GIÁO PHẬN PHAN THIẾT

http://gpphanthiet.com


 Thứ Sáu đầu tháng, tuần 13 thường niên.

 Thứ Sáu đầu tháng, tuần 13 thường niên.

 Thứ Sáu đầu tháng, tuần 13 thường niên.

"Người lành mạnh không cần đến thầy thuốc: Ta muốn lòng nhân từ, chớ không phải là hy lễ".

 

Lời Chúa: Mt 9, 9-13

Khi ấy, Chúa Giêsu đi ngang qua, thấy một người ngồi ở bàn thu thuế, tên là Matthêu. Người phán bảo ông: "Hãy theo Ta". Ông ấy đứng dậy đi theo Người. Và xảy ra là khi Người ngồi dùng bữa trong nhà, thì có nhiều người thu thuế và tội lỗi đến ngồi đồng bàn cùng Chúa Giêsu và các môn đệ của Người. Những người biệt phái thấy vậy, liền nói với các môn đệ Người rằng: "Tại sao Thầy các ông lại ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi như thế?"

Nghe vậy, Chúa Giêsu bảo rằng: "Người lành mạnh không cần đến thầy thuốc, nhưng là người đau yếu! Các ông hãy đi học xem lời này có ý nghĩa gì: "Ta muốn lòng nhân từ, chứ không phải là hy lễ". Vì Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi người tội lỗi".

 

 

Suy Niệm 1: Đứng dậy đi theo

Suy niệm:

Thầy Giêsu gọi bốn môn đệ đầu tiên khi họ đang làm việc.

Người thì đang quăng lưới ngoài khơi,

kẻ thì đang vá lưới trong thuyền (Mt 4, 18-22).

Khi Thầy gọi Mátthêu, anh cũng đang làm việc ở trạm thu thuế.

Anh đang ngồi, vững vàng trong nghề nghiệp của mình,

dù nghề của anh thường bị coi là nghề rất xấu.

Thầy Giêsu như tình cờ đi ngang qua bàn làm việc của anh.

Ngài chỉ nói một câu rất ngắn: “Anh hãy theo tôi!”

Mátthêu không đáp lại, nhưng anh trả lời bằng hành động.

Từ vị thế đang ngồi, anh bỏ dở công việc để đứng lên và theo Thầy.

Từ vị thế vững vàng, anh bắt đầu bước vào cuộc phiêu lưu bấp bênh.

Từ vị thế của tội nhân, anh trở thành người môn đệ thân thiết.

Mátthêu nằm trong danh sách nhóm Mười Hai (Mt 10, 3).

Thầy Giêsu không sợ mất tiếng khi nhận anh vào nhóm.

Nhóm của Thầy không chỉ gồm những người thánh thiện,

nhưng có cả những tội nhân giàu lòng hoán cải.

Mátthêu có đóng góp gì cho nhóm Mười Hai không?

Nghề thu thuế với giấy bút có giúp gì cho các ngư phủ ít học không?

Trong nhóm Mười Hai, Mátthêu có chỗ đứng đặc biệt,

người thu thuế trở nên Tác giả sách Tin Mừng.

Mátthêu làm nghề bị đồng bào của ông khinh miệt,

vì nghề này dễ dẫn người ta đến chỗ lạm thu, bỏ tiền vào túi riêng.

Nghề này còn là một sỉ nhục vì cộng tác với ngoại bang bóc lột dân,

đụng chạm đến đồng tiền ô uế và tiếp xúc với dân ngoại.

Khi trở nên môn đệ của Thầy, Mátthêu đã trở nên người phục vụ đồng bào.

Ông dùng khả năng của mình mà viết sách Tin Mừng.

Đây là Tin Mừng lớn mà ông loan báo: Đức Giêsu chính là Đấng Mêsia.

Không phải chờ gì nữa, Đấng Mêsia đã đến rồi!

Ngài làm trọn những lời đã được loan báo trong Cựu Ước.

Mátthêu đã tìm ra ngôn ngữ để nói với Dân Chúa, sao cho họ hiểu được.

Ông đã trình bày dung mạo Đức Giêsu cho người cùng thời với ông.

Chúng ta cũng phải có khả năng giới thiệu Đức Giêsu cho người thời nay,

nghĩa là biết, hiểu và nói được ngôn ngữ của thế giới,

để thế giới nghe và hiểu được.

Chúng ta vẫn phải tiếp tục viết các sách Tin Mừng cho thời đại hôm nay,

phù hợp với não trạng và tâm thức của họ, với nền văn hóa đương đại.

Đâu là khuôn mặt Đấng Cứu độ mà con người hôm nay ngóng chờ?

Con người thời nay khỏe mạnh về nhiều mặt,

nhưng vẫn là người đau ốm cần đến thầy thuốc (c. 12).

Họ mong mình được giải phóng khỏi điều gì?

Đức Giêsu Kitô có thể đáp ứng được những khao khát đó không?

Lời rao giảng và cuộc sống của chúng ta phải cho thấy

Đức Giêsu có thể chữa lành và đem lại một thế giới hạnh phúc.

Ước gì chúng ta có lòng nhân và sự bao dung như Đức Giêsu,

dám đồng bàn với con người hôm nay để dẫn họ đến bàn tiệc thiên quốc.

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

xin sai chúng con lên đường

nhẹ nhàng và thanh thoát,

không chút cậy dựa vào khả năng bản thân

hay vào những phương tiện trần thế.

Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm:

rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ,

chữa lành những người ốm đau.

Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng

với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý,

biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.

Xin ban cho chúng con khả năng

đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.

Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ

của bao người đau khổ thể xác tinh thần.

Lạy Chúa Giêsu,

thế giới thật bao la

mà vòng tay chúng con quá nhỏ.

Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau

mà tin tưởng lên đường,

nhẹ nhàng và thanh thoát. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

Suy Niệm 2: Dòng dõi A-bra-ham

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Áp-ra-ham là người trung tín với lời Chúa hứa. Chúa đã hứa cho ông một dòng dõi đông như sao trên trời như cát dưới biển. Ông không dám chung đụng với dân ngoại. Vì thế phải tìm vợ cho I-xa-ác trong dòng họ của ông. Thật là một sự trung tín đáng trân trọng. Ông vẫn nghĩ dòng dõi Chúa hứa là theo phương diện huyết thống thể lý. Nhưng ông cũng đã hiểu phải có một dòng dõi mới sống theo Lời Chúa Hứa. Nên bằng mọi cách phải đưa cô dâu đến. “Coi chừng, đừng có đưa con trai tôi về đó” (năm lẻ).

Quan niệm đó dần dần được Thiên Chúa thanh luyện. Khi dân Do thái không trung thành với Lời Chúa, lời hứa theo phương diện huyết thống thể lý mất hiệu nghiệm. A-mốt cho thấy dân phạm tội nên đánh mất lời hứa. “Chúng sẽ thất thểu từ biển này qua biển nọ, từ phương bắc đến phương đông, chúng sẽ lang thang để kiếm tìm lời Đức Chúa mà không gặp được”. Lòng họ trở nên thửa đất bờ ruộng, nơi chim trời đến tha mất Lời Chúa. Lòng họ trở nên gai góc sỏi đá bóp nghẹt Lời Chúa (năm chẵn).

Chúa Giêsu đến mở ra một chân trời mới, thiết lập dòng dõi mới của Áp-ra-ham. Biệt phái và Luật sĩ, Kinh sư tự hào mình là dòng dõi Áp-ra-ham nhưng lại đóng chặt cửa lòng không nghe Lời Chúa. Những kẻ tội lỗi lại mở lòng đón nhận. Một lời kêu gọi, lập tức Lê-vi chỗi dậy theo Chúa. Bỏ bàn thu thuế đầy tiền bạc. Bỏ nghề thu thuế nhiều lợi nhuận. Bước theo Chúa vào con đường phiêu lưu vô định.

Đây quả là dòng dõi mới của Áp-ra-ham. Biệt phái, Luật sĩ, Kinh sư tự hào là con cháu Áp-ra-ham nhưng không nối tiếp truyền thống thiêng liêng của tổ phụ. Chính Mát-thêu và những người tội lỗi nối tiếp truyền thống này. Như Abraham vừa nghe Lời Chúa đã từ bỏ quê hương, gia đình, tài sản, Lê-vi vừa nghe Lời Chúa đã từ bỏ tiền của, nghề nghiệp. Như Áp-ra-ham lên đường đến miền đất Chúa hứa, Lê-vi và các bạn lên đường theo Chúa Giê-su. Như Áp-ra-ham chỉ biết vâng lời Chúa không tính toán so đo, kể cả sát tế I-xa-ác dâng hiến Chúa, Lê-vi không tính toán, theo Chúa mà chẳng có gì thủ thân. Đây đích thực là dòng dõi mới của Áp-ra-ham. Dòng dõi theo đức tin chứ không còn theo huyết thống.

Tôi thuộc dòng dõi cũ hay dòng dõi mới của Áp-ra-ham? Tôi khép kín hay mở rộng tâm hồn lắng nghe, đón nhận và thực hành Lời Chúa?

 

Suy Niệm 3: Bữa Tiệc Thân Hữu

Trong hầu hết các nền văn hóa hiện hữu trên thế giới, bữa ăn là một thời điểm, một nghi lễ đặc biệt trong đời sống con người. Con người thường chia giờ giấc trong ngày theo các bữa ăn. Bữa ăn là giờ duy nhất trong ngày, trong đó mọi thành phần trong gia đình có mặt bên nhau, do đó bàn ăn thường là biểu trương của hiệp nhất. Vì là giờ hiệp nhất, nên bữa ăn cũng là giờ linh thiêng trong cuộc sống. Người ta vẫn nói: "Trời đánh tránh bữa ăn". Bữa ăn là dấu chỉ của hiệp nhất, cho nên thời xa xưa, thỏa ước giữa các bộ lạc cũng được ký trong bữa tiệc. Ngồi đồng bàn với nhau có nghĩa là chấp nhận chia sẻ với nhau, chấp nhận tình thân hữu của nhau.

Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy được ý nghĩa nổi bật của bữa ăn trong cuộc đời Chúa Giêsu. Phúc Âm thường ghi lại những lần Chúa Giêsu ngồi đồng bàn với những người thu thuế tội lỗi, những người bị đẩy ra bên lề xã hội. Ngồi đồng bàn với người nào là muốn chia sẻ, muốn nói lên tình thân thiện của người đó. Qua những lần ngồi đồng bàn với tất cả mọi hạng người, Chúa Giêsu bày tỏ cho chúng ta bộ mặt của một Thiên Chúa nhân hậu luôn hiện diện trong mọi sinh hoạt của con người, một Thiên Chúa chia sẻ cuộc sống của con người và muốn đi vào kết hiệp thâm sâu với con người.

Chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy Chúa Giêsu thường mượn hình ảnh bữa tiệc để nói về Nước Trời: "Nước Trời giống như vua kia làm tiệc cưới". Nước Trời giống như một tiệc vui. Tôn giáo mà Chúa Giêsu loan báo không phải là những nghi lễ hay những luật lệ cứng nhắc, mà là tôn giáo của tình yêu. Trích dẫn lời Tiên Tri Ôsê: "Ta muốn lòng nhân từ, chứ không phải lễ tế", Chúa Giêsu đả phá những tôn giáo chỉ xây dựng trên những nghi lễ trống rỗng, mà quên đi cái lõi của tôn giáo là tình thương.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại cách sống đạo của chúng ta. Bí tích Thánh Thể mà Chúa Giêsu để lại cho chúng ta là bữa tiệc dấu chứng tình yêu của Ngài. Tham dự vào bữa tiệc ấy là tham dự vào tinh thần yêu thương chia sẻ với Ngài. Nếu không có tinh thần yêu thương, thì tất cả những kinh kệ, những hành động phụng vụ chỉ là trống rỗng vô ích. Của lễ đẹp lòng Chúa nhất phải chăng không là những hành động yêu thương, chia sẻ, tha thứ đó sao? Lúc đó bàn thờ của chúng ta không chỉ nằm trong bốn bức tường nhà thờ, mà còn phải là gia đình, công sở, phố chợ. Nơi nào có hành động yêu thương, tha thứ, chia sẻ, thì nơi đó có Chúa hiện diện, có bình an, có Nước Trời.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 4: Người công chính với người tội lỗi

Bỏ nơi ấy, Đức Giêsu đi ngang qua trạm thu thuế, thì một người tên là Mát-thêu đang ngồi ở đó. Người bảo ông: “Anh hãy theo tôi!” Ông đứng dậy đi theo Người.

Đức Giêsu đang dùng bữa trong nhà, thì kìa, nhiều người thu thuế và người tội lỗi khéo đến, cùng ăn với Người và các môn đệ. Thấy vậy, những người Pha-ri-sêu nói với các môn đệ Người rằng: “Sao Thầy các anh lại ăn uống với bọn thu thuế, và quân tội lỗi như vậy?” Nghe thấy thế, Đức Giêsu nói: “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần.” (Mt. 9, 9-12)

Người tội lỗi được kêu gọi

Chúa Giêsu quan tâm lo lắng cho những người ốm đau bệnh tật, vì chính họ cần đến Người. Những người mà vì họ Chúa đã đến và kêu gọi đi theo Người, đó là những người tội lỗi, chứ không phải những người công chính.

Những người tội lỗi ám chỉ tất cả những-ai-kia mà xã hội có suy nghĩ, có giáo dục và hãnh diện về tính liêm khíết của mình, xua đuổi, không nhìn nhận và khinh bỉ. Thời Chúa Giêsu người ta gọi những người tội lỗi là tất cả những ai không tuân giữ tỉ mỉ những điều Luật truyền. Từ ngữ người tội lỗi cũng áp dụng cho tất cả những ai cụ thể đang sống trong tội lỗi, đang làm điều xấu. Chính vì những con người đó mà Chúa Giêsu được sai đến.

Nếu Chúa Giêsu yêu thương người tội lỗi, thì Người lại gớm ghét sự tội. Nếu quả Chúa kêu gọi những người tội lỗi, chính là để cho họ trở nên những người công chính. Nên ta có thể tự hỏi: Dù rằng đã là những con người tội lỗi, nếu ta đang trở nên những người công chính, nếu suốt cuộc đời, ta tìm sống thánh thiện và công chính, thì Chúa Giêsu có còn quan tâm đến ta không, có vẫn gọi ta đi theo Người không?

Những người công chính được kêu gọi

Đương nhiên ta phải trả lời có, vì thực ra Chúa luôn luôn kêu goi mọi người: người công chính cũng như người tội lỗi. Lý do đơn giản. Trước thánh nhan Người chẳng có người nào là hoàn toàn công chính. Những kẻ được nên công chính vẫn mang thân phận người tội lỗi.

Chỉ có những người mà thực tế Chúa Giêsu không có thể làm gì được cho họ, đó là những kẻ tưởng rằng mình quả là công chính nên không thấy được nữarằng mình vẫn và luôn luôn cần được tha thứ, được cứu độ, được thanh tẩy và được biến đổi.

 

Suy Niệm 5: CẢM NGHIỆM ĐỂ LÀM CHỨNG (Mt 9, 9-13)

Xem CN 10 TN A, thứ Bảy tuần 1 TN và thứ Bảy sau lễ Tro.

Trong dịp lễ tạ ơn của một tân linh mục, mọi người hiện diện được nghe thấy cha mới chia sẻ lúc đầu lễ rằng: “Cộng đoàn cùng với con tạ ơn hồng ân Thiên Chúa đã ban cho con Thiên Chức linh mục, mặc dù con bất xứng, yếu hèn và vô dụng. Nhưng vì yêu thương, nên Chúa đã gọi và chọn con tiến lên bàn thánh để con trở thành linh mục của Chúa”. Câu nói đó của tân linh mục diễn tả một sự cảm nghiệm sâu xa tình thương mà Chúa dành cho cha.

Hôm nay, bài Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu gọi ông Mátthêu, người thu thuế, hẳn ông cũng cảm thấy mình bất xứng vì công việc bất chính của ông đang làm. Tuy nhiên, Đức Giêsu đã gọi ông để ông trở thành môn đệ.

Khi nghe thấy tiếng Chúa mời gọi, ông đã cảm nghiệm được tình yêu của Đức Giêsu, nên ông đã dứt khoát đứng dậy, rời khỏi bàn thu thuế, nơi ông đang làm việc, nơi ông đã gắn bó, nơi là sự nghiệp đã nuôi sống ông và gia đình ông, để đáp lời mời gọi đầy trìu mến và đi theo Đức Giêsu.

Thật vậy, một tình yêu, một lòng mến, Đức Giêsu đã gọi ông. Cũng một tình yêu, một lòng mến, ông đã đáp lại tiếng Đức Giêsu mời gọi, để tiếp bước trên hành trình loan báo Tin Mừng tình thương của Chúa trong cuộc đời môn đệ nơi ông.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy nhận ra mình bất xứng để cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa dành cho mình. Mặt khác, từ những gì đã cảm nghiệm, Chúa cũng muốn mời gọi chúng ta sẵn sàng cảm thông cho những yếu đuối của anh chị em mình, sống khiêm tốn và đón nhận Thánh giá trong hành trình môn đệ của mình như một hồng ân.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con đã được Chúa yêu thương quá nhiều, dù chúng con bất xứng. Xin Chúa cho chúng con cảm nghiệm được tình yêu của Chúa dành cho chúng con, để rồi chúng con ra đi loan báo về tình yêu đó cho anh chị em mình. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 6: Chúa kêu gọi ông Mathhêu

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Chính thánh Mattêu, là người thu thuế, đã thuật lại việc Chúa Giêsu kêu gọi ông làm môn đệ Ngài. Tuy là người tội lỗi, khi được Chúa kêu gọi ông đã đi theo Ngài không chút do dự. Việc gọi Matthêu và việc Chúa Giêsu ăn uống đồng bàn với những người thu thuế và tội lỗi, cho thấy Ngài tỏ lòng ưu ái đối với họ. Những người Biệt phái thắc mắc và chỉ trích Chúa Giêsu, nhưng Ngài đã trả lời bằng cách nêu rõ sứ mệnh của Ngài là sứ mệnh của một Lương y, một vị Mục tử nhân hiền, luôn yêu thương săn sóc những con chiên đau ốm và bị thương.

2. Chúa Giêsu đã cư xử với Matthêu với tất cả tấm lòng cảm thông, tha thứ, và yêu thương của Ngài. Tại sao thế? Bởi vì Ngài luôn quan tâm đến những người tội lỗi để giúp họ cải tà qui chính.

Một bệnh viện mà chỉ nhận săn sóc cho người mạnh khỏe thì quả thật là một nhà thương không thế nào chấp nhận được; người khỏe mạnh thì không cần đến bác sĩ... Cũng thế, Chúa Giêsu không còn là Đấng Cứu Thế nữa, nếu Ngài chỉ muốn tiếp xúc với những con người tự phụ cho mình là công chính không cần đến Thiên Chúa.

Người Do thái coi người thu thuế, một hạng người được coi là tay sai cho ngoại bang, làm tay sai cho Đế quốc La Mã, một hạng người mang tiếng ăn bẩn, tội lỗi, không tốt. Nhưng Chúa lại nghĩ khác vì Chúa thấu suốt tâm can của con người. Biệt phái và luật sĩ luôn nghĩ xấu cho hạng người này. Chúa thì lại nói: “Ta đến không phải để kêu gọi những người công chính mà là gọi những kẻ tội lỗi”, và “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần”.

3. Sau khi đã bỏ mọi sự theo Chúa, Matthêu liền tổ chức ăn mừng, ông kêu gọi nhiều bạn bè thân hữu đến dùng tiệc, dĩ nhiên là có nhiều người thu thuế và tội lỗi, không loại trừ biệt phái và luật sĩ.

Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy ý nghĩa nổi bật của bữa ăn trong cuộc đời Chúa Giêsu. Phúc âm ghi lại những lần Chúa Giêsu ngồi đồng bàn với những người thu thuế tội lỗi, những người bị đẩy ra bên lề xã hội. Ngồi đồng bàn với người nào là muốn chia sẻ, muốn nói lên tình thân thiện của người đó. Qua những lần ngồi đồng bàn với tất cả mọi hạng người, Chúa Giêsu bày tỏ cho chúng ta bộ mặt của một Thiên Chúa nhân hậu luôn hiện diện trong mọi sinh hoạt của con người, một Thiên Chúa chia sẻ cuộc sống của con người và muốn đi vào kết hiệp thâm sâu với con người.

4. Chúa Giêsu đã không gọi những người công chính làm môn đệ của Người, nhưng Chúa đã chọn ông Matthêu là một người thu thuế bị xã hội Do thái thời đó khinh rẻ và thù nghịch. Và chính thánh Matthêu cũng đã dạy cho chúng ta một bài học về thái độ khiêm tốn, luôn ý thức rằng mình là người tội lỗi và cậy trông vào lòng thương xót của Chúa. Nếu ta biết nhận thức một cách sâu xa về tình thương của Chúa không phải bằng những ý nghĩa trừu tượng hay mơ hồ, nhưng bằng với sự xác tín, thì người đó sẽ trở thành một tông đồ đích thực của Người. Như thánh Phaolô xác quyết rằng: “Người tông đồ của Chúa là người có đầy đức tính khiêm tốn, hiền hòa và kiên nhẫn theo gương Thầy là Đức Kitô”. (Mỗi ngày một tin vui).

5. Ngày hôm nay, Chúa cũng đang mời gọi bạn làm tông đồ cho Chúa. Thế nhưng bạn có đáp lại lời kêu gọi của Chúa cách thành tâm, thiện chí hay không, dám từ bỏ không, hay còn đang vướng víu bởi những của cải vật chất làm cho tâm hồn tôi nặng trĩu trước lời mời gọi?

Một số người được Chúa mời gọi khi còn niên thiếu, số khác được Chúa tỏ cho biết ơn gọi khi đã lớn khôn. Chúa dùng những đồng nghiệp, những liên hệ gia đình, hoặc các liên hệ xã hội để tỏ ra mục đích của Người. Chúa gọi thì không phân biệt quá khứ bạn là ai, nhưng chỉ thấy bạn từ lúc bạn bắt đầu bước theo. Cùng với ơn soi sáng cho bạn nhìn thấy ơn gọi, điều quan trọng là bạn không mặc cảm với quá khứ, mau mắn đáp trả, bỏ lại mọi sự và bước theo Chúa.

6. Truyện: Lòng quảng đại của vị thiền sư.

Trong các giai thoại về những thiền sư nổi tiếng ở Nhật Bản, người ta đọc được một câu chuyện như sau:

Một buổi tối nọ, thiền sư Shechery đang ngồi thiền thì có một tên cướp xông vào nhà, hắn dí gươm vào cổ nhà tu hành và dọa sẽ giết nếu không trao hết tiền bạc cho hắn. Vị thiền sư không để lộ một chút sợ hãi nào, ông chỉ vào cái hộp, rồi nói với tên cướp: “Tiền đựng trong cái hộp kia, ngươi hãy để cho ta yên”, nói xong ông tiếp tục tụng niệm.

Sau một lúc, ông nhìn lại và nói tiếp với tên cướp: “Đừng lấy hết tiền của ta, để lại cho ta một ít, vì ngay mai ta phải đóng thuế”. Nhưng tên cướp đã không màng gì đến lời yêu cầu của vị thiền sư. Hắn lấy hết tiền trong cái hộp và nhét đầy túi, hắn vừa ra đến cửa, nhà sư nói vọng ra: “Ngươi không biết nói một tiếng cám ơn khi nhận quà sao”? Không quá tiếc lời với khổ chủ, tên cướp đành nói tiếng cám ơn và bỏ đi.

Vài ngày sau, vị thiền sư được tin là kẻ gian ác đã sa lưới pháp luật. Hắn nêu đích danh vị thiền sư là người đã bị hắn uy hiếp. Thiền sư Shechery được mời ra tòa để làm chứng. Trước mặt mọi người ông đã tuyên bố như sau: “Đối với riêng cá nhân tôi thì người này không phải là tên cướp. Tôi đã cho anh ta tiền và anh ta đã mở miệng cám ơn tôi”.

Vì có quá nhiều tiền án tiền sử, cho nên tên cướp đã bị tống giam. Sau khi mãn hạn tù, anh ta đã tìm đến với vị thiền sư và xin làm đồ đệ của ông.


 

 SUY NIỆM:

Bài Tin Mừng kết thúc với câu nói này của Đức Giê-su : « Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi » (c. 13). Lời nói này phù hợp với biến cố mở đầu bài Tin Mừng : Người kêu gọi thánh Mát-thêu, vốn là người tội lỗi ; và đó không phải là bất cứ ơn gọi nào, nhưng là ơn gọi tông đồ và là tông đồ thánh sử.

1. Chiêm ngắm Đức Giê-su với lời mời gọi nhưng không (c. 9)

« Anh hãy theo tôi ! » – Ông đứng dậy đi theo Người. Cách gọi và cách đáp quá đột ngột, vì trong sách Tin Mừng theo thánh Mát-thêu, không có điều gì được kể lại để chuẩn bị cho biến cố này. Vì thế, chúng ta thường suy đoán rằng, sách Tin Mừng chỉ kể tóm tắt thôi, nhưng trong thực tế cần có những tiếp xúc trực tiếp hay gián tiếp, sự quen biết và nhất là tìm hiểu trong một thời gian nào đó, để Đức Giê-su đi đến quyết định gọi ông Mát-thêu, và để ông Mát-thêu đi đến quyết định bỏ tất cả đi theo Đức Giê-su. Giống như một bạn trẻ đi tìm hiểu ơn gọi, và cũng giống như hai bạn trẻ nam nữ tìm hiểu nhau trước khi quyết định “đi theo nhau” suốt đời. Các bộ phim về cuộc đời Đức Giê-su thường được diễn tả theo hướng này, khi tái hiện ơn gọi của thánh Mát-thêu.

Nhưng tại sao thánh sử Mát-thêu không kể rõ ra ? Chắc chắn, khi kể lại ơn gọi của mình một cách cô đọng như thế, thánh sử có sứ điệp gì đặc biệt muốn nói với chúng ta. Tương tự như bức tranh, những gì được vẽ ra đó và vẽ ra như thế đó, không thêm không bớt, muốn truyền đạt cho người biết chiêm ngưỡng một cái nhìn, thậm chí cả một thế giới quan và nhân sinh quan. Và trong đức tin, chúng ta đón nhận sứ điệp của tác giả sách Tin Mừng như là Lời Chúa.

Hoặc nếu không suy đoán thêm ra như thế, chúng ta có thể thán phục trước lời đáp mau mắn và dứt khoát của thánh Mát-thêu; và rồi chúng ta có thể cảm thấy buồn rầu và ray rứt vì lời đáp của mình sao mà chậm chạp thế, sao mà dây dưa thế. Cách hiểu này chỉ đem lại cho chúng ta mặc cảm giới hạn, thậm chí tội lỗi, và nản chí; chắc chắn đó không phải là sứ điệp của trình thuật Tin Mừng. Trình thuật mời gọi chúng ta ra khỏi mình để chiêm ngắm chính Đức Giê-su.

Đức Giê-su gọi Mát-thêu như ông đang là, đang lay hoay với công việc, với những bận tâm của riêng mình. Cũng giống như khi Ngài gọi hai anh em Phêrô và An-rê, hai anh em Giacôbê và Gioan (Mt 4, 18-22); Ngài gọi khi họ đang lay hoay với lưới với thuyền cùng với những người thân, khi họ đang bận tâm với những vấn đề của cuộc sống. Ngài dường như không cần chuẩn bị lâu dài các ông rồi mới gọi; tiếng gọi của Đức Giê-su thật nhưng không, đặt hết lòng tin nơi người nghe.

Chúng ta đừng bao giờ để phai nhạt đi sự ngỡ ngàng đối với tiếng gọi nhưng không của Đức Giê-su dành cho chúng ta: tại sao Chúa lại gọi con? Tại sao Chúa lại chọn con? Tại sao lại dẫn con đi trên con đường này? Tại sao Chúa lại sai con? Tại sao Chúa lại trao cho con sứ mạng này? Tại sao Chúa lại trao cho cho “chén” này?… Chúng ta hãy luôn làm mới lại sự ngỡ ngàng đối với tiếng gọi của Đức Giê-su, vì đó là động lực giúp chúng ta làm mới lại lời đáp của chúng ta .

Lời Chúa mạnh đến độ làm bật tung ông Mát-thêu ngay tại nơi ông làm việc, nơi ông gắn bó, nơi nuôi sống ông và gia đình, nơi là sự nghiệp của ông, là cuộc đời của ông. Chúng ta còn chậm chạp và dây dưa trong cách đáp lại, chính là vì chúng ta chưa thực sự nghe được tiếng Chúa. Vì thế, chúng ta hãy ước ao và xin đích thân nghe được tiếng Chúa gọi với tất cả sức mạnh của Lời Chúa, không chỉ một lần, nhưng hằng ngày và suốt đời. Lời Chúa sẽ đụng chạm đến chốn sâu thẳm nhất nơi con người của chúng ta, sẽ biến đổi chúng ta, vì Lời Chúa là Lời tạo dựng nên chúng ta .

Ơn gọi thiết yếu là một tương quan, dù đã khởi đầu như thế nào và do hoàn cảnh ngoại tại hay nội tại như thế nào: Chúa gọi và chúng ta đáp lại, như thánh Mát-thêu đã nghe, “đứng dậy và đi theo Người”. Cách Đức Giê-su gọi Mát-thêu và cách ông đáp lại chính là nền tảng của mọi ơn gọi; và nền tảng thì luôn luôn hiện diện trong cuộc đời chúng ta, trong mỗi ngày sống và nhất là mỗi khi chúng ta lựa chọn. Ơn gọi hiểu như thế, thì không thể chỉ là một biến cố đã qua, nhưng phải được sống và hiện tại hóa hằng ngày, thậm chí phải diễn ra hằng ngày.

Đức Giê-su đi ngang qua trạm thu thuế, thì thấy một người tên là Mát-thêu đang ngồi tại trạm.

Ngài đi ngang qua cuộc đời của mỗi người chúng ta hằng ngày, và lúc nào ngài cũng thấy chúng ta đang loay hoay làm cái gì đó, bận tâm chuyện gì đó. Ngài gọi chúng ta thật bao dung và quảng đại; và chúng ta được mời gọi đáp lại cách bao dung và quảng đại như lời đáp đầu tiên của chúng ta trong bước đường đi theo Người trong một ơn gọi, độc thân, gia đình hay đời dâng hiến.

2. Chiêm ngắm cách Đức Giê-su tương quan với những người tội lỗi (c. 10)

Thánh Mát-thêu được mời gọi đi theo Đức Giê-su, nhưng sau đó Người lại đi theo ông, để đến nhà của ông! Ở đó, mọi người dùng bữa và chắc chắn đó là một bữa ăn “say sưa”, vì chỉ toàn đàn ông và vì họ là “bọn thu thuế và quân tội lỗi”. Vì đây là một bữa ăn, nên chúng ta được mời gọi không chỉ nhìn và nghe, nhưng còn được mời gọi ngửi, nếm và đụng nữa :

  • Chúng ta hãy cảm nhận không chỉ hương vị của bữa ăn, nhưng còn hương thơm của của tình bạn : tình bạn của mọi người dành cho Đức Giê-su và của Đức Giê-su dành cho mọi người.
  • Chúng ta được mời gọi thưởng thức không chỉ những món ăn ngon, nhưng còn thưởng nếm sự đón nhận và sự gần gũi Đức Giê-su dành cho những người tội lỗi.
  • Và chúng ta hãy đưa tay đụng vào Đức Giê-su, như đụng tới được lòng nhân từ của Thiên Chúa được thể hiện nơi Đức Giê-su, và để cho lòng mình rung động.

Như thế, khi kêu gọi thánh Mát-thêu, Ngài không chỉ muốn gặp thánh nhân ở nơi công cộng, nơi ông làm việc, nhưng còn muốn gặp ông nơi riêng tư nhất, nơi tất cả những gì làm nên con người ông: nhà của ông, gia đình và những người thân yêu của ông, bạn bè của ông; và đó là những tương quan diễn tả con người đích thật của ông, làm nên con người của ông.

Chúng ta thường nghĩ đi theo Chúa là phải đoạt tuyệt với gia đình, bạn bè, với quá khứ, với cuộc đời đã qua. Nhưng làm thế, chúng ta đâu còn là chính mình nữa! Và cũng không thể làm được vì tất cả những điều này làm nên con người thực sự và hiện tại của chúng ta. Đức Giê-su muốn gặp gỡ và phải “băng qua”, như Người “phải băng qua Samari” (Ga 4, 4), tất cả những điều đó nữa, tất cả những gì thuộc về chúng ta, Ngài muốn gọi và gặp chúng ta như chúng ta là một cách hiện thực và trong sự thật. Tất cả sẽ được Đức Giê-su “hoàn tất”, nghĩa là chữa lành, tái tạo và hướng tới sự sống đích thực và viên mãn chứ không phải bị loại bỏ (x. Mt 5, 17).

3. « Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần của lễ » (c. 11-13)

Cách tương quan của Đức Giê-su đối với Mát-thêu, với các đồng nghiệp của ông và những người tội lỗi làm bật ra những ý nghĩ thầm kín của những người Pha-ri-sêu: “Sao Thầy các anh lại ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi như vậy?” Sự « đồng bàn » này của Đức Giê-su, Con Thiên Chúa nhập thể, sẽ mãi mãi khó được chấp nhận, không chỉ bởi những người Pha-ri-sêu, nhưng bởi con người thuộc mọi thời, trong đó có chính chúng ta, ngấm ngầm hay công khai. Như những người Pha-ri-sêu, chúng ta muốn « nhốt » Người vào trong một khuôn khổ tư tưởng, hệ thống Lề Luật, cơ chế định sẵn hay thậm chí một « cái thang » tiến bộ có ba bậc để « đánh giá và xếp loại » mình và người khác.

Trong cuộc Thương Khó, Đức Giê-su còn đi xa hơn nữa : Ngài để mình bị bắt như một tội nhân, bị xét xử và lên án như một tội nhân, bị hành hình như tội tội nhân và ở giữa các tội nhân. Loài người chúng ta mãi mãi không hiểu : « Sao Thầy đi con đường điền rồ và sỉ nhục như vậy » ?

Những người Pha-ri-sêu tế nhị không nói thẳng với Đức Giê-su, nhưng Đức Giê-su thì nói thẳng với họ: “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc… Hãy về học cho biết ý nghĩa của câu này: Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần của lễ”. Ngài ví mình như thầy thuốc, và đề nghị họ học một câu Kinh Thánh nói về điều Thiên Chúa ưa thích nhất. Lòng nhân từ của Thiên Chúa được biểu lộ cách tuyệt vời qua hành động chữa lành.

Chúng ta được mời gọi nhận ra những bệnh hoạn tật nguyền của mình và để cho thầy thuốc Giê-su đến chữa lành, cây thuốc của Ngài là cây Thập Giá. Đó chính là kinh nghiệm nền tảng về lòng nhân từ của Thiên Chúa, và chính kinh nghiệm này làm cho chúng ta có thể nhân từ với nhau và hiến dâng đời mình để làm chứng nhân. Nếu chúng ta tự cho mình là công chính, tự cho thôi và vì thế chỉ là ảo tưởng, tự tạo lập « sự xứng đáng » cho mình, chúng ta sẽ không có kinh nghiệm về lòng nhân từ và cũng chẳng có thể sống nhân từ. Chúng ta đi theo Đức Giê-su, chính là đi theo

Hiện Thân Lòng Nhân Từ
của Thiên Chúa

(x. Rm 8, 38-39)

Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc

……………………………………………………………………

[1] Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra sự ngỡ ngàng tột bậc của Mát-thêu (nhân vật chỉ tay vào chính mình) trong bức tranh của Caravage.

[2] Trong bức tranh của Caravage, bàn tay hướng về Mát-thêu của Đức Giê-su được vẽ phỏng theo bàn tay tạo dựng của Thiên Chúa, trong bức tranh “Tạo Dựng Adam” của họa sĩ nổi tiếng người Ý Michelangelo (1475-1564).

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây