GIÁO PHẬN PHAN THIẾT

http://gpphanthiet.com


ĐTC Phanxicô gặp gỡ các dân tộc bản địa First Nations, Métis và Inuit tại Maskwacis

ĐTC Phanxicô gặp gỡ các dân tộc bản địa First Nations, Métis và Inuit tại Maskwacis

ĐTC Phanxicô gặp gỡ các dân tộc bản địa First Nations, Métis và Inuit tại Maskwacis

26/07/2022

Thứ Hai 25/7/2022, ngày thứ hai trong chuyến tông du kéo dài 6 ngày tại Canada của ĐTC Phanxicô, Đức Thánh Cha đã có hoạt động chính thức đầu tiên. Vào lúc 8 giờ 45 phút sáng giờ Edmonton, tức là 9 giờ 45 phút tối thứ Hai 25/7 giờ Việt Nam, từ Đại chủng viện Thánh Giuse, Đức Thánh Cha đi xe đến Maskwacis để gặp gỡ các dân tộc bản địa First Nations, Métis và Inuit.

Khu vực Maskwacis nằm ở trung tâm Alberta, cách thành phố Edmonton khoảng 70 km. Nơi đây, có sự hiện diện của nhóm Bộ lạc Ấn Độ của Tây Canada và bốn Quốc gia của Maskwacis: Ermineskin Cree Nation; Louis Bull Tribe; Montana First Nation và Samson Cree Nation. First Nations là các bên ký kết Hiệp ước 6, một trong 11 Hiệp ước được ký kết bởi các dân tộc bản địa và Canada từ năm 1871 đến năm 1921. Có một thời khu vực rộng lớn này được bao phủ bởi nhiều cây lê rừng thu hút gấu đến ở, do đó còn có tên gọi là Đồi Gấu.

Khi tới nơi, ĐTC Phanxicô được cha xứ và một số vị lớn tuổi của các dân tộc bản địa First Nations, Métis và Inuit chào đón tại lối vào của nhà thờ kính Đức Mẹ Bảy Sự Thương Khó, sau đó ngài tiếp tục di chuyển đến nghĩa trang và thinh lặng cầu nguyện trong giây lát. Rồi ĐTC Phanxicô đến Bear Park Pow-Wow Grounds và được các lãnh đạo bản địa đến từ khắp nơi đón tiếp.

Các dân tộc bản địa, những người đã sinh sống trên lãnh thổ Canada từ ngàn năm, gồm ba nhóm lớn: First Nations, Métis và Inuit, với nhiều phong tục, truyền thống và ngôn ngữ khác nhau. First Nations đại diện cho cộng đồng bản địa chiếm ưu thế của Canada, hiện diện ở phía nam của quốc gia; Inuit là một phần của một trong các nhóm chính sinh sống ở vùng bắc cực; và Métis nằm ở cực tây của Canada, họ là hậu duệ của sự kết hợp giữa người bản địa và người châu Âu.

Buổi gặp gỡ được bắt đầu bằng diễn văn chào mừng của một vị đại diện các dân tộc bản địa.

Trong bài diễn văn đáp từ, trước hết ĐTC Phanxicô nói rằng ngài đã chờ đợi buổi gặp gỡ này trong những tháng qua. Và ngài đến đây để thực hiện một cuộc hành hương thống hối, để nói với người bản địa rằng ngài rất đau buồn, cầu xin Chúa tha thứ, chữa lành và hòa giải, để cho mọi người thấy sự gần gũi của ngài, để cầu nguyện với và cho họ.

ĐTC Phanxicô nói: “Tôi nhớ lại những cuộc gặp gỡ của chúng ta ở Roma bốn tháng trước. Lúc đó, tôi đã được tặng hai đôi giày da đanh như một dấu hiệu của sự đau khổ mà trẻ em bản địa phải chịu đựng, đặc biệt là những em thật không may, ở các trường nội trú và không bao giờ trở về nhà nữa. Tôi đã được yêu cầu trả lại những chiếc giày da đanh khi tôi đến Canada, và tôi sẽ làm như vậy khi tôi kết thúc bài nói chuyện này. Tôi muốn suy tư về biểu tượng này, biểu tượng mà trong vài tháng qua đã khiến tôi cảm thấy đau buồn, phẫn nộ và xấu hổ. Ký ức về các trẻ em đó quả thực rất đau đớn; nó thúc giục chúng ta làm việc để đảm bảo rằng mọi trẻ em đều được đối xử bằng tình thương, danh dự và sự tôn trọng. Đồng thời, những chiếc giày da đanh đó cũng nói cho chúng ta biết một con đường phải theo, một hành trình mà chúng ta mong muốn cùng nhau thực hiện. Chúng ta muốn cùng nhau bước đi, cùng nhau cầu nguyện và làm việc, để những đau khổ trong quá khứ có thể dẫn đến một tương lai công bằng, chữa lành và hòa giải. Đây là lý do tại sao chặng đầu tiên của cuộc hành hương giữa anh chị em lại diễn ra ở vùng này, nơi mà từ xa xưa đã chứng kiến sự hiện diện của các dân tộc bản địa. Đây là những vùng đất nói với chúng ta, cho phép chúng ta ghi nhớ”.

Ca ngợi lối sống tôn trọng lãnh thổ của người bản địa, ĐTC Phanxicô nói: “Anh chị em đã coi mảnh đất này như một ân ban của Đấng Tạo Hóa để chia sẻ với người khác và yêu thương trong sự hài hòa với mọi thụ tạo, trong mối tương giao sâu sắc với mọi sinh vật. Bằng cách này, anh chị em đã học được cách nuôi dưỡng ý thức về gia đình và cộng đồng, và phát triển mối liên kết bền chặt giữa các thế hệ, tôn trọng người lớn tuổi và quan tâm đến những người bé nhỏ. Một kho tàng các phong tục và lời dạy tốt, tập trung vào sự quan tâm đến người khác và tình yêu sự thật, vào lòng can đảm và sự tôn trọng, vào sự khiêm tốn và lòng trung thực, vào sự khôn ngoan của cuộc sống”.

Nhưng, theo ĐTC Phanxicô nếu đây là những bước đầu tiên được thực hiện trong những lãnh thổ này, thì đáng buồn là ký ức đưa mọi người đến những bước tiếp theo. Nơi tất cả đang tụ họp gợi lại trong Đức Thánh Cha cảm giác đau đớn và hối hận sâu sắc mà ngài đã cảm nhận trong những tháng qua. Đức Thánh Cha nhớ lại thảm kịch mà rất nhiều người trong số các gia đình, cộng đồng, với những gì họ đã chia sẻ với ngài về những đau khổ phải chịu đựng trong các trường nội trú. Đây là những chấn thương, theo một cách nào đó, bừng sống lại mỗi khi được gợi lại. ĐTC Phanxicô cũng nhận ra rằng cuộc gặp gỡ hôm nay cũng có thể gợi lại những ký ức và nỗi đau, và nhiều người trong số họ có thể thấy không thoải mái ngay cả khi ngài nói. Nhưng cần phải nhớ, bởi vì sự lãng quên dẫn đến sự thờ ơ và như đã nói, “đối lập của tình yêu không phải là hận thù, đó là sự thờ ơ … đối lập của sự sống không phải là cái chết, mà là sự ‘thờ ơ với sự sống hay cái chết. ‘(E. WIESEL). Nhớ lại những kinh nghiệm đau thương đã diễn ra ở các trường nội trú là điều gây phẫn nộ, đau xót, nhưng rất cần thiết.

ĐTC Phanxicô gợi lại cho mọi người nhớ rằng các chính sách đồng hóa và giải phóng, gồm cả hệ thống trường học nội trú, đã tàn phá như thế nào người dân của những vùng lãnh thổ này. Khi những người thực dân châu Âu đến đó lần đầu tiên, có một cơ hội tuyệt vời để phát triển một cuộc gặp gỡ hiệu quả giữa các nền văn hóa, truyền thống và các hình thức tâm linh. Nhưng phần lớn điều đó đã không xảy ra.

ĐTC Phanxicô giải thích: “Và một lần nữa những câu chuyện của anh chị em lại xuất hiện trong tâm trí tôi: làm thế nào các chính sách đồng hóa đã kết thúc bằng cách làm cho người bản địa bị gạt ra ngoài lề một cách có hệ thống; làm thế nào, ngay cả qua hệ thống trường nội trú, ngôn ngữ và văn hóa của anh chị em đã bị bôi nhọ và loại bỏ; trẻ em đã bị lạm dụng thể chất và lời nói, tâm lý và tinh thần; Làm thế nào các em bị đưa đi khỏi nhà các em khi các em còn nhỏ và làm thế nào điều này đã đánh dấu không thể xóa nhòa quan hệ giữa cha mẹ ông bà và con cháu”.

Tiếp đến, ĐTC Phanxicô cám ơn người bản địa đã cho ngài biết những điều này. Hôm nay ngài ở đây, vì bước đầu tiên của cuộc hành hương thống hối của ngài giữa người bản địa là một lần nữa cầu xin sự tha thứ, để nói với họ rằng ngài rất đau buồn. Ngài nói: “Tôi xin lỗi vì những cách thức mà trong đó, đáng tiếc là nhiều Kitô hữu đã ủng hộ não trạng thực dân hóa của các thế lực áp bức dân bản địa. Đặc biệt tôi cầu xin sự tha thứ đối với những cách thức mà nhiều thành viên của Giáo hội và các cộng đoàn dòng tu đã hợp tác, kể cả qua sự thờ ơ, trong các dự án phá hủy văn hóa và cưỡng bức đồng hóa do các chính phủ thời đó thúc đẩy, mà đỉnh điểm là hệ thống các trường học nội trú”.

Theo ĐTC Phanxicô, mặc dù hoạt động bác ái Kitô luôn hiện diện và không ít trường hợp là mẫu gương trong việc phục vụ trẻ em, nhưng hậu quả chung của các chính sách liên quan đến trường học nội trú là rất thảm khốc. Điều mà đức tin Kitô nói với chúng ta rằng đó là một sai lầm nghiêm trọng, không phù hợp với Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô. Thật đau đớn khi biết rằng nền tảng giá trị, ngôn ngữ và văn hóa của lãnh thổ đó, những điều mang lại cho các dân tộc bản địa một bản sắc đích thực, đã bị xói mòn và tiếp tục phải trả giá.

Đức Thánh Cha khẳng định: “Trước sự dữ gây phẫn nộ này, Giáo hội quỳ gối trước Thiên Chúa và cầu xin sự tha thứ cho tội lỗi của con cái mình. Tôi muốn nhắc lại điều đó với sự xấu hổ và rõ ràng. Tôi khiêm tốn cầu xin sự tha thứ cho tội ác của rất nhiều Kitô hữu chống lại người bản địa. Anh chị em thân mến, nhiều người trong anh chị em và những người đại diện anh chị em đã nói rằng xin lỗi không phải là kết thúc của vấn đề. Tôi cũng nhận thức được rằng đó chỉ là bước đầu tiên, điểm khởi đầu. Tôi cũng nhận ra rằng, ‘sẽ không bao giờ là đủ nếu chỉ nhìn về quá khứ, cầu xin sự tha thứ và cố gắng sửa chữa những thiệt hại đã gây ra’ và ‘sẽ không bao giờ là ít, nếu nhìn về tương lai, làm tất cả để mang lại cho cuộc sống một văn hoá có khả năng ngăn chặn những tình huống như vậy không chỉ không xảy ra nữa, nhưng còn là để nó không còn chỗ nữa’. Một phần quan trọng của quá trình này sẽ là tiến hành một cuộc tìm kiếm nghiêm túc về sự thật của những gì đã xảy ra trong quá khứ và hỗ trợ những người sống sót trong các trường nội trú cảm nghiệm việc chữa lành những tổn thương mà họ phải chịu đựng”.

ĐTC Phanxicô nói ngài cầu nguyện và hy vọng rằng các Kitô hữu và xã hội dân sự của vùng đất này sẽ phát triển khả năng chào đón và tôn trọng bản sắc và kinh nghiệm của người bản địa. Ngài hy vọng rằng những cách cụ thể sẽ được tìm thấy để làm cho những dân tộc đó được biết đến và được quý trọng hơn, để tất cả có thể học cách bước đi cùng nhau. Về phần ĐTC Phanxicô, ngài sẽ tiếp tục khuyến khích sự dấn thân của tất cả những người Công giáo đối với người bản địa. Ngài đã làm điều này nhiều lần và ở nhiều nơi khác nhau, qua các cuộc họp, lời kêu gọi và qua Tông huấn. Đức Thánh Cha biết rằng tất cả những điều này đòi hỏi thời gian và sự kiên nhẫn: đây là những quá trình cần phải đi vào lòng người, và sự hiện diện của ngài ở đây và sự dấn thân của các Giám mục Canada là bằng chứng cho ý muốn tiến hành trên con đường này.

Kết thúc bài diễn văn, ĐTC Phanxicô mời gọi mọi người thinh lặng cầu nguyện: “Chúng ta hãy cho phép những khoảnh khắc thinh lặng này giúp chúng ta khắc sâu nỗi đau của mình. Thinh lặng. Và cầu nguyện. Trước sự dữ, chúng ta cầu xin Chúa nhân lành; đối diện với cái chết, chúng ta cầu nguyện với Chúa của sự sống. Chúa Giêsu Kitô của chúng ta đã chọn nấm mộ, dường như là nơi chôn vùi mọi hy vọng và ước mơ, chỉ để lại nước mắt, nỗi đau và sự cam chịu, và biến nó thành nơi tái sinh và phục sinh, khởi đầu lịch sử của cuộc sống mới và sự hòa giải phổ quát. Những nỗ lực của chúng ta không đủ để đạt được sự chữa lành và hòa giải: chúng ta cần ơn Chúa. Chúng ta cần sự khôn ngoan hiền lành và mạnh mẽ của Thánh Thần, tình yêu dịu dàng của Đấng An Ủi. Xin Người thực hiện những mong đợi sâu sắc nhất trong trái tim của chúng ta. Xin Thánh Thần hướng dẫn các bước của chúng ta và giúp chúng ta cùng nhau thăng tiến trên hành trình này”.

Buổi gặp gỡ được tiếp tục với bài hát, kinh Lạy Cha, phép lành của ĐTC Phanxicô. Sau đó ĐTC Phanxicô gặp gỡ một số người.

Ngọc Yến

Nguồn: Đài Vatican News
 

Diễn văn của ĐTC Phanxicô tại Maskwacis

26/07/2022
Thứ Hai 25/7/2022, ngày thứ hai trong chuyến tông du kéo dài 6 ngày tại Canada của ĐTC Phanxicô, Đức Thánh Cha đã có hoạt động chính thức đầu tiên: đến Maskwacis để gặp gỡ các dân tộc bản địa First Nations, Métis và Inuit.

Thưa Bà Thống đốc Toàn quyền, ông Thủ tướng

Thưa anh chị em bản địa của Maskwacis và của vùng đất Canada này,

Thưa anh chị em thân mến!

Tôi đã chờ đợi để đến với anh chị em. Chính từ đây, nơi gắn liền với những ký ức đau buồn này, tôi muốn bắt đầu điều mà tôi mang trong lòng: một cuộc hành hương thống hối. Tôi đến quê hương của anh chị em để nói với anh chị em rằng tôi rất đau buồn, để cầu xin Chúa tha thứ, chữa lành và hòa giải, để cho anh chị em thấy sự gần gũi của tôi, để cầu nguyện với và cho anh chị em.

Tôi nhớ lại những cuộc gặp gỡ của chúng ta ở Roma bốn tháng trước. Lúc đó, tôi đã được tặng hai đôi giày da đanh như một dấu hiệu của sự đau khổ mà trẻ em bản địa phải chịu đựng, đặc biệt là những em thật không may, ở các trường nội trú và không bao giờ trở về nhà nữa. Tôi đã được yêu cầu trả lại những chiếc giày da đanh khi tôi đến Canada, và tôi sẽ làm như vậy khi tôi kết thúc bài nói chuyện này. Tôi muốn suy tư về biểu tượng này, biểu tượng mà trong vài tháng qua đã khiến tôi cảm thấy đau buồn, phẫn nộ và xấu hổ. Ký ức về các trẻ em đó quả thực rất đau đớn; nó thúc giục chúng ta làm việc để đảm bảo rằng mọi trẻ em đều được đối xử bằng tình thương, danh dự và sự tôn trọng. Đồng thời, những chiếc giày da đanh đó cũng nói cho chúng ta biết một con đường phải theo, một hành trình mà chúng ta mong muốn cùng nhau thực hiện. Chúng ta muốn cùng nhau bước đi, cùng nhau cầu nguyện và làm việc, để những đau khổ trong quá khứ có thể dẫn đến một tương lai công bằng, chữa lành và hòa giải.

Đây là lý do tại sao chặng đầu tiên của cuộc hành hương giữa anh chị em lại diễn ra ở vùng này, nơi mà từ xa xưa đã chứng kiến sự hiện diện của các dân tộc bản địa. Đây là những vùng đất nói với chúng ta, cho phép chúng ta ghi nhớ.

Ghi nhớ: anh chị em đã sống trên những mảnh đất này hàng ngàn năm, với lối sống tôn trọng chính mảnh đất mà anh chị em đã nhận được như một di sản từ các thế hệ trước và gìn giữ cho các thế hệ tương lai. Anh chị em đã coi nó như một ân ban của Đấng Tạo Hóa để chia sẻ với người khác và yêu thương trong sự hài hòa với mọi thụ tạo, trong mối tương giao sâu sắc với mọi sinh vật. Bằng cách này, anh chị em đã học được cách nuôi dưỡng ý thức về gia đình và cộng đồng, và phát triển mối liên kết bền chặt giữa các thế hệ, tôn trọng người lớn tuổi và quan tâm đến những người bé nhỏ. Một kho tàng các phong tục và lời dạy tốt, tập trung vào sự quan tâm đến người khác và tình yêu sự thật, vào lòng can đảm và sự tôn trọng, vào sự khiêm tốn và lòng trung thực, vào sự khôn ngoan của cuộc sống.

Nhưng, nếu đây là những bước đầu tiên được thực hiện trong những lãnh thổ này, thì đáng buồn là ký ức đưa chúng ta đến những bước tiếp theo. Nơi chúng ta đang tụ họp gợi lại trong tôi cảm giác đau đớn và hối hận sâu sắc mà tôi đã cảm nhận trong những tháng qua. Tôi nghĩ lại thảm kịch mà rất nhiều người trong số anh chị em, gia đình, cộng đồng anh chị em đã biết; với những gì anh chị em đã chia sẻ với tôi về những đau khổ phải chịu đựng trong các trường nội trú. Đây là những chấn thương, theo một cách nào đó, bừng sống lại mỗi khi chúng được gợi lại. Tôi cũng nhận ra rằng cuộc gặp gỡ của chúng ta ngày hôm nay cũng có thể gợi lại những ký ức và nỗi đau, và nhiều người trong số anh chị em có thể thấy không thoải mái ngay cả khi tôi nói. Nhưng chúng ta phải nhớ, bởi vì sự lãng quên dẫn đến sự thờ ơ và như đã nói, “đối lập của tình yêu không phải là hận thù, đó là sự thờ ơ … đối lập của sự sống không phải là cái chết, mà là sự ‘thờ ơ với sự sống hay cái chết. ‘(E. WIESEL). Nhớ lại những kinh nghiệm đau thương đã diễn ra ở các trường nội trú là điều gây phẫn nộ, đau xót, nhưng rất cần thiết.

Cần phải nhớ rằng các chính sách đồng hóa và giải phóng, gồm cả hệ thống trường học nội trú, đã tàn phá như thế nào người dân của những vùng lãnh thổ này. Khi những người thực dân châu Âu đến đó lần đầu tiên, có một cơ hội tuyệt vời để phát triển một cuộc gặp gỡ hiệu quả giữa các nền văn hóa, truyền thống và các hình thức tâm linh. Nhưng phần lớn điều đó đã không xảy ra. Và một lần nữa những câu chuyện của anh chị em lại xuất hiện trong tâm trí tôi: làm thế nào các chính sách đồng hóa đã kết thúc bằng cách làm cho người bản địa bị gạt ra ngoài lề một cách có hệ thống; làm thế nào, ngay cả qua hệ thống trường nội trú, ngôn ngữ và văn hóa của anh chị em đã bị bôi nhọ và loại bỏ; trẻ em đã bị lạm dụng thể chất và lời nói, tâm lý và tinh thần; Làm thế nào các em bị đưa đi khỏi nhà các em khi các em còn nhỏ và làm thế nào điều này đã đánh dấu không thể xóa nhòa quan hệ giữa cha mẹ ông bà và con cháu.

Cám ơn anh chị em đã cho tôi biết rõ điều này, đã nói cho tôi biết những gánh nặng mà anh chị em đang có trong lòng, đã chia sẻ với tôi ký ức cay đắng này. Hôm nay tôi ở đây, trên mảnh đất này, cùng với những ký ức xa xưa, lưu giữ những vết thương lòng còn hở. Tôi ở đây bởi vì bước đầu tiên của cuộc hành hương thống hối của tôi giữa anh chị em là một lần nữa cầu xin sự tha thứ, để nói với anh chị em rằng tôi rất đau buồn. Tôi xin lỗi vì những cách thức mà trong đó, đáng tiếc là nhiều Kitô hữu đã ủng hộ não trạng thực dân hóa của các thế lực áp bức dân bản địa. Đặc biệt tôi cầu xin sự tha thứ đối với những cách thức mà nhiều thành viên của Giáo hội và các cộng đoàn dòng tu đã hợp tác, kể cả qua sự thờ ơ, trong các dự án phá hủy văn hóa và cưỡng bức đồng hóa do các chính phủ thời đó thúc đẩy, mà đỉnh điểm là hệ thống các trường học nội trú.

Mặc dù hoạt động bác ái Kitô giáo luôn hiện diện và không ít trường hợp là mẫu gương trong việc phục vụ trẻ em, nhưng hậu quả chung của các chính sách liên quan đến trường học nội trú là rất thảm khốc. Điều mà đức tin Kitô nói với chúng ta rằng đó là một sai lầm nghiêm trọng, không phù hợp với Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô. Thật đau đớn khi biết rằng nền tảng giá trị, ngôn ngữ và văn hóa của lãnh thổ đó, những điều mang lại cho các dân tộc của anh chị em một bản sắc đích thực, đã bị xói mòn và anh chị em tiếp tục phải trả giá. Trước sự dữ gây phẫn nộ này, Giáo hội quỳ gối trước Thiên Chúa và cầu xin sự tha thứ cho tội lỗi của con cái mình. Tôi muốn nhắc lại điều đó với sự xấu hổ và rõ ràng. Tôi khiêm tốn cầu xin sự tha thứ cho tội ác của rất nhiều Kitô hữu chống lại người bản địa.

Anh chị em thân mến, nhiều người trong anh chị em và những người đại diện anh chị em đã nói rằng xin lỗi không phải là kết thúc của vấn đề. Tôi cũng nhận thức được rằng đó chỉ là bước đầu tiên, điểm khởi đầu. Tôi cũng nhận ra rằng, “sẽ không bao giờ là đủ nếu chỉ nhìn về quá khứ, cầu xin sự tha thứ và cố gắng sửa chữa những thiệt hại đã gây ra” và “sẽ không bao giờ là ít, nếu nhìn về tương lai, làm tất cả để mang lại cho cuộc sống một văn hoá có khả năng ngăn chặn những tình huống như vậy không chỉ không xảy ra nữa, nhưng còn là để nó không còn chỗ nữa” (Thư gửi Dân Chúa, 20/8/2018). Một phần quan trọng của quá trình này sẽ là tiến hành một cuộc tìm kiếm nghiêm túc về sự thật của những gì đã xảy ra trong quá khứ và hỗ trợ những người sống sót trong các trường nội trú cảm nghiệm việc chữa lành những tổn thương mà họ phải chịu đựng.

Tôi cầu nguyện và hy vọng rằng các Kitô hữu và xã hội dân sự của vùng đất này sẽ phát triển về khả năng chào đón và tôn trọng bản sắc và kinh nghiệm của người bản địa. Tôi hy vọng rằng những cách cụ thể sẽ được tìm thấy để làm cho những dân tộc đó được biết đến và được quý trọng hơn, để tất cả có thể học cách bước đi cùng nhau. Về phần mình, tôi sẽ tiếp tục khuyến khích sự dấn thân của tất cả những người Công giáo đối với người bản địa. Tôi đã làm điều này nhiều lần và ở nhiều nơi khác nhau, qua các cuộc họp, lời kêu gọi và qua Tông huấn. Tôi biết rằng tất cả những điều này đòi hỏi thời gian và sự kiên nhẫn: đây là những quá trình cần phải đi vào lòng người, và sự hiện diện của tôi ở đây và sự dấn thân của các Giám mục Canada là bằng chứng cho ý muốn tiến hành trên con đường này.

Anh chị em thân mến, cuộc hành hương này kéo dài vài ngày và xảy ra ở những nơi cách xa nhau; tuy nhiên, nó sẽ không cho phép tôi nhận nhiều lời mời và thăm các trung tâm như Kamloops, Winnipeg, các địa điểm khác nhau ở Saskatchewan, Yukon và các Lãnh thổ Tây Bắc. Ngay cả khi điều này là không thể, anh chị em biết rằng tất cả anh chị em ở trong suy nghĩ và trong lời cầu nguyện của tôi. Anh chị em biết rằng tôi biết những đau khổ, tổn thương và thách đố của những người bản địa trên mọi miền đất nước này. Những lời tôi nói trong hành trình thống hối này được gửi đến tất cả cộng đồng và người bản xứ, những người mà tôi ôm ấp trong tâm hồn.

Trong bước đầu tiên của cuộc hành trình, tôi muốn dành chỗ cho ký ức. Ở đây, hôm nay, tôi cùng anh chị em nhớ lại quá khứ, cùng khóc với anh chị em, cùng nhau cúi đầu trong thinh lặng và cầu nguyện trước những nấm mồ. Chúng ta hãy cho phép những khoảnh khắc thinh lặng này giúp chúng ta khắc sâu nỗi đau của mình. Thinh lặng. Và cầu nguyện. Trước sự dữ, chúng ta cầu xin Chúa nhân lành; đối diện với cái chết, chúng ta cầu nguyện với Chúa của sự sống. Chúa Giêsu Kitô của chúng ta đã chọn nấm mộ, dường như là nơi chôn vùi mọi hy vọng và ước mơ, chỉ để lại nước mắt, nỗi đau và sự cam chịu, và biến nó thành nơi tái sinh và phục sinh, khởi đầu lịch sử của cuộc sống mới và sự hòa giải phổ quát. Những nỗ lực của chúng ta không đủ để đạt được sự chữa lành và hòa giải: chúng ta cần ơn Chúa. Chúng ta cần sự khôn ngoan hiền lành và mạnh mẽ của Thánh Thần, tình yêu dịu dàng của Đấng An Ủi. Xin Người thực hiện những mong đợi sâu sắc nhất trong trái tim của chúng ta. Xin Thánh Thần hướng dẫn các bước của chúng ta và giúp chúng ta cùng nhau thăng tiến trên hành trình này.

ĐTC Phanxicô

Nguồn: Đài Vatican News
 

ĐTC Phanxicô gặp gỡ các Dân tộc Bản địa và cộng đoàn giáo xứ Thánh Tâm Edmonton

26/07/2022

Sự kiện chính thức thứ hai trong chuyến tông du của ĐTC Phanxicô là cuộc Gặp gỡ các Dân tộc Bản địa và các thành viên của cộng đoàn giáo xứ tại Nhà thờ Thánh Tâm ở Edmonton của các Dân tộc Đầu tiên.

Nhà thờ Thánh Tâm được xây dựng vào năm 1913, là một trong những nhà thờ Công giáo cổ nhất của thành phố. Năm 1991 Đức tổng giám mục Joseph MacNeil đã dành giáo xứ này cho các Dân tộc Bản địa First Nations, Métis và Inuit. Tại đây đức tin Công giáo được diễn tả trong bối cảnh của văn hoá bản địa.

Tòa nhà lưu giữ nhiều tác phẩm nghệ thuật thiêng liêng độc đáo do các nghệ nhân người bản địa tạo ra. Trong những năm qua, nhiều người nhập cư và tị nạn từ khắp nơi trên thế giới đến định cư tại Edmonton đã biến Nhà thờ Thánh Tâm trở thành ngôi nhà tâm linh của họ. Tòa nhà đã bị hư hại bởi một trận hỏa hoạn vào tháng 8 năm 2020 và đóng cửa trong hai năm để trùng tu. Công việc được hoàn thành đúng vào thời điểm Đức Thánh Cha đến thăm.

Lúc khoảng 4 giờ 45 chiều thứ Hai 25/7/2022 giờ Edmonton, tức là 5 giờ 45 sáng thứ Ba 26/7/2022 giờ Việt Nam, ĐTC Phanxicô đã đến nhà thờ Thánh Tâm và được cha sở và các giáo dân chào đón trong tiếng trống của người bản địa.

Đến Canada như một người bạn, một người hành hương

Ngỏ lời với các tín hữu, ĐTC Phanxicô cho biết ngài rất vui khi hiện diện ở đây, giữa các tín hữu và gặp lại những khuôn mặt của các đại diện của người bản địa đã đến gặp ngài ở Roma vài tháng trước. Ngài nói rằng cuộc viếng thăm đó rất có ý nghĩa với ngài, và bây giờ ngài đến nhà của họ, như một người bạn và một người hành hương tại miền đất của họ, trong nhà thờ nơi họ quy tụ lại như những người anh chị em để ngợi khen Thiên Chúa.

ĐTC Phanxicô hài lòng nhìn thấy tại giáo xứ Thánh Tâm này, nơi những người thuộc các cộng đoàn khác nhau thuộc các Dân tộc Đầu tiên, Métis và Inuit đến cùng với những người không thuộc sắc tộc bản địa sống ở địa phương và nhiều anh chị em di dân khác bắt đầu những hành động cụ thể trong tiến trình chữa lành. Ngài nói: “Nơi này là một ngôi nhà cho tất cả, mở rộng và bao gồm, như Giáo hội phải là, vì đó là gia đình của các con cái Thiên Chúa, nơi đón tiếp và chào đón, những giá trị đặc trưng của văn hoá bản địa, là điều thiết yếu. Một ngôi nhà là nơi mọi người cảm thấy được chào đón, bất kể kinh nghiệm quá khứ và lịch sử đời sống cá nhân.”

ĐTC Phanxicô cám ơn cộng đoàn đã gần gũi với nhiều người nghèo qua công việc bác ái của họ. “Đó là điều Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta, vì như Người nói với chúng ta, lặp đi lặp lại trong Phúc Âm: ‘Khi các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy’ (Mt 25,40).”

Đau lòng vì sai lỗi của Giáo hội trong quá khứ

Tuy thế, ĐTC Phanxicô lưu ý rằng trong Giáo hội cũng có lúa mì xen lẫn với cỏ lùng. Và đây là lý do ngài đã muốn thực hiện cuộc hành hương thống hối này. Ngài nói: “Tôi bắt đầu nó vào sáng nay bằng việc nhắc lại sai lầm mà nhiều Kitô hữu đã làm với các dân tộc bản địa và bằng cách cầu xin sự tha thứ, với lòng đau khổ. Tôi thật đau lòng khi nghĩ rằng người Công giáo đã góp phần vào các chính sách đồng hóa và chiếm đóng, tạo ra cảm giác thấp kém, cướp đi bản sắc văn hóa và tinh thần của cộng đồng và cá nhân, cắt đứt cội nguồn và nuôi dưỡng thái độ thành kiến ​​và phân biệt đối xử; và điều này cũng được thực hiện dưới danh nghĩa của một hệ thống giáo dục được cho là Kitô giáo.”

Hoà giải nhờ Thánh giá – “cây sự sống”

Tiếp đến, ĐTC Phanxicô chia sẻ một số suy tư về từ ngữ Hoà giải.

Trước hết, như Thánh Tông đồ Phaolô cho chúng ta biết, Chúa Giêsu đã hòa giải bằng cách quy tụ lại với nhau, bằng cách làm cho hai nhóm xa cách nhau trở thành một: một thực tại, một linh hồn, một dân tộc. Và Người làm điều đó thế nào? Qua thập giá (x. Ep 2,14). Chúa Giêsu đã hòa giải chúng ta với nhau trên Thánh giá, trên ‘cây sự sống’, như các Kitô hữu xa xưa yêu thích gọi như thế.” Đức Thánh Cha nói: “Trên Thánh giá, Chúa Kitô đã hòa giải và gắn kết lại mọi điều tưởng như không thể tưởng tượng được và không thể tha thứ được; Người ôm lấy tất cả mọi người và mọi vật. Mọi người và mọi vật!”

Các dân tộc bản địa gán cho bốn phương hướng một ý nghĩa vũ trụ mạnh mẽ, không chỉ được xem như các điểm tham chiếu địa lý mà còn là các chiều kích bao trùm tất cả thực tại và chỉ ra cách để chữa lành nó, như được biểu tượng bởi cái gọi là “bánh xe y học” (của thổ dân). ĐTC Phanxicô nhận xét nhà thờ Thánh Tâm sử dụng tính biểu tượng đó của bốn phương hướng và cho nó một ý nghĩa Kitô học. Chúa Giêsu, qua bốn cực điểm của Thánh giá của Người, đã ôm choàng bốn điểm chính yếu và đã quy tụ các dân tộc xa xôi nhất lại với nhau; Người đã chữa lành và mang lại bình an cho muôn vật (x. Ep 2,14). Trên Thánh giá, Chúa đã hoàn thành kế hoạch của Thiên Chúa: “hòa giải mọi vật” (x. Cl 1,20).

Thánh giá Chúa có ý nghĩa gì đối với những người mang trong mình những vết thương lòng đau đớn như vậy? Chúng ta cần phải khởi hành lại, từ Thánh giá. ĐTC Phanxicô giải thích: “Tình yêu đó khiến Chúa để bàn tay và bàn chân bị đâm xuyên bởi những chiếc đinh, và đầu đội mão gai. Đây là con đường tiến bước: cùng nhau nhìn lên Chúa Kitô, yêu thương bị phản bội và bị đóng đinh vì chúng ta; nhìn lên Chúa Kitô, chịu đóng đinh trong nhiều học sinh của các trường nội trú. Nếu chúng ta muốn được hòa giải với nhau và với chính mình, được hòa giải với quá khứ, với những sai trái đã phải chịu đựng và những ký ức bị thương tích, với những kinh nghiệm đau thương mà không một sự an ủi nào của con người có thể chữa lành được, thì chúng ta phải ngước mắt lên nhìn Chúa Giêsu bị đóng đinh; hòa bình phải đạt được nơi bàn thờ thập giá của Người.”

Giáo hội là thân thể hòa giải sống động

Một khía cạnh khác của sự hòa giải được ĐTC Phanxicô chia sẻ là theo Thánh tông đồ Phaolô, Chúa Giêsu, nhờ Thánh giá, đã hòa giải chúng ta nên một thân thể (x. Ep 2,14). Đó là thân thể của Giáo hội. Giáo hội là thân thể hòa giải sống động này. Đức Thánh Cha nói: “Nếu chúng ta nghĩ về nỗi đau lâu dài mà rất nhiều người trong các cơ sở giáo hội phải trải qua ở những nơi này, chúng ta không cảm thấy gì khác ngoài sự tức giận và xấu hổ. Điều đó xảy ra bởi vì các tín đồ trở nên thế tục, và thay vì thúc đẩy sự hòa giải, họ đã áp đặt các mô hình văn hóa của riêng mình…”

ĐTC Phanxicô nói tiếp: “Tuy vậy, điều này đã xảy ra bao nhiêu lần trong lịch sử! Trong khi Thiên Chúa bày tỏ mình cách đơn giản và lặng lẽ, chúng ta luôn có cám dỗ áp đặt Người và áp đặt mình nhân danh Người. Chính cám dỗ của thế gian muốn Người xuống khỏi Thánh giá và thể hiện mình bằng quyền lực. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã hòa giải chúng ta trên Thánh giá, không phải bằng cách xuống khỏi Thánh giá. Dưới chân Thánh giá, có những kẻ chỉ nghĩ đến mình và không ngừng cám dỗ Đức Kitô, bảo Người hãy tự cứu lấy chính mình (x. Lc 23,35,36) và đừng nghĩ đến người khác.”

ĐTC Phanxicô cầu xin cho điều này không bao giờ xảy ra nữa trong Giáo hội. Xin Chúa Giêsu được rao giảng như Người mong muốn, trong tự do và bác ái. Trong mỗi người bị đóng đinh mà chúng ta gặp, xin cho chúng ta thấy không phải là vấn đề cần giải quyết, nhưng là anh chị em cần được yêu thương, là xác thịt của Chúa Kitô được yêu thương. Xin cho Giáo Hội, Nhiệm Thể Chúa Kitô, là một thân thể sống động của sự hòa giải!

Nhà thờ – dấu hiệu sự gần gũi của Thiên Chúa

Cuối cùng, trong nhà thờ này, phía trên bàn thờ và Nhà Tạm, có bốn cột của một chiếc lều điển hình của người bản địa, một chiếc lều teepee. Lều teepee này có tính biểu tượng sâu sắc trong kinh thánh. Khi dân Israel hành trình trong sa mạc, Thiên Chúa ngự trong một cái lều được dựng lên mỗi khi dân chúng dừng lại và cắm trại: đó là Lều Hội ngộ. Lều teepee nhắc nhở rằng Thiên Chúa đồng hành với chúng ta trong cuộc hành trình của chúng ta và rất thích gặp gỡ chúng ta cùng nhau, trong hội họp, trong hội đồng.

Thiên Chúa là Thiên Chúa gần gũi, và trong Chúa Giêsu, Người dạy chúng ta ngôn ngữ của lòng trắc ẩn và tình yêu thương dịu dàng. Đó là điều chúng ta nên ghi nhớ mỗi khi bước vào một nhà thờ, nơi Chúa Giêsu hiện diện trong Nhà Tạm, nguyên ngữ có nghĩa là “lều”. Thiên Chúa đã cắm lều của Người ở giữa chúng ta; Người đồng hành với chúng ta qua các sa mạc của chúng ta. Người không ở trong những dinh thự trên trời, nhưng ở trong Giáo hội của chúng ta, nơi mà Người muốn trở thành một ngôi nhà hòa giải.

ĐTC Phanxicô kết thúc bài diễn văn với lời cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, chịu đóng đinh và sống lại, Chúa ngự ở đây, giữa dân tộc của Chúa, và Chúa muốn vinh quang của Chúa chiếu tỏa qua các cộng đồng và trong các nền văn hóa của chúng con. Xin hãy nắm lấy tay chúng con, và thậm chí băng qua những sa mạc của lịch sử, tiếp tục hướng dẫn những bước đi của chúng con trên con đường hòa giải. Amen.”

Sau bài diễn văn, ĐTC Phanxicô cùng cộng đoàn đọc kinh Lạy Cha và sau đó ngài ban phép lành cho mọi người.

Cuối cuộc gặp gỡ ĐTC Phanxicô đã chào một số tín hữu của giáo xứ. Sau đó, đi ra ngoài, ngài làm phép tượng thánh nữ Kateri Tekakwitha, nữ thổ dân đầu tiên của Bắc Mỹ được Giáo hội Công giáo tuyên thánh.

Sau cuộc gặp gỡ, ĐTC Phanxicô trở về chủng viện thánh Giuse cách đó hơn 4 km để dùng cơm tối và nghỉ đêm, kết thúc ngày thứ hai của chuyến viếng thăm Canada.

Hồng Thủy

Nguồn: Đài Vatican News

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây