Các Bài Suy niệm Chúa Nhật 6 Phục Sinh – Năm C
Lời Chúa: Cv 15,1-2.22-29; Kh 21,10-14.22-23; Ga 14,23-29
MỤC LỤC
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Khi được hỏi Đức Kitô hiện diện ở đâu, chúng ta thường nghĩ ngay tới nhà thờ, nhà Tạm. Tiếc thay lắm khi chúng ta dừng lại ở đó. Chúng ta ít nghĩ đến một lối hiện diện khác của Ngài. Không phải chỉ là ở với, ở bên, ở trước mặt, mà còn là ở trong con người yếu đuối của ta. Chúng ta ít nghĩ, vì chúng ta không dám tin vào hồng ân quá đỗi lớn lao đó.
Chính vào lúc sắp chia tay các môn đệ để về với Cha, Đức Giêsu đã long trọng loan báo chuyện Ngài ở lại: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy,Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Chúng ta sẽ đến với người ấy và sẽ làm nhà nơi người ấy” (Ga 14,23).
Đại từ Chúng Ta ở đây để chỉ Chúa Cha và Chúa Con, mà ở đâu có Chúa Cha, Chúa Con thì cũng có Thánh Thần.
Vì yêu Đức Kitô, tôi được đón nhận thế giới Ba Ngôi. Vì yêu tôi, Ba Ngôi muốn đến thăm tôi và cư ngụ tại đó. Trong tình yêu hai chiều này, thiên đàng chớm nở. Thiên đàng thật gần, ngay trong lòng tôi. Thiên đàng ấm áp ở nơi nghèo hèn, bé nhỏ, nơi tâm hồn biết yêu Đức Kitô và tuân giữ lời Ngài.
Đôi khi tôi cần tự hỏi Thiên Chúa có ở trong tôi không. Tôi có cảm nghiệm được chút nào sự hiện diện đó chăng? Có bao giờ tôi thờ lạy sự hiện diện đó của Ngài không?
Kitô hữu không chỉ là bạn hữu của Đức Kitô, mà còn là người có Đức Kitô nơi chính mình. Họ là những cung thánh, những nhà thờ lưu động. Họ không chỉ chứa đựng Đức Kitô như một Nhà Tạm, họ còn nên một với Ngài trong tình yêu.
Các bí tích chúng ta lãnh nhận đều nhằm mục đích làm cho tình yêu giữa ta với Đức Kitô được lớn lên.
Trước khi tôi rước lễ, Đức Kitô đã ở trong tôi rồi. Sau khi tôi rước lễ, Ngài cũng chẳng bỏ tôi. Nhưng mỗi lần rước lễ, sự hiện diện Ngài lại tăng trưởng. Ngay cả khi không thể đến nhà thờ, tôi vẫn có thể gặp Đức Kitô nơi cung lòng mình. Chỉ cần để lòng mình lắng xuống, là tôi có thể gặp Ngài và bước vào cuộc đối thoại.
“Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy”
Yêu mến Đức Kitô không phải chuyện dễ. Yêu một người ta chưa gặp mặt và sống xa ta 20 thế kỷ.
Giữ lời Đức Kitô chẳng phải chuyện dễ. Lời đòi chúng ta ra khỏi mình và bay lên cao.
Chính Thánh Thần sẽ giúp ta thấy Đức Kitô thật gần để có thể say mê Ngài, thấy Lời Tin Mừng trở nên sống động và bừng sáng để giải quyết những vấn đề mới nảy sinh.
Hội Thánh của chúng ta sẽ là một Hội Thánh vô hồn, nếu chẳng có sự hiện diện của Chúa nơi lòng các tín hữu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Trong thánh lễ, linh mục chúc bình an cho giáo dân và mời họ chúc bình an cho nhau. Bạn thấy mình có bình an hơn nhờ tham dự thánh lễ không? Theo bạn, thế nào là người có tâm hồn bình an?
Bạn có quen ai mà bạn tin là có Chúa ở trong người ấy không? Dựa vào đâu mà bạn tin như vậy?
Cầu Nguyện
Ngài đã xuống tận đáy lòng con, xin cho con chỉ tập trung vào tận đáy lòng con.
Ngài là thượng khách của lòng con, xin cho con bước vào nhà là chính đáy lòng con.
Ngài chọn cư ngụ trong lòng con, xin cho con biết ngồi yên ngay tại đáy lòng con.
Duy Ngài ở lại trong con, xin cho con biết chìm sâu xuống tận đáy lòng con.
Duy Ngài hiện diện trong lòng con, xin cho con biết xóa mình khi Ngài ở bên con.
Khi con đã gặp Ngài, không còn con và Ngài nữa.
Con chẳng là gì cả, và Ngài là tất cả.
Xa mặt, không cách lòng – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Câu nói: “Xa mặt cách lòng” tiết lộ một sự thật chua chát của lòng con người. Khi xa nhau thì người ta dễ quên nhau. Bao nhiêu đôi vợ chồng đỗ vỡ vì sống xa nhau. Bao nhiêu con cái xa cha mẹ, thì dễ thành bất hiếu, bất nhân, bụi đời, hư hỏng. Bao nhiêu đầy tớ khi chủ vắng nhà thì như gà mọc đuôi tôm. Đúng như dụ ngôn đầy tớ bất trung (Mt. 24, 48-51)
Đức Giêsu muốn đề phòng cho các môn đệ khỏi lâm vào cảnh đau lòng xa mặt cách lòng, nên trước khi về trời, về cùng Chúa Cha, Người đã đảm bảo với môn đệ rằng về phía Thiên Chúa không có chuyện xa mặt cách lòng, và về phía con người cần phải giữ lời Thầy để xa mặt, nhưng không cách lòng.
1- Về phía Thiên Chúa: Xa mặt, không cách lòng. Để đảm bảo chắc chắn dù Đức Giêsu về trời, về cùng Chúa Cha, thì “Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở với anh em”, “Cha Thầy còn phái đến nhân danh Thầy, Đấng bào chữa là Thánh Thần sẽ dậy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em”. Đức Giêsu còn đoan hứa rõ ràng: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế. Chứ không để anh em mồ côi đâu”. “Vì Thiên Chúa đã thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho thế gian được sống và sống dồi dào”. Như vậy, cả Ba ngôi Thiên Chúa đều đến ở trong anh em, anh em được yêu mến, dậy dỗ, được bào chữa, nâng đỡ và được ban phúc bình an, không còn phải xao xuyến, sợ hãi, mà còn được vui mừng vì Thầy về cùng Chúa Cha cao trọng hơn Thầy. Vậy, về phía Đức Giêsu, càng xa mặt về phần xác bao nhiêu, thì về phần thiêng liêng càng gắn bó kết hợp với anh em ở khắp mọi nơi, và khắp mọi lúc.
2- Về phía con người: Xa mặt, phải làm sao để không cách lòng?
Để đề phòng khi xa mặt Chúa, mà lòng mình không xa Chúa; khi chủ vắng nhà, đầy tớ không bất trung mọc đuôi tôm, thì Đức Giêsu đã bảo: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy” giữ lời Thầy, thực thi lời Thầy, sống lời Thầy, truyền bá lời Thầy, mới chứng tỏ lòng yêu mến Thầy. Như thế, xa mặt, nhưng không cách lòng. Giữ lời Thầy là một trắc nghiệm rõ nhất, chính xác nhất về lòng mến Chúa. “Lửa thử vàng, gian nan thử đức” thì giữ lời Thầy là lửa thử lòng mến Thầy. Trong khoa học, để biết chắc một giả thuyết đúng, người ta phải thử bằng thí nghiệm, bao lâu chưa chứng nghiệm chắc chắn, thì chỉ là giả thuyết, chưa có giá trị khoa học. Nhà bác học Pasteur đã bác bỏ giả thuyết tự vật chất sinh ra sinh vật. Ông đã làm thí nghiệm nhiều lần đem dấm lên núi cao, nơi không khí trong sạch không có vi khuẩn, dấm không bao giờ lên men. Dấm chỉ lên men khi có vi khuẩn. Nhờ thí nghiệm đó, Pasteur đã phát minh ra khoa vi trùng học để chữa bao nhiêu chứng bệnh của con người.
Đức Giêsu đã dậy chúng ta khám phá ra lòng mến Chúa bằng phương pháp “giữ lời Chúa”. Hãy làm thí nghiệm xem chúng ta có lòng mến Chúa thật hay giả: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy”.
Các môn đệ sống với Thầy bằng xương bằng thịt, ai cũng tỏ ra yêu mến Thầy. Nhưng khi xa mặt Thầy, khi Thầy về cùng Chúa Cha, các ông muốn biết mình còn yêu mến Thầy nữa không, thì phải xem mình có thực thi lời Thầy không? Nếu các ông giữ lời Thầy, sống theo lời Thầy, chứng tỏ chắc chắn các ông còn yêu mến Thầy. Quả thực, trừ Giuda, hết thảy các môn đệ chẳng những giữ lời Thầy, sống lời Thầy, mà còn rao giảng lời Thầy, viết sách truyền bá lời Thầy cho muôn dân, muôn thế hệ. Các ông còn hy sinh chịu chết để chứng tỏ lời Thầy thật là lời hằng sống, lời của Chúa Cha ban ơn cứu độ, ban sự sống hạnh phúc muôn đời cho những ai tin và giữ lời Thầy: “Lời Thầy nói với anh em là Thần khí và sự sống” (Ga. 6, 63) “Ai nghe lời Thầy và tin vào Đấng đã sai Thầy thì có sự sống đời đời” (Ga. 5, 24). “Ai tuân giữ lời Tôi, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 8, 51). Các môn đệ đã giữ lời Thầy để chứng tỏ lòng mến Chúa và nhờ đó các ông được phần thưởng vinh quang muôn đời.
Phần chúng ta thì sao? Có bao giờ chúng ta dùng phương pháp “giữ lời Thầy” để thử mình có lòng mến Chúa không?
Thường thì chúng ta tưởng mình có lòng mến Chúa bằng đi lễ, đọc kinh, dâng hoa, rước kiệu, tổ chức Giáng sinh, Phục sinh long trọng vui vẻ… Như thế là yên tâm mình đã giữ đạo, là có lòng mến Chúa. Sợ rằng chúng ta chỉ kính bằng môi miệng mà lòng xa Thiên Chúa!
Có người tưởng mình giữ trọn mười điều răn như chàng thanh niên giầu có trong Tin Mừng “đã giữ tất cả các điều đó từ thuở nhỏ” (Mt. 19, 16-22; Lc. 18, 18-23). Anh tưởng như thế là được sống đời đời! Thật lầm to! Lời Chúa không phải chỉ có mười điều răn theo lối sống tiêu cực của anh, anh chưa có lòng mến Chúa và yêu người tích cực.
Chúng ta phải tích cực giữ lời Chúa, sống lời Chúa, thực thi lời Chúa và loan truyền lời Chúa như các môn đệ đã thi hành và ghi chép lại trong Tin Mừng.
Ca dao có câu: “Cá không ăn muối, cá ươn. Con cãi cha mẹ trăm đường con hư”. Nếu chúng ta không sống lời Chúa, mặc nhiên là cãi lời Chúa, chắc chúng ta sẽ chẳng được sống đời đời. Người xưa còn khuyên: “Con ơi muốn nên thân người. Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha”. Lời mẹ cha là phàm nhân còn có sức huấn luyện con cái nên người tốt: Huống chi lời Chúa, làm sao chúng ta không lắng nghe?
Lạy Chúa Giêsu, thân phận con là loài hình hài thể xác, luôn bị hấp dẫn bởi hình danh sắc tướng mầu mè cụ thể trước mắt. Khi xa mặt, dễ cách lòng, xin nâng đỡ phận hèn mệnh bạc của con, để con tận tình giữ lời Chúa. Xin Lời Chúa sẽ soi sáng con yêu mến Chúa và gắn bó với Chúa luôn mãi.
Các con hãy yêu thương nhau.
Một con vật bị chết hay một món đồ bị mất, chúng ta lấy làm tiếc chứ không ai lấy làm thương. Tiếng thương là tiếng được dành riêng cho con người. Sở dĩ con người ta dễ thương là vì đã được tạo dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Nhưng hình ảnh ấy đã bị tội nguyên tổ làm cho đáng ghét. Dẫu vậy Thiên Chúa vẫn nhìn thấy nhân loại dễ thương, cho nên đã sai Con Một Ngài xuống thế để cùng ăn, cùng ở, cùng làm với họ và sau cùng đã đổ máu ra để cứu chuộc họ.
Như vậy Thiên Chúa đã trút tình yêu của Ngài vào chúng ta, và Ngài mới thấy chúng ta dễ thương. Phần chúng ta cũng thế, nếu biết trút tình thương vào những người chung quanh, chúng ta sẽ thấy họ dễ thương. Nói như vậy không có nghĩa là phải bóp bụng mà thương bằng một tình thương bất đắc dĩ, một tình thương giả tạo, chỉ có bề mặt mà không có bề sâu, hờ hững và gượng ép. Không phải là như thế. Nếu không thành thực với mình, thương mà đầy thành kiến, thương mà đầy ngờ vực, thì làm sao tránh khỏi những cảnh chướng tai gai mắt.
Nếu chúng ta cứ đinh ninh rằng: xã hội chỉ toàn những kẻ trộm cặp, thì quả nhiên chúng ta sẽ gặp phải nhiều người bất lương. Trái lại nếu chúng ta cho rằng những người láng giềng là những người tử tế, hiền lành, thì chúng ta sẽ gặp được những kẻ dễ thương.
Ông Diogène nghĩ rằng chung quanh mình chỉ toàn những kẻ dễ ghét, vì thế ông đã đốt đuốc đi giữa ban ngày để tìm người mà cũng chẳng thấy được ai dễ thương cả. Trái lại Đức Kitô quan niệm rằng trong thiên hạ ai cũng dễ thương, nên dù đi qua giữa vùng đất thù địch Samaria, Người cũng không gặp thấy ai dễ ghét. Vì thế, bộ mặt xã hội chung quanh, phần lớn do lập trường, do tâm trạng của tôi như lời Thánh Kinh: Gieo gió thì gặt bão, gieo ghen ghét thì sẽ gặt thù hằn, gieo tình yêu thì sẽ gặt được mến thương.
Người sống bên cạnh chúng ta dễ thương hay dễ ghét, phần lớn là do nơi hình ảnh chúng ta sẵn có đối với họ. Rồi một khi đã quan niệm họ khó thương và dễ ghét, tự nhiên chúng ta sẽ tìm cách trốn tránh. Thế nhưng cách cư xử và thái độ thương yêu của chúng ta lại có một ảnh hưởng rất lớn, vì góp phần xây dựng cuộc đời cho họ, để họ thêm can đảm, thêm hứng khởi, thêm lạc quan. Một luật tâm lý rất tầm thường đó là ai cũng muốn được lý tưởng hoá trong tâm hồn kẻ khác. Bởi vì nếu người ta cho tôi là tốt, là đứng đắn, là thánh thiện, tự nhiên tôi cảm thấy có một bàn tay vô hình thúc đẩy tôi cố gắng hầu trả lời cho dư luận thơm đẹp kia.
Nếu Chúa Giêsu không nhìn Phêrô cách âu yếm thì người môn đệ thất trung ấy làm gì có thể hồi tâm tỉnh ngộ được. Nếu Chúa Giêsu thiếu dịu hiền và kiên nhẫn đối với Mađalena, thì làm sao cô gái giang hồ ấy đã có thể đứng dậy ra khỏi cảnh bùn nhơ tội lỗi.
Tóm lược những điều vừa trình bày, chúng ta đi tới một kết luật: Điều lạ lùng không thể nào hiểu nổi, đó là Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta, yêu thương đến nỗi đã cúi xuống làm một người giống như chúng ta, biết đói biết khát, biết cười biết khóc, biết đau khổ biết buồn phiền, biết tủi nhục biết cảm xúc như tôi và vì tôi.
Nếu chúng ta hiểu được phần nào tại sao Thiên Chúa Đấng hạnh phúc vô cùng lại đem lòng thương tôi, dù tôi là kẻ rất khó thương, thì tôi sẽ không còn thấy cực nhọc khi phải tuân mệnh lệnh Chúa mà cư xử dễ thương với đồng loại nữa.
Ngày hôm nay, người ta thường dùng rất nhiều những dấu hiệu để nói lên một điều gì đó. Dấu hiệu ngoài đường phố, dấu hiệu tại phi trường, dấu hiệu trong lớp học… Chẳng hạn một tấm bảng vẽ hai em nhỏ cắp sách, đó là dấu hiệu gần tới trường học, xe cộ phải thận trọng,
Trong lãnh vực tôn giáo, chúng ta cũng thường dùng những dấu hiệu bên ngoài để nói lên tâm tình, ý nghĩa hay ơn thánh bên trong. Chẳng hạn chúng ta quì gối để tỏ lòng tôn kính khi tham dự thánh lễ hay khi lãnh nhận các bí tích.
Tuy nhiên, điều đáng buồn đó là chúng ta chỉ chú trọng tới những dấu hiệu, những nghi thức bên ngoài mà quên mất điều chính yếu, đó là ý nghĩa và tâm tình bên trong.
Có những người tín hữu cận thận chu toàn những dấu hiệu bên ngoài như làm dấu thánh giá, đi nhà thờ và xưng tội rước lễ, khiến cho mọi người cứ tưởng rằng họ là những kẻ đạo đức và tốt lành.
Một bài thánh ca tuyệt vời và những nghi thức trang trọng có thể làm cho những người chung quanh cảm động đến rơi cả nước mắt. Tuy nhiên, nào có ích gì khi họ không mang lấy những tâm tình bên trong.
Nếu chỉ chạy theo hình thức và chỉ sống đạo trong nhà thờ, thiết tưởng chúng ta nên nhớ lại lời khuyên nhủ sau đây của thánh Giacôbê tông đồ:
– Anh em hãy thực thi lời Chúa, chứ không phải chỉ nghe suông mà thôi. Kẻ nghe mà không thực thi Lời Chúa cũng giống như một người soi gương. Hắn nhìn rồi bỏ đi và quên mất khuôn mặt mình như thế nào.
Phải chăng nhiều người trong chúng ta cũng đã nghĩ và làm như vậy?
Khi đi tham dự thánh lễ, họ chăm chú cầu nguyện thật sốt sắng. Ở trong nhà thờ, họ là những chú chiên ngoan. Thế nhưng, khi cánh cửa nhà thờ khép lại, ném họ vào giòng chảy cuộc đời, thì họ bỗng quên mất tất cả, họ vội hóa kiếp thành một loài lang sói: cũng gian tham, cũng độc ác, cũng thù oán…Họ chẳng bao giờ ý thức được rằng cuộc sống phải là như một thánh lễ nối dài. Họ chỉ sống đạo trong nhà thờ mà không sống đạo trong lòng cuộc đời. Hay nói cách khác, đời sống của họ dường như đã được chia thành những ngăn và đạo đức cũng chỉ là một ngăn nhỏ bé, hoàn toàn tách biệt, chẳng liên can và chẳng ảnh hưởng gì tới ngăn nghề nghiệp, ngăn nghĩ ngơi, năn ăn uống, ngăn gia đình, ngăn xã hội…
Nếu chỉ sống đạo một cách hời hợt bên ngoài như thế, thì Kitô hữu cũng như Kitô giáo sẽ chẳng thể nào trờ nên men trong bột, ánh sáng trong đêm tối, muối mặn trong thức ăn, hầu cảm hóa được gia đình, xã hội và những người chung quanh.
Đức tin không phải chỉ là một bộ quần áo đẹp chúng ta mặc vào trong những ngày lễ lớn khi đến nhà thờ, rồi sau đó, cởi bỏ và cất kỹ trong tủ. Trái lại đức tin phải bén rễ sâu và thấm nhiễm vào từng tư tưởng, từng lời nói và từng việc làm của chúng ta, như lời thánh Phaolô đã khuyên nhủ:
– Dù ăn, dù uống, dù làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm vì Đức Kitô.
Trái đất xoay quanh mặt trời thế nào thì toàn bộ cuộc sống của chúng ta cũng phải xoay quanh Đức Kitô như vậy, để rồi chúng ta có thể nói lên như thánh Phaolô:
– Tôi sống, nhưng không còn là tôi sống, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi.
Người Kitô hữu phải dám liều, dám hy sinh, dám dấn thân vào những môi trường xã hội để làm chứng cho Tin mừng. Người Kitô hữu phải sống đạo ở mọi nơi và trong mọi lúc. Hay nói một cách khác: trong bất kỳ hoàn cảnh nào, người Kitô hữu cũng phải sống Lời Chúa, tuân giữ những điều Ngài truyền dạy, như lời Ngài đã phán qua đoạn Phúc âm hôm nay:
– Ai yêu mến Thày, thì sẽ giữ lời Thày. Cha Thày sẽ yêu mến người ấy. Và chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy. Trái lại, ai không yêu mến Thày, thì không giữ lời Thày. Và lời các con nghe đây không phải là của Thày, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thày.
Trong khi sống lời Chúa, thực thi những điều Ngài truyền dạy, chúng ta vừa làm chứng cho Tin mừng và biểu lộ được lòng yêu mến, trung thành và gắn bó của chúng ta đối với Chúa.
Để kết luận, tôi xin kể lại một mẩu chuyện như sau:
Ngày kia, Đức Khổng tử đã hỏi các học trò của mình:
– Các con có nguyện vọng gì về tương lai, thì hãy nói lên để chia sẻ cho mọi người cùng biết.
Trước hết, Tử cống liền nói:
– Con muốn làm một vị tướng đem quân tiêu diệt hết mọi kẻ thù cho đất nước được an bình thịnh vượng,
Tiếp đến, Tử lộ bèn thưa:
– Con muốn làm một nhà ngoại giao, đem ba tấc lưỡi đi giàn xếp mọi nỗi bất hòa giữa các dân các nước trong thiên hạ.
Còn Nhan tử, chần chừ một lúc rồi mới nói:
– Nguyện vọng của con là đem nhân nghĩa truyền bá sâu rộng, để mọi người thực thi câu tứ hải giai huynh đệ, bốn bể đều là anh em. Một khi đã yêu thương nhau, thì khỏi phải đem quân đi dẹp loạn, cũng như khỏi phải mang ba tấc lưỡi đi hòa giải…
Với chúng ta cũng thế. Hãy lắng nghe và thực thi Lời Chúa, nhất là tuân giữ giới luật yêu thương, nhờ đó bản thân chúng ta được hạnh phúc, gia đình chúng ta được hòa thuận, xã hội chúng ta được an vui, đồng thời nhờ đó chúng ta còn biểu lộ được lòng yêu mến và trung thành của chúng ta đối với Chúa như lời Ngài đã phán: Ai yêu mến Thày thì tuân giữ lời Thày.
(Suy niệm của Lm. GB. Trần Văn Hào)
Phụng vụ hôm nay hướng tâm hồn chúng ta mừng lễ Chúa lên trời vào tuần tới, bởi vì việc Chúa về trời là tột đỉnh của mầu nhiệm Sống lại và đi vào vinh quang với Chúa Cha. Các bài đọc trong phụng vụ phản ánh thực trạng xảy ra nơi các tông đồ cách đây 2000 năm. Trong giây phút ly biệt đầy xốn xang, Chúa đã trấn an các học trò mình không phải bằng liệu pháp tâm lý, nhưng Ngài hứa ban Thánh Thần, là nguyên lý của bình an đích thực. Ngài khuyến mời các ông hãy tuân theo những chỉ dạy của Thần khí để có được bình an thực sự trong tâm hồn.
Thầy để lại bình an cho anh em.
Chắc chắn đây không phải là một lời chúc mang tính khách sáo, nhưng là một động thái Đức Giêsu đã thể hiện giữa các môn sinh của mình. Trong mỗi Thánh lễ, Giáo hội vẫn cầu nguyện xin Chúa Giêsu ban bình an xuống trên toàn thể Hội thánh giống như ngày xưa Ngài đã phú trao bình an cho các tông đồ trước khi đi thụ nạn. Nhưng sự bình an Chúa nói ở đây là bình an như thế nào?
Người ta vẫn thường nói: “Muốn có hòa bình phải chuẩn bị chiến tranh”. Cũng vậy, bình an mà Chúa Giêsu ban tặng đòi hỏi các học trò phải quyết liệt đi vào cuộc chiến đầy gian nan, đó chính là cuộc chiến đấu thiêng liêng. Trong cuộc chiến gian khổ ấy, chúng ta phải chấp nhận chết để được sống, phải đi vào mầu nhiệm tự hủy để được tái sinh trong đời sống mới. Vì thế, Chúa đã nói: “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy không theo kiểu thế gian (c.27). Hòa bình theo cách thế gian chỉ dựa vào sức mạnh của vũ khí và tiềm lực quân sự, còn bình an mà Chúa Giêsu đem đến phát nguồn từ chính Thánh Thần. Trong thư gửi giáo đoàn Rôma, Thánh Phaolô cũng viết: “Hướng đi của Thần khí là sự sống và bình an” (Rm 8,6).
Trong lần tiếp ông Gorbachop và bà Raissa vào năm 1989, Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 đã trao tặng ông Tổng Bí thư Đảng cộng sản Liên Xô lúc bấy giờ một cuốn Kinh thánh, bên ngoài đề hàng chữ ‘Tôi là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống’. Đồng thời, Đức Thánh Cha cũng trao tặng bà Raissa một cỗ tràng hạt với câu cắt nghĩa ‘Nữ Vương ban sự bình an’. Ngài muốn ngụ ý nói rằng, chỉ qua Đức Giêsu chúng ta mới tìm ra con đường của sự thật dẫn đến sự sống, đồng thời bình an thật sự đến với loài người không phải dựa trên vũ khí, tiền bạc hay sức mạnh quân sự. Chúa Giêsu ban bình an cho các học trò của Ngài không theo kiểu cách thế gian. Ngài mời gọi họ hãy rộng mở tâm hồn để Thần khí tác động và luôn sẵn sàng đi vào cuộc chiến nội tâm, đặc biệt khi đứng trước viễn ảnh đen tối của Thập giá.
Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi.
“Đừng sợ”. Đây là điệp khúc được Chúa Giêsu nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần. “Đừng sợ những kẻ giết được thân xác nhưng không làm gì được linh hồn anh em”. “Đừng sợ, ta đã thắng thế gian”… Đây không phải là một lời trấn an mang dạng thức tâm lý, vì Chúa Giêsu không bao giờ đóng vai một nhà tâm lý học đối với các môn sinh của mình. Ngài mời gọi các môn đệ can đảm đối diện trước viễn ảnh Thập giá và cái chết. Những lời Chúa nói trong Tin mừng hôm nay nằm trong bối cảnh bữa tiệc ly trước khi đi thụ nạn. Trong bài diễn từ rất dài ấy, Chúa nhắc đi nhắc lại về nguyên lý của tình yêu, là yếu tố giúp ta thắng vượt mọi sợ hãi. Thánh Phaolô cũng đã viết: “Tình yêu mạnh hơn sự chết”. Tình yêu sẽ giúp chúng ta thực sự lưu lại trong Chúa, Đấng hằng sống, và chính Chúa Giêsu đã mời gọi: “Anh em hãy ở lại trong tình yêu Thầy” (Ga 15,9) bằng cách tuân giữ những điều Thầy truyền dạy” (c.10). Cũng thế, ngày hôm nay, Chúa cũng khẳng định rằng yêu mến Chúa chính là tuân giữ lời của Ngài (Ga 14,23).
Sợ hãi là kinh nghiệm mà chúng ta vẫn thường hay có. Người trẻ sợ tuổi già mau đến. Thanh niên khỏe mạnh sợ lúc bệnh tật hay ốm đau. Đôi trai gái yêu nhau say đắm sợ những giây phút ân ái mặn nồng vụt tan biến. Người giàu sợ sẽ đến ngày khách kiệt… Nói chung, có muôn vàn lý do để phải sợ hãi. Khi đối diện trước cái chết, chính Chúa Giêsu cũng sợ. Sự sợ hãi dâng lên tột độ đến mức mồ hôi và máu toát ra. Ngài đã lớn tiếng và rơi lệ cầu xin với Đấng có thể cứu mình khỏi chết (Dt 5,7), vì Ngài lo sợ, nỗi sợ theo bản tính tự nhiên của con người. Ngài sợ, vì tội lỗi của cả trần gian đang đè nặng trên đôi vai Ngài và cuối cùng dẫn đến cái chết nghiệt ngã. Nhưng khi từ cõi chết sống lại, Chúa Giêsu đã trở thành nguyên lý cho chúng ta về sự bình an để thoát vượt sợ hãi. Khi hiện ra với các môn đệ vào ngày thứ nhất trong tuần, Chúa đến giữa lúc các ông đang ngồi co rúm lại vì sợ sệt. Chúa thổi hơi vào các ông, ban Thánh Thần và trao chúc bình an. Thánh Gioan nêu ra tất cả những chi tiết này để liên kết sự bình an với ân điển của Thần khí, hầu giúp chúng ta thoát vượt sợ hãi. Ngài còn cho các môn đệ thấy những dấu chứng về cuộc khổ nạn nơi thân xác Ngài, và đó cũng là vết tích gây nên sự sợ hãi nơi các tông đồ trước đây.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đệ nhị đã khởi đầu triều đại Giáo hoàng của Ngài với thông điệp ‘Đừng sợ’. Bước vào năm thánh 2000, Ngài nhắc lại lời hiệu triệu ấy và mời gọi chúng ta, đặc biệt các bạn trẻ: “Đừng sợ. Các con hãy mở tâm hồn để cho Chúa Giêsu chiếm ngự” (Open door to Christ).
Vì thế, thoát khỏi sợ hãi không phải là một liệu pháp mang tính tâm lý, nhưng là một thái độ của đức tin, cắm sâu niềm tin vào mầu nhiệm Đức Giêsu đấng đã chết và đã sống lại.
Thành thánh Giêrusalem, quê hương của bình an đích thực.
Không phải vô tình mà Giáo hội chọn bài đọc 2 của phụng vụ hôm nay trích trong sách khải huyền, đan kết với sứ điệp Chúa nói trong Tin mừng Gioan. Chúng ta được mời gọi hướng về quê hương vĩnh cửu, là thành thánh Giêrusalem trên trời, nơi chốn của bình an viên mãn. ‘Thành thánh chói lọi vinh quang Thiên Chúa và Con Chiên chính là ngọn đuốc chiếu soi thành’. Có lẽ chúng ta nghĩ rằng quê hương mai sau của chúng ta là một thực tại rất xa vời so với cuộc sống hiện sinh của ngày hôm nay. Không phải thế. Có một bài hát với ca từ rất ý nghĩa: ‘ngày mai bắt đầu từ ngày hôm nay’. Thành Thánh Giêrusalem mai sau đã được bắt đầu ngay từ ngày hôm nay, nếu chúng ta biết sống sung mãn trong tình yêu, kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu.
Đây không phải là nguyên tắc của lý thuyết xa vời vợi, nhưng đời sống đức tin của chúng ta phải được thể hiện cụ thể, bằng cách đi sâu vào sự kết hợp thân tình với Chúa Giêsu qua việc cầu nguyện mỗi ngày. Mẹ Thánh Têrêsa Calcutta, người sẽ được tôn phong Hiển thánh vào ngày 4 tháng 9 năm nay, là một chuyên gia trong việc thực hành bác ái, đặc biệt đối với những người cùng khổ và bị bỏ rơi. Nhưng chúng ta đừng quên rằng Mẹ luôn nhấn mạnh và khuyên mời các con cái mình chuyên chăm cầu nguyện mỗi ngày. Trong cầu nguyện kết hiệp với Chúa, Mẹ đã nghe được tiếng Chúa Giêsu thét gào trên Thập giá: “Ta khát”. Khởi từ đời sống cầu nguyện, Mẹ đã hăng say lao vào những công việc bề bộn để phục vụ. Điều chính yếu không phải là chúng ta đã làm được những gì, nhưng quan trọng nhất, chúng ta đang là ai, chúng ta có thực sự là môn đệ của Chúa Giêsu và có thường xuyên cầu nguyện để lưu lại trong tình yêu với Chúa hay không.
Kết luận
Chúa nói hôm nay: “Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại trong người ấy”. Đó là nguyên tắc bất di bất dịch để có được bình an. Chân lý này cũng được Thánh Phanxicô Salê quảng diễn khi Ngài nói với chúng ta: “Ama et fac quod vis”, bạn hãy yêu mến đi, rồi bạn muốn làm gì thì làm.
Có một người kia chuyên môn sưu tầm các loài bướm. Ngày nọ, khi bước vào một khu vườn, ông ta nhìn thấy chiếc kén của một loài bướm lạ. Ông ta liền ngắt cành cây và mang chiếc kén về nhà. Ít ngày sau, ông ta thấy có nhúc nhích bên trong, nhưng con bướm vẫn chưa phá được chiếc kén để bay ra ngoài. Ngày thứ hai và ngày thứ ba ông ta đều ghi nhận được như vậy, dường như không có tí tiền triển nào. Thế là ông lấy mũi dao rạch chiếc kén cho chú bướm bò ra. Thế nhưng, ông rất thất vọng vì chú bướm chỉ sống được có một lúc rồi lăn đùng ra mà chết. Về sau, một nhà sinh vật học đã cắt nghĩa cho ông hay: Thiên Chúa đã sắp xếp để con bướm phải đấu tranh mới thoát ra được khỏi chiếc kén của mình, vì nhờ đấu tranh gian khổ nó mới được phát triển mạnh mẽ để sinh tồn.
Nhà sưu tầm bướm tưởng rằng dùng lưỡi dao rạch chiếc kén thì sẽ giúp cho chú bướm được thuận lợi hơn, nào ngờ làm như thế ông ta đã huỷ diệt khả năng phát triển và sinh tồn của chú bướm.
Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào cuộc sống hằng ngày. Thực vậy có những lúc chúng ta cảm thấy như gánh nặng cuộc đời với những khổ đau và bất hạnh đè xuống trên đôi vai nhỏ bé của chúng ta. Còn Thiên Chúa chúng ta tin yêu thì lại vắng bóng hay lánh mặt.
Chẳng hạn: trước đây chúng ta đã từng cảm nghiệm được sự bình an và hạnh phúc mỗi lần cầu nguyện, thế mà bây giờ chúng ta lại chán ngán. Hoặc lúc trước, chúng ta đã từng cảm thấy đức tin thật mạnh mẽ, khả dĩ có thể dời núi chuyển non, thế mà giờ đây, dường như nó không nhắc nổi một viên sỏi nhỏ. Chúng ta cảm thấy Chúa như bỏ rơi và không còn yêu thương chúng ta nữa.
Thực ra Chúa vẫn luôn yêu thương chúng ta, nhưng Ngài cũng biết rằng đã đến lúc chúng ta cần khởi đầu một giai đoạn mới để được trở nên trưởng thành. Chẳng hạn như đã đến lúc chúng ta phải nhận ra rằng việc cầu nguyện không hệ tại những cảm xúc riêng tư. Và trong những lúc tâm hồn bị chai cứng thì chúng ta lại càng phải cầu nguyện và lời cầu nguyện trong một hoàn cảnh như thế lại thường là lời cầu nguyện tuyệt hảo nhất. Chính Chúa cũng đã xác quyết qua đoạn Tin Mừng hôm nay: Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.
Đã đến lúc chúng ta phải hiểu rằng đức tin không chỉ là một cảm giác mà là một dâng hiến, một phó thác, một xin vâng với Chúa. Chúng ta chẳng khác gì chú bướm trong câu chuyện vừa nghe. Thiên Chúa muốn chúng ta phải đấu tranh gian khổ để nhờ đó chúng ta được tiến triển về phương diện thiêng liêng. Vào một thời điểm nào đó, chúng ta phải cố gắng, phải nỗ lực trong gian nan cực khổ. Trong những giây phút đen tối ấy, Chúa vẫn ở bên chúng ta, nâng đỡ chúng ta để đức tin của chúng ta được trở nên vững mạnh và tinh ròng hơn.
Chủ Ðề: Ơn ban của Chúa Giêsu phục sinh: Đấng Phù Trợ, Bình an. tình yêu.
Anh chị em thân mến
Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta sẽ nghe những lời Chúa Giêsu nói trước khi Ngài ra đi chịu chết. Ngài bảo chúng ta hãy tuân giữ những huấn lệnh của Ngài. Ngài hứa ban Thánh Thần cho chúng ta và ban bình an cho chúng ta.
Đó chính là những lời trăn trối của Chúa, những điều Ngài tha thiết nhất. Chúng ta hãy chăm chỉ lắng nghe và cố gắng thực hiện.
Chúa đã nói “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy”. Chúng ta chưa yêu mến Chúa thật vì chúng ta không tuân giữ Lời Chúa.
Chúa đã ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta. Nhưng chúng ta nhiều khi không sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Chúa đã ban bình an cho chúng ta. Nhưng chúng ta nhiều khi không sống bình an hòa thuận với nhau.
III. Lời Chúa
Đang khi Phaolô và Barnaba truyền giáo cho dân ngoại, thì những người Do Thái từ Giêrusalem đến buộc dân ngoại tòng giáo phải cắt bì và tuân giữ lề luật của Môsê. Hai vị truyền giáo không đồng ý nên trình vấn đề lên Hội Thánh.
Hội Thánh đã họp hội nghị ở Giêrusalem và ra quyết định: “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết này: là kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết và tránh gian dâm”.
Có thể coi đoạn Tin Mừng này là một bài giáo lý về Chúa Ba Ngôi: Trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu nhắc tới cả 3 ngôi Thiên Chúa: “Ai nghe các giới răn Thầy truyền và tuân giữ…. Ai yêu mến Thầy, sẽ được Cha Thầy yêu mến… Đấng Phù Trợ, là Thánh Thần mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Ngài sẽ dạy các con mọi điều và sẽ nhắc nhở các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con”.
Như thế, giáo lý cơ bản về Ba Ngôi là:
Chúa Cha là Đấng sai Chúa Con đến với loài người
Chúa Con vâng lời Chúa Cha đến với loài người để dạy loài người những lệnh truyền
Chúa Thánh Thần lại được Chúa Cha sai đến nhân danh Chúa Con, để dạy loài người hiểu sâu hơn những lệnh truyền của Chúa Con.
Thái độ con người phải có đối với Ba Ngôi:
Yêu mến Chúa Con nên tuân giữ những điều Ngài dạy.
Chúa Thánh Thần sẽ giúp đỡ họ làm điều đó
Kết quả: Ba Ngôi sẽ “yêu mến”, “tỏ mình ra” và “ở trong” người ấy.
Một thị kiến khác về Thành Giêrusalem mới:
Thành từ trên trời ngự xuống
Rất xinh đẹp và tươi sáng
Thành không có đền thờ vì chính Thiên Chúa là đền thờ của thành; thành cũng không có mặt trời và mặt trăng vì chính Thiên Chúa là ánh sáng của thành.
Trong triều của một vua nọ có hai họa sĩ rất tài ba nhưng luôn ganh ghét đố kỵ nhau. Một hôm nhà vua phán: “Ta muốn phán quyết một lần dứt khoát ai trong hai người là người giỏi nhất. Vậy hai ngươi hãy vẽ mỗi người một bức tranh theo cùng một đề tài, đó là bình an”.
Hai họa sĩ đồng ý. Một tuần sau họ trở lại, mỗi người mang theo bức vẽ của mình. Bức họa của người thứ nhất vẽ một khung cảnh thơ mộng: những ngọn đồi nhấp nhô bao quanh một cái hồ rộng với mặt nước phẳng lì không một gợn sóng. Toàn cảnh gợi lên một cảm giác thanh thản, thoải mái. Sau khi xem xong. nhà vua nói: “Bức họa này rất đẹp, nhưng nó làm ta buồn ngủ quá”. Bức họa của người thứ hai vẽ một thác nước. Hình ảnh rất sinh động đến nỗi nhìn nó người ta như nghe được tiếng nước đổ ầm ầm xuống vực thẳm. Nhà vua nói: “Đây đâu phải là một cảnh bình an”. Họa sĩ thứ hai bình tĩnh đáp: “Xin bệ hạ nhìn kỹ hơn một chút nữa xem”. Nhà vua nhìn kỹ và khám phá một chi tiết mà nảy giờ ông chưa chú ý: Trong một nhành cây nép mình sau dòng thác lũ, có một tổ chim. Trong tổ, chim mẹ đang ấp trứng, đôi mắt nửa nhắm nửa mở. Chim mẹ đang bình thản chờ các con mình nở ra. Nhà vua nói: “Ta rất thích bức tranh này. Nó đã chuyển tải được một ý tưởng độc đáo về bình an, đó là vẫn có thể sống bình an ngay giữa những xáo trộn của cuộc đời”. Và nhà vua đã đặt tác giả của nó là người họa sĩ hạng nhất của triều đình.
Chúa Giêsu đã nói: “Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban bình an cho các con không theo kiểu thế gian. Lòng các con đừng xao xuyến, các con đừng sợ hãi.” Những lời này Ngài nói giữa bữa Tiệc ly. Phải chăng đây là một thời điểm không thích hợp để nói về bình an, vì khi ấy hoàn cảnh bên ngoài rất là xáo trộn? Không, trái lại rất thích hợp. Bởi vì bình an là thông hiệp với Thiên Chúa. Chúa Giêsu đang hiệp thông mật thiết với Thiên Chúa nên Ngài vẫn có thể nói về bình an ngay cả khi kẻ thù của Ngài đã đến gần và sắp giết chết Ngài.
Bình an không phải giống như yên ổn, vì yên ổn là ở bên ngoài còn bình an thì ở bên trong. Bình an là tình trạng của một tâm hồn đang có tương quan tốt với Thiên Chúa và với tha nhân. Thành tố quan trọng của bình an là sự công chính. Bởi thế, không có bình an cho kẻ dữ.
Bình an là kết quả của lòng trông cậy vào Chúa và khi ước muốn làm đẹp lòng Chúa là điều quan trọng bậc nhất trong đời. Đây là điều mà ta có thể có ngay giữa những xáo trộn, xung đột và những vấn đề rắc rối chưa giải quyết được.
Đó chính là thứ bình an mà thế gian không thể ban tặng được. (FM)
Có một nhà chuyên môn sưu tầm các loài bướm. Ngày nọ, khi bước vào một công viên, ông đã gặp tổ kén lạ. Ông liền bứt cành cây đem kén bướm về nhà. Ít ngày sau, ông thấy nhúc nhích bên trong kén, nhưng con bướm vẫn chưa phá kén bay ra.
Hôm sau, kén lại nhúc nhích, nhưng chẳng có gì khác lạ. Lần thứ ba, vẫn thấy như trước, ông liền lấy dao rạch kén, thế là con bướm bò ra ngoài. Tuy nhiên, bướm không tăng trưởng và chẳng bao lâu thì chết.
Sau này, ông được người bạn là nhà sinh vật học cắt nghĩa như sau: Thiên nhiên đã xếp đặt cho con bướm phải đấu tranh mới thoát ra khỏi cái kén, vì nhờ đấu tranh gian khổ mà nó có thể phát triển mạnh mẽ để sinh tồn.
***
Muốn làm cánh bướm bay trên ngàn hoa rực rỡ, bướm phải làm kiếp sâu lặng lẽ, cô tịch trong vỏ kén lặng lờ, khuất nẻo. Muốn làm con bướm bay trong bầu trời xanh ngắt, bướm phải là con sâu đen đủi xấu xa, vặn vẹo đau đớn trong tổ kén đợi chờ.
Để trở nên những tín hữu Kitô vững mạnh, tăng triển về đường thiêng liêng, chúng ta phải trải qua một thời kỳ gian khổ để tiến triển về mặt tâm linh, chúng ta cũng phải vượt qua đấu tranh thử thách. Nhưng trong những thời điểm ấy, Thiên Chúa luôn bên cạnh chúng ta, cho dù chúng ta không nhìn thấy Người.
Lúc sắp sửa ra đi, để trấn an các tông đồ, Chúa Giêsu đã hứa rằng, dù vắng mặt, nhưng Người vẫn luôn hiện diện giữa các ông và ban bình an cho các Ông. Sự hiện diện của kẻ vắng mặt! Đó là cảm nghiệm mà chỉ có những kẻ yêu nhau mới nhận ra mà thôi. Từ sau biến cố Phục Sinh, Chúa Giêsu đã trở nên con người của mọi thời đại.
Người hiện diện trong những kẻ yêu mến Người: “Ai yêu mến thầy, Cha của Thầy và Thầy sẽ đến ở lại với người ấy” (Ga 14,23).
Người hiện diện trong những kẻ thực hành và giữ lời Người: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy… Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy” (Ga 23,24).
Người hiện diện không chỉ đơn độc, nhưng là hiện diện cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Cả Ba Ngôi cùng đến thăm và ở lại trong những ai yêu mến Chúa Giêsu và tuân giữ lời Người.
Nếu Chúa Cha chính là Thiên Chúa trong tình trạng vô hình, thì Chúa Giêsu cũng là Thiên Chúa đã hiện diện, nói năng, hành động để cứu chuộc con người; và Thánh Thần cũng là Thiên Chúa, Đấng kéo dài cách thiêng liêng sự hiện diện, lời nói và hành động của Chúa Giêsu và Chúa Cha.
Vì thế, Thánh Thần sẽ thông truyền trọn vẹn sự sống của Thiên Chúa cho con người, khi soi sáng dạy dỗ con người dần dần hiểu Lời Thiên Chúa, Lời đó chính là Chúa Giêsu, Ngôi Lời của Chúa Cha: “Thánh Thần sẽ dạy cho anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14,26).
Với lời hứa này, kể từ ngày lễ Hiện Xuống đầu tiên, Thánh Thần đã soi sáng và hướng dẫn Giáo hội hiểu thấu triệt Lời Chúa trong Kinh Thánh, để trình bày một cách sáng tỏ hơn, và để giải quyết những vấn đề mới mẻ cho từng thời đại. Vì thế mà các Công đồng liên tiếp được triệu tập dưới sự bảo trợ của Thánh Thần.
***
Lạy Chúa Ba Ngôi, xin cho chúng con nhận ra sự hiện diện của Người trong lòng chúng con, trong lòng Giáo hội, và trong lòng thế giới:
Để chúng con luôn yêu mến và tuân giữ Lời Người.
Để chúng con được soi sáng và hướng dẫn bởi Thánh Thần.
Và để chúng con được canh tân và tái tạo mỗi ngày trong Thiên Chúa Tình Yêu. Amen. (Thiên Phúc)
Sau khi tha thiết nói với các môn đệ những lời thân tình nhất xuất phát từ đáy lòng trong một bài nói chuyện dài mà thánh Gioan đã chép lại suốt trong hai chương 13 và 14, Chúa Giêsu đúc kết lại trong một lời khuyên ân cần: “Nếu ai yêu mến Thầy thì hãy giữ lời Thầy”. Giữ lời Chúa là giữ lời nào? Thưa là giữ chính cái điều mà Chúa Giêsu đã nhấn mạnh lặp đi lặp lại nhiều lần trong suốt hai chương 13 và 14 này “Chúng con hãy yêu thương nhau.
Thế nhưng, yêu thương thì có gì là khó đâu mà Chúa phải dạy, phải nhắc và phải nhấn mạnh như là một giới răn mới của Chúa, một lời trối trăn cuối cùng trước khi Ngài ra đi chịu chết? Bởi vì tự trong bản tính, con người có sẵn nhu cầu tình cảm muốn yêu thương: mới sinh ra tự nhiên đức bé thèm khát tình thương của cha mẹ, lớn lên người thanh niên nam nữ tự nhiên muốn yêu thương một người nào đó, và suốt đời ai cũng muốn sống trong tình yêu thương cho đến chết. Yêu thương là việc tự nhiên, là quá dễ dàng, cần gì Chúa Giêsu phải dạy dỗ?
Chúng ta đừng coi thường Lời Chúa, mà phải phân biệt rõ những mức độ yêu thương, và tìm hiểu xem Chúa muốn ta yêu thương như thế nào.
– Yêu thương có khi là một điều quá dễ: Người ta sung sướng khi yêu thương, người ta ham thích yêu thương, người ta thèm khát yêu thương và người ta làm đủ cách để được yêu thương. Thí dụ như một đức bé mồ côi thèm khát tình yêu thương của cha mẹ; hay một người tuổi trẻ thèm khát tình yêu thương của một người tình. Sở dĩ yêu thương mà thích, mà sung sướng là vì yêu thương ở mức độ này có nghĩa là đón nhận: nhận được những sự chăm sóc, chiều chuộng, vuốt ve, âu yếm.
– Yêu thương có khi là một điều hơi khó, người ta phải hơi cố gắng mới yêu thương được. thí dụ tôi thương một người bạn. Người bạn đó mượn tôi một số tiền hay nhờ tôi làm giúp một công việc khó khăn. Tôi hơi tiếc, hơi ngại nhưng vì yêu thương bạn mà tôi cố gắng đưa tiền, cố gắng chịu cực để giúp bạn. Yêu thương ở mức độ này có nghĩa là chi đi, cho đi một phần của những gì mà tôi quý chuộng.
– Và sau cùng, yêu thương có khi là một điều hết sức khó, vì yêu thương mà người ta phải đau khổ, phải hy sinh thật nhiều. Thí dụ nàng Kiều vì thương cha già sắp lâm vòng tù tội mà phải bán mình để chuộc cha. Yêu thương ở mức độ này có nghĩa là phải cho đi hoàn toàn, cho đi tất cả.
Tóm lại có ba mức độ yêu thương:
Yêu thương rất dễ khi được đón nhận.
Yêu thương hơi khó khi phải cho đi một phần những gì mình quý giá.
Và yêu thương hết sức khó khi phải cho đi hoàn toàn, hy sinh tất cả.
Khi trối “chúng con hãy yêu thương nhau”, Chúa Giêsu muốn chúng ta yêu thương ở mức độ thứ ba này.
Chúa nói “nếu ai yêu mến Thầy thì hãy giữ lời Thầy”. Mà Lời của Thầy là “chúng con hãy yêu thương nhau”, yêu thương ở múc độ cao nhất là dám cho đi tất cả, hy sinh hoàn toàn. Chúng ta có vâng giữ Lời Chúa để tỏ ra chúng ta yêu mến Chúa hay không?
Trước hết trong gia đình, giữa vợ chồng với nhau. Ôn lại cuộc sống gia đình, hẵn nhiều vợ chồng người thấy rằng đã có một thời vợ chồng đã yêu thương nhau say đắm, hầu như lúc nào cũng quấn quít bên nhau. Đó là thời kỳ đầu tiên, yêu thương là quá dễ vì khi đó yêu thương là đón nhận, nhận những nét duyên dáng, nhận những cảm xúc bồng bột mà tuổi trẻ đang thèm khát. Sau đó tới một thời vợ chồng không còn quá say đắm nhau nữa mà phải đối diện với thực tế của cuộc sống gia đình: phải làm lụng cực nhọc, phải chịu đựng những tính ý khác biệt của nhau… Khi đó thì đã thấy hơi cực, hơi khó rồi. Nhưng vì thương vợ thương chồng mà họ cố gắng chịu cực, chịu khó. Tình yêu như thế là đã lên đến mức độ hai: yêu thương là cho đi. Thế nhưng có một số vợ chồng càng về già càng chán ngán nhau: vợ thì bệnh hoạn quanh năm suốt tháng, chồng thì lẩm cẩm khó tính hay chửi bới cộc cằn. Sống chung với một người như thế chẳng còn thấy một chút thú vị mà chỉ toàn bổn phận, cực nhọc, khổ sầu. Cuộc sống lúc này đang mời gọi những vợ chồng ấy đưa tình yêu thương của mình lên mức độ thứ ba, mức độ cao nhất, là mức độ cho đi hoàn toàn, hy sinh tất cả. Hãy cố gắng hy sinh cho nhau thì mới là yêu thương thật, mới là làm theo lời Chúa dạy “chúng con hãy yêu thương nhau”.
Bây giờ chúng ta hãy nhìn đến liên hệ của mình với những người khác. Thì cũng thế: có những người mình yêu thương thật dễ, đó là những người có lợi cho mình, hay giúp đỡ mình, hay an ủi mình. yêu thương những người này dễ vì yêu thương là đón nhận. Có những người khác yêu thương họ mình thấy có khi dễ có khi khó vì họ có khi làm mình vui có khi khiến mình buồn, nhưng mình vẫn cố gắng thương họ được, vì yêu thương họ mình vừa được đón nhận mà vừa phải cho đi. Nhưng có những người chẳng mang lại cho mình lợi lộc gì cả mà chỉ toàn làm cho mình cực lòng, mất mát, khổ đau, thí dụ như những người nghèo, những người bệnh, những người tội lỗi, những kẻ thù… Nhưng xin được lưu ý rằng chính đây là những người Chúa muốn ta yêu thương, Chúa muốn ta hy sinh, Chúa muốn ta cho đi hoàn toàn. Chúa đã nói ” nếu chúng con chỉ yêu thương những kẻ mến chuộng mình thì nào có công gì? Những người thu thuế há không làm như thế sao?
Yêu thương mới xem ra thì quá dễ. Hay nói đúng hơn yêu thương theo khuynh hướng tự nhiên thì quá dễ, vì theo tự nhiên người ta chỉ yêu thương khi được đón nhận, chỉ yêu thương những ai có lợi cho mình.
Nhưng yêu thương cho đúng nghĩa, yêu thương đúng như ý Chúa muốn thì lại hết sức khó, vì đòi hỏi ta phải cho đi, phải hy sinh, đòi ta phải yêu thương cả những người không có lợi cho ta mà còn làm khổ ta.
Nhưng đó là mức độ yêu thương cao nhất, có yêu thương được như vậy thì mới là làm theo Lời Chúa. có làm theo Lời Chúa thì mới là yêu mến Chúa thật.
Xin Chúa giúp chúng ta biết cho đi, biết hy sinh để thực sự yêu thương như Chúa muốn trong tương quan giữa vợ chồng con cái trong gia đình, cũng như trong tương quan giữa chúng ta với mọi người khác.
Trong bữa Tiệc ly, Chúa Giêsu nói cho các môn đệ hai Ngài sắp ra đi. Chẳng lạ gì khi các ông buồn. Họ không muốn Ngài ra đi. Họ muốn giữ Ngài lại mãi bên họ. Thật không dễ chịu chút nào khi một người thân yêu ra đi. Cũng không dễ chịu gì khi để mất đi một món đồ hay một con vật mà mình yêu thích.
Một cậu bé nhìn thấy một chú chim non rơi từ chiếc tổ trên cành xuống nằm trên mặt đất. Cậu lượm nó lên, sưởi ấm nó. Một lát sau chú chim tỉnh dậy. Nhưng thay vì đặt chú chim trở về tổ, cậu đem nó để trong một chiếc lồng. Hằng ngày cậu mang cho nó rất nhiều thức ăn và nước. Chú chim ngày càng khoẻ mạnh. Nó bắt đầu bay và hót. Cậu bé rất thích. Nhưng một hôm chú chim cứ đập cánh xành xạch vào thành chiếc lồng. Cậu bé không hiểu nên hỏi cha mình. Người cha giải thích:
– Tại vì nó không hạnh phúc đó.
Cậu bé cãi lại:
– Con đã đặt vào lồng cho nó tất cả những gì nó cần rồi kia mà.
– Nhưng vẫn còn thiếu cái điều mà chim yêu quý nhất.
– Điều gì?
– Đó là tự do.
– Bộ cha muốn con thả cho nó đi sao?
– Đúng thế.
– Nhưng con không thể cho nó đi. Nó đâu có biết là bên ngoài chiếc lồng này có rất nhiều hiểm nguy đang rình rập nó.
– Nhưng con phải chấp nhận như thế.
Cậu bé nài nỉ:
– Cha ơi, con thương nó lắm.
– Nếu con thương nó thì con phải để cho nó đi.
Cậu bé đành mở cửa lồng cho chú chim bay đi. Lòng cậu rất buồn. Nhưng chú chim vừa ra khỏi lồng đã cất tiếng hót líu lo, tỏ vẻ như trước đây chưa bao giờ vui vẻ và hạnh phúc như thế. Khi đó cậu bé không buồn nữa mà cảm thấy vui lây.
Các tông đồ không muốn Chúa Giêsu ra đi. Nhưng như thế là các ông không biết nghĩ cho Chúa mà chỉ nghĩ cho mình. Chúa Giêsu biết thế nên mới nói: “Nếu các con yêu mến Thầy thì các con hẳn vui mừng vì Thầy về cùng Cha Thầy”. Về cùng Cha, đó là mục tiêu cả đời của Chúa Giêsu.
Tình yêu chiếm hữu thì rất thông thường. Nhiều cha mẹ cũng thương con kiểu đó. Họ đã ban sự sống cho chúng, nhưng họ không để cho chúng phát triển sự sống của chúng theo cách của chúng. Nhiều cặp vợ chồng cũng vậy. Họ cứ muốn người vợ hay người chồng của mình sống theo cách sống của mình.
Tình yêu chiếm hữu gây ra rất nhiều đau khổ. Còn tình yêu không chiếm hữu thì phát sinh nhiều điều kỳ diệu cho cả hai phía, chẳng hạn: đổi mới, lớn lên, phát triển v.v.
Phải biết để cho những người hoặc những gì mình yêu thích ra đi. Làm như thế quả là mất mát đấy. Nhưng mất cái hiện tại để được cái tương lai, mất điều mình yêu quý mà sẽ được điều đáng quý hơn. Bởi vậy, trước khi ra đi, Chúa Giêsu đã nói: “Thầy ra đi thì có lợi cho các con. Thật vậy nếu Thầy không ra đi thì Đấng Phù Trợ sẽ không đến với các con; nhưng nếu Thầy ra đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với các con” (Ga 16,17) (FM)
Có người cứ nuôi mãi thù hận nên trong lòng không có bình an. Ngược lại, người có bình an trong lòng thì cuộc sống vui vẻ hạnh phúc.
James và John là hai người láng giềng của nhau. Ruộng của họ nằm sát bên nhau. Năm đó thời tiết khô hạn nên việc cày bừa rất vất vả. James rất khó chịu. Anh cứ lấy roi quất lia quất lịa lên con ngựa đang kéo cày. Nhưng càng bị quất thì con ngựa càng tỏ ra bướng bỉnh. James biết rằng lúa mì trong mảnh ruộng người hàng xóm cao hơn lúa của anh. Mỗi khi nhìn sang mảnh ruộng ấy, anh có cảm tưởng là anh chàng hàng xóm đang nhạo cười mình.
John thì trái lại. Dù cũng vất vả nhọc nhằn, nhưng anh luôn bình thản và cứ kiên trì trong công việc. Thỉnh thoảng anh ngừng lại cho con ngựa được nghỉ ngơi. Anh nhìn sang ruộng của James và thấy rất tệ. Anh muốn sang giúp lắm nhưng biết rằng anh kia sẽ không bao giờ chịu. Thôi thì đành để James làm một mình vậy.
Điều khác biệt giữa hai người láng giềng này không phải ở tình hình bên ngoài mà ở tình trạng nội tâm. Chúng ta nhìn thế giới và tha nhân không phải như cái họ là, mà như cái ta là. Vì tâm hồn của John vui vẻ nên anh nhìn đời một cách lạc quan. James thì trái lại, bởi nội tâm bất an nên nhìn cái gì bên ngoài cũng khó chịu. (FM)
Ngày 8.10.1952, một vụ án xảy ra tại Bavière, một thiếu nữ 18 tuổi tên là Emma bị thảm sát cách tất tưởi. Chuyến xe lửa vừa tới nhà ga, các chị em đồng hành ngạc nhiên vì không thấy Emma đâu, nên báo cho “Ông Xếp” nhà ga hay tin. Thế là lập tức các nhân viên hỏa xa chia nhau đi tìm kiếm doc theo đường xe lửa suốt hai tiếng đồng hồ mới phác giác ra xác Emma đang nằm xõng xượt trong vũng máu, chân tay bị chặt cụt.. Xếp ga mở cuộc điều tra. Tất cả mọi người hành khách bị thẩm vấn đều trả lời là không biết gì cả. Trong số đó có một chàng thanh niên 24 tuổi. Khi được hỏi thì anh trả lời ấp úng là không biết gì cả. Nhưng vì có vẻ ngây ngô thành thật nên người ta cũng bỏ qua.
Hai tuần sau, chàng trai này đến gõ cửa Tu viện các Cha dòng Bênêđitô xin nhập Dòng. Anh được nhận. Sau hai năm thử luyện thấy không có gì ngăn trở, Bề Trên nhận anh vào Tập viện. Khoảng tháng 10, trước ngày vào Tập viện, anh đến chỗ đường sắt nơi đã tìm thấy xác Emma nằm trong vũng máu. Anh quỳ chắp tay cầu nguyện. Ngày hôm sau, lúc sáng sớm tinh sương, anh tới mồ Emma, người mà chính anh đã giết chết. Anh đã la lên trong tiếng khóc nức nở: “Tôi không chịu được nữa”. Rồi anh đi tự nộp mình cho cảnh sát và thú tất cả tội lỗi của anh. Cái tội mà người ta đã quên đi vì không điều tra manh mối gì. Anh thú nhận là anh đã xô Emma xuống và đâm chết vì nghe cô ta nói là cô ta không biết đến anh nữa. Vì thế nên anh đã nổi cơn điên nên đã hành động độc ác như thế.
Câu truyện trên cho chúng ta thấy, dù bốn bức tường kín nơi Tu Viện cũng không trấn an được tiếng lương tâm ray rứt, không làm cho người thanh niên phạm tội ác được bình an tâm hồn, cho dầu không một ai hay biết tội lỗi của anh ta.
Vậy muốn được bình an hạnh phúc thật, con người cần phải có tâm hồn trong sạch, sống trong ơn nghĩa Chúa. Tâm hồn biết hối cải, biết sống nhân từ, biết yêu thương và tha thứ, như chính Chúa đã làm gương và dạy chúng ta noi theo bắt chước. (Lm Minh Vận, CMC. Trích Vietcatholic ngày 2.5.2003)
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Thánh thần là Đấng soi sáng, hướng dẫn và nâng đỡ đời sống đức tin của người Kitô hữu. Vì thế, chúng ta cùng khẩn cầu Thiên Chúa ban Thánh thần cho chúng ta:
Chủ tế: Lạy Chúa, xin ban Thánh thần là nguồn mạch tình yêu xuống cho chúng con, để Người giúp chúng con luôn sống bác ái yêu thương như Chúa đã dạy. Chúng con cầu xin
– Sau kinh Lạy Cha: Đọc chậm rãi và tâm tình lời nguyện “Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói với các tông đồ rằng Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban bình an cho các con…”
VII. Giải tán
Chúa Giêsu đã nói: “Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban bình an cho các con “Chúc anh chị em ra về bình an.
Vì lễ Ngũ Tuần sắp đến nên Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật VI Phục Sinh này đề cập đến Chúa Thánh Thần. Bài Đọc I và Tin Mừng trực tiếp đề cập đến Chúa Thánh Thần trong khi Bài Đọc II chỉ gợi ý.
Cv 15: 1-2, 22-29
Trong sách Công Vụ, thánh Lu-ca tường thuật tầm quan trọng của Công Đồng Giê-ru-sa-lem khi phải giải quyết những mối quan hệ giữa người Ki-tô hữu gốc Do thái và người Ki-tô hữu gốc lương dân. Biểu thức kết luận nghị quyết của Công Đồng thật đáng chú ý: “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định…”.
Kh 21: 10-14, 22-23
Thị kiến được miêu tả trong sách Khải Huyền là thị kiến về Giáo Hội thời Thiên Sai và thời các Tông Đồ, không cần Đền Thờ nữa, vì Giáo Hội là Giáo Hội của Đấng Phục Sinh. Những tín hữu đích thật phụng thờ Thiên Chúa trong “thần khí và sự thật”.
Ga 14: 23-29
Tin Mừng được trích từ Diễn Từ Cáo Biệt của Chúa Giê-su. Khi sắp từ giả các môn đệ, Chúa Giê-su hứa xin Chúa Cha sai Chúa Thánh Thần đến với họ. Ngài sẽ là Đấng Bảo Trợ của họ.
BÀI ĐỌC I (Cv 15: 1-2, 22-29)
Chương 15 sách Công Vụ thuật lại một giai đoạn mang tính quyết định trong lịch sử Giáo Hội. Giai đoạn này được đặt trước một hiện tượng mang chiều kích rộng lớn bao la: nhiều lương dân đón nhận Tin Mừng và gia nhập Giáo Hội mỗi ngày mỗi thêm đông. Hiện tượng này gây nên một phản ứng mãnh liệt từ phía vài người Ki-tô hữu gốc Do thái: phải chăng Giáo Hội bị làn sóng những người Ki-tô hữu gốc Hy-lạp, Xy-ri-a và Síp tràn ngập, và biến mất khỏi bối cảnh văn hóa Do thái từ đó Giáo Hội được khai sinh?
Cuộc tranh luận, khởi đi từ An-ti-ô-khi-a, được trình lên các Tông Đồ và Hội Thánh Giê-ru-sa-lem. Một công nghị được triệu tập vào năm 49 và thường được gọi là “Công Đồng Giê-ru-sa-lem”. Bản văn trích dẫn hôm nay gồm có hai phần: phần thứ nhất giới thiệu hoàn cảnh nẩy sinh Công Đồng Giê-ru-sa-lem (15: 1-2) và phần thứ hai tường thuật những nghi quyết của “Công Đồng” được trình bày theo hình thức Thư Chung (15: 22-29). Giữa hai phần này diễn tiến những cuộc tranh luận mà đoạn trích dẫn hôm nay không thể đưa vào đây, vì độ dài của nó, do khuôn khổ của một bài đọc Chúa Nhật. Để hiểu rõ hơn những nghị quyết tối hậu của Công Đồng, đối tượng của đoạn trích hôm nay, chúng ta phải tóm lược những tranh luận này. Công Đồng Giê-ru-sa-lem được định vị ở giữa sách Công Vụ, như đánh dấu khúc quanh của Giáo Hội: khởi đi từ giây phút này, Giáo Hội “chuyển sang lương dân”, hay ít ra “mở rộng đường cho lương dân đón nhận đức tin” (Bài Đọc I Chúa Nhật vừa qua).
Chung chung người ta ghi nhận vào năm 49 xảy ra một cuộc tranh luận tại An-ti-ô-khi-a mà thánh Lu-ca đặt ngay liền sau cuộc hành trình truyền giáo thứ nhất, và đa số các nhà chuyên môn đồng hóa cuộc tranh luận này với cuộc tranh luận mà thánh Phao-lô kể ra trong thư gởi tín hữu Ga-lát (Gl 2: 1-10).
Thánh Phao-lô và thánh Ba-na-ba không những đối đầu với những người Do thái cứng lòng tin trong cuộc hành trình truyền giáo lần thứ nhất của mình, nhưng hai ngài còn phải tranh luận với những Ki-tô hữu gốc Do thái xuất thân từ phái Pha-ri-sêu, từ Giê-ru-sa-lem đến An-ti-ô-khi-a nữa. Những người Ki-tô hữu này đòi buộc những người Ki-tô hữu gốc lương dân: “Nếu anh em không chịu phép cắt bì, thì anh em không thể được cứu độ” (Cv 15: 1), nghĩa là phải trở thành Do thái giáo qua phép cắt bì rồi mới được phép trở thành Ki-tô hữu qua phép rửa. Theo họ, niềm tin vào Chúa Giê-su không thay thế Luật Mô-sê, đơn giản đức tin được thêm vào Luật Mô-sê.
Người ta hiểu những lời tuyên bố như thế gây hoang mang như thế nào trong các cộng đoàn kết nạp nhiều người Ki-tô hữu gốc lương dân mà không thông qua phép cắt bì, những người mà các nhà truyền giáo vừa mới tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc Phúc Âm hóa thế giới dân ngoại. Hơn nữa, luật không cho phép đồng bàn với người không cắt bì. Vậy làm thế nào có thể đồng bàn với các Ki-tô hữu không cắt bì khi tham dự nghi lễ Bẻ Bánh (bàn tiệc Thánh Thể)? Vào thời ấy lễ Bẻ Bánh được tổ chức như một bữa ăn đích thật.
Thánh Phao-lô và thánh Ba-na-ba “chống đối ra mặt và tranh luận khá gay go với những người đó”. Cuối cùng, cộng đoàn An-ti-ô-khi-a “bèn quyết định cử ông Phao-lô và ông Ba-na-ba và vài người trong nhóm họ đi Giê-ru-sa-lem”. Thật đáng chú ý, những người Ki-tô hữu gốc lương dân này nhận ra quyền tối thượng của Hội Thánh Giê-ru-sa-lem và muốn đệ trình vấn đề của mình lên “các Tông Đồ và các kỳ mục”. Thánh Ép-ra-em nhận định: “Nếu không có sự đồng ý của các Tông Đồ, không ai tự ý thay đổi bất cứ điều gì mà các ngài chưa cho phép… Thánh Phao-lô lên Giê-ru-sa-lem để giải quyết việc loại bỏ Lề Luật và phép cắt bì trước sự hiện diện của các môn đệ: nếu các Tông Đồ không ủng hộ thì thánh Phao-lô và thánh Ba-na-ba không thể nào loại bỏ chúng” (Armenian Commentary, ad loc.).
Trong Công Đồng Giê-ru-sa-lem, thánh Ba-na-ba và thánh Phao-lô tranh luận gay gắt với những người chủ trương Do thái hóa Ki-tô giáo. Hai ngài đã hiểu rằng vấn đề thật sự không đơn giản là phép cắt bì, nhưng thậm chí tương lai của Giáo Hội bị đặt ra trước một sự chọn lựa then chốt: hoặc hy sinh những Ki-tô hữu gốc lương dân vì tuân giữ nghiêm nhặt những quy định Do thái giáo, hay hy sinh những Ki-tô hữu gốc Do thái chủ trương nghiêm nhặt vì Giáo Hội mở rộng cửa đón nhận lương dân.
A- Diến từ của thánh Phê-rô (15: 7-12)
Thánh Phê-rô, thủ lãnh các Tông Đồ và Giáo Hội, lên tiếng đầu tiên. Dựa trên kinh nghiệm ở Xê-da-rê ở đó thánh nhân đã chứng kiến việc Chúa Thánh Thần xuống trên các lương dân (viên đại đội trưởng Rô-ma và gia quyến của ông), thánh Phê-rô công bố, theo biểu thức rất Phao-lô rồi, rằng ơn cứu độ do đức tin, cùng với ân sủng Chúa Giê-su. Vì thế, không nên “quàng vào cổ” những người Ki-tô hữu gốc lương dân này “một cái ách mà cả cha ông chúng ta lẫn chúng ta đã không có sức mang nổi”. Cái ách này đó là luật Mô-sê cùng với tất cả những quy định của luật. Thánh Phao-lô và thánh Ba-na-ba thuật lại những điều kỳ diệu mà Thiên Chúa đã thực hiện giữa lương dân trong cuộc hành trình truyền giáo của họ.
B- Diễn từ của thánh Gia-cô-bê (15: 13-21)
Tiếp đó, thánh Gia-cô-bê, thủ lãnh cộng đoàn Giê-ru-sa-lem, hoàn toàn tán thành với thánh Phê-rô trên “nội dung” của vấn đề, nhưng đề nghị một sự dàn xếp trong những hình thức để những Ki-tô hữu gốc Do thái không cảm thấy mình bị thiệt thòi. Lời đề nghị của thánh Gia-cô-bê được gợi hứng từ các truyền thống hiếu khách đã được tuân giữ bao đời trong dân Ít-ra-en. Lề Luật truyền phải tiếp đón những ngoại kiều và những người nhập cư và ca ngợi lòng bao dung đối với những người này; bù lại, Luật yêu cầu những ngoại kiều và nhập cư được ân cần tiếp đón như thế phải tôn kính ngày sa-bát và tuân giữ vài quy định liên quan đến việc cưới hỏi và thức ăn. Thánh Gia-cô-bê lấy lại những quy định truyền thống hiếu khách này, nhưng giảm thiểu hết mức chỉ giữ lại bốn điều cấm: những Ki-tô hữu gốc lương dân không được ăn của cúng, ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết (đây là những điều mà người Ki-tô hữu gốc Do thái ghê tỡm nên không muốn đồng bàn với người Ki-tô hữu gốc lương dân). Sau cùng cấm gian dâm mà bất cứ nền văn hóa nào cũng lên án.
Như vậy các Ki-tô hữu gốc lương dân cảm thấy an lòng, vì Công Đồng không còn kể ra việc cắt bì như điều kiện tiên quyết nữa, nhưng chỉ đòi hỏi họ phải kiêng cử vài thức ăn để có thể đồng bàn với anh chị em Ki-tô hữu gốc Do thái. Về phía những Ki-tô hữu gốc Do thái, họ dễ dàng nhận ra ở nơi những kiêng cử này thật ra truyền thống đã đòi buộc những ngoại kiều sống ở Ít-ra-en phải tuân giữ. Bù lại, họ phải rộng mở tấm lòng đón tiếp tất cả những người Ki-tô hữu gốc lương dân, những anh chị em có chung niềm tin với họ.
Qua sự nhượng bộ đòi hỏi cả hai phía, thánh Gia-cô-bê hy vọng rằng nhờ đó Hội Thánh giữ được mối giao hảo hài hòa trong cuộc sống chung giữa những Ki-tô hữu gốc Do thái và những Ki-tô hữu gốc lương dân, khi cả hai đều tôn trọng bản sắc văn hóa của nhau. Đây cũng là nguyên tắc chung cho các nhà truyền giáo sau này đến với các dân tộc thuộc các nền văn hóa khác nhau.
Công Đồng nhất trí gởi Thư Chung cho các cộng đoàn Ki-tô hữu gốc lương dân tại An-ti-ô-khi-a, miền Xy-ri và Ki-li-ki-a để trấn an họ. Thư Chung này chứa đựng những nghị quyết của Công Đồng theo thể loại thư tín vào thời đó khi bắt đầu: “Anh em Tông Đồ và kỳ mục chúng tôi gửi lời chào anh em gốc dân ngoại tại An-ti-ô-khi-a, tại miền Xy-ri và Ki-li-ki-a” (15: 23) và kết thúc: “Chúc anh em an mạnh” (15: 29). Thư Chung được trao gởi cho hai trong số các ngôn sứ có uy tín nhất trong Hội Thánh, ông Giu-đa và ông Xi-la.
Công Đồng trước tiên khiển trách những Ki-tô hữu Giu-đê, chỉ vì sáng kiến của riêng mình, gây nên tình trạng hoang mang trong cộng đoàn An-ti-ô-khi-a (15: 24); tiếp đó, ca ngợi lòng nhiệt thành tông đồ của thánh Phao-lô và thánh Ba-na-ba (15: 25-26), đây là cách thức công nhận đề tài về ơn cứu độ nhờ đức tin chứ không nhờ phép cắt bì. Hai ông Giu-đa và Xi-la được cử đi trình bày trực tiếp những nghị quyết của Công Đồng, nhưng chính Phẩm Trật Giáo Hội trình bày và công bố sắc lệnh khắp các miền có nhiều anh chị em Ki-tô hữu gốc lương dân.
Cuối cùng, Công Đồng kết thúc với lời quả quyết rằng: “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định…”. Biểu thức này rất quý sẽ được những người kế vị thánh Phê-rô lập lại. Qua biểu thức này, Công Đồng ý thức rằng chính Chúa Thánh Thần hướng dẫn những nghị quyết của các ngài và phân tích cho đến cùng chính Thiên Chúa đã quyết định vấn đề. Đồng thời, các Tông Đồ khẳng định quyền tối thượng của các ngài trong Hội Thánh. Quyền này các ngài nhận từ Đức Giê-su và được Thánh Thần trợ lực. Khi khẳng định rằng không áp đặt bất kỳ gánh nặng nào trên những Ki-tô hữu gốc lương dân, Công Đồng tuyên bố rằng người Ki-tô hữu gốc lương dân không bị đòi buộc cắt bì và tuân giữ Luật Mô-sê, nhưng chỉ đòi buộc họ tuân giữ vài lệnh cấm chủ yếu liên quan đến thức ăn. Đường lối khôn ngoan của Công Đồng làm hài lòng cả những Ki-tô hữu gốc Do thái lẫn những Ki-tô hữu gốc lương dân.
Tưởng nên nhắc lại rằng vấn đề thức ăn còn trầm trọng hơn vấn đề cắt bì, vì có liên quan đến việc đồng bàn. Những Ki-tô hữu gốc Do thái vẫn còn tuân giữ những điều cấm kỵ của Luật Mô-sê, họ không thể chia sẻ bữa ăn với những Ki-tô hữu gốc lương dân. Ở An-ti-ô-khi-a, hai cộng đoàn dùng bữa tách riêng ra. Vì thế, những quyết định của thánh Gia-cô-bê nhắm đến giải quyết vấn đề này, việc cùng ăn cùng uống với nhau là một yếu tố quan trọng để tạo nên một sự hiệp nhất giữa những Ki-tô hữu có những nguồn gốc khác nhau, nhất là cùng nhau tham dự lễ Bẻ Bánh.
BÀI ĐỌC II (Kh 21: 10-14, 22-23)
Chương 21 này, chương áp chót của sách Khải Huyền, tường thuật hai thị kiến. Thị kiến thứ nhất, chúng ta đã đọc vào Chúa Nhật trước, miêu tả Giáo Hội khải hoàn, được sánh ví với một hôn thê điểm trang lộng lẫy chuẩn bị đón phu quân của mình là Đức Ki-tô trong một giao ước mới, hoàn hảo và vĩnh viễn.
Thị kiến thứ hai, chúng ta đọc hôm nay, miêu tả Giáo Hội của các Tông Đồ, nhưng nhấn mạnh rằng đây cũng là một Giáo Hội: Giáo Hội xuống từ trời, vì Giáo Hội này phát xuất từ Thiên Chúa và chói lọi ánh vinh quang Thiên Chúa. Những đặc tính của Giáo Hội này được gợi lên bởi nhiều hình ảnh nối tiếp, khá dễ dàng giải mã.
“Trong một thị kiến, tôi là Gioan, tôi được thiên thần đem lên một ngọn núi cao hùng vĩ”. Trong Cựu Ước, thành thánh Giê-ru-sa-lem thời thiên sai được các ngôn sứ định vị trên một ngọn núi cao, biểu tượng của sự siêu việt như Is 2: 2: “Trong tương lai, núi Nhà Đức Chúa đứng kiên vững vượt đỉnh các non cao, vươn mình lên trên hết mọi ngọn đồi”; hay Ed 17: 22: “Từ ngọn cây, từ ngọn hương bá cao chót vót, Ta sẽ lấy, sẽ ngắt một chồi non; chính Ta sẽ trồng nó trên đỉnh núi cao vòi vọi”.
Khía cạnh bên ngoài nổi bật nhất của Thành Thánh, chính là sự chói lọi ánh vinh quang Thiên Chúa. Trước đây cũng chính với viên đá quý chiếu sáng mà ngai Thiên Chúa được gợi lên: “Đấng ngự đó trông giống như ngọc thạch và xích não. Chung quanh ngai có cầu vòng trông giống như ngọc bích” (Kh 4: 3). Ở thị kiến này, vinh quang của Thành Thánh được sánh ví với sự chiếu sáng của viên đá quí tuyệt vời, như vân thạch lưu ly. Điều này muốn nói lên sự thánh thiện của Giáo Hội và chỉ ra sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Ngài, điều này sẽ được củng cố ở câu sau cùng: “Thành chẳng cần đến mặt trời mặt trăng chiếu sáng: đã có vinh quang Thiên Chúa tỏa rạng, và Con Chiên là ngọn đuốc chiếu soi”.
Việc miêu tả thánh thánh Giê-ru-sa-lem được gợi hứng từ ngôn sứ Ê-dê-ki-en. Trong cảnh lưu đày ở Ba-by-lon, sau khi biết tin thành thánh Giê-ru-sa-lem và Đền Thờ bị phá hủy, ngôn sứ hình dung ra việc tái thiết thành thánh Giê-ru-sa-lem trong tâm trí của mình: thành sẽ hoàn hảo, nó sẽ vuông vức… (Ed 48). Thánh Gioan cũng miêu tả thành Giê-ru-sa-lem của các Tông Đồ vào lúc thành thánh không còn nữa, thành cũng như Đền Thờ đã bị quân đội Rô-ma tiêu hủy vào năm 70 sau Công Nguyên. Thành Thánh Giê-ru-sa-lem đích thật từ nay là Giáo Hội. Giáo Hội này thì “phổ quát”: mở ra cho hết mọi dân nước, nó có các cửa ở bốn phương trời. Giáo Hội này là của các Tông Đồ: nền móng của nó có ghi tên mười hai Tông Đồ của Con Chiên.
Giáo Hội này là dấu chỉ “sự hiện diện của Thiên Chúa” ở giữa lòng nhân loại (x. Ed 48: 35). Thiên Chúa hiện diện mà không còn cần đến Đền Thờ bằng đá, do tay người phàm xây dựng. Giáo Hội là Giáo Hội của Đấng Phục Sinh; đền thờ Thiên Chúa là “thân thể của Đức Ki-tô”. Thiên Chúa trực tiếp ngự giữa nhân loại. Đức Giê-su đã nói với người phụ nữ xứ Sa-ma-ri: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các ngươi thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem… những người thờ phượng đích thật sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật” (Ga 4: 19-24).
Giáo Hội này còn là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa vì có “Con chiên là ngọn đuốc chiếu soi” như sấm ngôn của ngôn sứ I-sai-a: “Ánh sáng ban ngày của ngươi không còn là mặt trời nữa, và ban đêm, ngươi chẳng cần đến ánh trăng soi: Đức Chúa sẽ là ánh sáng vĩnh cửu chiếu soi ngươi, ánh huy hoàng của ngươi là Thiên Chúa ngươi thờ” (Is 60: 19).
Viễn cảnh là thời cánh chung như phần cuối của sách Khải Huyền này, nhưng nó không chỉ là thời cánh chung. Đừng mất đi tầm nhìn về ý định của tác giả: khích lệ những Ki-tô hữu trong cơn thử thách. Sự hiện diện của Thiên Chúa đem lại sự yên lòng cho Giáo Hội chiến đấu. Đức Ki-tô – Con Chiên – đang sống ở bên cạnh các tín hữu của Ngài, trong các bí tích và qua ơn phù trợ của Chúa Thánh Thần.
TIN MỪNG (Ga 14: 23-29)
Chúng ta tiếp tục đọc và suy niệm Diễn Từ Cáo Biệt của Chúa Giê-su với các môn đệ Ngài trong bữa Tiệc Ly. Chúa Giê-su sắp rời bỏ các ông mà ra đi, vì thế các ông xao xuyến và buồn phiền. Chúa Giê-su trấn an các ông khi loan báo cho các ông biết rằng sự hiện diện hữu hình của Ngài sẽ được nối tiếp với sự hiện diện vô hình của Ngài ở nơi sự hiện của Chúa Thánh Thần: Ngài là Tình Yêu Thiên Chúa Ba Ngôi hiện diện trong đời sống nội tâm của các môn đệ; Ngài là Bậc Tôn Sư nội tâm khai lòng mở trí cho các môn đệ hiểu biết sâu xa về Chúa Giê-su; và Ngài là bình an và niềm vui mà Chúa Giê-su trao ban cho các môn đệ.
Thần học trong bản văn trích dẫn hôm nay rất đậm đặc vì mở ra cho thấy tác động ân sủng trong đời sống nội tâm của người Ki-tô hữu; cũng rất đậm đặc không kém vì ở đây tình yêu được nêu đích danh lần đầu tiên là căn nguyên của sự trung thành với Lời và là con đường dẫn đến Chúa Cha; còn đậm đặc hơn nữa khi gợi lên những hoa trái thần khí mà sự hiện diện của Thiên Chúa ở cùng các môn đệ đem lại cho họ ngay chính trong cuộc sống tại thế này.
Câu hỏi của ông Giu-đa: “Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian?” (14: 22) giúp Chúa Giê-su khai triển sâu xa hơn chủ đề về Tình Yêu Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị trong lòng của các môn đệ. Chỉ người nào bày tỏ tấm lòng yêu mến của mình đối với Chúa Giê-su bằng cách tuân giữ các điều răn của Ngài, người ấy sẽ được Chúa Cha yêu mến và “Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở với người ấy” (14: 23). Động từ “ở lại”, một trong những động từ chủ đạo của Tin Mừng Gioan, nhấn mạnh sự hiện diện thường hằng của Thiên Chúa trong đời sống “nội tâm” của người Ki-tô hữu. Như vậy, lòng mến mà Đức Giê-su đề cao tạo nên một chuyển động kép: bên ngoài thực hành những huấn lệnh Tin Mừng, bên trong tăng cường mối quan hệ với Đức Giê-su. Lúc đó người tín hữu mới có thể nghiệm được Chúa Cha và Chúa Con đồng hiện diện trong lòng mình. Đó là vai trò của Chúa Thánh Thần, Đấng hiệp nhất Tình Yêu của Chúa Cha và Chúa Con và hiệp thông tình yêu của các môn đệ với Tình Yêu Thiên Chúa: “Thật vậy, không thể đạt đến một sự hiểu biết trung thực nào về Mặc Khải Ki-tô giáo nếu không có tác động của Đấng Bảo Trợ. Lý do là vì sự hiệp thông nơi Thiên Chúa luôn luôn hàm chứa mối quan hệ giữa Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (“Verbum Domini”, 50).
Chúa Thánh Thần còn là “Bậc Tôn Sư” nội tâm khai lòng mở trí cho các môn đệ hiểu Chúa Giê-su: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng sẽ dạy cho anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14: 26). Với tư cách là Bậc Tôn Sư, Chúa Thánh Thần nhắc lại và khai lòng mở trí cho các ông để các ông hiểu cách thấu đáo những lời Chúa Giê-su đã nói và những việc Chúa Giê-su đã làm. Chính ở nơi vai trò này mà chúng ta tin tưởng rằng Chúa Thánh Thần bảo vệ Giáo Hội khỏi sai lạc và gìn giữ Giáo Hội luôn luôn gắn bó một lòng một ý với Chúa Giê-su. Rõ ràng, các môn đệ sẽ phải cần đến sự hiện diện và tác động của Chúa Thánh Thần trong biến cố Hiện Xuống mới có thể nắm bắt được chiều sâu của sứ điệp này.
Ở đây, chúng ta chạm đến tuyệt đỉnh của Mặc Khải: Chúa Con mặc khải cho chúng ta Thiên Chúa là Cha đầy lòng yêu thương, Đấng mà Chúa Con giữ mối quan hệ Phụ Tử độc nhất vô nhị. Ấy vậy, điều đáng chú ý chính là trong Tin Mừng Gioan, hễ khi nào Chúa Giê-su nêu lên mối quan hệ giữa Cha và Con, Ngài đều liên kết mối quan hệ này vào trong những viễn cảnh liên quan đến nhân loại (14: 20, 21, 23). Điều nầy muốn nói rằng tình yêu liên kết Ba Ngôi Thiên Chúa, thay vì khép kín trong chính mình, tất yếu hướng về thụ tạo. Tất cả những gì Chúa Con lãnh nhận từ Chúa Cha, chính là để ban cho chúng ta, đó là “những của tốt lành” theo thánh Mát-thêu (7: 11), tức là “Thánh Thần” theo thánh Lu-ca (11: 13).
Vì thế, không gì phải ngạc nhiên khi thánh Giáo Phụ Âu-gút-ti-nô xem sự hiện hữu của Thánh Thần là “Ân Ban” trong chính mầu nhiệm Thiên Chúa, bởi vì Ngài là “Tình Yêu tận hiến cho nhau” trong mầu nhiệm Ba Ngôi: “Thánh Thần, theo Kinh Thánh, không chỉ là Thần Khí của Chúa Cha, cũng không chỉ là Thần Khí của Chúa Con, nhưng là của cả hai; chính vì thế Thánh Thần dạy cho chúng ta tình yêu chung nơi Chúa Cha và Chúa Con, tình yêu mà qua đó hai Ngôi Vị yêu mến lẫn nhau” (De Trinitate XV, 17, 27). Với tư cách là Tình Yêu hiệp nhất trong Thiên Chúa, Chúa Thánh Thần mà chúng ta lãnh nhận sẽ là nguyên lý hiệp nhất chúng ta với Thiên Chúa và với nhau, như lời dạy của thánh Giáo Phụ Âu-gút-ti-nô: “Chính vì Ngài (Thánh Thần) là sự hiệp thông giữa Chúa Cha và Chúa Con nên các Đấng (Chúa Cha và Chúa Con) muốn chúng ta được hiệp thông với nhau và với các Ngài, nghĩa là bằng Thánh Thần, Đấng là Thiên Chúa và là Thiên Ân… Quả vậy, chính trong Thánh Thần mà chúng ta được giao hòa với Thiên Chúa và tìm thấy nơi Người niềm hoan lạc… Nhờ Thánh Thần mà Dân Thiên Chúa được quy tụ lại trong hiệp nhất” (Sermon 71, 12, 18; 12, 19; 17, 28; 20, 33). Thánh Tô-ma lấy lại tư tưởng này và dành cho Chúa Thánh Thần một vai trò đặc biệt với hai danh xưng: “Tình Yêu” và “Ân Ban”. Theo thánh Tiến Sĩ Tô-ma, trong lịch sử Cứu Độ, chức năng của Chúa Thánh Thần là nối kết tất cả, đưa tất cả vào Tình Yêu Vĩnh Hằng, tức là sự Hiệp Thông Ba Ngôi.
Đức Gioan Phao-lô II nói về Chúa Thánh Thần là Tình Yêu Thiên Chúa trong Hiến Tế Thập Giá của Chúa Giê-su như sau: “Chúa Thánh Thần được mặc khải và hiện diện trong mầu nhiệm Thập Giá như là tình yêu hoạt động trong thâm sâu mầu nhiệm Thập Giá, chính Ngài là nguồn sức mạnh cứu độ của thập giá Đức Ki-tô, là ân huệ trao ban sức sống mới. Trong tột cùng đau khổ trên thập giá, Thánh Thần tình yêu đến với Chúa Giê-su và rồi từ trên thập giá, Chúa Giê-su đã trao ban Thánh Thần tình yêu đó” (“Chúa Thánh Thần trong đời sống Giáo Hội và thế giới”).
Sau khi đảm bảo tối hậu với ân ban Chúa Thánh Thần, Chúa Giê-su hứa Ngài để lại cho các môn đệ sự bình an của Ngài, hay lời từ biệt (“shalom”) của Ngài: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy” (14: 27a). Thật là mâu thuẩn biết bao, “bình an” được công bố bởi một người sắp phải đối mặt với những xao xuyến tận mức. Tuy nhiên, Chúa Giê-su xác định bình an mà Ngài ban cho các môn đệ không theo kiểu thế gian (14: 27b), nhưng là bình an của Ngài, đó là sự bình an được đảm bảo ở nơi việc trao ban Chúa Thánh Thần vào buổi chiều Phục Sinh khi mà Chúa Giê-su nói: “Bình an cho anh em. Hãy đón nhận Chúa Thánh Thần” (Ga 20: 21-22). Đây là bình an nội tâm, xuất phát từ tình sâu nghĩa nặng của Ngài với Cha Ngài. Chính từ mối tâm giao này mà Chúa Giê-su trao ban bình an cho các môn đệ Ngài, bình an mà Ngài đã đạt được sau khi đã vâng phục tận mức tình yêu của Chúa Cha đối với nhân loại cho đến bằng lòng chịu chết để trở nên nguồn sống cho nhân loại. Vì thế, sự bình an này không thể làm cho các môn đệ xao xuyến khi Chúa Giê-su trở về với Chúa Cha, bởi vì chỉ sau khi Ngài trở về Chúa Cha, tức việc Ngài được tôn vinh, lúc đó Ngài mới có thể trao ban cho các môn đệ sự bình an đích thật của Thiên Chúa, tức là Chúa Thánh Thần. Đây là lời chứng gây xúc động nhất, như lời của thánh Phao-lô trong thư gởi cho các tín hữu Phi-líp-phê: “bình an của Thiên Chúa vượt lên trên mọi hiểu biết” (Pl 4: 7).
Vì thế, Chúa Giê-su mời gọi các môn đệ “Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha” (14: 28b). Đây cũng thật nghịch lý biết mấy, niềm vui mà Ngài mời gọi các môn đệ Ngài, những người sắp phải tuyệt vọng tận mức khi chứng kiến cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Ngài, lại là niềm vui được định vị ở trung tâm lập luận: vui vì sau khi Chúa Giê-su trở về cùng Chúa Cha, Ngài sẽ hiện diện với các môn đệ theo cách thế hiện diện mới của Ngài trong quyền năng của Chúa Thánh Thần, một sự hiện diện mật thiết đến độ không một không gian và thời gian nào có thể ngăn cản Ngài hiện diện với các môn đệ.
Nhưng Chúa Giê-su biết rõ rằng vào lúc này niềm vui hiện ở ngoài tầm tay của các môn đệ Ngài; vì thế để khích lệ họ, Ngài lập lại lời hứa Ngài sẽ trở lại: “Anh em đã nghe Thầy bảo: ‘Thầy ra đi và đến cùng anh em’”. Ngài sẽ nhắc lại lời hứa này một ít lâu sau đó: “Bây giờ anh em lo buồn, nhưng Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em; không ai lấy mất được” (Ga 16: 22).
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
Trong bối cảnh bữa ăn cuối cùng với các môn đệ, Chúa Giêsu dặn dò họ rất nhiều lời tâm huyết. Bài Tin mừng tuần trước Ngài dạy các ông điều răn mới, đó là “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (x. Ga 13,34). Chúa nhật tuần này, Chúa Giêsu nói tới hiệu quả của việc tuân giữ Lời Ngài và vai trò của Chúa Thánh Thần trong Giáo hội cũng như nơi mỗi người kitô hữu chúng ta.
Yêu mến Thiên Chúa là bổn phận của con người, cách riêng là của những người Kitô hữu. Có nhiều cách để thể hiện lòng yêu mến đó. Nhưng có một cách được Chúa Giêsu nhắc đến trong đoạn Tin mừng ngày hôm nay, đó là “Giữ lời Chúa”. Ngài nói: “Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy” (x. Ga 14, 23).
Lời Chúa ở đâu? Lời Chúa ở trong cuốn Kinh Thánh, đặc biệt ở trong các sách Tin mừng. Lời Chúa còn được các Tông đồ, các Giáo phụ truyền lại cho chúng ta qua Thánh Truyền, được cụ thể hoá nơi Giáo Huấn của Hội Thánh và các cử hành Phụng vụ. Vì vậy, khi chúng ta đọc, suy gẫm và sống Lời Chúa là chúng ta đã tỏ lòng yêu mến Chúa. Khi chúng ta tuân giữ giáo huấn của Giáo hội, qua Thánh truyền, qua các Đức Giáo Hoàng, các giám mục là chúng ta yêu mến Chúa. Khi chúng ta sốt sắng cử hành các phụng vụ của Giáo hội, qua các Bí tích và các Á Bí tích là chúng ta yêu mến Chúa. Ngoài ra, khi chúng ta biết sống công bằng, bác ái, yêu thương…Là chúng ta cũng đang yêu mến Chúa. Bởi vì, những lúc đó chúng ta đang tuân giữ Lời của Ngài.
Giữ Lời Chúa không những chứng minh chúng ta là kẻ yêu mến Chúa mà còn đem đến cho chúng ta nhiều hiệu quả khác nữa.
Thứ nhất, được Chúa Cha yêu mến. Thật ra, từ đời đời Chúa cha đã yêu thương chúng ta rồi. Vì yêu thương ta, nên Ngài đã dựng nên ta. Vì yêu thương ta, nên Ngài đã sai Con Một xuống thế làm người để cứu chuộc ta. Đó là tình yêu phổ quát mà Chúa Cha dành riêng cho hết mọi người. Còn những người tuân giữ Lời của Chúa Con thì Chúa Cha sẽ yêu mến cách riêng. Chúa Giêsu đã nói: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ được Cha Thầy yêu mến”. Đây là một lời hứa đầy an ủi và vui sướng Bởi vì, không còn gì an ủi và vui sướng cho bằng được Chúa Cha yêu mến cách riêng như vậy.
Thứ hai, khi chúng ta tuân giữ Lời Chúa không những được Chúa Cha yêu mến mà còn được Chúa Cha và Chúa Con đến và ở trong chúng ta. Chúa Giêsu đã nói: “Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy”. Thật vậy, ngày lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, thân xác và tâm hồn chúng ta đã trở thành đền thờ của Chúa Thánh Thần. Nếu chúng ta giữ trọn lời thề hứa trong ngày đó, thì Chúa Thánh Thần luôn ở với chúng ta. Nhưng vì bản tính con người yếu đuối, dễ bị sa ngã phạm tội. Cho nên, mỗi khi chúng ta sa ngã phạm tội trọng, tức là chúng ta không giữ Lời Chúa, thì thân xác chúng ta không còn là đền thờ của Chúa Thánh Thần nữa. Nhưng nếu chúng ta biết thống hối ăn năn và lãnh nhận Bí tích Giao hoà thì Chúa Thánh Thần lại tiếp tục ngự vào tâm hồn chúng ta và ở lại với chúng ta. Không những chỉ có Chúa Thánh Thần mà còn có cả Chúa Cha và Chúa Con. Như vậy, thân xác và tâm hồn chúng ta lại trở nên đền thờ của Chúa Ba Ngôi ngự trị. Thánh Phaolô đã từng nói: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?” (1Cor 3, 16). Đền thờ của Thiên Chúa thì quý giá hơn gấp trăm ngàn lần các đền thờ vật chất. Đền thờ vật chất có to lớn đến mấy, có nguy nga lộng lẫy đến mấy thì cũng do con người làm nên và sẽ tàn phai theo năm tháng. Còn đền thờ Thiên Chúa là tâm hồn chúng ta do chính Thiên Chúa tạo dựng, giống hình ảnh Ngài sẽ tồn tại mãi trên Thiên Đàng.
Như vậy, khi chúng ta giữ Lời Chúa không những chúng ta được chứng thực lòng yêu mến của chúng ta đối với Chúa Giêsu, mà còn được Chúa Cha yêu mến và Ba Ngôi Thiên Chúa đến ở lại với chúng ta. Ngài trở thành người nhà của chúng ta. Đó cũng là lý do mà chúng ta được gọi là Kitô hữu. Kitô hữu là người có Chúa, là người mang Chúa trong mình. Vậy, dù trong hoàn cảnh nào chúng ta cũng hãy tuân giữ Lời Chúa.
Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa Ngôi Ba. Nhiệm vụ của Ngài là thánh hoá. Nhưng Ngài cùng hiện diện với Chúa Cha trong việc sáng tạo. Ngài hiện diện với Chúa Giêsu trong chương trình cứu chuộc. Phúc âm cho chúng ta thấy: Ngài hiện diện khi Chúa Giêsu chịu Phép rửa tại sông Giođan (x. Mt 3,16; Mc 1,10; Lc 3,22); Ngài hiện diện trong ngày lễ Ngũ Tuần (x. Cv 2,3)… Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nhắc đến vai trò của Chúa Thánh Thần: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14,26). Đúng vậy, Chúa Thánh Thần đã dạy và làm nơi các Tông đồ thật nhiều điều: Ngài biến đổi họ từ những con người nhát đảm sợ sệt, trở thành những con người can đảm khác thường; Ngài giúp họ nhớ lại những gì Chúa Giêsu đã nói và đã làm; Ngài giúp Thánh Phêrô và các Tông đồ giảng dạy Lời của Chúa Giêsu; Đặc biệt, Ngài linh hứng cho các thánh ký ghi chép Tin mừng.
Không những thế, trong bài đọc I, sách Công vụ Tông đồ cho chúng ta biết, vai trò của Chúa Thánh Thần trong các quyết định quan trọng của Giáo hội sơ khai: “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết này: Là kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết, và tránh gian dâm. Anh em cẩn thận tránh những điều đó là tốt rồi” (x. Cv 15, 28-29). Cụm từ “Thánh Thần và chúng tôi quyết định” nói lên tất cả vai trò của Chúa Thánh Thần.
Từ đó cho đến nay và mãi tới tận thế, vai trò của Chúa Thánh Thần trong Hội Thánh và nơi mỗi người Kitô hữu vẫn không thay đổi. Ngài vẫn tiếp tục dạy cho Giáo hội và chúng ta biết mọi điều về Chúa Giêsu. Ngài tiếp tục làm cho Giáo Hội và chúng ta nhớ lại những gì Chúa Giêsu đã nói và đã làm. Vì vậy, chúng ta hãy năng kêu cầu Chúa Thánh Thần trong các giờ kinh nguyện và mọi sinh hoạt hằng ngày. Đọc và suy gẫm Lời Chúa dưới sự linh hứng của Ngài. Đồng thời, xin Ngài ban ơn soi sáng để chúng ta biết làm lành lánh dữ. Để chúng ta được thấy và được ở trong “Kinh Thành muôn thuở” mà thánh Gioan đã miêu tả trong đoạn sách Khải Huyền chúng ta nghe trong bài đọc II hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đưa ra một tiêu chuẩn làm thước đo để biết ai yêu mến Chúa, đó là “Giữ Lời Chúa”. Tuy vậy, con người qua mọi thời đại cố tình lẫn tránh lời mời gọi này của Chúa. Đó cũng là thái độ của rất nhiều người trong chúng con. Xin giúp mỗi người chúng con từ nay biết quyết tâm yêu mến Chúa bằng cách tuân giữ Lời của Chúa. Đồng thời, xin cho chúng con luôn sống dưới sự che chở và hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Amen.
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Một ngày nọ, một Linh mục kia đang nằm trị tại Bệnh Viện, có một chị giáo dân đến nói với Ngài rằng: “Thưa Cha, Cha bệnh tình của Cha có đỡ không, chứ con nằm trị bệnh đây lâu rồi mà bệnh tình chẳng bớt gì cả. Con buồn lắm Cha ơi, con cầu nguyện xin Chúa mãi mà Chúa chẳng cho con hết bệnh. Con lo sợ quá vì nếu bệnh con mà không hết thì mai mốt có hết không, không hết thì khốn khổ lắm! Con cũng đi hết bác sĩ từ nam chí bắc, rồi cũng uống hết thuốc từ thuốc bắc, thuốc nam, rồi tây y, con thấy nó chẳng bớt gì hết, nhiều khi con muốn tự tử chết cho rồi”. Vị linh mục ấy nói: “Chị ơi, thứ nhất chị là người Công giáo, theo Chúa mà chẳng tin vào lòng thương xót của Chúa tý nào, mà không có đức tin thì làm sao Chúa ban ơn được. Chị nhớ không trang Tin Mừng Mác-cô kể rằng: “Có một bà kia bị băng huyết đã mười hai năm, bao phen khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc đã nhiều đến tán gia bại sản, mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là khác. Được nghe đồn về Đức Giê-su, bà lách qua đám đông, tiến đến phía sau Người, và sờ vào áo của Người. Vì bà tự nhủ: “Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ được cứu.” Tức khắc, máu cầm lại, và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. Người nói với bà ta: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh” (Mc 5,25-30.31). Thứ hai, chị có bình an của Chúa phục sinh nhưng không tín thác vào Chúa trong gian nan thử thách bệnh hoạn ốm đau, không bình an đón nhận Thánh ý của Chúa trong tin tưởng và hy vọng cho nên chị còn sợ hãi, còn mặc cảm, tự ti, tự kỷ và tự tử là vậy.
Chúa Giêsu hôm nay nói “Thầy để lại bình an cho anh em. Anh em đừng xoa xuyến cũng đừng sợ hãi vì Thầy đã thắng thế gian”. Bình an của Chúa ban” không phải thứ bình an của thế gian mà là bình an của Lòng Thương Xót. Qủa thế, ngay trong đêm Ngôi Hai Thiên Chúa làm người, Chúa đã đem đến cho nhân loại món quà đầu tiên là bình an, mà các Thiên Thần đã ca ngợi: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”. Hôm nay, sau khi Phục sinh, Chúa Giêsu hiện ra và trao ban bình an cho các môn đệ khi xưa và cho chúng ta hôm nay nữa mỗi khi lãnh nhận trong Phép Rửa, các Bí tích và lúc ta Rước Lễ. Bình an đó chính là Chúa Giêsu, Người đã vâng phục thánh ý Chúa Cha để chịu khổ nạn, chịu chết đền tội thay cho nhân loại và sống lại để cho con người sống dồi dào trong bình an của Ngài.
Bình an của Chúa Giêsu ban không như kiểu bình an của thế gian vì bình an của thế gian rất mong manh, dễ tan biến. Chẳng hạn, hệ thống an ninh của Mỹ phải nói là tiến bộ nhất thế giới, hệ thống camera ở đường phố hay ở nơi công cộng ghi hình rất rõ con kiến bò dưới đất cũng biết được con đực hay con cái. Như vậy quá an toàn, tuyệt đối bình an cho người dân chứ gì! Còn chỗ nào an bình như Nước Mỹ! Ấy thế mà ngày 15-4-2013 vụ đánh bom khủng bố ở Boston là thủ đô của tiểu bang Massachusetts của Mỹ làm 3 người thiệt mạng, 824 bị thương tật vĩnh viễn do một vụ nỗ bom tự chế này mọi công dân Mỹ hết lòng lo sợ, bất an và hoan mang.
Còn bình an của Chúa Giêsu hôm nay ban cho chúng ta hoàn toàn trái ngược với cách thức của con người, bình an trong những tình huống bất an. Cụ thể, Bài Tin Mừng kể Chúa Giêsu ban bình an cho các môn đệ trong bữa tiệc ly, chuẩn bị chia tay với các môn đệ đi chịu nạn chịu chết. Như thế, nguyên nhân khiến các ông sợ hãi bất an vì không còn thấy sự hiện diện bằng thể lý của Đức Giêsu. Chính trong lúc không còn thấy Chúa thể xác này nhưng mà tin vào Lời Chúa, thì lúc đó các ông mới cảm nhận sự bình an Đức Giêsu ban cho. Nói như Thánh Phaolô “Bình an của Thiên Chúa là bình an không ai hiểu thấu”. Bình an Đức Giêsu ban đó là bất chấp sự đe dọa bên ngoài. Bình an Đức Giêsu ban sâu lắng nhưng rất mãnh liệt và bền đỗ, nó làm cho chúng ta bình an thật sự dù có cuộc đời ta gặp đau khổ đắng cay nghiệt ngã, nhưng ta vẫn bình an vui sống trong tình hiệp thông với Chúa và mọi người. Cho nên, Phaolô khi bị gian truân thử thách đã xác quyết rằng: “Chúng tôi bị dồn ép tư bề nhưng không bị đè bẹp; hoang mang nhưng không tuyệt vọng; bị ngược đãi nhưng không bị bỏ rơi, bị quật ngã nhưng không tiêu diệt”.
Đứng trước những thách đố của cuộc sống: cơm áo gạo tiền, bệnh hoạn tật nguyền, hay khủng bố chiến tranh, động đất thiên tai hay tệ nạn xã hội lan tràn khắp nơi… Chúng ta ngồi đó than thân trách phận, hay chạy đôn đáo tìm đủ thứ bình an của thế mà quên bẵng tìm đến bình an của lòng thương xót Chúa và Lời Chúa là chính nguồn bình an giúp chúng vượt lên chính mình, can đảm sống theo thánh ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, biết yêu thương chính mình và hết mọi người. Cho nên, bao lâu chúng ta còn sống trong tội lỗi, trong sự thù địch với Chúa và với tha nhân thì chúng ta không có bình an cho nên còn băn khoăn, lo lắng, còn mặc cảm, than trời trách đất, tự ti và tự tử và không thương xót chính mình và tha nhân. Chúa Giêsu Thánh Thể hoàng tử bình an và là chính sự bình an nội tâm mà Thiên Chúa tặng cho chúng ta từng giây từng phút trong đời sống chúng ta. Vì thế, chúng ta phải biết trân trọng đón lấy Chúa Giêsu Thánh Thể và Lời của Ngài đồng thời nỗ lực cộng tác với Chúa để kiến tạo bình an cho bản thân mình và mọi người sống chung quanh ta bằng việc thương xót bản thân mình và tha nhân như Chúa thương xót ta.
Trong bài Giảng của Thánh Lễ Chúa Nhật Kính Lòng Thương Xót ngày 03.04.2016, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô nói rằng: “Sự bình an của Chúa Giêsu là sự bình an đến từ con tim của Đấng Phục Sinh; đó là sự bình an đã vượt thắng tội lỗi, sự chết và sự sợ hãi. Đó là sự bình an không chia tách nhưng hiệp nhất; đó là sự bình an không để cho người ta phải cô đơn, nhưng làm cho chúng ta cảm nhận được rằng, chúng ta đang được đón nhận và đang được yêu thương“.
Vậy, ước gì sau mỗi lần chúng ta lãnh nhận các Bí Tích nhất là bí tích Thánh Thể, chúng ta thật sự được dồi dào bình an của Chúa trong tâm hồn của mỗi người chúng ta. Nhờ sự bình an ấy mà chúng ta sẽ thanh thản, yên tâm, vui vẻ tín thác vào Chúa mà sống ở đời này dù có gặp phải những túng cực và khổ đau nhất trong đời để mai sau cùng Phục sinh vinh hiển với Ngài. Và sau nhất là sau mỗi thánh lễ, chúng ta hãy quyết tâm là người bình an của Chúa qua việc sống Lời Chúa, từ bỏ tội lỗi, sống yêu thương, tha thứ, cảm thông, chia sẻ và quan tâm đền chính mình và với nhau nhau trong cuộc sống. Amen.
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Trong bài diễn từ tiễn biệt rất dài (từ cuối chương 13 cho tới hết chương 17 của Phúc âm Gioan) Đức Giêsu đã mất nhiều công sức để chấn an các môn đệ Người; chắc hẳn lúc đó các ông đang trong rơi vào tình trạng rất bồn chồn lo lắng, tương tự như một nhóm học sinh gần tới ngày ra trường phải ôn thi: các ông mong ghi nhớ hết mọi lời Thầy dạy, nhớ tới từng chi tiết, nhưng lại có nguy cơ quên mất điểu hệ trọng chính yếu nhất; và điều chính yếu đó không phải là những bài học từ chương về các điều Thầy dạy dỗ, nhưng là bộc lộ bản chất đích thực của Thầy Giêsu – Lời tối hậu của Thiên Chúa. Việc bộc lộ này rõ ràng chỉ dành cho các môn đệ là những người thâm tín đã theo Thầy suốt bằng ấy năm: “Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian?” Nếu nắm bắt được nội dung lời trăn trối này, chúng ta sẽ có cơ may thấu hiểu được cái cỗi lõi của niềm tin Ki-tô hữu chăng?
Nắm giữ Lời là điều tối quan trọng trong việc duy trì tương quan với Thầy Giêsu, kể cả khi Người đã ra đi: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ Lời Thầy…Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy”. Lời đó chắc chắn không chỉ đơn thuần là các bài thuyết giảng mà Người đã từng tuyên giáo trên khắp các nẻo đường xứ Ga-li-lê và Giu-đê trong ròng rã ba năm trời; trong số đó có những bài thật ý nhị và độc đáo, chẳng hạn bài bàn về các mối phúc hay các câu chuyện dụ ngôn…; thế nhưng, cho dầu có tuân giữ được mọi lời Ráp-bi Giêsu giảng dạy đi nữa, thì điều đó cũng đâu có thể làm cho “Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”. Lời đây hẳn là một điều gì rất đặc biệt mà Người đã từng khảng định: “không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy”. Lời mà Người nhân danh Chúa Cha đến trần gian để nói lên cho bằng được, và chỉ có thể nói cho các môn đệ thâm tín nhất là những kẻ đã tin theo Người mà thôi.
Tuy nhiên Lời này sẽ không hề dễ hiểu, ngay cả đối với các môn đệ! Hồi đó, cho tới lúc Thầy Giêsu sắp ra đi, các môn đệ vẫn luôn cảm thấy khó chấp nhận bài học này: mỗi lần Thầy Giêsu đề cập tới sự tự hiến Thập Giá và đau khổ mà Người sẽ phải chịu tại Giê-ru-sa-lem, không một ai trong số họ không lớn tiếng phản đối, can ngăn. Nhất là khi Người khảng định: ai nhìn thấy Thầy tự hiến là nhìn thấy Chúa Cha, nhìn thấy vinh quang đích thực của Cha… thì không một môn đệ nào có thể hiểu nổi (xem Ga 14:8-11). Đức Giêsu biết rất rõ điều đó; cần phải có một can thiệp đặc biệt, can thiệp của Thần Khí; các môn đệ cần tới một đấng Bảo Trợ, Đấng “sẽ được sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em”. Phải, để hiểu được Lời của Giêsu Thập Giá, hiểu được Tình Yêu tự hiến và cứu đô của Thiên Chúa, dứt khoát cần tới sự can thiệp của Thánh Thần. Người thường thì chỉ có thể hiểu được các lời khuyên dạy, các câu chuyện dụ ngôn, các lời dạy dỗ đầy khôn ngoan từ miệng Ráp-bi Giêsu phán ra, nhưng để hiểu chính con người và hành động của Giêsu Ki-tô là Lời của Thiên Chúa, nhất là khi Lời đó được vang lên, không phải trên bục giảng mà là trên Thập Giá, thì trí khôn con người, cho dầu có xuất chúng tới mấy đi nữa (kể cả bộ óc kỳ tài như Albert Einstein chẳng hạn), cũng không thể nào nắm bắt được.
Ồ, thật vậy sao? Ngay cả một Linh mục lớn tuổi như tôi mà vẫn cứ đinh ninh rằng: để hiểu và giữ lời Chúa thì chỉ cần một chút thông minh, một chút thiện chí; và thông minh – thiện chí cũng là điều tôi vẫn thường lớn tiếng đòi kêu gọi anh chị em tín hữu phải có. Có lẽ chính vì thế mà, cho tới giờ này, tôi có thấu hiểu gì về Lời Tình Yêu – Thập Giá đâu… và các giáo hữu nghe tôi giảng có lẽ cũng chẳng hiểu được gì hơn! Tôi chăm chú suy tư, lo đọn bài giảng hơn là dành thời giờ cầu nguyện, lo trình bày cho khôn khéo hơn là tin tưởng vào tác động của Đấng Bảo Trợ đang ngự trong tâm hồn các tín hữu; trên tòa giảng, tôi lo tạo ấn tượng trên các thính giả của mình, hơn là tìm cách đóng trên họ dấu ấn của Thần Khí.
Và dấu ấn của Lời đó trong Thần Khí thì thật rõ ràng: “Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi… Thầy để lại bình an cho anh em… Thầy ban cho anh em bình an của Thầy”. Lời Thầy Giêsu – Lời Thiên Chúa xót thương không bao giờ là lời đe dọa; Lời đó không tạo áp lực ép buộc, cũng chẳng tạo căng thẳng lo âu! Lời Thầy Giêsu sẽ luôn lan tỏa an bình, thư thái cho cả những tâm hồn đã phạm phải những tội tầy trời nhất; “Ta không kết án, hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa!” Nếu vậy, tôi – một linh mục của Đức Ki-tô có thật sự mang Lời bình an này tới tâm hồn mọi tín hữu, nhất là những tâm hồn chìm đắm trong tội lỗi đang rất cần tới Lời an ủi hơn bất cứ điều gì khác? Và để làm được điều đó: không một ai khác có thể giúp tôi, hơn là Thánh Thần, Đấng ủi an.
Lạy Chúa Giêsu là Lời đích thực của Thiên Chúa Cha giầu lòng xót thương, xin đổ Thần Khí xuống trên con, để con hiểu được Lời Tình Yêu, nhất là mỗi khi con cử hành Thánh Lễ. Nếu chính con chưa một lần hiểu và giữ được Lời Tình Yêu đích thực, nhất là qua biểu lộ của Thánh Thể – Thập Giá, thì làm sao con có thể mở miệng loan truyền Lời Chúa cho anh chị em tín hữu? Có thể con đã giảng lời Giêsu quá nhiều, nhưng đã giảng Lời-Chúa quá ít. Xin chỉnh đốn tình trạng thiếu xót trầm trọng này nơi con! Xin đổ tràn ngập tâm hồn con thứ bình an độc đáo của Chúa, phát xuất từ cảm nghiệm bản thân về lòng Chúa Xót Thương, để con – linh mục của Chúa cũng có thể loan báo và thông truyền Tin Mừng đầy an ủi này cho mọi người, nhất là cho các tội nhân bất hạnh và bị đọa đầy. Amen.
“Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy”.
Trong cuộc sống, người ta thường dùng những hành động cụ thể để nói lên mức độ của lòng yêu mến. Chỉ cần nhìn thấy những người mẹ hy sinh nhịn đói, chịu khó để lo cho con cái được ấm no, được ăn học thành tài, là mọi người cũng hiểu được tình thương như trời bể, mà các bậc cha mẹ đã dành cho con mình. Vì thế, Thánh Augustinô còn nói: “Mức độ của tình yêu là yêu không mức độ”.
Hiểu như vậy, tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa cũng cần được biểu thị bằng một dấu chỉ, hay bằng một hành động thật cụ thể. Dấu chỉ đó Đức Giêsu muốn chúng ta chính là sự vâng giữ lời của Người, cụ thể là chúng ta đã nghe: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy…”. Yêu mến Chúa, là trở nên giống Chúa, là tuân giữ lời Chúa, là làm theo điều Chúa muốn, và Chúa còn muốn mỗi người chúng ta phải hành động yêu thương thật sự cụ thể trong cuộc sống hằng ngày.
Trong Cựu ước, tác giả sách Thánh vịnh 119 viết rằng: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119, 105). Thật vậy, Lời Chúa là chân lý, là ánh sáng, là sự thật, bởi vì, Lời Chúa chứa đựng đạo lý và chứa đựng thánh ý của Thiên Chúa. Vì thế ở lại trong Lời Chúa chính là lắng nghe Lời Chúa và sống theo ý Chúa.
Con người chỉ là một tạo vật được Thiên Chúa dựng nên. Một tạo vật chỉ có giá trị khi thực hiện theo ý của người tạo ra nó. Đời sống con người chỉ có ý nghĩa khi sống theo ý muốn của Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên mình. Đó là sống theo bản vẽ mà Thiên Chúa đã thiết kế cho cuộc đời của mỗi người. Chính vậy, con người chỉ đạt được tự do đích thực là đón nhận ý Chúa và thi hành ý Chúa mỗi ngày. Chạy theo ý riêng của mình đồng nghĩa với việc đánh mất ý nghĩa của cuộc đời mình.
Lời Chúa cho mỗi người chúng ta biết sự thật về chính bản thân mình, biết sự thật và cùng đích về con người và cùng đích của cuộc đời. Biết sự thật về mình là biết những giới hạn yếu đuối, biết về thân phận nô lệ tội lỗi của mình để rồi hoán cải và trở nên hoàn thiện như “Cha trên trời là Đấng hoàn thiện”. Biết sự thật về con người là biết mình lệ thuộc vào Thiên Chúa, ý nghĩa và cùng đích của đời mình là con người được dựng nên để sống cho Thiên Chúa, phụng sự Thiên Chúa và yêu mến Thiên Chúa. Biết sự thật còn là biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa đã xuống trần gian để giải thoát con người khỏi tội lỗi, cho con người được tham dự vào sự sống thân linh của Thiên Chúa. Nhận biết Đức Giêu là Thiên Chúa để đến với Ngài, tin Ngài và đi theo Ngài.
Ở lại trong Lời Chúa là sự kiện tiên quyết xác định ý nghĩa cuộc sống của người thuộc về Chúa. Lẽ sống của người theo Chúa, của người môn đệ Chúa cần phải biết ý Chúa, thi hành ý Chúa như người “đầy tớ làm theo ý người chủ của mình”. Đó là người lắng nghe tiếng Chúa và nhận biết ý Chúa trong những sự kiện, những biến cố. Đó là tìm kiếm sự thật ẩn tàng trong Lời Chúa, suy gẫm những gì Chúa nói và nhận ra ý nghĩa của Lời Chúa được sáng tỏ trong cuộc sống hằng ngày. Như thế, việc nghe Lời Chúa và thi hành ý Chúa mới thông hiểu được sự thật và sống trong tự do.
Vì vậy, sống theo ý Chúa thì con người không còn sợ hãi, vì khi làm bất cứ việc gì thì có Chúa cùng thực hiện, khi chọn Chúa là chủ của mình, chúng ta không còn bị dính bén bởi những tạo vật, không bị nô lệ bởi những đam mê bất chính. Sống theo ý Chúa còn là mình để chọn Chúa. Đó là bỏ đi cái tôi ích kỷ sống yêu thương, bỏ đi cái tôi danh vọng để khiêm tốn để chấp nhận mình và đón nhận người khác, bỏ đi cái tôi hưởng thụ để hy sinh để phục vụ. Hơn nữa, sống theo ý Chúa thì không sợ những dư luận của người đời, không bị chi phối bởi khen chê, được mất, sướng khổ và sống chết.
Nhìn lại cuộc sống thường ngày, chúng ta sẽ thấy có một điều hết sức tự nhiên, đó là khi yêu mến ai, chúng ta thường cố gắng bằng mọi cách để làm vui lòng người đó. Và một trong những cách chúng ta thường thực hiện để làm vui lòng người mình yêu mến, đó là cố gắng nhanh chóng thực hiện mọi ý muốn của người đó. Cứ quan sát các một đôi bạn trẻ đang yêu nhau, chúng ta thấy họ luôn muốn làm đẹp lòng nhau, họ luôn để ý đến nhau, chỉ cần phát hiện một ánh mắt, một cái nhíu mày, một cử chỉ, hay một ý muốn nào đó của người này, thì lập tức người kia sẽ cố gắng thực hiện cho bằng được. Như vậy, một đứa con không thể nói rằng nó yêu cha mến mẹ, mà nó cứ luôn làm cho cha mẹ nó buồn, luôn làm những điều mà cha mẹ nó không muốn; cũng không thể có một người chồng luôn miệng nói với vợ rằng anh yêu em, mà ngày nào cũng đánh vợ, rượu chè say sưa; cũng không thể có một người vợ nói với chồng là em yêu anh, rồi hằng ngày cứ bỏ bê nhà cửa, bỏ chồng con… Quả thật, những người như vậy nói yêu mà chẳng có hành động yêu một chút nào hết.
Hiểu được như vậy, thì chúng ta cũng hiểu được việc tuân giữ lời Chúa của chúng ta chính là dấu chỉ rõ ràng nhất, để chúng ta chứng tỏ lòng yêu mến của mình đối với Thiên Chúa. Càng yêu mến Thiên Chúa nhiều, chúng ta sẽ càng cố gắng thực hiện những điều Ngài muốn. Hơn nữa, khi yêu mến và giữ lời, chúng ta còn được vinh dự đón tiếp cả Ba Ngôi đến ngự trong tâm hồn của chúng ta nữa: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy”. Và nếu có cả Ba Ngôi Thiên Chúa ở trong chúng ta, thì mỗi người chúng ta thật sự xứng đáng là đền thờ của Thiên Chúa, một đền thờ thiêng liêng, một đền thờ thánh thiện, tốt đẹp, và là một đền thờ yêu thương luôn thể hiện tình yêu Thiên Chúa đến với mọi người.
Chúng ta hãy can đảm sống theo lời dạy của Chúa với tất cả niềm tín thác, niềm cậy trông, tình yêu mến.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa chính là con đường vì Chúa dẫn đưa con đến với Thiên Chúa. Chúa là sự thật vì Chúa chỉ cho con biết Thiên Chúa và thánh ý của Thiên Chúa. Chúa là sự sống vì Chúa giải thoát con khỏi tội lỗi và ban cho con sự sống viên mãn. Xin cho chúng con biết nhận ra sự hiện diện của Chúa, biết nghe tiếng Chúa và ở lại trong Lời của Chúa để mỗi ngày con được sống trong sự thật và ở trong tình yêu Thiên Chúa. Amen.
Đức Giêsu nói: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy”.
Thông thường trong cuộc sống, chúng ta hay sử dụng lời nói để diễn tả những suy nghĩ, những tâm tư tình cảm của mình đối với người khác. Tuy nhiên, trong rất nhiều trường hợp, lời nói cũng không thể diễn tả cách trọn vẹn được suy nghĩ của chúng ta. Do đó, chúng ta lại dùng những cử chỉ khác như nét mặt, ánh mắt,… để diễn tả những điều chúng ta muốn nói. Chẳng hạn như chúng ta thường biểu lộ niềm vui bằng tiếng cười, biểu lộ nỗi buồn bằng tiếng khóc, hay biểu lộ nỗi mệt nhọc bằng những tiếng thở than…Chính vì thế khi nghe thấy những tiếng khóc, tiếng cười, tiếng than thở đó, thì cho dù người đó không nói ra, thì người khác cũng phần nào hiểu được nỗi lòng của người thốt ra những tiếng đó. Đối với tình yêu cũng vậy, người ta không thể dùng những con số, hay những kiểu nói ước lượng, như kiểu nói “Tôi yêu anh chừng một ký, hay một tấn”, hoặc là nói: “Tôi mến anh dài 100 cây số” được. Nhưng khi muốn diễn tả tình yêu, người ta thường dùng những hành động cụ thể để nói lên mức độ yêu mến của mình. Chỉ cần nhìn cảnh những người cha sẵn sàng thức khuya, dậy sớm ra đồng làm viêc; nhìn thấy những người mẹ chấp nhận hy sinh nhịn đói, chịu khó để lo cho con cái được ấm no, được ăn học, được thành tài, là mọi người cũng hiểu được tình thương như trời bể, mà các bậc cha mẹ đã dành cho con mình. Vì thế, Thánh Augustinô còn nói: “Mức độ của tình yêu là yêu không mức độ”.
Hiểu như vậy, tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa cũng cần được biểu thị bằng một dấu chỉ, hay bằng một hành động thật cụ thể. Dấu chỉ đó Chúa Giêsu muốn chúng ta chính là sự vâng giữ lời của Người, cụ thể là chúng ta đã nghe trong bài Tin mừng: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy…”. Yêu mến Chúa, là trở nên giống Chúa, là tuân giữ lời Chúa, là làm theo điều Chúa muốn, và Chúa còn muốn mỗi người chúng ta phải hành động yêu thương thật sự cụ thể trong cuộc sống hằng ngày. Nhìn lại cuộc sống thường ngày, chúng ta sẽ thấy có một điều hết sức tự nhiên, đó là khi yêu mến ai, chúng ta thường cố gắng bằng mọi cách để làm vui lòng người đó. Và một trong những cách chúng ta thường thực hiện để làm vui lòng người mình yêu mến, đó là cố gắng nhanh chóng thực hiện mọi ý muốn của người đó. Cứ quan sát các một đôi bạn trẻ đang yêu nhau, chúng ta thấy họ luôn muốn làm đẹp lòng nhau, họ luôn để ý đến nhau, chỉ cần phát hiện một ánh mắt, một cái nhíu mày, một cử chỉ, hay một ý muốn nào đó của người này, thì lập tức người kia sẽ cố gắng thực hiện cho bằng được. Như vậy, một đứa con không thể nói rằng nó yêu cha mến mẹ, mà nó cứ luôn làm cho cha mẹ nó buồn, luôn làm những điều mà cha mẹ nó không muốn; cũng không thể có một người chồng luôn miệng nói với vợ rằng anh yêu em, mà ngày nào cũng đánh vợ, rồi chửi mắng vợ, rượu chè say sưa, nhục mạ vợ mình; cũng không thể có một người vợ nói với chồng là em yêu anh, rồi hằng ngày cứ bỏ bê nhà cửa, bỏ chồng, bỏ con, rồi đi nói xấu chồng, còn muốn bỏ chồng nữa. Hay là trong anh chị em chúng ta, không thể có người nói: tôi mến anh chị lắm, tôi thông cảm với anh chị lắm, tôi ngưỡng mộ anh chị lắm, rồi sau đó đi nói xấu, chê bai, khinh dễ, người đó được. Quả thật, những người như vậy nói yêu mà chẳng có hành động yêu một chút nào hết.
Hiểu được như vậy, thì chúng ta cũng hiểu được việc tuân giữ lời Chúa của chúng ta chính là dấu chỉ rõ ràng nhất, để chúng ta chứng tỏ lòng yêu mến của mình đối với Thiên Chúa. Càng yêu mến Thiên Chúa nhiều, chúng ta sẽ càng cố gắng thực hiện những điều Ngài muốn. Một lần nữa, chúng ta nghe lại lời khẳng định của Chúa Giêsu trong bài Phúc âm hôm nay là: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy”. Thế nên, yêu mến và giữ lời, thì chúng ta đã và đang thực hiện rồi đó, nhưng làm như thế thì Chúa còn ban cho chúng ta một ân huệ đặc biệt nữa, đó là: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy”. Như vậy, chúng ta còn được Chúa Cha yêu mến vì chúng ta đã tuân giữ lời Đức Giêsu, và không chỉ được Chúa Cha yêu mến, chúng ta còn được vinh dự đón tiếp cả Ba Ngôi đến ngự trong tâm hồn của chúng ta nữa. Và nếu có cả Ba Ngôi Thiên Chúa ở trong chúng ta, thì mỗi người chúng ta thật sự xứng đáng là đền thờ của Thiên Chúa, một đền thờ thiêng liêng, một đền thờ thánh thiện, tốt đẹp, và là một đền thờ yêu thương luôn thể hiện tình yêu Thiên Chúa đến với mọi người.
Lắng nghe lời Chúa trong bối cảnh của xã hội hôm nay, một xã hội thực dụng, đánh giá mọi sự dựa theo những giá trị vật chất trước mắt, chắc chắn là không dễ dàng gì. Tuy nhiên, để xứng đáng là người môn đệ của Chúa, và nhất là để minh chứng lòng yêu mến của chúng ta đối với Chúa, thì mỗi người chúng ta cũng hãy mau mắn tuân giữ các lời dạy của Chúa bằng cả tấm lòng của mình. Chúng ta hãy can đảm sống theo lời dạy của Chúa với tất cả niềm tín thác, niềm cậy trông, tình yêu mến.
Nhìn lại gương Chúa Giêsu, chúng ta đã thấy Ngài vì yêu mến Chúa Cha, và vì yêu thương nhân loại nên Ngài đã thi hành thánh ý của Chúa Cha, cho dù Ngài phải chấp nhận một cái chết tủi nhục trên thập giá.
Để thực thi Lời Chúa dạy hôm nay, tôi đề nghị những việc thực hành cụ thể như sau:
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta luôn biết noi theo gương của Chúa, để mỗi khi chúng ta thốt lên Chúa ơi, con yêu mến Chúa thì chúng ta cũng sẽ làm trọn theo những điều Chúa dạy, để cuộc sống của mỗi người chúng ta luôn là một cuộc sống bình an trong tay Chúa, và cũng là một cuộc sống vui tươi trong vòng tay yêu thương thân ái của tất cả mọi người. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng)
Tin Mừng Ga 14, 23-29: Niềm tin và tình yêu của Kitô hữu dành cho Chúa Giêsu được biểu lộ qua việc nghe và thực thi Lời Chúa.
Giáo hội qua phụng vụ Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta suy gẫm lời tâm tình của Chúa Giêsu với các môn đệ trước khi Người trở về cùng Chúa Cha: “Nếu ai yêu mến Thầy thì hãy giữ lời Thầy”. Vào thế kỷ XXI này liệu Lời Chúa có còn cần thiết, có giá trị đối với Kitô hữu, đối với con người và xã hội không, khi mà người ta đã và đang chạy theo những lợi lộc vật chất; khi mà người ta tin tưởng và đề cao những giá trị của khoa học, của tri thức nhân loại; khi mà người ta dễ dàng nghe theo những trào lưu tư tưởng thực dụng.
Niềm tin và tình yêu của Kitô hữu dành cho Chúa Giêsu được biểu lộ qua việc nghe và thực thi Lời Chúa.
Bản văn được chọn đọc hôm nay nằm trong diễn từ biệt ly của Chúa Giêsu. Vào lúc Chúa Giêsu chuẩn bị rời bỏ các môn đệ, Người dạy các ông về sự quan trọng của việc sống và thực thi những lời dạy của Người. Lời của Người là Lời của Chúa Cha. Sống Lời Chúa là thước đo lòng yêu mến. Chính Chúa Thánh Thần sẽ giúp các ông hiểu và sống Lời Người.
Có nhiều cách thế biểu lộ tình yêu của chúng ta dành cho Thiên Chúa: sốt sắng cầu nguyện, yêu mến bác ái với tha nhân, trung thành sống đức tin … nhưng tất cả đều là những việc cụ thể của việc sống Lời Chúa. Vì thế, chịu học hỏi Lời Chúa và nhất là thực thi Lời Chúa trong cuộc sống hằng ngày là cách thức thể hiện đức ái cụ thể nhất, rõ ràng nhất.
Với mỗi Kitô hữu hôm nay, việc học sống Lời Chúa xem ra có vẻ thờ ơ nguội lạnh. Nguyên nhân thì nhiều nhưng ẩn sâu bên trong chính là do không yêu mến Thiên Chúa, không dám chấp nhận sứ điệp Tin mừng cho nên không có Thiên Chúa trong cuộc sống và từ đó vẫn cứ mãi quay cuồng trong dục vọng, đam mê, trong bể khổ cuộc đời mà không được bình an. Bình an Chúa Giêsu ban tặng không như thế gian ban tặng. Bình an đó chính là sự hiện diện của Thiên Chúa, sự bình an có được qua việc sống Lời Chúa, qua chính hành động đức tin của mỗi người.
Mầu nhiệm Ba Ngôi là nền tảng cho toàn bộ mầu nhiệm Kitô giáo. Sống Lời Chúa là đi vào chính nguồn mạch tình yêu khởi từ Ba Ngôi Thiên Chúa. Lời Chúa là đèn soi dẫn lối chúng ta đi đến cùng đích đời Kitô hữu là về sống hạnh phúc trong cung lòng Ba Ngôi Thiên Chúa. Sống Lời Chúa ngay từ cuộc sống hiện tại là một bảo đảm cho Kitô hữu đi đúng đường.
III. LỜI NGUYỆN TÍN HỮU
Mở đầu: Anh chị em thân mến, trung thành sống Lời Chúa là biểu lộ lòng yêu mến Chúa. Trong tâm tình yêu mến và tin tưởng, chúng ta cùng dâng lời cầu xin lên Thiên Chúa.
Lời kết: Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi, Chúa không ngừng yêu thương, chăm sóc và hiện diện với chúng con qua Lời Chúa được công bố trong Hội thánh. Chúng con xin Chúa tuôn đổ ơn Thánh Thần trên mỗi người chúng con, để tất cả hiếu biết và sống đúng những gì Chúa dạy. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Chúa Giêsu và một thanh niên cùng đồng hành trên một bãi cát dài ven biển. Bốn vết bàn chân hằn in rõ trên mặt cát. Nhưng khi chàng thanh niên chẳng may gặp phải khó khăn thử thách, anh ta liền nhìn xuống mặt cát thì thì thấy còn lại hai dấu bàn chân. Anh kinh ngạt thất vọng kêu lên: “Thưa Thầy, lúc nãy Thầy trốn đi đâu để con bước đi một mình?”. Chúa Giêsu nhỏ nhẻ bảo anh ta: “Con thử nhìn kỹ lại xem, coi đó là những vết của ai?”. Nghe lời Chúa, anh thanh niên nhìn kỹ lại thì mới tỉnh ngộ ra đó là những dấu chân của Chúa. Anh ta vội thắc mắc la lên: “Vậy thưa Thầy, lúc đó con ở đâu?” Chúa âm yếm trả lời: “Con ạ, những lúc con gặp khó khặn gian nan, chính khi đó Thấy biết con không đủ sức chịu đựng nên Thầy đã vác con trên vai Thầy để cứu giúp con khỏi họạ nạn đấy”.
Dĩ nhiên, đây là một câu chuyện tưởng tượng, nhưng lại là một câu chuyện đầy ý nghĩa vì nó nói lên được một sự thật mà có lẽ ngày xưa các Tông đồ cũng như ngày nay chúng ta đều không nhận ra hoặc chưa tìm hiểm cặn kẽ: đó là Chúa luôn luôn hiện diện bên ta để bênh vực giúp đỡ ta.
Một chân lý thật đơn giản và rõ ràng. Vì suốt trong thời gian truyền đạo, riêng tư cũng như công khai, Chúa Giêsu luôn nhắc đi nhắc lại câu nói: “Thầy ở với các con mọi ngày cho đến tận thế”. Thế thì tại sao trong cuộc sống hằng ngày, nhất là những lúc gặp gian nan khốn khó chúng ta hầu như quên sự hiện diện của Chúa, thậm chí đôi lúc có những người đối xử, ăn nói kiểu như không có Chúa nữa? Sở dĩ có tình trạng đau buồn này do nhiều nguyên nhân gây nên, nhưng tựu trung tóm gọn lại trong hai nguyên nhên chính yếu sau đây:
Thiếu một đức tin sâu sắc. Bởi vì, để nhận ra được sự hiện diện huyền diệu, đích thực của Chúa ở bên ra và sống kết hiệp mật thiết với Ngài thì ta cần phải có một đức tin mạnh mẽ, siêu việt. Trong khi phần đông chúng ta cứ lầm lạc duy trì một thứ đức tin vụ hình thức, công nạn hoặc thứ đức tin ấu trí, non nớt.
Thật vậy, nếu khi đức tin của chúng ta chỉ dựa trên những sự kiện bên ngoài như thị kiến phi thường, nhưng phép lạ hiển nhiên hoặc dựa trên những hình thức rầm rộ như lễ nghi long trọng, rước xách linh đình, đông đúc vui vẻ mới cho là có Chúa hiện diện. Còn khi bình thường, thầm lặng, riêng tư, buồn sầu thì dường như cuộc sống của chúng ta vắng bóng Chúa, không can hệ gì tới Ngài. Như Chúa đã phán: “Phúc cho ai không thấy mà tin”, điều đó có nghĩa là Đấng Phục Sinh đã từ bỏ đời sống trần thế, vượt qua giới hạn không gian và thời gian, Ngài khuất mắt ta để từ đây luôn hiện diện bên ta theo cách thế hiện hữu bao quát hơn. Cho nên, chúng ta không chỉ dựa vào khả giác để nhận ra Chúa mà phải dựa vào một đức tin sâu sắc để có thể vượt qua những trở ngại, khó khăn mà không mất niềm tin tưởng nơi Ngài. Hơn nữa, nếu một đức tin quá no nớt, nghĩa là khi bình an vô sự thì dễ dàng tin Chúa, còn khi gặp gian nan thử thách thì hoảng sợ lao đao, thất vọng buông xuôi, thì cũng không thể tìm gặp được Chúa.
Thiếu lòng mến nồng nàn. Cứ nhìn vào trường đời, chúng ta sẽ thấy nhiều cảnh huống đến khó tin: có nhiều người sống gần nhau xem ra thương nhau thắm thiết, nhưng khi xa nhau thì hững hờ nhạt nhẽo, chóng quên nhau; lại có những bề ngoài cứ anh anh em em luôn miệng, tưởng như sống chết có nhau, nhưng khi gặp hoạn nạn thì nghoảnh mặt làm ngơ, coi như không quen biết. Cũng thế, cõ lẽ khi chúng ta yêu Chúa với một tình yêu đã bôi bên ngoài, giả dối hời hợt, thay lòng đổi dạ mau chóng thì thử hỏi làm sao còn nhớ đến Chúa, muốn ở bên Chúa?
Thêm vào đó, nhiều khi chúng ta cứ lầm tưởng rằng tuân giữ các giới răn một cách máy móc hay tham dự các nghi thức lễ lạy với một tâm hôn trống rỗng đã đủ yêu Chúa rồi, không có gì đáng phàn nàn chê trách. Sồng và yêu Chúa như thế thì mãi mãi chúng ta là kẻ xa lạ với Chúa. Do đó, để thấy được Chúa, để sống nhờ Ngài với Ngài, ta phải biết thiếp lập mỗi tương quan với Ngài bằng một tình yêu cao độ. Tình yêu này được thể hiện cách sống động nhờ việc tuân giữ và thực hành lời Chúa với cả quết tâm nhiệt thành và tôn kính. Bởi vì, lời nói là một điều cụ thể, một biểu thị rõ nét nhất của một người còn sống hay khuất bóng. Và nó cũng còn là một bảo chứng sống động cho mối giây liên hệ giữa người này với người khác. Cho nên, muốn kết hiệp với Chúa, muốn tìm thấy sự hiện diện gần gũi của Ngài, mỗi người chúng ta ra sức yêu mến và sống lời Ngài hết tình.
Tóm lại, với một đức tin sâu sắc, trưởng thành và với một tình mến thắm thiết, cao độ thì cuộc đời mỗi người đâu còn cô đơn, xao xuyến, sợ hãi giữa bao thử thách gian nan, đâu còn lung lay, sa ngã giữa bao đam mê quyến rũ vì có Chúa luôn đồng hành, nâng đỡ ta.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Trên những chuyến xe khách, xe buýt, các bến xe… người ta thường thấy những hàng chữ “chúc quý khách thượng lộ bình an”. Người tài xế Công giáo treo hình Đức Mẹ trên xe có kèm theo hàng chữ “Nữ Vương ban sự bình an”. Người tài xế Phật giáo treo hình Đức Phật, dù có hay không có hàng chữ nào, trong lòng họ vẫn cầu mong Đức Phật ban bình an.
Theo Hán tự, chữ “bình” có nghĩa là bằng phẳng, đều hòa, hòa hợp, thoải mái, chữ “an”, theo cách viết là “người nữ ở trong nhà”, có nghĩa là được bảo vệ, an toàn. Như vậy, bình an nói lên trạng thái tâm hồn, trạng thái nội tâm thư thái, an hòa, vui tươi, bình thản, vững chắc. Do đó, bình an khác với hòa bình. Hòa bình nói lên trạng thái bên ngoài: không còn cạnh tranh, không còn chinh chiến, xô xát, súng đạn, gươm đao. Cho nên có khi có hòa bình nhưng không có bình an. Nhân loại thì khao khát hòa bình, còn mỗi người thì khao khát bình an.
Chúa Giêsu sống lại từ ngày thứ nhất trong tuần đã hiện ra với các môn đệ và ban bình an cho các ông. Lời đầu tiên của Chúa Phục Sinh là: “ Bình an cho anh em” (Ga 20,19-21). Bình an là hồng ân của Chúa Phục Sinh ban cho các môn đệ (Ga 20,26; Lc 24,36).
Các sách Tin Mừng và Công vụ Tông đồ thuật lại: mỗi lần Chúa Giêsu hiện đến đều thấy các môn đệ hội họp trong nhà, cửa đóng then cài vì sợ người Do thái. Khi Chúa hiện diện, sự sợ hãi của các môn đệ tan biến và các ông có được niềm vui, bình an, can đảm.
Thầy ban bình an của Thầy cho anh em… anh em đừng xao xuyến, đừng sợ hãi” (Ga14,27). Có một sự khác biệt cơ bản giữa bình an “thế gian ban tặng” và “bình an Đức Giêsu ban tặng”.
Chúa Giêsu Phục sinh là niềm vui lớn lao nhất của các Tông Đồ và của các phụ nữ đạo đức. Niềm vui nhân lên gấp bội khi Chúa trao quà tặng Bình an.
“Bình an cho các con”. Khi tâm hồn của các Tông Đồ hoang mang lo lắng buồn vui lẫn lộn về sự việc Chúa chết và sống lại, thì lời chúc lành của Chúa Giêsu rất đúng lúc để củng cố đức tin và đem lại an bình cho tâm hồn của các ông.
“Bình an cho các con”. Sự bình an này không giống bình an của người đời ban tặng. Sự bình an của người đời là tạm bợ và sẽ không tồn tại, bởi vì người đời chỉ dựa vào của cải vật chất để trấn an tâm hồn đầy bất an. Người ta chúc nhau được bình an, nhưng không ai tìm được bình an trong cuộc sống. Người giàu có thì cảm thấy bất an khi đêm về vì sợ kẻ trộm. Người có địa vị thì sợ kẻ khác chiếm đoạt, lật đổ. Người mạnh khoẻ thì sợ đau ốm.v.v… tất cả đều ở trong trạng thái mất bình an.
Có câu chuyện kể rằng: trong triều của một vua nọ có hai họa sĩ rất tài ba nhưng luôn ganh ghét đố kỵ nhau. Một hôm nhà vua phán: “Ta muốn phán quyết một lần dứt khoát ai trong hai ngươi là người giỏi nhất. Vậy hai ngươi hãy vẽ mỗi người một bức tranh theo cùng một đề tài, đó là bình an”.
Hai họa sĩ đồng ý. Một tuần sau họ trở lại, mỗi người mang theo bức vẽ của mình. Bức họa của người thứ nhất vẽ một khung cảnh thơ mộng: những ngọn đồi nhấp nhô bao quanh một cái hồ rộng với mặt nước phẳng lì không một gợn sóng. Toàn cảnh gợi lên một cảm giác thanh thản, thoải mái. Sau khi xem xong, nhà vua nói: “Bức họa này rất đẹp, nhưng trẫm chưa hài lòng.” Bức họa của người thứ hai vẽ một thác nước. Hình ảnh rất sinh động đến nỗi nhìn nó người ta như nghe được tiếng nước đổ ầm ầm xuống vực thẳm. Nhà vua nói: “Đây đâu phải là một cảnh bình an”. Họa sĩ thứ hai bình tĩnh đáp: “Xin bệ hạ nhìn kỹ hơn một chút nữa xem”. Nhà vua nhìn kỹ và khám phá một chi tiết mà ông chưa chú ý: Trong một nhành cây nép mình sau dòng thác lũ, có một tổ chim. Trong tổ, chim mẹ đang ấp trứng, đôi mắt nửa nhắm nửa mở. Chim mẹ đang bình thản chờ các con mình nở ra. Nhà vua nói: “Ta rất thích bức tranh này. Nó đã chuyển tải được một ý tưởng độc đáo về bình an, đó là vẫn có thể sống bình an ngay giữa những xáo trộn của cuộc đời”. Và nhà vua đã trao giải nhất cho tác giả bức hoạ này.
Bình an không phải giống như yên ổn, vì yên ổn là ở bên ngoài còn bình an thì ở bên trong.
Bình an là tình trạng của một tâm hồn đang có tương quan tốt với Thiên Chúa và với tha nhân. Thành tố quan trọng của bình an là sự công chính. Bởi thế, không có bình an cho kẻ dữ.
Bình an là kết quả của lòng trông cậy vào Chúa và khi ước muốn làm đẹp lòng Chúa là điều quan trọng bậc nhất trong đời. Đây là điều mà ta có thể có ngay giữa những xáo trộn, xung đột và những vấn đề rắc rối chưa giải quyết được.
Chỉ có Bình An của Chúa mới làm cho chúng ta được hạnh phúc. Bởi vì bình an là thông hiệp với Thiên Chúa. Chúa Giêsu đang hiệp thông mật thiết với Thiên Chúa nên Ngài vẫn có thể nói về bình an ngay cả khi kẻ thù của Ngài đã đến gần và sắp giết chết Ngài.
“Bình an cho các con”. Thế giới như đang sống trên một lò lửa. Chiến tranh, khủng bố, thiên tai, động đất… Thế gian chưa có bình an. Cho nên sự Bình An của Chúa Giêsu vẫn luôn có giá trị đích thực cho nhân loại, cho những tâm hồn khắc khoải tìm kiếm bình an trong cuộc sống.
Có nhân thì có quả. Có tranh chấp thì sinh ra hận thù, có ghét ghen thì sinh ra mưu mô thủ đoạn. Đó chính là chuyện nhân quả mà hằng ngày chúng ta đều thấy và biết. Việc lành cũng như việc xấu, mọi thứ đều có nhân quả của nó.
Hoa quả của Bình An là: yêu thương, tha thứ, bao dung, quảng đại, khiêm tốn, nhẫn nại, nhịn nhục…
Khi trong tâm hồn có sự bình an của Chúa Giêsu Phục Sinh, thì chúng biết thông cảm với người làm ta bực mình, dễ dàng cảm thông với những người không yêu mến, sẽ khiêm tốn hơn trong lời nói trong cử chỉ thái độ của mình… Hoa quả của bình an chính là tình yêu của Chúa Kitô thúc bách chúng ta làm việc thiện, thúc bách chúng ta vì anh em mà phục vụ như Chúa Kitô đã phục vụ, như các thánh Tông Đồ đã phục vụ Giáo Hội.
Hoa qủa bình an thể hiện bằng tiếng cười, niềm vui, hạnh phúc trong gia đình, an hoà thư thái trong tâm hồn.
Hoa quả bình an cũng chính là sự thật. Ta cảm thấy bình an khi mình sống ngay thẳng, sống theo sự thật.
Con người ta ai cũng muốn có bình an trong tâm hồn, nên luôn cầu chúc cho nhau được bình an. Nhưng sẽ không có bình an thật, nếu tâm hồn không có tinh thần Phục Sinh của Chúa Kitô, tinh thần đổi mới con người cũ trở nên con người mới sống theo hướng dẫn của Thánh Thần.
Con người ta ai cũng cần sự bình an, có khi còn cần hơn cả cơm ăn áo mặc nữa. Chúa luôn muốn ban bình an cho chúng ta. Giáo hội cũng mong muốn như vậy. Cho nên mỗi khi tham dự thánh lễ, linh mục thay mặt Chúa và Giáo hội cầu chúc: “Bình an của Chúa ở cùng anh chị em”, rồi linh mục nói với chúng ta: “Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau”. Có bình an của Chúa ở nơi mình, chúng ta mới có bình an để chia sẻ cho nhau.
Bình an là một hồng ân Chúa ban và cũng là một trách nhiệm. Không phải chúng ta chỉ cầu khẩn và tìm kiếm bình an cho mình mà còn phải là “khí cụ bình an của Chúa”, góp phần tạo nên bình an cho mọi người và cho toàn xã hội.
Ước gì cuộc đời của tôi của bạn, trong mọi nơi mọi lúc, nhất là lúc cam go sợ hãi thử thách luôn nghe được lời chúc bình an của Chúa Phục Sinh: Bình an cho anh em.
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Tháng Năm về, một tháng trong năm với tên gọi thật thơ mộng, thật tươi vui: Tháng Hoa. Mỗi độ tháng Hoa, các Nhà thờ rộn rã mùa dâng hoa kính Đức Mẹ. Phụng vụ Mùa Hoa tưng bừng nhộn nhịp với nhiều thể loại phong phú Rước hoa và Dâng hoa tuỳ mỗi tập quán mỗi đặc trưng văn hoá địa phương.
Nói tới hoa là nghĩ về một kỳ công của Thiên Chúa. Hoa muôn màu muôn sắc, hoa tươi xinh, hoa thơm ngào ngạt. Hoa tô thắm vũ trụ nên xinh tươi. Hoa mời gọi ong bướm đến hút mật. Hoa khoe sắc thắm, nhoẻn cười với con người. Lời của hoa thật diệu huyền giữa thiên nhiên. Hoa hòa vào lòng người dâng lời cảm tạ Thiên Chúa.
Hoa đã trở thành một người bạn thật thân thiết với con người. Khi vui người ta tặng hoa để chúc mừng nhau. Khi buồn người ta cũng trao gởi lẵng hoa như trao gởi tấm lòng đồng cảm thân thương. Hoa khích lệ lòng người. Hoa hướng con người nhớ tới Đấng tạo hoá đã xoay vần vũ trụ bốn mùa xinh tươi. Hoa mơn man lòng người đau khổ. Hoa khích lệ những ai thất bại. Hoa chúc mừng những ai chiến thắng. Hoa ca vang kỳ công kiệt tác của Thiên Chúa. Đôi khi chỉ một cánh hoa đủ trào dâng lòng mến của Thánh Têrêxa Hài Đồng. Nhiều lần một dàn hoa làm tâm hồn Thánh Phanxicô ngây ngất tình Chúa.
Lắng nghe tiếng nói huyền diệu của hoa, Thánh Bênađô biết được tâm trạng của hoa. Chẳng hạn, Hoa Hồng giàu lòng yêu mến. Hoa Huệ biểu tượng đức Khiết trinh, Hoa Tím là duyên đức đoan trang khiêm tốn. Thánh nhân ca ngợi các nhân đức Đức Mẹ qua ý nghĩa các loài hoa. Hoa Hồng đức mến, Hoa Huệ đức Khiết trinh, Hoa Tím đức Khiêm nhường. Đức Mẹ là Hoa Huệ khiết trinh. Đức Mẹ là Hoa Hồng yêu mến. Hương thanh khiết và tình yêu của Mẹ đã làm cho mùa xuân trần gian được hồi sinh. Ơn cứu độ được ban tặng cho trần đời nhờ hoa lòng của Mẹ hằng đẹp lòng Thiên Chúa.
Sứ Thần Gabriel đã cung kính thưa với Mẹ rằng: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng bà!” (Lc 1,28). “Đấng đầy ơn phước” là tên gọi đẹp nhất của Mẹ Maria, tên gọi mà Thiên Chúa đã ban cho Đức Mẹ, để chỉ cho biết rằng từ muôn thuở và cho đến muôn đời, Đức Mẹ là Đấng được yêu thương, được Thiên Chúa tuyển chọn, được tiền định để đón nhận hồng ân quý giá nhất, là Chúa Giêsu, “tình thương nhập thể của Thiên Chúa” (x.Thông điệp Thiên Chúa là tình yêu, số 12).
Chúa nhật thứ hai trong Tháng Năm là ngày Hiền Mẫu, Mother’s Day. Xin chúc mừng và tôn vinh tất cả những người nữ nhận từ Thiên Chúa thiên chức làm Mẹ. Xin tạ ơn Chúa. Xin tạ ơn người Mẹ của chúng con, dù sống hoặc đã về bên Chúa.
Mỗi người chúng ta đều có một người mẹ. Tình yêu của mẹ bao la hơn biển cả, cao vời hơn các tầng mây, vĩ đại hơn những rặng núi, mênh mông vô tận. Một văn sĩ đã viết: “Thơ viết về mẹ bao giờ cũng đạt, nhạc viết về mẹ bao giờ cũng hay, tranh vẽ về mẹ bao giờ cũng tuyệt, cũng đẹp. Bởi hiển nhiên, mẹ là nguồn xúc cảm sâu xa, vô tận và nhiệm mầu nhất trong mọi nguồn sáng tạo”. Tình yêu của mẹ là một nguồn cảm hứng không bao giờ cạn vơi, là những tư tưởng vô tận của các thi sĩ, văn sĩ và nghệ sĩ.
Tình mẹ thương con bao la như trời như biển. Nói đến tình mẹ, không có thứ tình cảm nào đậm đà và cao quý như tình mẹ thương con. Đã có biết bao nhiêu vần thơ, bao nhiêu câu hò, điệu hát ca tụng tình mẹ thiêng liêng.
“Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào,
Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào.”
Với giai điệu mượt mà, sâu lắng, với ca từ thấm đẫm chất thơ gợi lên những hình ảnh bình dị, gần gũi, nhạc sĩ Y Vân đã viết thành một bài hát tuyệt vời ca ngợi tình mẹ. Thương con mẹ nào có quản nắng mưa, có ngại gì sớm khuya vất vả… Tình mẹ mãi mãi là như thế, dẫu ở thời nào, dẫu thuộc nền văn minh văn hóa nào và dẫu ở đâu tình mẹ cũng vẫn cứ mãi mãi là như thế.
Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập thể làm người cũng nhận lấy tình mẫu tử trân quý ấy. Mẹ Maria đã đảm nhận trọn vẹn thiên chức cao quý nhưng không thiếu khổ đau như bất cứ người mẹ nào trong nhân loại. Trong lòng tin, người mẹ ấy đã âm thầm vâng phục, đón nhận, lắng nghe và bước theo Con của mình suốt hành trình cứu độ.
Trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy rằng: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”. Yêu mến và giữ lời Đức Kitô, mỗi tín hữu được đón nhận sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa. Trong tình yêu này, thiên đàng chớm nở. Thiên đàng thật gần, ngay trong lòng mỗi người. Thiên đàng ấm áp nơi tâm hồn những ai biết yêu Đức Kitô và tuân giữ lời Ngài. Các bí tích đều nhằm mục đích làm cho tình yêu giữa mỗi người với Đức Kitô được lớn lên.
Đức Maria là mẫu gương yêu mến và tuân giữ Lời Chúa. Tin Mừng (Lc 11,27-28) kể câu chuyện: Một người phụ nữ nghe Chúa giảng dạy, bà nghe say mê. Với tính nhạy cảm của một người nữ, bà cảm nghiệm niềm hạnh phúc của người mẹ có một người con tuyệt vời như Chúa Giêsu. Giữa đám đông, bà bày tỏ niềm thán phục Chúa, bà tán dương Mẹ Maria là “người mẹ có phúc đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú mớm”. Đáp lại lời tán dương ấy, Chúa nói đến hạnh phúc cho ai nghe và giữ lời Thiên Chúa: “Bà ơi, đúng hơn phải nói rằng: phúc thay kẻ biết lắng nghe và giữ lời Thiên Chúa”.
Người phụ nữ kia đã tán dương Đức Mẹ là có phúc vì Mẹ có các vinh dự làm Mẹ của một người con tài ba kỳ diệu là Chúa Giêsu. Đây mới chỉ là vinh dự trần gian. Mẹ Maria còn có một hạnh phúc lớn lao hơn là “nghe và giữ lời Thiên Chúa”. Khi biết lắng nghe, đón nhận và giữ lời Thiên Chúa thì thiên đàng đã ở trong người ấy, vinh phúc đời đời ở trong người ấy, Thiên Chúa ở trong người ấy. Đó là vinh phúc của Mẹ Maria.
Bởi đó, Chúa nói với người phụ nữ kia, không chỉ dừng lại nơi lời khen Mẹ Maria có phúc vì đã có vinh dự cứu mang, nuôi dưỡng một người con tuyệt vời, mà cần hướng đến ý nghĩa cao cả hơn. Phúc thay cho ai biết lắng nghe và giữ lời Thiên Chúa. Đó là hạnh phúc cao quý nhất của Đức Mẹ.
Đức Mẹ nghe và giữ lời Thiên Chúa như thế nào? Đây là bài học chúng ta cần học hỏi trong Năm Tin.
Vào ngày Thiên Thần Gabriel đến truyền tin, Đức Mẹ đã đứng trước một mầu nhiệm lạ lùng. Mẹ cưu mang con Thiên Chúa. Mẹ suy nghĩ và trao đổi. Mẹ biết đây là thánh ý của Thiên Chúa. Mẹ đáp trả lời “Xin Vâng”. Mẹ đã lắng nghe, Mẹ đã tin và chấp nhận dấn thân. Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể trong lòng Mẹ. Chính Ngài là Ngôi Lời Thiên Chúa đang đến với nhân loại và trở nên Emmanuel.Lời đó đang đến gõ cửa lòng ta hằng ngày. Chúa mong ta cưu mang Ngài, sống với Ngài, thực hiện lời Ngài. Hôm nay Chúa Phục Sinh đang ở với chúng ta qua Bí Tích Thánh Thể, qua Lời Ngài mà Giáo Hội đang rao giảng.
Ngày kia, Chúa đang rao giảng, có người tin cho Chúa biết: “có Mẹ và anh em Thầy đang chờ gặp Thầy”. Chúa nói ngay với họ: “ai là Mẹ tôi, ai là anh em tôi? Ai nghe và giữ lời Thiên Chúa, người đó là anh chị em tôi, là mẹ tôi”. Lại một lần nữa Chúa nói lời với hai ý nghĩa. Ý nghĩa thứ nhất là tán dương Mẹ Maria là người diễm phúc luôn lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa. Ý nghĩa thứ hai, Chúa mời gọi mọi người trở nên những người thân thuộc của gia đình mới, gia đình thiêng liêng của Ngài, bằng cách lắng nghe, tin yêu và tuân giữ lời Thiên Chúa.
Có lẽ, chúng ta đã nghe Lời Chúa nhiều, ít là hằng tuần, nhưng đã thực hiện lời Chúa thế nào? Chúng ta có thói quen đọc Lời Chúa trong gia đình không?
Mục tiêu hàng đầu của đời sống tín hữu là biết lắng nghe và giữ Lời Thiên Chúa, là đem Lời Chúa ra thực hành hằng ngày. Trước mọi biến cố xảy đến, Đức Mẹ đều coi là thánh ý Thiên Chúa nên Mẹ ghi nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng để xin vâng thánh ý Chúa.
Tại tiệc cưới Cana, Mẹ xin Chúa giúp đỡ gia đình tân hôn đang hết rượu. Với một lời đề nghị tế nhị: “Con ơi, họ hết rượu rồi”. Chúa đáp lại như một lời từ chối: “Thưa bà, việc đó liên can chi đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến”. Mẹ tin nơi tình thương của Chúa. Chúa sẽ làm những gì tốt nhất, đẹp nhất cho con người. Vì thế, Mẹ dặn dò người giúp vịêc: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”.
Trong cuộc thương khó của Chúa, Mẹ đau đớn và luôn vâng theo thánh ý Chúa. Dưới chân thập giá, Mẹ hịêp thông trọn vẹn trong lễ tế hiến dâng với con.
Hỡi các bà mẹ, cuộc đời của người mẹ nào cũng đầy cam go, truân chuyên vất vả. Gian truân hơn bất cứ bà mẹ nào trong chúng ta đây. Nhưng Mẹ Maria đã vượt qua tất cả trong niềm tin yêu vào Lời Chúa. Mẹ luôn tín thác vào tình thương của Ngài. Hãy vững tin vào Lời Chúa. Hãy để Lời Chúa hướng dẫn cuộc sống sẽ tốt đẹp mỗi ngày.
Mỗi dịp tháng Năm về, mỗi lần thưởng thức hương hoa, ta hãy hướng theo nhân Đức Mẹ, xin Mẹ tỏa hương thiên đàng của người, ấp ủ ta biến thành những đóa hoa tươi thắm của Mẹ. Mỗi khi hái hoa dâng tiến Đức Mẹ, ta hãy mượn hương sắc và lời huyền diệu của hoa để ca tụng và khấn xin. Dâng Hoa Hồng, xin Mẹ cho ta được yêu mến Mẹ nhiều hơn. Dâng Hoa Huệ, ta ca ngợi đức khiết trinh của Mẹ. Xin Mẹ lấy hương huệ trinh nguyên của hồn Mẹ ướp hồn ta nên trong trắng.
Những ngày Tháng Năm này, nếu thiếu những bông hoa hữu hình, ta hãy hái hoa hồng thiêng là kinh Mân Côi để dâng lên Mẹ. Nhưng thế nào đi nữa, nguyện ước trái tim chúng ta hãy biến thành một dàn hoa kết đủ những hương hoa thơm ngát nhân đức dâng kính Mẹ.
Trong cuộc hành hương nội tâm hay lữ hành nơi dương thế, chúng ta tin có Mẹ Maria luôn cầu bầu che chở, yêu thương nâng đỡ. Chúng ta nhìn lên Mẹ như mẫu gương của bậc thầy lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa. Hãy luôn vững lòng cậy trông với niềm tin yêu. Đức Mẹ hằng yêu thương phù trợ mỗi người chúng ta.
Xin dâng lên Mẹ những sắc hoa của cuộc đời chúng con. Ước gì cuộc đời chúng con luôn là những bông hoa tươi thắm dâng tặng cho đời xuân sắc, lan toả hương thơm bác ái trong môi trường sống của chúng con. Amen.
(Suy niệm của Lm. Phanxicô Xaviê Lê Văn Nhạc)
Tin Mừng Ga 14: 23-29 Bình an của thập giá là bình an mà Chúa Giêsu đã phải trả bằng chính giá máu của Ngài để giao hòa nhân loại với Ngài và nhân loại với nhau.
Hồi tháng 2 năm 1991 sau khi quân đội đồng minh đổ bộ lên Kouweit được ba ngày, thế giới đã thở phào một cái nhẹ nhõm vì mối đe dọa một cuộc chiến tranh nguyên tử đã qua đi và nền hòa bình đã trở lại với thế giới. Hiểu như thế thì hòa bình hay bình an là không có chiến tranh. Nhưng không có chiến tranh chưa chắc là đã có hòa bình.
Sau thế chiến thứ hai, thế giới đã chia làm hai phe: Tư bản và Cộng sản. Trong khoảng từ năm 1945 đến năm 1990 không có một cuộc chiến tranh nào với tính cách qui mô giữa hai phe Tư bản và Cộng sản. Vậy mà thế giới vẫn nơm nớp lo sợ một cuộc chiến tranh. Lý do là vì cả hai phe đều chạy đua vũ trang. Tình trạng đó được gọi bằng một cái tên là “chiến tranh lạnh”. Năm 1989 sau khi khối Cộng sản sụp đổ ở Đông Âu, người ta đã họp nhau lại tại Paris để tuyên bố cuộc chiến tranh lạnh đã kết thúc.
Như vậy trong gần một nửa thế kỷ, tuy thế giới không có một cuộc chiến tranh nào trên qui mô lớn, nhưng con người vẫn phải sống trong sự bất an. Mới đây (ngày 8/5/1995) thế giới vừa mừng kỷ niệm 50 năm chiến thắng Phát-xít Đức và kết thúc thế chiến thứ hai. Nhưng người ta lại lo sợ trước chủ nghĩa “Phát-xít mới”, trước nạn khủng bố lan tràn và các cuộc xung đột chủng tộc… Người ta nói nhân loại đang sống trong một nền “hòa bình nóng!”
Thưa anh chị em,
Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta hòa bình của Ngài từ gần hai ngàn năm nay rồi. Vậy mà tại sao loài người lại không được sống trong hòa bình?
“Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban bình an của Thầy cho anh em. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng”.
Chúa Giêsu đã coi sự bình an như một ân huệ Ngài để lại. Ngài ban bình an của Ngài cho các môn đệ. Ngài không cầu chúc, nhưng Ngài để lại, Ngài ban tặng bình an. Ngài không ban như người ta, vì người ta không thể ban cho ai bình an, chỉ có thể cầu chúc, ước muốn được bình an mà thôi.
Vậy thì bình an của Chúa Kitô là gì? Bình an của Chúa Kitô không phải là tình trạng yên ổn không bị khuấy động vì chống đối, vì chiến tranh. Bình an ở đây là sự sống trọn đầy, là ân huệ gồm tóm mọi ân huệ của thời đại Chúa Cứu Thế. Chính vì vậy, bình an nầy gắn liền với Chúa Giêsu và sự hiện diện của Ngài: “Chúa Giêsu là sự bình an của chúng ta” (Ep 2,14). Sự bình an mà Chúa Giêsu trối lại hay là chia sẻ cho chúng ta là sự bình an mà Ngài thực sự có được và nghiệm thấy một cách trọn vẹn, khi Ngài đã chiến thắng được sợ hãi đứng trước tử thần. Đó là sự bình an của Đấng đã yêu thương đến cùng (Ga 13,1), nghĩa là đến chấp nhận hy sinh mạng sống cho những kẻ mình yêu thương (Ga 15,13). Nói khác đi, đó là bình an mà Chúa Giêsu đã có thể chia sẻ cho chúng ta, sau khi Ngài đã thực sự chia sẻ chính thân mình Ngài cho chúng ta.
Thánh Phaolô gọi sự bình an đó là “bình an của thập giá” “Nhờ máu Chúa Giêsu đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1,24). Bình an của thập giá là bình an mà Chúa Giêsu đã phải trả bằng chính giá máu của Ngài để giao hòa nhân loại với Ngài và nhân loại với nhau. Nói khác đi, Chúa Giêsu đã lấy cái chết của mình để xóa bỏ tội lỗi nhân loại, đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét, khiến cho nhân loại từ nay được hòa giải với Thiên Chúa và trở nên một thân thể duy nhất. Bởi vậy mà Chúa Giêsu xứng đáng được gọi là “Bình an của chúng ta” (Ep 2,14-18).
Anh chị em thân mến,
Bình an là khát vọng của mọi người, ở mọi nơi và mọi thời. Nhưng thực ra có lẽ chưa bao giờ nhân loại được hưởng một sự bình an toàn diện và phổ quát. Người ta có thể dập tắt ngọn lửa chiến tranh, có thể áp đặt một nền hòa bình, ký kết những bản hòa ước. Nhưng không ai có thể hiểu thấu lòng người, để có thể đem lại được sự bình an vào tận cõi sâu thẳm bên trong; bởi vì ít có ai có được bình an thực sự trong lòng mình để có thể chia sẻ cho người khác. Con người chỉ có thể xây dựng hòa bình bên ngoài, nhưng không có khả năng chế ngự, điều khiển được những đợt sóng ngầm vẫn luôn sôi sục ở đáy lòng mỗi cá nhân. Bởi vậy, hòa bình trên thế giới từ trước đến nay thường chỉ là những nền hòa bình giả tạo, mong manh, tạm thời. Dĩ nhiên có được hòa bình đó vẫn còn tốt hơn là không.
Người kitô hữu phải là những người tác tạo hòa bình, những người làm chứng cho hòa bình trong thế giới bằng cuộc sống không bạo lực và bằng cuộc sống đồng tâm nhất trí với nhau. Điều kiện cần thiết là phải tin vào Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Lời được Cha sai đến loan báo Tin Mừng bình an (Cv 10,36), phải tuân giữ Lời Chúa, và như vậy là để có sự hiện diện của Chúa trong chúng ta, như Chúa Giêsu đã tỏ cho biết: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ Lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến ở trong người ấy” (Ga 14,23). Có Chúa hiện diện trong chúng ta, chúng ta sẽ không còn lý do nào để phải lo lắng, sợ hãi. Sợ hãi, lo lắng, chứng tỏ một tâm hồn xao xuyến, chưa được ổn định, chưa được bình an.
Muốn xây dựng hòa bình của Chúa, chúng ta phải là những con người hiếu hòa và đã được ổn định trong tâm hồn. Nếu chúng ta còn để cho dục vọng làm chủ mình; nếu chúng ta còn khư khư bám vào sự sống mình một cách ích kỷ; nếu chúng ta còn có những của cải sợ mất mát, hoặc phải bảo vệ để hưởng thụ; nếu chúng ta còn muốn thống trị kẻ khác, làm sao chúng ta có thể gieo rắc bình an và xây dựng được hòa bình? Muốn xây dựng hòa bình ở bình diện lớn, thiết tưởng phải bắt đầu từ những bình diện nhỏ, vừa tầm tay, từ cá nhân, trong gia đình, đến xã hội, đất nước và toàn thế giới.
Cuối cùng, phải chăng Thánh lễ là một lời cổ vũ mạnh mẽ cho hòa bình và là một sự thúc đẩy người kitô hữu dấn thân xây dựng hòa bình? Khi chúng ta chia sẻ bình an của Chúa cho anh chị em, chúng ta cam kết sống an hòa, yêu thương và dấn thân đem lại hòa bình, an vui, hạnh phúc cho mọi người. Và lời chúc cuối lễ của vị chủ tế là chúc anh chị em ra đi với sự bình an của Chúa Kitô, ra đi mang theo một cái gì đó của Nước Thiên Chúa cho mình và cho kẻ khác.
Cuộc chuyển biến vừa qua tại Thái Lan đã làm cho thế giới chú ý đến vai trò của nhà vua nước này. Một trong những hình ảnh đáng chú ý và cảm động nhất hẳn phải cảnh tượng của thủ tướng và đối thủ của ông là tướng Chamlon cùng ra trước mặt quốc phủ phục và lắng nghe những khuyên nhủ của ông. Những lời lẽ của một ông vua được toàn dân yêu mến và tuân phục đã có sức thuyết phục tướng Chamlon từ bỏ con đường tham vọng của ông. Cơn khủng khoảng của Thái Lan xem ra đã kết thúc, mọi người ca ngợi sự dàn xếp của quốc vương Thái Lan. Trong lịch sử Thái Lan, quốc vương vẫn được dân chúng xem như là một nguyên thủ hợp lý của đất nươc. Theo truyền thống, các vua Thái Lan trước khi lên ngôi phải tu luyện cho đủ mười điều đức hạnh của đạo Phật về khoan nhượng và vị tha, họ phải trở thành điều mà dân Thái Lan gọi là “ vua của mọi giai cấp, mọi nhóm xã hội và mọi chủng tộc”.
Hình ảnh của quốc vương Thái Lan trên đây hẳn phải mời gọi chúng ta suy nghĩ về sứ mệnh hòa bình, sứ mệnh hòa giải của người Kitô hữu. Lời Chúa trong bài tin mừng hôm có thể tóm gọn trong cả chủ đề của lời Chúa trong Chúa nhật thứ 6 Phục Sinh: “Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban bình an của Thầy không như thế gian ban tặng”. Chúa Giêsu không chỉ trao ban bình an cho chúng ta như là một quà tặng mà Ngài còn ủy thác cho chúng ta một sứ mệnh, đó là sứ mệnh xây dựng “ Hòa Bình”. Ngôn ngữ Việt Nam chúng ta có lẽ đủ thâm thúy để diễn tả điều Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta. Thật thế, hầu hết các ngôn ngữ trên thế giới đều có một danh từ để chỉ hòa bình. Nhưng ngôn ngữ Việt Nam chúng ta ít nhất có hai từ để nói về ý niệm này, chúng ta nói: “ Bình an” để chỉ một trạng thái của tâm hồn. Chúng ta dùng hai chữ “ Hòa Bình” để chỉ mối tương quan giữa người với người hoặc quốc gia với quốc gia.
Chúa Giêsu đã phân biệt hai bình diện ấy của hòa bình khi Ngài nói với ra rằng, bình an mà Ngài ban tặng cho chúng ta không phải là thứ hòa bình của thế giới vẫn thường nói đến. Khi nói đến hòa bình của thế giới thì ám chỉ đến một trật tự không có chiến tranh, không có tiếng súng, không có xung khắc, một thứ hòa bình lén lút, giải tạo và chóng qua. Đàng sau một thứ trật tự như thế còn có biết bao nhiêu suy tính của tham vọng, của thù hận, của đe dọa chỉ chờ đợi để bùng nổ. Chiến tranh lạnh giữa hai khối Đông-Tây đã chấm dứt, thế nhưng thế giới đã thực sự hưởng được hòa bình chưa?
“ Bình an”hay “ Hòa bình” đích thực mà Chúa Giêsu hứa ban cho chúng ta thiết yếu là sự bình an trong tâm hồn. Chỉ khi nào con người có được sự bình an đích cho thì mới có thể xây dựng được hòa bình với người khác. Bình an nội tâm là điều tiên quyết để xây dựng hòa bình. Bao lâu tâm hồn chúng ta vẫn còn cưu mang hận thù, tham lam, ích kỷ, đố kỵ, ghen ghét… thì bấy lâu bình an không thể có trong chúng ta và hòa bình ấy cũng không thể đến với người xung quanh được, dù ở bất quy mô nào cũng không bao giờ có được sự hòa bình đích thực ấy.
“Bình an” hay “ hòa bình” đích thực là một công trình xây dựng không ngừng đòi hỏi hy sinh và phấn đấu trong chính nội tâm của mỗi người, nó đòi hỏi con người chiến đấu để thắng vượt những nhỏ nhen ích kỷ của mình để trung thành với những cam kết của mình, để ra khỏi chính mình và đến với tha nhân nhiều hơn.
“Bình an” hay “ hòa bình” đích thực thiết yếu là quà tặng của Chúa, quà tặng ấy cũng chính là Chúa. Thiên Chúa tự trao ban cho chúng ta khi tâm hồn con người được Chúa chiếm trọn, khi tâm hồn người chọn được chính Chúa. Khi con người chọn chính Chúa làm gia nghiệp của mình thì lúc đó con người sẽ có được bình đích thực. Hiểu như thế thì sứ mệnh xây dựng hòa bình của người Kitô hữu chúng ta chính là chia sẻ quà tặng ấy với mọi người xung quanh.
Trong một xã hội mất định hướng thì người Kitô hữu thực thi sứ mệnh thiên định của mình, và thể hiện bằng những việc làm cụ thể. Trong một xã hội băng hoại vì giành giật, ích kỷ, người tín hữu Kitô thực thi sứ mệnh hòa bình bằng một niềm tín thác kiên vững vào tình yêu của Thiên Chúa.
(Suy niệm của Lm. Alfonso)
Tin Mừng Ga 14: 23-29: Bình an là tình trạng của một tâm hồn đang có tương quan tốt với Thiên Chúa và với tha nhân. Bình an có Chúa ở cùng không phải là sự bình an nhàn nhã theo thế gian, nhưng là sự bình an dám đương đầu với song gió, khó khăn, vất vả giữa xã hội hôm nay.
Suy niệm:
Với “diễn từ ly biệt” khi sắp sửa chia tay các môn đệ, Chúa Giêsu đã cố gắng hết sức trấn an các môn đệ Người. Chắc hẳn lúc này đây các ông đang trong tình trạng rất bồn chồn và sợ hãi khi sắp phải chia tay Thầy. Người ta thường bảo “Xa mặt cách lòng”, nếu tình cảm con người ta dành cho nhau không đủ lớn thì rồi sẽ phai dần theo thời gian. Do vậy, Chúa Giêsu muốn các môn đệ và tất cả Kitô hữu chúng ta yêu mến Chúa không phải chỉ bằng lời đầu môi chót lưỡi nhưng bằng những hành động cụ thể, những quyết tâm thực hiện thấy rõ: đó là tuân giữ những lời Chúa: “Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy”.
Lời Chúa dạy là gì? Thưa “điều Thầy truyền dạy các con là: ‘Hãy yêu thương nhau’.” Và kết quả của người thực thi giới răn Chúa sẽ được Chúa Cha yêu mến người ấy, và “Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy”. Khi Chúa chia tay các môn đệ mà các ông vẫn sống giữ luật Chúa như Người đang ở bên thì rồi người đó sẽ được cả Ba Ngôi Thiên Chúa không chỉ hiện diện, đồng hành và là ở trong con người đó. Chính khi ấy, Ðấng Phù Trợ là Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Chúa Giêsu, Đấng ấy sẽ chỉ dạy các môn đệ thấu rõ mọi điều, sẽ nhắc nhở cho họ về tất cả những gì mà Chúa Giêsu đã chia sẻ với họ trong tương quan thầy trò.
Khoảng cách về thể lý không còn ý nghĩa khi trong lòng chúng ta luôn có người mình yêu. Đó là cảm nghiệm về một sự hiện diện thân mật khi trong lòng người đó luôn có đầy hình ảnh của người kia. Đó là một sự hiện diện đong đầy. Vâng, sau biến cố Phục Sinh, Chúa Giêsu đã trở nên con người của mọi thời đại. Để rồi Người ra đi rồi trở lại với môn đệ của Người bằng nhiều hình thức:
– Bằng sự Phục Sinh để chuẩn bị cho ta sự sống đời đời.
– Bằng cách đến trong ngày phán xét để đem ta vào vào trong sự sống đời đời.
– Bằng phép Thánh Thể mỗi lần ta tham dự Thánh lễ và rước Chúa vào lòng để nuôi dưỡng sự sống phần hồn thiêng liêng.
– Bằng ơn thánh để tăng trưởng sức sống thiêng liêng cho tâm hồn ta.
– Bằng cách can thiệp vào dòng lịch sử cuộc đời ta để tỏ bày sự quan phòng của Chúa khi ta đặt niềm tin tưởng ở nơi Chúa là Đấng cùng đích cuộc đời mình.
Chính khi có Chúa ở cùng, con người ta luôn có được sự bình an, ngay cả trước những lựa chọn mang tính quyết định. Bình an không phải giống như yên ổn, vì yên ổn là ở bên ngoài còn bình an thì ở bên trong. Bình an là tình trạng của một tâm hồn đang có tương quan tốt với Thiên Chúa và với tha nhân. Bình an có Chúa ở cùng không phải là sự bình an nhàn nhã theo thế gian, nhưng là sự bình an dám đương đầu với song gió, khó khăn, vất vả giữa xã hội hôm nay.
Vào tháng 4 năm 2014, vụ tai nạn chìm phà Sewol, Hàn Quốc làm chấn động không chỉ đất nước xứ Kim Chi mà cả thế giới. Thế nhưng, bên cạnh đó cũng có những con người sống mãi với thời gian.
Jung Chawoong, nam sinh 17 tuổi tạo nên một câu chuyện cảm động đầy nước mắt khi đóng vai anh hùng, xả thân cứu bạn bè trong tai nạn chìm phà. Theo lời kể của những người thoát nạn, vào lúc nguy ngập, Jung Chawoong đã đưa áo phao của mình cho một người bạn đang chìm, thậm chí chàng trai trẻ còn lao xuống nước để cứu những người khác. Tại nạn chìm phà xảy ra hôm 17/4, đúng vào ngày sinh nhật của Jung Chawoong. Hành động cao đẹp, hi sinh vì người khác của chàng trai trẻ được lan truyền trên mạng Hàn Quốc. Cộng đồng vô cùng tiếc thương và cảm phục chàng nam sinh anh hùng.
Khá nhiều trong số những người sống sót trên chuyến phà Sewol năm 2014 sẽ luôn nhớ về một vị thần hộ mệnh trong hình hài nhỏ bé của một cô gái tên Park Jiyoung. Jiyoung là một trong số các thuyền viên trên chuyến phà Sewol, là người đã không màng đến tính mạng của chính bản thân mình mà chỉ cố gắng để giúp càng nhiều hành khách có thể thoát ra khỏi chiếc phà càng tốt. Giữa lúc mọi người hoảng loạn, Nữ thuyền viên 22 tuổi bình tĩnh và dung cảm hướng dẫn các hành khách mặc áo phao và đi đến cửa thoát hiểm. Ngay cả khi nước đã ngập ngang ngực cô vẫn kiên quyết ở lại cứu cho bằng được càng nhiều người càng tốt. Theo lời kể của một người thoát chết, Park Ji Young nói rằng cô sẽ chỉ mặc áo phao khi các hành khách có đủ áo mặc. Cô tuyên bố mình và thủ thủy đoàn sẽ là những người cuối cùng rời khỏi tàu. Nhưng rồi cô chỉ không thực hiện được lời hứa cuối cùng với các hành khách cuối cùng, đó là cùng thoát ra ngoài với họ. Park Jiyoung, biểu tượng đẹp cho sự kiện thảm khốc năm 2014 ấy.
Nhìn lại cuộc sống thường ngày, chúng ta sẽ thấy có một điều hết sức tự nhiên, đó là khi yêu mến ai, chúng ta thường cố gắng bằng mọi cách để làm vui lòng người đó, cố gắng nhanh chóng thực hiện mọi ý muốn của người đó và điều đó luôn làm cho mình cảm thấy bình an. Cũng thế, càng yêu mến Thiên Chúa nhiều, chúng ta sẽ càng cố gắng thực hiện những điều Ngài muốn, càng cố gắng tuân giữ giới răn Ngài dạy, đó là “yêu thương” anh chị em mình, yêu thương cả những người đang làm khổ mình, đang có cái nhìn phiếm diện về mình, khi ấy chúng ta mới có bình an của Chúa cách thực sự. Hiểu được như vậy, thì chúng ta cũng hiểu được việc yêu thương không loại trừ là chúng ta sống trong bình an Chúa ban tặng khi chúng ta biết tuân giữ lời Chúa. Đó chính là dấu chỉ rõ ràng nhất để chúng ta chứng tỏ lòng yêu mến của mình đối với Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con bình an và tin tưởng khi thực thi giới răn Yêu thương mà Chúa dạy để đón nhận tất cả anh chị em con, vì chính Chúa đã yêu thương con trước, ngay khi con còn là một tội nhân, là người chưa đáng yêu trước mặt Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn)
Vào trung tuần tháng 11 năm 2000, đang khi các giám mục Công giáo Hoa kỳ tiến hành cuộc họp thường niên, một số các nhà hoạt động bênh vực “quyền lợi” của những người đồng tính luyến ái đã đột nhập và phản đối ồn ào, chống lại những giáo huấn của giáo hội liên quan đến “quyền lợi” của những người đồng tính.
Được biết trong cuộc họp lần này, các giám mục Hoa kỳ đã đưa ra bản tuyên ngôn về hôn nhân, kêu gọi một sự tín trung hơn trong giao ước hôn nhân giữa nam và nữ. Bản tuyên ngôn xác định rõ ràng hôn phối là sự kết hiệp thánh thiện giữa một người đàn ông và một người đàn bà. Không thể chấp nhận chuyện những người cùng phái lấy nhau.
Đã có khoảng 200 người tụ tập biểu tình đòi giáo hội chấm dứt tình trạng “khủng bố tinh thần” chống lại những người đồng tính hay đổi phái. Sau đó có khoảng 100 người biểu tình bị bắt giữ vì đã có hành vi bạo động quá đáng. Một số người trong tổ chức “Dignity and Soul Force” cho rằng Giáo hội không đi đúng đường lối Phúc âm khi không mang lại an bình cho tâm hồn người ta, lại còn tạo nên bầu khí phân cách đối với người đồng tính.
Đức Cha Joseph A. Galante, Giám mục Phó của địa phận Dallas đã trả lời những người trong tổ chức Dignity and Soul Force rằng: “Phúc âm vẫn là Phúc âm. Trong đó luôn có thách đố, nhưng chắc chắn không có việc khơi mào bạo động hay thù hận đối với ai. Tuy nhiên có những người dùng Thánh kinh như để phục vụ cho mục đích riêng của mình chứ không phải để trung tín bước theo ý nghĩa xác thực của Tin Mừng.”
Hoa trái của Tin Mừng là bình an, thứ bình an do Thiên Chúa ban tặng chứ không phải đến từ thế gian. Có nhiều người lầm tưởng bình an là những cảm giác yên hàn, mọi chuyện xuôi đẹp, không có chông gai, chiến tranh, thập giá. Đây không phải là thứ bình an đích thực. Nó tuỳ thuộc vào ngoại cảnh. Nó không phải là thứ bình an mà Đức Giêsu đã hứa ban cho các môn đệ trong bữa tiệc ly. Bình an Chúa ban luôn có bóng hình thập giá.
Danh ngôn thế giới có câu “Nemo dat quod non habet” – Không ai cho kẻ khác điều mình không có. Vậy thì làm sao Đức Giêsu lại có thể có được an bình để trao ban cho các môn đệ khi mà trước mắt Ngài là những đau thương và ngăm đe của khổ hình thập giá, cùng với muôn sự ruồng bỏ dể duôi của bao người?
Có lẽ chỉ khi nhìn vào Đức Giêsu trong thời điểm đối diện với những gian nan thử thách, chiến đấu cam go, người ta mới thấy rõ hơn sự bình an sâu thẳm mà Ngài để lại cho các môn đệ như món gia bảo cuối đời. Đây là thứ bình an nội tại, một thứ bình an được kết tinh nhờ sự hiệp thông với Thiên Chúa Cha, thế nên, dù bóng cao thập giá có mịt mùng thì hồn Ngài vẫn là nguồn sáng cho nhân loại.
Một khi có được sự hiệp thông với Thiên Chúa thì dù gặp thành công hay thất bại, may mắn hay rủi ro, giàu có hay khó nghèo, chống đối hay ủng hộ, đều không làm người ta xao xuyến, nhát đảm, hoặc bất an. Còn khi bước sai lệch nẻo đường đến với Thiên Chúa thì dù muôn sự tưởng như thuận buồm xuôi gió hay an nhàn vô sự, tâm hồn vẫn mãi bất an cho đến khi tìm lại được ơn giao hoà.
“Ta để lại bình an cho các ngươi; Ta ban bình an cho các ngươi” (Ga 14:27a). Hẳn là Chúa Giêsu muốn nói đến sự bình an mà Ngài sẽ mang lại cho con người qua mầu nhiệm thập giá. Bởi vì bấy lâu nay, kể từ ngày Adong Eva sa ngã, nhân loại mãi sống trong tội, chạy theo những đam mê thế tục, để cho những tên giặc xác thịt khuấy động và làm bất an tâm hồn. Nay qua cuộc khổ nạn đau thương của Chúa Giêsu mà an bình được ban xuống cho nhân loại. Chiếc cầu giao hoà giữa trời cao với đất thấp được lập nên nhờ thập giá.
Biết bao bạo động, chiến tranh sảy ra đều phát xuất từ những dục tình xấu xa nơi tâm hồn người ta. Muốn dẹp chiến tranh bạo động trước hết phải học chế ngự những mầm mống nổi loạn của trí lòng. Muốn chế ngự được những mầm mống đó không thể không có sự trợ lực của hy sinh, khổ giá. Nhưng điều kỳ lạ mà Tin Mừng Đức Kitô mang cho con người lại là chính khi đón nhận khổ giá thì bình an và sự sống lại phát sinh dồi dào.
Những lời sau đây trích trong sách “Gương Chúa Giêsu” đáng để chúng ta suy gẫm giữa bao vinh nhục, thăng trầm của cuộc sống:
Đời hứa bình an cho những ai phụng sự đời. Nhưng thứ bình an nền tảng ở tiền tài, sắc dục, kiêu ngạo… đã đánh lừa những người theo đuổi nó, và nó đã tiêu tan đi như giấc mộng đẹp.
Trái lại, bình an thực nền tảng ở một lương tâm thanh thản. Nó hệ tại biết kìm hãm ước muốn, biết tự thoát, khiêm nhường, hơn là thoả mãn dục vọng, ăn trên ngồi trốc.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con thứ Bình an của Chúa, thứ bình an mà người đời không thể cho được, để chúng con được thư thả mà phụng thờ Chúa và được hạnh phúc an nghỉ trong Chúa cho đến muôn đời.
Thành tâm tuân giữ luật Chúa, bước theo Đức Kitô như Ngài đang “tiến đến với Cha” (Ga 14:28), dù bước tiến đó đầy chông gai, thử thách, và đau đớn xác thân, chắc một điều: an bình, niềm vui, và sự sống chính là phần thưởng cho những người môn đệ tín trung.
Anh chị em thân mến.
Mỗi ngày và mỗi ngày, cứ đến giờ quy định, trước các cổng trường mẫu giáo, nhà trẻ và các trường cấp I, có rất nhiều xe chờ đón bên ngoài. Dù trời mưa hay nắng, những người chờ đợi nầy không bao giờ lỗi hẹn. Càng lạ lùng hơn nữa, nếu trời mưa bất chợt, thì những tài xế nầy sẳn sàn để cho cơn mưa hành hạ mình, còn người được rước luôn được bảo vệ hết sức có thể.
Những chiếc xe chờ đón đó là ai? Thưa đó là những người cha, người mẹ của những đứa con đang học trong những ngôi trường mà họ chờ đợi trước cổng. Vì yêu thương mà cứ mỗi ngày họ lại đúng hẹn, cho dù bận rộn nhiều công việc, nhưng với đứa con thân yêu của mình, họ vẫn giữ đúng hẹn. Chỉ vì yêu thương họ mới có thể trung thành được như thế, họ mới có thể giữ đúng lời hứa đến như thế.
” Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy… kẻ không yêu mến Thầy thì không giữ lời Thầy.”
Chúa Giêsu đã nói lên những lời tâm phúc với các môn đệ của mình. Nhìn thấy các ông buồn rầu lo sợ, Ngài trấn an các ông, Ngài chỉ đòi hỏi các ông về lòng yêu thương. Dấu chỉ để chứng tỏ tình yêu là vâng giữ lời của Ngài. Tình yêu thương không chỉ là những lời nói suông, nhưng phải được biểu lộ bằng hành động.
Các môn đệ đã vâng giữ lời, đã chứng tỏ được lòng yêu mến qua cuộc sống, qua con người của các ông. Giờ đây các ông được sống trọn vẹn trong tình yêu mà các ông đã chúng tỏ qua việc tuân giữ lời.
Trải qua hơn 2000 năm lịch sử. Giờ đây Chúa Giêsu cũng nói với những người môn đệ của ngày hôm nay, những người đang ngồi trong nhà thờ, những người đang lắng nghe những lời nói của Tình Yêu.
“Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy.”
Nếu giờ nầy có ai chất vấn chúng ta về tình yêu, chúng ta sẽ trả lời sao đây? Có lẽ chúng ta cũng dám tự hào rằng mình yêu mến Chúa. Nhưng coi chừng, chúng ta yêu mến Chúa chỉ bằng môi miệng, còn tâm hồn thì ở tận đâu. Chúng ta ngở rằng Thiên Chúa của mình ở trong nhà thờ, bị nhốt trong nhà tạm. Chúng ta chỉ nhìn thấy Chúa trong kinh nguyện, trong những giờ phút mà chúng ta gọi là việc đạo đức. Ngoài những việc đó ra, chúng ta cứ mặc tình thoải mái, muốn sống sao thì sống.
“Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy.”
Chúng ta ngỡ rằng với những lời kinh, những lúc ngồi trong nhà thờ lâu giờ, như thế gọi là yêu mến Chúa, còn ngoài ra cuộc sống dường như không có Chúa bên cạnh. Như vậy chúng ta giữ lời Chúa như thế nào để chứng tỏ tình yêu của mình? Chúng ta có còn biết Lời Chúa là Lời như thế nào hay không? Lời Chúa là LỜI YÊU THƯƠNG. Chúa dạy chúng ta yêu thương. Nhưng yêu thương không phải chỉ là những lời nói suông. Yêu thương phải được thể hiện qua hành động, qua việc vâng giữ Lời Chúa.
Nếu chúng ta yêu mến, nếu giữ Lời Chúa thì chúng ta sẽ tận tâm hơn trong công việc hằng ngày, tận tâm hơn với trách nhiệm mà mình được trao cho.
Nếu chúng ta yêu mến và giữ Lời Chúa, chúng ta sẽ không còn thấy những người chung quanh như gánh nặng trên vai của mình nữa.
Nếu chúng ta yêu mến Chúa không chỉ bằng lời nói suông, thì đôi tay chúng ta sẽ hành động, không quảng ngại những khó khăn trắc trở. Khi đó tình yêu sẽ thúc đẩy chúng ta hành động giống như người cha, người mẹ không ngại mưa nắng khó khăn, sẳn sàn bảo vệ tình yêu của mình đối với đứa con thân yêu. Nếu chúng ta hành động được như thế, là chúng ta yêu mến Chúa qua cách đối xử với người anh em. Đó là đã vâng giữ lời Chúa và chúng ta sẽ được Thiên Chúa ở cùng.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta biết vâng giữ lời Chúa bằng hành động yêu thương.
(Suy niệm của AM. Trần Bình An)
Sau khi chiến tranh lạnh vừa kết thúc (1991), thế giới chưa kịp hưởng thái bình được bao lâu, thì sự kiện ngày 9/11/2001 trên đất Mỹ, đánh dấu thảm họa khủng bố bắt đầu lan tràn trên toàn cầu. Phập phồng mối lo sợ sự dữ không hề thuyên giảm, mà càng ngày càng dồn dập lan nhanh khắp nơi.
Mới đây, ngày 15/4/2013 xảy ra vụ khủng bố tại đích đến của cuộc thi marathon Boston, khiến dân chúng Hoa Kỳ càng thêm kinh hoàng. Trong khi đó, cả thế giới còn đang lo lắng chiến tranh hạt nhân, đe dọa châm ngòi bất cứ lúc nào từ Bắc Triều Tiên.
Như thế nền hòa bình, sự bình an của thế gian chỉ tạm bợ, bấp bênh và rất phù du. Còn sự bình an trong tâm hồn mỗi người cũng phù phiếm và bất định không kém.
Hôm nay qua Tin Mừng Thánh Gioan, Chúa Giêsu lại trao ban sự bình an. “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ. hãi.” (Ga 14, 27)
Bất an
Ngay từ khi Adam và Eva phạm tội, con người bắt đầu nếm mùi sợ hãi, bất an. Cả hai hoảng sợ, trốn tránh, xấu hổ, khi Thiên Chúa tìm đến họ nâng đỡ, an ủi. Sự bất an kéo đến xâm chiếm con người, khi mối tương quan giữa Thiên Chúa với con người bị phá vỡ bởi tội lỗi. Thành ra con người mới cảm thấy bơ vơ, lạc lõng giữa môi trường dù quen hay lạ.
Hệ lụy tiếp theo, con người cảm thấy bất an với chính đồng loại, khi Thiên Chúa không còn hiện diện trong cuộc sống, không còn là nơi nương tựa. Sự tham lam, giận ghét, ghen tuông, thù hận, theo cái ác phát triển như như cỏ dại, như gai góc, như thú dữ xuất hiện ngay trong Vườn Địa Đàng, sau khi xảy ra tội nguyên tổ. Cain đã lạnh lùng giết chết Abel, em ruột. Các cuộc xung đột giết chóc phát sinh vô tận giữa các bộ lạc, sắc tộc và dân tộc, liên miên suốt chiều dài lịch sử nhân loại.
Trong thâm tâm mỗi người, sự lo lắng bất an luôn đi cùng suốt cuộc đời, từ khi chào đời đến khi xuôi tay, nhắm mắt. Con người luôn cảm thấy yếu đuối, bất lực trước phong ba, bão táp, nghịch cảnh.
Khi Chúa Cứu Thế Giáng Sinh, món quà đầu tiên Người gửi đến nhân loại chính là hai chữ bình an: “Bình an dưới thế cho người thiện tâm!” (Lc 2, 14)
Bình an
Chỉ con người thiện tâm, trở về với Nguồn Cội là Thiên Chúa, mới có thể đón nhận sự bình an, tặng phẩm Giáng Sinh cao quý. Sám hối trở lại, hàn gắn mối giao hòa với Thiên Chúa, từ bỏ tội lỗi, những đam mê xác thịt, những quyến rũ trần thế, những tham, sân, si, nghi, mạn, ác, con người mới xứng đáng đón nhận hồng ân bình an.
Điều tiên quyết khi đã trở về theo Chúa, chính là bỏ mình, bỏ tất cả con người cũ tội lỗi, chấp nhận đau thương, thánh giá Chúa gửi đến, sống theo Lời Hằng Sống, chấp nhận lội ngược dòng, chịu sỉ nhục và bắt bớ, nhục hình.
Ông Phêrô đã toan trốn khỏi thành Roma để khỏi chịu khổ nạn, thấy Chúa Giêsu đi ngược trở vào thành. Ông kinh ngạc liền hỏi: “Quo Vadis?” (Thầy đi đâu vậy?) Chúa đáp: “Romam Vado iterum crucifigi.” (Thầy đến Roma để chịu đóng đinh lần nữa). Nghe vậy, ông Phêrô bèn hối lỗi, giác ngộ, trở vào thành an tâm tiếp tục sứ vụ, để cuối cùng được phúc tử vì đạo, bằng cách chịu đóng đinh ngược. Nhờ đồng hành cùng Chúa, ông Phêrô mới cảm thấy bình an, dù đứng trước ngay thách đố sinh tử. (Henryk Sienkiewicz, Quo Vadis)
Khi đã thành tín giao hòa cùng Chúa, con người mới có thể giao hòa với tha nhân, với anh em mọi người, quen biết cũng như xa lạ, thân thiết cũng như thù địch, mà tâm hồn vẫn bình an, thanh thản, vô ưu. Do vậy, các thánh nhân mới can đảm và bình thản chịu nhục hình cho đến hơi thở cuối cùng.
Tái củng cố mối liên kết với Chúa, con người mới có thể thân thiện với tạo vật, với môi trường. Mới tôn trọng, gìn giữ môi trường xanh, sạch và đẹp. Mới thân thiết, yêu quý các loại động vật hoang dã. Đáp lại, môi trường không bị hủy diệt, tận diệt, không bị biến đổi khí hậu, không bị ô nhiễm, hay sa mạc hóa, mà trở nên Vườn Địa Đàng, hành tinh xanh đáng sống và đáng yêu.
Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa,
Để con đem yêu thương vào nơi oán thù,
Đem thứ tha vào nơi lăng nhục,
Đem an hòa vào nơi tranh chấp,
Đem chân lý vào chốn lỗi lầm;
Đề con đem tin kính vào nơi nghi nan,
Chiếu trông cậy vào nơi thất vọng;
Đề con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm,
Đem niềm vui đến chốn u sầu. (Lm Kim Long, Kinh Hòa Bình)
Lạy Mẹ Maria, xin cho con biết noi gương Thánh Gia, để con nhận được quà tặng bình an viên mãn của Chúa trao ban. Amen.
Truyện kể về bác nông dân nối cầu hoà bình: Ngày nào bác cũng phải khàn cả tiếng để đuổi đám gà của những người hàng xóm. Gà chui qua hàng rào và bới nát cả vườn tược của bác. Bác xin những người láng giềng nhốt gà lại, thế nhưng không ai thèm chú ý đến lời yêu cầu của bác. Là một người ưa chuộng hoà bình, bác không muốn ăn miếng trả miếng. Bác liền nghĩ ra một giải pháp độc đáo: Bác đi mua trứng gà bỏ vào giỏ và cứ vài ngày, bác lại mang trứng gà sang cho những người láng giềng và nói rằng đám gà của họ đã đẻ trong vườn của bác. Bác làm thế 3 lần và kết quả diễn ra nhanh chóng. Những người láng giềng vội rào dậu cẩn thận để giữ gà ở nhà đẻ trứng. Chỉ mất một ít trứng gà mà bác đã tránh được những tranh chấp vô ích có thể làm sứt mẻ tình hàng xóm.
Thị phi ở đời thật khó lường, đôi khi có bé thì xé ra to. Cách tốt nhất là cùng nhau xây dựng hoà bình. Mọi người sẽ có một cuộc sống an lạc, vui tươi và hạnh phúc. Các cộng đoàn tín hữu thời sơ khai cũng gặp rất nhiều những vấn đề nan giải. Một số người thủ cựu với óc hẹp hòi thường gây xáo trộn bằng cách rỉ tai và loan truyền những lời thất thiệt gây nghi ngờ: Chúng tôi nghe biết có một số người trong chúng tôi, không được chúng tôi uỷ nhiệm, mà lại đi nói những điều gây xáo trộn nơi anh em, làm anh em hoang mang (Cv 15,24). Trong giai đoạn tranh tối tranh sáng giữa lề luật của đạo cũ và đạo mới đã làm cho nhiều tâm hồn bất an. Vì có nhiều người sống đạo chỉ cậy dựa vào những hình thức bên ngoài và chu toàn những khoản luật không đi đôi với đời sống nội tâm nên đã gặp nhiều xao xuyến.
Đại diện Giáo Hội đã gửi Phaolô, Barnaba, Giuđa, Sila và những vị có uy tín đến với các anh chị em thuộc dân ngoại ở Antiokia, Syria và Cilicia để khuyên dạy và gởi lời chào thăm của các Tông đồ và Kỳ lão. Các Tông đồ không muốn đặt gánh nặng nào khác lên vai những người đã tòng giáo. Một số điều cần thiết nên thực hiện: Là kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết và tránh gian dâm. Anh em cẩn thận tránh những điều đó là tốt rồi. Chúc anh em an mạnh (Cv 15,29). Các Tông đồ đã quyết định không thực hành việc cắt bì cho những tân tòng gia nhập Giáo Hội. Vì theo truyền thống của người Dothái, mọi con trai đều được cắt bì theo luật Môsê.
Chúa Giêsu đã vượt qua từ cõi chết tới sự sống lại. Đường vào đạo của Chúa Giêsu khởi đi từ trái tim yêu thương. Vâng giữ lệnh truyền của Thầy là yêu mến Thầy. Tình yêu là hạt nhân sống đạo. Thánh Augustinô viết rằng: Cứ yêu đi, rồi làm. Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu chọn lựa: Ơn gọi của con là tình yêu. Mẹ Têrêxa thành Calcutta lập dòng Thừa sai Bác ái. Mẹ Têrêxa đã phát biểu: Qua dòng máu, tôi là người Albania. Bởi quyền công dân, tôi là người Ấn Độ. Với niềm tin, tôi là một nữ tu Công giáo. Từ trái tim, tôi hoàn toàn thuộc về Thánh tâm của Chúa Giêsu. Thánh Tâm của Chúa đầy lửa mến và lòng xót thương. Đức Giêsu nói: Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy (Ga 14, 23). Tình yêu là tất cả. Chúa Giêsu đã sống và đã chết cho tình yêu để tình yêu sống mãi.
Mỗi lần hiện ra cùng các Tông đồ, Chúa Giêsu luôn cầu chúc bình an. Sự bình an đích thực trong tâm hồn: Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi (Ga 14,27). Khi Chúa Giêsu giáng trần, các thiên thần đã đồng thanh ca hát rằng: Bình an dưới thế cho người thiện tâm. Ai trong chúng ta cũng mong muốn có sự an lạc và yên vui trong cuộc sống. Muốn tìm sự an vui thanh thản, chúng ta cần buông bỏ những ràng buộc kéo lôi và tranh chấp vô ích. Nếu chúng ta có tâm thiện, chúng ta sẽ chuyển hóa mọi điều tiêu cực trở thành tích cực. Giống như khi đeo kính, nếu chúng ta mang kính sáng thì sẽ thấy mọi sự vật rõ ràng trong sáng. Khi đeo kính màu hay kính râm, chúng ta sẽ nhìn thấy khung cảnh chung quanh đổi mầu và mờ ảo. Cũng vậy khi lòng chúng ta áy náy và buồn phiền, tâm của chúng ta sẽ bị xao xuyến và lo lắng. Tâm trong thì lòng thành.
Sự bình an của Chúa ở trong những mảnh hồn có thiện tâm. Thiện tâm hay tâm thiện là phải có tâm từ, tâm bi, tâm hỉ và tâm xả. Tâm từ có khả năng đối trị lòng tham và sự giận hờn. Tâm từ là đem niềm vui cho người khác một cách vô điều kiện. Tâm bi là xoa dịu những nỗi đau và nỗi khổ của con người. Chia sẻ và cảm thông những nỗi bất hạnh của người khác. Thấy người đau, chúng ta cảm thông nỗi đau. Tâm hỉ, đối lại là tâm tị hiềm và ganh ghét. Tâm chúng ta luôn hoan hỉ với việc làm tốt của người khác. Thấy người khác công thành danh đạt, thì chúng ta chúc mừng. Thấy người khác siêng năng, tinh tấn, tốt lành và may mắn, chúng ta chung vui hoan hỉ. Tâm xả, đối trị lại với tâm kỳ thị và cố chấp của mỗi con người. Chúng ta sống thảnh thơi, nhàn hạ, cởi mở và không vướng lụy vào điều gì khác.
Khi thời gian đã mãn, Chúa Giêsu phải rời thế gian để về cùng Chúa Cha. Chúa Giêsu đã hiện diện cùng các môn đệ và Giáo Hội một cách khác. Đấng Bảo Trợ sẽ đến để dạy chúng ta mọi điều. Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta về Ngôi Ba Thiên Chúa. Nhờ các ơn sủng trợ giúp của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội tiếp tục cuộc lữ hành trần thế: Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em (Ga 14,26). Chúng ta biết Giáo Hội là một tổ chức có cơ cấu như một xã hội, nhưng lại có sứ vụ linh thánh (divine mission). Giáo Hội tập trung sứ mệnh cao cả là rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô.
Chúng ta tin rằng Chúa Thánh Thần vẫn luôn hoạt động trong Giáo Hội qua mọi biến cố. Ngày tháng qua, chúng ta đã chứng kiến những luồng gió tươi mát qua sự kiện từ chức của Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI và bầu chọn Đức tân Giáo hoàng Phanxicô. Đức Giáo hoàng Phanxicô đã bày tỏ với các yồng y: Các ngài phải gắn bó niềm tin chặt chẽ với tận gộc rễ của Tin Mừng và xa tránh những cám dỗ của thời hiện đại. Trái lại, Giáo Hội có nguy cơ trở nên nhóm bác ái khác mà không có sứ vụ thánh. Đức Giáo hoàng nói: Chúng ta có thể bước tới mọi nơi mà chúng ta muốn và có thể xây dựng mọi thứ, nhưng nếu chúng ta không loan báo Chúa Giêsu Kitô, có vài điều sai lạc. Chúng ta trở nên một tổ chức thương cảm phi chính phủ và không còn là Giáo Hội, Hiền Thê của Chúa Kitô. Chính Chúa Kitô mới là trung tâm điểm đời sống của các Kitô hữu và Giáo Hội trong mọi nơi và mọi thời.
Thánh Gioan trong Sách Khải Huyền, đã thị kiến vinh quang quê hương vĩnh cửu nơi Chúa Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa: Rồi đang khi tôi xuất thần, thì người đem tôi lên một ngọn núi cao hùng vĩ và chỉ cho tôi thấy Thành Thánh, là Giêrusalem, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống (Kh 21,10-11). Để cùng chung hưởng hạnh phúc với Chúa Kitô Phục Sinh, Đức Giáo hoàng Phanxicô nhắc nhở chúng ta: Ai không cầu nguyện với Thiên Chúa, người đó cầu nguyện với thần dữ. Khi chúng ta không tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô, là chúng ta tuyên xưng thế giới của ma quỷ và thần dữ. Chỉ có Chúa là Đấng Thánh, chỉ có Chúa là Chúa và chỉ có Chúa là Đấng Tối Cao. Chúng ta cùng đặt niềm tin yêu và hy vọng vào Chiên Thiên Chúa vì Ngài là nguyên thuỷ và cùng đích của tất cả vũ trụ muôn loài: Thành chẳng cần mặt trời mặt trăng chiếu sáng, vì đã có vinh quang Thiên Chúa toả rạng và Con Chiên là ngọn đèn chiếu soi (Kh 21,23).
Lạy Chúa, tình yêu Chúa bao la ngập tràn, xin nguồn ân sủng Chúa biến đổi tâm hồn chúng con trở nên tổ ấm của tình yêu. Xin cho chúng con được ngụp lặn trong biển tình bình an, để chúng con luôn mến Chúa và yêu người. Amen.
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Với những lời tâm sự này, Chúa Giêsu hướng các Tông đồ về tương lai: Thầy sẽ… sẽ…
Tương lai là “yêu mến Thầy, giữ lời Thầy”.
Tương lai đó là đón nhận “Đấng Bảo Trợ mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy”.
Tương lai đó là “Thầy sẽ về với Chúa Cha”…
Để bảo đảm cho tương lai, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy để anh em không xao xuyến, không sợ hãi.
Bảo đảm cho tương lai là “yêu mến Thầy”, là “giữ lời Thầy”.
Bảo đảm là Thánh Thần. Đấng Bảo Trợ thần linh.
Tất cả quy tụ chung quanh tình yêu: yêu mến Thầy.
Chúa Giêsu đã từng giải thích rõ ràng, yêu không chỉ là nói: “Những ai nói lạy Chúa, lạy Chúa thì không vào được Nước Trời”.
Ngày chung thẩm, chúng ta sẽ được phán xét về tình yêu (thánh Gioan Thánh Giá): “Hãy lui ra cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời… Vì xưa Ta đói, các ngươi không cho ăn…”
Yêu mến Thầy là yêu thương những người Thầy đã yêu, yêu bằng hành động cụ thể. Điều này đã được các tiên tri dạy từ xa xưa, nhưng Chúa Giêsu khẳng định hơn: “Điều gì các ngươi làm cho một người anh em bé mọn của Ta đây, là làm cho chính Ta”.
Yêu người là yêu Thầy. Thầy là người anh em không may mắn, nghèo đói, bệnh tật, buồn nản, khốn cùng…
“Lời Thầy không là của Thầy mà là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy”. Nơi khác Ngài xác nhận: “Cha với Thầy là một”.
Nhưng lời Thầy là lời của Thiên Chúa, vậy sao chúng ta không thực hiện? Tại sao chúng ta dám bỏ lời Ngài qua một bên? Chúng ta có yêu mến Chúa chưa? Đã giữ lời Chúa chưa? Hay chúng ta khinh thường Thiên Chúa?
Nếu chúng ta gọi Ngài là Thiên Chúa thì chúng ta sẽ cố gắng hết mình lắng nghe lời Ngài và đem ra thực hành. Nhưng chúng ta chưa làm hay chỉ làm một cách nào đó, không hết tình. Điều đó chứng tỏ đức tin chúng ta chưa rõ rệt, chúng ta chưa biết Chúa.
“Ai yêu mến Thầy thì giữ lời Thầy”. Nếu chúng ta tin Chúa là Thiên Chúa, là Đấng Cao Cả tuyệt đối, Đấng tạo nên chúng ta, Đấng là Cội Nguồn và là hạnh phúc duy nhất của chúng ta, chúng ta sẽ quí chuộng từng lời nói của Ngài như người ta quí những hạt kim cương, chúng ta sẽ tuân hành triệt để. Những điều đó đã không xảy ra. Chúng ta xem lời Chúa như lời của một ai đó không liên hệ… Chúng ta cảm thấy nhàm chán khi nhắc đến Lời Chúa.
Trên thế giới, những nhà độc tài thường cố nhét vào đầu dân của họ những lý thuyết nghèo nàn của họ… Tại sao chúng ta không nghiền ngẫm Lời Chúa và đem ra thực hành? Lời Chúa là sự thật và là sự sống. Đức tin của chúng ta nghèo nàn biết bao!
Giữ Lời Chúa mang lại cho chúng ta một hồng ân quí báu hơn mọi của cải trần gian đó là: “Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở trong người ấy”.
Chúng ta trở nên “Đền Thờ của Thiên Chúa”, nơi cư ngụ của Thiên Chúa, Thiên Chúa Tình Yêu. Không mấy ai ý thức tầm vóc lớn lao của hồng ân này.
Chúng ta, những con người hèn mạt, nhơ nhớp, được Chúa chọn làm nơi cư ngụ của Ngài! “Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy”. Tâm hồn chúng ta sẽ tràn ngập tình yêu của Ngài. Phải chăng là một hồng ân vô giá?
Sao chúng ta không thấy? Chúng ta mong ước điều gì? Những bữa tiệc trần gian có thỏa mãn con tim chúng ta không? Mọi sự trên trần gian đều qua, tro bụi trên đường dài thôi. Chỉ có Chúa mới thực sự là hạnh phúc duy nhất của chúng ta. Giáo hội khảng cổ lặp lại cho chúng ta chân lý này, nhưng không mấy người nghe. Thế gian, với những trò vui của nó vẫn hấp dẫn chúng ta. Theo thế gian, chúng ta gặt hái được gì? Những trò vui ngắn ngủi mà trống rỗng tâm hồn, và chúng ta vẫn tay không trước những thống khổ, âu lo, phiền muộn.
Tìm về hạnh phúc của tình yêu Chúa mới là con đường bảo đảm cho tương lai: “Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy”. Còn hạnh phúc nào bằng? Hơn thế nữa: “Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”. Chúng ta có hiểu những lời đó không?
Thiên Chúa không còn nơi nào trú ngụ đến nỗi phải nương nhờ những tâm hồn như chúng ta sao? Cả triều thần thánh không đủ cho Ngài sao?
Đúng thế, tình yêu không bao giờ cảm thấy thỏa mãn, tình yêu luôn là thiếu thốn, là vô biên. Vì Ngài là Tình Yêu, Ngài cũng là Bất Tận.
Chúng ta là những người được yêu, và người yêu chúng ta là Thiên Chúa! Hạnh phúc nào bằng?
Hãy ca lên bài ca cảm tạ, “vì tình thương của Chúa bền vững muôn năm” “vì muôn đời Chúa vẫn trọn tình thương”.
Hơn nữa, Chúa Cha lại ban cho chúng ta Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần để trở thành ký ức cho chúng ta. “Ngài sẽ dạy anh em mọi điều, nhắc cho anh em nhớ lại tất cả những gì Thầy đã nói với anh em”.
Ba Ngôi Thiên Chúa đến với chúng ta, cư ngụ trong chúng ta. Chúng ta trở thành tổ ấm cho Ba Ngôi Thiên Chúa.
Chúng ta dễ quên. Tâm trí chúng ta nặng nề vật chất. Cần có một vị Tôn Sư thần linh để hạt giống được gieo trong nhọc nhằn nẩy mầm và lớn mạnh.
Không có Ngài, những tay chài lưới dốt nát kia làm sao lay động thế giới?
Thánh Thần Chúa sẽ dạy chúng ta mọi điều. Sự khôn ngoan của Ngài ban sẽ chiến thắng tất cả: “Sự điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người”. Chúng ta sẽ không ngại ngùng trả lời cho mọi người về niềm hy vọng của chúng ta. Những lý thuyết của loài người ngập tràn những thư viện, nhưng đó chỉ là những chiếc lá khô mà thời gian sẽ cuốn trôi và sẽ trở về với bụi tro. Chỉ có “sự điên rồ của Thập Giá” mới tồn tại. “Những gì thế gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa chọn để hủy diệt những gì hiện có”.
“Thánh Thần Chúa sẽ cho anh em nhớ lại tất cả …” Tất cả những gì Thầy nói đều gom lại trong chữ Yêu Thương. Ba Ngôi Thiên Chúa cư ngụ trong chúng ta sẽ biến chúng ta thành những “đô thị yêu thương”.
Trong biển lửa hận thù đang ngùn ngụt cháy khắp nơi, trong đại dương đau khổ ngút ngàn của thế giới hôm nay, Chúa Giêsu muốn xây dựng những “đô thị yêu thương” cho đời bớt khổ: “Nơi nào có oán ghét hận thù, xin cho con đem lại an vui…”
Chúa Giêsu không còn hiện diện bằng xương bằng thịt nữa, nhưng Ngài vẫn có mặt, êm đềm hơn, sâu đậm hơn. Chúng ta không mất mát gì nhưng lại tràn đầy hồng ân. Hồng ân trên hết mọi hồng ân là Tấm Bánh Tình Yêu được trao ban hằng ngày. Nơi tấm bánh đó, chúng ta tìm được sinh lực để thắp lên ngọn đèn tình yêu đang bị đe dọa bởi những cơn bão hận thù, giết chóc, để xây đắp những “đô thị tình yêu”, bất chấp những mưa nắng của bạo tàn.
Ước chi mỗi người tín hữu trở thành một “đô thị tình yêu” mời gọi mọi người đến ẩn náu trong cơn lốc bạo tàn man rợ hôm nay. “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy”.
(Suy niệm của Dã Quỳ)
Trong cuộc sống của chúng ta hàng ngày ít nhiều cũng có những chia ly. Cuộc chia ly nào cũng để lại những dấu ấn, những tâm tư vui buồn lẫn lộn, ưu sầu hay lo lắng và tác động không nhỏ vào đời sống tự nhiên lẫn siêu nhiên của chúng ta. Những cuộc chia ly còn cho chúng ta kinh nghiệm sống mà ta gọi là “những bài học không có trong sách giáo khoa.”
Tin Mừng hôm nay thuật lại Chúa Giêsu cũng có một cuộc chia ly với các môn đệ. Trước giờ chia ly ấy, Chúa đã nhắn nhủ với môn đệ của Người những lời tha thiết, mà Thánh Gioan gọi là “Những lời cáo biệt.” Chúa an ủi, động viên, trao ban bình an…và nhất là Chúa khẳng định với môn đệ và cũng là với mỗi Kitô hữu rằng dù ra đi, nhưng Chúa sẽ mãi ở với mỗi trái tim nào có tình yêu Chúa và tuân giữ Lời của Người: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy, Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.” (Ga 14,23). Đây là một bảo đảm thật tuyệt vời cho môn đệ và tất cả chúng ta.
– “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ Lời Thầy.” Tình yêu là khởi điểm giữa Thiên Chúa và tạo vật, giữa Chúa Giêsu và con người. Tình yêu cũng là khởi điểm của đời sống người môn đệ và của mỗi Kitô hữu. Tình yêu là trường học, nơi đó chúng ta học biết về Thiên Chúa mà cụ thể là Chúa Giêsu và họa lại vẻ đẹp, lời nói, hành động của Người; vì “Thiên Chúa là Tình Yêu.”
Những lời cáo biệt của Chúa Giêsu được khởi đầu bằng tình yêu. Chúa đã diễn tả Tình yêu của Người với nhân loại và đặc biệt Người tỏ cho môn đệ biết Người yêu thương họ dường nào, để rồi môn đệ chỉ còn cách đáp trả tình yêu. Chúa đã yêu thương tôi vô bờ bến, tôi cần phải đáp lại bằng cách yêu mến Người. Vì yêu mến Chúa, tôi tuân giữ những Lời Chúa dạy bảo và giới răn Chúa truyền ban. Đó là cách cụ thể mà tôi chứng minh lòng yêu mến Chúa. Vì yêu là hiểu biết nên tôi học hỏi về Chúa qua Lời của Người. Vì yêu là hoạt động nên tôi tuân giữ, thực hành, sống Lời Chúa dạy trong đời sống cụ thể của tôi. Và đây là điều kiện để tôi được Thiên Chúa đến, cư ngụ.
– “Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.” Thiên Chúa tỏ mình cho những ai tin vào Người. Nhưng Chúa còn đến và ở lại trong những con tim yêu mến và tuân giữ Lời Người. Chúa chỉ đến và ở lại nhà những ai có tình yêu và sẵn sàng mở cánh cửa cho Người; những ai đón nhận, tuân giữ Lời của Chúa; những ai yêu mến Người cách tự do. Chúa đến và ở lại không phải trong Đền Thờ bằng gỗ đá, nhưng là trong mỗi Kitô hữu trung thành nghe và thực thi Lời Chúa. Chính vì thế, ta không cần tìm Chúa ở đâu xa. Chúa hiện diện ở đây trong bạn, trong anh, trong tôi nếu chúng ta biết yêu mến Chúa, cầu nguyện, lắng nghe và sống Lời Chúa dạy.
Chúa không dùng quyền ép buộc chúng ta nghe, tuân giữ Lời Chúa và cũng không muốn thực hiện những dấu lạ hiển hách gây ấn tượng để ép ta gắn bó với Người. Chắc chắn Chúa rất muốn tỏ mình cho tất cả mọi người, nhưng Người tôn trọng tự do của mỗi chúng ta, vì: Tình yêu không thể bị ép buộc! Thế nên Chúa ủy thác cho các môn đệ và chúng ta, những Kitô hữu của Người làm môi giới cho tình yêu. Chính đời sống mang đậm nét tình yêu của ta đối với Chúa và lòng yêu thương, phục vụ, bác ái, tha thứ, …của ta đối với tha nhân sẽ làm cho Chúa được tỏ hiện và biểu lộ với tất cả những ai chưa biết, chưa tin và còn sống xa Chúa. Có Chúa Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ luôn hướng dẫn trợ giúp Giáo hội và mỗi Kitô hữu thực thi sứ mệnh.
– “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy.” Bình an của Chúa ở trong trái tim Người. Chúa là người Bình an và là người mang Bình an như lời Ngôn sứ Isaia nói “Danh hiệu của Người là Hoàng Tử Bình An.” (x. Is 9,5) Bình an lan tỏa trên khuôn mặt, trong thái độ và lời nói của Chúa. Bình an là chính Chúa nên khi ban cho môn đệ, Chúa đã nói “Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng.” Bởi vì bình an của thế gian đến từ con người và chắc chắn không bền vững.
Chúa thấy rõ trong thế gian, môn đệ của Người sẽ gặp bao hỗn tạp làm họ chao đảo, lo lắng! Và sự thật lúc này đây, âm mưu của Giuđa bán nộp Thầy; chối Thầy của Phêrô và cái chết của Thầy được loan báo đang làm cho môn đệ xao xuyến, hãi hùng! Chính vì thế, Chúa động viên, an ủi, đem lại nghị lực cho môn đệ. “Lòng anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi!” Chúa yêu thương môn sinh nồng nàn và tình yêu của Chúa bao phủ các ông nên đừng sợ hãi, vì “Tình yêu không biết đến sợ hãi” và “Ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy.” (1Ga 4, 18.16) Vì thế, Chúa ra đi nhưng vẫn luôn hiện diện trong trái tim môn đệ. Chúa thật thân tình, yêu thương, cảm thông với môn đệ của Người. Cùng nhịp thở, cùng nhịp yêu và thấu hiểu cuộc sống cũng như những khó khăn thử thách mà mỗi môn đệ và mỗi Kitô hữu hôm nay sẽ phải đối diện trong cuộc đời.
Vậy hãy để Chúa đong đầy trái tim chúng ta tình yêu và bình an của Chúa khi chính chúng ta biết đáp lại tình Người bằng lòng yêu mến Chúa chân thành và hăng say tuân giữ Lời Chúa dạy; yêu thương tha nhân, hy sinh quên mình phục vụ trong khiêm tốn và nhẫn nại tha thứ vì căn cước của Kitô hữu là Tình yêu. Như thế, chúng ta sẽ thật hạnh phúc có Chúa ở cùng để rồi ta được ở lại trong tình yêu và trở thành môn đệ của tình yêu.
Lạy Chúa Giêsu, tạ ơn Chúa đã cho chúng con trở thành Kitô hữu- là môn đệ của Chúa. Xin đổ tràn trong trái tim chúng con tình yêu và bình an của Chúa, tình yêu và bình an mà chúng con và cả thế giới luôn mong đợi. Amen.
Trong cuộc sống chúng ta thường thấy cảnh này, khi có những sự rắc rối nào đó liên quan đến ai đó mà họ không muốn liên luỵ nên họ lắc đầu liên tục và bảo rằng “Xin cho tôi hai chữ bình an”. Họ muốn an phận, họ không muốn day vào những rắc rối. Thế thì bình an có phải là không chút gợn sóng, không chút khoấy động, không có phản ứng chống đối…
Đoạn Tin Mừng chúng ta được đọc hôm nay Chúa Giêsu hứa ” Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy, Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng “. Như thế bình an của Chúa Giêsu có gì đó rất khác với bình an của thế gian. Vậy bình an của Chúa Kitô là gì? Bình an của Chúa Kitô không phải là một tình trạng yên ôn không bị khuâý động, không bị chống đối. Bình an của Chúa Kitô là được sống tròn đầy do sự hiện diện của Chúa Kitô ” Chúa Kitô là sự bình an của chúng ta ” (Ep2, 14). Sự bình an này đã được Chúa Kitô diễn tả trong cuộc sống của Ngài và đặc biệt trong cuộc thương khó. Chúa Giêsu bước vào vườn Ghêtsêmani với sự sợ hãi hoang mang đến độ Ngài xin Cha cho khỏi uống chén đắng là cuộc thương khó. Nhưng khi nhận ra ý định của Chúa Cha cũng như tình yêu của Chúa Cha thì Ngài đã bình an bước vào cuộc thương khó với niềm tin tưởng cậy trông. Như thế sự hiện diện của Chúa Kitô chính là nguồn đem lại bình an cho chúng ta. Các môn đệ vất vả suốt đêm chèo chống vì ngược gió như khi Chúa Giêsu ngự đến thì sóng biển yên lặng và đưa các ông đến bến bình an. Chúng ta cũng có thể thấy điều này dễ dàng nơi các trẻ em tập đi. Muốn cho em bé đi được thì bé phải tập đi. Mẹ của bé sẽ ở cách xa và chuẩn bị đỡ lấy bé nếu bé ngã còn người kia thì buông bé ra để bé đi đến với mẹ. Mặc dù bé đi rất loạng choạng nhưng bé vẫn muốn đi vì bé biết rằng mẹ bé luôn sẵn sàng đỡ lấy bé khi bé té ngã. Như thế sự bình an của chúng ta nhận được phải là sự bình an trong mọi lúc, phải là sự tin tưởng trọn vẹn nơi Chúa. Chúa luôn dõi bước ngay bên chúng ta, sẵn sàng nâng đỡ chúng ta khi chúng ta gặp gian lao thử thách.
“Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy”. Yêu ai là muốn nên giống người đó và làm đẹp lòng người đó. Với thước đo này ta có thể đo được lòng mến của chúng ta đối với Thiên Chúa. Ta có giữ lời của Thiên Chúa chưa? Ta có thực sự muốn nên giống Chúa chưa? Tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa không hệ tại ở những cảm xúc tự nhiên hay những câu nói suông nhưng là hệ tại ở việc sống Lời Chúa. Sống Lời Chúa là thực thi lòng mến, biết yêu mến tha nhân, thể hiện tình yêu của Thiên Chúa nơi những ngươi chung quanh.
Người Kitô hữu phải là người có sự bình an thật vì hoạ lại hình ảnh của Chúa Kitô nơi trần thế khi thực thi lời Chúa dạy. Như thế, nhiệm vụ của người Kitô hữu là phải làm lan toả sự bình an ấy nơi những người chung quanh, cho xã hội cho thế giới. Bình an là khát vọng của mỗi con người nhưng chưa thể thực hiện được vì nỗi sợ hãi lo âu, lo cho chính mình, cho dân tộc mình, cho đất nước mình nên còn hoài những cuộc chiến những cuộc xâm lăng. Người Kitô hữu phải là những người tái tạo hoà bình, phải là những người làm chứng cho hoà bình trong thế giới bằng cuộc sống không bạo lực, bằng cách sống đồng tâm nhất trí với nhau. Nhưng muốn được như thế mỗi người chúng ta phải là những con người thực sự bình an trong tâm hồn. Nếu chúng ta còn khư khư bám víu cuộc sống mình cách ích kỷ, nếu chúng ta còn sợ mất mát của cải, chúng ta còn muốn hưởng thụ, còn muốn thống trị kẻ khác… thì làm sao chúng ta có thể xây dựng hoà bình cho được.
Hãy tin tưởng vào Chúa, có Chúa hiện diện thì còn lý do gì nữa để chúng ta lo lắng sợ hãi. Như đứa con vững tin ngon giấc trong vòng tay người mẹ thì chúng ta cũng hãy phó thác mọi sự cho Chúa. Cho dù khó khăn, cho dù chống đối, cho dù bất ổn nhưng hãy tin rằng Chúa luôn có cách của Chúa để mang lại những điều thiện ích cho chúng ta.
Có Chúa hiện diện thì ta còn lo lắng sự gì nữa. Chúa thật là nguồn bình an.
Một ông nhà văn ngồi trên ghế đá công viên, đưa mắt quan sát nhìn xem mấy em nhỏ đang chơi đùa với nhau nơi thảm cỏ. Ông lên tiếng hỏi:
– Này các em, các em đang chơi trò gì thế?
Các em trả lời:
– Chúng cháu đang chơi trò chiến tranh. Chúng cháu đang chơi trò đánh nhau.
Nghe thế, ông hơi cau mặt, gọi các em lại và giải thích:
– Tại sao các em lại cứ thích chơi tró chiến tranh, chơi trò đánh nhau. Chiến tranh và đánh nhau thì có gì là tốt đẹp. Vậy tại sao các em lại không chơi trò hoà bình.
Cả bọn tụm đầu vào nhau và bàn tán. Thấy chúng đón nhận ý kiến của mình, ông nhà văn mỉm cười hài lòng và bước đi. Tuy nhiên, chưa bước đi được bao xa, các em đã đuổi theo và hỏi:
– Bác ơi! Chơi trò hoà bình là như thế nào? Chúng cháu không biết.
Phải, làm sao các em có thể chơi trò hoà bình, trong khi các em chỉ thấy người lớn chơi trò chiến tranh. Làm sao các em có thể chơi trò hoà bình, trong khi trên báo chí, truyền thanh và truyền hình, các em chỉ thấy hình ảnh những người lớn bắn giết nhau. Làm sao các em có thể chơi trò hoà bình, trong khi tại gia đình các em chỉ thấy các anh các chị và đôi khi ngay cả cha mẹ cũng lớn tiếng cãi cọ và mắng chửi lẫn nhau, nhiều lúc còn thượng cẳng chân hạ cẳng tay với nhau nữa.
Rồi trong thực tế, bầu khí người lớn tạo ra để cho các em được phát triển, không phải là một bầu khí hoà bình, mà là một bầu khí chiến tranh. Đến bao giờ người lớn mới thực tâm tìm phương thế giải quyết những mâu thuẫn, những bất đồng với nhau. Mỗi ngày trên thế giới, người lớn đã bỏ ra hằng tỷ mỹ kim cho việc nghiên cứu và trang bị vũ khí, đang khi đó có tới tám trăm triệu người sống trong cảnh nghèo đói và túng thiếu, có tới hơn sáu trăm triệu người mù chữ. Chỉ có bốn trong số mười em sinh ra là được cắp sách đến trường cho hết bậc tiểu học. Và cứ mười em được sinh ra trong cảnh cơ hàn, thì đã có hai em bị chết đói trong năm đầu tiên.
Thế giới người lớn phải bắt tay ngay vào việc loại trừ chiến tranh, nếu họ muốn cho các em thiếu nhi noi gương họ mà chơi trò hoà bình. Đồng thời, phương thức để loại trừ chiến tranh và xây dựng hoà bình, không gì hữu hiệu hơn cho bằng sống tinh thần hoà giải.
Thực vậy, hoà bình chỉ là kết quả đương nhiên của việc hoà giải mà thôi. Chúng ta phải hoà giải với Thiên Chúa bằng việc sám hối ăn năn và lãnh nhận ơn tha thứ. Đồng thời chúng ta còn phải hoà giải với anh em bằng việc lấy tình thương xoá bỏ hận thù. Chính vì thế, trong đêm giáng sinh, các thiên thần đã hát vang trên cánh đồng Bêlem:
– Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người thiện tâm.
Và sau khi sống lại, lúc hiện ra với các môn đệ, sau lời chào chúc bình an, thì lập tức Chúa Giêsu đã trao ban cho các ông quyền cầm buộc và cởi mở. Hay nói đúng hơn, Ngài đã trao ban cho các ông quyền tha thứ, quyền hoà giải:
– Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giư
Để kết thúc, chúng ta hãy cùng nhau ghi nhớ và suy gẫm lời kinh Hoà bình của thánh Phanxicô Assie:
– Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hoà vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm.
Không phải tất cả các sáng kiến đều sáng cả đâu. Có những tư tưởng gọi là sáng nhưng bản chất của nó tối mò. Sáng kiến mang bản chất tối có thế nói đùa là độ sáng của nó lớn vừa đủ soi sáng cái kiến.
Tư tưởng mới phát sinh mỗi ngày. Có những thay đổi chỉ bùng lên một thời rồi chìm vào quên lãng, lại cũng có những thay đổi vững chắc biến đổi xã hội. Thay đổi phát sinh bởi hoàn cảnh mới đòi giải quyết vấn đề mới phát sinh mà truyền thống cũ không đáp ứng thoả đáng hay tệ hại hơn là truyền thống cấm đoán vì trái nghịch với truyền thống. Thay đổi ảnh hưởng mạnh đến xã hội, làm thay đổi lối suy nghĩ, cách đối xử, cách điều hành công việc. Lối ăn, cách uống từ nhà, ngoài ngõ đều ảnh hưởng bởi những sáng kiến. Những thay đổi này ảnh hưởng đến việc đề nghị xét lại cách thực hành và tinh thần sống đạo truyền thống. Khi những đề nghị thay đổi không được chấp thuận sẽ xảy ra tình trạng đơn giản là phê bình, lớn hơn là bất mãn và tệ hại là sinh bè, lập nhóm, tạo phe, gây phái. Điều này dẫn đến việc chia rẽ trong cộng đoàn dân Chúa. Nhóm hỗ trợ thay đổi tự nhận là cấp tiến phê bình chỉ trích nhóm bảo thủ. Họ tự nhận là tân tiến, thích ứng với thời cuộc và chỉ trích Giáo Hội là chậm tiến, bảo thủ, không theo kịp đổi thay của thời đại. Còn một nhóm nữa đứng giữa thầm lặng, không ủng hộ cấp iến, cũng không chê bảo thủ, truyền thống, sao cũng được và sẵn sàng chấp nhận thay đổi cho thích hợp với hoàn cảnh.
Sáng kiến dẫn đến thay đổi cần khuyến khích, cổ võ nếu sáng kiến đó bảo vệ sự sống, cổ võ tình yêu chân chính và tinh thần phục vụ vô vị lợi vì những điều này hợp với giáo huấn của Đức Kitô truyền dậy. Truyền thống dù cũ mấy cũng là truyền thống có giá trị và tốt đẹp khi truyền thống cổ võ bảo vệ sự linh thánh của con người và hợp với điều Đức Kitô truyền dậy về luật yêu thương và phục vụ. Sáng kiến, đề nghị xem ra sáng sủa, nghe hợp lí, thích ứng với hoàn cảnh cần phải cẩn trọng khi đón nhận vì đằng sau những lí thuyết xem ra hợp lí, ăn khách, thức thời nhưng không chừng có ẩn dấu mầm mống làm hại sự sống để mưu ích riêng cho thiểu số, phe đảng. Sáng kiến trên lí thuyết dựa vào sự sống, phục vụ để đòi thay đổi nhưng thực tế, trong thực hành, không trực tiếp bảo vệ sự sống, không chân thành cổ võ tình yêu chân chính và không thành tâm thiết tha phục vụ tha nhân vô vị lợi đều trái giáo huấn của Đức Kitô. Mọi đề nghị, tư tưởng cho là cao siêu hơn giáo huấn của Đức Kitô đều ngầm chứa tinh thần kiêu ngạo. Những gì thuộc về kiêu ngạo không thể đến từ Thiên Chúa yêu thương vì bản chất của yêu thương là khiêm nhường phục vụ.
Giáo huấn của Đức Kitô không bao giờ lỗi thời vì giáo huấn của Ngài vượt lên trên thời gian. Vì tư tưởng của Ngài đến từ Thiên Chúa hằng sống cộng với hướng dẫn của Thánh Thần Chúa nên giáo huấn của Ngài luôn mới với mọi thời đại, thích hợp với mọi truyền thống và hợp với mọi dân tộc. Nếu cần đổi thay cho thích hợp với giáo luật yêu thương thì đối tượng đổi thay là truyền thống, là phong tục, là tập quán địa phương cần thay đổi cho trong sáng hơn, thích hợp với luật yêu thương tha thứ và phục vụ.
Câu chuyện thầy giáo yêu cầu học sinh viết luận về giáo huấn của Đức Kitô liên quan đến bảo vệ đời sống, cổ võ yêu thương chân thành và phục vụ tha thiết. Trong đó có lời phê bình cho thấy không phải mọi thay đổi đều tốt; cũng như không phải mọi truyền thống đều dở.
Bài văn của em có nhiều tư tưởng hay và nhiều tư tưởng mới. Không may tư tưởng mới thì không hay và tư tưởng hay thì không mới.
Chúng ta cần thay đổi cho thích hợp với hoàn cảnh, với tiến bộ khoa học nhưng căn bản phải đặt trên giáo huấn của Đức Kitô về phương diện bảo vệ sự linh thánh của cuộc sống, yêu thương chân chính và chân thành phục vụ tha nhân vô vị lợi. Thay đổi trái nghịch giáo huấn của Đức Kitô là không yêu mến Ngài
Ai yêu mến Thầy thì tuân giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy Gioan 14,23.
Phúc âm thánh Gioan minh xác Chúa Cha yêu mến thế gian đến nỗi sai Con Một yêu dấu của Ngài xuống thế gian để những ai tin vào Người Con thì được sự sống muôn đời. Đức Kitô xuống thế thực hiện ý Chúa Cha để tỏ tình yêu, lòng mến của Ngài với Chúa Cha. Con đường yêu mến Thiên Chúa là con đường vâng phục, giữ lời Chúa dậy
Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy c.23
Nên một
Bởi vì Chúa Cha yêu mến thế gian, những gì Chúa Cha yêu mến, Đức Kitô cũng yêu mến. Những gì Chúa Cha muốn cứu độ, thánh hoá, Đức Kitô cũng muốn cứu độ và thánh hoá.
Người Con không thể tự mình làm bất cứ điều gì, ngoại trừ điều người thấy Chúa Cha làm, vì điều gì Chúa Cha làm, thì người Con cũng làm như vậy Gn 5,19
Tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi. Ý của Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết Gn 6,38-39
Có thể nói tình yêu Chúa Cha và tình yêu Đức Kitô dành cho nhân loại là một. Cả hai khối tình Chúa Cha – Chúa Con được thể hiện trọn hảo nơi Đức Kitô. Tình thương Đức Kitô thể hiện toàn thiện đến nỗi vượt quá trí hiểu nhân loại. Thể hiện trên thập giá, cho đi chính sự sống mình.
Nên một còn được hiểu theo một nghĩa khác nữa. Đức Kitô ban cho Kitô hữu chính sự sống Ngài và cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần chia sẻ mọi tình huống an vui, sầu khổ trong cuộc sống của các Kitô hữu.
Ngoài Đức Kitô ra còn có cả Chúa Cha và Thánh Thần Chúa cùng cư ngụ trong tâm hồn Kitô hữu. Đây là quà tặng vô cùng trọng đại vì mỗi Kitô hữu trở thành đền thờ Thiên Chúa và đền thờ của Ba Ngôi Thiên Chúa. Dù Kitô hữu không xứng đáng nhưng Thiên Chúa không ngại miễn là Kitô hữu tự nguyện vâng lời và chân thành tâm đón nhận lời Thiên Chúa
Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy và Cha thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy…. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy Gn 14,23
Nơi đâu Thiên Chúa ngự trị nơi đó tràn đầy ân sủng và bình an. Nơi đâu Thiên Chúa ngự trị nơi đó tràn đầy tình thương.
Ơn Thánh Thần
Khi yêu người ta luôn làm những gì tốt đẹp nhất cho người mình yêu và còn làm nhiều hơn cả điều người yêu mong muốn. Đó chính là mối tình Đức Kitô thể hiện với Chúa Cha. Chính nhờ mối tình này mà Kitô hữu nhận được vô vàn ơn đặc biệt, lạ lùng.
Ơn lạ đầu tiên chính là ơn Chúa Thánh Thần. Đức Kitô hứa ban Thánh Thần xuống để tiếp tục công việc hướng dẫn Kitô hữu. Thánh Thần hay Đấng Bảo Trợ đến không phải để thay thế Đức Kitô mà chính là để nối tiếp công việc Đức Kitô đã rao giảng. Thánh Thần làm công việc hướng dẫn, mặc khải những điều Đức Kitô dậy. Thánh Thần đóng vai thầy dậy trong mọi hoàn cảnh và không dậy điều gì mới nhưng chỉ dậy những gì Đức Kitô đã rao giảng
Thánh Thần sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em đến sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy ra Gn 16,13
Như thế Thánh Thần sẽ làm sống lại lời Đức Kitô rao giảng và giải thích ý nghĩa lời Đức Kitô rao giảng. Từ chối đón nhận hướng dẫn của Thánh Thần là từ chối sự thật toàn vẹn. Thế giới chưa hết đau khổ vì từ chối hướng dẫn của Thần Chân Lí Đức Kitô sai đến.
Ơn bình an
Quà tặng thứ hai Đức Kitô tặng cho Kitô hữu là ơn bình an. Ơn bình an đặc biệt mà thế giới không thể có. Ơn đó phát xuất tự trong tâm hồn, bình an nội tâm, bắt đầu từ con tim yêu mến nồng nàn. Ơn bình an có sức mạnh giúp ta đón nhận ơn thống hối, tái nối kết tình bạn đứt đoạn và ban ơn chữa lành qua bí tích hoà giải và thứ tha.
Ơn bình an, Thần Khí Chúa và Chúa Ba Ngôi là những món quà đặc biệt, vô giá Đức Kitô ban cho nhân loại. Những ai đón nhận quà tặng Thiên Chúa trao ban trở thành Kitô hữu, dân riêng của Thiên Chúa.
Kitô hữu đón nhận quà tặng quí giá với tâm tình biết ơn, cảm mến với lòng tạ ơn, trìu mến sẽ tìm được bình an nội tâm và hưởng ơn cứu độ Chúa ban. Ơn đó đến từ Ba Ngôi Thiên Chúa. Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Ngoài ra Kitô hữu còn vui mừng đón nhận một đặc sủng khác nữa đó là vui mừng chào đón Đức Kitô đến lần thứ hai trong vinh quang, đầy uy nghi. Lời nhắn nhủ này gói trọn trong lời hứa ra đi và trở lại của Đức Kitô khi Ngài nói lời giã biệt Gn 14, 3
Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy sẽ trở lại và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng sẽ ở đó
Nhờ sức mạnh của lòng tin Kitô hữu mong chờ và xác tín ngày Chúa đến trong vinh quang. Ngày tất cả các Kitô hữu đoàn tụ trên thiên quốc.
Muốn Được Bình An, Hãy Yêu Mến Và Tuân Giữ Lời Chúa
Khi đến “giờ Chúa Giêsu qua khỏi thế gian này để về cùng Đức Chúa Cha” (Ga 13,1), với trọn tình Thầy trò, Người đã dành cho các môn đệ những lời tâm huyết, cụ thể như truyền cho các môn đệ một Điều răn mới (x. Ga 15,12). Mới là vì Chúa Giêsu là người đầu tiên thực hiện bằng việc tự hiến nộp mình cho thế nhân. Mới là vì yêu đến thí mạng vì người mình yêu: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13-14). Mới là vì tình yêu hướng đến người khác, khiến họ ra khỏi chính mình, đi đến với tha nhân. Kế đến Người bảo họ: “các con hãy yêu thương nhau” (Ga 13,34), vì đây là dấu chỉ để người ta “nhận biết các con là môn đệ của Thầy” (Ga 13,35).
Vẫn trong bầu khí tâm sự với các môn đệ, Chúa phán bảo họ rằng: “Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy” (Ga 14,23). Thật không đơn giản, lời di chúc này có ý nói: các con yêu mến Thầy thế là đủ, vì nếu yêu mến tức khắc lời Thầy sẽ được tuân giữ, có nghĩa là: khi yêu mến Chúa Giêsu, các môn đệ sẽ tuân giữ lời Chúa truyền, cụ thể là thực hành các giới răn Chúa để lại. Có thể hiểu cách khác: nếu các con yêu mến Thầy, điều đó chứng tỏ rằng các con tôn trọng lời Thầy truyền, tôn trọng các lời Thầy là thể hiện lòng mến Thầy nên tuân giữ.
Một điều sẽ xẩy đến cho những ai tuân giữ lời Chúa Giêsu là sẽ được Chúa Cha và chính Người yêu mến, đồng thời chọn làm nơi ở như lời Chúa nói: “Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy”, nghĩa là người ấy là đền thờ Thiên Chúa ngự. Thiên Chúa sẽ ở với người ấy. Thánh Tông Đồ Phaolô nói rõ: “Được Chúa Giêsu ngự trong lòng anh em nhờ bởi lòng tin” (Eph 3,17). Do vậy không có gì ngạc nhiên khi Chúa Giêsu bằng lòng đến ở nhà những người tin, yêu mến và tuân giữ lời Chúa. Đó là lý do tại sao, sau khi hoàn tất các công việc Chúa phán: “Đây là nơi Ta nghỉ ngơi đời đời mãi mãi, Ta sẽ ngự tại đó vì Ta muốn!” (Tv 131,14)…
Tiếp theo, Người mạc khải cho các ông về Chúa Thánh Thần: “Đấng Phù Trợ là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con” (Ga 14,26). Đồng thời hứa ban bình an cho các ông. “Bình an” là quà tặng cao quý của Thầy để lại cho các học trò trước lúc ra đi. Đó cũng là “Bình an” sau khi sống lại Chúa Giêsu sẽ tặng cho các môn đệ đang cửa đóng then cài vì sợ hãi. “Bình an” là điều các ông đang cần đến hơn bao giờ hết. Bình an do Chúa tặng ban khác với bình an do thế gian ban tặng. “Bình an” của Chúa Giêsu ban không chỉ dừng lại ở việc an toàn về mặt thể xác, đây là thứ bình an trong sâu thẳm trong tâm hồn. Bình an này hướng các môn đệ về mầu nhiệm cách chung, nhiệm cục cứu độ. Chúa Giêsu chính là nội dung của bình an; hiểu cách khác: Người chính là nguồn bình an, Người ban cho các ông chính bình an của Người, bình an nội tâm, bình an tuyệt đối, bình an vượt xa lối hiểu của con người.
Chúa Giêsu trấn an các ông: “Lòng các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi” (Ga 14,26). Tại sao Chúa Giêsu nói những lời ấy? Thưa là vì trước sự ra đi của Thầy Chí Thánh, các môn đệ cảm thấy cô đơn, lo sợ và bất an. Các ông lo cho chính mình, sợ bị bỏ rơi, sợ phải sống cô đơn, và bằng một lời hứa Chúa Giêsu nâng đỡ các ông: “Thầy đi, rồi Thầy sẽ trở lại với các con” (Ga 14,2).
Chúng ta lắng nghe những lời của Chúa Giêsu: “Lòng các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi” (Ga 14, 26). Thử hỏi, cuộc sống của chúng ta sẽ ra như sao, nếu không có Chúa, nếu không thực hành và liên lỉ sống đức tin, củng cố bởi Đức Cậy, hướng về Trời Cao, nơi con người có thể gặp Chúa Kitô?
Vậy, đừng xao xuyến lo âu vì những bất ổn của địa cầu, của tình anh em hữu nghị đổi thay, hay con người thay lòng đổi dạ. Hãy phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa, như trẻ thơ trong vòng tay của mẹ. Vì thế giới này là tạm bợ, con người là thay đổi, không phải là chổ nương thân. Chỉ trong Thiên Chúa chúng ta mới tìm được nguồn vui tột đỉnh của tâm hồn.
Ước chi lời khuyên của Chúa Giêsu hôm nay thấm nhập vào trong tâm trí chúng ta, như là nguồn mạch của bình an, thanh thản và niềm vui. Nếu Chúa Giêsu Kitô là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống chúng ta còn lo sợ hãi gì? Tại sao không tin tưởng vào Thiên Chúa, là Cha Đức Giêsu, Cha chúng ta và tin vào Đức Giêsu, Chúa chúng ta? Còn hạnh phúc nào hơn khi có Thiên Chúa là sức mạnh thiêng liêng giúp chúng ta không bị gục ngã dưới sức nặng của khó nhọc, của tuyệt vọng và buồn phiền.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói với các tông đồ rằng: “Thầy để lại bình an cho các con, thầy ban bình an của thầy cho các con…”. Xin đoái thương ban cho chúng con ơn hiệp nhất và bình an theo ý Chúa muốn, để ngay ở đời này chúng con đã được nếm hưởng hạnh phúc bất diệt Chúa giành cho chúng con nhờ sự chết và phục sinh của Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Đức Trung)
Trong một lần đi thăm trung tâm xã hội Campuchia cách đây gần chục năm, chúng tôi có đến một nơi chăm sóc các anh chị em đang mang căn bệnh thể kỷ thời kỳ chót. Không khí ảm đạm, những cái nhìn vô vọng về một nơi xa xăm, nhưng tôi bắt gặp nhiều ánh mắt, những ánh mắt long lanh đan xen giữa hy vọng và sự sợ hãi. Chúng tôi ngỏ lời hỏi thăm vì biết rất nhiều người ở đó là người Việt Nam. Có một anh đã thì thào và ghi lại cho tôi một địa chỉ xin hãy chuyển tên và lời xin lỗi đến người thân ở phía Bắc, vì anh không có thể thư về cho họ được nữa, và anh hiểu trung tâm này sẽ là nơi anh yên nghỉ. Anh như năn nỉ tôi hãy nhớ đừng quên. Khi sửa soạn rời khỏi trung tâm, những ánh mắt đó lại như van lơn, mong muốn chúng tôi đừng đi và mong muốn chúng tôi đừng quên những gì họ đã ký gởi. Chắc đến nay nắm tro tàn của anh đã im lặng nơi lòng đất lạ, nhưng những hình ảnh và những lời ký thác của anh vẫn vấn vương đâu đó trong ký ức của tôi.
Là Kitô hữu từ thuở bé tới giờ, chắc chắn đã nhiều lần chúng ta nghe những lời tâm tình ký gởi của Chúa Giêsu đã tín nhiệm giao cho chúng ta, những lời tâm huyết mà chính Ngài đã xác nhận, không nhẹ ký vì nó chuyển tải một kho tàng thiêng liêng. Những lời Ngài nói không chỉ là của Ngài mà là của Cha, Đấng đã sai Ngài và chính trong tình yêu thông hiệp của Ba Ngôi, Chúa Thánh Thần sẽ dạy dỗ và làm chúng ta hiểu. Vậy giữ lời Thầy là những điều nào, vì ba muơi ba năm Chúa đã ở nơi dương gian này, nhiều điều Chúa đã nói, thật là nhiêu khê, nhưng chắc chắn điều Chúa truyền dạy không gì khác hơn là để mọi người nhận ra Thiên Chúa là Cha nhân từ, Thánh Thần Chúa là tình yêu, Ngài là Đấng cứu chuộc, mọi người là anh em, và phải đi đến hệ luận thực hành là kính mến Chúa, yêu thương người, như Ngài đã yêu thương họ đến cùng, thì Ngài cũng mong muốn chính những người đã được Ngài yêu mến hãy đáp trả lại cho Ngài giống i như thế.
Câu chuyện Tin Mừng tuần này kể lại trong bầu khí của một giai đoạn quyết liệt mà chính Ngài quyết tâm thực hiện cho đến cùng. Sẽ có cuộc chia ly người đi kẻ ở lại, một cuộc ra đi về với Cha, điều mà các môn đệ không hề nghĩ đến vì các ông vẫn tưởng Ngài đến thế gian này là để thống trị chứ không phải là đến để rồi chết hay đi đâu cả, trong khi Chúa không hề che dấu điều gì về sứ vụ của mình. Chính vì vậy để tránh kiểu ông nói gà bà nói vịt, bằng những lời chân tình, Ngài bày tỏ sứ vụ của mình qua hình ảnh như Ngài ở trong Cha và Chúa Thánh Thần, để mọi người thấy Thiên Chúa luôn ở trong tình yêu, và là nguyên lý cho mọi người đi đến. Phải đi trong tình yêu, nghĩa là đi trong Chúa chúng ta mới đạt đến cùng đích cuộc sống. Giữa sự thánh thiêng và phàm nhân luôn có một khoảng cách nhất định, tuy nhiên chính ơn cứu chuộc của Đức Kitô làm cho khoảng cách này được nối kết, xoá bỏ. Nhưng vì con người vẫn còn ở dưới thế, cuộc hành trình đi lên của chúng ta vẫn nhiều chông gai. Chúa thấu hiểu điều đó nên Ngài đã ban bình an, một nguồn bình an thật, làm cho chúng ta dù có chao đảo nhưng không nghiêng đổ, dù có sợ sệt nhưng không hãi hùng, dù có hay quên nhưng vẫn nhớ tuân giữ lời Ngài và thực thi lời Ngài: “Ai yêu mến Thầy sẽ giữ lời Thầy” vẫn vang vọng trong đời sống Kitô hữu của chúng ta, tuy nhiên nhiều khi chính trong chúng ta có cái khập khiễng có thể yêu Chúa nhưng không bao giờ giữ lời Chúa, hoặc giữ lời Chúa dạy nhưng lại không yêu mến Chúa. Các số liệu thống kê của giáo hội tại Âu châu phần nào cũng cho chúng ta thấy tình trạng này, đó chính là bài học để chúng ta xét mình về việc sống đạo. Chuyện đã có bên Tây cũng là chuyện của chúng ta, nếu chúng ta nghiêm túc xem xét lại, và thử rảo quanh bên ngoài các nhà thờ Công giáo vào ngày Chúa nhật. Chuyện gì đang xảy ra, thái độ không nghiêm túc của rất nhiều người đi tham dự đang bôi đen đi hình ảnh đẹp thờ phượng của Kitô hữu, đó là chưa kể đến việc sống đạo trong đời thường, những xung khắc vẫn xảy ra nơi cộng đoàn xứ đạo và nhiều người chỉ giữ đạo vào những mùa vui, lễ hội, chưa kể đến những phát triển xã hội sẽ có những khoảng trống trong niềm tin, thoái thác những ràng buộc để tự do hơn. Chuyện yêu mến Thầy và giữ lời Thầy sao nó nặng nề, sao nó rắc rối, cái mà chúng ta cảm thấy nguy đó khi những lối sống này đang trở thành thói quen xấu và đang có những sự lây lan, liều thuốc nào đó để ngăn chăn, vắc xin nào tăng sức đề kháng, tất cả đã có nơi chúng ta, chả lẽ chúng ta chấp nhận bệnh khi chúng ta có cả một vườn thuốc đặc trị!
Ánh mắt của Chúa khi trao cho người phụ nữ ngoại tình, không kết tội mà nói: “Con hãy về đi và đừng phạm tội” sao nhân từ quá. Chúa nhìn Phêrô khi Phêrô vừa bai bải chối Thầy, làm Phêrô đấm ngực khóc than sám hối. Mới thoáng qua chúng ta nghĩ cách đơn giản rằng Chúa yêu họ cách riêng, nhưng thực ra sau ánh mắt là bài học: con hãy giữ lời Thầy đừng phạm tội, đừng cao ngạo. Cái ánh mắt của anh thanh niên trong trung tâm xã hội kia, chỉ mong tôi giữ lời và thực hiện hộ cho anh điều mà anh muốn làm, hôm nay vì đau bệnh không thể làm được nữa, nó tha thiết làm ray rứt chính chúng tôi, hôm nay không phải bằng ánh mắt, mà bằng chính lời của Chúa đang thân tình nói với chúng tôi rằng: “Ai yêu mến Thầy, hãy giữ lời Thầy” chả lẽ không đủ đánh động tôi và mọi người nghiêm chỉnh thực thi sao?
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Trong những năm qua, nước ta phải trải qua hai thiên tai khốc liệt. Thiên tai gây nên những thiệt hại trầm trọng về vật chất và tinh thần. Nhưng cũng chính trong thiên tai đã xuất hiện những nét đẹp của tình người.
Qua báo đài, tôi đã thấy nhiều Đức Giám mục, Linh mục mặc quần soọc áo may-ô chèo thuyền đi thăm viếng, khích lệ các nạn nhân. Nhiều cao tăng hoà thượng vận động tín đồ Phật tử tham gia công tác cứu trợ. Nhiều nữ tu đứng ra tổ chức công việc cứu trợ có khoa học và hiệu quả. Nhiều nhà thờ, nhà chùa, tu viện trở thành nơi tiếp đón các gia đình lâm nạn. Biết bao bộ đội, công an xả thân, liều lĩnh vượt qua sóng to gió lớn để cứu hộ các nạn nhân. Cả nước hướng về những nơi hoạn nạn đã đành. Cả những anh chị em ở nước ngoài cũng đau đớn khi khúc ruột trong nước đau đớn. Nên Việt kiều ở nước ngoài cũng đã vận động quyên góp, tổ chức những đoàn cứu trợ về thăm viếng và uỷ lạo các nạn nhân bão lụt. Nhiều cơ quan thiện nguyện nước ngoài cũng nhập cuộc. Tất cả mọi người, không phân biệt tôn giáo, màu da, ngôn ngữ, khuynh hướng chính trị, giai cấp đang quy tụ lại để khắc phục thảm hoạ. Toàn cầu hoá với sự bùng nổ thông tin đang làm cho các nước xích lại gần nhau. Gần gũi không chỉ về không gian, nhưng nhất là về tấm lòng. Mọi người liên đới với nhau trong việc chống lại cái ác và cùng nhau đề cao sự thiện, lòng nhân ái. Đó là dấu chỉ cho thấy Lời Chúa đang được thực hiện.
Tuần trước khi Chúa Giêsu nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con thương yêu nhau”, Người đã cấp thẻ quốc tịch cho những kẻ thuộc về Người. Căn tính của những kẻ thuộc về Người không phải là mầu da, ngôn ngữ hay phong tục tập quán, nhưng là trái tim. Người ta nhận ra thần dân của Người không phải bằng chiều cao, sức nặng, nhưng bằng tình yêu.
Hôm nay, khi nói: “Ai yêu mến Thầy thì giữ Lời Thầy. Và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Và chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy”, Chúa Giêsu đang vẽ nên biên cương Nước Chúa. Biên cương này không xác định bằng rừng núi, sông biển, nhưng bằng tấm lòng. Chúa Giêsu không giới hạn Nước Chúa trong 4 bức tường nhà thờ vì Nước Chúa là Tình Yêu. Vì thế, điều quan trọng không phải là ở trong hay ngoài nhà thờ, nhưng là ở trong hay ở ngoài tình yêu. Ai ở ngoài nhà thờ mà ở trong Tình Yêu thì người ấy đã ở trong Nước Chúa. Trái lại, những ai ở trong nhà thờ mà không có Tình Yêu, thì người ấy vẫn còn ở ngoài Nước Chúa.
Rồi xã hội sẽ chẳng còn phân biệt hữu thần với vô thần. Nhưng sẽ chỉ có một phân biệt duy nhất: hữu tâm và vô tâm. Người hữu tâm là người có trái tim rộng mở, biết chạnh lòng thương xót, biết chia sẻ, phục vụ. Người vô tâm là người lòng chai dạ đá, trái tim khép chặt, chỉ biết trau chuốt bản thân. Người vô thần mà có trái tim nhân ái thì đã thuộc về Chúa. Hữu thần mà tâm hồn tàn nhẫn độc ác thì đã bị loại trừ ra khỏi Nước Chúa rồi.
Nhìn như thế, Nước Chúa thực là rộng lắm. Những người thuộc về Nước Chúa thực là đông đảo. Những người có trái tim yêu thương tạo nên thành Giêrusalem mới như ta nghe trong bài đọc thứ I hôm nay. Thành Giêrusalem mới có cửa mở ra 4 phương tám hướng để đón nhận mọi người từ khắp nơi tuốn về. Thành không có Đền Thờ vì thành được xây bằng yêu thương. Mà ở đâu có yêu thương thì ở đó có Thiên Chúa ngự trị. Thành không cần đèn đuốc vì Thiên Chúa tình yêu là ánh sáng cho thành. Gạch xây thành là những trái tim chan chứa yêu thương nên thành trở nên một khối pha lê trong suốt, như một viên ngọc quý toả ánh sáng tới khắp muôn dân.
Trong số những người có trái tim, xây dựng nên thành Giêrusalem mới ấy, tôi thấy có nhiều người trong anh chị em. Trong những năm qua số người tham gia công tác từ thiện bác ái ngày càng đông. Người âm thầm, kẻ công khai. Người góp của, kẻ dâng công. Tôi thấy rõ là anh chị em đang phấn đấu để ở trong tình yêu. Tôi thấy rõ là anh chị em đang rèn luyện để trở nên người hữu tâm.
Xin tình yêu Chúa thanh luyện trái tim ta không ngừng, để mỗi trái tim chúng ta trở thành một viên gạch trong suốt như pha lê, góp phần xây dựng thành Giêrusalem mới cho tình yêu Thiên Chúa ngự trị. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
Suy nghĩ về tình trạng tai nạn giao thông trong nước, một người đã viết trên báo Tuổi trẻ số ra ngày thứ hai 16/04/2007 như sau: “Dư luận chưa hết bàng hoàng trước vụ xe tải cán chết bốn học sinh ở Tuy An, Phú Yên, nay lại thêm một xe tải khác cán chết ba học sinh ở Ninh Hòa, Khánh Hòa. Những thông tin chết chóc do tai nạn giao thông làm nhói lòng người. Người dân luôn nơm nớp lo sợ từng ngày về sự an nguy của mình, của người thân trước hiểm họa xe cộ còn kinh hoàng hơn cả chiến tranh bởi không biết đâu là mặt trận, chiến trường, mỗi con đường đều có thể là bờ vực của tử thần… “.
Trên đây là tâm trạng bất an trong chỉ một lĩnh vực trong muôn vàn lĩnh vực khác trong cuộc sống hiện nay. Dường như xã hội càng tiến bộ bao nhiêu thì con người lại càng làm cho nhau thêm bất an lo sợ. Như thế có sự bình an đích thực không?
Để giải đáp cho câu hỏi này hôm nay Chúa Giêsu đã nói đến trong bài Tin mừng: ” Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi ” (Ga 14, 27). Nói cách vắn gọn là trong Chúa Giêsu Phục sinh ta mới có được sự bình an đích thực và vững chắc.
Chúng ta nhớ sau khi Chúa Giêsu bị bắt và bị đóng đinh thì chính các Tông đồ là những người mất bình an hơn ai hết. Bấy giờ họ chỉ biết vào phòng đóng kín cửa mà vẫn chưa hết lo sợ. Đến nỗi khi Chúa Giêsu Phục sinh hiện đến thì các ông lại tưởng là ma (Lc 24, 37). Thế nhưng sau khi các ông đón nhận được sự bình an của Chúa Giêsu Phục sinh thì các ông không còn lo sợ nữa. Các ông đã được hoàn toàn đổi mới. Các ông đã trở nên những người can đảm và mạnh mẽ lạ thường. Các ông đã chia nhau mỗi người mỗi ngả mà đi loan báo Tin mừng Phục sinh. Các ông đã dám đánh đổi cả mạng sống của mình để bảo vệ Tin mừng trọng đại ấy.
Ngược lại, những Thượng tế và những kỳ mục là những người mất bình an sau khi Chúa Giêsu Phục sinh. Thánh Mathêu ghi lại sau khi họ được báo tin Chúa Giêsu đã sống lại: “Các thượng tế liền họp với các kỳ mục; sau khi bàn bạc, họ cho lính một số tiền lớn, và bảo: Các anh hãy nói như thế này: ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm xác. Nếu sự việc này đến tai quan tổng trấn, chính chúng tôi sẽ dàn xếp với quan và lo cho các anh được vô sự. Lính đã nhận tiền và làm theo lời họ dạy. Câu chuyện này được phổ biến giữa người Do-thái cho đến ngày nay” (Mt 28, 12 – 15). Vì không được sự bình an trong Chúa Giêsu Phục sinh nên những người này đã tìm cách che giấu sự thật này. Nhưng làm sao có thể che giấu cho được điều này.
Mỗi khi Thánh lễ kết thúc, Chủ tế luôn chúc chúng ta “ra đi bình an”. Vì Giáo hội tin là qua Thánh lễ chúng ta đã gặp và đón nhận được Chúa Giêsu Phục sinh trong Lời Chúa và Mình Máu Thánh Chúa. Do đó, chắc chắn chúng ta sẽ được bình an đích thực. Giáo hội cũng mong muốn mỗi tín hữu sau khi tham dự Thánh lễ về cũng biết đem bình an ấy cho gia đình và mọi người xung quanh. Cũng vậy, khi lãnh nhận Bí tích Hòa giải Linh mục thay mặt Thiên Chúa ban ơn bình an cho chúng ta. Chúng ta có tin và ý thức được điều ấy chưa?
Bình an đích thực là khi chúng ta biết làm theo lời Chúa và Giáo hội dạy. Khi chúng ta biết nghe lời Chúa và Giáo hội chắc chắn chúng ta sẽ có hạnh phúc thật sự. Đó là khao khát tận cõi lòng của mỗi người chúng ta.
Ngoài ra chúng ta hãy nhớ, những sự bình an theo kiểu thế gian chỉ là tạm bợ, mau thay đổi. Thậm chí, có khi lại là giả tạo.
Xin Chúa Giêsu Phục sinh ban cho mỗi người chúng ta biết chạy đến với Người để đón nhận bình an đích thực.
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Có một nhà chuyên môn sưu tầm các loài bướm. Ngày nọ, khi bước vào một công viên, ông đã gặp tổ kén lạ. Ông liền bứt cành cây đem kén bướm về nhà. Ít ngày sau, ông thấy nhúc nhích bên trong kén, nhưng con bướm vẫn chưa phá kén bay ra.
Hôm sau, kén lại nhúc nhích, nhưng chẳng có gì khác lạ. Lần thứ ba, vẫn thấy như trước, ông liền lấy dao rạch kén, thế là con bướm bò ra ngoài. Tuy nhiên, bướm không tăng trưởng và chẳng bao lâu thì chết.
Sau này, ông được người bạn là nhà sinh vật học cắt nghĩa như sau: Thiên nhiên đã xếp đặt cho con bướm phải đấu tranh mới thoát ra khỏi cái kén, vì nhờ đấu tranh gian khổ mà nó có thể phát triển mạnh mẽ để sinh tồn.
***
Muốn làm cánh bướm bay trên ngàn hoa rực rỡ, bướm phải làm kiếp sâu lặng lẽ, cô tịch trong vỏ kén lặng lờ, khuất nẻo. Muốn làm con bướm bay trong bầu trời xanh ngắt, bướm phải là con sâu đen đủi xấu xa, vặn vẹo đau đớn trong tổ kén đợi chờ.
Để trở nên những tín hữu Kitô vững mạnh, tăng trưởng về đường thiêng liêng, chúng ta phải trải qua một thời kỳ gian khổ để tiến triển về mặt tâm linh, chúng ta cũng phải vượt qua đấu tranh thử thách. Nhưng trong những thời điểm ấy, Thiên Chúa luôn bên cạnh chúng ta, cho dù chúng ta không nhìn thấy Người.
Lúc sắp sửa ra đi, để trấn an các tông đồ, Chúa Giêsu đã hứa rằng, dù vắng mặt, nhưng Người vẫn luôn hiện diện giữa các ông và ban bình an cho các ông. Sự hiện diện của kẻ vắng mặt! Đó là cảm nghiệm mà chỉ có những kẻ yêu nhau mới nhận ra mà thôi. Từ sau biến cố Phục sinh, Chúa Giêsu đã trở nên con người của mọi thời đại.
Người hiện diện trong những kẻ yêu mến Người: “Ai yêu mến Thầy, Cha của Thầy và Thầy sẽ đến ở lại với người ấy”.
Người hiện diện trong những kẻ thực hành và giữ lời Người: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy… Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy”.
Người hiện diện không chỉ đơn độc, nhưng là hiện diện cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Cả Ba Ngôi cùng đến thăm và ở lại trong những ai yêu mến Chúa Giêsu và tuân giữ lời Người.
Nếu Chúa Cha chính là Thiên Chúa trong tình trạng vô hình, thì Chúa Giêsu cũng là Thiên Chúa đã hiện diện, nói năng, hành động để cứu chuộc con người; và Thánh Thần cũng là Thiên Chúa, Đấng kéo dài cách thiêng liêng sự hiện diện, lời nói và hành động của Chúa Giêsu và Chúa Cha.
Vì thế, Thánh Thần sẽ thông truyền trọn vẹn sự sống của Thiên Chúa cho con người, khi soi sáng dạy dỗ con người dần dần hiểu lời Thiên Chúa, Lời đó chính là Chúa Giêsu, Ngôi Lời của Chúa Cha: “Thánh Thần sẽ dạy cho anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14,26).
Với lời hứa này, kể từ ngày lễ Hiện Xuống đầu tiên, Thánh Thần đã soi sáng và hướng dẫn Giáo hội hiểu thấu triệt Lời Chúa trong Kinh Thánh, để trình bày một cách sáng tỏ hơn, và để giải quyết những vấn đề mới mẻ cho từng thời đại. Vì thế mà các Công đồng liên tiếp được triệu tập dưới sự bảo trợ của Thánh Thần.
***
Lạy Chúa Ba Ngôi, xin cho chúng con nhận ra sự hiện diện của Người trong lòng chúng con, trong lòng Giáo hội, và trong lòng thế giới:
Để chúng con luôn yêu mến và tuân giữ Lời Người.
Để chúng con được soi sáng và hướng dẫn bởi Thánh Thần.
Và để chúng con được canh tân và tái tạo mỗi ngày trong Thiên Chúa Tình Yêu. Amen.
Nếu không có Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa sẽ xa vời, Chúa Giêsu sẽ là một nhân vật của quá khứ, Phúc Âm sẽ chỉ là một bản văn chết, Giáo Hội sẽ chỉ là một tổ chức trần gian, Giáo quyền sẽ giống như bất cứ một thứ quyền bính nào khác, việc truyền giáo sẽ chỉ là một công tác tuyên truyền, phụng vụ sẽ chỉ là một mớ nghi thức cổ xưa lỗi thời và cuộc sống theo luân lý đạo đức sẽ chỉ là kiểu cách hành động của nô lệ. Nhưng trong Chúa Thánh Thần, vũ trụ trở thành cao quí vì nước Chúa khai sinh, Chúa Kitô Phục Sinh hiện diện, Phúc Âm trao ban sứ mạng và sự sống. Giáo Hội thể hiện sự hiệp thông của Thiên Chúa Ba Ngôi, Giáo quyền trở thành dụng cụ phục vụ, Phụng Vụ trở thành lễ nghi tưởng niệm diễn tả trước cuộc sống mai sau và hành động của con người trở thành thần thánh.
Tư tưởng trên đây của Đức cố Thượng Phụ Albertô, thuộc Giáo Hội Chính Thống có thể giúp chúng ta hiểu được sứ điệp thần học của các bài đọc trong Chúa Nhật VI Phục Sinh hôm nay. Đó là Chúa Thánh Thần là Đấng trợ lực và hướng dẫn cuộc sống Giáo Hội. Tông Đồ Công Vụ chương 15 là một trang sử đáng ghi nhớ của Giáo Hội tiên khởi, bởi vì nó cho chúng ta thấy một số vấn đề quan trọng của cộng đoàn và kiểu cách Giáo Hội đã giải quyết các vấn đề đó.
Trước hết là vấn đề liên quan đến chiều kích đại đồng trong khác biệt của cộng đồng dân Chúa. Các tín hữu thuộc cộng đoàn tiên khởi gồm những người gốc Do Thái cũng như không Do Thái thuộc các dân tộc khác. Trong đó, có người Hy Lạp, họ làm công tác rao truyền Tin Mừng của thánh Phaolô và Barnaba và họ đã trung thành với sứ mệnh và Tin Mừng Nước Trời cho mọi dân tôc khác.
Vấn đề hội nhập Tin Mừng vào nền văn hóa Hy Lạp đã được thánh Phaolô và thánh Barnaba thực thi ngay từ đầu tại Antiokia để nhận sự trợ giúp của các tín hữu Antiokia cho giáo đoàn mẹ. Họ đã rao giảng một nguyên tắc trái với tinh thần của Tin Mừng, bởi vì họ chủ trương bắt buộc những người không Do Thái, khi trở thành Kitô hữu cũng phải tuân giữ các luật lệ của Môisê và tập tục của người Do Thái như phép cắt bì chẳng hạn.
Vấn đề đã gây tranh luận sôi nổi đến độ cộng đoàn Antiokia đã yêu cầu Phaolô và Barnaba hướng dẫn phái đoàn gồm các tín hữu cộng đoàn Antiokia tuyển chọn về Giêrusalem tham khảo ý kiến với giới lãnh đạo và tín hữu của toàn giáo đoàn mẹ. Và thế là cộng đồng chung đầu tiên trong lịch sử Giáo Hội được triệu tập tại Giêrusalem.
Sau khi nghe phái đoàn Antiokia trình bày và cùng với họ duyệt xét, thảo luận vấn đề trong bầu khí cầu nguyện dưới ánh sáng và sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, các tông đồ đã lấy quyết định, viết thư trả lời và gởi phái đoàn đem thư tới cho các vùng Tiểu Á.
Công đồng quyết định rằng, trong giáo huấn của Chúa Giêsu đã có tất cả mọi nhân tố nòng cốt diễn tả bản chất cuộc sống và lòng tin của Kitô hữu. Đó là hoán cải tâm hồn và trung thành với giáo huấn Tin Mừng của Chúa Giêsu. Cộng đồng chung thì khuyên các tín hữu giữ ba điều sau đây:
Đây là ba luật đã có trong sách Lêvi (chương 17-18). Theo quan niệm của Do Thái giáo, niềm tin tượng trưng cho nguyên lý sự sống. Chỉ có Thiên Chúa là người có quyền trên sự sống thôi.
Kiểu cách giải quyết vấn đề trên đây của Giáo Hội Kitô tiên khởi phản ánh tinh thần cộng đoàn trong Giáo Hội. Giáo đoàn Antiokia cũng như giáo đoàn Giêrusalem không ủy thác cho một nhóm chuyên viên giải quyết vấn đề mà đã hội họp với nhau và trực tiếp lắng nghe trình bày vấn đề, các ý kiến thuận nghịch rồi bàn luận dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần. Sau cùng mới đưa ra quyết định chung, nghĩa là Chúa Thánh Thần trở thành trợ lực giới hữu trách, trợ lực Giáo Hội và các vị có nhiệm vụ giải quyết, nhưng Chúa Thánh Thần không thông tin cho các vị. Bổn phận thông báo tin tức và đầy đủ và trình bày vấn đề tường tận đến từng cộng đoàn thuộc mọi thành phần trong Giáo Hội.
Điều này cho thấy những đúng đắn giúp giải quyết các xung khắc, các bất đồng ý kiến trong cộng đoàn Giáo Hội không phải là dùng thái độ “cả vú lấp miệng em”, hà hiếp anh chị em, dùng quyền bính mà ra lệnh hay hô hào hiệp nhất. Nhưng trước hết là dẹp bỏ tất cả mọi sợ hãi, mọi ích kỷ, mọi chủ trương cá nhân hay bè phái, mọi thái độ cuồng tín, áp đặt không nhân nhượng và chống đối nhau để ngồi lại đối thoại, bàn thảo khách quan duyệt xét vấn đề trong tinh thần cầu nguyện với tấm lòng rộng mở do ơn Chúa Thánh Thần soi sáng trong tinh thần huynh đệ chân thành, trong sáng, vô vị lợi và trong thái độ khiêm tốn thẳm sâu.
Trong Phúc Âm thánh Gioan (Ga 14,23-29), Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta bí quyết sống lòng tin trọn vẹn để nên thánh và xây dựng cộng đoàn Giáo Hội là thân mình mầu nhiệm của Ngài trên trần gian này. Đó là luôn biết sống yêu thương kết hiệp với Chúa Giêsu và qua Ngài yêu thương kết hợp với Thiên Chúa Cha cũng như thực hành Tin Mừng của Ngài.
Tin Mừng thánh Gioan, tuân giữ lời Chúa Giêsu là kiểu nói diễn tả con đường tu đức của Kitô hữu. Qua lời nói và con người của Chúa Giêsu, Kitô hữu biết đạt đến sự mạc khải của Thiên Chúa trên con đường tu đức ấy, họ được Chúa Thánh Thần hướng dẫn chỉ bảo, dạy dỗ. Con đường tu đức của thánh Gioan không phải là một lời kêu gọi khô khan hay đạo đức luân lý hình thức tôn giáo của Chúa Giêsu một cách máy móc, mà là lời kêu mời chúng ta mở rộng tâm hồn cho Thiên Chúa là Đấng hiện diện trên trần gian này qua lời nói và con người của Chúa Giêsu.
Mở rộng tâm hồn cho Chúa là một nỗ lực đòi hỏi nhiều khiêm tốn, can đảm, từ bỏ và chiến đấu với chính con người của chúng ta, chiến đấu với các tội lỗi, các đam mê và khuynh hướng chạy theo sự dữ mà nó đã ăn sâu vào trong tâm hồn chúng ta.
Con đường tu đức tuân giữ lời Chúa Giêsu là con dốc rất cao, nhưng trên đỉnh con dốc đó là niềm bình an Thiên Chúa ban cho các Kitô hữu. Trong ngôn ngữ của Kinh Thánh thì “an bình” ám chỉ toàn vẹn của mọi ơn mà Đấng Cứu Thế đem đến trần gian, và Ngài trao ban cho con người trong mọi chiều kích của chúng.
Và trong truyền thống Kinh Thánh, người Do Thái quan niệm những ơn ấy trong chiều kích vật chất như được đất đai, thành thị, mùa màng, chiến thắng quân sự, an ninh và che chở khỏi quân thù… Nhưng trong Tin Mừng, niềm an bình mà Thiên Chúa diễn tả trọn vẹn sự mạc khải của Thiên Chúa. Ơn Chúa Thánh Thần, ơn Tin Mừng với các mối phúc và chính con người của Chúa Giêsu là thể hiện một sự trao ban trọn vẹn sự sống cho thế giới.
Niềm an bình ấy không trùng hợp với các giá trị của thế giới này, một thế giới tội lỗi, khép kín, khước từ Thiên Chúa. Niềm an bình của Thiên Chúa không giống như an bình bề ngoài giả tạo của các chế độ ý thức hệ trần gian. Các chính quyền trần gian ngưng chiến và ký thỏa hiệp vì không còn sức để chém giết nhau, chứ không phải vì muốn cho dân nước được an sinh thái bình thực sự.
Niềm an bình Thiên Chúa ban khác hẳn, loại trừ khỏi tâm hồn con người mọi thái độ hung hăng, hiếu chiến, mọi thèm khát bất chính, để làm nảy sinh ra tình yêu thương, tình bằng hữu chân thành, vô vị lợi, lòng nhân từ tha thứ và sự công chính.
Niềm an bình của Thiên Chúa là hạt giống làm phát sinh ra trời mới đất mới như được diễn tả trong chương 21 sách Khải Huyền: thành thánh Giêrusalem thiên quốc, hình ảnh Nước Trời, hình ảnh của Giáo Hội vẹn toàn được thánh hóa biến đổi trong thời cánh chung như là đích tới của ơn cứu độ. Trong đó, tín hữu không còn cần một môi giới nào, kể các đền thánh và ánh sáng mặt trời, mặt trăng, bởi vì vinh quang Thiên Chúa sẽ làm ánh sáng chiếu soi họ. Nhưng trước khi đạt tới điểm thành công ấy, Giáo Hội lữ hành trần thế cần được mọi thành phần của Thiên Chúa góp sức xây dựng, vun trồng và đổi mới. Và chúng ta chỉ có thể chu toàn sứ mệnh đó, nếu biết mở rộng cánh cửa tâm hồn cho ơn bình an của Chúa giãi tỏa, Tin Mừng của Chúa Giêsu mỗi ngày trong cuộc sống để cho Chúa Thánh Thần soi sáng và hướng dẫn, hoạt động như Ngài muốn. Amen.
“Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại trong người ấy…” (Ga 14, 24)
Mẹ Têrêsa cùng các chị em nữ tu Bác ái đang chăm sóc một người đàn ông gần chết, nằm bên cống rãnh; ông ta rất hôi thúi, ruồi bọ bu quanh…. Một người đi ngang thấy cảnh tượng đó, nôn ọe ra vừa nói: Có ai đó trả cho tôi 1 triệu đô la, tôi cũng không làm việc này… Mẹ Têrêsa nghe, trả lời cho anh ta: “tôi cũng vậy!” Cho 1 triệu đô la cả mẹ và chị em, ai cũng không làm được, nhưng với tình yêu hi sinh, tình yêu Đức Kitô, họ có thể làm được mọi sự…. Chính vì thế mà Đức Kitô đã nói: Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy… Kính mời anh chị em cùng suy niệm chủ đề này ngày chúa nhật hôm nay.
Bây giờ ta thử nghiêm túc nhìn lại cách sống đạo của người Việt Nam; thực ra có hơn Âu Châu không? Thưa có, vì người ta vẫn đi lễ đông nghẹt; các nhà thờ VN hầu như không đủ chỗ. Như thế thì rất tốy, rất sốt sắng. Nhưng thật sự giữ đạo trong cuộc sống hằng ngày, sống Lời Chúa thì chưa. Thực tế cho thấy có nhiều người có đạo, nhưng vẫn còn tham lam, ganh tị, bè phái, không bao dung, tha thứ… Có những người không thể nhịn nhục, tha thứ cho vợ cho chồng mình; có những người Công giáo, nhưng tâm địa ác độc… Số này giữ đạo vì lợi lộc cá nhân, vì muốn yên lương tâm, vì nhu cầu xã hội, để được chồng,được vợ. Lời Chúa nói không đủ đánh động họ, cái chết của Chúa trên thánh giá không dễ gì lôi kéo họ, vì họ qúa xem trọng lợi lộc trần gian, làm sao Chúa Thánh Thần có thể tác động họ khi chính bản thân họ không có quyết tâm.
Trong truyện cổ Việt Nam, có kể lại chuyện của một gia đình kia có một bà mẹ rất nghèo, do chồng mất sớm nên bà phải tần tảo khó nhọc để nuôi dạy con, hằng ngày bà phải đi tìm ao vớt bèo về nuôi lợn, vậy mà bà cho con được đi học rất tử tế, lại còn dạy con phải có phép tắc với mọi người, không được ăn cắp của ai, cũng không được tham lam của người khác. Năm đó, con bà đi thi đỗ được trạng nguyên, dân làng đón quan trạng và mở tiệc ăn mừng, còn bà thì thản nhiên như không có việc gì xảy ra. Hôm rước quan trạng về làng, bà cũng đi vớt bèo, ai gọi bà cũng không chịu bước lên, thế là quan trạng phải nhảy đùng xuống ao vớt bèo tiếp mẹ cho đủ một bao bèo rồi bà mới chịu lên. Nhiều người thấy vậy thì nói rằng: Có một người mẹ như thế, thì con mới nên người được. Một năm sau, quan trạng mau về biếu mẹ một chiếc áo dài gấm thật đẹp, bà mẹ không vừa lòng, lấy lửa đốt chiếc áo dài gấm đó trước mặt quan và nói: Mới làm quan, có tiền đâu mà mua áo, chắc là nhận tiền hối lộ của ai rồi, mới làm quan mà còn như vậy, nếu làm quan lâu thì sẽ làm khổ cho dân biết chừng nào nữa, Thế là từ đó, vị quan kia luôn nhớ lời mẹ, sống một đời làm quan thật trong sạch, và về sau ông được vua cho làm tể tướng.
Qua câu chuyện cổ trên đây, chúng ta thấy vị quan nhờ thương mến mẹ mình, nên ông luôn nhớ và sống theo lời mẹ ông dạy, nên nhờ đó mà việc thành tựu của ông trong cuộc sống mỗi ngày được tốt hơn, mỗi ngày được thành công hơn, và ông đã đạt được một chức vụ cao trọng nhất trong cuộc đời của ông. Tôi thấy câu chuyện này có thể minh hoạ cho chúng ta hiểu thêm về câu nói của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: “Ai yêu mến Thầy, thì tuân giữ lời Thầy”.
Yêu mến Chúa, có nghĩa là trở nên giống Chúa, là tuân giữ lời Chúa, là làm những điều Chúa muốn, và Chúa còn muốn mỗi người chúng ta phải cụ thể các việc làm đó bằng những cử chỉ thật sự, bằng những hành động yêu thương thật sự trong cuộc sống thường ngày của mỗi người. Vậy thì các hành động yêu thương đó được biểu lộ ra trong cuộc sống mỗi người như thế nào?
Thông thường trong cuộc sống, chúng ta hay sử dụng lời nói để diễn tả những suy nghĩ, những tâm tư tình cảm của mình đối với người khác. Tuy nhiên, trong rất nhiều trường hợp, lời nói cũng không thể diễn tả cách trọn vẹn được mọi suy nghĩ của chúng ta. Do đó, chúng ta lại dùng những điệu bộ bên ngoài như nét mặt, ánh mắt, như những cảm xúc vui buồn… để diễn tả những điều chúng ta muốn nói. Chẳng hạn như chúng ta thường biểu lộ niềm vui bằng tiếng cười, biểu lộ nỗi buồn bằng tiếng khóc… Chính vì thế khi nghe thấy những tiếng khóc, tiếng cười cho dù người đó không nói ra, thì người khác cũng phần nào hiểu được nỗi lòng của người thốt ra những tiếng đó.
Đối với tình yêu thương cũng vậy, người ta không thể dùng những con số, hay những kiểu nói ước lượng, như kiểu nói: “Tôi yêu anh chừng một tạ hay một tấn”, hoặc là nói: “Tôi mến anh dài 50 hay 100 cây số” được. Nhưng khi muốn diễn tả tình yêu thương, người đó thường dùng những hành động cụ thể để nói lên mức độ yêu mến của mình. Chỉ cần nhìn cảnh những người cha người mẹ sẵn sàng thức khuya, dậy sớm, tảo tần buôn gánh bán bưng để lo cho con cái được ấm no, được ăn học, được thành tài, là mọi người cũng hiểu được tình thương như trời bể mà các bậc cha mẹ đã dành cho con mình. Thánh Augustinô còn nói: “Mức độ của tình yêu là yêu không mức độ”.
Hiểu như vậy, tình yêu của chúng ta đối với Chúa cũng cần được biểu thị bằng một dấu chỉ, hay bằng một hành động cụ thể. Dấu chỉ đó chính là sự vâng giữ lời của Đức Giêsu, cụ thể là chúng ta nghe trong bài Tin Mừng: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy”
Nhìn lại gương Chúa Giêsu, chúng ta đã thấy Ngài vì yêu mến Chúa Cha, nên Ngài đã làm trọn thánh ý của Chúa Cha, cho dù Ngài phải chấp nhận một cái chết tủi nhục trên thập giá, thì xin Chúa cũng cho mỗi người chúng ta luôn biết noi theo gương của Chúa, để mỗi khi chúng ta thốt lên Chúa ơi, con yêu mến Chúa thì chúng ta cũng sẽ làm trọn theo những điều Chúa dạy, để cuộc sống của mỗi người chúng ta luôn là một cuộc sống bình an trong tay Chúa, và cũng là một cuộc sống vui tươi trong vòng tay yêu thương thân ái của tất cả mọi người. Amen.
Lời Chúa đề cập đến giáo lý về Hội thánh. Hội thánh là tập đoàn của những người đã chịu phép Rửa tội dưới sự điều khiển và hướng dẫn của Đức Giáo hoàng và hàng Giáo phẩm. Đã là một tập đoàn thì gồm có nhiều người và có nhiều người thì có nhiều ý kiến nhiều khi trái nghịch nhau, chống đối nhau.
Giáo hội tiên khởi gồm hai thành phần: thành phần từ đạo Do-thái trở lại, và thành phần dân ngoại vừa đón nhận Tin Mừng.
Thành phần Do-thái muốn áp đảo bắt phải giữ tập tục Do-thái trong khi “dân ngoại” chỉ muốn biết Chúa Kitô. Thoạt đầu tiên, các nhà lãnh đạo cũng băn khoăn trước vấn đề gai góc. Làm sao giải quyết? Giáo hội đã dùng đến quyền tối thượng của mình.
Tại Giêrusalem năm 49, Giáo hội mở Công đồng gồm các Tông đồ, các bô lão và đại diện các cộng đoàn. Ý thức quyền cao cả – “Chúng tôi và Thánh Thần”,Giáo hội công bố bản quyết nghị về sự tự do thiêng liêng. Thể thức ấy còn tiếp diễn đến hôm nay qua dòng lịch sử, với 22 Công đồng chung.
Sở dĩ Giáo hội giải quyết những khó khăn, dị đồng lúc ban đầu cũng như qua các thời đại như vậy, vì Giáo hội được thừa hưởng lời hứa của Chúa Giêsu, Ngài sẽ ban Chúa Thánh Thần, “Đấng Phù-Trợ”đến.
Trong bài Phúc Âm, Gioan ghi lại lời minh hứa: “Đấng Phù trợ là Thánh Thần mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều và sẽ nhắc nhở các con tất cả những gì Thầy đã nói cho các con”.
Chúa Giêsu đã nói tất cả rồi. Nghiêng mình trên sứ điệp mạc khải, Giáo hội hằng suy tư nghiền ngẫm Lời Chúa. Trải qua các thời đại, dưới sự soi sáng và hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, Giáo hội càng hiểu rõ Tin Mừng hơn và đem áp dụng vào đời sống; căn cứ vào đó để giải quyết những vấn đề mới mẻ do thời đại đặt ra.
Khi Gioan, vị Tông đồ cuối cùng qua đời thì nguồn mạc khải cũng chấm dứt. Phải chăng từ đó, Lời Chúa ghi chép trong Thánh Kinh, rao giảng và truyền đạt qua Thánh truyền, đã đứng nguyên một chỗ? Và chúng ta chỉ được nghe những lời giải thích cũ kỹ xa xưa. Không. “Thánh Thần mà Cha sai đến nhân danh Thầy sẽ dạy các con mọi điều”. Lời Chúa được ghi chép trong Thánh Kinh, được rao giảng qua Thánh truyền, là sự sống và là sự sống thì có cử động, có tiến triển. Lời Chúa được thấu triệt hơn và trình bày một cách sáng tỏ hơn.
Chúa Giêsu còn dạy cho chúng ta một Tin Mừng đặt biệt là mỗi cá nhân cũng như Giáo hội là “nhà tạm” của Chúa ngự. Đó là một đặc sủng và đặc sủng ấy chính là Thiên Chúa. Chúa phán: “Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy”. Nguyên bản viết: “Chúng ta sẽ đến cắm trại” trong người ấy. Nghĩa là linh hồn đã được sạch tội và thánh hóa bởi ơn thánh thì được Con Thiên Chúa Ba Ngôi-“CHÚNG TA”-sẽ lập cư trong họ, trong một cuộc sống mật thiết như cuộc sống của Thiên Chúa Ba Ngôi vậy.
Chơn phước Elisabeth Chúa Ba Ngôi là một nữ tu dòng kín ở Dijon, được tôn phong ngày 24-2-1984, đã sống mầu nhiệm tôn thờ Chúa Ba Ngôi trong tâm hồn. Chị viết: “Chớ gì tôi được sống mãi trong cái gian phòng nhỏ bé mà Chúa đã xây dựng từ lâu trong đáy hồn tôi. Ở trong tôi được nhìn thấy Chúa, được cảm nghiệm có Chúa ở bên”. Đó cũng là một gương mẫu cho chúng ta.
“Lạy Chúa Ba Ngôi lòng con thờ phượng
Xin cho con quên mãi chính mình đi
Để chìm trong Chúa, rồi không biệt ly
Bất động và êm như vào vĩnh viễn…
Cho hồn con an bình, nơi lưu luyến
Thành Thiên đàng chỗ an nghỉ tình yêu…”
(Elisabeth de la Trinité)
NHẬP LỄ
Với thời gian, biết bao nền văn minh xán lạn, bao nhà cai trị khét tiếng, nay còn đâu!? Thế nhưng Giáo Hội Chúa chỉ khởi đầu với 12 con người yếu đuối, hèn kém, cộng thêm biết bao bắt bớ, thử thách cam go, lại càng ngày càng phát triển, càng đông người tin theo và càng có uy tín đối với mọi người. Động lực đó từ đâu, nếu không phải từ sức mạnh và quyền năng dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, mà Chúa Giêsu Phục Sinh đã ban cho Giáo Hội?
– Lạy Chúa, Chúa đã ban Chúa Thánh Thần cho chúng con, để chúng con được sống tự do. (Xin Chúa thương xót… )
– Lạy Chúa, Chúa đã ban Chúa Thánh Thần cho Giáo Hội, để Giáo Hội trở nên Thành Thánh đáng quý đáng trọng. (Xin Chúa Kitô… )
– Lạy Chúa, Chúa đã ban Chúa Thánh Thần, để dạy dỗ và nhắc nhở chúng con. (Xin Chúa thương xót… )
GIẢNG
Nhiều người đã lấy làm lạ không hiểu tại sao, cho đến giờ phút này, Giáo Hội Chúa vẫn có thể tồn tại và phát triển; càng ngày càng phát triển, cho dù ngay từ bản thân Đức Giêsu, Giáo Hội Chúa đã bị bách hại, bị người đời tính toán tiêu diệt. Thử thách như theo gót phát triển của Giáo Hội: Thời kỳ đầu ở Giêrusalem, khởi sự với cuộc tử đạo của Thánh Têphanô, Thánh Giacôbê và các Thánh Tông Đồ khác, đến nỗi Giáo Hội phải phân tán khắp nơi; 300 năm cấm đạo ở Rôma và các Giáo Hội địa phương cũng chịu cùng cảnh ngộ. Giáo Hội có mặt ở đâu là bị bách hại ở đó; ngay tại Việt Nam, thời chế độ phong kiến, Giáo Hội cũng phải chịu hơn trăm năm ruồng rẫy, bắt bớ, hàng trăm ngàn người hy sinh vì Chúa. Bên ngoài Giáo Hội bị bách hại đã vậy, bên trong Giáo Hội cũng không kém phần thử thách: Nhiều người thế giá sống tội lỗi; nội bộ chia rẽ, nhiều giáo phái nổi lên gieo những điều sai lạc và làm ly tán Giáo Hội. Thế nhưng, Giáo Hội vẫn đứng vững trước các thử thách; ngày càng có nhiều người tin nhận, gia nhập Giáo Hội bằng con đường này hay con đường khác. Tất nhiên, chúng ta không lấy số lượng làm mục đích phát triển Giáo Hội, nhưng việc phát triển số lượng đó vẫn cho chúng ta thấy một sức sống mãnh liệt đang tiềm tàng hoạt động trong Giáo Hội. Sức sống đó là gì và ở đâu?
Thời Giáo Hội sơ khởi, nhiều tín hữu từ Giêrusalem -tất nhiên gốc là Dothái giáo, đã thấm nhiễm tinh thần, luật lệ và các buổi phụng vụ Dothái- đến Antiôkia buộc các Kitô hữu gốc lương dân phải thi hành các luật lệ của ông Môsê, theo thói quen của Dothái giáo, làm các tín hữu tân tòng hoang mang, vì chẳng lẽ ơn cứu độ của Chúa Giêsu không giá trị bằng luật lệ của Cựu Ước? Nhiều cuộc tranh cãi đã nổ ra. Nhưng những bất đồng ý kiến, nếu không được hoà giải, sẽ đưa tới việc phân hoá Giáo Hội. Kinh nghiệm cho biết: Những đảng phái, phe nhóm do con người thiết lập, sẽ dễ dàng phân hoá, bất đồng ý kiến và phản bội nhau chỉ vì quyền lợi vật chất, địa vị, danh vọng trần thế như vậy. Rất may là các Tông Đồ đã gặp gỡ nhau, triệu tập công đồng đầu tiên trong Giáo Hội. Nhờ ngày phục sinh được Chúa Giêsu trao ban Chúa Thánh Thần, các Tông Đồ đã nhận ra vai trò và hoạt động của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội: “Thánh Thần và chúng tôi quyết định…” (Cv 15,28). Chúa Thánh Thần đứng trước các Tông Đồ và chủ động việc hướng dẫn giúp đỡ các Tông Đồ. Chính nhờ Chúa Thánh Thần, Giáo Hội đã tránh được tình trạng đổ vỡ và ngày càng hiểu sâu hơn giáo huấn của Chúa Giêsu, như chính Chúa Giêsu đã nói: “Đấng Bảo Trợ là Chúa Thánh Thần, Chúa Cha sẽ phái đến nhân Danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14,26). Tất cả mọi sinh hoạt trong Giáo Hội đều có bàn tay can thiệp của Chúa Thánh Thần. Chính vì vậy, đứng trước những nguy cơ mà Giáo Hội phải đương đầu, nếu sống trong đức tin, chúng ta sẽ luôn luôn khám phá ra được những dấu ấn hoạt động của Thánh Thần Thiên Chúa và bao giờ chúng ta cũng cảm nhận được bình an, đúng như lời Chúa hứa: “Thầy để lại bình an cho anh em” (14,27).
Chúa Giêsu Phục Sinh đã ban Chúa Thánh Thần của Người cho Giáo Hội. Chưa ai thấy Chúa Thánh Thần, nhưng qua những hiệu quả công việc của Người, chúng ta cảm nhận được Người luôn sống trong Giáo Hội. Chúa Giêsu đã từng nói với ông Nicôđêmô về hoạt động của Chúa Thánh Thần: “Gió muốn thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu” (3,8). Chúa Thánh Thần luôn hoạt động theo tự do của Người. Qua những sinh hoạt và tính tồn tại, phát triển của Giáo Hội, bất chấp các thế lực chống đối, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta khám phá ra Chúa Thánh Thần đang hiện diện trong Giáo Hội và qua Giáo Hội, Chúa Thánh Thần đang hiện diện trong cuộc sống mỗi người, để ta luôn cảm nghiệm được bình an của Chúa.
Là con người, ai cũng vậy, khi người thân mình đi xa thì thường để lại cho những người còn ở lại những lời trối trăn, những lời căn dặn. Những lời ấy càng có ý nghĩa, càng sâu sắc hơn khi người đó chính là người thương của mình, người mà mình yêu quý nhất.
Trong tâm tình đó, hôm nay, chúng ta được nghe Thánh Gioan thuật lại tâm tình hay nói đúng hơn là những lời trối trăn của Chúa Giêsu. Nơi Thánh Gioan, phải nói là có một tình cảm hết sức tuyệt vời với Thầy. Thánh Gioan đã ghi lại toàn bộ “diễn từ biệt ly”. Diễn từ biệt ly gói ghém tâm tình của Thầy Chí Thánh Giêsu.
Trong tâm tình ấy, Chúa muốn các môn đệ Chúa Giêsu phải sống yêu thương như thế nào đối với nhau (13,34)? đối với Chúa Giêsu (14,15)? Tại sao “yêu thương” được Chúa Giêsu nhắc đi nhắc lại tới 4 lần (cc 15.21.23.24)?
Các môn đệ phải sống yêu thương với nhau như Đức Giêsu đã yêu thương họ (13,34); họ phải yêu thương Chúa Giêsu bằng cách tuân giữ các giới răn của Ngài (14,15). Chúa Giêsu 4 lần nhắc tới yêu thương vì đây là điều răn quan trọng nhất và tiêu biểu nhất của Ngài.
Trong câu 31, Chúa Giêsu đã nêu gương cho chúng ta thế nào? Gương yêu thương của Chúa Giêsu: làm đúng như ý Chúa Cha.
Với kinh nghiệm hết sức thực tế trong lịch sử cứu độ, qua lịch sử cứu độ chúng ta thấy phảng phất hình ảnh của những con người không tuân hành thánh ý của Chúa Cha.
Khởi đầu Thánh Kinh, ta sẽ bắt gặp hình ảnh của người phụ nữ hết sức quen thuộc. Người nữ ấy có tên là Eva, bà là mẹ của chúng sinh. Mẹ của chúng sinh ấy nhưng bà có đủ ba đức tính để làm nên tội lỗi: thích ăn, nhẹ dạ và… tò mò. Trái Cấm ngon và kỳ diệu lắm! Đã là con người, ai chẳng muốn được ăn ngon? Và nếu như cái sự ăn đó sẽ đem đến cái vĩ hoàng tương tự như Thiên Chúa thì lại càng đáng để thử. Thích thử để biết cũng là một thuộc tính của cả loài người…
Vì muốn bằng Thiên Chúa nên Eva đã giơ tay hái trái cấm. Không chỉ mình mình ăn nhưng Evà còn “mời” chồng mình ăn nữa.
Kế tiếp, chắc chúng ta khó quên hình ảnh của một vị vua lừng danh đó là vua Đavít. Đavít: một kẻ phản bội, một kẻ dối trá, một người phạm tội ngoại tình, một tay giết người. Phạm tội ngoại tình với Bát Sêva. Đavít đã:
Giết Urigia chồng của Bát Sêva
Bất tuân lệnh Chúa khi thực hiện việc kiểm tra dân số
Không có thái độ cương quyết với các người con của mình
Cũng có người này người kia đến nhắc nhở nhưng Đavít đã bỏ ngoài tai những lời răn đe ấy. Vì bỏ ngoài tai lời của Thiên Chúa nên Đavít đã phạm tội.
Sang đến Tân Ước, chúng ta làm sao quên được hình ảnh của bà mẹ ông Giacôbê và Gioan. Đi theo Thầy, sống gần Thầy đấy nhưng mà lại xin chỗ nhất chỗ nhì.
Thánh Phêrô bi đát cũng chẳng kém. Khi Thầy báo trước con đường khổ nạn lên Giêrusalem thì lại cản Thầy. Kinh khủng hơn nữa là đã chối Thầy bây bẩy vì không nhớ lời Thầy dặn trong bàn tiệc. Thật sự ra cũng nhớ lời Thầy ấy nhưng mà yếu đuối, nhưng mà bị ngăn cản bởi con người mỏng dòn nên Phêrô đã chối Thầy.
Lược qua những hình ảnh, những con người hết sức thực tế trong cuộc sống, trong Thánh Kinh đã vì bất tuân, đã vì không nghe lời Chúa nên đã sa ngã, đã phạm tội.
Lời Chúa hết sức cần thiết cho cuộc đời mỗi người. Các thánh tông đồ tuy yếu đuối, tuy vấp ngã ấy nhưng sau khi có ơn Thánh của Chúa Phục Sinh cuộc đời của các tông đồ đã thay đổi. Các môn đệ đã mạnh dạn lên đường rao giảng Tin mừng. Không chỉ rao giảng một cách bình thường nhưng các ông rao giảng một cách mạnh mẽ: Nếu anh em không chịu phép cắt bì theo tục lệ Mô-sê, thì anh em không thể được cứu độ. Các ông Phao-lô và ông Ba-na-ba chống đối và tranh luận khá gay go với họ.
Không dừng lại ở chuyện gay go mà các ông còn quyết định cử ông Phao-lô, ông Ba-na-ba và một vài người khác lên Giê-ru-sa-lem gặp các Tông Đồ và các kỳ mục, để bàn về vấn đề đang tranh luận trong dân. Sau đó các Tông Đồ và các kỳ mục, cùng với toàn thể Hội Thánh, quyết định chọn mấy người trong các ông, để phái đi An-ti-ô-khi-a với ông Phao-lô và ông Ba-na-ba. Đó là ông Giu-đa, biệt danh là Ba-sa-ba, và ông Xi-la, những người có uy tín trong Hội Thánh. Các ông trao cho phái đoàn bức thư sau:
“Chúng tôi nghe biết có một số người trong chúng tôi, không được chúng tôi uỷ nhiệm, mà lại đi nói những điều gây xáo trộn nơi anh em, làm anh em hoang mang. Vì thế, chúng tôi đã đồng tâm nhất trí quyết định chọn một số đại biểu, và phái họ đến với anh em, cùng với những người anh em thân mến của chúng tôi là ông Ba-na-ba và ông Phao-lô, những người đã cống hiến cuộc đời vì danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Vậy chúng tôi cử ông Giu-đa và ông Xi-la đến trình bày trực tiếp những điều viết sau đây: Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết này: là kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết, và tránh gian dâm. Anh em cẩn thận tránh những điều đó là tốt rồi. Chúc anh em an mạnh.”
Các tông đồ đã gửi đến cho họ những người cống hiến cuộc đời vì danh Chúa Giêsu. Những tông đồ này trước đây cũng nhát đảm nhưng chắc có lẽ nhớ lại lời của Thầy trong bàn Tiệc Ly chiều thứ Năm Thánh nên các ông can đảm để loan báo Tin mừng.
Lời của Thầy ắt hẳn vẫn còn văng vẳng bên tai của các tông đồ: Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy.
Đó là cách biểu lộ duy nhất mà Thiên Chúa đã quyết định thể hiện: người đến cư ngụ giữa những kẻ tiếp đón Người và tin tưởng nơi Người. Nói cách khác, Người chỉ được người ta nhận ra Người “hiện diện”, nhờ những kẻ yêu mến Người… Tình yêu không cưỡng chế ai, không thúc ép ai.
Cảm nghiệm về một sự hiện diện thân mật nào đó của một người, tuy “vắng mặt” về thể lý, chúng ta cũng có thể nhận ra trong nhung tình yêu nhân loại ta, nếu chúng là chân thực: bất giác chúng ta sẽ nhận thấy đang khi nói, trong một cuộc đối thoại nội tâm, với người yêu, với bạn hữu, con cái, hôn phu, người chồng.
Đó là sự hiện diện của kẻ vắng mặt! Đó là cảm nghiệm mà chỉ có kẻ yêu thương mới nhận ra.
Chúng ta vẫn thường phàn nàn về sự vắng mặt của Thiên Chúa, về thái độ im lặng của Người. Người tín hữu luôn đụng chạm với lời thách đố của kẻ vô thần:…”Thiên Chúa của bạn ở đâu?” (Tv 42,4). Nhưng ngày nay, câu chất vấn đó có chiều hướng đi tới một chối từ Giáo hội, phủ nhận nếp sống cộng đoàn của Giáo hội: người ta cảm phục Chúa Giêsu như một mô hình của nhân loại… người ta không chống đối Người điều gì… nhưng người ta gạt Người sang một bên, như thể không có Người… bằng cách khỏa lấp qua một lời tuyên bố quá dễ dãi: “Tôi tin nhưng không hành đạo”. Do đó, rõ ràng là có một ranh giới thực sự giữa “người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu với mọi người khác, dù họ rất có cảm tình với nhân vật Giêsu Nadarét. Chúa Giêsu mạnh dạn quả quyết rằng, Người không chỉ là một kẻ chết, dù là tuyệt vời, của lịch sử xa xưa… cũng không chỉ là mẫu người đẹp mà sứ điệp có thể làm người ta phải suy nghĩ… Nhưng Người là một con người đang sống đang hoạt động, hôm nay vẫn còn hiển nhiên. Nhờ sự Phục sinh, Đức Giêsu Nadarét, con người lịch sử, đã bước vào thế giới xác định của Thiên Chúa: điều đó minh chúng. Người cũng trở nên kẻ đồng thời với mọi người.
Chúa Giêsu còn nói thêm: Ai yêu mến Thầy, Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Chúa Giêsu quả quyết, từ giờ trở đi Người đang hiện diện nhờ những kẻ yêu mến Người, nhờ các tín hữu đích thực mà Người đang cư ngụ trong họ.
Khi Chúa Giêsu tuyên bố những lời đó, quả thực chỉ còn ít giờ nữa là Người sẽ phải chết. Người là Đền thờ mới, được dựng lại nội trong ba ngày (Ga 2,19-22), Đền thờ mà ở đó người Do Thái thường cảm thấy một sự hiện diện thực sự của Thiên Chúa. Nhưng ở đây, Chúa Giêsu còn đi xa hơn. Người dám quả quyết rằng, kể từ’ lúc Người ra đi, thì sự hiện diện không diễn tả thành lời này, chắc chắn bị che giấu, nhưng sẽ được bảo chứng nhờ các Kitô hữu.
Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy… Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy.
Giữa những người yêu thương nhau, cần có sự lắng nghe, đối thoại, nói năng, trao đổi. Trong tình yêu của chúng ta, không cố gì tệ hại hơn là “không biết lắng nghe”, không chịu nói năng. Ở đây Chúa Giêsu mạc khải cho ta một trong những chìa khóa mở tới đời sống Kitô hữu đích thực: Suy niệm Lời Chúa, như một dấu chỉ của sự Hiện Diện. Đó là một sự kiện. Chúng ta không có sự hiện diện thể lý hữu hình của Chúa Giêsu, nhưng đối với kẻ yêu mến Người, thì thật là kỳ diệu, họ đã nhận được tư tưởng, lời nói của Người. Chúng ta cần ghi nhận, Chúa Giêsu không chỉ nói đến một lời được đón nhận trong tâm trí, mà là một lời ta phải tuân giữ một lời phải đưa ra thực hành, một lời nhờ luôn “sống động” sẽ giúp kẻ ban lời cũng thực sự hiện diện. Sự hiện diện của Đức Kitô Phục sinh, sống động… có thể được “nhận biết” cách cụ thể (điều đó hẳn là thế được!) trong đời sống của các môn đệ đích thực.
Cũng như Đức Giêsu Nadarét là nơi thể hiện sự hiện diện và lời của Chúa Cha (“Lời anh em nghe thấy không phải là của Thầy”), cũng vậy từ giờ trở đi, các Kitô hữu, Giáo hội chính là nơi đó. Thật là trách nhiệm lớn lao.
Nghe và giữ lời Chúa hay không là quyền tự do của mỗi kitô hữu.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Trong ánh sáng Chúa Kitô Phục Sinh, chúng ta hãy cùng nhau suy niệm lời dặn dò cuối cùng của Chúa Giêsu trước khi bước vào cuộc khổ nạn và chết trên thập giá rồi sống lại, và trở về cùng Thiên Chúa Cha. Đoạn Phúc Âm của Chúa Nhật thứ 6 Phục Sinh được trích từ Phúc Âm theo thánh Gioan chương 14,23-29 là những lời căn dặn mô tả dung mạo người Kitô qua mọi thời đại. Người Kitô trước hết phải là người sống vì tình yêu Chúa Kitô, là kẻ yêu mến Chúa Kitô. Và vì tình yêu này không phải là một lời nói suông nhưng cần được diễn tả cụ thể bằng hành động, bằng việc tuân giữ những lời Chúa dạy, những mệnh lệnh, mà mệnh lệnh cao cả nhất gồm tóm mọi mệnh lệnh là mệnh lệnh sống tình yêu: “Như Thầy đã yêu thương các con, các con hãy biết yêu thương nhau”. Tình yêu thương là khởi đầu cho cuộc sống con người trên phương diện tự nhiên cũng như trên phương diện siêu nhiên. Vì yêu thương, Chúa đã dựng nên con người. Vì yêu thương, Chúa đã cứu chuộc con người. Thừa hưởng một thân phận yếu đuối bất toàn, con người khó thực hiện mệnh lệnh tình thương. Qua bao thế hệ, bao ngàn năm, đạo tình thương được loan truyền, thế mà thế giới ngày nay, với những hận thù, căng thẳng, vẫn còn xa với văn minh tình thương. Nền văn minh của hận thù, của sự trả thù, ghen ghét và lạm dụng lẫn nhau, xem ra càng ngày càng lan rộng, xem ra như chương trình của Thiên Chúa bị thất bại. Nhưng thái độ tốt của người Kitô có lẽ không phải là thái độ phán đoán chương trình hành động của Thiên Chúa mà là thái độ phó thác và cộng tác với ơn Chúa, với chương trình của Ngài. Người Kitô, khi yêu mến Chúa nồng nhiệt chắc chắn sẽ không cô đơn, nhưng có Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trong tâm hồn: “Ta và Cha Ta, chúng ta sẽ đến ngự trong kẻ ấy”. Đó là đặc điểm thứ hai của dung mạo người Kitô.
Ngày xưa, trong cuộc Xuất Hành khỏi cảnh nô lệ Ai Cập, Thiên Chúa đến cư ngụ với dân Ngài đã chọn. Dân Chúa rất quí trọng sự hiện diện này. Sau thời lưu đày, tiên tri Dacaria loan báo đến một thời Thiên Chúa tới cư ngụ một cách đặc biệt với dân Ngài. Qua cách nói xác quyết của Chúa Giêsu, các tông đồ ngày xưa đã hiểu và chúng ta ngày hôm nay cũng vậy, chúng ta hiểu là thời mới đó đã đến. Thiên Chúa đã không cư ngụ giữa dân mà còn cư ngụ trong tâm hồn mọi tín hữu, trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Sự hiện diện của Thiên Chúa trong tâm hồn các tín hữu yêu mến Ngài là một hồng ân rất quí và cũng rất dễ bị mất, mỗi lần chúng ta sống phản nghịch với mệnh lệnh yêu thương của Chúa. Vì thế, Chúa đã có lần dùng một hình ảnh khác, hình ảnh cây nho và ngành nho, vừa cảnh tỉnh, vừa kêu gọi các tông đồ hãy cố gắng sống kết hiệp với Ngài: “Thầy là cây nho, các con là ngành nho. Ngành nào kết hợp với thân cây sẽ trổ sinh nhiều hoa trái. Những ngành sinh hoa trái còn được Thiên Chúa cắt xén để sinh hoa trái nhiều hơn nữa”. Việc Thiên Chúa cắt xén có thể hiểu như là tác động của Thiên Chúa huấn luyện hướng dẫn cuộc đời của mỗi người Kitô. Sự trưởng thành đời sống thiêng liêng không phải là một sự trưởng thành tự nhiên, như cành cây tự động lớn lên, nhưng là một sự triển nở được hướng dẫn cắt xén theo chương trình của người thợ xén, theo ý định của Thiên Chúa cho mỗi người. Không ai biết Thiên Chúa muốn cắt xén điều gì nơi cuộc đời mỗi người. Tốt hơn hết là chúng ta hãy dễ dãi, hãy sẵn sàng vâng phục thánh ý Thiên Chúa được mạc khải từ từ cho chúng ta qua tác động của Chúa Thánh Thần mà Chúa Giêsu hứa ban xuống cho mỗi tín hữu, đó là đặc điểm thứ ba của dung mạo người Kitô. Là kẻ sống vâng phục theo Chúa Thánh Thần, Đấng an ủi và mạc khải sự thật. Ngài sẽ hướng dẫn chúng ta đến sự thật và làm cho chúng ta hiểu được sự thật mỗi ngày một trọn vẹn hơn.
Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta được đầy đủ ơn Chúa Thánh Thần và lòng can đảm để thực hiện mệnh lệnh tình thương của Chúa mọi nơi và mọi lúc.
“Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.” (Ga 14,23)
Hẳn là Chúa Giêsu quá rõ về lòng dạ hay đổi thay của con người chúng ta: hôm nay nói yêu, ngày mai nói ghét; hôm nay theo Người, mai lại bỏ Người mà đi; hôm nay hứa thề, mai rồi nuốt trôi lời thề hứa… nên Ngài đã báo tin vui có Chúa Thánh Thần nâng đỡ chúng ta để bảo đảm cho một tương quan thật hoàn hảo giữa chúng ta với Ba Ngôi Thiên Chúa.
Chính Chúa Thánh Thần sẽ làm sống lại mọi Lời Đức Giêsu đã nói và hướng dẫn mỗi chúng ta thực hành cách trọn vẹn để ai giữ Lời Chúa Giêsu dạy sẽ được Thiên Chúa Cha yêu mến. Tâm hồn của người ấy trở nên cung vàng điện ngọc dành cho Ba Ngôi Thiên Chúa ngự trị.
Yêu mến, lắng nghe và làm theo hướng dẫn của Chúa Thánh Thần là sống như Lời Chúa dạy để đón nhận “Thiên Chúa ở cùng”, để ở cùng Thiên Chúa, đó chính là chìa khóa của sự bình an thật.
“Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi.” (Ga 14,27).
Chúng ta đang sống những ngày đầy xao xuyến, kinh sợ
Thế giới văn minh hơn nhưng bất an hơn. Ngay trong xã hội gần nhất với chúng ta, chỗ nào cũng bất an cả.
Cha mẹ không an tâm khi học sinh đến trường để tiếp thu một nền giáo dục không Thiên Chúa.
Học sinh đến trường không an tâm vì nhà mình không đủ điều kiện chạy điểm.
Bệnh nhân đến bệnh viện cũng chẳng an tâm về đức hạnh của y bác sĩ thời đại vô thần.
Người đi chợ không an tâm về thực phẩm, rau quả càng múp càng tươi càng sợ vì chúng được sản xuất với ý đồ trong ngoài toa rập cho người ăn phải chết để tiêu diệt một dân tộc.
Các mặt hàng được sản xuất ở những nước chống Thiên Chúa càng đáng kinh sợ hơn.
Không dám tin sản phẩm nào an toàn, không dám tin chỗ nào có an ninh, không dám tin đất nước nào có hòa bình và kể cả việc không dám tin gia đình nào có bình an hạnh phúc trong một xã hội loài người đầy gian dối.
Vâng, làm sao khỏi xao xuyến khi cuộc sống đang có những nghịch lý thật lố bịch:
– Một đất nước mang tiếng là hoà bình nhưng hầu như ai cũng biết đó chỉ là hoà bình ảo trước nguy cơ mất nước, hoặc tất cả đã trong một kế hoạch… bán nước!
– Nhà cửa rộng ra lớn ra nhưng mái ấm hạnh phúc gia đình thì hẹp lại, teo tóp đến mức có khi là mất trắng!
– Điều kiện sống có khá hơn nhưng lòng quảng đại thì kém lại. Ngày xưa chia củ khoai sùng, bây giờ quên bạn bần cùng ngày xưa! Xưa người đi bộ, xa mấy cũng gần, nay xe bảy chỗ, gần mấy cũng xa!
– Phương tiện truyền thông rất hiện đại, nhưng để ca tụng Thiên Chúa thì ít, để loan truyền công lý, bảo vệ nhân quyền, loan truyền một nền văn minh thuộc về thượng giới thì bị cấm đoán nhưng để cổ xúy cho một cuộc sống hưởng thụ, duy vật chất quá tầm thường thì tràn lan, nhiễu nhương.
– Nhà Thờ rách nát thì đông người tham dự Thánh Lễ, đến khi xây cất mới khang trang thì ai nấy ở nhà xem tivi, nhậu nhẹt.
– Nhiều lễ nghi tôn giáo tổ chức “hoánh tráng” theo kiểu lễ hội ở đời nhưng Đức Tin của con người thì bán tín bán nghi hoặc chỉ nhất thời trong lễ hội, ra đến đường, về đến nhà là bay biến tiêu tan!
Tìm nguồn bình an thật
“Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi.” (Ga 14,27)
Lời Chúa hôm nay hứa ban bình an thật cho ai thành tâm yêu mến Chúa và sống theo Lời Chúa dạy.
Không thể có một xã hội bình an, một đất nước bình an, một gia đình bình an nếu không có những con người bình an.
Nếu hơn 8 triệu tín hữu ở Việt Nam này ai cũng sống với bình an thật của Chúa là “nghe và tuân giữ lời Chúa”, thì hẳn là một tín hiệu đáng mừng biết bao cho gia đình cho đất nước. Tiếc quá, con số tín hữu chỉ là 8 triệu, trong số đó, con số “nghe và giữ lời Chúa” thật sự liệu có nhiều hơn con số “nghe và giữ lời” của những người chống lại Thiên Chúa không? Khi được hỏi bạn “có yêu mến, nghe và thực hành lời của những người chống Chúa” ha không thì hẳn bạn sẽ trả lời ngay rằng: tôi không hề. Vậy, nếu hỏi lại, bạn có “yêu mến, nghe và thực hành Lời Chúa” hay không thì bạn sẽ trả lời ra sao?
Âm mưu thâm độc của Satan là làm cho mỗi chúng ta đổi chủ, đổi Chúa hồi nào không biết, đổi bình an thật lấy bình an giả lúc nào không hay, đổi hạnh phúc thật lấy hạnh phúc ảo cách êm ái nhẹ nhàng hồi nào không biết! Lời của Satan không được phép rao giảng tại Nhà Thờ nhưng nó lại được tuyên truyền quảng cáo nơi cuộc sống muôn màu hấp dẫn trước mắt chúng ta. Lời của của thế lực chống lại Nước Chúa không hề được công bố nơi Nhà Thờ nhưng lại được rêu rao, cổ vũ nơi những giá trị của quyền lực, của kinh tế, của giáo dục, rằng bất cần Thiên Chúa, con người cũng vẫn đạt hạnh phúc no đầy!
Không có lúc nào là muộn màng. Hãy sớm ngộ ra chúng ta đang bị cuốn vào cái bình an hạnh phúc hư ảo trong một xã hội dối trá, xã hội được hướng dẫn bởi Satan. Hãy thức tỉnh, trở về “yêu mến, nghe và giữ lời Chúa dạy” theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Yêu mến Chúa trên hết mọi sự hấp dẫn ở thế gian, nghe và chu toàn lệ luật Chúa dạy, đó là chìa khoá bình an cho mỗi người, cho gia đình, cho đất nước và cho cả thế giới.
Nguyện xin Chúa cho chúng con biết đón nhận sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần để biết Bình An thật của chúng con chỉ có được khi chúng con yêu mến Chúa trên hết mọi sự và chu toàn lề luật Chúa nơi trần gian hôm nay.
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Bình An là món quà quý báu nhất, Chúa Giêsu đã ban cho các Tông Đồ và những người tin theo Chúa. Tâm hồn bình an thì luôn thanh thản, an hòa và vui tươi. Sự bình an đích thực chính là ân sủng của Chúa. Chúa chính là nguồn ơn bình an. Ngay khi Chúa giáng trần, các thiên thần đã đồng thanh ca hát: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.” (Lc 2,14).
Rồi khi sai các môn đệ đi rao giảng, Chúa Giêsu căn dặn các ông: “vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: “bình an cho nhà này”. Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy, bằng không thì bình an đó sẽ trở lại với anh em” (Lc 10,5-6)
Và sau khi sống lại, mỗi lần hiện đến với các Tông Đồ, Chúa đều chúc bình an. Thánh Luca ghi lại: “các ông còn đang nói, thì chính Đức Giêsu đứng giữa các ông và bảo: “bình an cho anh em! “ (Lc 24,36). Rồi “tám ngày sau, các môn đệ Đức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Tôma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “bình an cho anh em.” (Ga 20,26).
Chính vì vậy trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con, Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng” (Ga 14, 27).
Theo phong tục Do Thái, khi từ giã nhau, người ta thường chào nhau bằng “bình an” (shalom), nhưng ở đây sự bình an của Đức Giêsu để lại, không có ý nghĩa như lời chào thông thường, vì thế gian chỉ có thể cầu chúc bình an chứ không thể ban bình an, còn Đức Giêsu chính Người ban bình an của Người.
Bình An, ở đây không phải chỉ là vắng bóng bạo hành, không có chiến tranh, xung đột giữa các dân tộc và quốc gia mà chính là sức khỏe, sự thịnh vượng, hạnh phúc sung mãn và ơn cứu độ. Và chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể ban bình an này, vì đó là phúc lộc cứu độ tuyệt vời nhất: “lúc đó, sự công chính nở rộ và bình an lớn lao tới khi mặt trăng khuất bóng“ (Tv 72, 7).
Trong đoạn Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói đến một sự bình an bên trong của con tim, sự bình an của con người với chính mình và với Thiên Chúa.
“Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con, Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng.“ (Ga 14, 27).
Trong cuốn sách Go Down to the Potter’s House của Donagh O’Shea, ông có một câu chuyện về một ông vua có hai hoạ sĩ trong triều là hai đối thủ gay gắt. Một ngày nọ, nhà vua nói: “trẫm quyết định một lần cho xong để biết ai trong hai là hoạ sĩ giỏi nhất. Hai khanh phải vẽ cùng một đề tài và như vậy, trẫm sẽ ở giữa để phán quyết. Và đề tài là sự bình an”.
Hai hoạ sĩ đồng ý, và một tuần sau trở lại với các bức tranh của họ. Hoạ sĩ thứ nhất giới thiệu bức tranh của mình. Nó cho thấy một phong cảnh thơ mộng với những ngọn đồi trập trùng bên nhau và một mặt hồ không gợn sóng. Toàn bộ phong cảnh nói lên sự hài hòa, bình an và tĩnh lặng. Nhưng khi nhìn vào bức tranh, quay lại nói với hoạ sĩ, “bức tranh của khanh đẹp thật, nhưng nó làm ta buồn ngủ”.
Kế đó, hoạ sĩ thứ hai đã trình bày công trình của mình. Nó cho thấy một thác nước chảy ầm ầm. Lối vẽ hiện thực làm cho người ta như nghe thấy tiếng gầm của thác nước khi va vào các tảng đá ở bên dưới hàng trăm thước.
Nhà vua tức giận nói: “nhưng đây không phải là một cảnh bình an như trẫm đã ra lệnh”. Hoạ sĩ không đáp lại nhưng xin nhà vua tiếp tục xem. Sau ít phút, nhà vua nhận ra một chi tiết quan trọng: ở giữa các tảng đá bên dưới thác nước, có một bụi cây mọc lên với một tổ chim trên cành. Khi nhìn kỹ, nhà vua thấy có một con chim trong tổ: một con se sẻ đang ấp trứng, đôi mắt lim dim. Nó đang chờ các con nó được sinh ra, một hình ảnh bình an thật hoàn hảo.
Nhà vua rất thích thú khi nhìn ra điều đó. Quay lại người hoạ sĩ thứ hai, ngài nói: “trẫm rất thích bức tranh khanh đã chuyển tải một điều rất quan trọng về bình an, đó là có thể sống trong bình an cả khi ở giữa cảnh ồn ào hỗn loạn của cuộc sống”.
Đức Giêsu đã nói về sự Bình An của Chúa: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng. Lòng anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi”.
Bình An ở đây là sự hiệp thông với Thiên Chúa. Và Đức Giêsu đã ở trong sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa. Vì thế, Người có thể nói về sự bình an cả khi các kẻ thù đang siết chặt vòng vây xung quanh Người và ngay cả gần kề cái chết.
Bình An, không xao xuyến không sợ hãi chính là sự tín thác vào Thiên Chúa. Đó là điều mà người ta có thể có cả khi ở giữa sự xáo trộn, xung đột và những vấn đề chưa giải quyết được. Đó chính là sự Bình An mà Chúa muốn nói với các môn đệ và cũng là nói với chúng ta: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con, Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng. Lòng anh em đừng xao xuyến, cũng đừng sợ hãi” (Ga 14, 27).
Quả thật “Bình An” là một trong những từ đẹp nhất và giàu ý nghĩa nhất trong ngôn ngữ Kitô giáo. Bình An gồm hai khía cạnh tích cực và tiêu cực: không có xáo trộn và có một tương quan tốt đẹp với Thiên Chúa và con người. Bình an giữa con người với con người được bảo đảm nhờ công nghiệp Đức Kitô quy tụ mọi tín hữu thành gia đình của Thiên Chúa, và vào trong mối tương quan hài hòa với tha nhân.
Đức Giêsu, Đấng Chúa Cha sai đến, là Đấng Trung Gian của sự Bình An này, nên Người có thể gọi đó là sự Bình An của riêng mình: “Thầy ban bình an của Thầy cho anh em.” Không phải là thứ bình an giả tạo mà nhiều lần các ngôn sứ đã cảnh báo và Đức Giêsu đã từ chối đem xuống trên mặt đất nhưng là Bình An đích thực của Thiên Chúa, mà để ban cho thế gian, Đức Giêsu đã phải hy sinh chính mạng sống của mình.
Hiệu quả của ơn Bình An này là: các môn đệ không còn xao xuyến nữa, dù trước viễn tượng Đức Giêsu sẽ khuất dạng, hay trước nhiệm vụ đang chờ, chính họ sẽ là những người đem Tin Mừng cứu độ vào giữa lòng thế giới. Đây là lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ và cũng là lời Chúa Giêsu muốn nói với mỗi người chúng ta hôm nay. Amen.
(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
Nếu hôm nay, có tin đồn Chúa Giê-su hay Đức Mẹ hiện ra tại nơi nào đó thì có hàng ngàn, hàng vạn và thậm chí hàng triệu người công giáo đổ xô tìm đến để cầu nguyện, để xin ơn… bất kể ngày đêm, mưa nắng, xa xôi khó nhọc và không ngại tốn kém.
Tuy nhiên, điều oái oăm là có một nơi chắc chắn không những chỉ có Chúa Giê-su mà còn có cả Chúa Cha và Chúa Thánh Thần đang hiện ra, đang ngự trị… nơi này gần lắm, thiêng lắm… nhưng chỉ được rất ít người tìm đến.
Đó là nơi nào vậy?
Chúng ta sẽ biết đó là nơi nào, khi lắng nghe lời dạy của Chúa Giê-su sau đây:
“Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14, 23). Ngoài ra, thánh Phao-lô cũng nói: “Anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao?” (1Cr 6,19).
Thế thì tâm hồn người tín hữu yêu mến và tuân giữ lời Chúa Giê-su là nơi linh thiêng vì có Chúa hiện ra, có Chúa ngự trị. Vậy thì nơi đây đúng là đền thờ của Ba Ngôi Thiên Chúa, là nơi thánh, là chốn linh thiêng… Thế mà sao không có mấy người đến cầu nguyện, đến hành hương, khấn vái?
Xưa kia, thánh Augustino cũng khắc khoải đi tìm Chúa suốt ba mươi năm đầu đời. Ngài miệt mài tìm Chúa trong văn chương, trong triết lý, trong những học thuyết sai lầm và cả trong những đam mê thế tục… nhưng chẳng gặp được nên cảm thấy khắc khoải buồn sầu. Mãi đến tuổi ba mươi, ngài mới được ánh sáng chân lý chiếu soi và được đón nhận Chúa. Bấy giờ ngài cảm thấy an bình hạnh phúc nhưng đồng thời cũng lấy làm hối tiếc vì biết Chúa quá muộn: “Lạy Chúa, con yêu Chúa quá muộn màng. Chúa vẫn ở trong con, đang khi con mải lo tìm Chúa bên ngoài”.
“Chúa ở trong con, còn con thì đi tìm Chúa bên ngoài!” Thật là trớ trêu và trái khoáy, giống như ta đang để chùm chìa khoá trong túi mà lại lục lọi tìm kiếm khắp nơi.
Cũng như thánh Augustinô xưa, nhiều lần trong cuộc đời, chúng ta lại đi tìm Chúa bên ngoài, đang khi Chúa vẫn ở trong chúng ta.
Vậy thì từ nay, chúng ta đừng quên tìm Chúa, gặp gỡ Chúa ngay trong tâm hồn chúng ta, vì tâm hồn ta đúng là đền thờ của Thiên Chúa như Chúa Giê-su dạy:
“Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14, 23) và lời thánh Phao-lô: “Anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao?” (1Cr 6,19).
Đền thờ này rất cao trọng vì được chính Thiên Chúa thiết kế và thi công, được dựng nên theo hình ảnh của Ngài.
Đền thờ nầy rất cao cả vì được Chúa Giê-su đổ máu ra mà cứu chuộc. Không đền thờ vật chất nào được diễm phúc như thế.
Đền thờ nầy rất linh thiêng vì được Chúa Giê-su hiến thánh bằng Bí tích Thánh tẩy, được nên một với Chúa Giê-su nhờ Bí tích Thánh thể…
Và mai đây, ngôi đền thờ nầy sẽ được đưa lên cõi thiên đàng vinh hiển, trong khi những đền thờ bằng vật chất nguy nga đồ sộ và nổi tiếng trên mặt đất nầy, cho dù được xây bằng đá quý, dù được nạm ngọc dát vàng… sẽ tàn lụi với thời gian.
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho chúng con biết quý trọng thân xác chúng con là ngôi đền thờ uy linh cao cả có Ba Ngôi Thiên Chúa hằng ngự trị.
Xin cho chúng con biết thanh tẩy đền thờ đáng quý trọng nầy nếu nó bị ra nhơ uế vì tội lỗi và thói hư.
Xin cho con biết tôn tạo, nâng cấp đền thờ nầy bằng các nhân đức và phẩm chất cao đẹp.
Và nhất là xin cho chúng con hằng đến gặp gỡ và kết hợp với Chúa đang hiện diện trong đền thờ tâm hồn chúng con.
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
Một hôm, đang lúc đùa vui với các thiên thần, Thiên Chúa ra cho họ câu đố vui có thưởng. Ngài nói: “Ta muốn chơi trò chơi cút bắt với loài người. Các con nghĩ xem đâu là nơi ẩn trốn tốt nhất mà con người khó tìm ra Ta được?”
Thế là các thiên thần tranh nhau trả lời. Vị thì nói là Chúa hãy ẩn trốn ở đáy biển khơi, khó tìm lắm! Vị khác lại nói là Chúa hãy ẩn mình trên những đỉnh núi cao, chẳng ai leo tới đó được! Vị thì nói là Chúa hãy ẩn khuất giữa những lớp mây trời, loài người không ai nghĩ tới…” Thế nhưng Chúa chỉ cười và cuối cùng, Ngài nói: “Sai bét hết. Chỗ ẩn nấp tốt nhất Ta có thể chọn để loài người không phát hiện được Ta, đó là ngay trong tâm hồn của họ!” (phỏng theo Cha Anthony de Mello)
Ngày xưa thánh Augustino cũng khắc khoải đi tìm Chúa suốt ba mươi năm đầu đời. Ngài miệt mài tìm Chúa trong văn chương, trong triết lý, trong những học thuyết sai lầm và cả trong những đam mê thế tục… nhưng chẳng gặp được nên cảm thấy khắc khoải buồn sầu. Mãi đến tuổi ba mươi, ngài mới được ánh sáng chân lý chiếu soi và được đón nhận Chúa. Bấy giờ ngài cảm thấy an bình hạnh phúc nhưng đồng thời cũng lấy làm hối tiếc vì biết Chúa quá muộn: “Lạy Chúa, con yêu Chúa quá muộn màng. Chúa vẫn ở trong con, đang khi con mải lo tìm Chúa bên ngoài”.
Chúa ở trong con, còn con thì đi tìm Chúa bên ngoài! Thật là trớ trêu và trái khoáy, giống như ta đang để chùm chìa khoá trong túi mà lại lục lọi tìm kiếm khắp nơi.
Cũng như thánh Augustinô xưa, nhiều lần trong cuộc đời, chúng ta lại đi tìm Chúa bên ngoài đang khi Chúa vẫn ở trong chúng ta.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy ta biết có Ba Ngôi Thiên Chúa ngự trong chúng ta: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14, 23); lại có cả Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ cũng luôn hiện diện trong ta cùng với Chúa Cha và Chúa Con: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại những gì Thầy đã nói với anh em”
Thế là thân xác hèn mọn của chúng ta đã được nâng lên hàng vương cung thánh đường thiêng liêng cao trọng vì đã được Ba Ngôi Thiên Chúa chọn lựa làm nơi cư ngụ của Ngài.
Đây là ngôi đền thờ thật cao cả, thật quý giá, cao vượt hơn hết mọi đền thờ khác trên thế gian.
Đem đền thờ bản thân người Kitô hữu so sánh với các đền thờ nổi tiếng do bàn tay con người xây dựng ngót hai ngàn năm qua, thì những đền thờ vật chất kia triệu lần thua kém.
Đền thờ nầy rất cao cả vì đây là đền thờ sống, được chính Thiên Chúa thiết kế và thi công, được dựng nên theo hình ảnh của Ngài; còn những đền thờ kia chỉ là gạch đá vô tri.
Đền thờ nầy rất cao cả vì được Chúa Giêsu đổ máu ra mà cứu chuộc. Không đền thờ vật chất nào được diễm phúc như thế.
Đền thờ nầy rất cao cả vì được Chúa Giêsu hiến thánh bằng bí tích rửa tội, được Chúa Thánh Thần xức dầu qua bí tích thêm sức…
Và mai đây, ngôi đền thờ nầy sẽ được đưa lên cõi thiên đàng vinh hiển, trong khi những đền thờ bằng vật chất nguy nga đồ sộ và nổi tiếng trên mặt đất nầy, cho dù được xây bằng đá quý, được nạm bằng vàng ngọc kim cương sẽ tàn lụi với thời gian.
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho con biết quý trọng thân xác con là ngôi đền thờ uy linh cao cả có Ba Ngôi Thiên Chúa hằng ngự trị.
Xin cho con biết thanh tẩy đền thờ đáng quý trọng nầy nếu nó bị ra nhơ uế vì tội lỗi và thói hư.
Xin cho con biết tôn tạo, nâng cấp đền thờ nầy bằng các nhân đức và phẩm chất cao đẹp.
Và nhất là xin cho con hằng biết đến gặp gỡ và kết hợp với Chúa đang hiện diện trong ngôi đền thờ là chính bản thân con. Amen.
“Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy”.
Bạo lực nói chung vốn là một điều bất hợp pháp song nó vẫn tồn tại trong xã hội của con người. Bạo lực gia đình, bạo hành trẻ em vẫn còn đang làm nhức nhối lương tâm của những người có trách nhiệm. Trong khi chưa ai tìm được cách gì để giải quyết triệt để những vấn nạn đó thì hôm nay lại nỗi lên một thứ bạo lực mới – bạo lực trong học đường. Một thế hệ tương lai đang bị đe doạ trước những làn sóng bạo hành. Bây giờ, nhiều phụ huynh không còn biết phải gửi con đi học nơi đâu vì môi trường học đường không còn là nơi trong lành nữa. Ngay cả thầy cố giáo mà cũng nôm nốp lo sợ. Bởi dạy giỗ lơ mơ thì cũng bị ăn đòn bởi chính học trò của mình.
Thế giới ngày càng văn minh. Con người càng ngày càng hưởng được nhiều những ích lợi của những công trình khoa học. Thế nhưng, xem chừng con người lại càng khốn đốn hơn trong chính thế giới văn minh, tiện nghi của mình. Thế giới ngày càng bất ổn. Chiến tranh tuy được dàn xếp một cách cẩn thận nhưng đau thương vẫn diễn ra hàng ngày với tính chất khốc liệt không thua gì chiến tranh. Đó là hậu quả của những cuộc khủng bố, tranh chấp, biểu tình, thiếu lương thực, và của cả một môi trường tự nhiên bị tàn phá. Chính con người đang gây ra những đau thương cho chính đồng loại của mình. Bình an xem ra là một xa xỉ cho nhiều dân tộc và quốc gia. Mà nguyên nhân sâu xa của vấn nạn này là chính do con người với lối sống ích kỷ, hưởng thụ mà quên tinh thần chia sẻ và trách nhiệm. Con người chỉ muốn an định, cố thủ cho riêng bản thân mình. Theo quan niệm càng tích trữ càng nhiều thì càng đảm bảo an toàn. Nghĩ thế nên con người đua nhau tranh dành. Và càng tranh dành thì bình an đâu không có mà thấy chỉ thêm nhiều bất ổn mà thôi.
Con người không thể đem lại bình an cho nhau được. Con người chỉ có thể chúc cho nhau bình an mà thôi. Như chuyện con người không thể tạo ra dòng điện mà chỉ góp phần để thu lấy nguồn điện đã có sẵn trong tự nhiên. Bình an được nói ở đây không là chuyện chúng ta thoát ra khỏi những khó khăn, rắc rối, cũng không là một sự nhàn hạ, an thân mặc cho cuộc đời đang biến chuyển, không là sự an toàn của một thiếu nữ trong bốn bức tường của ngôi nhà mình. Nhưng ở đây là bình an đến từ Đức Giêsu – bình an thật. Một sự bình an không có đau khổ, rắc rối nào có thể cướp được. Đây mới là bình an thật mà chúng ta phải tìm kiếm. Nếu như ở trên là một thứ bình an ngoại tại, mong thoát ra khỏi những bất ổn thì ở đây là bình an nội tại cho dù đang sống trong những bất ổn. Đây là sự bình an chỉ có nơi Đức Giêsu – Đấng đã chiến thắng đau khổ và sự chết. Đấng đang ngự bên hữu Chúa Cha.
Chúng ta được bình an vì chúng ta chiếm hữu được Thiên Chúa. Thật sự nhận ra sự hiện diện của Đức Kitô trong cuộc đời mình. Việc này đòi hỏi chúng ta phải có niềm tin và mắt “thịt” này không thể nhìn thấy được. Nói như thế không có nghĩa là phủ nhận sự bình an bên ngoài nhưng chúng ta trước hết phải tìm cái bình an nội tâm. Để từ nền tảng này ta thánh hoá những hoàn cảnh bên ngoài mà có được bình an ngoại tại nữa.
Càng ngày con người càng cảmt hấy bất an. Vì con người không đón nhận được bình an của Chúa. Con người đã loại trừ Thiên Chúa. Con người nghĩ rằng tự bản thân mình có thể tạo dựng được sự an định lâu dài nhờ những khả năng và thành tựu đạt được. Con người đã quên đi cái bình an nền tảng. Bao lâu con người chưa nhận ra được sự hiện hữu của Thiên Chúa thì bấy lâu con người chưa có bình an đích thực. Và hơn thế nữa, chúng ta không chỉ được mời gọi hưởng bình an của Chúa mà chúng ta còn được kêu gọi cộng tác kiến tạo bình an và đem bình an cho người khác.
(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm Jos Tạ Duy Tuyền)
Con người từ tạo thiên lập địa luôn mang hoài bão xây dựng một thế giới an bình và thịnh vượng. Một thế giới không còn khổ đau, không còn đói nghèo. Người người biết lấy tình yêu để xoá bỏ những nghi kỵ, hiểu lầm, và biết nắm lấy tay nhau để dìu nhau đi tới. Đó là ước mơ thật chính đáng. Thế mà, đã bao nghìn năm vẫn mãi mong chờ trong vô vọng. Ngược dòng lịch sử, người ta chỉ thấy những dấu ấn thời gian đã qua là những đau thương, mất mát. Đói khổ và hận thù đã làm cho quá khứ đượm mầu tang chế, chia ly. Thế giới có mấy khi bình yên? Con người có mấy khi hạnh phúc? Kiếp người chỉ đong đầy những lo sợ và bất an!
Với sự tiến bộ của văn minh nhân loại, người ta tưởng rằng: khi con người thoát ra khỏi lối sống hoang dã lạc hậu, sẽ làm cho thế giới an bình và lành mạnh hơn. Thế nhưng, nói theo kiểu Nguyễn Du “những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Chiến tranh Trung Đông vẫn kéo dài. Chiến tranh vì quyền lực vẫn sôi bỏng hằng ngày, hằng giờ. Khủng bố, bạo loạn vẫn lan tràn khiến hàng ngàn người phải chết oan uổng, đã đẩy hàng triệu người sống trong cảnh đói khổ bần cùng. Xem ra sự văn minh đã làm cho con người vong thân đôi khi đánh mất tính người. Mới đây, cả nước đều xôn xao vì tài xế xe container đã cán đi cán lại trên một thân xác cô bé 17 tuổi đến 3 lần. Một cô giáo mần non tại Hà Nội, chỉ vì bị giáng chức đã bỏ thuốc diệt chuột vào đồ ăn để đầu độc học sinh khiến cho hơn 20 học sinh phải nhập viện cấp cứu. Mỗi ngày khi khám xét các nơi nhạy cảm như vũ trường, quán Karaoke, các tiệm hớt tóc…; người ta đã bắt được biết bao cậu ấm, cô chiêu đã bỏ trường bỏ lớp để tìm niềm vui điên loạn trong ma tuý và mại dâm. Cuộc sống vẫn nhan nhản những lừa đảo, tham ô. Vì đồng tiền bát gạo người ta vẫn chà đạp lên nhau và làm hại lẫn nhau.
Nhìn vào những gì đang diễn ra cho chúng ta thấy, dường như thế giới chỉ có hai loại người. Một loại chỉ lo đối phó với chiến tranh, với đói nghèo. Một loại chỉ lo ăn chơi, thác loạn. Kẻ không có tiền thì lo có tiền bằng muôn nghìn cách, kể cả bằng thủ đoạn gian dối, lừa bịp, bằng chiến tranh, bạo động. Kẻ có tiền lại tìm thoả mãn cho nhu cầu hưởng thụ bằng ăn chơi sa đoạ mà người ta gọi là thư giản giải trí. Có mấy ai đang toàn tâm toàn lực để xây dựng thế giới an bình và thịnh vượng? Có lẽ có, những một vài cánh én chưa đủ mang lại mùa xuân nên thế giới vẫn đầy bất an và sầu khổ!
Hôm nay Chúa Giêsu đề nghị một phương án xây dựng an bình và thịnh vượng. Phương án này khởi đi từ chính bản thân từng người. Từng người phải biết sống trong sự hoà hợp với Thiên Chúa. “Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy” để biết sống theo gương Thầy luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha. Từng người phải biết nói không với sự xấu. Từng người phải biết nghe theo tiếng nói sự thật. Sống theo sự thật sẽ giúp cho con người có một tâm hồn an bình. Nói không với sự xấu sẽ giúp cho con người sống trong tự do của con cái Thiên Chúa. Và sống trong sự kết hợp với Thiên Chúa, con người sẽ sống hoà hợp với nhau, vì tất cả đều là anh em cùng một cha trên trời.
Thực vậy, nhiều người dám làm những chuyện đồi bại, hãm hãi lẫn nhau, sống gian dối lừa đảo, vì họ không còn tin có sự hiện diện của Thiên Chúa. Họ không tin có Thiên Chúa nên họ không tin có sự thưởng phạt đời sau. Họ không tin có Thiên Chúa nên không còn nghe được tiếng nói của sự thật, tiếng nói của lương tâm ngay lành. Điều đó đã dẫn tới một đời sống tham lam, lừa đảo. Một đời sống tha hoá đến vô nhân đạo. Họ sẵn sàng chà đạp đồng loại để tìm vinh quang cho bản thân. Họ sẵn sàng lợi dụng đồng loại để kiếm tiến bằng những chuyện phi nhân, thất đức. Thế nhưng, cuộc đời họ cũng không có an bình và hạnh phúc. Họ đi tìm an bình và hạnh phúc trong những của cải thế gian, nhưng thế gian và ma qủy không bao giờ làm cho họ thoả mãn. Họ sẽ không có một đời sống an bình nếu không đi theo chân lý và sự thật.
Nguyện xin Chúa Giêsu là Đường, là sự thật và là sự sống dẫn dắt chúng ta đi trong đường ngay nẻo chính. Xin dẵn dắt chúng ta sống theo sự thật và đi đến sự sống trường sinh. Nguyện xin Chúa Thánh Thần là Đấng bảo trợ luôn gìn giữ hồn xác chúng ta khỏi mọi sự dữ và luôn nhắc nhở chúng ta sống theo chân lý và sự thật. Amen.
Chu kỳ phụng vụ Mùa Phục Sinh sắp chấm dứt. Hàng năm nó đã mang lại cho tất cả chúng ta những suy niệm khẩn thiết về đức tin vào Ðức Giêsu và về tình yêu của Người, một tình yêu đã biểu lộ tính chất nhân bản qua cái chết của Người, nhưng đồng thời cũng bộc lộ uy quyền của Thiên Chúa qua cuộc Phục Sinh khải hoàn của Người! Từ những suy niệm đó, cuộc sống của chúng ta một khi đã được gắn liền với Ðức Giêsu, thì luôn phải đạt tới cứu cánh của nó.
Thứ nhất: “Ai yêu mến Thầy, thì giữ lời Thầy…. Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Và lời các con nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Ðấng đã sai Thầy!” Ðó là điều đầu tiên trong chương trình hành động của một cuộc sống được gắn liền với Ðức Giêsu!
Giữ lời Ðức Giêsu có nghĩa là thâm tín rằng Thiên Chúa đã ban bố huấn thị của Người qua Ðức Giêsu; điều đó muốn nói rằng chúng ta không xếp đặt vũ trụ và cuộc sống theo sở thích, theo kế hoạch, theo mơ ước hay theo sự sợ hãi của mình; bởi vì Thiên Chúa đã thiết đặt một chuẩn độ rõ ràng trong Ðức Giêsu!
Giữ lời Ðức Giêsu có nghĩa là nhất thiết phải thực sự nhận biết huấn thị đó của Thiên Chúa. Dĩ nhiên điều đó không ý nói là nhất thiết phải đi rao truyền mọi lời của Người khắp nơi, nhưng là phải nhận thức được mục đích nền tảng của lời Người nói và của hành động Người làm qua việc lắng nghe Tin Mừng, tức: Tin nhận và yêu mến Thiên Chúa! Tiếp đến, chấp nhận và yêu thương người đồng loại; và không chỉ chấp nhận điều đó trên lý thuyết thuần túy mà thôi, nhưng phải hiện thực chúng một cách cụ thể trong cuộc sống hằng ngày, đối với Thiên Chúa và tha nhân, và trung thành thực hiện cho đến cùng!
Thứ hai: “Ðấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Người sẽ dạy các con mọi điều và sẽ làm cho các con nhớ lại mọi lời Thầy đã nói với các con!” Ðó là điều thứ hai trong chương trình của Thiên Chúa: Biết đón nhận Thánh Thần Ðức Giêsu!
Ðón nhận Thánh Thần Ðức Giêsu có nghĩa là phải nhất thiết sống theo tinh thần các giáo huấn của Người. Nói cách khác, Thánh Thần ngự đến không chỉ để trợ giúp chúng ta chiếm giữ được tinh thần các giáo huấn của Ðức Giêsu như chuẩn độ đúng đắn, nhưng còn là sức mạnh đỡ nâng chúng ta thực thi các giáo huấn đó trong cuộc sống cụ thể. Vậy, chúng ta hãy để cho sức mạnh đó được tự do hoạt động trong cuộc sống của mình, và điều đó không có nghĩa gì hơn là chúng ta phải luyện tập cho mình tinh thần yêu thương, sự hy sinh xã kỷ của Ðức Giêsu; luyện tập biết chấp nhận kẻ khác, chứ không phải tìm mọi cách tự khẳng định chính mình; luyện tập biết cho đi, chứ không phải tìm cách chiếm đoạt mọi sự cho chính mình; luyện tập biết can đảm và trung thành với tinh thần xã kỷ đó, cả khi bị hiểu lầm, bị thiệt thòi về danh dự hay nguy hiểm đến tính mạng.
Thứ ba: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban cho các con sự bình an của Thầy. Thầy ban cho các con sự bình an, không theo kiểu thế gian ban. Các con đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi!” Ðó là điều thứ ba của chương trình, là: Có được sự bình an của Ðức Giêsu trong tâm hồn!
Nhưng có được sự bình an của Ðức Giêsu, có nghĩa là hội được đủ điều kiện để có thể sống thực sự đúng với nhân vị của mình mà Thiên Chúa đã ban cho. Ðó không phải là sự bình an mà thế gian có thể cho được; đó không phải là một sự hoan lạc ích kỷ, khiến cho chúng ta không còn nhìn thấy được những cơ cực thiếu thốn của đồng loại; đó không phải là một sự giải hòa có thể mặc cả được, tức tìm một sự quân bình khả dĩ cho sự bất hòa. Sự bình an của Ðức Giêsu là sự an ninh chắc chắn, được phát xuất từ sự ý thức sâu xa: “Phải làm lành lánh dữ”, kể cả khi chúng ta phải hy sinh tính mạng, vì thâm tín được rằng, Thiên Chúa sẽ đền bù lại cho chúng ta gấp trăm sự mất mát!
Có được sự bình an của Ðức Giêsu, có nghĩa là có điều kiện để từ sự anh ninh đó, kiến tạo sự bình an thực sự. Bởi vì chỉ có sự ý thức chắc chắn được rằng người ta phải sống công chính trước mặt Thiên Chúa, thì mới có can đảm để chấp nhận tất cả; thì người ta mới thông cảm hiểu biết nhau và mới loại bỏ mọi căng thẳng và va chạm, phát xuất bởi những tư duy ích kỷ và thiển cận, chỉ muốn bảo vệ quan điểm và ước vọng của mình trước đồng loại, cũng như chỉ muốn bảo đảm sự sống còn của mình!
Những lời Chúa phán cùng chúng ta hôm nay là sự hướng dẫn cho một cuộc sống theo gương Ðức Giêsu. Ðó là một chương trình sống tuyệt hảo, dẫn chúng ta đạt tới sự sống chân thật và hạnh phúc vĩnh cửu! Ðó là:
Giữ lời Ðức Giêsu.
Tiếp nhận Thánh Thần Ðức Giêsu.
Có được sự bình an của Ðức Giêsu trong mình.
Thật là cả một sự khác biệt to lớn với những chương trình thuần túy nhân loại, mà trong đó chúng ta chỉ nhắm tới những lợi lộc ích kỷ tư riêng của mình!
Chương trình của Thiên Chúa, là: Trong Ðức Giêsu, chúng ta có thể đạt tới một cuộc sống hạnh phúc chân thật. Chương trình đó có thể đổi mới vũ trụ. Chắc hẳn tất cả chúng ta đều nhất trí với chương trình đó?
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Đoạn Phúc Âm của thánh Gioan đặt chúng ta vào vị trí vượt khỏi tất cả những quan niệm loài người về Thiên Chúa. Lý trí con người chỉ có thể quan niệm về Thiên Chúa theo hai cách. Hoặc Thiên Chúa là vị thần vô định biểu lộ thần uy trong những sức mạnh vật chất như bão táp, mặt trời, v.v… và con người bày đặt ra nhiều cách thờ phụng. Hoặc quan niệm Thiên Chúa là Thưỡng đế vượt trên mọi hiểu biết mà loài người có được, là Đấng Tối Cao của những nhà hiền triết, quá cao siêu, quá huyền bí, con người vĩnh viễn không thể lý hội được. Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta Thiên Chúa là AI. Chúa nói với chúng ta những điều trí không loài người không bao giờ có thể nghĩ tới. Thiên Chúa là sự Tuyệt đối, nhưng Người là Cha, Người can thiệp nhiều nhất như một sự hiện diện thân thiết và hay thương. Kẻ nào yêu mến Đức Giêsu Kitô, Đấng mạc khải vềtch, nếu kẻ ấy giữ lời, nghĩa là dâng hiến Chúa niềm tin và tuân giữ những điều Chúa dạy, kẻ ấy trở nên ngai toà Chúa ngự. Thiên Chúa đến với kẻ ấy, đối với kẻ ấy Thiên Chúa từ nay không chỉ là một quyền năng vô biên sáng tạo, Thiên Chúa phát động tình yêu tương giao giữa Người và kẻ ấy. Thiên Chúa đến với con người, nghĩa là Thiên Chúa thức tỉnh lương tri con người về hai điều. Thiên Chúa nói: “Con người kia, ngươi có một bản ngã, Ta là Thiên Chúa, có bản ngã riêng biệt, một Thiên Chúa có Ba Ngôi vị: Cha, Con và Thánh Thần. Giữa ngươi là một con người và Ta là Thiên Chúa, có một sự trao đổi sống động về hiểu biết và ân huệ, tức là có sự trao đổi tình yêu”. Điều ấy phải được Đức Giêsu Kitô mạc khải, chẳng có trí khôn nào của nhân loại ý niệm được.
Để chấp nhận một mạc khải trọng đại như vậy, một điều dạy dỗ từ ngoại giới có đủ không? Chúng ta thấy ngay rằng không đủ. Đức Giêsu nói với các tông đồ: Ta nói với các ngươi lúc còn lưu lại giữa các ngươi, nhưng Thánh Thần sẽ dạy các ngươi mọi sự… Các tông đồ chung sống với Đức Giêsu nhiều năm tháng. Các ông thừa thì giờ để thấm đượm giáo huấn khi nghe Người giảng dạy và quan sát cách cư xử của Người. Các ông có được một sự hiểu biết do tri thức, ở tầm các ông, nhưng sự hiểu biết do hành vi tin thì chưa có. Thật ra, điều sau đây có thể đối với chúng ta là không ngờ được: trong bữa Tiệc Ly các tông đồ chưa có được niềm tin đích thật vào Đức Giêsu. Muốn cho các ông có được hành vi tin ấy, thì phải có biến cố Phục Sinh, phải có Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Chúng ta tự chất vấn:
1) Sự hiểu biết của chúng ta về Thiên Chúa là gì? Nếu ngày nay chúng ta không dễ theo cám dỗ thờ thần tượng, có thể dễ ngà vào một thứ chủ nghĩa tri thức thúc giục chúng ta đại khái xếp Thiên Chúa vào một ý thức hệ thuộc trật tự triết lý, chính trị, xã hội, v.v… hoặc đơn giản thuộc trật tự thực tiễn giữa những tiện nghi phàm tục của chúng ta. Chúng ta có tìm biết Thiên Chúa như Đức Giêsu Kitô mạc khải cho chúng ta, một Thượng đế thân thiết ở giữa cuộc đời chúng ta không?
2) Chúng ta có chú ý đến Chúa Thánh Thần không? Năng đọc năng nghe Phúc Âm không đủ giúp chúng ta biết Đức Giêsu Kitô. Chúng ta phải chú ý trong thâm tâm, một cách ngay thẳng, để nhận lấy giáo huấn của Ngôi Ba Thiên Chúa. Một phương thế tốt để làm công việc đó là khi gặp một đoạn Phúc Âm cho chúng ta thấy một chân lý, chúng ta hãy cố gắng ứng dụng tức khắc. Hành động này cũng phải kể là sự thành thật ngay thẳng trong tình yêu.
(Suy niệm của Lm. JB Nguyễn Minh Hùng)
Bài Tin Mừng hôm nay (Ga 14, 23-29) nằm trong bối cảnh của nỗi bất an, lo sợ. Đây là thời gian diễn ra bữa tiệc biệt ly của Chúa Giêsu với các môn đệ của Người. Chúa Giêsu chuẩn bị bước vào cuộc tử nạn. Chúa cũng đã nhìn thấy sự hoang mang, dao động hiện trên khuôn mặt của những người theo Chúa. Giữa lúc sợ hãi và u sầu bao trùm tâm tư mọi người hiện diện, thì lời an ủi của Chúa lại là lời chúc bình an: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng. Lòng anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi”.
“Bình an của Thầy” ư? Bình an của Thầy là bình an như thế nào? Sao lại “không như thế gian ban tặng”? Đã gọi là bình an sao còn phân biệt “của Thầy”, “của thế gian”? Thốt lên lời trao ban bình an giữa lúc bất an nhất, xáo trộn nhất, hình như lời Chúa Giêsu trở thành lời không thích hợp trong lúc ấy?
Trước khi tiếp tục suy nghĩ, chúng ta cần khẳng định dứt khoát rằng, Lời Chúa là Lời chân lý. Vì thế, bình an mà Người trao ban là chính bình an của Đấng Cứu Độ ban tặng người trần thế.
Trong Thánh Kinh, bình an (salom) không có nghĩa là thoát ly khỏi mọi đớn đau, lo sợ. Nói đến bình an, chúng ta hay nghĩ, đó là cuộc sống thoải mái, không đụng chạm rắc rối hay đối đầu với đau khổ. Bình an mà Chúa muốn nói không như thế. Đúng hơn, đó là bình an mà thế gian phải tìm tòi. Thực tế, bình an của thế gian thường là thứ bình an do tránh né đương đầu với khó khăn, do chạy trốn những bất ổn mua lấy sự yên thân hơn là tạo được một tâm hồn bình an. Bình an đó không bền vững, nhưng chóng vánh. Chỉ có bình an thật sự trong tâm hồn mới là bình an cần thiết cho cuộc đời chúng ta. Bình an mà Chúa ban cho chúng ta là bình an chiến thắng của nội tâm con người. Nó là kết quả của bao nhiêu cam go, dằn vặt, chấp nhận, và chịu đựng mới có thể có được. Một khi đã có được tâm hồn bình an, không có bất cứ một hoàn cảnh nào của cuộc sống trần thế có thể cướp mất được. Bình an của tâm hồn hoàn toàn độc lập với mọi hoàn cảnh bên ngoài. Giữa lúc môn đệ rơi vào bi quan nhất, giữa lúc các ông sắp phải đối diện với những mất mát tận cùng, Chúa ban ơn bình an của tâm hồn để các ông đủ can đảm mà chiến thắng. Ơn bình an này cần thiết biết bao nhiêu cho đoàn môn đệ của Chúa. “Bình an của Thầy” là như thế. Bình an ấy không thể nào thế gian có thể có được để mà ban tặng.
Chính cái chết thập giá của Chúa nói lên tất cả ý nghĩa nội tâm của một tâm hồn bình an. Cái chết ấy bày ra trước mắt ta một nghịch lý thật lớn: Bởi nhìn bên ngoài, Chúa bị hành hạ, bị đánh đập, bị lột trần, bị đóng đinh, bị sỉ nhục cách tàn bạo và cái chết đang treo trước mắt…, làm sao một con người như thế lại có bình an? Còn những kẻ hả hê, những kẻ chủ mưu của tội ác giết người, những kẻ xem ra chiến thắng vì đã hoàn tất cuộc loại trừ dành cho Giêsu, chắc chắn phải là những kẻ cảm thấy bình an hơn ai hết? Bởi loại trừ được Giêsu, là loại trừ thành công một con người đã làm cho họ mất ăn, mất ngủ bao nhiêu năm tháng. Loại trừ Giêsu là loại trừ thành công một con người đã lấy mất ảnh hưởng của họ nơi dân chúng vì phép lạ, vì giáo lý, vì lời giảng dạy, vì lối sống… của Người.
Nhưng đó là cái nhìn bên ngoài. Suy niệm thật thấu đáo về cái chết của Chúa Giêsu, ta thấy hoàn toàn ngược lại. Chính kẻ tấn công Chúa mới không một chút bình an. Họ liên tục sợ dân chúng gây áp lực, gây khó dễ, vì họ giết một người mà toàn dân mến mộ. Họ phải nhiều lần nặn đầu óc để tìm kế sách gài bẫy, sát hại Chúa Giêsu. Đến khi họ trút tất cả nỗi căm thù lên bàn tay vấy máu của mình để hoàn tất cuộc sát hại rồi, họ vẫn cứ hoang mang vì đã giết chết một người vô tội. Họ càng hoang mang vì đã giết chết Đấng đã từng xưng mình là Con Thiên Chúa. Nhiều người trong họ đã phải buộc miệng thốt lên: “Người này thật là Con Thiên Chúa”.
Còn Chúa Giêsu, dù bị giết chết ô nhục, vẫn là người chan chứa bình an trong tâm hồn. Bình an của Chúa là bình an của Đấng đã hoàn thành thánh ý Chúa Cha. Chúa đã chiến thắng tội lỗi, chiến thắng sự dữ và trao ban ơn cứu độ cho trần gian. Chúa biết rõ, Chúa chết vì ai, chết cho ai, ích lợi do cái chết của Người mang lại cho trần thế lớn như thế nào. Chúa biết rõ, cái chết của Chúa không vô nghĩa. Cái chết ấy sẽ là cái chết làm vang lên tiếng yêu thương trên khắp trần thế qua mọi thế hệ. Tâm hồn Chúa bình an cho đến độ, trên thập giá đớn đau, giữa đám đông hầm hầm sát khí, Chúa vẫn cầu xin ơn tha thứ cho những kẻ giết Chúa. Chúa thanh thản trối phú thánh Gioan cho Đức Mẹ, bình tĩnh trao linh hồn trong tay Chúa Cha và nhẹ nhàn nói lời hoàn tất rồi trút hơi thở trong bình an sâu lắng. Bình an trong nội tâm của Chúa Giêsu là bình an của sự tự nguyện hiến dâng mạng sống mình: “Không ai cất mạng sống Ta được nhưng chính Ta tự mình thí mạng sống Ta, Ta có quyền thí mạng sống Ta và Ta cũng có quyền lấy lại, đó là lệnh truyền Ta đã lĩnh nơi Cha Ta” (Ga 10, 18).
Chính Chúa là nguồn bình an. Vì thế, Người cũng là Đấng ban phát bình an. Chúa biết các môn đệ yếu đuối, mỏng dòn. Chúa biết các môn đệ sẽ vấp ngã vì Chúa. Chúa biết các ông cần bình an của Chúa. Trong giờ phút thử thách nhất của các môn đệ, Chúa ban bình an của Chúa cho các ông, giúp các ông vững vàng mạnh mẽ mà vượt qua. Lãnh lấy bình an của Chúa, các môn đệ dần dà củng cố đời sống của mình. Nhất là sau khi Chúa về trời, các ông đã can đảm thật sự, trưởng thành thật sự. Các ông bất chấp mọi bắt bớ, mọi thù hận và giết chóc. Các ông lao mình về phía trước, để nên giống Chúa Giêsu, các ông trở thành nguồn bình an và trao ban bình an tâm hồn cho con người trên khắp thế giới.
Chúng ta cũng hãy tiếp nối bước chân các tông đồ, lãnh nhận bình an của Chúa, để tâm hồn mãi mãi thuộc về Chúa. Khi đã có một tâm hồn bình an, chúng ta cũng sẽ trở thành nguồn bình an cho muôn người như Chúa và như các tông đồ.
Tin Mừng Ga 14: 23-29: Bình của Chúa ban không là kho báu để cất giữ, để hưởng dùng một mình, nhưng là phương thế để phục vụ và mang lại bình an cho người khác.
SUY NIỆM
Hàng tuần chúng ta vẫn xin lễ cầu bình an, bởi điều chúng ta hằng mong ước luôn hiện diện trong cuộc sống của chúng ta, trong gia đình, trong môi trường mình sống chính là sự bình an. Bình an chúng ta ước mong chắc chắn không mua sắm được bằng tiền bạc, bởi vì “tiền bạc có thể tạo lập món ăn ngon, nhưng không mua được sự ngon miệng; tiền bạc có thể tạo dựng được phòng ngủ sang trọng, nhưng không mua được giấc ngủ ngon; tiền bạc có thể xây được căn nhà lộng lẫy, nhưng chưa chắc đã tạo được mái ấm hạnh phúc”.
Quả thật, trong cuộc sống, người ta đối diện với bao bất an do đồng tiền gây ra, bởi đồng tiền là nguyên nhân tạo ra sự sự ghen ghét, sa đọa, tham lam cội nguồn của bất an. Bao nhiêu là câu chuyện nói về sự bất an trong các gia đình khi có nhiều tiền lắm bạc. Chẳng hạn cặp vợ chồng Lara và Roger Griffiths: Vợ chồng nhà Griffiths chung sống rất hòa thuận cho đến khi họ trúng giải thưởng sổ xố trị giá 2,76 triệu USD vào năm 2005. Năm năm sau khi trúng giải, căn nhà triệu đô mua được từ tiền sổ xố bỗng dưng bốc cháy, thiêu trụi toàn bộ tài sản. Cuộc hôn nhân 14 năm giữa hai người cũng chấm dứt, sau khi Lara buộc tội Roger ngoại tình với người phụ nữ khác. Cứ ngỡ tiền sẽ mua được sự bằng yên cho cuộc sống, cô Ibi Roncaioli: Chủ nhân giải thưởng loto trị giá 5 triệu USD vào năm 1991 bị đầu độc bởi chính người chồng của mình bằng thuốc giảm đau khi anh phát hiện Ibi bí mật trợ cấp 2 triệu USD cho đứa con với người đàn ông khác. Vâng, tiền bạc luôn là một thách đố lớn lao cho sự an toàn của cuộc sống, cô Vivian Nicholson từng được coi là người phụ nữ may mắn nhất nhì nước Anh khi thắng 152 nghìn Bảng Anh nhờ cá độ bóng đá vào năm 1961, nhưng vài năm sau đó, cô đã rơi vào cảnh không xu dính túi vì đổ quá nhiều tiền vào sắm quần áo. Ngoài ra, hôn nhân của Vivian cũng không mấy suôn sẻ. Cô kết hôn đến 5 lần nhưng vẫn không thực sự hạnh phúc. Năm 2011, Vivan qua đời bởi nghiện chất cồn và áp lực tâm lý. Đức Phanxicô đã nói: Khi một người sống bám víu vào tiền của, niềm kiêu hãnh hay quyền lực, người ấy không thể có hạnh phúc và bình an thật”.
Vậy ở đâu có sự bình an? Xin thưa, bình an đích thận chỉ đến từ tình yêu dành cho Chúa. Quả thật người ta chỉ có thể kín múc sự bình an từ nơi Chúa Giêsu, bởi ở nơi Người không có tham sân si, nơi Người chỉ có một tình yêu thanh khiết, Người ở giữa mọi người như ngừoi mục tử nhân lành ở giữa đàn chiên, Người không sống cho mình, nhưng cho đàn chiên. Vì thế, ở nơi Người chúng ta tìm thấy một tâm hồn thanh thản bình an, nơi Người không có sự hỗn loạn bôn chen, không bị phiền nhiễu bởi danh lợi thú. Ma quỉ đã phải bỏ cuộc trước sự thuần khiết tâm hồn của Chúa Giêsu khi nó cố gắng lôi kéo Người đi vào cuộc chơi mà nó đề nghị, một cuộc chơi mà trong đó giá trị vật chất luôn được đề cao, và luôn thúc đẩy người chơi khao khát quyền lực và sự giàu sang. Ma quỉ hiểu rằng, những ai bước vào cuộc chơi mà nó đề xướng thì sẽ chẳng bao giờ có được sự bình an, bởi tâm của họ chẳng bao giờ có được sự điềm tĩnh và thanh thản, và như thế những người tham dự cuộc chơi do Satan đề xướng, đều trở thành đầy tớ cho nó, bởi nó là chủ nhân của sự hận thù, ghanh ghét, chia rẽ và bất an.
Caryn, một sinh viên ở Virgina, chia sẻ con đường cô tìm được bình an như sau: “Tôi nghĩ mình là một Kitô hữu bởi vì tôi đi đến nhà thờ vào mỗi Chúa Nhật, nhưng tôi không biết Chúa là ai. Năm cuối trung học của tôi cũng trôi qua giống như ba năm trước đây. Tôi giành hầu hết thời gian của mình vào chuyện nhậu nhẹt, thăng tiến hay cố tìm cách để làm cho ai đó yêu mình. Tâm tôi chết dần chết mòn và tôi không thể kiểm soát được cuộc sống của mình nữa. Khi tôi nhận ra tôi muốn kết liễu cuộc đời của mình nhiều thể nào thì cũng là lúc tôi biết rằng tôi phải tìm cho mình một niềm hy vọng nào đó sau khi ra trường. Thế rồi, tôi đến xin Chúa bước vào đời sống của tôi. Ngài đã cho tôi thấy tình yêu thương, sự yên ninh, sự tha thứ, sự nâng đỡ, niềm an ủi, sự chấp nhận và mục đích sống. Chúa là sức mạnh của tôi, và tôi đã tìm thấy được sự bình an. Hôm nay, nếu không có Người, thì có lẽ tôi sẽ không thể có mặt ở đây.”
Do đó. để tìm thấy sự bình an trong cuộc sống không có cách thế nào khác ngoài việc đến cùng Giêsu và học nơi Người, như Người đã mời gọi: hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng (Mt 11, 29). Sự hiền lành và khiêm nhường của Giêsu là phương thế tuyệt hảo để kiến tạo một cuộc sống bao dung, loại trừ tính ích kỷ, cao ngạo, kiêu căng và tự phụ, là những nguyên cớ gây ra bao nhiêu là bất hòa, tranh chấp, hận thù. Được bình an trong cuộc sống là mong ước của muôn người, chính Chúa Giêsu khi sai các môn đệ đi loan báo Tin Mừng, Chúa Giêsu đã nhắn nhủ: ”Khi vào bất kỳ nhà nào, trước tiên các con hãy nói: Bình an cho nhà này. Nếu tại đó có một người con của hòa bình, thì bình an của các con sẽ xuống trên người ấy, nếu không an bình ấy sẽ trở lại trên các con” (Lc 10,5-6). Và trang Tin Mừng hôm nay tường thuật việc Chúa Giêsu hiện đến với các Tông đồ sau khi Người sống lại, Người đến không mang theo vàng bạc châu báu, nhưng mang bình an, và Người để lại bình an đó lại cho các Tông đồ như là hành trang lên đường đi loan báo Tin Mừng, vì Chúa biết chỉ có sự bình an của Chúa các Tông đồ mới có thể chu toàn sứ vụ được giao. Vâng, Chúa để lại bình an của Người cho các Tông đồ như là sản nghiệp để các ông trang trải cho hành trình loan báo Tin Mừng.
Bình của Chúa ban không là kho báu để cất giữ, để hưởng dùng một mình, nhưng là phương thế để phục vụ và mang lại bình an cho người khác. Vâng, bình an của Chúa để lại cho các Tông đồ được đúc nén bởi một tình yêu khôn tả, một tình yêu đã thúc đẩy Người bước lên đỉnh đồi Calvê và hiến dâng cuộc sống qua cái chết trên Thập giá để trở thành hiến lễ tình yêu, nhờ đó mà nhân loại được cứu sống. Tình yêu hiến dâng là phương thế các Tông đồ xử dụng để thi hành sứ vụ loan báo, để qua tình yêu này các Tông đồ làm chứng về một yêu trọng đại hơn: Đức Giêsu Kitô, và nhờ đó các Tông đồ đã hình thành được các cộng đoàn cứu độ được gọi là cộng đoàn đức tin và đức mến. Các Tông đồ đã thực hiện sứ mệnh cách chỉnh chu không ai có thể chê trách vào đâu được với hai bàn tay trắng không tiền bạc, không của cải, chỉ có gia sản duy nhất: sự bình an của Chúa Kitô.
Là người Kitô hữu, từng người chúng ta phải làm sao chiếm hữu được sự bình an mà Chúa Kitô ban tặng, làm sao chiếm hữu được điều đó nếu chúng ta không để Chúa Kitô ngự trị trong ta, bởi ngoài Chúa Kitô làm sao chúng ta có được bình an thật. Cách thế để chiếm hữu được Chúa chính là giữ lời Chúa, hay nói cách khác là thực thi điều Chúa dạy: yêu như Chúa yêu. Vâng, chỉ có yêu thương mới là con đường để Chúa bước tới với chúng ta, và chỉ có yêu như Chúa yêu mới có thể mang về cho chúng ta kho tàng của sự bình an đích thật, một sự bình an mà thế gian không thể ban tặng. Chính sự bình an này mang lại cho chúng ta nguồn hạnh phúc vô biên, nguồn hạnh púc có được xuất phát từ sự hiện diện của Thiên Chúa Ba Ngôi trong tâm hồn. Đức thánh cha Benêđictô XVI trong Thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu đã chỉ cho chúng ta cách thế để đạt tới bình an đích thật: “Trong Thiên Chúa và cùng với Thiên Chúa, tôi yêu người thân cận, cả khi tôi không thích hoặc không biết người đó. Điều này chỉ trở nên khả thể từ cuộc gặp gỡ thâm sâu với Thiên Chúa, một sự gặp gỡ trở thành hiệp thông ý muốn và thâm nhập vào trong tình cảm. Bấy giờ tôi học cách nhìn người khác không phải chi bằng con mắt và tình cảm của riêng tôi, nhưng từ nhãn giới của Đức Giêsu Kitô. Bạn của Người là bạn của tôi. Vượt qua dáng vẻ bên ngoài, tôi thấy được nơi tha nhân sự chờ đợi một cử chỉ yêu thương, một cử chỉ quan tâm mà tôi cho họ, (số 18)
Lạy Chúa, thật là vô phúc cho chúng con nếu chúng con không có sự bình an mà Chúa đã tặng ban cho các môn đệ Chúa, bởi chúng con, qua bí tích rửa tội, được trở thành con cái của Chúa, được trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa, cho nên chúng con xứng đáng được hưởng sự bình an đó. Điều đó cũng có nghĩa, chúng con phải làm sao xứng đáng với hồng ân đã lãnh nhận, tức là chúng con phải là những người tràn đầy ơn nghĩa của Chúa qua việc chúng con tuân giữ lời Chúa cách chỉnh chu, hay nói cách khác chúng con phải thể hiện tình yêu Chúa đúng với danh phận của chúng con, Amen.
(Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, OFM.)
Có bao giờ chúng ta nghe hai bạn trẻ nam nữ, yêu nhau mà nói với nhau câu này chưa: “Nếu anh yêu em, anh hãy tuân giữ một số điều luật này nè… 1. đúng hẹn, 2. đi thẳng không ngó ai, 3. không lai rai vượt quá ranh giới, 4. không chơi thuốc lắc…”. Chắc là chưa, mặc dầu hai người vẫn làm như vậy khi thương nhau. Không nói nhưng vẫn làm.
Còn Chúa Giêsu thì nói và dạy rõ ràng: “Nếu ai yêu mến Thầy thì phải giữ lời của Thầy” (Ga 14,23). “Lời” tức là luật, là giới răn. Lời dạy nghe ra không êm tai mấy, bởi vì tình yêu gợi cho ta cảm giác êm đềm, dịu ngọt, tình yêu làm cho đời ta vui tươi thoải mái ; trong khi đó giới răn, luật lệ lại gây cho ta một cảm giác gò bó, trói buộc và mất tự do. Vậy mà Chúa Giêsu lại ghép việc tuân giữ giới răn vào chuyện yêu thương như một điều kiện không thể thiếu. “Nếu anh em yêu mến Thầy thì phải giữ các giới răn của Thầy.” Điều này xem ra không ổn. Nhưng,
– Vâng phục cha mẹ (giữ “luật” cha mẹ đề ra) là cách diễn tả rất tự nhiên của lòng hiếu thảo và yêu mến mà con cái dành cho cha mẹ. Yêu mến là vâng lời.
– Chấp nhận mưa nắng dãi dầu để kiếm cơm cho con cho cái. Chấp nhận gian khổ để chu toàn trách nhiệm trong gia đình… là một tỏ bày tình yêu của những bậc làm cha mẹ dành cho kẻ hậu sinh. Có gì là gò bó, mất tự do đâu. Yêu con là hy sinh, là chịu khổ.
– Rồi hai cô cậu đã lấy nhau, quyết “giữ luật” không ngoại tình, không phản bội… chỉ là một đòi hỏi đương nhiên của tình yêu vợ chồng.
– Và trở về với ví dụ đầu, ta thấy, nếu chàng trai kia yêu nàng con gái nọ, thì họ giữ hàng tá quy luật vẫn chẳng thấy gì là nặng nhọc cả. Đúng hẹn ư ? Anh sẵn sàng. Để tránh kẹt xe, anh sẽ đi sớm.
Khi thương nhau thật sẽ rất đúng giờ. Đến giờ nàng phải về rồi, kẻo cổng đóng, mẹ mong, chàng thương nàng thật, thì “thả” nàng ra, dìu nàng về. “Em chỉ gặp được anh đến 9 giờ tối thôi nghe.” OK ngay. 9 giờ đúng, đụng ngõ nhà em.
Còn cái khoản luật ra đường không ngó ai, thì chàng nếu thương nàng thật sẽ trả lời thật hay: Không ngó đụng xe thì sao, nhưng em yên tâm, anh ngó ai anh cũng chỉ thấy mắt em trong người đó thôi. (có thể đôi mắt mang hình viên đạn nên sợ quá chẳng dám ngó ai) hoặc mượn lời ca của Hoàng thi Thơ trong bài Khi tình yêu đến mà nói rằng: ôi con mắt con mắt ta buồn cười, một người ta thấy thôi. Dù đông người, chỉ mình em anh thấy.
Rồi khi thực sự thương nhau, thì tôn trọng nhau và tôn trọng luật “ranh giới.” Tới đâu thì dừng lại. Đến đâu thì xì tốp. Chàng thì thường muốn vượt ranh. Nàng sợ chàng bỏ, nên gì cũng chiều. Nhưng coi chừng đó chỉ là đường một chiều: chiều lợi dụng chứ không phải đường hai chiều, chiều tình yêu. Yêu là có những luật của nó.
Ngày nay chính tại Mỹ có phong trào mang tên “True Love Waits,” Tình yêu chân thật thì biết chờ đợi. Số là một mục sư Baptist bị shock (sửng sờ) khi 2 em gái 16 tuổi cảm thấy xấu hổ vì mình đã đôi tám rồi mà vẫn còn trắng trinh. Thay vì hãnh diện thì lại mắc cỡ ! Mục sư này lập nên phong trào cổ võ việc giữ gìn kiêng cữ cho tới ngày thành hôn. Phong trào lớn mạnh ngoài mong đợi, nhưng mục sư không ngạc nhiên, bởi mục sư nói: rất nhiều bạn trẻ muốn như thế. Và khi họ muốn như thế và làm như vậy là họ đang ở trong thành phần đa số chứ không phải thiểu số đâu. Hãy hãnh diện vì mình trong sạch: proud to be pure.
Người Việt-Nam chúng ta có tâm trạng thuận lợi hơn để giữ điều đó. Cái đáng giá ngàn vàng đó đáng giá thật chứ không phải xưa rồi Diễm ơi đâu ! Các bạn gái đã có lần nào nghe lập luận này chưa, nó cũng rất thường xảy ra: Cô dễ dãi với tôi thì chắc gì cô không dễ dàng với người khác. Cô chiều tôi chắc gì cô không nhường người khác…
Tình yêu chân thật là có luật lệ của nó. Vì thế yêu nhau và giữ luật lệ của tình yêu không có gì là mâu thuẫn, chỉ là một thôi. Yêu bên trong, diễn tả ra bên ngoài bằng những luật lệ của nó. Ai yêu mến Thầy thì tuân giữ lề luật của Thầy.
Có nhiều chàng con trai yêu nàng con gái nào đó thì sẵn sàng giữ luật “cấm hút thuốc” cách rất triệt để dễ dàng. “Trước đây tôi hút thuốc dữ lắm, nhưng khi quen bà ấy, bà ấy không muốn, tôi bỏ ngay !” Yêu là tuân giữ lề luật. Ai yêu mến Thầy thì tuân giữ lề luật của Thầy.
Cuốn phim có tựa đề: “Đời Vẫn Đẹp” do Roberto đạo diễn và thủ diễn đã xứng dáng được giải Oscar năm 2000. Cuốn phim diễn lại câu chuyện của một người Do Thái cùng với vợ và đứa con trai nhỏ đã bị Đức Quốc Xã đưa vào trại tập trung. Nhờ tài khôi hài và tình yêu thương, ông đã giữ vững tinh thần cho mình và cho đứa con còn nhỏ cho tới khi quân đội Đồng Minh đến giải thoát.
Nhân vật chính là một bác sĩ chuyên gia tâm lý. Trong những năm lưu tù, ông khám phá được một chân lý quan trọng cho cuộc sống của con người. Chân lý đó là trong những hoàn cảnh nghiệt ngã đau thương nhất của con người, con người vẫn có thể tồn lại, nếu họ có niềm tin và tình yêu.
Bác sĩ đã quan sát những phản ứng khác nhau nơi các bạn tù của ông: Có những người trước khi vào tù được mọi người trọng vọng ngưỡng mộ, thế nhưng bỗng chốc lộ nguyên hình là những kẻ hèn hạ có thể bán đứng anh em vì một chút lợi lộc cỏn con: như một mẩu bánh, một ngụm nước. Một số khác thoạt tiên thể hiện bản lĩnh của những nhà lãnh đạo, thế nhưng liền sau đó tuyệt vọng và ngã gục chỉ trong vài ngày bị bỏ đói. Trái lại, cũng không thiếu những người ít được kẻ khác chú ý đến, lại âm thầm vượt qua, chịu đựng cho đến cùng và còn sống.
Trong kinh nghiệm bản thân, bác sĩ cho biết chính tình yêu đối với vợ ông đã giúp cho ông tiếp tục tìm thấy ý nghĩa và lẽ sống trong tận đáy hoả ngục của các trại tập trung đó. Mặc dù không biết vợ mình bị giam giữ ở đâu, còn sống hay đã chết rồi, nhưng tình yêu đối với vợ đã giúp người bác sĩ này vượt qua tất cả. Ông đã chia sẻ cảm nghiệm đó như sau:
Không có gì có thể tách tôi ra khỏi tình yêu, khỏi những ý nghĩ và hình ảnh người vợ yêu dấu của tôi. Cho dẫu người ta có báo tin rằng vợ tôi đã chết thì tôi sẽ không bao giờ ngưng chiêm ngắm hình ảnh của nàng, hay ngưng thôi không chuyện vãn với nàng nữa. Khi tôi cảm nghiệm được hình ảnh của vợ tôi vẫn luôn ở bên cạnh tôi, thì chính tình yêu đối với vợ đã mang lại hy vọng và sức mạnh giúp cho tôi chịu đựng mọi nghịch cảnh và tồn lại cho đến ngày được giải cứu khỏi trại tập trung.
Văn hào St Exupéry của Pháp, trong cuốn “Chuyến bay đêm” (vol de nuit) thuật lại một phi công bay trong bóng tối tại sa mạc, và máy bay rơi xuống bãi cát. Cát êm, không chết. Chỉ bị thương. Phi công bò đi tìm đường về làng xóm. Nhưng trong sa mạc nào biết hướng bò. Mệt lả, đói khát, anh muốn buông xuôi, chết cho rồi. Nhưng anh chợt nghĩ: Nếu ở nhà vợ con tôi, người thân tôi đang chờ đợi giây phút tôi trở về, thì tôi là thằng hèn nếu tôi không cố trỗi dậy và cất bước. Chính tình yêu thúc đẩy ta đi còn mạnh hơn là đồ ăn thức uống, viên tăng lực, loon “bò húc” bò cụng.
Thánh Phaolô diễn tả thật đẹp chính tình yêu chứ không gì khác làm cho chúng ta gắn bó với Đấng ta yêu mến: Rm 8:35-39
Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô ? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo ? Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta.
“Yêu thì giữ luật” và “yêu giúp giữ luật” đó là 2 điểm ta rút ra qua bài Tin Mừng hôm nay vậy.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Tháng 2 năm 1991 sau khi quân đội đồng minh đổ bộ lên Kouweit được ba ngày, thế giới đã thở phào một cái nhẹ nhõm vì mối đe dọa của một cuộc chiến tranh nguyên tử đã qua đi và nền hòa bình đã trở lại với thế giới. Hiểu như thế thì hòa bình hay bình an là không có chiến tranh. Nhưng không có chiến tranh chưa chắc là đã có hòa bình.
Sau thế chiến thứ hai, thế giới đã chia làm hai phe: Tư Bản và Cộng Sản. Trong khoảng từ năm 1945 đến năm 1990 không có một cuộc chiến tranh nào với tính cách quy mô giữa hai phe Tư Bản và Cộng Sản. Vậy mà thế giới vẫn nơm nớp lo sợ một cuộc chiến tranh. Lý do là vì cả hai phe đều chạy đua vũ trang. Tình trạng đó được gọi bằng một cái tên là “chiến tranh lạnh”. Năm 1989 sau khi khối Cộng Sản sụp đổ ở Đông Âu, người ta đã họp nhau lại tại Paris để tuyên bố cuộc chiến tranh lạnh đã kết thúc.
Như vậy trong gần một nửa thế kỷ, tuy thế giới không có một cuộc chiến tranh nào trên quy môn lớn, nhưng con người vẫn phải sống trong sự bất an. Mới đây (ngày 8/5/1995) thế giới vừa mừng kỷ niệm 50 năm chiến thắng phát xít Đức và kết thúc thế chiến thứ hai. Nhưng người ta lại lo sợ trước chủ nghĩa “Phát xít mới”, trước nạn khủng bố lan tràn và các cuộc xung đột chủng tộc… Người ta nói nhân loại đang sống trong một nền “hòa bình nóng”!
Thưa anh chị em, Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta hòa bình của Ngài từ gần hai ngàn năm nay rồi. Vậy mà tại sao loài người lại không được sống trong hòa bình?
“Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban bình an của Thầy cho anh em. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng”.
Chúa Giêsu đã coi sự bình an như một ân huệ Ngài để lại. Ngài ban bình an của Ngài cho các môn đệ. Ngài không cầu chúc, nhưng Ngài để lại, Ngài ban tặng bình an. Ngài không ban như người ta, vì người ta không thể ban cho ai bình an, chỉ có thể cầu chúc, ước muốn được bình an mà thôi.
Vậy thì bình an của Chúa Kitô là gì? Bình an của Chúa Kitô không phải là tình trạng yêu ổn không bị khuấy động vì chống đối, vì chiến tranh. Bình an ở đây là sự sống trọn đầy, là ân huệ gồm tóm mọi ân huệ của thời đại Chúa Cứu Thế. Chính vì vậy, bình an nầy gắn liền vớ Chúa Giêsu và sự hiện diện của Ngài: “Chúa Giêsu là sự bình an của chúng ta” (Ep 2.14). Sự bình an mà Chúa Giêsu trối lại hay là chia sẻ cho chúng ta là sự bình an mà Ngài thực sự có được và nghiệm thấy một cách trọn vẹn, khi Ngài đã chiến thắng được sợ hãi đứng trước tử thần. Đó là sự bình an của Đấng đã yêu thương đến cùng (Ga 13,1), nghĩa là chấp nhận hy sinh mạng sống cho những kẻ mình yêu thương (Ga 15,13). Nói khác đi, đó là bình an mà Chúa Giêsu đã có thể chia sẻ cho chúng ta, sau khi Ngài đã thực sự chia sẻ chính thân mình Ngài cho chúng ta.
Thánh Phaolô gọi sự bình an đó là “bình an của thập giá”: “Nhờ máu Chúa Giêsu đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trởi” (Cl 1,24). Bình an của thập giá là bình an mà Chúa Giêsu đã phải trả bằng chính máu của Ngài để giao hòa nhân loại với Ngài và nhân loại với nhau. Nói khác đi, Chúa Giêsu đã lấy cái chết của mình để xóa bỏ tội lỗi nhân loại, đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét, khiến cho nhân loại từ nay được hòa giải với Thiên Chúa và trở nên một thân thể duy nhất. Bởi vậy mà Chúa Giêsu xứng đáng được gọi là “Bình an của chúng ta” (Ep 2,14-18).
Anh chị em thân mến,
Bình an là khát vọng của mọi người, ở mọi nơi và mọi thời. Nhưng thực ra có lẽ chưa bao giờ nhân loại được hường một sự bình an toàn diện và phổ quát. Người ta có thể dập tắt ngọn lửa chiến tranh, có thể áp đặt một nền hòa bình, ký kết những bản hòa ước. Nhưng không ai có thể hiểu thấu lòng người để có thể đem lại được sự bình an vào tận cõi sâu thẳm bên trong; bởi vì ít có ai có được bình an thực sự trong lòng mình để có thể chia sẻ cho người khác. Con người chỉ có thể xây dựng hòa bình bên ngoài, nhưng không có khả năng chế ngự, điều khiển được những đợt sóng ngầm vẫn luôn sôi sục trong đáy lòng của mỗi cá nhân. Bởi vậy, hòa bình trên thế giới từ trước đến nay thường chỉ là những nền hòa bình giả tạo, mong manh, tạm thời. Dĩ nhiên có được hòa bình đó vẫn còn tốt hơn là không.
Người Kitô hữu phải là những người tác tạo và tái tạo hào bình, những người làm chứng cho hoàn bình trong thế giới bằng cuộc sống không bạo lực và bằng cách sống đồng tâm nhất trí với nhau. Điều kiện cần thiết là phải tin vào Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Lời được Cha sai đến loan báo Tin Mừng bình an (Cv 10,36), phải tuân giữ Lời Chúa, và như vậy chúng ta sẽ có được sự hiện diện của Chúa trong chúng ta, như Chúa Giêsu đã tỏ cho biết: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ Lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến ở trong người ấy” (Ga 14,23). Có Chúa hiện diện trong chúng ta, chúng ta sẽ không còn lý do nào để phải lo lắng, sợ hãi. Sợ hãi, lo lắng, chứng tỏ một tâm hồn xao xuyến, chưa được ổn định, chưa được bình an và là một tâm hồn không có Chúa ngự trị.
Muốn xây dựng hòa bình của Chúa, chúng ta phải là những con người hiếu hòa, đã được ổn định và bình an trong tâm hồn. Nếu chúng ta còn để cho dục vọng làm chủ mình; nếu chúng ta còn khư khư bám víu sự sống mình một cách ích kỷ; nếu chúng ta còn có sợ mất mát những của cải, hoặc phải bảo vệ chúng để hưởng thụ; nếu chúng ta còn muốn thống trị kẻ khác, làm sao chúng ta có thể gieo rắc bình an và xây dựng được hòa bình? Muốn xây dựng hòa bình ở bình diện lớn, thiết tưởng phải bắt đầu từ những bình diện nhỏ, vừa tầm tay, từ cá nhân, trong gia đình, đến xã hội, đất nước và lan tỏa đến toàn thế giới.
Cuối cùng, phải chăng Thánh lễ là một lời cổ vũ mạnh mẽ cho hòa bình và là một sự thúc đẩy người Kitô hữu dấn thân xây dựng hòa bình? Khi chúng ta chia sẻ bình an của Chúa cho anh chị em, chúng ta cam kết sống an hòa, yêu thương và dấn thân đem lại hòa bình, an vui, hạnh phúc cho mọi người. Và lời chúc cuối lễ của vị chủ tế là chúc anh chị em ra đi với sự bình an của Chúa Kitô, ra đi mang theo một cái gì đó của Nước Thiên Chúa cho mình và cho kẻ khác.
Một người Ấn giáo và một người Công giáo trẻ tuổi cùng tham dự cuộc hội thảo về bài giảng trên núi của Chúa Giêsu. Họ nhanh chóng trở thành bạn tốt. Ngày nọ, người Ấn giáo nói với người Công giáo: tôi biết bài giảng này của Chúa Giêsu ảnh hưởng đến Gandhi và cuộc sống của ông ta thế nào, nhưng tôi nghĩ bài giảng đó quá cao với hạng bình dân. Người Công giáo không vội trả lời nhưng đề nghị tìm nơi thanh vắng và cả hai cùng làm dấu thánh giá cầu nguyện với Chúa. Kết quả, người Ấn giáo đã tìm ra câu trả lời cho tình huống khó xử của anh: Đạo lý thật sự rất cao nhưng có Chúa Thánh Thần hiện diện, hướng dẫn, soi sáng và nhắc bảo chúng ta biết phải làm gì cho đúng lời Chúa dạy.
Thật vậy, nhờ có Chúa Thánh Thần soi dẫn mà Giáo hội tồn tại và phát triển giữa muôn vàn thử thách. Giáo hội vượt qua mọi gian lao nhờ vâng theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Trong thời Giáo Hội sơ khai, cuộc tranh luận về việc giữ luật Môsê khá gay cấn. Người kitô hữu không biết có phải giữ luật cắt bì và tập tục của người Do thái hay không? Nhờ sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần mà các Tông đồ quyết định miễn luật cắt bì và tập tục của Do Thái. Chúa Thánh Thần giúp cho mọi người hiểu rằng: ơn cứu độ phát xuất từ Chúa Giêsu chứ không do việc giữ luật Do thái. Chỉ cần giữ những lời Chúa Giêsu thì sẽ được sống. Và lời quan trọng nhất Chúa trối lại cho chúng ta là: các con hãy yêu thương nhau. Điều cần thiết nhất là giữ giới răn yêu thương. Yêu thương là chu toàn mọi lề luật:”ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy”.
Nếu chúng ta yêu mến Chúa Giêsu thì chúng ta muốn làm đẹp ý Ngài, vâng giữ lời ngài. Kitô hữu giữ luật theo tinh thần mới, khác với cách giữ luật của nhiều người Do thái: giữ cho đủ hình thức vì sợ bị phạt, giữ luật vị luật. Chúa Giêsu là tình yêu, dạy chúng ta giữ luật tình yêu và yêu thương là con đường dẫn chúng ta về tới nhà Cha.
Ai yêu mến Chúa thì tuân giữ Lời Chúa. Đối với một người con có hiếu thì luôn sẵn sàng vâng lời cha mẹ, vì người đó yêu mến, kính trọng cha mẹ mình. Kitô hữu chúng ta cũng vậy. Chúng ta biết Chúa thông minh và rất yêu thương chúng ta, luôn dạy chúng ta làm điều đúng, điều tốt thì lẽ nào chúng ta lại lưỡng lự, từ chối việc thực thi ý Ngài. Nếu chúng ta yêu mến Chúa thì hãy tuân giữ Lời Chúa. Và phần thưởng Chúa ban cho chúng ta là vô cùng quí giá. Đó là cho chúng ta được cư ngụ nơi thành Giêrusalem mới mà sách khải huyền mô tả: Thành thánh này không phải do tay người phàm dựng nên nhưng từ nơi Thiên Chúa mà xuống, chói lọi vinh quang Thiên Chúa. Ánh sáng của nó toả ra như đã quí, giống như ngọc thạch, óng ánh tựa pha lê. Thành không cần mặt trời mặt trăng chiếu soi: vì đã có vinh quang Thiên Chúa chiếu sáng nó và đèn của nó chính là Con Chiên (x. Kh 21, 22). Thân phận con người vốn là thụ tạo nhỏ bé thấp hèn, không xứng đáng nhưng lại được Chúa yêu thương cách đặc biệt. Chúa muốn nâng con người lên và nhận lấy địa vị cao trọng: làm con Thiên Chúa. Điều này vượt qua sự mong đợi của loài người nhưng đó lại là phần thưởng Thiên Chúa dành cho những ai vâng giữ lời Người. Thiên Chúa biết đó là phần thưởng rất cao quí, đem lại hạnh phúc vô biên cho loài người nên Ngài sẵn sàng chịu khổ nhọc, xuống thế làm người và cố gắng diễn tả tình thương và ý định tốt lành của Thiên Chúa cho con người hiểu và được ơn cứu độ. Ngài đã làm tất cả những gì cần làm cho loài người được hạnh phúc. Vấn đề là ai biết chạy đến Chúa với tâm hồn đơn sơ, khiêm hạ, vâng phục thì sẽ được ban ơn dồi dào. Còn kẻ cứng lòng, chống đối, kiêu căng thì sẽ không được Chúa làm gia nghiệp và mai sau sẽ phải khóc lóc nghiến răng.
Chúng ta là môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta nói rằng mình yêu mến Chúa, thì chúng ta hãy giữ lời Thầy Chí Thánh với lòng chân thành, yêu mến Chúa. Mai đây, Chúa sẽ trở lại dẫn chúng ta vào Thiên Đàng đời đời.
(Trích trong ‘Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’)
Suy Niệm 1. BÌNH AN Ở GIỮA SỰ RỐI LOẠN
Trong cuốn sách Go Down to the Potter’s House của Donagh O’Shea, ông có một câu chuyện về một ông vua có hai hoạ sĩ trong triều là hai đối thủ gay gắt. Một ngày nọ, nhà vua nói: “Trẫm quyết định một lần này cho xong để biết ai trong hai khanh là hoạ sĩ giỏi nhất. Hai khanh phải vẽ cùng một đề tài và như vậy, trẫm sẽ ở giữa để phán xét. Và đề tài là bình an”.
Hai người hoạ sĩ đồng ý, và một tuần sau trở lại với các bức tranh của họ.
Hoạ sĩ thứ nhất giới thiệu bức tranh của mình. Nó cho thấy một phong cảnh thơ mộng với những ngọn đồi đều đặn kề bên nhau và một mặt hồ không gợn sóng. Toàn bộ phong cảnh nói lên sự hài lòng, bình an, tĩnh lặng. Tuy nhiên, khi nhà vua nhìn vào bức tranh, ngài không thể giữ cho mình khỏi ngáp. Rồi quay lại hoạ sĩ, ngài nói; “Bức tranh của khanh đẹp, nhưng nó làm ta buồn ngủ”.
Kế đó, hoạ sĩ thứ hai đã trình bày công trình của mình. Nó cho thấy một thác nước chảy ầm ầm. Lối vẽ hiện thực làm cho người ta như nghe thấy tiếng gầm của nước khi va vào các tảng đá ở bên dưới hàng trăm thước.
“Nhưng đây không phải là một cảnh bình an như trẫm đã ra lệnh”, nhà vua tức giận nói. Hoạ sĩ không đáp lại nhưng xin nhà vua tiếp tục xem. Rồi nhà vua nhận ra một chi tiết mà trước đó ngài không để ý: ở giữa các tảng đá bên dưới thác nước, có một bụi cây mọc lên với một tổ chim trên cành. Khi nhìn kỹ, nhà vua thấy có một con chim trong tổ: một con se sẻ đang ấp trứng, đôi mắt lim dim. Nó đang chờ các con nó được sinh ra, một hình ảnh bình an hoàn hảo.
Nhà vua rất thích thú khi nhìn vào điều đó. Quay lại người hoạ sĩ thứ hai, ngài nói: “Trẫm rất thích bức tranh khanh đã chuyển tải một điều rất quan trọng về bình an, đó là có thể sống trong bình an cả khi ở giữa cảnh ồn ào hỗn loạn của đời sống”.
Đức Giêsu đã nói về sự bình an trong suốt bữa Tiệc Ly. Người nói với các tông đồ: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng. Lòng anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi”.
Quả là một thời điểm lạ lùng để nói về sự bình an vì mọi sự đang rối loạn ở xung quanh Người. Làm thế nào mà lúc đó Người có thể nói về sự bình an? Bởi lẽ bình an là hiệp thông với Thiên Chúa. Và Đức Giêsu đã ở trong sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa. Vì thế, Người có thể nói về sự bình an cả khi các kẻ thù đang siết chặt vòng vây xung quanh Người và cái chết đang ở một góc tối nào đó.
Bình an không giống như sự yên tĩnh. Yên tĩnh thuộc về ngoại giới. Bình an chủ yếu thuộc về nội giới. Bình an là một tình trạng của sự tĩnh lặng nội tâm và chỉ rõ những mối quan hệ đúng đắn với Thiên Chúa và với những người khác. Một thành phần chủ yếu của bình an là sự chính trực. Vì thế đối với kẻ xấu, không có sự bình an.
Bình an là kết quả của việc người ta tín thác vào Thiên Chúa và khi ước muốn làm vui lòng Người là việc quan trọng nhất trong đời sống của người ấy. Đó là điều mà người ta có thể có cả khi ở giữa sự xáo trộn, xung đột và những vấn đề chưa giải quyết được.
Đức Giêsu ban bình an của Người cho chúng ta: “Thầy để lại bình an cho anh em”. Bình an mà Người ban cho chúng ta không phải là thứ bình an để chúng ta trốn tránh thực tại. Nó là một điều rất thâm sâu và độc lập với những hoàn cảnh bên ngoài. Bình an ấy vượt qua mọi sự hiểu biết, bình an mà thế gian này không thể ban cho và không một ai có thể lấy mất của chúng ta.
Suy Niệm 2. ĐỂ NGƯỜI RA ĐI
Trong bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu nói về sự ra đi của Người. Không bị bất ngờ, các Tông đồ chìm sâu vào sự đau buồn trước viễn cảnh mất Người. Họ không muốn Người đi, họ muốn giữ Người lại. Bạn không dễ dàng chấp nhận Người mà bạn yêu thương ra đi. Ngay cả một đồ vật hoặc một con thú cưng của bạn cũng thế.
Một ngày nọ, một cậu trai trẻ thấy một con chim nhỏ run lẩy bẩy nằm dài trên mặt đất, bên dưới một cái tổ. Cảm thấy xót xa trong lòng vì chim, cậu đem chim và nhà và đặt gần lò sưởi, ở đó chim từ từ hồi sinh. Tuy nhiên, thay vì trả chim về tổ, cậu làm một cái lồng cho chim. Trong lồng, cậu cho chim nhiều thức ăn, nước uống và hơi ấm.
Chim nhỏ mau lớn và bắt đầu bay quanh lồng. Kế đó, nó bắt đầu hót. Cậu trai run lên vì sung sướng. Nhưng một ngày kia nó bắt đầu đập cánh vào cạnh lồng. Cậu liền hỏi ông cậu điều đó có nghĩa gì.
“Nó không hạnh phúc”, ông cậu đáp.
“Cháu không hiểu”, cậu trai hỏi: “Nó không có mọi thứ nó cần trong lồng hay sao?”.
“Mọi thứ ngoại trừ một điều mà chim nào cũng mong ước?”.
“Điều đó là điều gì?”
“Tự do” ông cậu đáp.
“Ông muốn nói là cháu phải cho nó tự do, nó muốn rời bỏ cháu”.
“Nó chỉ muốn được tự do, vì thế nó mới có thể giống như những con chim khác”.
“Nhưng làm sao cháu có thể để nó đi?” Cậu khẩn khoản. “Nó không biết gì về những nguy hiểm đang chờ nó trong thế gian. Nó có thể bị giết chết hoặc chết đói”.
“Đó là một sự liều lĩnh mà cháu phải có”.
“Nhưng cháu yêu nó nhiều đến nỗi cháu không thể để nó đi”.
“Nếu cháu thật sự yêu nó, cháu phải để nó đi”.
Cậu bé trở nên thinh lặng. Nó nhìn con chim và con chim vẫn tiếp tục vỗ cánh vào lồng. Và với mỗi cái đập cánh, nó dường như muốn nói: “Trả tự do cho tôi! Trả tự do cho tôi!”. Không thể chịu nổi nữa, cậu quyết định để chim đi.
Khi nó bay ra ngoài cửa số, nó mang theo nó một mảnh hồn của cậu. Cậu nhìn theo qua cửa sốt mở rộng một lúc lâu. Rồi thình lình, cậu nghe tiếng chim hót ở một cây gần đó. Tiếng hót này dường như vui tươi và ngọt ngào hơn trước đây. Và đây là lần đầu tiên trong nhiều tháng, cậu cảm thấy tự do: hạnh phúc và bình an.
Các tông đồ không muốn để Đức Giêsu ra đi. Nhưng khi làm thế, họ không nghĩ đến Người mà nghĩ đến họ. Người đã nói với họ như thế. Người nói: “Nếu anh em yêu mến Thầy thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy” (Ga 14,28). Đối với Đức Giêsu, trở về với Chúa Cha là mục đích của đời sống Người. Cố giữ Người ở lại là tỏ ra không yêu mến Người.
Tình yêu chiếm hữu rất thường gặp. Một số cha mẹ có tinh thần chiếm hữu rất mạnh trong tình yêu đối với con cái họ. Đã ban cho con cái họ đời sống, họ từ khước để cho chúng sống đời sống ấy theo cách của chúng. Sự việc tương tự cũng xảy ra trong một số cuộc hôn nhân. Người ta không sẵn lòng để cho người phối ngẫu có đời sống riêng của họ.
Tình yêu chiếm hữu gây ra nhiều đau khổ và thiệt hại. Mặt khác tình yêu không chiếm hữu làm nên điều kỳ diệu cho cả đôi bên.
Sự trưởng thành, tiến bộ, thay đổi đòi hỏi một sự để cho đi, một sự buông bỏ điều gì đó mà chúng ta đang có và coi là thân thiết. Nhưng sự buông bỏ ấy là để đạt được một điều mới mẻ và tốt đẹp hơn.
Khi rời xa các Tông đồ, Đức Giêsu xác nhận rằng Người không bỏ rơi họ. Người nói với họ: “Thầy ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em” (Ga 16,7). Và Người làm đúng như lời Người đã nói. Khi chúng ta sẵn lòng để Người khác ra đi, người ấy có thể rời xa chúng ta mà không làm cho chúng ta cảm thấy bị bỏ rơi. Và chúng ta cởi mở lòng mình để đón nhận một điều mới mẻ mà nếu không ra đi người ấy sẽ không đem lại cho chúng ta.
CÂU CHUYỆN KHÁC
Một số người thường hay tức giận trong lòng và kết quả là họ thiếu sự bình an trong trí óc và sự thanh thản trong linh hồn. Nhưng có những người khác có được sự bình an nội tâm và họ làm cho đời sống của họ khác hẳn.
Hai người láng giềng, James và John cày đất trên hai cánh đồng sát liền nhau. Mặt trời chói chang trên họ và trên mặt đất cứng, nhiều đá sỏi. James có tính khí hắc ám. Ông quất roi da vào lưng con ngựa. Tuy nhiên, sự đánh đập ấy càng làm cho con ngựa thêm ương ngạnh và không chịu hợp tác với chủ của nó. James tin chắc rằng lúa mì của người láng giềng sẽ mọc cao hơn của ông. Và cứ mỗi lần ông nhìn qua người láng giềng, ông có cảm tưởng rằng ông này đang cười nhạo ông.
Trái lại, John có tính khí trầm tĩnh. Ông im lặng làm việc và làm tốt, mặc dù cực nhọc và đau đớn. Thỉnh thoảng, ông dừng lại cho ngựa được nghỉ ngơi. Ông nhìn qua người láng giềng và thầy rằng ông này ở tình trạng rất dao động, ông muốn giúp đỡ người láng giềng, nhưng ông biết rằng khi ông tất bật như thế thì tốt hơn nên để ông ta làm một mình.
Sự khác nhau giữa hai người láng giềng không do những điều kiện bên ngoài của đời sống họ mà do tình trạng bên trong của tâm trí họ. Chúng ta nhìn thế giới và người khác, không được như bản chất của họ nhưng theo bản chất của chúng ta: suy bụng ta ra bụng người. John vui sống với sự bình an và thanh thản nội tâm. Còn James sống trong tình trạng rối loạn nội tâm. Không có trở ngại nào lớn hơn trong mối quan hệ tốt đẹp với người khác bằng việc mình khó chịu với chính mình.
Đức Giêsu đến để mang lại cho chúng ta sự sống và giải phóng chúng ta khỏi chính mình. Người trấn an những nỗi sợ hãi của chúng ta, và chữa lành những lo âu cùng thù hận của chúng ta, nhờ thế Người làm chúng ta có thể nhìn thế giới với một tấm lòng bình thản và một tâm hồn rộng mở.
Chúng ta đang ở Chúa Nhật thứ sáu phục sinh, thứ năm tới là lễ Chúa Thăng Thiên nếu nơi đó không dời vào Chúa Nhật tới, và Chúa Nhật tới nữa là lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống.
Ai yêu Ta thì giữ Lời Ta
Theo Tin Mừng, Đức Yêsu nói với các tông đồ rằng: “Ai yêu mến Ta thì giữ lời Ta, Cha Ta sẽ yêu mến người đó, và chúng ta sẽ đến và ở với người đó”.
Yêu mến ai, thì vâng lời người đó, làm theo điều người đó muốn. Không vâng lời ai, là không yêu người đó, ít nhất là không yêu đến độ bỏ ý riêng mà vâng lời. Thánh Y-nhã nói: “tình yêu hệ tại ở việc làm hơn tại lời nói”. Chúa Yêsu đã nói: “không phải những người nói ‘Lạy Chúa, lạy Chúa’ là được vào Nước Trời, nhưng là những kẻ làm theo ý Thiên Chúa” (Mt.7, 21).
Ai vâng nghe Lời Chúa, được Thiên Chúa ở cùng, và người đó trở thành dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện cho người khác nữa.
Thánh Thần sẽ dạy các con mọi sự
Đấng Bầu Chữa, Thánh Thần được Thiên Chúa Cha gởi tới nhân danh Chúa Yêsu, sẽ dạy các tông đồ mọi sự, và sẽ nhắc nhớ các tông đồ những gì Đức Yêsu đã nói với các ngài.
Chính trong Thánh Thần và nhờ Thánh Thần, Đức Yêsu ban bình an của Ngài cho chúng ta. Bình an Chúa Yêsu ban cho chúng ta, không ai có thể cướp được, ngay cả những người quyền thế có thể giết người, cũng không thể cướp được bình an ấy. Bình an Chúa ban, là hậu quả của xác tín được Chúa thương yêu vô cùng. Người có ơn bình an Chúa ban, cảm nhận Chúa là tất cả đối với mình. Ngài là Đấng không gì có thể đánh đổi được, Ngài là “mối lợi tuyệt vời” mà người được ơn nhận ra.
Chúa Thánh Thần luôn ở với chúng ta. Ngài dạy chúng ta mọi sự, Ngài giúp chúng ta làm những gì làm đẹp lòng Thiên Chúa. Thánh Thần giúp chúng ta tự do với tất cả. Trong bài đọc thứ nhất, một số Kitô hữu gốc Do Thái đòi các Kitô hữu gốc dân ngoại phải cắt bì, vì họ cho rằng có như vậy, các tín hữu dân ngoại mới được cứu độ. Để bảo vệ và làm sáng tỏ Tin Mừng, Phao-lô vàBarnabas đã quyết làm sáng tỏ vấn đề: Kitô hữu được cứu độ không do cắt bì nhưng do tin vào Đức Yêsu. Và “quyết định dưới tác động Thánh Thần” của các tông đồ đồ, là các Kitô hữu không phải cắt bì. Thánh Thần giúp chúng ta sống trong bình an và tình yêu, chứ không sống trong sợ hãi hay nô lệ. Thánh Thần Thiên Chúa, làm chúng ta tự do đích thực.
Ánh sáng soi thành là Con Chiên
Để có thể nhìn thấy vật gì đó, vật đó cần ánh sáng chiếu rọi và hình ảnh được phản chiếu vào mắt, nhờ vậy người ta có thể nhìn được. Con Chiên là đèn soi thành, Đức Yêsu là ánh sáng, là tiêu chuẩn giúp người ta nhận định được đâu là điều hay để làm và điều xấu để tránh.
Thế gian có tiêu chuẩn riêng của nó, và những người theo thế gian sống theo tiêu chuẩn thế gian: tiền bạc, danh vọng, địa vị. Hậu quả của việc đi tìm tiền bạc, danh vọng, không là hạnh phúc đích thực. Tiền bạc, danh vọng, khoái lạc, có “xiềng xích” riêng của nó, nó có thể trói buộc con người và biến con người thành nô lệ.
Ước gì mỗi người nhận ra Đức Yêsu là “đường, sự thật và sự sống”, và để Chúa trở thành tiêu chuẩn và ánh sáng cho từng người, để chúng ta được tự do đích thực.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Sống lời Đức Yêsu dạy, là điều rất quan trọng, vì điều đó giúp con người hạnh phúc. Thiên Chúa là tình yêu, là Đấng làm tất cả vì yêu. Đức Yêsu đã yêu thương những kẻ thuộc về Ngài còn trong thế gian, thì Ngài yêu thương họ đến cùng. Ngài đã rửa chân cho các tông đồ để dạy họ bài học phục vụ và yêu thương. Ngài yêu thương các môn đệ đến độ ban Mình Máu Thánh Ngài làm của ăn của uống nuôi những kẻ Ngài thương yêu. Ngài cũng dạy các môn đệ phải yêu thương nhau như chính Ngài yêu thương họ: các con hãy yêu thương nhau như thầy đã yêu thương các con.
Tình yêu được thể hiện không chỉ bằng những lời nói dịu êm, nhưng chủ yếu bằng việc làm. Nếu chỉ nói yêu mà không có hành vi cụ thể đi với, e rằng đó không phải là tình yêu chân thực. Chính Đức Yêsu cũng nói: “Ai yêu mến thầy thì phải giữ lời thầy… Ai không yêu mến thầy thì không giữ lời thầy” (Ga.14, 23-24). Tình yêu là tương quan giữa ngôi vị và là điều rất quan trọng để con người sống tự do và hạnh phúc. Thiên Chúa là Đấng yêu thương, và con người được mời gọi để sống yêu thương như Thiên Chúa. Yêu thương là sống ơn gọi làm người, là nên thánh như Thiên Chúa muốn.
Yêu thương, là sống những gì Đức Yêsu đã dạy. Đức Yêsu đã dạy Thiên Chúa là Đấng quan phòng, Ngài yêu thương con người vô cùng, Ngài tha thứ cho con người như người cha trong dụ ngôn người cha nhân hậu, Ngài kiên nhẫn với người tội lỗi để chờ họ ăn năn sám hối, Ngài ban lương thực và cho mặt trời mọc lên cho cả người công chính cũng như người tội lỗi. Thiên Chúa muốn con người sống bình an hạnh phúc với Ngài. Tất cả những điều này, khi Đức Yêsu còn tại thế Ngài đã giảng dạy nhưng các tông đồ đã không nhớ trọn vẹn, phải nhờ Thánh Thần trợ giúp. Sau khi Đức Yêsu phục sinh, Ngài đã ban Thánh Thần cho các tông đồ.
Chính Thánh Thần đã giúp các tông đồ nhớ lại những gì Đức Yêsu đã nói với các tông đồ vì vào lúc đó các ông đã không hiểu và không nhớ nổi: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga.14, 26). Chính vì nhớ lại những gì Đức Yêsu đã nói, mà các tông đồ nhận ra chân tướng của Đức Yêsu: Ngài là Đấng ngự bên hữu Thiên Chúa, và là Đấng ngang hàng với Thiên Chúa: “Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga.14, 23).
Thánh Thần là Đấng dạy các tông đồ mọi sự, là Đấng được Thiên Chúa Cha sai đến nhân danh Đức Yêsu. Thánh Thần cũng là Đấng được chính Đức Yêsu sai gởi tới khi Ngài ở bên Thiên Chúa Cha (Ga.15, 26). Nhờ Đức Yêsu Phục Sinh, chân tướng của Thánh Thần cũng được thấy rõ vì Ngài có cùng nguồn gốc với Chúa Yêsu Phục Sinh. Thánh Thần tùy thuộc vào Đức Yêsu Phục Sinh, cũng như Đức Yêsu luôn tùy thuộc Chúa Cha: “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ anh em không có sức chịu đựng nổi. Khi nào Thần Khí Sự Thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật trọn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến… Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy. Vì thế Thầy đã nói: Người lấy những gì là của Thầy mà loan báo cho anh em” (Ga.16, 12-13.15).
Thánh Thần xuất phát từ Chúa Cha (Ga.15, 26) nhưng được Chúa Yêsu sai đến, sẽ làm chứng về Đức Yêsu. Không ai có thể tuyên xưng Đức Yêsu là Chúa mà không nhờ Thánh Thần (1Cor.12, 3). Con người cảm thấy mình bất lực không làm điều mình thấy là tốt: “điều tốt tôi biết mà tôi lại không làm, tôi lại làm điều tôi biết đó là xấu” (Rm.7, 15). Nhờ Thánh Thần con người có thể làm điều mình cảm thấy bất lực. Thánh Thần là Đấng luôn ở với con người: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác, đến ở với anh em luôn mãi” (Ga.14, 16). Thánh Thần không bao giờ rời xa chúng ta nữa.
Nhờ ơn Thánh Thần mà các tông đồ nhớ lại những gì Chúa Yêsu đã nói, mà các tông đồ nhận ra Chúa Cha, Chúa Yêsu và Thánh Thần liên hệ mật thiết với nhau. Ba Đấng luôn luôn quan tâm đến con người cách rất đặc biệt để giúp con người được sống hạnh phúc. Tác giả tin mừng theo thánh Yoan cho rằng, Ba Đấng này là một, vì “Cha và Ta là một” (Ga.10, 30), “mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy, vì thế Thầy đã nói: Người lấy những gì là của Thầy mà loan báo cho anh em” (Ga.16, 15), “Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại…” (Ga.16, 13).
“Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian” (Ga.14, 27). Bình an của Đức Yêsu, không phải là không có chuyện gì xảy ra, nhưng là, cho dù có chuyện gì xảy ra đi nữa, người môn đệ của Đức Yêsu vẫn cảm thấy an tâm vì biết rằng Thiên Chúa yêu thương mình, vì biết rằng mọi sự sẽ sinh lợi ích cho mình vì Thiên Chúa yêu thương mình. Biết Thiên Chúa yêu thương mình và sẽ làm tất cả thành tốt cho mình, sẽ làm những người tin vào Đức Yêsu Kitô được sống an bình trong mọi hoàn cảnh, ngay cả trong những tình huống mà người khác thấy là bi đát.
Đức Yêsu không phải là không cảm thấy những khó khăn trong cuộc sống. Chính Ngài đã bị tra tấn hành hạ, bị đóng đinh thập giá, cảm nhận nỗi tủi nhục của một người bị coi là người tội lỗi. Đức Yêsu cũng còn cảm thấy mình bị cô đơn. Các tông đồ bỏ Ngài, và thậm chí như thể Thiên Chúa cũng bỏ Ngài: “Lạy Cha, sao cha nỡ bỏ con” (Mc.15, 34). Tuy nhiên, Đức Yêsu sau cùng vẫn cảm thấy bình an vì Ngài phó thác tất cả cho Thiên Chúa Cha: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha”
Bình an và niềm vui của người Kitô hữu, là hồng ân mà Đức Yêsu ban qua Thánh Thần của Ngài. Chính Thánh Thần tha thứ tội lỗi cho con người, làm con người cảm nghiệm bình an và niềm vui, cùng giúp con người sống yêu thương nhau. Thánh Thần là hồng ân tuyệt vời mà Thiên Chúa ban cho con người. Một khi sống theo Thánh Thần, người ta sẽ bình an, vui, và yêu thương nhau như Đức Yêsu đã truyền dạy.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
THÁNH THẦN SẼ NHẮC NHỞ CÁC CON MỌI ĐIỀU THẦY ĐÃ NÓI VỚI CÁC CON
Lời Chúa hôm nay được trích trong Tin Mừng Thánh Gioan trong bữa tiệc ly sau khi Giuđa phản bội ra đi nộp Ngài. Chúa Giêsu thoải mái nhắn nhủ các môn đệ thâm tín (Ga 14,23-29).
– Ai yêu mến Thầy thì giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người đó và chúng ta sẽ đến và ở trong họ;
– Ai yêu mến Thầy thì giữ lời Thầy và Đấng Bảo Trợ sẽ đến và ban bình an cho họ.
Có câu chuyện kể rằng: Một thanh niên chân thành muốn đi tìm thầy để học đạo. Anh từ giã cha mẹ để lên đường. Cha mẹ khuyên anh ở nhà để học theo gương cha mẹ cho đắc đạo. Nhưng anh không muốn những đạo lý thông thường cha mẹ dạy mà muốn học hỏi cao siêu hơn. Trên đường đi anh gặp một đạo tặc đầy uy tín, ra lệnh một lời là người ta phăm phắp nghe theo. Nhưng một hôm đi hành nghề, vị đạo tặc lại chạy trốn một toán quân của nhà vua đang tầm nã, khiến anh đâm ra nghi ngờ vị đạo tặc này cũng không có uy thế bằng quân lính nhà vua. Anh liền bỏ vị đạo tặc và đi theo xin phò nhà vua.
Cũng chẳng được bao lâu, nhân dịp nhà vua mở một lễ tế tôn phục thượng đế nhân vụ mùa màng Thượng đế cho tốt đẹp. Anh nghĩ đức vua cũng còn thua vị Thượng Đế này nên anh xin phép được đi suy phục Thượng Đế. Đi một hồi, anh đến đồi Thánh Giá, thấy Chúa Giêsu treo trên đó. Ngài phán: “Ai yêu mến Ta thì giữ lời Ta. Cha Ta và Ta sẽ yêu mến và chúng ta sẽ ở trong người ấy và tâm hồn họ sẽ được bình an thư thái”..
Anh suy phục Chúa và xin làm môn đệ. Chúa truyền cho anh trở về làng và gặp bất cứ ai đi chân đất, tay cầm tràng hạt và sống công chính, giữ luật và an vui với cuộc sống thì hãy theo người đó mà học đạo.
Anh trở về, trên đường anh để ý quan sát có người nào giống như vậy không để bái phục, nhưng chẳng thấy. Gần tới nhà thì trời đã xẩm tối, anh đành phải về xin trọ đêm. Vừa gõ cửa nhà cha mẹ, ông bà đang đọc kinh tối, nghe tiếng gõ cửa, bà liền chạy ra không kịp đi dép, tay cầm cỗ tràng hạt đọc kinh với dáng vẻ bình an thư thái. Anh liền hiểu ra lời Chúa dạy trên Thánh Giá. Cha mẹ đạo hạnh giữ lời khuyên của Chúa, yêu mến Chúa hết lòng, thi hành đức bác ái yêu thương…. Anh suy phục cha mẹ học đạo làm người theo gương Chúa dạy.
Tuân giữ lời Chúa bằng việc giữ lời khuyên dạy của cha xứ, vị đại diện Thiên Chúa.
Tuân giữ lời Chúa bằng việc chu toàn bổn phận thờ phượng Chúa mỗi ngày Chúa Nhật.
Tuân giữ lời Chúa bằng việc giữ bổn phận thờ Chúa trong gia đình.
Tuân giữ lời Chúa bằng việc nghe lời giáo huấn của Giáo Hội.
Tuân giữ lời Chúa bằng giữ đức công bằng và xa tránh các tội lỗi, đam mê, ham ước cách bất công.
Tuân giữ lời Chúa bằng việc sống đạo hạnh, nhân từ thương yêu đồng loại…
Được như vậy Chúa Ba Ngôi sẽ ngự trị trong gia đình, trong tâm hồn, ơn Chúa sẽ đổ tràn cho chúng ta. Chúng ta sẽ được bình an, được thảnh thơi thư thái, được sống trong ơn Chúa soi động mỗi ngày, mỗi việc, được sống hạnh phúc và an hòa.
Gia đình yêu mến Chúa thì giữ lời Chúa, chu toàn giới luật của Chúa, siên năng cầu kinh thì gia đình sẽ được bình an.
Một ngày kia, bà vợ quan Phutipha vì say mê cậu Giuse là tôi tớ trong nhà, tìm mọi cách cám dỗ cậu phạm tội với bà, Giuse cự lại và nói với bà: “Có lý nào tôi đang tâm làm truyện đồi bại và lỗi phạm đến Thiên Chúa của tôi sao?” (Gn 39,9) Chính vì không chấp nhận điều bất xứng đó, mà Giuse đã bị vu khống là dụ dỗ bà phạm tội, nên cậu đã bị quan Phutipha chồng bà tống ngục, nhưng Chúa hằng phù trợ, khiến Giuse được ơn trước mặt quan giám ngục.
Cũng một mẩu truyện tương tự: Một phụ nữ trắc nết kia dụ dỗ một tu sĩ phạm tội với cô, Thầy đã dùng lời khôn ngoan để thức tỉnh lương tâm khi nói với cô: “Chúng ta hãy ra chợ”. Cô ta đã bẽ mặt rút lui vì sợ con mắt người đời. Vậy chúng ta càng phải sợ hơn biết bao trước nhan Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi sự, khi tưởng nhớ Ngài hằng hiện diện khắp mọi nơi, cả những nơi kín nhiệm nhất trong tâm hồn con người.
Đọc Cựu Ước, chúng ta thấy Do Thái là một dân tộc kiêu hùng, vì họ luôn tự hãnh diện là một Dân Riêng Chúa tuyển chọn và được Chúa yêu thương cách đặc biệt. Do đó, có thể nói họ là một dân tộc cứng đầu cứng cổ. Mặc dầu Chúa vẫn tỏ ra là một Thiên Chúa đầy khoan dung và hay tha thứ; nhưng nhiều lần Ngài cũng đã phải minh chứng Ngài là một Thiên Chúa đầy uy quyền và công thẳng, trừng phạt cân xứng vì tội bất tuân, bỏ Ngài để tôn thờ ngẫu tượng tà thần của dân ngoại. Chẳng hạn truyện tổ phụ Maisen lên núi cầu nguyện và được Chúa trao cho bia đá khắc 10 giới luật của Chúa; khi trở lại với dân, thấy họ đang thờ cúng tượng bò vàng mà họ đã yêu cầu ông Aaron đúc cho họ, nên đã bị Chúa nổi cơn thịnh nộ trừng phạt họ; vì, Do Thái đã hiểu sai tinh thần luật Chúa, họ giữ luật do óc nô lệ sợ hãi, chứ không do lòng kính mến tuân giữ luật để làm hài lòng Ngài.
Chúa Kitô đến trần gian, Ngài khai mào một kỷ nguyên Tình Thương, đồng hóa lề luật với lòng thương xót, như trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa đã phán dạy: “Ai yêu mến Thầy, sẽ tuân giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy”. Trái lại: “Kẻ không yêu mến Thầy, thì cũng không tuân giữ lời Thầy truyền dạy” (Jn 14:23-24). Những ai tuân giữ lời Chúa, không những được Chúa Cha yêu thương, mà còn được Chúa Ba Ngôi đến lập cư trong linh hồn, biến người đó trở nên Đền Thờ sống động Chúa hiển ngự, nên Thiên Đàng Chúa ưa thích. Đó là vinh hạnh của chúng ta, một thụ tạo hèn mạt mà được Thiên Chúa, Đấng cao cả vô cùng hạ cố tới và còn lấy làm vui sướng hạnh phúc ngự trong tâm hồn chúng ta.
Để tỏ cho chúng ta thấy giáo lý của Chúa là Bác Ái, lề luật của Chúa là Tình Thương, nên nơi khác trong Tin Mừng, Chúa đã kêu gọi: “Các con hãy mang lấy ách của Cha, hãy học cùng Cha, vì Cha nhân từ và khiêm nhường trong lòng” (Mt.11:30). Chúa còn thêm: “Ách của Cha thì êm ái, gánh của Cha thì nhẹ nhàng” (Mt 11:30). Luật của Chúa sẽ trở nên ách êm ái và gánh nhẹ nhàng cho những ai yêu mến Chúa. Nhưng nếu thực sự khi nào chúng ta cảm thấy luật Chúa nặng nề, thì chính Chúa lại kêu gọi: “Nếu chúng con là những kẻ mệt nhọc vì gánh vác nặng nề, hãy đến, Cha sẽ nâng đỡ và bổ sức cho các con”. Ban lề luật cho chúng ta, không phải là Chúa bắt chúng ta phải chịu khổ cực, nhưng là vì muốn cho chúng ta được hạnh phúc. Luật lệ xã hội cũng chứng minh điều đó.
III. PHÚC CHO AI GIỮ LUẬT CHÚA
Nói đến lề luật, tự nhiên ai cũng cảm thấy là khó khăn, gò bó, khắt khe, là trừng phạt, là công bình; nhưng trái lại, những ai ý thức được giá trị đích thực của lề luật, thì phải chân nhận lề luật đáng yêu đáng qúi, vì lề luật đưa con người đến hạnh phúc. Chính vì thế mà Chúa đã ban lề luật cho chúng ta, để chúng ta được hạnh phúc. Chúa đã cầu phúc: “Phúc cho những ai suy ngắm và tuân giữ luật Chúa đêm ngày”.
Vinh dự và hạnh phúc của chúng ta được ngay ở đời này, là được chính Chúa Ba Ngôi yêu thương và ẩn ngự trong linh hồn, nếu chúng ta tuân giữ luật Chúa, có ơn nghĩa với Người. Được hưởng sự bình an hạnh phúc, thứ bình an hạnh phúc đích thực mà người tội lỗi không bao giờ được nếm hưởng, dầu họ có quyền uy thế lực, nhiều tiền lắm của tới đâu, họ cũng không bao giờ được hưởng. Chính Chúa đã quả quyết: “Thầy ban sự bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thứ bình an Thầy ban không phải là thứ bình an của thế gian ban tặng. Lòng các con đừng xao xuyến và sợ hãi”.
Chúa còn phán: “Những điều Thầy nói với các con bây giờ khi Thầy còn ở với các con; nhưng khi Đấng Phù Trợ là Thánh Thần sẽ được Cha nhân danh Thầy sai đến với các con, Ngài sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con”. Nếu chúng ta yêu mến và tuân giữ luật Chúa, có ơn nghĩa với Người, chắc chắn chúng ta sẽ luôn được Chúa Thánh Thần dạy dỗ, nhắc nhở, soi sáng qua tiếng lương tâm chân chính, để chúng ta biết làm điều thiện tránh điều ác. Chúa luôn soi sáng trí khôn, kích thích lòng muốn, tăng cường ý chí và lòng can đảm thực hiện điều Chúa muốn, để có nghị lực làm điều thiện tránh điều ác, đồng thời được Chúa cho hưởng nếm nguồn an bình hạnh phúc. Nhờ đó, chúng ta biết tuân giữ lề luật của Chúa cách dễ dàng, bằng tất cả tấm lòng yêu mến và tình con ngoan thảo, chỉ muốn làm hài lòng Cha nhân từ của mình.
Kết Luận
Xin Mẹ Maria giúp chúng ta được nếm hưởng nguồn an vui hạnh phúc của con cái Chúa, bằng việc tuân giữ lề luật của Người với lòng yêu mến, luôn làm hài lòng Chúa Ba Ngôi đang hiển ngự trong tâm hồn chúng ta. Đừng bao giờ xua đuổi Chúa ra khỏi tâm hồn chúng ta bằng cách chấp nhận tội lỗi, vong ân bội nghĩa với Chúa. Khi chu toàn được điều đó rồi, chúng ta không còn sợ hãi bất cứ điều gì và rồi có thể quả quyết được như Thánh Tông Đồ Phaolô: “Ai có thể làm tôi xa lià được tình yêu Chúa Kitô?” Thánh Nhân lại tự trả lời: “Không ai, không thụ tạo nào có thể làm tôi xa lià được tình yêu Chúa Kitô”.
Có người thợ giày ngày ngày vui vẻ ca hát. Lúc nào trẻ con trong xóm cũng đến ca hát với anh.
Đối diện với anh là một ông nhà giàu, suốt đêm lo đếm tiền, đến sáng mới ngủ nhưng không sao ngủ được vì tiếng hát ồn ào của thợ giày.
Ông mời ông thợ giày sang nhà, tặng anh môt túi đầy tiền vàng. Anh thợ giày mừng quýnh, đem về đếm cả ngày. Thấy đám trẻ đến nhìn, anh sợ chúng biết anh có nhiều tiền nên đuổi chúng đi.
Ban đêm anh sợ mất túi tiền, không dám ngủ rán thức canh giữ. Mòn mỏi quá, anh buộc lòng đem giấu, nhưng vẫn sợ mất, nên chỗi dậy giấu chỗ khác. Thế là anh không còn ca hát vui vẻ gì được nữa, đám trẻ xa lánh, đêm ngày anh càng gầy ốm xanh xao!
Thế là anh không chịu nổi nữa. Anh mang túi vàng trả lại cho ông nhà giàu. Từ đó anh lại vui vẻ thoải mái, ca hát với các trẻ hằng ngày. (Theo Wille Hoffsemmer).
Anh thợ giày dính bén tiền của, ham mê quá sinh ra rối lòng, từ đó ảnh hưởng đến tâm sinh lý; ăn không ngon, ngủ không yên, mất cả niềm vui thân thuộc, càng ngày càng suy thoái về tinh thần lẫn thể xác. May thay anh lại biết từ bỏ một đối tượng không lành mạnh để trở về cuộc sống an lành bình thường.
Phải chăng nhờ ảnh hưởng của Tin Mừng mà anh đã biết chỗi dậy không để cho của cải chi phối cuộc sống đến mức tai hại. Chúa đã nói rằng: “ Nếu tay ngươi làm cho ngươi vấp ngã, hãy chặt nó đi… Nếu chân ngươi làm cho ngươi vấp ngã, hãy chặt nó đi…. Nếu mắt ngươi làm cho ngươi vấp ngã, hãy khoét nó đi… (Mc.9,42-48)
Trong cuộc sống còn quá nhiều điều làm chúng ta mất bình an: Tội lỗi sinh ra rối lòng, mất tình yêu với Thiên Chúa, và khi xúc phạm đến tha nhân ta lại lỗi đức ái. Mỗi lần lỗi phạm chúng ta lại phải tái lập sự bình an trong tâm hồn, hoà giải với Thiên Chúa và tha nhân.
Ngoài tội lỗi ra những điều làm chúng ta mất bình an đó là đam mê thái quá. Những ham muốn ở đời này tự nó là tốt nếu đi trong lề lối của Thiên Chúa, nhưng ham mê quá độ đi vượt quá giới răn Chúa lại là thảm hoạ cho chính mình, cho tha nhân, cho xã hội. Cũng như anh thợ giày ham mê túi tiền vàng, thì ở đời này còn rất nhiều thứ làm cho người ta hấp dẫn. Chẳng hạn. Chúa ban cho loài người có nam có nữ để nâng đỡ nhau, bổ túc cho nhau và để tạo nên một hương thơm tình yêu tuyệt vời, nhưng khi sự hiện diện của chàng hay nàng chiếm đoạt tâm hồn đến ngày tưởng đêm mơ, nó bắt đầu đi đến phiền toái. Ham quá hoá ra tội lỗi, bệnh tương tư, thủ đoạn chiếm hữu, tệ hại nhất là bất chấp lề luật Chúa kể cả xung đột để được theo ý mình. Những chuyện đại loại như thế vẫn thường xảy ra trong cuộc sống thường ngày, ngay cả trong Kinh Thánh cũng không thiếu những chuyện giống như thế: Quan Pô-ti-pha mua Giuse từ chợ bầy bán nô lệ đem về nhà, thế mà đã lọt vào đôi mắt long lanh của bà vợ ông quan. Nàng dụ dỗ Giuse phạm tội:
– Anh nằm với em đi!
Từ xáo trộn nội tâm của nàng, làm rối rắm thêm cho tâm hồn Giuse, kèm theo bao tai hoạ khác nữa.
Trong con người chúng ta còn có rất nhiều đam mê không thể nào kể cho xiết, nếu chúng ta không tự chủ được, nó sẽ đảo lộn tâm hồn, làm mất bình an nội tâm. Chỉ có đường lối Thiên Chúa và ơn thánh của Ngài mới kìm hãm con người yếu đuối của ta được. Nếu chúng ta đi tìm tình yêu, thì hãy “ở lại trong tình yêu của Chúa” (Ga. 15,9). Nếu chúng ta đi tìm tiền của cũng là để dùng nó để mua chuộc nước trời mà thôi. Chúa Giêsu xuống thế làm người là để làm lại trật tự cho thế gian, đem bình an cho thế giới. Những trang đầu của sách Tin Mừng đã viết về lời chúc của Sứ thần khi Đấng Cứu Thế vừa mới ra đời:
“Vinh danh Chúa cả trên trời.
Bình an dưới thế cho người lòng ngay.” (Lc.2,14)
Nguồn bình an từ đó cứ tiếp tục chan chảy trên địa cầu, Ngài đến để xua đuổi mọi xáo trộn, đem lại niềm vui cho tâm hồn. Chính Đấng Cứu Thế sẽ đem lại phúc lộc bình an tuyệt vời nhất: “Lúc đó sự công chính nở rộ và bình an lớn lao tới khi mặt trăng khuất bóng”. (T.v. 72,7). Những ai thành tâm tìm kiếm Ngài sẽ tìm được yên vui. Các thánh Tông đồ là những vị theo sát chân Chúa nên đã được nếm hưởng nguồn ơn phúc bao la. Bình an của Chúa để lại cho các Tông đồ trước khi Ngài về trời không phải là lời bình an như phong tục người Do Thái chào chúc nhau mỗi khi từ giã, mà đây là sự trao ban bình an cho các Tông đồ: “Thầy ban cho chúng con sự bình an của Thầy” (Ga.14,27).
Hiệu quả ơn bình an của Chúa Giêsu rất dồi dào, các môn đệ không còn lo âu sợ hãi dù Thầy mình đã khuất bóng. Trái lại các môn đệ còn phải vui mừng vì Thầy mình đã hoàn tất sứ vụ Cứu độ ở trần gian, mang hào quang vinh thắng trở về với Chúa Cha. Hơn nữa các Ngài còn được Chúa Thánh Thần dẫn dắt, nhắc nhở những việc phải làm, ban ơn sức mạnh phi thường để các Ngài hăng say đi vào giữa lòng thế giới, đem Tin Mừng Cứu Độ cho muôn dân. Dù phải túng thiếu, xa xôi, vất vả, hiểm nguy, bắt bớ, đòn đánh, tù ngục, cuối cùng sẵn sàng chịu chết vì Đức Kitô và cho muôn thế hệ mai sau.
Vào một buổi chiều mùa đông, thánh Antôn đang quì cầu nguyện trong căn phòng nhỏ bé của mình, thì bỗng nghe thấy tiếng gõ cửa. Thánh nhân đứng dậy và ra mở cửa. Thấy một em bé có khuôn mặt sáng sủa đang đứng đó với chiếc bị trên vai. Thánh nhân liền hỏi:
– Em là ai?
Em bé trả lời:
– Ta là con của đức vua.
Thánh nhân hỏi tiếp:
– Vậy em từ đâu mà đến?
Em nói:
– Ta từ trời cao mà đến.
Thánh nhân tò mò:
– Thế em định tìm gì trên mặt đất này?
Em be chớp chớp đôi mắt và trả lời:
– Ta đi ăn xin tình yêu của loài người.
Em bé ấy chính Chúa Giêsu Hài đồng, đã hiện ra với thánh Antôn. Với chúng ta cũng vậy. Mặc dù Chúa Giêsu Hài đồng không hiện ra một cách cụ thể dưới hình ảnh một em bé với khuôn mặt sáng sủa và chiếc bị trên vai, nhưng Ngài hiện ra trong tâm hồn chúng ta. Ngài đang đứng đó và gõ cửa. Ngài chờ chúng ta đứng dậy và ra mở cửa để van xin chúng ta một tấm tình yêu. Ngài sẽ hỏi chúng ta như ngày xưa đã hỏi Phêrô:
– Con có yêu mến Thầy không?
Dĩ nhiên, chúng ta cũng sẽ hăng hái thưa lên với Chúa như Phêrô ngày xưa:
– Có chứ, con yêu mến Chúa là cái chắc.
Thế nhưng, chúng ta phải làm thế nào để biểu lộ được tình yêu chúng ta dành cho Chúa? May mắn thay, qua đoạn Tin mừng hôm nay, chính Ngài đã chỉ cho chúng ta một phương thế chắc chắn nhất và bảo đảm nhất. Ngài nói:
– Ai yêu mến Thầy thì tuân giữ những lời Thầy truyền dạy.
Thực vậy, có lần Ngài đã kể lại câu chuyện về một người cha có hai đứa con trai. Vào một buổi sáng đẹp trời, ông nói với đứa anh:
– Con hãy vác cuốc ra làm vườn nho cho cha.
Đứa anh vâng vâng dạ dạ, nhưng sau đó nó vào trong buồng và nằm ngủ miết. Ông lại nói với đứa em:
– Con hãy vác cuốc ra làm vườn nho cho cha.
Đứa em lúc đầu tỏ ra ngần ngại, nhưng sau đó nó đã vác cuốc ra vườn làm cỏ. Như thế, đứa em đã yêu thương cha nó hơn đứa anh. Một người con ngoan trong gia đình chắc chắn không phải là một đứa con vùng vằng cãi trả mỗi khi cha mẹ sai bảo điều gì, trái lại phải là một đứa con mai mắn, vui vẻ vâng lời cha mẹ. Đối với Chúa cũng vậy. Để yêu mến Chúa, chúng ta phải tuân giữ những điều Ngài truyền dạy.
Chúng ta có nhiều cách để nói lên tình yêu thương dành cho một người nào đó. Chẳng hạn khi yêu thương ai, chúng ta có thể cầu nguyện cho họ, nghĩ tốt về họ và thầm mong cho họ được nhiều may mắn. Thế nhưng, ý nghĩ và tư tưởng thì trừu tượng, khó mà kiển chứng. Chẳng hạn khi yêu thương ai, chúng ta có thể ca tụng họ và nói tốt về họ. Thế nhưng, lời nói nhiều khi trở thành bôi bác và giả hình. Tuy nhiên, có một phương tiện chắc chắn nhất để biểu lộ tình yêu thương, đó là việc làm. Đức tin không việc làm, thì chỉ là một đức tin đã chết. Tình yêu không việc làm thì cũng chỉ là một tình yêu đã chết mà thôi. Chúng ta không thể chỉ cho người khác thấy một tình yêu không việc làm. Trái lại, căn cứ vào những việc làm, người ta sẽ đánh giá được tình yêu thương của chúng ta. Và đối với Chúa, việc làm đẹp lòng Ngài hơn cả, chính là tuân giữ những điều Ngài truyền dạy.
Thiên Chúa đã cho mặt trời mọc lên để soi sáng và sưởi ấm, đã cho mưa xuống để ruộng đồng được xanh tươi. Thế nhưng, muốn có được cơm gạo, bác nông phu đã phải làm lụng vất vả suốt ngày dưới ánh nắng gay gắt. Cũng vậy, để được Chúa yêu thương, chúc phúc và cứu độ, chúng ta cần phải cộng tác với Ngài, ít nữa bằng cách tuân giữ những điều Ngài truyền dạy, bởi vì chính Ngài đã xác quyết với chúng ta qua đoạn Tin mừng hôm nay: Ai yêu mến Thầy, thì tuân giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy.
Thầy để lại bình an cho các con. Những lời chúc ấy thật là cần thiết và nâng đỡ, thoa dịu êm thắm lòng tôi.
Thật vậy, bình an Chúa hứa ban cho thật là cần thiết và an ủi, nhất là khi Người bảo chúng ta: “Đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi. Bình an Thầy ban cho anh em không phải như thế gian đã ban tặng…” Thật vậy, bình an của Chúa ban không phải là một thứ an tâm trong cám dỗ và thiếu xót, không phải là tránh lương tâm dưới áp lực của tội lỗi và tật xấu, không phải là đầu hàng để sống sai trái và bất công. Song bình an của Chúa là niềm hân hoan, vì tâm hồn được hòa giải với chính mình, với tha nhân và với Thiên Chúa. Dù có đau khổ trong tinh thần hay thân xác, cả những lo âu trăn trở thì những đau khổ, những lo âu ấy cũng được chấp nhận, chia sẻ, và nó có một giá trị với những đau khổ của Chúa như một chia sẻ của những khó khăn và thử thách đối với người mình yêu thương.
Để được hưởng sự bình an ấy, chúng ta cần sống hòa giải với Chúa, với tha nhân và với chính mình, nghĩa là không để tội lỗi làm mình bất nhân, bất nghĩa với Chúa. Không để lòng mình bị những khuấy động sôi sục vì những ghen ghét, vì những bon chen ước muốn quyền lực, danh vọng… Chúa ban bình an cho chúng ta là để chúng ta mang bình an của Ngài cho tha nhân, để chúng ta trở thành dụng cụ bình an của Chúa đối với người khác.
Như vậy, bình an của Chúa nói đây là một lời trăn trối cuối cùng của Ngài khi Ngài sắp ra đi chịu chết và cũng là bình an của niềm vui khi Ngài sống lại. Bình an đó là điều qaun trọng, vì đó là ơn của Chúa Thánh Thần ban, nó chính là hạnh phúc đích thật mà chúng ta đang tìm kiếm. Bình an đó Thiên Chúa còn muốn cho mọi người, cho mọi quốc gia trên thế giới đều được hưởng mà chúng ta gọi là hòa bình.
Hòa bình ấy trong bài giảng ngày 29.9.1979 Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nói: “Trong lịch sử nhân loại chưa bao giờ hòa bình được người ta tha thiết ước mong như ngày nay, nhưng rồi mỗi ngày người ta phải chứng kiến nó đang bị phá hoại và tiêu hủy, hòa bình là kết quả quan liêu, là thái độ tụ tập lại. Đó là những sản phẩm bận tâm về luân lý đạo đức của những nguyên tắc đạo đức dựa trên Phúc âm và được củng cố bởi Phúc âm”.
Hòa bình phải dựa trên con người, dựa trên ý thức bất khả xâm phạm của con người, dựa trên sự chấp nhận nguyên tắc bình đẳng giữa con người với con người, dựa trên tình huynh đệ lẫn nhau, sự kính trọng và yêu thương con người, chỉ vì tất cả con người là hình ảnh của Thiên Chúa.
Tình yêu như một điệp khúc, luôn được Chúa Giêsu lặp đi lặp lại, có thể có người cảm thấy nhàm vì nghe hoài, nghe mãi, nghe suốt năm phụng vụ, thậm chí nghe hằng ngày. Nghe mãi, thế mà chúng ta vẫn chẳng thực hiện được bao nhiêu, dù Thánh Gioan bảo: “Các điều răn của Người có nặng nề gì đâu” (1 Ga 5:3). Quả thật, Đạo Chúa chỉ là một chữ Yêu, rất ngắn gọn và đơn giản, ấy thế mà lại nhiêu khê, nhưng dù sao tình yêu vẫn luôn vĩ đại!
Thánh Angela Merici nói: “Muốn biết một người có nên giống Chúa Giêsu không thì phải coi họ sẽ chấp nhận sự khinh mạn sỉ nhục như thế nào”. Chúa Giêsu vẫn yêu cuồng si dù biết chúng ta phụ tình Ngài. Yêu là thế đó. Yêu không chỉ “chết trong lòng một ít” mà phải te tua và tơi tả, và “chết thật”. Chán lắm! Nhưng vẫn có những người thích… chán. Hầu như người đời không thể hiểu chữ “yêu” kiểu này!
Đại văn hào Victor Hugo đã từng xác định: “Chết cho tình yêu là sống trong tình yêu”. Kỳ lạ vô cùng. Chỉ ai đã từng yêu hết lòng thì mới khả dĩ hiểu được phần nào!
Sách Công vụ cho biết có những người từ miền Giuđê đến dạy thế này: “Nếu anh em không chịu phép cắt bì theo tục lệ Môsê thì anh em không thể được cứu độ” (Cv 15:1). Ông Phaolô và ông Banaba chống đối và tranh luận khá gay go với họ. Người ta bèn quyết định cử ông Phaolô, ông Banaba và một vài người khác lên Giêrusalem gặp các Tông Đồ và các kỳ mục để bàn về vấn đề đang tranh luận này.
Bấy giờ các Tông Đồ và các kỳ mục, cùng với toàn thể Hội Thánh, quyết định chọn mấy người trong các ông, để phái đi Antiôkhia với ông Phaolô và ông Banaba. Đó là ông Giuđa (biệt danh là Basaba) và ông Xila, những người có uy tín trong Hội Thánh. Họ trao cho phái đoàn bức thư này: “Chúng tôi nghe biết có một số người trong chúng tôi, không được chúng tôi uỷ nhiệm, mà lại đi nói những điều gây xáo trộn nơi anh em, làm anh em hoang mang. Vì thế, chúng tôi đã đồng tâm nhất trí quyết định chọn một số đại biểu, và phái họ đến với anh em, cùng với những người anh em thân mến của chúng tôi là ông Banaba và ông Phaolô, những người đã cống hiến cuộc đời vì danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Vậy chúng tôi cử ông Giuđa và ông Xila đến trình bày trực tiếp những điều viết sau đây: Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết này: kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết, và tránh gian dâm. Anh em cẩn thận tránh những điều đó là tốt rồi. Chúc anh em an mạnh” (Cv 13:24-29).
Phải cẩn trọng vì lời nói có thể làm hại người khác: “Nhất ngôn xuất, tứ mã nan truy”. Tác hại khôn lường vì cái lưỡi! Chắc hẳn chúng ta cũng đã biết điều này: “Luật vị nhân sinh, nhân sinh bất vị luật”. Luật phục vụ con người chứ con người không phục vụ luật. Có con người rồi mới phát sinh luật. Luật cũng cần thiết để giúp con người hoàn thiện, nhưng theo luật phải vì yêu mến thật lòng, chứ chỉ khư khư giữ luật vì luật mà không vì yêu mến thì hóa vô ích. Thánh Augustinô đã nói: “Cứ yêu đi, rồi muốn làm gì cũng được”. Người nào dám yêu thì không hề sợ bất cứ điều gì, kể cả cái chết, vì tình yêu còn mạnh hơn cả Tử Thần.
Yêu là đường của Chúa, yêu là luật của Chúa, yêu là chân lý của Chúa, yêu là niềm khao khát của Chúa, yêu là ước muốn vĩnh hằng của Chúa. Ai cũng phải không ngừng cầu xin: “Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài” (Tv 67:2-3). Đồng thời còn phải chân thành mong muốn: “Ước gì muôn nước reo hò mừng rỡ, vì Chúa cai trị cả hoàn cầu theo lẽ công minh, Người cai trị muôn nước theo đường chính trực và lãnh đạo muôn dân trên mặt đất này. Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa, chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài” (Tv 67:5-6).
Ước vọng đó là niềm khao khát khôn nguôi của những người tin vào Thiên Chúa, và cầu chúc cho nhau điều tốt lành nhất: “Nguyện Chúa Trời ban phúc lộc cho ta! Ước chi toàn cõi đất kính sợ Người!” (Tv 67:8).
Thánh trẻ Gioan là Tông Đồ của Tình Yêu, vì yêu mà ngài dám đứng dưới chân Thập Giá, được Chúa Giêsu trao phó Đức Mẹ. Thánh nhân kể về thị kiến: “Đang khi tôi xuất thần, thì người đem tôi lên một ngọn núi cao hùng vĩ, và chỉ cho tôi thấy Thành Thánh Giêrusalem từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, chói lọi vinh quang Thiên Chúa. Thành rực sáng tựa đá quý tuyệt vời, như ngọc thạch trong suốt tựa pha lê. Thành có tường rộng và cao, với mười hai cửa do mười hai thiên thần canh giữ, và trên các cửa có ghi tên mười hai chi tộc con cái Ítraen. Phía Đông có ba cửa, phía Bắc có ba cửa, phía Nam có ba cửa và phía Tây có ba cửa. Tường thành xây trên mười hai nền móng, trên đó có tên mười hai Tông Đồ của Con Chiên” (Kh 21:10-21).
Thánh Gioan cho biết thêm: “Trong thành, tôi không thấy có Đền Thờ, vì Đức Chúa, Thiên Chúa Toàn Năng, và Con Chiên là Đền Thờ của thành. Thành chẳng cần mặt trời mặt trăng chiếu sáng, vì đã có vinh quang Thiên Chúa toả rạng, và Con Chiên là ngọn đèn chiếu soi” (Kh 21:22-23). Thị kiến quá lạ lùng. Nhưng đó là những điều Chúa hứa ban cho những ai dám yêu Ngài hết lòng, hết sức, và hết trí khôn.
Một hôm, Tông Đồ Giuđa (gọi là Giuđa Nhiệt thành hoặc Tađêô, không phải Giuđa Ítcariốt) hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian?” (Ga 14:22). Nghe hỏi vậy, Đức Giêsu đáp ngay: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai không yêu mến Thầy thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy” (Ga 14:23-24). Một loạt các mối liên kết của tình yêu, như một đa giác có các cạnh và các góc không thể tách rời nhau – kể cả các đường trung tuyến hoặc đường cao. Một hệ lụy tất yếu!
Chúa Giêsu căn dặn các đệ tử: “Các điều đó, Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em. Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14:25-26). Ngài hứa ban Chúa Thánh Thần, vì Chúa Thánh Thần rất quan trọng trong đời sống. Đó là tặng phẩm vô giá mà Chúa Giêsu muốn dành cho mỗi chúng ta.
Chúa Giêsu hứa hẹn và động viên: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (Ga 14:27). Chúa Giêsu nói thêm: “Thầy ra đi và đến cùng anh em. Nếu anh em yêu mến Thầy thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy. Bây giờ, Thầy nói với anh em trước khi sự việc xảy ra, để khi xảy ra, anh em tin” (Ga 14:28-29).
Chúa Giêsu dạy chúng ta hai điều quan trọng. Thứ nhất về tình yêu: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13:34; Ga 15:12), như Thánh Phaolô cũng khuyến cáo điều tương tự: “Đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái” (Rm 13:8); thứ nhì về lòng can đảm: “Đừng sợ!” (Mt 10:26; Mt 10:28; Mt 10:31; Mt 14:27; Mt 17:7; Mt 28:5; Mt 28:10; Mc 5:36; Mc 6:50; Lc 1:13 & 30; Lc 2:0; Lc 5:10; Lc 12:4; Lc 12:7; Lc 12:32; Lc 21:9; Ga 6:20; Kh 1:17-18).
Hai điều này liên quan lẫn nhau: Yêu thì phải can đảm, nghĩa là không sợ, còn nếu sợ thì không thể yêu.
Lạy Thiên Chúa Tình Yêu, xin cho chúng con biết can đảm để có thể sống trọn tình yêu thương như Con Chúa. Xin Tình-Yêu-Chúa-Kitô-chịu-đóng-đinh biến đổi cuộc sống của mỗi chúng con nên hoàn thiện nhờ Hồng ân của Chúa Thánh Thần, để chúng con xứng đáng là những Kitô hữu đích thực. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô Phục Sinh, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
CHÚA THÁNH THẦN TIẾP NỐI CON ĐƯỜNG THƯƠNG XÓT
Trình thuật Tin Mừng hôm nay tiếp nối tuần trước trong bối cảnh bữa Tiệc Ly và nó nằm trong diễn từ ly biệt giữa Đức Giêsu và các môn đệ.
Trong diễn từ này, Đức Giêsu loan báo cuộc ra đi của Ngài bằng con đường thương xót theo ý Chúa Cha qua cái chết trên thập giá cho các môn đệ. Tuy nhiên, lời loan báo này đã làm cho các ông xao xuyến, hoang mang vì mất đi điểm tựa.
Nhưng, Đức Giêsu, nhân cơ hội này, đã giúp cho các ông hiểu rõ hơn về một cuộc hiện diện khác, cuộc hiện diện thần linh, nhiệm mầu.
Để cho sự hiện diện này được khăng khít, người môn đệ phải đi trên con đường của Thầy đã đi. Phải chung nhịp đập xót thương với Thầy. Chìa khóa để đi vào sự hiệp thông trọn vẹn ấy chính là yêu mến và tuân giữ Lời của Ngài.
Đây là con đường tình yêu của Thầy và trò. Đây cũng là đường thương xót để đến với tha nhân. Chúa Thánh Thần sẽ tiếp nối con đường xót thương ấy qua việc bào chữa, an ủi và trong vai trò khai trí mở lòng, nhằm giúp các ông hiểu tường tận những Lời Đức Giêsu đã dạy, để họ cũng thi hành cùng một hành vi xót thương đến với tha nhân như chính bản thân đã cảm nghiệm.
Tuân giữ Lời và thi hành là yêu mến cách trọn vẹn
Tin Mừng hôm nay, thánh sử Gioan đã khéo léo trình bày tâm trạng hỗn độn, hoang mang, sợ hãi của các môn đệ khi nghe tin Thầy của họ sắp sửa ra đi để chịu chết. Họ lo sợ bởi tính háo thắng, ham danh, muốn được ưu đãi, trọng thị, mong được hưởng những đặc quyền, đặc lợi theo kiểu trần gian…. những lý tưởng đó sắp bị tan thành mây khói.
Đến đây, chúng ta hiểu thêm một điều nữa, đó là: vì những lựa chọn rất tầm thường đó chỉ đạo tâm tưởng của các môn đệ, nên những điều Thầy của họ giảng cũng như những việc Ngài làm… đã không ăn nhập gì với mục đích cũng như chẳng giúp các ông nhận ra sứ vụ Thiên Sai, đầy thương xót của Đấng Cứu Thế!
Thấu hiểu tâm trạng và diễn biến tâm lý nơi các học trò, nhất là nỗi hãi vì sự liên lụy đến cái chết của mình, nên Đức Giêsu đã trấn an: “Đừng xao xuyến và buồn sầu” (Ga 14,27). Ngay sau đó, Ngài đưa ra một chỉ dẫn để giữa các ông và Ngài có một mối thông hiệp cách chặt chẽ: “Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy tuân giữ các giới răn của Thầy” (Ga 14,5). Việc tuân giữ và thi hành Lời của Thầy, ấy là thước đo chính xác và cụ thể nhất lòng yêu mến của các ông đối với Ngài. Đồng thời, khi tuân giữ Lời của Thầy, các ông sẽ hướng đích cuộc đời mình dưới cái nhìn sứ vụ. Như thế, giữa trăm chiều thử thách trông gai, và ngay cả cái chết, các ông vẫn vui mừng và sẵn sàng thốt lên: “Không có gì tách chúng tôi ra khỏi tình yêu của Đức Kitô”; và:“Đối với tôi sống là sống cho Đức Kitô và chết là một mối lợi”. Hơn nữa, khi yêu mến và giữ lời của Thầy, họ sẽ được hưởng trọn vẹn lòng thương xót, đến độ không còn gì có thể so sánh bằng, bởi nơi tình yêu ấy, có sự hiện diện và xót thương của cả Ba Ngôi Thiên Chúa: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, Chúng Ta sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23).
Chúa Thánh Thần tiếp nối con đường thương xót
Để cuộc đời và sứ vụ của các môn đệ sang một trang mới, nên ngoài việc Đức Giêsu chỉ cho các ông tuân giữ Lời của Ngài, thì việc loan báo về Chúa Thánh Thần trong vai trò là Đấng An Ủi, Bào Chữa… là điều hết sức quan trọng.
Vì thế, Đức Giêsu đã nói với các ông: “Thầy ra đi thì có lợi cho các con. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với các con; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với các con” (Ga 16,7).
Khi Chúa Thánh Thần đến, Người sẽ làm cho sự hiện diện của Thầy trò trong trạng thái “cách mặt, nhưng gần lòng”, bởi vì:“Đấng Bào Chữa là Thánh Thần sẽ dạy các con mọi điều và sẽ làm cho các con nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với các con” (Ga 14,26).
Thật vậy, như đã nói: nhiệm vụ của Chúa Thánh Thần là tiếp nối đường thương xót của Đức Giêsu trong vai trò dạy dỗ và nhắc lại những điều Đức Giêsu đã loan báo lúc tại thế. Khi nhắc cho các ông điều Đức Giêsu đã nói không phải chỉ là ôn lại, nhưng theo cách hiểu của Thánh Kinh là: khám phá ra ý nghĩa lời nói và cử chỉ của Đức Giêsu dưới ánh sáng của biến cố phục sinh. Qua việc tiên báo này, Đức Giêsu sẽ hiện diện trong Lời của Ngài cách cụ thể qua vai trò Trung Gian của Chúa Thánh Thần. Vì thế, mặc dù ra đi, nhưng lòng lại gần lòng hơn bao giờ hết, và các môn đệ không bao giờ bị cảnh mồ côi đơn chiếc, vì: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (x. Ga 14,18).
Để đảm bảo lời hứa, nhất là giúp cho các môn đệ được can đảm, trung thành đi đến cùng con đường thương xót mà Đức Giêsu muốn các ông tiếp bước trong lòng mến, nên Đức Giêsu hứa ban cho các ông sự bình an riêng của Ngài. Đây là sự bình an đặc biệt, bình an nội tâm, một sự bình an tuyệt hảo mà chỉ Thiên Chúa mới có và mới ban tặng cho chúng ta: “Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban cho các con bình an của Thầy, Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng” (Ga 14,27).
Lời dạy và những ân ban của Đức Giêsu cho các môn đệ trong bài Tin Mừng hôm nay, cũng là lời mời gọi và nhắc nhớ mỗi người chúng ta trong tư cách là người môn đệ của Đức Giêsu trong Giáo Hội của Ngài.
Sứ điệp Lời Chúa
Sống trong một xã hội đang bị đe dọa đủ thứ, nhất là sự xáo trộn về giá trị đạo đức trong mọi lãnh vực…! Ơn bình an đích thực dường như vắng bóng trong xã hội. Có lẽ con người không còn đủ niềm tin vào thực tại cuộc sống, bởi lẽ, sự “tử tế” gần như là một cái gì đó xa xỉ nếu không muốn nói là người ta không thích nhắc đến, bởi khi nhắc đến, họ sợ cái “bụng” bị đói!
Trong một môi trường “ô nhiễm” do nạn thượng tôn “ông chủ bụng” mà trà đạp lên sự “tử tế” như vậy, nhiều người muốn sống đàng hoàng cũng khó, bởi vì: “Thật thà, thẳng thắn thì thường thua thiệt”; “Gian tham lọc lừa lại lên lương”. Người ta coi: “Chân Lý và chân giò bằng nhau”; “Lương Tâm, lương thực và lương tháng cùng giá trị”!
Từ thực trạng trên, người nghèo trở thành đối tượng nhắm đến cho những nhu cầu bất chính nơi một số “Chủ nhân ông”. Từ đó gây nên sự bất an trong xã hội.
Nguyên nhân chính yếu đó là: họ đã không có lòng thương xót, đã tách Lời Chúa ra khỏi cuộc sống. Quan điểm: “Kính nhi viễn tri”; hay: “Mũ ni che tai” đối với Lời Chúa là điều mà nhiều người trong chúng ta chọn lựa.
Vì thế, họ sợ phải sống theo Lời Chúa dạy. Không dám đối diện với sự thật và lòng xót thương. Khước từ cũng như trối bỏ chân lý, nên không dám sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: hãy ngoan ngùy dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Luôn trung thành tuân giữ và yêu mến Lời Chúa. Đem Lời Chúa vào cuộc sống. Để Lời Chúa trở thành “khuôn vàng thước ngọc”; là “kim chỉ nam”, đem lại sự hợp nhất, yêu thương, tha thứ, biến đổi, nhất là sự bình an. Đây cũng là dấu chỉ của người đang đi trong đường lối thương xót của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến và làm cho tâm hồn chúng con nóng lên ngọn lửa yêu mến Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm. Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Trong cuộc sống, mỗi lần gặp nhau, chúng ta thường hay hỏi: “anh hay chị có bình an không?” Hay trước khi ra về, người ta cũng thường hay chúc nhau “về bình an nhé”… Khi lên đường khởi đầu một chuyến hành trình nào đó, ta cũng mong sao chuyến lữ hành của mình được bình an.
Ngày xưa, người Sêmít cũng có thói quen chào người sắp đi rằng: “ông; bà…hãy đi bình an” (x. 1 Sm 1,17; 20,42; 29,7). Ngày nay, người Arập cũng còn chào như vậy. Còn người Do thái thì rút gọn hơn khi nói: “Bình an” mà thôi.
Như vậy, hai chữ “bình an” là điều mà mọi người đều mong muốn. Tuy nhiên, mỗi người hiểu về bình an dưới những lăng kính khác nhau. Các tôn giáo cũng mặc cho nó một ý nghĩa riêng biệt theo giáo lý của tôn phái mình. Bình an mà hôm nay Đức Giêsu trao ban cho các môn đệ không phải là thứ bình an như người đời vẫn hiểu: “Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban cho các con bình an của Thầy, Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng” (Ga 14,27).
Vậy bình an theo kiểu thế gian ban tặng là gì? Và bình an của Đức Giêsu trao ban là sao? Chúng ta cùng nhau tìm hiểu:
Trong kinh nghiệm tự nhiên của con người, đói khát, mất quyền lực, thất bại, bất an hay sự chết là điều làm cho con người luôn sợ hãi và mất bình an. Đỉnh cao của nỗi sợ đó chính là sợ mất sự sống. Chính vì vậy, người ta đều mong muốn được an vui và hạnh phúc, tức là ơn bình an. Tuy nhiên, bình an mà Đức Giêsu trao ban cho các môn đệ là một thứ bình an đặc biệt. Đặc biệt vì không phải theo kiểu người đời, mà theo thánh ý Chúa.
Hằng ngày, chúng ta vẫn thường thấy tại các công trường hay những nơi xây dựng, người ta căng những băng rôn có nội dung như: “an toàn là trên hết”; “an toàn là bạn – tai nạn là thù”. Qua những biểu ngữ đó, người ta mong sao cho công việc lao động, xây dựng của họ được an toàn. Ở đây, bình an chính là không xảy ra tai nạn trong khi lao động.
Khi tham gia giao thông, chúng ta, ai ai cũng đều mong muốn không bị đụng xe, cướp giật, mong đi đến nơi về đến chốn an toàn. Ở đây, bình an là không có chuyện bất trắc xảy đến.
Rồi, trong cuộc sống, lúc còn trẻ, ai cũng mong muốn được đáp ứng những nhu cầu về tiền bạc, quần áo… khi lớn lên một chút thì mong được thi cử đỗ đạt, nghề nghệp ổn định, lấy vợ gả chồng được vừa ý. Khi đã ngoài 50 tuổi, ai chẳng muốn con cái ngoan hiền, ổn định. Và, khi đã đến tuổi xế bóng, cái tuổi chân yếu tay mềm, “thất thập cổ lai hy” thì lại mong con cái hiếu thảo, không phải tất bật lo toan những chuyện như: cơm – áo – gạo – tiền nữa. Cuối cùng, cuộc đời an nhàn thư thái là điều mà ai trong chúng ta lại không mơ về nó?.
Bài Tin Mừng hôm nay trình thuật lại cho chúng ta về phần cuối của cuộc diễn từ ly biệt giữa Đức Giêsu và các môn đệ. Trong lúc chuẩn bị Thầy trò chia tay nhau để Ngài lên đường chịu chết, chuộc tội cho thiên hạ. Vì thế, Đức Giêsu đã để lại cho các ông một gia sản quý giá hơn hết mọi thứ, đó chính là sự bình an. Ngài không nói: “Anh em hãy ở lại bình an”, mà nói: “Thầy để lại bình an cho anh em. Thầy ban cho anh em bình an của Thầy”.
Bình an của Đức Giêsu trao tặng cho các môn đệ không chỉ dừng lại ở việc an toàn về mặt thể xác, mà còn đi xa hơn để đạt được thứ bình an trong sâu thẳm trong tâm hồn. Bình an này hướng người ta về mầu nhiệm cách chung, nhiệm cục cứu độ.
Đức Giêsu chính nội dung của bình an; hay nói cách khác: Ngài chính là nguồn bình an, Ngài ban cho các ông chính bình an của Ngài.
Khi Đức Giêsu trao ban bình an cho các môn đệ, Ngài cũng muốn mời gọi mỗi người chúng ta sống đặc tính của ơn bình an. Đặc tính đó là đón nhận chính nguồn ơn cứu độ và đi vào sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa là nguồn cội của bình an.
Sống trong đặc tính ơn bình an của Chúa còn là ở lại trong sự quan phòng của Ngài: “…Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc […] Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh em có thể nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang không?…” (Mt 6, 25-29).
Tiếp theo, đặc tính của ơn bình an mang tính siêu việt, quy hướng về Quê Trời: “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, nơi kẻ trộm khoét vách và lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, nơi trộm cắp không đào ngạch và lấy đi được” (Mt 6, 19-21).
Cuối cùng, đặc tính này mời gọi chúng ta yêu thương nhau. Khi đã có Chúa là nguồn bình an. Có Chúa là tất cả, chúng ta cũng phải biết yêu thương nhau và sống đức công bằng. Hành vi này đã được Dakêu cảm nghiệm và diễn tả thật sâu sắc. Chuyện kể rằng: một hôm, Đức Giêsu vào thăm nhà một người thu thuế tên là Dakêu. Ngài ở lại đó dùng bữa chung với gia đình ông. Sự hiện diện của Ngài làm ông rất cảm động. Những cử chỉ của Đức Giêsu được kể là một sự chúc bình an cho gia đình ông. Được ơn bình an đó, ông Dakêu tự nhiên không những cảm mến Đức Giêsu, mà còn cảm thấy có trách nhiệm yêu thương đồng bào mình. Để cụ thể hoá lòng thương yêu đó, ông thưa với Đức Giêsu rằng: “Này đây, phân nửa tài sản của tôi, tôi xin phân phát cho người nghèo. Và nếu tôi đã làm hại ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn” (Lc 19,8).
Như vậy, bình an mà Đức Giêsu ban tặng cho các môn đệ chính là bình an nội tâm. Bình an tuyệt đối. Bình an vượt xa lối hiểu của con người.
Đón nhận sự bình an của Chúa cũng chính là đón nhận chính Chúa, bởi vì Chúa là nguồn bình an (x. Ga 4,8,16; Rm 16,20).
Sống đặc tính của ơn bình an cũng chính là đi vào sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa và tin tưởng phó thác vào Ngài. Và, khi đã có Chúa trong cuộc đời thì cũng phải biết đem Chúa đến cho người khác bằng những cử chỉ yêu thương, thân thiện và sống đức công bằng.
Mong sao lời chào chúc bình an trong mỗi thánh lễ: “Bình an của Chúa ở cùng anh chị em” luôn ngự trị trong tâm hồn mỗi chúng ta, để tâm hồn chúng ta luôn được bình an và được hưởng ơn cứu độ.
Lạy Chúa, Chúa là nguồn bình an, xin ban bình an của Chúa xuống trên chúng con như xưa kia Chúa đã trao ban cho các môn đệ. Xin cho con được sống ơn bình an đó một cách sâu xa, để tận sâu thẳm tâm hồn, chúng con an vui hạnh phúc vì có bình an của Chúa ở cùng. Amen.
Jos. Vinc. Ngọc Biển
THỨ HAI (Ga 15,26 – 16,4)
Loan báo là làm chứng
Trong Thông điệp “Evangelii Nuntiandi”, Đức Thánh Cha Phaolô VI đã để lại cho chúng ta một phương châm thực hành như sau: “Người thời nay sẵn sàng nghe những chứng nhân hơn là thầy dạy và người ta có nghe theo thầy dạy là vì thầy dạy cũng là chứng nhân” (Thông điệp “Evangelii Nuntiandi” số 41).
Bài trình thuật Tin Mừng hôm nay cho thấy: Đức Giêsu trước khi trở về với Chúa Cha, Ngài đã giới thiệu Chúa Thánh Thần là Thần Chân Lý, là Đấng Bảo Trợ sẽ đến với các môn đệ.
Khi giới thiệu Chúa Thánh Thần như thế, Đức Giêsu muốn nhắc cho các môn đệ rằng: khi Chúa Thánh Thần đến, Người sẽ làm chứng và giúp các ông hiểu được tất cả những gì Đức Giêsu đã làm và những lời Ngài đã dạy trước đó. Mặt khác, Chúa Thánh Thần sẽ ban ơn phù trợ, để các ông can đảm làm chứng và sẵn sàng đón nhận tất cả mọi khổ đau vì Đức Giêsu.
Thật vậy, nếu không có Chúa Thánh Thần, các môn đệ vẫn là những con người khờ dại, kém tin và sợ sệt thủa nào. Tuy nhiên, khi đón nhận Chúa Thánh Thần, các ông trở nên những người can đảm, uyên thâm, mạnh mẽ và dám chấp nhận tất cả, kể cả cái chết để làm chứng cho điều mình loan báo là có thật, đáng tin. Các ông đã thực hiện lời nói đi đôi với hành động.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy ngoan ngùy dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Sẵn sàng can đảm loan báo lời Chân Lý, chấp nhận mọi thử thách đau thương để Lời Chúa được lan rộng khắp nơi. Tin và sống dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần còn là một lời mời gọi chúng ta từ bỏ con đường, cách sống và hành vi cũ, chấp nhận lột xác, trở nên con người mới để được biến đổi như các môn đệ khi xưa.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban Chúa Thánh Thần trên chúng con. Xin cho chúng con được ơn biến đổi. Can đảm làm chứng và loan báo Lời Chân Lý của Chúa đến với muôn dân. Amen.
THỨ BA (Ga 16, 4b-11)
Sứ mạng của Chúa Thánh Thần
Các nhà tu đức thường đưa ra lời mời gọi đến mỗi người tín hữu là: mỗi tối, hãy dành ra ít phút, lắng đọng trước nhan Thiên Chúa để hồi tâm. Tại sao vậy? Thưa, hồi tâm là một phương pháp rất có ích cho đời sống thiêng liêng, nó giúp cho đương sự nhớ lại những điều tốt – xấu đã làm trong ngày. Tốt thì phát huy, xấu thì loại trừ. Các thánh là những người đã đi theo con đường này.
Hôm nay, Đức Giêsu loan báo Ngài sẽ ra đi, nhưng Ngài sẽ gửi Chúa Thánh Thần đến để làm chứng cho Ngài, và Chúa Thánh Thần sẽ đến để thực thi sứ vụ là tố cáo thế gian vì đã không tin nhận Đức Giêsu. Người cũng tố cáo những điều sai lỗi mà thế gian đã làm.
Nói cách khác, Người đến làm cho Lời của Đức Giêsu được bừng sáng lên, đồng thời cũng làm cho sự xấu xa, tội lỗi bị lên án.
Ngày nay, qua tiếng nói Lương Tâm và nơi các dấu chỉ, Chúa Thánh Thần vẫn đang hoạt động và thúc dục mỗi người biết làm lành, lánh dữ. Tuy nhiên, vì còn mang nặng tính tự kiêu, ích kỷ và bảo thủ, nên nhiều khi chúng ta đã bỏ qua tiếng nói của Lương Tâm, không đón nhận Chúa Thánh Thần vì lý do sợ Chân lý, sợ Sự Thật. Như thế, đôi khi vẫn cứ đi sai đường trệch lối mà không biết, nhưng cũng không thiếu những lúc ta cố tình không chịu biến đổi, dẫu biết điều đó là không đúng, là sai.
Vì thế, việc hồi tâm là điều cần thiết. Bởi lẽ, trong thinh lặng nội tâm, Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta biết được đâu là điều tốt nên làm và đâu là điều xấu cần tránh.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy chiếu soi ngọn lửa Chân Lý vào trong tâm hồn chúng con, để chúng con cam đảm quay lưng lại với điều xấu. Xin cũng giúp sức cho chúng con biết can đảm, yêu mến, lựa chọn những điều tốt và làm theo. Amen.
THỨ TƯ (Ga 16, 12-15)
Sự thật sẽ giải thoát chúng ta
Ngày nay, con người khao khát sự thật biết là chừng nào! Tuy nhiên, con người cũng rất sợ sự thật và ngại khi nghĩ hay nói về nó???
Khao khát, bởi vì chỉ có sự thật chân tình, người ta mới có thể ngồi lại với nhau, mới có thể cùng nhau giải quyết vấn đề cho tốt.
Người ta sợ sự thật, bởi vì sự thật sẽ làm cho những người ưa sống hình thức, hào nhoáng, giả tạo bị phanh phui, bóc trần.
Người ta ngại sự thật, bởi vì khi đối diện với sự thật, họ phải thay đổ lối sống và cách nghĩ.
Tuy nhiên, cái khó là: nhiều khi không biết đâu là thật, đâu là giả, nên có những sự kiện tưởng chừng như là thật thì lại là giả; đôi khi cái tưởng là giả thì hóa ra lại là thật.
Hôm nay, Đức Giêsu giới thiệu cho các môn đệ biết Chúa Thánh Thần chính là Đấng sẽ giúp cho các ông biết đâu là sự thật trong mầu nhiệm cứu độ, để các ông cứ theo sự hướng dẫn của Người mà tiến bước thì sẽ được cứu độ.
Cuộc đời của Đức Giêsu đã hoàn toàn đứng về phía sự thật, và Ngài không ngần ngại tuyên bố: “Tôi đến trong thế gian để làm chứng cho sự thật. Chính vì điều này mà tôi đã đến”. Ngài cũng kêu gọi: “Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”. Chính vì thế, từ ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các môn đệ, các ông mới hiểu đúng sứ mạng của Đức Giêsu là: đến để cứu chuộc chứ không phải vì chính trị!
Trong cuộc sống thường ngày của chúng ta, nhiều khi cũng chẳng khác gì các môn đệ khi xưa. Có những lúc chúng ta uốn nắn Lời Chúa và phỏng chiếu dưới cái nhìn thiển cận của mình. Lấy Lời Chúa làm bình phong để hỗ trợ cho sự gian dối hay những mục đích phần xác hơn là phần hồn. Những lúc như thế, ấy là lúc chúng ta không đứng về phía sự thật và không sống dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Mong sao, ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Thêm Sức, chúng ta đón nhận Chúa Thánh Thần thật dồi dào, phong phú. Đây là một hồng ân, và cũng là trách nhiệm đòi chúng ta phải đứng về phía sự thật, làm chứng cho sự thật, dầu có phải chết.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin giúp chúng con can đảm lựa chọn sự thật và trung thành đi theo sự thật, vì chỉ có sự thật mới giải thoát chúng con. Amen.
THỨ NĂM (Ga 16, 16-20)
Chúa luôn yêu ta
Có một câu chuyện kể rằng: đêm nọ, có một người thấy giấc mơ lạ. Anh ta thấy mình đang đi trên bãi biển với Chúa. Những lúc vui, thành công, anh thấy có hai đôi chân in trên cát, một của Chúa và một của anh. Nhưng những lúc anh gặp khó khăn, đau buồn thì khi nhìn lại, anh chỉ còn thấy một đôi chân!
Anh trách Chúa rằng: “Tại sao những lúc khó khăn, thất bại, Chúa lại bỏ con?” Chúa trả lời: “Ta không bỏ con đâu, vì những lúc đó, Ta đã cõng con trên vai, vì thế, con chỉ còn thấy có một đôi chân của Ta nữa mà thôi’”.
Hôm nay, các môn đệ biết Đức Giêsu sắp rời xa mình, nên các ông buồn sầu và lo lắng! Nhưng Đức Giêsu đã trấn an các ông và báo cho các ông về sự xuất hiện của Chúa Thánh Thần. Đây là niềm vui vô cùng to lớn, bởi vì nhờ Người, mà các ông hiểu được con người, lời giảng dạy và sứ vụ của Đức Giêsu đúng theo chương trình và ý định của Thiên Chúa Cha. Như vậy, sự ra đi của Đức Giêsu sẽ đem lại cho các môn đệ niềm vui trọn vẹn qua Chúa Thánh Thần.
Trong đời sống đức tin của mình, nhiều khi chúng ta cũng cảm thấy Chúa như xa dần chúng ta! Nhất là khi túng ngặt về kinh tế hay đau yếu bệnh tật, bị hiểu lầm, vu vạ cáo gian hay cô đơn… Nhưng qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta vững tin rằng, Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Thật vậy, những khi ta rối trí ngã lòng và cảm thấy lạc lõng, chúng ta hãy tin tưởng rằng: lúc đó chúng ta đang được Chúa bồng ẵm trên tay, để chỉ còn có một đôi chân của Chúa mà thôi.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con vững tin vào Chúa, dù cuộc đời lắm nỗi khổ đau. Xin cho chúng con hiểu rằng, những lúc đó Chúa đang gần chúng con hơn cả, và xin cho chúng con được gần Ngài nhờ niềm tin. Amen.
THỨ SÁU (Ga 16, 20-23)
Niềm vui trọn vẹn
Một người phụ nữ đang mang thai, bà ta sẽ rất sợ hãi khi biết sắp đến giờ bà sinh. Bà thấu được những cơn đau dữ dội, xé lòng mà mình sẽ phải gánh chịu! Tuy nhiên, niềm vui khôn tả sẽ ập đến với bà khi mắt bà nhìn thấy đứa con của mình cất tiếng khóc chào đời.
Thấy được tâm trạng các môn đệ đang hoang mang lo lắng vì sắp phải lìa xa mình, Đức Giêsu đã trấn an các ông và vén mở cho các ông thấy niềm vui sẽ nên trọn: “Bây giờ anh em lo buồn, nhưng Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em không ai lấy mất được”.
Trong đời sống đức tin của chúng ta, cũng có những lúc đi trong đêm tối của cô đơn, ốm đau, bệnh tật. Những lúc đó, chúng ta chán nản và muốn buông xuôi. Nhưng như bà mẹ mệt nhọc lúc mang thai và đau đớn khi sinh hạ, sau đó, bà sẽ vui mừng khi thấy con mình chào đời. Hình ảnh này cũng là hình ảnh của cuộc đời đức tin nơi chúng ta.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cần có cái nhìn của đức tin và hy vọng trong nguồn ơn cứu độ, bởi vì: sau khi mưa trời lại sáng; thất bại là mẹ thành công; và nếu ta cùng chết với Đức Giêsu thì cũng được cùng Ngài sống lại trong vinh quang.
Lạy Chúa Giêsu , xin cho chúng con biết đón nhận những đau khổ, chấp nhận hy sinh, để từ đó, một ngày kia, chúng con được chan chứa niềm vui vì thập giá sẽ nở hoa cứu độ. Amen.
THỨ BẨY (Ga 16, 23b-28)
Nhân danh Thầy thì sẽ được nhận lời
Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta cũng có kinh nghiệm về sự bất toàn của mình, cũng như sự giới hạn về uy tín. Vì thế, có những điều chúng ta muốn mà không được và phải cần đến một trung gian làm cầu nối cho mình.
Hôm nay Đức Giêsu mặc khải cho các môn đệ về vai trò của Ngài trong mối tương quan với Thiên Chúa Cha, và Ngài hứa cho những ai nhân danh Ngài mà xin cùng Thiên Chúa Cha thì Người sẽ ban cho như ý. Đây là cách nhấn mạnh và cụ thể, rõ ràng, chứ thực ra, đã có lần Đức Giêsu nói: “Ta là đường, là sự thật và là sự sống”; hay: “Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6).
Tại sao hôm nay Đức Giêsu lại dạy các môn đệ chi tiết và cụ thể đến như vậy? Thưa là bởi vì trước kia, khi Đức Giêsu còn ở với các ông, diện đối diện, nên việc cầu xin nhân danh Đức Giêsu là điều mà ít ai nghĩ tới. Tuy nhiên, sau khi đã hoàn tất công cuộc cứu chuộc qua cái chết, Đức Giêsu sẽ về với Chúa Cha, và như vậy, Ngài đảm nhận vai trò Trung Gian giữa con người với Thiên Chúa Cha cách đắc lực và hiệu quả. Vì thế, Ngài mới nhắn nhủ các môn đệ hãy nhân danh Ngài mà xin với Chúa Cha thì sẽ được như ý.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy nhân danh Đức Giêsu để dâng lên Thiên Chúa Cha những nhu cầu và ước nguyện của mình. Khi chúng ta nhân danh Ngài mà cầu xin, ấy là chúng ta tôn nhận vai trò Trung Gian và công nghiệp cứu chuộc của Đức Giêsu.
Mặt khác, khi nhân danh Đức Giêsu để cầu xin, ấy là lúc chính Ngài hiện diện và hành động trong ta, làm cho lời cầu nguyện trở thành hiện thực.
Mong sao mỗi khi chúng ta nhân danh Đức Giêsu để xin điều gì với Chúa Cha, chúng ta hãy biểu lộ thái độ khiêm tốn, kết hiệp và sẵn sàng thuần phục ý Chúa hơn là ý ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con luôn biết kết hợp với Chúa trong lời cầu nguyện, để nhờ Ngài, trong Ngài và với Ngài, những lời cầu nguyện của chúng con được Chúa Cha thương nhận lời và chúc phúc. Amen.
Cách đây khoảng năm, mười năm tại Manila này, hầu như mọi người lớn tuổi cũng như giới trẻ, ai ai cũng nói đến truyện phim khoa học giả tưởng có tựa đề là “Người ngoài hành tinh trái đất”. Với dung mạo kỳ dị khác mọi người trong trái đất này, nhưng lại có một tâm hồn hiền lành, tràn đầy tình yêu thương. Người ngoài hành tinh này bị đi lạc vào trái đất, và những con người mà người hành tinh được dịp tiếp xúc trên mặt đất này đều tỏ ra nghi kỵ, lo sợ, không hiểu và không chấp nhận những cử chỉ yêu thương của người hành tinh, chỉ có một em bé xem ra như đã vượt qua được sự ngăn cách, cảm thông được với người ngoài hành tinh. Nhưng sự cảm thông này cũng không đủ để giữ người ngoài hành tinh này ở lại trái đất, và người ngoài hành tinh sẽ tìm mọi cách để trở về với thế giới của mình, thế giới ở bên kia, khác với thế giới con người.
Truyện phim khoa học giả tưởng này có thể gợi ý cho chúng ta phần nào để lĩnh hội sứ điệp của Chúa Giêsu được nhắc đến trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu một cách nào đó có thể được so sánh như một người ngoài hành tinh, ngoài trái đất này. Ngài là Ngôi Lời Thiên Chúa, sống trong thế giới khác biệt với thế giới chúng ta, một thế giới của Thiên Chúa Ba Ngôi từ cõi đời đời, thế giới của tình yêu thương, của sự hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa. Nhưng khác với người hành tinh, Chúa Giêsu Con Thiên Chúa đã không bị đi lạc vào trong thế giới của chúng ta, nhưng Ngài đã cố ý đến với thế giới chúng ta, trở thành con người như chúng ta để cứu rỗi chúng ta, biến chúng ta trở thành giống Người nhiều hơn, sống sự sống của Người trong yêu thương. Trọn cả cuộc đời của Ngài trên trần gian là để dạy sứ điệp tình thương.
Người ngoài hành tinh rời trái đất trở về thế giới khác, để lại cậu bé trong niềm luyến tiếc, vì em bé này biết rằng mình vĩnh viễn sẽ không bao giờ gặp lại người bạn tốt này nữa. Chúa Giêsu thì lại khác, Ngài từ giã các tông đồ để trở về lại cùng Thiên Chúa Cha không phải để vĩnh viễn xa chúng ta luôn mãi, nhưng là để dọn chỗ cho chúng ta. Nơi Ngài đi chúng ta cũng sẽ tới, nếu chúng ta chấp nhận cuộc sống của Ngài, đó là cuộc sống yêu thương như Ngài đã dạy. Ngài biết chúng ta đã được dựng nên bằng gì? Có những yếu đuối như thế nào? Người đã không giảng dậy xuông mà còn thực hiện qua hành động cụ thể để ban cho chúng ta chính sức mạnh của Người, đó là ban Chúa Thánh Thần để hiện diện và hướng dẫn chúng ta luôn mãi. Ngài chỉ nài nỉ một điều duy nhất là hãy ở lại trong tình yêu Ngài, hãy duy trì sự hiệp nhất với Ngài.
Giữa thế giới của người ngoài hành tinh và thế giới của chúng ta không có sự liên lạc nào là hoàn toàn xa cách và người ngoài hành tinh hãy trở về lại với thế giới của mình. Thế giới của Thiên Chúa tuy khác với thế giới của mỗi người chúng ta, nhưng không hoàn toàn cách biệt, vì giữa hai thế giới này có sự liên hệ mật thiết với nhau và mỗi người chúng ta có thể bước vào trong thế giới của Chúa, nếu chúng ta chấp nhận sống giống như Chúa, sống kết hiệp với Chúa, chu toàn giới răn yêu thương của Chúa.
Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta được ơn khiêm tốn đủ để đón nhận lời dạy của Chúa và xin Ngài cũng ban cho chúng ta được ơn can đảm để sống những gì Chúa truyền dạy. Chúng ta đừng chỉ đứng nhìn trời, chỉ mơ ước Thiên Chúa làm mọi sự cho chúng ta hưởng dùng, nhưng hãy nhìn vào anh chị em xung quanh, hãy nhìn vào thế giới chúng ta đang sống với muôn vàn thử thách với tâm hồn tràn đầy xác tín, tuân phục giáo huấn của Chúa, tràn đầy tình thương và sức mạnh của Ngài để thực thi giáo huấn của Ngài.
Đây là cách hữu hiệu nhất để chúng ta bước vào trong thế giới của Thiên Chúa, bước vào Nước Chúa trong hiện tại, ngay bây giờ và trong tương lai vĩnh cửu của nước hằng sống. Xin Chúa thương ban cho mỗi người chúng ta được ơn bước vào trong thế giới của Chúa. Xin Chúa thương nâng đỡ sự dấn thân của chúng ta và nâng đỡ đức tin của chúng ta mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
Trong khi đó, sự bình an của Chúa vượt trên thứ bình an thông thường, bởi nó không hệ tại ở bình diện vật chất, thể lý hay bình diện tâm lý, mà hệ tại ởviệc nhận ra chân lý, nhận ra sự thật và sống theo chân lý, sự thật đó. Theo thánh Gioan, sự Thật là gì, thưa đó chính là Thiên Chúa, là Đức Giêsu (x.Ga 14,6) và những gì xuất phát từ Ngài (x.Ga 3,21; 4,24; 8,40…). Khi chúng ta tin nhận sự hiện diện của ThiênChúa trong cuộc đời mình, khi chúng ta luôn sống trong sự gắn bó với Chúa và thực thi thánh ý của Ngài, thì lòng chúng ta chẳng còn xao xuyến, chẳng còn lo toan dù trước những thăng trầm của cuộc sống. Cho dù không dư dả gì, cho dù cái chết có kề cận… bởi vì hoàn toàn tin tưởng vào Chúa quan phòng.
Câu chuyện có thật sau đây mà tôi đọc được trong một bài chia sẻ, xin ghi lại để chúng ta cùng suy nghĩ thế nào là bình an thật do Chúa ban: Tháng 7 năm 1972 sau những tháng dài bị tra tấn trong trại lính, nơi cha Vania thi hành nghĩa vụ linh mục, ngài đã gục ngã dưới làn mưa đạn. Trong lá thư cuối cùng ngài viết cho cha mẹ già có những dòng sau đây:”Cha mẹ yêu dấu! Thiên Chúa đã chỉ cho con một con đường phải theo. Con không chắc có thể còn sống được để trở về với cha mẹ nữa hay không, bởi vì những cuộc tra tấn lúc này dã man hơn trước kia rất nhiều. Thế nhưng con không lo sợ, vì có Chúa ở cùng con. Xin cha mẹ cứ an tâm, đừng lo lắng cũng đừng buồn phiền về số phận của con nữa. Lúc này con yếu và kiệt sức lắm rồi. Con xin chào thăm cha mẹ trong tình yêu Chúa Kitô và trong sự bình an của Thiên Chúa Cha. Người ta cấm cản con không được rao giảng về Chúa Kitô nữa, và con phải trải qua nhiều thử thách…”
Đời sống tốt đẹp của người Kitô hữu là một trong những biểu hiện rất rõ nét cho sự hiện diện và bình an của Chúa.
Nếu có một người nào đó hỏi chúng ta: “Ông bà, anh chị có yêu mến Chúa không?”. Chắc chắn ai trong chúng ta cũng trả lời được ngay. Không những trả lời được mà còn cho người đó hỏi một câu dư thừa, vớ vẩn. Nhưng nếu người đó hỏi thêm một câu nữa: “Làm sao ông bà, anh chị biết được mình yêu mến Chúa, hay dựa vào bằng chứng nào để tôi biết được ông bà, anh chị yêu mến Chúa?”. Câu hỏi này anh chị em trả lời được không? Dĩ nhiên là được. Nhưng có lẽ sẽ có nhiều câu trả lời khác nhau.
Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã trả lời thay cho chúng ta, Chúa đã chỉ dạy cho chúng ta một dấu hiệu, một bằng chứng, đó là chúng ta tuân giữ lời Chúa hay không?: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy… Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy”. Một câu Kinh Thánh đó thôi đủ định nghĩa thế nào là người yêu mến Chúa, nghĩa là dấu hiệu hay bằng chứng để chúng ta biết được hay người khác biết được chúng ta yêu mến Chúa là chúng ta tuân giữ lời Chúa. Và đây cũng là thước đo lòng yêu mến của chúng ta đối với Chúa nhiều hay ít, đó là chúng ta tuân giữ lời Chúa nhiều hay ít. Sau đây chúng ta hãy tìm hiểu xem: Chúa bảo chúng ta tuân giữ lời Chúa, vậy lời Chúa ở đâu? Và chúng ta phải tuân giữ Lời Chúa thế nào?
Lời Chúa ở đâu? Nếu trả lời một cách ngắn gọn, chúng ta có thể nói: Lời Chúa chứa đựng trong sách Thánh, tức là trong Kinh Thánh. Nhưng nếu hiểu rộng ra, chúng ta có thể nói: Lời Chúa còn chứa đựng trong thánh truyền, tức là một phần mạc khải được lưu lại dưới hình thức truyền khẩu và trong giáo huấn của các giáo phụ. Lời Chúa còn chứa đựng trong phụng vụ, tức là những gì Giáo Hội sống và thể hiện trong sinh hoạt phụng tự. Và Lời Chúa còn chứa đựng trong đời sống của Giáo Hội, tức là những giáo huấn của các công đồng, các Đức Giáo hoàng, các giám mục. Tóm lại, Kinh Thánh, thánh truyền, phụng vụ và giáo huấn của Giáo Hội, đó là những kho tàng chứa đựng lời Chúa. Nhưng thông thường và cụ thể, mỗi khi nói đến Lời Chúa, chúng ta thường hiểu là Kinh Thánh, nhất là Tin Mừng.
Tại sao chúng ta phải giữ lời Chúa và giữ lời Chúa thế nào? Chúng ta giữ lời Chúa để chứng tỏ lòng chúng ta yêu mến Chúa. Yêu mến ai, chúng ta muốn ở gần người đó, tâm sự trò chuyện quan hệ mật thiết với người đó, thì chúng ta đối với Chúa cũng vậy, và còn hơn thế nữa, là để chúng ta nên giống Chúa. Tục ngữ có câu: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Gần bạn hiền sẽ nên hiền. Và tục ngữ Tây phương cũng nói: “Anh nói cho tôi biết, anh đọc sách gì, anh bầu bạn với ai, tôi sẽ nói cho anh biết anh là người thế nào”. Chúng ta cần tâm sự với Chúa Giêsu, chúng ta muốn nên giống Chúa, nay Chúa đã khuất mặt, thì chỉ còn một cách là đọc lời Ngài, suy gẫm cuộc đời Ngài, chúng ta sẽ học được những ý tưởng, những tâm tình của Ngài. Vì thế, ai muốn quan hệ mật thiết với Chúa, muốn nên giống Chúa, chỉ còn một cách là luôn luôn đọc lại bộ Tân ước, nhất là Tin Mừng, để thấy rõ chân tướng của Chúa Kitô mà học hỏi bắt chước.
Cũng thế, người ta thường nói: “Có đầy trong lòng mới trào ra ngoài miệng”. Do đó, muốn suy nghĩ, nói năng, hành động, phản ứng như Chúa, thì điều quan trọng là phải có đầy Chúa trong tâm hồn, phải thấm nhiễm tinh thần của Chúa, phải in sâu hình ảnh dịu hiền của Chúa, những gương sáng Chúa đã thực hiện, lời Chúa dạy dỗ, giáo huấn vào đầu óc của mình. Để được như vậy, chỉ có cách duy nhất là hằng ngày chăm chỉ đọc Lời Chúa trong Kinh Thánh và suy niệm. Nhờ đó Lời Chúa dần dần chi phối đời sống chúng ta và trở thành nguyên tắc hướng dẫn mọi hành vi, cử chỉ của chúng ta và biến đổi chúng ta nên giống Chúa.
Tuy nhiên, chúng ta đọc và suy niệm lời Chúa là rất tốt rồi, nhưng điều quan trọng hơn nữa, là chúng ta phải áp dụng, phải thực hành lời Chúa, vì đây là thước đo lòng yêu mến của chúng ta đối với Chúa: chúng ta sẽ là kẻ không yêu mến Chúa khi chúng ta làm không đủ tiêu chuẩn như lời Chúa dạy. Chúng ta sẽ là người ghét Chúa khi chúng ta làm sai lời Chúa dạy. Chúng ta sẽ là kẻ phản bội lời Chúa nếu chúng ta tránh né, coi thường hay lười biếng không làm những việc đáng phải làm. Nếu chúng ta nói yêu mến Chúa mà không tuân giữ lời Chúa, thì có khác gì đứa con gọi dạ bảo vâng, nhưng không chịu làm theo lời cha mẹ dạy. Đó là thứ tình yêu giả hình và là thứ tình yêu đầu môi chót lưỡi mà thôi. Tình yêu phải được thử thách, phải được chứng nghiệm bằng việc làm… Vì thế, yêu Chúa thì phải thực hành lời Chúa. Thực hành lời Chúa dù ở nhà thờ hay ở nhà mình, nơi làm việc hay ngoài đường phố, chợ búa. Nếu như mọi người đều nhiệt tình áp dụng và thực hành lời Chúa thì nhân loại này yêu thương nhau biết mấy. Nhưng đáng tiếc, lời Chúa dạy: “Các con hãy yêu thương nhau”, chúng ta chưa thực hành đến nơi đến chốn.
Yêu mến Chúa là giữ lời Chúa truyền dạy. Giữ ở đây không hiểu theo nghĩa thụ động, nghĩa là đem chôn giấu lời Chúa, nhưng phải hiểu theo nghĩa tích cực, nghĩa là có sáng kiến đem lời Chúa ra thực hành trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Nhưng lời Chúa là lời nào? Tất cả lời của Chúa gồm tóm rất gọn trong một tiếng này, đó là “yêu”. Yêu Chúa với tình yêu của một người con hiếu thảo và yêu đồng loại với tình yêu như Chúa đã yêu chúng ta.
Đàng khác, sống ở trần gian, ai cũng phải trải qua những giây phút lo âu. Lo âu về tương lai, về gia đình, về con cái, về tiền bạc, về công việc làm ăn, về sức khỏe… Lời Chúa hôm nay an ủi và khích lệ chúng ta đừng xao xuyến và sợ hãi. Chúng ta hãy dâng lên Chúa mọi lao công vất vả, mọi lo lắng buồn phiền. Chúng ta hãy phó thác cuộc đời mình cho Chúa và xin Chúa ban sự bình an. Bởi vì có Chúa thì màng nhện cũng sẽ trở nên tường thành. Còn không có Chúa thì tường thành cũng chỉ là màng nhện mà thôi.
Trên những chuyến xe buýt, các bến xe… người ta thường thấy những hàng chữ “chúc quý khách thượng lộ bình an”, người tài xế Công giáo treo hình Đức Mẹ trên xe có kèm theo hàng chữ “Nữ Vương ban sự bình an”. Người tài xế Phật giáo treo hình Đức Phật, dù có hay không có hàng chữ nào, trong lòng họ vẫn cầu mong Đức Phật ban bình an.
Những vấn đề vừa nêu trên cho thấy bình an luôn luôn là nhu cầu thiết yếu của con người dù không nói ra. Có nhu cầu bình an tất nhiên cũng cần phải kiếm nơi cung cấp nhu cầu bình an.
Vấn đề được đặt ra là những ai đứng ra cung cấp nhu cầu bình an, cung cấp như thế nào và liệu có thực sự đem lại bình an cho thân chủ hay không?
Nếu chỉ dựa trên qui luật “cung cầu”, bất cứ ai cũng có thể có được bình an miễn là có tiền, chỉ cần bỏ tiền ra thuê một vài vệ sĩ ở các “công ty dịch vụ vệ sĩ” là có thể có bình an. Bình an theo cách này chẳng khác nào lời Đức Giêsu nói trong bài Tin Mừng “bình an thế gian ban tặng”. Bình an dựa trên qui luật cung – cầu có thực sự bình an không?
Trong tháng 1- 2001 tổng thống Kabila của cộng hòa dân chủ Công-gô, dù được bảo vệ, canh phòng rất cẩn thận, nhưng ông vẫn bị ám sát; người ám sát ông không phải ai xa lạ hay tổ chức chính trị đối lập, mà chính cận vệ thân tín của ông, người có nhiệm vụ bảo vệ ông và luôn sát cánh bên ông.
Điều này càng cho thấy sự bình an dựa trên qui luật cung cầu, quy luật mua bán trao đổi hay nói theo lời của Đức Giêsu “bình an thế gian ban tặng” xem ra chẳng có gì bảo đảm, nói không sai là rất mong manh. Rốt cuộc bình an luôn là ước mơ, nhu cầu sống còn của con người.
Vẫn biết bình an là nhu cầu sống còn của con người, nhưng cách thức ban bình an của Đức Giêsu trái ngược hoàn toàn với cách thức của con người, bình an trong những tình huống bất an.
Trong khi người đời cần phải có phương tiện bên ngoài, tỷ như có vệ sĩ bảo vệ… mới được bình an. Đức Giêsu hứa ban một thứ bình an như lời Ngài khẳng định “… không như thế gian ban”. Bình an Đức Giêsu không có gì bảo đảm bên ngoài mà chỉ dựa vào lời hứa của Đức Giêsu “Thầy ban bình an của Thầy cho anh em… anh em đừng xao xuyến, đừng sợ hãi”. Đây mới là sự khác biệt cơ bản giữa bình an “thế gian ban tặng” và “bình an Đức Giêsu ban tặng”.
Thật vậy, bài Tin Mừng cho thấy một bối cảnh thật xúc động, Thầy Giêsu chuẩn bị chia tay với các môn đệ. Trước đó các sách Tin Mừng và Công vụ Tông đồ thuật lại mỗi lần Đức Giêsu hiện đến đều thấy các môn đệ hội họp trong nhà, còn cửa vẫn đóng kín vì sợ người Do thái. Khi Đức Giêsu hiện diện, sự sợ hãi của các môn đệ cũng tan biến và ngược lại.
Như thế, nguyên nhân khiến các ông sợ hãi là không thấy sự hiện diện bằng thể lý của Đức Giêsu. Chính trong lúc không còn gì để bám víu, để lệ thuộc, mà chỉ tin vào lời hứa của Đức Giêsu: “Thầy ra đi và đến cùng anh em”, Thầy ban bình an của Thầy cho anh em”, lúc đó các ông mới cảm nhận sự bình an Đức Giêsu ban cho. Nói như Phaolô “Bình an của Thiên Chúa là bình an không ai hiểu thấu”. Bình an Đức Giêsu ban bất chấp sự đe dọa bên ngoài. Bình an Đức Giêsu ban không có gì khoa trương bên ngoài rất âm thầm, sâu lắng nhưng rất mãnh liệt… làm cho chúng ta bình an thật sự dù có bị tối tăm vây quanh, dù có bị sóng gió cuộc đời quật ngã ta vẫn không bị tiêu diệt… cũng chính Phaolô đã nói lên kinh nghiệm xương máu của ông trong các cuộc hành trình truyền giáo “Chúng tôi bị dồn ép tư bề nhưng không bị đè bẹp; hoang mang nhưng không tuyệt vọng; bị ngược đãi nhưng không bị bỏ rơi, bị quật ngã nhưng không tiêu diệt”. Đơn giản vì Phaolô luôn mang trong mình lời hứa bình an của Đức Giêsu. Bình an Đức Giêsu hứa ban không chỉ dành riêng cho các môn đệ mà còn cho tất cả những người tin vào Đức Giêsu – các Kitô hữu. Vậy làm thế nào để có được sự bình an này?
Đứng trước những thách đố, sóng gió trong đời sống gia đình, tỷ như thiếu gạo, tiền đóng học cho con, tiền điện nước… ta chỉ ngồi đó than thân trách phận, “đóng cửa” lại như các môn đệ để tìm bình an sao? Đó không phải là bình an của Đức Giêsu, bình an của Đức Giêsu là “bung ra”, làm ăn chân chính, làm hết sức mình để lo cho gia đình dù kết quả không như mong muốn, ta vẫn thấy sự bình an của Đức Giêsu hiện diện. Sự bình an của Đức Giêsu được thể hiện bằng tiếng cười, niềm vui trong gia đình, đôi khi ta không nhận ra.
Hoặc là đứng trước những chọn lựa sống, sống không ngay thẳng trong làm ăn buôn bán làm ta giàu hơn, còn sống trung thực đôi khi lại làm ta mất đi những món lợi lớn. Bình an của Đức Giêsu ở đây chính là sự thật. Ta cảm thấy bình an khi mình sống ngay thẳng, sống theo sự thật. Thiết tưởng thước đo để xét xem ta có sự bình an của Đức Giêsu hay không đã nằm sẵn trong bài Tin Mừng “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy”.
Một vị ẩn sĩ già có hai môn sinh, ông hướng dẫn họ sống lời Chúa, sau một thời gian người thứ nhất cảm thấy vui tươi hạnh phúc, đường tu trì có nhiều tiến bộ, còn người thứ hai luôn buồn bực và nhăn nhó. Khi được hỏi lý do, người thứ nhất trả lời: “Con giữ lời Chúa dạy vì con yêu mến Chúa” và sự bình an của Đức Giêsu ở trong anh. Còn người thứ hai cho biết: “Con giữ lời Chúa dạy vì thầy dạy phải giữ như vậy”, thật ra anh không có lòng yêu mến. Sau một thời gian ngắn người thứ hai bỏ vị ẩn sĩ già để ra đi, vì anh không có được sự bình an trong đường tu trì.
Lời hứa ban bình an của Đức Giêsu là lời bảo đảm chắc chắn nhất cho những ai tin tưởng vào Ngài. Xin cho sự bình an của Đức Giêsu luôn ngự trị trong tâm hồn chúng ta.
Trong triều của một vua nọ có hai họa sĩ rất tài ba nhưng luôn ganh ghét đố kỵ nhau. Một hôm nhà vua phán: “Ta muốn phán quyết một lần dứt khoát ai trong hai người là người giỏi nhất. Vậy hai ngươi hãy vẽ mỗi người một bức tranh theo cùng một đề tài, đó là bình an”.
Hai họa sĩ đồng ý. Một tuần sau họ trở lại, mỗi người mang theo bức vẽ của mình. Bức họa của người thứ nhất vẽ một khung cảnh thơ mộng: những ngọn đồi nhấp nhô bao quanh một cái hồ rộng với mặt nước phẳng lì không một gợn sóng. Toàn cảnh gợi lên một cảm giác thanh thản, thoải mái. Sau khi xem xong, nhà vua nói: “Bức họa này rất đẹp, nhưng nó làm ta buồn ngủ quá”. Bức họa của người thứ hai vẽ một thác nước. Hình ảnh rất sinh động đến nỗi nhìn nó người ta như nghe được tiếng nước đổ ầm ầm xuống vực thẳm. Nhà vua nói: “Đây đâu phải là một cảnh bình an”. Họa sĩ thứ hai bình tĩnh đáp: “Xin bệ hạ nhìn kỹ hơn một chút nữa xem”. Nhà vua nhìn kỹ và khám phá một chi tiết mà nãy giờ ông chưa chú ý: Trong một nhành cây nép mình sau dòng thác lũ, có một tổ chim. Trong tổ, chim mẹ đang ấp trứng, đôi mắt nửa nhắm nửa mở. Chim mẹ đang bình thản chờ các con mình nở ra. Nhà vua nói: “Ta rất thích bức tranh này. Nó đã chuyển tải được một ý tưởng độc đáo về bình an, đó là vẫn có thể sống bình an ngay giữa những xáo trộn của cuộc đời”. Và nhà vua đã đặt tác giả của nó là người họa sĩ hạng nhất của triều đình.
Chúa Giêsu đã nói: “Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban bình an cho các con không theo kiểu thế gian. Lòng các con đừng xao xuyến, các con đừng sợ hãi”. Những lời này Ngài nói giữa bữa tiệc ly. Phải chăng đây là một thời điểm không thích hợp để nói về bình an, vì khi ấy hoàn cảnh bên ngoài rất là xáo trộn? Không, trái lại rất thích hợp. Bởi vì bình an là thông hiệp với Thiên Chúa. Chúa Giêsu đang hiệp thông mật thiết với Thiên Chúa nên Ngài vẫn có thể nói về bình an ngay cả khi kẻ thù của Ngài đã đến gần và sắp giết chết Ngài.
Bình an không phải giống như yên ổn, vì yên ổn là ở bên ngoài còn bình an thì ở bên trong. Bình an là tình trạng của một tâm hồn đang có tương quan tốt với Thiên Chúa và với tha nhân. Thành tố quan trọng của bình an là sự công chính. Bởi thế, không có bình an cho kẻ dữ.
Bình an là kết quả của lòng trông cậy vào Chúa và khi ước muốn làm đẹp lòng Chúa là điều qaun trọng bậc nhất trong đời. Đây là điều mà ta có thể có ngay giữa những xáo trộn, xung đột và những vấn đề rắc rối chưa giải quyết được.
Đó chính là thứ bình an mà thế gian không thể ban tặng được.
Đấng Phù Trợ là Thánh Thần…, sẽ nhắc nhở cho các con
Chúa nhật thứ VI Phục Sinh, Chúa chúng ta chuẩn bị về Trời (Lễ Thăng Thiên). Phụng vụ Lời Chúa gợi lên cho chúng ta nhớ lại những lời tâm sự cuối cùng của Chúa và mời gọi chúng ta không được “xuyến xao và sợ hãi” (Năm C). Nhưng, bằng lời cầu nguyện hãy phó thác cho Chúa Giêsu và nhờ Ngài mang về Trời dâng lên Đức Chúa Cha cho chúng ta. Những lời trăng trối của Chúa Giêsu đòi buộc chúng ta để ý đến cách đồng truyền giáo: “Lúa chín đầy đồng”, vì là lệnh truyền của Chúa Nhân Lành, nên cần phải được tôn trọng. Truyền thống phụng vụ này, được thánh Mamert đưa vào từ năm 470 tại thung lũng Rhône, và mở rộng tới tận Gaule, đúng thời điểm diễn ra Công Đồng đầu tiên tại Orléans. Theo Truyền thống, trong khoảng thời gian Chúa về Trời, các tín hữu công giáo sẽ tuân giữ việc giữ chay, (nghĩa là từ thứ Hái, Ba, Tư tuần này) họ sẽ ăn chay để chuẩn bị cử hành Lễ Chúa về Trời. Ở nông thôn, các linh mục sẽ chúc phúc cho ruộng đồng và hoa màu. Lời Ca nhập lễ: Hãy vui mừng loan báo cho mọi người được nghe. Rao truyền đi đến tận cùng cõi đất rằng: Chúa đã giải phóng dân Người. Hallêluia.
* Bài đọc Phụng vụ năm A
– Tđcv 8, 5-17: Rao giảng Tin Mừng cho dân thành Samaria
– Tv 66, 1: Toàn trái đất, hãy reo mừng Thiên Chúa
– 1 Pr 3, 15-18: Anh em hãy là những chứng nhân về niềm hy vọng của chúng ta ở giữa thế gian
– Ga 14, 15-21: Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi
* Bài đọc Phụng vụ năm B
– Tđcv 10, 25-26; 34-35; 44-48: Những người dân ngoại đầu tiên chịu Phép rửa tội
– Tv 98, 1: Chúa đã biểu dương Quyền Năng của Ngài trươc mặt chư dân
– 1 Ga 4, 7-10: Tất cả những ai yêu thương đều là con cái Thiên Chúa
– Ga 15, 9-17: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em
* Bài đọc Phụng vụ năm C
– Tđcv 15,1-2; 22-29: Giáo hội quyết định đón nhận dân ngoại
– Tv 67, 2: Thân lạy Chúa, ước gì chư dân ca tụng Ngài Dieu!
– Kh 21, 10-14; 22-23: Con Chiên là ánh sáng cho dân Chúa
– Ga 14, 23-29: Lời hứa sai Chúa Thánh Thần đến
“Đấng Phù Trợ là Thánh Thần…, sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con”
Chúa Giêsu Kitô, Đấng “phó thác Thần khí” trên cây thập giá (Ga 19, 30) đã thực hiện như lời Ngài đã hứa trước khi chịu khổ nạn. Vì Ngài là là Chiên Thiên Chúa và là Con của loài người, đã hiện đến với các môn đệ “thổi hơi” trên họ và nói với họ: “Hãy chịu lấy Thánh Thần. (Ga 20, 22 )… thế là Chúa Thánh Thần đến làm cho họ tràn ngập niềm vui, làm cho họ đang buồn sầu trở nên vui, đúng như lời Ngài nói là biến những “sự ưu phiền của các ngươi sẽ trở thành niềm vui. ” (x. Ga 16:20).
Và nhất là khi loan báo diễn từ li biệt sắp xảy đến: Chúa Kitô phục sinh như khai mở một cuộc sáng tạo mới, gửi Chúa Thánh Thần đến trên các môn đệ. Khi hiện ra với các môn đệ sau khi sống lại. Qua các vết thương chịu đóng đinh, Chúa Giêsu đã trao ban cho họ Thần Khí: ” Ngài cho họ thấy tay chân và cạnh sườn Ngài. Các môn đồ mừng rỡ, vì được thấy Chúa. (Ga 20:20). Đó là chứng tích của những vết thương, Ngài nói với họ: “Hãy chịu lấy Thánh Thần. (c. 22).
Vì thế, có một liên kết chặt chẽ được thiết lập giữa việc sai Chúa Con và cử Chúa Thánh Thần đến. Việc cử Chúa Thánh Thần (sau nguyên tội) không thể xảy ra mà không có thập giá và sự sống lại, đúng như lời Ngài nói: “Song Ta nói thật với các ngươi: Ta ra đi, thì ích lợi hơn cho các ngươi; vì nếu Ta không ra đi, thì Đấng Bào Chữa không đến với các ngươi. Còn nếu Ta đi, Ta sẽ sai Ngài đến với các ngươi. “ (Ga 16, 7). Sứ mạng của Chúa Con trong một nghĩa nào đó, được thực hiện trọn vẹn trong sự cứu chuộc và sứ mạng của Chúa Thánh Thần phát xuất từ công trình cứu chuộc: “Vì thế mà Ta đã nói: Ngài lấy của Ta mà thông báo cho các ngươi”. (Ga 16,15). Ơn cứu chuộc được thực hiện hoàn toàn do Chúa Con là Đấng được xức dầu đã đến trong thế gian và hoạt động bởi quyền năng Chúa Thánh Thần, khi dâng mình chính thân mình làm của lễ hy sinh trên thập giá. Và sự cứu chuộc không ngừng được hoàn tất trong trái tim và trong lòng nhân loại – trong lịch sử của thế giới – nhờ Chúa Thánh Thần là “Đấng Bầu Chữa khác” (Ga 14,16).
Năm nay kỷ niệm 50 năm khai mạc Công Đồng Vatican II, năm mà Giáo hội nhấn mạnh đến truyền giáo. Tưởng chúng ta cũng nhớ lại Công Đồng Giêrusalem, một Công đồng quyết định cho việc truyền giáo mà sách Tông Đồ Công Vụ kể lại biến cố được gọi là “Công Đồng Giêrusalem”. Tại Phòng Tiệc Ly ở Giêrusalem; nơi Công Đồng đầu tiên, công đồng mở cửa cho những anh chị em ngoài do thái giáo ( TĐCV 15, 11- 29). Cuộc họp đầu tiên đó của các Tông Đồ và những vị Trưởng Lão đã được triệu tập để giải quyết một vấn đề quan trọng. Đối với các tín hữu thuộc nhóm Pharisêu xác tín rằng những người ngoài do thái giáo trở lại kitô giáo, phải chịu phép cắt bì và tuân giữ luật Môisen, thì hai thánh Phaolô và Barnaba mạnh mẽ bênh vực lập trường rằng ơn cứu rỗi không đến từ những việc của Lề Luật, nhưng từ đức tin vào Chúa Kitô.
Nhờ những can thiệp được linh ứng của Thánh Phêrô và Thánh Giacôbê, lập trường của Thánh Phaolô và thánh Barnaba, được chấp nhận; và kể từ ngày đó, Giáo Hội “ra khơi”, sẵn sàng đem Tin Mừng đến cho tất cả mọi dân tộc và mọi nền văn hóa. Sức hoạt động tông đồ do Chúa Thánh Thần soi sáng vào khởi đầu, đã không bị tàn lụn và được tiếp tục cho đến hôm nay. Ước muốn duy nhất và bổn phận của các tín hữu là ước muốn rao giảng cho tất cả mọi người biết Chúa Giêsu, Đấng cứu chuộc của con người.
Bước vào tháng Năm là quãng thời gian Giáo hội dành để kính Đức Trinh Nữ Maria, Bông Hoa xinh đẹp nhất trong các thụ tạo, là cánh hồng xuất hiện vào thời sung mãn, khi mà Thiên Chúa sai Con của Ngài đến trần gian thì đã ban cho nó một mùa xuân mới. Mẹ là nhân vật chính yếu, âm thần và khiêm tốn. Mẹ là trái tim thiêng liêng của Giáo hội, bởi vì sự hiện diện của Mẹ ở giữa các môn đệ là ký ức sống động của Chúa Giêsu và bảo chứng cho hồng ân của Thánh Linh. Chúng ta hãy đem hết tình con thảo mà dâng kính Mẹ, xin Mẹ đoái thương đồng hành cùng con cái nơi dương thế. Amen.
Có thể coi đoạn Tin Mừng này là một bài giáo lý về Chúa Ba Ngôi: Trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu nhắc tới cả 3 ngôi Thiên Chúa: “Ai nghe các giới răn Thầy truyền và tuân giữ…. Ai yêu mến Thầy, sẽ được Cha Thầy yêu mến… Đấng Phù Trợ, là Thánh Thần mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Ngài sẽ dạy các con mọi điều và sẽ nhắc nhở các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con”.
Như thế, giáo lý cơ bản về Ba Ngôi là:
– Chúa Cha là Đấng sai Chúa Con đến với loài người
– Chúa Con vâng lời Chúa Cha đến với loài người để dạy loài người những lệnh truyền
– Chúa Thánh Thần lại được Chúa Cha sai đến nhân danh Chúa Con, để dạy loài người hiểu sâu hơn những lệnh truyền của Chúa Con.
Thái độ con người phải có đối với Ba Ngôi:
– Yêu mến Chúa Con nên tuân giữ những điều Ngài dạy.
– Chúa Thánh Thần sẽ giúp đỡ họ làm điều đó
– Kết quả: Ba Ngôi sẽ “yêu mến”, “tỏ mình ra” và “ở trong” người ấy.
B…. nẩy mầm.
Khi ông đe dọa, cậu nói: “Con đang đọc về Chúa Giêsu, Ngài để tóc dài và râu”.
Ông bố nói: “Đúng, Ngài đã để râu và tóc, nhưng Ngài còn luôn thi hành ý Cha”. (Góp nhặt)
Chúa Giêsu trước khi giã biệt các môn đệ cũng nhắn nhủ các ông về điều căn bản “Ai nghe và giữ các giới răn của Thầy, người ấy là kẻ yêu mến Thầy”. Chúa Giêsu không đòi những kẻ yêu mến Ngài phải có những rung động thuộc cảm tính… Tuy nhiên một tình yêu đúng nghĩa là luôn luôn tìm cách làm đẹp lòng người yêu, sẵn sàng cho đi tất cả vì người yêu, chứ không dừng lại ở những rung động của thân xác phần nào nói lên tính vị kỷ của mình (“Mỗi ngày một tin vui”)
Mỗi lần, bạn ấy xin ba mẹ đi chơi, chúng tôi đều cười nhạo: “Lớn rồi mà còn xin với xỏ. Mình trưởng thành rồi, muốn đi đâu thì đi, làm gì thì làm tùy ý”. Bạn ấy đã giải thích một cách đơn sơ nhưng thật hợp lý hợp tình: “Hẳn ba má không cần tôi xin, nhưng chắc chắn ba má tôi rất vui khi tôi xin phép như vậy. Tôi làm thế để được làm con và làm con thảo của ba mẹ tôi”.
Hẳn Chúa cũng rất vui khi tôi quan tâm lắng nghe và tuân giữ Lời Ngài, để Ngài có thể đưa tôi vào sự hiệp thông tình yêu của ba ngôi Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con biết yêu mến và thực hành lời Chúa để luôn được hiệp thông với Người. (Epphata)
Hôm chúng tôi chia tay, tôi đã khóc rất nhiều. Qua màn nước mắt, tôi thấy anh cũng vội lau những giọt lệ mà anh gọi là bụi khói. Anh vẫn cương quyết và bản lĩnh như ngày nào.
Anh nói: “Không phải Ba Mẹ không chấp nhận em, không phải anh không còn yêu em; anh sẽ đợi, nếu…
“Nhưng điều kiện của anh khó quá. Tôi ngắt lời.
“Không!” Anh nghiêm giọng, “tại vì em không muốn hy sinh thôi…”
Vâng, tôi đã không muốn hy sinh, hy sinh tự do, sở thích, thú vui phù phiếm của tôi. Vâng, tôi đã không yêu anh như tôi tưởng!
Lạy Chúa, tình yêu đòi hỏi những biểu hiện đích thực của sự hy sinh, đôi khi chỉ cần giữ lời… Chúa ơi, xin giúp con yêu Ngài, yêu tha nhân, để được phục sinh trong tình yêu của Thiên Chúa. (Hosanna)
Cho tôi xin hai chữ “bình an”.
Với tôi và đa số người trẻ, bình an là: không bị ai làm phiền, muốn đi đâu và làm gì tuỳ ý, có tiền tiêu xài thỏa thích… Nhưng đó có phải là bình an đích thực không?
Bình an mà Đức Giêsu đem lại là bình an trong tâm hồn. Bình an đó chỉ có được khi tôi chiến thắng được kẻ thù khủng khiếp nhất là ích kỷ và phóng túng để vươn tới thiên đàng của công bằng và yêu thương.
Lạy Chúa, con muốn được tự do và bình an của Chúa (Hosanna)
Trong một Khóa Thánh Linh, một bà VN trên 60 tuổi, ở Garden Grove, Cali, đã kể lại cho Linh mục hướng dẫn Khóa: “Sáng nay, con nghe lời cha tối qua, con dậy thật sớm, rồi quì gối dang tay để mở lòng con ra bằng: tha thiết thống hối, tha thứ cho “kẻ thù”, tin Chúa thương con, nhìn nhận Chúa là Chúa của con, và con tha thiết nài xin Đức Mẹ bầu cử (3 lần kinh Hãy Nhớ rất chậm và tin tưởng), cuối cùng như cha bảo, con dang tay tha thiết nài xin Đức Chúa Thánh Thần:
“Chúng con lạy ơn Đức Chúa Thánh Thần thiêng liêng sáng láng vô cùng: (1) Chúng con xin Đức Chúa Thánh Thần xuống đầy lòng chúng con, là kẻ tin cậy Đức Chúa Trời, (2) và đốt lửa kính mến Đức Chúa Trời trong lòng chúng con” chúng con xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần xuống (3) sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con”.
“Con tha thiết hết sức đọc kinh Chúa thánh Thần, như cha bảo. Lần thứ Nhất 10 lần, rồi lần thứ Hai 10 lần, và lần thứ Ba cũng 10 lần nữa… Thế mà cha ôi, con tha thiết cầu xin cả 30 lần rồi, mà “nòng (lòng) con nó cứ tơ tơ (trơ trơ)”!!! Sau đó, con nhớ cha bảo đừng có nản, nên con lại quyết tâm, lần này, con sẽ tha thiết hết lòng cầu nguyện như thế, không phải 10 lần, 10 lần, 10 lần, nhưng là 50 lần nữa!
“Lần quyết tâm 50 này, con vừa đọc đến lần thứ Ba, thì Chúa Thánh Thần đã xuống tràn đầy linh hồn con: Toàn thể con người con run lên, trái tim con đập mạnh, làm nóng ran khắp người” linh hồn con tràn ngập bình an, vui mừng và lạ lùng” rồi miệng con cảm thấy ngọt ngào đầy hương vị khi đọc kinh Chúa Thánh Thần!… Thế là từ lúc ấy cho đến sáng, con cứ cầu nguyện kinh Chúa Thánh Thần, không biết mấy trăm lần… Lúc này con nói với cha mà lòng con đang nóng ran lên!”…
Truyện bà cụ đây là một trong hàng 100 triệu trường hợp hiện đang xẩy ra, ngay giữa người VN hải ngoại, và trong cả thế giới Công giáo (1967-2001). Đúng như lời Chúa Giêsu đã loan báo trong Phúc âm hôm nay:”Đấng Phù Trợ là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con” (Ga 14:26). Và một khi chúng ta được Chúa Thánh Thần tràn đến trong đời, chúng ta sẽ đạt được hai mục đích, mà Phúc âm hôm nay Chúa Giêsu đã hứa ban: (1) Yêu mến Chúa, và được Chúa Cha và Chúa Giêsu đến ngự trong ta” (2) được Chúa ban cho tâm hồn sự bình an tuyệt vời, bình an khác biệt với trần gian (Lc 14:24, 27). Như vậy Chúa Thánh Thần sẽ là chìa khóa đổi đời của chúng ta.
Kinh nghiệm trước mắt chúng ta, Chúa Thánh Thần đã là chìa khóa “đổi đời” của bà cụ Việt Nam và của hàng 100 triệu Tín hữu Công giáo hiện nay. Thời đại chúng ta đang sống, như lời Đức Gioan Phaolô II, “là thời đại của Chúa Thánh Thần và của Đức Maria”.
Thời đại chúng ta, cũng đúng như lời tiên tri Joel, cách đây 2300 năm, đã tiên báo: “Sẽ xẩy ra là sau đó, Ta sẽ đổ Thánh Thần của Ta trên mọi người. Con trai con gái các ngươi sẽ nói tiên tri, các vị bô lão sẽ được chiêm bao, trai tráng của các ngươi sẽ được thị kiến, và cả trên các tôi nam tớ nữ của các ngươi, trong những ngày đó, Ta sẽ đổ tràn đầy Thánh Thần của Ta” (Joel 3:1-2).
Ơn “đổ tràn Thánh Thần” xuống trên mọi người, mà tiên tri Joel nói đây, là ơn dành cho tất cả mọi người, ở mọi lứa tuổi, mọi cấp bậc, chứ không chỉ dành riêng cho một ai. Chỉ cần họ có thành tâm thiện chí, sẵn sàng “Mở lòng” ra đón nhận Chúa Thánh Thần. Nhưng bạn thắc mắc “Mở lòng” bằng cách nào? Thưa bằng cách rất thông thường, bằng 5 việc: Thống hối xưng tội – Tha thứ (quan trọng nhất là tha thứ cho “kẻ thù”) – Tin Chúa thương mình – Tôn nhận Chúa làm Chúa hạnh phúc đời mình – Tha thiết xin nài Chúa ban tràn đầy Chúa Thánh Thần để canh tân đời mình.
Ơn được tràn đổ Thánh Thần này, theo Thánh Kinh và Thánh Truyền, cũng như Giáo Lý Công giáo, chúng ta, hết thảy các Tín hữu Công giáo, đã được khi lãnh nhận bí tích Khai tâm (Rửa Tội, Thêm Sức, Mình Thánh Chúa). Nhưng vì quá nhiều lý do và nguyên nhân, đời sống Tín hữu của chúng ta không còn thấy được các hiệu quả, của các Bí tích ấy hiện tỏ và hữu hiệu nhiều nữa! Do đó định nghĩa và mục đích của “ơn tràn đổ Thánh Thần” đây, chỉ là ơn Chúa Thánh Thần đến canh tân đời sống Tín hữu, và làm sống lại những ơn mà các Tín hữu đã lãnh nhận khi chịu phép Rửa Tội và Thêm sức xưa. Chính vì lý do này, nhiều Linh mục và đông đảo giáo dân, ngay giữa VN hải ngoại, đã bỏ đi những hiểu lầm và thiên kiến về Phong trào “Đoàn Sủng Canh Tân”.
Qua ít dòng trên, chắc quí vị và quí bạn đã hiểu sơ lược thêm về Chúa Thánh Thần là “Chìa Khóa Đổi Đời” cho Giáo sĩ, Tu sĩ và Tín Hữu. Chìa khóa này có tầm rất quan thiết, vì qua đó, Chúa Thánh Thần sẽ canh tân đời sống mới trong ta, và ơn Ngài sẽ làm đời Tín hữu chúng ta nên tươi vui đầy hoan lạc, ngay hiện nay trên trần thế, và vĩnh hằng trong Thiên Chúa là hạnh phúc thật đời đời. Xin khuyến khích quí vị và các bạn noi gương cầu nguyện “đổi đời” như bà cụ VN!
Sau khi từ cõi chết sống lại, mỗi lần Chúa hiện ra với các Tông Đồ, Chúa đều chào chúc các ông: “Bình an cho các con!”. Bình an là một hồng ân cao quí nhất Chúa ban tặng cho con cái yêu dấu của Chúa; vì chỉ có sự bình an mới làm cho con người được hạnh phúc, chỉ có sự bình an mới làm cho trần gian nên đáng yêu đáng quí và đáng được Chúa chúc phúc.
Sứ điệp Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay nhắc lại lòng khát khao của Chúa: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con”. Chính vì sự bình an của Chúa cần thiết cho cuộc sống con người, mà hằng ngày trong khi cử hành Thánh Lễ, sau khi Giáo Hội dạy chúng ta hợp nhau dâng lên Chúa là Cha chúng ta lời cầu nguyện: “Lạy Cha chúng con ngự trên trời”. Giáo Hội lại muốn chúng ta kêu cầu cùng Chúa Giêsu: “Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã phán với các Tông Đồ rằng: Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban sự bình an của Thầy cho các con. Xin Chúa đừng chấp tội lỗi chúng con, nhưng xin nhìn đến Đức Tin của Hội Thánh Chúa, xin đoái thương ban cho Hội Thánh được bình an và hiệp nhất như ý Chúa muốn”.
Vậy, bình an là gì?
Chắc chắn sự bình an của Chúa ban tặng chúng ta, không phải là thứ bình an tạm bợ mau qua theo quan niệm trần gian, vì chính Chúa đã quả quyết: “Thầy ban bình an cho các con, không phải thứ bình an như thế gian ban tặng”.
Bình an theo quan niệm trần gian là không có chiến tranh, không hận thù chém giết, không gây nên những cuộc tranh dành đẫm máu, tan cửa nát nhà, phân tán chia ly, tha hương cầu thực, như biết bao người trong anh chị đồng bào chúng ta, đang phải hứng chịu cái hậu quả tàn khốc của chiến tranh hận thù.
Bình an cũng không phải chỉ là được giầu sang phú quí, được thịnh vượng, được văn minh tiến bộ, được quyền hành thanh thế có thể áp đảo điều khiển được những kẻ yếu kém.
Tất cả các điều trên đây tuy là những dữ kiện quí báu để góp phần xây dựng hạnh phúc cho cuộc sống con người trên mặt đất; nhưng chúng vẫn chưa phải là điều kiện chính yếu, để có thể làm cho nhân loại được hưởng sự bình an chân thật, là thứ bình an mà Chúa trao ban cho những con cái yêu dấu của Người.
Điều kiện để được tận hưởng sự bình an chân thật của Chúa ban tặng, chính là tâm hồn trong sạch, luôn sống trong ơn nghĩa thánh, như những tôi trung con thảo của Người, luôn trông cậy tín thác mọi sự nơi lòng thương yêu quan phòng khôn ngoan của Chúa, luôn hết lòng phụng sự và tận tình yêu mến Ngài, luôn khát khao làm hài lòng Ngài.
Chỉ có tâm hồn khiêm hạ, luôn biết chân nhận thân phận thụ tạo yếu hèn tội lỗi của mình, không những trước tôn nhan Chúa mà còn trước mặt nhân loại; vì thế, không bao giờ họ dám tự kiêu tự đại đưa mình lên trên người khác, không khinh dể ai, nhưng luôn biết tôn trọng mọi người. Không mưu mô xảo trá, không quanh quéo quỉ quyệt, không dối trá tham lam… Không bao giờ họ là nguyên nhân gây nên sự chia rẽ bất thuận, xáo trộn hận thù, làm tổn thương tình bác ái huynh đệ trong gia đình hay trong cộng đồng. Bất cứ ai họ cũng cư xử lịch thiệp như bạn thân, vì không coi ai là kẻ thù của họ; họ sống thân thiện hòa nhã với mọi người. Bởi thế, họ luôn có thêm bạn hữu và giảm bớt kẻ thù nghịch.
Hơn nữa, họ còn sẵn sàng chịu nép vế, chịu thua thiệt, chịu hiểu lầm, để giữ được hòa khí trong anh chị em, mang lại nguồn an vui hạnh phúc cho gia đình, sự an hòa yêu thương cho cộng đồng và niềm hân hoan vui tươi cho xã hội… Do đó, không những tâm hồn họ đáng được tận hưởng sự bình an chân thật Chúa ban, mà còn trở nên sứ giả đem lại an bình cho mọi người.
III. SỨ GIẢ HÒA BÌNH CỦA CHÚA
Là con cái Chúa, là những Tông Đồ tình yêu thương của Chúa, chúng ta phải là những Sứ Giả Hòa Bình. Ngày lãnh Bí Tích Thánh Tẩy, được diễm phúc trở nên con cái Chúa, Chúa đã ủy thác cho chúng ta sứ mạng đem sự bình an của Chúa đến cho nhân loại. Chính Thánh Phanxicô Khó Khăn đã thấu hiểu sứ mạng cao cả Chúa trao, nên Ngài đã sung sướng dâng lên Chúa lời khẩn nguyện tha thiết, xin Chúa ban cho ngài được trở nên Sứ Giả Hòa Bình của Chúa, để ngài có thể chu toàn được sứ mạng: “Đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm” (Kinh Hòa Bình).
Đây một tấm gương trong sáng, như vị sứ giả hòa bình do Chúa gởi đến: Tại thành phố Tokyo Nhật Bản, có một khu vực thật nghèo nàn, dơ dáy, bẩn thỉu với biết bao tệ đoan thương luân bại lý, khiến ai cũng chán ghét khinh bỉ; không ai muốn nhòm ngó quan tâm đến, ngoại trừ những cảnh sát giữ an ninh, luôn rình rập để thộp cổ những con người phạm pháp, những băng đảng giết người cướp của… Vì thế, nơi đây người ta thường gọi bằng cái tên là “khu ổ chuột” hay “sào huyệt trộm cướp”.
Trong lúc mọi người đều khinh bỉ, thì cô Maria, một nữ sinh viên đại học y khoa, lại thường hay lui tới quan sát, thăm hỏi trong những lúc rảnh rỗi của những ngày cuối tuần… Động lòng thương những con người xấu số, cô đã quyết định bỏ học, bỏ cả một tương lai đầy mộng mơ với nhiều hy vọng, để đến đây chung sống với họ trong cảnh nghèo nàn. Cô đã đi gõ cửa từng gia đình, các nhà hảo tâm, các cơ quan từ thiện, xin quần áo, đồ dùng, thuốc men, tiền bạc đem về giúp đỡ họ. Sau một thời gian vắn, cái “khu ổ chuột” và “sào huyệt trộm cưóp” này đã được biến đổi, cảnh nghèo nàn bớt dần, những tội ác không còn nữa, và điều đáng vui mừng hơn cả là nhiều người đã tìm thấy chân lý, tự nguyện xin học giáo lý trở lại Đạo Công Giáo. Mọi người đều cảm phục trước tấm lòng hy sinh bác ái cao cả của cô nữ sinh viên trẻ tuổi, đến nỗi họ đã tôn cô như vị đại ân nhân và như một người mẹ hiền của họ, ai ai cũng mến phục, tôn trọng và nghe lời chỉ giáo của cô. Nhưng mới chỉ một thời gian chưa đầy một năm, vì quá lao tâm lao lực lo cho họ, cô đã lâm trọng bệnh và qua đời cách thánh thiện. Mọi người đều thương tiếc và tôn trọng cô như một vị Thánh, như một sứ giả của Tình Thương Chúa gởi đến trong xã hội hận thù giữa thời đại hôm nay. Đức Tổng Giám Mục Giáo Phận Tokyo đã đích thân đến chủ tọa Lễ An Táng và ca ngợi công đức của cô, cùng với nhiều vị quan khách trong Giáo Quyền cũng như trong Chính Quyền, và một số đông đảo quần chúng từ khắp nơi tuôn về tham dự, vì đã từng được nghe biết và ngưỡng mộ cô.
Kết Luận
Câu truyện cô nữ sinh viên y khoa trên đây đã là một thách đố cho chúng ta. Một cô gái mới chỉ 27 xuân xanh, đã dám hy sinh cả cuộc đời còn lại của mình, làm một việc anh hùng, để đem an vui hạnh phúc đến cho những con người xấu số trong xã hội nhiều đau khổ và đầy hận thù này.
Còn chúng ta, Chúa không đòi chúng ta phải làm những việc anh hùng vượt quá khả năng, ngoài tầm tay mình; nhưng chúng ta có dám vì yêu mến Chúa, quảng đại hy sinh, nhường nhịn, thông cảm, để làm cho gia đình chúng ta được vui tươi hạnh phúc không?
Chúng ta có dám vì yêu mến Chúa bớt chút thời giờ, sức lực, tiền của, để tìm đến với những người xấu số, đem lại cho họ niềm an ủi hạnh phúc, hầu chinh phục họ về với Chúa không?
Xin Mẹ Maria, Nữ Vương Hòa Bình, giúp chúng ta là con cái yêu dấu của Mẹ, được xứng đáng tận hưởng sự bình an chân thật của Chúa và trở nên sứ giả đem sự bình an của Chúa đến cho mọi người.
Ô-da-nam (Frédéric Ozanam 1813-1853) là nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Giáo Hội Pháp và thượng tuần thế kỷ 19. Ông đã trải qua một cơn khủng hoảng trầm trọng về đức tin khi còn là sinh viên đại học.
Cầu nguyện
Hôm ấy Ô-da-man bước vào một nhà thờ cổ ở thủ đô Paris để tìm một chút thanh thản cho tâm hồn. Đứng cuối nhà thờ, anh nhìn thấy một bóng đen đang quì cầu nguyện nơi hàng ghế đầu. Đến gần, Ô-da-man mới nhận ra đó chính là nhà bác học Ampe (André Marie Ampère 1775-1836). Chàng sinh viên không ngừng theo dõi cử chỉ cầu nguyện của vị giáo sư vật lý và hoá học nói trên. Khi ông đứng dậy ra về, chàng liền bước tới phòng làm việc của ông.
Thấy chàng thanh niên đứng trước cửa phòng dáng vẻ rụt rè, giáo sư Ampe liền cất tiếng hỏi:
– Này, người bạn trẻ, anh cần gì đó? Tôi có thể giúp anh giải một bài toán vật lý nào không?
Chàng thanh niên nhỏ nhẹ trả lời:
– Thưa giáo sư, con là một sinh viên khoa văn chương. Con dốt khoa học lắm. Xin giáo sư cho phép con được hỏi một chút về vấn đề đức tin mà thôi.
Giáo sư Ampe khiêm tốn đáp lại:
– Đức tin là môn yếu nhất của tôi. Nhưng nếu được giúp ích cho anh về điều gì, tôi sẽ lấy làm hân hạnh.
– Thưa giáo sư, người ta có thể vừa là nhà bác học vĩ đại vừa là một tín hữu cầu nguyện bình thường được chăng?
Giáo sư Ampe ngỡ ngàng trước câu hỏi vừa nêu. Với cặp môi run rẩy đầy cảm xúc, ông trả lời:
Chúng ta chỉ vĩ đại khi cầu nguyện
– Con ơi, chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện mà thôi!
Câu trả lời vừa nêu của giáo sư Ampe gợi lại câu nói thời danh của nhà toán học kiêm triết gia Pascal (Blaise Pascal 1623-1662), khi ông nói: “Con người vĩ đại khi quì cầu nguyện.” Thực ra, câu nói đó chỉ có ý nghĩa nhờ ánh sáng đức tin do chính Chúa Giêsu chiếu dãi khi Người trả lời một loạt những câu hỏi do các môn đệ nêu nơi bữa Tiệc Ly.
Khi ấy Giuđa đã bước ra khỏi phòng tiệc và “trời đã tối” (Ga 13, 30). Đó là lúc Đức Giêsu ngỏ lời với những môn đệ mà Người yêu quí cách riêng. Một số các ông là Phêrô, Tôma, Philiphê và Giuđa không phải là Giuđa Ít-ca-ri-ốt, lần lượt nêu câu hỏi giúp ta hiểu được phần nào ý nghĩa của hai chữ đức tin.
Các môn đệ không khỏi xao xuyến (14, 1.27). Đức Giêsu nhấn mạnh về niềm tin các ông cần có. Người cho các ông biết Người đi là để dọn chỗ cho các ông và Người sẽ trở lại đưa các ông đi với Người (c.3).
Được mãn nguyện
Đức Giêsu tiếp tục vạch cho các môn đệ thấy mối dây kết hiệp Người lại với Chúa Cha một cách trọn vẹn: cả trong lời nói lẫn việc làm (cc.10-11). Rồi Người chú ý tới chính các môn đệ: Họ cũng sẽ làm được những công việc Đức Giêsu đã làm, bởi lẽ Người sẽ đáp lời họ xin để Thiên Chúa được biểu lộ nơi Con. Tình yêu mà Người dành cho các môn đệ sẽ được biểu lộ qua việc Đấng Bảo Trợ khác là Thần Khí của sự thật, Đấng ấy sẽ ở lại với các môn đệ mãi mãi (c.16). Theo ý nghĩa ấy, Đức Giêsu sẽ không để các môn đệ mồ côi vì Người sẽ trở lại với họ (c.18).
Độc giả có thể bị choáng váng: Tại sao Đức Giêsu nói về việc Người đi để chuẩn bị nơi ở cho các môn đệ (14,3) và Người sẽ trở lại để đem họ đi với Người, thế rồi Người lại nói nơi ở ấy được định vị ngay nơi các môn đệ! (cc.20-21). Một cách nào đó, việc Đức Giêsu trở lại liên quan tới việc Đấng Bảo Trợ là Chúa Thánh Linh được phái đến hoạt động thay Đức Giêsu với tư cách vừa là Đấng Bào Chữa, vừa là Đấng Mạc Khải (Đức Giêsu cũng được gọi là Đấng Bảo Trợ trong 1Ga 2,1).
Đức Giêsu ra đi nhưng Người sẽ trở lại qua Đấng Bảo Trợ được phái đến. Việc đó cắt nghĩa điều mà Đức Giêsu nói là “Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống” (c.19). Cũng như các môn đệ được thấy Thầy Giêsu tận mắt tại bữa tiệc ly, họ cũng sẽ được biết việc Người kết hiệp với Cha. Việc kết hiệp ấy chính họ được tham dự. Họ mà biết yêu theo giới răn mới thì sẽ được cả Cha và Con yêu thương. Con sẽ tự mạc khải cho họ ngang qua Đấng Bảo Trợ (c.21). Tất cả điều họ hy vọng cho tương lai sẽ sớm được thực hiện ngay nơi trần thế này tuy còn trong niềm tin mà họ đặt nơi Thiên Chúa.
Đức Giêsu từ biệt các môn đệ bằng cách chúc họ được bình an theo phong tục người Trung Đông. Nhưng Người cho họ biết ơn bình an mà Người ban cho họ, thế gian không thể nào cho họ được (c.27) vì ơn đó bao gồm mọi của cải thiêng liêng thuộc về ơn cứu độ.
Mọi sự được thành tựu
Đức Giêsu cho biết Chúa Cha cao trọng hơn Người (c.28) bởi lẽ chính từ Chúa Cha nên mới có mọi sự. Chính Chúa Cha đã khiến cho mọi sự thành tựu. Cả việc Đức Giêsu được phái đến cũng như việc Người trở về trong vinh quang của Cha, tất cả đều được thể hiện theo ý muốn của Chúa Cha. Chính theo ý nghĩa ấy Đức Giêsu đã khẳng định rằng: “Chúa Cha cao trọng hơn Thầy” (c.28).
Đấng cao trọng như vậy mà lại chiếu cố đến ở với các môn đệ. Thử hỏi còn có điều gì vĩ đại hơn thế?
Một số câu hỏi gợi ý
Trong việc chọn lựa người bạn đời trong hôn nhân, ở Việt Nam ta có câu: “Cha mẹ đặt đâu, con ngồi đó”. Quan niệm nầy mất ảnh hưởng dần dần, người trẻ ngày nay được nhiều tự do hơn để chọn lựa. Câu nói: “Con yêu anh ấy và anh ấy yêu con” là lập luận người trẻ thường dùng để tranh đấu cho sự tự do chọn lựa người bạn trăm năm. Không chỉ trong hôn nhân mà ở mọi bình diện khác, tự do chính là một giá trị lớn lao quý giá thế hệ ngày nay nhiều ít đã đạt được. Tự do đôi khi bị hiểu sai là đồng nghĩa với việc muốn làm gì thì làm và không cần phải giữ những bó buộc. Tuy nhiên, đa số vẫn nhìn nhận ý nghĩa của tự do chính là khả năng có thể nói năng hoặc hành động từ động lực bên trong thâm tâm con người, chứ không bị hoàn cảnh hoặc thế lực bên ngoài ép buộc.
Phẩm giá cao quý đó chính Thiên Chúa cũng nhìn nhận. Người không muốn là kẻ độc tài dùng giới răn và cấm cản để thống trị con người. Tin Mừng nói đến thứ tự do đích thực đó: niềm tin của kitô hữu phát xuất từ kinh nghiệm nội tâm: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy”. Qua việc vâng giữ lời Chúa Giêsu và để cho lời Người uốn nắn cuộc sống mình, người kitô hữu được Chúa Giêsu thấm nhập vào con tim mình. Trong cuộc gặp gỡ Chúa Giêsu, họ cảm nghiệm được những điều tốt đẹp cao quý Người mang đến cho họ, hiểu được cuộc sống sung mãn Người hứa ban, hiểu được sự bình an mà chỉ Thiên Chúa ban được. Việc vâng giữ lời Chúa khi ấy không là hành động tuân giữ một lệnh truyền từ bên ngoài, nhưng là việc lắng nghe tiếng gọi thâm sâu kêu mời con người hướng đến một cuộc sống đích thực như họ ước muốn tự thâm tâm. Chúa Giêsu đã vâng lời Chúa Cha trong cách thế ấy. Sự vâng lời đó không làm Người xa lạ với bản thân, nhưng giúp Người thể hiện cuộc sống riêng biệt đích thực của Người.
Cuộc sống kitô hữu thể hiện tự bên trong, tự niềm tin và sự xác tín sâu xa. Tin Mừng làm rõ thêm tư tưởng nầy: “Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”. Chúa Giêsu và Cha Người sẽ đến ở lại, cư ngụ trong họ. Thiên Chúa chúng ta tin không phải là Đấng từ trên cao thống trị con người, bó buộc con người phải quỵ lụy dưới ách thống trị và sự kiểm soát của Người. Nhưng Người là Đấng Thiên Chúa chúng ta có thể khám phá ngay trong chúng ta như là mầu nhiệm của cuộc sống sung mãn, Đấng giúp chúng ta hiểu biết ơn gọi làm người của mình. Như thế, thánh ý Chúa và ước vọng sâu xa của con người không phải là 2 điều khác nhau. Người cư ngụ trong con người, để giúp con người khám phá ra: thánh ý Người chính là điều con người thiết tha ước muốn tự thâm tâm. Thánh ý Người chính là điều con người ước vọng sâu xa trong tâm hồn. Vì vậy, chúng ta là kitô hữu đích thực không phải khi gập mình trước Thiên Chúa, miễn cưỡng tuân giữ các lề luật và chấp nhận định mệnh khắc khe được áp đặt trên chúng ta; nhưng khi chúng ta dành chỗ cho Người trong tâm hồn chúng ta, để Người có thể cư ngụ trong chúng ta và làm chúng ta hiểu sự hiệp nhất giữa thánh ý Người và niềm vui sâu xa của chúng ta, giữa dự án tình thương của Người và ý nghĩa cuộc đời của chúng ta.
Một linh mục đã trải qua 6 năm trong tù biệt giam. Trong những khó khăn từ thể chất, tâm lý đến tinh thần, lời Tin Mừng nầy đã giúp cha lướt qua được những giây phút khủng hoảng: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy”. Trong những giây phút đen tối dài vô tận và không biết khi nào chấm dứt, cha đã cố gắng áp dụng lời nầy cho từng giây phút hiện tại. Khi đã qua rồi, nhìn lại cha đã ngạc nhiên không hiểu làm sao mình đã có thể lướt qua được như vậy. “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy”, bình an của Chúa giúp chúng ta lướt thắng được mọi ngăn cách giữa Thiên Chúa và chúng ta, cũng như giữa con người với nhau. Bình an của Chúa ban tự bên trong có khả năng giúp chúng ta hoà giải với Thiên Chúa, với bản thân và với người khác.
(Suy niệm của Lm. Đam. Châu Hoàng Ngọc)
Câu chuyện thứ nhất
Ông nông dân bực mình vì gà nhà hàng xóm ngày nào cũng sang bươi vườn rau của ông. Ngày đêm ông suy nghĩ tìm cách làm sao để gà hàng xóm không sang vườn nhà mình mà vẫn không mích lòng hàng xóm.
Ông mua 10 trứng gà rồi đem sang nhà hàng xóm có gà sang phá vườn nhà ông. Ông nói: tôi trả lại trứng do gà của ông bà đã sang vườn nhà tôi đẻ đấy!
Ngay chiều hôm ấy, không 1 con gà nào sang nhà ông nữa. Thì ra ông hàng xóm đã nhốt gà lại, sợ chúng qua vườn ông hàng xóm đẻ nữa.
Câu chuyện thứ hai
Một chàng trai trẻ đến xin bí quyết làm giàu của nhà triệu phú. Chẳng nói gì, ông triệu phú vô thẳng bếp xách ra 1 trái dưa hấu bổ làm 3 phần không bằng nhau hỏi chàng trai: nói về lợi ích nhất thì anh chọn miếng nào? Chàng trai lấy ngay phần dưa to nhất. ông triệu phú bình tĩnh lấy miếng nhỏ nhất ăn, xong lấy phần thứ hai ăn xong ngon lành trong khi chàng trai chưa ăn xong miếng to mình đã dành. Ông triệu phú cười nói: đây là bí quyết của tôi: đừng bị mê hoặc bởi cái lợi to nhất hay cái lợi trước mắt, nhưng hãy chọn nhiều cái lợi hơn là chọn cái lợi to nhất. Anh chọn cái lợi lớn nhất cũng không bằng tôi chọn nhiều cái lợi nhỏ. Bài học là đừng tham những cái lợi trước mắt mà không được những lợi rất đáng giá trong tương lai.
Hai câu chuyện trên cho ta bài học gì?
Đức Giêsu chuẩn bị xa các môn đệ để về cùng Cha. Ngài đã chuẩn bị cho các tông đồ điều quan trọng nhất là đón nhận Chúa Thánh Thần. Chỉ có nhờ Chúa Thánh Thần các ông mới có thể khôn ngoan và can đảm làm chứng về Tin Mừng Chúa Phục Sinh cho đến tận cùng trái đất.
Phương pháp của Chúa Thánh Thần là dùng bác ái để ngăn cản sự xấu, sự ác, sự tham lam của con người.
Xin cho mỗi người chúng ta được đón nhận ơn khôn ngoan và sức mạnh Chúa Thánh Thần để trong cuộc sống thường ngày chúng ta biết lấy bác ái đối đãi với nhau trong gia đình ngoài xã hội. ‘Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau’
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Thánh Thần xin để biến đổi gia đình chúng con nên một gia đình bác ái khôn ngoan để làm chứng cho Tin Mừng của Chúa. Amen.
(Chú giải và suy niệm của Lm PX. Vũ Phan Long)
Sự kiện Đức Giêsu đã đạt tới mục tiêu là đảm bảo cho các Kitô hữu là họ cũng sẽ đạt tới đó, Người sẽ đón họ vào trong cuộc sống vinh phúc của Người.
1.- Ngữ cảnh
Đoạn văn này thuộc về Phần II của TM IV (“Sách về Giờ của Đức Giêsu”) và ở trong “Diễn từ cáo biệt thứ nhất” (13,31-14,31): Đức Giêsu nói những lời này sau khi đã rửa chân cho các môn đệ (13,1-20) và loan báo Giuđa phản bội (13,21-30). Người mời gọi các môn đệ đừng hoang mang trước viễn tượng Người ra đi (14,1): Chúa Cha sẽ cử đến một Đấng Bảo Trợ khác để trợ giúp các ông, đó là Thánh Thần (14,16-17). Còn chính Người thì sẽ trở lại với các ông; thế gian không thấy Người, nhưng những ai tin vào Người thì thấy được Đấng ấy (14,18-21). Giuđa đã diễn tả sự kinh ngạc của tất cả các môn đệ: “Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian?” (14,22). Ông mơ một cuộc tỏ mình cụ thể, khả giác, của Đức Giêsu; ông chưa hiểu là biến cố Đức Giêsu và Thánh Thần ngự đến chỉ có thể nhận biết trong đức tin.
Thoạt nhìn, dường như câu trả lời của Đức Giêsu (c. 23) không liên hệ đến câu hỏi và sự ngạc nhiên của Giuđa. Thực ra, câu trả lời đã đi thẳng vào câu hỏi, bởi vì Đức Giêsu loan báo sự hiển lộ mầu nhiệm của Người và lý do khiến thế gian không thấy được sự hiển lộ này.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Chúa Cha đến (cùng với Đức Giêsu) (14,23-24);
2) Chúa Cha sai phái Đấng Bảo Trợ đến giảng dạy (14,25-26);
3) Đức Giêsu ban bình an và ra đi (14,27-29).
3.- Vài điểm chú giải
– lời (23): Đối với một người Sê-mít, “lời” (logos) có tính cụ thể; “lời” diễn tả hữu thể thâm sâu, chính bản thân con người.
– Thánh Thần… Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều (26): Từ ngữ “Thánh Thần” (to pneuma to hagion) ở trung tính; vậy mà chủ ngữ “Đấng đó” (ekeinos) thay cho “Thánh Thần” (to pneuma to hagion, ho…) lại ở nam tính. Khi viết như thế, tác giả muốn cho thấy rằng Thần Khí còn hơn là một xu hướng hay là một ảnh hưởng; Người là một nhân vật, một Đấng. Có thể nói ekeinos ở nam tính vì thay cho paraklêtos, nhưng gần hơn, vẫn là thay cho to pneuma to hagion, ho…
– sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm anh em nhớ lại (26): Bultmann có lý khi cho rằng, “dạy” và “làm nhớ lại” không phải là hai chức năng khác nhau của Thánh Thần, nhưng là hai phương diện của cùng một chức năng. Như thế, “dạy anh em” và “làm anh em nhớ lại” song đối với nhau.
– bình an (27): Khi ra đi, Đức Giêsu nói shalôm (bình an) với các môn đệ. Nhưng đây không phải là lời chào thông thường, mà là ân ban cứu độ. Đây không phải chỉ là tình trạng không có chiến tranh, hay là chấm dứt sự căng thẳng về tâm lý, hay là một cảm giác thư thái. Theo ngôn ngữ Ga, “bình an”, “sự thật”, “ánh sáng”, “sự sống”, “niềm vui” là những từ mang nghĩa ẩn dụ để diễn tả các phương diện khác nhau của ân huệ lớn lao mà Đức Giêsu đã mang từ Chúa Cha đến cho con người. “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy” là một cách khác để nói “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời” (10,28). “Bình an của Thầy” ở đây cũng giống như “niềm vui của Thầy” ở 15,11 và 17,13.
– nếu anh em yêu mến Thầy (ei êgapate, 28): Động từ ở thì vị hoàn (imperfect) để nói về một điều kiện “không có thật”, chưa xảy ra[1].
– Chúa Cha cao trọng hơn Thầy (28): Câu này đã là đề tài cho nhiều cuộc tranh luận về Kitô học và về Ba Ngôi. Phái Ariô đã dựa vào câu này để biện minh cho Kitô học của họ, và do đó, để chống lại thần tính của Đức Giêsu. Đã có hai cách giải thích cổ điển: (1) Một nhóm Giáo Phụ (Origiênê, Téctulianô, Athanasiô, Hilariô, Êpiphanê, Grêgôriô Nadien, Gioan Đamát) cho rằng bản văn diễn tả sự phân biệt giữa Chúa Con và Chúa Cha: Con được nhiệm sinh trong khi Cha thì không. Tuy nhiên, cách giải thích này phát xuất từ suy tư tín lý về Kinh Thánh sau này chứ không dựa trên chú giải câu văn. Cho rằng tác giả Ga đã giới thiệu Đức Giêsu nói với các môn đệ về quan hệ nội tại giữa Ba Ngôi là sai niên đại. (2) Một nhóm Giáo Phụ khác (Xyrilô Alêxandria, Ambrôsiô, Âutinh) đã giải thích rằng trong tư cách là con người, Chúa Con Nhập Thể kém hơn Chúa Cha. Lối giải thích này thoạt tiên có vẻ có lý hơn lối giải thích trước, nhưng vẫn nhằm phân biệt các bản tính nơi Đức Giêsu. Và đây là điều không chắc là Ga đã nghĩ tới. Không lẽ Ga lại nghĩ đến một sự phân biệt giữa Đức Giêsu nói như con người và Đức Giêsu nói như Thiên Chúa? Nhất là một cách phân biệt như thế có phù hợp chăng trong Diễn từ cuối cùng, vì ở đây hơn ở bất cứ nơi nào khác, Đức Giêsu, Đấng đang nói, siêu việt lên trên cả thời gian lẫn không gian?
Khi đã bỏ ra ngoài sự can thiệp của khoa tín lý hình thức của thời sau này, chúng ta thấy rất có thể chìa khóa nằm ở 13,16: “Kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi”. “Cha quan trọng hơn tôi” nghĩa là quan trọng hơn những gì anh em đã thấy nơi tôi. Đức Giêsu chỉ quan trọng do chỗ Người là Đấng “mạc khải” Chúa Cha. Sự phân biệt được đưa vào không đối lập bản tính nhân loại với bản tính thần linh trong Đức Kitô (theo cách giải thích truyền thống), mà là đối lập “cách giới thiệu bản thân Người trong hình thức nhân loại” (trong phẩm cách Mêsia) với ý nghĩa tròn đầy của bản thân Người trong tư cách là Thiên Chúa, đó là mạc khải Chúa Cha. Vậy vấn đề là nhận biết Chúa Cha nơi Đức Giêsu. Khi các môn đệ đã đạt được tới đó, sẽ không còn vấn đề thấp hơn hay cao hơn, bởi vì Chúa Cha và Người chỉ là một.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Chúa Cha đến (cùng với Đức Giêsu) (23-24)
Đức Giêsu khẳng định rằng người nào yêu mến Người, thì phải “giữ lời” Người, nghĩa là gắn bó với lời loan báo của Người và nhận biết bằng đức tin những gì Người đã yêu cầu (x. 14,15.21.23), và đáp lại bằng trọn cuộc đời dấn thân thực tế và quảng đại. Khi ấy, họ sẽ được đón tiếp Chúa Cha. Đối với Đức Giêsu, bằng chứng cho thấy Người liên kết với Chúa Cha là những việc Người làm (x. 14,10-11). Trong Cựu Ước, dân Israel đi tới chỗ biết Thiên Chúa của họ do họ thấy Ngài che chở kẻ nhỏ bé nhất, yếu đuối nhất, những ngoại kiều, trẻ mồ côi, và các quả phụ. Nếu Đức Giêsu đang làm những việc tương tự, điều đó có nghĩa là Thiên Chúa đang ở trong Người và Người đang ở trong Thiên Chúa.
Không những các môn đệ đầu tiên, mà bất cứ ai tin vào Người và yêu thương Người, liên kết với Người theo cách này (“giữ lời”), thì đều sẵn sàng đón Chúa Cha và Chúa Con khi các Đấng đến; các Đấng sẽ cư ngụ nơi người ấy và sẽ ở lại bền bỉ với người ấy. Người đã liên tục nhắc lại: “Thầy không cô độc đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy” (16,32; x. 8,29). Điều này đúng cho bất cứ ai yêu thương Đức Giêsu: người ấy không phải cô độc, không bị lạc lõng và bỏ rơi; dù không hữu hình, Đức Giêsu và Chúa Cha vẫn ở bên người ấy.
* Chúa Cha sai phái Đấng Bảo Trợ đến giảng dạy (25-26)
Đức Giêsu nhắc lại một lần nữa là Thánh Thần sẽ đến (x. 14,16-17); Chúa Cha sẽ ban Thánh Thần theo lời Đức Giêsu thỉnh cầu. Đức Giêsu để lại cho các môn đệ lời của Người, sứ điệp của Người. Đây sẽ mãi là những yếu tố đưa các môn đệ đến với Người. Nhưng các môn đệ sẽ không phải dựa vào sức riêng mà hiểu lời Người: họ sẽ được Chúa Thánh Thần trợ giúp. Sự hỗ trợ hữu hiệu của Thánh Thần sẽ được biểu lộ rõ ràng trong việc dạy cho họ hiểu lời của Đức Giêsu. Thánh Thần sẽ không đưa đến một giáo huấn mới: thật ra toàn thể mạc khải đã được ban nơi Đức Giêsu. Tất cả hoạt động của Thánh Thần sẽ là quy về những gì Đức Giêsu đã nói và giải thích cho các môn đệ. Được Thánh Thần dạy dỗ, các ông sẽ có thể đi theo sát hơn nữa lời của Đức Giêsu và được chuẩn bị đi vào hiệp thông với Chúa Cha và Chúa Con.
* Đức Giêsu ban bình an và ra đi (27-29)
Đức Giêsu không để các môn đệ phải mồ côi (x. 14,18), nghĩa là bỏ rơi các ông, mặc cho các ông sợ hãi, không được hỗ trợ nâng đỡ. Người từ giã và ban sự bình an của Người cho các ông. Người từ giã các môn đệ nhưng ban một sự bình an, một sự đảm bảo và một sự che chở chỉ có thể phát xuất từ Người. Sự bình an này không phải chỉ là một lời nói (một lời chào), cũng không phải là sự bình an mà thế gian ban tặng: một sự bình an giả trá, một sự bình an được đặt trên sự chuyên chế, bạo động và bất công. Sự bình an Đức Giêsu ban chính là ơn cứu độ, là “sự thật”, “ánh sáng”, “sự sống”, “niềm vui”, dựa trên việc loan báo do Người thực hiện, dựa trên sự hiệp thông với Chúa Cha và với Chúa Con và dựa trên sự hiện diện của Chúa Thánh Thần. Sự hiệp thông ấy đưa lại sự an toàn và che chở. Nếu Thiên Chúa ở cùng chúng ta, ai có thể đe dọa chúng ta và đứng lên chống lại chúng ta?
Khi đi chịu chết, thật ra Đức Giêsu trở về nhà Cha (x. 13,1); như thế Người đã đạt được mục tiêu của hành trình trần thế của Người. Đối với Người, không có niềm vui nào to lớn hơn là sự hiệp thông trọn vẹn với Cha. Điều này hẳn cũng phải có giá trị cho các môn đệ Người. Sự thông hiệp với Cha và với Con, một sự hiệp thông được ban cho họ ngay từ bây giờ, là nền tảng cho sự bình an của họ. Sự hiệp thông trọn vẹn của Con với Cha, vì là mục tiêu Đức Giêsu đã đạt, là nền tảng chắc chắn nhất cho niềm vui của họ.
+ Kết luận
Mọi sự tùy thuộc vào việc nhìn các sự việc một cách đúng đắn. Nhìn từ bên ngoài, cái chết của Đức Giêsu dường như là tai họa và sự đổ vỡ tan tành thành mây khói. Nhưng ai tuân giữ lời của Người, thì đã không mất sự an toàn do cái chết của Người, mà lại còn được củng cố trong niềm tin vào Người và trong niềm vui vì chiến thắng của Người. Đức Giêsu làm cho chúng ta tất cả những điều này xuyên qua hoạt động của Thánh Thần: chính Thánh Thần sẽ dẫn dắt chúng ta, dạy bảo và nhắc chúng ta nhớ lại tất cả những gì Đức Giêsu đã nói.
5.- Gợi ý suy niệm
——————————————–
[1] M. Zerwick, Biblical Greek.313.
Chúng ta tiếp tục suy niệm “diễn từ giã biệt” của Đức Giêsu vào chiều Thứ Năm Thánh. Đoạn văn mà chúng ta sắp đọc được Gioan giới thiệu như câu trả lời của Đức Giêsu trước câu hỏi của Giuđa: “Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian?” Toàn thể văn chương Do Thái thời Đức Kitô đều minh chứng cho ta thấy, những người động thời với Người luôn ngóng đợi một Đấng Mêsia mạnh về chính trị, có thể chiến thắng cách hiển nhiên mọi quân thù và cưỡng bức các đối thủ phải phục lụy. Đó cũng là nỗi mong chờ của các tông đồ. Và chúng ta cũng không lường ước mong như thế nào?
Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy.
Đó là cách biểu lộ duy nhất mà Thiên Chúa đã quyết định thể hiện: người đến cư ngụ giữa những kẻ tiếp đón Người và tin tưởng nơi Người. Nói cách khác, Người chỉ được người ta nhận ra Người “hiện diện”, nhờ những kẻ yêu mến Người. Tình yêu không cưỡng chế ai, không thúc ép ai.
Cảm nghiệm về một sự hiện diện thân mật nào đó của một người, tuy “vắng mặt” về thể lý, chúng ta cũng có thể nhận ra trong khung tình yêu nhân loại, nếu chúng là chân thực: bất giác chúng ta sẽ nhận thấy đang khi nói, trong một cuộc đối thoại nội tâm, với người yêu, với bạn hữu, con cái, hôn phu, người chồng.
Đó là sự hiện diện của kẻ vắng mặt! Đó là cảm nghiệm mà chỉ có kẻ yêu thương mới nhận ra.
Chúng ta vẫn thường phàn nàn về sự vắng mặt của Thiên Chúa, về thái độ im lặng của Người. Người tín hữu luôn đụng chạm với lời thách đố của kẻ vô thần: “Thiên Chúa của bạn ở đâu?” (Tv 42,4). Nhưng ngày nay, câu chất vấn đó có chiều hướng đi tới một chối từ Giáo hội, phủ nhận nếp sống cộng đoàn của Giáo hội: người ta cảm phục Đức Giêsu như một mô hình của nhân loại; người ta không chống đối Người điều gì; nhưng người ta gạt Người sang một bên, như thể không có Người, bằng cách khỏa lấp qua một lời tuyên bố quá dễ dãi: “Tôi tin nhưng không hành đạo”. Do đó, rõ ràng là có một ranh giới thực sự giữa “người môn đệ đích thực của Đức Giêsu với mọi người khác, dù họ rất có cảm tình với nhân vật Giêsu Nadarét. Đức Giêsu mạnh dạn quả quyết rằng, Người không chỉ là một kẻ chết, dù là tuyệt vời, của lịch sử xa xưa, cũng không chỉ là mẫu người đẹp mà sứ điệp có thể làm người ta phải suy nghĩ. Nhưng Người là một con người đang sống đang hoạt động, hôm nay vẫn còn hiển nhiên. Nhờ sự Phục sinh, Đức Giêsu Nadarét, con người lịch sử, đã bước vào thế giới xác định của Thiên Chúa: điều đó minh chúng. Người cũng trở nên kẻ đồng thời với mọi người.
“Đức Kitô của bạn ở đâu?”.
Chính Đức Giêsu trả lời: Đức Giêsu của bạn, chưa khi nào chúng tôi đã gặp thấy.
Ai yêu mến Thầy, Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.
Đức Giêsu quả quyết, từ giờ trở đi Người đang hiện diện nhờ những kẻ yêu mến Người, nhờ các tín hữu đích thực mà Người đang cư ngụ trong họ.
Khi Đức Giêsu tuyên bố những lời đó, quả thực chỉ còn ít giờ nữa là Người sẽ phải chết. Người là Đền thờ mới, được dựng lại nội trong ba ngày (Ga 2,19-22), Đền thờ mà ở đó người Do Thái thường cảm thấy một sự hiện diện thực sự của Thiên Chúa. Nhưng ở đây, Đức Giêsu còn đi xa hơn. Người dám quả quyết rằng, kể từ lúc Người ra đi, thì sự hiện diện không diễn tả thành lời này, chắc chắn bị che giấu, nhưng sẽ được bảo chứng nhờ các Kitô hữu.
Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy… Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy.
Giữa những người yêu thương nhau, cần có sự lắng nghe, đối thoại, nói năng, trao đổi. Trong tình yêu của chúng ta, không cố gì tệ hại hơn là “không biết lắng nghe”, không chịu nói năng.
Ở đây Đức Giêsu mạc khải cho ta một trong những chìa khóa mở tới đời sống Kitô hữu đích thực: Suy niệm Lời Chúa, như một dấu chỉ của sự Hiện Diện. Đó là một sự kiện. Chúng ta không có sự hiện diện thể lý hữu hình của Đức Giêsu, nhưng đối với kẻ yêu mến Người, thì thật là kỳ diệu, họ đã nhận được tư tưởng, lời nói của Người. Chúng ta cần ghi nhận, Đức Giêsu không chỉ nói đến một lời được đón nhận trong tâm trí, mà là một lời ta phải tuân giữ một lời phải đưa ra thực hành, một lời nhờ luôn “sống động” sẽ giúp kẻ ban lời cũng thực sự hiện diện. Sự hiện diện của Đức Kitô Phục sinh, sống động… có thể được “nhận biết” cách cụ thể (điều đó hẳn là thế được!) trong đời sống của các môn đệ đích thực.
Cũng như Đức Giêsu Nadarét là nơi thể hiện sự hiện diện và lời của Chúa Cha (“Lời anh em nghe thấy không phải là của Thầy”), cũng vậy từ giờ trở đi, các Kitô hữu, Giáo hội chính là nơi đó. Thật là trách nhiệm lớn lao.
Các điều đó Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em. Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy. Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.
Đúng vậy, Lời của Đức Giêsu không phải là một “sự vật” nhưng là một “con người nào đó”. Dù Đức Giêsu đã ra đi, nhưng vẫn có một “Đấng khác” đến để tiếp tục Lời của Chúa Cha, một thầy phụ đạo thần linh, một thầy nội tâm, được Chúa Cha sai đến nhân danh Đức Giêsu.
Thánh Thần không thêm gì cho Đức Giêsu, cũng như Đức Giêsu không thêm gì cho Chúa Cha. Đó là ba, nhưng chỉ một! Không có “ba Thiên Chúa”. Thiên Chúa là một. Người Israel vẫn nói như thế. Và Hồi giáo sẽ lặp lại như vậy. Dù có những khác biệt không tránh khỏi trong ngôn ngữ diễn tả, nhưng Kitô hữu không thể nói ngược lại đức tin cốt yếu trên đây. Chúa Cha, chính là Thiên Chúa trong tình trạng vô hình của Người. Đức Giêsu, cũng chính là Thiên Chúa, đã hiện diện, nói năng và hành động để cứu chuộc con người. Thánh Thần, cũng là Thiên Chúa, Đấng kéo dài cách thiêng liêng sự hiện diện, lời nói và hành động của Đức Giêsu và Chúa Cha.
Thánh Thần… Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy.
Chúng ta chiêm ngắm trong tâm hồn họa phẩm Chúa Ba Ngôi do Rublev vẽ một cách tuyệt đẹp, hiện được lưu giữ trong bảo tàng viện Trétiakov tại Mát-cơ-va và người ta từ thắp nới trên thế giới thường đến tham quan. Ba Ngôi vị đều có cánh, thông hiệp với nhau rất mật thiết, chung quanh một cái bàn kỳ diệu, làm nên một trong vòng tròn duy nhất và hoàn hảo, do ba đường chu vi của chúng tạo nên Chúa Cha, “vượt trên tất cả”, hiện diện sau chiếc bàn, đang ngắm nhìn đắm đuối Người Con dấu của mình, ngồi ở bên hữu và thông ban tất cả. Chúa Con, mặc áo màu da người hồng đỏ, đang để cho màu xanh của thiên tính Chúa Cha xuyên qua lấp lánh cũng nhìn đắm đuối Thánh Thần và thông ban tất cả. Nhưng mầu nhiệm của mối hiệp thông yêu thương giữa Ba Ngôi không dừng lại ở đó. Ôi, kỳ diệu thay! Trong Thánh Thần, vòng tròn tự mở ra, vì chính Thánh Thần đang ngắm nhìn và chỉ ngón tay về phía trái đất để thông ban cho trái đất tất cả. Chúa Ba Ngôi, đó là mỗi tình yêu thương mật thiết vĩnh cửu giữa ba mà chỉ là một: Chúa Cha ở trong Chúa Con và Chúa Con ở trong Chúa Cha, trong cùng một Thánh Thần. Do đó, Đức Giêsu đã đến dẫn đưa các môn đệ của Người vào trong “gia đình” đó nhờ Thánh Thần.
Thánh Thần sẽ dạy cho anh em mọi điều. Và làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.
Theo Đức Giêsu, Thánh Thần là Đấng sẽ thông truyền trọn vẹn sự sống của ‘Thiên Chúa cho nhân loại, khi giúp cho con người dần dần hiểu Lời Thiên Chúa, Lời đó là chính Đức Giêsu, Ngôi lời của Chúa Cha. Thánh Thần sẽ dạy dỗ và làm cho nhớ lại… Chính các Tông đồ tuy đã sống nhiều tháng năm với Đức Giêsu, cũng chưa có một đức tin đích thực nơi Người, vào lúc Người ra đi. Gioan thú nhận rằng, sau này ông mới nắm bắt được những gì Đức Giêsu đã nói (Ga 2, 17-22; 13, 6-19). Khi Đức Giêsu ra đi, trong một ý nghĩa nào đó, thì chưa có gì là hoàn tất, là cố định. Chính Thánh Thần sẽ giúp Giáo hội dần dần hiểu biết “điều đã được mạc khải”. Một số người nghiêm khắc đã vội ngạc nhiên vì Giáo hội “thay đổi”. như họ phản đối. Nhưng rõ ràng đối với Đức Giêsu,. Giáo hội còn phải thay đổi nhiều hơn do ảnh hưởng của Thánh Thấn. “Thánh Thần sẽ dạy anh em và sẽ làm cho anh em nhớ lại..”. Phần lớn những Lời của Đức Giêsu chỉ được bày tỏ khi được suy gẫm và cầu nguyện trong ký ức của Giáo Hội trong nhiều thế kỷ. Mọi tín điều kinh Tin kính đã có một quá trình lịch sử và chỉ được định tín sau một thời gian dài để cho chín muồi. Và tình trạng đó vẫn còn tiếp tục. Chúng ta có thực sự tin Thánh Thần hiện diện trong Giáo hội không? Tại sao Thánh Thần lời có thể ngừng hoạt động ở thế kỷ thứ III hay thế kỷ XV? tại Công đồng Ni-xê hay tại Công đồng Trentô? Ngày nay, hiển nhiên Thánh Thần vẫn đang làm việc. Đức Giêsu đã nói: “Thầy ở với anh em cho đến tận thế”. Giáo hội vẫn còn nhiều điều phải hiểu biết, phải khám phá, phải sống động. Và điều, đúng thực sự với Giáo hội, cách tổng quát, với lịch sử của mình trong thời gian vẫn còn đúng thực, cách riêng biệt, với mỗi người chúng ta: Thánh Thần còn phải giúp tôi khám phá ra nhiều điều! Trong tôi vẫn có một khả năng lãng quên không thể tưởng. Như thế, khi lời Tin Mừng được chiếu sáng cho tôi, được Thánh Thần tác động vật soi sáng, tôi đừng chần chờ thực hành và tuân giữ lời đó để sớm hiểu được mầu nhiệm Thiên Chúa và con người.
Thầy để lại bình an cho anh em. Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng, Lòng anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi. Anh em đã nghe Thầy bảo: “Thầy ra đi và đến cùng anh em”.
Bình an! Shalom! Đó là lời chào chúc quen dùng tại Israel. Nhưng ở đây, đó là lời chào chúc Phục sinh của Đức Giêsu sống lại: bình an phát xuất từ sự hiện diện của Đấng được coi là Vắng Mặt, nhưng Đấng đó không ngừng trở lại đối với những kẻ yêu mến Người… Một thứ bình an mà thế gian không thể nào nhận ra được, vì thế gian không nhận ra sự hiện diện đầy an ủi đó.
Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đến cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy. Bây giờ Thầy nói với anh em trước khi sự việc xảy ra, để anh em tin khi sự việc ấy xảy ra.
Trong khi thi hành sứ vụ tại trần gian, Đức Giêsu chỉ có thể hiện diện với tất cả những giới hạn của không gian và thời gian: đó là những giới hạn của “thân phận con người”. Đức Giêsu nhận biết điều đó: “Vì là con người, nên Thầy thấp kém hơn Chúa Cha!”. Một kiểu nói cần phải hiểu cho đúng, vì nó không phủ nhận những kiểu nói khác nhằm quả quyết Đức Giêsu ngang hàng với Chúa Cha. Chính các tông đồ cũng không hiểu biết gì vào chiều hôm đó.
Lạy Thánh Thần, xin hãy đến!
“Thánh Thần sẽ nhắc nhở các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con”.
Bài Tin Mừng hôm nay được trích trong bài Chúa Giêsu từ biệt các Tông Đồ. vì lúc sắp ra đi, để trấn an các Tông Đồ, Chúa Giêsu đã hứa, dầu ra đi, người cũng vẫn hiện diện và hứa ban bình an cho các ông.
“Chúa Giêsu không muốn thứ tình yêu trừu tượng hoặc thuần tình cảm, Người chủ trương một tình yêu bằng việc làm là tuângiữ các giới răn Người đã truyền.
“Cha Người sẽ yêu mến người ấy”: tình yêu ở đây là một tương quan có tính cách hỗ tương: Yêu mến Thiên Chúa thì có tương quan cá nhân với Người.
“Và chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy”: kiểu nói “đến”và “ở” không có ý diễn tả một nơi chốn cho bằng có ý nhấn mạnh đến một thực tại có thật và chắc chắn của tình yêuBa Ngôi Thiên Chúa đối với những ai yêu mến Người bằng cách thực hành các giới răn của Người.
Ở đây có ý nhắc lại dưới hình thức tương phản để nhấn mạnh tính cách thực hành tình yêu đối với Thiên Chúa.
Ở đây Chúa Giêsu có ý chứng minh việc giữ lời Chúa là yêu mến Chúa vì lời đó không phải là lời bình thường của người phàm nhưng là lời của chính Thiên Chúa, Đấng đã sai Chúa Giêsu, ngôi lời nhập thể (Ga 1,1) xuống thế gian để cứu chuộc loài người.
Khi còn ở thế gian Chúa Giêsu đã ban bố những lời của Thiên Chúa cho loài người.
Nay Chúa Giêsu ra đi, sự lưu truyền của Thiên Chúa trong Giáo Hội không phải là một sự tồn kho bất động, bởi vì chính Chúa Thánh Thần, đấng mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Chúa Giêsu, làm nên sự lưu truyền này bằng cách dạy dỗ và nhắc nhở cho Giáo Hội tất cả những gì Chúa Giêsu đã ban bố khi còn ở thế gian.
Chúa Giêsu đã loan báo (Ga 14,16) là sẽ xin Cha sai Thánh Thần, đấng bào chữa đến với các Tông Đồ. người cũng thêm là cha sẽ sai đến nhân danh Người. cả hai cách nói có tính cách tương đương và tạo nên một trong những công thức chính xác Chúa ba ngôi hiện diện trong người tínm hữu, có cùng một mục đích là làm cho họ nhận biết lời của Thiên Chúa và cho họ tham dự vào mầu nhiệm sự sống Thiên Chúa.
Theo phong tục Do Thái, khi từ giã nhau, người ta thường chào nhau bằng lời “bình an”, nhưng ở đây sự bình an của Chúa Giêsu để lại, không có ý nghĩa như lời chào từ biệt thông thường vì thế gian chỉ có thể chúc bình an chứ không tự mình ban bình an được, còn Chúa Giêsu chính Người ban bình an riêng của Người.
Sự bình an này, bình an của Chúa Phục Sinh (Ga 20,29;21,26) hệ tại chiếm hữu sự hiện diện đích thực của Thiên Chúa, một sự hiện diện dưới hình thức mà thế gian không trông thấy, nhưng những ai tin vào Người mới thấy được (Ga 14,18-21). Ơ đây cho thấy sự hiện diện đích thực nhưng vô hình của Chúa Giêsu Phục Sinh trong Giáo Hội.
chính việc tin nhận sự hiện diện đích thực nhưng vô hình của Chúa Giêsu Phục Sinh trong Giáo Hội sẽ bảo đảm sự bình an cho các Tông Đồ và đồng thời giúp các ông thoát khỏi mọi chướng ngại trong đời sống Tông Đồ tại trần thế này.
“Thầy đi: Chúa Giêsu chịu nạn chịu chết.
Thầy trở lại: Chúa Giêsu trở lại bằng nhiều trạng thái khác nhau:
+ Bằng sự sống lại là việc xảy ra rất gần.
+ Đến trong ngày tận thế còn xa vời.
+ Đến trong thời gian bằng cách mầu nhiệm trong các tâm hồn.
+ Đến trong Thánh Thể.
+ Đến bằng sự can thiệp vào dòng lịch sử.
Chúa Giêsu trở về với Chúa Cha, là Đấng đã sai Người là Đấng cao trọng hơn Người.
Kiểu nói “Cao trọng hơn” có ý nhắm đến ngôi lời nhập thể, xét theo phương diện bản tính loài người nơi Chúa Giêsu, thì Chúa Cha trọng hơn Chúa Giêsu. vì thế nói trở về với Chúa Cha là nói bản tính loài người của Chúa Giêsu được cất nhắc lên và được tôn vinh. Nếu các môn đệ hiểu được như vậy thì sự ra đi của Chúa Giêsu là niềm vui cho các ông.
Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ về việc người ra đi chịu chết để khi việc xảy ra thì các ông không nản lòng. Hơn nữa, được vững dạ, vì biết rằng tất cả mọi sự đó đã được trù liệu trong chương trình của Thiên Chúa, và như thế người sẽ được vinh hiển hơn và chính các môn đệ nhờ đó sẽ được ích lợi hơn.
III. ÁP DỤNG:
A/ Áp dụng theo Tin Mừng:
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Giáo Hội muốn chúng ta nhận ra rằng Chúa Giêsu Phục Sinh đã từ bỏ đời sống trần thế là đời sống đã làm cho người có thể được nhận biết một cách khả giác, nhưng khi người được nâng lên trong vinh quang Thiên Chúa hiệp nhất các mầu nhiệm với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần thì người đã vượt qua mọi giới hạn hẹp hòi của không gian và thời gian để nhờ đó người luôn luôn hiện diện cách vô hình đối với những ai tìm kiếm người với niềm tin.
B/ Áp dụng thực hành:
Nghe lời Chúa nói:
1/ Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy: Chúa Giêsu muốn chúng ta yêu mến Chúa không bằng tâm tình trừu tượng nhưng bằng việc làm cụ thể là tuân giữ những lời Chúa truyền dạy. Thực hành lời Chúa trong đời sống hằng ngày là cách tỏ lòng yêu mến Chúa thật tình.
2/ “Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy” càng yêu mến Chúa bằng cách thực hành lời Chúa thì càng được Chúa ban nhiều ơn vì có Chúa ở cùng Cha chúng ta. Kinh nghiệm cho thấy càng kiên trì trong việc thực hành lời Chúa thì càng dễ nhận ra ý Chúa và hoạt động của Chúa trong mỗi sự việc và trong mỗi biến cố trong đời sống
3/ Thầy đã nói với các con những điều này khi còn ở với các con: lời Chúa được lưu tồn trong thánh kinh. Chính Chúa Thánh Thần sẽ dạy dỗ và nhắc nhở cho chúng ta về lời của Chúa mỗi khi chúng ta tiếp xúc với lời Chúa trong thánh kinh. Vậy muốn hiểu lời Chúa để thực thi chúng ta phải được Giáo Hội, dụng cụ hoạt động của Chúa Thánh Thần hướng dẫn, và phải cầu xin ơn Chúa Thánh Thần soi sáng bằng lời cầu nguyện trước khi đọc, học và suy niệm lời Chúa.
4/ Thầy để lại bình an cho các con: chính Chúa Giêsu là sự bình an cho chúng ta. Vì vậy chúng ta sẽ được bình an thật, khi chúng ta biết tin nhận sự hiện diện của Chúa trong quyền năng, sự quan phòng và tình thương của Người.
5/ Lòng các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi: niềm tin tưởng vào Thiên Chúa sẽ giúp chúng ta tìm lại được an bình trong xáo trộn của cuộc ồng và tăng thêm can đảm để vượt qua những gian lao thử thách trên đường đời.
6/ Thầy đi rồi Thầy trở lại với các con: Chúa trở lại với chúng ta bằng nhiều hình thức:
Bằng sự sống lại để chuẩn bị sự sống đời đời cho chúng ta.
Bằng cách đến trong ngày phán xét để đem chúng ta vào vào trong sự sống đời đời.
Bằng phép Thánh Thể để nuôi dưỡng sự sống đời đời cho chúng ta (Sự sống thiêng liêng phần hồn).
Bằng ơn thánh để tăng trưởng sức sống thiêng liêng cho tâmhồn chúng ta.
Bằng cách can thiệp vào dòng lịch sử để tỏ bày quyền năng và sự quan phòng của Chúa hầu gây nền niềm tin cho ta.
7/ “Giờ đây Thầy nói với các con trước”:
Lời Chúa sẽ giúp chúng ta giải thoát mọi vấn đề xảy ra nơi bản thân, ngoài xã hội và trong thiên nhiên.
“THẦY BAN CHO ANH EM SỰ BÌNH AN CỦA THẦY. THẦY RA ĐI VÀ TRỞ LẠI VỚI ANH EM”.
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
Sách Bài đọc Chúa nhật này trích trong chương 14 của Tin Mừng Thánh Gioan, một đoạn xoay quanh chủ đề “ra đi”, chủ đề được diễn tả bởi những từ được lặp đi lặp lại.: “ ra di”, “đi “, “trở về”, “con đường”… Tin Mừng ám chỉ hành trình nào? Đức Giêsu trở về với Chúa Cha. Rõ rồi. Nhưng, đây cũng còn là hành trình của các môn đệ được người hướng dẫn về với Cha.
– Với Đức Giêsu, sự ra đi của Người đã đến gần. Các môn đệ ưu phiền vì viễn tượng này người nói với họ rằng Người đi, rồi trở lại với họ, để bắt đầu giữa họ và trong họ một cách hiện diện khác, nhiệm mầu, chỉ dành cho những ai trung tín với lời người. Người không có ý đề cập đến sự trở lại với hình dạng thể lý, cũng không phải sự trở lại huy hoàng ngày thế mạt; nhưng, ngay từ bây giờ. là sự hiệp thông nghĩa thục với Thiên Chúa trong mầu nhiệm Ba Ngôi “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy”.
Một thời kỳ đã kết thúc, thời kỳ người ta thấy được bằng mắt, nghe được bằng tai. Với biến cố phục sinh, một thời kỳ mới bắt đầu, một cách thế khác cho liên hệ giữa Người với các môn đệ. Thời kỳ của Chúa Thánh Linh mà “Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy”. Người sẽ dẫn các ông tới chỗ hiểu thấu đáo lời nói và cử chỉ của Đức Giêsu.
Hai từ ngữ chỉ chức vụ: đã được uỷ thác cho Chúa Thánh Linh, Đấng Bầu Chữa: “dạy dỗ “, “nhắc lại “.
– Người sẽ dạy dỗ họ tất cả những gì Đức Giêsu thừa lệnh Chúa Cha thông truyền cho nhân loại. Như vậy, những gì mà các ngôn sứ loan báo sẽ thực hiện ngoài sự trông đợi: “mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy bảo” (Is 54,13; xem thêm Giêrêmia 31,33ss).
– Người sẽ nhắc họ nhớ lại tất cả những gì Đức Giêsu đã nói với họ. Không phải chỉ là ôn lại, nhưng theo cách nói của Kinh Thánh, là chấm phá ra ý nghĩa những lời nói và cử chỉ của Đức Giêsu dưới ánh sáng của biến cố Phục sinh.
X Léon-Dufour chú giải: “Khi nhắc các môn đệ nhớ lời của Đức Giêsu, Chúa Thánh Linh không chỉ lặp lại giọng điệu của Thầy cho những trí nhớ quá tệ, nhưng Ngài còn giải nghĩa dưới ánh sáng Phục sinh cho các ông nắm bắt được ý nghĩa mà, cho tới lúc này còn rất tối tăm đối với các ông. Nhiệm vụ giải thích của Chúa Thánh Linh liên quan tới sứ điệp của Ngôi Con, nhằm làm cho cộng đoàn thành nơi mạc khải luôn được tiếp tục và hiện thực một cách sáng tạo trong đời sống các tín hữu. Như thế lời Đức Giêsu luôn sống động qua thời gian” (Sđd, trg l32).
Rồi để từ biệt những người thân của mình, và vào lúc sắp sửa vượt qua thung lũng Cédron để tới Giếtsêmani, như báo trước lời đầu tiên của Đấng phục sinh, Đức Giêsu ban bình an cho các các môn đệ.
Bình an, đối với người quen thuộc Thánh Kinh, không phải chỉ là sự vắng bóng bạo hành, tĩnh lặng trong tâm hồn, mà chính là sức khỏe, sự thịnh vượng, hạnh phúc sung mãn, ơn cứu độ. Và chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể ban bình an này. Vì đó là phúc lộc cứu độ tuyệt vời nhất: “Lúc đó, sự công chính nở rộ và bình an lớn lao tới khi mặt trăng khuất bóng “ (Tv 72, 7).
Đức Giêsu, Đấng Chúa Cha sai đến, là Đấng trung gian của sự bình an này, nên Người có thể gọi đó là sự bình an của mình: “Thầy ban bình an của Thầy cho anh em”.
Không phải là thứ bình an giả tạo mà nhiều lần các ngôn sứ đã cảnh báo và Đức Giêsu đã từ chối đem xuống trên mặt đất nhưng là bình an đích thực của Thiên Chúa, mà để ban cho thế gian, Đức Giêsu đã hy sinh mạng sống.
Hiệu quả của ơn bình an này là: các môn đệ không còn xao xuyến nữa, dù trước viễn tượng Đức Giêsu sẽ khuất dạng, hay trước nhiệm vụ đang chờ họ, chính họ sẽ là những người đem Tin Mừng cứu độ vào giữa lòng thế giới.
BÀI ĐỌC THÊM:
Lời tạm biệt của Đức Giêsu không để đành tới ngày mai, nhưng là ngày hôm nay người ta suy diễn từ sự hỗn độn trong cách dùng thì của động từ (ngôn ngữ Tây phương rõ rệt hơn).
Có lúc Đức Giêsu nói trong thì hiện tại: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi, Thầy đến với anh em” (14,28), nhưng chỉ một lúc sau đó, Người lại nói ở thì tương lai: “Chúng Ta sẽ đến ở lại với người ấy” (14,23); và rồi, Người lại dùng thì hiện tại: “Thầy ra đi và trở lại cùng anh em” (l4,28). Đức Giêsu đến làm đảo lộn thời gian chúng ta vẫn quen: Điều này có nghĩa là Đức Giêsu đến từ một thế giới khác, nhưng cũng có nghĩa là Người làm chủ tiến trình lịch sử: với kẻ tin, Đức Giêsu còn thực hiện những công trình lớn lao hơn những điều người đã thực hiện khi còn sống đời dương thế, và qua hành động này của Đức Kitô, các môn đệ cảm nghiệm được sự hiện diện của Đức Giêsu. Đấng luôn ở với họ. Có thể suy diễn như thế về những người đã ra đi trước chúng ta không? Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã can đảm nêu lên: “Tôi muốn rời trời cao để đi gieo hạnh phúc cho trái đất”. Đối với chị, những bậc “chân phước” không thể làm ngơ trước thân phận con người còn tại thế. Người chết hiện diện trước mắt ta, một sự hiện diện như chính sự có mặt của Đức Kitô. Dĩ nhiên, chúng ta không có ý đề cập đến lời nói và chữ viết cầu cơ. Sự hiện diện này tương tự với sự hiện diện của Thánh Linh do Chúa Con sai đến. Mầu nhiệm của sự hiệp thông sâu xa này chắc chắn không được tỏ lộ rõ ràng; đó là mầu nhiệm mà thần học gọi là “các thánh cùng thông công”.
(Henri Denis, trong “100 từ ngữ diễn tả đức tin”, DDB, trg 161-162).
Đấng Bầu chữa, đó là từ dịch từ tiếng Hy Lạp, lúc đầu có nghĩa tố tụng là trạng sư, người bênh vực, trợ giúp. Rồi nghĩa rộng là Đấng an ủi, chuyển cầu. Điều hơi lạ là lúc đầu, chữ này dùng chỉ Đức Kitô (Trong thư thứ nhất của thánh Gioan 2,1) “nếu có ai phạm tội, chúng ta có Đấng Bầu Chữa trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng công chính”. Nhưng phần nhiều dùng chỉ Chúa Thánh Linh. Và nếu hiểu về Chúa Thánh Linh với tất cả những đức tính nêu trên, chúng ta sẽ nhận ra rằng: ở trần gian này, không thể một mình mà trung tín với Đức Kitô được. Tuy nhiên, Đức Giêsu đã tiên liệu một phương thế: các con sẽ không cô độc đâu. Đức Kitô khuất dạng đã nhường chỗ cho Đấng biện hộ. Ngài đem đến cho các Kitô hữu một liều thuốc kháng độc cần thiết để họ sống đúng đời Tin Mừng giữa trần gian nhiều thử thách.
Thật là đúng khi tin tưởng rằng – từ khi Đức Giêsu ra đi, tức lúc Người lên trời – Tất cả những gì Đức Kitô thực hiện cách tỏ tường trong thế giới này đều được thực hiện bởi những người dám liều mình vì đức tin, nhiều khi hy sinh cả mạng sống nữa.
Họ không cô độc là thế? Đấng thi công vĩ đại, khi hợp nhất mọi người, hợp nhất chính Giáo Hội, chính là Đấng Bầu chữa vô hình. Người đem sức mạnh đổ xuống tràn đầy trên người yếu đuối, đem dũng cảm đổ xuống tràn đầy trên người sợ sệt. Đó là ơn an ủi của Chúa Thánh Linh, như một ngọn lửa cháy lan từ Kitô hữu này sang Kitô hữu nọ, từ thế hệ này sang thế hệ kia.
Để kết thúc, đề nghị bạn cùng tôi đọc những câu đầu trong thư thứ hai của thánh Phaolô gởi tín hữu Côrintô (1,3-7) và thay những từ trạng sư, bênh vực, an ủi, bằng chính từ Hy L.ạp paraclitos. Bạn sẽ cảm thấy một ấn tượng kỳ lạ. Như lặp lần nữa đi (chín lần), Bạn sẽ hiểu chúng ta thực sự chìm ngập trong Paraclitos, Thánh Linh-bầu Chữa.
“Chúc tụng Thiên Chúa là thân phụ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Người là Thiên Chúa mọi niềm an ủi; Người đã ban Đấng Bầu chữa cho chúng ta trong mọi nỗi gian truân, để chúng ta có thể trở thành kẻ bầu chữa cho tất cả những ai trong cơn hoạn nạn nhờ Đấng Bầu Chữa mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Vì cũng như chúng ta chia sẻ muôn nỗi khổ ải của Đức Kitô, thì nhờ Người, chúng ta cũng được chứa chan niềm an ủi. Chúng tôi phải chịt gian nan ư? Chính là dể anh em được ủi an và cứu độ. Chúng tôi nhận lãnh Đấng Bầu chữa ư? Cũng là để anh em được nhận lãnh Đấng Bầu chữa. Chúng tôi lấy làm an tâm về anh em, vì biết rằng anh em thông phần thống khổ với chúng tôi thế nào, thì cũng được thông phần an ủi như vậy”.
SỰ HIỆN DIỆN LIÊN TỤC CỦA CHÚA GIÊSU
Việc Thiên Chúa đến ở đây khác xa với ý nghĩ của những người Do thái cũng như của các môn đệ. Được nuôi dưỡng bằng những câu chuyện Cựu Ước, các thị kiến tiên tri, các quang cảnh có tính cách Khải huyền, họ mơ đến một cuộc thần hiện dị thường, chói lòa vinh quang Thiên Chúa (Is 60), một cuộc phán xét toàn diện chấm dứt dòng lịch sử để thiết lập vương quyền Thiên Chúa và các thánh (Đn 7). Giuda bày tỏ sự ngạc nhiên của tất cả các môn đệ: “Thưa Ngài tại sao có thế này: là Ngài chỉ tỏ mình ra cho chúng tôi, chứ không cho thế gian?” (c.22). Ông ta mơ đến một cuộc hiển hiện khả giác. Ông không hiểu rằng việc Chúa Giêsu và thánh linh chỉ được nhận biết trong đức tin.
Thoạt nhìn, câu trả lời của Chúa Giêsu (c.23) như bất biết câu hỏi và sự ngạc nhiên của Giuda. Thực ra Ngài trực tiếp trả lời câu hỏi đó, khi loan báo sự mạc khải mầu nhiệm của Ngài và nói lên nguyên nhân khiến thế gian không hiểu được mạc khải ấy. Ngài bỏ qua mọi viễn tượng cánh chung, để chỉ nói việc Thiên Chúa đến trong Giáo hội và trong thời gian. Đó là một quan điểm hoàn toàn mới mẻ được đưa vào nhân câu hỏi của Giuda.
Để tiếp đón Thiên Chúa, phải tin nhận lời Ngài và đáp trả bằng tình yêu. Tất cả truyền thống Thánh kinh đã tuyên bố như vậy. Biết Thiên Chúa là có tương quan với Ngài trong nội tâm và tình yêu. Tám thế kỷ trước Chúa Giêsu, Ôse đã loan báo sự cứu độ Israel như là cuộc đính hôn và biểu thị đặc tính của nó bằng sự “nhận biết” Thiên Chúa: “Ta sẽ đính hôn với ngươi muôn thuở, cưới ngươi trong công bình, chính trực, dịu hiền và yêu mến; Ta sẽ đính ước với ngươi trong chung thủy, và ngươi sẽ biết Giavê” (Os 2,20-22). Theo kiểu nói phúc âm, các môn đệ biết rằng yêu Chúa Giêsu đầu tiên cốt tại “giữ lời Ngài” (c. 15 và 21), nghĩa là nhận ra trong sứ điệp của Ngài những đòi hỏi và những ân huệ của tình yêu Thiên Chúa và đáp trả bằng sự dấn thân cả đời sống cách đích thực và quảng đại.
Đối với những ai yêu Ngài như thế, Chúa Giêsu hứa hẹn rất tuyệt diệu Ngài không nói đến tình yêu mà NGÀI đương nhiên dành cho họ, nhưng Ngài loan báo cho họ tình yêu và hồng ân kỳ diệu của Chúa Cha: đó là cùng với Chúa Con (c.18-21), chính Chúa Cha sẽ đến ở với các tín hữu. Các Ngài sẽ đến cư ngụ trong họ như trong đền thờ của mình (x.4,21-24).
Cựu Ước đã biết việc Thiên Chúa đến, ví dụ việc Ngài đến thăm Abraham dưới cây sồi Membré (St 18,1-15), nhưng đó chỉ là một sự gặp gỡ tạm thời dưới hình dáng bên ngoài. Các tiên tri đã loan báo một cuộc thần hiện vinh quang vào thời cánh chung (Is 60), nhưng sự thể hiện kỳ diệu này không để chỗ cho sự thân mật sâu xa giữa Thiên Chúa và tín hữu Ngài, với lại không có vấn đề cho cuộc sống này. Còn Chúa Giêsu hứa ban cho các người của Ngài, ngay từ đời này, được kết hợp thân mật cá vị với Thiên Chúa trong chốn sâu thẳm của đời sống Ba Ngôi. Ngài không dùng chữ “tỏ mình” nữa (c.21) vì trong câu hỏi của Giuda, chữ đó dễ gây hiểu lầm (c.22). Việc Thiên Chúa đến mà Ngài loan báo vượt lên trên tất cả những mơ tưởng của Do thái giáo và những kỳ vọng của các tiên tri: đó là sự hiện diện trực tiếp của chính Thiên Chúa trong nội tâm và tình yêu; lời hứa tuyệt vời của phúc âm là vậy.
Những ai chối từ tình yêu Thiên Chúa (c.24) thì không thể thấu triệt việc Thiên Chúa Ba Ngôi đến cách vô hình mà Chúa Giêsu vừa loan báo cho những ai yêu mến Ngài. Họ không “biết” Chúa Giêsu vì đã khước từ sứ điệp của Ngài. Họ không thể “biết” Chúa Cha, nguồn sứ điệp này (3,31-34; 5,37-38; 7,16-17; 8,47; 12,48-50). Ở đây, Giuda tìm thấy lời giải đáp cho câu hỏi của ông: chỉ biết được Chúa Giêsu nhờ đức tin (1,9-12), Ngài chỉ tỏ mình ra cho những kẻ tin (14,19).
Đã có một thời gian Chúa Giêsu hiện diện cách hữu hình với môn đệ; họ có thể nghe lời Ngài qua giác quan (c.25). Nhưng bây giờ thời gian này không còn nữa, và phục sinh sắp mở đầu một thời gian mới trong đó tương quan giữa thày và trò thay đổi cách thức (Lc 24,44). Sự lưu truyền lời chúa phán trong cuộc đời tại thế vẫn còn. Và chính sự lưu truyền này phát sinh ra phúc âm. Tuy nhiên nó sẽ được đổi mới hoàn toàn.
Chúa Giêsu đã loan báo trong diễn từ (14,16) là sẽ xin Cha sai Thánh Thần bàu chữa đến với họ. Ở đây Ngài cũng thêm là Cha sẽ sai đến nhân danh Ngài. Cả hai cách nói tương đương và tạo nên một trong những công thức chính xác rõ ràng nhất về thần học Thiên Chúa Ba Ngôi trong Tân Ước. Thiên Chúa Ba Ngôi hiện diện trong tín hữu, có cùng một mục đích là làm cho họ nhận biết sứ điệp Thiên Chúa và cho họ thông hiệp vào mầu nhiệm sự sống của Ngài.
KẾT LUẬN
Nhờ suy tư sau khi gần hoàn tất phúc âm, thánh Gioan ngày càng thấu triệt khiếm diện và hiện diện của Chúa Giêsu trong các môn đệ. Từ lúc Chúa chết trên thập giá, ông đã sống trong sự khiếm diện siêu việt của Chúa. Ông có thể kết luận cuốn phúc âm của mình: “Phúc cho những ai không thấy mà tin” (Ga 20,29). Vì ông kinh nghiệm rằng sự hiện diện của Chúa Giêsu đối với các môn đệ không cốt tại các thị kiến phi thường, cũng không phải trong các lần hiện ra ngắn ngủi và dành riêng cho một vài nhân chứng sau khi sống lại, nhưng sự hiện diện luôn có đối với những ai tìm kiếm Ngài với niềm tin. Được nâng lên trong vinh quang Thiên Chúa, hiệp nhất cách mầu nhiệm với Cha và Thánh Thần, Đấng Phục sinh đã từ bỏ đời sống trần thế, là đời sống đã làm cho Ngài có thể nhận biết một cách khả giác. Nhưng khuất mắt ta để từ đây luôn luôn hiện diện với chúng ta theo cách thế của Thiên Chúa (Mt 28,20)
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
Đối với người Semit, lời nói là cái gì cụ thể; cũng như tên gọi, lời nói là biểu thức của một hữu thể, một ngôi vị; hơn tất cả các phương tiện khác, nó bảo đảm được mối giây liên lạc sống động mà mỗi người cố nối kết với tha nhân; đó là cơn mưa đưa sự sống đến cho trái đất, làm nẩy mầm những hạt lúa sẽ trở thành cơm bánh (Is 55,8-11)
Sự hiện diện của Chúa Giêsu đã biến đổi cuộc đời các tông đồ khi đi sâu vào trong những xác tín của họ. Lúc Chúa Giêsu rời bỏ họ, họ nhớ lại kinh nghiệm đặc biệt mà họ vừa có mà Chúa Giêsu tóm lại trong một chữ: Lời ta. Bằng ấy nói lên tất cả con người của Ngài đối với họ (x.1Ga 2,23; 4,15; 2Ga 9).
Sự hiện diện này sẽ sinh hiệu quả trong họ như sự hiện diện của Thiên Chúa đã sinh hiệu quả suốt lịch sử Israel. Sự hiện diện đó là Shékinah đã theo dân trong sa mạc, đã bao phủ đền thờ trong ngày Salomon cung hiến, đã nâng đỡ những người bị lưu đày, đã hoàn lại sự sống cho “nhóm còn lại”, đã ngập tràn tâm hồn mỗi người trong niềm mong chờ sự hiện diện sung mãn.
Khi theo Chúa Giêsu, các tông đồ đã sống lại lịch sử dân Do thái và thấy mình được kêu gọi sống thông hiệp thân mật với Đấng đã nói với Môisen “như bạn nói với bạn” (Xac 33,11).
Việc khám phá ra sự hiện diện cao quí vô giá sẽ Giáo hội được thực hiện hàng ngày, qua kinh nghiệm của cuộc sống thường nhật, dưới sự phù trợ của Thánh Thần, Đấng làm sống lại tạo vật mới đang thoát dần khỏi bóng tối của sự bách hại, sự chia rẽ và sự chết. Không gì có thể lay chuyển được sự hiện diện đó do Thánh Thần ban.
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
ME-RI-ƠN OÉT (Marion West) là một bé gái 4 tuổi. Ngày nào bé cũng vui mừng nhảy nhót khi thấy mẹ từ chỗ làm tới đón về nhà ăn trưa. Vì bận phải đi làm việc gần nhà nên từ sáng sớm, mẹ cô bé đã đem con nhờ người hàng xóm tốt bụng trông giúp. Rồi đến trưa bà tranh thủ ra khỏi chỗ làm để đi đón con, và hai mẹ con hối hả trở về nhà cùng ăn trưa và vui đùa bên nhau. Rồi đến một giờ chiều, bà lại phải từ giã bé để đến chỗ làm tiếp tục công việc. Sau đó, bé ME-RI-ƠN thường buồn tủi ngồi im lặng hàng giờ đồng hồ. Thế rồi, theo lời khuyên của chuyên gia tâm lý, một ngày kia, mẹ bé đã thôi không về nhà vào mỗi buổi trưa đón bé nữa. Trưa hôm ấy, bé ME-RI-ƠN buồn rầu không thiết ăn uống. Em cứ thắc mắc tại sao mẹ lại không về nhà ăn trưa và chơi đùa với em? Nhưng rồi lâu ngày bé quen dần và trở lại vui vẻ như trước. Nhiều năm sau đó, ME-RI-ƠN mới được mẹ kể cho biết bấy giờ hàng ngày bà vẫn trở về nhà, nhưng không ghé đón cô. Bà thường ngồi bên cửa sổ nhà bếp vừa ăn trưa vừa nhìn con vui chơi với các bạn bên nhà hàng xóm. Bà ao ước được chạy lại ôm ấp cô cho thỏa lòng. Nhưng vì muốn cho con trưởng thành, bà đành nén lòng lại, để con quen dần với sự vắng mặt của bà mà phát triển tâm lý bình thường như bao trẻ khác. Giờ đây khi đã khôn lớn, ME-RI-ƠN mới hiểu lý do tại sao mẹ cô lại làm như thế, và cô lại càng biết ơn mẹ nhiều hơn.
Tin Mừng CN hôm nay ghi lại lời Chúa Giêsu tâm sự với các môn đệ trong bữa Tiệc Ly trước khi Người lìa bỏ các ông ra đi chịu khổ nạn và gồm hai điểm chính như sau:
1) Đức Giêsu hứa ban Thánh Thần: Khi nghe Đức Giêsu tiên báo việc Người sắp ra đi chịu khổ nạn rồi mới được Chúa Cha tôn vinh (x Mc 10,33-34), các môn đệ rất đỗi buồn phiền chán nản. Đức Giêsu đã phải an ủi khích lệ các ông khi cho biết việc Người ra đi là để dọn chỗ rồi sau đó Thầy trò lại sẽ lại được đòan tụ với nhau, nên lẽ ra các ông phải vui mừng vì Người được Chúa Cha tôn vinh. Hơn nữa các ông sẽ không bị mồ côi vì Chúa Cha sẽ sai Chúa Thánh Thần đến an ủi và phù giúp các ông chu tòan sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước Trời. Quả thật sau khi Chúa Giêsu thăng thiên, các môn đệ không còn thấy Người hiện ra nữa. Nhưng Chúa Thánh Thần đã được sai đến vào lễ Ngũ Tuần đến thay Người giúp các ông chu tòan sứ vụ loan Tin Mừng như Người đã hứa: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em (Ga 14, 26).
2) Vai trò của Chúa Thánh Thần: Chúa Thánh Thần giống như một Thầy giáo phụ đạo, sẽ soi sáng và giúp các môn đệ hiểu rõ lời Đức Giêsu dạy và giúp các ông chu tòan sứ vụ làm chứng nhân tình thương của Người đến tận cùng trái đất (x Ga 15,26-27).
3) Ích lợi của việc Đức Giêsu ra đi: Sau khi hoàn tất công việc được Chúa Cha trao phó, Đức Giêsu đã trao lại sứ vụ cứu độ trần gian cho Đấng Bảo Trợ là Chúa Thánh Thần. Dù rất yêu thương các môn đệ và luôn muốn ở bên các ông, nhưng Đức Giêsu vẫn quyết tâm ra đi, vì điều đó mang lại lợi ích thực sự cho các ông. Nó vừa giúp các ông trưởng thành về đức tin hơn, lại vừa giúp họ đón nhận được đầy ơn Thánh Thần để chu tòan sứ vụ được sai đi (x Ga 20,22-23), loan báo Tin Mừng và dạy dỗ người ta (x Mt 28,19-20), làm chứng nhân cho tình thương của Thầy Giêsu “cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).
4) Ứng dụng vào thực tế: Câu chuyện của bé ME-RI-ƠN nói trên phù hợp với ý nghĩa bài Tin mừng hôm nay. Điều thích hợp và hữu ích đối với cô bé bốn tuổi ME-RI-ƠN và các môn đệ của Đức Giêsu, cũng hữu ích cho các tín hữu chúng ta hôm nay. Có những lúc, chúng ta có cảm tưởng như bị Thiên Chúa bỏ rơi: Khi ta chán nản, không còn thiết tha với việc cầu nguyện hằng ngày, với việu chầu trước Nhà Tạm thờ Chúa Giêsu Thánh Thể… Có những lúc đức tin của chúng ta trở nên yếu đuối khác hẳn với sự mạnh mẽ trước đó. Cũng có khi chúng ta không còn hứng thú với các sinh hoạt đòan hội như đi họp, đi làm công tác thăm viếng, quét dọn vệ sinh nhà Chúa, đi tập hát phục vụ trong thánh lễ… Chúng ta có cảm tưởng như bị Thiên Chúa bỏ rơi giống như Đức Giêsu hấp hối trên thập giá đã phải thốt lên: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con. Sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 15,34). Tuy nhiên điều đó lại trở thỳanh cơ hội giúp chúng ta trưởng thành về đức tin, tập yêu Chúa cách quảng đại vô điều kiện, vững tin cậy vào Chúa, tin rằng Chúa để xảy ra tình trạng đó là nhằm thử thách đức tin của chúng ta. Chúa sẽ ban thêm sức mạnh giúp chúng ta vượt qua thử thách. Điều cần phải làm là vững tin vào tình thương của Chúa và chờ đợi chắc chắn Chúa sẽ ban nhiều hồng ân giúp đỡ ta như lời Chúa đã quả quyết với thánh Phaolô được ngài ghi lại như sau: “Ơn của Thầy đã đủ cho con, vì sức mạnh của Thầy d0ược biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối. Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi” (2 Cr 12,9).
5) Kết luận: Chúa Giêsu luôn yêu thương chúng ta. Người muốn hiện diện ở bên để chăm sóc chúng ta là đòan chiên của Người. Nhưng Người biết rằng: Nếu Người lánh mặt đi thì sẽ có lợi cho chúng ta hơn. Người biết đã đến lúc chúng ta cần phải lớn lên về tâm linh, giống như Chúa Giêsu thấy đã đến lúc phải lìa bỏ các môn đệ để đem lại lợi ích cho các ông. Đây cũng là cơ hội để chúng ta nhận ra rằng: việc cầu nguyện có giá trị không hệ tại ở chỗ cảm thấy xúc động nhiều ít,nhưng là lúc tâm hồn chúng ta bị khô cứng như đá, không cảm thấy sốt sắng gì cả. Nhưng đó lại là lời cầu nguyện có giá trị nhất về đức tin. Qua đó, chúng ta hiểu rằng: Đức tin chân chính là một tâm tình dâng hiến, là một thái độ phó thác cậy trông vào Chúa quan phòng, là một lời thưa “xin vâng” thánh ý Chúa Cha như Chúa Giêsu và Đức Ma-ri-a đã trải qua để nêu gương cho chúng ta học tập (x. Mt 26,39; Lc 1,38). Do đó khi dự lễ hay chầu Mình Thánh Chúa, chúng ta không cảm thấy Chúa hiện diện thực sự trong tấm bánh miến, nhưng chúng ta “hãy lấy đức tin bù lại, nếu giác quan không cảm thấy gì”. Bấy giờ đức tin của chúng ta sẽ được Chúa chúc phúc, như lời Chúa Phục Sinh đã nói với ông Tô-ma: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20,29).
1- Khi gặp cơn khủng hoảng về đức tin (chán ngại cầu nguyện, lười biếng làm các việc đạo đức bác ái…bạn sẽ vượt qua khủng hoảng ấy bằng cách nào?
2- Bạn sẽ làm gì để lời chúc bình an cuối lễ được ứng nghiệm trong đời sống thường ngày?
5.NGUYỆN CẦU:
– LẠY CHÚA GIÊSU. Trong Tin mừng hôm nay, Chúa đã hứa rằng: sau khi Chúa ra đi thì Đấng Bảo Trợ khác là Thánh Thần sẽ được Chúa Cha sai đến, để tiếp tục dạy dỗ và làm cho các môn đệ nhớ lại mọi điều Chúa đã truyền dạy trước đó. Chính Thánh Thần sẽ giúp Hội thánh, trong đó có mỗi người chúng con thêm lòng yêu mến Chúa để thực hành được giới răn quan trọng nhất là “mến Chúa yêu người”.
– LẠY CHÚA, cho tới bây giờ hầu như chúng con mới chỉ yêu thương tha nhân bằng sự cầu nguyện, bằng lời nói hơn việc làm. Xin Chúa sai Thánh Thần đến canh tân lòng trí chúng con. Xin cho chúng con ý thức tình yêu phải được thể hiện bằng sự năng nghĩ đến người mình yêu, quên mình và hy sinh phục vụ người bên cạnh, quảng đại chia sẻ giúp đỡ người nghèo có đủ cơm ăn áo mặc, người bệnh có đủ thuốc men chữa bệnh, người đau khổ tìm được sự cảm thông an ủi, người lạc đường được Chúa dẫn đưa về nẻo chính đường ngay.
(Suy niệm của Huệ Minh)
Tin Mừng Ga 14: 23-29: Thước đo lòng yêu mến của chúng ta đối với Chúa: chúng ta sẽ là kẻ không yêu mến Chúa khi chúng ta làm không đủ tiêu chuẩn như lời Chúa dạy. Chúng ta sẽ là người ghét Chúa khi chúng ta làm sai lời Chúa dạy.
Khi rời xa các Tông đồ, Đức Giêsu xác nhận rằng Người không bỏ rơi họ. Người nói với họ: “Thầy ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em” (Ga 16, 7). Và Người làm đúng như lời Người đã nói. Khi chúng ta sẵn lòng để Người khác ra đi, người ấy có thể rời xa chúng ta mà không làm cho chúng ta cảm thấy bị bỏ rơi. Và chúng ta cởi mở lòng mình để đón nhận một điều mới mẻ mà nếu không ra đi người ấy sẽ không đem lại cho chúng ta.
Và ra thấy rằng Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương chúng ta, nhưng Ngài cũng biết rằng đã đến lúc chúng ta cần khởi đầu một giai đoạn mới để được trở nên trưởng thành. Chẳng hạn như đã đến lúc chúng ta phải nhận ra rằng việc cầu nguyện không hệ tại những cảm xúc riêng tư. Và trong những lúc tâm hồn bị chai cứng thì chúng ta lại càng phải cầu nguyện và lời cầu nguyện trong một hoàn cảnh như thế lại thường là lời cầu nguyện tuyệt hảo nhất. Chính Chúa cũng đã xác quyết qua đoạn Tin Mừng hôm nay: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”.
Tại sao chúng ta phải giữ lời Chúa và giữ lời Chúa thế nào? Chúng ta giữ lời Chúa để chứng tỏ lòng chúng ta yêu mến Chúa. Yêu mến ai, chúng ta muốn ở gần người đó, tâm sự trò chuyện quan hệ mật thiết với người đó, thì chúng ta đối với Chúa cũng vậy, và còn hơn thế nữa, là để chúng ta nên giống Chúa. Tục ngữ có câu: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Gần bạn hiền sẽ nên hiền. Và tục ngữ Tây phương cũng nói: “Anh nói cho tôi biết, anh đọc sách gì, anh bầu bạn với ai, tôi sẽ nói cho anh biết anh là người thế nào”. Chúng ta cần tâm sự với Chúa Giêsu, chúng ta muốn nên giống Chúa, nay Chúa đã khuất mặt, thì chỉ còn một cách là đọc lời Ngài, suy gẫm cuộc đời Ngài, chúng ta sẽ học được những ý tưởng, những tâm tình của Ngài. Vì thế, ai muốn quan hệ mật thiết với Chúa, muốn nên giống Chúa, chỉ còn một cách là luôn luôn đọc lại bộ Tân ước, nhất là Tin Mừng, để thấy rõ chân tướng của Chúa Kitô mà học hỏi bắt chước.
Người hiện diện trong những kẻ yêu mến Người: “Ai yêu mến Thầy, Cha của Thầy và Thầy sẽ đến ở lại với người ấy”. Người hiện diện trong những kẻ thực hành và giữ lời Người: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy… Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy”..
Một câu Kinh Thánh đó thôi đủ định nghĩa thế nào là người yêu mến Chúa, nghĩa là dấu hiệu hay bằng chứng để chúng ta biết được hay người khác biết được chúng ta yêu mến Chúa là chúng ta tuân giữ lời Chúa. Và đây cũng là thước đo lòng yêu mến của chúng ta đối với Chúa nhiều hay ít, đó là chúng ta tuân giữ lời Chúa nhiều hay ít. Sau đây chúng ta hãy tìm hiểu xem: Chúa bảo chúng ta tuân giữ lời Chúa, vậy lời Chúa ở đâu? Và chúng ta phải tuân giữ Lời Chúa thế nào?
Yêu mến ai, thì vâng lời người đó, làm theo điều người đó muốn. Không vâng lời ai, là không yêu người đó, ít nhất là không yêu đến độ bỏ ý riêng mà vâng lời. Thánh Y-nhã nói: “tình yêu hệ tại ở việc làm hơn tại lời nói”. Chúa Giêsu đã nói: “không phải những người nói ‘Lạy Chúa, lạy Chúa’ là được vào Nước Trời, nhưng là những kẻ làm theo ý Thiên Chúa” (Mt 7, 21).
Ai vâng nghe Lời Chúa, được Thiên Chúa ở cùng, và người đó trở thành dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện cho người khác nữa.
Nếu Chúa Cha chính là Thiên Chúa trong tình trạng vô hình, thì Chúa Giêsu cũng là Thiên Chúa đã hiện diện, nói năng, hành động để cứu chuộc con người; và Thánh Thần cũng là Thiên Chúa, Đấng kéo dài cách thiêng liêng sự hiện diện, lời nói và hành động của Chúa Giêsu và Chúa Cha. Vì thế, Thánh Thần sẽ thông truyền trọn vẹn sự sống của Thiên Chúa cho con người, khi soi sáng dạy dỗ con người dần dần hiểu lời Thiên Chúa, Lời đó chính là Chúa Giêsu, Ngôi Lời của Chúa Cha: “Thánh Thần sẽ dạy cho anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14, 26).
Chúa Giêsu dạy ta biết có Ba Ngôi Thiên Chúa ngự trong chúng ta: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14, 23); lại có cả Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ cũng luôn hiện diện trong ta cùng với Chúa Cha và Chúa Con: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại những gì Thầy đã nói với anh em”
Những ai chối từ tình yêu Thiên Chúa (c. 24) thì không thể thấu triệt việc Thiên Chúa Ba Ngôi đến cách vô hình mà Chúa Giêsu vừa loan báo cho những ai yêu mến Ngài. Họ không “biết” Chúa Giêsu vì đã khước từ sứ điệp của Ngài. Họ không thể “biết” Chúa Cha, nguồn sứ điệp này (3, 31-34; 5, 37-38; 7,16-17; 8,47; 12, 48-50). Ở đây, Giuda tìm thấy lời giải đáp cho câu hỏi của ông: chỉ biết được Chúa Giêsu nhờ đức tin (1, 9-12), Ngài chỉ tỏ mình ra cho những kẻ tin (14, 19).
Chúng ta có nhiều cách để nói lên tình yêu thương dành cho một người nào đó. Chẳng hạn khi yêu thương ai, chúng ta có thể cầu nguyện cho họ, nghĩ tốt về họ và thầm mong cho họ được nhiều may mắn. Thế nhưng, ý nghĩ và tư tưởng thì trừu tượng, khó mà kiển chứng. Chẳng hạn khi yêu thương ai, chúng ta có thể ca tụng họ và nói tốt về họ. Thế nhưng, lời nói nhiều khi trở thành bôi bác và giả hình.
Tuy nhiên, có một phương tiện chắc chắn nhất để biểu lộ tình yêu thương, đó là việc làm. Đức tin không việc làm, thì chỉ là một đức tin đã chết. Tình yêu không việc làm thì cũng chỉ là một tình yêu đã chết mà thôi. Chúng ta không thể chỉ cho người khác thấy một tình yêu không việc làm. Trái lại, căn cứ vào những việc làm, người ta sẽ đánh giá được tình yêu thương của chúng ta. Và đối với Chúa, việc làm đẹp lòng Ngài hơn cả, chính là tuân giữ những điều Ngài truyền dạy.
Thước đo lòng yêu mến của chúng ta đối với Chúa: chúng ta sẽ là kẻ không yêu mến Chúa khi chúng ta làm không đủ tiêu chuẩn như lời Chúa dạy. Chúng ta sẽ là người ghét Chúa khi chúng ta làm sai lời Chúa dạy. Chúng ta sẽ là kẻ phản bội lời Chúa nếu chúng ta tránh né, coi thường hay lười biếng không làm những việc đáng phải làm. Nếu chúng ta nói yêu mến Chúa mà không tuân giữ lời Chúa, thì có khác gì đứa con gọi dạ bảo vâng, nhưng không chịu làm theo lời cha mẹ dạy. Đó là thứ tình yêu giả hình và là thứ tình yêu đầu môi chót lưỡi mà thôi. Tình yêu phải được thử thách, phải được chứng nghiệm bằng việc làm…
Vì thế, yêu Chúa thì phải thực hành lời Chúa. Thực hành lời Chúa dù ở nhà thờ hay ở nhà mình, nơi làm việc hay ngoài đường phố, chợ búa. Nếu như mọi người đều nhiệt tình áp dụng và thực hành lời Chúa thì nhân loại này yêu thương nhau biết mấy. Nhưng đáng tiếc, lời Chúa dạy: “Các con hãy yêu thương nhau”, chúng ta chưa thực hành đến nơi đến chốn.
Thiên Chúa đã cho mặt trời mọc lên để soi sáng và sưởi ấm, đã cho mưa xuống để ruộng đồng được xanh tươi. Thế nhưng, muốn có được cơm gạo, bác nông phu đã phải làm lụng vất vả suốt ngày dưới ánh nắng gay gắt. Cũng vậy, để được Chúa yêu thương, chúc phúc và cứu độ, chúng ta cần phải cộng tác với Ngài, ít nữa bằng cách tuân giữ những điều Ngài truyền dạy, bởi vì chính Ngài đã xác quyết với chúng ta qua đoạn Tin mừng hôm nay: Ai yêu mến Thầy, thì tuân giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy.
(Suy niệm của Huệ Minh)
Đã lâu lắm rồi, cách riêng người Việt Nam không còn nghe súng đạn, không còn ngửi mùi thuốc súng nữa thế nhưng thử hỏi con người có được sự bình an gọi là bình an bình thường hay không? Con người ngày mỗi ngày vẫn mong đi tìm sự bình an, đi tìm hạnh phúc của đời mình.
Cuộc sống của mỗi người là hạnh phúc hay khốn khổ tùy thuộc vào từng suy nghĩ, lời nói, việc làm của mình. Có những ngày ta thấy thật phấn khởi hân hoan khi vừa mở mắt thức giấc, muốn cùng muôn tạo vật cất lời ngợi ca; và khi chiều tà, lòng ta đầy hạnh phúc khi cất lên lời tạ ơn. Nhưng … làm sao tránh được những đêm trường giăng mắc cả khi bình minh sáng chói. Nhìn đâu cũng thấy ảm đạm, chán chường bởi trong lòng ta mất niềm tin tưởng, cảm thấy bế tắc trước những khó khăn, những áp lực liên tục xảy đến. Ta cầu xin cho thời gian qua mau để đem đi nỗi buồn bực nhưng kết quả gần như ngược lại. Khi ấy, ta đã đánh mất bình an.
Bình an thật sự trong tâm hồn thật quý giá, vậy bạn có biết thế nào là bình an đích thực không? Bình an không có nghĩa là được thanh thản trong môi trường tuyệt vời, như ý muốn. Bình an đích thực là khi bạn cảm thấy lòng mình không lay động trong những rộn ràng, sóng gió cuộc đời! Bình an cũng không phải có ở một gia đình giàu có, sung túc, quyền lực cao sang ! Bình an không phải có nơi sở hữu một chiếc xe hạng sang hay có được những món đồ cao cấp.
Có một vị vua treo giải thưởng cho nghệ sĩ nào vẽ được một bức tranh đẹp nhất về sự bình yên. Nhiều họa sĩ đã cố công thể hiện tài năng của mình.
Nhà vua ngắm tất cả các bức tranh nhưng chỉ thích có hai bức và ông phải chọn lấy một. Một bức tranh vẽ hồ nước yên ả. Mặt hồ là tấm gương tuyệt mỹ vì có những ngọn núi cao chót vót bao quanh. Bên trên là bầu trời xanh với những đám mây trắng mịn màng. Tất cả những ai ngắm bức tranh này đều cho rằng đây là một bức tranh bình yên thật hoàn hảo.
Bức tranh kia cũng có những ngọn núi, nhưng những ngọn núi này trần trụi và lởm chởm đá. Ở bên trên là bầu trời giận dữ đổ mưa như trút kèm theo sấm chớp. Đổ xuống bên vách núi là dòng thác nổi bọt trắng xóa. Bức tranh này trông thật chẳng bình yên chút nào.
Nhưng khi nhà vua ngắm nhìn, ông thấy đằng sau dòng thác là một bụi cây nhỏ mọc lên từ khe nứt của một tảng đá. Trong bụi cây một con chim mẹ đang xây tổ. Ở đó giữa dòng thác trút xuống một cách giận dữ, con chim mẹ đang bình thản đậu trên tổ của mình… Bình yên thật sự.
“Ta chấm bức tranh này! – Nhà vua công bố – Sự bình yên không có nghĩa là một nơi không có tiếng ồn ào, không khó khăn, không cực nhọc. Bình yên có nghĩa ngay chính khi đang ở trong phong ba bão táp ta vẫn cảm thấy sự yên tĩnh trong trái tim. Đó mới chính là ý nghĩa thật sự của sự bình yên”.
Biết bao bạo động, chiến tranh sảy ra đều phát xuất từ những dục tình xấu xa nơi tâm hồn người ta. Muốn dẹp chiến tranh bạo động trước hết phải học chế ngự những mầm mống nổi loạn của trí lòng. Muốn chế ngự được những mầm mống đó không thể không có sự trợ lực của hy sinh, khổ giá. Nhưng điều kỳ lạ mà Tin Mừng Đức Kitô mang cho con người lại là chính khi đón nhận khổ giá thì bình an và sự sống lại phát sinh dồi dào.
Bình an ấy ở đâu? Bình an ở có ở nơi tĩnh lặng thật sự mới có sự bình an! Nơi đó chỉ có ta tồn tại hữu hình. Và khi ta ý thức mình là cá thể độc nhất đang đối diện với Đấng Toàn Năng. Tâm ta sẽ mở rộng, phơi bày mọi thành công, thất bại, ưu cũng như khuyết điểm, vui buồn, lo lắng, … tóm chung, không có ai phải giấu giếm.
Từ đó, ta sẽ ý thức hơn về thân phận mỏng manh, bất toàn của mình, cảm thấy mình không là gì, không làm được gì và không chịu nổi bất cứ điều gì nếu không được Ơn trợ giúp. Nếu ta ý thức được điều này có nghĩa là ta đã biết được bình an rồi đó, ta biết nhận lấy bình an từ đâu rồi đó, vấn đề còn lại là ta có chịu mở lòng đón nhận hay không mà thôi!
Trang Tin Mừng hôm nay trình thuật lại cho chúng ta về phần cuối của cuộc diễn từ ly biệt giữa Chúa Giêsu và các môn đệ. Trong lúc chuẩn bị Thầy trò chia tay nhau để Ngài lên đường chịu chết, chuộc tội cho thiên hạ.
Vì thế, Chúa Giêsu đã để lại cho các ông một gia sản quý giá hơn hết mọi thứ, đó chính là sự bình an. Ngài không nói: “Anh em hãy ở lại bình an”, mà nói: “Thầy để lại bình an cho anh em. Thầy ban cho anh em bình an của Thầy”.
Bình an của Đức Giêsu trao tặng cho các môn đệ không chỉ dừng lại ở việc an toàn về mặt thể xác, mà còn đi xa hơn để đạt được thứ bình an trong sâu thẳm trong tâm hồn. Bình an này hướng người ta về mầu nhiệm cách chung, nhiệm cục cứu độ.
Chúa Giêsu chính nội dung của bình an; hay nói cách khác: Ngài chính là nguồn bình an, Ngài ban cho các ông chính bình an của Ngài.
Bình an của Chúa chắc chắn không phải là một lời chúc mang tính khách sáo, nhưng là một động thái Chúa Giêsu đã thể hiện giữa các môn sinh của mình.
Trong mỗi Thánh lễ, Giáo hội vẫn cầu nguyện xin Chúa Giêsu ban bình an xuống trên toàn thể Hội thánh giống như ngày xưa Ngài đã phú trao bình an cho các tông đồ trước khi đi thụ nạn. Nhưng sự bình an Chúa nói ở đây là bình an như thế nào?
Người ta vẫn thường nói: “Muốn có hòa bình phải chuẩn bị chiến tranh”. Cũng vậy, bình an mà Chúa Giêsu ban tặng đòi hỏi các học trò phải quyết liệt đi vào cuộc chiến đầy gian nan, đó chính là cuộc chiến đấu thiêng liêng. Trong cuộc chiến gian khổ ấy, chúng ta phải chấp nhận chết để được sống, phải đi vào mầu nhiệm tự hủy để được tái sinh trong đời sống mới.
Vì thế, Chúa đã nói: “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy không theo kiểu thế gian (c.27). Hòa bình theo cách thế gian chỉ dựa vào sức mạnh của vũ khí và tiềm lực quân sự, còn bình an mà Chúa Giêsu đem đến phát nguồn từ chính Thánh Thần. Trong thư gửi giáo đoàn Rôma, Thánh Phaolô cũng viết: “Hướng đi của Thần khí là sự sống và bình an” (Rm 8,6).
Niềm an bình Thiên Chúa ban khác hẳn, loại trừ khỏi tâm hồn con người mọi thái độ hung hăng, hiếu chiến, mọi thèm khát bất chính, để làm nảy sinh ra tình yêu thương, tình bằng hữu chân thành, vô vị lợi, lòng nhân từ tha thứ và sự công chính.
Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta để chúng ta luôn tín thác cuộc đời của chúng ta trong tay Chúa, trong sự hướng dẫn của Thần Khí để ta luôn luôn bước đi trong sự bình an nhờ có Chúa ở cùng.
(Bài đã viết ngày 06.05.2007)
Năm ngoái bay tới New York, tôi được một người bạn đưa đi thăm mấy bảo tàng viện. Đến khu trình bày các cổ vật miền Á châu, tôi cảm thấy như đi vào miền đất quen thuộc. Tới khu Việt nam, tôi càng cảm thấy lòng mình như ấm lại. Nhưng càng đi sâu vào nghệ thuật, tôi càng xa lạ với những điều anh bạn thao thao bất tuyệt giải thích. Tôi không có kiến thức về nhân chủng và khảo cổ học. Cái nhìn của tôi chỉ phớt qua trên mặt những cổ vật. Bao nhiêu nền văn minh nấp sau những báu vật đó không tỏa chút ánh sáng nào vào tâm trí tôi. Cổ vật trở thành vô nghĩa, vô hồn và không chút giá trị gì đối với một người “dốt đặc cán mai” như tôi.
ĐIỀU RĂN MỚI
Giới răn tình thương cũng chịu một số phận tương tự. Chúng ta đã nói về đức ái rất hay, nhưng có lẽ vẫn chưa hiểu hết ngọn nguồn sâu xa của đức ái. Có lẽ khi nghe Chúa công bố “điều răn mới,” một vài môn đệ hời hợt có thể có những nhận định tương tự như tôi trước cổ vật. Họ có lý khi thấy chẳng có gì mới nơi điều răn của Thày. Nói khác, họ chẳng thấy có giá trị nào đặc biệt nơi những điều Thày vừa trình bày. Họ đã nghe nhàm tai giới răn thương yêu. Từ Ngũ Kinh đến các ngôn sứ, họ đã thấy nhai đi nhai lại điều răn đó. Vậy thì mới ở chỗ nào?
Trước hết, giữa giới răn thương yêu và vinh quang Đức Kitô bên Chúa Cha có một mối liên kết. Tình yêu là phản ảnh Đức Kitô vinh quang, Đấng mang đến cho toàn thể vũ trụ một cái nhìn đặc biệt về tình yêu. Người trở thành con đường để con người đi lên với Thiên Chúa và Thiên Chúa xuống với con người. Tất cả sứ mệnh của Người có thể tóm gọn trong lời ngôn sứ Isaia 61:1-2: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.” (Lc 4:18-19) Khi xuống trần gian, Đức Giêsu nhắm làm vinh danh Thiên Chúa Cha. Vinh quang Thiên Chúa là con người được hạnh phúc. Vinh quang chỉ đến khi con người thực sự trở thành con người. Chính vì thế, Người quyết tâm hồi phục địa vị cao cả của con người trên vũ trụ.
Hơn nữa, tình yêu đưa con người vào cảnh “trời mới đất mới.” Nơi đó Thiên Chúa và dân Người hiệp nhất trong một tình yêu tuyệt vời. Đây là một thời gian vui tươi và hạnh phúc vô tận. Cảnh tượng này thực sự phản ánh một lối nhìn về sự hoàn thành thời đại cánh chung mới, đã khai trương nơi cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu. Khi vùng dậy từ cõi chết, Người hoàn toàn thay đổi các mãnh lực của trời đất. Tình yêu thay đổi hoàn toàn vạn vật. Bởi đấy, Người căn dặn môn đệ: “Chúng con hãy yêu thương nhau như Thày đã yêu thương anh em.” (Ga 13:34) Ở đây, Người cố ý nói tớiagape, một thứ tình yêu đòi hỏi phải hoàn toàn tín thác và trông cậy. Đó chính là tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta, một tình yêu gương mẫu cho chúng ta yêu tha nhân. Khi xét đến những đòi hỏi của tình yêu này, chúng ta mới thấy mức độ cách mạng của giới răn thương yêu như thế nào và nó đòi phải thay đổi thái độ tới mức nào.
Sau cùng, đức ái phải luôn đi kèm với công lý. Dù hết sức tìm cách giải cứu người phụ nữ ngoại tình, Đức Giêsu không bao giờ bao che tội lỗi cho cô. Nếu hôm đó, Chúa chỉ nghĩ đến việc thực thi đức ái hay tỏ lòng từ bi mà thôi, chắc chắn công lý đã bị coi thường. Cô sẽ trở về tiếp tục cuộc sống ô nhục. Phẩm giá không được phục hồi. May mắn thay Chúa đã nghiêm chỉnh đòi hỏi công lý nơi chính cô khi nói: “Cô hãy về và đừng phạm tội nữa.” Nhờ đó, Chúa đã tạo được sự quân bình và nền tảng cho đức ái. Nói khác, Chúa đòi hỏi cô phải giữ nhân đức “công bình xã hội.” Đây là một nhân đức cá nhân, chứ không phải là đặc tính của những hệ thống xã hội, như người Do thái hay hầu hết mọi người vẫn tưởng. Người Do thái gào thét đòi ném đá cô để thực thi công bình xã hội như luật Môsê đòi hỏi. Họ xử dụng “công bình xã hội” như một nguyên tắc quy định trật tự xã hội. Họ chú trọng tới quyền lực, chứ không phải nhân đức.[1]
Không có công lý, đức ái dễ khiến con người mù quáng. Rõ ràng tình yêu phải đi kèm với công lý. Nếu không, bác ái có thể tiếp tay với chế độ trù dập con người. Chính công lý đã vực cô dậy. Đức ái phải đi kèm công lý mới trả lại phẩm giá cho con người. Khác hẳn Chúa, đa số ngày nay Kitô hữu chỉ lo làm việc bác ái, bất kể công lý. Không có điều kiện công lý đi kèm, hoạt động bác ái chỉ lấp đầy bao tử, bất chấp tiếng gào thét của lương tâm. Đó là lý do tại sao con người vẫn không ngóc đầu lên làm người được! Con người có gì khác con vật?!
Nhưng địa vị con người cao cả hơn vũ trụ. Theo thánh Phaolô, con người là Đền Thờ Thiên Chúa. Khi vào Đền thờ Giêrusalem, Chúa Giêsu đã đánh đuổi con buôn như biểu lộ sự quyết liệt tranh đấu chống lại bất công đối với Đền thờ Thiên Chúa hay con người. Đó là một việc làm vô cùng ý nghĩa không phải chỉ cho thân xác Người, nhưng cho cả phẩm giá con người nữa. Sự giận dữ của Người cũng bắt nguồn từ một loại tình yêu – tình yêu đối với Chúa Cha và với Nhà Cha. Khi sự thánh thiện và uy nghi của Chúa Cha hay Nhà Cha bị đe dọa hay coi thường, chắc chắn Đức Giêsu phản ứng mãnh liệt. Thái độ nhiệt tình đối với Đền Thờ Thiên Chúa đã làm hao mòn thân xác Người. Sở dĩ phải tỏ thái độ quyết liệt, vì Người muốn tranh đấu để tái lập sự công bình và phục hồi giá trị đích thực cho Đền Thờ. Chúng ta có thể thấy tất cả nỗ lực giành lại công lý cho Thiên Chúa và con người nơi Đức Giêsu ở đây.
NƯỚC THIÊN CHÚA
Kitô hữu được kêu gọi xây dựng Nước Thiên Chúa ở trần gian. Sứ mệnh cao cả không thể hoàn thành, nếu họ không biết Nước Thiên Chúa là gì. Thánh Phaolô xác định rất rõ: “Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn chuyện uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần.” (Rm 14:17) Trong thực tế, chúng ta làm ngược lại. Những việc bác ái, đóng góp từ xưa tới nay xoay quanh vấn đề gì? Từ trong nước đến hải ngoại, chúng ta thi đua nhau đóng góp cho chuyện ăn chuyện uống chuyện xây nhà thờ, xây tòa giám mục v.v., chứ không hề băn khoăn về “sự công chính” một chút nào cả. Có những tòa giám mục sang trọng như ốc đảo trù phú xa hoa giữa một đại dương nghèo đói, tràn ngập các nạn nhân của chế độ bất công.
Thay vì trở thành những trung tâm rao giảng Tin Mừng, nhiều nhà thờ và cơ sở giáo hội hôm nay đang phát ra những phản chứng. Làm sao những giá trị Tin Mừng có thể xâm nhập vào văn hóa và xã hội từ những phản chứng đó?! Lỗi đó tại ai? Kitô hữu có thể phủi tay trước tình trạng tha hóa đó của dân tộc không? Không phải chỉ có những việc xấu xa đã gây nên nông nỗi. Nhưng nếu không kèm theo công lý, ngay cả việc tốt, như công cuộc bác ái, cũng có thể gây những hậu quả xấu khôn lường.
Từ nay, bác ái phải có điều kiện. Điều kiện đây là “công bình xã hội.” Chắc chắn có người phản hồi: bác ái có điều kiện không còn phải là bác ái nữa. Thực ra, điều kiện kèm theo đó không đánh mất bản chất công cuộc bác ái, vì nhằm đem lại lợi ích cho chính những người nghèo. Không có điều kiện đó, việc bác ái trở thành vô ích và không thể nâng người nghèo trỗi dậy.
Trước hết, cần phải hiểu đúng nhân đức “công bình xã hội.” “Công bình xã hội cần phải chiếm địa vị ưu tiên trong sự quan tâm của mọi người. “Nếu hiểu đúng nghĩa, “công bình xã hội” là một nhân đức đặc biệt có tính “xã hội” theo hai chiều hướng. Thứ nhất, “công bình xã hội” đòi phải có tài đưa ra sáng kiến, hợp tác và quy tụ người khác thành tổ chức để hoàn thành tác vụ công bình. Hoạt động này đòi phải được thực hiện với người khác. Đó là lý do tại sao nó được gọi là một loại đặc biệt của đức công bình. Thứ hai, “công bình xã hội” luôn nhắm tới công ích, chứ không nhắm lợi ích của một tác nhân mà thôi. Nhân đức công bình có tính “xã hội”, vì mục tiêu đầu tiên nhằm giúp đỡ tha nhân.”[2]
Bất cứ một sự trợ giúp nào cũng phải nhằm xây dựng một xã hội công bình. Một xã hội đầy dẫy bất công làm sao tạo nên sự công chính cần thiết cho việc xây dựng Nước Trời? Chúng ta vẫn kêu gọi chính phủ Hoa Kỳ chỉ giao thương với Việt nam nếu chấm dứt cảnh đàn áp bất công và vi phạm nhân quyền. Nhưng chính chúng ta lại tiếp tục gởi tiền về giúp đỡ Việt nam một cách vô tội vạ, không cần biết đồng tiền đi tới đâu và làm những gì. Có thể nhiều người nhân danh sự nghèo đói và người nghèo để khai thác bất chính. Nhiều khi chúng ta “giao trứng cho ác” mà không hay biết.
Đã có những trường hợp bị lừa đảo. Sau khi đi một vòng khắp các cộng đoàn Việt nam ở Hoa kỳ xin tiền trợ giúp đồng bào nghèo hay xây nhà thờ, có những giáo sĩ sắm những xe hơi đời mới hay những biệt thự lộng lẫy. Tuy vậy, không nên vì những cá nhân lạm dụng đó mà chúng ta dẹp bỏ việc bác ái đối với đồng bào.
Từ trước tới nay, chúng ta làm việc bác ái một cách vô tổ chức. Tất cả đều tùy thuộc vào tình cảm hay niềm tin vào một người hay một tổ chức bác ái v.v. Đã đến lúc chúng ta cần sát cánh để tạo một sức mạnh thực sự giải phóng dân tộc khỏi ách lầm than, nghèo đói. Không những cần tổ chức quy mô để tránh lạm dụng, lãng phí, mà còn giúp ích cho nhiều người một cách hữu hiệu hơn. Hơn nữa, còn phải có một tầm nhìn để khám phá những nhu cầu thực sự của những người nghèo.
Từ nay, thay vì giao tiền cho một người trợ giúp người nghèo, chúng ta hãy cố gắng mở ra những quỹ tín dụng giúp vốn và kỹ thuật cho người nghèo tự nuôi thân. Nói khác, giúp cho họ có cần câu và kỹ thuật câu còn quan trọng và cần thiết hơn cung cấp những con cá qua bữa. Mỗi giáo xứ hay mỗi nhà dòng ở Việt nam có thể trở thành những nơi cung cấp vốn cho những người nghèo, bất phân lương giáo. Quỹ tín dụng được xây dựng trên niềm tin. Còn chỗ nào đáng tin bằng Nhà Chúa? Nhà Chúa không đồng nghĩa với nhà xứ hay nhà dòng. Nhà Chúa phải theo đúng tiêu chuẩn Tin Mừng và chiều hướng Giáo Hội. Bởi thế, cần có những cơ quan giám sát để kiểm tra con người và cơ sở trước khi giao phó công cuộc tín dụng đó. Ngay cả trong khi hoạt động vẫn cần đến sự kiểm soát này. Về vấn đề này, các chuyên viên ngân hàng nên tình nguyện tham gia giúp đỡ cộng đồng trong công cuộc bác ái theo chiều hướng mới.
Nhưng trên hết vẫn là việc nâng cao ý thức giáo dân về công lý. Cho tới nay, hầu như người Công giáo không hay biết gì về học thuyết xã hội của Giáo hội. Đó là một thiếu sót rất lớn. Kitô giáo là một Đạo nhập thể. Theo Đức Kitô, không thể không dấn thân. Nếu chỉ thỏa mãn với những giáo lý về bí tích, phụng vụ và những tổ chức đình đám trong khuôn viên nhà thờ, chắc chắn Kitô hữu vẫn còn “nhốt” Chúa ở trên trời. Sống đạo như thế là sống nửa vời. Không thể yên lương tâm với lối sống đạo như thế.
Khi thấy được bản chất Nước Thiên Chúa, người Công giáo không thể ngồi yên nhìn cảnh bất công đang xảy ra dầy dẫy chung quanh. Không có công bình cũng chẳng có bác ái thực sự. Ý thức về công bình sẽ mở rộng tầm nhìn của Kitô hữu về trách nhiệm và quyền lợi của một người công dân trong nước trần gian và Nước Chúa. Đó là điều kiện căn bản để bảo đảm công ích. Trước tiên, muốn “nhìn nhận và tôn trọng nhân phẩm phải bênh vực và cổ động nhân quyền cơ bản và bất khả nhượng.”[3] Nhân quyền không chỉ có ngoài xã hội. Ngay cả trong Giáo hội, nhân quyền cũng phải được quyền bính tôn trọng. Nếu không, xã hội cũng như Giáo hội không thể đạt tới công ích. Đừng tưởng kế hoạch ngũ niên hay những phương tiện sản xuất sẽ quyết định sự thành công. Yếu tố chính vẫn là con người.
Đúng như Chúa nói: “Con người sinh ra không phải vì lề luật,” cơ chế, hay tổ chức. Nhưng tất cả đều phải phục vụ con người. Bởi thế, công bình xã hội cũng phải lấy con người làm gốc. Không gì có thể thay thế con người. Thực tế, “ngoài đời chủ trương công bình xã hội không đòi những con người nhân đức, chỉ cần có những chương trình hoàn hảo. Theo Giáo hội, công bình xã hội là nhân đức cá nhân; ngoài đời cho rằng công bình xã hội là một thành quả chính trị. Giáo hội tin con người lương thiện sẽ làm cho chương trình xã hội tốt đẹp; ngoài đời tin rằng những chương trình xã hội tốt đẹp sẽ làm cho con người lương thiện. Giáo hội và ngoài đời có rất ít điểm giống nhau về công bình xã hội.”[4] Nếu cứ tiếp tục chà đạp nhân phẩm hay không tôn trọng nhân quyền, tất cả mọi guồng máy, tổ chức, cơ chế sẽ nếm mùi thất bại thê thảm.
Bởi vậy, không những phải nhìn nhận quyền làm người, nhưng còn phải lo đào luyện cho con người có nhân đức. Nhân đức đó trước tiên là công bình xã hội. Thật vậy, “công bình xã hội là một nhân đức, một thuộc tính của các cá nhân. Nếu không, đó chỉ là một sự dối trá. Nếu Tocqueville có lý khi nói nguyên tắc liên đới là luật lệ đầu tiên của nền dân chủ, thì công bình xã hội là đức tính đầu tiên của dân chủ, vì người ta thường thực hành nguyên tắc liên kết như thế trong cuộc sống hằng ngày.”[5] Chính vì thiếu đức tính căn bản đó, nên xã hội Việt nam đầy dẫy những con người thiếu khả năng xây dựng dân chủ. Cuối cùng, con người mất hạnh phúc. Tự do chỉ còn là cái bánh vẽ. Nhân quyền trở thành ảo mộng.
VÀO ĐỜI
Vậy những ai đang mất quyền làm người hôm nay? Trước hết, đó là những người nghèo khổ, người tù vì lương tâm, vì tranh đấu cho nhân quyền, tự do tôn giáo, các người thiểu số, những trẻ em không được cắp sách đến trường, những người bệnh tật, già nua, những người bị cướp đất, những công nhân và nông dân bị ức hiếp, những cô gái phải bán mình v.v. Tất cả đều là con đẻ của chế độ bất công, không biết tôn trọng nhân quyền. Quyền lợi của phe nhóm vượt trên tất cả mọi quyền lợi người dân. Chính vì sự chênh lệch ấy, nhiều người đã mất cơ hội để phục vụ đất nước và Giáo hội. Trật tự xã hội bị xáo trộn vì thứ tự các giá trị bị đảo lộn.
Trước tình thế đó, đáng lẽ các Kitô hữu phải tích cực tố cáo những tệ trạng và can đảm đứng lên đòi hỏi quyền làm người. Nhưng giáo dân quá thụ động, hoàn toàn lệ thuộc vào hàng giáo phẩm, trong khi họ có quyền tham gia và sinh hoạt chính trị. Nếu cứ thụ động như thế, họ sẽ thất vọng. Các GMVN hiện nay hơi khó hiểu cho nhiều người… Chỉ cần nhìn sang hàng giám mục ở Phillippines và Nam Hàn, họ sẽ thấy nhiều điều cần suy nghĩ. Nhìn sang Phillippines, ai cũng thấy tấm gương anh dũng của ĐHY Jaime Sin, người đã từng kêu gọi dân chúng xuống đường lật đổ TT Marcos. Bên Phi châu, các giám mục tại các nước Mali và Nigeria đang kêu gọi và hướng dẫn dân chúng xử dụng quyền bầu cử để chọn những vị lãnh đạo xứng đáng trong một thể chế dân chủ và tự do. Họ còn dám lên tiếng phê bình những ứng viên có những lời hứa thiếu nền tảng thực tế.
Trong cuộctiếp kiến các Đức Giám Mục Venezuela viếng thăm Tòa Thánh vào hôm thứ Sáu 27/4, Đức Thánh Cha đã bày tỏ quan ngại sâu xa của ngài về tình trạng nhân quyền tại Venezuela và những dấu hiệu cụ thể về hiện tượng lạm dụng quyền lực tại quốc gia này. Đức Thánh Cha nói Giáo Hội không thể không bảo vệ phẩm giá con người, và do đó cần có tự do để trình bày công khai ý kiến của mình trước công chúng. Đức Tổng Giám Mục Roberto Luckert, phó chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Venezuela cho biết: “Trong suốt buổi tiếp kiến chúng tôi đã trình bày cho ngài về những vấn đề chúng tôi đang gặp phải trong việc giáo dục giới trẻ, tình trạng thiếu an ninh, và sự chà đạp nhân quyền trong nước.[6]
Tại Việt nam, tình trạng đàn áp nhân quyền gấp nhiều lần Venezuela. Nhưng các GMVN có dám trình bày tất cả cho ĐGH như các GM Venezuela không? Nhiều người cho rằng phải đặt mình trong hoàn cảnh Việt nam mới có thể thông cảm với các GMVN. Hoàn cảnh Việt nam khó lắm! Vâng, đúng thế. Hoàn cảnh Venezuela hay các nước Phi châu cũng không dễ tí nào đâu!
Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả
Anh hùng hào kiệt có hơn ai?!
(Phan Bội Châu)
Lạy Chúa, xin nhìn đến quê hương yêu dấu của chúng con! Xin cho GHVN luôn đồng hành với dân tộc đau khổ. Xin cho giới lãnh đạo GHVN thoát ra khỏi những tiện nghi và chấp nhận đau khổ với dân chúng. Xin đừng để tinh thần hèn nhát mãi thống trị tâm hồn chúng con. Nhưng xin Chúa sai Thánh Linh ban ơn can đảm và mạnh bạo cho chúng con. Amen.
———————————
[1]x. Novak, Michael “Defining Social Justice.”First Things108 (December 2000): 11-13.
[2]Sđd.
[3]Yếu Lược Học Thuyết Xã hội của Giáo Hội, số 388.
[4]DeMarco, Donald. “The Virtue of Social Justice.” Lay Witness.
[5]Sđd.
[6]VietCatholicNews 01/05/2007.
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn