Các Bài Suy Niệm Chúa Nhật 30 Thường Niên. Năm A

Thứ năm - 22/10/2020 08:37

CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN. NĂM A

 


 

CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN – A

Lời Chúa: Xh. 22, 20-26;  1Tx. 1, 5c-10;  Mt. 22, 34-40

——- 
DẪN NHẬP
Lời Chúa: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi; ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi” (Mt 22,37.39).
Nhập lễ:
Kính thưa cộng đòan phụng vụ,
Phụng vụ Lời Chúa chúa nhật 30 thương niên hôm nay cho chúng ta thấy, việc chu toàn thánh ý Thiên Chúa và tình yêu phục vụ tha nhân được nối kết trong cùng một thực tại duy nhất chính là Tình yêu.
Yêu người gói trọn hai điều:
Tôn thờ Thiên Chúa, mến yêu mọi người.
Luật xưa Chúa đã kêu mời,
Cũng đều nhất trí một điều như trên.
Hôm nay Chúa vẫn giữ nguyên,
Làm tròn, giữ đủ, xứng tên môn đồ.
Hiệp dâng thánh lễ hôm nay, xin Chúa giúp chúng ta trở nên khí cụ tình yêu của Chúa để đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm nhờ đó chúng ta tìm được ý nghĩa của cuộc sống mình. Trong tâm tình đó, giờ đây chúng ta hãy thành tâm sám hối.
Sám hối:
X. Lạy Chúa, Chúa đến không phải để hủy bỏ lề luật nhưng để kiện toàn. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa Kitô, Chúa dạy chúng con yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương anh em như chính mình. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa, Chúa chính là tình yêu đích thực của chúng con. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
Kết: Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.
CĐ: Amen.
Suy niệm:
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu của con người cũng được kính múc từ nơi Thiên Chúa. Do đó, con người được mời gọi để sống cho Thiên Chúa và sống cho tha nhân. Sống cho Thiên Chúa là kính mến, cảm tạ và tôn vinh Chúa suốt cả cuộc sống của chúng ta; sống cho tha nhân là chấp nhận, là khoan dung, là phục vụ anh chị em đồng loại hết mình. Chính vì thế, sứ điệp phụng vụ Lời Chúa chúa nhật hôm nay mời gọi chúng ta: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi; ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi”. Đó là giới răn trọng nhất.
Thưa anh chị em, Thiên Chúa là Đấng công minh và chính trực. Ngài yêu thương hết thảy mọi người, nhất là những người goá phụ, mẹ goá con côi và những người kém may mắn nhất. Vì thế qua ông Môsê, Thiên Chúa muốn dân Israel phải thực thi thái độ yêu thương đối với ngoại kiều, cô nhi, goá phụ: “Ngươi chớ làm phiền lòng và ức hiếp khách ngoại kiều”, “Ngươi đừng làm hại cô nhi quả phụ”, không lợi dụng tình cảnh quẫn bách nơi những người nghèo khổ để trục lợi, vì họ là những người đáng thương, cần sự nâng đỡ và bảo đảm. Lý do của thái độ yêu thương những người yếu kém này là lòng kính sợ Thiên Chúa, Đấng thương xót luôn lắng nghe tiếng họ kêu van và trừng trị những kẻ cư xử xấu với họ. Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu không đưa ra một điều luật mới lạ nào, vì trong Thánh kinh luật mến Chúa đã được sách Đệ nhị luật đặt làm giới răn thứ nhất và trọng nhất; luật yêu người cũng đã được sách Lêvi xác định. Chúa Giêsu chỉ cho những người biệt phái giới răn quan trọng nhất trong toàn bộ Lề luật là mến Chúa và yêu người. Nghĩa là yêu mến Thiên Chúa bằng trọn cả con người và yêu thương tha nhân như chính bản thân. Giáo huấn mới lạ của Chúa Giêsu hệ tại ở chỗ: Chúa Giêsu đặt hai giới luật mến Chúa và yêu người được đưa lại gần nhau. Như thế, Chúa Giêsu đã chỉ cho thấy việc hoàn thành tôn ý Thiên Chúa và tình yêu phục vụ tha nhân được nối kết trong cùng một thực tại duy nhất là tình yêu. Tình yêu là căn nguyên và cùng đích của mọi cố gắng nơi con người.
Chuyện kể rằng, trong thế chiến thứ hai, một sĩ quan Anh thấy một sĩ quan Đức bị trọng thương, đang nằm quằn quại bên hàng rào kẽm gai. Bom đạn ầm ầm, khói lửa ngút trời, nên không thể đưa người thương binh vào chỗ an toàn. Cuối cùng, người sĩ quan Anh tự nhủ: “Mình không đành lòng nhìn một người đau đớn khốn khổ như vậy”. Thế là anh phóng ra giữa lửa đạn, vác người thương binh trên vai và đưa sang phần đất mà quân Đức chiếm đóng. Khi trận chiến tạm dừng, một sĩ quan Đức bước ra khỏi chiến hào, tháo chiếc thánh giá bạc đeo trước ngực và gắn cho người sĩ quan Anh.
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Điều gì đã khiến sĩ quan Anh phóng ra giữa lửa đạn, vác trên vai một sĩ quan Đức bị trọng thương và đưa sang phần đất mà quân Đức chiếm đóng nếu không phải đó là tình yêu. Chúa Giêsu đã từng nói: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình”. Chúa Giêsu đến trong trần gian, rao giảng và đã sống cho tình yêu. Người là kiểu mẫu tuyệt hảo về lòng mến Chúa yêu người. Đối với Người, ai yêu mến thì ở trong Thiên Chúa và yêu thương là chu toàn lề luật. Người mời gọi chúng ta muốn bước theo Người cũng hãy đi trên con đường tình yêu đó. Con đường tình yêu là con đường đưa chúng ta đến hạnh phúc chân thật.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta bước đi trên con đường tình yêu và trở nên sứ giả của tình yêu Chúa. Amen.
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang.

 

1. Một tình yêu duy nhất (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Thắp lửa yêu thương (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)

3. Một tình yêu duy nhất.  (Jorathe Nắng Tím)

4. Để con biết yêu thương (Bông Hồng Nhỏ, Học viện MTG.Thủ Đức)

5. Than củi yêu mến (Anna Cỏ May, Học viện MTG.Thủ Đức)

6. Mến Chúa, yêu người (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

7. Đức ái  (Trầm Thiên Thu)

8. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 30 TN_A (Lm. Inhaxio Hồ Thông)

 

Mục lục

1. Giới răn trọng nhất-  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Luật yêu mến  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Xã hội vô cảm  (Lm. Jos. Tạ duy Tuyền)

4. Giới răn trọng nhất  (Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

5. Phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

6. Yêu là thế đó  (Anna Cỏ May, Tiền Tập sinh MTG.Thủ Đức)

7. Mau mắn sống Lời  (Bông Hồng Nhỏ, Tiền Tập sinh MTG.Thủ Đức)

8. Tình yêu  (Lm. Trần Việt Hùng)

9. Điều răn quan trọng nhất (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

10. Giới luật yêu thương (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

11. Yêu thương là chu toàn lề luật  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

12. Suy niệm Chúa Nhật 30 Thường niên. Năm A  (Lm. Anthony Trung Thành)

13. Suy niệm Chúa Nhật 30 Thường niên_A  (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

14. Đệ nhất luật  (Trầm Thiên Thu)

15. Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình (Fx. Đỗ Công Minh)

16. Yêu người thân cận như chính mình  (Giêrônimô Nguyễn Văn Nội)

17. Đôi cánh để bay lên   (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

18. Yêu hết con tim, hết linh hồn, và hết trí khôn (Tiến sĩ Trần Mỹ Duyệt)

19. Thiên Chúa là tình yêu (P.Trần Đình Phan Tiến)

20. Biểu tượng   (Lm. Vũ Đình Tường)

21. Làm sao để yêu thương tha nhân như chính mình? (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

22. Làm sao để mến Chúa yêu người (Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD)

23. Yêu Chúa, yêu người (Phạm Anh, Thanh Tuyển sinh MTG.Thủ Đức)

24. Kính mến Chúa, yêu thương người  (PM. Cao Huy Hoàng)

25. Tình yêu làm cho cuộc sống nên tốt đẹp  (Lm. Giuse Nguyễn)

26. Điều răn trọng nhất  (JM. Lam Thy, ĐVD)

27. Cốt lõi của luật là lòng mến (Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP)

28. Sống tình mến Chúa và yêu tha nhân  (Lm. Đan Vinh)

29. Chúa Nhật 30 Thường niên_A  (Lm. Antôn)

 

MỘT TÌNH YÊU DUY NHẤT

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

 “Mến Chúa và yêu tha nhân như chính mình – đó là tóm lược tất cả Lề Luật và Ngôn sứ” – Chúa Giêsu khẳng định với chúng ta như vậy. Như thế, đức ái – vừa quy hướng về Chúa, vừa quy hướng về tha nhân – là một giới răn duy nhất và là nền tảng cho đời sống Kitô hữu. Đó cũng là bản chất và là nền móng cho đời sống Đức tin. Đời sống Kitô hữu là sự tham dự vào chính bản tính của Thiên Chúa, Hữu thể siêu việt. “Thiên Chúa là Tình yêu” như thánh Gioan tác giả Tin Mừng lặp đi lặp lại nhiều lần để giúp chúng ta nhận ra bản tính của Thiên Chúa. Tình yêu bao trùm đời sống Kitô hữu. Đó là một tình yêu duy nhất, nhưng được diễn tả ở hai chiều kích: Thiên Chúa và tha nhân. Hai chiều kích này như hai mặt của một tấm huân chương, không thể có mặt này mà thiếu mặt kia. Mến Chúa mà không yêu tha nhân sẽ là ảo tưởng lý thuyết; yêu tha nhân mà không mến Chúa sẽ mất đi chiều kích siêu nhiên và có thể chỉ dừng lại ở tình yêu vụ lợi.

Lời Chúa trong sách Xuất Hành đưa ra những vụ việc cụ thể, liên quan đến người ngoại kiều, người nghèo và người mắc nợ. Trong mọi trường hợp, phải đặt tình yêu tha nhân lên trên hết. Phải đối xử với tha nhân như những nhân vị, những con người chứ không phải đồ vật. Thiên Chúa khẳng định: Ngài đứng về phía những người đau khổ để bênh vực họ. Ai xúc phạm người nghèo, người ngoại kiều hay người mắc nợ là xúc phạm chính Chúa, vì Ngài là Đấng nhân từ.

Bất cứ người Do Thái nào khi nghe lời tuyên bố của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay đều dễ dàng nhận ra đó là giáo huấn của Cựu ước. Quả vậy, lệnh truyền “Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi” đã được Thiên Chúa phán qua ông Môisen và được ghi trong sách Đệ nhị Luật (x. Đnl 6,4-5). Đây cũng là lời kinh mà những người Do Thái đạo đức lặp lại mỗi lúc khởi đầu một ngày mới, được gọi là lời kinh “Shema Israel – Hãy nghe đây, Israel”. Lời kinh này giúp họ hướng lòng lên Chúa và chuyên tâm thực thi giáo huấn của Ngài. Theo quan niệm thời bấy giờ, con người được cấu thành bởi ba yếu tố: trái tim, linh hồn và tâm trí. Yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn tức là dành cho Chúa một tình yêu trọn vẹn, không san sẻ và không tính toán, nhưng hoàn toàn quy thuận về Chúa.

Lệnh truyền “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” cũng đã được ghi trong sách Lêvi (x. Lv 19,18). Đối với Chúa Giêsu, giới răn này cũng giống giới răn trước và không thể tách rời. Đây chính là một trong những điểm ưu việt trong giáo huấn của Chúa Giêsu. Thông thường, khi so sánh giá trị giữa hai thực tại, người ta xếp hạng thứ nhất và thứ nhì. Ở đây, Chúa Giêsu không xếp hạng như thế. Nếu Người gọi giới răn mến Chúa là giới răn trọng nhất và là giới răn thứ nhất, thì yêu người là giới răn cũng giống như giới răn trước, tức là có giá trị ngang nhau. Mến Chúa yêu người là một giới răn duy nhất hướng tới hai đối tượng, hai chiều kích. Hai chiều kích này bổ túc cho nhau và làm nên lòng mến hoàn hảo. Tình yêu dành cho Chúa là tình yêu không biên giới (hết lòng); tình mến dành cho tha nhân được đo lường bằng tình yêu mà người ta muốn người khác làm cho mình, “yêu người như mình ta vậy”. Mến Chúa yêu người cũng là chu toàn Lề Luật và truyền thống Ngôn sứ. Đây là mối bận tâm lớn nhất của những người Do Thái mộ đạo. Họ lo làm sao để thực hành những quy định của Lề Luật và giáo huấn của các ngôn sứ. Đó chính là con đường nên hoàn thiện trước mặt Chúa. Đối với Chúa Giêsu, con đường nên hoàn thiện trở thành đơn giản hơn và ai cũng có thể thực hiện được, đó chỉ là mến Chúa yêu người.

Lòng mến làm nên sức sống của một cộng đoàn Kitô hữu. Thánh Phaolô diễn giải điều này khi ngài có những nhận định rất tích cực đối với tình bác ái của cộng đoàn tín hữu Thessalonica (Bài đọc II). Vị Tông đồ xác nhận rất nhiều việc tốt lành mà cộng đoàn này đã thực hiện, và như thế, họ đón tiếp chính Chúa Kitô. Thánh nhân cũng ca ngợi cách thức cộng đoàn này đã sống trong tình yêu Chúa. Khi làm như thế, “anh em trở nên những mẫu mực cho mọi tín hữu… đâu đâu người ta cũng nghe biết lòng tin anh em đặt vào Thiên Chúa, khiến chúng tôi không cần phải nói gì nữa”. Hai mươi thế kỷ đã qua, chứng từ đức tin và tình mến thể hiện trong cuộc sống của các Kitô hữu Thessalonica là gợi hứng cho những cộng đoàn tín hữu hôm nay.

Trong tháng Mười, chúng ta cùng nhìn lên Đức Trinh nữ Maria. Mẹ là mẫu mực của các tín hữu. Cuộc sống trần gian của Đức Trinh nữ hoà quyện niềm vui và đau khổ, nhưng Mẹ vẫn luôn luôn trung thành và tín thác vào Chúa. Mẹ là người thực sự “yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn”. Những lúc gian khổ của đời Mẹ như khi gian nan cơ cực tại Be Lem, khi trốn sang Ai Cập, và nhất là vào giờ phút đứng dưới chân thập giá. Trong mọi hoàn cảnh Đức Trinh nữ thành Nagiarét vẫn kiên trung, can đảm, cậy trông và một lòng mến Chúa. Xin Mẹ dạy chúng ta mến Chúa yêu người, như một tình yêu duy nhất, toả hương thơm ngát trong cuộc đời.

Về mục lục

THẮP LỬA YÊU THƯƠNG

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Trong một bài luận văn về bệnh cô cảm  của em Phan Hoàng Yến, học sinh lớp 9A2 trường trung học Chu Văn An, Hà Nội, đã gây ấn tượng mạnh trong xã hội hôm nay. Bài văn được viết như sau: “Có được một xã hội văn minh, hiện đại ngày nay một phần lớn cũng là do những phát minh vĩ đại của con người. Một trong số đó chính là sự sáng chế ra rô-bốt, và càng ngày, rô-bốt càng được cải tiến cao hơn, tỉ mỉ hơn làm sao cho thật giống con người để giúp con người được nhiều hơn trong các công việc khó nhọc, bộn bề của cuộc sống.

Chỉ lạ một điều: Ðó là trong khi các nhà khoa học đang “vò đầu bứt tóc” không biết làm sao có thể tạo ra một con chip “tình cảm” để khiến “những cỗ máy vô tình” biết yêu, biết ghét, biết thương, biết giận thì dường như con người lại đi ngược lại, càng ngày càng vô tình, thờ ơ với mọi sự xung quanh. Ðó chính là căn bệnh nan y đang hoành hành rộng lớn không những chỉ dừng lại ở một cá nhân mà đang len lỏi vào mọi tầng lớp xã hội – bệnh vô cảm.

Nhìn thấy cái xấu, cái ác mà không thấy bất bình, không căm tức, không phẫn nộ. Nhìn thấy cái đẹp mà không ngưỡng mộ, không say mê, không thích thú. Thấy cảnh tượng bi thương lại thờ ơ, không động lòng chua xót, không rung động tâm can. Vậy đó còn là con người không hay chỉ là cái xác khô của một cỗ máy?”

Đây là vấn nạn của thời đại hôm nay. Nhiều lần ta thấy trên mạng xã hội lan truyền những clip về sự vô cảm của con người. Có những người bị tai nạn nằm bất động trên vỉa hè nhưng hàng chục người đi qua, thậm chí dừng lại mà không ai giúp đỡ, … Rất nhiều vụ đánh ghen trên đường phố một cách giã man làm kẹt đường phố nhưng không ai can ngăn . . . Rất nhiều những người già, người khuyết tật lê thê trên đường phố bán vé số hay rau quả nhưng không có cơ quan nào đưa về nuôi họ mà dường như họ phải tự lực cánh sinh . . .!

Có ai đó nói rằng: “Nơi lạnh nhất không phải là Bắc Cực mà là nơi thiếu vắng tình thương”. Vàdường như xã hội chúng ta sống đang thiếu đi hơi ấm tình thương mà thay vào đó là cả một bầu không khí lạnh bao trùm xã hội

Tình người được nuôi dưỡng, dạy dỗ từ rất sớm trong mỗi con người, vậy mà biểu hiện về sự vô cảm lại hiện hữu ngày càng nhiều hơn… 

Hôm nay Chúa bảo với chúng ta giới răn quan trọng là Mến Chúa – Yêu Người. Phải chăng đây là lúc chúng ta phải làm sống lại tin mừng cho thế giới đang chết về tình người? Phải chăng xã hội hôm nay đang rất cần những men tin mừng để làm dậy lên nếp sống yêu thương, chia sẻ, bác ái, cảm thông với nhau?

Một thế giới xem ra những nghĩa cử yêu thương thật hiếm hoi. Đây là một thách đố và cũng là đòi hỏi triệt để, vì căn tính của người môn đệ Chúa là “yêu mến tha nhân như chính mình”. Vì tình yêu là lẽ sống, là hơi thở của người ky-tô hữu. Không có tình yêu thì sức sống của người tín hữu đã không còn. Không có lòng quảng đại thì không còn là nhân chứng cho Tin mừng Nước Trời của Chúa. Chúng ta không thể nói yêu Chúa mà trong lòng vẫn còn thù ghét anh em của mình. Chúng ta phải vượt lên trên lòng ích kỷ, sự hẹp hòi của nhân thế để làm chứng cho một tình yêu nhân ái, bao dung và vị tha.

 Đây chính là sứ điệp  mà Tin Mừng hôm nay muốn loan báo. Chúa mời gọi chúng ta hãy yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Đồng thời Ngài cũng đòi buộc chúng ta phải yêu mến tha nhân như chính mình. Chính Thầy Chí Thánh Giê-su đã làm gương cho chúng ta. Chính Ngài khi bị treo trên thập tự giá đã giới thiệu cho nhân thế một tinh yêu tinh ròng đến nỗi “dám chết cho người mình yêu”.

Ước gì giữa một thế giới đang lạnh giá về tình người, chúng ta hãy thắp lên ngọn lửa của yêu thương, để sưởi ấm cho những ai đang cô đơn, thất vọng vì thiếu vắng tình thương, sự cảm thông và nâng đỡ của anh em. Amen

Về mục lục

MỘT TÌNH YÊU DUY NHẤT.

Jorathe Nắng Tím

Nét độc đáo của Tình yêu trong Kitô giáo chính là duy nhất tính của tình yêu khi Mến Chúa và Yêu người là một, điều mà người ta rất khó chấp nhận, nhưng lại là điều Thiên Chúa muốn.

Là điều rất khó chấp nhận, vì ai cũng muốn phân biệt rõ rệt Thiên Chúa là Thiên Chúa và con người là con người : Thiên Chúa chí thánh chí tôn, con người yếu đuối, tội lụy ; Thiên Chúa toàn năng, cao cả, con người bất toàn, bất xứng, và một khi rành rọt phân biệt như thế, người ta sẽ có thể yêu Thiên Chúa mà không phải yêu con người ; có thể tử tế với Thiên Chúa mà không  tử tế với những người không cần phải được đối xử tử tế ; có thể “mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn” (Mt 22,37), mà vẫn bình an tự cho phép ghét những người làm hại mình, và khinh những ai bị coi là đáng khinh ; có thể phụng sự Thiên Chúa bằng hết sức lực, tiền của, mà vẫn không áy náy khi ki bo, bần tiện, keo kiệt với người thân và tham lam, lọc lừa chiếm đọat tài sản của người xa lạ ; có thể hiến mình cho Thiên Chúa, mà chẳng bận tâm, nặng lòng khi cùng lúc “hy sinh” người khác vì vinh quang, quyền lợi của bản thân mình ; có thể chết sống với Nước Trời, nhưng cùng lúc phá họai nước đời, cộng đồng nhân loại ; có thể là con Chúa, nhưng đồng thời là kẻ thù của con người, bởi giữa tình yêu dâng Thiên Chúa và tình yêu cho đồng loại được phân ranh cẩn thận, và hai tình yêu không qua lại, ảnh hưởng trên nhau.

Nhưng đó là phiá con người, về phiá Thiên Chúa thì khác hẳn, và chủ trương Yêu Thương của Thiên Chúa đã bị nhiều người lên án là “huyên thuyên, nhập nhằng, lẫn lộn Thiên Chúa với con người” khi nghe Đức Giêsu đã công bố : “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”, khi một người thông luật hỏi Đức Giêsu để thử Người rằng : “Thưa Thầy, trong sách Luật Môsê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?” (Mt 22,36-39).

Đây là cốt lõi giáo lý mới của Đức Giêsu, điều mà người Do Thái còn xa lạ và bỡ ngỡ khi nghe Ngài công bố, bởi Luật Môsê chỉ dừng lại ở công bình trong tương quan giữa người với người, mặc dù với Thiên Chúa thì phải “mến yêu hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn”, khi cho phép trong tương quan con người với nhau thì “mắt đền mắt, răng đền răng” (Mt 5,38), yêu người thương mình và ghét kẻ thù mình (x. Mt 5,43), nghiã là “ăn miếng trả miếng, ân oán sòng phẳng”, trong khi Luật mới của Đức Giêsu lại dậy : “Đừng chống cự người ác… Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,39.44).

Đức Giêsu còn đi xa hơn khi “đồng hoá” Thiên Chúa với những con người bé mọn, nghèo hèn, ốm đau, tù đầy, vô gia cư, tha phương cầu thực, và tuyên bố tình yêu cũng như việc làm tốt được thực hiện cho những con người yếu đuối, bần hàn, vô danh tiểu tốt, sa cơ thất thế này là làm cho chính Thiên Chúa (x. Mt 25,31-46). Cũng vậy, Thiên Chúa lấy chính con người làm thước đo tình yêu đối với Ngài và mức độ ân sủng, lòng thương xót của Ngài đối với chúng ta cũng tùy thuộc vào lòng qủang đại và thương xót của chúng ta đối với người khác, như Đức Giêsu đã khẳng định trong Tin Mừng : “Anh em đong cho ai đấu nào, sẽ được Thiên Chúa đong lại đấu đó”, “Xin tha tội chúng con như chúng con cũng tha cho những người mắc lỗi với chúng con” (Mt 6,12), “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5,7).

Thực vậy, mầu nhiệm tình yêu trong Kitô giáo là chân lý được mặc khải từ Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu (1 Ga 4,16). Mầu nhiệm tình yêu ấy tuy là mầu nhiệm, nhưng là mầu nhiệm nhập thế, nhập thể, nên được biểu hiện sống động và cụ thể trong đời sống thực sự và thường ngày của con người. Mầu nhiệm tình yêu từ Thiên Chúa đến trong thế giới loài người  không mơ hồ, viển vông, mây khói, nhưng có chỗ đứng, bãi đáp hộ khẩu trên da thịt, trong tâm hồn, ngay giữa sinh hoạt của con người, những con người bằng xương bằng thịt, cá vị, độc lập. Mầu nhiệm Tình Yêu ấy đã được Cựu Ước xây dựng nền tảng khi đòi hỏi tín hữu Do Thái : “không được ngược đãi và áp bức người ngoại kiều, không được ức hiếp mẹ goá con côi, không được cho vay nặng lãi người nghèo” (x. Xh 22,20-24) để rồi khi Đức Giêsu đến, Ngài đã kiện toàn Giới Luật duy nhất và đời đời của Thiên Chúa : Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và yêu thương anh em như mình vậy, bởi “Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy” (Mt 22,40).

Vâng, là người Kitô hữu, chúng ta thuộc về và được tháp nhập vào Đức Giêsu, Thiên Chúa Tình Yêu, và tình yêu Thiên Chúa được thực hiện khi chúng ta yêu thương anh em mình, nhất là những anh em hèn mọn, kém cỏi, yếu đuối, xấu số, bất hạnh nhất, bởi đó là Thánh Ý Thiên Chúa. Ngài muốn chúng ta xác định và làm chứng tình yêu đối với Ngài bằng yêu thương anh em, nếu không chúng ta là những kẻ xảo trá, lừa lọc, như thánh Gioan tông đồ đã viết : Nếu ai nói : “tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối, vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4,20).

Vẫn biết yêu Thiên Chúa dễ hơn yêu anh em cận kề chung sống với bao nhiêu chuyện không hài lòng, vừa ý, bao nhiêu điều chướng tai gai mắt và yếu đuối, lỗi lầm, trong khi Thiên Chúa vô hình, lại toàn năng, thánh thiện, có quyền sinh tử trên mọi loài, nhưng Chúa muốn tự đồng hoá mình với người anh em hèn yếu ; Chúa muốn lấy người anh em bất xứng, bất toàn làm thước đo tình yêu của ta với Ngài ; Chúa muốn chọn người anh em nghèo khó, cơ bần làm đấu đong ơn phúc ; Chúa muốn ta chuẩn bị hành trang để ra trước tôn nhan Ngài ngày chung thẩm nơi người anh em bị coi là đồ bỏ, vô tích sự, không sinh lợi cho ai, không giúp ích được người nào, có khi còn là gánh nặng của mọi người, nên chúng ta hãy vui vẻ  tập sống mỗi ngày Yêu Chúa trong Anh Em, Yêu Thương anh em vì Yêu Mến Chúa, vì đó là Ý Muốn thánh thiện của Thiên Chúa.

Về mục lục

ĐỂ CON BIẾT YÊU THƯƠNG

Bông hồng nhỏ

Từ trước đến nay, ta vẫn luôn nghĩ rằng, yêu thương là điều dễ dàng. Khi biết yêu thương người, trái tim ta mở rộng và ngập tràn niềm hạnh phúc. Trong tâm trí ta, hình ảnh của người yêu luôn chiếm trọn. Ta luôn vun đắp cho tình yêu ấy ngày một đẹp hơn. Cho đến một ngày, khi tình yêu bắt đầu bị thử thách, trái tim ta rạn vỡ, tâm trí ta rối bời. Đến bây giờ, ta mới nghe được tiếng nói của Tình Yêu.

“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi” (Mt 22, 35).

Lặng nghe lời Thầy Giêsu, lòng ta đã bừng tỉnh sau những tháng ngày u mê. Khi tình yêu bị thử thách, ta mới chợt nhận ra, ta chưa yêu Chúa hết lòng, chưa yêu Chúa hết linh hồn và hết trí khôn của ta. Ta đã khao khát yêu thương hết mọi người như Chúa mời gọi. Nhưng kỳ thực, tình yêu của ta rất giới hạn. Khi ta đã yêu thương hết tình mà lại chẳng nhận được những gì mình chờ mong, ta hụt hẫng lắm, ta buồn đến chết được. Ta đã yêu thật nhưng buồn thay, ta đã chỉ tìm kiếm chính mình, ta đã chỉ yêu mình mà thôi. Làm sao để ta có thể yêu như Chúa yêu? Mỗi ngày, khi nhìn lại những gì đã xảy ra, ta hãy cầu xin Chúa Thánh Thần soi sáng để Người đốt lên ngọn lửa yêu mến Chúa trong lòng ta. Người sẽ chiếu soi vào tâm hồn ta, cho ta thấy được những chỗ tối tăm, những góc nhọn cần cắt tỉa. Để khi yêu người khác, ta không làm cho họ bị tổn thương. Hãy nhìn xem nhé, một người mẹ rất thương con, bà lo sợ con sẽ phải vất vả nên dù đứa con của bà đã lớn, đã có thể tự làm được mọi việc nhưng bà đã không cho nó làm. Dần dần, đứa con được mẹ bao bọc cẩn thận lại trở thành một người không thể tự đứng trên đôi chân của mình. Nó mặc cảm, tự ti với bạn bè, luôn nghĩ mình vô dụng. Yêu như Chúa yêu là dành cho người mình yêu trọn trái tim và con người của mình. Một người mẹ có thể thức suốt đêm chăm sóc cho đứa con bị bệnh. Bà có thể làm việc vất vả, có thể dãi nắng dầm mưa, hy sinh cả cuộc đời để cho con mình được khôn lớn. Cả cuộc đời, bà sống cho chồng, cho con. Tình yêu là quên mình đi như thế.

Yêu Chúa, ta đã bước vào con đường Chúa muốn ta đi. Ta không hề biết mình có ơn gọi, cho đến một ngày Lời Chúa cứ mãi hối thúc trong tâm hồn, lời ấy lôi cuốn ta và cứ thế ta bước đi bằng tất cả sự liều lĩnh và đam mê của tuổi trẻ. Ta xác tín rằng, Thiên Chúa đã chọn ta từ trước và ta đã đáp lời mời gọi đầy yêu thương ấy bằng cả con người mình, bằng cả cuộc đời của mình. Tình yêu nam nữ là một mối tình đẹp. Tình yêu với Thiên Chúa lại là một mối tình tuyệt vời hơn nữa. Đấng là Tình Yêu viên mãn đã yêu thương ta, Người rung động, thổn thức và say mê con người: “Vì mỗi lần nhắc đến con, ta lại thấy nhớ thương. Nên lòng ta bồi hồi thổn thức. Ta thương con, thương con rất nhiều” (Gr 31,20). Cảm nhận tình yêu Chúa dành cho mình, ta sẽ nhận ra mình là người hạnh phúc nhất. Ta muốn được giống người mình yêu. Chúa Giêsu yêu ta, Người chẳng hề chấp tội ta. Người luôn đón nhận ta và rủ lòng xót thương ta. Yêu như Chúa yêu là sống trong đức mến: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc. không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. Đức mến không bao giờ mất được” (1 Cr 13, 4-8).

Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã cho con nhìn lại tình yêu con dành cho Chúa và cho tha nhân. Đây trái tim của con, con xin dâng lại cho Chúa. Xin Chúa khắc ghi vào trái tim con tìm yêu của Chúa, cho con cảm nhận được tình Chúa yêu con. Để khi được Chúa yêu, con cũng biết yêu mến Chúa hết tâm hồn và yêu người khác như Chúa đã yêu con. Amen.

Về mục lục

THAN CỦI YÊU MẾN

Anna Cỏ may

“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi” (Mt 22,35-36).

Nhóm Pharisêu cử một người thông luật đến hỏi Chúa Giêsu rằng: “Thưa Thầy, trong sách Luật Môsê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?” Đức Giêsu đáp: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi” (Mt 22,35-36). Đây cũng là lời mời gọi của Đức Giêsu dành cho mỗi người chúng ta. Nhìn vào cuộc sống thực tại, chúng ta đã vun trồng lòng yêu mến ấy như thế nào?

Có vô số cách để nuôi dưỡng lòng yêu mến Chúa. Mỗi người có ơn riêng, có cách thức yêu mến Chúa của mình. Nhưng để có lòng yêu mến Chúa, trước tiên, chúng ta phải ý thức Thiên Chúa là của mình, là đối tượng duy nhất của lòng trí và trong cuộc sống của mình. Khi đó, lòng yêu mến mới thể hiện trong suy nghĩ và diễn ra hành động: nói những lời ấy cho mọi người lúc ngồi trong nhà cũng như lúc đi đường, khi đi ngủ cũng như khi thức dậy và viết lên khung cửa nhà, cửa thành của mình (x.Đnl 6,4-9). Bên cạnh đó, trí nhớ là cửa sổ tâm hồn giúp chúng ta luôn nhớ đến người mình yêu, nhớ người yêu mình đã chịu chết vì mình và vì mọi người như thế nào. Chính tình yêu nhớ nhung đó là động lực thúc bách chúng ta đạt tới lòng yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn. Lòng yêu mến đó sẽ được nuôi dưỡng tùy theo cách của mọi người. Có người được nuôi dưỡng lòng yêu mến bằng việc nguyện ngắm, chiêm niệm. Người này được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa, người kia được nuôi dưỡng bằng kinh nguyện hằng ngày hay những việc hy sinh…. Tuy nhiên, dù chúng ta có theo cách nào đi chăng nữa thì trong mọi việc mình làm, chúng ta vẫn luôn cần đến ơn Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần, Đấng biết Đức Giêsu là ai và chỉ có Chúa Thánh Thần mới gợi lên trong ta lòng yêu mến Chúa. Chúng ta hãy cầu xin Thánh Thần Tình Yêu, cầu xin Ngài  giúp chúng ta biết yêu và biết giữ lòng yêu mến Chúa mỗi ngày.

Trong cuộc chạy đua vật chất hiện nay, bạn thấy mình có còn lòng yêu mến Chúa nữa không? Nếu còn, bạn đã và đang thực thi lòng mến ấy như thế nào? Nếu không có lòng mến Chúa, làm sao bạn có thể đạt tới việc thực thi điều răn thứ hai là yêu người thân cận như chính mình?

Lạy Chúa, Chúa đang mời gọi con hãy yêu mến Ngài hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn. Xin cho con biết giữ và nuôi dưỡng ngọn lửa yêu mến mỗi ngày, biết đặt Chúa là đích điểm của đời mình như Chúa đã đặt chúng con trong ơn cứu độ của Ngài. Amen.

Về mục lục

MẾN CHÚA, YÊU NGƯỜI

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

 “Mến Chúa, yêu người” là nét độc đáo nhất của Kitô giáo.Hai giới luật tạo thành một toàn thể bất khả phân ly và là hai nguyên lý nền tảng của tất cả đạo đức học.Tin Mừng của Chúa Giêsu muốn loan truyền đến mọi người là tình yêu thương. Khi công bố giới luật yêu thương, Chúa Giêsu cũng nêu gương thực hiện giới luật ấy để chúng ta thấy sáng lên tình yêu cứu độ và gặp được những điểm nhấn mà bắt chước thực hành.

Tin Mừng hôm nay thuật lại cuộc trao đổi giữa những người Pharisêu và Chúa Giêsu về hai điều răn trong Cựu Ước như sau: Khi một người thông luật hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, trong sách Luật Môsê, điều răn nào trọng nhất?”, Chúa Giêsu trả lời: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, với tất cả lòng dạ của ngươi, với tất cả linh hồn của ngươi và với tất cả sức lực của ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là ngươi phải yêu mến người thân cận của ngươi như chính mình. Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy”.

Chúa Giêsu kết hợp hai điều răn trong Cựu Ước: (1) Điều răn yêu mến Thiên Chúa được lấy trong sách Đệ Nhị Luật 6,5: “Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi với tất cả lòng dạ của ngươi, với tất cả linh hồn của ngươi và với tất cả sức lực của ngươi”. (2) Điều răn yêu thương người thân cận được lấy trong sách Lêvi 19,18b. Đức Chúa phán: “Ngươi yêu thương người thân cận của ngươi như chính ngươi” (Lv 19,18). Hai giới răn này được biết đến rất nhiều; tuy nhiên, qua câu trả lời của Chúa Giêsu, ta thấy có một sự mới mẻ ở đây, đó là Chúa Giêsu đã nối kết giới răn mến Chúa trong kinh shema ở sách Đệ nhị luật với giới răn yêu thương người thân cận trong sách Lêvi.Cái độc đáo trong câu trả lời của Chúa Giêsu chính là sự liên kết chặt chẽ hai giới luật này với nhau. Khi nói đến “giới răn thứ nhất và lớn nhất”,  Người muốn nói rằng giới răn này là quan trọng nhất và tạo ý nghĩa cho tất cả các giới răn khác. Còn về giới thứ hai, nó “giống” với giới răn thứ nhất, nghĩa là cũng quan trọng như giới răn thứ nhất. Chúa Giêsu khẳng định “Tất cả luật Môsê và các sách Ngôn Sứ đều tùy thuộc vào hai giới răn ấy”. Lời khẳng định này có nghĩa là: “Tất cả các giới luật khác có thể được suy ra từ hai giới răn yêu thương, hay ngược lại, có thể quy về hai giới răn này; nói khác đi, ai thi hành các giới răn này thì ‘làm trọn’ Kinh Thánh và vì thế làm trọn ý Thiên Chúa”. Chỉ có những người yêu mến tha nhân mới thể hiện thật sự là người yêu mến Thiên Chúa. Việc đặt để giới răn yêu thương người thân cận ở mức ngang tầm với giới răn yêu mến Thiên Chúa quả là một điều vượt ngoài sức tưởng tượng của những người Do Thái lúc bấy giờ.

Tin Mừng Nhất Lãm (Mt 22,36-40 // Mc 12,28-34 // Lc 10,25-28) nhắc lại hai điều răn “Mến Chúa yêu người” trong Cựu Ước, đây là hai điều răn quan trọng nhất. Tân Ước cũng áp dụng hai điều răn này cho các môn đệ: Yêu mến Thiên Chúa và yêu thương người thân cận. Nhưng câu hỏi đặt ra là người thân cận là ai? Trong Cựu Ước, “người thân cận” chỉ giới hạn trong dân Israel. “Người thân cận” là đồng bào Israel, những người thuộc dân Chúa. Người ngoại bang không phải là người thân cận của dân Israel. Vậy Tân Ước áp dụng điều răn “yêu thương người thân cận” như thế nào?

Tin Mừng Luca thuật lại câu chuyện liên quan đến điều răn yêu thương ở Lc 10,25-28. Nhưng vấn đề hóc búa đặt ra: “Ai là người thân cận của tôi?” Đây là câu hỏi rất hay mà các môn đệ Chúa Giêsu cần biết. Sau khi người thông luật nhắc lại điều răn “yêu thương người thân cận như chính mình”, ông đã hỏi Chúa Giêsu: “Nhưng ai là người thân cận của tôi?” (Lc 10,29). Câu hỏi khó trả lời đối với Kitô hữu, vì khi chỉ ra ai là người thân cận, cũng có nghĩa là có người không phải là người thân cận của tôi. Khi truyền thống Cựu Ước định nghĩa người thân cận là dân Israel thì đương nhiên tất cả những người không thuộc về dân Israel bị loại trừ. Dân ngoại không phải là người thân cận của dân Israel. Chúa Giêsu đã trả lời câu hỏi này bằng cách kể dụ ngôn người Samari nhân hậu (Lc 10,30-35). Sau đó Chúa Giêsu  hỏi người thông luật: “Theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?” (Lc 10,36) Người thông luật trả lời: “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy” (10,37a). Chúa Giêsu bảo ông ta: “Ông hãy đi và hãy làm như thế” (Lc 10,37b). Lời của Chúa Giêsu đảo ngược câu hỏi của người thông luật lúc đầu. Thay vì Chúa Giêsu trả lời câu hỏi “ai là người thân cận của tôi?” thì Người nói: Hãy làm cho mình trở thành người thân cận của người khác như người Samari nhân hậu đã làm. Chi tiết người Samari không thuộc dân Do Thái, cho thấy Chúa Giêsu đã mở rộng khái niệm “người thân cận” để áp dụng cho các môn đệ của Người. Từ nay người thân cận không chỉ giới hạn trong dân Israel là dân được Thiên Chúa tuyển chọn, mà bất kỳ ai cũng có thể là người thân cận của tôi. Thay vì đặt câu hỏi “ai là người thân cận của tôi?”, Chúa Giêsu mời gọi đặt câu hỏi: “Tôi là người thân cận của ai?”, nghĩa là tôi đã làm gì để trở thành người thân cận của người khác?

Như thế, trong Tân Ước, người thân cận là tất cả mọi người, không phân biệt màu da, chủng tộc. Tân Ước đã áp dụng hai điều răn trong Cựu Ước và mở rộng nghĩa của từ “người thân cận” đến tất cả mọi người. Để tránh rơi vào tình trạng phân biệt ai là người thân cận, ai là kẻ đối nghịch, Đức Giêsu mời gọi các môn đệ: Hãy làm cho mình trở thành người thân cận của mọi người, nhất là hãy là người thân cận của những người đang gặp hoạn nạn, như nạn nhân trong dụ ngôn người Samari nhân hậu (x. Lc 10,30-35).

Truyền thống Kitô giáo đã mở rộng nghĩa của từ “người thân cận”, khi nói “yêu thương người thân cận” là nói đến tình yêu giữa các môn đệ Đức Giêsu với nhau và tình yêu giữa các môn đệ với tất cả mọi người, không phân biệt tôn giáo, màu da, chủng tộc. “Người thân cận” theo nghĩa rộng là tất cả mọi người. Như thế, “yêu thương người thân cận” trong Ki-tô Giáo có chiều kích phổ quát, không loại trừ ai (x. Mt 5,34; 19,19; 22,39; Mc 12,31; 12,33; Lc 10,27; Rm 13,9; Gl 5,14; Jc 2,8)…

Yêu mến Thiên Chúa”, “yêu mến tha nhân” và “yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương”: tất cả đây là lý tưởng sống đạo của người tín hữu.

Có thể nói đến ba điều răn yêu thương trong Kinh Thánh.

  1. Yêu mến Đức Chúa và yêu thương người thân cận như chính mình trong Cựu Ước (Đnl 6,5; Lv 19,18).
  2. Yêu mến Thiên Chúa và yêu thương người thân cận như chính mình trong Tân Ước. Trong đó, khái niệm “người thân cận” được mở rộng đến tất cả mọi người, không loại trừ bất kỳ ai.
  3. Yêu thương nhau như Đức Giêsu đã yêu thương” (điều răn mới) là điều răn của Đức Giêsu và chỉ dành cho các môn đệ. Đây không phải là tình yêu khép kín, mà là yêu thương để mọi người nhận ra môn đệ Đức Giêsu (x. Ga 13,35). (x.Ba điều răn yêu thương trong Kinh Thánh, Giuse Lê Minh Thông, OP).

Yêu Chúa và yêu người có một động từ chung là yêu. Đối tượng của động từ yêu này có vẻ khác biệt nhưng lại không phân biệt. Hai điều răn ấy tuy hai mà một, giống như hai trang của cùng một tờ giấy, tuy hai mặt khác nhau nhưng cũng chỉ là một tờ giấy duy nhất. Yêu người là yêu Chúa và yêu Chúa là yêu người. Người Kitô hữu có đức tin sẽ nhìn thấy Thiên Chúa nơi anh chị em mà mình gặp gỡ hàng ngày, yêu Chúa nơi họ.

Hai điều răn mến Chúa, yêu người không thể tách rời nhau.Yêu Thiên Chúa chắc chắn dẫn đến yêu tha nhân.Tình yêu tha nhân cần đặt nền trên lòng yêu mến Thiên Chúa.Người Kitô hữu đi từ nhà thờ ra nơi cuộc sống rồi từ cuộc sống đi vào nhà thờ.Ngoài cuộc đời, họ gặp Chúa nơi anh em.Trong nhà thờ, họ gặp anh em nơi Chúa.Thánh Gioan đã nói: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4,20). Do đó, “Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu thương anh em mình” (Ga 4,21).

Tất cả mọi điều răn khác đều quy về hai điều răn này. Nếu ta giữ trọn vẹn giới răn này, không những ta chu toàn Lề Luật mà còn góp phần xây dựng một thế giới chan hòa yêu thương, chan chứa tình người. Và đó chính là khởi điểm của thiên đàng mai sau.

“Mến Chúa, yêu người” là trung tâm của mọi giới răn, vì tất cả các giới răn khác đều quy hướng về hai giới răn quan trọng này; đồng thời đây cũng là giới răn tối thượng bao trùm hết mọi giới răn khác. Vì thế, ai giữ trọn giới răn này thì được xem là đã giữ trọn tất cả các điều răn khác như lời Thánh Phaolô: “Thật thế, các điều răn nhưngươi không được ngoại tình, không được giết người, không được trộm cắp, không được ham muốn, cũng như các điều răn khác, đều tóm lại trong lời này: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy” (Rm 13, 9-10).

Tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân làm nên một giới luật duy nhất là tình yêu. ĐGH Bênêđictô XVI mời gọi chúng ta hãy noi gương mẹ Têrêxa Calcutta, luôn canh tân khả năng yêu thương tha nhân của mình từ việc gặp gỡ Chúa Giêsu Thánh Thể.(x.Thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu, số 18).Tông huấn Giáo Hội tại Á Châu dạy: “Việc công bình, bác ái và thương xót phải gắn bó mật thiết với đời sống cầu nguyện và chiêm niệm đích thực, và thật vậy, chính cũng một tu đức này là nguồn suối của mọi công trình rao giảng Tin Mừng của chúng ta”.

Tình yêu là giới răn đứng hàng đầu trong các giới răn. Mọi lề luật đều phải hướng đến tình yêu. Ai chu toàn tình yêu là chu toàn lề luật. Như câu kết của kinh Mười Điều Răn: “Mười điều răn ấy tóm về hai điều này mà nhớ: Trước kính mến một Thiên Chúa trên hết mọi sự. Sau lại yêu người như mình ta vậy“.

Lạy Chúa, hằng ngày chúng con đọc kinh Tin Cậy Mến, và thân thưa với Chúa rằng“chúng con kính mến Chúa hết lòng hết sức trên hết mọi sự và yêu tha nhân như chính mình”, nhưng trong cuộc sống chúng con vẫn chưa thực hiện trọn vẹn lời kinh này. Xin Chúa giúp chúng con cố gắng thực hiện trọn vẹn lời kinh này. Amen.

Về mục lục

ĐỨC ÁI

Trầm Thiên Thu

Đức ái là đức mến, yêu thương, thương xót – một trong ba nhân đức đối thần, nhưng là nhân đức tồn tại vĩnh viễn, cả đời này và đời sau. Do đó, “đức ái cao cả nhất.” (1 Cr 13:13) Đạo của Chúa là đạo yêu thương, bởi vì Thiên Chúa là tình yêu. (1 Ga 4:8 và 16) Sách Gương Chúa Giêsu nói: “Ái tình sinh bởi Thiên Chúa, cũng chỉ để quy hướng về Thiên Chúa là tình yêu.”

Tình yêu chân thành rất kỳ diệu. Đấng đáng kính Charles de Foucauld cho biết: “Khi sống trong tình yêu, người ta khiêm nhường, thấy mình rất vô nghĩa và không là gì bên cạnh Đấng mình yêu dấu.” Thánh Bernard lý luận: “Lý do yêu mến Thiên Chúa thì nên vì Thiên Chúa, mà mức độ yêu mến Thiên Chúa chính là không có mức độ.” Tình yêu không biên giới, đức ái vô hạn.

Duy nhất một Thiên Chúa Ba Ngôi là Đấng tạo thành vũ trụ và quy định Thánh Luật. Người ta gọi là luật tự nhiên nhưng chính là luật thiên nhiên, mà chỉ có Thiên Chúa là Đấng ấn định quy luật đó. Thánh Vịnh gia cảm nghiệm: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn.” (Tv 19:8) Thánh Phaolô so sánh mạnh mẽ: “Cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người.” (1 Cr 1:25) Phải thực sự vững tin vào Đức Kitô mới khả dĩ hiểu được lập luận này, người vô thần và cố chấp không bao giờ hiểu – vì không muốn hiểu.

Đạo Yêu Thương của Chúa có luật gồm 10 điều khoản – gọi là Thập Giới hoặc Mười Điều Răn. Cả 10 điều trong Thánh Luật của Thiên Chúa đều liên quan tình yêu – đối với Thiên Chúa (đối thần) và đối với tha nhân (đối nhân). Mười điều nhưng tóm lại chỉ là hai điều: Mến Chúa và yêu người. Hai khoản luật đó có thể “rút gọn” chỉ còn một chữ YÊU. Nói ngắn gọn cho dễ hiểu và dễ nhớ: Luật Yêu – Luật Tình. Đó là Luật hai-trong-một.

Ngoài Mười Điều Răn do Thiên Chúa ban qua Môisê, Giáo Hội còn có Năm Điều Răn. [*] Tất cả 15 điều (10 + 5) đều đồng quy về chữ YÊU. Trong Mười Điều Răn, 3 điều trước là trách nhiệm đối với Thiên Chúa, 7 điều sau là bổn phận đối với mọi người. Có lẽ Thiên Chúa muốn cho chúng ta biết điều này: “Yêu người khó lắm.” Và Ngài muốn chúng ta thể hiện chi tiết đối với nhau, từ suy nghĩ tới lời nói, rồi biến thành việc làm cụ thể. Thánh Giacôbê so sánh: “Đức tin không có hành động là đức tin chết.” (Gc 2:17 và 26) Còn Thánh Gioan gọi những người đó là “kẻ nói dối.” (x. 1 Ga 2:4; 1 Ga 4:20) Yêu thương liên quan công lý, có công lý thì mới có hòa bình đích thực.

Rất ngắn gọn với chỉ một chữ YÊU, không thể ngắn hơn được nữa, nhưng “xòe” chữ Yêu đó ra theo hình cánh quạt thì lại vô cùng bao la. Chữ Yêu đó “viết” theo dạng tương tự chữ Thập – Thập Giá. Yêu là Thập Giá, là chịu mọi đau khổ. Thánh Vincent de Paul đặt vấn đề: “Tôi yêu mến Chúa chưa đủ nếu tha nhân của tôi chưa yêu mến Ngài.” Người khác chưa thực sự yêu mến Chúa cũng có phần do lỗi của chúng ta, vì “tấm gương” của chúng ta chưa đủ lớn và chưa đủ sáng để người khác có thể soi vào! Chúa Giêsu “nhắc khéo” qua lời chúc: “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa!” (Lc 11:28) Phúc này còn quan trọng hơn cả việc Đức Mẹ được cưu mang và cho Con Thiên Chúa bú mớm. Có yêu mến Thiên Chúa thì mới “lắng nghe và tuân giữ” lời Thiên Chúa.

Chữ Yêu liên quan chữ Thập, có bốn hướng: Hướng lên trời là hướng đến với Thiên Chúa, hai hướng ngang là các hướng đến với tha nhân (cả người trên và dưới, lớn và nhỏ, sang và hèn, giàu và nghèo, giỏi và dốt,…), và hướng xuống để đến với các linh hồn nơi Luyện Hình. Thật tuyệt vời biết bao! Cũng vậy, chữ Yêu bắt đầu bằng mẫu tự Y, giống như một người đứng dang rộng đôi tay. Chỉ những ai có lòng yêu thương thực sự, biết động lòng trắc ẩn người khác, biết thương xót tha nhân thì mới có thể dang rộng vòng tay như vậy. Không ai có thể giả bộ được. Thiên Chúa đã quan phòng và tiền định cho Việt ngữ có dạng độc đáo lắm!

Như chúng ta đã biết là “luật vị nhân sinh.” Luật vì con người, nghĩa là luật có sau con người. Tuy có trước luật, nhưng con người lộng hành, thế nên cần có luật để chấn chỉnh, luật như chiếc hàm thiếc kiềm chế ngựa chứng. Đất nước nào cũng có hiến pháp, quốc gia nào cũng có quốc pháp, nhà nào cũng có gia phong, dù chỉ một nhóm nhỏ cũng có luật, chí ít cũng là nội quy, hoặc các quy ước bất thành văn. Kitô giáo có Mười Điều Răn là Hiến Pháp Nước Trời. Thánh Phaolô nói: “Lề Luật đã thành người quản giáo dẫn chúng ta tới Đức Kitô, để chúng ta được nên công chính nhờ đức tin.” (Gl 3:24) Càng vững tin càng trở nên công chính.

Ngay từ thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã truyền nghiêm luật: “Người ngoại kiều, ngươi KHÔNG được ngược đãi và áp bức, vì chính các ngươi đã là ngoại kiều ở đất Ai Cập. Mẹ goá con côi, các ngươi KHÔNG được ức hiếp. Nếu ngươi ức hiếp mà nó kêu cứu Ta, ắt Ta sẽ nghe tiếng nó kêu cứu. Cơn giận Ta sẽ bốc lên, Ta sẽ cho gươm chém giết các ngươi: thế là vợ các ngươi sẽ thành goá bụa, và con các ngươi sẽ thành côi cút.” (Xh 22:20-23) Rất rõ ràng, cụ thể.

Cựu Ước đã có “luật đạo đức và luật tôn giáo.” (Xh 22:17-30) Bất cứ luật nào cũng phải bao gồm yêu thương, quyết bảo vệ và nâng đỡ người “nhỏ bé,” nhưng phải trừng phạt kẻ “lớn” mà ngông cuồng, hống hách. Luật không thể theo kiểu “luật rừng,” mà phải nghiêm minh như quân luật: Quân pháp bất vị thân. Nói đầy đủ là: “Pháp bất vị thân, nghĩa bất dung tình.” – Pháp Luật KHÔNG được thiên vị mà bênh vực người thân, và Nghĩa Lý KHÔNG được bao che bất cứ ai vì tình cảm. Thật không dễ, nhất là trong xã hội Việt Nam nhiễu nhương ngày nay. Ai làm được vậy mới đáng tâm phục khẩu phục, là đại nhân, là quân tử, là người thẳng thắn giống Đức Giêsu Kitô.

Chúa Giêsu nói rằng Lề Luật chính xác đến từng chi tiết, một chấm một phết cũng không sai. (Mt 5:18) Thật vậy, Luật Chúa rạch ròi đến từng chi tiết: “Nếu ngươi cho một người trong dân Ta, một người nghèo ở với ngươi vay tiền, thì ngươi không được xử với nó như chủ nợ, không được bắt nó trả lãi. Nếu ngươi giữ áo choàng của người khác làm đồ cầm, thì ngươi phải trả lại cho nó trước khi mặt trời lặn. Nó chỉ có cái đó để đắp, để làm áo che thân; nó sẽ lấy gì mà ngủ? Nó mà kêu cứu Ta, Ta sẽ nghe nó, vì Ta vốn nhân từ.” (Xh 22:24-26) Thiên Chúa là Đấng luôn chạnh lòng thương người thấp cổ bé miệng nên Luật của Ngài là Công Luật, Thiên Luật, Thánh Luật, chan chứa Lòng Thương Xót. Quả thật, Luật Chúa là luật thiện hảo khôn ví!

Khôn tả khi được sống trong luật thiện hảo như vậy, vì thế mà Thánh Vịnh gia đã minh định: “Con yêu mến Ngài, lạy Chúa là sức mạnh của con. Lạy Chúa là núi đá, là thành luỹ, là Đấng giải thoát con; lạy Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con trú ẩn, là khiên mộc, là Đấng cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ.” (Tv 18:2-3) Thánh Vịnh gia còn cho biết điều kỳ diệu: “Tôi kêu cầu Chúa là Đấng xứng muôn lời ngợi khen, và tôi được cứu thoát khỏi quân thù.” (Tv 18:4) Đó chính là phép lạ, và điều đó vẫn xảy ra hằng ngày với mọi người – dù tín nhân hoặc vô thần.

Từng giây phút chúng ta cũng vẫn nhận lãnh biết bao hồng ân của Thiên Chúa, nhưng chúng ta thường quên tạ ơn. Giờ đây, dù một thoáng nghĩ, hãy cùng Thánh Vịnh gia xác tín và xưng tụng Ngài: “Đức Chúa vạn vạn tuế! Chúc tụng Người là núi đá cho con trú ẩn. Tôn vinh Thiên Chúa là Đấng cứu độ con, là Thượng Đế giúp con rửa sạch hận thù, bắt chư dân quy phục quyền con.” (Tv 18:47-48) Được vậy, chắc chắn Thiên Chúa lập tức quên hết tội lỗi của chúng ta và âu yếm ôm chúng ta vào lòng, cho chúng ta cư ngụ trong Thánh Tâm êm ái yêu thương của Ngài.

Cuộc sống ai cũng có những khó khăn, mỗi người mỗi kiểu, vấn đề là có nỗ lực hợp tác với ơn Chúa hay không. Thánh Phaolô bộc bạch: “Khi chúng tôi loan báo Tin Mừng cho anh em, không phải chỉ có lời chúng tôi nói, mà còn có quyền năng, có Thánh Thần, và một niềm xác tín sâu xa. Anh em biết, khi ở với anh em, chúng tôi đã sống thế nào để mưu ích cho anh em; còn anh em, anh em đã bắt chước chúng tôi và noi gương Chúa, khi đón nhận lời Chúa giữa bao nỗi gian truân với niềm vui do Thánh Thần ban: bởi vậy anh em đã nên gương cho mọi tín hữu ở miền Makêđônia và miền Akhaia.” (1 Tx 1:5-7) Ước gì chúng ta luôn có thể nói với nhau như vậy, nhất là những người có chức có quyền, đừng ỷ thế cậy quyền mà “tự làm luật” (nguy hiểm nhất là “luật rừng” theo ý riêng) để rồi làm khổ người khác. Có “quyền” là để phục vụ (Mt 20:26-28; Mc 10:43-45) chứ không phải để “hành” người khác, đó mới là “đúng luật” theo Ý Chúa.

Ngoài ra, Thánh Phaolô còn cho biết thêm: “Khi nói về chúng tôi, người ta kể lại chúng tôi đã được anh em tiếp đón làm sao, và anh em đã từ bỏ ngẫu tượng mà quay về với Thiên Chúa thế nào, để phụng sự Thiên Chúa hằng sống, Thiên Chúa thật, và chờ đợi Con của Người từ trời ngự đến, người Con mà Thiên Chúa đã cho trỗi dậy từ cõi chết, là Đức Giêsu, Đấng cứu chúng ta thoát cơn thịnh nộ đang đến.” (1 Tx 1:9-10) Vâng, được như vậy thì chẳng cần nói thêm gì nữa, như trước đó Thánh Phaolô cũng đã xác nhận: “Chúng tôi không cần phải nói gì thêm nữa.” (1 Tx 1:8) Tất cả chỉ vì đức ái theo tinh thần của Đức Giêsu Kitô.

Trình thuật Mt 22:34-40 (≈ Mc 12:28-34 và Lc 10:25-28) nói về “điều răn trọng nhất” – yêu thương, đức ái. Tin Mừng ngắn gọn nhưng súc tích, làm nổi bật vấn đề đức ái.

Một hôm, khi nghe tin Đức Giêsu đã làm cho nhóm Sađốc phải câm miệng – nhóm này không tin có sự sống lại, và cùng những người Pharisêu họp nhau lại để bàn cách “gài bẫy” Chúa Giêsu nhiều lần mà không được. Lần này, một người thông luật trong nhóm hỏi để thử Đức Giêsu: “Thưa Thầy, trong sách Luật Môsê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?” Ngài thản nhiên: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy.” Kinh Thánh không cho biết sau đó thế nào, nhưng chắc chắn là nhóm Sađốc phải ngậm bồ hòn làm ngọt, đành cắn răng mà im như thóc thối vậy thôi.

Nói tới nói lui, nói trước nói sau, nói đi nói lại, nói ngang nói dọc,… nói kiểu nào hoặc theo cách nào thì cũng chỉ để diễn giải đức ái. Chúng ta chấp nhận theo Đức Kitô, tự nguyện chứ không miễn cưỡng, thì phải “giữ trọn vẹn lề luật.” (Gl 5:3) Đó là lẽ tất nhiên, không yêu không được. Tại sao vậy? Thánh Gioan xác định: “Ai KHÔNG yêu thương thì KHÔNG biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu.” (1 Ga 4:8) Còn Thánh Phaolô giải thích và kết luận: “Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy.” (Rm 13:10) Rất rạch ròi, rất lô-gích!

Đức ái vô vô điều kiện, không tính toán, không so đo, không phân bì. Từ thiện là một dạng đức ái. Các thánh đã sống trọn đức ái, yêu “tới bến” và như hóa điên rồ theo cách của Đức Kitô, vì các ngài biết chắc rằng Thiên Chúa không thể ngừng yêu thương. Muốn nên thánh, chúng ta phải có gen Y (yêu) giống như vậy. Chỉ có các Kitô hữu “chính hiệu” mới có loại máu Y – loại máu mà y học không thể biết vì không đủ trình độ để phát hiện.

Thánh LM TS Tôma Aquinô xác định: “Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta, khi chúng ta cho là mình cô độc thì Thiên Chúa vẫn ở bên chúng ta.” Thánh Augustinô cũng xác nhận: “Ngài có đó khi ta tưởng mình cô đơn, Ngài lắng nghe khi chẳng ai đáp lại, Ngài yêu thương khi tất cả hững hờ.” Quả thật, tình yêu Thiên Chúa còn hơn là sự liên tục của hơi thở giúp bảo vệ sự sống, Thiên Chúa không thể ngừng yêu. Chắc chắn như vậy.

Thánh Phaolô khuyên: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái.” (Rm 13:8) Và mỗi chúng ta đều phải nỗ lực thanh toán món nợ đức ái suốt đời!

Lạy Thiên Chúa Tình Yêu, xin tạo cho con trái tim có loại máu như Ngài để con nhận biết chính con, nhờ vậy mà con có thể hết lòng yêu mến Ngài và yêu thương tha nhân vô điều kiện. “Con yêu mến Ngài, lạy Chúa là sức mạnh của con; lạy Chúa là núi đá, là thành luỹ, là Đấng giải thoát con; lạy Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con trú ẩn, là khiên mộc, là Đấng cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ.” (Tv 18:2-3)

Lạy Chúa từ nhân, xin thương tha thứ tội lỗi cho những người suy nghĩ ích kỷ và tham lam mà cứu khổ cứu nạn dân miền Trung đang chịu cảnh tang tóc vì tai họa lũ lụt, xin cho các nạn nhân được hưởng Tôn Nhan Ngài. Lạy Đức Mẹ La Vang, xin chỉ cho dân lành biết loại “lá vằng tâm linh” để có thể đặc trị hoàn cảnh tai ương oan ức này. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

 [*] Có chút “lấn cấn” này: Giáo Hội hiệp nhất và duy nhất, nhưng có những nơi ở giáo phận khác, cùng giáo tỉnh Saigon, vẫn sử dụng kinh Sáu Điều Răn Hội Thánh, chứ không đọc kinh Năm Điều Răn Hội Thánh. (sic!)

Về mục lục

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 30 TN_A

Lm. Inhaxio Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXX Thường Niên Năm A nhấn mạnh “Mến Chúa và Yêu Người là nền tảng của đạo Ki-tô”.

Xh 22: 20-26

Bài Đọc I trích từ “Bộ Luật Giao Ước” của sách Xuất Hành, trong đó Thiên Chúa đòi hỏi dân Ngài phải thực hành đức ái đối với những người khốn khổ nhất: ngoại kiều, mẹ góa con côi, người túng thiếu. Ngài tự đồng hóa mình với họ: “Nó mà kêu cứu Ta, Ta sẽ nghe nó, vì Ta vốn nhân từ”.

1Th1: 5-10

Bài Đọc II tiếp tục trích thư của thánh Phao-lô gửi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, trong đó thánh nhân khích lệ tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca và ca ngợi đức tin kiên vững của họ: dù vừa mới đón nhận Tin Mừng, họ đã phải chịu trăm chiều gian nan thử thách.

Mt 22: 34-40 

Trong Tin Mừng, Đức Giê-su hiệp nhất hai giới luật mến Chúa và yêu người làm một.

BÀI ĐỌC I (Xh 22: 21-27)

Bản văn này được trích từ “Bộ Luật Giao Ước” của sách Xuất Hành. Bộ luật này phản ảnh thời kỳ dân Do thái không còn sống đời du mục nữa, nhưng định cư lập nghiệp ở đất Ca-na-an (Đất Hứa). Vì thế, bộ luật này có thể được ấn định niên biểu vào thời hậu Mô-sê, chính xác hơn vào những giai đoạn đầu tiên của thời kỳ định cư, trước khi tổ chức thành một quốc gia, tức vào thời Thủ Lãnh, khoảng năm 1200 và 1030 trước Công Nguyên. Đây là bộ luật của một xã hội chăn nuôi và nông nghiệp. Bộ luật được đặt vào trong bối cảnh hư cấu văn chương: “Trên núi Xi-nai, Chúa phán với dân Ít-ra-en” để nhấn mạnh rằng bộ luật này vẫn tiếp nối tinh thần Luật Mô-sê và chỉ khai triển Luật Mô-sê.

Về phương diện hình thức, “Bộ Luật Giao Ước” này có nhiều quan hệ thân cận với các luật của miền Cận Đông xưa như Bộ Luật Hammourabi, vua Ba-by-lon, vào năm 1700 trước Công Nguyên, trong đó luật cũng được diễn tả theo biểu thức điều kiện: “Nếu ngươi làm điều này, nếu ngươi làm điều nọ”. Một biểu thức khác, hiếm hơn trong những bản văn luật thời xưa, nhưng thường gặp trong Cựu Ước, đó là biểu thức mệnh lệnh thường nhất được diễn tả theo hình thức lệnh cấm: “Ngươi không được…”, như trong Thập Giới (Xh 20: 3-17), trong đó chỉ có hai giới răn được diễn tả theo hình thức lệnh truyền: “Ngươi hãy…”. Trong bản văn của chúng ta, hình thức lệnh cấm cũng chiếm ưu thế.

Về phương diện nội dung, Bộ Luật Giao Ước phân biệt rõ nét với các bộ luật ngoại quốc có cùng xuất xứ. Sự độc đáo của Bộ Luật Giao Ước ở chỗ chính Thiên Chúa đứng ra bảo đảm luật, vì thế vi phạm luật đồng nghĩa xúc phạm đến chính Thiên Chúa. Đức Ái được đề cao như luật cốt yếu của cuộc sống xã hội, vì thế, hai giới luật: mến Chúa và yêu người, vốn đã được liên kết cùng nhau rồi.

  1. “Người ngoại kiều”

Ở Ít-ra-en, có nhiều quy chế liên quan đến ngoại kiều. Trước hết, “ngoại kiều cư trú” được hưởng một quy chế khá thuận lợi (nhất là người làm thuê ngụ ở nhà chủ mình). Đoạn, “ngoại kiều vãng lai” được hưởng truyền thống hiếu khách. Cuối cùng, “ngoại kiều nhập cư” phải chịu một quy chế khắc khe. Chính hoàn cảnh của “ngoại kiều nhập cư” này mà Bộ Luật Giao Ước lưu ý. Nguyên do được nêu ra là tính lịch sử: “Vì chính các người đã là ngoại kiều ở Ai-cập”. Phải nhấn mạnh rằng các luật pháp của miền Cận Đông thời xưa không bao giờ nêu ra nguyên do của các luật được ban hành. Vì thế, đây là nét đặc thù của Kinh Thánh.

  1. “Mẹ góa con côi”

Thân phận của người phụ nữ ở Ít-ra-en thời xưa là “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Vì thế, người phụ nữ góa chồng khó có thể tìm được nơi nương tựa. Nếu không có của cải, người phụ nữ này có thể lâm vào một cuộc sống khốn khổ, nhất là phải gánh vác trách nhiệm nuôi dưỡng con cái. Những cảnh ngộ thương tâm như thế rất thường trong những xã hội thời xưa. Thế nên, luật pháp quan tâm đến cảnh ngộ mẹ góa con côi này như phần kết của Bộ Luật Hammourabi: “Ta đã viết những lời này trên bia đá ngõ hầu kẻ mạnh không ức hiếp người yếu và trả lại sự công bình cho mẹ góa con côi”.

Như chúng ta đã nói trên, nét độc đáo của luật Kinh Thánh chính là viện dẫn Thiên Chúa, Đấng bênh vực bảo vệ tình cảnh mẹ góa con côi: “Nếu ngươi ức hiếp mà nó kêu cứu Ta, ắt Ta sẽ nghe tiếng nó kêu”. Thiên Chúa sẽ đích thân can thiệp và “sẽ cho gươm giết các ngươi”, nghĩa là các ngươi sẽ bị giết chết trong chiến tranh. Một cách nào đó, đây là luật “ân oán phân minh”, nghĩa là vợ con của họ cũng sẽ trở thành mẹ góa con côi.

  1. Cho vay nợ

Mối quan hệ của mọi thành viên dân Thiên Chúa là cốt nhục tình thâm, vì thế không được để cho bất cứ một ai trong anh chị em mình phải sống trong cảnh nghèo khổ túng thiếu. Phải cho anh chị em vay mượn nhưng không đòi trả lãi.

Tại các dân tộc lân cận, người ta cho vay lấy lãi. Bộ Luật Giao Ước cấm không được cho anh chị em đồng bào của mình vay lấy lãi như thế. Việc vay lấy lãi được trình bày như đối lập với luật yêu thương anh chị em đồng bào mình. Quả thật, sách Đệ Nhị Luật xác định: “Người nước ngoài, anh em được cho vay lấy lãi, còn người anh em của anh thì không được cho vay lấy lãi; như vậy, Đức Chúa, Thiên Chúa của anh sẽ chúc phúc cho anh trong mọi công việc tay anh làm, trên đất anh sắp vào chiếm hữu” (Đnl 23: 20-21).

Đức Giê-su sẽ hủy bỏ quan niệm yêu thương bị giới hạn chỉ trong vòng anh em đồng bào này. Phải ghi nhận rằng luật “Cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả” mở rộng đến hết mọi người, bởi vì “Tứ hải giai huynh đệ”.

Để tránh người vay lạm dụng, người cho vay có thể lấy áo choàng làm vật thế chấp. Bản văn đưa ra một ví dụ ý nhị: người nghèo cần áo choàng làm chăn đắp ban đêm, vì thế “Nó mà kêu cứu Ta, Ta sẽ nghe nó, vì Ta vốn nhân từ”. Lại một lần nữa, bản văn khẳng định rằng Thiên Chúa bảo đảm luật yêu thương tha nhân. Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su khẳng định mến Chúa và yêu người là hai mặt của một thực tại.

BÀI ĐỌC II (1Th1: 5-10)

Vào Chúa Nhật hôm nay, chúng ta tiếp tục đọc thư của thánh Phao-lô gửi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca.

  1. Tấm gương của những người loan báo Tin Mừng

Thánh nhân nói đến cách sống của mình cùng với những người bạn đồng hành của mình là ông Xin-va-nô và ông Ti-mô-thê: “Anh em biết khi ở với anh em chúng tôi đã sống thế nào để mưu ích cho anh em”, mà không nêu ra bất kỳ một chi tiết cụ thể nào. Sau này, thánh Phao-lô sẽ đề cập vấn đề này một cách cụ thể và rõ ràng hơn như tấm lòng ưu ái mà thánh nhân dành cho họ. Trong đoạn trích thư hôm nay, thánh nhân ca ngợi các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca là “noi gương các vị mục tử của họ và bắt chước Chúa”.

Chúng ta đừng quên rằng lúc này thánh Phao-lô đang ở Cô-rin-tô, một cộng đoàn Ki-tô hữu mà thánh nhân vừa mới thành lập. Sau này ngài viết cho các tín hữu Cô-rin-tô cùng một lời khuyên như vậy: “Anh em hãy bắt chước tôi như tôi bắt chước Chúa Ki-tô” (1Cr 11: 1) và cho các tín hữu Phi-líp-phê nữa: “Thưa anh em, xin hãy cùng nhau bắt chước tôi, và chăm chú nhìn vào những ai sống theo gương chúng tôi để lại cho anh em.” (Pl 3: 17).

  1. Tấm gương của các Ki-tô hữu Thê-xa-lô-ni-ca

Những người loan báo Tin Mừng, dù đã phải trải qua biết bao gian truân, vẫn cảm thấy niềm vui vì họ thấy thành quả Tin Mừng ở nơi các tín hữu nhờ tác động của “Thánh Thần”. Quả thật, các Ki-tô hữu Thê-xa-lô-ni-ca, dù đón nhận Tin Mừng trong một thời gian ngắn và phải chịu trăm chiều thử thách, trở nên tấm gương sáng cho mọi người: “Từ nơi anh em, Lời Chúa được vang ra; không những ở Ma-kê-đô-ni-a và A-khai-a, mà đâu đâu người ta cũng nghe biết lòng tin anh em đặt vào Thiên Chúa…”

  1. Lương dân đón nhận đức tin

Thánh Phao-lô diễn tả niềm vui của ngài vì lương dân mở rộng lòng đón nhận đức tin: “Anh em đã từ bỏ ngẫu tượng mà quay về với Thiên Chúa như thế nào, để phụng sự Thiên Chúa hằng sống và chân thật”. Như các ngôn sứ thời xưa, thánh Phao-lô đối lập các ngẫu tượng có mắt có tai mà không nghe không thấy với Thiên Chúa hằng sống và chân thật. Thánh nhân ca ngợi họ đã hiểu ý nghĩa cuộc sống Ki-tô hữu: phụng sự Thiên Chúa hằng sống và chân thật và chờ đợi ngày quang lâm của Con Thiên Chúa, Đấng phục sinh từ cõi chết, cứu độ chúng ta và giải thoát chúng ta khỏi cơn thịnh nộ đang đến.

Ở đây, thánh nhân tóm gọn những điều cốt yếu trong lời rao giảng của ngài. Lời rao giảng của thánh nhân theo cùng cung giọng với lời rao giảng của Giáo Hội tiên khởi, như chúng ta gặp thấy trong sách Công Vụ.

TIN MỪNG (Mt 22: 34-40)

Câu chuyện này được cả ba Tin Mừng Nhất Lãm trình thuật. Tuy nhiên, chỉ một mình thánh Mát-thêu đặt câu chuyện này vào trong bối cảnh tranh luận của những người Pha-ri-sêu với Chúa Giê-su.

  1. Vấn nạn nhóm Pha-ri-sêu nêu lên

Theo thánh Mát-thêu, sau khi nghe tin Đức Giê-su đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng về vấn đề kẻ chết sống lại, nhóm Pha-ri-sêu lại xuất hiện và bày mưu tính kế hãm hại Đức Giê-su. Trước đây, họ đã liên minh với nhóm Hê-rô-đê để giăng bẫy Ngài về vấn đề chính trị: “Có được phép nộp thuế cho Xê-da không?” (Mt 22: 15-22), nay về vấn đề tôn giáo: “Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, giới luật nào là giới luật quan trọng nhất?”. Quả thật, sách Luật Mô-sê, tức bộ Ngũ Thư, chứa đựng vô số những lệnh truyền và lệnh cấm, tổng cộng đến 613 điều phải tuân giữ. Trong muôn vàn giới luật này, làm thế nào nhận ra giới luật nào quan trọng nhất để rồi từ đó chú tâm tuân giữ giới luật quan trọng bậc nhất này là có thể chu toàn các giới luật còn lại? Trong một thời gian dài từ thế hệ này đến thế hệ khác, các nhà thông luật tranh luận với nhau nhưng không đưa ra một giải pháp nào thỏa đáng cả. Vì thế, đây là một vấn đề có tính thời sự vào lúc đó, nhưng trong hoàn cảnh này, vấn đề được nêu ra là nhằm gài bẫy Đức Giê-su, điều đó cho thấy ác tâm của nhóm Pha-ri-sêu này.

  1. Câu trả lời của Đức Giê-su

Đức Giê-su không xuất thân từ trường lớp nào của các kinh sư. Ngài có thái độ khá tự do đối với các giới luật như Ngài sẵn sàng vi phạm huấn lệnh ngày sa-bát (huấn lệnh quan trọng, thậm chí rất quan trọng nữa) vì con người; Ngài và các môn đệ Ngài không thực hành việc rửa tay trước bữa ăn; cũng như Ngài giao du với những người tội lỗi mà người Pha-ri-sêu tránh tiếp xúc để giữ mình khỏi ô uế. Tuy nhiên, Đức Giê-su khẳng định rằng Ngài không đến để hủy bỏ Lề Luật và lời dạy của các ngôn sứ, nhưng kiện toàn bằng cách đề xuất những quan niệm của riêng mình. Trước vấn nạn mà nhóm Pha-ri-sêu nêu ra, Ngài sẽ trả lời như thế nào? Rốt cuộc, câu trả lời của Ngài sẽ cung cấp cho những con người ác tâm này lý do để buộc tội Ngài chứ?

Trước hết, Chúa Giê-su trả lời khi trích dẫn giới luật “mến Chúa” trong sách Đệ Nhị Luật: “Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em” (6: 4-5). Giới luật này trở thành kinh nguyện của người Do thái (được gọi là kinh Shema: “Nghe đây”), luôn luôn đứng hàng đầu trong các kinh nguyện Do thái, và được đọc mỗi ngày hai lần. Kinh nguyện này nói lên niềm hãnh diện của dân Ít-ra-en, qua đó họ khẳng định dân tộc của họ khác với các dân tộc khác: không chỉ thờ phượng Thiên Chúa duy nhất và hữu vị, nhưng còn yêu mến Ngài trọn cả tấm lòng của mình. Tiếp đó, Đức Giê-su trích dẫn giới luật “yêu người” trong sách Lê-vi: “Ngươi phải yêu thương người thân cận như chính mình” (19: 18).

Như vậy, Chúa Giê-su đem đến cho vấn nạn mà nhóm Pha-ri-sêu nêu lên một lời giải đáp thật sự mới mẽ.

Trước hết, giới luật yêu người thân cận được trích dẫn trong sách Lê-vi chỉ giới hạn ở nơi dân tộc Do thái, trong khi Đức Giê-su mở rộng ra với hết mọi người. Trong cùng một câu chuyện, thánh Lu-ca đã khai triển điểm mới mẽ này khi để cho thầy thông luật nêu lên vấn đề: “Nhưng ai là người thân cận của tôi?” được Chúa Giê-su trả lời bằng dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu, người mà người Do thái xem là kẻ thù không đội trời chung, và cuối cùng mời gọi thầy thông luật này hãy làm như người Sa-ma-ri để được sự sống đời đời làm gia nghiệp (Lc 10: 29-37).

Thứ nữa, hai giới luật này được trích dẫn từ hai sách khác nhau: giới luật mến Chúa trong sách Đệ Nhị Luật (6: 4-5), còn luật yêu người thân cận trong sách Lê-vi (19: 18). Người Do thái cũng đã nhận biết giới luật yêu người thân cận là quan trọng vì đây là luật của Thiên Chúa, vì thế vi phạm giới luật này là xúc phạm đến chính Thiên Chúa. Nhưng trong lời dạy của truyền thống kinh sư, luật mến Chúa được đặt lên hàng đầu, vì thế rất dễ bỏ qua hay thậm chí hy sinh luật “yêu người” vì “mến Chúa”, như những lời phê phán của Đức Giê-su trong những cuộc tranh luận của Ngài với những giai cấp lãnh đạo Do thái về ngày sa-bát. Nét độc đáo trong câu trả lời của Chúa Giê-su không chỉ vì Ngài trích dẫn hai giới luật này như là hai giới luật quan trọng bậc nhất, nhưng Ngài còn liên kết hai giới luật thành một: “Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn này”.

  1. Sự duy nhất của luật “mến Chúa và yêu người”

Việc hiệp nhất hai giới luật mến Chúa và yêu người là nét đặc trưng của Ki-tô giáo: vì mỗi người đều được tạo dựng theo hình ảnh và họa ảnh của Thiên Chúa (St 1: 26-27) mà Công Đồng Va-ti-can II gọi là “thiên chức toàn vẹn của con người” (“Niềm Vui và Hy Vọng”, 11). Hơn nữa, Đức Giê-su, Con Thiên Chúa làm người, tự đồng hóa mình với mỗi người, đặc biệt là những người nghèo khổ, những người thấp cổ bé miệng: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25: 40, 45). Như vậy, hai giới luật cùng nhau hình thành nên nền tảng cuộc sống của người Ki-tô hữu. Giới luật yêu người chỉ gặp thấy điểm quy chiếu và ý nghĩa trọn vẹn của nó chỉ trong giới luật mến Chúa. Trong toàn bộ Tân Ước, thánh Gioan cho chúng ta lời giải thích ngắn gọn nhất và dễ hiểu nhất về sự duy nhất của mến Chúa và yêu người:

“Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’

mà lại ghét anh em mình,

người ấy là kẻ nói dối;

vì ai không yêu thương

người anh em mà họ trông thấy,

thì không thể yêu mến Thiên Chúa

mà họ không trông thấy” (1Ga 4: 20).

Về mục lục

 

GIỚI RĂN TRỌNG NHẤT-

Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Khi xếp hạng một điều gì là “nhất”, thông thường điều được gọi là nhất ấy chỉ có một mà thôi. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu lại khẳng định cả hai điều được coi nhà nhất. Quả vậy, sau khi trích dẫn quy định của luật Cựu ước: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”, Người nói: “Đó là điều răn trọng nhất và điều răn thứ nhất”. Tiếp theo Người khẳng định: “Điều răn thứ hai, cũng giống như điều răn ấy, là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình ngươi”. Như vậy, mến Chúa yêu người có vẻ như hai điều răn, nhưng thực ra chỉ một giới răn duy nhất, giống như hai mặt của cùng một tấm huân chương, vì cả hai đều mang tầm quan trọng như nhau. Giới răn này là tình yêu mến nhằm tới hai đối tượng: Thiên Chúa và tha nhân. Mến Chúa và yêu người thường đi đôi với nhau và làm nên một đức mến hoàn hảo. Nói cách khác, mến Chúa mà không yêu người thì chỉ là lý thuyết suông; yêu người mà không đặt trên nền tảng vì Chúa sẽ thiếu đi khía cạnh siêu nhiên và có nguy cơ trở thành tình yêu ích kỷ. Yêu mến tha nhân là cụ thể hóa lòng yêu mến Chúa.
 
Tại sao phải yêu mến Thiên Chúa?  Tình yêu đâu có phải là một lệnh truyền hay một điều bắt buộc? Nhiều người đã đặt ra câu hỏi này. Tình yêu mến dành cho Thiên Chúa được coi như một giới răn từ thời Cựu ước, bởi vì Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và là Đấng giải phóng con người. Mỗi người Do Thái được dạy ngay từ thuở còn thơ để nhận ra Thiên Chúa là Đấng che chở hướng dẫn dân riêng của Ngài. Vì thế, tình yêu mến mỗi con dân Do Thái dành cho Chúa vừa là lòng hiếu thảo như đối với đấng sinh thành, vừa là lòng biết ơn vì Ngài đã giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ Ai Cập để đưa về miền đất hứa.
 
Đối với chúng ta hôm nay, là dân Israen mới, lòng yêu mến Thiên Chúa xuất phát từ việc chân nhận Ngài là Đấng dựng nên vũ trụ và dựng nên con người. Lòng yêu mến mà chúng ta dành cho Chúa vừa là lòng biết ơn, và là lời tôn vinh quyền năng cao cả của Ngài. Đó không phải một thứ yêu mến vị lợi, nhưng xuất phát từ trái tim chân thành, như con thơ đối với cha mẹ. 
 
Tại sao lại phải yêu mến tha nhân? Nếu tìm trong giáo huấn của Tin Mừng, chúng ta sẽ thấy câu trả lời của chính Chúa Giêsu: tha nhân là anh chị em với chúng ta, vì hết thảy chúng ta có cùng một Cha trên trời là Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn bênh vực và đứng về phía người nghèo, người góa bụa và cô nhi. Đó là một trong những điểm nhấn trong giáo huấn của Cựu ước, như Bài đọc I đã diễn tả: “Các ngươi đừng làm hại cô nhi quả phụ. Nếu các ngươi hà hiếp những kẻ ấy, họ sẽ kêu thấu đến Ta, và chính Ta đã nghe tiếng họ kêu van”. Được trình bày trong lối văn chương và quan niệm của Cựu ước, Thiên Chúa còn sẵn sàng ra tay đối với những ai ức hiếp người nghèo.
 
Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu còn khẳng định: Người đồng hóa và hiện thân nơi những người bất hạnh, đến nỗi những ai xúc phạm người nghèo là xúc phạm Chúa, những ai giúp đỡ người nghèo là giúp đỡ Chúa (x. Mt 25). Chúa dạy chúng ta không chỉ yêu mến người làm ơn cho mình. Tình yêu mến này vượt qua mọi ranh giới, thậm chí yêu thương cả kẻ thù và cầu nguyện cho họ. Yêu thương kẻ thù là bằng chứng của lòng bao dung và sự tha thứ đích thực.
 
Đức mến là cốt lõi của Đạo Chúa. Đức mến cũng là nội dung chính của Luật Môi-sen và sách các Ngôn sứ, như lời Chúa Giêsu đã quả quyết. Sau này, Thánh Phaolô cũng diễn tả một cách rất xác tín: “Yêu thương thì chu toàn Lề luật” (Rm 13,10).
 
Đức mến mà chúng ta đang bàn tới không chỉ dừng ở lý thuyết, nhưng phải được thể hiện và chứng minh qua việc làm. Thánh Phaolô đã khen ngợi cộng đoàn tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, vì những việc tốt lành họ đã làm để sống đức tin, qua việc đón tiếp các anh chị em đồng đạo và qua việc từ bỏ ngẫu thần, chuyên tâm phụng thờ Thiên Chúa. Nói cách khác, cộng đoàn tín hữu này được khen ngợi vì họ mến Chúa yêu người.
 
Như chúng ta vẫn đọc trong câu kết của kinh Mười điều răn: “Mười điều răn ấy tóm lại hai này mà chớ: trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy”, lòng mến  là cốt lõi của Đạo Chúa và tóm lược toàn bộ giáo huấn của Ngài. Khi thực thi tình mến một cách đích thực, chúng ta trở nên quảng đại, khước từ những toan tính mưu cầu lợi ích riêng. Tình yêu đích thực sẽ làm cho con người được tự do, vì sẵn sàng hiến thân và hy sinh vì lợi ích của Nước Trời và lợi ích của tha nhân. Tình yêu hướng chúng ta về những người đang sống xung quanh mình, quan tâm tới họ và giúp cho họ hạnh phúc. Mến Chúa yêu người, đó là giới răn trọng nhất.
 
“Tình yêu có đôi chân đến với người nghèo. Tình yêu có đôi mắt để thấy bất hạnh và thiếu thốn. Tình yêu có đôi tai để nghe được tiếng than thở của tha nhân” (Thánh Augustinô).
“Yêu là tìm hạnh phúc của mình trong chính hạnh phúc của kẻ khác” (Léibnitz).

Về mục lục

.

LUẬT YÊU MẾN

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Người Do Thái có quá nhiều luật lệ. Họ lại có thái độ duy Lề Luật. Nên tỉ mỉ tuân giữ tất cả mọi điều. Không còn biết điều nào là chính điều nào là phụ nữa. Hôm nay, nhân một câu hỏi. Chúa Giêsu đã cho ta biết chỉ có một điều luật quan trọng: LUẬT YÊU MẾN. Luật này có 2 khía cạnh.

1) Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn. Nghĩa là yêu mến hết khả năng, hết sức lực. Ta phải yêu mến Chúa như thế thật hợp tình hợp lý.

Vì Chúa đáng yêu đáng mến vô cùng. Chúa là nguồn mạch mọi sự thiện hảo. Ngài là toàn chân, toàn thiện, toàn mỹ. Nơi Ngài không có một tì vết, khuyết điểm nào. Trong đời sống ai cũng yêu thích những gì tốt đẹp. Chúa là Đấng vô cùng tốt đẹp. Yêu mến Ngài là điều tự nhiên. Ai hiểu biết cũng đều yêu mến Chúa.

Hơn nữa Chúa còn là Đấng sinh thành ra ta. Chính Chúa ban cho ta tất cả. Ta có mặt ở đời này là do ý định của Chúa. Tất cả nhừng gì chúng ta có và chúng ta là đều bởi Chúa. Chúa là vị ân nhân lớn nhất của ta. Yêu mến Chúa là việc làm không những tự nhiên mà còn là bổn phận nữa.

2) Yêu người thân cận như chính mình. Đó là điều răn thứ hai mà Chúa Giêsu nói cũng giống như điều răn thứ nhất. Thực ra đó chỉ là một điều răn vì những lý do sau:

Yêu Chúa và yêu người là hai khía cạnh của một tình yêu. Tình yêu chân thật là tình yêu không có giới hạn, không có loại trừ. Vì thế đã yêu Chúa thì phải yêu người. Nếu tình yêu bị giới hạn, có loại trừ thì sẽ trở thành giả tạo.

Tình yêu đối với tha nhân kiểm chứng tình yêu đối với Thiên Chúa. Thánh Gioan Tông đồ đã nói: “Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta nhận được từ nơi Người: Ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” (1Ga 4,20-21).

Còn hơn thế nữa. Ai yêu anh em là yêu chính Chúa. Vì Chúa ở trong anh em. Hơn thế nữa, Chúa ẩn thân trong những anh em bé mọn nhất. Vì thế trong ngày phán xét Chúa nói với ta rằng: “Ta bảo thật cho các người: mỗi lần các người làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các người đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25-40).

Tất cả mọi điều răn khác đều quy về hai điều răn này. Nếu ta giữ trọn vẹn giới răn này, không những ta chu toàn Lề Luật mà còn góp phần xây dựng một thế giới mới, thế giới chan hòa yêu thương, chan hòa tình người. Và đó chính là khởi điểm của thiên đàng mai sau.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Yêu mến Chúa hết tâm hồn, hết trí khôn. Bạn thấy điều này có hợp tình hợp lý không?

2) Tại sao ta phải yêu tha nhân?

3) Bạn có cảm nghiệm được niềm vui khi ta yêu thương không?

4) Bạn nghĩ thế nào về một thế giới trong đó chỉ có những người yêu thương nhau.

Về mục lục

.

XÃ HỘI VÔ CẢM

Lm. Jos Tạ duy Tuyền

Hiện nay một căn bệnh trầm kha đang gặm nhấm tình người chính là bệnh vô cảm. Bệnh vô cảm không phải là bệnh của thế lý mà là bệnh của tâm hồn. Căn bệnh này đang lây lan trên toàn xã hội mà chúng ta có thể thấy mọi nơi. Đôi khi ta vẫn thấy hình ảnh những con người vô cảm thản nhiên đứng nhìn cảnh một kẻ mạnh ăn hiếp kẻ yếu; một vụ nữ sinh lột áo, giật tóc, đánh hội đồng; một vụ làm nhục người khác… như xem một màn kịch, lấy điện thoại ra quay rồi tung lên mạng. Người ta coi như không nhìn thấy kẻ gian móc túi trên xe buýt mặc dù việc đó xảy ra sờ sờ trước mắt. Từ những chuyện tranh cãi hay xô xát lặt vặt nhưng không ai lên tiếng can ngăn và thế là dẫn tới án mạng.

Trong trận mưa lớn tháng 10 vừa qua, người ta sợ bể đập thủy điện nên xả nước dẫn đến cơn lũ đã quét sạch nhiều thôn làng gây nên 68 cái chết thương tâm, nhưng những cơ quan chức năng vẫn thản nhiên bảo rằng: “xả lũ đúng quy trình”, “vỡ đê có kế hoạch” mà không hề nuối tiếc vì những việc làm tắc trách của mình đã phá hoại biết bao hoa màu, tài sản và tính mạng con người!

Tại sao con người hôm nay lại không còn biết chạnh lòng thương xót nhau? Tại sao con người lại quá dửng dưng với nỗi đau của tha nhân? Thưa bởi vì căn bệnh “vô cảm” đã phá hủy hết tình liên đới giữa con người với nhau.

Người Việt Nam có truyền thống vô cùng tốt đẹp là”thương người như thế thương thân”, “một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”… Thế nhưng “căn bệnh vô cảm” ngày nay đang gặm nhấm những truyền thống tốt đẹp đó. Nó đã khiến cho con người xa lạ với nhau đến dửng dưng về nỗi khổ của anh em.

Nếu để căn bệnh này lan tràn nó sẽ làm cho xã hội chết về tình người. Một xã hội không liên đới, mạnh ai nấy sống sẽ dẫn đến hủy diệt xã hội, bởi lẽ sự an toàn không còn được ai bảo vệ cho nhau.

Hôm nay Chúa bảo với chúng ta giới răn quan trọng là Mến Chúa – Yêu Người. Phải chăng đây là lúc chúng ta phải làm sống lại tin mừng cho thế giới đang chết về tình người? Phải chăng xã hội hôm nay đang rất cần những men tin mừng để làm dậy lên nếp sống yêu thương, chia sẻ, bác ái, cảm thông với nhau?

Nhưng liệu rằng chúng ta có dám sống triệt để giới răn mến Chúa yêu người giữa một xã hội vô cảm hay không? Liệu rằng chúng ta có dám chịu thiệt thòi để người khác hưởng thụ trên lòng quảng đại của chúng ta hay không? Liệu rằng chúng ta có dám yêu người khi mà người ta đang chơi xấu, đang lợi dụng, đang làm hại chúng ta? Đây là một thách đố và cũng là đòi hỏi triệt để, vì căn tính của người môn đệ Chúa là “yêu mến tha nhân như chính mình”. Vì tình yêu là lẽ sống, là hơi thở của người ky-tô hữu. Không có tình yêu thì sức sống của người tín hữu đã không còn. Không có lòng quảng đại thì không còn là nhân chứng cho Tin mừng Nước Trời của Chúa. Chúng ta không thể nói yêu Chúa mà lại bỏ rơi anh em của mình! Chúng ta phải vượt lên trên lòng ích kỷ, sự hẹp hòi của nhân thế để làm chứng cho một tình yêu nhân ái, bao dung và vị tha.

 Đây chính là sứ điệp mà Tin Mừng hôm nay muốn loan báo. Chúa mời gọi chúng ta hãy yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Đồng thời Ngài cũng đòi buộc chúng ta phải yêu mến tha nhân như chính mình. Chính Thầy Chí Thánh Giê-su đã làm gương cho chúng ta. Chính Ngài khi bị treo trên thập tự giá đã giới thiệu cho nhân thế một tình yêu tinh ròng đến nỗi “dám chết cho người mình yêu”. Ngài đã chọn thập tự giá làm biểu tượng cho tình yêu tự hiến của mình.  Với thanh dọc, Chúa chấp nhận cực hình để tôn vinh Chúa Cha. Với thanh ngang, Ngài muốn ôm trọn nhân loại trong tình thương của Chúa. Người ky-tô cũng được mời gọi trở nên đồng hình đồng dạng với Thầy Giê-su khi chúng ta sống tôn vinh Chúa Cha, và yêu mến anh em như chính mình.

Ước gì giữa một thế giới tình người đang chết dần tình người, chúng ta hãy thắp lên ngọn lửa của yêu thương, để sưởi ấm cho những ai đang cô đơn, thất vọng vì thiếu vắng tình thương, sự cảm thông và nâng đỡ của anh em. Ước gì giữa một xã hội mà chân lý bị vùi giập, chúng ta dám sống cho sự thật, cho dẫu rằng, có bị nghi kỵ, hiểu lầm, kết án và tẩy chay.

Nguyện xin Chúa là tình yêu uốn lòng chúng con nên giống trái tim yêu thương của Chúa. Amen

Về mục lục

.

GIỚI RĂN TRỌNG NHẤT

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu chúng ta đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác, đi từ bỡ ngỡ này tới bỡ ngỡ khác. Chúa Giêsu khi đi rao giảng có người theo, có người từ khước, có người chống đối. Nhóm Biệt phái và Pharisêu luôn tìm cách bắt bẻ, gài bẫy để ám hại Chúa Giêsu. Do đó, những cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và các nhóm chống đối Ngài, không phải vì họ thương Chúa, không phải để họ tìm hiểu, nhưng họ tìm cớ để xem Chúa có sơ hở gì hầu bắt và giết Ngài. Họ đặt câu hỏi mà các Rabbi, những nhà thông luật đưa ra để tranh cãi và vặn hỏi Chúa Giêsu: “ Điều răn nào là điều răn lớn nhất ?“.

Đối với Chúa Giêsu không có một câu hỏi nào. một vấn nạn nào mà những nhà thông luật, nhóm Pharisêu, Biệt phái và Kinh sư có thể bắt bẻ được Ngài bởi vì Ngài là Chúa của họ. Những người có chức có quyền, những nhà lãnh đạo tôn giáo lúc đó cứ tưởng dễ dàng gài bẫy Chúa. Họ tưởng lầm họ là khôn, là thông thái và biết hết mọi sự. Nên, họ dễ dàng coi thường người khác. Chúa Giêsu nhiều lần đã làm cho họ chưng hửng, bỡ ngỡ và xấu hổ. Một phụ nữ phạm tội ngoại tình, họ cứ tưởng đem tới Chúa, Chúa sẽ ra lệnh ném đá…Rồi về việc đóng thuế, Chúa trả lời :” Của Xêda,trả cho Xêda.Của Thiên Chúa, trả cho Thiên Chúa “. Những người Pharisêu và bè nhóm Hêrôđê muối mặt vì câu trả lời khôn ngoan, sâu sắc của Chúa Giêsu. Nhóm Sađucêô không tin có sự sống lại, họ đã đem ra một ví dụ ngớ ngẩn, mơ hồ hòng giăng bẫy và bắt bẻ Chúa Giêsu, nhưng Chúa đã trưng ra câu Kinh Thánh Xh 3, 6 :” Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacóp, Người không phải Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống “. Nghe Chúa trả lời, những người Sađucêô câm họng, không dám hó hé gì.Tuy nhiên, những người Pharisêu lại tiếp tục vào cuộc tranh luận với Chúa Giêsu nhằm hại Ngài. Lần này, một người thông luật trong nhóm hỏi Đức Giêsu để thử Người :” Thưa Thầy trong sách luật Môsê, điều răn nào là điều răn lớn nhất ?”. Chúng ta được biết vào thời Chúa Giêsu, sách luật gồm không hơn không kém 613 điều răn, các Kinh sư phân ra 365 điều cấm tương đương với mỗi ngày trong năm và 243 điều truyền. Những nhà lãnh đạo tôn giáo lúc đó còn bầy ra thêm rất nhiều điều nhỏ nhặt để làm cho dân mệt mỏi.Họ bầy ra luật nhưng không thi hành, họ bắt người dân thi hành mà thôi.

Đối với Chúa Giêsu, câu trả lời của Ngài rất thẳng thắn, Ngài đi thẳng vào điểm chính yếu. Ngài trưng ra câu Kinh Thánh của Sách Đệ Nhị Luật 6, 4-5 :” Nghe đây, hỡi Israen, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất.Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng, hết dạ, hết sức anh em…”. Điểm độc đáo Chúa Giêsu là Ngài liên kết giữa điều răn thứ nhất : yêu mến Đức Chúa, với điều răn thứ hai: yêu mến người lân cận thành một giới răn “. Chúa Giêsu đã gồm tóm được luật của Môsê và các ngôn sứ. Do đó, Chúa Giêsu đã gộp các giới răn khác vào hai giới răn thành một : “ Yêu mến Chúa và yêu tha nhân “. Chúa Giêsu cho chúng ta thấy cái mầu nhiệm thẳm sâu của đời Ngài, một cuộc đời tự hiến vì ý Thiên Chúa Cha, yêu mến Chúa Cha và yêu thương đồng loại.

Vâng, trước câu hỏi hóc búa này, Chúa Giêsu không trả lời họ cách thường thức như họ tra hỏi, nhưng Chúa đã đi vào chiều sâu, đi vào lãnh vực mầu nhiệm để họ có tai mà không hiểu, có mắt mà không thấy được. Chúa cho họ thấy hai giới răn xét bình thường là hai giới răn nhưng thực tế chỉ là một giới răn mà thôi. Người Do Thái, đặc biệt những Pharisêu, Kinh sư, Biệt phái vv…cứ tưởng giữ luật bề ngoài là đã chu toàn lề luật.Nhưng Chúa cho họ thấy cốt lõi của lề luật mới là tình yêu. Yêu Chúa sẽ gặp người và yêu người sẽ gặp Chúa.Những nhóm này luôn câu lệ, vụ luật lấy cái phụ làm chính, lấy cái chính làm phụ.nên, họ chỉ là những con robot rỗng tuếch…Họ cho rằng giữ luật như rửa tay, đóng thuế, giữ ngày Sabbat là đủ, nhưng đó chỉ là bề ngoài.Cái cốt lõi là sống bác ái yêu thương vì Đạo của Chúa là Đạo tình thương.

Ở đời này, muôn thời vẫn có hai loại người, một loại người cứ tưởng đi đạo là giữ một số lề luật cách máy móc, vô hồn là đủ.Họ đã lầm ! Vì đạo không phải đọc vài câu kinh ngoài miệng, nhưng lòng thì xa Chúa, không sống bác ái yêu thương.Loại thứ hai yêu mến Chúa hết lòng, đồng thời cũng yêu tha nhân. Họ lắng nghe, thực hành lời Chúa và sống hết mình vì tha nhân, giúp đỡ, chia sẻ với kẻ nghèo, bần cùng, những người không nhà không cửa vv…Họ đích thực là con Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con một tâm hồn rộng mở để chúng con luôn biết quảng đại yêu mến và giúp đỡ tha nhân.Amen.

Gợi ý để chia sẻ :

1. Tại sao Pharisêu và Biệt phái lại chống đối Chúa Giêsu ?
2. Thời Chúa Giêsu người đã đếm được bao nhiêu khoản luật ?
3. Mến Chúa và yêu người là mấy giới luật ?
4. Tại sao Chúa Giêsu không bãi bỏ luật mà làm cho luật nên hoàn hảo ?

Về mục lục

.

PHẢI YÊU MẾN THIÊN CHÚA TRÊN HẾT MỌI SỰ

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Lại một bẫy khác do con người đặt ra để thử lòng Thiên Chúa. Thay vì một nhóm người như trước, họ chọn ra một đại diện cho cả nhóm. Vì muốn thử thách Chúa, họ chọn một vị thông luật, đã là thông luật nên chắc ông này phải thuộc nằm lòng 613 điều luật ghi trong sách Luật Do thái, trong đó 365 điều luật cấm và 248 điều luật truyền làm, chưa kẻ các điều luật phụ nữa. Ông cũng biết các điều trên được chia thành hai vế trọng luật và khinh luật. Phạm khinh luật thì chịu phạt đền tội, nhưng phạm trọng luật như giết người, thờ tà thần, gian dâm… thì bị tử hình. Vì là viên thông luật, hiển nhiên ông biết rõ mỗi nhóm thích giữ một điều luật và cho rằng điều ấy đối với họ là quan trọng hơn cả, có thể Chúa Giêsu đưa ra điều này trọng đối với nhóm này nhưng lại thường đối với nhóm kia, đó là lý do ông đặt ra câu hỏi với Chúa Giêsu hòng nắm chắc phần thắng về mình : “Thưa Thầy, trong lề luật điều răn nào trọng nhất” ?

Hai Điều răn

Thật không dễ để trả lời. Nếu Chúa trả lời điều luật này trọng, điều luật kia không trọng thì thế nào Người cũng bị qui lỗi là về phe nhóm này, chống nhóm kia, và như vậy Người sẽ mắc bãy của họ.

Chúa Giêsu là Thiên Chúa thấu hiểu lòng người, nhưng Chúa vẫn trả lời. Chúng ta cũng cám ơn vị thông luật này đã hỏi thử Chúa để chúng ta co được chỉ dẫn rõ ràng, xác thực về thứ tự các giới răn.

Chúa Giêsu phán cùng người ấy rằng: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi” (Mt 22, 37). Câu luật này trích trong sách Đệ nhị luật 6,5 có đổi một chút, thay vì “hết sức” thì Chúa nói là “hết trí khôn”. Song cốt yếu không có gì đổi.

Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: “Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi (Mt 22, 39)Luật này trích ở sách Lêvi 19,18 có khác ở chỗ thay vì yêu kẻ khác thì yêu đồng loại : “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình”.

Ba đối tượng yêu thương

Chúa Giêsu kết luận : “Toàn thể Lề luật và sách các Tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó” (Mt 22, 38)Điều răn thì có : thứ nhất mến Chúa, thứ hai yêu người, nhưng gồm ba đối tượng yêu thương : Thiên Chúa, kẻ khác và bản thân.

Đối tượng thứ nhất là Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu ” Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn trọng nhất và điều răn thứ nhất“(Mt 22, 37-38).

Thiên Chúa không đòi hỏi chúng ta nhiều điều, bởi “yêu mến là chu toàn cả Lề luật“(Rm 13, 10). Nhưng tình yêu có hai vế : Yêu mến Thiên Chúa và yêu thương kẻ khác… Khi dạy chúng ta yêu mến Thiên Chúa, Chúa đòi hỏi chúng ta phải yêuhết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn. Còn yêu thương kẻ khác, Chúa Giêsu không bảo ta phải yêu hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ; nhưng yêu kẻ khác như chính mình. Tại sao vậy ? Vì Thiên Chúa “là dũng lực, là Đá Tảng, chiến luỹ, cứu tinh, là sơn động, là khiên thuẫn, là uy quyền cứu độ, là sức hộ phù chúng ta “ (x. Tv 17, 2-3), nên chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa không những hết… mà còn trên hết mọi sự, hơn cả chính mình, vì theo lời Chúa Giêsu thì : ” Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất” (Mt 22, 38).

Đối tượng thứ hai là ” kẻ khác” Chúa phán : “Giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi ” (Mt 22, 39).

Theo quan niệm của Người Do thái lúc bấy giờ thì “tha nhân” là những người đồng chủng, đồng hương, đồng xứ (x. Lv 19, 18). Còn “kẻ khác” được hiểu là hết mọi người, (x. Mt 25, 40). Khi Chúa Giêsu bảo người thông luật “hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi“, Người có ý dạy phải thương yêu mọi người chứ không giới hạn trong những người đồng hương với nhau (Mt 25, 40), không những thế mà lại còn phải yêu thương cả địch thù nữa (Mt 5, 43), và yêu như thế nào ? “Yêu như chính mình ngươi“.

Chúa có truyền dạy chúng ta yêu chính mình không ? Thưa : Thiên Chúa xét thấy không cần buộc con người phải yêu chính mình, vì không ai ghét mình bao giờ. Nhưng cũng có nhiều người tự đánh mất mình khi yêu mến sự ác.. Chúa dạy chúng ta yêu mến Thiên Chúa hết lòng, Người truyền cho chúng ta giới luật phải yêu chính mình. Chắc chắn ai trong chúng ta cũng muốn yêu mình. Thiên Chúa là Tình Yêu, chúng ta là kẻ có tình yêu. Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Thiên Chúa đã dành cho chúng ta một tình yêu khác với chúng ta nghĩ. Tình yêu ấy nuôi dưỡng và củng cố các mối quan hệ của tình yêu chúng ta dành cho bản thân và kẻ khác. Trong thực tế, chúng ta phải yêu bản thân mình trong tình yêu Thiên Chúa đã ban cho chúng ta, và chúng ta có thể bước vào trong tình yêu. Vậy, hãy yêu mến Thiên Chúa hết mình, thì trong Thiên Chúa chúng ta sẽ tìm được chính mình, và tránh được nguy cơ tự đánh mất mình… Nên, theo nguyên tắc, ta yêu kẻ khác như chính mình, yêu Thiên Chúa hết mình và yêu chính mình.

Yêu kẻ khác như chính mình

Khi truyền dạy “Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình“, Chúa Giêsu như đặt một tấm gương để tự chúng ta soi xem mình có yêu “kẻ khác” hay không? Chúa Giêsu xem tình yêu ” kẻ khác ” như “mệnh lệnh của Người,” mệnh lệnh tóm tắt toàn thể lề luật. “Đây là mệnh lệnh của Thầy, là anh em hãy yêu nhau như Thầy đã yêu anh em” (Ga 15, 12). Nhiều người có khi đồng hóa toàn thể Kitô giáo với luật yêu người.

Chúng ta cố gắng đi xa hơn một chút bề mặt của nsự việc. Khi nói về tình yêu kẻ khác, người ta nghĩ ngay tới những “việc làm” như bác ái, hay “phải làm” cho kẻ khác như : cho họ ăn, uống, thăm viếng họ, nói tóm tắt là giúp đỡ kẻ khác. Nhưng đó là hậu quả của tình yêu, chứ chưa phải là tình yêu. Lòng từ tâm tới trước sự làm phúc. Trước khi làm phúc, người ta phải muốn làm phúc.

Thánh Phaolô nói rõ : Đức bác ái phải là “không giả vờ,” tức là, phải chân thật, nghĩa đen, “không giả hình,” (Rm 12, 9); người ta phải yêu “với một con tim trong sạch” ( 1 Pr 1, 22). Trên thực tế, người ta có thể làm việc bác ái và bố thí vì nhiều lý do không dính dáp gì với tình yêu: tô điểm chính mình, để ra vẻ là một người làm điều thiện, được lên thiên đàng, và có khi để trấn an một lương tâm xấu.

 “Như chính mình” Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh người được yêu đồng hóa với người yêu, vì vậy, phải yêu thương kẻ khác bằng chính tình yêu đối với bản thân, nhưng tiên vàn phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Amen.

Về mục lục

.

YÊU LÀ THẾ ĐÓ

Anna Cỏ may

Mặc dù đã thất bại nhiều lần, nhưng nhóm Pharisêu cùng nhóm Hêrôđê và Xađốc không từ bỏ ý định loại trừ Chúa Giêsu. Lần này, chúng cử một người thông luật đến hỏi Chúa Giêsu “Thưa Thầy, trong sách luật Môsê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?”. Chúa Giêsu đáp “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy là “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mt 22, 36-37). Với câu trả lời này, chúng ta dễ lầm tưởng tình yêu của Chúa có một mức độ nào đó. Trong khi đó, chúng ta nói tình yêu của Chúa là không bờ không bến, tình yêu vô tận. Hay thiệt! Nhưng không, có lẽ vì trí hiểu chúng ta có hạn, chúng ta cần có một hành động cụ thể để diễn tả tình yêu sâu sắc, đầy đủ và chân thành hơn.

Khi nói đến tình yêu, chúng ta nghĩ ngay đến biểu tượng của trái tim. Trái tim thể hiện tình yêu, là cõi lòng và là nơi xuất phát tình yêu của mỗi người. Khi đôi lứa yêu nhau thật sâu đậm, họ trao cho nhau những câu nói ngọt ngào “Anh yêu em!” hay “Em yêu anh!”. Không chỉ ở lời nói, họ còn có những cử chỉ trông thật hạnh phúc. Tình yêu đôi lứa là thế đó. Còn tình yêu Chúa Giêsu là thế nào? Vâng, chẳng phải Ngài đã nói yêu Ngài là phải yêu hết lòng, hết cả linh hồn, nghĩa là yêu cả con tim, cõi lòng và luôn một lòng hướng về Ngài. Như Mẹ Maria đã cất tiếng hát rằng “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa”. Vâng, Mẹ đã ca ngợi Chúa bằng tiếng hát và sống lời ấy cả linh hồn, thể xác trong suốt cuộc đời. Để thực hiện đều ấy, Mẹ đã hy sinh những gì Mẹ có, ngay cả trí khôn. Nói đến trí khôn là nói đến sự hiểu biết, là trí thức, suy luận và sự phán đoán của mỗi chúng ta. Chúng ta phải dùng trí khôn ấy để đào sâu tình yêu của Thiên Chúa, dù Thiên Chúa quá Mầu nhiệm và sự hiểu biết  của chúng ta cũng chỉ mon men dọc bờ biển mà thôi. Thật là buồn! Buồn, nhưng vẫn khao khát tìm hiểu Ngài. Có hiểu Ngài, chúng ta mới có thể yêu bằng tình yêu đích thực. Trong Tin Mừng Luca còn nói thêm yêu Chúa là “yêu hết sức lực” (Lc 10,27). Sức lực là sức khỏe để làm việc. Và, yêu không chỉ dừng ở tấm lòng mà còn phải được thể hiện ở bên ngoài. Chúng ta có sức khỏe nhưng lại không làm, cứ lẩn trốn hay làm hời hợt, mặc cho ai đang gánh vác nặng nề. Như thế là ta đã yêu Chúa hết sức lực chưa? Chúng ta hãy tự trả lời.

Chúa Giêsu, Ngài mong muốn chúng ta yêu Ngài bằng cả con người chúng ta trong mọi sự. Vậy làm sao chúng ta thực hiện được? Chúng ta là những con người yếu đuối, sức lực có hạn. Bởi vậy, hoàn cảnh và sự cám dỗ làm cho mục đích hành động của chúng ta dễ xoay chiều. Trong đó, có hai loại sâu đục khoét tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa, đó là ghen tị và nói xấu. Vì thế, thay vì chúng ta yêu Chúa, chúng ta lại yêu mình và quên người anh em của mình. Nhưng đừng vì thế mà nản chí, như Chúa Giêsu đã nói “Kẻ nào bền chí đến cùng, sẽ được cứu thoát” (Mt 10,22). Ngoài ra, điều răn mến Chúa và yêu người là hai nét đẹp của đạo Thiên Chúa, là tình yêu tuyệt vời của người Kitô hữu. 

Lạy Chúa! Chúa là Đấng tình yêu. Những điều răn của Chúa luôn giúp con người sống trong tình yêu. Xin Chúa cho chúng con sống tình yêu Chúa với cả tấm lòng và không ngừng đáp trả tình yêu ấy. Amen.

Về mục lục

.

MAU MẮN SỐNG LỜI

Bông hồng nhỏ

Trên chuyến xe, một giáo lý viên vui vẻ hỏi các học trò của mình:

Đố các em biết, muốn thi vào trường của Thầy Giêsu thì mấy điểm là đậu?

Bất ngờ trước câu hỏi của thầy, các trò đều im lặng suy nghĩ. Ai cũng băn khoăn, muốn tìm cho mình một câu trả lời. Một em trong đám học trò lên tiếng trước:

– Thưa thầy, em nghĩ là không có giới hạn ạ.

– Thầy ghi nhận câu trả lời của em. Có em nào có ý kiến khác không?

Thầy giáo ân cần nhìn những khuôn mặt của đám học trò đang đượm nét suy tư. Được thầy khuyến khích, các em lần lượt đưa ra ý kiến của mình. Sau cùng, đáp án mà thầy đưa ra thật bất ngờ:

– Muốn vào học trường của Thầy Giêsu, chỉ cần đạt hai điểm thôi.

– Hai điểm thôi. Thế là thế nào?

Không để các trò phải đợi lâu, thầy ôn tồn giải thích:

– Có hai điểm thôi mà hai điểm này đều bắt đầu bằng chữ “yêu”. Đó là: mến Chúa và yêu người. Hai điểm này, chúng ta phải học cả đời bằng sự nỗ lực và nghiêm túc. Tự sức mình không thôi thì chúng ta không ai đạt cả. Phải biết rằng, chính Chúa mới “làm cho nó lớn lên.” Các em phải cậy nhờ ơn Chúa từng ngày.

Câu chuyện trên đây cũng vừa nhắc lại bài học mà hơn hai ngàn năm trước, Thầy Giêsu đã giảng dạy và lời dạy ấy vẫn còn hối thúc mỗi người trong thời đại hôm nay và cho đến muôn đời.

Những kẻ chống đối Thầy Giêsu vẫn luôn tìm cơ hội để thử Thầy, tìm cớ để kết án Thầy mà chưa được. Hôm nay, những người Pharisêu cũng họp nhau lại rồi tìm đến hỏi Thầy Giêsu. Họ chọn ra một người thông luật đứng ra mà thưa rằng “Thưa Thầy, trong sách luật Môsê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?” (Mt 22, 36). Quả là một câu hỏi đầy khôn ngoan. Thầy Giêsu không ngần ngại trả lời “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là “ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.” (Mt 22, 37-39). Thầy phải là một người am tường luật và nhất là đã sống trọn vẹn luật ấy mới có thể đưa ra câu trả lời xuất sắc như vậy. Thế nhưng, tại sao họ lại xem Thầy như cái gai cần phải loại trừ chứ không phải là một tấm gương cần học hỏi?

Những người Pharisêu nắm rất rõ về các điều luật và giữ từng chi tiết nhỏ của luật Môsê. Là những thầy dạy, các ông không những giữ luật cẩn thận mà còn buộc người khác giữ luật đến mức khắt khe. Sống trong bầu khí ấy, Thầy Giêsu bị xem là kẻ chống đối lề luật. Xem ra, Thầy không nghiêm túc giữ các chi tiết nhỏ trong bộ luật ấy. Chẳng phải Thầy đã không rửa tay trước bữa ăn, đã ngang nhiên chữa bệnh trong ngày sa bát đó sao. Thầy là cái gai cho những ai sống tinh thần luật vị luật. Theo chân Thầy, bước sát với Thầy trong từng hành trình Thầy đi, ta mới có cơ hội hiểu Thầy hơn. Thầy không sống tinh thần luật vị luật nhưng Thầy đề cao phẩm giá của con người. Tất cả mọi lề luật đặt ra đều nhằm phục vụ con người, là cơ hội làm thăng tiến đời sống con người chứ không phải kìm kẹp và trói buộc con người đến mức giết chết con người. Một lần kia, Thầy Giêsu buồn lắm, buồn cho thái độ cứng nhắc của các kinh sư và biệt phái khi họ cứ khăng khăng chủ trương ngày sa bát không làm gì cả. “Tôi xin hỏi các ông: ngày sabát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay huỷ diệt?” (Lc 6,9). Thầy Giêsu muốn cho họ hiểu rằng, “con người làm chủ ngày ngày sa bát” và ngày của Chúa chính là cơ hội cho con người thánh hóa bản thân. Thầy sống luật và dạy người ta sống luật vị nhân sinh. Thầy yêu người, đó là điều chắc chắn. Và khi thấy Thầy yêu người đến quên cả bản thân mình, người ta sẽ thấy được Thầy yêu Chúa Cha dường nào.

Từ sáng sớm, khi trời còn tối đất, Thầy đã lên núi để cầu nguyện cùng Chúa Cha. Suốt một ngày dài vất vả phục vụ, nâng đỡ và chữa lành cho bao người, tình thương của Thầy cứ trải dài mãi cho bao mảnh đời bất hạnh. Thầy đã tha thiết cầu nguyện cùng Chúa Cha, luôn cảm tạ và ngợi khen Cha mọi lúc. “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, …” (Mt 11, 25). Thầy đã kín múc nguồn tình yêu và ân sủng từ Chúa Cha và để “ý Cha thể hiện”, Thầy đã đến ném lửa vào mặt đấtvà Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!” (Lc 12, 49). Ngọn lửa tình yêu của Thầy mãi bừng cháy và thắp sáng mãi tâm hồn bao người để khi tình yêu Thầy chạm đến họ, họ lại hoan hỷ mang tình yêu ấy trao ban cho người khác. Thầy yêu Chúa Cha và luôn vâng phục Chúa Cha. Thầy yêu Cha và ý Cha cũng là ý của Thầy. Thầy yêu con người bằng cả trái tim. Thầy yêu họ như họ là. Hai điều răn Thầy dạy, chính Thầy đã sống cách trọn vẹn nhất. Thầy là mẫu gương tuyệt vời cho tất cả mọi người. Một tình yêu dâng hiến đến cùng.

Đọc từng lời Thầy dạy, lòng ta như gõ nhịp, từng nhịp hối thúc ta mau mắn sống Lời. Yêu Chúa là luôn tôn thờ, cảm tạ và ngợi khen Chúa trong suốt cuộc đời, luôn biết ưu tiên cho việc thờ phượng Chúa. Đó là cái cánh thứ nhất. Cái cánh thứ hai giúp chúng ta thăng bằng và bay cao hơn chính là việc ta yêu người. Yêu người là đón nhận họ như họ là, là sẵn lòng hy sinh vì họ, hết lòng phục vụ anh em.

Lạy Chúa Giêsu yêu mến! Để sống được hai điều Chúa dạy, chúng con cần có ơn Chúa thật nhiều. Xin cho con luôn biết hướng lòng lên Chúa để tôn thờ, cảm tạ và ngợi khen Chúa suốt cả cuộc đời. Xin cho con thể hiện tình yêu Chúa cách sống động và chân thực nhất mỗi khi con biết yêu thương những người xung quanh con. Amen.

Về mục lục

.

TÌNH YÊU

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

 

Mấy người Biệt phái cùng nhau,
Giải tìm thắc mắc, để sau hại Người.
Sa-đu nể phục ơn trời,
Các nhà thông luật, góp lời hỏi han.
Luật nào trọng nhất Chúa ban?
Mến yêu Thiên Chúa, thiên nhan kính thờ.
Hết lòng, hết trí vô bờ,
Giới răn thứ nhất, thiên sơ diệu vời.
Thứ hai yêu mến con người,
Kẻ lành người dữ, trong đời hôm nay.
Yêu thương như chính mình này,
Chu toàn thánh ý, phúc thay phận người.
Yêu người, yêu Chúa, gọi mời,
Thi hành bác ái, rạng ngời tin yêu.
Tình yêu mầu nhiệm cao siêu.
Tiên tri lề luật, giới điều khắc ghi.
Chu toàn luật Chúa phát huy,
Tin yêu phó thác, gẫm suy trong lòng.
Tình yêu Thiên Chúa ước mong,
Mở lòng thương xót, tinh trong sáng ngời.

Thiên Chúa là tình yêu. Ngài sáng tạo vũ trụ và muôn loài vì yêu. Ngài tạo dựng con người cũng từ tình yêu. Chúa cứu độ con người qua tình yêu. Tình yêu là mầu nhiệm. Mọi loài đều được chia sẻ tình yêu của Thiên Chúa qua nhiều cấp bậc.

Đặc biệt tình yêu nơi con người. Con người có trái tim biết yêu thương và chia sẻ. Có tình yêu dâng hiến, tình yêu gia đình, tình yêu lứa đôi, tình yêu tha nhân, tình bằng hữu và tình yêu tổ quốc… Mỗi thứ tình yêu có thể phát triển tới cùng độ và người ta dám hy sinh cho người mình yêu.

Chính nhờ tình yêu, Thiên Chúa đã giáng thế làm người và đã hy sinh mạng sống để cứu độ con người. Chúa mời gọi chúng ta hãy yêu Chúa hết lòng và yêu tha nhân như chính mình. Chúa đã thực hành. Chúa luôn chia sẻ tình yêu trong sự thông hiệp của Chúa Ba Ngôi. Chúa đã hiến mạng sống mình cho tha nhân vì yêu.

Tình yêu cao vời quá. Tinh yêu của con người quanh quyện nhiều nhu cầu yêu khác nhau. Tình yêu của chúng ta không tinh ròng, nên bị pha chế bởi nhiều vị ích kỷ và cân đo đong đếm. Chúng ta đã yêu nhiều, nhưng thường là yêu những điều chúng ta ưa thích. Chúng ta yêu vì lợi ích của chúng ta nhiều hơn. Chúng ta cũng chưa dám hoàn toàn xả thân vì và cho người khác. Chúng ta còn tính toán hơn thiệt trong tình yêu.

Trong cuộc sống, chúng ta đã học biết và chứng kiến nhiều mối tình dâng hiến thật tuyệt vời. Họ dám xả thân vì và cho người khác. Họ buông bỏ tất cả để ôm lấy sự khổ đau bất bạnh của tha nhân. Các vị đó đã dám hy sinh cuộc đời, cả của cải và lợi lộc trần gian để hiến mình phục vụ. Tình yêu qủa cảm và đáng ngợi khen.

Lạy Chúa, xin tình yêu Chúa chiếu dọi vào lòng chúng con, để chúng con biết yêu mến tha nhân như chính mình và như Chúa đã yêu thương chúng con.

Về mục lục

.

ĐIỀU RĂN QUAN TRỌNG NHẤT

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?” Câu hỏi người thông luật trong nhóm Pha-ri-sêu đặt ra cho Đức Giê-su không khó trả lời, cũng như câu trả lời của Đức Giê-su chẳng có gì mới lạ, vì tất cả đã được ghi rõ trong lề luật: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi (Đệ Nhị Luật 6:5)… Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình… (Lê-vi 19:18)”. Đối với những ai vốn thông hiểu luật như các Pha-ri-sêu thì câu trả lời của Đức Giê-su là quá hiển nhiên và đầy đủ lắm rồi, chẳng thêm thắt gì được nữa. Thế nhưng cũng qua câu giải đáp này, Đức Giê-su lại muốn xác định thêm một điều mà các sách luật chưa nêu rõ, đó là hai điều răn quan trọng nhất ấy có quan hệ mật thiết với nhau, và “tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy”. Vậy thì, trong tâm tư của Người thật sự Đức Giê-su đang muốn khảng định điều gì? Tác giả Mát-thêu khi ghi nhận các điều này, chắc hẳn phải nhận thấy một điều gì đó quan trọng và mới mẻ lắm mà ông muốn truyền đạt tới các Ki-tô hữu tiên khởi gốc Do Thái của ông.

Quả vậy, khi nhóm Pha-ri-sêu đặt vấn nạn này cho Đức Giê-su, chắc hẳn họ đã ngầm nhận thấy trong sứ điệp Người rao giảng có một điều gì đó rất xa lạ đối với nội dung truyền thống của Luật Mô-sê mà họ đang trung thành nắm giữ. Câu trả lời của Đức Giê-su tự nó chẳng giải đáp gì cho thắc mắc họ muốn biết, vì họ thấy nó hoàn toàn đúng, căn cứ theo Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ Cựu Ước mà họ đã quá quen thuộc. Thế nhưng đối với các môn đệ của Đức Giê-su thì đây lại chính là chìa khóa để hiểu ‘điều răn mới’ Người đang muốn truyền đạt.

Bất cứ người Do Thái nào cũng đều biết là phải tôn thờ và yêu mến Đức Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn; lý do là vì chính cha ông họ đã ký kết bền chặt một giao ước với Đức Chúa để được Ngài cho hưởng mọi điều họ mong muốn. Điều kiện căn bản của khế ước này là họ phải hết lòng tôn thờ và yêu mến Đức Chúa ‘hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn’,trên hết mọi sự. Lịch sử đã chứng minh rằng mọi cái cha ông họ có được đều là nhờ Đức Chúa; Ngài đã giải cứu, đã cho cha ông họ được chiến thắng kẻ thù và được ban đất hứa làm gia nghiệp…; chính vì thế mà cha ông và chính họ có bổn phận phải yêu mến tôn thờ Ngài hết lòng. Đối với Đức Chúa đã là như thế thì đối với cận thân cũng phải vậy; yêu cận thân cũng phải sòng phẳng. Yêu người thân cận như yêu chính mình có nghĩa là làm ơn để được hàm ơn lại, còn gây oán sẽ bị báo oán. ‘Răng đền răng và mắt đền mắt’ là thế, là có đi có lại, là song phẳng! Đúng là hai giới luật này liên quan chặt chẽ với nhau, và toàn bộ Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều đặt nền trên giao ước sòng phẳng này trong tương quan của Dân Riêng cả với Đức Chúa lẫn với cận thân đồng bào.

Giao Ước mới mà Đức Giê-su rao giảng vượt xa cái giới hạn của Cựu Ước, khi mà Đức Chúa Mới không chỉ ban sự sống và ân huệ mà trao ban chính mình Người cho những ai trung thành với giao ước. Giao Ước mới hệ tại ở việc Thiên Chúa trao nộp chính Con Yêu Dấu Ngài cho loài người tội lỗi bất trung; giao ước mới đó không còn đặt nền trên công bằng ‘do ut det – hòn đất ném đi hòn chì ném lại’ mà là trên lòng nhân ái xót thương, vì Ngài ban ơn cứu độ cách nhưng không. Trong Tân Ước việc yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết sức sẽ không được coi như một bổn phận áp đặt ‘Ngươi phải yêu mến Đức Chúa…’, mà như một ân huệ đón nhận trong ân tình của người con ‘Ab-ba, Cha ơi!’. Cũng vậy, yêu người thân cận sẽ đi xa hơn rất nhiều cái tính toán của ‘thương người như thể thương thân’, trong đó tính sòng phẳng của ‘răng đền răng mắt đền mắt’ ‘hàm ơn trả oán’ là điều đương nhiên. Trong Tân Ước yêu cận thân sẽ trở thành ‘Hãy thương yêu nhau như chính Thầy yêu thương anh em’, ‘Yêu và làm ơn cho cả kẻ thù…, tha thứ cho kẻ xúc phạm tới mình đến bảy mươi lần bảy…’. Nếu đúng là trong Cựu Ước, toàn bộ Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều qui về hai giới luật ‘phải yêu mến Đức Chúa hết lòng… phải yêu người thân cận như chính mình’, thì trong Tân Ước điều răn ‘mến Chúa yêu người’ mới chỉ có thể hiểu được trong nội dung Thập Giá của Đức Ki-tô Giê-su mà thôi; vì chỉ nơi Thập Giá chứ không phải qua“Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ”, mới cho thấy được cái khác lạ đích thực và tính ưu việt vượt trội của tân giới luật tình yêu. Do đó chiêm ngắm và cử hành Thập Giá trở thành quan trọng bậc nhất trong Giao Ước Mới này. Chẳng trách gì mà Phao-lô mạnh dạn tuyên bố: ông chỉ muốn biết duy nhất có một Đức Giê-su Ki-tô Thập Giá mà thôi!

Và tôi, một linh mục của Giao Ước mới, tôi cần tự vấn xem mình vẫn rao giảng ‘mến Chúa yêu người’ trong nội dung luật Mô-sê và các sách ngôn sứ, hay trong nội dung của Thập Giá Đức Ki-tô tự hiến? Việc hàng ngày cử hành hy tế Thập Giá có giúp tôi và các tín hữu lãnh hội được Điều Răn Mới cách sâu xa hơn hay không, và thường ngày đem ra sống như nét độc đáo nhất của Tin Mừng chúng tôi muốn rao giảng cho hết mọi người?

Lạy Chúa, nếu không chiêm ngắm Thập Giá, con sẽ chẳng bao giờ có thể yêu mến với tâm tình con thảo như Chúa muốn, đồng thời yêu mến tha nhân của con cũng sẽ chỉ luẩn quẩn trong tính toán hơn thua hạn hẹp. Xin dạy con để mỗi khi cử hành Thánh Lễ, bài học yêu thương như chính Chúa đã yêu thương và tự hiến như chính Chúa đã tự hiến cho các tội nhân sẽ được con học thuộc và đem ra sống, để chính con cũng dần được biến đổi nên của lễ toàn thiêu dâng tiến Chúa. A-men.

Về mục lục

.

GIỚI LUẬT YÊU THƯƠNG

Lm. GB. Trần Văn Hào

Trong bộ sách ‘Tự Thuật’ (Confessio), thánh Augustinô đã viết: “Bạn hãy yêu mến đi, rồi bạn muốn làm gì thì làm” (Ama et fac quod vis). Văn hào Léon Tolstoi trong một tác phẩm ngắn với tựa đề ‘Con người sống bằng gì’, cũng khẳng quyết rằng, chúng ta sống và tồn tại không phải chỉ bằng cơm bánh, nhưng bằng chính tình yêu. Chúng ta đã nghe đi nghe lại rất nhiều lần giáo huấn về tình yêu như luật sống căn bản của mọi Kitô hữu, và các bài đọc lời Chúa hôm nay một lần nữa nhắc lại cho chúng ta quy chuẩn quan trọng này. Tuy nhiên đây không phải là một ý niệm trừu tượng hay mơ hồ, nhưng tình yêu chính là yếu tính (essere) căn bản nơi cuộc sống của những học trò Chúa Giêsu. Thánh Phaolô cũng đã viết : “Yêu mến là chu toàn lề luật (Rm 13,16). Vì vậy, phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta đi sâu hơn vào quỹ đạo tình yêu, và đây là lề luật chính yếu mà Chúa Giêsu nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần.

Luật yêu thương

Bất cứ đoàn thể nào hay tổ chức xã hội nào cũng có những luật lệ hoặc những quy định để phục vụ cho thiện ích chung của mọi thành viên. Bộ giáo luật năm 1983 của Giáo hội gồm 1752 điều khoản và ngay trong lời giới thiệu, Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 đã hướng dẫn : “Những khoản luật ghi trong bộ sách đã được viết ra nhằm phục vụ thiện ích của các linh hồn, giúp họ sống cuộc sống Kitô hữu một cách hoàn hảo (x. Lời giới thiệu bộ Giáo luật). Từ xa xưa, Môise cũng soạn thảo những luật lệ để dân Do Thái tuân giữ. Riêng bộ Ngũ thư (sách Torah) cũng đã ghi lại 613 điều khoản gồm 365 luật cấm và 248 điều buộc, không kể những quy định theo truyền thống được viết lại trong sách Talmud. Khi đến trần gian, Chúa Giêsu đã công bố rằng, Ngài đến không phải để hủy bỏ lề luật nhưng là để kiện toàn, bằng cách mặc cho lề luật cũ một chiều kích mới, chiều kích nội tâm hóa. Ngài mời gọi chúng ta thực hành lề luật với một tinh thần mới, chứ không phải giữ luật một cách hình thức hời hợt bên ngoài. Tinh thần nội tâm hóa cũng được Chúa nhắc lại trong bài Tin mừng hôm nay. Ngài nói đến việc thực hành tình yêu, vì tình yêu là quy chuẩn duy nhất, là khung căn bản cho tất cả mọi khoản luật mà chúng ta tuân giữ. Vì vậy, trước khi đi thụ nạn, Chúa Giêsu đã để lại cho các học trò thân tín di chúc thiêng liêng sau cùng : “Thầy ban cho anh em một giới răn mới là anh em hãy yêu thương nhau”. Tình yêu ấy được hiển thị cách tròn đầy xuyên qua Thập giá, như Chúa đã từng nói : “Không có tình yêu nào cao cả bằng tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu’. Một số nhà tu đức cắt nghĩa về tình yêu Thiên Chúa hiển thị nơi Thập giá với hai chiều kích: Hướng thiên  và hướng về tha nhân. Thanh dọc của Thập giá vút thẳng lên trời (verical) như biểu tượng về tình yêu quy về Thiên Chúa. Thanh ngang (horizontal) của Thập giá là hình ảnh của một tình yêu hướng đến tha nhân. Đây là hai chiều kích mà Chúa đề cập đến trong bài Tin Mừng hôm nay : “Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết sức, hết trí khôn, và ngươi cũng phải yêu thương tha nhân như chính mình”.

Những đòi hỏi của tình yêu

Con người ngày hôm nay, đặc biệt các bạn trẻ rất dễ lạm phát ý niệm về tình yêu và sử dụng hạn từ này khá mơ hồ, có khi rất sai lạc. Tình yêu không phải là tình dục. Tình yêu cũng không phải chỉ là những rung động của con tim hay những xao xuyến của cõi lòng. Nhiều bạn trẻ khi bắt đầu có cảm tình với nhau đã sẵn sàng trao thân bất chấp tất cả, và cuối cùng đã phải trả giá đắt cho sự nông nổi của mình. Tình yêu mà Chúa nói hôm nay phát nguyên từ nơi Thiên Chúa, như Thánh Gioan Tông đồ đã định nghĩa ‘Thiên Chúa là tình yêu’. Tình yêu chân chính và đích thực mà chúng ta cần học hỏi và sao chép lại, chính là tình yêu khởi phát từ  trái tim Chúa Giêsu như Ngài đã nói “Anh em hãy yêu thương nhau, ‘như’ thầy đã yêu thương anh em”. Trong chương 10 của Tin Mừng thứ tư, Chúa Giêsu nói đến chân dung của một vị mục tử nhân lành đã thể hiện tình yêu một cách trọn hảo. Người mục tử nhân lành biết các con chiên trong đàn của mình. Người mục tử nhân lành cũng đi tìm kiếm các con chiên lạc, và người mục tử nhân lành thí mạng sống vì đàn chiên. Đây là 3 sắc nét căn bản mà chúng ta cần học hỏi từ nơi tình yêu của Chúa Giêsu để đem ra thực hành. Biết các con chiên không phải là cái biết của tri thức hay của lý luận, nhưng là cái biết của sự hiệp thông, cái biết của việc chia thân sẻ phận và chung hòa cuộc sống. Nói theo thuật ngữ bình dân của Đức Thánh Cha Phanxicô, người mục tử phải ‘có mùi chiên’. Cũng vậy, việc đi tìm kiếm con chiên lạc hàm ngậm một tình yêu tha thứ đến vô tận, một tình yêu để chữa lành chứ không bao giờ kết án hay ‘làm thịt’ các con chiên của mình. Cao điểm của tình yêu chính là việc hiến trao ngay cả mạng sống. Trong lịch sử Giáo hội, chúng ta thấy nhiều vị thánh đã sống tận căn mầu nhiệm trao ban này, như Cha Thánh Đamiêng đã sống trọn cuộc đời giữa những người cùi ở hòn đảo Molokai hoặc Cha Thánh Maximilien Kolbe đã tình nguyện chấp nhận chết thay cho một anh bạn tù. Đức Thánh Cha Phanxicô cũng mới mở ra một hướng mới trong việc phong thánh, đó là những ai biết chắc chắn mình không thể qua khỏi, đã quảng đại hiến trao những cơ phận nơi thân thể mình để tặng cho người khác. Họ cũng có thể được Giáo hội công nhận là những vị thánh, bởi vì hành động của họ khởi phát từ một tình yêu cách tự nguyện.

Những tội nghịch với đức ái

Theo quan niệm thông thường, người mắc tội là một người đã vi phạm một luật lệ và có đủ chứng cứ để kết tội họ. Vì vậy, trong các phiên tòa xã hội, vẫn thường xảy ra tình trạng một người bị kết án oan sai, hoặc có những người phạm những tội tày đình nhưng không bị kết án do thiếu bằng chứng hoặc do lỗi của các vị thẩm phán. Đối với Thiên Chúa, thì không bao giờ xảy ra như thế. Ngài thấu tỏ mọi sự nơi tâm can từng người. Trong bài giảng trên núi, Chúa Giêsu đã nói đến căn gốc tội lỗi từ trong cõi lòng chứ không phải chỉ dừng lại trên những hành vi bên ngoài. “Ai giận anh em mình, ai rủa anh em mình thì đáng bị luật phạt, đáng bị lửa hỏa ngục thiêu đốt… Ai nhìn phụ nữ mà thèm muốn, thì đã mắc tội ngoại tình ngay trong lòng”. Khi đi xưng tội, nhiều người thực sự chưa biết xét mình, tức là chưa biết nhìn thẳng vào nội tâm để khám phá những điều bẩn thỉu, nghịch với đức ái ngay từ trong tâm hồn của họ. Đi đến nhà thờ một cách chiếu lệ cho xong ván lễ mà không đến để gặp gỡ Thiên Chúa, vẫn chưa phải là chu toàn luật như Chúa nói hôm nay. “Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng hết sức”. Giận ghét người khác, nói hành nói xấu hay lọc lừa, gian dối để làm hại lẫn nhau, là những tội gián tiếp phạm đến điều răn thứ năm ‘Cấm giết người”, mà chúng ta vẫn thường không để ý tới. Yêu mến tha nhân như chính mình là phải làm sao loại bỏ những thứ tội đó ra khỏi cuộc sống của chúng ta.

Kết luận

Trong thư gửi giáo đoàn Rôma, thánh Phaolô đã viết : “Anh em hãy gớm ghét điều ác, khăng khít với điều lành, mừng vui trong hy vọng, kiên nhẫn lúc gặp gian truân, chuyên cần cầu nguyện, chia sẻ với người túng thiếu. Hãy vui với người vui, khóc với kẻ khóc, cùng nhau tâm đầu ý hợp, đừng quá cao vọng về mình, trái lại hãy biết bỏ mình, chuộng phần kém hơn. Đừng lấy ác báo ác, điều thiện hãy cố quan  tâm..”. Đây là toàn cảnh của một bức tranh có tựa đề ‘tình yêu’, tương thích với sứ điệp về tình yêu mà Chúa nói đến hôm nay.

Về mục lục

.

YÊU THƯƠNG LÀ CHU TOÀN LỀ LUẬT

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Nhóm Pharisiêu liên minh với nhóm Hêrôđê gài bẫy Chúa Giêsu về vấn đề nộp thuế cho Cêsarê. Họ đã thất bại.

Nhóm Pharisiêu lại tiếp tục liên kết với nhóm Xađốc gài bẫy lần nữa: Có bảy anh em trai cùng lấy một người vợ, ngày tận thế khi sống lại, người đàn bà đó là vợ của ai trong bảy anh em?. Họ cũng thất bại.

Chưa chịu thua. Lần này, như bài Phúc Âm hôm nay thuật lại, họ chọn ra một người thông luật để tranh luận với Chúa Giêsu: Thưa Thầy, trong lề luật giới răn nào trọng nhất?. Đây là một câu hỏi hóc búa, bởi vì đạo Do thái có rất nhiều khoản luật mà luật nào cũng đều quan trọng cả.Luật Do thái có tất cả 613 điều luật khác nhau, trong đó có 365 điều luật cấm và 248 luật phải giữ. Điều răn nào quan trọng nhất? Sở dĩ họ đặt câu hỏi này với Chúa Giêsu là vì một phần vì họ không nhất trí đựơc với nhau, phần vì muốn thử Chúa Giêsu để mong đặt Người vào thế bí không thể giải quyết được.

Chúa Giêsu đã trả lời thật tuyệt vời: Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa ngươi hết lòng hết linh hồn hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và là điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai cũng giống điều răn này là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.

Như thế trong 613 điều luật, Chúa Giêsu đã chọn lọc ra hai điều luật quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người từ sách Đệ Nhị Luật (Đnl 6,5) và sách Lêvi (Lv 19,18). Người liên kết hai điều đó lại: mến Chúa thì phải yêu người, yêu người thì phải mến Chúa. Cả hai điều ấy có thể tóm lại thành một điều duy nhất là yêu thương. Yêu thương là cốt lõi của tất cả mọi khoản luật khác.

Suốt cuộc đời, Chúa Giêsu đã làm chứng về sự quan trọng của hai luật đó. Người không chỉ làm chứng bằng lời giảng dạy mà còn bằng chính cuộc sống và cái chết của mình.

1. Yêu Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết linh hồn.

Lòng mến Chúa phải toàn diện, liên quan đến trái tim, linh hồn và cả khối óc của con người.Tình yêu ấy phải là động lực thúc đẩy tất cả mọi hoạt động tinh thần cũng như thể xác. Chúa Giêsu đã yêu mến Chúa Cha, luôn sống đẹp lòng Cha, luôn dành thời giờ cầu nguyện tâm sự với Cha. Chấp nhận cuộc khổ nạn và cái chết thập giá bởi lòng yêu mến Cha và yêu thương nhân loại.

2. Yêu người thân cận như chính mình.

Điều răn này cũng quan trọng ngang với điều răn thứ nhất về lòng mến Chúa, vì lòng yêu người phát xuất từ lòng mến Chúa và cũng cần thiết như lòng mến Chúa vậy. Đọc Phúc âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu thể hiện lòng yêu mến đối với hết mọi người.

– Với người ngoại giáo Samaria, trước đây người Do thái xa lánh khinh khi, nay Chúa gần gũi trân trọng.

– Với người tội lỗi, trước đây người Do thái kết án loại trừ, nay Chúa liên kết tìm về.

– Với người thù địch, trước đây người Do thái báo oán tiêu diệt, nay Chúa cầu nguyện làm ơn.

– Với người nghèo,trước đây người Do thái dửng dưng coi thường, nay Chúa chăm sóc tôn trọng.

– Với người anh em, trước đây người Do thái vị kỷ nhỏ nhen, nay Chúa vị tha quảng đại.

Chúa Giêsu đã sống tình yêu Thiên Chúa và tình yêu con người thật tuyệt hảo. Người còn ban thêm điều răn mới: Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Yêu thương nhau như Thầy đã yêu. Yêu Chúa và yêu người có một động từ chung là yêu. Đối tượng của động từ yêu này có vẻ khác biệt nhưng lại không phân biệt. Hai điều răn ấy tuy hai mà một, giống như hai trang của cùng một tờ giấy, tuy hai mặt khác nhau nhưng cũng chỉ là một tờ giấy duy nhất. Yêu người là yêu Chúa và yêu Chúa là yêu người. Người Kitô hữu có đức tin sẽ nhìn thấy Thiên Chúa nơi anh chị em mà mình gặp gỡ hàng ngày, yêu Chúa nơi họ.

3. Yêu mến Thiên Chúa – yêu thương anh em

Hai điều răn mến Chúa, yêu người không thể tách rời nhau.Yêu Thiên Chúa chắc chắn dẫn đến yêu tha nhân.Tình yêu tha nhân cần đặt nền trên lòng yêu mến Thiên Chúa.Người Kitô hữu đi từ nhà thờ ra nơi cuộc sống rồi từ cuộc sống đi vào nhà thờ.Ngoài cuộc đời, họ gặp Chúa nơi anh em.Trong nhà thờ, họ gặp anh em nơi Chúa.Thánh Gioan đã nói: Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy (1Ga 4,20). Do đó, “ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu thương anh em mình” (Ga 4,21).

Chủ đề Sứ điệp Truyền Giáo năm 2011 của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI: “Hãy yêu người lân cận như chính mình” (Mt 23,39). Khi yêu thương người lân cận là chúng ta yêu thương Chúa. Yêu thương người lân cận là thước đo tình yêu của người tín hữu đối với Chúa. Sứ điệp viết: “Một trong các mục tiêu của Ngày Thế Giới Truyền Giáo là…giúp cải thiện cuộc sống cho những người đang sống trong các quốc gia nghèo khổ, đói kém, nhất là các trẻ em suy dinh dưỡng, bệnh tật, thiếu chăm sóc y tế và giáo dục là những công tác quan trọng nhất. Tất cả các công việc này đều đi kèm với sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội. Khi loan báo Tin Mừng, Giáo Hội sống gắn bó với cuộc sống con người theo nghĩa rộng nhất”.

Sứ điệp Truyền Giáo năm 2014, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi: “Niềm vui của Tin Mừng phát sinh từ việc gặp gỡ Đức Kitô và việc chia sẻ với người nghèo.Vì lý do này, tôi khuyến khích các cộng đoàn giáo xứ, các hội đoàn và các nhóm hãy sống một đời sống huynh đệ đậm đà, đặt nền trên tình yêu đối với Đức Kitô và quan tâm tới các nhu cầu của những người yếu thế nhất. Ở đâu có niềm vui, sự phấn khởi và ước muốn đem Đức Kitô đến với người khác, ở đấy sẽ phát sinh nhiều ơn gọi đích thực…loan báo Tin Mừng cho nhân loại cần dựa trên tình thương.” (Số 4 và 5).

Mẹ Thánh Têrêxa Calcutta đã sống lời Chúa Giêsu dạy: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15,34). Mẹ Têrêxa đã thực thi lời Thánh Phaolô: “Anh em đừng mắc nợ gì ai ngoài món nợ tương thân tương ái, vì ai yêu người thì đã chu toàn lề luật. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy”(Rm 13,8-10).

Mẹ Têrêxa đã sống điều răn yêu thương cách trọn vẹn. Mẹ nhìn thấy Chúa trong những người phong cùi. Mẹ gặp Chúa nơi những người bần cùng khốn khổ. Mẹ yêu Chúa trong những con người bất hạnh. Mẹ tận tình chăm sóc họ. Mẹ dạy các nữ tu: “Con thấy linh mục nâng niu trân trọng Mình Thánh Chúa trong thánh lễ ra sao thì con hãy làm như thế đối với người cùng khổ“.

Mẹ Têrêxa yêu mến Chúa hịên diện trong những người nghèo khổ. Mẹ đã yêu Thiên Chúa trong con người. Tông huấn Giáo hội tại Á châu dạy: “Việc công bình, bác ái và thương xót phải gắn bó mật thiết với đời sống cầu nguyện và chiêm niệm đích thực, và thật vậy, chính cũng một tu đức này là nguồn suối của mọi công trình rao giảng Tin mừng của chúng ta”. Mẹ Têrêxa là nhà truyền giáo “chiêm niệm trong hành động”.

Linh đạo truyền giáo của Mẹ Têrêxa chính là cầu nguyện và yêu thương. Nét đặc sắc của cuộc đời truyền giáo Mẹ Têrêxa là niềm vui nội tâm phát xuất từ đức tin thể hiện qua đời sống yêu thương phục vụ. Mẹ được Giáo hội phong Thánh. Mẹ là một vị thánh của thời đại. Mẹ được người đời xem là vĩ nhân. Mẹ được mọi người trên thế giới này yêu mến, cả những người Hồi giáo, Ấn giáo, Cộng sản…

Truyền giáo là nói về Chúa Giêsu cho người khác nghe; sống như Chúa Giêsu cho người khác thấy. Truyền giáo là giới thiệu Chúa Giêsu Kitô cho mọi người bằng chính cuộc sống phục vụ và yêu thương của chúng ta.

Truyền giáo là nói về Chúa Giêsu cho mọi người biết bằng chính cuộc sống yêu thương của mình. Truyền giáo khởi sự bằng cuộc sống và con tim. Cuộc sống và con tim đòi hỏi các môn đệ Chúa Kitô sống có tấm lòng “yêu người lân cận như chính mình”.

Sống linh đạo truyền giáo của Mẹ Thánh Têrêxa là yêu mến Thiên Chúa trong con người, chúng ta sẽ giới thiệu cho tha nhân Đạo Chúa là “Đạo những người yêu nhau”, một Đạo rất đẹp, rất bác ái.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho nhân loại hai giới răn quan trọng nhất là yêu Chúa và yêu người. Xin dạy chúng con biết sống tâm tình biết ơn về những hồng ân Chúa ban, xin cho chúng con biết yêu mến và phụng sự Chúa trong mọi người. Xin dạy chúng con nhận ra hình ảnh Chúa nơi anh em để chúng con yêu Chúa và yêu người với tâm hồn bác ái rộng mở. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN. NĂM A

Lm. Anthony Trung Thành

Sau khi thất bại Đức Giêsu với câu hỏi: “Có nên nộp thuế cho Cêsarê không?”(Mt 22,17)nhóm Biệt phái tiếp tục dùng chiêu khác để gài bẩy Ngài. Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết, họ sai một tiến sĩ luật đến hỏi thử Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, trong lề luật điều răn nào trọng nhất?”(Mt 22,34).

Câu hỏi không dễ trả lời. Bởi vì, thời Đức Giêsu,luật Do thái có 613khoản, trong đó có 365 luật cấm và 248 luật buộc. Trong 613 khoản luật đó, chính nhóm Biệt phái và các phe nhóm khác vẫn chưa thống nhất với nhau điều nào trọng nhất: Nhóm thì điều luật này, nhóm thì điều luật kia. Nhóm nào cũng muốn giữ lập trường của mình.Trước tình trạng đó, họ muốn hỏi Đức Giêsu để gài bẩy Ngài. Nếu Đức Giêsu trả lời điều luật này trọng điều luật kia không thìNgài rơi vào tình trạng ủng hộ quan điểm của nhóm này và phủ nhận quan điểm của các nhóm kia. Nên Ngài sẽ bị các nhóm kia chống đối. NhưngĐức Giêsu không thể mắc bẩy của họ. Ngài luôn có câu trả lời khôn ngoan làm cho bọn họ phải “tâm phục khẩu phục”.Thật vậy, dựa vào sách Đnl 6,5 và sách Lêvi 19,18, Ngài đưa ra câu trả lời rằng: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Ðó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi. Toàn thể Lề luật và sách các Tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó”(Mt 22, 37-40). Câu trả lời của Đức Giêsu thật xuất sắc, khiến vị tiến sĩ luật không còn thắc mắc gì thêm nữa. Câu trả lời này cho chúng ta biết trong 613 khoản luật của Do thái tóm lại hai điều luật quan trọng là Mến Chúa – Yêu Người. Hai điều luật này khác nhau nhưng không tách rời. Hai điều luật này luôn đi đôi với nhau:Mến Chúa thì phải yêu người và yêu người thì phải mến Chúa. Chính Thánh Gioan Tông đồ cũng đã nói: “Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em thì đó là kẻ nói dối, bởi vì kẻ không yêu thương người anh em nó thấy trước mắt, tất không thể yêu mến Đấng nó không thấy.”(1 Ga 4,20). Nhưng chúng ta phải làm gì để yêu mến Chúa và tha nhân?

  1. Chúng ta phải làm gì để yêu mến Chúa?

Có nhiều việc làm để yêu mến Chúa, xin được đơn cử một vài việc làm sau đây:

Thứ nhất, để yêu mến Chúa, chúng ta phải tuân giữ giáo huấn của Ngài. Đức Giêsu đã từng nói: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” (Ga 14,15). Nơi khác Ngài cũng nói:“Ai giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy” (Ga 14,21). Các giáo huấn của Chúa được cụ thể hóa qua 10 điều răn. Các giáo huấn của Chúa được thể hiện qua:Lời của Ngài trong cuốn Kinh Thánh; Giáo huấn của Giáo hội; tiếng nói của lương tâm; các vị bề trên hợp pháp thay mặt Chúa để coi sóc, dạy bảo chúng ta… Tuân giữ giáo huấn của Chúa không chỉ chứng tỏ chúng ta yêu mến Chúa mà còn để chu toàn bổn phận của chúng ta đối với Ngài, giống như người con yêu mến cha mẹ thì luôn vâng lời cha mẹ.

Thứ hai, để yêu mến Chúa, chúng ra phải“ ước ao làm vui lòng Chúa” (Đức cha Arthur Tonne). Nhưng như thế nào là làm vui lòng Chúa? Sau đây là 8 cách làm vui lòng Chúa:

Chân thành: Hãy sống chân thành với chính mình và tha nhân. Dù khó khăn thế nào thì bạn cũng phải đối diện sự thật – hãy nhớ rằng bạn không lừa được Thiên Chúa, và đó là lừa chính mình. Thiên Chúa và bạn là những người duy nhất biết điều gì thực sự xảy ra, vì thế đừng nói dối Đấng đã hy sinh mạng sống vì bạn!

Khiêm nhường: Đừng bao giờ ưu tiên chính mình. Không thể đốt giai đoạn, hãy cứ duy trì mức đầu và cố gắng để đạt mức tốt nhất. Đừng quên: “Dục tốc bất đạt”.

Dành thời gian cho Chúa: Cố gắng dành thời gian cho Chúa: Tham dự Thánh lễ, tham dự phụng vụ, tham dự giờ kinh chung, cầu nguyện riêng,… Hãy dành thời gian thờ phượng bởi vì không có Thiên Chúa thì chúng ta không thể hiện hữu.

Hãy là chính mình: Bạn không cầu nguyện với gia đình hoặc bạn bè, do đó bạn không nên thay đổi chính mình theo ý họ. Đấng duy nhất mà bạn nên thay đổi theo ý Ngài chính là Thiên Chúa. Ngài muốn bạn là bản sao tuyệt vời nhất của Ngài. Đừng ảnh hưởng bất kỳ ai ở xung quanh bạn, hãy chỉ ảnh hưởng bởi Thiên Chúa mà thôi.

Bám sát giá trị của mình: Đừng mắc lừa cơn cám dỗ hoặc ma quỷ. Hãy nhớ rằng bạn có các giá trị luân lý phải bám sát. Hãy cố gắng hiểu sự khác nhau giữa thiện và ác, đúng và sai. Đừng ảo tưởng bám theo điều mà bạn không thể.

Sống mỗi ngày như ngày cuối cùng: Đừng lãng phí một giây phút nào trong ngày. Hãy sống mỗi ngày như thể là ngày cuối cùng của mình, vì Thiên Chúa luôn chúc lành cho những ai sống với gia đình và bạn bè. Cuộc sống không thể nói trước được điều gì, nhưng hãy chúc tụng và tạ ơn Chúa đã cho bạn có dịp sống với những mơ ước của mình.

Đặt người khác trước mặt mình: Thiên Chúa hy sinh chính mình để bạn có thể sống trọn vẹn. Thay vì sống với gia đình và bạn bè theo tính xác thịt, Ngài đã đặt khác trước Ngài. Hãy cố gắng sống như Ngài. Hãy giúp đỡ những người cần được giúp đỡ. Các thiện cử của bạn sẽ không lãng phí vì Thiên Chúa luôn ở trong bạn.

Tín thác vào Chúa: Thiên Chúa có lý do và kế hoạch cho mọi thứ. Dù hoàn cảnh khó khăn thế nào, bạn cũng phải tin vào Thiên Chúa. Ngài là Đấng duy nhất mà bạn phải tín thác.

(8 cách làm vui lòng Chúa, do Trầm Thiên Thu chuyển ngữ từ beliefnet.com)

  1. Chúng ta phải làm gì để yêu thương tha nhân?

Cũng có nhiều việc làm để yêu thương tha nhân, xin được gợi ý vài việc làm sau đây:

Thứ nhất, yêu thương tha nhân là không muốn điều xấu cho họ. Ông Tôbia cha đã khuyên ông Tôbia con rằng: “Điều con không thích thì đừng làm cho người khác”(Tb 4,15a). Và Đức Khổng Tử cũng khuyên các đệ tử rằng: “Điều mình không muốn thì đừng làm cho kẻ khác”.Thánh Phaolô đã dạy rằng: “Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại;”(x. Rm 13,10). Bài đọc I hôm nay cũng dạy: không được làm hại cô nhi quả phụ; không được cho họ vay nặng lãi, hãy trả những của cầm cố của người nghèo trước khi mặt trời lặn…(x. Xh 22, 21-27).

Thứ hai, yêu thương tha nhân là muốn điều tốt cho họ. Đức Giêsu đã nói: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môsê và lời các ngôn sứ là thế đó”(Mt 7,12).

Muốn điều tốt cho tha nhânlà phục vụ họ. Chính Đức Giêsu đã rửa chân cho các Tông đồ. Ngài còn quả quyết: “Ta đến không phải được phục vụ, nhưng để phục vụ và đem giá máu của mình để cứu chuộc muôn người” (Mt 20,28). Phục vụ thì đòi hỏi phải hy sinh, hy sinh cho tha nhân chính là tình yêu cao cả: “không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).

Muốn điều tốt cho tha nhân là phảibiếtgiúp đỡhọ, giống như người Samaritanô nhân hậu (Lc 10, 29-37). Bởi vì, khi chúng ta giúp đỡ tha nhân là chúng ta giúp đỡ chính Chúa. Trong ngày phán xét chung, vị thẩm phán sẽ nói với những người lành rằng: “Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc, Ta đau yếu các ngươi đã đến thăm, Ta bị tù đầy các ngươi đã đến với Ta… Những gì các ngươi làm cho một trong các anh em bé mọn của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” (Mt 25,36).

Lạy Chúa, hằng ngày chúng con vẫn đọc Kinh Kính Mến, vẫn thưa với Chúa rằng“chúng con kính mến Chúa hết lòng hết sức trên hết mọi sự và yêu tha nhân như chính mình”, nhưng trong thực tế chúng con vẫn chưa thực hiện trọn vẹn lời kinh này. Xin Chúa tha thứ cho chúng con và giúp chúng con cố gắng từ nay biết thực hiện trọn vẹn lời kinh này. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN_A

Lm. Giuse Đinh Tất Quý

Chúng ta đã nghe bài Tin Mừng hôm nay rất nhiều lần và những gì Chúa nói chúng ta đã thuộc lòng ngay từ khi còn nhỏ. 

1. Khi người ta hỏi Chúa xem giới răn nào là lớn nhất, thì câu trả lời của Chúa là hai giới răn và cả hai giới răn này đều đã có sẵn trong Cựu Ước. Chúa đã trưng dẫn cả hai và đặc biệt hơn là Chúa đã làm cho chúng có tầm quan trọng như nhau. Chính vì thế mà chúng ta không được tách riêng ra, như trong thực hành chúng ta thường làm như thế.

Một số người nghĩ rằng, nếu chúng ta có đủ đức tin thì cuộc sống chúng ta sẽ êm trôi suôn sẻ. Nghĩ như vậy thôi chứ thực tế không phải như vậy. Đức tin không che chắn cho chúng ta khỏi những va chạm đau thương của cuộc đời. 

Vào thời các tu sĩ còn sống ở trong sa mạc, có một tu sĩ tên là Moses nổi tiếng là thánh thiện. Lễ Phục Sinh sắp đến nên các thầy họp nhau lại,  bàn xem nên làm gì để chuẩn bị mừng lễ cho sốt sáng và đem lại nhiều ích lợi. Họ cùng quyết định sẽ ăn chay trọn vẹn Tuần Thánh. Để thực hiện quyết tâm này, mỗi thầy phải trở về nơi mình ở, và ở đó họ phải ăn chay và cầu nguyện. 

Công việc lúc ban đầu diễn tiến rất tốt đẹp, nhưng, đến giữa tuần thì có hai thầy khách lang thang đến thăm thầy Moses. Nhận thấy rằng họ đang đói, thầy Moses nấu một chút rau cho họ ăn. Để cho họ đỡ ngại ngùng và cảm thấy thoải mái, thì chính thầy cũng ăn một ít. 

Trong khi đó, thì các thầy khác thấy khói bốc lên từ chỗ ở của thầy Moses. Việc đó có nghĩa là thầy Moses đã đốt lửa để nấu ăn. Nói một cách khác, thầy đã vi phạm luật ăn chay và điều này đã làm cho họ bị dội. Chỉ trong nháy mắt cái nhìn của nhiều người đối với thầy Moises đã thay đổi hoàn toàn. Họ coi thầy như đã rơi từ đỉnh cao của sự thánh thiện xuống vực thẳm.

Nhận ra sự sự đánh giá trong mắt những người anh em, thầy Moises hỏi: “Tôi đã phạm tội gì khiến các thầy lại nhìn tôi như thế?” 

Họ trả lời: “Thầy đã vi phạm luật giữ chay.” 

Thầy Moises bình tĩnh trả lời “Vâng! Đúng là tôi đã làm thế. Tôi đã vi phạm giới luật của con người trong việc chia sẻ của ăn với những người anh em của chúng ta. Nhưng tôi đã giữ giới răn của Thiên Chúa là chúng ta phải yêu thương nhau.” 

Khi nghe nói như vậy, các thầy trở nên yên lặng và khôn ngoan rút lui một cách khiêm tốn. 

Vâng! Có những người tuyên bố là mình yêu mến Thiên Chúa nhưng trong thực tế lại không quan tâm tới bổn phận yêu thương người khác. Những người như thế họ mới chỉ sống có một nửa của Tin Mừng. 

Ngược lại, lại có những người đi đến thái cực đoan khác. Họ đã tỏ ra rất nhiệt tình để xây dựng một thế giới tốt đẹp nhưng chưa bao giờ họ nghĩ đến Thiên Chúa hoặc cầu nguyện với Người. Họ cũng chỉ là những người sống nửa phần của Tin Mừng. 

Đức Kitô dạy chúng ta phải sống trọn vẹn cả Tin Mừng, nghĩa là vừa phải yêu mến Thiên Chúa và đồng thời cũng phải yêu người thân cận như chính mình. Người đã không nói rằng hai chuyện đó chỉ là một, nhưng muốn bảo rằng chúng ta không thể làm việc này mà bỏ việc kia, nghĩa là chỉ yêu mến Thiên Chúa mà lại không thương yêu anh em. 

  1. Đức Giêsu còn nói: “Anh em hãy yêu thương người thân cận như chính mình.”

Chỉ khi nào chúng ta chấp nhận mình và bắt đầu yêu thương chính mình, chúng ta mới có thể bắt đầu yêu thương người khác như Thiên Chúa truyền dạy. 

Đối với những người mà trong lòng còn chất đầy sự căm ghét và hận thù hận, thì dứt khoát là họ sẽ không có khả năng yêu thương người khác. Họ thường đổ lỗi và khiển trách người khác những điều mà họ không thích nơi chính mình. Rõ ràng người khác là đối tuợng để họ bộc lộ chính con người của họ. 

  Một cụ già đang ngồi trên băng ghế ở bìa làng thì có một người tới hỏi: 

– Những người dân trong làng này như thế nào? 

  Cụ già hỏi lại:

– Thế những người trong ngôi làng trước đây của ông ra sao? 

Người đó trả lời: 

– Họ rất tốt, quảng đại, và và giả như cụ có đến đó mà gặp khó khăn thì họ sẽ làm cho cụ tất cả những gì cụ cần. 

Cụ già nói: 

– Vậy tôi nghĩ rằng ông cũng sẽ thấy có nhiều người như thế trong làng này. 

Ít lâu sau đó, lại có một người khác cũng tới gặp cụ già và hỏi cùng một câu hỏi như trước: 

– Những người dân trong làng này như thế nào? 

Và cụ già cũng hỏi lại một câu y như cụ đã hỏi người thứ nhất: 

– Thế những người trong ngôi làng trước đây của ông ra sao? 

Người đó trả lời: 

– Đó là một nơi kinh khủng. Thật sự là tôi rất mừng vì đã rời khỏi nơi đó. Người dân nơi đó keo kiệt, không tốt và nếu cụ đến đó mà gặp khó khăn thì chắc là cụ sẽ không gặp được ai nhấc một ngón tay để giúp cụ đâu. 

  Cụ già nhìn người khách là và hóm hỉnh trả lời: 

– Tôi e rằng ông cũng sẽ gặp rất nhiều người như thế trong làng này. 

  Điểm chính yếu mà tác giả trong câu chuyện muốn chia sẻ với chúng ta là: “ Nếu chúng ta nhìn người khác không như họ là mà như chúng ta là thì chúng ta sẽ gặp rất nhiều thảm họa cho cuộc sống của chúng ta. Nếu chúng ta nhìn người khác bằng cái nhìn xấu thì đó là dấu hiệu cho thấy rằng chính chúng ta đang có rất nhiều bất ổn. Một người không có sự bình an nơi chính mình thì sẽ rất dễ dàng gây sự với những người chung quanh mình”. 

  Người ta kể một giai thoại về Mẹ Têrêsa Calcutta. Một lần kia trong cuộc phỏng vấn trên truyền hình, Mẹ Têrêsa  phải đối diện với một phỏng vấn viên không mấy thiện cảm đối với Giáo Hội Công giáo. Ông ta đặt cho mẹ Têrêsa câu hỏi: 

– Bà yêu thương và phục vụ người nghèo, tốt lắm, thế còn bao nhiêu của cải của toà thánh Vatican và Giáo hội thì sao? 

Mẹ Têrêsa là một người thành thực đến độ thẳng thắn mà không phật lòng người đối diện. Mẹ nhìn thẳng vào mắt người phóng viên và nói với ông: 

– Ông quả là người không được hạnh phúc, có một cái gì đó đang gặm nhấm tâm hồn ông, ông không có sự bình an trong tâm hồn. 

 Lời nói đơn xơ và thành thực của Mẹ Têrêsa như mũi tên phóng vào tim người đối diện khiến ông để lộ rõ sự bối rối trên khuôn mặt của ông. Không để mất cơ hội, Mẹ Têrêsa như người mẹ hiền ân cần lo lắng đã ôn tồn nói với ông: 

– Tôi nghĩ rằng ông nên có đức tin. 

Đến đây người phóng viên như cá cắn câu, ông thành thật hỏi:

– Tôi phải làm gì để có đức tin? 

Mẹ Têrêsa đáp: 

– Ông hãy cầu nguyện và tôi cũng sẽ cầu nguyện cho ông. Ông hãy cố gắng mỉm cười với những người xung quanh ông, một nụ cười có thể đánh động người khác, một nụ cười có thể cho chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa trong cuộc sống chúng ta. 

Quả nếu chúng ta không yêu thương chính mình, chúng ta cũng không thể yêu thương người khác. Vậy trước hết, chúng ta phải yêu thương chính mình và phải yêu cho đúng đúng cách, bằng không thì chúng ta sẽ chẳng có đủ khả năng để yêu thương người khác như Chúa mong muốn. 

  Có người bảo rằng yêu mình là sai, thậm chí còn là một điều tội lỗi. Dĩ nhiên, có một hình thức tự ái không đúng. Chúng ta gọi nó là sự ích kỷ hoặc cố chấp. Nhưng có một hình thức yêu mình có ích lợi và nếu không có nó chúng ta không thể thật sự yêu thương người khác. 

  Chúng ta không thể bay mà không có cánh. Chúng ta không thể lớn lên mà không có gốc rễ. Chúng ta không thể sưởi ấm cho người khác nếu lò sưởi của chúng ta lạnh lẽo và trống rỗng. Chúng ta chỉ có thể yêu với mức độ tình yêu chúng ta có nơi chúng ta. 

Thật là dễ dàng khi yêu một người nào đó mà họ dễ thương. Nhưng không dễ yêu một người nào đó khi họ có khuyết điểm một cách rõ ràng và hiển nhiên. Đó là một trắc nghiệm về tình yêu thật sự. Nơi nào không có tình yêu, hãy gieo rắc tình yêu và bạn sẽ được hưởng tình yêu. Nơi nào không có tình yêu, hãy đặt tình yêu, và bạn sẽ khám phá ra tình yêu. 

Vâng đó là điều Chúa muốn nói với chúng ta hôm nay. Amen.

Về mục lục

.

ĐỆ NHẤT LUẬT

Trầm Thiên Thu

Quốc gia và xã hội nào cũng có luật, ngay cả một nhóm người nhỏ cũng có luật – gọi là nội quy. Theo luật học, luật pháp là tổng thể các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung, thể hiện ý chí chung của một quốc gia, khu vực, lãnh thổ, được chính quyền đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp giáo dục, thuyết phục, hoặc cưỡng chế.

Đời có luật đời, đạo có luật đạo. Thiên Chúa là Đấng tạo thành vũ trụ và Ngài cũng ban hành luật pháp. Tất cả luật pháp trần gian chỉ là thứ cấp, chỉ có Luật Chúa mới là Đệ Nhất Luật. Thánh Vịnh gia chia sẻ kinh nghiệm: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn” (Tv 19:8). Thánh Phaolô so sánh mạnh mẽ và độc đáo: “Cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1 Cr 1:25). Phải thực sự có niềm tin vào Đức Kitô mới khả dĩ hiểu được lập luận như vậy. Không tin thì… miễn bàn luận!

Mệnh danh là Đạo Yêu Thương – vì “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:8 và 16), Công giáo có “luật yêu” gồm 10 điều khoản – gọi là Mười Điều Răn. Cả 10 điều trong Thánh Luật của Thiên Chúa đều liên quan tình yêu – đối với Thiên Chúa (đối thần) và đối với tha nhân (đối nhân). Mười điều nhưng tóm lược thành hai điều: Mến Chúa và yêu người. Hai điều khoản ấy cũng có thể “rút gọn” chỉ còn một điều là yêu thương. Rất ngắn gọn. Nói cho dễ hiểu và dễ nhớ: Luật Yêu, hoặc Luật Tình. Nói theo ngôn ngữ thời nay gọi là Luật hai-trong-một. Và có thể “cô đọng” thành một chữ mà thôi: YÊU.

Ngoài Thập Giới do Thiên Chúa ban qua Môi-sê, Giáo hội còn có Ngũ Giới (Năm Điều Răn). Cả 15 điều đó đều đồng quy về chữ YÊU. Trong Mười Điều Răn, ba điều trước là trách nhiệm đối với Thiên Chúa, bảy điều sau là bổn phận đối với mọi người. Có lẽ Thiên Chúa muốn cho chúng ta biết điều này: “Yêu người chẳng dễ gì đâu”. Và Ngài muốn chúng ta thể hiện chi tiết đối với nhau, từ suy nghĩ tới lời nói, rồi biến thành việc làm cụ thể. Thánh Giacôbê so sánh: “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2:17 và 26). Còn Thánh Gioan gọi những người đó là “kẻ nói dối” (x. 1 Ga 2:4; 1 Ga 4:20). Vấn đề yêu thương liên quan vấn đề công lý. Đó là điều tất yếu và minh nhiên!

Một chữ và chỉ một chữ mà thôi: YÊU, rất ngắn gọn, không thể ngắn gọn hơn nữa, nhưng “xòe” chữ Yêu đó ra theo hình cánh quạt thì lại vô cùng bao la. Chữ Yêu đó “viết” theo dạng tương tự chữ Thập – Thập Giá. Yêu là Thập Giá, là chịu mọi đau khổ. Thánh Vincent de Paul đặt vấn đề: “Tôi yêu mến Chúa chưa đủ nếu tha nhân của tôi chưa yêu mến Ngài”. Người khác chưa thực sự yêu mến Chúa cũng có phần do lỗi của chúng ta, vì “tấm gương” của chúng ta chưa đủ lớn và chưa đủ sáng để người khác có thể soi vào! Chúa Giêsu “nhắc khéo” qua lời chúc: “Phúc thay kẻ LẮNG NGHE và TUÂN GIỮ lời Thiên Chúa!” (Lc 11:28). Mối phúc này còn quan trọng hơn cả việc Đức Mẹ được cưu mang và cho Con Thiên Chúa bú mớm (x. Lc 11:27-28). Bất cứ ai yêu mến Thiên Chúa thì mới “lắng nghe và tuân giữ” lời dạy của Ngài, và đó chính là “hạnh phúc thật”.

Như đã nói, chữ Yêu tương quan chữ Thập. Chữ Thập có bốn hướng: Hướng lên trời là hướng đến với Thiên Chúa, hai hướng ngang là các hướng đến với tha nhân (cả người trên và dưới, lớn và nhỏ, sang và hèn, giàu và nghèo, giỏi và dốt, cao và thấp,…), và hướng đến với các linh hồn. Thật tuyệt vời biết bao! Tương tự, chữ Yêu bắt đầu bằng mẫu tự Y, giống như một người đứng dang rộng đôi tay. Chỉ những ai có lòng yêu thương thực sự, biết động lòng trắc ẩn người khác, biết thương xót tha nhân thì mới có thể dang rộng vòng tay như vậy. Chắc chắn không ai có thể giả vờ. Thiên Chúa đã quan phòng và tiền định cho Việt ngữ có dạng khá độc đáo!

Người ta nói rằng “luật vị nhân sinh”. Luật vì con người, nghĩa là luật có sau con người. Tuy có trước luật, nhưng con người lộng hành, thế nên cần có luật để chấn chỉnh, luật như chiếc hàm thiếc kiềm chế ngựa chứng. Đất nước nào cũng có hiến pháp, quốc gia nào cũng có quốc pháp, nhà nào cũng có gia phong, dù chỉ một nhóm nhỏ cũng có luật, chí ít cũng là nội quy. Đó là “dây cương” để giữ cho người ta khỏi “phá giới”. Kitô giáo có Mười Điều Răn là Hiến Pháp của Nước Trời. Thánh Phaolô nói: “Lề Luật đã thành người quản giáo dẫn chúng ta tới Đức Kitô, để chúng ta được nên công chính nhờ đức tin” (Gl 3:24).

Từ ngàn xưa, Thiên Chúa đã truyền nghiêm luật: “Người ngoại kiều, ngươi không được NGƯỢC ĐÃI và ÁP BỨC, vì chính các ngươi đã là ngoại kiều ở đất Ai-cập. Mẹ goá con côi, các ngươi không được ỨC HIẾP. Nếu ngươi ức hiếp mà nó kêu cứu Ta, ắt Ta sẽ nghe tiếng nó kêu cứu. Cơn giận Ta sẽ bốc lên, Ta sẽ cho gươm chém giết các ngươi: thế là vợ các ngươi sẽ thành goá bụa, và con các ngươi sẽ thành côi cút” (Xh 22:20-23). Ngược đãi và áp bức người khác là vi phạm luật công lý của Thiên Chúa, đồng thời xâm phạm nhân phẩm và nhân vị của họ, tất nhiên như vậy cũng trái với luật Chúa.

Cần phải có luật pháp để xử lý người vi phạm, nhưng luật pháp phải bao hàm tình yêu thương, quyết bảo vệ và nâng đỡ người “nhỏ bé”, đồng thời phải trừng phạt kẻ “lớn” mà ngông cuồng, hống hách. Luật pháp không thể áp dụng theo kiểu “luật rừng”, mà phải nghiêm minh như thiết quân luật: Quân pháp bất vị thân. Câu nói đầy đủ là: “Pháp bất vị thân, nghĩa bất dung tình” – nghĩa là Pháp Luật KHÔNG được thiên vị mà bênh vực người thân, và Nghĩa Lý KHÔNG được bao che bất cứ ai vì tình cảm riêng, nhưng “cứ đường lối Chúa mà đi” (Tv 119:3). Không dễ đâu đấy! Ai làm được vậy mới đáng cho người khác tâm phục khẩu phục, là đại nhân, là quân tử, là người thẳng thắn theo phong cách của Đức Giêsu Kitô.

Thánh Luật của Thiên Chúa rạch ròi đến từng chi tiết: “Nếu ngươi cho một người trong dân Ta, một người nghèo ở với ngươi vay tiền thì ngươi KHÔNG được xử với nó như chủ nợ, KHÔNG được bắt nó trả lãi. Nếu ngươi giữ áo choàng của người khác làm đồ cầm thì ngươi phải trả lại cho nó trước khi mặt trời lặn. Nó chỉ có cái đó để đắp, để làm áo che thân; nó sẽ lấy gì mà ngủ? Nó mà kêu cứu Ta, Ta sẽ nghe nó, vì Ta vốn nhân từ (Xh 22:24-26). Thiên Chúa là Đấng luôn chạnh lòng thương người thấp cổ bé miệng nên Luật của Ngài là Công Luật, là Thiện Luật, là Thiên Luật, là Thánh Luật, chứa chan Lòng Thương Xót. Quả thật, Luật Chúa là luật thiện hảo vô cùng!

Bất cứ ai được sống trong luật thiện hảo như vậy thì thật hạnh phúc. Vì thế, Thánh Vịnh gia đã phải thốt lên: “Con yêu mến Ngài, lạy Chúa là sức mạnh của con. Lạy Chúa là núi đá, là thành luỹ, là Đấng giải thoát con; lạy Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con trú ẩn, là khiên mộc, là Đấng cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ” (Tv 18:2-3). Không chỉ nói bằng lời, Thánh Vịnh gia còn xác nhận và chia sẻ: “Tôi kêu cầu Chúa là Đấng xứng muôn lời ngợi khen, và tôi được cứu thoát khỏi quân thù” (Tv 18:4).

Là Kitô hữu, chúng ta cũng đã và đang không ngừng nhận lãnh biết bao hồng ân của Thiên Chúa, nhưng chúng ta thường quên tạ ơn. Đây là lúc thuận tiện, hãy cùng Thánh Vịnh gia xưng tụng Ngài và xác tín: “Đức Chúa vạn vạn tuế! Chúc tụng Người là núi đá cho tôi trú ẩn. Tôn vinh Thiên Chúa là Đấng cứu độ tôi, là Thượng Đế giúp tôi rửa sạch hận thù, bắt chư dân quy phục quyền tôi” (Tv 18:47-48). Và rồi chắc chắn Thiên Chúa quên ngay mọi tội lỗi của chúng ta, âu yếm ôm chúng ta vào lòng, và cho chúng ta cư ngụ trong Thánh Tâm Ngài. Tuyệt vời!

Thánh Phaolô chia sẻ tâm sự: “Khi chúng tôi loan báo Tin Mừng cho anh em, không phải chỉ có lời chúng tôi nói, mà còn có quyền năng, có Thánh Thần, và một niềm xác tín sâu xa. Anh em biết, khi ở với anh em, chúng tôi đã sống thế nào để mưu ích cho anh em; còn anh em, anh em đã bắt chước chúng tôi và noi gương Chúa, khi đón nhận lời Chúa giữa bao nỗi gian truân với niềm vui do Thánh Thần ban: bởi vậy anh em đã nên gương cho mọi tín hữu ở miền Makêđônia và miền Akhaia” (1 Tx 1:5-7). Ước gì chúng ta luôn có thể nói với nhau như vậy, nhất là những người có chức quyền, có địa vị, đừng ỷ thế cậy quyền mà “tự làm luật” để cai trị người khác. Có “quyền” không phải để “hành” người khác, mà để phục vụ mới đúng luật của Thiên Chúa (x. Mt 20:26-28; Mc 10:43-45).

Với kinh nghiệm và sự chân thành, Thánh Phaolô bộc bạch thêm: “Khi nói về chúng tôi, người ta kể lại chúng tôi đã được anh em tiếp đón làm sao, và anh em đã từ bỏ ngẫu tượng mà quay về với Thiên Chúa thế nào, để phụng sự Thiên Chúa hằng sống, Thiên Chúa thật, và chờ đợi Con của Người từ trời ngự đến, Người Con mà Thiên Chúa đã cho trỗi dậy từ cõi chết, là Đức Giêsu, Đấng cứu chúng ta thoát cơn thịnh nộ đang đến” (1 Tx 1:9-10). Vâng, được như vậy thì chẳng cần nói thêm gì nữa, như Thánh Phaolô cũng đã xác nhận trước đó: “Chúng tôi không cần phải nói gì thêm nữa” (1 Tx 1:8).

“Điều Răn Trọng Nhất” là “Đệ Nhất Luật”, được đề cập trong trình thuật Mt 22:34-40 (tương đương Mc 12:28-34 và Lc 10:25-28) và có liên quan chữ YÊU. Tin Mừng ngắn gọn nhưng súc tích, làm nổi bật chữ YÊU trong Thánh Luật của Thiên Chúa.

Thánh sử Mátthêu kể: Một hôm, khi nghe tin Đức Giêsu đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng, những người Pharisêu họp nhau lại – nhóm này “không tin có sự sống lại” nên chuyên tìm cách “gài bẫy” Chúa Giêsu nhiều lần mà… “trớt quớt”, và “bị hố”. Lần này, một người thông luật trong nhóm hỏi để thử Đức Giêsu: “Thưa Thầy, trong sách Luật Môsê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?”. Đức Giêsu thản nhiên đáp: “Ngươi phải YÊU MẾN Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải YÊU người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy”. Kinh Thánh không cho biết sau đó thế nào, nhưng chắc chắn là nhóm Xa-đốc đành cắn răng và ráng ngậm bồ hòn làm ngọt. Phải thế thôi!

Nói trước nói sau, nói đầu nói cuối, nói dưới nói trên, nói lên nói xuống, nói ngang nói dọc, nói đi nói lại, nói tới nói lui,… nói kiểu nào hoặc theo hướng nào thì cũng chỉ để “diễn giải” chữ YÊU mà thôi. Chính Ngài là tình yêu thì luật của Ngài phải là Luật Yêu. Chúng ta chấp nhận theo Đức Kitô thì phải “giữ trọn vẹn lề luật” (Gl 5:3). Đó là lẽ tất nhiên, không yêu không được. Tại sao? Thánh Gioan cho biết: “Ai KHÔNG yêu thương thì KHÔNG biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu (1 Ga 4:8). Tương tự, Thánh Phaolô giải thích và kết luận: “Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy” (Rm 13:10).

Các thánh cũng nói những gi liên quan Luật Yêu. Thánh Bênađô lý luận: “Lý do yêu mến Thiên Chúa thì nên vì Thiên Chúa, mà mức độ yêu mến Thiên Chúa chính là không có mức độ”. Mức độ yêu là “yêu vô hạn” – không tính toán, không so đo, không phân bì, yêu như điên. Các thánh đều đã yêu “tới bến” và hóa điên rồ vì yêu Đức Kitô, vì các ngài biết chắc rằng Thiên Chúa không thể ngừng yêu thương. Muốn làm thánh, chúng ta cũng phải có “máu yêu” như vậy. Chỉ có các Kitô hữu “chính hiệu” mới có loại máu Y – có lẽ loại máu này y học không hề biết và thiếu trình độ để phát hiện.

Thật vậy, còn hơn là sự liên tục của hơi thở giúp bảo vệ sự sống, Thiên Chúa không thể ngừng yêu thương. Thánh Tiến sĩ Lm Tommaso d’Aquino (1225–1274, Dòng Đa-minh) minh định: “Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta, khi chúng ta cho là mình cô độc thì Thiên Chúa vẫn ở bên chúng ta”. Ước gì mọi người – bất luận Kitô hữu, không tín ngưỡng hoặc vô thần – đều có loại máu Y kỳ diệu.

Lạy Thánh Phụ toàn năng và toàn tri, xin khai lòng mở trí để con chân nhận Ngài là Thiên Chúa duy nhất từ bi và giàu lòng thương xót, “xin cho con được trí thông minh để vâng theo luật Ngài và hết lòng tuân giữ” (Tv 119:34), “xin đừng cất khỏi miệng con Lời Chân Lý” (Tv 119:43), “xin dẫn con đi theo Đường Chân Lý của Ngài” (Tv 25:5), xin giúp con khả dĩ nhận biết chính mình để con yêu mến Ngài hết lòng và yêu thương tha nhân thật lòng. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

NGƯƠI PHẢI YÊU NGƯỜI THÂN CẬN NHƯ CHÍNH MÌNH

Fx Đỗ Công Minh

Trong chúng ta, chắc hẳn ai cũng đã có lần tranh luận với nhau về điều cơ bản nhất trong Giáo lý của Hội Thánh Chúa tại trần gian : Đâu là điều quan trọng, cốt lõi nhất  trong Đạo Công Giáo? Cũng không ít lần trong chúng ta gặp câu hỏi ấy từ những người bạn không cùng niềm tin. Có người muốn thực sự tìm hiểu Đạo Thánh Chúa, nhưng cũng có người muốn thử xem người Công Giáo biết về Giáo lý của Đạo mình như thế nào? Tin Mừng hôm nay Thánh Matthêu cho chúng ta hiểu, điều mà hôm nay nhiều người vẫn thắc mắc, vẫn tranh luận, tìm hiểu thì đã xuất hiện ngay từ thời Chúa Giêsu, tức là cách đây cả hai ngàn năm. Những người Pharisiêu thông luật nhưng lại cũng vẫn so đo xét nét trong việc giữ luật và giám luật . Họ đã hỏi Đức Giêsu xem Người nhận định thế nào về lề luật trong Đạo cũ, theo luật Mô-sê: Điều răn nào là điều răn trọng nhất ?. Đức Giêsu đáp :” Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi. Hết lòng, hết Linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn trọng nhất và ( là) điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống như điều răn ấy, là : Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Mô- sê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy “.

Không ít người Công Giáo Việt Nam hiện nay hiểu điều Chúa Giêsu trả lời các nhà thông luật theo cách xếp thứ tự. Điều răn thứ nhất thì trọng hơn điều răn thứ hai. Có nghĩa là người Công Giáo phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết tâm trí trước đã, tức là phải đọc kinh, dự lễ, tham gia đầy đủ các Bí tích, các nghi thức phụng vụ, các ngày lễ lớn trong năm . . .sau mới tính đến việc thực thi bác ái , yêu thương, giúp đỡ người khác khi có thể. Bởi đó là điều thứ yếu, đứng thứ hai ( hiểu theo nghĩa đen ) như lời Chúa nói hôm nay. Chính vì có  suy nghĩ đó trong người tín hữu mà Ủy Ban Giáo dân thuộc Hội Đồng GiámMục Việt Nam đã từng có lần tổ chức một cuộc Hội thảo tòan quốc, hơn chục năm về trước do Đức Giám Mục Fx Nguyễn Văn Sang, GP Thái Bình chủ trì( vừa được Chúa gọi về 5/10/2017), với chủ đề “Sống Đạo hôm nay “.Luật sư Nguyễn Ngọc Bích được mời thuyết trình cùng với một số Giáo dân từ Giáo phận Sài- Gòn ra dự. Ông đã nhận định: với một số không nhỏ người tín hữu hôm nay thì”Mến Chúa dễ hơn yêu người”. Người Công giáo dễ dàng đến với Chúa và được gọi là đạo đức hơn người khác vì chăm chỉ có mặt trong nhà thờ, nhà nguyện, ăn chay, hãm mình nhưng  lại ít tham gia vào các họat động bác ái xã hội, xa lạ với việc giữ đức công bằng trong quan hệ làm ăn. Thiếu quan tâm nhường nhịn nhau trong cuộc sống ngòai đời. Coi việc giúp đỡ người nghèo, khuyết tật, tham gia hiến máu cứu người, tham gia các đòan công tác xã hội . . .là việc trần thế, không liên quan gì đến việc thờ phượng kính mến Chúa. Thậm chí còn là việc “Chính trị”. Sau bài thuyết trình, có ý kiến nêu là diễn giả thiếu tôn trọng các bậc tu hành, coi thường đời sống tu trì, chịu ảnh hưởng phái “cấp tiến “ . . . khiến  diễn giả tự coi mình bị “ném đá “. Chỉ đến khi Đức Giám mục chủ tịch Ủy Ban Giáo dân nêu chứng từ là chính bản thân Ngài  không ngại tham gia các họat động “yêu người” trong xã hội, và coi đó như một bổn phận phải làm thì những ý kiến phản bác mới dịu đi .

Chúa Giêsu trong Tin Mừng, Người đã nhắc đi nhắc lại để các tông đồ và những người tin theo Chúa những ngày ấy nắm vững: “Đây là  Điều răn của Thầy : anh em  hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em “(Ga 15,12 ) và “Điều răn Thầy truyền dạy anh em là HÃY YÊU THƯƠNG NHAU “ (Ga 15, 17 )

Lạy Chúa,

Xin Chúa cho con hiểu rằng “Mười điều răn ấy tóm về hai (điều) này là: Trước, thờ phượng một  Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự. Sau, lại yêu người như mình ta vậy “( Kinh Mười điều răn ). Thực thi hai điều ấy một cách thiết thực, thể hiện niềm tin bằng những hành động cụ thể chính là chúng con trở thành con Cha , đấng ngự trên trời vậy. AMEN.

Về mục lục

.

YÊU NGƯỜI THÂN CẬN NHƯ CHÍNH MÌNH

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

I. LẮNG NGHE LỜI CHỨA TRONG  TIN MỪNG MÁT-THÊU (Mt 22,34-40)  

34 Khi nghe tin Đức Giê-su đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng, thì những người Pha-ri-sêu họp nhau lại. – 35 Rồi một người thông luật trong nhóm hỏi Đức Giê-su để thử Người rằng: 36 “Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?” 37 Đức Giê-su đáp: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. 38 Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. 39 Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. 40 Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy.”

II. TÌM HIỂU VÀ SUY NIỆM LỜI CHÚA

2.1 Trong đời sống công khai Đức Giê-su đã phải đối phó với phái Xa-đốc và nhất là các Pha-ri-sêu. Họ tìm cách bắt bẻ Đức Giê-su bằng cách giương bẫy hãm hại Người. Nhưng Đức Giê-su chẳng những không bao giờ sa bẫy của họ mà Nguời còn tận dụng mọi cơ hội để chuyển cho họ những thông điệp vô cùng quan trọng của Ki-tô giáo. Như trong bài Phúc Âm hôm nay, trước câu hỏi của những người Pha-ri-sêu: “Trong Sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?” Đức Giê-su đã trả lời cách dứt khoát: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất.”

Rồi Người đã bồi thêm: ”Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy.” Mến Chúa yêu người là cốt lõi của Đạo Chúa.

2.2 ”Yêu người thân cận như chính mình” vì mọi người đều có phẩm giá cao trọng như mình: ai cũng có linh hồn bất tử, có trí khôn và ý chí, có ơn gọi và sứ mạng cao cả tương tự nhau. Giữa người với người nếu có khác biệt thì chỉ là khác biệt ở những giá trị phụ, mau qua như giầu hay nghèo, khỏe mạnh hay yếu ớt, may mắn hay xui xẻo, có địa cao hay thấp trong xã hội, có việc làm hậu hĩnh hay chỉ đủ sống.

2.3 Trong dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu, Đức Giê-su đã hiến kế cho chúng ta biết cách biến những người xa lạ thành những người thân cận của mình: người thân cận không phải là người có liên hệ máu mủ ruột thịt mà là người được chúng ta quan tâm và giúp đỡ. Nếu ai cũng ”yêu người thân cận như chính mình” thì xã hội loài người sẽ no đủ, bình an và hạnh phúc, vì khi đó không còn cảnh người là sói của người nữa. Nhìn vào xã hội Việt Nam ta hiện nay chúng ta thấy bao cảnh chém giết, cướp bóc, lừa đảo, hãm hại nhau, phát tán chất độc…. chung quy đều do con người không biết ”yêu người thân cận như chính mình” mà chỉ biết yêu túi tiền và tài sản của mình mà thôi.

III. THỰC THI LỜI CHÚA

3.1 Là người công giáo, cùng với nhiệm vụ phụng thờ Thiên Chúa tôi phải yêu người thân cận như chính mình. Người thân cận của tôi trước hết là vợ con, anh em họ hàng. Người thân cận của tôi còn là bà con cùng khu phố, là giáo dân cùng giáo xứ, là đồng bào cả nước.

3.2 Làm sao tôi yêu tất cả những người ấy như chính mình được? Thật khó quá. Tôi phải đi từng bước một: trước hết tôi phải tuyệt đối tránh không làm hại gì ai; kế đến tôi phải quan tâm giúp đỡ những người xung quanh cần đến sự quan tâm giúp đỡ của tôi và sau cùng tôi phải đóng góp vào sự thăng tiến chung của cả xã hội cũng như làm dịu bớt nỗi đau nỗi khổ của những người nghèo và những nạn nhân của mưa bão, lũ lụt, lở đất, đắm tầu v.v… Nhưng sự đóng góp của tôi có thấm gì so với nhu cầu của các nạn nhân. Tôi thật xấu hổ mỗi khi nhìn thấy cảnh thiên tai tàn phá đất nước và cảnh nghèo khổ mà đồng bào tôi phải chịu!

IV CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA

Lạy Thiên Chúa là Cha của hết mọi người, Cha muốn chúng con được ấm no, hạnh phúc. Cha dậy chúng con phải biết yêu người thân cận như chính mình. Cha là Tình Yêu, Cha đã ban Con Một Cha cho chúng con. Chúng con cảm tạ ngợi khen và chúc tụng Cha. Chúng con nguyện cố gắng thực thi bác ái yêu thương để xứng đáng làm con cái Cha. Nhưng bao giờ chúng con cũng thấy sự thiếu sót lớn lao của chúng con trước đòi hỏi của Tình Yêu. Lúc nào chúng con cũng thấy mình xấu hổ trước nhu cầu của người khác và sự bất lực của chúng con. Xin Chúa đoái thương những người đang đau khổ và túng thiếu trong xã hội. Xin Chúa nâng đỡ ủi an họ. Amen.

Về mục lục

.

ĐÔI CÁNH ĐỂ BAY LÊN

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Các loại máy bay cần phải có hai cánh mới có thể bay lên không trung. Nếu máy bay bị hỏng mất một hoặc cả hai cánh thì tất nhiên phải nằm lì một chỗ, chẳng thể nào bay lên được.

Các loài chim cũng phải có cánh để bay. Nếu bị cắt mất một cánh, chúng không thể bay lên.

Tương tự như thế, con người muốn được “bay” về thiên đàng thì cũng phải có đủ hai cánh.

Vậy thì hai cánh mà mỗi người chúng ta cần phải có để bay lên tới thiên đàng là gì?

Qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su cho biết hai cánh đó là lòng mến Chúa và yêu thương người. Ngài nói rõ điều này với người thông luật: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mt 22,37-39).

Và qua dụ ngôn về “cuộc phán xét cuối cùng”, Chúa Giê-su dạy rằng những ai có lòng mến Chúa yêu người, được thể hiện qua việc quan tâm chăm sóc những người nghèo khổ chung quanh thì sẽ hưởng hạnh phúc đời đời trên thiên quốc; còn ai không có lòng mến Chúa yêu người, thể hiện qua việc thờ ơ, vô cảm trước những nỗi bất hạnh của người khác, thì phải bị sa vào chốn cực hình muôn đời muôn thuở (Mt 25, 35-36).

Như thế thì lòng mến Chúa yêu người chính là đôi cánh tối cần thiết đưa ta về cõi thiên đàng vinh hiển. Người nào không có hai cánh này, chẳng những không được hưởng phúc thiên đàng mà còn phải sa vào hoả ngục.

Ảo tưởng

Tuy nhiên, có một số người lầm tưởng rằng: chỉ cần thờ phượng Thiên Chúa, chủ yếu là tham dự Thánh lễ các ngày Chúa nhật và lễ trọng, cùng đọc kinh sáng tối… là đủ để lên thiên đàng.

Sống đạo như vậy thì chưa được, chưa làm đúng như Chúa yêu cầu. Thực hành như thế khác gì muốn bay lên thiên đàng mà chỉ cần có một cánh.

Đức thánh Cha Bê-nê-đích-tô nhắc nhở chúng ta phải thực hành đầy đủ hai phần: vừa thờ phượng Thiên Chúa vừa yêu thương mọi người và không thể thiếu một trong hai.

Ngài nói: “Việc thực thi bác ái đối với các goá phụ và trẻ mồ côi, với các tù nhân, với các bệnh nhân và người túng thiếu dưới mọi hình thức, thuộc về bản chất của Hội thánh cũng y như việc phục vụ bí tích và rao giảng Phúc âm. Hội thánh không thể lơ là trong việc thực thi bác ái cũng như lơ là trong việc ban các bí tích và Lời Chúa.”

Máy bay muốn bay lên thì cần phải có hai cánh. Chúng ta muốn cất cánh bay về Thiên đàng thì cũng cần có hai cánh.

Theo lời dạy của Đức thánh Cha Bê-nê-đích-tô thì  

-Cánh thứ nhất là thờ phượng Thiên Chúa qua việc cử hành hoặc tham dự Thánh lễ và loan truyền Lời Chúa.

-Cánh thứ hai là sống bác ái, yêu thương phục vụ mọi người.

Nếu chúng ta không thờ phượng Thiên Chúa, cũng không quan tâm săn sóc giúp đỡ những người bất hạnh chung quanh… thì chúng ta như máy bay không có cánh, chẳng thể bay lên.

Nếu chúng ta chỉ thờ phượng Thiên Chúa mà thờ ơ, vô cảm đối với những người bất hạnh… thì chúng ta chỉ như máy bay bị gãy mất một cánh, không thể bay tới thiên đàng.

Nếu chúng ta vừa siêng năng thờ phượng Thiên Chúa vừa yêu thương phục vụ những người bất hạnh chung quanh, thì chúng ta như là máy bay có đầy đủ hai cánh, chắc chắn sẽ  “bay” lên tới thiên đàng.

Lạy Chúa Giê-su,

Thiên Chúa đã cho loài chim có đôi cánh để chúng có thể bay vút lên cao và tung cánh khắp bốn phương trời.

Chúa cũng cho mỗi người chúng con có đôi cánh tuyệt vời là quy luật mến Chúa yêu người để chúng con sử dụng mà bay lên thiên đàng hưởng phúc muôn đời với Chúa.

Xin cho chúng con đừng bao giờ cắt bỏ đôi cánh Chúa ban, vì khi làm như thế, chúng con không thể bay về với Chúa mà lại bị trầm luân trong cõi chết muôn đời.

Về mục lục

.

YÊU HẾT CON TIM, HẾT LINH HỒN, VÀ HẾT TRÍ KHÔN

Tiến Sĩ Trần Mỹ Duyệt

Yêu Chúa và yêu tha nhân là hai giới răn quan trọng, liên kết, đòi hỏi và thúc bách mọi Kitô hữu trong quyết tâm thực hành. Tuy nhiên, thực hành giới luật yêu thương không phải là điều dễ dàng, bởi vì nó va chạm đến hai đối tượng: Thiên Chúa và con người.

Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng, vô hình chẳng ai nhìn thấy bao giờ. Còn lại con người là những thụ tạo mà ta thường ngày va chạm, đối diện nhưng lại không phải là đối tượng dễ ưa, dễ nhìn, và dễ mến. Ngay trong tình trường, hai người yêu nhau thắm thiết nhưng thường chỉ ghi đậm dấu ấn ở những buổi ban đầu, càng về lâu về dài, tình yêu càng bị soi mòn, bị thử thách, và đòi hỏi nhiều cố gắng. Đó là lý do tại sao nhiều cặp vợ chồng đã có một khởi đầu rất lãng mạn, rất đắm đuối, rất nồng nàn, rất cuồng nhiệt, nhưng sau cùng đã có kết thúc đau đớn, chia ly.

Như vậy thì làm sao thực hành được giới luật yêu thương? Làm sao yêu Chúa qua yêu người? Hôm nay với câu trả lời của Chúa Giêsu cho người thông luật thuộc nhóm Sađốc, và qua ông Ngài cũng muốn nói với tất cả chúng ta. Không tránh né yêu Chúa và hơn nữa, Ngài còn đòi hỏi phải yêu mến với tất cả con tim, tất cả linh hồn, và tất cả ý chí.

Đòi hỏi quá cao vượt xa những yếu đuối của con người. Nhưng Chúa Giêsu đã khéo nhắc cho con người rằng, con đường thực hành yêu mến phải đi từ con tim qua tâm hồn rồi mới lên đến lý trí. Cả ba thánh sử Máccô, Matthêu và Luca đều ghi rõ thứ tự hành động ấy như sau: Yêu Chúa hết lòng (con tim), hết linh hồn và hết trí khôn (mind).  Câu hỏi được đặt ra ở đây là tại sao Chúa Giêsu lại đặt linh hồn giữa trái tim và lý trí trong thứ tự thực hành đức mến đối với Thiên Chúa?

Thật ra, Chúa Giêsu không lầm, và cũng không lẫn lộn khi xếp đặt thứ tự những cung bậc mà chúng ta phải thực hành, phải luyện tập trong đức mến yêu đối với Thiên Chúa. Ai cũng biết, con đường từ trái tim lên đến khối óc tuy gần mà xa, tuy xa mà gần. Trong tình yêu cũng như trong mọi tính toán, con tim và khối óc có lý lẽ riêng của nó. Có những cái chúng ta thích mà người khác không thích. Hay lúc này thích, lúc khác không thích. Có những cái chúng ta yêu mà người khác không yêu, hoặc lúc yêu lúc ghét. Bởi đó để con tim và khối óc cùng một nhịp điệu trong tác động tình yêu, chúng cần một nhịp cầu nối kết, ít nhất trong lãnh vực tâm linh, đó là linh hồn. Linh hồn chính là tác nhân tinh thần nối kết những cái mà cả con tim và khối óc không nhận ra hoặc không đồng nhịp với nhau.

Trái tim liên quan đến những tình cảm và ước muốn. Chúa Giêsu với bản tính nhân loại, Ngài cũng có một trái tim và trái tim ấy cũng biết rung cảm, thao thức. Phúc Âm đã nhắc lại có lần Chúa đã khóc trước mộ của bạn thân Lazarô, và thổn thức trước quan tài của người con trai bà góa thành Naim. Ngài biết sự rung động của con tim luôn luôn là những nhịp điệu tha thiết nhất đi vào đời sống tình cảm cũng như ước muốn con người. Do đó, Ngài muốn chúng ta diễn tả tình yêu bằng những cảm nhận và nhịp đập con tim trước. Vì trong những rung động tình cảm, con người dễ dàng làm vui lòng Thiên Chúa qua sự đón nhận và yêu thương những anh chị em đồng loại, những thụ tạo mang hình ảnh của Ngài.  

Lý trí có liên quan đến những quyết định và nguyên tắc, đến những lý lẽ và những nhận định sáng suốt. Tình yêu Thiên Chúa không phải là một thứ tình cảm yếu ớt, ướt át, màu mè, hoặc ủy mị. Do đó, yếu tố lý trí quyết định và chọn lựa những phương thức cũng như những thực hành trưởng thành, đứng đắn phù hợp với hành vi nhân tính khi hướng những tư tưởng cũng như hành động về với tình yêu Thiên Chúa.   

Nhưng những tình cảm, ước muốn và quyết định ấy phải phát xuất từ nội tâm và để Chúa diễn đạt qua những ước muốn từ bên trong là tác động yêu mến của linh hồn. Điều đó cũng có nghĩa là từ nơi sâu thẳm của linh hồn với những lo lắng, những ước muốn, những sợ hãi được đem đặt trước Thiên Chúa để Ngài nói với chúng bằng tiếng nói và cách nói của Ngài.   

Như vậy, sau khi đã hoàn toàn để cho Thiên Chúa điều khiển và hướng dẫn, cùng với những thao thức của con tim qua tiếng Ngài phán bảo trong tâm hồn, lúc đó lý trí mới thật sự khuất phục, và mới định hình những quyết định, những nguyên tắc hành động như thế nào. Riêng Thánh Máccô và Luca thì thêm với tất cả sức lực (all your strength).

Yêu Chúa với hết trái tim, hết linh hồn, và hết ý chí là yêu một cách trọn vẹn, yêu bằng tất cả sức mạnh, tài năng, cảm tình, yếu đuối, và bằng sự sáng suốt của lý trí. Dĩ nhiên, để tình yêu này được thực hiện, đòi phải có sức mạnh và nghị lực, có nghĩa là phải chấp nhận hy sinh. Vì chỉ với những cố gắng không ngừng trong tất cả cảnh huống cuộc đời, chúng ta mới có thể thực hiện được giới luật cao cả là mến Chúa, yêu người. Chúa Giêsu là Đấng đã nói về tình yêu, và đã minh chứng tình yêu đối với những bạn hữu của Ngài: “Không ai có tình yêu lớn hơn người thí mạng sống vì bạn hữu mình” (Gioan 15:13). Đó cũng là hình ảnh một linh hồn yêu mến Thiên Chúa hết trái tim, hết linh hồn, và hết trí khôn.

“Thiên Chúa là tình yêu” (1 Gioan 4:8). Lạy Chúa! Con yêu mến Chúa. Xin giúp con biết chứng minh tình yêu của mình qua những quan tâm, chia sẻ và phục vụ anh chị em con.

Về mục lục

.

THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU

P.Trần Đình Phan Tiến

Thưa quý vị, thưa các bạn, khi nói đến “ tình yêu”, người ta thường nghĩ về ”tội lỗi”, bởi vì “tình yêu “ theo ý nghĩa “dục vọng”, “tình dục”, thì tình yêu ấy dường như là có “can dự” vào “tội lỗi”.

Vâng, không phải vậy, bởi vì, “Tình Yêu chính là Thiên Chúa”, bởi vì, nguyên lý tình yêu chính là “sự sống”. Vì sự sống không thể tách rời “tình yêu”.

Giải pháp “cứu khổ” của Đạo Phật là”không sinh” “ không diệt”, như vậy, tức không có “tình yêu”. Rõ ràng, giải pháp của Đạo Phật không có “Cứu Độ” chúng sanh, bởi vì , biết trần gian là “khổ ải” do tội lỗi, dục vọng, tham ,sân ,si , nhưng không có “giải pháp” để Cứu Độ, chỉ “tìm” giải pháp, tìm cách, tìm “công thức” chứ không thể “hiện thực” , điều đó có nghĩa là “cho cách nấu cơm”, chứ không cho “gạo” để nấu. Có nghĩa là cho “ phương pháp “ nấu ăn, chứ không cho “ đồ ăn”, nghĩa là chỉ cho “ lý thuyết, chứ không có thực tiễn. Vâng, nguyên lý của Đạo Phật là như vậy, tại sao vậy, thưa quý vị ? Thưa, bởi vì, Đức Phật không ban phước, cũng như không giáng họa, ngài chỉ cho “công thức” để tự cứu.

Vì thế, khác với “ chân lý ” Kitô giáo, khi nói đến “ tình yêu” nơi nhà Phật, người ta không thể đón nhận được. Họ chỉ có “Từ Bi”, “ Hỷ Xả” “ Vị Tha”, như vậy, “từ bi” là sự hiền lành hết mức, bi là tròn, từ là hiền lành, “hỷ xả” có nghĩa là “ vui vẻ”, “xả” là “mở ra”, tức là mở lòng, cởi mở, xởi lởi. Không cau có, giận dữ, nhưng lúc nào cũng vui tươi với tha nhân. “Vị tha” có nghĩa là “ vì người khác”, vì người khác mà mình vui vẻ, hiền lành. Như vậy, là chân tu của nhà Phật rồi. Muốn vậy, người Phật tử phải có một trí huệ cao siêu hơn người mới có thể thực hiện được, muốn có trí huệ cao siêu, thì phải học Phật pháp, tức giáo lý của Đức Phật.

Theo đó, Đức Phật chỉ dừng lại ở bậc thánh hiền, thánh nhân, quân tử, như nho giáo, chứ không thể đạt đến Thiên Chúa là Chủ Trời được. Vì thế, học Phật Pháp để biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình Yêu.

Vậy, thế nào là “Tình yêu” ? Vâng, thưa trước hết, “tình yêu” phải là một sự “sinh ra”, Thiên Chúa tạo dựng nhân thế, tức phàm nhân bởi một sự ” sinh ra” bởi hư không, không ai có thể “ đói hỏi” Thiên Chúa sinh ra mình. Đó là “tình yêu” vô biên, một tình yêu nhưng không, Vì, “từ thuở đời đời, Ta đã sinh ra ngươi”. Vì, “ Ngay khi còn trong bụng mẹ, Ta đã biết ngươi”. Vâng, vì đó là “THIÊN CHÚA”. Không một ai lý giải Thiên Chúa được, Thiên Chúa là ai? Tại sao có Thiên Chúa. Chỉ biết . “Thiên Chúa là tình yêu” mà thôi . Vì thế, ai được đón nhận Thiên Chúa là đón nhận được một “ mối tình “ vĩnh cửu và duy nhất.

Từ thuở đời đời, tức từ hư vô, từ trước muôn thuở, cái thuở mà tôi là một tạo vật, tôi chỉ biết thế và ngay hôm nay, có thể, tôi vĩnh viễn xa lìa thân xác nầy, tôi cũng không biết được, hay đôi ba chục năm nữa, tôi cũng không hề biết được., vì mọi thứ đều là” phù vân”, “Phù vân nối tiếp phù vân, mọi sự đều là phù vân” ( Gv ), thì làm sao tôi có thể biết được điều gì khác ngoài phù vân.

Như vậy, từ phù vân, tôi được tạo thành một thân thể do bởi một Đấng duy Nhất là Thiên Chúa mà thôi. Nhưng là tính người, là vật thụ tạo, không thể có dũng khí tự vệ, tự nhiên lẫn siêu nhiên. Vì vậy, tội bị “sa ngã”, Thiên Chúa , Đấng tạo thành tôi, Ngài thật giận dữ, đuổi tôi đi tức khắc, vì sự bất tuân, nhưng, rồi vì tình yêu, một thứ “tình muôn thuở”, mà Ngài đã tạo nên tôi, nên Ngài đã “ tha thứ” cho tôi, Ngài đã gọi tôi quay về, để Ngài yêu thương.

Vâng, rõ ràng hình ảnh Thiên Chúa, Đấng là Tình yêu là như thế đấy. vâng, nhưng tình yêu càng lớn, hy sinh càng nhiều. Sư tha thứ của Thiên Chúa không phải là một sự  tha thứ suông, Một sự tha thứ có “ấn tích” , có “hiệu lực”, đó là “ ơn Cứu Chuộc”, một “ Hy Tế” tối cao duy nhất, đó là “Hiến Tế Thập Gía”, một “ Hy Lễ “ bởi cái gọi là “ Tình Yêu”. Vì , Ngài đã dùng chính “Người Con Một”, như một “bửu bối” và còn hơn thế nữa, như một “ Con Ngươi” trong mắt Ngài, hay như một “ Qủa Tim” trong lòng Ngài, đã rút ra vì “tình yêu” chúng ta. Điều đó chính là ơn Cứu Độ bởi Thiên Chúa. Như thế, là “Tình Yêu Cứu Chuộc”. Tình yêu tự hiến và trao ban, tình yêu nơi Đấng Tạo Thành đối với loài thụ tạo có linh hồn, không ai có thể làm được điều đó.

Tình yêu Tạo dựng thật cao cả, nhưng tình yêu Cứu Chuộc còn nhiệm mầu hơn, bởi vì, “ yêu “ ai thì nên giống người ấy. Nhưng, Thiên Chúa  là Đấng Tạo Thành  đã trở nên như phàm nhân, không hòa mình như tội lỗi của phàm nhân, mà trở nên “sự hữu hình” như phàm nhân, để Cứu Chuộc phàm nhân. Thiên Chúa muốn “trở nên” con người, không phải trở nên kiếp tội lỗi, mà qua một cuộc “ khổ nạn” để trở nên giá chuộc loài người.

Vâng, tình yêu bởi Thiên Chúa là như thế, Tin Mừng ( Mt 22 , 34 – 40 ) hôm nay, Chúa Giêsu nhắc lại cho chúng ta giới luật “ tình yêu”. Một tình yêu tạo dựng nơi Thiên Chúa đó là giới luật trên hết. Gọi là Điều Răn đứng đầu, và Điều Răn thứ hai chính là điều mà Thiên cháu muốn chúng ta thực thi đối với “mầu nhiệm tạo thành và cứu chuộc” của Thiên Chúa, đó là yêu thương “ người thân cận” của mình như chính Thiên Chúa đã yêu thương.

Vâng, như chúng ta biết, Đoạn Lời Chúa( Mt 22, 34 -40) hôm nay phát xuất từ sách Đệ Nhị Luật là sách cuối cùng trong bộ sách đầu tiên của Cứu Ứơc, gọi là Ngũ Thư, tức năm cuốn sách đầu tiên là : Sáng Thế, Xuất Hành, Lê-vi, Dân số, và Đệ Nhị Luật. Đệ Nhị luật là sách dạy để thực thi luật dành cho con người mà đã có từ sách Xuất Hành, là thời kỳ Dân Chúa bị lưu đày bên Ai-cập.

Đoan sách Đệ Nhị Luật (Đnl 6, 4 -9) được gọi là Kinh Shơ-ma của người Israel, gọi là Kinh Nhật Tụng của họ.” Người phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết sức ngươi, hết trí khôn người, và yêu thương anh em ngươi như chính mình ngươi…” đoan nầy được truyền cho Môi-sen buộc dân chúng phải khắc trên cửa nhà, trên tường, đeo trên tay khi đi ra đường.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu thương nhân thế, nên đã xuống thế làm Người để dạy cho loài người biết rằng Thiên Chúa đã yêu thương con người một cách kỳ diệu , dù họ sa ngã, và vì thế phàm nhân cũng phải yêu thương nhau như nguồn cội của tình yêu duy nhất bởi Thiên Chúa mà ra, hầu chu toàn được giới luật tình yêu duy nhất từ nơi Thiên Chúa ./. Amen

Về mục lục

.

BIỂU TƯỢNG

Lm Vũdình Tường

Nói đến tình yêu là nói về điều cao quí nhất trần đời nhưng tình yêu rất trừu tượng vì thế nói đến tình yêu người ta thường nói đến dấu chỉ hay biểu tượng của tình yêu. Biểu tượng được diễn tả qua lời nói hay cử chỉ, điệu bộ. Biểu tượng diễn tả tình yêu qua hành động cụ thể như nụ hôn, bắt tay thân mật, ôm choàng. Ngoài ra còn có các cử chỉ, điệu bộ diễn tả trên khuôn mặt biểu lộ tình cảm con người dành cho nhau. Khoa học kĩ thuật cũng được dùng để gởi cho nhau lời chào thân ái, tấm hình mới chụp và khung cảnh mình ngưỡng mộ. Người nhận được những tâm tình đó cảm thấy vui vì biết rằng đâu đó có người thương yêu gởi cho những tình cảm chân thành và chính họ cũng nhận biết họ được yêu thương và họ cũng chia sẻ tình yêu đó đến người khác. Tình cảm chân thành đến từ sâu thẳm của con tim yêu mến, nồng nàn và chính tình yêu đó kêu gọi khối óc phát ra hành động yêu thương, trìu mến. Bên cạnh hành động yêu thương chân thành không vụ lợi còn có hành động yêu thương có điều kiện kèm theo và thường là vụ lợi ẩn hình sau hành động yêu thương.

Người Pharisee hỏi Đức Kitô giới răn nào quan trọng nhất? Đức Kitô đáp lại, yêu Chúa hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn và kế đến là yêu tha nhân như chính mình Mat 22,36-40.

Đức Kitô đưa ngay ra câu trả lời bởi đây chính là lối sống thường ngày của Ngài. Từ gia đình Ngài được hưởng cuộc sống yêu thương như thế nên khi có người hỏi đến Ngài đáp lại bằng chính kinh nghiệm bản thân, kinh nghiệm sống thực tế của Ngài, phát xuất tự gia đình, được giáo dục sống như thế từ thuở nhỏ cho đến tuổi trưởng thành. Đức Kitô đáp lại cách sống yêu thương là điều Ngài thực hiện hàng ngày, hành xử trong cuộc sống. Yêu mến Chúa với tâm tình cảm tạ bởi có sự sống là do Chúa ban. Liên kết với Chúa để luôn nhận biết vô vàn yêu thương Chúa ban. Thứ đến sống vui vẻ với tha nhân bởi họ là con cái Chúa. Lối sống đầy yêu thương, yêu tha nhân như yêu mình là yêu chân thành phát xuất tự con tim nồng ấm. Yêu tha nhân ngầm mong lợi nhuận không phải là yêu chân chính đến từ con tim mà là yêu có chọn lựa, tính toán hơn thiệt, đến từ khối óc. Yêu có tính toán hơn thiệt là đổi chác, thương mại, tình yêu. Buôn bán tình yêu là biến tình yêu thành món hàng. Buôn bán, trả giá luôn đi chung với nhau nên có định giá cho tình yêu. Tình yêu chân chính đòi hy sinh, vô giá, không giá nào mua đuợc. Đức Kitô kêu gọi ai theo Ngài phải yêu Ngài bằng con tim chân chính, con tim nồng nàn yêu thương. Con tim biết nhậy cảm trước đau khổ của tha nhân, con tim biết tha thứ, con tim biết thông cảm, con tim biết nhu cầu được yêu và phân phát tình yêu vô vị lợi. Đức Kitô yêu ta bằng tình yêu đó và ta cần đáp trả bằng tình yêu chân thành đó. Đức Kitô yêu con người bằng cách tự nguyện chết cho con người, Kitô hữu cũng đáp trả bằng cách tự nguyện hiến thân mình cho Đức Kitô qua cuộc sống phục vụ các anh chị em khác.

Yêu Đức Kitô bằng môi miệng chính là tình yêu thiếu chiều sâu, chỉ có bề ngoài mà bề ngoài thì dễ thay đổi, ảnh huởng bởi ngoại cảnh, bởi điều kiện sống và lợi nhuận xã hội. Tình yêu chân chính phải đến từ sâu thẳm trong tâm hồn, không bị ngoại cảnh chi phối. Yêu trên môi miệng là yêu có điều kiện, chọn lựa trong yêu thương. Nay chọn yêu người này; mai vất bỏ chọn người khác. Nếu không vất bỏ thì cũng bỏ xó. Một đời chọn rồi bỏ nên không bao giờ yêu thật sự. Yêu tạm bợ không thể là tình yêu chân chính. Mối tình đầu đến mối tình cuối đều tạm bợ, kết qủa của chọn lựa.

Về mục lục

.

LÀM SAO ĐỂ YÊU THƯƠNG THA NHÂN NHƯ CHÍNH MÌNH?

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Là Kitô hữu, chúng ta không ít lần được nghe diễn giải về giới luật yêu thương là mến Chúa và yêu người. Đã từng có nhiều đấng bậc, vì muốn nhấn mạnh đến mối liên hệ hổ tương giữa đạo mến Chúa và việc yêu thương tha nhân nên đã dùng hình ảnh hai mặt của một đồng tiền. Là hình ảnh minh hoạ dĩ nhiên vẫn có đó sự khập khiễng cần chấp nhận. Tuy nhiên theo thiển ý, cái hình ảnh hai mặt của một đồng xu xem ra không chỉ khập khiễng mà còn lệch chuẩn.

Chúa Kitô đã khẳng định: “Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn trọng nhất và điều răn thứ nhất” (Mt 22,38). Đã là điều răn đứng đầu và trọng nhất thì chỉ có một. Xét như loài thụ tạo thì nghĩa vụ thờ phượng Đấng Tạo Thành là nghĩa vụ hàng đầu và không có gì có thể thay thế. Nếu nhìn nhận mọi sự ta đang có, mọi sự đang là, đều do bởi lãnh nhận từ trên cao, thì việc thần phục Đấng Tạo Thành là chuyện mang tính sống còn. Nếu Chúa rút hơi lại thì không có loài nào được tồn tại.

Thiên Chúa ta thờ không chỉ là Đấng Tạo Thành mọi sự mà còn là Cha trọn lành. Người không chỉ nhận ta làm con theo nghĩa được dựng nên giống hình ảnh của Người mà còn nhận chúng ta làm nghĩa tử trong Con Một chí ái của Người là Đức Giêsu Kitô. Con người là chi mà Chúa đoái trông. Loài người là gì mà Chúa lại phó ban Con Một. Tất thảy chỉ vì Chúa muốn thông phần hạnh phúc cho chúng ta mà thôi. Như thế bổn phận yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực là bổn phận liên hệ đến phần phúc loài người chúng ta.

Điều răn thứ hai là yêu thương tha nhân như chính mình. Chúa Kitô nói điều răn thứ hai “cũng giống” điều răn thứ nhất. Cái từ “giống” rất dễ bị hiểu lầm là tương đương, là ngang bằng. Tuy nhiên khi nói đến trạng thái “giống” là nói đến một sự phản ánh có điểm quy chiếu. Người ta nói cái hình, cái ảnh giống với người, với vật, với cảnh, chứ không nói ngược lại rằng người, vật, cảnh giống với hình, với ảnh. Tương tự như thế, người ta nói đứa con giống người cha chứ không bao giờ nói người cha giống đứa con. Như thế người cha là nguồn, là điểm quy chiếu của sự được gọi là “giống”.

Với hệ luận như trên thì điều răn thứ nhất là yêu mến Thiên Chúa chính là nguồn, là điểm quy chiếu cho giới răn thứ hai là yêu người. Chính nhờ yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức, hết trí khôn, vì Người là Cha toàn năng chí ái nên ta mới có thể yêu mến nhau như anh chị em. Trong tình yêu mến Thiên Chúa, nhờ lòng yêu mến Thiên Chúa và bởi việc yêu mến Thiên Chúa, chúng ta mới có thể yêu thương tha nhân cho dù họ dễ thương hay đáng ghét, cho dù làm ơn, làm phước cho ta hay làm hại và thù ghét ta…(x.Mt 5,43-48).

Điều răn thứ nhất là nguồn, là nền tảng của điều răn thứ hai. Sự thường, trên nguồn đầy nước thì hạ lưu sẽ có dòng chảy. Dòng sông không bị ngăn chặn, nếu hạ lưu không có nước chảy thì chắc chắc trên nguồn đang thiếu nước hay không có nước. Theo lôgich này thì ta hiểu được lời của Thánh Gioan Tông đồ: Khi ta không giữ giới răn thứ hai là yêu người thì chắc chắn ta không giữ giới răn thứ nhất là mến Chúa (x.1Ga 4,20).

Có thể có nhiều người diễn giải rằng tuân giữ giới răn thứ nhất là mến Chúa thì dễ còn giữ giới răn thứ hai là yêu người thì rất khó. Một sự diễn giải như gần đời thường và có vẻ mang tình hiện sinh nhưng lại hơi lệch chuẩn. Sự lệch chuẩn ở đây là nơi cách hiểu về đạo mến Chúa, vì người ta những tưởng rằng tuân giữ một vài hành vi tế tự, một vài nghi lễ thờ phượng bên ngoài là giữ đạo mến Chúa. (vd: đọc kinh, tham dự Thánh Lễ…).

Quả thật, trong thực tế, sống đạo yêu người không phải dễ dàng. Ta có thể không ngược đãi và áp bức khách ngoại kiều, mẹ goá, con côi. Ta có thể cho vay mượn mà không kiếm lãi. Ta có thể trả áo choàng người nghèo cầm cố trước khi đêm về để họ có cái mà đắp ấm. Ta cũng có thể gặt lúa, hái cà phê mà không mót phần rơi vải, nhằm để cho người nghèo mót lượm. Tuy nhiên, để yêu thương người không mấy dễ thương, yêu thương người hành khổ, thù ghét, làm hại chúng ta thì không dễ chút nào. Người ta độc chiếm quyền lực, nguời ta ra sức vơ vét của cải cách bất công, người ta không màng chi đến người nghèo, không nghĩ chi đến tương lai dân tộc, người ta lại còn gian xảo bôi nhọ các Đấng bậc trong Hội Thánh và qua đó phỉ báng đạo thánh Chúa…, thì làm sao ta có thể yêu thương họ như chính mình đây? Ngay cả những người cùng chung niềm tin, cùng một Hội Thánh mà vẫn không thiếu người thú nhận rằng đạo thì con giữ đạo nhưng con không thể làm hoà hay tha thứ cho mấy cái người làm hại con, làm hại gia đình con… Thử hỏi có bao nhiêu bà mẹ sẵn sàng nhận người giết con trai của mình làm con nuôi? Thử hỏi số vị thánh Tử đạo sẵn sàng cầu nguyện và chúc lành cho kẻ giết mình có đến con số một vài triệu? Vậy thì đại đa số người tín hữu Kitô có thực sự giữ giới răn thứ hai là yêu người chưa? Thật khó trả lời. Nhưng ta có thể khẳng định rằng nếu ta cố tâm giữ giới răn thứ nhất thì sẽ có khả năng thực thi giới răn thứ hai. Vấn đề là giữ giới răn thứ nhất như thế nào.

Thiên Chúa là Đấng không ai thấy bao giờ. Nhưng Người đã nên hữu hình nơi Đức Giêsu Kitô. Ai thấy Chúa Kitô là thấy Chúa Cha (x.Ga 14,9). Và yêu mến Chúa Kitô là yêu mến Thiên Chúa. Yêu mến Chúa Kitô là hãy ở lại trong tình yêu của Người và hãy giữ giới răn của Người (x.Ga 14 23-24).

Ở lại trong tình yêu của Chúa Kitô nghĩa là hãy để cho Chúa Kitô yêu thương ta. Ở lại trong tình yêu của Chúa Kitô là kết hiệp nên một với Người, là nên đồng hình đồng dạng với Người. Một trong những phương thế tuyệt hảo để ở lại trong tình yêu của Chúa Kitô đó là liên lĩ cầu nguyện. Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên để kết hiệp với Chúa, nên một với Chúa, để nhận biết Chúa mà yêu mến Chúa, để biết thánh ý Chúa mà thực thi ý Người. Nên một với Chúa Kitô, nên đồng hình đồng dạng với Người thì ta sẽ biết cách yêu thương nhau như Người đã yêu thương chúng ta (x.Ga 15,12). Và đây là giới răn mới mà Chúa Kitô đã truyền lại cho chúng ta ngay đêm Tiệc Ly, trước khi Người chịu khổ nạn.

Vì biết cùng chung cha mẹ nên người ta nhận nhau là anh chị em, chứ không phải vì đã nhận nhau làm anh chị em nên mới biết mình cùng chung một mẹ cha. Tuy nhiên trong tình yêu, nhiều điều như nghịch lý vẫn hiện hữu. Dù không thể đòi hỏi và không có quyền đòi hỏi rằng khi anh chị em thương nhau là đã yêu cha mẹ, nhưng chính cha mẹ tự nhận lấy việc con cái yêu thương nhau là cách thế tốt đẹp mà chúng tỏ bày lòng hiếu thảo với mình. Cũng thế, là Tình Yêu, Thiên Chúa đã nhận việc loài người chúng ta yêu thương nhau là một phương thế yêu thương Người cách tốt đẹp. Chúa Kitô đã nói rõ chân lý này trong dụ ngôn ngày cánh chung (x.Mt 25,31-46).

Mến Chúa và yêu người là trọng tâm sứ điệp Kitô giáo. Là Kitô hữu, chúng ta thuộc lòng chân lý này. Tuy nhiên để thực thi đạo mến Chúa – yêu người thì cần phải biết Chúa, một sự “biết” theo nghĩa Thánh Kinh đó là gắn bó nên một với Chúa. Ngoài các giờ kinh nguyện, ngoài các buổi tham dự Phụng vụ, thì việc giữ tỉnh lặng khoảng năm, mười phút hay lâu hơn trong một ngày sẽ giúp ta can đảm và nhiệt thành mến Chúa trên hết mọi sự và yêu thương tha nhân như chính mình cách hữu hiệu.

Về mục lục

.

LÀM SAO ĐỂ MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI?

Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh

Bài đọc sách Xuất Hành và bài Phúc Âm hôm nay ( Xh 22:21-27; Mt 22:34-40) nói về Mến Chúa và Yêu người là giới răn quan trọng nhất. Bài đọc sách Xuất Hành nhắc lại một số điều luật về cô nhi quả phụ và người nghèo khó. Thiên Chúa nhắc nhở dân Người rằng: đã có thời các ngươi là người ngoại quốc sống trên đất khách. Đối với người ngoại quốc, cô nhi quả phụ và người nghèo khổ, chúng ta phải lấy công minh và tình thương cảm mà đối sử. Nếu không Thiên Chúa sẽ luận phạt nghiêm ngặt để bảo vệ kẻ cô thế.

Thiên Chúa thì nghiêm minh trước thái độ tiêu cực và hành động của chúng ta đối với tha nhân, đặc biệt người nghèo khó, kẻ xa lạ, những người kém may mắn và khác biệt với chúng ta. Niềm tin đích thực, tình yêu Chúa và mối liên hệ giữa chúng ta và Chúa Kito được định giá ở cung cách chúng ta đối sử với tha nhân. Hai bài đọc hôm nay thúc giục chúng ta hãy thống hối và xin tha thứ vì những thái độ tiêu cực cũng như những hành động trái phép của chúng ta đối với họ. Bài Phúc Âm hôm nay chính là lời cầu căn bản của kinh Shema (lời tuyên xưng đức tin của người Do Thái): “Hãy nghe đây, hỡi Israel, Thiên Chúa của chúng ta là Chúa duy nhất” (Tl 6:4). Giống như chúng ta tuyên xưng niềm tin của chúng ta nơi chúa Kito bằng kinh Tin Kính thì người Do Thái tuyên xưng niềm tin của họ bằng kinh Shema trong các giờ lễ của họ ở nhà nguyện. Kinh Shema là bản tóm tắt nói lên một tôn giáo đích thực: “Hãy nghe đâyhỡi Israel. Thiên Chúa của chúng ta là Chúa duy nhất; ngươi hãy yêu mến Chúa của các ngươi hết lòng, hết trí, hết sức của các ngươi”(Tl 6:4-5). Bài Phúc Âm Mathieu (Mt 22:34-40) đi song hành với bài cùa của Marco (Mc 12:28-34) diễn tả cuộc đối thoại giữa đức Giesu và một kinh sư. Đức Giesu đã làm ông ta phải ngạc nhiên và nể sợ vì Người đã nắm vững cuộc hội thoại gây nhiều tranh cãi. Đức Giesu đã khen ngợi nhà thông luật đó và nói: “Nước Thiên Chúa không còn ở xa ông đâu.” (Mc 12-34). Mathieu về sau đã khai triển quang cảnh này rộng hơn.

Các người biệt phái là những nhà kinh điển, họ thông suốt luật lệ và coi luật là túi khôn và là điều duy nhất cần phải học hỏi. Các kinh sư thường nắm vị thế lãnh đạo trong cộng đồng Do Thái và rất được nể trọng.

Các thầy dạy luật Torah ( kinh sư và rabbis) luôn luôn tranh cãi về tính  tương đối của các giới luật trong Cựu Ước. Họ là những học giả và nhà trí thức của Do Thái Giáo. Các biệt phái đã xác định được 613 giới răn trong luật Torah (5 sách đầu của Kinh Thánh). Trong số 613 điều thì 248 điều có tính tích cực:“Ngươi phải làm” và 365 điều có tính tiêu cực “Ngươi không được làm”. Câu hỏi của một học sĩ tỏ ra khá thành thật. Họ hỏi đức Giesu để thử Người là “Giới răn nào là giới răn đầu và quan trọng nhất?” Đức Giesu trả lời bằng cách dẫn chứng sách Thứ luật (Tl 6:4-5) và kinh Shema mà người Do Thái vẫn đọc hàng ngày. Dù họ hỏi Chúa chỉ một điều răn, nhưng Chúa đã trả lời họ hai điều liên kết lại với nhau, Chúa đã vượt quá câu hỏi của họ là liên kết điều thứ nhất và quan trọng nhất với điều thứ hai đã có trong sách Levi: “Hãy yêu người lân cận mình như chính mình”(Lv 19:18). Hai điều luật này là nguồn gốc phát sinh ra toàn thể bộ luật và các lời tiên tri.  Chúa Giesu đã không trừ bỏ một điều luật nào cả. Người nói thêm rất rõ ràng là: “Tất cả luật lệ và lời các ngôn sứ đều nằm ở hai điều răn này” (Mt 22:40). Ở điểm này, Marco cho biết vị học giả đã tỏ ra đồng ý với đức Giesu và khen ngợi Người (Mc 12:33-34).

MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI KHÔNG PHẢI LÀ Ý TƯỞNG TIÊN KHỞI CỦA ĐỨC GIESU

Mến Chúa Yêu Người không phải là ý tưởng tiên khởi của chúa Giesu. Nó có từ lâu đời

trong Kinh Thánh Hebrew (Do Thái). Tuy nhiên ý tưởng duy nhất và tuyệt hảo của chúa Giesu là “Chúng ta không thể làm điều này mà không làm điều kia”. Yêu người hàng xóm / tha nhân được thúc đẩy, khuyến khích bởi Yêu Thiên Chúa. Yêu Thiên Chúa được chứng tỏ và mạnh mẽ bởi yêu mến người hàng xóm / tha nhân. Yêu người hàng xóm cũng không phải là yêu vì đòi hỏi của tình yêu Thiên Chúa, một hoàn thành xuất phát từ tình yêu Thiên Chúa, nhưng -ở một ý nghĩa nào đó- nó cũng là một điều kiện tiên thiên. Không thể có tình yêu Chúa thực sự mà tự nó đã không phải là tình yêu tha nhân và, tình yêu Thiên Chúa gặp gỡ đúng với bản thể của tình yêu Thiên Chúa qua việc hoàn chỉnh tình yêu tha nhân. 

GIÁO HUẤN CỦA MAISEN VÀ ĐỨC GIESU 

Giảng huấn của Maisen nằm trong kinh Shema (Tl 6:5; Lv 19:34) được đức Giesu xác định lại trong bài Phúc Âm hôm nay, là tất cả mọi giới răn được tóm gọn trong giới răn Mến Chúa và Tử Tế với những người hàng xóm. Mỗi khi người Do Thái đọc kinh Shema và người Kito hữu nhớ lại hai điều răn thứ nhất và thứ hai thì, chúng ta nhờ ân sủng của Thiên Chúa, được xích lại gần nhau hơn. Khi nào chúng ta làm dấu Thánh Giá, là chúng ta vạch dấu Shema lên thân xác chúng ta, như đụng vào đầu, vào trái tim và vào vai chúng ta và thề hứa sẽ phục vụ Thiên Chúa. 

THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU

Dựa vào ý nghĩa những bài kinh thánh hôm nay, tuần này chúng ta cùng nhau suy niệm về hai vấn đề.

*Thứ nhất số # 42 trong Ánh Sáng Muôn Dân / Lumen Gentium, Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội của công đồng Vatican II. “Thiên Chúa là Tình Yêu, là đấng ẩn mình trong tình yêu, trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong Người.” Nhưng Thiên Chúa đổ tình yêu của Người tràn ngập chúng ta qua Chúa Thánh Thần là đấng Thiên Chúa ban cho chúng ta. Đó là tặng vật đầu đời và cần thiết nhất, nhờ đó mà chúng ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu thương tha nhân vì Thiên Chúa. Thực vậy, để cho tình yêu ấy, như là hạt giống tốt, có thể nảy mầm và sinh hoa trái trong tâm hồn, rồi mỗi một tín hữu đó phải thiết tha lắng nghe Lời Chúa, chấp nhận Thánh Ý Chúa và hoàn thành điều mà Thiên Chúa đã khởi đầu bằng chính những hành động của họ với sự giúp đỡ của hồng ân Thiên Chúa. Những hành động này bao gồm việc sử dụng các phép bí tích, đặc biệt bí tích Thánh Thể, thường xuyên tham dự những nghi lễ phụng vụ, áp dụng vào việc cầu nguyện, hãm mình, phục vụ người anh em một cách cụ thể và liên tục thực hành các nhân đức. Vì bác ái -như một sợi dây liên kết giữa sự hoàn hảo và chu toàn luật lệ- đã điều khiển mọi phương cách để đạt sự thánh đức và ban sinh sự sống cho chính những  phương cách ấy. Chính đức ái sẽ hướng dẫn chúng ta đến đích sau cùng. Chính tình yêu Thiên Chúa và tình thương tha nhân biểu hiện người môn đệ đích thực của Chúa Kito.

*Thứ hai: Phần mở đầu Thông Điệp đầu tiên của Đức Biển Đức XVI Thiên Chúa là Tinh Yêu / Deus caritas est phát hành năm 2005, đã tóm gọn rất tuyệt với bài Kinh Thánh hôm nay:

Là Kito hữu không phải là kết quả của một chọn lựa đạo đức hay một tư tưởng cao siêu, nhưng là điểm gặp gỡ của một biến cố và một nhân vật đã ban cho cuộc sống một chân trời mới và một hướng đi nhất định (….) Hiểu biết được chính điểm của tình yêu thì niềm tin kito giáo sẽ giữ lại được cốt lõi của niềm tin Israel, đồng thời làm cho nó có một chiều sâu và bề ngang mới. Người Do Thái đạo đức cầu nguyện hàng ngày bằng những lời trong sách Thứ Luật là sách diễn tả sự hiện hữu của con tim: “Hãy nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa của Thiên Chúa chúng ta là Chúa duy nhất, ngươi sẽ yêu Chúa của ngươi  hết tâm hồn hết trí khôn và hết sức ngươi” (Tl 6:4-5). Đức Giesu đã kết hợp điều răn mến Chúa và Yêu người như đã có trong sách Levi:“Ngươi sẽ yêu người láng giềng như chính ngươi”(Lv 19:18; Mc 12:29-31) thành một cảm nhận đơn giản. Vì Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước (1Ga 4:10), nên tình yêu bây giờ không còn là một giới răn đơn thuần nữa; mà là một đáp lễ trả lại cho tặng vật tình yêu mà nhờ đó Thiên Chúa đã đến gần chúng ta. 

MUỐN CHO THÌ PHẢI CÓ.

Hiện nay có một số người Công Giáo tốt tự xưng là “ngôn sứ” khi họ nắm giữ những vấn đề công lý xã hội trong Giáo Hội. Trong khi giữ những nhiệm vụ quan trọng về công lý xã hội trong truyền thống Công Giáo, TGM Oscar Romeo và Dorothy Day thường tỏ ra tiêu cực đối với Mẹ Teresa thành Calcuta. Các ngài cho rằng mẹ không bao giờ đề cập đến “hệ thống ma quỉ” ở thời đại ngày nay. Họ nói rằng mẹ không bao giờ đưa vấn đề ngôn sứ  ra để tranh luận và, mẹ đơn thuần chỉ đóng một vai trò gương mẫu an bình trong một Giáo Hội mà nam giới là chủ động!

Đối với tôi, điều làm tôi khâm phục và cảm kích là Mẹ Teresa và các chị em của mẹ nói về Yêu Chúa và Yêu tha nhân, chia sẻ sự “nghèo khổ”; nó vượt lên trên những cái gọi là luận lý của nhiều tổ chức, cơ quan của chúng ta ngày nay chỉ thích những chương trình cho người nghèo có tính chính trị  thay vì  thông công một cách sâu sắc với từng cá nhân con người nghèo khổ.                            

Điều mà Giáo Hội để ý đến nơi các thánh và các chân phước không chỉ những công việc vĩ đại –như giải Nobel Hòa Bình hay những giải thưởng quốc tế khác- mà là những việc làm cụ thể, qua đó các thánh, các chân phước đã biến đổi cả bên trong lẫn bên ngoài nhờ hồng ân Thiên Chúa và cách áp dụng giới răn Mến Chúa Yêu Người.

Một ngạc nhiên nữa là tôi đã trông thấy một tấm thiệp của Mẹ Teresa. Nó không giống như bất cứ một tấm thiệp nào khác, không địa chỉ, không số điện thoại, không số FAX, không Email, chỉ vỏn vẹn những hàng chữ như sau: 

The fruit of Silence is PRAYER

The fruit of Prayer is FAITH

The fruit of Faith is LOVE

The fruit of Love is SERVICE

The fruit of Service is PEACE

God bless you

Mother Teresa

*****

Hoa trái của Yên Lặng là CẦU NGUYỆN

Hoa trái của Cầu Nguyện là NIỀM TIN

Hoa trái của Niềm Tin là TÌNH YÊU

Hoa trái của Tình Yêu là PHỤNG SỰ

Hoa trái của Phụng Sự là AN BÌNH

Xin Chúa chúc lành cho bạn

Mẹ Teresa

Ngày nay, chúng ta không cần bất cứ tin tức gì để liên lạc với Mẹ, vì Mẹ luôn luôn sẵn sàng cho chúng ta qua sự hiệp thông của các Thánh.Xin Mẹ Teresa thành Calcutta cầu bầu cho chúng con, dạy chúng con cách mến Chúa và yêu người trong hợp nhất và hòa điệu.

Và nên nhớ lời Mẹ dặn: Muốn Cho thì phải Có! 

Về mục lục

.

YÊU CHÚA, YÊU NGƯỜI?

Phạm Anh

Luật để con người sống tốt hơn. Nhưng trong cuộc sống quá nhiều luật, làm sao để nhớ, để sống ? Cốt lõi của các điều luật nằm hệ tại ở điều gì ? Đức Giêsu đã trả lời cho những người thông luật Do Thái, những người Pharisiêu và mỗi người chúng ta, điều răn quan trọng nhất chỉ vỏn vẹn trong bốn chữ : “yêu Chúa, yêu người” (Mt 22, 34-40).

Yêu Chúa, phải chăng là chỉ đi lễ, đi nhà thờ, đọc kinh là đủ ? Đức Giêsu đã dạy : “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi” (Mt 22, 37). Đúng vậy, Chúa mời gọi chúng ta yêu Chúa bằng trọn vẹn con người của mình. Chúng ta tham dự Thánh lễ, đọc kinh, thân xác chúng ta hiện diện, nhưng liệu rằng, cả con người chúng ta đang thực sự hướng về Chúa ? Hay lòng trí chúng ta đang bị phân tâm về những điều khác ? Với các bạn trẻ, nào là lo lắng ngày mai phải thi, phải học, các bài tập chưa làm xong, chuẩn bị đến giờ hẹn với bạn bè,… Cũng có khi chúng ta đi lễ nhưng lại luôn nghĩ không biết “số đề” hôm nay về “con” bao nhiêu ? Những dự án, tính toán, việc này việc kia chưa xong… ; các con số, các phép toán luôn hiện lên trong đầu… Nhiều lúc, đi lễ chúng ta để ý nhiều chuyện : hôm nay tôi mặc áo đẹp, hôm nay tôi có phong cách khác,…Đã nhiều lần, chúng ta tham dự Thánh lễ, đọc kinh, chúng ta còn ngủ gật từ đầu đến cuối… Như vậy, mặc dù chúng ta đến cùng Chúa nhưng chúng ta lại loay hoay, lơ đãng với công việc của chúng ta. Chúng ta gặp Chúa nhưng chúng ta lại coi Chúa như “người thừa” vậy! Thế mới biết chúng ta thật mỏng giòn, yếu đuối, ngay cả tâm trí của mình, mình cũng khó có thể kiểm soát được. Vậy mà, Thiên Chúa chẳng trách cứ. Người luôn mời gọi chúng ta đến với Người bất cứ lúc nào, trong bất cứ tình trạng nào. Để đáp lại sự chờ đợi đầy yêu thương ấy, hằng ngày, chúng ta cần luôn ý thức về sự hiện diện của chúng ta trước Chúa, mỗi khi chúng ta tham dự phụng vụ, cầu nguyện, ngay cả khi chúng ta làm việc. Đó là chúng ta thể hiện tình yêu của chúng ta với Chúa.

Vậy, trong cuộc sống với tha nhân thì sao ? Chúa Giêsu khẳng định, một điều răn quan trọng không kém điều răn thứ nhất là : “Ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình” (Mt 22, 39). Có người lý luận rằng : yêu Chúa là yêu Chúa, yêu người khác là khác, hai đối tượng rất khác nhau, làm sao có thể giống được ? Nó đáng ghét như vậy, làm sao tôi thương nó được ? Nhìn mặt nó, tôi còn không thèm chứ huống gì là yêu thương nó ?! Khi chúng ta yêu Chúa, chúng ta cũng yêu thương nhau, bởi mỗi người chính là hình ảnh của Thiên Chúa Xót Thương. Khi chúng ta yêu thương tha nhân, chính là lúc chúng ta thể hiện niềm tin vào Chúa, thể hiện tình yêu của chúng ta dành cho Chúa. Đó là tình yêu rất đẹp và Chúa luôn sẵn lòng để đón nhận của lễ ấy. Thánh Gioan Tông đồ đã nói: “Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em thì đó là kẻ nói dối, bởi vì kẻ không yêu thương người anh em nó thấy trước mắt, tất không thể yêu mến Đấng nó không thấy” (1Ga 4,20). Mỗi người Kitô hữu chúng ta được mời gọi sống “đạo yêu thương”. Chúng ta yêu Chúa không chỉ trong nhà thờ, nhưng còn yêu Chúa cả trong cuộc sống với những con người hằng ngày chúng ta gặp gỡ, dù đó là người sang trọng quyền quý, có học thức, hay cả những người bệnh tật, nghèo khổ, hoặc cả những người chúng ta không ưa. Đó chính là những món quà mà Chúa đã gửi đến cho chúng ta hằng ngày.

Lạy Chúa, xin Chúa ban cho chúng con tình yêu của Chúa. Xin cho dạy chúng con biết yêu Chúa với trọn cả con người. Xin cho chúng con biết mở rộng con tim, giang rộng đôi tay, rèn luyện đôi chân nhanh nhẹn, đôi mắt cảm thông, đôi tai lắng nghe và thấu hiểu, miệng lưỡi sẵn sàng cho đi những lời yêu thương, để chúng con luôn hướng về Chúa, và luôn đến cùng tha nhân trong mọi biến cố, mọi hoàn cảnh của chúng con. Amen.

Về mục lục

.

KÍNH MẾN CHÚA, YÊU THƯƠNG NGƯỜI

PM. Cao Huy Hoàng

 “Hãy yêu mến Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi, và yêu người thân cận như chính mình người” (Mt 22, 37, 39)

Chúa Giê-su đã tóm lại toàn bộ lề luật của Môi-sê và các sách Ngôn Sứ chỉ trong hai điều răn trọng nhất “mến Chúa và yêu người”. Nghe rất dễ, nhưng không dễ thực hành, bởi sự đòi buộc tuyệt đối của điều răn. “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn” nghĩa là yêu Chúa trên hết mọi sự. Luật này luôn đặt mỗi chúng ta trước một chọn lựa dứt khoát: chọn Chúa hay chọn sự phàm tục. Ai cũng có lòng yêu sự thế gian này, nhưng phải yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Yêu cha mẹ hơn thầy thì không xứng đáng với Thầy, huống là yêu chuộng những gì là phù vân chóng vánh. Yêu mến Chúa là đặt mình hoàn toàn thuộc về Chúa, không để cho lòng trí, linh hồn thuộc về ai khác, thuộc về sự gì khác. Nói cách khác là buông bỏ mọi sự mà qui hướng về Chúa. Cũng vây, “yêu người như chính mình” đòi hỏi chúng ta buông bỏ chính mình mà qui hướng về tha nhân, cho tha nhân được bình an thiện hảo.

Không đơn giản mà thực thi điều răn ‘mến Chúa yêu người’, nếu không có Thánh Thần, Nguồn Trợ Lực ban ân sủng Thiên Chúa. Hãy khẩn khoản nài xin ơn Yêu của Chúa Thánh Thần, để Người soi sáng cho ta nhận ra một mẫu gương giữ đôi điều luật này chuẩn mực nhất: chính là Đức Giê-su Ki-tô. Hãy yêu như Giê-su. Vì Người đã yêu Chúa Cha và đặt mình hoàn toàn thuộc về Chúa Cha. Vì Người đã yêu nhân loại và hoàn toàn bỏ mình, hiến thân mình cho nhân loại được hạnh phúc. Không có mẫu giữ luật yêu nào có thể sống động và quyến rũ cho bằng mẫu yêu của Chúa Giê-su, Đấng kiện toàn lề luật

Lạy Chúa, xin cho chúng con yêu mến Chúa, và yêu thương người, như Đức Giê-su, Con Chúa đã yêu. A men.

Về mục lục

.

 

TÌNH YÊU LÀM CHO CUỘC SỐNG NÊN TỐT ĐẸP

Lm. Giuse Nguyễn

1.  Đêm 25/10/2017 tại đảo Phú Quốc, Kiên Giang đã diễn ra vòng chung kết cuộc thi Hoa Hậu Hòa Bình Thế Giới 2017. Trong phần thi hùng biện, các thí sinh Top 10 sẽ trình bày chủ đề “chấm dứt chiến tranh”. Mỗi người đẹp đại diện cho đất nước của mình đều có một cái nhìn khác nhau, nhưng tựu trung lại vẫn là tình yêu thương sẽ chấm dứt chiến tranh và làm cho thế giới nên tốt đẹp hơn. Sau đó Ban Giám khảo chọn ra Top 5 để bước vào phần thi trả lời câu hỏi duy nhất của ban tổ chức: Nếu có thể ban hành một đạo luật để trừng phạt những người gây ra chiến tranh và bạo lực, bạn sẽ ban hành đạo luật gì?Hoa Hậu Peru nói: Tôi sẽ bắt họ phải sống ở trại tị nạn để họ phải chịu những gì mà họ đã gây ra cho rất nhiều người. Hoa Hậu Pueto Rico: Tôi sẽ bắt họ làm những công việc thiện nguyện cho xã hội”. Hoa Hậu CH Sec và Hoa Hậu Philippines thì nói không thể trừng phạt họ, vì sẽ càng làm cho chiến tranh và bạo lực gia tăng. Riêng Hoa HậuVenezuela đã trả lời một cách mạnh mẽ và xác quyết: Tôi là người tin vào Chúa, tôi cũng tin rằng, đạo luật của Chúa là đạo luật quan trọng nhất. Cách mà tôi có thể sử dụng để chấm dứt chiến tranh là đẩy mạnh tình yêu, sự tôn trọng và chia sẻ”. Vâng, đạo luật của Chúa chính là đạo luật yêu thương, và nếu có tình yêu thương thì thế giới sẽ trở nên tốt đẹp hơn.

2.  “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Ông bà nguyên tổ trong vườn địa đàng là hình ảnh tình yêu tròn đầy của Thiên Chúa. Những tưởng sự phản bội của họ sẽ làm cho tình yêu đó bị phai mờ. Nhưng không, dù con người có như thế nào đi chăng nữa, thì Thiên Chúa vẫn yêu thương họ như lời Ngài đã phán: “Ta đã yêu con bằng mối tình muôn thuở, nên Ta vẫn dành cho con lòng xót thương” (Gr 31,3).

Tình yêu đó được Thiên Chúa nhắn nhủ trong sách Xuất hành để dân biết cách mà sống cho phải đạo làm người với nhau: “Người ngoại kiều, ngươi không được ngược đãi và áp bức… Mẹ góa con côi, các ngươi không được ức hiếp… Nếu ngươi cho một người trong dân Ta, một người nghèo ở với ngươi vay tiền, thì ngươi không được xử với nó như chủ nợ… Nếu ngươi giữ áo choàng của người khác làm đồ cầm, thì ngươi phải trả lại cho nó trước khi mặt trời lặn…” (x.Xh 22, 20-26).

Tình yêu đó được Đức Giêsu thể hiện một cách trọn vẹn trong suốt 33 năm hành trình dương thế. Nó được gói gọn lại trong câu trả lời cho người thông luật trong bài Tin Mừng hôm nay về thao thức chung của người Do Thái: “Thưa Thầy, trong sách luật Môsê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?” (Mt 22, 36). Câu trả lời đó là: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, và yêu người thân cận như chính mình” (x.Mt 22, 37. 39). Điểm độc đáo của Đức Giêsu là gắn liền hai việc “mến Chúa – yêu người” lại với nhau, cho nó một giá trị như nhau; và tập trung mọi giới luật vào hai điều răn đứng đầu này. Từ đây mọi người bất kể là ai, làm gì, tin gì… miễn là họ có và thể hiện tình yêu thương trong cuộc sống thì họ đã chu toàn lề luật, vì như thánh Phaolô đã nói: “Yêu thương là chu toàn lề luật” (Rm 13, 10). Đó cũng là tiêu chuẩn để Thiên Chúa “xếp loại” con người “khi Ngài đến trong vinh quang” trong dụ ngôn nổi tiếng về ngày phán xét chung (Mt 25, 31-46).  

3.  Vì lẽ đó mà đạo Thiên Chúa trở thành đạo Yêu Thương, và “người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em hãy yêu thương nhau” (Ga13, 35).Không cần biết anh theo đạo nào, không cần biết anh làm gì, không cần biết gia thế của anh ra sao,… nhưng miễn là cách sống của anh làm cho những người chung quanh cảm thấy dễ chịu, họ được nâng đỡ về tinh thần cũng như vật chất, họ thấy nhẹ nhàng khi tiếp xúc với anh, họ thấy anh dễ mến, dễ thương, dễ gần… thì rõ ràng anh đang theo “đạo yêu thương”.

Tuy nhiên, là người Công giáo, được lời Chúa hướng dẫn, được Giáo hội đồng hành thì chúng ta càng phải sống tình yêu thương một cách cụ thể hơn, vì chúng ta vừa phải tìm hạnh phúc cho mình, vừa phải làm chứng cho tình yêu của Chúa. Chúng ta không phải sống yêu thương một cách tự nhiên, mà tình yêu của chúng ta xuất phát từ tình yêu của Thiên Chúa, được cụ thể qua cuộc đời và cái chết của Đức Giêsu Kitô; để hơn ai hết, người Công giáo phải sống yêu thương, vì Thiên Chúa họ tôn thờ chính là tình yêu.

Linh mục nhạc sĩ Thái Nguyên sáng tác bài hát “sống cho tình yêu” trong đó có đoạn: “Chúa gọi con vào đời, không phải để làm điều chi, nhưng là để sống tình yêu”. Sống yêu thương thì ai cũng biết và ai cũng muốn, vì chắc chắn một điều nơi nào có tình yêu thì nơi đó sẽ trở nên tốt đẹp hơn. Nhưng trên thực tế, thế giới phải đối diện với chiến tranh; tình trạng di cư khiến nhiều người chết trên biển và nhiều người khác sống ở các trại tị nạn; những nước nghèo không có lương thực, nước sạch và thuốc uống… Ở Việt Nam, quốc nạn ăn hối lộ, bán thuốc giả; chém giết người một cách man rợ; ly dị, phá thai, khủng hoảng gia đình; giáo dục thế hệ trẻ ngày càng xuống cấp biểu hiện qua các vụ bạo lực học đường ngày càng gia tăng… Tất cả những biểu hiện này đều tựu trung về một vấn đề cốt cán chính là thiếu vắng tình yêu thương.

Thiếu vắng tình yêu thương không phải do không có, không còn, nhưng vì một giá trị khác đang lấn át nó. Giá trị đó chính là lợi ích cá nhân. Quả thật, vì lợi ích cá nhân mà người ta sẵn sàng làm tất cả mọi sự. Tội lỗi của con người là do ma quỷ cám dỗ để họ chỉ nghĩ đến bản thân mình. Vì lợi ích cá nhân mà người ta ăn hối lộ, gian lận kể cả việc buôn bán thuốc giả, phá thai, ly dị; giới trẻ hung hăng đánh đập nhau, chém giết người khác cũng chỉ vì cái tôi cá nhân của mình.

Trong mọi sự nếu biết nghĩ đến người khác thì chắc chắn đó là tình yêu thương. Ngược lại nếu làm bất cứ việc gì mà còn nghĩ đến bản thân mình thì ắt sẽ mặt trái của tình yêu. Khi người chồng, người vợ luôn nghĩ đến người bạn đời, đến gia đình của mình nên họ sẵn sàng làm mọi sự có ích và tốt đẹp cho gia đình, và cũng sẵn sàng từ khước những gì gây nguy hại cho gia đình mình. Khi người trẻ yêu nhau, muốn chiếm đoạt thân xác của nhau là họ đang nghĩ đến mình hay người khác?…

Nói tóm lại, nơi nào có tình yêu nơi đó sẽ trở nên tốt đẹp hơn. Để có được tình yêu thì phải biết từ bỏ cái tôi cá nhân, những lợi ích của riêng mình để nghĩ đến gia đình, tập thể, Giáo hội và xã hội. Nhưng quan trọng nhất, theo chia sẻ của cô hoa hậu Venezuela: niềm tin vào Thiên Chúa sẽ giải quyết tất cả.

Xin Chúa ban cho con một niềm tin mạnh mẽ để con biết sống yêu thương như Chúa chỉ dạy.

Về mục lục

.

ĐIỀU RĂN TRỌNG NHẤT

JM. Lam Thy

 Vì liên tiếp thất bại trong việc “thử”, “gài bẫy” Đức Ki-tô, nên “Khi nghe tin Đức Giê-su đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng, thì những người Pha-ri-sêu họp nhau lại” (Mt 22, 34) tìm phương kế tiếp tục hành động ám muội của họ. Đó là đám người chuyên vỗ ngực tự cho mình là người thông luật và tự hào mình lúc nào cũng tuân thủ Lề Luật cách nghiêm chỉnh. Thực chất thì họ “nói mà không làm, bó những gánh nặng mà đặt lên vai người ta, còn chính họ lại không buồn động ngón tay vào”, và nhất là “họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy” (Mt 23, 3-5). Hơn thế nữa, họ vẫn cho rằng Đức Giê-su chống lại Lề Luật (cụ thể là luật Mô-sê), và họ đã liên tục đem Lề Luật ra gài bẫy Người (“các kinh sư và các người Pha-ri-sêu bắt đầu căm giận Người ra mặt, và vặn hỏi Người về nhiều chuyện, gài bẫy để xem có bắt được Người nói điều gì sai chăng.” – Lc 11, 53-54). Họ luôn tìm những chứng gian để có cớ xử án Người (“Còn các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng thì tìm chứng gian buộc tội Đức Giê-su để lên án tử hình” – Mt 26, 59).

Bài Tin Mừng hôm nay (CN.XXX/TN-A – Mt 22, 34-40) trình thuật về vụ những “nhà thông luật” Pha-ri-sêu họp nhau lại bàn mưu tính kế, rồi đặt câu hỏi để thử xem Đức Giê-su có “thông luật” không? Họ hỏi: “Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?” Với bộ luật Mô-sê có tới 613 khoản (gồm 248 lệnh truyền và 365 điều cấm), nếu gặp phải tay mơ, thì “bí rị” là cái chắc; nhưng thật không ngờ Đức Giê-su trả lời một cách trơn tru: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy.” (Mt 22, 36-40).

Mới thoạt nghe câu trả lời của Đức Giê-su (yêu Chúa và yêu người thân cận), ai cũng cho là hữu lý, vì nghĩ rằng Thiên Chúa là Cha thì yêu Người “hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn” là điều tất nhiên; còn người thân cận thì hẳn phải là những người máu mủ ruột thit (cha mẹ, anh chị em), yêu mến họ là phải đạo làm người. Nhưng chẳng lẽ Thiên Chúa yêu tất cả loài người, mà Người chỉ dạy yêu những người ruột thịt thôi sao? Thắc mắc này không được thánh Mat-thêu giải trình, nhưng theo thánh Lu-ca thì đó cũng là thắc mắc của chính người đã hỏi Đức Giê-su về “Điều răn trọng nhất” (Lc 10, 29-37): Nhà thông luật “muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Đức Giê-su rằng: “Nhưng ai là người thân cận của tôi?” Chỉ đến khi nghe hết “Dụ ngôn người Sa-ma-ri tốt lành” (Lc 10, 30-37), nhà thông luật mới vỡ lẽ để hiểu ra rằng “người thân cận” không chỉ bó hẹp trong phạm vi gia đình ruột thịt, mà là tất cả “những người ta gặp trên đường” hay nói rõ hơn, đó là “người trong bốn bể đều là anh em” (“tứ hải giai huynh đệ”), vì tất cả đều là con cái của Người Cha duy nhất trên trời là “Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng ta” (Mc 12, 29).

Tới đây thì mọi sự đã rõ ràng: “Thiên Chúa dựng nên loài người giống hình ảnh Người” (St 1, 27) thì tất cả những tha nhân bên cạnh và chung quanh chúng ta chính là hiện thân cụ thể và gần gũi chúng ta nhất, bởi tất cả đều giống hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng vô hình, mà lại dựng nên con người giống hình ảnh Người, vậy phải hiểu vấn đề như thế nào cho ổn? Vấn nạn này cũng đã gây nhiều tranh cãi, mãi đến Công Đồng Va-ti-ca-nô II, vấn đề mới sáng tỏ. Hiến chế Mục Vụ về Giáo Hội “Gaudium et Spes” (số 22) đã giải thích rõ ràng: “Mầu nhiệm về con người chỉ thật sự được sáng tỏ trong Mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể. Thật vậy, A-đam, con người đầu tiên, chính là hình ảnh của Đấng sẽ đến, là Chúa Ki-tô. Chúa Ki-tô, A-đam Mới, trong khi mạc khải về Chúa Cha và tình yêu của Người, cũng giúp con người hiểu biết đầy đủ về chính mình và nhận ra ơn gọi vô cùng cao quý của mình. Là “hình ảnh của Thiên Chúa vô hình” (Cl 1, 15), chính Người là con người hoàn hảo đã trả lại cho con cháu của A-đam hình ảnh Thiên Chúa đã bị tội nguyên tổ làm sai lệch.”

Vì thế, yêu những người ấy là yêu chính Thiên Chúa, và không yêu họ chính là không yêu Thiên Chúa. Do đó, thánh sử Gio-an mới nói: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng yêu thương anh em mình.” (1Ga 4, 20-21). Đó cũng chính là nguyên cớ khiến thánh Phao-lô và Gia-cô-bê đã tóm lại toàn bộ lề luật vào một giới răn duy nhất: “Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật; Các điều răn đều tóm lại trong lời này: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Yêu thương là chu toàn Lề Luật.” (Rm 13, 8-10); “Vì tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.” (Gl 5, 14); “Luật Kinh Thánh được đưa lên hàng đầu là “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Gc 2, 8).

Chính Con Người không những đã dạy bảo mà còn thực hành điều đó trên Thánh giá. Khi chiêm ngắm Thánh giá thì cũng chính là lúc người tín hữu được trực diện với hình ảnh Thiên Chúa Tình Yêu Giê-su Ki-tô đang dang rộng hai tay mời gọi mọi người hãy trở nên đồng hình đồng dạng với Người. Một cách cụ thể, Người đang muốn nói với tất cả chúng ta: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” – Mt 22, 37-39). Cây Thánh giá hình chữ thập chính là biểu tượng cho hai điều răn quan trọng nhất ấy: Cây gỗ dọc là thân mình của mỗi Ki-tô hữu đang đứng thẳng vươn tới Thiên Chúa, thanh gỗ ngang là hai cánh tay dang rộng ôm lấy anh em trong yêu thương đùm bọc nhau. Nói khác đi, Đạo (con đường) Ki-tô chỉ có 2 chiều: chiều thẳng đứng chỉ sự công minh chính trực của Thiên Chúa là điều phải vươn tới và chiều nằm ngang chỉ tình cảm thương yêu đối với tha nhân là điều phải thực hiện trong cuộc sống.

Rõ ràng 2 điều răn đã liên kết chặt chẽ với nhau trở nên một điều răn quan trọng nhất: “Mến Chúa yêu người”, cũng như 2 thanh gỗ đóng hình chữ thập nhuộm đỏ máu Chúa Ki-tô đã trở nên một Biểu-Tượng-Tinh-Yêu được cả thế giới công nhận và tín phục: HỒNG THẬP TỰ. Vâng, quả thực là Đạo Công Giáo chỉ sống và thực hành duy nhất một điều răn bao trùm lên tất cả: MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI. Muốn “mến Chúa” thì tiên vàn phải biết “yêu người” (“đói cho ăn, khát cho uống, rách cho mặc, tiếp rước khi là khách lạ, viếng thăm khi bị cầm tù…”), vì chỉ có “yêu người” mới thực là “mến Chúa”, bởi “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” (Mt 25, 40).

Không cần phải nói ở đâu xa, cứ xem ngay từ hồi những hạt giống Tin Mừng đầu tiên được gieo trên mảnh đất chữ S này, những anh em không cùng tín ngưỡng, kể cả những người không tín ngưỡng (vô thần) đều gọi Ki-tô Giáo là Đạo Yêu Thương, Đạo Bác Ái. Ngày nay, chúng ta hãnh dịên vì điều đó, thì lại càng phải làm sao cho điều đó trường tồn và phát triển đến thiên thu vạn đại. Muốn được như vậy, hẳn nhiên là phải thực sự trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô, cũng tức là phải làm thế nào cho mình trở nên một THẬP-TỰ-GIÊSU giữa đời. Viết tới đây, kẻ viết bài này bỗng liên tưởng tới một sự kiện cũng xảy ra tại Việt Nam vào cuối thập kỷ 80 thế kỷ XX: Đó là câu chuyện bộ phim “Chuyện Tử Tế” của nhà đạo diễn Trần Văn Thủy đã gây chấn động dư luận trong nước và cả thế giới.

Bộ phim được sản xuất và hoàn tất năm 1985, nhưng bị cấm phát hành, mãi đến năm 1987 mới được công chiếu. Bộ phim đã khắc họa hình ảnh của những người dân nghèo khổ dưới chế độ bao cấp của xã hội VN, để từ đó tìm ra lời giải đáp cho câu hỏi: “Thế nào là sự tử tế?” Tác phẩm sau đó đã giành giải Bồ Câu bạc tại Liên hoan phim Quốc tế Leipzig, được nhiều đài truyền hình mua bản quyền để phát lại. Khi phim “Chuyện Tử Tế” được trình chiếu trong liên hoan phim Đại Dương (Pháp), một phóng viên đã hỏi: “Người Ki-tô hữu Việt Nam có thể làm gì cho dân tộc mình?” Đạo diễn Trần Văn Thủy đã trả lời: “Với tôi, điều người ta mong đợi ở các Ki-tô hữu là niềm tin của họ và cách họ sống điều họ tin”. Chính điều này cho thấy tin Đạo là một chuyện, nhưng còn phải biến niềm tin ấy thành hành động sống Đạo giữa đời, đem đến cho đời những điều tốt lành của Đạo, hay nói cách khác là sống tốt Đạo đẹp đời. Chỉ có như thế mới xứng đáng với “Hình ảnh và danh hiệu của Thiên Chúa” ở ngay chính con người của mình: Ki-tô hữu.

Là Ki-tô hữu, tức là một Thập-tự-Kitô, phải chăng là đang thi hành sứ mệnh “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.” (Mt 28, 19-20)? Câu trả lời thật hiển nhiên: “Vì sứ mệnh này tiếp diễn, và qua dòng lịch sử làm sáng tỏ sứ mệnh của chính Chúa Ki-tô, Ðấng đã được sai đến rao giảng Phúc Âm cho người nghèo khó, nên Giáo Hội được Thánh Thần Chúa Ki-tô thúc đẩy, cũng phải tiến bước trên chính con đường mà Chúa Ki-tô đã đi, là nghèo khó, vâng lời, phục vụ và tự hiến thân cho đến chết, để rồi toàn thắng nhờ sự sống lại của Người. Chính các Tông Ðồ trong niềm hy vọng cũng đã bước đi trên đường lối đó, đã chịu nhiều nghịch cảnh và đau khổ để hoàn tất những gì còn thiếu sót trong cuộc khổ nạn Chúa Ki-tô đã chịu vì thân thể Người là Giáo hội. Nhiều khi máu các Ki-tô hữu còn là hạt giống nữa.” (Sắc lệnh Truyền Giáo “Ad Gentes”, số 5).

“Máu các Ki-tô hữu còn là hạt giống nữa” ư? Vậy thì máu Ki-tô hữu đổ ra nhuộm đỏ thân mình trở thành một Hồng-Thập-Tự-Kitô, há chẳng phải là ”hat giống Tin Mừng” đó sao? Chính những hạt giống Tin Mừng ấy sẽ trưởng thành và đơm bông kết trái trên cánh đồng TRUYỀN GIÁO vậy. Ôi! Lạy Chúa, xin soi sáng và thêm sức cho con nên một cành nho trổ sinh nhiều hoa trái, để con thực sự trở thành một HỒNG-THẬP-TỰ-KITÔ-HỮU giữa đời thường. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.

Về mục lục

.

CỐT LÕI CỦA LUẬT LÀ LÒNG MẾN

Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển

Khi nói về tình yêu, hẳn đã có quá nhiều người biết và định nghĩa về chúng. Tuy nhiên, khi sống căn tính về tình yêu, thì có lẽ không mấy người đạt được! Đôi khi còn hiểu sai hay hành động lệch lạc hoặc phiến diện. Vì thế, sự cao quý của nó đôi khi bị mất ý nghĩa…!

Hôm nay, Đức Giêsu nói đến một thứ tình yêu hoàn hảo và phong phú. Hoàn hảo là vì khi yêu mến Chúa trên hết mọi sự, thì chúng ta sẽ được kín múc nguồn lực để yêu mến tất cả mọi người không trừ ai. Phong phú vì: “Giới hạn của tình yêu là không có giới hạn nào” (thánh Augustinô). Thật thế, mến Chúa và yêu người là hai mặt nhưng chỉ có một tình yêu. Vì thế, nó không thể tách rời nhau, mà là hòa quyện lại với nhau để làm nên điều thiện hảo.

  1. Mến Chúa gắn liền với yêu người

Những người Biệt Phái vốn đã có sẵn sự hiềm khích với Đức Giêsu. Có lẽ, với người Biệt Phái, họ không mong muốn gì hơn là việc loại bỏ Đức Giêsu càng sớm càng tốt cho đỡ ngang tai trái mắt, bởi vì Đức Giêsu chẳng khác gì cái đó ngáng chỗ của họ. Vì Ngài, mà những người này đã phải mất ăn mất ngủ để tìm ra những mưu kế nhằm gài bẫy Đức Giêsu.

Hôm nay, vẫn nằm trong ý định đó, nên họ đã nhất trí với nhau là đề cử một người đại diện để đứng lên hỏi Đức Giêsu về điều răn nào là trọng nhất trong Sách Luật. Đây là câu hỏi khó, không dễ trả lời!

Tại sao họ lại hỏi câu nói đó? Thưa vì trong Sách Luật Môsê có tới 613 điều luật, được chia thành 248 điều phải làm và 365 điều phải tránh.  Tuy nhiên, ngay trong các nhóm của họ cũng bất đồng với nhau: mỗi nhóm thích giữ một điều luật và cho điều luật ấy là quan trọng hơn cả. Như vậy, nếu Đức Giêsu nói điều này hơn điều kia, thì hẳn Ngài sẽ làm phật lòng các nhóm còn lại, và như thế, không có lợi gì cho Ngài.

Tuy nhiên, lại một lần nữa, Đức Giêsu đã làm cho mục đích của họ bại lộ và phải câm miệng như nhóm Sađốc. Ngài nói: “Ngươi phải yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Ðó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy” (Mt 22,37-40).

Khi nói “Điều răn thứ hai cũng giống điều răn ấy”, Đức Giêsu muốn dạy cho họ một chân lý rằng: mến Chúa thì phải yêu thương anh chị em mình. Hai điều răn này luôn gắn liền với nhau. Kẻ nào mến Chúa mà không yêu người thì mâu thuẫn, hay yêu người mà không mến Chúa cũng chẳng khác gì “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”.

Thánh Gioan cũng nói trong thư của ngài như sau: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4, 20).

Qua câu trả lời của Đức Giêsu, chúng ta thấy có sự mới mẻ và phổ quát, không hàm hồ mà thực tế. Bởi lẽ, câu trả lời này đều được rút ra từ chính trong sách Luật Môsê và nó có sự liên đới với nhau mật thiết đến độ không thể bỏ một lấy một hay coi trọng điều này mà giảm khinh điều kia.

Thật vậy, tình yêu thương là quan trọng. Thiếu đi tình yêu thương, chúng ta đánh mất đi cốt lõi của luật. Vì thế, thánh Phaolô cũng quả quyết: “Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (1 Cr 13, 13).

2. Mến Chúa, yêu người gắn liền với lòng bác ái và hy sinh

Đức mến là điều quan trọng trong toàn bộ Lề Luật. Lòng mến này được thể hiện qua đức ái. Nếu không có đức ái, thì tình yêu của chúng ta sẽ chẳng khác gì một sự lừa bịp. Hay như trò “khua chiêng gõ mõ”.

Khi nói về vấn đề này, thánh Phaolô đã giải thích như sau: “Dầu tôi nói được các thứ tiếng loài người và thiên sứ […] Dầu tôi được ơn nói tiên tri, cùng biết đủ các sự mầu nhiệm, và mọi sự hay biết; dầu tôi có cả đức tin đến nỗi dời núi được,[…] Dầu tôi phân phát gia tài để nuôi kẻ nghèo khó, lại bỏ thân mình để chịu đốt, song không có tình yêu thương, thì điều đó chẳng ích chi cho tôi” (x. 1 Cr 13,1-3). 

Như vậy, đối với chúng ta, những người Công Giáo, dấu chỉ để nhận biết chúng ta có yêu Chúa thật lòng hay không lại phụ thuộc vào tình yêu của chúng ta dành cho tha nhân. Và để nhận biết được tình yêu đó lớn hay nhỏ lại phụ thuộc vào đức ái được đặt để trong tình yêu. Thật vậy: “Ðức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cr 13,7).

Khi yêu thương anh chị em mình cách chân thành, đấy là dấu chỉ chúng ta đang thuộc về Chúa, vì: “Thiên Chúa là tình yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1 Ga 4,16), còn nếu: “Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8).

Nói cách khác, chúng ta biết yêu và có động lực để yêu là vì chúng ta được Thiên Chúa yêu thương trước: “Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5,5). 

Như vậy, ta cũng có thể hiểu tình yêu được khơi nguồn từ chính Thiên Chúa, và ai có được tình yêu với tha nhân thì đã hội ngộ cùng Thiên Chúa và đã ở trong Ngài.

3. Sống sứ điệp Lời Chúa

Cả cuộc đời của Đức Giêsu là hiện thân của một cuộc tình giữa Thiên Chúa và loài người. Cuộc tình đó, Đức Giêsu là người đi bước trước để đến với loài người. Tình yêu của Ngài là một tình yêu hướng tha.

Khi khai mở một cuộc tình như thế, Đức Giêsu mời gọi mỗi người chúng ta hãy đi trên lộ trình của cuộc tình ấy như Ngài là chấp nhận hy sinh, phục vụ và hiến thân vì người mình yêu. Bởi vì: “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15,13).

Ngày nay, có rất nhiều người lầm tưởng và nghĩ rằng: muốn nên thánh thì phải làm được những chuyện lớn lao, vĩ đại, siêu quần bạt chúng; hay phải là một người đạo đức trổi vượt, ăn chay quanh năm suốt tháng, sáng lễ, chiều kinh, tối chầu; rồi luôn tham gia hết hội đoàn này đến hội đoàn kia; hoặc ở đâu có hành hương là đầu tư tiền bạc để đi cho kỳ được…. Những việc làm này thật đáng ca ngợi, bởi vì một cách nào đó thể hiện sự anh hùng, trung thành, tin tưởng…. Tuy nhiên, đây không phải là cốt lõi của Đạo, và đây cũng chưa hẳn là bản chất của sự thánh thiện…!

Thật vậy, sự thánh thiện không hệ tại ở việc tuân giữ Giới Luật của Chúa bề ngoài. Bề ngoài thực sự chỉ có giá trị khi nó được thúc đẩy bởi lòng mến mà thôi. Nếu có lòng yêu mến Chúa và yêu thương anh chị em thì những việc ta làm ở trên mới có giá trị, bằng không nó sẽ vô nghĩa nếu không muốn nói là sẽ nguy hại cho linh hồn, vì: chúng ta sẽ dễ rơi vào tình trạng như những người Biệt Phái, Luật Sĩ sống hình thức, giả hình bên ngoài.

Thiên Chúa sẽ không căn cứ vào chuyện ta làm được nhiều hay ít; đọc nhiều kinh; cầu nguyện lâu giờ cũng như đi hết nơi này nơi kia…, nhưng, Chúa sẽ dựa trên tình yêu ta đặt vào đó nhiều hay ít mà trọng thưởng chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu được rằng: mọi sự sẽ vô nghĩa nếu không có tình yêu. Xin Chúa ban cho chúng con luôn luôn lấy tình yêu làm căn cốt, để chúng con được ở trong tình yêu của Thiên Chúa. Amen.

Về mục lục

.

SỐNG TÌNH MẾN CHÚA VÀ YÊU THA NHÂN

Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Mt 22,34-40

(34) Khi nghe tin Đức Giê-su đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng, thì những người Pha-ri-sêu họp nhau lại. (35) Rồi một người thông luật trong nhóm hỏi Đức Giê-su để thử Người rằng: (36) “Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn lớn nhất ?”. (37) Đức Giê-su đáp: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của người hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn đứng đầu. (39) Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. (40) Tất cả Luật Mô-sê và các sách Ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy”.

  1. Ý CHÍNH:

Câu hỏi của người thông luật trong nhóm Pha-ri-sêu nêu ra với Đức Giê-su để thử Người vốn là một trong những vấn đề lớn mà các Rá-bi Do Thái luôn bất đồng ý kiến và không ngừng tranh cãi với nhau: “Trong sách Luật Mô-sê thì điều răn nào là điều răn lớn nhất ?” Nhưng điều họ cho là khó thì trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã giải đáp cách dễ dàng. Theo Người thì toàn bộ sách Luật và các Ngôn sứ đều tóm gọn trong hai điều răn lớn nhất là mến Chúa và yêu Người.

  1. CHÚ THÍCH:

– C 34-35: + Đức Giê-su đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng: Trong dân Do Thái có nhiều phe nhóm khác nhau. Phái Xa-đốc vì chỉ dựa trên Luật thành văn là bộ sách Ngũ Thư, nên nghĩ rằng không có chuyện kẻ chết sống lại (x. Mt 22,23). Họ đã dựa trên luật “thế huynh” (x. Đnl 25,5-10) để đặt vấn đề với Đức Giê-su. Người đã trả lời bằng hai điểm: Một là khi sống lại, người ta sẽ sống như các thiên thần (x. Mt 22,30). Hai là Người nhắc lại lời Thiên Chúa phán với Mô-sê rằng Người là Thiên Chúa của các tổ phụ, ngầm ám chỉ các tổ phụ ấy vẫn đang sống với Người (x. Xh 3,6). Trước những bằng chứng rút từ Thánh Kinh ấy, họ đuối lý và đành phải câm miệng. + Thì những người Pha-ri-sêu họp nhau lại: Họp nhau ở đây nhằm đối phó với Đức Giê-su. Sau này các đầu mục Do Thái cũng họp nhau để tìm cách giết hại Người (x. Mt 26,3-4). + Một người thông luật trong nhóm: Đây là một kinh sư trong nhóm Pha-ri-sêu. Thời Đức Giê-su có khoảng sáu ngàn người thuộc nhóm Pha-ri-sêu hay Biệt Phái. Cũng như nhóm Ét-sê-ni, nhóm Pha-ri-sêu thường kết nạp những người có lòng đạo đức muốn chống lại ảnh hưởng ngoại giáo. Nhóm gồm các kinh sư, các tiến sĩ Luật và cả tư tế nữa. Họ tổ chức thành hội, nhằm giúp nhau giữ đạo của cha ông và trung thành với Luật Mô-sê. + để thử Người: Ở đây nhóm Pha-ri-sêu nêu câu hỏi để đưa Đức Giê-su vào thế bí, xem Người sẽ giải quyết thế nào đối với vấn đề nan giải, thường gây tranh cãi giữa các ráp-bi với nhau.

– C 36-37: + Luật Mô-sê: Luật hay “Tô-ra” trong tiếng Do Thái, ám chỉ giáo huấn mặc khải của Thiên Chúa nhằm hướng dẫn nếp sống của con người về nhiều lãnh vực như: Luân lý, tổ chức gia đình và xã hội, nghi thức phụng tự, các thừa tác viên và các điều kiện cử hành… Đây là toàn bộ những điều luật ghi trong Ngũ Thư và chi phối đời sống tôn giáo và trần thế của dân It-ra-en. Luật Mô-sê gồm 613 điều khác nhau, trong đó có 246 điều luật truyền và 365 điều luật cấm. + Điều răn nào là điều răn lớn nhất: Lớn nhất tức là quan trọng nhất. Sở dĩ họ đặt câu hỏi này với Đức Giê-su, phần vì không nhất trí được với nhau, phần vì muốn thử Đức Giê-su để mong đặt người vào thế bí không thể giải đáp được. + Ngươi phải yêu mến Đức Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi: Lòng mến Chúa phải toàn diện, liên quan đến trái tim, linh hồn và cả khối óc của con người. Tình yêu ấy phải là động lực thúc đẩy tất cả mọi hoạt động tinh thần cũng như thể xác. + Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu: Đây là điều răn thứ nhất trong Thập Giới (x. Đnl 6,5). Tầm mức quan trọng của điều luật này không phải vì được xếp đầu tiên, nhưng vì việc mến Chúa là điều quan trọng bậc nhất. Vì thế mỗi người Ít-ra-en đều phải đọc đi đọc lại Luật này mỗi ngày hai lần: lúc vừa thức giấc cũng như trước khi nghỉ đêm.

– C 38-40: + Điều răn thứ hai cũng giống điều thứ nhất: Điều răn thứ hai tuy về lòng yêu người, nhưng cũng quan trọng ngang với điều răn thứ nhất về lòng mến Chúa. Vì lòng yêu người phát xuất từ lòng mến Chúa và cũng cần thiết như lòng mến Chúa vậy. + Yêu người thân cận: Đối với dân Ít-ra-en: người thân cận là những người đồng chủng tộc, cùng huyết thống. Nhưng Đức Giê-su đã mở rộng tình yêu tha nhân đến hết mọi người: Dù là Do Thái hay dân ngoại, nô lệ hay tự do… và yêu cả kẻ thù của mình nữa (x. Mt 5,43-48). + như chính mình: Yêu kẻ khác giống như yêu bản thân mình, là đặt mình vào hoàn cảnh của người khác. Nói cách khác yêu người bằng mình là: “Muốn người ta làm gì cho mình, thì hãy làm cho người ta như vậy” (x. Mt 7,12), và ngược lại “Điều gì con không thích thì đừng làm cho ai” (Tb 4,15). + Tất cả Luật Mô-sê và các sách Ngôn sứ: Luật Mô-sê và các sách Ngôn sứ là cách nói chỉ toàn bộ Cựu Ước. Luật Mô-sê gồm có năm cuốn sách trong bộ Ngũ Thư. Còn sách các Ngôn sứ gồm hai loại: sách các Ngôn sứ lớn như I-sai-a, Giê-rê-mi-a, Ê-dê-ki-en, Đa-ni-en và sách các Ngôn sứ nhỏ như Ba-rúc, Hô-sê, Giô-en, A-mốt, Giô-na, Mi-kha, Na-khum, Kha-ba-cúc, Xô-phô-ni-a, Khác-gai, Da-ca-ri-a, Ma-la-khi. + đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy: Thánh ý của Thiên Chúa biểu lộ qua các giới răn, và qui về hai giới răn này là “Mến Chúa” và “Yêu người”. Như vậy, Đức Giê-su đã gắn liền điều răn yêu người với điều răn mến Chúa, bằng cách cho cả hai cùng quan trọng như nhau, và tập trung tất cả lề luật vào hai điều răn này. Từ nay, người ta không cần phải lo lắng chu toàn tất cả 613 điều khoản, với các chi tiết khó nhớ và khó áp dụng. Nhưng họ chỉ cần giữ hai điều then chốt là “Mến Chúa hết lòng hết sức” và “Yêu thương tha nhân như chính mình”. Giữ hai điều này là đã giữ trọn Lề Luật và đã làm theo thánh ý Thiên Chúa rồi. Sau này, Đức Giê-su còn thêm một điều răn mới là: “Anh em hãy thương yêu nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34).

  1. HỎI ĐÁP:

HỎI 1: Thái độ của nhóm Pha-ri-sêu đối với Đức Giê-su thế nào?

ĐÁP:

Trong nhóm Pha-ri-sêu, một số người có thiện cảm với Đức Giê-su, nên đã mời Người đến nhà (x. Lc 7,36;11,37), trong số đó cũng có người có chức vị thủ lãnh (x. Lc 14,1). Có người đã bảo vệ Người tránh khỏi bị Hê-rô-đê bắt (x. Lc 13,31). Ông Ni-cô-đê-mô một thành viên của nhóm Pha-ri-sêu cũng đã bí mật gặp Đức Giê-su vào ban đêm (x. Ga 3,1-2), và sau đó đã công khai bênh vực Người (x. Ga 7,50), và góp phần vào việc mai táng Người như một môn đệ (x. Ga 19,39-40). Ông Ga-ma-li-ên, một kinh sư thuộc nhóm Pha-ri-sêu trong Thượng Hội Đồng có lần đã lên tiếng bênh vực các Tông đồ (x. Cv 5,34-39). Tông đồ Phao-lô trước khi theo Chúa đã từng là một thành viên nhiệt thành nhất trong nhóm Pha-ri-sêu (x. Cv 26,4-5). Tuy nhiên, đại đa số người Pha-ri-sêu không tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai, nên kịch liệt chống lại con người và giáo lý của Người.

HỎI 2: Thái độ của Đức Giê-su đối với nhóm Pha-ri-sêu ra sao?

ĐÁP:

Về phần Đức Giê-su, tuy nhiều lần nặng lời quở trách nhóm Pha-ri-sêu về lối sống vụ Lề Luật, giả đạo đức, vụ lợi, nói mà không làm, kiêu căng, ưa xu nịnh, khinh thường các tội nhân và dạy giáo lý sai lạc (x. Mt 9,10-11;23,1-7;16,5.12)… Nhưng Người công nhận họ siêng năng cầu nguyện, bố thí và ăn chay (x. Mt 6,1-18); nhiệt tâm truyền giáo (x. Mt 23,15), phần nào ăn ở công chính (x. Mt 5,20), gắn bó với truyền thống của cha ông (x. Mt 6,16), giữ Luật cách nghiêm nhặt (x. Mt 23,23). Riêng Đức Giê-su đã đến không nhằm bãi bỏ, nhưng kiện toàn luật Mô-sê hay lời các ngôn sứ nói chung (x. Mt 5,17-19), và Luật về ngày hưu lễ, về sự nhơ uế nói riêng (x Mt 12,2; 15,1-2).

II. SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai cũng giống điều răn ấy là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mt 2,37-39).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) SỨC MẠNH BIẾN ĐỔI LÒNG NGƯỜI CỦA TÌNH YÊU THƯƠNG:

Có một cậu bé 7 tuổi bị mồ côi cha mẹ, nên được ông nội đón về nhà nuôi. Ông này là chủ một xí nghiệp sản xuất quy mô dây chuyền lớn, có hằng trăm công nhân. Ông vốn là một người tham lam và độc ác, thường tỏ thái độ hách dịch và hay tìm cách ăn chặn số tiền lương ít ỏi của công nhân. Nhưng mỗi khi có mặt cậu bé, ông ta lại tỏ thái độ nhân hậu và biết quan tâm đến những người nghèo khổ. Nhất là ông luôn tận tình yêu thương và chăm sóc cho cậu bé, khiến cậu coi ông giống như thần tượng. Cậu luôn miệng khen những việc tốt ông làm, và cả những việc xấu nhưng đã được cậu cắt nghĩa lành là do động cơ tốt. Cậu thường nói với ông như sau: “Nội ơi, nội được nhiều người yêu quý lắm phải không ? Cháu dám cá là mọi người đều yêu mến nội thật nhiều, giống như cháu yêu ông nội vậy !” Chính tình yêu chân thành của cậu bé khiến trái tim sơ cứng của ông cụ dần dần hóa ra mềm mại, và cuối cùng đã biến đổi ông trở nên một người tốt lúc nào không hay. Đúng như những đức tính tốt mà cậu bé vẫn thường ca ngợi ông.

2) LỜI NÓI HƯƠNG BAY, GƯƠNG BÀY LÔI KÉO:

Một hôm một người khách đến thăm một tu viện thuộc dòng Thừa Sai Bác Ái do Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta sáng lập. Ông ta nhìn thấy các sơ vừa đem về tu viện một bệnh nhân sắp chết, được tìm thấy đang nằm trên vỉa hè bên một lỗ cống hôi thối và trên mình đầy những chí rận. Ông khách thấy các sơ vui vẻ giúp người này tắm rửa, diệt trừ chí rận với sự ân cần và đầy cảm thông. Sau đó, ông đến gặp Mẹ Tê-rê-sa và nói: “Thưa mẹ, khi đến đây con vẫn đang mang ác cảm và thù ghét Hội thánh. Con nghĩ rằng các linh mục và nữ tu chỉ là những kẻ đạo đức giả ! Nhưng giờ đây, con đã loại trừ được tất cả những sự hiểu lầm và thành kiến lâu nay. Vì tại tu viện này, con đã chứng kiến tình yêu Chúa được diễn tả cách cụ thể qua hành động và thái độ của các sơ trong tu viện, khi các chị săn sóc cho một bệnh nhân sắp chết kia. Bây giờ thì con đã xác tín rằng: “Thiên Chúa là tình yêu”. Vì nếu không có Thiên Chúa ở trong tâm hồn, thì chắc các sơ đã không đủ nghị lực để quên mình và xả thân phục vụ cách vô vụ lợi những người bệnh tật và bất hạnh như vậy !”

3) PHÉP LẠ CỦA LÒNG NHÂN ÁI :

Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta kể: “Hôm ấy, có một người khách lạ đến thăm nhà dòng. Ông thấy một nữ tu trong dòng vừa mang về tu viện một bệnh nhân bị bệnh nặng gần chết, bị bỏ rơi bên ống cống, mình đầy giòi bọ hôi thối. Thế mà, chị nữ tu này lại ngồi nhặt từng con bọ với vẻ mặt vui tươi, thanh thản và đầy sự cảm thông… Rồi ông khách kia đã đến xin gặp mẹ Tê-rê-sa và nói: “Thưa mẹ, khi con đến đây, lòng con đầy thành kiến và thù ghét đạo công giáo. Nhưng bây giờ con sẽ ra về với một tâm hồn hoàn toàn đổi mới. Con đã bắt đầu tin vào Chúa, bởi vì con đã được chứng kiến tình yêu của Chúa, biểu lộ cụ thể qua hành động yêu người của một nữ tu trong dòng, qua cách thức sơ ấy thực hiện với một người dơ bẩn đang hấp hối kia. Bây giờ thì con vững tin: “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Vì nếu không có Chúa trong tâm hồn, thì chắc là sơ sẽ không muốn chăm sóc bệnh nhân hôi hám và đáng thương kia được”.

Thực vậy, nếu ai không có lòng mến Chúa thì cũng không thể yêu người cách vô vụ lợi. Chúa Giê-su đã nêu ra hai điều răn trọng nhất là: ” Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn ngươi… và ngươi phải yêu người đồng loại như yêu chính mình”.

4) ĐỔI MỘT CHIẾC QUẦN LẤY HAI LINH HỒN:

Một hôm, một linh mục già của thị trấn PI-CAR-DIE đang trên đường trở về nhà xứ, vừa đi đường ngài vừa đọc kinh nhật tụng trong sách. Có hai viên sĩ quan trẻ cũng đi chung đường với vị linh mục này. Khi rảo bước ngang qua vị linh mục, cả hai anh đều tỏ thái độ khinh dể cha đạo, vì từ lâu họ đã bị mất đức tin và không đến nhà thờ dự lễ Chúa Nhật. Trong câu chuyện, hai viên sĩ quan liên tục khích bác các tu sĩ, và hai anh đã đi nhanh hơn vị linh mục một đoạn khá xa.

Chợt hai anh thấy một người hành khất ngồi bên vệ đường lên tiếng xin: “Các anh ơi, xin giúp đỡ cho kẻ hèn này với.” Nghe vậy, một trong hai viên sĩ quan trẻ lục túi tìm bạc lẻ để cho người ăn xin, còn người kia lại nói với bạn mình rằng: “Ông cha già hồi nãy gặp thế nào cũng sẽ đi ngang qua người hành khất này. Tớ dám cá với cậu là ông ta sẽ chẳng thèm thí cho lão ăn mày này một đồng xu nào cho coi ! Cái bọn tu sĩ đạo đức giả ấy thường chỉ nói hay mà làm không hay. Vậy tụi mình nên núp vào sau bụi cây kia để xem ông cha kia sẽ hành xử như thế nào nhé”.

Ít phút sau, quả nhiên vị linh mục già cũng chậm rãi đi tới nơi. Khi nghe lời người hành khất xin, ngài dừng lại, đưa tay lục hết túi trên đến túi dưới, rồi ái ngại nói với lão ăn mày: “Ông bạn đáng thương ơi, rất tiếc là hôm nay ta chẳng mang theo một đồng xu nào để có thể chia sẻ cho ông.”

Anh thứ nhất nghe tiếng vị linh mục nói liền nói thầm vào tai anh kia rằng: “Đấy, cậu thấy chưa ? Tớ nói có sai đâu !”  Đang lúc đó, vị linh mục trông thấy bộ quần áo của lão ăn mày đã bị rách nát liền động lòng thương, ông bảo lão ăn mày: “Ông bạn hãy chịu khó ngồi đợi ta một lát nhé, ta sẽ quay lại ngay !” Dứt lời, vị linh mục cũng chạy đến chui vào bụi cây gần bên hai anh sĩ quan đã núp trước đó. Sau khi loay hoay một lúc, vị linh mục đã quay lại chỗ người ăn mày và trao cho lão ta chiếc quần dài đã được xếp gọn và nói: “Đây, tôi xin biếu ông chiếc quần dài tôi đang mặc. Tuy nó hơi cũ, nhưng nói chung vẫn còn tốt chán ! Ông không nên kể ra cho người khác biết việc tôi làm cho ông hôm nay, hầu tránh khỏi bị xấu hổ”. Sau đó vị linh mục sửa lại chiếc áo chùng thâm đang mặc cho ngay ngắn, tiếp tục mở Các Giờ Kinh Phụng Vụ và vừa đi vừa đọc kinh.

Hôm sau, ngay từ sáng sớm đã có hai viên sĩ quan đến bấm chuông cổng nhà xứ từ sớm. Vị linh mục già ra mở cửa rồi mời hai người này vào phòng khách và họ đã thuật lại những điều họ đã mắt thấy tai nghe với thái độ thành tâm thán phục hành động cao đẹp của linh mục. Khi ấy vị linh mục chỉ biết ngẩn ngơ thốt lên với Chúa: “Ôi, con tạ ơn Chúa nhân lành. Chỉ với một chiếc quần cũ cho một người nghèo mà Chúa lại quảng đại ban cho con tới hai linh hồn hay sao ?”

(Theo Đức Ông DE SÉGUR)

  1. SUY NIỆM:

Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại câu chuyện một luật sĩ đã đến hỏi Đức Giê-su: “Trong các giới răn điều nào trọng nhất?”(Mc 12,28). Đức Giê-su đã dạy như sau: “Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó.” (Mc 12, 29-31). Như vậy Đức Giê-su đã chính thức xác nhận điều răn trọng nhất là mến Chúa và yêu người. Mến Chúa Yêu Người là hai chiều kích của tình yêu và luôn đi đôi với nhau. Người ta không thể chỉ tuân giữ điều này mà bỏ qua điều kia, như Thánh Gio-an viết: “Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; Vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4,20). Và Ngài kết luận: “Ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng phải yêu thương anh em mình” (1 Ga 4,21).

  1. PHẢI MẾN CHÚA HẾT LÒNG: 

– Người ta thường nói: “Có đi có lại mới toại lòng nhau”. Thiên Chúa yêu thương chúng ta và chúng ta phải biết đáp lại tình yêu của Thiên Chúa bằng nhiều cách như: Tuân giữ các giới răn của Chúa; năng đọc và suy niệm Lời Chúa; năng cầu nguyện, tham dự thánh lễ và chịu các bí tích, chu toàn sứ vụ loan báo Tin Mừng để đưa nhiều người về làm con cái Thiên Chúa…

– Hãy làm việc thờ phượng Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực của chúng ta. Có nghĩa là phải đặt Chúa lên chỗ nhất cuộc đời mình, trên tất cả mọi thứ tình yêu dành cho cha mẹ, vợ chồng, anh chị em, trên cả của cải, chức quyền danh vọng và mọi thứ khác như lời Chúa Giê-su: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy” (Mt 10,37-38). 

– Rất có thể chúng ta đã yêu mến Chúa nhưng nhiều lúc chúng ta chưa yêu hết lòng, hết sức, trên hết mọi sự, là khi chúng ta chỉ dành cho Chúa một chỗ nhỏ bé trong tâm hồn, có khi còn thua kém những thứ khác. Chẳng hạn chúng ta chỉ mến Chúa khi được bình an hạnh phúc. Còn khi gặp phải thử thách đau khổ, chúng ta dễ dàng bỏ Chúa để đạt được chức quyền, danh vọng, các thú vui trần thế, lợi lộc thấp hèn, giống như tông đồ Giu-đa đã bán Thầy với giá 30 quan tiền. Mỗi ngày trước khi nghỉ đêm hãy dành ra ít phút để xét mình xem chúng ta dành tình yêu cho Chúa thế nào? Quyết tâm yêu mến Chúa hết lòng, hết sức, trên hết mọi sự, để nói được như Thánh Phaolô: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo ? ” (Rm 8,35). 

  1. PHẢI YÊU NGƯỜI NHƯ YÊU MÌNH:

– Về mặt tiêu cực, chúng ta yêu thương tha nhân là không làm cho tha nhân những gì chúng ta không muốn họ làm cho mình, như Tô-bi-a cha đã khuyên ông Tô-bi-a con : “Điều con không thích thì đừng làm cho người khác” (Tb 4,15a). Và Đức Khổng Tử cũng khuyên các đệ tử: “Điều mình không muốn thì đừng làm cho kẻ khác”. Về mặt tích cực, chúng ta hãy làm cho người khác những gì mình muốn người khác làm cho mình. Đây chính là lời dạy của Đức Giê-su: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Mô-sê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7,12).

– Để thực hiện giới răn Yêu Người, trước hết, cần phải yêu thương những thành viên trong gia đình như : Ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh chị em ruột thịt… Sau đó, phải yêu thương những người thân cận như :  Bạn bè, làng xóm láng giềng, những người chúng ta  gặp gỡ hằng ngày. Từ đó, chúng ta mới có thể yêu thương mọi người xa lạ, kẻ làm hại chúng ta. Bởi vì, nếu không yêu thương những người có liên hệ với chúng ta thì làm sao có thể yêu thương những người xa lạ, yêu thương cả kẻ thù của mình  như lời Chúa dạy (x. Lc 6,27), và theo gương Chúa làm khi sẵn sàng tha thứ cho kẻ thù ghét bách hại mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Noi gương Chúa, nhiều vị thánh đã sẵn sàng tha thứ cho kẻ làm hại mình. Chẳng hạn, thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã vào tù để thăm kẻ đã ám sát mình; thánh nữ Ma-ri-a Go-ret-ti cũng sẵn sàng tha thứ cho kẻ giết mình.

  1. YÊU THƯƠNG CỤ THỂ LÀ LÀM GÌ ?

– Yêu thương là hy sinh, dâng hiến: Cả cuộc đời của Chúa Giêsu đã hy sinh vì nhân loại. Cao điểm của sự hy sinh đó là hiến chính mạng sống mình trên thập giá vì nhân loại. Noi gương Chúa Giêsu, biết bao vị thánh đã hy sinh, trao hiến cả cuộc đời để phục vụ tha nhân như Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta, sẵn sàng tình nguyện chết thay cho một bạn tù như Thánh Ma-xi-mi-li-a-nô Kôn-bê.

– Yêu thương là đi thăm viếng, giúp đỡ cả về tinh thần cũng như vật chất cho những kẻ nghèo đói. Đến ngày chung thẩm, Chúa Giêsu dựa vào tiêu chuẩn này để phán xét chúng ta. Ai thương yêu giúp đỡ những kẻ nghèo hèn là giúp đỡ chính Chúa: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han”(Mt 25, 35-36). Ngược lại, ai không giúp đỡ những kẻ bé mọn là không giúp Chúa: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng.” (x. Mt 25, 42-43).

  1. BA BẬC THỰC HÀNH MẾN CHÚA:

Lòng mến Chúa thường được phân thành ba bậc : Một là mến Chúa hình thức; Hai là mến Chúa bình thường và ba là mến Chúa hết lòng hết sức như sau:

+ Mến Chúa hình thức: Một số người chỉ giữ những việc đạo như mười điều răn, đi lễ Chúa Nhật, xưng tội rước lễ… vì sợ bị mắc tội nặng khi chết phải sa hỏa ngục. Còn những tội nhẹ như: chửi nhau, tục tĩu, ăn cắp vặt, gian dối, tham lam… thì họ không quan tâm chừa cải. Những người này giống như những đứa trẻ chỉ học hành hay làm các việc nhà vì sợ cha mẹ rầy la trừng phạt, nên dễ dàng bỏ đi chơi khi cha mẹ vắng nhà. Đó là những người “chỉ mến Chúa ngoài môi miệng, còn lòng họ thì ở xa Chúa” giống như người Pha-ri-sêu được đề cập trong Tin mừng hôm nay.

+ Mến Chúa bình thường: Một số người khác cũng cố gắng sống đạo nghĩa là tuân giữ các giới răn để sau khi chết được lên thiên đàng. Nhưng vì lòng mến Chúa không nhiều, nên đến khi phải hy sinh bản thân thì họ liền phạm tội giống như các môn đệ trong cuộc khổ nạn của Chúa: Kẻ thì “bỏ Thầy để chạy thoát thân”, kẻ khác “hèn nhát chối không biết Thầy là ai”. Thậm chí có kẻ còn phản bội “liên kết với kẻ thù để bán nộp Thầy”.

+ Mến Chúa hết lòng: Chúng ta phải có đức “Mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn”, nghĩa là phải yêu mến Thiên Chúa hơn mọi người và mọi sự khác trên đời. Chúa Giê-su cũng đòi môn đệ phải yêu Thầy hơn yêu cha mẹ và con cái (x. Mt 10,37-39), và nếu cần phải sẵn sàng hy sinh cả mạng sống để chứng tỏ lòng mến Thầy (x. Ga 15,13). Thánh Phao-lô đã đạt tới lòng mến như thế khi viết : “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Đức Ki-tô ? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo ?” (Rm 8,35). Mỗi người chúng ta hãy xin ơn Thánh Thần giúp ta yêu mến Chúa như vậy. Thánh Augustinô đã khuyên “Hãy yêu đi, rồi muốn làm gì thì làm” (Ama et fac quod vis).

  1. THẢO LUẬN:

1) So sánh lời dạy trong Luật Mô-sê: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mt 22,39) và lời dạy của Đức Giê-su: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34) khác nhau ra sao ? 2) Mỗi tín hữu cần áp dụng lời dạy của Chúa Giê-su : “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta” (Mt 7,12) trong cuộc sống hằng ngày thế nào ?

  1. LỜI CẦU:

– LẠY CHÚA GIÊ-SU.  Ngày nay Chúa cũng muốn cho chúng con mở rộng vòng tay đến với hết mọi người. Chúng con chỉ có thể nối vòng tay lớn nếu chúng con gắn bó với Chúa. Ước gì khi nhìn lên cây thánh giá, chúng con thấy biểu tượng của tình thương tột đỉnh của Chúa là hy sinh chịu chết để cho nhân loại chúng con được sống. Tình thương của Chúa mời gọi chúng con luôn giang tay cầu nguyện với Chúa, rồi cùng nắm tay nhau xây dựng một thế giới công bình, yêu thương và hòa bình thịnh vượng.

– LẠY CHÚẠ. Ước chi chúng con biết noi gương Me Ma-ri-a: Luôn làm mọi việc vì lòng yêu mến Chúa và dâng trọn cuộc đời để phục vụ Chúa như Tông đồ Phao-lô: “Tình yêu Chúa Ki-tô thôi thúc chúng tôi” (2 Cr 5,14). “Đối với tôi sống là Đức Ki-tô, và chết là một mối lợi” (Pl 1,21); Từ nay “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2,20); Tôi “Không còn được sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì tôi” (2 Cr 5,15).

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN_A

Lm. Antôn

Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết những người Biệt phái sai một nhà thông luật đến hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào quan trọng nhất?”   Vì luật Do thái vào thời đó có tới 613 điều lệ. Trong số đó có 365 điều luật cấm không được làm, và 248 khoản luật dạy những điều phải thực hành. Do đó những người Biệt phái nghĩ rằng đây là câu hỏi khó khăn và phức tạp không ai có thể trả lời được. Chính họ cũng bối rối không phân biệt rõ ràng luật nào là quan trọng hơn và luật nào là quan trọng nhất. Và như thế họ nghĩ rằng nếu hỏi Chúa Giêsu thì Ngài cũng sẽ bí, không có câu trả lời và như thế họ có cơ hội làm nhục, làm mất uy tín của Chúa trước đám đông.  Chúng ta biết người Biệt phái và nhóm luật sĩ luôn tìm cách ám hại Chúa Giê-su. Họ tìm đủ mọi cách, mọi lý do, mọi cơ hội để gây hấn, tranh luận với Chúa Giê-su không phải để tìm hiểu học hỏi, nhưng để tìm cách gài bẫy Người, với âm mưu vu khống, kết án và giết Người.

Nhưng Chúa Giêsu đã làm cho họ ngạc nhiên với câu trả lời: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi.” Và Chúa nói tiếp:” Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi. Toàn thể lề luật và sách các tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó.”  Hai giới răn này đều đã có sẵn trong Cựu ước.  Chúa đã trưng dẫn cả hai và đặc biệt hơn Chúa đã làm cho hai giới răn này có tầm quan trọng như nhau.

Chúng ta thấy có những người tuyên bố mình yêu mến Thiên Chúa vì lần hạt, đọc kinh và đi xem lễ thường xuyên, nhưng trong thực tế lại không quan tâm tới bổn phận yêu thương người khác.  Họ sống ích kỷ, khép kín và cá nhân, không có lòng bác ái, quảng đại, cũng như không có tấm lòng hy sinh phục vụ, giúp đỡ người khác. Những người như thế mới chỉ sống có một nửa Tin mừng.

Ngược lại, lại có những người sống ở một cực đoan khác.  Họ tỏ ra rất hăng say nhiệt tình để xây dựng một xã hội tốt đẹp, làm nhiều việc tốt lành, bác ái và hy sinh phục vụ giúp đỡ người khác, nhưng chưa bao giờ nghĩ đến hay không có đức tin vào Chúa, hoặc chỉ chỉ cầu nguyện với Người thôi.  Họ cũng chỉ là những người sống nửa phần của giới răn yêu thương của Chúa dạy trong Tin mừng hôm nay.

Thật vậy, Chúa Giê-su Ki-tô dạy chúng ta phải sống trọn vẹn cả Tin mừng, sống trọn giới răn yêu thương, có nghĩa là vừa phải yêu mến Thiên Chúa và đồng thời phải yêu mến người khác như chính mình.  Chúa đã không nói rằng hai giới răn đó chỉ là một, nhưng Chúa dạy chúng ta rằng chúng ta không thể làm việc này mà bỏ việc kia, nghĩa là chỉ yêu mến Thiên Chúa mà lại không yêu thương anh chị em.

Chúng ta cần nhớ lời Chúa Giê-su nói: “Giới răn thứ hai cũng giống giới răn thứ nhất.”  Giống không có nghĩa là thay thế mà phải là cả hai, vừa phải đặt Chúa trên hết và trước hết mọi sự, mọi người, thực hành những việc thờ kính Chúa, làm chứng và làm sáng danh Chúa, vừa phải thể hiện những việc bác ái, quảng đại, hy sinh giúp đỡ anh chị em, nhất là những người trong tình cảnh khó khăn.

Có một câu chuyện thật cảm động xảy ra vào năm 1941 trong thế chiến thứ hai, về một vị linh mục tên là Ma-xi-mi-li-an  Kol-be bị Đức Quốc Xã giam trong trại tập trung dành cho người gốc Do thái.  Như bao người khác, cha bị hành hạ và ngược đãi tàn tệ còn hơn cả súc vật. Thế nhưng vị linh mục này vẫn vui vẻ tìm cách giúp đỡ anh em đồng cảnh ngộ đang bị khủng hoảng và tuyệt vọng. Chính vị linh mục đã xin với viên cai tù cho đi lao động thay thế những người đau yếu. Phần bánh mì ít ỏi của cha có khi được dành cho những người có nhu cầu hơn. Đối với người vận đồ rách rưới, cha cũng chia sẻ những chiếc áo cũ tương đối còn lành lặn.  Sau cùng vị linh mục này đã can đảm tình nguyện thay thế chết một người cha của một gia đình bị chọn chịu hành quyết.  Vị linh mục đã thể hiện lòng yêu mến Thiên Chúa qua cái chết của mình để yêu thương người khác.

Chúng ta biết, theo cảm tính tự nhiên của con người, chúng ta chỉ yêu thương những người gần gũi, bạn bè thân thuộc, những người dễ yêu và những người yêu thương chúng ta.  Chân lý hay giới răn yêu thương Chúa Giêsu dạy chúng ta là phải yêu thương cả những người khó yêu, và những người không những không yêu mà còn thù ghét và làm hại chúng ta nữa.  Chính những người này mới cần tới lòng yêu thương của chúng ta hơn hết.  Thật là một điều khó thực hiện, nhưng nếu chúng ta có tầm suy nghĩ xâu xa thì chúng ta sẽ nhận thấy những người này không ai ngoài là chính chúng ta. Vì chính chúng ta là những con người tội lỗi, xấu xa và khó thương, Thiên Chúa đã sai Con Một Ngài xuống thế, trở thành một con người hèn mọn, chịu đau khổ và chết trên thập giá để yêu thương và cứu rỗi chúng ta.  Chúa Giê-su dạy chúng ta yêu thương không những bằng lời nói mà quan trọng hơn bằng hành động, Người nói: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con.  Không ai có tình yêu cao quý hơn mối tình của người thí mạng mình vì bạn hữu.”  Thật vậy, Chúa Giê-su đã hy sinh chết trên thập giá vì yêu thương chúng ta là những người tội lỗi và xấu xa.

Ông bà anh chị em thân mến.  Chúng ta yêu mến Thiên Chúa thì dễ lắm, có khi chỉ đọc vài ba kinh hay đi tham dự Thánh lễ là đủ, nhưng yêu thương người khác như chính mình thì khó, nhất là những người thù ghét chúng ta thì càng khó hơn. Nhưng đây lại là giới răn, chân lý của Chúa dạy.  Yêu thương người khác như chính mình là chúng ta cố gắng tránh đời sống giả dối hình thức bề ngoài của những người Pharisêu, là những người có tâm hồn chai đá, có tâm độc.  Như chúng ta thấy họ cố tìm mọi cách để gài bẫy, vu khống, lên án làm hại Chúa.  Xin Chúa giúp và ban ơn để chúng ta sống giới răn chân lý yêu thương của Người một cách chân tình, để sống kết hợp mật thiết với Chúa hơn, có lòng bác ái và quảng đại với tha nhân hơn, để chúng ta sống trong an bình và hạnh phúc đời này và đời sau.    

Về mục lục

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây