chấp nhận câu trả lời không, nếu cha mẹ có trả lời là không thì điều chắc chắn là ngày hôm sau và có thể hôm sau, hôm sau nữa chúng vẫn trở lại với cùng một điều xin.
Đức Giêsu dạy chúng ta, con cái của Thiên Chúa cần phải biết kiên trì trong cầu nguyện. Coi cầu nguyện như là việc giữa cha và con, điều này cũng nhắc cho chúng ta biết cầu nguyện là một hành vi phát xuất từ một mối tương quan. Chúng ta có thể coi việc cầu nguyện tốt hơn, nhưng chúng ta cũng có thể trở thành những con người tốt hơn của cầu nguyện, khi mối tương quan giữa chúng ta và Thiên Chúa trở nên thân mật gần gũi hơn như là một mối liên hệ giữa cha và con.
Vậy, nếu anh chị em muốn cải thiện việc cầu nguyện của mình, hãy tập trung vào mối tương quan thân mật giữa cha và con, giữa Thiên Chúa và con cái.
Suy Niệm 1. KINH LẠY CHA
Kinh Lạy Cha là kinh đầu tiên và cao trọng nhất trong các kinh nguyện Kitô giáo (Tôi đang nghĩ đến bản kinh của Thánh Mát thêu). Những câu ngắn gọn và đơn giản của nó bao hàm mọi tương quan giữa chúng ta và Thiên Chúa. Nó không chỉ nói với chúng ta phải cầu nguyện điều gì mà còn cầu nguyện điều ấy như thế nào.
Tuy nhiên, người ta có xu hướng đọc kinh ấy quá vội vàng và thiếu suy gẫm đến nỗi làm mất ý nghĩa của nó. Đó là một điều đáng tiếc. Bởi vì, hiểu một cách chính xác, Kinh Lạy Cha chứa đựng trong đó, chúng ta sẽ trở nên hoàn hảo theo tinh thần của của Đức Kitô, bởi vì không chút nghi ngờ đây là cách mà chính Người đã cầu nguyện và đã sống.
Phần đầu tiên đề cập đến Thiên Chúa.
Chúng ta bắt đầu sự hiểu biết hiện hữu của Thiên Chúa, và gọi Người là Cha. Thiên Chúa là cội nguồn của chúng ta và chúng ta là con cái của Người. Một đôi khi, Người hành động như một người cha, và một đôi khi như một người mẹ.
Kế đó chúng ta ca tụng danh Người. Bằng việc ca tụng danh Người, chúng ta cầu nguyện chính Người.
Chúng ta cầu nguyện cho Nước của Người mau đến – một vương quốc của sự thật và sự sống, sự thánh thiện và ân sủng, công lý, tình yêu và hoà bình. Chúng ta đóng góp phần mình để làm cho vương quốc của Người thành hiện thực.
Chúng ta cầu nguyện để ý muốn của Người được thực hiện trên mặt đất. “Trên mặt đất” cũng có nghĩa là trong đời sống của chúng ta. Ý muốn của Thiên Chúa không phải lúc nào cũng là điều dễ làm nhất, nhưng nó luôn luôn là điều tốt nhất.
Phần thứ hai đề cập đến chúng ta và các nhu cầu của chúng ta.
Chúng ta bắt đầu bằng công việc cầu xin lương thực hàng ngày. “Lương thực” thay cho mọi nhu cầu vật chất. Tuy nhiên, mọi nhu cầu thật cần thiết của chúng ta có đủ cho ngày hôm nay.
Chúng ta cầu xin tha thứ các tội lỗi của chúng ta, và xin ơn có thể tha thứ cho người khác đã phạm tội chống lại chúng ta. Không thể tha thứ cho người khác sẽ không thể nhận được sự tha thứ của Thiên Chúa.
Chúng ta cầu xin không sa chước cám dỗ. Thiên Chúa không đặt sự cám dỗ trong đường lối của chúng ta nhưng cuộc đời làm điều ấy. Và chính chúng ta đôi lúc bước vào cám dỗ với sự đồng tình. Chúng ta xin Thiên Chúa giúp chúng ta đương đầu với sự cám dỗ tự ý đến với chúng ta, và tránh xa những cám dỗ mà chính chúng ta chọn lựa.
Sau cùng, chúng ta cầu xin được cứu khỏi mọi sự dữ, cả sự dữ vật chất lẫn tinh thần. Chúng ta không mong bao giờ gặp sự dữ. Điều mà chúng ta cầu xin Thiên Chúa là có được ân sủng chiến thắng mọi sự dữ, đặc biệt là sự dữ tinh thần.
Hãy ghi nhận rằng toàn bộ kinh Lạy Cha được diễn tả bằng từ ngữ ở số nhiều. Điều ấy cho thấy chúng ta là một gia đình dưới quyền Thiên Chúa, và do đó không thể có sự cứu chuộc chúng ta độc lập với sự cứu chuộc những người khác.
Suy Niệm 2. KHÔNG TRỪNG PHẠT NGƯỜI VÔ TỘI
Hình ảnh của Abraham mặc cả với Thiên Chúa mặc cả với Thiên Chúa để cứu Xơđôm và Gômora là hình ảnh hấp dẫn. Ý tưởng chúng ta bắt gặp ở đây là Thiên Chúa sẽ không trừng phạt một số đông người tội lỗi nếu đồng thời một số ít người công chính cũng bị trừng phạt. Chúng ta thường có thái độ hoàn toàn trái ngược. Chúng ta rất muốn trừng phạt một số đông người vô tội cùng với một số ít người có tội cũng bị phạt. Hãy lấy một ít ví dụ.
Khi các chính phủ đánh quân du kích, người ta không ngần ngại tiêu diệt cả một ngôi làng gồm đàn ông, đàn bà và trẻ con. Điều đó đã xảy ra ở Việt Nam, ở Achentina (trong suốt những cuộc chiến tranh được gọi là “chiến tranh bẩn thỉu”) và ở nhiều nơi khác. Các quân du kích cũng không ngần ngại sử dụng chiến thuật tương tự.
Một đôi khi sự việc tương tự có thể xảy ra trong trường học. Thầy giáo ra khỏi lớp một phút. Khi ông trở lại lớp học, ông thấy cái ghế đã bị bẻ gãy. Thuyết phục hoặc đe doạ cũng vô ích, kẻ tội phạm không thú nhận, những học sinh khác không nói tên thủ phạm. Thế là thầy giáo phạt cả lớp. Cả lớp phải ở lại sau giờ học.
Cũng sự việc ấy xảy ra ở nhà. Một vài đồ vật bị ngã đổ vương vãi khi bà mẹ vừa quay lưng đi. Không một ai thú nhận. Vậy tất cả con cái bị trừng phạt. Không được xem tivi buổi tối.
Điều đó có xu hướng trở thành phương thế đầu tiên của chúng ta, và chúng ta coi đó là rất khôn ngoan và công bằng. Nhưng có phải như vậy không? Trừng phạt chín mươi chín người vô tội chỉ vì một người có tội như vậy có đúng không? Dĩ nhiên là không. Điều đó là bất công. Bị trừng phạt vì một điều mà bạn không làm thật là khủng khiếp. Nó để lại trong lòng bạn một cảm giác vô cùng cay đắng.
Dù có vẻ hấp dẫn, đó không phải là một giải pháp của Kitô giáo cũng không phải là một giải pháp nhân bản. Thiên Chúa không bao giờ dùng phương thế đó. Bài đọc 1 nói với chúng ta điều đó. Đức Giêsu cũng dạy chúng ta bài học ấy trong dụ ngôn lúa mì và cỏ lùng. Người gieo hạt sẽ không nhổ những chùm cỏ lùng vì như thế sẽ làm lúa mì cũng bật rễ.
Vấn đề quan trọng nhất trong thời đại chúng ta là làm thế nào vượt qua điều ác mà không gây thêm điều ác. Người ta phải kháng cự điều ác. Nhưng chúng ta phải làm cách nào để trong quá trình đó, chúng ta không gây ra thêm điều ác. Điều ác không thể bị vượt qua bằng điều ác, mà chỉ bị vượt qua bằng điều thiện.
Tuần lễ vừa qua có thể gọi là tuần lễ dành cho giới trẻ vì có nhiều sự kiện liên quan đến các bạn trẻ. Trước hết là Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới diễn ra tại Brazil. Chủ đề Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần này do Đức nguyên Giáo Hoàng Bênêđictô XVI chọn: “Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ”. Đó là sứ mạng của toàn thể Giáo Hội, cách riêng của những người trẻ. Để có thể “làm cho muôn dân trở thành môn đệ”, Đức nguyên Giáo Hoàng đã viết trong sứ điệp ngày quốc tế Giới Trẻ như sau: “Cha khuyến khích các con hãy kiên trì trong đức tin, tin chắc rằng Đức Kitô hằng ở cạnh bên các con trong mọi cơn gian nan thử thách”.
Tiếp nối vị tiền nhiệm của mình, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đương kiêm đã nói lên ý nghĩa của ngày đại hội này trước khi lên đường sang Brazil như sau: “Tất cả mọi người đến Rio muốn nghe tiếng nói của Đức Giêsu, lắng nghe Đức Giêsu” và họ muốn thưa với Chúa rằng “Con phải làm gì cho cuộc đời của con? Đâu là lộ trình cho con?” – Đó là cuộc gặp quan trọng mà Đức Giáo Hoàng muốn người trẻ gặp được ở Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới: gặp gỡ Chúa Giêsu. Vì vậy có thể nói “kiên trì cầu nguyện để gặp gỡ Chúa Giêsu, hầu trở thành nhân chứng cho Chúa” chính là chủ đề nỗi bật trong Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần này.
Còn ngoài xã hội, cách riêng tại Việt Nam, tuần qua những ai quan tâm đến làng giải trí, nhất là nhạc trẻ đều bàng hoàng trước cái chết của chàng ca sĩ Wanbi Tuấn Anh ở tuổi đời 26. Tôi chẳng biết Wanbi Tuấn Anh là ai, cũng chưa từng nghe anh hát, nhưng thấy có nhiều người quan tâm đến sự kiện này nên tôi cũng thử tìm hiểu xem sao. Sau khi tìm hiểu tôi được biết đây là chàng ca sĩ điển trai; dành nhiều giải thưởng âm nhạc, nhất là Làn Sóng Xanh, Zing Me…; là thần tượng của nhiều bạn trẻ, nhất là các bạn nữ; giọng hát trầm ấm như lời tâm sự rót vào tai người nghe. Đặc biệt anh có những bài hát như tiên báo trước số phận của mình. Khởi đầu sự nghiệp ca hát với ca khúc hít “đôi mắt”: “Giờ em nơi phương xa nhiều bỡ ngỡ, giờ còn lại minh bơ vơ, bao nhiêu mộng mơ rồi tan biến đâu ai ngờ. Tình yêu trong anh cho em mãi mãi, để trở về ngồi bên anh, yêu thương còn đây mà đôi mắt kia hao gầy”. Có ai ngờ căn bệnh u não đã làm cho đôi mắt anh “hao gầy” vĩnh viễn. Cách đây hơn một năm, sau khi sang Singapor để giải phẫu, anh biết căn bệnh của mình không thể qua khỏi, nên anh đã sáng tác bài “cám ơn” như trãi tấm lòng: “Dẫu ngày sau đi về đâu nhưng lòng này tôi thầm muốn nói. Tận đáy con tim chân thành vẫn muốn được hát lên: Cám ơn mẹ và ba, cảm ơn một gia đình. Cám ơn người dạy dỗ, cám ơn người sinh thành. Để bây giờ khôn lớn, bước qua bao đắng cay cuộc đời. Cám ơn bạn bè tôi, cám ơn người rất nhiều, vẫn luôn ở bên tôi, dẫu khi tôi khóc tôi vui. Cảm ơn ngày hôm nay, khát khao và hi vọng. Đã cho tôi niềm tin để tôi vững bước tới ngày mai. Cám ơn và cám ơn, vì cuộc sống với bao tiếng cười”. Tôi đã nghẹn lòng khi lần đầu tiên nghe bài hát này, nhất là khi đã biết rõ hoàn cảnh của chàng ca sĩ tài hoa, bạc mệnh này. Trong hoàn cảnh như vậy mà anh vẫn sáng tác và hát lên bài hát: “Cám ơn”.
Anh rất vui vẻ, lạc quan, yêu đời. Anh nói với mẹ, với gia đình và những người thân yêu rằng anh sẽ chiến đấu cho đến cùng để chống chọi với bệnh tật. Những giây phút cuối cùng ở trần gian này, khi biết mình không thể chiến thắng bệnh tật, anh đã nói với mẹ: “Nếu ở trần gian này con không thể hát, sang thế giới bên kia con sẽ hát tiếp”. Tôi muốn nói đến một sự kiên trì, trong sự kiên trì này có sự phó thác. Cứ tha thiết nài xin theo ý mình, nhưng khi ý Trời đã định, Wanbi Tuấn Anh vẫn sẵn sàng vâng theo.
Từ Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới với sứ điệp kiên trì cầu nguyện để gặp gỡ Chúa Giêsu hầu trở thành chứng nhân cho Chúa; và câu chuyện của chàng ca sĩ tài hoa bạc mệnh: Wanbi Tuấn Anh kiên trì vật lộn với cơn bệnh, nhưng khi bị khuất phục, anh vẫn vui vẻ bước vào thế giới bên kia để tiếp tục niềm đam mê của mình, chúng ta đi vào phụng vụ lời Chúa hôm nay để xem sứ điệp lời Chúa muốn nói gì với chúng ta?
Đây là cuộc mặc cả giữa Apraham với Thiên Chúa. Khi hai thành phố Xơ đơm và Gômôra tội lỗi quá sức, nói theo kiểu chúng ta bây giờ là “hết thuốc chữa”, Thiên Chúa có ý định giáng phạt hai thành phố này. Nhưng Apraham đã đứng ra để thương lượng với Thiên Chúa, thậm chí có những lúc ông “dạy khôn” Thiên Chúa: “Ngài làm như vậy chắc không được đâu!” (Xh 18, 25a); nói khích Thiên Chúa: Nếu trong thành có người lành mà Chúa tiêu diệt chung với người dữ, thì người ta sẽ nói Thiên Chúa như vậy mà công mình gì?! (x.Xh 18, 25b). Thế là Thiên Chúa đã chịu nhượng bộ Apraham với điều kiện tìm được 50 người công chính. Sau khi suy nghĩ, Apraham đã xin hạ giá: bốn mươi lăm, bốn mươi, ba mươi, hai mươi, cuối cùng là mười người. Thiên Chúa vẫn đồng ý. Tuy nhiên Apraham chỉ dừng lại ở con số 10 mà không dám van xin nữa. Chính vì vậy mà Thiên Chúa đã quyết định thiêu hủy thành Xơ đơm vì không có được 10 người công chính. Tuy nhiên Thiên Chúa cũng tha cho gia đình ông Lot là cháu của Apraham. Thiên Chúa sẵn sàng thương lượng với con người. Ngài muốn chúng ta đến với Ngài trong sự đối thoại, thậm chí trả giá nữa. Tuy nhiên, Apraham chưa đủ kiên trì để chạm tới lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa. Đó là bài học để chúng ta kiên trì gắn bó với Chúa.
Tin mừng Luca được khởi sự bằng việc cầu nguyện của người Do Thái tại Đền Thờ và kết thúc bằng việc các môn đệ: “không ngừng chúc tụng Chúa trong Đền Thờ”. Điều đó cho chúng ta thấy mặc khải trong Tin Mừng Luca là mặc khải về việc cầu nguyện kiên trì. Vì vậy mà hôm nay Chúa Giêsu dạy các môn đệ Ngài nội dung và thái độ khi cầu nguyện. Nội dung là kinh Lạy Cha. Thái độ là kiên trì.
Để dẫn chứng cho thái độ kiên trì cầu nguyện, Chúa Giêsu đã kể dụ ngôn về người bạn quấy rầy, nửa đêm lại nhà người ta gõ cửa vay bánh. Nếu không cho vì tình bạn, thì chủ nhà cũng cho vì sự quấy rầy của người này. Qua dụ ngôn đó Chúa Giêsu kết luận con người còn như vậy huống chi là Thiên Chúa. Vì vậy Ngài nói với các môn đệ: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho” (Lc 11, 9). Đó là sự kiên trì.
Tuy nhiên, thánh Phaolô nói: “Anh em không có là vì anh em không xịn. Anh em xin mà không được là vì anh em xin không đúng”. Vì vậy xin là chuyện của chúng ta, còn cho hay không là quyền của Thiên Chúa, chúng ta không có quyền đòi hỏi. Cho nên trong kiên trì phải có sự phó thác. Tôi cứ xin, nhưng Chúa muốn sao tôi chịu vậy.
Cách đây hai tuần, qua dụ ngôn người Samaria nhân hậu, chúng ta biết rằng con đường theo Chúa là con đường yêu thương tha nhân, một tình yêu thương vượt trên mọi lề luật. Chúa Nhật tuần rồi, qua hình ảnh của Maria, chúng ta biết được con đường đó là con đường lắng nghe lời Chúa. Còn hôm nay, con đường đó là con đường cầu nguyện trong thái độ kiên trì nhưng biết phó thác.
Đức tin là cuộc hành trình đòi hỏi chúng ta phải liên tục lên đường. Thiên Chúa đã nói với Apraham: “Ngươi hãy đi khỏi xứ sở của ngươi và đi đến xứ sở mà Ta sẽ chỉ cho ngươi”. Điều đó cho chúng ta thấy nhiệm vụ của con người là đón nhận lời của Thiên Chúa, bước đi trong sự chỉ dạy của Ngài. Vì vậy, đức tin đòi hỏi chúng ta phải biết kiên trì và phó thác.
Phải kiên trì vì Chúa Giêsu đã nói: “Ai bền đổ đến cùng sẽ được cứu độ”. Giá trị của mọi việc và mọi người là ở chỗ kiên trì đến mức nào. Nếu các môn đệ chỉ nhắm đến những cái trước mắt thì các ông sẽ thất vọng hoàn toàn. Quả thực có những lúc các ông hoàn toàn thất vọng. Đức tin là một cuộc hành trình. Đời sống đạo không phải một sớm một chiều, một khoảng thời gian nào đó do chúng ta chọn lựa, nhưng là cả cuộc đời chúng ta. Mà cuộc đời thì có biết bao thăng trầm, sướng khổ. Có những mảnh đời trầm nhiều hơn thăng, khổ nhiều hơn sướng… Vẫn còn nhiều người, thậm chí là chính chúng ta thường than thở: “Sao mà khổ dữ vậy!” Vẫn còn nhiều người đạo đức thốt lên trong cầu nguyện: “Chúa ơi, Chúa thử thách con đến bao giờ?” Nếu tôi là Chúa, tôi sẽ trả lời: “Tới chết lận con!” Đức Maria, thánh nữ Mônica, cha Phanxicô Trương Bửu Diệp là những mẫu gương cho chúng ta trong sự kiên trì, nhẫn nại.
Tuy nhiên nếu kiên trì mà không có sự phó thác thì chúng ta sẽ trở thành lì lợm, vô cảm, “trơ mặt ra như đá”. Kiên trì trong phó thác là chúng ta không bắt Chúa phải làm theo ý mình, nhưng là sự chấp nhận chúng ta sẽ không được nhậm lời như chúng ta hiểu biết hay mong muốn. Vì vậy khi lời cầu xin không được nhậm lời thì đó cũng là một ân huệ của Chúa, vì Chúa luôn ban cho chúng ta điều mà Ngài thấy là tốt đẹp. Sự phó thác xuất phát từ lòng tin Thiên Chúa là Đấng quyền năng, Ngài biết những gì cần thiết cho chúng ta.
Có một bài thơ của một tác giả vô danh mà Đức Hồng Y Jaime Sin, Tổng giám mục Manila, Phi Luật Tân, lấy làm ưng ý và thường trích dẫn trong các bài giảng của Ngài. Bài thơ ấy như sau:
“Tôi đã xin Chúa cất khỏi sự kiêu hãnh của tôi và Chúa trả lời: “Không”. Ngài nói rằng không phải Ngài là người cất khỏi mà chính tôi mới là người phấn đấu để vượt thắng nó.
Tôi đã xin Chúa làm cho đứa con tàn tật của tôi được lành lặn và Chúa trả lời: “Không”. Ngài nói rằng tinh thần mới lành lặn, còn thể xác chỉ là tạm bợ.
Tôi đã xin Chúa ban cho tôi sự kiên nhẫn và Chúa đã trả lời: “Không”. Ngài nói rằng kiên nhẫn là trái của thử thách. Ngài không ban cho tôi trái ấy mà để tôi tự tìm lấy.
Tôi đã xin Chúa ban cho tôi được hạnh phúc và Chúa đã trả lời: Không”. Ngài nói rằng Ngài ban ân phúc cho tôi, còn hạnh phúc hay không là tùy tôi.
Tôi đã xin Chúa gia tăng tinh thần cho tôi và Chúa đã trả lời: “Không”. Ngài nói rằng tôi phải tự lớn lên, nhưng Ngài sẽ cắt tỉa để tôi mang nhiều hoa trái.
Tôi đã xin Chúa đừng để tôi đau khổ và Ngài đã trả lời: “Không”. Ngài nói rằng đau khổ là cho tôi được xa cách với những vướng bận trần gian và mang tôi đến gần Ngài.
Tôi đã hỏi: “Liệu Ngài có yêu tôi không” và Ngài đã trả lời rằng: “Có”. Ngài nói rằng Ngài đã ban cho tôi Người Con Một, Đấng đã chết vì tôi và một ngày nào đó, tôi sẽ được lên Thiên Đàng vì tôi đã tin.
Chúng ta cứ xin những gì mình muốn, nhưng đừng bao giờ muốn theo ý mình. Đó là kiên trì trong phó thác.
LẠY CHA CHÚNG CON (11, 1-4)
Khác hẳn với cô Matta, Maria nhận ra rằng phải có những khoảnh khắc đặc biệt dành riêng để lắng nghe Chúa nói và thân thưa với Ngài. Đó là thời giờ cầu nguyện. Ở đây, ta thấy Đức Giêsu giảng giải cách thực hành về chủ đề ấy.
Trong Tin mừng theo Th. Mathêu, chủ đề ấy đặt liền với bài giảng trên núi; Thực tế chúng ta không biết Chúa đã dạy kinh Lạy Cha vào lúc nào, nhưng điểm đó không quan trọng cho lắm, điểm cốt yếu chắc hẳn phải là chính nội dung nòng cốt của Kinh Lạy Cha.
Kinh Lạy Cha được Thánh Luca ghi lại đơn giản, vắn tắt hơn nơi Th. Mathêu. Nơi Thánh Luca, lời cầu xin thứ ba và thứ bảy không có. Dĩ nhiên thánh ký phải nhận rằng, khi hoàn tất cả hai phần của kinh đó, thì hai lời cầu xin bị bỏ kia đều ngậm thực sự trong những lời cầu xin trên. Khi ghi lại kinh lạy Cha, thánh sử cố tìm sự đơn giản tối đa; nên chúng ta càng phải tìm hiểu những ý tưởng cô đọng ấy, những ý tưởng tập trung, ẩn tàng dưới vẻ ngắn gọn của những lời cầu xin này.
‘Chúng con nguyện danh Cha cả sáng’.
Đây không phải là một yêu sách, một quyết ý mà chỉ là một lời cầu xin. Thiên Chúa phải làm cho danh Ngài cả sáng tức là làm cho loài người nhận rõ sự thánh thiện của Ngài hơn nữa và khiến cho sự thánh thiện ấy chiếu tỏ rạng ngời.
Mọi cái thuộc về nhân loại và trần thế phải được Thiên Chúa chiếu sáng. Vĩnh cửu soi rọi cho tạm bợ, hằng hữu cho mau qua, bất biến thay cho biến đổi. Trời cao sẽ thống trị trái đất, tuyệt đối sẽ làm chủ tương đối, tất yếu sẽ đứng trên bất tất, con người tự do thay cho phận nô lệ, thánh nhân thế chỗ tội nhân, người thanh sạch thế kẻ nhơ uế, người được thương xót thế tội phạm; nhất là những gì còn bấp bênh và không bền vững sẽ được thay thế bằng cái kiên vững tối hảo, những gì là bất an sẽ được thay thế bằng bình an rất mực, hạn hữu sẽ được thay thế bằng vô biên.
Danh Ngài và qua Danh Ngài là chính Ngài tỏ hiện rõ ràng nơi Đức Giêsu Kitô. Chúa Con là mặc khải của Chúa Cha. Danh tánh Đức Giêsu có nghĩa là: Đức-Giavê là nguồn cứu độ. Như thế có nghĩa: nhờ Đức Giêsu, danh Thiên Chúa cứu độ và thánh hoá được loan truyền.
Thiên Chúa là Đức Chúa. Đức Giêsu nhận biết điều ấy trong một cuộc đời luôn vâng phục hoàn toàn, vâng phục Ngài như bậc Thầy Tối cao và lại công bố như thế cho loài người tệ bạc. Đức Giêsu đã sống trong tình yêu Cha mình và đã chứng tỏ cho mọi người biết Thiên Chúa là tình yêu.
Do đó, lời cầu xin ‘cho Danh Cha được hiển thánh’ trên môi Ngài phải có một âm vang đặc biệt.
‘Nước Cha trị đến’. Theo Thánh Luca, lời nguyện xin này hàm ẩn cả lời nguyện xin thứ ba: ‘Ý Cha được thể hiện’. Như vậy, Nước Cha được hình dung là vương quyền tối cao của Thiên Chúa; nên ý Cha phải được thể hiện khắp mọi nơi, vì ý Cha là khôn ngoan và yêu thương. Nơi nào ý Cha chủ trị, thị mọi sự đều ổn thoả theo sự khôn ngoan Ngài và tràn ngập tình yêu Ngài.
Đó là một vương quốc hoà bình, vì hoà bình chẳng qua là yên hàn trong trật tự. Và đó là một vương quốc tình thương vì quyền uy và thế lực tối cao không phải chiếm được bằng bạo lực nhưng là bằng sự nhận biết cách vui vẻ. Mỗi một việc phục vụ –khi nhắm phục vụ Thiên Chúa- đều hoàn thành với sự tự do vương giả.
Và theo lối nói xưa của sách Khải Huyền, tất cả những ai thuộc về vương quốc của Thiên Chúa, đều là những vị hoàng vương tư tế, những vị tư tế (hoàng vương).
Nước Thiên Chúa là ước mơ cao nhất của nhân loại, là sự thể hiện mọi lý tưởng, vượt quá mọi thế lực chính trị, xã hội và Kinh tế. Nhưng sự hiểu thánh danh Thiên Chúa cách trọn vẹn và việc thiết lập vững bền Nước Thiên Chúa là những giá trị có tính cách cánh chung. Những giá trị này chỉ thành toàn khi Chúa lại đến, khi bản tính Thiên Chúa tỏ hiện rõ ràng trong vinh quang Ngài và khi Nước Thiên Chúa đạt đến sự viên mãn.
‘Xin cho chúng con lương thực hằng ngày’. Giữa hai lời nguyện xin về bản tính ‘siêu nhiên’ của chính Bản thể Thiên Chúa về nước Thiên Chúa và hai lời nguyện xin sau nói về ‘hạ nhiên’ (infra naturel) (tội và cám dỗ), là một lời cầu xin về lương thực xét trên bình diện hoàn toàn có tính cách phàm nhân. Bánh được coi là thứ lương thực hàng đầu trong số những thực phẩm trần thế. Con người, vì là Con Thiên Chúa, không thể bị cơn đói dằn vặt và cũng không được sống trong sự quá dư thừa. Do đó cũng cần phải xin Cha cho được lương thực cần thiết mỗi ngày. Một khi con người cứ phải đương đầu với cơn đói, thì hẳn là chẳng còn hơi sức đâu, thời gian nào để nghĩ tưởng đến những thực tại trên cao.
Con người có thể liều mình sa vào hố thất vọng và có nguy cơ tráo trở với Thiên Chúa. Nhưng nếu con người đắm chìm trong của ăn thức uống, thì cái bản ngã tuyệt hảo của hắn sẽ chết ngạt trong chủ nghĩa tôn thờ vật chất. Con người sẽ héo hắt vì thiếu của ăn áo mặc, đang khi đó sự dư thừa lại cản ngăn con người sống tự do về mặt thiêng liêng. Giữa hai thái cực đói kém và dư thừa, một chỗ đứng thích hợp nhất phải là sự điều hoà cân xứng và chỉ có như vậy, con người mới có thể sống đạo đức được.
Đó là lý do tại sao lại có lời nguyện xin này, một lời cầu đề cập đến sự an toàn trong khuôn khổ và không gian, thuộc về trần thế và trong môi trường.
Lời cầu nguyện ấy cũng có thể bao hàm một ý nghĩa bao quát hơn, thuộc lãnh vực tinh thần. Lời Thiên Chúa trở nên lương thực nuôi tâm hồn, nên của ăn tinh thần. Con người khẩn cầu Thiên Chúa ban cho Lời hằng sống ấy. Con người xin Thiên Chúa ngỏ lời với thụ tạo và con người xin cho mình cũng hiểu được lời đáng nghe của Thiên Chúa phát ra tự đáy lòng, thứ lời đã được ghi chép trong Thánh kinh và con người xin cho được sống bằng lời ấy. Bởi vì ‘con người không chỉ sống bằng cơm bánh, nhưng còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra’ (Mt 4,4)
Bánh còn có nghĩa về mầu nhiệm Thánh Thể ‘Bánh Ta sẽ ban chính là thịt Ta để cho thế gian được sống’. Con người rất cần thứ bánh nhiệm mầu ấy để khỏi bị chết ngạt bởi những lo âu về kinh tế.
Sau hết, Bánh đây chính là Đức Kitô. ‘Ta là Bánh sự sống’. Bởi thế, lời cầu xin này tuy phát xuất do những nhu cầu thiêng liêng và siêu nhiên, để rồi sau cùng lại gán cho chính Chúa.
Nó là giả thiết một thần học về bánh, bởi vì với nhãn quan người Kitô hữu, mọi sự đều được thánh hiến và thánh hoá cách đạo hạnh.
‘Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con’. Trước Thiên Chúa, con người là kẻ mắc nợ. Đối với người đạo đức, tội lỗi là một gánh nặng chèn ép họ. Nó làm cho họ phải xa rời Thiên Chúa, dựng lên một bức tường ngăn cách họ với Thiên Chúa, phá huỷ những mảnh vườn đầy hoa tươi nở, làm tan hoang bình địa mọi công trình xây dựng.
Tội khiến đời sống trở nên mù tối, và làm cho con người nên như trò cười đáng mỉa mai. Hình ảnh Thiên Chúa bị bôi nhọ và đền thánh bị tục hoá. ‘Ích gì cho con người chiếm được cả thế giới mà để mất linh hồn’. Dĩ nhiên, tội làm thương tổn linh hồn, tệ hơn nữa, nó còn làm mất đời sống siêu nhiên mà Thiên Chúa ban cho con người, và như thế, tội còn làm cho con người không được dự phần vào chính Thiên Chúa. Tội phá huỷ mọi niềm hy vọng vĩnh cửu, tội ngăn chặn mọi nẻo đường dẫn đến tương lai.
Và vì thế, lời cầu xin tha thứ là một lời khẩn cầu cấp bách. Những ai đã được tha thứ, thì chính mình cũng phải biết thứ tha. Đã hưởng lòng Chúa xót thương, con người không thể cứng lòng với tha nhân. Kẻ có nợ được chủ nợ tha cho hoàn toàn, thì chính kẻ ấy cũng không thể là một chủ nợ nghiêm khắc.
Ở đây lời nguyện xin trở thành một yêu sách, một đòi hỏi.
‘Chớ để chúng tôi sa chước cám dỗ’. Theo Thánh Luca, lời nguyện xin này bao gồm cả lời nguyện xin giải thoát khỏi sự dữ và Satan. Cơn cám dỗ là con đường của vực thẳm, là lối đi dẫn tới hoả ngục,là khu vực của quỉ ma, là sự gần kề đầy doạ nạt của địa ngục, của những bóng đen ghê rợn quái ác luôn rình mò lượn quanh con người.
Ân sủng là khí giới, là sự bảo đảm chở che… Ánh sáng từ trời xuống đánh tan những bóng tối dữ tợn. Và tiếng nói từ trên cao càng vang dội mạnh bao nhiêu, thì tiếng gầm thét của vực thẳm càng cố vươn lên bấy nhiêu. Chỉ có bàn tay Thiên Chúa mới gìn giữ canh chừng con người thoát khỏi rơi vào nguy hiểm, vào vực thẳm. Chỉ nơi Ngài, đời sống đầy chông gai thách thức mới tìm được sự an toàn đảm bảo.
Như vậy, theo Thánh Luca, năm lời cầu xin cấu thành một toàn bộ trọn vẹn, ôm lấy hết toàn thể đời sống con người, đang bị phân rẽ giữa hạ giới và thiên thượng, giữa thiện và ác, giữa ánh sáng và tăm tối, giữa sự sống và sự chết.
Đó là giải pháp mà Chúa Giêsu trả lời cho môn đệ khi họ xin. ‘Lạy Thầy, xin dậy chúng con cầu nguyện’.
Cầu nguyện là một việc mà con người khó thực hiện. Vì thế phải luyện tập. Chính Thánh Gioan Tẩy giả đã dạy các đồ đệ cầu nguyện. Nhưng Giáo huấn của Chúa Kitô thật khác lạ; Chỉ bằng vài lời, đã nói lên được tất cả, một sự sung mãn phong phú qui kết vào 5 lời nguyện xin chi phối toàn bộ đời sống và hướng về Thiên Chúa Duy Nhất, là Cha hết mọi người.
CẦU NGUYỆN THỰC SỰ (11, 5-13)
Trong việc dạy họ cầu nguyện, Đức Giêsu đã nói lên cái ‘cốt cách’ của việc cầu nguyện, bằng cách nhấn mạnh những đặc tính hết sức quan trọng, là sự kiên trì và tín thác.
Dụ ngôn sau đây tỏ rõ cho thấy thế nào là kiên trì. Đây là một vài nét chính: một người kia, bổn tính không hay giúp đỡ nhưng sau cùng phải thua tính cố nài nẵng của người xin.
Lòng kiên tâm cầu nguyện cho thấy hoàn cảnh chung quanh cũng phải tuỳ thuộc và như là một chủ đề cốt tuỷ. Một người Cha trong một gia đình kia, giữa đêm trường, đang ngủ yên, cửa đóng then cài, lối vào cũng đầy những đồ đạc lỉnh kỉnh; ở gian trong, cả nhà ngon giấc, hết thảy, chồng, vợ, con cái đều yên giấc. Nếu phải mở cửa, ông phải chỗi dậy, khó nhọc lắm mới thắp nổi ngọn đèn ở dưới đấu và đặt trên giá đèn, không khéo lại va vào chân đám trẻ, lấy bánh ra, mở then, mở chốt, đẩy cửa kẽo kẹt,…. Nói tắt rằng, ai nấy đều bị thức giấc, và mọi cái đều lộn xộn xáo trộn.
Như thế, ta hiểu ngay lý do tại sao ông ta từ chối. Tuy nhiên, mọi trở ngại đều bị thắng vượt, không còn nghĩ tới nghĩ lui gì nữa, chỉ còn lo sao để thoả mãn người ăn xin đang quấy nhiễu nài nỉ luôn miệng không thôi. Áp dụng vào thật quá rõ. Người van xin phải nài nỉ không biết mệt mỏi: có như thế mới được điều mình xin, cửa sẽ mở cho vào, tìm thì sẽ thấy.
Tuy nhiên, một vấn nạn khiến ta lo ngại: Tại sao Thiên Chúa lại để cho con người phải đợi chờ? Chỉ cần Ngài nhận lời là mọi trở ngại sẽ mất đi, không còn quấy nhiễu gì nữa…
Có thể giải đáp thế này: không thể đổ lỗi kỳ hạn cho Thiên Chúa, như trong dụ ngôn người cha nọ cứ để cho người xin kia phải chờ đợi cho đến khi ông ta sẵn lòng. Ở đây hẳn là không như thế, việc nhận lời có bị trì hoãn là do chính người xin, chính ông này phải biết gia tăng cầu nguyện ráo riết hơn nữa. Khẩn cầu liên lỉ liên kết người ấy với Thiên Chúa cách khắng khít hơn, khiến họ phải ý thức hơn về tình trạng bất lực riêng mình, nhận rõ hơn việc phải hiến thân trọn vẹn cho Thiên Chúa và do đó, sau khi Ngài nhận lời, người ấy sẽ nhận biết Ngài.
Việc dạy cầu nguyện bao hàm thái độ chờ đợi kiên nhẫn ấy. Chờ đợi hẳn là một đặc ân của con người. Không nên đánh giá tôn giáo như làm một việc lạ lùng, và cũng không nên coi cầu nguyện van xin như một thứ nút điện đơn giản cứ ấn xuống là được. Mà là một hành vi của ngôi vị, một sự đi sâu đầy khí lực của một thái độ trước Thiên Chúa, chiêm ngắm Ngài, tâm sự với Ngài và vươn tới Ngài.
Bởi thế, lời cầu xin -kiên trì cầu xin- phải mang một dấu hiệu nói lên ý nghĩa đạo đức đích thực.
Cái lối lý luận trên được thực hiện theo kiểu ‘huống nữa là…’ một kiểu so sánh từ cái nhỏ đến cái lớn (a minore ad majorem). Con người vốn hẹp hòi và tầm thường. Đức Giêsu quả quyết điều này: ‘Vậy nếu các ngươi là những kẻ ác…’ Tuy con người thật đê tiện, hẹp hòi, vụ lợi, và cứng lòng mà còn không chối từ, lời của người van xin, nhất nữa lại là con mình, xin bánh, cá hay trứng. Giống vật cũng chẳng làm như vậy khi cho con cái đang đói hòn đá, rắn độc hay bò cạp. Vậy nếu điều ấy khó coi đối với con người, vốn tính xấu xa, thì đối với Thiên Chúa nói làm sao đây!.
Thiên Chúa không ác độc xấu xa, nhưng đầy thiện hảo tốt lành; Ngài không hẹp hòi tư kỷ, nhưng hay thương xót. Ngài không nghiêm khắc cứng cỏi, song hiền từ lân tuất, thì Ngài càng phải nhận lời nhân loại kêu xin gấp bội phần.
Nhưng lại một vấn nạn đặt ra cho chúng ta: kinh nghiệm cho ta thấy một điều trái nghịch. Vì dù con người vẫn luôn kiên trì cầu nguyện và luôn tín thác, mà họ vẫn phải thất vọng –và thực sự thất vọng hoàn toàn!- Vì trong cuộc sống họ thấy những hy vọng được nhận lời đã tan theo mây khói: điều người ta mong tồn tại thì lại tiêu tan, cái người ta mong thành đạt thì không được thoả mãn.
Đức Giêsu trả lời như sau khiến ta khó có thể lãnh hội ý nghĩa: ‘Huống hồ Cha các ngươi tự trời, Người sẽ ban Thánh Thần cho những ai xin Người’. Ở đây ta lại gặp cái lối lý luận ‘huống nữa là…’.
Chúng ta thường xin với những ý định tầm thường quá: nào là nhu cầu thể xác, nào là mục tiêu vật chất, của cải phù vân, thậm chí còn xin cả những cái gây lầm lạc cho mình nữa.
Thiên Chúa thoả mãn ta bằng những điều thiện hảo rất cao quý; Ngài ban Thánh Thần cho ta, mà Thánh Thần Thánh hoá nội tâm. Bởi vậy, không có lời cầu xin nào bị bỏ qua mà không được nhận lời. Ta chẳng thể nhìn thấy việc Ngài nhận lời ta, như Thánh Thần thánh hoá làm sao ta thấy được.
Thực ra, khi con người nhận lấy Thánh Thần thì nhận được những sự phong phú rất cao quý chứ không phải chỉ những của cải vật chất. Vì vậy, càng cầu xin kiên trì và tín thác bao nhiêu, thì càng chất chứa đầy Thánh Thần nơi tâm hồn bấy nhiêu.
Bởi vậy hai yếu tố hoà trộn mật thiết với nhau khi cầu nguyện phải là: kiên trì và tín thác. Với hai yếu tố ấy, con người được tràn đầy Thiên Chúa, luôn thêm mãi và sâu đậm hơn. Đó mới là điều thiện hảo tối cao Thiên Chúa ban cho con người và con người nhận được cách rõ rệt.
Chúng ta không được mệt mỏi trong việc kiếm tìm, nguyện xin và gõ cửa. Và chúng ta cũng sẽ không hề biết mỏi mệt khi chúng ta hiểu được điều từ miệng Đức Giêsu thốt ra trong giờ phút sau cùng: chúng ta thuộc về Chúa.
Người Hồi giáo nói về sự sốt sắng cầu nguyện bằng một câu chuyện như sau:
Có một ông vua vào rừng săn bắn. Chiều xuống, khi tới giờ cầu nguyện, ông trải tấm thảm trên mặt đất, rồi hướng về phía tây và phủ phục cầu nguyện theo cung cách của người Hồi giáo.
Giữa lúc ông đang chìm đắm trong sự cầu nguyện, thì có một người đàn bà hối hả chạy vào rừng. Số là chồng bà đã ra đi từ sáng sớm mà đến giờ này vẫn chưa thấy trở về. Bà ta sợ có điều chi không lành xảy đến cho chồng nên vội chạy vào rừng để tìm kiếm. Trong cơn hốt hoảng, bà ta không nhìn thấy có người đang phủ phục cầu nguyện. Bà bước qua người ấy mà không hề hối hận để nói lên lời xin lỗi.
Nhà vua cảm thấy bị xúc phạm nặng nề, nhưng ông cũng gắng gượng để tiếp tục cầu nguyện theo đúng luật dạy. Khi ông cầu nguyện xong thì người đàn bà cũng trở lại chỗ cũ, cười nói vui vẻ bên cạnh ông chồng. Bà cuống quýt khi nhận ra rằng người mà bà đã bước qua trong cơn hốt hoảng chính là nhà vua. Nhà vua cho gọi người đàn bà đến và ra lệnh trị tội vì đã tỏ ra bất kính đối với ông.
Thế nhưng, không một chút sợ hãi, bà đã nói như sau:
– Tâu bệ hạ, thần bị cuốn hút trong sự suy nghĩ về người chồng đến độ đã không nhìn thấy bệ hạ, nên đã bước qua. Hạ thần nghĩ rằng, bệ hạ đang cầu nguyện, thì tâm trí của bệ hạ cũng phải cuốn hút trong sự suy nghĩ về Thượng đế, lẽ nào bệ hạ còn lòng trí biết đến hạ thần và những cử chỉ nhỏ nhoi của hạ thần.
Nhà vua lấy làm xấu hổ vì sự việc xảy ra. Ông nhìn nhận rằng: Tuy không phải là một bậc thầy trong đạo, nhưng người đàn bà này đã dạy cho ông về sự chuyên tâm trong việc cầu nguyện.
Trong giây phút này, khi đến nhà thờ cầu nguyện và dâng thánh lễ, có lẽ chúng ta cũng hành động như ông vua, có nghĩa là chúng ta chưa cuốn hút vào trong tâm tình cầu nguyện. Xác chúng ta ở trong nhà thờ, nhưng tâm hồn chúng ta còn phiêu bạt tận đâu đâu. Một tiếng động nhỏ ở bên ngoài cũng đủ làm cho chúng ta chia trí. Rồi thì trong đầu óc, chúng ta mơ tưởng, chúng ta nghĩ đến hết chuyện này tới chuyện kia. Ấy là tôi chưa nói tới những người cố tình nói chuyện, chọc phá, nô giỡn, chẳng để tâm vào sự cầu nguyện một chút nào.
Giả sử như có một vị khách quí tới thăm nhà. Thế nhưng mọi người trong nhà đều bận rộn chuyện này chuyện kia, chẳng ai nói được một lời với vị khách quí ấy? Chúng ta nghĩ thế nào về thái độ này. Theo tôi, thì đó là một thái độ thiếu tế nhị, thiếu lịch sự, và chắc chắn sẽ làm cho vị khách quí buồn lòng.
Thế nhưng đối với Chúa, chúng ta lại thường xuyên cư xử như thế. Chúng ta tham dự thánh lễ, hay đọc kinh cầu nguyện cho qua lần đoạn lượt, mà chẳng có một chút tâm tình bên trong. Chính vì thế, chúng ta hãy xin lỗi Chúa vì sự khô khan nguội lạnh, vì sự thờ ơ sao lãng của chúng ta.
Đồng thời, như các môn đệ hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa dạy cho chúng ta biết cầu nguyện và nhất là xin Chúa dạy cho chúng ta biết cầu nguyện một cách chuyên tâm và sốt sắng.
Khi các môn đệ đến với Thầy với lời kêu xin: “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, thì các ông đã được ở với Đức Giêsu trong trường cầu nguyện một thời gian rồi, các ông đã cảm kích vì những bài học cụ thể giá trị nhất, ấy là tấm gương của chính Đấng Kitô. Nếu tâm trí của chúng ta từng nổi lên nhiều hoài nghi về thực tế và hiệu năng của lời cầu nguyện, chúng ta chỉ cần quay về với sách Tin Mừng của thánh Luca để được nhắc nhở rằng Chúa Giêsu đã dành nhiều thời giờ để cầu nguyện, và Ngài cầu nguyện ở mỗi biến động của đời sống Ngài. Chắc chắn chúng ta không lạc được khi theo bước chân Ngài.
Tuy nhiên, điều các môn đệ muốn có là một công thức cầu nguyện đặc biệt, như Gioan Tẩy Giả hình như có cho các người theo ông. Chúa Giêsu đáp ứng lời cầu xin ấy và ban cho các ông một kiểu mẫu độc nhất vô nhị, rồi khích lệ với lời hứa bảo đảm rằng lời cầu nguyện sẽ được nghe. Bài cầu nguyện được Lu-ca ghi lại có ngắn hơn của Mát-thêu nhưng cũng chứa đủ những điều mà chúng ta cần biết phải cầu nguyện thế nào và phải cầu nguyện những gì.
Lời cầu nguyện bắt đầu bằng xưng nhận Thiên Chúa là Cha. Đó là đặc tính của mọi lời Kitô hữu thưa với Chúa. Chính lời đầu tiên dạy chúng ta rằng, trong khi cầu nguyện chúng ta không đến với một Đấng phải miễn cưỡng ban ơn cho chúng ta, nhưng đến với một Cha hằng vui thích làm thoả mãn mọi nhu cầu của con cái Ngài.
Trong tiếng Do Thái, chữ “tên” hay “danh” có ý nghĩa sâu sắc hơn là tên gọi của một người. Chữ “danh” gồm tất cả các đặc tính của người mà chúng ta quen biết. Thánh vịnh 9, 11 nói: “Người nhận biết thánh danh, sẽ một niềm tin cậy.” Câu đó có ý nghĩa sâu sắc hơn chứ không chỉ biết tên Thiên Chúa Gia-vê. Nó có nghĩa là người nào thấu hiểu được tư tưởng, ý muốn và tấm lòng của Thiên Chúa sẽ vui lòng đặt hết niềm tin cậy vào Ngài.
Chúng ta nên chú ý đặc biệt đến thứ tự các lời cầu nguyện Chúa Giêsu dạy trước khi cầu xin bất cứ điều gì cho chính mình, chúng ta phải đặt Thiên Chúa, sự vinh hiển và tôn trọng của Ngài lên hàng đầu. Chỉ sau khi dành cho Chúa chỗ của Ngài, bấy giờ các điều khác mới có chỗ xứng hợp.
Bài cầu nguyện bao quát cả cuộc đời.
– Nó bao hàm các nhu cầu hiện tại. Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu xin vật thực cho chúng ta mỗi ngày. Nên nhớ bánh đủ ăn từng ngày là điều chúng ta cầu xin. Điều này nhắc lại câu chuyện về Man-na trong sa mạc. Dân Chúa chỉ được lượm Man-na đủ ăn trong một ngày mà thôi. Chúng ta đừng lo cho một tương lai không rõ, nhưng ngày nào lo cho ngày ấy.
– Nó bao hàm tội lỗi đã qua. Khi cầu nguyện chúng ta không thể làm gì hơn là xin ơn tha thứ, vì dù con người tốt nhất trong chúng ta cũng chỉ là một tội nhân trước sự thánh thiện của Thiên Chúa.
– Nó bao trùm các thử thách trong tương lai. Từ ngữ “cám dỗ” trong Tân Ước có nghĩa là bất cứ hoàn cảnh thử thách nào. Nó không chỉ có nghĩa là quyến rũ phạm tội mà còn bao gồm mọi hoàn cảnh khiến con người bị thử thách về đức độ, thanh liêm, lòng tín trung. Chúng ta không thể trốn tránh những hoàn cảnh đó, nhưng chúng ta có thể thắng nó nhờ ơn Chúa ban. Có người nhận định rất đúng rằng: Bài cầu nguyện Chúa Giêsu dạy – mà chúng ta gọi là kinh Lạy Cha – có hai ích lợi lớn cho giờ cầu nguyện của chúng ta. Nếu chúng ta dùng để bắt đầu giờ cầu nguyện thì nó khơi dậy những ước muốn tốt đẹp giúp chúng ta biết cầu nguyện cho xứng đáng. Nếu chúng ta dùng để kết thúc giờ cầu nguyện thì nó tóm tắt mọi điều chúng ta phải cầu xin trước mặt Thiên Chúa.
Để khuyến khích các môn đệ trong những lời khẩn cầu ấy Ngài kể cho họ nghe câu chuyện về một người kêu xin không ngừng, hầu như là lì lợm nên đã được ban cho bánh cần dùng. Trong xứ Pa-lét-tin, khách bộ hành thường lên đường vào buổi chiều hầu tránh cái nóng bức của buổi trưa. Trong câu chuyện Chúa Giêsu kể, có một người khách như vậy đã tới nhà bạn mình lúc nửa đêm. Bên Đông phương tiếp khách là bổn phận thiêng liêng. Chỉ cho khách ăn vừa đủ no thôi thì không được, cần cho khách ăn dư dật. Trong các làng quê, người ta làm bánh mì tại nhà và chỉ nướng bánh đủ ăn trong một ngày, vì nếu giữ lại, bánh sẽ cũ đi không ai muốn ăn. Vị khách nói trên đến muộn quá khiến chủ nhà bối rối vì thức ăn đã hết nhẵn, chủ nhà không thể làm tròn bổn phận thiêng liêng là tiếp khách. Và dầu đêm đã khuya, chủ nhà cũng tới nhà bạn để vay bánh. Cửa nhà người bạn đã đóng. Bên Đông phương, không ai muốn gõ cửa nhà đã đóng, trừ khi cấp bách lắm. Buổi sáng cửa nhà được mở ra và cứ mở suốt ngày, nhưng nếu cửa đóng lại, đó là dấu chủ nhà không muốn bị quấy rầy. Nhưng người chủ nhà đi tìm bánh đã không e ngại ông gõ cửa và cứ gõ mãi…
Căn nhà nghèo ở xứ Pa-lét-tin chỉ có một căn phòng với một cửa sổ nhỏ. Nền nhà làm bằng đất nện phủ tre khô và cành khô. Căn phòng chia làm hai phần, không phải bằng vách ngăn mà bằng mặt đất thấp hơn. Hai phần ba phòng thì nền đất thấp, phần ba kia thì nền cao hơn một chút. Trên phần đất cao đó có bếp than ủ cháy suốt đêm, và cả gia đình nằm ngủ quanh bếp đó, họ không nằm nơi giường cao, nhưng trên những tấm chiếu. Các gia đình thường đông người và họ thường nằm sát nhau cho ấm. Khi một người trỗi dậy thì tất nhiên làm phiền cả gia đình. Hơn nữa, tại làng quê, buổi tối người ta đem gia súc, gà, dê vào trong nhà. Không lạ gì, trong hoàn cảnh đó, một người đã đi ngủ thì không muốn dậy nữa. Nhưng người vay bánh quyết tâm này cứ gõ mãi, “gõ mãi mà không biết xấu hổ” theo đúng nghĩa của từ ngữ Hy-lạp được dùng – cho tới khi chủ nhà đành chỗi dậy cho người kia mọi điều xin, vì dầu sao gia đình cũng bị quấy rầy rồi. Chúa Giêsu có ý bảo: “Câu chuyện này dạy các ngươi về việc cầu nguyện.” Bài học trong dụ ngôn này không phải dạy chúng ta cứ mãi mãi nài xin, không phải chúng ta cứ phải đập vào cửa Thiên Chúa cho đến khi ép buộc Ngài cực chẳng đã phải ban cho chúng ta điều chúng ta muốn, cho đến khi chúng ta cưỡng ép được Thiên Chúa không sẵn lòng chịu trả lời cho chúng ta, một dụ ngôn nói nôm na là một điều gì đó đặt bên cạnh. Nó cho ta thấy sự tương đồng hay tương phản giữa hai sự việc. Chúa Giêsu ngụ ý như sau: “Nếu một người chủ nhà khó tính và thiếu thiện chí mà cuối cùng có thể bị cưỡng ép bởi quyết tâm của một người bạn trì chí, để phải cho người đó mọi điều mong muốn, huống chi Thiên Chúa là Cha Từ Ái sẽ tiếp trợ mọi nhu cầu cho con cái Ngài hơn biết dường nào! Chúa Giêsu phán: “Nếu các ngươi vốn xấu mà còn biết rằng mình có bổn phận cung cấp nhu cầu cho con cái, huống chi Cha trên trời…”
Điều này không làm cho chúng ta giảm bớt sự hăng say và sốt sắng cầu nguyện. Dầu sao chúng ta chỉ có thể tỏ lòng ước muốn thành thực bởi sốt sắng và kiên trì cầu nguyện. Điều đó không có nghĩa là chúng ta phải giành giật các ơn phúc từ tay một Thiên Chúa không thiện chí, nhưng chúng ta đến với một Đấng biết rõ mọi nhu cầu của chúng ta hơn chính chúng ta, và Ngài là Đấng có lòng yêu thương và rộng rãi đối với chúng ta. Nếu chúng ta không nhận được điều mình xin, không phải vì Thiên Chúa không sẵn lòng ban ơn cho ta, nhưng vì Ngài có ơn phúc tốt hơn, để dành cho chúng ta. Và không hề có vấn đề mà chúng ta gọi là lời cầu nguyện không được nhận. Sự trả lời của Chúa có thể không đúng theo điều chúng ta ước muốn hoặc trông đợi, dầu khi Chúa từ chối điều mong muốn của ta, thì đó vẫn là sự trả lời bởi tình thương và khôn ngoan của chính Thiên Chúa là Cha Từ Ái.
Để kết luận chúng ta ghi lại đây tâm sự của tướng Douglas Mac Arthur: “Tôi là một chiến binh chuyên nghiệp. Và tôi rất hãnh diện về điều ấy, nhưng tôi còn vô cùng hãnh diện hơn vì được làm một ông bố. Tôi hy vọng rằng một mai khi tôi qua đời, đứa con trai của tôi sẽ không nhớ đến tôi như một chiến binh lúc nào cũng ở trận địa, mà là một ông bố hiện diện trong gia đình đang cùng nó đọc lời kinh nguyện đơn sơ hàng ngày: Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng… Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con…”
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Một thực tế trong đời Kitô hữu đó là hễ cầu nguyện thì không thể không cầu xin. Hễ nói đến cầu nguyện là người ta nghĩ ngay đến những ơn cần cầu xin. Có lẽ vì cuộc sống con người lắm gian truân và đầy dẫy những bất an, gian khổ, bên cạnh đó thì khát vọng cũng như nhu cầu của con người thì dường như vô tận. Tuy nhiên, nếu nhìn kỹ một chút thì việc cầu xin cũng là một cách thế cầu nguyện mang tính hiện sinh. Dù rằng theo cái nhìn tu đức truyền thống thì khi cầu nguyện, việc cầu xin xem ra không bằng việc tạ ơn, ngợi khen hay chúc tụng Thiên Chúa.
Lần kia một môn đệ nói với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gioan đã dạy các môn đệ của ông”. Và Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ: “Khi cầu nguyện, anh em hãy nói: “Lạy Cha, xin làm cho thánh danh Cha vinh hiển…; xin tha tội cho chúng con…” (x. Lc 11,1-4). Tin mừng Matthêu cũng tường thuật việc Chúa Giêsu dạy cầu nguyện với “Kinh Lạy Cha” bằng những lời cầu xin (x. Mt 6,9-13). Qua những lời cầu xin chúng ta nhận ra một vài tâm tình vừa chính đáng vừa phải đạo và cũng vừa rất “dễ thương” như sau:
Câu chuyện Abraham cò kè bớt một thêm hai để xin Thiên Chúa tha thứ cho dân hai thành Sôđôma và Gômôra là một minh hoạ. Lòng hiếu thảo luôn sánh đôi với nghĩa tình huynh đệ. Một người sống có tình với mẹ cha, thì hẳn luôn có lòng với anh chị em. Cũng thế, khi đã biết sống có tình với huynh đệ thì luôn làm đẹp lòng mẹ cha. Và các đấng bậc sinh thành vốn nhận tình nghĩa huynh đệ của đàn con như là một trong những cách thế đẹp nhất mà đàn con bày tỏ lòng thảo hiếu với mình. Chúng ta nhận ra sự thật này khi cha ông chúng ta đã gắn kết hai mối tình ấy bằng hạn từ ghép “tình hiếu đễ”.
Mối tình của Abraham dành cho dân hai thành Sôđôma và Gômôra một cách nào đó còn bị giới hạn. Dù rằng đã dùng hết cách để có kè bớt dần con số người công chính để xin Thiên Chúa thứ tha cho dân hai thành ấy, thì Abraham đã không vượt qua con số “mười”. Điều này cho chúng ta thấy rằng mặc dù tình thân của Abraham đối với Thiên Chúa thật đậm đà, nhưng vẫn còn bị hạn chế cách nào đó vì sự mạc khải thời Cựu ước chưa hoàn hảo. Chắc hẳn Abraham luôn mong ước được thấy ngày của Con Người, ngày mà chân lý được tỏ bày cách hoàn hảo nơi Giêsu Kitô (x.Ga 8,56). Giả như ông chứng kiến ngày ấy thì ông đã bớt dần con số xuống chỉ còn một người công chính. Quả vậy, “cũng như vì một người duy nhất đã sa ngã mà mọi người bị Thiên Chúa kết án, thì nhờ một người duy nhất đã thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng đã được Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghĩa là được sống” (Rm 5,18).
Tuy nhiên, có thể nói rằng cầu xin không phải là để Thiên Chúa biết các nhu cầu của chúng ta, vì chính Người đã biết rõ những gì chúng ta cần trước khi chúng ta cất lời khẩn xin (x.Mt 6,8). Và dĩ nhiên, đã là người Cha trên các người cha, thì Thiên Chúa sẵn sàng ban mọi sự tốt lành cho chúng ta. Và cần phải khẳng định rằng nội hàm những lời cầu xin là để giúp chúng ta nhận biết những gì chúng ta cần, và để chúng ta sẵn sàng đón nhận cũng như sẵn sàng thực thi Thánh Ý.
“Xin cho danh Cha cả sáng”. Chúng ta không xin thì trời xanh vẫn phản ánh vinh quang của Người. Chúng ta xin là để biết cách cộng tác với ơn Chúa làm cho Thánh danh Người tỏ rạng nơi cuộc đời con người chúng ta. “Xin Cha tha nợ cho chúng con”. Chúng ta chưa xin thì Đức Kitô đã chết để ban ơn tha thứ cho chúng ta ngay khi chúng ta còn là kẻ phản nghịch. Cầu xin là để biết cách thế đón nhận hồng ân tha thứ Chúa đã tặng ban. Một trong những cách thế để đón nhận hồng ân thứ tha của Thiên Chúa đó là quảng đại tha thứ cho tha nhân (x.Mt 6,14-15).
Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên để tiếp xúc, gặp gỡ Thiên Chúa. Tiếp xúc, gặp gỡ Chúa để biết Chúa, yêu mến Chúa và để thực hiện thánh ý của Người. Như thế, cầu nguyện, cầu xin không phải là để bắt Thiên Chúa thực hiện điều chúng ta muốn, nhưng là để bắt chính mình thực thi điều Thiên Chúa muốn. Vấn đề đặt ra đó là cần phải biết cầu xin những gì đẹp ý Chúa. Một trong những điều đẹp ý Chúa nhất đó là tôi và mọi người cùng được hưởng ơn cứu độ, được hưởng hạnh phúc ngay hôm nay và ngày sau.
Hôm nay Đức Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện bằng lời kinh Lạy Cha. Người muốn chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha, sống tâm tình con thảo và tin tưởng phó thác hoàn toàn vào Thiên Chúa. Người muốn chúng ta cầu nguyện cho vinh danh Thiên Chúa và cho những nhu cầu cơ bản của chính chúng ta. Tuy nhiên, không phải là chúng ta xin điều gì thì được điều ấy. Thiên Chúa nhân lành không bao giờ ban điều xấu cho con cái Người là chúng ta. Quà tặng cao quý nhất là Chúa Thánh Thần, Đấng bảo trợ và nâng đỡ chúng ta.
Nguyện cho danh Cha cả sáng, lời nguyện đầu tiên xin cho Thiên Chúa được mọi người nhận biết, tôn thờ Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh chị em với nhau.
Nguyện cho Nước Cha trị đến, lời nguyện thứ hai xin cho Nước Cha, “nước công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14,17). Nơi nào có công chính, có bình an, có hoan lạc trong Thánh Thần, nơi đó là Nước Thiên Chúa. Công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần càng lan rộng thì con người lại càng được hạnh phúc.
Nguyện cho ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời, lời nguyện thứ ba xin cho ý Thiên Chúa được thực hiện. Thiên Chúa muốn mọi người được bình an, hạnh phúc và nhất là được cứu độ. Ý muốn của chúng ta thường hẹp hòi, ích kỷ, vì chúng ta nghĩ đến mình quá nhiều. Nhưng Thiên Chúa thì khác. Hơn nữa, Thiên Chúa biết chúng ta cần thiết những gì.
Xin cho chúng con hôm nay có cơm ăn áo mặc đầy đủ mỗi ngày là lời nguyện thứ tư. Giàu có quá hoặc nghèo khó quá là hai thái cực. Cha ông chúng ta đã chẳng từng nói “no nê sinh dâm dật, túng bấn sinh đạo tặc” đó sao? Đức Giêsu muốn tránh cho chúng ta những nguy hiểm tiềm ẩn. Người muốn chúng ta thanh thoát, đừng quá lo toan vật chất mà hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa, vì như hoa huệ ngoài đồng Thiên Chúa cũng nuôi.
Xin tha nợ chúng con là lời nguyện thứ năm. Con người ở đời không ai là hoàn hảo cả, không lỗi này thì lỗi khác, không tội lớn thì tội nhỏ. Như thế, con người mang gánh nặng, mang nợ. Con người cần Thiên Chúa tha nợ. Nhưng điều kiện để được Thiên Chúa tha thứ là con người cũng phải biết bỏ qua cho anh em mình “như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.
Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ là lời nguyện thứ sáu. Cám dỗ là một thực tế trong đời người. Bao lâu con người còn sống, bấy lâu còn cám dỗ. Cám dỗ đến từ bên ngoài, do người khác, do hoàn cảnh; cám dỗ đến từ bên trong, do chính nội tâm, thâm sâu mỗi người.
Xin cứu chúng con cho khỏi sự dữ là lời nguyện thứ bảy. Sự dữ là những gì không tốt xảy đến cho con người, là bị tai nạn, bị thiệt hại, bị hãm hại… nói chung là điều xấu. Xin Thiên Chúa gìn giữ chúng ta luôn bình an, hạnh phúc.
Kinh Lạy Cha là lời kinh duy nhất Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện. Khi đọc lời kinh này trong tâm tình con thảo, đọc chậm rãi, vừa đọc vừa suy niệm, chúng ta làm phong phú đời sống tâm linh của mình mỗi ngày.
Lạy Cha trên trời là Cha chúng con.
Chúng con dâng Cha tâm tình ngợi khen,
chúc tụng, thống hối và nguyện xin.
Chúng con nguyện cho mọi người nhìn nhận Cha
là Chủ tể trời đất muôn vật,
là Đấng thống lãnh, điều khiển lịch sử nhân loại.
Chúng con nguyện cho sự công chính, bình an
và hoan lạc trong Thánh Thần ngự trị khắp mọi nơi.
Chúng con xin dâng ý riêng con
để cầu cho thánh ý Cha được thành tựu khắp nơi.
Xin cho chúng con trở nên những người nghèo khó,
biết chấp nhận cuộc đời,
biết chấp nhận con người.
Xin gìn giữ chúng con luôn được bình an, hạnh phúc.
Amen.
Cầu nguyện là một nhu cầu đặc biệt. Tôn giáo được lập ra để đáp ứng nhu cầu căn bản và lớn lao đó. Cầu nguyện là một hành vi cao cả nhất của con người và đặc tính xác định bản chất và giá trị con người. Tất cả tinh túy Kitô giáo đều tìm thấy trong lời kinh “Lạy Cha.” (Lc 11:2)
CẦU NGUYỆN LÀ LẼ SỐNG.
Ðức Giêsu đã dạy các môn đệ cầu nguyện. Nói khác, chính Chúa đã dẫn các môn đệ đi vào tương giao sâu xa với Chúa Cha. Khi đã bắt được tương quan sâu xa đó, họ sẽ không còn thấy một cản trở nào và cũng chẳng cần một trung gian nào nữa. Sự thánh thiện không làm Chúa xa lạ với những nhu cầu con người. Quyền năng tuyệt đối không khiến Người độc đoán và cao ngạo trước số kiếp lầm than của nhân loại. Vấn đề là con người có dám thưa “lạy Cha” với Ðấng Tạo Hóa hay không. Càng gần Thiên Chúa, con người càng thánh thiện vì “danh Người thật chí thánh chí tôn.” (Lc 1:49) Sự thánh thiện của tín hữu làm vinh danh Thiên Chúa, vì phản ánh vinh quang Thiên Chúa. Chính vinh quang đó đã chiếu tỏa mãnh liệt trên dung nhan Ðức Giêsu, Ðấng khai mạc triều đại Thiên Chúa. Bởi vậy, xin cho “Triều Ðại Cha mau đến,” (Lc 11:2b) nghĩa là xin cho ơn cứu độ mau thành tựu nơi nhiệm thể Ðức Giêsu.
Ðó là chiều kích cánh chung của kinh “Lạy Cha”. Chiều kích cánh chung phải gắn liền với chiều kích “hôm nay” (Lc 19:9 tt) với những nhu cầu rất thực tiễn của cuộc sống cộng đoàn và cá nhân. Quả thế, thực tế chừng nào khi Chúa dạy chúng ta “xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy.” (Lc 11:3) Lời cầu nguyện phát xuất từ niềm tin. Niềm tin không xa rời thực tế để chỉ cắm chặt vào những thực tại trên trời. Trái lại, niềm tin cho thấy ngay cả những nhu cầu hiện tại con người cũng tùy thuộc vào lòng từ bi và quyền năng Cha trên trời. Bởi thế, cầu xin Cha ban cho lương thực hằng ngày là điều hợp lý.
Phải chăng lương thực hằng ngày chỉ đáp ứng cho những nhu cầu cấp bách? Nếu thế, làm sao con người bắt kịp tốc độ triều đại Chúa đang đến? Quả thực, cần phải có một thứ lương thực tương lai, tức là Thánh Thể, để con người có thể nếm trước và nhập tiệc cánh chung với Chúa. Cả hai thứ lương thực trần gian và thiên quốc đều cần thiết cho cuộc sống hiện tại và tương lai. Tình yêu Thiên Chúa tràn ngập trong những lương thực này. Thiên Chúa lo lắng cho cuộc sống con người. Người muốn con người thực sự hạnh phúc ngay trong phút giây hiện tại. Hạnh phúc đó không dừng lại trong hiện tại và phải vượt qua ranh giới cánh chung, để tìm đến hạnh phúc đích thực trong Thiên Chúa. Chỉ có lương thực tương lai mới bảo đảm những bước tiến đó mà thôi. Không có lương thực tương lai, lương thực hiện tại hoàn toàn bất lực trong việc chuẩn bị con người nhập tiệc vui với Chúa.
Căn cứ vào đâu biết Thiên Chúa lo lắng đến tương lai chúng ta? Nếu Người không lo lắng đến hạnh phúc con người, chắc chắn không bao giờ Người được gọi là “Cha”. Ðúng hơn, Người vượt trên mọi người cha trần gian trong việc thi thố tình yêu đối với con cái. Ðức Giêsu quả quyết: “Nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?” (Lc 11:13) Chỉ những người có đức tin mới có thể thấy được sức nặng của lời quả quyết đó. Quả thực, đức tin mạc khải rõ Cha quan tâm sâu xa đến nhu cầu đời sống hằng ngày của mỗi người chúng ta.
Nhưng tình yêu Thiên Chúa không chỉ thể hiện qua lương thực hằng ngày, dù là vật chất hay thiêng liêng. Tình yêu Chúa chính là sức mạnh cứu độ. Cứu độ có nghĩa là tha thứ. Chính vì thế, Ðức Giêsu không quên dạy chúng ta xin Cha “tha tội cho chúng con.” (Lc 11:4) Ðây là một lời cầu xin quan trọng. Vì nếu không được tha thứ, chúng ta vẫn còn là thù địch của Thiên Chúa. Như thế, làm sao chúng ta có thể sống hạnh phúc? Không có Chúa, chúng ta sẽ hoàn toàn mất bình an. Chính vì thế “Thiên Chúa đã ban ơn tha thứ mọi sa ngã lỗi lầm của chúng ta.” (Cl 2:13) Một bằng chứng rõ ràng là “Thiên Chúa đã cho anh em được cùng sống với Ðức Kitô.” (Cl 2:13) Nói khác, Thiên Chúa đã giao hòa với chúng ta trong Con Một Chí Ái Người.
Nhưng cuộc giao hòa này không chỉ có một chiều. Nói khác, không thể xin Cha tha thứ nếu chính chúng ta không tha thứ cho anh em. Bởi vậy, sau khi “xin tha tội cho chúng con”, chúng ta phải thưa ngay: “vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con.” (Lc 11:4) Cuộc sống hằng ngày với những tương quan chằng chịt lại có sức tạo một nền tảng vững chắc cho lời cầu xin tha thứ tự trời cao. Hai chiều ngang dọc liên đới với nhau trong một huyền nhiệm tình yêu tuyệt vời. Tinh thần Kitô hữu không thể rời xa mối liên đới sâu xa đó.
Sau cùng, trước những hiểm nguy tiến về nhà Cha, con người không thể không cần đến sức mạnh cứu độ của Chúa. Ðức Giêsu chính là sức mạnh đó. Thực tế, chúng ta “đã cùng được mai táng với Ðức Kitô khi chịu phép rửa, lại cùng được trỗi đậy với Người, vì tin vào quyền năng của Thiên Chúa, Ðấng làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết,” (Cl 2:12) Chỗi dậy với Người tức là thoát ách tử thần mà bước vào cõi hằng sống. Ðó là cơn thử thách lớn nhất con người không thể vượt qua được nếu không nhờ sức mạnh Chúa Thánh thần. Chính vì thế, Ðức Giêsu mới quả quyết Cha trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người (Lc 11:13). Thánh Thần là bảo đảm lớn nhất và vững chắc nhất cho những ai đang đặt tất cả niềm hi vọng nơi Thiên Chúa.
Nhưng muốn lãnh nhận được Thánh Thần, cần phải kiên trì cầu nguyện hằng ngày. Lời cầu xin hằng ngày cũng là một thách đố lớn. Không phải lúc nào cũng đón nhận kết quả mau lẹ như ý muốn. Nhiều khi kéo dài hằng mấy chục năm. Ðiển hình là trường hợp thánh nữ Monica. Nhờ ơn Chúa, thánh nữ đã vượt qua thử thách đó và đã chứng kiến sức mạnh lời cầu nguyện nơi Augustinô. Chắc chắn thánh nữ đã hiểu rõ dụ ngôn về người bạn quấy rầy và lì lợm trong Tin Mừng Lc 11:5-8. Chúa quá yêu thương chúng ta, không thể cầm lòng nổi trước tiếng nài van khẩn thiết của đoàn con bé mọn. Khác hẳn với các người cha trần gian, Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng. Tình yêu đó đã hoạt động mãnh liệt ngay từ Giáo hội tiên khởi. Thánh Thần là một bảo chứng lớn lao của tình yêu đó và là một tặng phẩm tuyệt vời Thiên Chúa đã ban cho Giáo hội.
Giáo hội tiên khởi may mắn được Mẹ Maria hợp lực nài xin Chúa sai Thánh Thần. Các tông đồ đã xác tín tuyệt đối vào lời Chúa: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho.” (Lc 11:9) Chúa đã nhận lời Ðức Mẹ và các tông đồ vì các ngài là những người công chính. Sự công chính là một sức mạnh kéo Thiên Chúa chú ý đến lời cầu nguyện. Từ xưa, Abraham cũng đã được Chúa lắng nghe vì là người công chính. Lời cầu nguyện của ông giống như một sự mặc cả. Từ con số năm mươi người lành, ông đã rút dần xuống mười người để cứu vãn thành Xơđôm. Thật là đơn sơ và chân thành! Không ngờ Chúa cũng chấp nhận tất cả những đề nghị của ông Abraham. Ngày nay, nếu có phải “mặc cả”, chúng ta không mất công “cò kè bớt một thêm hai” như kiểu Abraham. Chúng ta đã có một thế lực rất lớn là giá máu Thánh Tử Chí Ái là Ðức Giêsu. Ðức Giêsu là người công chính. Người công chính nói gì Chúa cũng lắng nghe. Bao lâu sống bất chính và bất công, chúng ta không xứng đáng dâng lên Chúa một lời nguyện nào, chứ đừng nói đến chuyện được Chúa chấp nhận. Thánh Phaolô đã vạch trần sự thật: “trước kia, anh em là những kẻ chết vì anh em đã sa ngã.” (Cl 2:13) Nhưng giờ đây “Người đã xóa sổ nợ bất lợi cho chúng ta. Người đã hủy bỏ nó đi, bằng cách đóng đinh nó vào thập giá.” (Cl 2:14) Thế là chúng ta an tâm khi dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa.
CỘNG ÐỒNG CẦU NGUYỆN.
Lời cầu nguyện được thốt lên từ lòng người và trong cộng đồng. Con người được kêu gọi để làm thành những cộng đồng cầu nguyện, tức là tôn giáo. Càng cầu nguyện, càng thấy mình phải hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa. Cá nhân hay tập thể đều thấy mức độ lệ thuộc lớn lao đó. Ðứng trước nhan Chúa, cá nhân có những ưu thế hơn tập thể, vì có thể chìm sâu trong tương quan vô tận với Thiên Chúa. Nhưng cá nhân vẫn cảm thấy thiếu thốn và cần đến chiều kích cộng đồng trong lời cầu nguyện. Bởi đấy, trong lời kinh Lạy Cha, Ðức Giêsu đã dạy chúng ta phải cầu nguyện trong thế liên kết với anh em. Nói khác, người ta không thể đọc kinh Lạy Cha trong tư thế cá nhân. Cầu nguyện Kitô giáo luôn mang tính cộng đồng. Dù cầu nguyện một mình, người tín hữu cũng đọc: “Lạy Cha chúng con.” Ðúng hơn, Giáo hội là một cộng đồng cầu nguyện với Thiên Chúa. Cộng đồng có nhiều cách sống niềm tin. Nhưng cầu nguyện là cách thể hiện niềm tin mãnh liệt nhất của cộng đồng.
Ngày nay cộng đồng niềm tin đang bị cản trở cầu nguyện dưới mọi hình thức. Khi không tôn trọng tự do tôn giáo, các chính quyền độc tài đã khinh thường và chà đạp nhân phẩm con người. Tôn giáo là cao điểm của mọi hoạt động nhân loại. Tôn giáo nâng cao con người trên vạn vật. Chỉ con người mới có tôn giáo. Nói khác, nếu không có tôn giáo, con người hoàn toàn giống con vật với những nhu cầu trước mắt mà thôi. Bởi thế, “tự do tôn giáo là một trong những cách diễn tả cao độ nhất lòng kính trọng nhân phẩm con người.” (CWNews 23/7/2001) Không tôn trọng tự do tôn giáo, các giá trị khác sẽ bị đe dọa trầm trọng.
Tôn giáo không tách rời khỏi cuộc sống và không phải là một cản trở bước tiến nhân loại. Trái lại, càng sống niềm tin tôn giáo, người ta càng cảm thấy liên đới và thấy rõ hướng tiến của nền văn minh. Thực vậy, có lẽ vì thấm nhuần tinh thần Kinh Lạy Cha, “Hoa Kỳ đã nêu gương trong việc xóa nợ cho 18 nước Phi châu.” (Tổng thống Abdoulaye Wade, Senegal, CWNews 24/7/2001) Theo Tổng thống Wade, “các nước giàu đang bắt đầu lắng nghe những đòi hỏi thúc bách của những nước nghèo. Ðến lượt mình, các nước trong thế giới thứ ba phải có những cam kết cụ thể nhập cuộc vào tiến trình toàn cầu hóa.” (CWNews 24/7/2001) Tiến trình toàn cầu hóa phải làm cho mọi người liên đới với nhau trong trách nhiệm và quyền lợi như Kinh Lạy Cha đã vạch ra. Nếu không liên đới như thế, nhân loại sẽ không tránh được tai họa tự hủy diệt. Ðó là sự dữ lớn nhất chúng ta phải cầu xin hằng ngày.
Con đường dẫn tới sự dữ đó chính là cám dỗ đang vây bọc quanh ta. Bởi đấy chúng ta không ngừng thưa với Chúa: “Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ.” (Lc 11:4) Cám dỗ là sản phẩm của “văn minh sự chết”, đối nghịch với “văn minh sự sống”. Trước những cám dỗ thời đại như việc tạo sinh vô tính con người hay cuộc nghiên cưú lấy tế bào gốc từ phôi thai người, chúng ta phải cầu nguyện cùng Cha trên trời ban cho nhân loại khả năng liên đới với nhau để xây dựng “nền văn minh sự sống”. Hiện tại, “nền văn minh sự sống” đang gặp nhiều vấn đề. Trong niềm tin, Kitô hữu xác tín rằng “Ðức Giêsu Kitô là giải pháp duy nhất giải quyết những vấn đề thế giới hôm nay. Tin Mừng là liều thuốc chữa trị những khủng hoảng của một xã hội đầy?tự mãn và thất vọng?, và đó cũng là nguồn gốc phát sinh một?cuộc cách mạng văn hóa? cần thiết cho việc phát triển các dân tộc Miền Nam thế giới.” (CWNews 24/7/2001) Nhưng giải pháp duy nhất đó chỉ đến với nhân loại khi tất cả đều nhất trí cầu nguyện: “Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, Triều Ðại Cha mau đến” (Lc 11:2) nơi Ðức Giêsu Kitô, Ðấng Cứu độ duy nhất của toàn thể nhân loại. Maranatha! Lạy Chúa, xin mau đến!
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Cách đây gần 30 năm, thời còn mài đũng quần ở Chủng Viện, khi học môn Kinh Thánh thì một trong những đoạn trích Cựu Ước khiến tôi vừa thích thú vừa cảm nhận tình thân của Thiên Chúa cách xâu xa đó là đoạn văn kể chyện Abraham cò kè, mặc cả với Giavê Thiên Chúa ( St 18, 16-33 ) để xin tha cho hai thành Sôđôma và Gômôra.. Xin được bộc bạch chút tâm tình cá nhân.
Tình thân của Thiên Chúa: “ Đức Chúa phán: Ta có nên giấu Abraham điều ta sắp làm chăng?” ( St 18,17 ). Một câu tự hỏi cũng là câu trả lời cách rành rõi. Đã yêu nhau thì không điều gì phải giấu nhau. Không thể nói yêu thương nếu không tín nhiệm lẫn nhau. Làm sao ta có thể nói mình tín nhiệm một ai đó mà còn nhiều điều ta không muốn bộc bạch. Một Đấng vượt trên mọi sự mọi loài, là căn nguyên và cùng đích của mọi loài mọi sự lại thể hiện tình thân ái với một con người, quả là điều chỉ có thể hiểu được trong tình yêu. Tình yêu xóa tan mọi ngăn cách chức phận. Tình yêu đã khiến Đấng chí Tôn nên như đồng phận đồng thân với kẻ Người yêu. Trong tình yêu thì không còn gì là “bí mật” cần giữ kỷ. Nét đáng kinh ngạc ở đây là sáng kiến của người ở vai chí cao, ở phận chí tôn. Không đợi Abraham hỏi, không chờ Abraham tò mò hay hiếu kỳ. Giavê đi bước trước tỏ bày ý định, chương trình của mình.
Sự to gan và cũng là cách đáp trả rất thân tình của Abraham: Có kè, bớt một thêm hai cùng với những luận điệu rất dễ thương, Abraham đã đáp trả lại tình thân của Giavê cách dí dỏm vừa đúng phận vừa hợp tình. “ Mặc dầu con con chỉ là tro bụi, con cũng xin mạn phép thưa với Chúa…; Xin Chúa đừng giận, cho con nói tiếp…; Xin Chúa đừng giận,cho con nói một lần này nữa thôi…”, những câu nói mào đầu không chỉ mang tính “phải phép” mà còn ẩn chứa một tình thân sâu đậm. Cái tình ấy lên đến đỉnh cao khi Abraham dường như chân thành góp ý với cả Giavê: “Chẳng lẽ Ngài tiêu diệt người lành một trật với kẻ dữ sao? Giả như trong thành có năm mươi người lành, chẳng lẽ Ngài tiêu diệt họ thật sao? Chẳng lẽ Ngài không dung thứ cho thành đó vì năm mươi người lành đó sao? Ngài làm như vậy chắc không được đâu! Đấng xét xử cả trần gian lại không xét xử công minh sao?”( St 18,23-25 ). Abraham làm như muốn chỉ dạy cả Giavê!
Sự tuyệt vời của tình yêu không chỉ thể hiện nơi sự to gan của Abraham mà còn nổi rõ cách đáng kinh ngạc nơi thái độ của Giavê. Giavê sẵn sàng nghe theo sự “khuyên can” của Abraham. “ Nếu Ta tìm ra được trong thành Sôđôma năm mươi người lành thì vì họ, Ta sẽ dung thứ cho cả thành đó”. Và cái điệp khúc tình yêu ấy lặp đi lặp lại với con số người lành mà Abraham bớt dần bớt dần.
Tình yêu thật diệu kỳ. Đã yêu nhau thì dường như mọi sự đều là có thể. Khi đã yêu thì sự thẳng thắn, chân thành với nhau là điều tất yếu. Khi đã yêu thì không ngần ngại bộc bạch tâm can nổi lòng. Khi đã yêu thì sẵn sàng vượt mọi rào cản để chia sẻ với nhau ý tình, chia sẻ với nhau cả những lời góp ý và sự bảo khuyên. Và khi đã yêu thì sự lắng nghe nhau là điều tất yếu cho dù mình đang ở vai trên, đang đảm nhận chức lớn.
Abraham thật tuyệt vời nhưng vẫn chưa cảm nhận hết tình thân của Giavê: Cuộc mặc cả, có kè đã dừng lại với con số mười. Đang trong phận người, Abraham vẫn còn đó nhiều giới hạn. Dù được gọi là cha của kẻ tin, nhưng đức tin chỉ dẫn chúng ta đến mức đón nhận chân lý cách “lờ mờ như nhìn thấy trong gương” ( x. 1Cr 13,12 ). Đâu phải là những tấm gương bằng kính được tráng bạc như ngày nay mà chỉ là những tấm đồng được đánh bóng mà thôi. Đức tin là cánh cửa dẫn đến đức ái. Có nhiều thực tại trần thế này ta chỉ có thể hiểu nhờ tình yêu hơn là lý trí. Để đến cùng Thiên Chúa là Tình Yêu đích thực thì trí khôn của ta có giới hạn. Ngay cả với con tim nhân trần chúng ta trong kiếp người lữ thứ cũng không thể nào thấu đạt Đấng là nguồn tình yêu. Abraham dừng lại với con số mười là lẽ đương nhiên. Dù Abraham chưa thấu hiểu mối thân tình của Giavê Thiên Chúa, nhưng hôm ấy Thiên Chúa đã phần nào làm theo lời “khuyên bảo” của ông. Bằng chứng là dù bà vợ ông Lót có bị hóa ra tượng muối vì không tuân lệnh nhưng gia đình ông Lót đã được cứu sống (x. St 19,1-29 )
Đến thời viên mãn, khi Đức Kitô, Con Thiên Chúa nhập thể làm người, nhân loại chúng ta mới được tỏ bày chân dung của Thiên Chúa cách tròn đầy, hoàn hảo. “ Ai thấy Thầy là Thấy Chúa Cha” ( Ga 14,9 ). “Thuở xưa, nhiều lần và nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” ( Dt 1,1-2 ). Thiên Chúa đã tỏ bày chính Người cách trọn vẹn và hoàn hảo qua Đức Giêsu Kitô. Chính vì thế mà những người ở thời Tân Ước được cao trọng hơn cả Gioan Tiền Hô, không phải do bởi công trạng của họ nhưng là nhờ được Thiên Chúa tự tỏ bày cách đủ đầy.
Abraham đã trông mong được thấy ngày của Đức Kitô ( x.Ga 8,56 ). Giả như Abraham thấy được ngày của Đức Kitô hôm ấy thì ông đã không dừng lại ở con số mười. Ông có ngờ đâu, nếu ống cứ tiếp tục có kè bớt dần cho đến con số một thì Giavê Thiên Chúa cũng sẽ nói: vì một người công chính, Ta cũng sẽ tha cho cả thành. Thánh Tông đồ dân ngoại đã triển khai chân lý này trong thư gửi tín hữu Rôma. Vì một người công chính duy nhất là Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã ban ân sủng dồi dào cho nhân loại và cho muôn người được nên công chính để được sống đời đời ( x. Rm 5,12-21 ).
Một con đường để đến với Đấng là Tình Yêu: Trở nên dễ yêu và sống thân tình trước nhan Thiên Chúa. Hiểu được cái tình của Thiên Chúa, biết được cung cách của Thiên Chúa, thì thiết tưởng, không gì hơn hãy trở nên dễ yêu như chị Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Sống với Chúa, sống trước nhan Thiên Chúa cách thân tình như trẻ thơ trong vòng tay của bố, của mẹ. Không thể nào tránh được lầm lỗi khi đang trong kiếp người “bất thập toàn”. Nhưng khi ta sống đơn sơ, trung thực trước nhan thánh Chúa thì những sai lầm ấy đã được yêu. Chuyện kể: “ Một bé gái sáu tuổi đang nhổ tóc bạc cho mẹ, bé đơn sơ: “Sao tóc mẹ từ đen hóa ra màu trắng vậy?” Bà mẹ giỡn yêu con gái: “ Cứ mỗi lần con hư là một sợi tóc của mẹ từ đen hóa ra trắng bạc đó”. “À, con hiểu rồi – Bé gái nhanh nhẩu ra vẻ khám phá điều mới lạ – Con hiểu vì sao tóc bà ngoại bạc trắng cả đầu”. Bà mẹ trẻ cười khanh khách và ôm con vào lòng.
Kinh Lạy Cha là kinh nguyện đầu tiên, vĩ đại nhất trong mọi kinh nguyện Kitô giáo, kinh duy nhất do Đức Kitô sáng lập. Nó bao gồm mọi tương quan giữa Thiên Chúa với chúng ta và giữa chúng ta với nhau. Nó không chỉ dạy cần cầu nguyện về điều gì, còn dạy ta cầu nguyện thế nào. Nó là khuôn mẫu cho mọi kinh nguyện. Nếu sống theo những điều dạy trong đó, chúng ta hoàn toàn hợp với tâm hồn của Đức Kitô. Bởi chắc chắn đó là điều chính Người cầu nguyện và sống theo. Kinh lạy Cha được chia làm hai phần:
Phần thứ nhất: Tương quan với Thiên Chúa
Mở đầu kinh nguyện, Đức Giêsu gọi Thiên Chúa là Cha. Nhiều dân tộc phương Đông coi thần linh như Cha. Dân Do thái cũng gọi Thiên Chúa là Cha, như nhiều tôn giáo khác (Hs 13, 3; Gr 3, 19; Is 63,16; Kn 5,5). Nhưng để tránh nguy cơ hạ giá Thiên Chúa xuống mức độ con người, Cựu ước thường rất họa hiếm kêu Thiên Chúa như Cha. Phần Đức Giêsu, chẳng những gọi Thiên Chúa là Cha, Người còn dùng từ thân mật hơn nữa, từ chỉ đứa trẻ thơ, trẻ vừa thôi bú, bập bẹ biết nói gọi cha mình: “Abba!”Cha ơi! Qua đó, Đức Giêsu muốn nói, chúng ta có một người Cha toàn năng, Chúa Trời đất, nhưng lại rất dịu hiền thương yêu ta hơn mọi người cha trần gian. Ta hãy nguyện cho danh Cha cả sáng, được nhiều người biết đến. Khi chúc tụng Danh của Người, chúng ta chúc tụng chính Người.
Kế đó, Đức Giêsu dạy ta phải xin cho Nước Cha mau đến, Nước của Sự thật và Sự sống, của Thánh thiện và Ân sủng, của Công chính yêu thương và Bình an. Người Dothái cầu nguyện như thế trong kinh Qaddish: “Xin làm cho Danh cao cả của Người được thánh hóa trong thế gian, mà Người tạo dựng theo ý chí của Người. Xin Người làm cho triều đại Người được hiển trị và sự giải thoát được nảy mầm, Đấng Messia của Người đến gần”. Có điều khi đọc kinh Qaddish, người Dothái không biết bao giờ Đấng Messia đến và khi nào triều đại Thiên Chúa sẽ hiển trị. Phần Đức Giêsu biết, Đấng Messia chính là Ngài và triều đại của Thiên Chúa đến rất gần. Nó đã hình thành, nhưng không phải cách huy hoàng, song như một ít men, như một hạt giống vùi sâu trong lòng người (Mt 3,2-4; 17,10). Chúng ta đều có phần tham gia kiến tạo cho triều đại Chúa mau đến, bằng cách sống và rao giảng cho Triều đại đó tiến lên.
Đức Giêsu cũng dạy chúng ta, phải xin cho ý Cha được thể hiện dưới đất, dưới trần gian này. Thánh ý Chúa luôn là điều tốt đẹp, nhưng không phải là điều dễ thực hiện, nhất là trong cuộc sống, bởi ta là con người có ý chí tự do.
Phần thứ hai: Tương giao giữa chúng ta với nhau, những khát vọng của chúng ta.
Đức Giêsu gợi ý chúng ta xin Cha bốn điều: lương thực, biết tha thứ, chiến thắng cám dỗ, thoát sự dữ.
“Xin Cha cho chúng con lương thực hàng ngày”. Lương thực đây, có nghĩa là mọi khát vọng vật chất. Đó là thứ chúng ta thực sự cần. Tuy nhiên, chỉ hàng ngày dùng đủ. Đức Giêsu không ngừng nhấn mạnh, không nên quá lo lắng về ngày mai, ngày mai có cái lo của ngày mai (Lc 12, 22-23; Mt 6, 34). Trong cuộc xuất hành qua sa mạc, Dân Chúa không thể tích trữ lương thực manna trước cho nhiều ngày (Xh 16,4). Sách Châm Ngôn cũng dạy: “Xin đừng để con nghèo túng, cũng đừng để con giầu có, xin cho con cơm bánh cần dùng” (Cn 30,8). Đối với những người giàu có, khi đọc lời nguyện này, cần lưu ý từ “chúng con”, chia sẻ lương thực với những người đang đói.
“Xin tha kẻ có nợ chúng con, như chúng con tha kẻ có lỗi với chúng con”. Một cô bé đã nói với thầy dạy giáo lý: “Một Kitô hữu chính là một người biết tha thứ”. Tuy nhiên, để được Thiên Chúa tha thứ, ta cũng phải tha thứ cho người anh em. Đức Giêsu đã đưa ra dụ ngôn tên mắc nợ không biết thương xót (Mt 18, 23-35), để dạy về điều này.
“Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ”. Cám dỗ lớn nhất, kinh khủng nhất là đánh mất đức tin. Ở vườn Giệtsimani, Đức Giêsu đã khuyến cáo các bạn hữu của Người: “Hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ (Lc 22, 40; 22, 46). Vâng, cám dỗ lớn nhất của các môn đệ là bỏ rơi Đức Giêsu. Bởi thế, khi rao giảng Đức Giêsu đã nói: “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc18,8). Trong dụ ngôn gieo giống, Đức Giêsu nhắc ta phải cảnh giác: Có những người tín trung trong một thời gian nào đó, đến giờ thử thách, bị cám dỗ, họ đã chối bỏ đức tin (Lc 8,13).
“Xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ”. Cuối cùng, chúng ta cầu xin thoát khỏi sự dữ cả về thể lý và luân lý. Chúng ta không mong muốn gặp sự dữ. Điều chúng ta xin Chúa là ơn chiến thắng mọi sự dữ, nhất là sự dữ luân lý.
“Dụ ngôn người bạn quấy rầy”. Sau khi dạy các môn đệ phải cầu nguyện thế nào, Đức Giêsu lại đưa ra dụ ngôn dạy họ biết phải làm sao, để lời xin của họ được chấp nhận. Ở Paléttin thời Đức Giêsu, căn nhà chỉ có một phòng. Cánh cửa đóng lại có xà lớn dùng làm then cửa. Giường chiếu là một tấm nệm thật lớn, trải trên nền nhà. Con cái ngủ gần cha mẹ. Để mở cửa, phải nhọc mệt lắm và rất rộn ràng, khiến mọi người phải thức dậy. Trong những điều kiện như vậy, người ta mới hiểu sự tức tối của kẻ bị đánh thức lúc nửa đêm, để giúp đỡ bạn bè. Tuy nhiên, để được bình an, khỏi bị quấy rầy, người ta phải chào thua và chiều theo lời khẩn khoản của bạn.
Thiên Chúa cũng thế, Ngài sẽ nghe lời kẻ liên lỉ cầu xin. Lời kinh nguyện dai dẳng và đầy tin tưởng không biết chán, dù không được Chúa chấp nhận tức khắc, rồi cũng sẽ được Chúa nhận lời sau này. Thầy thông luật Israel nói: “Người ngu xuẩn thắng được sự dữ, thì đối với Thiên Chúa tốt lành, anh ta lại dễ dàng chiến thắng hơn”. Đức Giêsu cũng đưa ra dụ ngôn quan tòa bất chính và bà quấy rầy (Lc 18,1-8) để dạy về điều này.
Có một nhà văn vô thần. Ông ta không biết đến Thiên Chúa, đến linh hồn, đến đời sau. Ông ta bị đau nặng, được đưa vào bệnh viện và đang ở trong tình trạng hấp hối.
Nhìn thấy một nữ tu đến giúp đỡ ông nhưng tay lại cầm cỗ tràng hạt, ông ta bèn lên tiếng hỏi:
– Chị làm gì thế?
Vị nữ tu trả lời:
– Tôi đang cầu nguyện để ông được giảm bớt những cơn đau.
– Vậy chị cầu nguyện như thế nào?
Vị nữ tu bèn đọc thật chậm và sốt sắng lời kinh Chúa dạy:
– Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng…
Ông ta phát biểu:
– Lời kinh thật đẹp, chị hãy đọc tiếp nữa đi.
– Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.
Rồi sao nữa:
– Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.
Sau khi đã nghe đọc hết kinh Lạy Cha, ông ta nói:
– Tôi muốn chị dạy cho tôi lời kinh bất hủ ấy.
Và sau cùng, một người vô thần đã nhận biết Thiên Chúa nhờ lời kinh Lạy Cha.
Trong phần tìm hiểu sáng hôm nay, tôi chỉ muốn dừng lại và phân tích bốn chữ vắn gọn: Lạy Cha chúng con.
Trước hết là hai chữ “Lạy Cha”.
Trong đời sống chúng ta có thể gọi Thiên Chúa bằng nhiều danh hiệu khác nhau: nào là Thiên Chúa vĩnh cửu, nào là Thiên Chúa quyền năng, nào là Thiên Chúa tạo dựng, nào là Thiên Chúa thánh thiện. Mỗi danh hiệu đều nói lên một góc cạnh, một đặc tính nào đó của Thiên Chúa.
Nhưng theo tôi nghĩ, không một danh hiệu nào lại đậm đà, lại trìu mến, lại ý nghĩa, lại hy vọng cho bằng danh hiệu là Cha. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã dạy chúng ta mỗi khi cầu nguyện hãy thưa lên:
– Lạy Cha chúng con ở trên trời.
Thiên Chúa là một người Cha tuyệt vời và đúng nghĩa nhất, bởi vì Ngài đã trao ban cho chúng ta sự sống phần xác, ngày chúng ta mở mắt chào đời, cũng như sự sống phần hồn ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Danh hiệu này cũng đã đem lại cho chúng ta chiếc chìa khoá để giải quyết vấn đề thân phận con người:
– Chúng ta bởi đâu mà đến và rồi chúng ta sẽ đi về đâu?
Tôi xin thưa:
– Chúng ta từ Thiên Chúa mà đến và rồi sẽ trở về cùng Thiên Chúa là Cha chúng ta.
Tiếp đến là hai chữ “chúng con”.
Chúng ta không đọc: Lạy Cha con, mà đọc Lạy Cha chúng con. Như thế lời kinh tuyệt vời này không phải chỉ nói lên mối liên hệ giữa chúng ta đối với Thiên Chúa, mà còn nói lên mối liên hệ giữa chúng ta đối với nhau.
Thiên Chúa là Cha, cho nên tất cả chúng ta đều là anh em với nhau. Như thế lời kinh này không phải chỉ tỏ lộ cho chúng ta tình phụ tử, mà còn tỏ lộ cho chúng ta tình huynh đệ.
Đã là anh em thì chúng ta có bổn phận phải yêu thương, phải tha thứ, phải hoà giải cùng nhau, vì thế không lạ gì khi thấy Chúa bảo chúng ta cầu nguyện:
– Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.
Thiên Chúa là Cha, nên chúng ta hãy gắn bó mật thiết với Ngài. Đồng thời là anh em với nhau, nên chúng ta phải yêu thương giúp đỡ lẫn nhau.
Đó chính là những sứ điệp mà bốn chữ đầu của kinh lạy Cha muốn gửi đến mỗi người chúng ta.
Hãy cầu nguyện luôn, hãy cầu nguyện với hết lòng tin tưởng vào tình yêu thương quan phòng của Chúa, đặc biệt cầu nguyện với lời kinh Lạy Cha mà Chúa đã dạy các đồ đệ: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”. Lời kinh Lạy Cha mà chúng ta thường dùng để cầu nguyện là một tập hợp chung lại của hai bản văn Phúc âm theo thánh Luca và theo thánh Matthêu. Bản văn của thánh Luca ngắn gọn hơn và chỉ có bảy lời cầu: “Lạy Cha, nguyện xin danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con, xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”.
Như vừa đọc trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu đã dạy các tông đồ lời cầu nguyện này theo lời yêu cầu của các ông và sau khi đã nhìn thấy Chúa cầu nguyện. Trong cuộc đời rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã nhiều lần tìm nơi thanh vắng để cầu nguyện cùng Thiên Chúa Cha. Chúa Giêsu đã cầu nguyện như thế nào? Thật khó mà đoán hết nội dung lời cầu nguyện của Chúa Giêsu, nhưng căn cứ vào những lời Chúa Giêsu đã dạy các tông đồ chúng ta có thể nói rằng, lời cầu nguyện Ngài dạy cho các tông đồ phản chiếu phần nào lời cầu nguyện của chính Ngài với Thiên Chúa Cha.
Chúa Giêsu nêu gương cho các đồ đệ trong mọi sự. Chắc chắn trong việc cầu nguyện cũng thế, Ngài muốn cho các đồ đệ của Ngài cầu nguyện và sống lời cầu nguyện như chính Ngài đã làm gương. Trước hết, lời cầu nguyện hướng về Thiên Chúa là Cha: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”. Hơn ai hết, Chúa Giêsu ý thức mối tương quan mật thiết giữa Ba Ngôi Thiên Chúa, giữa Ngài và Thiên Chúa Cha. Ngài là Con Một Thiên Chúa, Ngài luôn luôn đối thoại và sống kết hiệp với Thiên Chúa Cha. Khi dạy các tông đồ cầu nguyện: “Lạy Cha”, Ngài chia sẻ tình phụ tử, hay đúng hơn Ngài đưa các đồ đệ, đưa con người vào trong tình phụ tử với Thiên Chúa Cha. Sứ mạng cứu chuộc của Ngài là hòa giải con người với Thiên Chúa, làm cho con người được phục hồi phẩm giá làm con cái Thiên Chúa.
Đọc lời kinh Lạy Cha, mỗi người chúng ta hôm nay hãy mặc lấy tâm tình của Chúa Giêsu với Thiên Chúa Cha. Từ ngữ mặc lấy không diễn tả hết thực tại mới mẻ mà người Kitô lãnh nhận được trong Bí tích Rửa tội. Từ ngữ mặc lấy có thể gợi lên trong chúng ta hình ảnh hời hợt trùm lên bên ngoài mà bên trong chẳng có gì thay đổi cả. Thật sự đối với người Kitô không phải như vậy, thực thể người Kitô đã được ơn Chúa biến đổi trong Bí tích Rửa tội. Thực tại con người đã được biến đổi trở nên con người mới, một thực tại mới, được ân sủng Thiên Chúa tái tạo, biến đổi. Thực tại mới này không phải do công trạng của con người, của mỗi người chúng ta, nhưng đó là ân ban của Thiên Chúa nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô.
Chúng ta được làm con Thiên Chúa trong Con Một Ngài là Chúa Giêsu Kitô. Vậy khi cầu nguyện với lời kinh Lạy Cha, mỗi người Kitô chúng ta cần phải ý thức rằng, mình cần phải trở nên Chúa Kitô hơn, cần phải được biến đổi để trở nên giống Chúa Giêsu Kitô để có thể bước vào trong cuộc đối thoại với Thiên Chúa Cha, như Chúa Kitô đã nêu gương và muốn chúng ta thực hiện như vậy. Do đó, một kết luận thực hành cho đời sống đạo của chúng ta là chúng ta không thể nào cầu nguyện thực sự lời kinh Lạy Cha, nếu tâm hồn chúng ta không được biến đổi trở nên giống Chúa Giêsu. Khi tâm hồn chúng ta không biến đổi, khi cuộc sống chúng ta không trở thành Kitô đích thực thì lời kinh chúng ta đọc: “Lạy Cha chúng con ở trên trời” chỉ là một lời hời hợt bên ngoài trên môi trên miệng mà thôi.
Chúa Giêsu Kitô đã thực hiện ơn cứu rỗi cho con người. Mỗi người Kitô chúng ta khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội đã được ơn Chúa biến đổi để có thể cầu nguyện kinh Lạy Cha thật sự. Nhưng sự biến đổi đó chưa hoàn toàn kết thúc, vì bao lâu chúng ta còn sống trên trần gian này thì bấy lâu con người chúng ta còn phải chiến đấu với những tật xấu, những khuynh hướng tội lỗi nơi bản thân. Mỗi ngày chúng ta đều được mời gọi cộng tác với ơn Chúa để thanh tẩy, để trở nên giống Chúa Giêsu Kitô mỗi ngày một hơn, để cầu nguyện kinh Lạy Cha mỗi ngày một xứng đáng hơn.
Lời kinh Lạy Cha là lời cầu nguyện nói lên thực thể căn bản của người Kitô là con cái Thiên Chúa Cha trong Chúa Giêsu Kitô. Lời kinh Lạy Cha còn là lời kinh gia tăng sức mạnh để giúp mỗi người chúng ta hằng ngày trở nên con cái Thiên Chúa Cha nhiều hơn nhờ ơn Chúa Giêsu Kitô.
Nguyện xin Chúa ban ơn cho mỗi người chúng ta càng ngày càng trở nên xứng đáng hơn để cầu nguyện lời kinh Lạy Cha như Chúa Giêsu đã dạy chúng ta: “Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Amen
Đề tài của bài Tin Mừng thật rõ ràng, nói về vấn đề cầu nguyện. Nội dung gồm ba phần: Phần thứ nhất là những điều Chúa dạy phải cầu xin mỗi khi cầu nguyện. Phần thứ hai là lời khuyên hãy kiên trì trong khi cầu nguyện. Phần thứ ba là hiệu nghiệm của lời xin đích thực.
Trước hết, một môn đệ đã thay mặt cho anh em xin Chúa Giêsu dạy cho bài học về sự cầu nguyện. Chúng ta có thể nêu lên hai lý do khiến các ông muốn xin Chúa dạy cầu nguyện: Lý do thứ nhất, vì các ông thấy Chúa thường cầu nguyện và các ông cũng muốn cầu nguyện như Ngài. Lý do thứ hai, vì các ông cũng thấy Gioan Tiền hô dạy các môn đệ của ông cầu nguyện. Vì thế, theo lời xin của các môn đệ, Chúa Giêsu đã dạy các ông những điều phải cầu nguyện. Những điều này chúng ta vẫn gọi là kinh Lạy Cha. Như vậy, kinh Lạy Cha là kinh chính Chúa Giêsu đã trực tiếp dạy cho chúng ta, nên chúng ta phải coi đây là kinh mẫu, kinh quí giá nhất, quan trọng nhất, hoàn hảo nhất mà mọi tín hữu phải ưa chuộng hơn cả, phải năng đọc hơn các kinh khác, và phải đọc với niềm mến yêu tin tưởng, đọc với ý thức tương quan và bổn phận của chúng ta đối với Cha trên trời và đối với nhau. Sau khi đã dạy phải cầu xin những gì, Chúa Giêsu lại dạy thái độ cần phải có khi cầu nguyện, đó là kiên trì. Chúa đã dùng dụ ngôn “người bạn quấy rầy” để minh họa cho chúng ta thấy rõ sự cần thiết và hiệu quả của sự kiên trì khi cầu nguyện. Dụ ngôn này nói về người trong nhà đang ngủ, dù rất khó chịu bực mình khi bị quấy rầy vào nửa đêm, nhưng cũng đành chỗi dậy cho mượn bánh, nếu không vì tình nghĩa thì ít là được bình an ngủ tiếp. Người đời còn đối xử với nhau như thế huống chi là Chúa. Ngài đâu đến độ cứng lòng như người bạn bị quấy rầy này. Vì thế, chúng ta đừng bao giờ nản lòng cầu nguyện. Nếu xin mãi mà chưa được cũng đừng bao giờ bỏ cuộc, cứ cầu nguyện tiếp. Thiên Chúa làm thinh giả điếc để chúng ta được lợi thêm. Ngài muốn bị quấy rầy ít lâu để tăng thêm lòng ao ước, lòng tin cậy của chúng ta hơn.
Trước khi kết thúc bài học về cầu nguyện. Chúa Giêsu còn nói về sự hiệu nghiệm của lời cầu xin chính đáng. Chúa khẳng định như một lời hứa bảo đảm: “Hãy xin thì sẽ được”. Rồi Chúa đưa ra một thí dụ để chúng ta hiểu rõ hơn và xác tín hơn: người cha người mẹ trần gian, không mấy tốt lành mà còn muốn dành phần tốt nhất cho con cái, thì huống chi Thiên Chúa lại không biết chọn phần hơn cho con cái mình hay sao? Miễn là những điều chúng ta cầu xin là những điều thích hợp. Xin điều gì tốt thì nhất định sẽ được Chúa nhận lời.
Lời Chúa hôm nay là một bài học rất hữu ích, nhắc nhở chúng ta hãy kiểm điểm lại việc cầu nguyện. Trước hết, chúng ta có cầu nguyện không? Có người cho rằng: cần gì phải cầu nguyện, vì Chúa biết rõ những gì chúng ta cần thiếu. Chắc chắn Chúa biết mọi sự chúng ta cần thiếu. Nhưng biết là một chuyện, ban ơn lại là chuyện khác, nên chúng ta rất thiệt thòi nếu dám kết luận là được miễn cầu nguyện. Thiên Chúa không cần lời cầu của chúng ta. Đúng lắm. Những cầu nguyện và thờ lạy của chúng ta không thay đổi gì hạnh phúc vĩnh cửu của Chúa. Nhưng Chúa buộc chúng ta phải thờ lạy, tạ ơn và cầu xin, vì chúng ta là tạo vật của Chúa, bổn phận của chúng ta đòi buộc chúng ta dâng lên Chúa những cử chỉ đó. Chúa biết mọi sự chúng ta cần thiếu, nhưng chúng ta phải trình bày để luôn nhớ mình là bất lực. Chúa dạy cầu nguyện vì lợi ích cho chúng ta chứ không phải vì Chúa. Nên chúng ta phải cầu nguyện và cầu nguyện luôn.
Thứ hai, chúng ta xin những điều thiết yếu như cơm no áo ấm, ăn ngon mặc đẹp, bình an, khỏe mạnh, thành công, may mắn… là những điều cần thiết mà sao ít khi được hay chẳng bao giờ được như ý, có phải tại nhiều người xin quá không? Có phải Chúa ngủ quên chăng? Chúng ta thường có khuynh hướng xin những gì chúng ta muốn trước mắt, ít khi chúng ta suy xét đến những hậu quả và những thay đổi của hoàn cảnh. Chúng ta cho rằng những điều chúng ta xin là tốt đẹp, là cần thiết, chúng ta đòi Chúa phải nhận lời ngay. Nhưng chúng ta có khôn ngoan và hiểu biết bằng Chúa không? Chúng ta phải tin rằng Chúa nhìn xa trông rộng, thông minh vô cùng, Ngài biết những gì tốt và cần cho chúng ta. Do đó, nếu vì yêu thương, Chúa đáp ứng lời chúng ta cầu xin, thì trái lại, cũng vì yêu thương mà nhiều khi Ngài phải từ chối. Trong cả hai trường hợp, chúng ta đều phải xin vâng và cảm tạ Ngài. Sau hết, chúng ta phải kiên trì cầu nguyện. Thiên Chúa muốn chúng ta kiên trì. Ngài muốn nghe lời van xin kiên nhẫn của chúng ta. Chúa muốn thì tại sao chúng ta lại không muốn? Kiên trì là một đức tính tối cần cho thành công: “Có công mài sắt có ngày nên kim”. “Kiến tha lâu đầy tổ”, “Nước chảy đá mòn”, “Không có gì là quá sức, miễn là chúng ta bền gan”. Từ đó chúng ta hiểu: kiên trì cầu nguyện là một cách cầu nguyện bảo đảm sẽ được Chúa nghe và nhận lời. Thánh nữ Monica, mẹ thánh Âu tinh, đã không uổng công mất thời giờ trong 16 năm cầu nguyện và khóc lóc, sau cùng bà đã được như ý. Con bà đã trở lại đạo và nên thánh tiến sĩ thời danh của Giáo Hội. Đúng như lời thánh Amrôxiô đã an ủi bà khi bà than thở với ngài là cầu nguyện mãi mà chưa được: “Bà cứ yên tâm, đứa con của bao nhiêu nước mắt không thể nào hư đi được”. Thánh Phanxicô đờ San rất nóng tính, ngài rất buồn vì tật xấu này, ngài đã cầu nguyện trong 22 năm để được ơn hiền lành, và ngài đã được xưng tụng là vị thánh gương mẫu về hiền lành. Đó là những gương sáng về kiên trì cầu nguyện.
Tóm lại, là người tín hữu Chúa Kitô, chúng ta phải coi việc cầu nguyện là một vấn đề cần thiết cho đời sống. Tinh thần cầu nguyện của chúng ta phải giống như việc lên giây chiếc đồng hồ: lên giây một lần không đủ, mặc dầu biết rằng lên giây ngày hôm nay để rồi ngày mai phải lên giây lại, chúng ta cũng cứ đều đặn làm công việc đó mỗi ngày, thì cầu nguyện cũng vậy, chúng ta phải cầu nguyện đều đặn mỗi ngày, cầu nguyện với lòng tin tưởng và dù được hay không những điều chúng ta cầu xin, chúng ta cũng luôn vâng theo ý Chúa.
Thế giới chúng ta đang sống ngày nay đầy những thông điệp được chuyển trao cho nhau, người ta trao đổi nhau những thông tin qua mạng Internet, qua thư tín. Những cánh thiệp chuyển tải bao lời chúc nồng nàn. Email, điện thoại cho người ở đây và người ở kia có thể gặp gỡ nhau… Luôn luôn và không ngừng chúng ta gởi đi và tiếp nhận những thông điệp. Thế nhưng, giữa lòng cuộc sống nhộn nhịp và quá bận bịu ấy, có lẽ ít khi chúng ta nhớ rằng Thiên Chúa cũng luôn gởi đến những thông điệp tình yêu, cùng sự quan tâm chăm sóc của Người. Đối lại, khi tiếp nhận ân ban từ trời, ta cũng gởi về Người những thông điệp gói ghém đầy tâm tư và khắc khoải của kiếp sống nhân sinh. Như thế, có thể nói những gì chúng ta gởi trao thường xuyên sẽ gắn kết giữa Thiên Chúa và con người một mối dây hiệp thông bền chặt. Hay nói cách khác, mối tình hiệp thông giữa Thiên Chúa và con người đó vẫn được chúng ta xây dựng qua mỗi phút sống trong đời cầu nguyện. Như vậy, phải chăng cầu nguyện là sống mối tình hiệp thông?
Vâng! Cầu nguyện trước hết là sống hiệp thông với Thiên Chúa, điều này được biểu lộ nơi kinh Lạy Cha. Kinh Lạy Cha vừa được đọc lên trong đoạn Tin Mừng có lẽ không xa lạ gì với chúng ta, ít nhiều trong đời Kitô hữu có mấy ai lại không một lần thốt lên lời kinh ấy. Lời kinh được Chúa Kitô truyền dạy rất súc tích và đầy ý nghĩa cho phép chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha, cho phép ta được gắn kết với vị Cha chung giàu lòng nhân hậu hằng yêu thương chăm sóc ta, đến nỗi đã trao nộp cả Con Một mình. Nên khi cầu nguyện với người Cha như thế là ta đang được nối kết với nguồn mạch yêu thương duy nhất, là ta được mời gọi sống mối tình hiệp thông khăng khít với Thiên Chúa.
Đẹp biết bao khi ta nguyện xin cho “danh Cha được hiển sáng”, nếu thực sự chúng ta sung sướng được làm con ngoan của Chúa Cha, thì có lẽ nào điều quan tâm trước tiên của người con lại không là danh thơm tiếng tốt của Cha mình? Vả lại ước nguyện này cũng hàm ẩn một điều nhắc nhở người Kitô hữu phải có bổn phận sống sao cho đẹp lòng Cha, sống sao cho danh Cha không bị tổn thương mà sẽ sáng mãi nơi lòng nhân thế. Như thế thì ý nguyện tiếp theo chắc chắn sẽ sáng tỏ như một tất yếu: “mong cho ý Cha thể hiện trên trời cao cũng như nơi đất thấp”. Vâng! một mong ước hết sức giản dị, tự nhiên, nhưng biểu lộ mối tương quan kết nối bền chặt mà chúng ta vẫn hằng dệt nên mỗi khi cất lời cầu xin đó. Để từ đây, đất với trời được nối kết bằng bài ca giao duyên, và con người găp được Thiên Chúa qua mối tình hiệp thông.
Nhưng mối tình ấy không chỉ dừng lại ở đây. Vâng! nếu tiếp tục vâng lời Đức Kitô để cất lên lời kinh ấy, chúng ta sẽ nhận ra rằng cầu nguyện không chỉ là gặp gỡ, đối thoại thân tình với Chúa Cha, mà còn là sống hiệp thông với mọi người chung quanh. Điều này được minh họa rõ nét trong bài đọc I, khi Abraham cầu xin với Thiên Chúa cho Sôđôma như một cuộc mặc cả, với số người công chính mỗi lúc mỗi giảm đến độ thê thảm, nhưng trong hình thức so kè ấy, lại toát lên mối bận tâm của Thiên Chúa đối với số phận con người, và đồng thời cũng cho thấy khi cầu nguyện, con người liên đới với nhau cách mật thiết. Quả thực, như một nét đẹp được vẽ nên khi Abraham xin Chúa tha cho Sôđôma nếu tận cùng bằng số ông chỉ tìm thấy một người công chính. Tương tự như vậy, khi thốt lên kinh Lạy Cha, chúng ta xin Chúa tha thứ cho mình nếu ta cũng tha thứ cho anh em mình.
Như thế, cầu nguyện không còn là chuyện cá nhân nữa, mà mỗi lời kinh dâng lên Thiên Chúa chính là tâm tình làm thành một vòng tròn rộng lớn nối kết tất cả mọi người, bởi lẽ đó đây lời cầu của người này có thể là quà tặng bất ngờ cho người kia, trong khi lời cầu của người kia có thể là sức mạnh trợ lực cho cả tôi lẫn những người khác nữa. Để rồi cứ thế, vòng tròn mãi vần xoay khi mỗi người chúng ta nhận được sức sống của Thiên Chúa qua lời kinh bất tận của mối tình hiệp thông, một sức sống làm cho kẻ xa xôi trở nên gần gũi, cho người xa lạ trở thành thân quen, cho người đói ăn có đủ lương thực, để người với người thứ tha cho nhau, để lòng mở lòng đón nhận ai đó lỡ xa lìa có dịp trở về. Như vậy, mỗi lời kinh vang lên giữa lòng cuộc sống luôn có khả năng nối kết mình với kẻ khác và gắn kết mọi người vào đời sống của Thiên Chúa.
Đến đây mỗi người chúng ta tự hỏi: để sống tinh thần hiệp thông, chúng ta phải cầu nguyện như thế nào? Thực ra, nhận định về việc cầu nguyện dưới khía cạnh hiệp thông không mới mẻ gì. Nhưng vấn đề sẽ không thừa khi thực tế cuộc sống vẫn còn đó lối sống khép kín, ích kỷ nhỏ nhen. Cho nên, thiết tưởng cần phải có một cung cách cầu nguyện sao cho mỗi tâm tình được khơi lên sẽ là mỗi hành vi hiệp thông: hiệp thông với Thiên Chúa, hiệp thông với tha nhân trong Chúa Kitô. Và sẽ càng đẹp hơn nữa khi mỗi lời kinh được cất lên luôn đặt hiệp thông như mục đích phải hướng đến, như một trách nhiệm phải chu toàn. Trách nhiệm ấy đòi hỏi mỗi người chúng ta góp phần xóa đi lối sống cá nhân chủ nghĩa, xua tan những sai lệch có thể có trong đời sống Kitô hữu, vốn coi cầu nguyện đi liền với sự xin xỏ theo ý mình, dễ có nguy cơ dẫn đến mâu thuẫn giữa ý nguyện của người này và của người khác.
Như thế, có thể nói mục đích cuối cùng của cầu nguyện không phải để báo cáo cho Thiên Chúa biết các nhu cầu của chúng ta, vì Ngài còn biết rõ hơn chúng ta. Và mục tiêu của cầu nguyện cũng không phải là xin Ngài vui lòng thỏa mãn các nhu cầu ấy, vì lòng nhân từ vô biên của Ngài luôn muốn điều lành cho chúng ta. Mà cầu nguyện chính là làm cho ý chúng ta khớp với thánh ý Ngài, ngõ hầu tình yêu của Thiên Chúa tìm thấy trong tình yêu của chúng ta một lời đáp trả ngày càng hoàn hảo hơn. Thế nhưng thực tế phũ phàng vẫn còn nhiều lấn cấn: làm sao gắn kết ý mình với ý Thiên Chúa được khi mà những lời cầu trong cơn khốn cùng xem ra không được Ngài đáp lời, nhiều khi ta gõ hoài mà cửa chẳng mở, tìm hoài mà chẳng thấy. Có thể vì lời nài xin còn nhiều ích kỷ? Có khi điều ta xin còn nhiều cặn bẩn? Lắm khi chúng ta xin rắn mà không hay. Xin hãy ra khỏi bận tâm hẹp hòi của chính mình mà đồng cảm với mối bận tâm của Thiên Chúa, chắc chắn Ngài không nuông chiều con cái nhưng sẽ ban cho ta những ơn lành cần thiết, và ơn lành lớn lao nhất là Thánh Thần – Đấng chính là tình yêu hiệp thông.
Trong thánh lễ hôm nay, cùng với việc đọc kinh Lạy Cha, chúng ta hãy sống tâm tình hiệp thông, xin tiếp tục gởi trao về Thiên Chúa những Email tình yêu, đồng thời cũng đón nhận mọi biến cố mà Người gởi đến, bởi lẽ mọi biến cố trong đời đều có thể là quà tặng yêu thương.
Cầu nguyện phải chăng là xin ơn? Có người cho rằng cầu nguyện không nhất thiết phải xin ơn này ơn kia, nhưng còn là ca tụng Thiên Chúa, tán dương những kỳ công Thiên Chúa đã làm cho con người. Có người không muốn xin gì cả trong cầu nguyện; có người còn kết án cầu nguyện như cầu xin ơn này ơn kia. Họ cho rằng chính Đức Yêsu cũng nói khi cầu nguyện, đừng cầu xin lải nhải dài lời như dân ngoại vì Thiên Chúa biết chúng ta cần gì (Mt.6, 7-8).
Đức Yêsu dạy các môn đệ đừng nhiều lời như thể làm áp lực đối với Thiên Chúa, hoặc như thể Thiên Chúa không yêu thương mình, phải dài lời Thiên Chúa mới nghe. Tuy vậy, chúng ta không được hiểu sai ý Đức Yêsu, vì chính Ngài cũng dạy các tông đồ cầu nguyện, và trong lời dạy của Ngài, chúng ta thấy cầu nguyện cũng là lời cầu xin. Những gì Đức Yêsu dạy trong kinh Lạy Cha, đều là những ơn xin.
Người ta chỉ xin khi người ta thấy mình thiếu, khi thấy mình không có điều mình cần mà người ta lại không thể có nó do tự sức mình. Nếu tôi có thể có được điều gì đó do khả năng của bản thân tôi, tôi không cần xin xỏ ai cả. Tôi sẽ nỗ lực để có được điều đó bằng chính sức lực và khả năng của mình. Cầu xin, là thái độ của một người ý thức mình bất lực. Họ nhận thực mình chỉ là tạo vật; Thiên Chúa mới là chủ tể của mọi loài; và tất cả đều là ơn và bởi Thiên Chúa mà có. Cầu nguyện hàm chứa thái độ của một tạo vật đối với Tạo Hóa, thái độ của của một người bất lực cần sự trợ giúp của Thiên Chúa, thái độ cần Thiên Chúa để mình sống trọn ơn gọi làm người.
Lời Chúa trong sách Sáng Thế hôm nay cho biết hơn về Thiên Chúa. Người ta có cảm tưởng như Abraham nhân từ hơn Thiên Chúa, nhưng thực không phải vậy. Tất cả những gì Abraham nghĩ rằng đúng và dám xin, Thiên Chúa đều đã sẵn sàng làm như Abraham yêu cầu; hơn nữa, “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống.” “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Ngài cho thế gian…” Nếu Thiên Chúa yêu con người đến độ dám ban Con Một Yêu Quý của Ngài cho con người, thì Thiên Chúa còn tiếc gì với con người nữa! Thiên Chúa là tình yêu, nghĩa là, Thiên Chúa luôn yêu thương, Thiên Chúa làm tất cả vì yêu thương. Yêu thương hàm chứa tha thứ cho những người xúc phạm đến mình. Yêu thương đòi khoan nhân đối với người tội lỗi. Thiên Chúa yêu thương nên tha thứ mọi lỗi lầm cho con người; Ngài khoan hồng tha thứ những gì con người xúc phạm đến tha nhân và đến Ngài.
Đức Yêsu, Ngôi Lời nhập thể, đã là một người như tất cả mỗi người chúng ta; Ngài đã chia sẻ thân phận con người, đã phải nghèo đói bị khinh khi, đã phải làm lụng như bất cứ ai vất vả nhất trên đời, đã phải ngủ màn trời chiếu đất (Lc.21, 37), đã bị hiểu lầm hàm oan, đã bị ghét, bị hành hạ cho đến chết. Tất cả mọi người trên dương trần được mời gọi để nhìn vào Ngài, để biết phải sống như thế nào trong những lúc cùng khốn nhất của đời người.
Đức Yêsu cũng không phải là người luôn thành đạt, bằng chứng là Ngài đã phải chết ô nhục trên thập giá, một trong những môn đệ yêu quý nhất của Ngài đã phản bội nộp Ngài cho những kẻ thù ghét Ngài. Ngài đã từng mời gọi người ta theo Ngài, nhưng Ngài đã bị từ chối (Mc.10, 22), và cũng có lắm kẻ bỏ Ngài (Ga.6, 66). Không thể nói rằng lúc nào Ngài cũng vui và hân hoan, vì trong vườn dầu Ngài đã chiến đấu đổ mồ hôi máu (Lc.22, 39-45), đã kinh hoảng âu sầu, đã “buồn đến chết được.” Trên thập giá Ngài còn có cảm nghiệm như thể Thiên Chúa bỏ Ngài, tuy nhiên Ngài vẫn vượt thắng những cám dỗ nơi Ngài, Ngài vẫn một niềm phó thác tất cả đời Ngài cho Thiên Chúa, kể cả mọi dự phóng tốt lành. Ngài đã nói: “Lạy Cha, Con xin phó thác hồn con trong tay Cha.”
Sự bình an Đức Yêsu có, đó là sự bình an của người biết Thiên Chúa yêu thương mình, và tin Thiên Chúa sẽ làm những điều tốt lành nhất cho mình. Sự bình an Kitô hữu có, không phải là không có chuyện gì xảy ra cho họ, nhưng là, ngay cả những khó khăn bất lợi đó, họ vẫn tin tưởng và phó thác tất cả cho Thiên Chúa, Đấng họ tin tưởng luôn yêu thương họ, sẽ làm mọi chuyện thành tốt cho họ. Bình an Kitô hữu có, đó là bình an của một người được yêu, tin rằng mình được Đấng vô cùng quyền năng yêu, và Ngài sẽ giúp họ trong mọi hoàn cảnh.
Bận tâm và ao ước của Đức Yêsu là làm sao cho Danh Thánh Cha vinh hiển, làm sao để Nước Công Bình và Yêu Thương bao trùm khắp, làm sao để con người đủ cơm bánh hằng ngày, để con người sống bình an hạnh phúc. Đức Yêsu mong ước con người tha thứ cho nhau theo gương Thiên Chúa, Đấng yêu thương tha thứ tất cả cho con người. Đức Yêsu mong ước con người đừng xúc phạm đến Thiên Chúa Tình Yêu. Đức Yêsu cầu xin để xin Thiên Chúa ban những điều đó cho con người.
Làm con người nên thánh, làm con người thuộc về Thiên Chúa, đó là ân sủng và công việc mà chỉ một mình Thiên Chúa có thể làm được. Thiên Chúa mời gọi con người cộng tác với Thiên Chúa để thuộc trọn về Thiên Chúa, để trở nên thánh, để là tình yêu của Thiên Chúa cho con người hôm nay. Con người cần Thiên Chúa giúp để thuộc trọn về Thiên Chúa, để nên thánh, để trở nên người tuyệt vời, để sống bình an hạnh phúc. Không có Thiên Chúa, con người không thể làm gì được.
Xin thì sẽ được, gõ cửa thì sẽ mở cho. Chắc chắn con người sẽ được điều quý nhất khi chạy đến với Thiên Chúa và cầu xin những gì mình ao ước. Chắc chắn Thiên Chúa sẽ ban cho con người điều quý gấp vô cùng lần điều con người cầu xin, đó là Thánh Thần. “Nếu anh em là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những điều tốt lành, chẳng lẽ Cha anh em trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?” Nếu tôi chạy tới với Thiên Chúa, tôi sẽ được những gì quý nhất có thể có được. Xin cho mỗi người thấy được điều này, để luôn chạy đến với Thiên Chúa, Đấng yêu thương con người vô cùng.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Lời Chúa hôm nay cho thấy lời cầu nguyện có giá trị như thế nào! Và không chỉ thế, Thiên Chúa sẽ ban Thánh Thần cho tất cả những ai cầu xin Ngài.
Cha trên trời sẽ ban Thánh Thần
Đức Yêsu dạy các tông đồ cầu nguyện. Qua đó Ngài cũng dạy tất cả chúng ta.
“Lạy Cha, nguyện danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến”. Danh Thiên Chúa cả sáng khi con người tin Thiên Chúa, và để Thiên Chúa ngự trị trong tâm hồn mình. Nước Thiên Chúa là vương quốc của tình yêu. Khi con người sống yêu thương nhau, Nước Thiên Chúa đang hiện diện.
“Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến” không phải là chuyện con người có thể làm được. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể làm cho con người tin nhận Ngài và sống theo luật tình yêu. Đó là lý do tại sao chúng ta nài xin.
“Xin cho chúng con lương thực hằng ngày”. Cơm bánh hằng ngày, là những điều rất bình thường nơi người ta no đầy sung túc, và người ta tưởng đó là những điều tự nhiên, và không cần tạ ơn Chúa; nhưng ở những nơi đói kém, con người dễ nhận ra “cơm bánh” mình ăn hằng ngày, là những hồng ân đặc biệt Thiên Chúa ban. Nếu không nhận biết “cơm bánh” hằng ngày là ơn, con người đã hành xử như người vô ơn.
“Xin tha tội chúng con, để chúng con cũng tha lỗi cho những người xúc phạm đến chúng con”. Xin cho chúng con cảm nhận lòng từ bi nhân hậu của Chúa, để chúng con cũng giúp người khác cảm nhận tình yêu tha thứ của Chúa, qua việc chúng con tha thứ lỗi lầm cho họ.
“Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”. Con người mỏng dòn, mong manh, dễ vỡ! Ai dám nói mình không bao giờ sa ngã? Bây giờ tôi rất mạnh, nhưng lúc khác có thể tôi rất yếu. Không sa ngã phạm tội, đó là hồng ân vô cùng lớn mà nhiều lần tôi đã không ý thức để tạ ơn Thiên Chúa. Ở trong tình nghĩa với Chúa, là một ơn mà mỗi tối khi xét mình, chúng ta cần nhận ra để tạ ơn Chúa.
Người đời, những con người bất toàn và ích kỷ, mà còn không thể dửng dưng trước những lời van xin của đồng loại, huống chi Thiên Chúa, Đấng yêu thương con người vô cùng. Nếu con người còn biết cho con cái mình những điều tốt, huống chi là Thiên Chúa, chẳng lẽ Ngài không ban điều tốt cho con người sao? Quả thực, Thiên Chúa đã ban “Thánh Thần” cho con người. Thánh Thần là quà tặng quý nhất mà Thiên Chúa và Đức Yêsu ban cho con người. Khi người ta tặng quà ai, món quà càng giá trị càng diễn tả tình yêu. Món quà quý nhất mà Thiên Chúa trao tặng con người, là chính Thiên Chúa, Chúa Con và Thánh Thần.
Được Thiên Chúa, được Thánh Thần, chúng ta được tất cả những điều khác.
Thiên Chúa nhân từ hơn con người tưởng
Cuộc “trao đổi” giữa Abraham và Thiên Chúa, làm người ta lầm tưởng Abraham nhân từ hơn Thiên Chúa. Thực ra đoạn Lời Chúa cho thấy Thiên Chúa là Đấng nhân hậu, và Ngài sẵn sàng làm tất cả những gì Abraham nài xin. Abraham xin gì, Thiên Chúa cũng ban. Ngài sẵn sàng bớt từ 50, đến 40, 30, 20 và 10. Tại sao Abraham không rút xuống nữa? Có lẽ vì lòng nhân từ của con người “có hạn”, hay tại Abrahm chưa đủ lòng tin rằng Thiên Chúa nhân từ, chứ nếu Abraham có đủ can đảm và lòng tin xin rút xuống nữa, chắc chắn Thiên Chúa cũng ban cho.
Sôđôma, là mẫu gương để con người xa tránh tội lỗi. Thật không đúng nếu nói Thiên Chúa không thương những người ở Sodoma. Đức Yêsu nói: Sodoma còn được xét xử khoan dung hơn nhiều thành ở Israel (x. Mt.10, 15).
Hình ảnh của Abraham trong St.18, 20-32 rất đẹp. Lòng nhân từ và thương xót, làm con người trở nên xinh đẹp, vì điều đó làm con người giống Thiên Chúa hơn.
Chỉ cần mười người công chính, đủ để cứu cả thành. Chỉ cần là người công chính, là đã làm được bao nhiêu điều mà những người tài giỏi, quyền thế, giầu sang, không thể làm được. Ước gì mỗi người chúng ta đều có khao khát trở nên người công chính. Để với sự công chính Thiên Chúa ban, chúng ta có thể cứu được những người khác, chẳng hạn qua gương sáng đời sống đạo đức, chúng ta có thể giúp người khác trở lại, hoặc cố gắng vươn lên.
Thái độ của con người trước Thiên Chúa
Abraham xin với Thiên Chúa như một người “ăn xin”, ý thức những điều mình xin tuỳ thuộc Thiên Chúa đồng ý hay không. Con người tuy dù được Thiên Chúa yêu những tự bản chất chỉ là tạo vật, là hư không đối với Thiên Chúa. Con người đâu phải ngang bằng với Thiên Chúa mà đòi hỏi điều này điều kia. Thái độ khiêm tốn, chấp nhận những gì được ban như hiện tại, cảm tạ Thiên Chúa, là thái độ cần thiết của tạo vật trước Thiên Chúa.
Thiên Chúa không cần chúng ta nài xin, Ngài cũng ban những điều cần thiết cho chúng ta. Khi chúng ta thấy những gì cần cho chúng ta và nài xin Ngài, Ngài sẵn sàng ban để chúng ta nhận biết “Ngài là tình yêu” hơn nữa. Thiên Chúa đã ban Đức Yêsu cho chúng ta, nhờ Ngài chúng ta là tạo vật mới, và chúng ta được tất cả nhờ Đức Yêsu Kitô.
Đức Yêsu vì yêu thương đã coi chúng ta là bạn hữu với Ngài. Tuy dù được yêu thương, nhưng khi ngỏ lời với Thiên Chúa, Abraham rất kính cẩn. Đây cũng là bài học cho chúng ta, để mỗi khi chúng ta cầu nguyện, chúng ta phải có thái độ như thế nào đối với Thiên Chúa.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
Ví như xác không hồn là xác chết. Cũng thế, linh hồn không siêng năng cầu nguyện thì linh hồn cũng chẳng sống được. Thánh Gioan Kim Khẩu xác quyết như vậy. Thế nhưng đối với nhiều Kitô hữu, dường như cầu nguyện vẫn chưa là “hơi thở của linh hồn” theo ý nghĩa thường xuyên và cần thiết. Có lẽ vì bị chi phối bởi một tâm thức xem Chúa như “Ông thủ kho” và nỗi đợi chờ theo kiểu “mì ăn liền” nên cầu nguyện đã trở thành gánh nặng thiếu sức sống nơi nhiều tâm hồn tín hữu.
Không ít người sớm thất vọng vì nài nẵng hoài mà không được. Có người chán nản vì bị yếu tố thời gian chi phối quá mạnh. Cũng có người cảm thấy khô khan, thiếu hứng thú, mất thời giờ khi cầu nguyện. Những hoạt động hay tiếp xúc với thế giới hữu hình vẫn luôn là hấp dẫn hơn so với thế giới hữu hình. Thành thử đời cầu nguyện cứ càng ngày càng mờ phai. Nhưng dù sao, Lời Chúa vẫn luôn kêu mời: Hãy kiên trì cầu nguyện, đừng nhàm chán (Lc 18:1).
Cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và tổ phụ Abraham đã nên như lời nhắc nhở và mẫu gương của đời sống nguyện cầu. Trong đời sống đó phải có kiên tâm bền chí, khiêm nhưỡng cậy trông, và mở lòng với tha nhân.
Vì muốn cứu hai thành phố đồi trụy Sôđôma và Gômôra, Abraham đã dám “mặc cả” với Chúa. Ông không khởi sự bằng việc xin đưa người lành ra khỏi thành trước khi lửa trời rơi xuống. Ông không dừng lại ở điểm công bình, nhưng đã đi xa hơn: vươn lên tới đức bác ái. Mục tiêu cầu khẩn của Abraham là cho người tội lỗi. Song, để cứu được người tội lỗi lại cần phải có người lành. Ông bắt đầu lý luận với Giavê: “Chẳng lẽ Chúa sắp tiêu diệt người công chính cùng với kẻ tội lỗi sao? Nếu có năm mươi người công chính trong thành, họ cũng chết chung hay sao? Chúa không tha thứ cho cả thành vì năm chục người công chính đang ở trong đó hay sao?” Một loạt các câu hỏi được nêu ra đề rồi cuối cùng đúc kết bằng một lời thỉnh cầu: “Xin Chúa đừng làm như vậy, đừng sát hại người công chính cùng với kẻ dữ! Xin đừng làm thế!!”
Lời thỉnh cầu đó trở nên tha thiết, chân tình, và đầy lòng khiêm tốn: “Dù tôi chỉ là tro bụi, tôi cũng xin thưa cùng Chúa: nếu trong số năm mươi người công chính còn đó lại thiếu mất năm người thì sao?” Nhưng e rằng 45 người công chính cũng là một con số khó tìm, Abraham đã dịu dàng và kính cẩn thưa thêm: “Nếu chỉ có bốn mươi người thôi thì Chúa sẽ làm gì?” Tưởng rằng “quá tam bận”: mặc cả với Chúa ba lần rồi thôi. Đàng này Abraham còn bạo phổi nài nẵng Chúa đến ba lần nữa: “Lạy Chúa, nếu tôi lên tiếng, xin đừng nổi giận. Nếu ở đây tìm được ba mươi người công chính thì sao?…Nếu trong thành tìm được hai mươi người thì sao?… Lạy Chúa, xin đừng nổi giận. Tôi chỉ xin thưa lần nầy nữa thôi. Nếu tìm được mười người công chính ở đó thôi thì sao?” Cuộc “mặc cả” đã đi từ con số 50 người lành, xuống đến 45, rồi 40, 30, 20, và cuối cùng là 10. Chỉ cần 10 người công chính thôi, tất cả sẽ được tha thứ. Tiếc là mười người mà cũng chẳng tìm ra!
Không hiểu sao Abraham không tiếp tục van xin Chúa thứ tha cho dân thành nếu như không tìm thấy được 10 người công chính. Phải chăng vì ông cho rằng đây là con số nhỏ quá rồi so với con số quá lớn của những người tội lỗi? Hay Abraham chưa hiểu thấu được chiều kích vô biên của lời cầu nguyện cũng như lòng thương xót bao la của Thiên Chúa?
Thật thế, Thiên Chúa luôn vui lòng lui bước trước lời nguyện cầu chân thành, bền bĩ, và đầy lòng kính sợ của con người. Chính Giavê đã phán trong sách Êzêkien và Giêrêmia: nếu chỉ tìm được ở Giêrusalem một người biết giữ công lý, biết tìm sự thật, thì Người cũng sẽ tha tội cho thành (Ex 22:30; Gr 5:1). Lời khẳng định này thúc dục ta cố gắng sống đời tốt lành để cầu xin và mang lại lợi ích thiêng liêng cho gia đình con cái, thân bằng quyến thuộc, và quê hương xứ sở.
Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho (Lc 11:9). Chắc hẳn lời đoan hứa của Chúa Giêsu đã làm các thánh vui sướng đến phát khóc. Nhưng đây không phải là lời đoan hứa dành riêng cho các thánh, mà là cho mọi người. Thiên Chúa yêu thương và muốn ban mọi sự tốt lành cho tất cả, không phải vì tất cả đều tốt, song vì tất cả là con cái của Ngài. Đức Giêsu đã mạc khải cho bạn và tôi như thế: các ngươi còn biết cho con mình những điều lành, huống chi là Cha các ngươi ở trên trời (Lc 11:13)
Được làm con Thiên Chúa, được gọi Đấng tác thành vũ trụ là Cha, đó là nhờ công nghiệp của Đức Giêsu và Thần khí của Ngài. Nhưng vấn đề không hệ tại ở đặc ân được kêu Thiên Chúa: “Abba, Lạy Cha,” song là làm sao để sống xứng hợp với hồng phúc cao cả đó.
Quan hệ Cha-con trở nên thân thiết nhờ sự cầu nguyện. Cầu nguyện là một cuộc đối thoại. Khác với độc thoại, đối thoại là nói và nghe. Vì thế, không phải chỉ đến với Chúa và “bắt” Ngài phải nghe tất cả những nhu cầu tôi liệt kê, song vẫn cần lắm một thái độ kính cẩn lắng nghe tiếng Chúa và sống theo ý Ngài.
Cầu nguyện không phải là để sở thích và đam mê của tôi được thỏa mãn, nhưng là để “danh Cha cả sáng và ý Cha thể hiện khắp nơi”. Đức Giêsu không nài cho được khỏi uống chén đắng, nhưng xin cho ý Cha thành sự. Đây là lối sống đầy tin tưởng, khiêm nhường, yêu mến và hoàn toàn phó thác của người con ngoan.
Là Kitô hữu, tôi được mời gọi để sống mỗi ngày mỗi nên giống Đức Kitô hơn: giống Ngài trong đời sống cầu nguyện, trong tinh thần và thái độ liên kết với tha nhân – không chỉ xin cho mình, nhưng là cho “chúng con” – và giống Ngài với trọn niềm tín thác vào tình thương của Cha, Đấng sẵn sàng ban Thánh Thần cho những ai khẩn cầu.
Lạy Chúa, xin cho chúng con được ơn bền đỗ cầu nguyện. Vì chúng con biết rằng hễ ai bền đỗ trong điều đó cho đến cùng, chắc chắn sẽ được ơn cứu độ. Xin Mẹ Maria phù giúp cho chúng con luôn được trung kiên trong cuộc chiến này
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bước vào Chúa nhật thứ XVII thường niên C, Phụng vụ Lời Chúa mời gọi chúng ta tin tưởng vào Chúa và tha thiết nguyện cầu. Bài đọc I (St 18, 20-32) là một minh họa đầy đủ ý nghĩa nhất. Khi tội lỗi tràn ngập xứ Sôđôma, Abraham đã van nài Chúa, thậm trí mạc cả với Chúa cho đến khi có được lời Chúa hứa là không tiêu diệt thành Sôđôma nữa nếu như tìm thấy mười người công chính, Abraham đã tìm thấy tình thương của Thiên Chúa đối với con người bằng niềm tin. Tin Mừng Thánh Luca (Lc 11, 1-13) thuật lại cho chúng ta lời nguyện cầu chính Đức Giêsu, Con Thiên Chúa dạy các môn đệ: “Khi anh em cầu nguyện, thì hãy cầu nguyện như thế này: ‘Lạy Cha…’“. Ngài mời gọi các môn đệ hướng về Cha, không phải Ngài dạy họ một công thức cầu nguyện cho bằng dạy họ cầu nguyện trước hết phải đi vào trong tương quan thân tình với Thiên Chúa là Cha với trọn niềm tin vì: “Kẻ cô thân Thiên Chúa cho nhà cửa, chính Người ban tặng cho dân dũng lực uy quyền” (Ca nhập lễ).
Gương của tổ phụ Abraham
Từ cây sồi ở Mambrê Thiên Chúa đã tỏ ý định của Ngài cho Abraham biết (St 18,1), và Abraham đã tìm thấy tình thương của Thiên Chúa đối với con người. Khi tội lỗi tràn ngập xứ Sôđôma, Abraham đã dám thưa cùng Thiên Chúa: “Chớ thì Chúa sắp tiêu diệt người công chính cùng với kẻ tội lỗi sao? Nếu có năm mươi người công chính trong thành, họ cũng chết chung hay sao? Chúa không tha thứ cho cả thành vì năm chục người công chính đang ở trong đó sao?” (St 18, 24-25) Và ông tiếp tục mặc cả với Thiên Chúa cho đến khi có được lời Chúa hứa là không tiêu diệt thành Sôđôma nữa nếu như tìm thấy mười người công chính. Vấn đề là Thiên Chúa không bao giờ muốn tiêu diệt thành Sôđôma. Quả thật, bản văn Thánh Kinh thuật lại những lời Chúa phán cùng Abraham: “Tiếng kêu la của dân Sôđôma và Gômôra đã gia tăng, và tội lỗi chúng quá nặng nề! Ta sẽ xuống coi việc chúng làm có như tiếng kêu thấu đến tai Ta hay không, để Ta sẽ biết rõ” (St 18, 20-21). Abraham sợ chứng kiến cảnh Thiên Chúa trừng phạt các thành Sôđôma và Gômôrrha. Với lòng thương dân sẵn có của Abraham, ông đã nguyện cầu, đến nỗi táo bạo can thiệp cả Thiên Chúa. Ông tin vào Thiên Chúa, nhưng giờ đây niềm tin đó đang bị thử thách, ông tự hỏi: Liệu Thiên Chúa có trung thành với lời Giao ước tình thương với dân Ngài không? Lòng Chúa cao cả hơn lòng chúng ta, nếu nói rằng Abraham mặc cả với Chúa, không có sai, vì ông đã giảm giá dần, từ năm mười người xuống còn năm người. Chúa phán: “Vì mười người đó, Ta sẽ không tàn phá”. Abraham thấy các thành rơi vào cảnh bi đát, sắp bị Chúa tàn phá và ông tìm kiếm một con đường giải thoát cho hai thành. Ông kêu van, mặc cả nhưng không nói lộng ngôn phạm đến Chúa, Chúa lắng nghe, Ngài chú ý đến những kêu xin của ông.
Cầu nguyện như Đức Giêsu dạy
Niềm tin vào Thiên Chúa của Abraham bị thử thách, đó cũng là niềm tin của chúng ta nói chung. Vì nhiều khi chúng ta xin mãi mà không được, nên chán nản. Chúng ta cùng xem Đức Giêsu cầu nguyện thế nào và Ngài dạy các môn đệ cầu nguyện ra làm sao (x. Lc 11, 1-13).
Chuyện là khi các môn đệ Đức Giêsu chiêm ngắm Thầy cầu nguyện thì một trong số họ thưa rằng: “Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã đã dạy các môn đệ ông”. Đức Giêsu đáp ứng lời xin của môn đệ và Ngài dạy: “Khi anh em cầu nguyện, thì hãy cầu nguyện như thế này: ‘Lạy cha…’“. Đức Giêsu mời gọi các môn đệ hướng về Cha, Ngài không dạy họ một công thức cầu nguyện cho bằng dạy họ cầu nguyện. Cầu nguyện trước hết phải đi vào trong tương quan thân tình với Thiên Chúa là Cha. Bởi lịch sử cứu độ con người là một chuỗi dài tình phụ tử hỗ tương giữa Thiên Chúa với lòng hiếu thảo của con người. Thiên Chúa cất tiếng gọi con người đáp trả và con người tìm thấy lòng tốt hảo của Thiên Chúa là Cha. Con người khát khao Thiên Chúa gặp gỡ lòng trùi mến của Thiên Chúa đối với con người, con người được Chúa ban ơn.
Đức Giêsu dạy chúng ta thưa cùng Thiên Chúa “Lạy Cha” là Ngài đưa con người vào trong tương quan diện đối diện với Thiên Chúa. Ngài mời gọi chúng ta khiêm tốn và tin tưởng bước vào với tình con thảo. Tuy nhiên, lời cầu nguyện tạ ơn dài trong Thánh Vịnh “Lạy Chúa, con tạ ơn danh Chúa vì tình thương và chân lý”; “Nếu tôi đi giữa cảnh gian truân, Chúa giữ gìn tôi sống”; “Chúa ra tay phản đối quân thù tôi giận giữ”; “Chúa sẽ hoàn tất cho tôi những điều Ngài đã khởi sự! Lạy Chúa, lòng nhân hậu Chúa tồn tại đến muôn đời” (Tv 137, 1-8)… Cũng cách thể hiện niềm tin vào Thiên Chúa. Nhưng, thánh vịnh gia còn phải đương đầu với quân thù và những cám dỗ đang rình rập, lúc mà hình như Thiên Chúa trung thành hoàn toàn vắng mặt.
Thiên Chúa luôn giữ lời hứa cứu độ, muôn đời không hề thay đổi. Vậy, tại sao ta lại nghi ngờ về tình phụ tử của Thiên Chúa đối với chúng ta? Đức Giêsu bảo đảm với chúng ta rằng những lời nguyện cầu mà chúng ta dâng lên Chúa Cha sẽ luôn được nhận lời: “Và Thầy bảo các con: Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho” (Lc 11,10). Ngài lưu ý chúng ta: “Vì hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ thì sẽ mở cho” (Lc 11,10). Ngài làm cho chúng ta tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, Đấng không chỉ sẽ nhận lời mà còn trao ban cho chúng ta những điều tốt hơn điều chúng ta cầu xin.
Chúng ta đã chẳng đọc những lời của Đức Giêsu rằng, Đấng trao ban còn quí trọng hơn những gì là ân huệ Ngài trao ban sao? Chính Chúa, là kho tàng duy nhất và quí giá mà chúng ta nhận được trong lời cầu nguyện; Lời cầu nguyện dẫn chúng ta vào trong sự hiệp thông với Chúa, đặt mình trước mặt Chúa là Đấng ba lần Thánh và hiệp thông với Ngài. Cầu nguyện, là để Thiên Chúa đến ở với chúng ta và biến đổi chúng ta. Dần dà, chúng ta tìm thấy những gì tội lỗi đã làm hư mất. Và khi chúng ta cầu nguyện, chúng ta làm cho mình trở lên trung gian của tình yêu Thiên Chúa giữa anh em.
Để trở nên môn đệ đích thực của Chúa, chúng ta không chỉ cầu nguyện trong tình con thảo mà lời cầu nguyện còn đưa chúng ta vào trong niềm tin hòa giải: “Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha, kẻ có nợ chúng con”.
Lấy lại những lời nguyện cầu của Đức Giêsu, chúng ta thưa: “Lạy Cha xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”. Lúc đó, chúng ta sẽ thực sự trở nên môn đệ Đức Giêsu, trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần, và nên những sứ giả mang Lời thương xót của Chúa Cha muốn cứu độ người ta. Amen.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Cứ sự thường, bài đọc I Chúa nhật được chọn để chuẩn bị cho bài Tin Mừng. Nếu bài đọc I Chúa nhật XVII thường niên C, giới thiệu Abraham, con người của cầu nguyện, ông nài xin Thiên Chúa cách kiên trì, ông xin cho đến bao giờ được mới thôi (x. St 18,20-32), thì bài Tin mừng (Lc 11, 1-13) cho thấy Chúa Giêsu đang cầu nguyện cùng Chúa Cha, liền sau đó Người dạy các môn đệ cầu nguyện thể theo lời họ xin (x. Lc 11,5-8), và khuyên họ kiên trì cầu nguyện với niềm xác tín đầy tình con thảo với Cha trên trời: “Vì ai xin thì được, ai tìm thì gặp và ai gõ thì sẽ mở cho.” (x. Lc 11,10)
Abraham được phụng vụ trình bày như là gương sáng về sự nguyện giúp cầu thay, ngay cả khi hành vi của ông có vấn đề. Với lòng hiếu khách, ông đã mời ba vị khách vào trại của ông. Một trong ba vị lặp đi lặp lại với Abraham và Sara lời Thiên Chúa hứa ban cho ông bà có con nối dõi tông đường, điều mà ông bà hằng khao khát (x. St 18, 1.10).
Họ là ba, tuy nhiên, trong khung cảnh của Chúa nhật tuần trước, đúng hơn Abraham nói với họ như thể họ là một: vì thiên thần của Chúa (theo Kinh Thánh là những sứ giả được Thiên Chúa ủy thác cho một sứ vụ qua tên riêng của họ), có lúc nhiều, có khi lại chỉ là một.
Hôm nay chúng ta tiếp tục sự kiện này khi hai người trong số họ quyết định đi đến Sôđôma trong lúc Abraham đang ở trước mặt người thứ ba, là Thiên Chúa. Các cuộc thương lượng giữa Thiên Chúa với Abraham liên quan đến dân thành Sôđôma, có Lót, cháu trai của ông và gia đình ông. “Khi những người Sôđôma độc ác và tội lỗi chống lại Thiên Chúa.” (St 13,13) Bạo lực của họ “kêu thấu” tới Chúa và Chúa nhìn họ với cái nhìn: tội thì Chúa phạt, hoán cải thì Chúa cứu, vì Thiên Chúa đầy lòng từ bi và hay thương xót.
Trong cuộc thương lượng, Abraham đặt mình vào vị trí của người công chính và Thiên Chúa là người đáng trách: “Há Ðấng phán xét tất cả gian trần lại không theo đường công lý?” (St 18, 25). Thiên Chúa vẫn giữ một thái độ mà Abraham cho là bất công. Con người có thể lượng giá theo cái biết phiến diện của mình. Thiên Chúa thì không như thế, Ngài phán xét cách công minh.
Vì thiếu lòng tin nên Abraham đã mặc cả với Chúa đến mười người công chính (St 18,31). Nếu như Thiên Chúa quyết định kết án chín người vô tội, chín người công chính trong số các cư dân thành Sôđôma…. Kinh Thánh do miệng các tiên tri cho chúng ta câu trả lời: không, Thiên Chúa không hành động như vậy. “Rảo khắp các phố phường Giêrusalem mà nhìn cho tỏ, hãy tìm nơi các công trường xem có kiếm được một người, một người mà thôi biết giữ công lý, biết tìm sự thật, để Ta tha tội cho thành, sấm của Đức Chúa.”(Gr 5, 1)
Bấy giờ ở Sôđôma đã có một người công chính là ông Lót. Nhưng sự hiện diện của ông không ngăn cản được án phạt giáng xuống cả thành. Thậm chí nếu cứu vớt cá nhân ông, và cả gia đình ông, thì người công chính này cũng không cứu được toàn dân trong thành. Lý do ông chỉ là khách ngoại kiều. Nhưng Thiên Chúa là Đấng hay tha thứ, Ngài sẵn sàng tha thứ tội chết cho toàn dân nếu ăn năn hối cải.
Tin tưởng vào Thiên Chúa và tha thiết nguyện cầu. Chúa Giêsu đã làm gương cho chúng ta, nên Người dạy chúng ta. Người đã thực hành điều Người dạy. Vào những thời điểm quan trọng trong đời như: chịu phép rửa (Lc 3,21), biến hình (Lc 9,29), hấp hối trong vườn cây dầu (Lc 22, 41), Chúa thường cầu nguyện. Người không đặt vấn nạn, cũng không phát biểu những công thức cao siêu huyền bí, nhưng Người đã nói cách đơn sơ: “Cha ơi…” và tiếp đó Người dạy kinh Lạy Cha (x. Lc 11,2-4). Người bảo chúng ta khi xin cùng Thiên Chúa, phải đặt mình vào hoàn cảnh của một người cha phải đáp ứng các nhu cầu của con cái mình, chúng đang đói, chúng cần bánh ăn, cho dù phải năn nỉ, nài van, thậm trí bị từ chối: ” Xin đừng quấy rầy tôi, vì cửa đã đóng, các con tôi và tôi đã lên giường nằm rồi”. Nhưng khi đã nghe rõ tiếng van nài của người cha vì còn cái mình, ông bạn ấy sẽ trỗi dậy đáp lời!
Chúng ta là những kẻ xấu còn đối xử với nhau như thế, phương chi Thiên Chúa là Đấng tốt lành, chúng ta phải tin tưởng vào Ngài, vì Ngài hằng yêu thương, nâng đỡ chúng ta và làm cho chúng ta lớn mạnh khi chúng ta cầu xin. Thiên Chúa đã ngưng trừng phạt Sođôma nhờ số ít những người công chính vì Abraham nài xin (x. St 18,23-32).
Thế giới ngày hôm nay rất cần đến lòng thương xót, thứ tha, nhất là để cứu độ của Thiên Chúa. Ơn cứu độ được thực hiện nơi Chúa Kitô, Con Thiên Chúa làm người. Người là Đấng công chính duy nhất giữa muôn người tội lỗi: “Người đã ân xá cho ta mọi điều sa ngã, thủ tiêu văn khế tội nợ của ta dựa trên lệnh chỉ cáo tội ta, và Người hủy bỏ đi, đóng đinh nó vào thập giá.” (Col 2. 14)
Ơn cứu độ là có thể vì Đức Giêsu Kitô không phải là người xa lạ. Người trở nên nguyên nhân ơn cứu độ đời đời cho chúng ta. Thánh Têrêxa đã mời gọi các chị em của mình như thế này: “Chúng ta cần phải van xin Chúa giải thoát chúng ta mãi mãi khỏi hết mọi hiểm nguy và xin cất đi mọi sự dữ. Và cho dù lòng ước ao của chúng ta còn bất toàn đi nữa, chúng ta cũng hãy kiên trì nhắc đi nhắc lại lời van xin đó. Ðừng lo sẽ xin xỏ quá đáng, xét vì chúng ta đang ngỏ lời với Ðấng Toàn năng mà? (Camino 60).
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cám ơn Chúa đã dạy chúng con cầu nguyện và cho chúng ta tham dự vào lời cầu nguyện của Người. Abba, lạy Cha, lạy Chúa Thánh Thần, xin cầu thay nguyện giúp chúng con và toàn thế giới. Amen.
TỪ NGỮ “LẠY CHA” LÀ BÍ QUYẾT CỦA KINH NGUYỆN CHÚA GIÊSU
Anh chị em thân mến, Phúc Âm hôm nay khởi đầu với cảnh Chúa Giê-su cầu nguyện một mình tại một nơi riêng biệt. Khi Người cầu nguyện xong các môn đệ xin Người, “Lạy Thầy xin dạy chúng con cầu nguyện.” Và Người đã đáp lời, “Khi anh em cầu nguyện, hãy nói: Lạy Cha…”
Từ ngữ “Lạy Cha” là bí quyết của kinh nguyện của Chúa Giê-su; đó là bí quyết Người truyền lại cho chúng ta để chúng ta có thể bước vào mối tương quan đối thoại mật thiết với Chúa Cha là Đấng đã đồng hành và nâng đỡ đời sống của Người.
Với từ ngữ “Lạy Cha”, Chúa Giê-su gắn liền với hai điều thỉnh nguyện: xin cho “danh Cha cả sáng; nước Cha trị đến.” Do đó kinh nguyện của Chúa Giê-su là một kinh cho các Ki-tô hữu, trước hết dành chỗ cho Thiên Chúa, để cho Người thể hiện sự lành thánh trong chúng ta và để cho thiên quốc được phát triển qua sự hiện thực của tình yêu của Người trong đời sống chúng ta.
Ba lời thỉnh cầu khác hoàn tất kinh Chúa GIê-su dạy chúng ta. Đây là ba điều bầy tỏ các nhu cầu căn bản của chúng ta: cơm bánh, sự tha thứ và giúp tránh các chước cám dỗ. Con người không thể sống không cơm bánh, không có sự tha thứ, và không có sự trợ giúp của Thiên Chúa để tránh các chước cám dỗ.
Cơm bánh Chúa Giê-su muốn chúng ta xin là điều cần thiết. Đó là bánh của các khách hành hương, của người công chính, bánh không tích luỹ và không dư thừa để bị vứt bỏ, và không làm cho hành trang chúng ta nặng chĩu trên đường.
Tha thứ trên hết là những gì chúng ta lãnh nhận từ Thiên Chúa: Chỉ khi ý thức được mình là kẻ tội lỗi được tha thứ bởi lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa thì mình mới có thể có khả năng làm các cử chỉ giảng hòa với anh em.
Nếu có ai không ý thức rằng mình là kẻ tội lỗi được tha thứ, thì không bao giờ có thể làm một cử chỉ tha thứ hay giảng hòa. Các cử chỉ này bắt đầu từ trong tim nơi chúng ta cảm thấy chúng ta là những kẻ tội lỗi được tha thứ.
Điều cầu xin cuối cùng – xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ – bầy tỏ một sự ý thức về tình trạng của chúng ta, luôn luôn bị sự dữ và sự tham nhũng quấy nhiễu.Tất cả chúng ta đều biết rõ về các cám dỗ này!
Giáo huấn của Chúa Giê-su tiếp tục với hai dụ ngôn, trong đó Chúa dùng gương sang của thái độ một người bạn đối với bạn hữu mình, và của một người cha đối với người con.
Cả hai dụ ngôn nhắm dạy chúng ta phải hoàn toàn tin cậy nơi Thiên Chúa là Cha. Chúa Cha biết rõ các nhu cầu của chúng ta, nhưng Chúa muốn chúng ta can đảm và liên lỉ trình bầy với Người, vì đây là đường lối chúng ta tham dự vào công trình cứu chuộc của Người..
Cầu nguyện là “công cụ” trước hết và chính yếu chúng ta có trong tay. Năn nỉ [một điều gì] với Chúa không phải là để thuyết phục Người, nhưng là để tăng cường đức tin và lòng kiên nhẫn của chúng ta, nghĩa là khả năng chúng ta có thể tranh đấu bên cạnh Chúa về những gì thật sự quan trọng và cần thiết. Trong việc cầu nguyện chúng ta có song đôi: Thiên Chúa và tôi, cùng tranh đấu cho những gì quan trọng.
Trong số những điều này, có một điều quan trọng nhất, Chúa Giê-su dạy chúng ta trong Phúc Âm hôm nay, mà chúng ta ít khi nghĩ đến, và đó là Chúa Thánh Thần.
“Xin ban Thánh Thần cho con!”
Và Chúa Giê-su nói, “Vậy nếu các con là những kẻ gian ác, còn biết cho con cái mình những của tốt, phương chi Cha các con trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người”.
Thánh Thần! Chúng ta cần phải xin Chúa Thánh Thần đến với chúng ta. Nhưng tại sao lại cần đến Chúa Thánh Thần? Để sống tốt lành, với sự khôn ngoan, với tình yêu, và thi hành Thánh Ý Chúa.
Kinh cầu này sẽ tốt đẹp biết bao nếu mỗi người trong chúng ta trong tuần lễ này sẽ biết cầu xin, “Lạy Cha, xin ban Thánh Thần cho con.”
Đức Nữ Đồng Trinh Maria đã bầy tỏ điều này cho chúng ta qua đòi sống của Mẹ, vì Mẹ đã được Chúa Thánh Thần linh ứng. Mẹ giúp chúng ta cầu nguyện với Chúa Cha, xin Mẹ giúp chúng ta kết hiệp với Chúa Giê-suu để chúng ta không sống theo cách trần tế, nhưng theo Phúc Âm, và được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần.
CHỦ ĐỀ 1: Cầu nguyện là một việc cần và hữu ích.
Thiên Chúa hằng nghe lời ta cầu xin, vì Người là Cha rất nhân từ, thương xót và hết sức khoan dung. Câu chuyện sau đây cho thấy điều đó:
– Câu chuyện: Thánh Cot-to-len-go (1786-1842) trông coi một cô nhi viện trên 700 em. Một hôm gần đến giờ cơm trưa mà trong nhà bếp vẫn nguội tanh không nấu nướng gì, vì tu viện hết sạch tiền. Bấy giờ, bà phước quản lý nhà bếp chạy đến hỏi Cha Bề Trên Cot-to-len-go xem phải làm gì? Cha bảo bà cứ cho các em cô nhi xếp hàng đi vào nhà cơm như mọi khi. Rồi ngài vào trong nhà nguyện cầu nguyện với Chúa. Bỗng có tiếng chuông reo vang ngoài cổng. Tu sĩ trực mở cổng thì thấy có ba người lính nấu ăn của tiểu đoàn đóng quân gần đó đến thưa rằng: Xin cha bề trên ra nhận cho các em cô nhi được ăn phần cơm của tiểu đoàn vì đi hành quân xa không về kịp.
– Suy niệm: Về vấn đề này, Mẹ Têrêsa Can-quýt-ta đã chia sẻ kinh nghiệm của mình như: “Chúng tôi có hơn một ngàn tu sĩ, và phải nuôi ăn hàng chục ngàn người nghèo khổ. Thế mà chưa bao giờ chúng tôi phải từ chối bất cứ ai đến xin giúp đỡ. Chúa luôn can thiệp kịp thời để chứng tỏ cho chúng ta thấy người không bao giờ làm lơ trước lời cầu xin của chúng ta”.
CHỦ ĐỀ 2: Kinh Lạy cha.
Theo đề nghị của môn đệ, Đức giêsu đã dạy các ông cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha.
– CÂU CHUYỆN: Có một bà già quê mùa kia được nhiều người khen là có lòng đạo đức thánh thiện nhất làng. Bà thường quì gối lâu giờ trước gian cung thánh trong nhà thờ với cặp môi mấp máy và khuôn mặt đầm đìa nước mắt. Tiếng lành đồn xa: Đức Giám Mục giáo phận nghe nói nhiều về sự thánh thiện của bà nên tìm dịp đến thăm, Người nói với bà rằng: “Này bà, bà được nhiều người đánh giá là rất đạo đức. Vậy bà thường suy gẫm theo sách thiêng liêng nào vậy?” Người đàn bà thưa: “Thưa đức cha, con thật dốt nát đến nỗi không biết đọc biết viết!” Người lại hỏi: “Vậy thì bà cầu nguyện như thế nào?” Bà trả lời: “Thưa đức cha, con chỉ đọc thuộc lòng kinh Lạy Cha, Kính Mừng Sáng Danh và kinh Tin Kính. Mỗi ngày con cố gắng đọc các kinh đó 10 lần. Nhưng ít khi nào con đọc đủ được như vậy. Vì khi con đọc đến câu “Lạy Cha chúng con ở trên trời”, thì con không thể tiếp tục đọc thêm được nữa. Con cảm thấy Chúa thật tốt lành vô cùng, đến nỗi đã cho một mụ già quê mùa khốn nạn như con, được phép gọi Người là Cha. Con nghĩ như thế rồi tự nhiên nước mắt con trào ra làm con không thể đọc tiếp được nữa cho tới hết giờ kinh”. Đức Cha ngạc nhiên nói với bà rằng: “Này bà, chỉ cần một lời cầu nguyện của bà như vậy cũng có giá trị bằng tất cả những lời cầu nguyện của chúng tôi đó!”
– SUY NIỆM: Đọc kinh Lạy Cha là cầu nguyện theo Đức Giêsu dạy. Kinh này mở đầu bằng một lời chào thân thương: “Ap-ba Lạy Cha”. Tiếp theo là phần thứ nhất, đề cập đến ba ước nguyện về Chúa Cha như: nguyện Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Phần thứ hai xin bốn điều cho mình: xin lương thực hằng ngày, xin tha nợ, xin chớ để sa chước cám dỗ, xin cứu cho khỏi sự dữ.
CHỦ ĐỀ 3: Phải kiên trì vững tâm cầu xin.
– CÂU CHUYỆN:
Có một bác sĩ công giáo, nhưng đã bỏ không cầu nguyện, không đến nhà thờ dự lễ từ năm 10 tuổi đến nay. Một hôm bệnh viện của ông tiếp nhận một cô bé 8 tuổi mắc bệnh đau ruột thừa cần phải mổ cấp thời. Trước khi đưa em lên bàn mổ, viên bác sĩ căn dặn em rằng: “Này em, bệnh em cần phải mổ mới khỏi được. Em sẽ phải uống một liều thuốc mê để thiếp ngủ trong lúc tôi giải phẫu cho em”. Em bé này từ nhỏ đã được bà mẹ đạo đức huấn luyện có thói quen cầu nguyện: Mỗi tối trước khi đi ngủ, em đều quì gối trên giường đọc một kinh Lạy Cha, ba kinh Kính Mừng và một kinh Sáng Danh. Rồi kết thúc bằng một lời nguyện tự phát cầu xin Chúa chúc lành cho cha mẹ và cho em qua đêm bằng yên. Do đó, khi nghe bác sĩ nói em sắp đi ngủ, em liền xin bác sĩ cho phép em được quì gối cầu nguyện và cuối cùng kết thúc bằng lời cầu tự phát như sau: “Xin Chúa chúc lành cho bác sĩ, cho con sớm được khỏi bệnh”. Vị bác sĩ giải phẫu cho em thuật lại rằng: chiều hôm đó ông đã cầu nguyện với Chúa thật sốt sắng, một việc mà sau ba mươi năm lãng quên nay mới lặp lại.
– SUY NIỆM:
+ Hôm nay Đức Giêsu mời chúng ta cứ xin, cứ tìm, cứ gõ và tin chắc rằng Chúa sẽ cho ta được toại nguyện, được nhìn thấy, sẽ mở cửa Nước Trời cho ta được vào. Chúng ta tin Thiên Chúa là Cha nhân hậu. Người chỉ ban cho ta những điều tốt lành, những điều ích lợi thực sự cho ta và giúp ta được hạnh phúc đời đời. Thiên Chúa là Cha, nhưng Người không nuông chiều con cái, mà Người cắt tỉa cho chúng ta được nhiều hoa trái hơn.
+ Bạn cứ cầu xin, nhưng hãy để cho Người định liệu. Vì chỉ Người mới biết rõ điều nào tốt hơn cho ta. Nhiều khi chúng ta xin rắn mà không hay biết. Cũng có khi chúng ta tưởng Chúa cho chúng ta con bọ cạp. Cần có đức tin mới nhận ra rằng: Khi ta cầu xin là Chúa đã nhận lời ta, nhưng theo kiểu khác với điều ta nghĩ. Sau một thời gian, ta sẽ nhận ra mọi biến cố xảy tới trong đời ta đều là hồng ân Thánh Thần, đều đem lại ích lợi phần rỗi đời đời cho ta.
THẢO LUẬN: Gặp một người đau khổ, bạn nên khuyên giải họ dưới lăng kính đức tin như thế nào? Khi bạn cầu xin những điều chính đáng mà Chúa lại không ban. Như vậy phải chăng không có thiên Chúa? Trong hoàn cảnh tuyệt vọng, bạn sẽ cầu xin Cha thế nào noi gương Đức Giêsu trong vườn cây dầu (x. Lc 22,420 và trên thập giá (x. Lc 23, 46)?
HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) Lạy Chúa Giêsu. Con xin thú thật là con rất ít cầu nguyện. Con chưa cảm nghiệm được giá trị của cầu nguyện và thường tỏ ra ngần ngại khi phải đến nhà thờ dự lễ đọc kinh.
Lạy Chúa, Xin cho con noi gương Chúa: luôn sống trong tâm tình của một người con hiếu thảo. Con sẽ thích được hầu chuyện với Cha, sẽ lắng nghe lời Cha và vâng theo thánh ý Cha, chứ không lợi dụng Cha. Con sẽ cầu nguyện luôn chứ không chỉ đến với Cha trong khi quẫn bách. Xin cho con luôn cộng tác làm cho Nước Cha mau đến. Con sẽ cầu nguyện và phó thác cậy trông Cha ban ơn lành hồn xác cho con, nhất là ơn Thánh Thần, giúp con được hạnh phúc đời sau.
2) Lạy Mẹ Maria, Xin Mẹ giúp con luôn dâng lời cảm tạ Cha vì muôn ơn lành Cha đã ban cho con. Những ơn con thấy được và những ơn con chưa nhận ra. Con biết rằng con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng. Con thường tỏ ra đau khổ khi cầu xin mà không được Chúa ban theo ý con, và quên rằng đời con luôn được bao bọc bằng ân sủng của Chúa.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy con biết dâng lời tạ ơn Chúa vì những ơn lành hồn xác Người đã thương ban. Xin cho con cũng biết tạ ơn Chúa những khi con xin mà Chúa vẫn làm ngơ. Trong trường hợp ấy, xin cho con nhận ra tình thương của Chúa: không muốn ban những gì có hại cho phần rỗi đời đời của con. Cũng có thể Chúa không ban vì muốn ban cho những ơn lớn lao hơn mà con chưa nhận ra. Xin cho con luôn vững tin vào tình thương của Chúa như đứa con thơ cậy trông phó thác dưới sự bao bọc chở che của cha mẹ.
Gp Vĩnh Long
“Lạy Cha”, “Abba”, tên của lời kinh cũng là cụm từ mở đầu cho lời kinh. “Abba”, nguyên ngữ Do thái (Aram) là tiếng của đứa bé gọi cha của nó, giống như tiếng Việt: Baba, một lời gọi rất thân mật. Không có lời nguyện nào trong Cựu Ước dám gọi Thiên Chúa là Cha, Thiên Chúa dường như rất xa cách với con người. Thời Tân Ước, Đức Giêsu gọi Thiên Chúa là Cha và dạy chúng ta cũng kêu xin như thế. Như vậy, đây là lời dạy, mạc khải quan trọng, tuy Thiên Chúa là Đấng cao sang, quyền phép, nhưng Ngài rất yêu thương rất gần gũi với con người.
Đối với Chúa, làm sao cho người ta được biết Chúa “Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển “; làm sao cho nhiều người gia nhập Nước Chúa “triều đại Cha mau đến “.
Đối với chính bản thân mình: có lương thực hằng ngày tiêu biểu cho những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống, được Cha tha thứ tội lỗi và mình cũng biết tha thứ cho người khác, đồng thời cũng xin đừng để sa chước cám dỗ.
Chúng ta thường cầu nguyện cho những nhu cầu của bản thân mình, điều nầy đúng chứ không sai, nhưng chưa đủ. Người con hiếu thảo cần phải cầu xin sao cho đẹp lòng Cha của mình trước, rồi mới đến những nhu cầu của mình. Chính Đức Giêsu cũng đã dạy “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33).
Lắm khi trong cuộc sống của chúng ta thấy mình cầu nguyện mãi mà Chúa chưa ban. Có khi Chúa đã ban bằng một phương thức khác, có khi thấy việc ban không có lợi cho chúng ta, có khi Ngài muốn thử thách lòng tin của chúng ta… Nếu lời cầu xin đó đẹp lòng Thiên Chúa, chắc hẳn Ngài sẽ ban cho ta như lời Ngài hứa “hãy xin thì sẽ được”. Nhưng trước khi ban, có khi Ngài xem ta có kiên trì, tha thiết với điều mình xin hay không? Hạnh các thánh có ghi lại, Bà Mônica đã cầu nguyện khóc lóc cách liên lỉ mười sáu năm trời, kết quả Augustinô, con bà được ơn trở lại và Augustinô lại là một vị thánh lớn của Giáo Hội.
(Suy niệm của Lm Uyen Nguyen)
Nét đặc trưng làm người, dễ thấy bộc lộ và phát hiện. ‘Tâm linh’ quy hướng con người về thế giới huyền linh vượt ngoài khả năng vũ trụ. Tâm linh được phú bẩm, là nguyên si như hạt giống hay như lời Đức Giêsu nói về nén bạc,‘mỗi người một nén’ (x.Lc.19,13). Có kẻ mang chôn giấu, có kẻ đem đi sinh lợi. Tâm linh thể hiện không gì đặc thù hơn là cầu nguyện. Cầu nguyện, với tư thế trang nghiêm, biểu lộ trong tưởng nghĩ hay bằng môi miệng thầm thĩ, có khi nói lớn tiếng.
Nay có môn đệ cả dám xin Thầy dạy cầu nguyện ‘như Gioan tiền hô đã dạy môn đệ ông’. Dạy cầu nguyện ư? Có thể là giúp tâm linh thức tỉnh. Có mà chưa sử dụng xem là chưa thông hoặc chưa đánh thức. Đón nhận lời xin, Đức Giêsu dạy họ cầu nguyện với những lời khúc chiết, đủ, gọn, tự phát đã trở nên nguyên mẫu bất biến: kinh Lạy Cha.
Kinh Lạy Cha, mà Đức Giêsu dạy môn đệ Người, bộc lộ tâm tình cả hai thành phần, tâm tình của TC như của Đức Giêsu vị Thầy trên đường lên Giêrusalem thực hiện cứu độ, kế đến là của con người đáp lại.
Những tâm tình ấy được biểu lộ ngay khởi đầu trong hai tiếng xưng hô: Lay Cha. Lạy Cha, lối xưng hô rất quen thuộc, rất đời thường và cũng rất mật thiết. Lạy Cha trước hết bày tỏ sự hiểu biết Đấng sinh thành, còn là sự nhìn nhận, đồng thời bộc lộ tình Thiên Chúa với đàn con do mình tác thành. Vì tiếng Lạy Cha, là cách xưng hô thông dụng và gần gủi giữa con người trần thế trong mối quan hệ huyết thống gia đình. Âm vang nghe tình thấm đậm giữa kẻ sinh thành và những người được sinh thành. Lời đâu tiên trên môi miệng em bé tập nói bi bô ‘Cha, Cha’! Với người sinh ra, khi nghe âm vang ấy, không khỏi thích thú vui mừng. Với người được sinh ra, thốt lên âm vang ấy, để diễn tả đầu đời sự cảm nhận Đấng sinh thành, tuy còn sơ đẳng mờ mịt. Điều đó vẫn nhận chân được mối quan hệ hữu cơ giữa nguyên lý và hệ quả.
Với Đức Giêsu, khi dạy cho các môn đệ kinh Lạy Cha, Người cũng muốn thực tâm dạy cho họ biết họ thật là những người được Người sinh thành như Kinh Tin Kinh đã tuyên tín: “Nhờ Người mà muôn vật được tạo thành, vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế”.
Năm điều để xin gồm hai nhóm đối tượng: Thiên Chúa và toàn thể nhân loại anh em.
Những điều dành cho Thiên Chúa trước hết và ưu tiên! Với Luca chỉ cần hai nội dung quy về Thiên Chúa: Danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến (c.2). Hai ý cũng đủ diễn tả tâm tình ngoan ngùy của những người con thảo hiếu đã nhậnbiết, trên hết và trước hết, đâu là Đấng sinh dựng. Bằng lý trí dần dà đàu sâu rông rải hiểu biết trong sáng hơn. Với con tim, bày tỏ tâm tình sâu sắc trọng kính mến yêu. Với tình cảm ý chí đưa tâm quyết đền đền ơn đáp nghĩa.
Thế nên, là con, để diễn đạt thảo hiếu tốt nhất, tiên thiên mong ước những điều cao cả hướng về Cha mỗi dịp cầu nguyện. Đối lại những điều ấy cũng mang lại hữu ích cho chính mình. Vì hai điều ước ấy cũng chinh là những điều mà Thiên Chúa mong ước cho chính mình vì con người trần. Biết rằng Thiên Chúa là Đấng tuyệt đối vô song, hơn hẳn cha mẹ cõi đời, Ngài không thể quên ai, để mặc bất cứ gì Ngài sinh dựng. Cũng như cõi trần, không một người cha nào có thể quên bất kỳ đứa con nào do mình sinh ra. Với Thiên Chúa nỗi nhớ của Ngài phải tuyệt đối. Tuy nhiên, phần con người trong thế giới vật chất xa cách, không hẳn tất cả đều có thể dễ dàng và trực giác quy về nhìn biết Thiên Chúa và phận vụ mình để chu toàn.
Thứ đến là ba điều cầu xin cho chung toàn thể, cũng bao gồm cho mỗi người. Ở đây cũng vậy, với Luca, xin ba điều ước là đủ: cho hết mọi người ai cũng đủ của ăn hằng ngày, được tha thứ lỗi lầm trót phạm bởi hành vi ám muội trong các mối tương quan, sau hết được gìn giữ bênh vực khỏi cám dỗ ác thần.
Những điều ước xin như thế chia hai nhóm, duy một điều dành cho phần xác, hai điều dành cho tâm linh. Phần xác để hoàn tất cuộc lữ hành. Tâm linh để đạt được mong ước hạnh phúc bất diệt. ‘Lối-xin’ như vậy xem ra coi trọng và đặt nặng phần tâm linh hơn thể xác. Vậy đây dạy các điều chỉ phải xin ít oi như thế thấy có giống với những gì mà lệnh truyền giữ cho các môn đệ được sai đi rao giảng trước đây một khoảng: không mang gì, ai dọn cho gì dùng thứ đó, không lựa chọn thay đổi nơi ăn chốn ở!? Có phải bởi tại các môn đệ Đức Giêsu là những người phải nên giống Người, giống tinh thần từ bỏ, giống hình ảnh là những người phản ảnh đời sống nước trời ngay hôm nay và thực thụ ngày mai? Thực tế, không sao quên được hình ảnh trải nghiệm từ cuộc đời của những người đã sống trong trần gian, nay thăng lên vinh quang mai giáng hạ tồi tệ. Như cuộc đời vị quan cũng là nhà thơ lỗi lạc Nguyễn Công Trứ chẳng hạn! Ông trải nghiệm thật thấm thía đời, đã viết nên những vần thơ đính kèm nguyên tắc sống bất hủ, như chủ trương sướng khổ là tùy vào: “Tri túc, tiện túc, đãi túc, hà thời túc”, hay vang danh với bài thơ ‘Hàn nho phong vị phú’, rời quan sang về hưu làng, cảm nghiệm cảnh hàn vi, chán chê thời huy hoàng thu nhặt, trở về thích thú với cảnh thanh bần:“Ngày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch… Đêm năm canh an giấc ngáy pho pho, đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ”.
Biết rằng, dù dạy cho môn đệ xin những điều ít oi thế, Đức Giêsu không hề muốn có sự nghèo mạc cho bất cứ ai! mà chủ đích con người làm sao để chiếm hữu cuộc sống là hình ành bất tận trong cõi trường sinh và hạnh phúc Nước Trời.
Sau cùng, khi truyền dạy ‘biểu thức’ dành cho ‘mỗi khi’ cầu nguyện, Đức Giêsu nhắc nhớ việc hãy xin: ‘Anh em cứ xin’ (c.9). Là thế nào? Cầu xin với vài phong cách cần thiết.
– Năng cầu xin và can đảm cầu xin! Bởi ngay các tông đồ và môn đệ xưa, không thấy họ đã có thói quen thực hiện như vậy, thường thấy tán gẫu, tranh cải hoặc mê ngủ. Hãy xin để biết Thiên Chúa là Cha trên trời đã muốn ban ơn thế nào vì yêu thương dào dạt?
– Kiên trì và nhẫn nại xin! vì ‘điếu được ban’ còn liên quan quan đến bao hệ lụy khác. Đã xin mà chưa gặp được không có nghĩa là không cho! Vì có biết bao điều, để hiểu được, còn phải nhờ vào ơn mạc khải soi sáng? Chẳng hạng, lắm khi điều xin chưa có lại có được điều chẳng hề xin. Khi này cần đón nhận trong khiêm tốn đợi chờ.
– Khi cầu xin, cầu xin với tâm ý chân thật, khiêm nhường và tin tưởng phó thác! Đây có là những yếu tố đầy mặc cả cho sự thành bại khi cầu xin?
Chắc rằng Thiên Chúa hằng muốn và kêu gọi con người cùng Ngài hưởng phúc trường sinh nước trời. Dù con người không hề có ai xin, Ngài vẫn trường cữu mong ước. Ý muốn này được bộc lộ qua dấu chỉ, biểu lộ các dấu chỉ ấy cách minh nhiên không che dấu dù quá khứ hay hiện tại. Thế, vì Ngài luôn là Đấng quang minh chính đại và là Thiên Chúa tình yêu trung tín.
Nhìn lại. Với kinh Lạy Cha, Đức Giêsu trao cho các môn đệ ‘biểu thức’ cầu nguyện thích hợp cho cộng đoàn vào thời buổi Tân Ước. Biểu thức có cấu trúc định thức sẵn. Những điều xin mang đến hạnh phúc vừa ý đôi đàng, không thừa không thiếu. Tâm tình cầu xin là cần thiết. Vậy mỗi khi cầu xin, cầu xin với hay ngoài khinh Lạy Cha, tâm tình cầu xin cần được gắn kết mật thiết với tâm tình Đức Giêsu. Khi đó việc cầu xin sẽ mang lại cho người điều không thể không thỏa đáng hy vọng.
Lạy Thầy, trước thánh nhan Thầy, con dâng lời cầu xin. Điều gì chưa phù hợp, xin hãy tha thứ, Vì Danh Cha cả sáng, xin cho con luôn bình an sống thuận theo thánh ý Người.
Gp Vĩnh Long
Anh chị em thân mến,
Một người bên lương, hiền lành tử tế nữa, lại rất thích đạo Công giáo, anh ta nói: tôi rất thích đạo Công giáo, nhưng…tôi sợ đạo Công giáo cái vụ…đọc kinh quá! Bên Phật giáo, thì ớn… vụ tụng kinh; nhưng bên Công giáo, lại sợ…sợ vụ đọc kinh nữa. Xem ra cũng đúng, nhưng đàng khác cũng đúng nữa đó là: anh ta chưa hiểu gì về đạo Công giáo cả…. Người Tin Lành cũng chê trách người Công giáo về chuyện đọc kinh, vì họ chỉ chú trọng đọc và học hỏi Kinh Thánh mà thôi. Ta phải hiểu Lời kinh, hay việc cầu nguyện như thế nào? Bài TM hôm nay muốn ta chia sẻ về chủ đề này…
a/. Kinh nguyện (hay đọc kinh) là hành vi sáng suốt và cần thiết của con người: Chúa nói: “ai trong anh em nhờ lo lắng mà có thể kéo dài đời mình thêm ra được một gang một tấc không?” (Mt 6, 27) “không có Thầy, chúng con không thể làm được điều gì.” Đúng như lời Chúa nói: trên đời này, con người không tự mình lo cho mình được; luôn luôn con người cần ơn sủng của Thiên Chúa, vì Người là sự sống, là hạnh phúc của nhân loại… Nếu con người không cầu xin Thiên Chúa, làm sao Thiên Chúa có thể ban ơn, có thể yểm trợ cho con người? Có người nói: Nếu Thiên Chúa biết nhu cầu đời sống của chúng ta, tại sao chúng ta phải cầu nguyện? – Tại vì chính Chúa dạy chúng ta cầu nguyện, như lời Chúa nói: Ai xin thì sẽ được, ai gõ cửa sẽ mở cho..(Lc 11, 9)
b/. Kinh nguyện là thể hiện tấm lòng của người con:
Thiên Chúa là Cha tình thương, thực ra nếu ta không cầu xin, Thiên Chúa vẫn ban ơn cần thiết cho ta. Hình ảnh một người con trong gia đình mà tôi muốn gợi lên: đứa con nào trong các con, sẽ làm đẹp lòng cha mẹ hơn, có phải là đứa con luôn nhớ đến cha mẹ, luôn nài xin, luôn quấn quít bên cha mẹ không? Có phải đứa con tự thấy mình không lo cho mình được, chỉ biết trông cậy nơi cha mẹ không? Có phải là đứa con luôn nhận ra, trên đời này không ai đáng tin hơn chính cha mình không? Tình yêu sẽ là điều chính yếu thể hiện tình cảm của người con. Thật vậy, nếu chúng ta luôn sống trong tâm tình của một người con luôn muốn nói lên tình hiếu thảo với Thiên Chúa là cha của mình, thì còn gì hơn? Tâm tình đó chính là kinh nguyện đó…
c/. Kinh nguyện chính là hình thức, là phương tiện dẫn người kitô hữu đến gặp gỡ Thiên Chúa là Cha của mình. Đến một lúc nào đó trong cuộc sống của người kitô hữu, kinh đọc bên ngoài không còn là phương tiện tốt nữa, nó sẽ được thay thế bằng tâm nguyện, hoặc bằng việc chiêm nguyện. Đó là những phương tiện, là lời kinh tối hảo của người kitô hữu, của các thánh. Trên cơ bản, tất cả những mẫu kinh đó vẫn được gọi là kinh nguyện Kitô giáo. Người ta thường hiểu lầm kinh nguyện Kitô giáo chỉ thu hẹp ở một số lời kinh được in ra trên giấy, hay trong sách vở. Thực tế, đó chỉ là số ít và cũng không phong phú. Ngoài ra, chúng ta cũng chưa từng thấy vị thánh nào coi thường việc cầu nguyện cả; mà phải nói ngược lại, các ngài còn đề cao và còn kêu gọi mọi người đi đến với những lời kinh đích thật, những lời kinh phong phú phát xuất tự đáy tâm hồn mình nữa muốn dâng lên TC.
d/. Gợi ý sống và chia sẻ:
Chúa Giêsu dạy ta cầu nguyện với Chúa Cha, để xin cho mọi nhu cầu của con người. Lâu nay ta hiểu thế nào? Ta có xem cầu nguyện là điều không thể thiếu cho linh hồn, như cơm bánh cần cho thân xác không? Ta có xem cầu nguyện là phương tiện dẫn đưa ta tới với Chúa Cha như lời Chúa Giêsu dạy? Ta có xem cầu nguyện là cách tỏ tình rất chân thật với Thiên Chúa là Người Cha dạt dào tình cảm, dù Người Cha đó là Vua trời đất, đầy uy quyền, là Chúa mọi loài, nhưng lại sẵn sàng lắng nghe để yêu thương chúng ta không?
LỜI CẦU NGUYỆN CỦA NGƯỜI CON THẢO
NƠI CÁC MÔN ĐỆ ĐỨC KITÔ
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
Tin Mừng theo thánh Luca, mở đầu bằng lời cầu nguyện của người Do Thái trong Đền Thờ và kết thúc bằng lời cầu nguyện của cộng đoàn các môn đệ “không ngừng chúc tụng Thiên Chúa trong Đền Thờ”, dành một vị trí ưu tiên cho cầu nguyện của Đức Giêsu.
+ Một lời cầu nguyện mà từ ngày chịu phép rửa ở sông Giôdan đánh dấu tất cả những thời điểm quan trọng trong sứ vụ của Ngài.
+ Một lời cầu nguyện của con cái, dâng lên Thiên Chúa với sự đơn sơ và thân thiết của trẻ thơ: “Abba”, nghĩa là: “Lạy Cha”.
+ Một lời cầu nguyện, mà các môn đệ đã là những nhân chứng, không chỉ bằng mắt thấy, mà còn bằng tai nghe, vào thời đó, người ta không biết cầu nguyện nhỏ tiếng, và ‘cầu nguyện’, theo tiếng Do Thái, có nghĩa là ‘nêu lên’. Cha George viết: “Các môn đệ đã phải nghe Đức Giêsu cầu nguyện lớn tiếng, và chính trong các biến cố quan trọng, mà các ông đã có thể hình thành cho mình một ý tưởng cầu nguyện riêng.
Đức Giêsu muốn người ta nghe Người cầu nguyện, Người muốn xác định lời cầu nguyện của chúng ta bắt nguồn từ lời nguyện của Người (Cahiers-Evangiles, số 5, trg 43).
Trong khi thánh Matthêu thuật việc truyền lại kinh “Lạy Cha” trong khuôn khổ Bài Giảng Trên Núi, thì thánh Luca lại đặt nó trong khuôn khổ của cuộc hành trình về Giêrusalem, thành phố mà ở đó, Đức Giêsu sẽ trút hơi thở cuối cùng trong lời nguyện sau cùng. Đức Giêsu, “ở một nơi nào đó”, “đang cầu nguyện”, và, khi Người đã cầu nguyện xong, một trong các môn đệ xin Người: “Lạy Chúa, xin dạy chúng con cầu nguyện. Đây không phải là vấn đề cầu nguyện chung chung, mà là lời cầu nguyện, thêm vào những lời cầu nguyện chính thức của niềm tin Do thái sẽ nêu rõ nét đặc trưng nhóm các môn đệ của Người, theo cách thức – mà chúng ta không biết – mà “Gioan Baotixita dạy các môn đệ ông”. Một lời cầu nguyện tập trung vào điểm chính yếu của sứ điệp Người và xây dựng cộng đoàn các môn đệ chung quanh Người.
Đức Giêsu đáp lại lời cầu xin của ông bằng một lời cầu-nguyện-kiểu-mẫu. Một lời cầu nguyện mà từ nay, căn cứ vào đó, tất cả các lời cầu nguyện Kitô giáo sẽ phải rập theo, cách này hay cách khác: đó là kinh “Lạy Cha”.
Louis Monloubou nhận xét: “Những hoàn cảnh; trong đó lời cầu-nguyện-kiểu-mẫu được phát biểu rất đặc biệt. Chúng giúp các Kitô-hữu hiểu rằng, lời cầu nguyện của họ là sự nối dài lời cầu nguyện của Đức Giêsu; lời cầu nguyện đó phải là sự bắt chước, phản ảnh… Các môn đệ đã nhìn thấy Chúa cầu nguyện, nên đã xin Người hướng dẫn họ cầu nguyện; nói khác đi đưa dẫn họ vào lời cầu nguyện của Người. Đức Giêsu đồng ý bằng cách công bố kinh Lạy Cha. Khi cầu nguyện bằng kinh nầy, và khi hiểu thấu những tình cảm hay ý hướng nó diễn tả, các Kitô-hữu cầu nguyện như Đức Giêsu: “Nhờ người, với Người, trong Người” là một công thức về sau sẽ diễn tả điều mà thánh Luca gợi ý (L’évangile de Luc Salvator, trg 194-195).
Khác với thánh Matthêu, “kinh lạy Cha“ của thánh Luca ngắn hơn, bao gồm một lời cầu khẩn, hai ước nguyện và ba lời xin ơn.
Một lời cầu khẩn. Để thưa với Thiên Chúa, kinh này lấy lại từ ngữ mà Đức Giêsu, ngôi Con, dùng trong lời nguyện của riêng ngài: “Lạy Cha” (“Lạy Cha chúng con” trong thánh Mátthêu). Lập tức, lời này mạc khải cho chúng ta chiều sâu của mối liên hệ giữa Đức Giêsu Kitô và Thiên Chúa.
Jean-Luc Vesco cắt nghĩa: “Lời cầu nguyện Kitô giáo, giúp môn đệ Đức Giêsu bước vào sự thân mật duy nhất liên kết Chúa Con với Chúa Cha. Trong lời cầu nguyện của Người con thảo, người Kitô hữu có thể lấy lại lời cầu khẩn này của Đức Kitô: “Lạy Cha” (Gl. 4, 6; Rm. 8, 15). Tiếng kêu Cha đó có tính cách năng biệt, cá nhân. Nó diễn tả một sắc thái thân mật và cũng muốn nhấn mạnh là, mối liên hệ duy nhất và đặc biệt mà Chúa Con có với Chúa Cha cũng là mối liên hệ nối kết tất cả các Kitô hữu với Thiên Chúa”. (“Jérusalem et son prophète”, trg 72).
– Hai ước nguyện, cùng có song song trong lời nguyện Do Thái Qaddish.
+ Sự thánh hoá Danh Thiên Chúa: chớ gì Thiên Chúa can thiệp và tỏ rõ mình là Thiên Chúa, ước mong người được mọi người nhận biết?
+ Nước Ngài trị đến: chớ gì Thiên Chúa đích thân ngự đến và tỏ lộ ra sự hiện diện cao cả và năng động của Ngài!
Như thế, H. Cousin nhận xét: “Lạy Cha, xin ngự đến” đã được làm thành công thức dưới hai hình thức khác nhau; Thiên Chúa là “đối tượng” duy nhất của lời cầu nguyện dâng lên Thiên Chúa (L’evangile de Luc, Centurion, trg 162).
– Ba lời xin ơn, được diễn tả, không phải ở ngôi thứ nhất số ít: “Con”, nhưng ở ngôi thứ nhất số nhiều: “Chúng con”, các môn đệ thân thưa với Thiên Chúa cho chính họ với tư cách là một cộng đoàn.
+ Lời xin ơn thứ nhất hướng về “cơm bánh mà chúng con cần mỗi ngày” để tiếp tục cuộc hành trình. H. Cousin nhận xét: “Trước tiên ở đó, có sự ám chỉ đến manna, bánh từ trời đã hồi phục dân Thiên Chúa trong thời kỳ xuất Hành, và theo sự mong đợi của dân Do Thái, bánh này sẽ lại được trao ban như là lương thực cho cộng đoàn của thời sau hết. Nơi thánh Luca, các tín hữu được mời gọi cầu xin Bánh hằng sống nầy hằng ngày”. (Sđd).
+ Lời cầu xin thứ hai nhắm đến “sự tha thứ tội lỗi của chúng con”. Ơn tha thứ là ơn huệ nhưng không của Thiên Chúa, không có ơn tha thứ, chúng ta sẽ không thể nào sống trong tình thân với thiên Chúa, vì chúng ta là những con nợ không có gì để trả. Ơn tha thứ đó cần thiết cho chúng ta còn hơn là cơm bánh. Hơn nữa, chúng ta còn phải tha thứ cho các con nợ của chúng ta, nếu không, Thiện Chúa sẽ không thứ tha cho chúng ta.
+ Sau cùng, lời xin ơn thứ ba liên hệ đến sự trợ giúp trong “cơn cám dỗ”. Một lời cầu xin mà bản tiếng Pháp dịch là: “xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ“ có ý nghĩa mơ hồ. Chúng ta không xin cho chúng ta được miễn trừ khỏi cơn cám dỗ hay thử thách: Chính Đức Giêsu đã chẳng được Thánh Thần đưa đến hoang địa để chịu ma quỉ cám dỗ đó sao (Luc 4)? Chúng ta cầu xin đừng sa chước cám dỗ, theo ý nghĩa của lời cầu cho Phêrô, trong 22,32: “Thầy cầu nguyện cho con, để con không mất đức tin”. Chúng ta cầu xin cho thử thách không làm chúng ta ngã quỵ cho chúng ta đừng sa vào kế hoạch của Tên Cám Dỗ.
Rồi, Đức Giêsu tiếp nối bằng một dụ ngôn và những lời cắt nghĩa.
– Dụ ngôn là dụ ngôn người bạn quấy rầy, nhân danh tình bạn, không sợ làm phiền một trong những người bạn của mình, ngay “lúc giữa đêm”, và không ngại năn nỉ đến độ “sỗ sàng”, để giúp đỡ một người bạn khác, đường xa mới đến. Cũng chính với sự tin tưởng, sự kiên trì, táo bạo, làm nền tảng cho tình yêu của Người mà chúng ta dám thân thưa với Thiên Chúa: Đức Giêsu nhấn mạnh, các con hãy xin, thì sẽ được; hãy tìm thì sẽ thấy; hãy gõ, thì cửa sẽ mở cho các con.
Là người cha tốt lành, Thiên Chúa không thể không lắng nghe lời cầu nguyện của con cái Người. Tốt lành hơn mọi người cha trên trái đất, Chúa Cha trên trời sẽ trao ban cho những ai cầu xin Người ơn huệ tuyệt hảo: Chúa Thánh Thần. Cách nay hai tuần, khi đọc dụ ngôn Người Samaritanô Nhân Hậu, chúng ta biết rằng, để đi theo Đức Giêsu lên Giêrusalem, chúng ta phải bước qua con đường tình yêu tha nhân, một tình yêu vượt trên tất cả mọi thứ lề luật. Chúa Nhật vừa qua, trong nhà của Mátta và Maria, chúng ta khám phá ra rằng con đường nầy là con đường lắng nghe Lời Chúa. Hôm nay, chúng ta được báo cho biết, con đường nầy cũng là “con đường của lời cầu nguyện khiêm nhường, tin tưởng và kiên trì, con đường trao ban Thánh Thần và sẽ được Người tác động” (J.L. Vesco, sđd, trg 75).
BÀI ĐỌC THÊM.
Ở đây không phải những nhu cầu của con người là giai đoạn đầu tiên của hành trình tôn giáo. Chính Thiên Chúa đã trao cho Abram một lời yêu cầu: “Ngươi hãy đi khỏi xứ sở của ngươi và đi đến xứ sở mà Ta sẽ chỉ cho ngươi”. Vai trò của con người trong tôn giáo mới nầy, rõ ràng là đón nhận lời Thiên Chúa; lắng nghe lời yêu cầu của Ngài và vui lòng đáp lại. Điều đó thay đổi tất cả. Thiên Chúa không còn được kêu cầu để phục dịch con người nữa. Ngược lại, con người tìm đến phụng sự Thiên Chúa…
Lời cầu nguyện Kitô giáo, rất có thể là lời xin ơn, nhưng không bao giờ bắt đầu từ chúng ta vã những nhu cầu của chúng ta. Nó luôn luôn bắt đầu từ Thiên Chúa. Gọi Thiên Chúa là Cha, là nhìn nhận sự hiện hữu của Người cũng vững chắc như sự hiện hữu của một người cha bình thường của tất cả mọi người… Gọi Thiên Chúa là Cha, có nghĩa là, chúng ta từ chối làm cho đức tin chúng ta tuỳ thuộc vào cách thức chúng ta được nhậm lời. Nói với Người, chớ gì ý cha được thể hiện, cũng có nghĩa là, nhìn nhận rằng, ngay cả khi không thấy Người nhậm lời như mong muốn, chúng la vẫn chắc chắn rằng, ý muốn của Người luôn luôn là tốt lành và có thể là chúng ta không hiểu biết hết điều chúng ta cầu xin..
Chúng ta đừng xấu hổ vì những lời xin ơn. Chúng ta hãy dám khẩn khoản Thiên Chúa cho những nhu cầu riêng tư của chúng ta, và những nhu cầu, cho dù rất ghê gớm, của anh em nhân loại. Đơn giản là chúng ta đừng làm điều đó theo cách thế của dân ngoại. Khi lời cầu xin của chúng ta hình như không được nhậm lời, chính lúc ấy, thái độ bên trong sẽ giúp chúng ta biết mình có phải là người có đức tin hay không, tình yêu của mình: đối với Chúa có hoàn toàn dính liền với những lợi lộc hy vọng có được từ mối liên hệ nầy hay không, hoặc sự tin tưởng có vượt lên trên nổi thất vọng hay không.
Cầu Nguyện! đó là một từ ngữ của đức tin. Một tín hữu mà không cầu nguyện thì còn có nghĩa gì nữa!
Thế nhưng, phải nhận là điều đó không dễ dàng gì. Cầu nguyện là một thử thách, nhất là khi lời cầu nguyện không được phụng vụ hoặc một cộng đoàn nâng đỡ cầu nguyện, như là mặt khác của mầu nhiệm Thiên Chúa, mất nhiệm của Thiên Chúa sống động trống con người. Một dấu vết mờ nhạt và nóng bỏng.
Thiên Chúa là Đấng Thánh, đó là lời nguyện chúc tụng. Thiên Chúa là Đấng Tốt Lành, đó là lời nguyện cầu xin.
Không cần phải nhấn mạnh đến lời chức tụng. Nó nằm trong kinh Lạy Cha: nguyện Danh cha được hiển thánh. Yêu mến ai, là nói với người ấy tất cả những từ ngữ tỏ lòng trân trọng. Huống chi là đối với Thiên Chúa.
Thế nhưng lời nguyện xin ơn, có thể gây ra vấn đề. Trước hết, những người tinh thần mạnh mẽ thì cho rằng, thật là vô ích và ấu trĩ khi cầu xin Thiên Chúa điều mà Người biết rõ hơn chúng ta.
Đó cũng là cơn cám dỗ của những người yếu đuối, tôi muốn nói những người cầu xin Thiên Chúa những ơn lành một cách vụng về hay hiển nhiên lệch lạc. Làm gì đây?.
Trước hết, đừng bao giờ xem Thiên Chúa như là một người phân phát ơn huệ một cách máy móc. Hay là theo kiểu đổi chác: “Tôi cho Ngài, Ngài cho tôi”. Tệ hơn nữa: đừng bao giờ đặt Thiên Chúa trước một tối hậu thư. Không đổi chác, không tối hậu thư, lời cầu xin đích thực trước hết chấp nhận chúng ta sẽ không được nhậm lời như chúng ta hiểu biết hay mong muốn. Như thế, không được điều mình cầu xin cũng có thể là một ơn huệ. Bởi vì Thiên Chúa luôn luôn ban cho chúng ta điều Người đã hứa: Thánh Thần của Người. Trong tất cả những gì anh em cầu xin, hãy cầu xin Thiên Chúa và Thánh Linh của Người, và anh em sẽ được tràn đầy.
LỜI KINH CỦA CHÚA – HÌNH ẢNH CỦA THIÊN CHÚA
Bởi vì Người biết và luôn luôn chiêm ngưỡng Thiên Chúa, bởi vì Người cũng biết ý nghĩa và cùng đích của đời sống chúng ta, Đức Giêsu có thể dạy chúng ta cầu nguyện cùng Thiên Chúa hơn bất cứ ai trước Người.
1.- Ngữ cảnh
Trong bài tường thuật về hành trình lên Giêrusalem, tác giả Luca ghép vào một giai thoại trong đó Đức Giêsu dạy các môn đệ cầu nguyện, vì các ông xin Người.
Hình thức của Kinh Lạy Cha ăn khớp với ngữ cảnh này, vì bản văn được đặt sau lời kinh Đức Giêsu dâng lên Chúa Cha (10,21-22), cũng như sau “ví dụ” của Người về tình thương đối với người thân cận (10,29-37) và việc Người nhấn mạnh trên việc lắng nghe Lời như điều cần thiết duy nhất (10,38-42). Toàn khối các giai thoại này giới thiệu cho biết thái độ và những tâm tình người Kitô hữu phải có đối với Thiên Chúa.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Hoàn cảnh (11,1);
2) Đức Giêsu dạy cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha (11,2-4);
3) Đức Giêsu dạy cầu nguyện bằng hai dụ ngôn (11,5-13):
– Dụ ngôn Người bạn quấy rầy (cc. 5-8),
– Sáu khẳng định (cc. 9-10),
– Dụ ngôn Người cha và đứa con (cc. 11-13).
3.- Vài điểm chú giải
– Lạy Cha (2): Tác giả chỉ dùng hô-cách Hy-lạp đơn giản: pater (x. 10,21), tương đương với từ A-ram ’abbâ’. Do chỗ từ này được lưu giữ trong Mc 14,36 (x. Gl 4,6; Rm 8,15), có thể cho rằng kiểu thưa gửi trong bản văn Lc thì “gốc” hơn kiểu trong Mt (với công thức “Lạy Cha chúng con, Đấng ngự trên trời”).
Một số tác giả như Kittel, Jeremias và Marchel nghĩ rằng đây rất có thể là một từ ngữ của các em bé (G. Kittel, VAbba/, GLNT, vol. I, col. 15-18; J. Jeremias, Abba. Studien zu neutestamentlichen Theologie und Zeitgeschichte (Gưttingen 1966) 15-67; W. Marchel, Abba, Père (Roma 1963, 1971). Còn Pitta thì cho rằng không phải chỉ có các em bé mới dùng từ này mà thưa với cha, nhưng cả người lớn cũng dùng để ngỏ lời với cha (A. Pitta, Lettera ai Romani. Nuova versione, introduzione e commento (I Libri biblici – Nuovo Testamento 6; Figlie di San Paolo; Milano 2001) 298.). Dù sao, vào thế kỷ I, từ này không chỉ được dành cho trẻ em.
Gọi Thiên Chúa là “Cha” không phải là chuyện lạ lùng. Danh xưng “cha” đã có nơi các tôn giáo rất khác nhau, từ dạng thô sơ nhất đến dạng phát triển nhất, của người Hy-lạp, Rô-ma và Sê-mít. Nhưng điều lạ là sử dụng một danh xưng thân mật để thưa với Thiên Chúa. Theo các nghiên cứu của Jeremias và Marchel, ’abbâ’ là một danh xưng thân mật, nên không bao giờ được người Do-thái dùng mà thưa với Thiên Chúa. Đôi khi, cũng rất hiếm, từ này được dùng để nói về Thiên Chúa, chứ không bao giờ để thưa với Thiên Chúa. Và ngay cả nói về Thiên Chúa, các bản Targumim (= Bản dịch và diễn giải) cũng rất ngại áp dụng danh hiệu “cha” cho Ngài. Ngược lại, theo chứng từ của Mc 14,36, được củng cố gián tiếp bởi Gl 4,6, Đức Giêsu là người đầu tiên thưa với Thiên Chúa bằng tiếng gọi thân mật Abba, và như thế Người tỏ cho thấy quan hệ thân tình như là người con với Thiên Chúa, một thứ quan hệ kiểu mới mẻ và duy nhất, vô song (Cf. Jeremias, Abba, 58-67). Quan hệ này được diễn tả rõ ràng trong một vài bản văn Tin Mừng, đặc biệt trong Mt 11,27 // Lc 10,22. Tin Mừng IV triển khai các phương diện khác nhau của quan hệ hỗ tương này, một quan hệ được vén mở cho thấy không những bằng các lời nói, mà hơn nữa còn bằng công trình chung giữa Chúa Cha và Chúa Con; và công trình chung này đạt tới đỉnh cao khi Đức Giêsu hiến mình trên Núi Sọ. Tin Mừng làm chứng về hai điều: 1) Quan hệ của Đức Giêsu với Thiên Chúa là quan hệ có một không hai, không thể so sánh với bất cứ kiểu tương quan nào; quan hệ này hoàn hảo, thâm sâu, hỗ tương; theo nghĩa này, quan hệ này chuyên nhất (x. Ga 10,30); 2) Tuy nhiên, theo một nghĩa khác, quan hệ này không độc chiếm, nhưng lại có khả năng thông ban, thông dự vào (x. Ga 6,57; 10,27-28). Đức Giêsu đến chỉ nhắm một mục tiêu là đưa loài người vào trong tương quan cha con với Thiên Chúa. Và bởi vì quan hệ này không phải là một tương quan bên ngoài như một liên hệ pháp lý, mà là một thực tại thâm sâu, người ta không thể thông dự vào đó nếu không được một sự thông truyền tinh thần. Vậy toàn thể cuộc sống của Đức Giêsu, sứ vụ, cái chết, sự sống lại của Người chỉ có một mục đích là thông ban Thánh Thần trong tư cách là Thần Khí của Con (x. Gl 4,6). Quả thật, Đức Giêsu là người đầu tiên cầu nguyện với Thiên Chúa bằng danh hiệu này. Nhưng bây giờ, nhờ Thần Khí của Con, mỗi tín hữu cũng có thể làm như thế: là con (x. Gl 3,26; 4,6.7), người tín hữu thông dự vào lời cầu nguyện của Chúa Con.
– xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển (2): dịch sát là “Ước gì Danh Cha được hiển thánh”. Trong ngôn ngữ Kinh Thánh, câu này không có nghĩa là Thiên Chúa phải bận tâm làm cho loài người coi Danh của Ngài là thánh và không làm ô nhục Danh Ngài. Câu này có nghĩa là chính Thiên Chúa phải thánh hoá Danh Ngài; chính Ngài phải hành động cách nào để loài người nhận biết và tuyên xưng đúng như Tên Ngài, tức là như Thiên Chúa và như Cha. Như thế, là xin Thiên Chúa mạc khải bản thân Ngài ra vĩnh viễn và cho người ta được thấy Ngài và đến được với Ngài cách chắc chắn.
-[xin làm cho] Triều Đại Cha mau đến (2): Đây là nội dung chính của lời Đức Giêsu loan báo. Người loan báo Tin Mừng về Triều Đại Thiên Chúa, về quyền chúa tể của Thiên Chúa (4,43; 8,1; 10,9.11): Thiên Chúa là Chúa Tể duy nhất và tốt lành, sẽ thực hiện công khai vương quyền của Ngài. Lời xin này cầu mong mau đến lúc Thiên Chúa sẽ hiển trị trên tất cả mọi sự cách công khai và hữu hình; Đấng là Cha sẽ là Chúa Tể duy nhất.
– ngày nào có lương thực ngày ấy (3): dịch sát là “Xin ban cho chúng con mỗi ngày (to kath’ hêmeran)”, hiểu theo nghĩa phân phối.
– xin tha tội (4): Tác giả Lc đã thay từ opheilêmata, “các món nợ”, bằng hamartias, “các tội”, có lẽ để cho độc giả Kitô hữu gốc Dân ngoại dễ hiểu lời xin này hơn.
– bạn (5): Từ ngữ philos được dùng nhiều lần khiến chúng ta nhớ đến bối cảnh là lòng hiếu khách của người dân Cận Đông. “Bạn” vừa có nghĩa là người láng giềng và người khách.
– anh ta cứ lì ra đó (8): Anaideia, “sự trâng tráo, lì lợm”. Có tác giả nghĩ rằng từ này áp dụng cho người bạn bị quấy rầy, nên phải dịch là “thể diện” (Xem Bản dịch Kinh Thánh Tân Ước của Nhóm Phiên Dịch CGKPV 1995). Nhưng giải thích như thế không đúng, vì: cả câu 8 dịch sát là: “dẫu anh không dậy để cho người này (autô) vì là bạn của người này (autou), thì cũng vì sự lì lợm của người này (autou), anh sẽ dậy để cho người này (autô) tất cả những gì người này cần”. Bởi vì đại từ sở hữu autô và tính từ sở hữu autou (Ở chủ-cách là autos) được dùng để chỉ người đến quấy rầy, nên phải hiểu anaideia áp dụng cho người quấy rầy.
– tất cả những gì anh ta cần (8): nghĩa là không phải chỉ cho những gì anh ta xin mà thôi.
– anh em cứ xin thì sẽ được (9): Đây là một thái bị động thay tên Thiên Chúa, nên có nghĩa là: “Anh em cứ xin, thì sẽ được Thiên Chúa ban cho”.
– cứ tìm thì sẽ thấy (9): Do câu này song song với câu trên, ta hiểu là “sẽ thấy, với sự trợ giúp của Thiên Chúa”.
– thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó (11): Hiểu là có sự giống nhau về bề ngoài giữa con cá và con rắn. Thỉnh thoảng các ngư phủ trên Hồ Ghennêxarét dùng cá nhỏ mà câu rắn nước.
– xin trứng lại cho nó bò cạp (12): Một con bò cạp cuộn càng và đuôi lại thì giống với một quả trứng.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Hoàn cảnh (1)
Trước mắt các môn đệ, hẳn là Đức Giêsu xuất hiện ra như là vị thầy về cầu nguyện. Còn trước mặt Người, các ông quả là những người đang chập chững tập cầu nguyện. Do đó, các ông đã xin Người dạy cầu nguyện. Đàng khác, vào thời Đức Giêsu, các nhóm tôn giáo được phân biệt nhờ có một kiểu cầu nguyện riêng. Lời xin của các môn đệ Đức Giêsu cho thấy các ông ý thức mình là một cộng đoàn.
* Đức Giêsu dạy cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha (2-4)
Đức Giêsu đã ban cho các ông bản văn một kiểu mẫu cầu nguyện. Điều này không có nghĩa là các ông phải luôn luôn dùng những lời này mà thôi. Nhưng với người nào dùng lời kinh này, người ấy được xác định cho biết bầu khí phải quan tâm khi cầu nguyện và được nhắc đến những lời thỉnh cầu phải coi là quan trọng nhất.
Trong lời kinh, chúng ta ngỏ lời với Thiên Chúa và trình cho Ngài các lời thỉnh cầu của chúng ta. Chúng ta không thấy Ngài và tự mình không thể biết là Ngài đang tương quan với chúng ta thế nào. Ngài vô hình, xa cách, rất lạ với ta, ta không thể hiểu Ngài và khám phá Ngài cặn kẽ. Trong cầu nguyện, quan trọng nhất là biết bản chất của tương quan giữa Thiên Chúa và loài người. Phải chăng Thiên Chúa là một Chúa tể quyền lực, có thể nhậm lời ta cầu xin, nhưng Ngài không hề quan tâm đến ta? Lời xin đầu tiên và căn bản nhận được câu trả lời nơi lời đầu tiên của Đức Giêsu: chúng ta phải ngỏ lời với Thiên Chúa như với một “Người Cha”. Thiên Chúa không phải là một Chúa tể xa cách, xa lạ, quyền lực, không muốn biết gì về chúng ta. Ngài đã giao tiếp với chúng ta với mối quan tâm, tình yêu và sự chăm sóc, như một người cha đích thực.
Đức Giêsu đã phác ra những nét chính để dạy chúng ta biết phải cầu nguyện với Thiên Chúa thế nào. Theo kiểu mẫu của Người, chúng ta thấy có hai khối lời cầu xin. Khối thứ nhất liên hệ trực tiếp đến Thiên Chúa, khối thứ hai liên hệ đến chúng ta và các nhu cầu của chúng ta. Lời cầu “xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển”, là xin Thiên Chúa cho chúng ta được đi từ hoàn cảnh đức tin sang hoàn cảnh hưởng kiến. Lời cầu thứ hai xin Thiên Chúa là Cha tỏ quyền Chúa Tể trên mọi sự. Nói chung, hai lầu cầu đầu tiên xin cho có cuộc đảo lộn các tương quan hiện hữu, trong đó Thiên Chúa dường như vắng mặt hoặc ẩn mình. Chúng ta xin Ngài trở nên hữu hình và tỏ ra là Chúa Tể duy nhất mãi mãi.
Khối lời thỉnh cầu thứ hai liên hệ đến các nhu cầu cấp bách nhất của chúng ta: các nhu cầu vật chất (cái ăn cái uống, y phục, nhà cửa). Bên cạnh các nhu cầu vật chất, là các nhu cầu thiêng liêng: “xin tha tội cho chúng con”. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta trách nhiệm, nhưng chúng ta thường xuyên sống vô trách nhiệm, trở thành có lỗi trước mạt Thiên Chúa, chúng ta phạm những thiếu sót đối với người thân cận. Chúng ta không thể tự mình tha các lỗi cho mình. Chúng ta lệ thuộc sự tha thứ của Thiên Chúa nên phải xin Ngài ban cho. Thêm vào lời cầu xin này, Đức Giêsu nối câu: “vì chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con”. Người nhắc chúng ta nhớ rằng chúng ta không thể nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa nếu chúng ta có một tâm hồn đầy cay đắng và hiềm khích (x. Mt 18,23-35).
Cuối cùng, chúng ta xin Thiên Chúa chiếu cố đến sự yếu đuối và mỏng dòn của chúng ta. Trước nhan Thiên Chúa, chúng ta nhìn nhận mình không có sức để đứng vững trong thử thách để trung thành với Ngài. Do đó, chúng ta khiêm tốn xin Ngài trợ giúp, đồng thời diễn tả ước muốn được mãi mãi liên kết với Ngài.
* Đức Giêsu dạy cầu nguyện bằng hai dụ ngôn (5-13)
Sau đó, bằng hai dụ ngôn và sáu khẳng định, Đức Giêsu còn muốn thuyết phục các môn đệ rằng họ có thể cậy dựa vào lòng nhân lành của Thiên Chúa, tức là tin rằng Ngài sẽ nhận lời họ cầu xin. Với hai dụ ngôn, Đức Giêsu vận dụng các hoàn cảnh và kinh nghiệm của loài người để dạy dỗ.
Dụ ngôn thứ nhất vận dụng những tương quan hàng xóm láng giềng ở miền quê: Nếu một người hàng xóm bị quấy rầy còn sẵn sàng giúp đỡ người bạn, chẳng lẽ Thiên Chúa vô cùng tốt lành và không hề có giờ nào không thuận tiện lại không nghe lời con cái Ngài kêu xin?
Trong dụ ngôn thứ hai, Đức Giêsu vận dụng cách thức xử sự của người cha trần thế với con cái: Nếu ngay trong lãnh vực con người, một người cha, tuy có những khiếm khuyết, còn biết cho con cái những của tốt lành, chẳng lẽ Thiên Chúa là “Cha”, Đấng có mọi tình phụ tử, lại không xử sự hơn thế sao?
Cách thức Đức Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện cho hiểu rằng Người biết và luôn chiêm ngưỡng Thiên Chúa. Dựa trên cái nhìn này, Đức Giêsu mời chúng ta cầu nguyện tha thiết, Người hứa với chúng ta rằng chắc chắn chúng ta sẽ được nhận lời (cc. 9-10). Cho tất cả những ai xin bất cứ điều gì, Thiên Chúa sẽ ban Thánh Thần. Ân ban này độc lập với nội dung của từng lời cầu nguyện. Thánh Thần là Thần Khí của Thiên Chúa, Thần Khí liên kết chúng ta với Thiên Chúa. Ngài là Thần Khí làm cho chúng ta thành con Thiên Chúa và giúp chúng ta có thể kêu lên “Cha ơi!”.
+ Kết luận
Bởi vì Người biết và luôn luôn chiêm ngưỡng Thiên Chúa, bởi vì Người cũng biết ý nghĩa và cùng đích của đời sống chúng ta, Đức Giêsu có thể dạy chúng ta cầu nguyện cùng Thiên Chúa hơn bất cứ ai trước Người. Trong Kinh Lạy Cha, Đức Giêsu cung cấp cho chúng ta không những một bản văn kinh nguyện, mà còn cho một kiểu mẫu về các nội dung của lời cầu nguyện của chúng ta. Chúng ta được gọi Thiên Chúa là “Cha”: tương quan của Thiên Chúa với chúng ta là như tương quan của một người cha với các con mình. Và chúng ta hoàn toàn có thể tin cậy vào lòng nhân lành của Thiên Chúa. Trong lời cầu nguyện, chúng ta chứng tỏ mình có một hình ảnh về Thiên Chúa và cảm nghiệm thế nào về Ngài. Trong lời cầu nguyện, chúng ta thể hiện tương quan của chúng ta với Thiên Chúa.
5.- Gợi ý suy niệm
GIÁO HUẤN VÀ CẦU NGUYỆN
Từ lời kinh ngợi khen Chúa Giêsu dâng lên Cha (10,21-22), chương 10 đã minh hoạ, bằng nhiều cách khác nhau, thái độ mà người môn đệ phải có đối với Thiên Chúa. Sự kiện Chúa Giêsu cầu nguyện, rất thường được Luca nhắc đến, ở đây được dùng làm điểm xuất phát cho một lời yêu cầu. Giáo huấn Chúa Giêsu ban gồm ba phần: Kinh Lạy Cha, dụ ngôn người bạn quấy rầy và việc áp dụng dụ ngôn.
Đây không phải là vấn đề cầu nguyện nói chung, cũng không phải cách thức cầu nguyện để lắng nghe một Đấng khác. Một môn đệ xin Chúa Giêsu một bản kinh để thêm vào những kinh chính thức của đời sống Do Thái và là lời kinh đặc điểm của nhóm các môn đệ giống như kinh mà chúng ta không biết rõ- vị Tẩy Giả dùng trong nhóm của ông. Ở Qumran, Luật Cộng đoàn của những người Esséniens có một thánh thi dùng cho nghi thức đón nhận những phần tử mới, vào dịp lễ Ngũ tuần (1QS, cột XI, hàng 2-15).
Bản Kinh Lạy Cha mà Luca có được ngắn hơn Mt 6,9-13; Nó gồm một lời khẩn cầu, hai ước mong và ba lời thỉnh nguyện. Trước hết, người môn đệ được mời gọi, được quyền xưng hô với Thiên Chúa bằng cách dùng cũng một ngôn ngữ mà Chúa Giêsu dùng trong lời nguyện của Ngài: “Lạy Cha” (x. 10,21); quan hệ thẳm sâu giữa họ với Chúa phải chăng đã không được mặc khải rồi sao (x.10,22)? Tiếp theo là hai lời ước nguyện cũng có trong kinh nguyện Do Thái Qaddish: sự hiển thánh tôn Danh (xin Thiên Chúa đích thân can thiệp và tự mặc khải như Thiên Chúa cách tỏ tường, xin Ngài tỏ mình ra!) và việc Vương quốc đến (xin Chúa thân hành đến và bày tỏ sự hiện diện cao cả và hoạt động của Ngài!). Dưới hai hình thức khác nhau, cũng một lời khẩn cầu thống thiết được nói lên: “Lạy Cha, xin hãy đến!”; Thiên Chúa là “đối tượng” duy nhất của lời cầu nguyện dâng lên Thiên Chúa (c.2).
Chỉ trong giai đoạn hai các môn đệ mới nêu lên ba lời thỉnh cầu cho họ, với tư cách là cộng đoàn (việc dùng tiếng chúng con, các câu 3-4). Thỉnh cầu thứ nhất nói đến lương thực cho họ cần hằng ngày để sống trên đời. Ở đây có một ám chỉ về manna, thứ bánh từ trời đã nuôi dân Chúa trong cuộc xuất hành và, theo như sự mong đợi của người Do Thái, sẽ lại được ban làm thực phẩm cho cộng đoàn của thời đại cuối cùng. Trong Tin Mừng Luca, bánh sự sống này, các tín hữu được mời gọi kêu xin cho mỗi ngày. Thỉnh cầu thứ hai, xin Chúa đoái thương tha tội chúng ta! Đó là điều tuyệt đối cần thiết để chúng ta có thể gặp gỡ Chúa đang đến, mà không bị chết ngay vì sự thánh thiện chói sáng của Ngài. Sự tha thứ của Chúa là một hồng ân nhưng không mà chẳng bao giờ có ai xứng đáng lãnh nhận; nhưng ít ra phải có khả năng để đón nhận. Mà từ chối tha thứ cho kẻ khác, phải chăng không là nguy cơ làm cho thiếu khả năng đón nhận được ơn Chúa tha tội? Một lời xin cuối cùng xin cho chúng ta khỏi bị cám dỗ chối bỏ, khước từ Chúa Giêsu Kitô (x. 8,12; 22,40).
Điều đáng ngạc nhiên nhất trong kinh Lạy Cha là: Khi đặt tất cả chú ý về Cha như trung tâm, nó không nói một tiếng về Con mà Cha đã sai đến. Không nói gì đến Chúa Kitô ở đây là một trong những điều có ý nghĩa hơn cả: tránh bỏ hết mọi quan tâm đến bản thân, Chúa Giêsu luôn hướng nhìn về Cha. Chúng ta cũng để ý một sự thinh lặng khác nữa. Trong khi mà lời kinh có tính phổ quát nhất trong các kinh nguyện của người Do Thái, kinh Qaddish, nhắc đến “nhà Israel”, đôi khi “thành Giêrusalem”, “Thánh điện” và “Đất” thánh, thì ở đây không có một ghi chú nào về địa lý. Các nơi Thánh không còn hiện hữu nữa; mọi dân tộc có đọc kinh này.
Qua dụ ngôn này thánh sử đưa ra ánh sáng một khía cạnh của kinh Lạy Cha: đó là một lời cầu nguyện xin ơn. Mà trong lĩnh vực này, phải biết tỏ ra kiên trì đối với Thiên Chúa, điều này rất quan trọng dưới cặp mắt của Luca, và ông sẽ lặp lại giáo huấn này ở 18,1tt bằng một dụ ngôn khác.
Vấn nạn ban đầu bắt buộc thính giả phải có một phương diện cá nhân, trong khi chính Chúa Giêsu sẽ nói rõ rệt về việc áp dụng dụ ngôn (xc.8). Toàn bộ trình thuật cho thấy rõ những tương quan của con người đối với Thiên Chúa trong lời cầu nguyện. Sẽ sai lầm khi tách rời từng yếu tố và, chẳng hạn tưởng tượng rằng lời cầu nguyện của con người thức tỉnh Thiên Chúa hoặc là Thiên Chúa chỉ đáp lại để khỏi bị quấy rầy. Dụ ngôn nói đến ba nhân vật. Anh chàng lì lợm có hai người bạn không quen biết nhau. Nếu anh ta đến gõ cửa nhà một trong hai người vào giữa đêm tối để mượn bánh, có nghĩa là người kia ở xa vừa đến nhà anh ta bất ngờ và xin tạm trú. Người lữ hành này đi đường vào buổi chiều và một phần ban đêm để tránh cái nóng ban ngày. Hãy để ý: anh bạn mà người đang ngủ bị đánh thức dậy muốn đuổi khéo không xin gì cho anh ta cả, và chính anh ta mới là kẻ bị người khác đến bất ngờ gây rắc rối nhất! Anh ta kêu gọi nhân danh tình bạn để được ba ổ bánh, nhưng người kia từ chối giúp đỡ anh ta, không gọi anh ta là”bạn” và không muốn làm cho con cái phải thức giấc. Kết luận của Chúa Giêsu đi từ chính việc từ chối hành động vì tình bạn, hơn một lý do khác khiến người đang ngủ cho điều mà người kia cần: đó là tính cách lì lợm của kẻ đi xin. Sự kiên trì đã được trả giá.
Chúa Giêsu tiếp tục giáo huấn một cách long trọng (c.9a) bằng cách mở rộng phạm vi của cầu nguyện kể trong dụ ngôn. Giáo huấn ở đây được lấy từ Nguồn các lời. Ngài mời gọi các môn đệ cầu nguyện (c.8) khởi đi từ một giả định về sự khôn ngoan nhân loại (c.9). “Tìm” là một từ được dùng trong Kinh Thánh để gợi lên sự cầu nguyện (x. Thánh vịnh 24,6; 27,8). Như cách làm của một hiền nhân, Chúa Giêsu gợi lên ba hình thức cầu xin: xin, tìm, gõ rồi kết quả của từng việc đó. Tuy nhiên Ngài không nhấn mạnh đến sự kiên trì của con người nhưng đến hồng ân của Thiên Chúa; ba động từ ở thể thụ động quy chiếu về hành động của Chúa: thì sẽ được ban cho anh em (chứ không phải “anh em sẽ nhận được”) thì sẽ mở cho (hai lần), con người phải tin cậy và Đấng cho và mở.
Hai minh hoạ được đưa ra để biện minh cho một lòng tin cậy như thế (c. 11-12). Như trong dụ ngôn, một câu hỏi hùng biện được dùng để trực tiếp chất vấn thính giả: Người cha nào trong anh em…? Từ liên hệ giữa bạn hữu mà dụ ngôn vừa mô tả Chúa Giêsu nói tới liên kết giữa một người cha với đứa con của ông. Cái lý luận tiên thiên, dẫn từ một cách cư xử mâu thuẫn với cách cư xử của kẻ có ý thức, dựa vào giống nhau bề ngoài giữa con rắn và và con cá, giữa con bò cạp và quả trứng. Và lại không có người cha nào trên đời làm con mình thất vọng khi chơi cái trò dối gạt đó. Phải chăng đó không là kinh nghiệm thường ngày của từng người?
Phải rút ra bài học (c.13) bằng cách giải thích việc so sánh giữa Cha trên trời và một người cha trần thế. Không thể có mức độ giống nhau giữa lòng nhân từ của Thiên Chúa và lòng tốt của cha mẹ trần gian. Như vậy, ta phải kết luận rằng những hồng ân của Ngài vô cùng cao quý hơn. Trong khi Nguồn các lời, mà thánh sử dùng cho các câu 9-13, khẳng định: “Chúa sẽ ban những của tốt lành cho những kẻ xin Người” (Mt 7,11), thì hồng ân tối hảo mà Chúa Cha ban cho con cái Ngài được Luca xác định rõ: đấy là Thánh Thần. Thực ra, Chúa Thánh Thần sẽ xuất hiện trong Công vụ, như một hồng ân đặc biệt của việc Thiên Chúa vào thời cuối cùng (Cv 2,33-38).
Có một lần Đức Giêsu cầu nguyện ở nơi kia. Người cầu nguyện xong, thì có một người trong nhóm môn đệ nói với Người: “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gioan đã dạy môn đệ của ông
Khi nhìn thấy Người cầu nguyện… họ chờ đợi bên Người, và không quấy rầy Người. Phần chúng ta, chúng ta không có cái may mắn nhìn thấy Đức Giêsu đang cầu nguyện. Tuy nhiên chúng ta có thể thử làm cho trí tưởng tượng của chúng ta hoạt động… và, bằng tâm trí, nhìn ngắm Đức Giêsu đang cầu nguyện. Đức Giêsu thường cầu nguyện lâu! Người là “vị thầy của sự cầu nguyện” không chỉ vì Người cho những lời khuyên mà còn vì Người nêu gương cầu nguyện.
Ngày nay, có một sự phục hồi việc cầu nguyện ở mức độ nào đó. Tuy nhiên, phần lớn con người ngày nay, nam cũng như nữ đều có khó khăn khi cầu nguyện. Vô số những lời phê phán của tâm thức hiện tại ảnh hưởng đến tất cả chúng ta một cách vô thức: cầu nguyện là đào nhiệm; đừng xin Chúa làm thay cho bạn, bạn hãy xắn tay áo mình lên… cầu nguyện là một hành động ma thuật của những người sơ khai không biết những quy luật chính xác của tự nhiên… cầu nguyện là một sự tha hoá; bạn hãy đảm nhận tầm vóc của con người… không Chúa, không Thầy… bạn hãy gạt bỏ những điều mê tín tối tăm…
Lạy Đức Giêsu, xin dạy cho chúng con biết cầu nguyện? Xin dạy cho chúng con biết rằng sự cầu nguyện Kitô giáo không phải là bất cứ sự cầu nguyện nào. Chúng con phải thanh luyện sự cầu nguyện của chúng con và học cách cầu nguyện.
Người bảo các ông: “Khi cầu nguyện, anh em hãy nói: “Lạy Cha…”
Dân Do Thái đã gọi Thiên Chúa bằng “Cha” như nhiều tôn giáo khác (Hô sê 11,3; Giêrêmia 3,19; Isaia 63,16; Khôn Ngoan 5,5 v.v…).
Tuy nhiên Đức Giêsu đã đổi mới từ này, khi Người dám thưa cùng Thiên Chúa: “Abba”! “ba ơi”.., từ ngữ chỉ sự thân mật mà trước Người ít khi người ta dùng đến. Chính khi các môn đệ nhận thức được kinh nghiệm độc nhất của Đức Giêsu, họ mới khẳng định Người là “Con Thiên Chúa” trong một ý nghĩa hoàn toàn đặc biệt. Khi chúng ta lặp lại lời “cầu nguyện của Đức Giêsu, đến lượt mình, chúng ta dám nghĩ rằng “Chúa Cha yêu thương chúng ta bằng chính tình yêu mà Người yêu mến Con Một của Người” (Gioan 20,17).
Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển…
Trong Kinh Thánh, “danh” là để biểu hiện ngôi vị…Sự “thánh thiện” là điều làm cho Thiên Chúa, bởi sự siêu việt lửa tình yêu và quyền năng, trở thành Đấng Hoàn Toàn Khác (Tha Thể Tuyệt Đối).
Vậy trước khi nói với Thiên Chúa các nhu cầu của chúng ta, chúng ta phải theo Đức Giêsu cầu nguyện tôn vinh chính Chúa Cha. Không có gì là ma thuật, tha hoá trong lời cầu nguyện hoàn toàn vô tư và vô vị lợi này.
“Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển” có thể được diễn tả bởi: Xin Cha hãy thể hiền sự toàn năng của Cha là lòng nhân hậu vô cùng, tình phụ tử vô biên… xin Cha chỉ cho chúng con biết Cha là Chúa Cha… vô cùng và tuyệt đối là “Cha”… một người Cha hoàn toàn khác chúng con, cha hơn chúng con vô cùng. Nếu người ta có thể đặt vào một tấm lòng tình yêu thương vốn đã tuyệt vời của tất cả các ông bà và bà má của trần gian, thì người ta chỉ có được một phần nhỏ nhoi và thấp kém của Chúa Cha “là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất” (Ep 3,15).
Triều Đại Cha mau đến…
Lời cầu xin thứ hai hầu như đồng nghĩa với lời cầu xin thứ nhất. Triều đại Cha mau đến. Xin Thiên Chúa hoạt động bên trong mọi tạo vật. Người vốn là Tình Yêu (1 Ga4,7 đến 21) Xin Tình Yêu lên ngôi vua! Xin Tình Yêu ngự trị!
Chủ đề “Triều đại của Thiên Chúa” hiện diện thường xuyên trong Cựu ước! Sử biên niên 16,30-33; Tôbia 13,1, Thánh. Vịnh 21,28-28.,67,33-36-97-102,19; Isaia 11,1-9, – 33,17-24 – 54,7-12; Đanien 8,23): Trong tư tưởng của ít-ra-en các vua trần thế chỉ là các “đại diện”, vương quyền thuộc về một mình Thiên Chúa. Và khi tuân thủ Luật của Thiên Chúa mà ít-ra-en làm cho Thiên Chúa thực sự trị vì.
Vào thời của Đức Giêsu đã từ lâu, không còn vua ở Giêrusalem như vào thời của vua Đavít hoặc Salômôn. Như thế, do sự xâm chiếm của nước ngoài, sự chờ.đợi. Đấng Mêsia đã nổi lên mạnh mẽ và được diễn tả trong kinh cầu Qaddish của người Do Thái: xin làm cho Danh cao cả của Người được thánh hoá trong thế gian mà Người đã tạo dựng theo ý chí của Người, xin Người làm cho Triều Đại Người được hiển trị và sự giải thoát được nẩy mầm, Đấng Mêsia của Người đến gần”.
Đức Giêsu công bố rằng Triều Đại của Thiên Chúa đến rất gần nó đã hình thành ở đó rồi, nhưng không phải một cách huy hoàng… như một ít men, như một hạt giống vùi sâu trong lòng người (Mt 3,2-4-17-10,7 – 13,24-31,36-50).
Vì thế rõ ràng chúng ta không thể thực hiện lời cầu nguyện ấy mà chính chúng ta không làm việc cho triều đại ấy lớn lên trong sự chắc chắn của Ngày cánh chung, ngày mà dự án của Chúa Cha sẽ thể hiện sử thành công trọn vẹn, sự hoàn tất.
Ở đây chúng ta hãy ghi nhận ràng Luca không thuật lại cho chúng ta “Kinh Lạy Cha” được toàn thể Giáo Hội đọc và đó là Kinh Lạy Cha trong Tin Mừng của Mát-thêu. Có lẽ Luca đã rút gọn lại, bỏ bớt hai lời xin (ý Cha thể hiện và… nhưng cứu chúng con khói mọi sự dữ). Không một thánh sử nào quan niệm phải theo sát từng lời của Đức Giêsu mà truyền thống nhận được. Các ngài quan niệm Kinh Lạy Cha như một định hướng tổng quát về sự cầu nguyện hơn là một định thức bất biến. Đức Giêsu không xơ cứng điều gì, không biến điều gì thành nghi thức. Và Giáo Hội, ngay từ những thời kỳ đầu, đã luôn luôn sử dụng nhiều công thức khác nhau trong phụng vụ… trên nền tảng một sự thống nhất chung.
Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy
Trước hết, sau khi đã lấy các “dự án của Chúa Cha” làm dự án của chúng ta giờ đây chúng ta có thể trình bày những ước muốn của chúng ta. Đức Giêsu gợi ý cho chúng ta ba điều: lương thực… sự tha thứ… sự tự do đối diện với cái chết…
Ở đây cũng vậy, Luca đã thay đổi bản văn của Mát-thêu. Vị thánh sử này nói: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày”. Luca có lẽ sống với một cộng đoàn Kitô hữu quá nghèo khổ nên đã thêm vào một sắc thái, và nhấn mạnh: “Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy… “ Lời cầu nguyện này rất khiêm nhường, mặc dù không có về gì nhưng đã cáo giác tâm thức của những Người giàu có chúng ta. Đức Giêsu không ngừng nhấn mạnh để chúng ta không nên lo lắng quá về ngày mai (Lc 12,22-32; Mt 6,34). Trong cuộc xuất hành qua sa mạc, dân Chúa không thể tích trữ lương thực man-na trước cho nhiều ngày (Xh 16,4). Từ ngữ Hy Lạp “épiousios” mà người ta đã dịch là ‘“mà chúng con cần” chỉ được dùng ở đây trong toàn bộ Kính Thánh. Nó nhắc đến một từ Do Thái, cũng hiếm khi gặp, được dùng trong sách Châm ngôn: 30,8: “Xin đừng để con nghèo túng, cũng đừng cho con giàu có; xin cho con cơm bánh cần dùng!”.
Lời cầu nguyện này khó thực hiện trong những xã hội dư thừa của chúng ta.
Lời cầu nguyện này là của mọi người chỉ sống ngày qua ngày. Nhưng từ “chúng con” mà chúng ta đọc, tiếp nối Đức Giêsu, rõ ràng phải buộc chúng ta bao gồm trong kinh nguyện này mọi người đang thiếu thốn lương thực mỗi ngày. Tôi không có quyền đọc “Kinh Lạy Cha” chỉ cho tôi: Xin Cha cho chúng con lương thực… Và nếu lời cầu nguyện của tôi chân thật, thì nó phải khiến tôi chia sẻ lương thực với những người đang đói.
Xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con
So với công thức của Mát-thêu, Luca đã xác định từ “lỗi” khi dịch ra bang từ “tội”: Thật vậy, vì tội là trở ngại lớn nhất cho Triều Đại của Thiên Chúa cũng như cho sự chia sẻ lương thực trong tình huynh đệ? Hơn thế nữa, Luca đã thêm từ “tất cả”, để chỉ sự phổ quát của sự tha thứ ấy mà chúng ta thực hiện với những người khác nếu chính chúng ta muốn được Thiên Chúa tha thứ.
Ôi! sự tha thứ ấy là điều chủ yếu của các Kitô hữu vì Đức Giêsu thường xuyên nói về điều đó (Lc 23,34 – 6,36; Mt 11,19-26,28 – 6,14-18 – 22~5; Mc 1.1.,25; Gc 2,13). Niềm vui mà Thiên Chúa cảm thấy khi tha thứ cho kẻ tội lỗi như thế phải trở thành viên đá thử vàng mọi hành động của Kitô hữu. Một cô bé đã nói với thầy dạy giáo lý của cô: Một Kitô hữu chính là một người tha thứ. Trước khi đi xa hơn trong kinh nguyện của tôi… tôi dừng lại một chốc để tôi thật lòng tha thứ cho “tất cả những người đã có lỗi với tôi”. Và chúng ta đừng bao giờ nói rằng sự cầu nguyện là ma thuật, vụ lợi, đào nhiệm. Đúng ra nó là một sự dấn thân quảng đại, một yêu sách phi thường, gần như siêu phàm.
Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ
Nhiều nhà chú giải nghĩ rằng đây là sự cám dỗ lớn! Cơn cám dỗ rất đáng sợ ấy: là “đánh mất Đức tin”, “bỏ rời Đức Giêsu”. Thử thách to lớn ấy đã khiến Đức Giêsu phải nói: “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18,8). Trong khi kể lại cơn hấp hối của Đức Giêsu trong vườn Ghếtsêmani, Tin Mừng của Luca đã hai lần nhắc lại lời Đức Giêsu khuyến cáo các bạn hữu của Người (22,40 và 22,46): Hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dữ… Phải, cơn cám dỗ lớn nhất chính là bỏ rơi Đức Giêsu trong dụ ngôn người gieo hạt giống, Đức Giêsu nhắc chúng ta phải cảnh giác: Có những người, tin trong một thời gian nào đó và đến giờ thử thách, và bị cám dỗ, họ đã chồi bỏ đức tin (Lc 8,13) Vậy mỗi ngày chúng ta phải chiến đấu chống lại sự ác, để chinh phục tự do… và khiêm nhường xin Chúa ban cho ân sủng không bị “khuất phục”, bị trói buộc và tha hoá!
Người còn nói với các ông: “Ai trong anh em có một người bạn, và nửa đêm đến nhà người bạn ấy mà nói: `Bạn ơi, cho tôi vay ba cái bánh, vì tôi có anh bạn lỡ đường ghé lại nhà, và tôi không có gì dọn cho anh ta ăn cả’; mà người kia từ trong nhà lại đáp: `Xin anh đừng quấy rầy tôi: cửa đã đóng rồi, các cháu lại ngủ cùng giường với tôi, tôi không thể dậy lấy bánh cho anh được.’? Thầy nói cho anh em biết: dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn, thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh ta cần, vì anh ta cứ lì ra đó. “Thế nên Thầy bảo anh em: anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho. Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó? Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp? Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?”
Đây là kho tàng duy nhất mà chúng ta phải xin Thiên Chúa: Thần Khí của Người!
XIN DẠY CHÚNG CON CẦU NGUYỆN (11, 1-4)
Rapbi Do Thái thường dạy môn đệ một bài cầu nguyện đơn sơ. Gioan đã làm như thế cho môn đệ của ông và bây giờ các môn đệ của Chúa Giêsu cũng đến xin thầy mình dạy cầu nguyện. Đây là bài cầu nguyện Chúa Giêsu dạy, được Luca ghi lại. Bài này ngắn hơn bài của Matthêu nhưng cũng đầy đủ những điều mà chúng ta cần biết phải cầu nguyện thế nào và phải cầu nguyện gì.
Có người nói: Bài cầu nguyện của Chúa có hai lợi ích lớn cho giờ cầu nguyện riêng của chúng ta. Nếu chúng ta dùng để bắt đầu giờ cầu nguyện thì nó khơi dậy những ước muốn tốt đẹp giúp chúng ta cầu nguyện một cách xứng đáng. Nếu chúng ta dùng để kết thúc giờ cầu nguyện thì nó tóm tắt mọi điều chúng ta phải cầu xin Chúa.
CẦU XIN THÌ SẼ ĐƯỢC (11, 5-13)
Trong xứ Palestine, khách bộ hành thường lên đường vào buổi chiều hầu tránh cái nóng bức buổi trưa. Trong câu chuyện Chúa Giêsu kể, có một người khách như vậy đã tới nhà bạn mình lúc nửa đêm. Bên phương Đông, tiếp khách là một bổn phận thiêng liêng. Chỉ cho khách ăn vừa đủ no thôi thì không được, cần cho khách ăn dư dật. Trong các làng quê, người ta làm bánh mì tại nhà và chỉ nướng bánh đủ ăn nội trong một ngày, vì nếu giữ lại, bánh sẽ bị cũ đi và không ai muốn ăn.
Vị khách nói trên đã đến muộn quá khiến chủ nhà bối rối, vì thức ăn đã hết, chủ nhà không thể làm tròn bổn phận thiêng liêng là tiếp khách. Và dù đêm đã khuya, chủ nhà cũng đã đi tới nhà bạn vay bánh. Cửa nhà người bạn đã đóng. Bên phương Đông, không ai muốn gõ cửa nhà đã đóng, trừ khi cấp bách lắm. Buổi sáng, cửa nhà được mở ra và cứ mở suốt ngày, nhưng nếu cửa đóng lại, đó là dấu hiệu chủ nhà không muốn bị quấy rầy. Nhưng người đi vay bánh đã không e ngại, ông gõ cửa và cứ gõ mãi.
Căn nhà nghèo ở xứ Palestine chỉ có một căn phòng với cửa sổ nhỏ. Nếu nhà bằng đất phủ che khô và cành khô. Căn phòng chia làm hai phần, không phải bằng vách ngăn mà bằng đất. Hai phần ba phòng thì nền đất thấp, phần ba kia thì nền cao hơn một chút. Trên phần cao đó có bếp than ủ cháy suốt đêm, và cả gia đình nằm ngủ quanh bếp đó, họ không nằm giường cao, nhưng trên những tấm chiếu. Các gia đình thường đông người và nằm cạnh nhau cho ấm. Khi một người thức dậy thì tất nhiên làm phiền cả gia đình. Hơn nữa, tại làng quê, buổi tối người ta đem gia súc, gà, dê vào trong nhà. Không lạ gì, trong cảnh đó, một người đã đi ngủ thì không muốn dậy nữa. Không lạ gì, trong cảnh đó, người vay bánh quyết tâm cứ gõ mãi, “gõ hoài không biết xấu hổ” –đó là ý nghĩa của từ Hy Lạp được dùng- cho tới khi chủ nhà đành dậy để cho người kia mọi nhu cầu, dù sao cả gia đình cũng bị quấy rối.
Chúa Giêsu nói: “Câu chuyện này dạy các ngươi về cầu nguyện”. Bài học trong dụ ngôn này không phải dạy chúng ta cứ mãi mãi nài xin, không phải chúng ta cứ phải đập vào cửa cho đến khi ép buộc được Chúa cực chẳng đã, đành ban cho chúng ta điều chúng ta muốn, cho đến khi chúng ta cưỡng bách được Chúa trả lời chúng ta. Một dụ ngôn nói nôm na là một điều gì đó đặt bên cạnh. Nó cho ta thấy sự tương đồng hay tương phản giữa hai sự việc. Chúa Giêsu ngụ ý như sau: “Nếu một người chủ nhà khó tính và thiếu thiện chí, mà cuối cùng có thể bị cưỡng ép bởi một quyết tâm của người bạn trì chí, để phải cho người đó mọi điều mong muốn, huống chi Chúa là Cha Từ Ái sẽ tiếp trợ mọi nhu cầu cho con cái Ngài hơn biết dường nào!” Chúa Giêsu phán “Nếu các ngươi vốn là xấu mà còn biết mình có bổn phận tiếp trợ nhu cầu cho con cái, huống chi Thiên Chúa”.
Điều này không làm chúng ta giảm bớt hăng say và sốt sắng cầu nguyện. Dù sao chúng ta chỉ có thể tỏ lòng ước muốn thành thực bởi sốt sắng và kiên trì cầu nguyện. Điều đó không có nghĩa là chúng ta phải giành giựt các ơn huệ từ tay một Thiên Chúa không thiện chí, nhưng chúng ta đến với một Đấng biết rõ mọi nhu cầu của chúng ta hơn chính chúng ta và Ngài là Đấng có lòng yêu thương và rộng rãi đối với chúng ta. Nếu chúng ta không nhận được điều mình xin, không phải vì Chúa không sẵn lòng ban ơn cho ta, nhưng vì Ngài có ơn phúc tốt hơn để dành cho chúng ta. Không hề có vấn đề mà chúng ta gọi là lời-cầu-nguyện-không-được-nhậm. Sự trả lời của Chúa có thể không đúng theo điều chúng ta ước muốn hoặc trông đợi. Dù Chúa từ chối điều mong muốn của ta, thì đó vẫn là sự trả lời bởi tình thương và khôn ngoan của chính Thiên Chúa là Cha Từ Ái.
KINH LẠY CHA VÀ NHỮNG YẾU TỐ CỦA LỜI CẦU NGUYỆN
Ý CHÍNH:
Theo đề nghị của môn đệ, Đức Giêsu đã dạy các ông Kinh Lạy Cha và 3 lời khuyên về sự cầu nguyện như sau: Một là lời cầu nguyện phải vừa tâm tình lại vừa ngắn gọn phong phú. Hai là phải kiên trì cầu xin. Ba là phải vững tâm và phó thác cho Chúa quan phòng định liệu.
CHÚ THÍCH:
– C 1-2a: + Có một lần Đức Giêsu cầu nguyện ở nơi kia: Thánh Mat-thêu đặt Kinh Lạy Cha trong khung cảnh Bài giảng trên núi” (x. Mt 6,5-15). Còn ở đây thánh Lu-ca không nói về thời gian và nơi chốn của Kinh Lạy Cha, mà chỉ cho thấy có liên quan giữa gương cầu nguyện của Đức Giêsu với việc Người dạy môn đệ cầu nguyện.
– C 2b-4: + Lạy Cha: Lời xưng hô mở đầu đơn giản hơn trong Tin mừng Mát-thêu. Khi gọi Thiên Chúa là Cha, Đức Giêsu muốn dạy môn đệ khẩn cầu với Thiên Chúa như với một người Cha rất gần gũi thân thương. + Xin làm cho Danh thánh Cha vinh hiển: Xin cho Danh Cha được nhìn nhận là thánh, vì Cha là Đấng Thánh. Đây là lời ước nguyện cho hết mọi người được nhận biết và tôn thờ Thiên Chúa. + Triều đại Cha mau đến: Triều đại ám chỉ Hội thánh trần thế hữu hình. Ở đây xin cho Hội thánh được lan truyền khắp nơi, cho Vương quốc của Thiên Chúa được mọi người đón nhận.- Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy: Xin Chúa ban thực phẩm cần dùng hằng ngày. Của ăn nuôi thể xác là cơm ăn áo mặc và của nuôi linh hồn là Lời Chúa, Mình Thánh Chúa và Thánh Ý Chúa (x Ga 6,34). + Xin tha tội cho chúng con: Lu-ca đổi chữ “lỗi” trong Mát-thêu (x. Mt 6,12) thành chữ “tội”. Hai từ “tội, lỗi” tiếng Hy lạp còn có nghĩa là “nợ”. Tội là trở ngại lớn nhất cho Triều đại của Thiên Chúa cũng như cho sự chia sẻ yêu thương, nên cần phải xin Cha tha tội. + Vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con: Tha thứ cho người mắc lỗi với mình là điều kiện để xứng đáng được Thiên Chúa tha thứ tội lỗi cho mình (x Lc 23,34; Mt 6,14; Mc 11,25). + Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ: Cám dỗ nguy hiểm nhất của ma quỷ là xúi người ta chối bỏ đức tin. Do đó Đức Giêsu kêu gọi “Hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ” (Lc 22,40).
– C 5-8: + Người còn nói với các ông: “Ai trong anh em có một người bạn.”..: Đức Giêsu dùng dụ ngôn về người bạn quấy rầy để dạy môn đệ phải kiên nhẫn nài xin và đừng bao giờ ngã lòng khi xin mà chưa nhận được. Kiên trì xin đi xin lại là điều kiện để lời cầu của ta được Thiên Chúa chấp nhận. Thiên Chúa sẽ không ban ơn để khỏi bị quấy rầy giống như người chủ nhà trong bài dụ ngôn. Khi không ban ngay điều ta xin là Người để ta có dịp tỏ ra kiên nhẫn tin tưởng cậy trông và phó thác hơn vào Người. + Vì thể diện: Câu chuyện dụ ngôn xoay quanh ba nhân vật như sau: Nhân dịp có một anh bạn A lỡ đường ghé lại trọ tại nhà của bạn mình là B. Anh B liền chạy sang nhà anh C cũng là bạn để xin vay ba cái bánh về nhà đãi khách. Anh C khi ấy đã vào giường ngủ rồi và rất ngại phải ra khỏi giường lấy bánh cho bạn mình. Nhưng vì anh B cứ kêu nài mãi nên cuối cùng anh C đành phải ra khỏi giường thỏa mãn tất cả những gì anh B cần, với lý do: dù không phải do tình thân hữu thúc đẩy thì cũng vì sợ sẽ bị mất thể diện, sợ bị mang tiếng là ích kỷ vì đã từ chối giúp đỡ bạn bè trong lúc khó khăn. Từ đó Đức Giêsu muốn các môn đệ nhớ đến Thiên Chúa là Cha. Người sẽ ban điều tốt lành và cần thiết là ơn thánh hóa của Thánh Thần, cho những kẻ thành khẩn và kiên trì cầu xin Người.
– C 9-13: + Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho…: Lời cầu nguyện là điều kiện cần để được Chúa nhậm lời: Thiên Chúa sẽ ban ơn cứu độ cho ai xin, ban đức tin cho những ai đi tìm, và sẵn sàng rộng mở Nước Trời cho những ai kiên trì gõ cửa nhà Người. + Ai trong anh em là một người cha mà khi con xin cá, lại lấy rắn thay vì cá mà cho nó?: Đức Giêsu cho biết Thiên Chúa sẽ chấp nhận lời cầu nguyện của chúng ta, vì Người là Cha nhân hậu và hay thương xót hơn các người cha thế gian bội phần. + Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha trên trời: Đức Giêsu so sánh giữa tình thương có giới hạn của các bậc cha mẹ thế gian vốn gian ác, với tình thương vô biên của Thiên Chúa là Cha thánh thiện và đầy từ tâm. + Người sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người: Ơn Thiên Chúa ban cho những kẻ kêu xin Người là “Thánh Thần”, tương đương với “những của tốt lành” trong Mát-thêu (Mt 7,11). Chính “Thánh Thần làm cho ta nên nghĩa tử, khiến chúng ta được kêu lên “Áp-ba! Cha ơi!” (Rm 8,15).
CÂU HỎI: 1) Dựa theo lời Đức Giêsu dạy trong kinh Lạy Cha, bạn hãy cho biết: Cầu nguyện là gì? Phải cầu nguyện với ai và cầu khi nào? Nên cầu xin những gì? 2) Có được cầu xin ơn với Đức Mẹ và các thánh không? 3)Trong thực tế có nhiều người không có đức tin chẳng cần cầu xin mà thi cử vẫn đậu, buôn bán vẫn thành công, uống thuốc vẫn khỏi bệnh, gieo trồng đúng thời vụ vẫn bội thu… Đang khi nhiều tín hữu siêng năng cầu khấn mà vẫn không đạt được kết quả như ý. Như vậy phải chăng chẳng có Chúa Mẹ nào hết và cầu nguyện chỉ là một sự mê tín và là điều vô ích?
Có một bác sĩ gốc công giáo, nhưng đã bỏ không cầu nguyện và không đến nhà thờ dự lễ từ năm lên 10. Một hôm bệnh viện của ông ta tiếp nhận một cô bé 8 tuổi mắc bệnh đau ruột thừa cần phải được mổ cấp thời. Trước khi đưa em lên bàn mổ, viên bác sĩ căn dặn em rằng: “Này em, bệnh em cần phải mổ. Bây giờ em sẽ phải uống một liều thuốc mê để thiếp ngủ trong lúc tôi giải phẫu cho em”. Em bé này từ nhỏ đã được bà mẹ có lòng đạo đức huấn luyện thói quen cầu nguyện mỗi tối trước khi đi ngủ. Khi nghe bác sĩ nói sắp phải đi ngủ, em liền xin bác sĩ cho phép và quì gối đọc kinh rồi cuối cùng kết thúc bằng lời cầu nguyện như sau: “Xin Chúa chúc lành cho chú bác sĩ và xin Chúa cho con được mau khỏi bệnh”. Vị bác sĩ giải phẫu cho em thuật lại rằng: chiều hôm đó ông đã cầu nguyện thật sốt sắng, một việc làm mà sau ba mươi năm trời lãng quên, đến nay ông mới bắt đầu làm lại.
1) Cầu nguyện là gì?:
Cầu nguyện là thưa chuyện với Chúa, như tổ phụ A-bra-ham trong bài đọc một hôm nay, hoặc như Đức Giêsu đã dành lúc sáng sớm tinh sương hoặc đêm khuya thanh vắng để đàm đạo với Chúa Cha, Đấng đã sai Người. Cả đời sống của Đức Giêsu là một lời cầu nguyện liên lỉ. Khi làm bất cứ việc gì, hay trước khi quyết định điều gì quan trọng, Đức Giêsu đều cầu nguyện để tìm biết ý Chúa Cha và thi hành. Khi đựoc môn đệ yêu cầu, Đức Giêsu đã dạy các ông cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha hàm chứa những tâm tình như sau:
2) Nội dung lời cầu Chúa dạy trong kinh Lạy Cha:
– Qua lời thưa: “Lạy Cha”, Đức Giêsu dạy môn đệ phải thưa chuyện trực tiếp với Thiên Chúa như đứa con hiếu thảo tâm sự với người cha thân yêu của mình.
– Nội dung lời cầu nguyện Chúa dạy bao gồm bốn tâm tình chính yếu: Một là Chúc tụng tôn vinh Thiên Chúa qua câu: “xin làm cho Danh thánh Cha vinh hiển, Triều đại Cha mau đến” ( Lc 11,2 ). Hai là tâm tình Ăn năn sám hối vì những tội ta đã xúc phạm đến Chúa trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót qua câu: “Xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con” ( Lc 11, 4). Ba là cảm tạ hồng ân Chúa đã thương ban, và bốn là xin các ơn lành hồn xác qua câu: “Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy” ( Lc 11,3), và “xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ” (Lc 11,4).
3) Cần câu nguyện voi lòng cậy trông phó thác:
Sau khi dạy môn đệ kinh Lạy Cha, Đức Giêsu còn khuyên họ phải kiên nhẫn cầu nguyện với lòng cậy trông và hòan tòan tín thác vào tình thưong của Thiên Chúa.
– Kiên nhẫn nài xin: như dụ ngôn hai người bạn mà người này giữa lúc đêm khuya tìm đến nhà người kia yêu cầu được giúp đỡ. Lúc đầu bị chủ nhà từ chối với lý do cả nhà đã ngủ. Nhưng cuối cùng chủ nhà cũng phải trỗi dậy lấy bánh cho người kia để tránh khỏi bị quấy rầy.
– Tín thác vào Chúa: Có những điều chúng ta cầu xin mà xem ra đã không được Chúa đáp ứng. Thực ra Chúa chưa ban là do chúng ta còn thiếu sụu kiên trì và thành tâm. Hoặc Chúa không ban không phải vì không muốn, nhưng có thể Ngài thấy điều đó không có lợi cho ta. Bù lại, Ngài sẽ ban những ơn khác đem lại hạnh phúc đời đời cho ta như lời Đức Giêsu dạy ở cuối bài: ” Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, lại lấy rắn thay vì cá mà cho nó?… Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha trên trời, Người sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người” ( Lc 11,11.13).
4) Áp dụng thực hành:
– Phải làm mọi việc với hết khả năng của mình: Thiên Chúa là Cha chung của mọi người lành kẻ dữ (x Mt 5,45b). Ngài muốn mọi người cộng tác bằng việc tuân theo các quy luật tự nhiên do Ngài sáng tạo là các quy luật tự nhiên như: Phải học hành chăm chỉ mới mong thi đậu, phải uống thuốc đúng liều lượng theo toa bác sĩ mới hy vọng được khỏi bệnh, phải gieo trồng đúng thời vụ và đúng theo kỹ thuật mới hy vọng một mùa gặt bội thu… Trừ ra trong vài trường hợp vì ích lợi thiêng liêng mới được Ngài can thiệp làm phép lạ mà thôi. Do đó chúng ta không được ỷ nại vào tình thương và quyền năng của Chúa để lười biếng làm việc, và chỉ biết xin Chúa ban ơn theo ý riêng mình.
– Phải vừa cầu nguyện vừa vâng theo ý Chúa: Chúng ta vừa phải làm việc vừa phải cầu nguyện, và phó thác kết quả thành bại cho Chúa, noi gưong Đức Giêsu trước giờ chịu khổ nạn đã cầu xin Chúa Cha: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39). Trong kinh Lạy Cha, Đức Giêsu cũng dạy môn đệ cầu nguyện theo ý Chúa Cha: “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Chúng ta cần vâng theo ý Chúa vì chỉ Ngài mới biết điều nào tốt nhất cho ta. Nhiều khi chúng ta xin được trúng số mà không biết tiền bạc đó là rắn độc làm hại linh hồn mình sau này. Nhiều khi chúng ta cầu xin Chúa ban ơn lành mà trái lại chúng ta lại gặp tòan tai ương họan nạn… Nhưng thực ra các tai ương đó chính là thuốc đắng chữa lành thói hư: “thuốc đắng dã tật”. Đó cũng là phương cách Chúa dùng để dạy dỗ chúng ta bỏ đương tội ác để theo con đường thánh thiện đẹp lòng Chúa.
– Phải mở lòng đón nhận Thánh Thần: Cần phải có đức tin chúng ta mới hiểu rằng: khi thành tâm cầu nguyện là ta đã được Chúa nhận lời rồi. Nhưng Chúa thường ban ơn khác với điều ta nghĩ. Phải sau một thời gian, chúng ta mới có thể nhận ra các biến cố kia đều là hồng ân Thánh Thần, được Chúa thương ban để đem lại hạnh phúc đời đời cho chúng ta.
– Lạy Chúa Giêsu. Con xin thú thật là con ít cầu nguyện. Con chưa cảm nghiệm được giá trị của lời cầu nguyện và thường tỏ ra ngần ngại mỗi khi phải đến nhà thờ dự lễ đọc kinh.
– Lạy Chúa. Xin cho con biết noi gương Chúa: luôn sống hiếu thảo với Chúa Cha, năng dành thời gian thưa chuyện với Cha, lắng nghe lời Cha trong Sách Thánh và sẵn sàng vâng theo thánh ý Cha, tránh lợi dụng lòng khoan dung của Cha. Xin cho con luôn sẵn sàng cộng tác cho Nước Cha mau đến. Con xin phó thác cậy trông vào lòng nhân hậu của Cha luôn ban ơn lành hồn xác cho con, nhất là ban Thánh Thần để giúp con đón nhận được hồng ân cứu độ và được hạnh phúc đời đời trong Nước Cha.
Thưa quí vị. Có lẽ mọi người đã được nghe về sự tích thành Sôđôma và Gômôra. Hai thành cổ xưa đứng biểu tượng cho mọi giống tội lỗi. Những người còn tư cách, còn lương tâm chẳng bao giờ muốn đến cư ngụ hoặc tham quan hai thành ấy. Ngày nay muốn nguyền rủa phần đất nào hay thành phố nào người ta so sánh nó với Sôđoma và Gômôra và chúc dữ cho nó bị tàn phá bình địa như hai thành ấy. Có điều lạ là trong bài đọc sách Khở? nguyên hôm nay, Chúa không đòi hỏi hai thành ấy phải xám hối, mặc áo nhặm và rắc tro trên đầu mà chỉ cần ông Abraham tìm ra 10 người công chính. Nếu ông tìm được, toàn dân cư của thành sẽ được tha, thành không bị tàn phá nữa. Liệu những người công chính sống giữa chúng ta có cứu chúng ta khỏi bị tiêu diệt không? Có lẽ là khỏi bàn tay báo oán của Thiên Chúa, nhưng không thể khỏi chính những bàn tay của chúng ta! Những tiếng kêu của những nhà thức thời trên đất nước này có cứu chúng ta khỏi những vô độ về bạo lực, về thù oán giang hồ, về hưởng lạc, về tai họa môi sinh?.Liệu những tiếng dai dẳng của lương tâm mời gọi chúng ta bỏ đường tội lỗi, đường tự hủy để quay về với Thiên Chúa có được mọi người lắng nghe? Một số ít người Do thái sống rải rác trên khắp các đế quốc lúc bấy giờ đã nhận ra mình có nhiệm vụ thức tỉnh mọi người quay về thờ phượng Thiên Chúa. Mặc dù chỉ là thiểu số nhỏ bé, chẳng có ý nghĩa gì trước đại dương mênh mông các dân tộc chung quanh nhưng họ đã là ánh sáng soi chiếu vào bóng tối của một thế giới thờ hàng ngàn thần tượng gỗ đá hoặc thờ chính mình trong các dục vọng thấp hèn.
Như thế thì câu chuyện hôm nay thật là hấp dẫn, Abraham và Sara đã được Thiên Chúa viếng thăm dưới dạng ba người lữ khách (Giavê và 2 người bạn?) Abraham đã tiếp đãi các vị nồng hậu, và sau đó Chúa đã báo cho Sara có con trai trong vòng một năm, mặc dù cả hai đã gìa, qúa tuổi sinh nở. Abraham đã tiễn chân ba vị đi về phía thành Sôdôma, và sau mấy phút suy tư Chúa quyết định cho ông biết chương trình phá hủy thành phố. Abraham can thiệp, cầu xin cho các thành phố, chỉ một vài người công chính là đủ để cứu nguy cho dân chúng trong thành, nhưng chẳng có, thế là thành bị phá hủy, dân cư bị tiêu diệt! Ai sẽ cứu chúng ta, cứu Giáo hội khỏi số phận tương tự?
Khi nghe câu hỏi tự dưng bạn sẽ mỉm cười trả lời: thì còn ai nữa , những người công chính! Nhưng chính xác là ai thì bạn lại chẳng biết. Người Do thái sẽ trả lời rõ cho bạn. Hậu duệ của Abraham. Trong bài đọc thứ nhất Abraham đứng ra can thiệp cho thành Sôđôma, trong bài đọc thứ hai đó là chính Chúa Giêsu. Theo Th.Luca, thì Chúa Giêsu đã cầu nguyện rất nhiều, và cầu nguyện một cách lạ lùng đến độ các tông đồ phấn khởi, xin Chúa dậy cho mình cũng cầu nguyện được như thế.
Tuy nhiên để nắm bắt phần nào cách cầu nguyện của Chúa Giêsu chúng ta hãy trở lại câu chuyện của ông Abraham. Ông đi song đôi với Chúa như một người bạn hữu, mặc cả với Chúa cho dân thành Sôđôma như chúng ta mặc cảmột món hàng giữa chợ và ông đã được nhận lời , Chúa đã nhân nhượng ông chứ không phải ông nhân nhượng Chúa. Cử chỉ can đảm thương lượng của ông làm Chúa mềm lòng và chúng ta thán phục. Chẳng có thần thánh nào trên thế gian này giống như thần thánh của ông Abraham, thân mật và rộng lượng. Ông đứng trước mặt Chúa như một tiên tri, cầu khẩn cho những người công chính khỏi chết và Chúa đã cho gia đình ông sống sót một cách lạ lùng. Bất cứ thần linh nào trên mặt đất cũng phải ngạc nhiên trước cảnh nài nỉ của Abraham.
Chúa Giêsu cũng cầu nguyện như vậy trên con đường Ngài lên Giêrusalem: Ngài đã cầu nguyện liên tục trong mỗi chặng đường đi. Có nhiều kẻ theo Ngài và Ngài không rời xa các môn đệ. Chắc chắn là họ đã từng cầu nguyện theo thói tục Do thái, nhưng nơi Chúa Giêsu họ khám phá ra có cái chi đó đặc biệt, một mối liên hệ thân mật và khăng khít giữa Ngài và Thiên Chúa. Họ mạnh dạn tiến lại:”Xin Thầy dậy chúng con cầu nguyện.”Thánh sử Luca đa thu thập những lời cầu nguyện của Ngài trong một kinh duy nhất:”Lạy Cha chúng con ở trên trời.”. Nhưng ở đây chúng ta thấy khác với kinh của thánh Matthêu? Vậy thì ai đúng ai sai?
Hình như các tác gỉa viết sách tin mừng chẳng để ý mấy đến công thức chính xác của lời kinh, các ngài chú ý nhiều hơn đến tinh thần mà lời kinh chứa đựng. Có lẽ đây là điều họ học được từ Chúa Giêsu. Họ xin Ngài dậy cho họ biết cầu nguyện, chứ không xin dậy cầu nguyện cái chi, cho nên Ngài dậy ngay họ tâm tình cầu nguyện thân mật với Chúa Cha:”Lạy Cha chúng con ở trên trời.”. “Abba” là tiếng của con trẻ gọi cha mình, chẳng còn chi hiếu thảo và thân mật hơn. Ðó là phương thức chúng ta phải cầu nguyện. Abraham cầu nguyện như nói chuyện với một người bạn chí thân. Chúa Giêsu cầu nguyện như thưa gởi với một người cha yêu dấu. Ngài giữ mãi tâm tình này trong suốt cuộc hành trình lên Giêrusalem và ngay cả trên cây thánh gía: Cha ơi, sao Cha bỏ con!
Hằng ngày chúng ta ký thác vào tay cha mẹ để được cơm ăn, áo mặc và chúng ta chẳng bao giờ thất vọng. Hằng ngày người môn đệ Chúa phải tỏ bày sự lệ thuộc và tin tưởng vào Ngài để có bánh ăn. Như thế thì đói khát thế nào được! Chúa chẳng thể thua lòng quảng đại của các bậc cha mẹ nhân loại! Có chăng, là do bởi chúng ta yếu lòng tin cậy, nghi ngờ quyền phép Chúa. Cô Patricia D.Sanchez nói với các thính gỉa của cô thế này:”Bánh này được luôn luôn phân phát và mỗi khi chúng ta xin là chúng ta liên tục tỏ bày sự lệ thuộc của chúng ta vào Chúa để được sống, chúng ta được chúc lành, được nâng đỡ, hôm nay, ngày mai và cho đến muôn đời”. (Cử hành thánh lễ tháng 7 năm 2001).
Có hai dụ ngôn để minh họa cho lời giảng dậy của Chúa Giêsu. Dụ ngôn thứ nhất là người bạn có nhu cầu vào lúc nửa đêm. Ông biểu trưng cho sự kiên trì, bền chí.Chẳng phải rằng chúng ta cần nói cho Chúa biết những nhu cầu của chúng ta. Ngài đã vững trong lời kêu xin. Cầu nguyện là lợi ích cho chúng ta hơn lợi ích cho Chúa. Nếu không kiên trì thì tính nhẹ dạ sẽ đưa chúng ta đến van xin hết ông bụt này đến bà chúa kia, đi lang thang khắp cùng trời đất để thỏa mãn những nhu cầu của mình. Trái với người đàn ông nằm ngủ trên giừơng. Thiên Chúa không hề làm ngơ trước những nhu cầu của chúng ta, người nhậy cảm với những thiếu thốn của con cái Ngài hơn cả các cha mẹ thế gian, vấn đề là cầu nguyện không giống như tắt mở công tắc điện mà phải liên tục kêu xin, gõ cửa để dậy cho mình tính lệ thuộc Thiên Chúa trong hết mọi sự. Bàn tay yêu thương của Ngài sẽ ban phát cho chúng ta những ơn lành chúng ta cần đến. Xin luôn luôn nhớ là Chúa biết phải ban ơn gì và ban lúc nào và như thế là tốt nhất cho chúng ta, không cần phải sai khiến Ngài.
Dụ ngôn thứ hai nói rõ hơn về lòng nhân lành của Chúa. Cha mẹ thế gian không đời nào lấy rắn thay vì con cá, bọ cạp thay vì qủa trứng mà cho con cái khi nó van xin, cũng vậy Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta những ơn lành tốt nhất từ kho tàng tình thương của Ngài. Bà Elizabeth A.Johnson liệt kê ba ơn thiêng chúng ta thường được qua cầu nguyện.
1/. Sự gần gũi với Thiên Chúa. Khi không cầu nguyện chúng ta tưởng tượng Thiên Chúa ngự nơi xa tắp, trên trời xanh hay trên những ngọn núi cao. Thực sự, Ngài ngự nơi tâm hồn chúng ta là chính,Ngài là Thiên Chúa hằng sồng, chúng ta sống ở trong Ngài, hiện hữu ở trong Ngài, ý thức sự hiện diện của Ngài trong tâm hồn.
2/. Thiên Chúa không dửng dưng trước những đau khổ của loài người, Ngài luôn bênh đỡ, ủi an các tù nhân, người bị áp bức, ban cho họ sự tự do nội tại mà không một ai có thể cướp đi được, sự giải cứu của họ chỉ có thể được nơi cánh tay dũng mãnh của TC như dân tộc Israel đã từng kinh nghiệm xưa.
3/. Nhịp cầu liên kết giữa Thiên Chúa với chúng ta. Nhịp cầu thường bị tỗi lỗi, thói hư nết xấu bẻ gẫy, nhưng qua cầu nguyện Chúa Thánh Thần sẽ hàn gắn lại, Ngài ban cho nhân loại lòng thống hối ăn năn, biết nhận lỗi mình mà kêu xin lòng thương xót Chúa. Chúa Thánh Thần sẽ hoạt động giúp chúng ta thắng vượt mọi chia rẽ, mọi nghi nan để đoàn kết nên một trong công bình và bác ái.
Tóm lại, các bài đọc thánh lễ hôm nay nêu lên trước mắt chúng ta những mẫu gương cầu nguyện. Ông Abraham nài nỉ trược nhan Chúa cho thành Sôdôma và Chúa Giêsu dạy các môn đệ Ngài phải cầu nguyện thế nào cho được nhận lời. Ngài bảo đảm với nhân loại có một lời cầu xin luôn được chấp nhận. Ðó là Chúa Thánh Thần. Nếu chúng ta đầy lòng trông cậy mà kêu xin, Chúa Thánh Thần luôn ngự xuống linh hồn, dậy chúng ta biết xin gì, xin thế nào và khi nào vì Ngài chính là một ân huệ luôn được ban phát. Ngài chẳng làm thất vọng một ai. Amen.
(Suy niệm của Huệ Minh)
Tin mừng Lc 11: 1-13: Cầu nguyện là ý thức về tầm chính xác của mình trước mặt Thiên Chúa. Thế mà đối với Thiên Chúa toàn thể vũ trụ nhỏ hơn một giọt nước trong lòng đại dương.
Thiên Chúa luôn yêu thương con người, dù con người không biết Ngài, dù con người có khước từ và phản bội tình yêu của Ngài, Ngài vẫn một mực yêu thương. Đó là tất cả những gì Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta qua cuộc sống của Ngài. Cách cư xử và cái chết của Ngài đã cho chúng ta thấy Thiên Chúa là Cha yêu thương chúng ta.
Đồng thời Chúa Giêsu cũng dạy cho chúng ta cách thức đáp trả tình yêu của Thiên Chúa, đó là hãy chu toàn thánh ý của Thiên Chúa. Lời kinh Lạy Cha Ngài để lại cho Giáo Hội chính là chương trình sống của Ngài, chính là tiếng xin vâng của Ngài đối với Chúa Cha. Từ sáng đến chiều, xuyên qua những giao tiếp và giảng dạy, Ngài luôn để lộ một cử chỉ duy nhất, đó là thuộc trọn về Chúa Cha, tin tưởng tuyệt đối vào tình yêu của Chúa Cha. Để lại cho chúng ta kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu không chỉ truyền lại một công thức, mà là cả cuộc sống xin vâng của Ngài.
Thiên Chúa là một người Cha nhân từ, hằng yêu thương chăm sóc chúng ta. Nhờ Ngài, chúng ta mới có được những phương tiện vật chất; nhờ Ngài, chúng ta mới có được những khả năng phần hồn; nhờ Ngài, chúng ta mới có được ơn cứu độ… Vậy tại sao chúng ta lại không biết ơn và cảm tạ Ngài? Thiên Chúa lạ vị ân nhân vĩ đại. Ngài chờ đón nơi chúng ta một câu nói tuyệt vời: Lạy Chúa con yêu mến Chúa. Như vậy khi cầu nguyện, chúng ta bày tỏ niềm biết ơn cũng như tình yêu đậm đà của chúng ta đối với Ngài.
Cầu nguyện của người Kitô hữu là tự đặt mình vào trong mối tương quan này, coi Thiên Chúa như là Cha hoặc Mẹ, thưa chuyện với Ngài, kể chúng ta là con cái. Khi con trẻ thưa chuyện với cha mẹ, việc quan trọng không phải là đúng cách hay sai cách, chúng chỉ đơn thuần tập trung vào một điều là dùng tất cả lời nói, cử chỉ để diễn tả lòng mình. Cũng vậy, trước mặt Chúa, người Cha nhân từ khi chúng ta cầu nguyện mà công thức, thủ tục đều là chuyện thứ yếu, nếu chúng ta không muốn nói là thường. Con cái tin tưởng rằng, cha mẹ luôn luôn làm những gì là tốt nhất cho mình.
Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay cũng nói: “Ai trong anh em là một người cha mà khi con xin cá thay vì cá lại lấy con rắn mà cho nó, hoặc nó xin trứng lại cho nó con bọ cạp”. Cũng vậy, con cái Thiên Chúa đến với Ngài với thái độ tin tưởng, hy vọng, biết rằng Ngài sẽ dành cho họ tất cả những gì là tốt nhất.
Lời cầu nguyện của Chúa mà chúng ta nghe trong Tin Mừng theo Thánh Luca có một điểm khác với lời kinh chúng ta dùng trong Thánh Lễ, lời kinh này chúng ta đọc theo đoạn Tin Mừng của Thánh Mathêu (6, 9-12) chúng ta sẽ không ngạc nhiên về sự khác nhau này. Thứ nhất, cầu nguyện thì rất quan trọng nên chúng ta giả thiết là Chúa Giêsu đã dạy nó trong nhiều dịp và không luôn luôn chính xác cùng một lời đó. Thứ hai lời nguyện đó đã là một phần của phụng vụ cho hơn một thế hệ trước khi những cuốn Tin Mừng được viết ra. Lời cầu nguyện đó đã được ghi lại theo trí nhớ và kết quả là có những sự khác nhau không đáng kể cho đến khi Thánh Luca và Thánh Mathêu đã viết ra lời kinh chung được đọc trong những cộng đoàn riêng biệt của các ngài.
Ta hãy kiên nhẫn và trông cậy mà cầu nguyện.
Phải kiên nhẫn trong khi cầu nguyện là để tăng thêm ước muốn của chúng ta, và cũng là để tăng thêm giá trị ơn Người sẽ ban. Nếu chúng ta không nhận được điều mình xin, thì không phải là Chúa không sẵn sàng ban ơn, nhưng có thể điều cầu xin ấy không mang lại ích lợi cho linh hồn chúng ta, hoặc Người muốn dành cho chúng ta một ơn lớn lao hơn. Cho dù sự đáp trả của Chúa không như lòng chúng ta mong ước hay không đúng lúc chúng ta mong đợi, thì đó cũng là bởi sự khôn ngoan và lòng yêu thương của một người Cha đầy tình nhân ái.
Phải trông cậy trong khi cầu nguyện vì Chúa đã hứa: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ thì sẽ mở cho” (Lc 11, 9). Mẹ Têrêxa Calcutta đã chia sẻ kinh nghiệm này như sau: “Chúng tôi có hơn một ngàn tu sĩ, và còn phải nuôi ăn hàng chục ngàn người. Thế mà, chưa bao giờ chúng tôi phải từ chối bất cứ một ai đến xin giúp đỡ. Chúa luôn can thiệp kịp thời để cho chúng tôi thấy rằng Người không bao giờ làm ngơ trước lời cầu nguyện của chúng ta”.
Cầu nguyện là ý thức về tầm chính xác của mình trước mặt Thiên Chúa. Thế mà đối với Thiên Chúa toàn thể vũ trụ nhỏ hơn một giọt nước trong lòng đại dương. Kẻ thờ phụng dành tất cả tâm hồn mình cho Thiên Chúa. Điều gì biện minh cho thái độ ấy? Thật ra con người ý thức rất rõ mình có khả năng suy nghĩ, hành động, có cả quyền năng nữa. Lẽ nào chỉ vì Thiên Chúa quyền năng vô cùng mà chúng ta phải nhượng bộ tất cả cho Thiên Chúa ư? Thờ phụng, trước hết không phải là sự quy phục của lương tri trước Đấng có quyền năng hơn con người. Thờ phụng là thái độ lương tri tự do muốn nhìn nhận sự thật. Vậy mà sự thật chính là Thiên Chúa hằng hữu, quyền năng vô biên, Đấng vô cùng tận. Thờ phụng là nhìn nhận sự thật ấy. Điều biện minh cho thờ phụng chỉ xuất phát từ sự thật mà thôi. Vì lẽ có nhìn nhận sự thật, con người mới có được phẩm giá; trong sự thờ phụng, tức là trong sự nhìn nhận sự thật, con người tìm ra tầm mức phẩm giá của mình.
Ta phải cầu xin những gì phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa. Ý muốn của Thiên Chúa trước hết là cho mọi người nhận biết Ngài là Cha của tất cả mọi người, và trong Ngài, tất cả mọi người đều nhận ra nhau là anh em. Những gì là chia rẽ, hận thù, bóc lột, chém giết nhau đều đi ngược lại ý muốn của Cha trên trời. Bởi vì, làm sao có thể mở miệng gọi Thiên Chúa là Cha của chúng ta được khi chúng ta không muốn yêu thương người khác như anh chị em của mình; và ngược lại, khi chúng ta không nhìn nhận có một Cha chung của chúng ta ở trên trời: “Lạy Cha, con là Đấng ngự trên trời”.
Ý muốn của Thiên Chúa còn là “cho chúng ta hôm nay lương thực hằng ngày”, có nghĩa là Thiên Chúa muốn cho mọi người trên trái đất, không phân biệt chủng tộc, màu sau, tiếng nói đều có đủ cơm ăn áo mặc, cũng như được hưởng tiện nghi của nền văn minh hiện đại, chứ không phải chỉ một số rất ít người chiếm hữu hết tài sản trên thế giới, đang khi đại đa số còn lại chỉ được hưởng một phần quá nhỏ trong cảnh lệ thuộc. Ngài cũng chẳng muốn cho một thiểu số sống xa hoa lãng phí, trong khi đồng loại phải thiếu nhà ở, thiếu cơm bánh, áo quần, thuốc men; phải đói khát, dốt nát, ăn xin, nằm đường xó chợ… Nói chung là thiếu những điều kiện tối thiểu để sống cho ra con người.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sống trong tình con thảo với Cha trên trời. Một người con thảo hiếu luôn sống với Cha trong tình phó thác và với anh em trong tình bác ái. Chính Chúa Giêsu đã sống điều đó. Ngài đã phó thác cuộc đời trong tay Cha đến nỗi chỉ mong ước một điều là tim kiếm ý Cha và làm vinh danh Cha. Ngài đã sống với nhân loại trong tình bao dung và độ lượng. Ngài đã đi đến tận cùng của tình yêu là chết cho người mình yêu. Ngài đã đi đến tận cùng của việc quên mình là tha thứ cho kẻ đã hành hạ và kết án mình. Ngài đã dùng tình yêu để đẩy lùi sự dữ. Ngài đã dùng tình yêu để hoán cải những người lầm lỗi và tạo điều kiện cho kẻ lầm đường lạc lối trở về.
Cầu nguyện là một việc mà con người khó thực hiện. Vì thế phải luyện tập. Chính Thánh Gioan Tẩy giả đã dạy các đồ đệ cầu nguyện. Nhưng Giáo huấn của Chúa Kitô thật khác lạ; Chỉ bằng vài lời, đã nói lên được tất cả, một sự sung mãn phong phú qui kết vào 5 lời nguyện xin chi phối toàn bộ đời sống và hướng về Thiên Chúa Duy Nhất, là Cha hết mọi người.
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn