GIÁO PHẬN PHAN THIẾT

http://gpphanthiet.com


THỨ BA – LỄ TRUYỀN TIN Lc 1,26-38

THỨ BA – LỄ TRUYỀN TIN Lc 1,26-38
THỨ BA – LỄ TRUYỀN TIN
Lc 1,26-38

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Luca
26 Khi ấy, bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, 27 gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a.
28 Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.”
29 Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì.
30 Sứ thần liền nói: “Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà được đẹp lòng Thiên Chúa. 31 Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su.
32 Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người.
33 Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.”
34 Bà Ma-ri-a thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra thế nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng ?”
35 Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ toả bóng trên bà; vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.
36 Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng, 37 vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”
38 Bấy giờ bà Ma-ri-a nói với sứ thần: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói.” Rồi sứ thần từ biệt ra đi.

 

SUY NIỆM:
Hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội long trọng mừng lễ Thiên Chúa sai sứ thần truyền tin Đức Mẹ. Đây là 1 biến cố trọng đại đối với người kitô hữu chúng ta, và là 1 trong 3 mầu nhiệm chính trong đạo: Mầu nhiệm Con Thiên Chúa nhập thể làm người. Biến cố này mở ra cho chúng ta 3 điều để suy gẫm:
Thứ nhất là về phía Thiên Chúa Cha, Ngài là Thiên Chúa trung tín. Ngài trung tín, bởi vì những gì mà Ngài đã hứa qua miệng tiên tri A-khát, về “một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ 1 con trai, và đặt tên là Emmanuel”, được thuật lại trong bài đọc I, giờ đây đã được thực hiện. Trinh nữ ấy không ai khác là chính Đức Maria. Hài nhi ấy không ai khác chính là Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người do quyền năng Chúa Thánh Thần.
Thứ hai là về phía Chúa Giêsu. Ngài đã tự nguyện và tiên phong thực hiện thánh ý Chúa Cha. Từ địa vị Ngôi Hai Thiên Chúa, nhưng Ngài đã “hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân và sống như người trần thế”. Ngài đã vâng theo thánh ý Chúa Cha, tất cả là vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta.
Thứ ba là về phía Đức Maria. Mẹ đã “xin vâng” như lời Sứ thần truyền. Đây là quyết định không dễ dàng chút nào, Bởi sau lời “Xin vâng” ấy, là cả  chặng đường gian nan thử thách mà Mẹ phải đối diện. Nhưng Mẹ tin rằng, một khi “Chúa đã đoái thương nhìn đến phận hèn này”, thì Chúa luôn ở cùng Mẹ. Tuy Đức Maria nói lời “Xin vâng” chỉ một lần, nhưng Mẹ lại sống lời “Xin vâng” trọn cả một đời.
Khi nhắc lại cho chúng ta nhớ những điều ấy, Giáo Hội muốn chúng ta mang lấy 3 tâm tình sau đây:
Đầu tiên là tâm tình tạ ơn Thiên Chúa Cha. Tạ ơn Chúa vì Ngài không lừa dối chúng ta bao giờ. Ngài hứa được là làm được. Lời hứa cứu độ ấy chưa dừng lại ở đây, nhưng còn đạt đến đỉnh điểm trong ngày quang lâm, ngày mà Thiên Chúa không để cho một con chiên nào phải hư mất, nhưng muốn quy tụ chúng ta thành một đàn chiên duy nhất. Hãy tiếp tục tin tưởng vào Chúa chúng ta thưa anh chị em, vì “ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ”.
Kết đến là tâm tình tri ân Chúa Giêsu. Tri ân vì Ngài đã yêu thương ta và yêu thương đến cùng. Ngài đã là làm người để mang lấy tội lỗi của chúng ta. Ngài đã làm người để con người được làm con Thiên Chúa.
Sau cùng là tâm tình cám ơn Đức Mẹ. Cám ơn vì Mẹ đã chấp nhận hy sinh những dự định và mộng ước tương lai đời mình, để sẵn sàng cộng tác với Thiên Chúa qua việc cưu mang và trao ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại.
Ước gì một khi nhận ra được những điều ấy, mỗi người sẽ sống xứng đáng hơn với những ơn lành mà Chúa thương ban, sống xứng đáng hơn trong ơn gọi là người con cái Chúa. Amen.
Lm. Antôn

SUY NIỆM: YÊU CUỘC ĐỜI, YÊU CON NGƯỜI

Jacques Duquesne là một văn hào hiện đại của nước Pháp có kể rằng: Trong một cuộc tranh luận ở thư viện ngoại ô Paris, với thành phần tham dự đủ mọi loại người, thuộc nhiều tầng lớp xã hội và tuổi tác khác nhau, đề tài được bàn đến là Ðức Giê-su. Ðang khi mọi người tranh luận, một thiếu niên Ả-rập giơ tay nói với Duquesne: thưa ông, một con người không thể là Thiên Chúa, một Thiên Chúa không thể là người.
Quả thật đây là vấn đề được đặt ra từ lâu. Không chỉ người thiếu niên Hồi Giáo đặt ra mà suốt hơn 20 thế kỷ qua nhân loại vẫn luôn thao thức. Tin vào một Thiên Chúa thần linh thì hầu hết các tôn giáo đều làm như vậy. Nhưng tin vào một Thiên Chúa làm người, chấp nhận thân phận con người, không loại trừ bất cứ điều gì chỉ trừ tội lỗi là một điều vượt quá lý trí nhân loại. Làm sao một Thiên Chúa lại có thể làm những chuyện quá tầm thường, thậm chí không xứng đáng với bản tính thần linh của Ngài như là được cưu mang, được sinh hạ, phải ăn uống ngũ nghỉ, mệt mỏi, vui buồn?
Vậy mà Giáo Hội Ki-tô Giáo hơn 20 thế kỷ qua vẫn kiên trì bảo vệ niềm tin vững chắc của mình vào một Ðức Giê-su vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật. Trong Phụng Vụ Lễ Giáng Sinh khi đọc đến câu Tin Mừng Ga 1,14: "Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”thì mọi người đều quì gối. Trong Lễ Truyền Tin, lúc đọc Kinh Tin Kính, mọi người đều quì gối khi đọc câu "Người đã nhập thể trong lòng Trinh nữ Ma-ri-a và đã làm người"
Ðức Giê-su, Thiên Chúa thật, người thật, là một mầu nhiệm thâm sâu. Ðức Hồng Y Henri De Lubac bảo rằng: Mầu nhiệm Nhập thể là nghịch lý của mọi nghịch lý. Văn hào Tertuliano đã xác tín: Tôi tin vì nó phi lý. Thiên Chúa làm người, điều phi lý đối với lý trí nhưng ông đã tin vì Thiên Chúa là tình yêu. Thiên Chúa làm người là một nghịch lý, một điều không thể tin được, bởi lẽ, đã là Thiên Chúa thì phải là Ðấng cao cả, tuyệt đối, hằng hữu, bất tử. Ðối với triết lý Hy-lạp, các thần linh thuộc về một thế giới siêu phàm hoàn toàn khác biệt với thế giới phàm nhân. Các thần linh đều bất di bất dịch, bất động vô cảm đối với thế giới vật chất. Còn vật chất là một thực tại xấu xa. Thân xác con người là tù ngục nhốt kín linh hồn và linh hồn tìm cách thoát khỏi tù ngục thân xác để trở về thượng giới. Do đó họ không thể tin nổi một Thiên Chúa yêu thương con người tới mức làm người, sống với con người cách đơn sơ bé nhỏ. Vậy mà niềm tin Ki-tô Giáo lại khẳng định: Ðiều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận được, dân ngoại cho là điên rồ (1Cr 1,23) thì lại là Niềm Tin căn bản nhất trong giáo lý Giáo Hội: Thiên Chúa làm người và ở cùng chúng ta.
Giáo Hội chọn đọc đoạn Tin Mừng Lc 1, 26-38: Truyền tin cho Ðức Ma-ri-a để nói cho chúng ta về việc nhập thể lạ lùng của Con Thiên Chúa trong cung lòng một trinh nữ. Một trinh nữ thụ thai, sinh con, đồng trinh trọn đời, một giáo lý độc đáo nhất chỉ có trong Ki-tô Giáo. Ðoạn Tin Mừng này được đọc trong các Lễ Ðức Ma-ri-a, nói lên sự thánh hiến tuyển chọn của Thiên Chúa đối với một thụ tạo được đặc ân vĩ đại nhất. Trang Tin Mừng được công bố trong ngày hôm nay muốn hướng chúng ta đến Mầu Nhiệm Nhập Thể Làm Người của Con Thiên Chúa.
Trong cuộc đối thoại giữa sứ thần Gáp-ri-en và Ðức Ma-ri-a, chính sứ thần đã nói: "Quyền năng Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm lên bà, vì thế con bà sinh ra sẽ là Ðấng Thánh, là Con Thiên Chúa". Từ ngữ quan trọng ở đây là "bao trùm lên". Trong Cựu Ước, sách Xuất Hành kể lại: Một đám mây mầu nhiệm bao trùm lên Lều Tạm, nơi dân Do-thái để Hòm Bia Giao Ước; Một giao ước được Thiên Chúa ký kết với Mô-sê trên núi Xi-nai. Hòm Bia, nơi chứa đựng Thập Giới; Xh 40, 34 nói rằng: Bao lâu đám mây còn bao phủ Lều Tạm thì Lều Tạm có Thiên Chúa hiện diện.
Thánh Lu-ca dùng từ "bao trùm lên”không phải là ngẫu nhiên mà là có ý nghĩa thâm sâu. Lu-ca so sánh thân thể Ðức Ma-ri-a với Lều Tạm, nơi đặt Hòm Bia Giao Ước của Thiên Chúa. Cung lòng Ðức Ma-ri-a, nơi Ðức Giê-su cư ngụ; Hòm Bia Giao Ước, nơi đặt hai phiến đá ghi 10 Giới Răn của Thiên Chúa, trung tâm Cựu Ước. Vậy khi quyền năng của Thiên Chúa bao trùm lên Ðức Ma-ri-a thì có Thiên Chúa hiện diện trong Ngài. Nhưng sự hiện diện của Thiên Chúa trong cung lòng Ðức Ma-ri-a thì vô cùng phong phú hơn làsự hiện của Thiên Chúa trong Nhà Tạm, vì nơi đó Ðức Giê-su bằng xương bằng thịt hiện diện. Quyền năng Chúa Thánh Thần bao phủ và máu thịt Ðức Ma-ri-a tạo nên hình hài Ðức Giê-su. Ðức Giê-su mặc lấy thân xác con người nhờ máu thịt Ðức Ma-ri-a và Người vẫn là Thiên Chúa được Chúa Cha sinh ra từ muôn thuở. Cả hai bài đọc giúp chúng ta hiểu thêm về mầu nhiệm ấy.
Qua lời "Xin Vâng”của Ðức Ma-ri-a, Thiên Chúa đã nhập thể làm người. Nói như Thư Do thái, Ngài đã muốn nên giống anh em mình về mọi phương diện, phải trải qua thử thách và đau khổ, phải nếm sự chết. Ðau thương, thử thách, gian khổ, chết, đó làthân phận con người. Hữu sinh hữu tử. Ðức Giê-su đã chấp nhận sinh làm con một người phụ nữ và sống dưới lề luật như Lời Thánh Phao-lô trong Thư Gl 4,4 thì Người cũng chịu nạn đời quan Phong-xi-ô Phi-la-tô, chịu đóng đinh trên cây thập giá và táng xác như chúng ta đã tuyên xưng trong kinh tin kính. Ðó là niềm tin vững chắc của người Ki-tô hữu hơn 20 thế kỷ qua.
Ðức Giê-su đã sinh ra và đã đi vào lịch sử. Thiên Chúa của chúng ta không phải là vị Chúa Tể xa cách uy nghi ngự chín tầng mây, mà qua, Ðức Giê-su, Người đã trở thành Em-ma-nu-en, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Người đến không phải để được kẻ hầu người hạ mà là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn dân. Chính Người đã quì xuống rửa chân cho các môn đệ và tuyên bố với các học trò mình "Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ vì tôi tớ không biết việc chủ làm, nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu vì tất cả những gì Thầy nghe biết nơi Cha Thầy thì Thầy sẽ cho anh em biết” (Ga 15, 15).
Con Thiên Chúa làm người cũng lớn lên như hàng tỉ con người khác, cũng cần chín tháng mười ngày trong lòng mẹ để khóc chào đời mong manh yếu đuối. Người cũng đã đi hết hành trình cuộc đời với tất cả buốn vui, âu lo trăn trở. Như thế, Con Thiên Chúa làm người dạy cho mỗi người chúng ta yêu mến cuộc đời, yêu mảnh đời bé nhỏ âm thầm đơn sơ của mình. Cuộc đời Ðức Giê-su không chỉ toàn màu hồng. Ngài đã phải long đong với phận nghèo, cũng ê chề vì thất bại chống đối khinh khi, bị tước đoạt đến tột cùng trên thập giá. Nhưng Ngài vững tin đến cùng vào tình yêu Chúa Cha ngay giữa lúc tối tăm nhất.
Con Thiên Chúa làm người dạy chúng ta yêu mến mọi người. Từ khi Ðức Giê-su mang lấy khuôn mặt con người thì mọi người đều mang khuôn mặt Thiên Chúa. Mọi người đều là anh em trong Ðức Giê-su. Yêu cuộc đời và yêu mọi người là thắp lên ngọn lửa Ðức Tin để sưởi ấm cho xã hội đang mất dần niềm tin vào Thiên Chúa vào con người.
Chính Ðức Thánh Cha Gio-an Phao-lô 2 trong Thông Ðiệp Ðấng Cứu Chuộc Con Người đã mạnh mẽ nói rằng: Con người là con đường của Giáo Hội. Con người là đối tượng phục vụ của Giáo Hội.
Xin Mẹ Maria giúp chúng con yêu mến con người và yêu mến cuộc đời.

Lm Nguyễn Hữu An

SUY NIỆM: ĐÓN NHẬN QUÀ TẶNG CỦA THIÊN CHÚA 

Vào các dịp sinh nhật hoặc các dịp đặc biệt chúng ta thường có thói quen tặng người thân những món quà và đồng thời cũng đã từng nhận được những món quà dễ thương. Tặng quà là thể hiện tấm lòng yêu thương quý mến của người tặng dành cho người nhận, qua món quà người trao như muốn trao tặng tình cảm và cả con người mình cho người nhận. Còn người nhận khi đón nhận món quà thường rất vui không phải vì giá trị của món quà, mà vì thấy rằng mình có một vị trí đặc biệt trong trái tim của người tặng. Tuy nhiên ngày nay với thời buổi con người đáng giá tình cảm của nhau trên thang giá trị vật chất, và lối suy nghĩ thực dụng đã khiến việc trao tặng và nhận quà bị mất đi vẻ đẹp và ý nghĩa ban đầu, nhiều người đã đánh giá tình cảm của nhau theo giá trị của món quà hơn là tấm lòng và tình yêu thương của người trao.
Hôm nay mừng lễ Đức Mariia được truyền tin, chúng ta nhận ra tấm lòng của Thiên Chúa khi trao tặng cho nhân loại một món qua vô giá là Đức Giêsu Con của Ngài, và Trinh nữ Maria là người đại diện đã đón nhận với một sự trân trọng cung kính và khiêm tốn.
Bài đọc một cho thấy vợ chồng vua Akhat đã từ chối đón nhận món quà của Thiên Chúa. Lúc đó nhà vua không có con trai nối dòng, vua và hoàng hậu lại sa đà vào lối sống của dân ngoại, chay theo việc cúng bái thần Baal. Nhà vua đã lập đàn cúng bái để xin có con nối dõi, trước việc làm sai trái và gây gương xấu này, tiên tri Isai đã cảnh cáo nhà vua và nói với nhà vua: Ngươi cứ xin Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi ban cho một dấu dưới âm phủ hoặc trên chốn trời cao. Nhưng vua Akhat đã nhất mực không xin Chúa, ông lấy lý do là không dám thử thách Thiên Chúa.
Trước sự cứng đầu của vua Akhat, tiên tri Isai đã nói, dù vua không xin thì Thiên Chúa cũng sẽ cho một dấu: Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai và người ta sẽ gọi tên Người là Emanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Lời tiên báo này thật lạ lùng: Một trinh nữ sẽ mang thai. Điều này vượt quá sức tưởng tượng của con người, tuy nhiên đó không phải lá điều khó khăn đối với Thiên Chúa.
Đến thời đã định, Thiên Chúa đã thực hiện lời tiên báo này và cô trinh nữ được tuyển chọn để đón nhận lời hứa, đón nhận món quà đặc biệt này chính là Đức trinh nữ Maria. Câu chuyện trong Tin Mừng cho thấy, với sự tôn trọng sự tự do của con người, Thiên Chúa đã cho sứ thần Gabriel đến để hỏi ý kiến Đức Maria. Thiên thần vào nhà Đức maria và chào rằng kính chào bà đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng bà. Lời chào hết sức trân trọng và lạ lùng khiến cho Đức Maria bối rối vì không hiểu chuyện gì sẽ xảy ra. Nhưng thiên thần đã trấn an và giải thích: Maria Đừng sợ, này đây nàng sẽ mang thai và sinh hạ một con trai… Con Trẻ sẽ được gọi là con Đấng tối Cao. Một món quà hết sực bất ngời và hết sức lớn lao, Maria cảm thấy mình nhỏ bé thấp kém trước quyền năng của Thiên Chúa. Maria cũng chẳng hiểu thế nào là: Quyền năng của Thiên Chúa sẽ bao trùm trên bà .. Đấng thánh bà sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Mặc dù không thể hình dung điều gì sắp xãy ra cho mình, nhưng với lòng khiêm tốn và biết ơn, Maria đã thưa: Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền.
Khác với sự kiêu ngạo của Eva ngày xưa, và khác với sự cứng lòng của vợ chồng vua Akhát, Đức Maria đã trở thành người phụ nữ đại diện cho cả nhân loại ngoan ngoãn, khiêm tốn cúi đầu, để đón nhận món quà tình yêu của Thiên Chúa, Mẹ thưa tiếng xin vâng để trao phó trọn cuộc đời mình cho chương trình lớn lao của Thiên Chúa, đo là chương trình cứu độ mà Thiên Chúa đã hứa và đã chuẩn bị từ ngàn xưa.
Với lời Thưa vâng này, Đức Maria đã mở rộng tâm hồn để cho Ngôi Hai Con Thiên Chúa đi vào cuộc đời của mình, và qua Mẹ Ngài bước vào thế giới này và Mẹ trở thành một cộng tác viên nhiệt thành, trung tín của Người trong chương trình mà Thiên Chúa Cha đã thực hiện. Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con một của Người, và Đức Giêsu chính là món quà của Thiên Chúa được ban tặng cho nhân loại. Ngài vốn là một vị Thiên Chúa, ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã chấp nhật trút bỏ vinh quang, để mang lấy thân phận con người trở nên giống phàm nhân để cứu chuộc nhân loại chúng ta.
Chúa Giêsu đã không đến trần gian bằng một cách thức nào khác, mà đã đến trong thân phận của con người, đầu thai trong cung lòng của một người trinh nữ. Là Đấng tạo dựng muôn loài, giờ đây, Đức Giêsu lại chấp nhận mang thân phận của tạo vật và còn làm con của con người. Với sự hạ mình thẳm sâu và vâng phục hoàn toàn như thế, Đức Giêsu đã trở thành một người con hiếu thảo của Chúa Cha. Điều mà mọi người cha mong đợi đó là sự ngoan ngoãn vâng lời của con cái, thì cũng vậy Thiên Chúa vui lòng đón nhận sư ngoan ngoãn vâng lời của Đức Giêsu con của Ngài, chấp nhận mang thân phận thụ tạo, và còn vâng phục cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.
Mừng lễ Đức Maria được truyền tin hôm nay, chúng ta cảm tạ và khâm phục tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Một Thiên Chúa trung thành với lời đã hứa, trung thành với tình yêu dành cho con người. Con người có là chi, vũ trụ này có là gì trước mặt Thiên Chúa, thế mà Ngài chấp nhận đánh đổi con của Ngài, trao tặng người con ấy cho trần gian.
Chúng ta cảm tạ Thiên Chúa vì Chúa đã thương cho Đức Maria được cộng tác vào trong chương trình lớn lao này của Thiên Chúa. Thiên Chúa có thể cứu con người bằng nhiều cách, nhưng Thiên Chúa vẫn để cho con người cộng tác vào công việc của Ngài, và Đức Maria đã cộng tác hết mình với công việc lớn lao này. Thiên Chúa đã vô cùng quảng đại đã trả lại cho Mẹ bằng nhiều đặc ân vô cùng cao trọng mà không ai trong nhân loại có được những đặc ân ấy.
Cùng với tiếng xin vâng của Đức Maria, mỗi chúng ta cũng được mời gọi để mở rộng tâm hồn cho Thiên Chúa đi vào cuộc đời chúng ta, sử dụng chúng ta cho chương trình cứu chuộc của Ngài. Sẵn sàng dâng trọn cuộc đời mình cho Thiên Chúa, vâng phục Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh. Thiên Chúa đang muốn chúng ta cộng tác với Ngài để đem Đức Giêsu đến trong gia đình trong xóm ngõ và mọi môi trường sống của chúng ta. Amen.

Lm. Đỗ Đức Trí

SUY NIỆM: XIN VÂNG NHƯ MẸ MARIA  
Đối với một người phụ nữ, khoảnh khắc làm mẹ thật cao cả và thiêng liêng.  Hạnh phúc biết bao trong giây phút đầu tiên cưu mang trong cung lòng đứa con của mình. Tuy nhiên hoàn cảnh làm mẹ đến với Mẹ Maria theo cách rất đặc biệt. Hành trình làm mẹ của Mẹ Maria đến trong một khung cảnh vừa kỳ lạ nhưng cũng thật đơn sơ, vừa bất ngờ nhưng lại rất thánh thiêng và sâu sắc.
Lời Chúa trong ngày lễ Truyền tin đưa chúng ta đến một viễn cảnh thật thiêng liêng trong giây phút làm mẹ của Đức Maria. Đó là một hành trình thật cao cả và tuyệt vời. Mẹ đón nhận Con Thiên Chúa trong sự khiêm hạ đơn hèn. Mẹ đón nhận thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa trong cái nhìn của đức tin để vượt qua những gian nan thử thách. Mẹ đã xin vâng trong sự tín thác để đồng hành cùng con mình đến tận hơi thở cuối cùng.
Nếu không có lòng quảng đại thì Mẹ đã khước từ đau khổ của bóng thập giá ngay từ giây phút truyền tin.
Nếu không có một đức tin mạnh mẽ thì Mẹ không thể đủ can đảm để đón nhận thiên chức làm Mẹ vượt trên hiểu biết của con người.
Nếu không tín thác trọn vẹn cuộc đời mình trong tay Thiên Chúa thì Mẹ đã không đáp lời xin vâng trước biến cố quá lớn lao ấy.
Mẹ xin vâng cho dẫu Mẹ chưa hiểu. Mẹ xin vâng cho dẫu phải đối diện với nguy nan. Lời xin vâng khiêm hạ nhưng chứa chất một sự cậy trông lớn lao. Mẹ tin tưởng phó thác cả cuộc đời mình cho Đấng đã tuyển chọn Mẹ. Lời thưa xin vâng ấy đã đưa Mẹ trở nên Mẹ Thiên Chúa và Mẹ của mỗi người chúng ta.
Trên đường đời nhiều sóng gió hôm nay, Mẹ Maria sẽ là điểm tựa vững chắc cho mỗi một người Kitô hữu chúng ta. Trải nghiệm của Mẹ sẽ thấu hiểu những khó khăn mà chúng ta đang đối diện. Niềm cậy trông của Mẹ sẽ là gương mẫu cho chúng ta trên hành trình đức tin. Mẹ sẽ là điểm tựa cho mọi NỖI ĐAU của con cái Mẹ nơi trần gian này.
Mẹ sẽ là nguồn an ủi cho những ai đang đau đớn thân xác vì ốm đau bệnh tật, vì những  nặng nề của thể xác dằn vặt.
Mẹ là sẽ nguồn bình an cho những ai đang đau thương tinh thần vì thử thách chông gai, bị đối xử tệ bạc, hay bị đẩy ra bên lề của xã hội.
Mẹ sẽ là nguồn cậy trông cho những ai đang đau buồn vì sự chia ly trong tình yêu, vì những đổ vỡ hạnh phúc gia đình.
Mẹ sẽ là nguồn hy vọng cho những ai đau khổ vì sự yếu đuối vấp ngã, khó khăn thất bại, hay mất mát trong đời.
Một lòng cậy trông nơi Mẹ sẽ giúp chúng ta đáp lời xin vâng trước mọi biến cố trong cuộc đời, chiến thắng mọi sợ hãi trong cuộc sống và can đảm làm chứng cho sự thật, cho tình thương nơi trần thế. Có Mẹ chúng ta sẽ vượt qua được mọi thăng trầm của trên dòng đời lắm nổi trôi hôm nay, để một ngày không xa chúng ta sẽ cùng Mẹ chung hưởng vinh phúc trên Nước Trời.
J.B Lê Đình Nam

SUY NIỆM: TỪ LÚC MẸ NÓI LỜI XIN VÂNG  

Lễ Truyền Tin được kính vào ngày 25 tháng 3, tức là 9 tháng trước lễ Giáng Sinh, là khoảng thời gian Đức Mẹ cưu mang Chúa Giêsu.
Lễ này trước kia được mừng kính ở Giáo hội Đông phương với tước hiệu lễ “Ngôi Lời nhập thể” từ khoảng năm 550. Giáo hội Rôma mãi đến thế kỷ thứ 7 mới chấp nhận thánh lễ này.
Ngày nay, Lịch Phụng vụ Rôma lấy lại danh xưng “Lễ Truyền Tin” vì có lý do chính đáng, nhưng trước sau vẫn là lễ chung của Đức Kitô và Đức Trinh Nữ : Lễ của Ngôi Lời làm “con Đức Trinh nữ” và lễ Đức trinh nữ là “Mẹ Thiên Chúa”.
Từ thuở đời đời, Thiên Chúa đã có ý định tái lập tất cả những gì đã hư mất bởi tội lỗi, và phác họa một công trình cứu chuộc mà Chúa Kitô là trung tâm, với sự cộng tác cần thiết của một người nữ thánh thiện. Cả hai sẽ là Adong và Evà mới thay thế cho Adong và Evà cũ đã phạm tội.
Người nữ ấy không ai khác hơn là Mẹ Maria, Đấng đầy ân phúc, trổi vượt hơn mọi phụ nữ. Mẹ đã được tiên báo qua lời hứa tại vườn Địa đàng xưa :”Ta sẽ đặt mối thù giữa mi và người nữ. Người sẽ đạp nát đầu mi, còn mi sẽ rình cắn gót chân Người”(St 3,15). Mẹ đã được chọn làm Evà mới thực hiện lời hứa xưa kia tại vườn Địa Đàng.
Tin mừng theo thánh Luca (1,26-38) ghi lại biến cố truyền tin. Sứ thần Gabriel đến với một thiếu nữ đã đính hôn tên là Maria tại làng Nazareth để loan báo tin vui về việc hạ sinh Đấng Được Xức Dầu được đợi trông từng bao đời. Sứ thần loan tin cho thiếu nữ : “Này đây, bà sẽ thụ thai và hạ sinh một con trai, và bà sẽ đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao”.
Trong ngày lễ Truyền Tin, Hội Thánh kính nhớ một biến cố quan trọng. Thiên thần báo tin cho Đức Mẹ rằng: Thiên Chúa muốn chọn Đức Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Tin đó quá bất ngờ, vượt mọi suy nghĩ, mọi tưởng tượng, mọi đợi chờ. Phản ứng của Đức Mẹ bắt đầu là bỡ ngỡ bàng hoàng lo sợ, nhưng tiếp đó là xin vâng (Lc 1, 38). Xin vâng là xin tuân phục ý Chúa. Xin vâng là xin cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa, với sự từ bỏ mình, với sự tuyệt đối phó thác đời mình trong tay Chúa. Lập tức sau lời “xin vâng” của Đức Mẹ, Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế nhập thể trong lòng Đức Mẹ. Tất cả đều diễn tiến một cách âm thầm, khiêm tốn. Từ đó “xin vâng” đã được coi như một giao ước mới, một bài ca mới, một con đường mới, của con người mới.
Tin báo này làm Đức Maria ngỡ ngàng, vì Ngài đã quyết chí giữ đức khiết tịnh. Sứ thần đã giải thích về cách thức Thiên Chúa sẽ làm cho sự kiện mang thai lạ lùng xẩy ra :”Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không có thể”.
Mặc dù đã có lời trấn an của sứ thần, nhưng chắc chắn Đức Maria cũng hoảng hốt vì Ngài không biết đến việc vợ chồng. Tuy nhiên, Maria đã can đảm và suy phục thánh ý Chúa nên đã thưa với sứ thần :”Này tôi là nữ tỳ Thiên Chúa, xin hãy làm trọn nơi tôi điều sứ thần truyền”.
Khi nói xin vâng được coi là một con đường mới, tôi nhớ lại biến cố Đức Mẹ sinh Chúa Giê-su tại hang đá Bê-lem (Lc 2, 1 – 7). Đang khi hầu hết mọi người đều coi giàu sang chức quyền danh vọng là những bậc thang giới thiệu gía trị con người, thì Đức Mẹ đã không nghĩ như vậy, đã không vận động chút nào để được như vậy. Trái lại, Đức Mẹ đã lặng lẽ đi vào con đường khó nghèo. Con đường đó đã khởi đi từ hang đá Bê-lem và kéo dài từng ngày, từng tháng, từng năm, suốt cả cuộc đời Đức Mẹ. Trên con đường đó, Đức Mẹ đã cầu nguyện, đã suy gẫm trong lòng, đã lắng nghe Chúa, đã thông hiệp với sự sống Chúa.
Lời xin vâng của Đức Mẹ, thoạt nghe, chẳng có gì đặc biệt đáng chúng ta phải chú ý. Nhưng nếu để tâm suy nghĩ và cầu nguyện, chúng ta sẽ thấy được tinh thần hy sinh, lòng bác ái, và đức tin sống động của Mẹ được gói gọn trong hai tiếng xin vâng đó.
Qua lời xin vâng, Mẹ Maria sẵn sàng gạt bỏ đi tất cả những gì Mẹ hằng ôm ấp cho riêng mình là sống đời đồng trinh, để chấp nhận cộng tác với Chúa trong việc sinh ra cho nhân loại Đấng Cứu Thế mà ai cũng trông chờ.
Chính vì điểm này mà Chúa đã ban cho Mẹ được cả hai, tức là vừa đồng trinh vừa làm Mẹ Thiên Chúa. Khi thưa lên tiếng xin vâng, Mẹ Maria hiểu được nhiệm vụ chính yếu của Mẹ là hiến mình làm dụng cụ đem Chúa đến cho nhân loại. Vì vậy, khi Ngôi Hai Thiên Chúa vừa đầu thai trong cung lòng Mẹ, Mẹ đã “vội vã” lên đường thăm viếng bà Isave. Không cần phải dài dòng, ai cũng hiểu được mục đích của cuộc viếng thăm này không phải là để Mẹ ca bài Magnificat cho bà Isave và cũng chẳng phải để nghe bà Isave tán tụng Mẹ là người có đức tin mạnh mẽ. Lý do chính yếu của cuộc viếng thăm này là để Mẹ đem Chúa đến cho gia đình ông Giacaria, đặc biệt là thánh Gioan Tiền Hô, khiến ngài phải nhảy mừng trong lòng bà Isave.
Lời Xin Vâng của Mẹ đã làm cho Con Thiên Chúa trở nên con của Mẹ và Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta. Lời Xin Vâng của Mẹ là sự đáp trả sự từ khước Thánh ý Thiên Chúa của Adong Evà ngày xưa.
Lời Xin Vâng của Mẹ chấm dứt vai trò của Cựu Ước và mở ra một giai đoạn mới, giai đoạn của Tân Ước. Lời Xin Vâng của Mẹ là tiếng nói đầy thảo hiếu của một người con. Chương trình cứu độ chỉ có thể được thực hiện với hai tình yêu : tình yêu của Thiên Chúa và tình yêu của nhân loại. Thiên Chúa trao ban Con Một của Ngài, còn nhân loại thì mở rộng cõi lòng để đón nhận Người Con ấy.
Ngày xưa ma quỷ đã dùng phương tiện nào thì hôm nay Thiên Chúa cũng dùng phương tiện ấy. Đúng thế, ngày xưa ma quỷ đã dùng một người phụ nữ để làm cho nhân loại bị hư đi thì hôm nay Thiên Chúa cũng dùng một người phụ nữ để lật ngược thế cờ, mà làm cho nhân loại trở nên tốt lành. Ngày xưa Evà đã làm cho nhân loại phải chết thì hôm nay Maria sẽ làm cho nhân loại được sống. Ngày xưa Evà đã kiêu căng thì hôm nay Maria đã khiêm nhường. Ngày xưa Evà đã tin vào lời dụ dỗ của ma quỷ thì hôm nay Maria tin vào lời của sứ thần Thiên Chúa. Đó là những sự tương phản giữa cũ và mới, giữa ngày xưa và hôm nay, giữa Evà và Maria, để rồi chúng ta có thể nói lên như thánh Phaolô : “Ngày xưa bởi một người mà nhân loại phải chết thì hôm nay cũng bởi một người mà nhân loại được sống”.
Sau câu trả lời dứt khoát của Maria, Ngôi Lời đã nhập thể làm người và Maria đã trở thành Mẹ Thiên Chúa.
Thiên Chúa chờ đợi lời thưa “Xin Vâng” của chúng ta như Người đã chờ đợi lời thưa “Xin Vâng” của Mẹ Maria ngày xưa.

Huệ Minh


SUY NIỆM: ĐẤNG ĐẦY ƠN PHÚC
“Kính chào bà, đấng đầy ân phúc, Đức Chúa ở cùng bà !” . Nghe lời ấy, Đức Mẹ thật bối rối, vì trong lúc cầu nguyện, sứ thần hiện đến cùng Mẹ và thưa cùng. Thật vậy, lời chào ấy là một lời chào” trần đầy ân phúc”, bởi vì chưa có một thụ tạo nào cao quý, trọng vọng như Mẹ. Có thể nói từ cổ chí kim, vô tiền khoáng hậu, chưa có nhân vật nào được diễm phúc nhận lời chúc mừng của sứ thần như Mẹ. Vâng, chính Mẹ cũng lấy làm bối rối .Tại sao vậy, thưa quý vị ? Thưa, bởi vì, “ … Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao”. Nhưng, Đức Mẹ càng ngạc nhiên hơn, vì : “ tôi không biết đến việc vợ chồng”. Vâng, chúng ta thấy sự đối đáp giữa sứ thần Gapriel và Đức Maria là một sự đối đáp rất “tự nhiên “ và chân thành. Vì , không biết đến việc vợ chồng thì làm sao sinh con ?! vâng, một sự đối đáp rất hiển nhiên, không một chút do dự. Nhưng, sứ thần đáp : “ Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.” ( c 35).
Vâng , sự đối đáp giữa sứ Thần và Đức Trinh Nữ Maria đến đây được kết thúc, vì không còn gì để trao đổi nữa, sau khi sứ thần nói tiếp : “Kìa người chị họ của Trinh Nữ, người mà thiên hạ vẫn chê cười vì không có con, mà nay đã mang thai được sáu tháng. Vì, không có sự gì mà Thiên Chúa không làm được.( c 36 -37)
Vâng, bởi đâu, Đức Trinh Nữ Maria đạt được điều diễm phúc như vậy? Vâng, chúng ta suy tư về Mẹ nhé !
  • Thứ nhất : Đặc tính khiêm nhường thẳm sâu.
Bởi vì, Mẹ là một kiệt tác như được uốn nắn, gọt giũa, tô điểm, và trân quý nhất trong bàn tay Thiên Chúa, một thụ tạo thấp hèn, nhưng chiếm được “Thánh Ý “, nói cách khác là đẹp lòng Thiên Chúa. Đến đây chúng ta có thể hiểu được Mẹ HOÀN TOÀN không tỳ vết cả thể xác lẫm tâm hồn, Mẹ thánh khiết vẹn tuyền, mà các thánh ví như “bình pha lê” dưới ánh sáng mặt trời. tiếp đến Mẹ được Chúa Thánh Thần ban tràn ân sủng, và Ngôi Hai ngự xuống. Như vậy, cung lòng vẹn sạch không tỳ ố trước và sau khi nhận “TRUYỀN TIN “ của Mẹ thật là một “diễm phúc”, và như vậy, Giáo Hội tuyên tín Mẹ là ” ĐẤNG VÔ NHIỄM NGUYÊN TÔI” là như vậy.
  • Thứ Hai : Mau mắn tín trung vào Mầu Nhiệm Truyền Tin .
Do nhận được một đăc ân trọng đại là sự khiêm nhường thẳm sâu, Đức Trinh Nữ Maria như ngập tràn ân sủng bởi Trời cao. Linh hồn và thể xác của Mẹ hoàn toàn thánh thiện như pha lê trong suốt, vì vậy, Sự thánh thiện nầy, ngày nay, như người Kitô được sạch tội trọng và được rước Chúa Giêsu Thánh Thể vậy. Và từ tận sâu thẳm tâm hồn Mẹ, Mẹ đã cất lên bài ca Ngợi Khen ( Magnificat) tuyệt vời vô song.
  • Thứ ba : Đáp lại và cộng tác vào công trình Cứu Chuộc nhân loại của Thiên Chúa.
Vâng, Mẹ đã gánh vác trọng trách là Mẹ Đấng Cứu Chuộc, có nghĩa là Mẹ cưu mang và ôm trọn mầu nhiệm làm Người, đau khổ, Tử nạn và Phục Sinh của Con của Mẹ, đồng thời là Ngôi Hai Thiên Chúa, vì vậy, Mẹ đã được kêu mời để trở nên một “thụ tạo” tuyệt hảo, tham dự vào công cuộc “khổ hình sinh ơn cứu độ” của Đức Kitô.
Như vậy, Mẹ mang lấy cuộc đời Chúa Cứu Thế không những phần nhân tính mà còn phần siêu nhiên của Chúa Giêsu, nếu không mầu nhiệm cứu độ không hoàn tất được. Và , những nỗi khổ đau cảu Mẹ, gọi là ”sầu bi” là những đau thương bởi cuộc đời Chúa Cứu Thế, và như thế, Mẹ được gọi là : “Người Nữ Thánh Thể”.
Vâng, Mẹ được diễm phúc vì Mẹ được đi trọn cuộc hành trình cứu độ tại thế trần của Ngôi Hai Thiên Chúa. Rõ ràng, từ giây phút nhập thể, là ngày Mẹ nhận ơn truyền tin, đến hành trình Nhập Thế, và kết thúc ngày Chúa Phục Sinh. Có thể nói, mầu nhiệm Mẹ nhận được ơn Truyền Tin , mà sứ thần gọi Mẹ là “Đấng đầy ơn phúc “ không phải hiểu như thế gian, mà là đước gắn liền với mầu nhiệm Làm Người , rao giảng, Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Kitô.
Theo đó, hành trinh thiêng liêng của Đức Mẹ, ngày mà Mẹ nhận sứ vụ cưu mnag, sinh hạ Đấng Cứu Thế, ngày mà Mẹ được gọi là diễm phúc, không phải là ngày bắt đầu hưởng “ vinh hoa phú quý”., mà ngày mang lấy “trọng trách” Thập giá, và quả thật, Mầu Nhiệm thập giá nơi Mẹ thật “ âm thầm” nhưng không kém phần đau thương. Nỗi đau của một người Mẹ có một Người Con đền thay tội lỗi nhân gian là một nỗi đau “ khôn tả” , nhưng “TRÀN ĐẦY DIỄM PHÚC”.
Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng, Cha đã ban cho loài người ơn cứu chuộc, nhưng Cha đã kêu mời những con người cách riêng như Đức Trinh Nữ Maria, thánh Cả Giuse là người cộng tác vào mầu nhiệm cứu độ của Đức Kitô. Xin Cha thương ban cho những ai tiếp bước Người được nhờ lời chuyển cầu của Ba Đấng mà ban ơn cứu độ cho chúng con, và cho chúng con xứng đáng bước theo Người./. Amen.
P. Trần Đình Phan Tiến
 
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây