GIÁO PHẬN PHAN THIẾT

http://gpphanthiet.com


Thứ Năm tuần 3 mùa vọng.

Thứ Năm tuần 3 mùa vọng.

Thứ Năm tuần 3 mùa vọng.

"Gia phả của Chúa Giêsu Kitô, con vua Ðavít".

 

LỜI CHÚA: Mt 1, 1-17

Sách gia phả của Chúa Giêsu Kitô, con vua Ðavít, con của Abraham.

Abraham sinh Isaac; Isaac sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuđa và các anh em người. Giuđa sinh Phares và Zara bởi bà Thamar; Phares sinh Esrom; Esrom sinh Aram; Aram sinh Aminadab; Aminadab sinh Naasson; Naasson sinh Salmon; Salmon sinh Booz do bà Rahab; Booz sinh Giobed do bà Rút. Giobed sinh Giêsê; Giêsê sinh vua Ðavít.

Ðavít sinh Salomon do bà vợ của Uria; Salomon sinh Roboam; Roboam sinh Abia; Abia sinh Asa; Asa sinh Giosaphát; Giosaphát sinh Gioram; Gioram sinh Ozia; Ozia sinh Gioatham; Gioatham sinh Achaz; Achaz sinh Ezekia; Ezekia sinh Manasse; Manasse sinh Amos; Amos sinh Giosia; Giosia sinh Giêconia và các em trong thời lưu đày ở Babylon.

Sau thời lưu đày ở Babylon, Giêconia sinh Salathiel; Salathiel sinh Zorababel; Zorababel sinh Abiud; Abiud sinh Eliakim; Eliakim sinh Azor; Azor sinh Sađoc; Sađoc sinh Akim; Akim sinh Eliud; Eliud sinh Eleazar; Eleazar sinh Mathan; Mathan sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuse, là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Ðức Kitô.

Vậy, từ Abraham đến Ðavít có tất cả mười bốn đời, từ Ðavít đến cuộc lưu đày ở Babylon có mười bốn đời, và từ cuộc lưu đày ở Babylon cho đến Chúa Kitô có mười bốn đời.

 

 

Suy Niệm 1: Từ Bà, Đức Giêsu được sinh ra

Suy niệm:

Chúng ta bước vào một giai đoạn mới để mừng lễ Giáng Sinh,

mừng Mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người cách trọn vẹn.

Làm người là có một gia phả.

Thánh Matthêu đã muốn viết một gia phả dài của Đức Giêsu Kitô,

không phải một cách hết sức chính xác và đầy đủ theo nghĩa lịch sử,

nhưng mang nặng ý nghĩa thần học.

Matthêu muốn cho thấy Đức Giêsu là con của cụ tổ Abraham,

và cuộc đời Ngài gắn kết với Ítraen, dân được tuyển chọn.

Ngài cũng là Con của vua Đavít, nên Ngài có cơ sở để là Đấng Kitô.

Làm người là sống trong dòng lịch sử một dân tộc

với tất cả những thăng trầm và biến động của nó.

Matthêu chia lịch sử dân Do-thái làm ba thời kỳ.

Thời kỳ chuẩn bị cho bước đầu của vương triều vua Đavít (cc. 2-6a),

thời kỳ trị vì của các vua thuộc dòng Đavít (cc. 6b-11),

và thời kỳ sau lưu đầy, khi vương quyền Đavít đã mai một (cc. 12-16).

Mỗi thời kỳ mười bốn đời, nghĩa là hai lần bẩy, một con số linh thánh.

Đức Kitô đã đằm mình trong dòng lịch sử này.

Ngài là người cuối của gia phả, nhưng lại là nhân vật trung tâm (c.16-17).

Tất cả lịch sử của dân tộc Ítraen cũng là lịch sử cứu độ.

Dòng lịch sử cứu độ này đã lên đến tuyệt đỉnh nơi Đức Giêsu Kitô.

Nơi Ngài, Thiên Chúa đã đưa lịch sử nhân loại đến chỗ thành tựu.

Trong gia phả Đức Giêsu có tên một số phụ nữ.

Đó là chuyện lạ, vì người Do-thái thường chỉ để tên người cha.

Trừ Đức Maria, bốn phụ nữ kia đều có gốc dân ngoại.

Ta-ma và Ra-kháp gốc Canaan, Rút gốc Mô-áp, vợ Urigia người Hít-tít.

Các phụ nữ này đều có hoàn cảnh khác thường.

Ta-ma giả làm điếm để ngủ với cha chồng là Giu-đa,

hầu sinh con cho nhà chồng (St 38).

Ra-kháp là một cô điếm ở Giêricô, đã giúp Giosuê chiếm Canaan (Gs 2).

Bét-sa-bê, vợ của Urigia, đã ngoại tình và lấy vua Đavít (2Sm 11-12).

Rút đã lấy ông Bô-át là người bà con gần, để nối dõi cho chồng (R 1-4).

Đức Giêsu đã là con cháu của các phụ nữ khác thường này.

Ngài cũng mang trong mình chút dòng máu của dân ngoại.

Cuộc sinh hạ của Đức Kitô cũng khác thường.

Mátthêu diễn tả một cách tinh tế như sau:

“Gia-cóp sinh Giuse, chồng của bà Maria,

từ bà Đức Giêsu được sinh ra, cũng gọi là Đức Kitô” (c. 16).

Như thế Con Thiên Chúa đã có một người mẹ để trọn vẹn là người.

Ngài có cha nuôi là thánh Giuse để được thuộc về dòng Đavít.

Làm người cần được sống trong bầu khí gia đình để lớn lên.

Gia phả của Đức Giêsu nhắc tôi về gia phả của chính mình.

Cũng với những bóng tối của lưu đày, với bao bất thường và vấp ngã.

Chỉ mong trong cuộc đời tôi, gia đình tôi, dân tộc tôi, có mặt Giêsu.

 

Cầu nguyện:

Lạy Cha từ ái,

đây là niềm tin của con.

Con tin Cha là Tình yêu,

và mọi sự Cha làm đều vì yêu chúng con.

Cả những khi Cha mạnh tay cắt tỉa,

cả những khi Cha thinh lặng hay vắng mặt,

cả những khi Cha như chịu thua sức mạnh của ác nhân,

con vẫn tin Cha là Cha toàn năng nhân ái.

Con tin Cha không chịu thua con về lòng quảng đại,

chẳng để con thiệt thòi khi dám sống cho Cha.

Con tin rằng nơi lòng những người cứng cỏi nhất

cũng có một đốm lửa của sự thiện,

được vùi sâu dưới những lớp tro.

Chỉ một ngọn gió của tình yêu chân thành

cũng đủ làm đốm lửa ấy bừng lên rạng rỡ.

Con tin rằng chẳng có giọt nước mắt nào vô ích,

thế giới vẫn tồn tại nhờ hy sinh thầm lặng của bao người.

Con tin rằng chiến thắng cuối cùng thuộc về Ánh sáng.

Sự Sống và Tình yêu sẽ chiếm ngự địa cầu.

Con tin rằng dòng lịch sử của loài người và vũ trụ

đang chuyển mình tiến về với Cha,

qua trung gian tuyệt vời của Chúa Giêsu

và sức tác động mãnh liệt của Thánh Thần.

Con tin rằng dần dần mỗi người sẽ gặp nhau,

vượt qua mọi tranh chấp, bất đồng,

mọi dị biệt, thành kiến,

để cùng nắm tay nhau đi qua sa mạc cuộc đời

mà về nhà Cha là nơi hạnh phúc viên mãn.

Lạy Cha, đó là niềm tin của con.

Xin Cha cho con dám sống niềm tin ấy. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

Suy Niệm 2: THIÊN CHÚA THƯƠNG XÓT

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Bản gia phả dài dằng dặc khô khan. Nhưng lại mặc khải những điều trọng đại.

Thiên Chúa làm chủ lịch sử. Gia-cóp chúc phúc cho Giu-đa. Tiên báo Chúa Cứu Thế sẽ sinh bởi dòng tộc Giu-đa (Bài đọc 1). Lời tiên báo đó được ứng nghiệm nơi Chúa Giê-su. Nhưng để ứng nghiệm, lời tiên báo đó vượt qua biết bao thăng trầm. Tội lỗi của Rưu-ven, Si-mê-on và Lê-vi khiến phúc lành rơi xuống Giu-đa. Giu-đa nhờ toan tính loạn luân của Ta-ma mà có con cháu nối dõi. Đa-vít chiếm vợ của U-ri-gia nhưng lại có Sa-lô-mon kế nghiệp. Tội lỗi không thắng được thánh thiện. Phản bội không thắng được trung tín. Hận thù không thắng được tình yêu. Thiên Chúa thanh tẩy lịch sử tội lỗi. Con Chúa sinh ra đời làm nên một lịch sử mới. Một nhân loại mới.

Thiên Chúa là Lòng Thương Xót. Bản gia phả dài kéo dài lâu đời cho thấy tình yêu của Chúa. Tình yêu lớn lao trong một chương trình hoàn hảo. Ba lần 14 đời. Mỗi lần là 2 lần 7 triều đại. Số ba và số bảy cho thấy sự hoàn hảo của kế hoạch. Chương trình càng dài càng tiêu tốn tâm cơ trí lực. Càng chứng minh tình yêu lớn lao. Thiên Chúa yêu thương nên cho con người giống hình ảnh Người. Nhưng con người không giữ nổi hình ảnh Thiên Chúa. Thì Thiên Chúa quá yêu nên đành mặc lấy hình ảnh con người. Mặc lấy thân phận con người yếu đuối mỏng dòn. Gánh lấy tội lỗi con người. Tình yêu lớn lao biến thành Lòng Thương Xót. Biết bao lần con người tội lỗi muốn làm hỏng kế hoạch. Chúa lại kiên tâm sửa chữa. Khoan dung độ lượng biết bao. Chúa Giê-su là điểm đến của một quá trình. Một tình yêu kiên vững lâu dài của Thiên Chúa. Một lịch sử tràn đầy tội lỗi phản bội của con người. Chúa Giê-su gánh trên vai gánh nặng của cả nhân loại. Khiêm nhường biết bao. Yêu thương biết bao.

Tôi hãy tin tưởng. Dù tôi yếu đuối tội lỗi Chúa vẫn yêu thương. Dù tôi làm sai Chúa sẽ sửa chữa. Tôi có vấp ngã Chúa sẽ nâng dậy. Và để đền đáp tôi cũng phải đối xử với anh em như Chúa đối xử với tôi. Hãy bao dung độ lượng trước những yếu đuối. Hãy gánh lấy gánh nặng của anh em. Hãy uốn nắn dòng lịch sử bằng tình yêu, lòng trung tín và lòng thương xót.

 

Suy Niệm 3: Gia Phả Của Chúa Giêsu Kitô

Ðể ứng nghiệm Lời Chúa hứa ban ơn cứu chuộc sau khi Adam và Eva tổ tiên con người phạm tội, Kinh Thánh đã có câu: "Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta".

Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Matthêu đã kể lại gia phả của Chúa Giêsu để gợi lên cho chúng ta biết rằng, Thiên Chúa đã chuẩn bị chương trình cứu rỗi của Ngài trải qua dòng thời gian rất lâu dài, chu đáo và kỹ lưỡng. Thiên Chúa đã chọn tổ phụ Abraham là mẫu gương cho những ai tin Ngài và Abraham được gọi là cha các kẻ tin. Ðức tin là điều kiện tiên quyết khi chúng ta gia nhập vào Giáo Hội Công Giáo. Chính khi bắt đầu gia nhập vào Giáo Hội, Linh Mục hỏi: "Con xin gì cùng Hội Thánh". Chúng ta thưa: "Thưa, con xin đức tin".

Khi Thiên Chúa gọi Abraham ra đi để làm cha các dân tộc dù ông đang ở tuổi già. Thường ở lứa tuổi này ít ai dám mạo hiểm xông pha để khám phá những nơi rừng núi nguy hiểm đang đón chờ mà trí óc già cả lẩm cẩm không thể dễ dàng suy tính nhanh nhẹn, xoay sở, ứng biến y như hồi còn trẻ được. Thiên thần với hình dáng của một người qua đường đến báo với ông rằng bà Sara, vợ ông mặc dù đã già nhưng vào thời kỳ này qua năm bà sẽ sinh con, và Sara cười có vẻ mỉa mai vì không tin, nhưng ông, ông vẫn tin tưởng việc Chúa làm.

Rồi khi sinh được đứa con trai duy nhất là Isaac, Thiên Chúa lại muốn thử thách lòng tin của ông một lần nữa, Ngài truyền đem Isaac lên núi để hiến tế. Dù rất đau lòng vì tình phụ tử dạt dào nhất trong cảnh cha già con muộn, Abraham vẫn lẳng lặng cúi đầu, cặm cụi mò mẫm lê tấm thân già nua cùng với đứa con leo lên núi cao để sát tế con độc nhất của mình dâng cho Thiên Chúa. Từ lòng tin kiên vững và sâu xa đó, Abraham đã được hưởng lời Chúa hứa: "Abraham là cha các dân tộc đông đúc như sao trên trời, như cát dưới biển". Dòng họ này kế tiếp dòng họ kia, từ Abraham đến vua David có mười bốn đời, từ vua David đến thời kỳ lưu đày ở Babylon gồm có mười bốn đời. Tổng cộng từ Abraham đến Chúa Giêsu là đời thứ bốn mươi hai.

Ðiểm thứ hai trong bài Tin Mừng hôm nay gợi lên một cái nhìn chân xác: "Xem quả thì biết cây". Cây tốt sinh trái tốt. Không thể tìm hoa hồng nơi bụi cỏ gai rậm rạp được. Chúng ta cũng thường nghe nói: "Hổ Phụ Sinh Hổ Tử", cha mẹ hiền lành chắc hẳn con cái không hung dữ được, hoặc "con nhà tông không giống lông cũng giống cánh".

Là người Kitô hữu thì tất cả mọi người đều là anh em với nhau, có Thiên Chúa là Cha, Ngài là Ðấng nhân từ, khoan dung, yêu thương và đầy lòng tha thứ. Chúng ta học theo tính tình người Cha, bắt chước Cha để trở nên khoan dung độ lượng, yêu thương và tha thứ. Không một lý do gì mà chúng ta không ăn ở thuận hòa với nhau trong cuộc sống, không một lý do gì mà chúng ta không yêu thương hiệp nhất nối kết chúng ta lại với nhau trong tình yêu của một Cha chung. Những thiếu sót, khuyết điểm lầm lỗi của nhau không còn cản trở tình thương đang đổ chan hòa trên chúng ta là con cái yêu thương của một người Cha nhân từ. Yêu nhau không phải là nhìn nhau nhưng là cùng nhìn về một hướng, hướng đó là hướng đích điểm nhắm về Cha là Thiên Chúa. Ðừng để những gai nhọn hai bên đường làm chúng ta mất thì giờ dừng lại trên con đường dài thăm thẳm tiến về Nước Trời để rồi chúng ta không tiến bước được về nhà Cha là nơi Cha vĩnh cửu luôn yêu thương và chờ đón chúng ta.

Lạy Chúa, xin cho chúng con ý thức được Chúa đã chuẩn bị chương trình cứu rỗi yêu thương của Thiên Chúa như thế nào đối với nhân loại, trong đó có chúng con để chúng con cố gắng sống xứng đáng với lòng yêu thương mà Chúa đã dành cho chúng con.

Lạy Chúa, Chúa đã chọn Abraham làm cha các kẻ tin. Xin ban cho chúng con có một niềm tin kiên vững và mạnh mẽ để chúng con tìm thấy thánh ý Chúa trong cuộc sống hằng ngày trên con đường tiến về quê trời. Không phải chúng con tìm thấy hoa nở hai bên đường nhưng xin Chúa ban thêm nghị lực, kiên nhẫn, bình an và lạc quan để chúng con vững bước về với người Cha đầy thân yêu nhân ái đang chờ đón chúng con. Amen.

(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)

 

Suy Niệm 4: Gia phả Chúa Giêsu.

Bài Tin mừng hôm nay đề cập đến ba danh hiệu trọng đại: Abraham, Davít, Giêsu. Abraham là người đã lãnh nhận lời hứa và đức tin để trở thành  cha của những kẻ tin. Davít là người đã nhân danh Chúa các đạo binh chiến đấu cho Đấng Tối cao và biến Yêrusalem nên thành trì Thiên Chúa. Chúa Giêsu  là Đấng đã đích thân thực hiện mọi lời hứa, hình thành một dân tộc ưu tú gồm những kẻ tin vào Ngài, chiến thắng quân thù thiêng liêng của Thiên Chúa, xây đắp Yêrusalem mới và vương quốc thiêng liêng.

Qua việc Ngôi Lời Nhập thể làm người, Thiên Chúa đã hạ mình xuống giữa nhân loại, mang lấy giòng lịch sử và quá khứ của nhân loại cũng như thừa kế gia tài qua các thế hệ. Đó là bản lý lịch chính thức. Xét theo máu mủ, Ngài sinh ra từ dòng dõi Davít, thuộc về một dân tộc, trong đó không thiếu những bậc tổ tiên là người tội lỗi và người ngoại giáo, như Davít, Salomon, Tamar, Rahab, Bethsabê, Ruth. Đó là những yếu tố rất tầm thường, nhưng đã được Thiên Chúa dùng để thực hiện chương trình của Ngài, vì Thiên Chúa đã hứa và trung thành hoàn tất lời hứa.

Như thế, bên trong bản gia phả khô khan, đã hàm ngụ một Tin mừng “Thiên Chúa đã nhập thể trong Đức Kitô” bất chấp những khiếm khuyết và tội lỗi của nhân loại. Bài mở đầu Tin mừng Mathêu còn gây cho ta một xác tín: Thiên Chúa có thể nhìn đến và sử dụng chúng ta, không gì có thể cưỡng lại được ý định của Ngài, dù đó là quá khứ đen tối hay sự bất toàn của chúng ta. Bởi vì trong Đức Kitô, Đấng được xức dầu của Thiên Chúa, những gì hèn hạ đã trở nên cao trọng, những gì xấu xa được thanh tẩy, những gì vô nghĩa mặc một giá trị, và những gì trần tục sẽ được thần linh hoá.

 

Suy Niệm 5: Gia phả Đức Giêsu

Bạn tự hỏi chắc có ý nghĩa gì đó khi kể một chuỗi tên như vậy. Tại sao phụng vụ không in bài khác đơn giản và hay hơn bài này? Tuy nhiên, nếu chúng ta nhìn kỹ hơn, bài này có thể giúp chúng ta hiểu hơn về mầu nhiệm Giáng sinh.

Bạn thấy có một sự sắp xếp khá rõ của thánh Mát-thêu: Trong gia phả của Đức Giêsu được chia làm sáu chuỗi, mỗi chuỗi có bảy tên. Đức Giêsu Kitô đứng đầu chuỗi thứ bảy mà chưa có tên ai, nghĩa là Người đứng đầu một chuỗi mới của một thời đại mới có vô số vô cùng tên chưa thể kể hết được.

Thật quá rõ, ngôn ngữ Kinh thánh là tiếng nói biểu tượng, là một thứ tượng từ: Những tên nơi chốn, tên người có một ý nghĩa nào đó. Những con số và vị trí của số đều có ngụ ý. Số bảy ngụ ý toàn hảo, toàn bích, toàn vẹn.

Thánh Mát-thêu đã sắp xếp gia phả của Đức Giêsu cho chúng ta tìm thấy ý nghĩa của con số bảy. Mỗi một chuỗi tên đầu toàn hảo, hoàn toàn: Chuỗi của Áp-ra-ham, chuỗi các thẩm phán, chuỗi các vua. Đức Giêsu đứng đầu chuỗi thứ bảy là chuỗi hoàn hảo trọn vẹn, Người đến làm hoàn hảo lịch sử tôn giáo của dân tộc được tuyển chọn, Người đến khởi đầu một thời đại mới đầy hứa hẹn tốt hơn, hoàn toàn hoàn hảo.

Nhờ Đức Giêsu đứng đầu chuỗi thứ bảy, chúng ta được ghi tên vào chuỗi của Người. Chúng ta được cưu mang bởi Đức Giêsu để sinh ra làm con Thiên Chúa. Chúng ta được đồng phận với Người trong sự chết và sống lại. Chúng ta là dòng dõi của Đức Kitô.

Nhờ Đức Kitô, chúng ta là thừa tự của những người tin đầu tiên là Áp-ra-ham, I-sa-ác, Gia-cóp. Nhờ Đức Kitô, chúng ta được hưởng gia nghiệp tình yêu của Thiên Chúa đang hiện diện giữa lòng lịch sử như thời Đa-vít, Sa-lo-môn, thời toàn thể dân tộc Do thái. Chúng ta được hưởng toàn vẹn gia nghiệp đó, nhưng với cái nhìn của một dòng dõi khác, dòng dõi được đổi mới, được nên chi thể của Thánh thể toàn vẹn của Đức Kitô.

Gia phả của Đức Giêsu hướng chúng ta trở về nguồn gốc của Kitô giáo, đó là: chúng ta là dòng dõi của Đức Kitô, chúng ta chuẩn bị thời đại cuối cùng, thời đại biểu lộ toàn vẹn, chúng ta sửa soạn một lễ Noel cuối cùng: Đấng sẽ là tất cả trong mọi sự, hiện diện ở mọi tạo vật.

C.G

 

Suy Niệm 6: GIA PHẢ CỦA ĐẤNG CỨU ĐỘ TRẦN GIAN (Mt 1, 1-17)

Ngày nay, nhiều dòng họ đã lưu lại gia phả của họ tộc mình, nhằm lưu truyền cho hậu thế và để cho con cháu biết đến tổ tiên của dòng tộc mình.

Đức Giêsu khi mang lấy bản tính nhân loại, Ngài cũng có một dòng tộc trong lịch sử loài người, vì thế, hôm nay, bài Tin Mừng ghi lại gia phả của Đức Giêsu để xác minh tính chất kỳ diệu của mầu nhiệm cứu chuộc.

Thánh sử Mátthêu trình bày gia phả của Đức Giêsu thành 3 nhóm kép, mỗi nhóm kép chia làm hai nhóm đơn, mỗi nhóm đơn có tên của bẩy người. Kết thúc nhóm kép ba và cũng là khởi đầu một nhóm khác chính là tên Đức Giêsu.

Như vậy, đầu nhóm thứ bẩy này chính là tên của Đức Giêsu, điều này cho thấy: Đức Giêsu  chính là Đấng đứng đầu của một chuỗi lịch sử mới, một thời đại mới được mở ra và con số không giới hạn.

Đức Giêsu đứng đầu chuỗi thứ bẩy trong tư cách là Trưởng Tử, đồng thời cũng nói lên một sự trọn vẹn, vì theo nghĩa ngôn ngữ của Kinh Thánh, con số bẩy được hiểu là con số hoàn hảo. Vì thế, khi chúng ta đứng trong hàng ngũ những người được chọn, chúng ta sẽ được lãnh nhận dồi dào ân sủng trong Đức Giêsu. Bởi vì, Đức Giêsu đến để kiện toàn lịch sử cũ và khai sinh một thời đại mới, thời đại của Ngôi Lời, ân sủng và tha thứ.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta hồng ân đặc biệt này là: nhờ Đức Giêsu là Trưởng Tử của chuỗi thứ bẩy, mà mỗi người chúng ta khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta được sáp nhập vào chuỗi của Đức Giêsu, tức là chuỗi của những người được giải thoát, tha thứ và cứu chuộc. Cũng chính từ đây, dòng máu của Đấng là Đầu được được lưu truyền trong con người của những ai tin và sáp nhập vào đoàn dân mới của Đấng Cứu Thế , tức là dân Kitô giáo.

Như vậy, qua gia phả của Đức Giêsu, một mặt hướng chúng ta về nguồn cội một dân tộc thánh được ân sủng của Thiên Chúa gội rửa mọi tội lỗi, để từ nơi đó, xuất hiện Đấng Xóa Tội Trần Gian; mặt khác, từ nơi nguồn cội đó, xuất hiện Đấng Cứu Tinh là Đức Giêsu, Ngài đến nhằm thiết lập một dân tộc mới để đồng hành và giải thoát chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con mỗi khi mừng đại lễ Giáng Sinh, luôn biết nhìn về nguồn cội của lịch sử cứu độ để tạ ơn, chúc tụng vì những điều kỳ diệu Chúa đã làm nơi lịch sử nhân loại, đồng thời luôn ý thức mình thuộc về Chúa, để hãnh diện và sống xứng đáng hồng ân cao quý này. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 7: MẦU NHIỆM ÂN SỦNG VÀ TỘI LỖI

Hôm nay, Phụng vụ Giáo Hội chuyển sang phần hai của Mùa Vọng. Tức là thời gian chuẩn bị cho việc đón Chúa trở nên gần hơn trước. Tuy nhiên, Tin Mừng hôm nay giới thiệu cho chúng ta biết về gia phả của Đức Giêsu, không chỉ nhằm mục đích cung cấp cho chúng ta thông tin về lai lịch dòng tộc của Đức Giêsu, mà còn mặc khải cho chúng ta biết về tình thương và ân sủng của Thiên Chúa ngang qua mầu nhiệm về tội lỗi của dòng tộc này. Mặt khác, cũng cho chúng ta thấy lối nhìn và cách hành xử của Thiên Chúa khác xa lối nhìn và suy nghĩ của con người.

Toàn bộ gia phả cho thấy: lòng từ bi của Thiên Chúa trải dài qua muôn thế hệ. Vì thế, cách thế Người gọi và chọn những người cộng tác trong chương trình này cũng rất đặc biệt. Không nằm trong lý luận của con người. Chẳng hạn như việc tổ phụ Abraham, thay vì ông chọn trưởng tử Ismael, con của bà Aggar, thì lại chọn Isaac là đứa con của lời hứa, con của bà Sara, vợ của ông. Rồi, đến lượt Isaac muốn chúc lành cho trưởng nam Esau, nhưng rốt cuộc đành chúc lành cho Giacóp, theo một ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa. Hay như Giacóp, đã không chọn Ruben, con trưởng,  hoặc chọn Giuse, người được ông yêu thương nhất, hơn nữa Giuse cũng là người tài giỏi, có tình thương và đại lượng hơn mọi anh em khác, nhưng Giacóp lại chọn Giuđa là người đã bày binh bố trận bắt cóc Giuse và bán sang Aicập!

Sang thời quân chủ, chúng ta thấy các vua trước lưu đầy nằm trong gia phả đa số là những người tội lỗi, bất nhân, thất trung, chỉ có hai vị trung thành với Thiên Chúa mà thôi, đó là: Ezechiel và Geroboam. Sau thời lưu đầy cũng chỉ có hai là vua: Salathiel và Zorobabel.

Ngay cả vua thánh Đavít, người được nhắc đến nhiều cũng là người mang trong mình tội lỗi!

Rồi đến các phụ nữ, chúng ta thấy các bà cũng đại đa số là những người bất hợp luật như: Tamar là một phụ nữ tội lỗi, Racab là một gái mại dâm, Rut là một người ngoại bang và người đàn bà cuối cùng được nhắc đến trong gia phả chính là Betsabea mà vua Đavit đã ngoại tình.

Như vậy, trong gia phả của Đức Giêsu, chúng ta có thể ví như là một dòng suối ô nhiễm, nó chỉ được trở nên trong sạch, tinh tuyền khi có sự xuất hiện của Đức Maria, thánh cả Giuse,  Đức Giêsu. Khi Đức Giêsu xuất hiện, chúng ta thấy dòng suối cứu độ được chảy ngược dòng và xuôi dòng để gội sạch tội lỗi của tổ tiên trong quá khứ cũng như hậu sinh sau này.

Khi đọc lại gia phả của Đức Giêsu, chúng ta khám phá ra ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa trong việc bày tỏ tình thương của Người ngay trong lịch sử gồm nhiều người tội lỗi, và như thế, chúng ta có quyền hy vọng vào tình thương của Ngài, mặc dù chúng ta đều là những người bất xứng... Hơn nữa, chúng ta được nhập đoàn không phải với những người tội lỗi, nhưng với đoàn dân, những người mang trong mình niềm hy vọng cứu chuộc.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy cất cao lời tạ ơn Chúa vì Ngài đã làm nên những điều kỳ diệu trong lịch sử cứu độ, mà chúng ta là những thành phần trong lịch sử mầu nhiệm này.

Mặt khác, mời gọi chúng ta có lòng cảm thông với những người tội lỗi và giúp họ vươn lên trong ân sủng của Thiên Chúa vì: ở đâu tội lỗi tràn đầy, thì ở đó ân sủng của Thiên Chúa chứa chan gấp bội. Bởi lẽ, thánh nhân nào cũng có quá khứ và tội nhân nào cũng có tương lai.

Như vậy, chúng ta nhận thấy rõ rằng: không ai và không có gì có thể ngăn cản được tình yêu của Thiên Chúa.

Hơn nữa, qua trình thuật về gia phả của Đức Giêsu, chúng ta thấy rất rõ hoàn toàn không phải do công trạng của người này hay người kia mà Thiên Chúa ban ơn cứu độ, nhưng chính yếu là do lòng thương xót của Thiên Chúa.

Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con. Tình thương Chúa thật bao la và lòng từ bi Chúa vô tận. Xin Chúa ban cho chúng con ý thức mình bất xứng nhưng lại được Thiên Chúa yêu thương. Từ đó chúng con luôn mang trong mình niềm hy vọng được Chúa cứu độ. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 8Gia phả Đức Giêsu Kitô

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Thánh Matthêu viết lại gia phả Đức Giêsu là để giới thiệu : Đức Giêsu là Đấng muôn dân trông đợi, Đấng mà các tiên tri của dân Do thái loan báo trước, Ngài là con người thật. Ngài cũng có dòng dõi tổ tiên như chúng ta. Ngài được sinh ra và thuộc về một dân tộc như chúng ta. Tuy nhiên, bản gia phả không nói: ông Giuse sinh ra Đức Giêsu, nhưng lại nói : “Ông Giuse chồng bà Maria, bà là Mẹ Đức Giêsu, cũng gọi là Đấng Kitô”. Điều đó cho thấy Ngài còn có nguồn gốc là Thần linh. Ngài được thụ thai không theo kiểu loài người nhưng do quyền năng của Thánh Thần. Vì thế, Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa vừa là người thật.

2. Qua gia phả mà thánh Matthêu kể lại chúng ta thấy từ tổ phụ Abraham đến vua Đavít là mười bốn đời, từ Đavít đến thời lưu đầy ở Babylon là mười bốn đời, và từ thời lưu đầy đến Đức Kitô cũng là mười bốn đời. Gia phả cho ta thấy Đức Giêsu là con người thật, con người lịch sử. Ngài cũng có dòng dõi tổ tiên như chúng ta. Ngài được sinh ra thuộc về một dân tộc như chúng ta. Ngài có cha có mẹ hợp pháp theo lý lịch như chúng ta.

3. Trong suốt chiều dài lịch sử, qua gia phả Đức Giêsu, chúng ta thấy Đức Giêsu sinh ra làm người trong một dòng tộc gồm có kẻ tốt người xấu, kẻ có đạo người ngoại giáo, kẻ tốt như Abraham, Isaác, Giacóp; người xấu và ngoại đạo như Tama đã lấy cha chồng, Rakháp là một kỹ nữ, Bétxêba là người đàn bà ngoại tình... Điều đó chứng tỏ Thiên Chúa chấp nhận làm người trong thân phận thấp hèn của họ để cứu chuộc họ, và đây là dấu chỉ tính phổ quát của ơn cứu độ.

4. Chúng ta nên lưu ý: trong bản gia phả, thánh Matthêu thường dùng cụm từ “cha sinh con”, nhưng khi đến thánh Giuse, bản gia phả không nói: ông Giuse sinh ra Đức Giêsu, mà viết: ”Giacóp sinh Giuse, chồng của bà Maria, bà là mẹ Đức Giêsu cũng gọi là Đấng Kitô” (Mt 1,16). Điều đó cho thấy Đức Giêsu còn có nguồn gốc Thần linh.  Ngài được sinh ra không theo kiểu loài người nhưng do quyền phép của Thiên Chúa.  Như vậy, thánh Giuse không là cha sinh ra Đức Giêsu nhưng chỉ là cha nuôi, cha trên lý lịch, nhờ đó Đức  Giêsu được thừa hưởng danh hiệu “con cháu của vua Đavít”.

5. Lịch sứ cứu độ qua những nhân vật bất xứng làm nên gia phả Đấng Cứu Thế, gợi cho chúng ta sự xác tín rằng: dù chúng ta tội lỗi, bất xứng, nhưng chúng ta không mặc cảm, mà vững tin tình yêu cứu độ của Thiên Chúa.

Chúa không thực hiện việc cứu độ loài người từ trời cao. Người có thể và dư quyền để làm việc đó. Nhưng để cứu loài người, Chúa đã nhập thể và nhập thế để từ đó Chúa đưa loài người sa ngã đứng lên. Con Thiên Chúa chấp nhận làm con cháu của người phàm, trong đó có cả những người tội lỗi. Ngài đã đón nhận và liên kết với con người, với cả những lỗi lầm và thiếu sót của họ. Kẻ tội lỗi cũng có chỗ đứng trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.

6. Truyện: Ai có thể đứng vững ?

Có một thành viên trong Hội đồng giáo xứ đang rơi vào chuyện sa ngã tội lỗi, gây xôn xao trong giáo xứ. Cha xứ liền triệu tập các thành viên còn lại, rồi với tình yêu thương và thương xót, ngài trình bầy lại đầu đuôi câu chuyện đáng buồn cho mọi người rồi ngài hỏi như thế này :

- Nếu như chính các ông các bà bị cám dỗ như người anh em của chúng ta, quý vị sẽ làm gì ?

Người thứ nhất tin tưởng ở khả năng mình có thể đứng vững trong cơn cám dỗ, nói :

- Thưa cha, chắc chắn con chẳng bao giờ chịu nhượng bộ trước tội lỗi đáng ghê tởm đó.

Mấy người khác cũng lần lượt lớn tiếng dõng dạc nói như vậy. Ai cũng muốn cho mọi người thấy mình là người đàng hoàng đạo đức, hoặc can đảm đồi đầu với mọi chước cám dỗ xấu xa.

Sau hết, cha xứ có vẻ chưa vừa ý, quay sang hỏi người cuối cùng trong Hội đồng giáo xứ. Ông này vốn là người ít nói, chỉ lẳng lặng âm thầm chu toàn các việc nhỏ trong giáo xứ. Trong cuộc họp, ông cũng luôn ngồi ở một góc phòng. Nghe cha xứ hỏi ông đứng lên nhỏ nhẹ thưa :

- Thưa cha và mọi người, thú thật, tự đáy lòng con phải thú nhận rằng, nếu con bị cám dỗ và thử thách như người anh em đó, có lẽ con sẽ còn sa đọa hơn thế nữa.

Cả phòng yên lặng sững sờ. Cha xứ gật gù bảo :

- Đây là người duy nhất có thể đi với tôi để nói chuyện với anh em lầm lạc đó, để cố gắng dìu dắt người ấy quay trở về với Chúa.
 

SUY NIỆM

Lời Chúa trong những tuần vừa qua của Mùa Vọng, nhất là khi lắng nghe sứ điệp và chiêm ngắm ngôi vị của thánh Gioan Tiền Hô, chắc chắn đã khơi dậy nơi chúng ta lòng khao khát hiểu biết Đức Ki-tô sâu xa hơn, vì Ngôi Vị của Ngài là mầu nhiệm khôn cùng và vì sự hiểu biết Đức Ki-tô, theo thánh Phao-lô, là quí giá nhất: « Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Ki-tô Giê-su, Chúa của tôi » (Phil 3, 7). Và chắc chắn chúng ta đã có kinh nghiệm và cảm nếm về sự quí giá này rồi trong hành trình đức tin và ơn gọi của chúng ta.

Nhưng để tìm hiểu Đức Ki-tô, chúng ta nên bắt đầu từ đâu và giai đoạn nào? Cũng tương tự như tìm hiểu một người, chúng ta phải trở về « nguồn gốc » của Ngài. Nói về nguồn gốc, chúng ta nghĩ ngay đến hành trình từ trời xuống thế, nghĩa là nguồn gốc theo chiều dọc trực tiếp từ Thiên Chúa, như chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính : « Người đã từ trời xuống thế ». Nhưng các Tin Mừng trình bày cho chúng ta một nguồn gốc khác, theo chiều ngang, đó là bản gia phả, hay nguồn gốc của Đức Ki-tô, vì Ngài cũng là Con của Con Người, như sau này Ngài thích tự xưng như thế, và nhất là Ngài có sứ mạng « mang lấy các bệnh hoạn tật nguyền » của loài người và của từng người chúng ta.

Ngôi Hai Thiên Chúa mặc lấy thân phận loài người chúng ta. Và điều căn bản nhất của thân phận con người của từng người chúng ta, là có gia có phả, nghĩa là, qua biến cố được sinh ra, Người thuộc về một gia đình, một gia tộc, một dân tộc và ngang qua một dân tộc Người thuộc về loài người, trong đó có dân tộc của chúng ta, có gia tộc và có gia đình của chúng ta. Và ở chiều kích nhân loại này, Thiên Chúa cũng vẫn là ngọn nguồn, bởi vì loài người xuất phát từ Adam và « Adam là con Thiên Chúa »! (Lc 3, 38).


Nguồn gốc Thiên Chúa: Tin Mừng Mác-cô không nói đến gia phả của Đức Giêsu, và cũng không tường thuật thời thơ ấu của Đức Giêsu, nhưng lại mở đầu Tin Mừng với câu : « Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa », tương tự như Tin Mừng Gioan: « Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời, Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa » (Ga 1, 1). Đức Ki-tô vừa có nguồn gốc trực tiếp từ Thiên Chúa, vừa có nguồn gốc từ một dân tộc như chúng ta, và vừa có cùng nguồn gốc với chúng ta, vì mọi dân tộc đều xuất phát từ Ông Bà Nguyên Tổ. Giống như mỗi người chúng ta, chúng ta vừa thuộc về một dân tộc, và vừa thuộc về loài người, được Thiên Chúa tạo dựng. Tại sao Đức Ki-tô có hai nguồn gốc ? Đó là để mang lấy, đem lại ý nghĩa và dẫn tới hoàn tất, với tư cách – và chỉ có thể với tư cách này – là Ngôi Lời Thiên Chúa, được sinh ra từ thuở đời đời.

Nguồn gốc Con Người: Còn Tin Mừng Mát-thêu khẳng định ngay từ đầu : « Đức Giêsu Kitô, con của Đavít, con của Abraham ». Đức Giêsu là người con của một dân tộc cụ thể, như tất cả mọi người chúng ta. Tin Mừng Luca sẽ đưa Đức Giêsu đi xa hơn : Đức Giêsu Kitô là con của Adam và Adam là Con Thiên Chúa. Như thế, Đức Giêsu là con Thiên Chúa không chỉ từ thuở đời đời, nhưng Ngài là Con Thiên Chúa ngang qua Ông Bố của cả loài người chúng ta. Ngài còn là người con của Nhân Loại, là « Con của Người », là danh xưng mà Ngài rất thích dùng.

*  *  *

Bản gia phả, dịch sát nghĩa là « cuốn sách về nguồn gốc »: « Gia phả của Đức Giêsu Kitô, con vua Đavít, con tổ phụ Abraham ». Một bản gia phả luôn luôn là khô khan, xa lạ và đều đặn (theo nghĩa là người này sinh ra người kia). Nhưng nếu chúng ta chịu khó dừng lại để « ghi nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng », chúng ta sẽ khám phá cả một lịch sử sống động ở bên dưới hàng chuỗi những tên gọi, thậm chí cưu mang những tên gọi. Khi đó, chúng thấy mình thật gần gũi và có thể cảm nếm được ; bởi vì, Đức Ki-tô cũng phát xuất từ một lịch sử đầy thăng trầm như chúng ta và còn hơn thế nữa cùng « nguồn gốc » với chúng ta : Đức Ki-tô là con Adam, và « Adam là con Thiên Chúa » (x. Lc 3, 23-38).

 1. Mầu nhiệm Nguồn Gốc của Đức Giê-su Ki-tô

Ngay câu đầu tiên của bản văn, cũng là câu đầu tiên của Tin Mừng theo thánh Mát-thêu, đã mở ra cho chúng ta một chân trời rất rộng: “Cuốn sách về nguồn gốc của Đức Giêsu Kitô”, vì câu này làm chúng ta nhớ một câu khác trong sách Sáng Thế: « Cuốn sách nguồn gốc của Adam » (St 5, 1). Điểm khác nhau : trong Sáng Thế, đó là gia phả con cháu Adam ; trong trình thuật Tin Mừng, đó là gia phả tổ tiên của Đức Giêsu. Như thế, trình thuật Tin Mừng mời gọi chúng ta nhận ra Đức Ki-tô là Adam mới, Ngài làm cho tất cả những gì xảy ra trước Ngài, và tất cả những gì xảy ra sau Ngài trở nên có ý nghĩa, có hướng đi và có niềm hi vọng.

Sứ điệp của bản gia phả không phải là xác định tương quan máu huyết, nhưng là Đức Kitô, ngang qua cuộc sống của mình, và nhất là với Mầu Nhiệm Vượt Qua, sẽ thực sự đảm nhận lịch sử cứu độ, và ngang qua lịch sử cứu độ, lịch sử cụ thể của loài người và của từng người để đưa tới đích, là sự sống trong Thiên Chúa. Như thế, lịch của loài người, của từng dân tộc, của từng người trở nên có ý nghĩa và có hướng đi.

 2. Một lịch sử đầy những thăng trầm

Đức Ki-tô thuộc về một lịch sử đầy những thăng trầm : thật vậy, thời các tổ phụ đầy trắc trở về mọi mặt ; thời sinh sống và rốt cuộc trở thành nô lệ bên Ai Cập ; thời thử thách trong sa mạc ; thời lập quốc đầy chiến tranh loạn lạc, thời hoàng kim của Đa-vít và Salomon, nhưng mau lụi tàn bởi sự chia rẽ Bắc Nam ; thời lưu đầy bi đát, thời hậu lưu đầy thật ảm đạm với cảnh bị các đế quốc thay phiên nhau đô hộ[1]. Vậy mà, lịch sử dân tộc của Đức Giêsu vẫn có một cấu trúc cân đối một cách hoàn hảo : 14 – 14 – 14 ! (14 là hai lần 7), nghĩa là có ý nghĩa và như thế, hướng tới một cùng đích. Chúng ta hãy dừng lại « đọc và cầu nguyện » với từng giai đoạn của bản gia phả.

Giai đoạn một : vua Đa-vít là đỉnh cao, vì vương triều của ông là điểm tới của lịch sử các tổ phụ Abraham, Isaac, Giacop và Giuse. Thật vậy, Abraham được hứa ban cho vô điều kiện một dòng dõi. Đa-vít, người con của Abraham cũng nhận được cùng một lời hứa và cũng vô điều kiện : ngai vàng vĩnh viễn dành cho một trong những người con của nhà vua (Tv 72,17 ; Tv 47, 10), và mọi dân tộc sẽ đến quy tụ chung quanh ngai vàng Đa-vít. Trước đó, Đức Chúa cũng tuyên bố điều tương tự dành cho Abraham : Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi ; ai nhục mạ ngươi Ta sẽ nguyền rủa. Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên trên mặt đất sẽ được chúc phúc » (St 12, 3). Như thế, vua Đa-vít sẽ mang lại sự hoàn tất hoàn hảo cho lời hứa dành cho Abraham.

Giai đoạn hai: vua Đa-vít là đỉnh cao của giai đoạn một, nhưng đồng thời, thời đại vua Đa-vít cũng chuẩn bị cho thời kì suy thoái và cuối cùng là sụp đổ sau đó. Thật vậy, kết thúc phần 2 của gia phả là biến cố lưu đày; với biến cố này, mọi điều tốt đẹp của lời hứa đều tan biến hết: đền thờ, đất đai, ngai vàng. Đất nước rơi vào tay người Babylon.

Giai đoạn ba: Giai đoạn ba là thời gian hậu lưu đày ở Babylon, dân tộc vẫn phải sống lệ thuộc vào người Ba Tư, tiếp theo là người Hy Lạp và sau cùng là người Roma. Giai đoạn này kéo dài khoảng 6 thế kỉ. Tuy nhiên, Gia phả của Đức Giêsu theo cách nhìn của thánh sử Mát-thêu, từ thời lưu đày cho đến thánh Giuse và Đức Giêsu, vẫn có một vai trò, vẫn có một ý nghĩa đối với dân tộc của Đức Giêsu. Cho dù trong thực tế, chẳng còn gì là sôi nổi, thậm chí bị mất hút nữa. Có thể nói lịch sử (theo nghĩa những biến cố đáng lưu tồn) đã dừng lại với thời hậu lưu đày. Kinh Thánh có rất ít trình thuật về thời này. Tuy nhiên khoảng trống này lại được lấp đầy bởi sự chờ đợi, chờ đợi đến tận cùng, khi mà chẳng còn gì để hy vọng (trường hợp các bà Sara, Elisabeth…). Lời nguyện của rất nhiều Thánh Vịnh diễn tả sự chờ đợi tận căn này : « Tôi đã tin cả khi mình đã nói : ôi nhục nhã ê chề… » (Tv 116B ; Tv 42-43 ; Tv 106).

Đức Giêsu đến không chỉ đến để hoàn tất lời hứa được ban cho Abraham và Đa-vít, nhưng còn đi vào trong khoảng không gian của đợi chờ (nhưng không vì thế mà Ngài đóng lại, vì chúng ta vẫn sống trong « Mùa Vọng » lớn, hướng về ngày Người lại đến). Và Ngài sẽ đi vào sự chờ đợi trong đắng cay một cách thật sự : « Đấng Kitô phải chịu đau khổ nhiều bởi những kẻ tội lỗi », để định hướng, mang lại ý nghĩa, niềm hi vọng và dẫn đưa tới sáng tạo mới.

 3. Và đầy tội lỗi

Hơn nữa dân tộc này cũng đầy tội lỗi như bao dân tộc khác ; và tội nhân hiển nhiên là các ông, nhất là vua Đa-vít, một khuôn mặt tượng trưng cho lời hứa, vì gia phả được trình bày theo quan niệm phụ hệ.

Tuy nhiên, các bà vẫn có mặt trong gia phả của Đấng Cứu Thế. Điều này nhắc nhớ sự ưu ái xuyên suốt của Thiên Chúa dành cho các phụ nữ, trong sáng tạo và lịch sử: bà E-và, bà Sara, và nhất là Đức Maria. Đặc biệt, lời hứa chiến thắng Sự Dữ được ban cho bà E-và và bà được ban cho danh hiệu cao quí : « Mẹ của mọi chúng sinh » (St 3, 15.20), cho dù đã vi phạm lệnh truyền! Hơn thế nữa, hình ảnh người phụ nữ được đưa lên hàng đầu trong thời điểm trọng đại của lịch sử cứu độ, là mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Ki-tô, ngang qua thánh nữ Maria Magdala (x. Ga 20, 1-2. 11-18).

Vậy, các bà mẹ hiện diện trong gia phả của Đức Giê-su là những ai?

  • Bà Ta-ma, phạm tội loạn luân với bố chồng (Mt 1, 3; St 38)!
  • Bà Ra-kháp, là cô gái đứng đường đất Canaan (Mt 1, 5; Gs 2)!
  • Bà Ruth gốc Moab, nghĩa là dân ngoại (Mt 1, 5; Rt 4, 12-22)!
  • Và bà Bátseva, vợ của tướng Uria, phạm tội ngoại tình với vua Đa-vít (Mt 1, 6 ; 2 Sm 11)!

Khám phá này làm cho chúng ta thật an ủi: Đức Giêsu bén rễ trong tội của dân tộc Ngài, dân tộc mà Ngài sẽ cứu vớt (Mt 1, 21); và cách Ngài cứu sẽ rất lạ lùng: Ngài sẽ mang lấy vào thân mình ngang qua dân tộc này, tội lỗi của tất cả mọi người:

Ngài đã mang lấy các tật nguyền của ta
và gánh lấy các bệnh hoạn của ta. 
(Mt 8, 17 trích Is 53, 4)

Và chính trong một lịch sử như thế mà Thiên Chúa làm trào vọt những điều lạ lùng, trào vọt ra Thánh Gia của thánh Giuse, của Đức Maria và của chính Đức Giêsu, làm trào vọt ra ơn cứu độ.

*  *  *

Là Ki-tô hữu, chúng ta đi theo Đức Ki-tô trong một ơn gọi, ơn gọi gia đình, dâng hiến hay độc thân; và ơn gọi của chúng ta cũng được Thiên Chúa chuẩn bị từ xa, và cũng bằng những nẻo đường rất bình thường và cũng rất đời thường, và với cả những sai lầm tội lỗi nữa (chẳng hạn tội, của các anh đối với người em Giuse, trong sách Sáng Thế). Chúng ta được mời gọi nhớ lại “lịch sử cứu độ” đời mình và suy đi nghĩ lại trong trong lòng để nhận ra:

Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. (Tv 136)

Và tình thương muôn ngàn đời của Thiên Chúa được thể hiện cách rạng ngời và trọn vẹn nơi Đức Giê-su Ki-tô. Đó chính là “nguyên lý và nền tảng” mang lại cho chúng ta sức mạnh để yêu mến và dấn thân bền vững hơn, theo gương của Đức Maria và Thánh Cả Giuse.

Mùa Vọng 2020
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc

[1] Khi vua Salômon chết, năm 930, vương quốc bị phân chia ra làm hai : phía nam, vương quốc Giu-đa, thủ đô là Giêrusalem; phía bắc là vương quốc Israel, thủ đô là Tirsa, sau đó là Samaria. Vào năm 722, người Assyria thôn tính vương quốc Israel. Năm 587, Giêrusalem bị phá hủy và người Juda bị đưa đi lưu đày ở Babylon. Năm 539, vua Perse, là Cyrus chinh phục Babylon. Người Do Thái dần dần được trở về lập cư quanh Giêrusalem, nhưng sống dưới sự thống trị của người Perse. Từ năm 333, Alexandre chinh phục vùng Cận Đông và áp đặt nền văn hóa và ngôn ngữ Hy Lạp. Từ năm 63, người Roma chiếm cứ vùng Cận Đông và vua Hêrôđê cai trị từ năm 40 đến 4, trước công nguyên (xem Étienne Charpentier, Pour lire l’Ancien Testament, Paris, Editions du Cerf, 1994, trang 22-23).

 

Gia phả của Đức Giêsu Kitô, con vua Đavít – SN song ngữ 17.12.2020

Monday (December 17): “The genealogy of Jesus Christ, the son of David”

 

Scripture: Matthew 1:1-17  

1 The book of the genealogy of Jesus Christ, the son of David, the son of Abraham. 2 Abraham was the father of Isaac, and Isaac the father of Jacob, and Jacob the father of Judah and his brothers, 3 and Judah the father of Perez and Zerah by Tamar, and Perez the father of Hezron, and Hezron the father of Ram, 4 and Ram the father of Amminadab, and Amminadab the father of Nahshon, and Nahshon the father of Salmon, 5 and Salmon the father of Boaz by Rahab, and Boaz the father of Obed by Ruth, and Obed the father of Jesse, 6 and Jesse the father of David the king. And David was the father of Solomon by the wife of Uriah, 7 and Solomon the father of Rehoboam, and Rehoboam the father of Abijah, and Abijah the father of Asa, 8 and Asa the father of Jehoshaphat, and Jehoshaphat the father of Joram, and Joram the father of Uzziah, 9 and Uzziah the father of Jotham, and Jotham the father of Ahaz, and Ahaz the father of Hezekiah, 10 and Hezekiah the father of Manasseh, and Manasseh the father of Amos, and Amos the father of Josiah, 11 and Josiah the father of Jechoniah and his brothers, at the time of the deportation to Babylon. 12 And after the deportation to Babylon: Jechoniah was the father of Shealtiel, and Shealtiel the father of Zerubbabel, 13 and Zerubbabel the father of Abiud, and Abid the father of Eliakim, and Eliakim the father of Azor, 14 and Azor the father of Zadok, and Zadok the father of Achim, and Achim the father of Eliud, 15 and Eliud the father of Eleazar, and Eleazar the father of Matthan, and Matthan the father of Jacob, 16 and Jacob the father of Joseph the husband of Mary, of whom Jesus was born, who is called Christ. 17 So all the generations from Abraham to David were fourteen generations, and from David to the deportation to Babylon fourteen generations, and from the deportation to Babylon to the Christ fourteen generations.

Thứ Hai     17-12                Gia phả của Đức Giêsu Kitô, con vua Đavít

Mt 1,1-17

1 Đây là gia phả Đức Giê-su Ki-tô, con cháu vua Đa-vít, con cháu tổ phụ Áp-ra-ham:2 Ông Áp-ra-ham sinh I-xa-ác; I-xa-ác sinh Gia-cóp; Gia-cóp sinh Giu-đa và các anh em ông này;3 Giu-đa ăn ở với Ta-ma sinh Pe-rét và De-rác; Pe-rét sinh Khét-xơ-ron; Khét-xơ-ron sinh A-ram;4 A-ram sinh Am-mi-na-đáp; Am-mi-na-đáp sinh Nác-son; Nác-son sinh Xan-môn;5 Xan-môn lấy Ra-kháp sinh Bô-át; Bô-át lấy Rút sinh Ô-vết; Ô-vết sinh Gie-sê;6 ông Gie-sê sinh Đa-vít.1 Vua Đa-vít lấy vợ ông U-ri-gia sinh Sa-lô-môn7 Sa-lô-môn sinh Rơ-kháp-am; Rơ-kháp-am sinh A-vi-gia; A-vi-gia sinh A-xa;8 A-xa sinh Giơ-hô-sa-phát; Giơ-hô-sa-phát sinh Giô-ram; Giô-ram sinh Út-di-gia;9 Út-di-gia sinh Gio-tham; Gio-tham sinh A-khát; A-khát sinh Khít-ki-gia;10 Khít-ki-gia sinh Mơ-na-se; Mơ-na-se sinh A-môn; A-môn sinh Giô-si-gia;11 Giô-si-gia sinh Giơ-khon-gia và các anh em vua này; kế đó là thời lưu đày ở Ba-by-lon.12 Sau thời lưu đày ở Ba-by-lon, Giơ-khon-gia sinh San-ti-ên; San-ti-ên sinh Dơ-rúp-ba-ven;13 Dơ-rúp-ba-ven sinh A-vi-hút; A-vi-hút sinh En-gia-kim; En-gia-kim sinh A-do;14 A-do sinh Xa-đốc; Xa-đốc sinh A-khin; A-khin sinh Ê-li-hút;15 Ê-li-hút sinh E-la-da; E-la-da sinh Mát-than; Mát-than sinh Gia-cóp;16 Gia-cóp sinh Giu-se, chồng của bà Ma-ri-a, bà là mẹ Đức Giê-su cũng gọi là Đấng Ki-tô.17 Như thế, tính chung lại thì: từ tổ phụ Áp-ra-ham đến vua Đa-vít, là mười bốn đời; từ vua Đa-vít đến thời lưu đày ở Ba-by-lon, là mười bốn đời; và từ thời lưu đày ở Ba-by-lon đến Đức Ki-tô, cũng là mười bốn đời.

 

Meditation: 

Do you know who your ancestors were, where they came from, and what they passed on from their generation to the next? Genealogies are very important. They give us our roots and help us to understand our heritage. Matthew’s genealogy of Jesus traces his lineage from Abraham, the father of God’s chosen people, through the line of David, King of Israel. Jesus the Messiah is the direct descent of Abraham and David, and the rightful heir to David’s throne. God in his mercy fulfilled his promises to Abraham and to David that he would send a Savior and a King to rule over the house of Israel and to deliver them from their enemies.

The Lord Jesus is the fulfillment of all God’s promises 

When Jacob blessed his sons he foretold that Judah would receive the promise of royalty which we see fulfilled in David (Genesis 49:10). We can also see in this blessing a foreshadowing of God’s fulfillment in raising up his anointed King, Jesus the Messiah. Jesus is the fulfillment of all God’s promises. He is the hope not only for the people of the Old Covenant but for all nations as well. He is the Savior of the world who redeems us from slavery to sin and Satan and makes us citizens of the kingdom of God. In him we receive adoption into a royal priesthood and holy nation as sons and daughters of the living God (see 1 Peter 1:9). Do you recognize your spiritual genealogy and do you accept God as your Father and Jesus as the sovereign King and Lord of your life?

 

“Lord Jesus Christ, you are the Messiah and Savior of the world, the hope of Israel and the hope of the nations. Be the ruler of my heart and the king of my home. May there be nothing in my life that is not under your wise rule and care.”

Suy niệm:

 

 Bạn có biết ai là tổ tiên của mình, họ từ đâu đến, và điều gì họ truyền lại từ đời này sang đời kia không? Bản gia phả rất quan trọng. Chúng cho chúng ta biết nguồn gốc của mình và giúp chúng ta hiểu được người thừa tự của mình. Bản gia phả của Mátthêu về Ðức Giêsu đi từ đời Abraham, cha của dân tộc được chọn của Thiên Chúa, đến đời Đavít, vua dân Israel. Ðức Giêsu, Đấng Mêsia là con cháu trực tiếp của Abraham và Đavít, và là người thừa kế chính thức ngôi báu của vua Đavít. Thiên Chúa với lòng thương xót đã thực hiện các lời hứa của mình với Abraham và Đavít rằng Người sẽ gởi một Đấng Cứu Tinh và một vị Vua để cai trị nhà Israel và sẽ giải thoát họ khỏi mọi quân thù.

Chúa Giêsu là sự hoàn thành các lời hứa của Thiên Chúa

Khi Giacóp chúc lành cho các con, ông đã tiên báo rằng dòng tộc Giuđa sẽ đón nhận lời hứa trung thành mà chúng ta thấy đã được thực hiện nơi Đavít (St 49,10). Chúng ta cũng có thể nhận ra trong lời chúc lành này một bóng dáng của sự hoàn thành của Chúa trong việc cho trỗi dậy vị Vua được xức dầu, Ðức Giêsu, Đấng Mêsia. Ðức Giêsu là sự hoàn thành của tất cả lời hứa của Thiên Chúa. Người là niềm hy vọng không chỉ cho dân thời Cựu ước, mà còn cho tất cả mọi dân tộc nữa. Người là Đấng cứu chuộc trần gian và là Ðấng giải thoát chúng ta khỏi sự nô lệ tội lỗi và Satan và làm cho chúng ta trở nên công dân nước Chúa. Nơi Người, chúng ta lãnh nhận quyền làm nghĩa tử trong một dân tộc tư tế vương giả và thánh thiện, như những người con trai con gái của Thiên Chúa hằng sống (1Pr 1,9). Bạn có nhận ra gia phả thiêng liêng của mình và bạn có đón nhận TC là Cha của mình và Ðức Giêsu là Vua tối cao và là Chúa của cuộc đời mình không?

Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa là Đấng Mêsia và là Đấng cứu chuộc trần gian, là niềm hy vọng của dân Israel và là niềm hy vọng của các dân tộc. Xin hãy làm Ðấng cai trị lòng con và làm Vua gia đình con. Chớ gì mọi sự trong cuộc đời con đều thuộc về sự cai trị và quan phòng khôn ngoan của Chúa.

Tác giả: Don Schwager
(http://dailyscripture.servantsoftheword.org/readings/)
Bro. Paul Thanh Vu – chuyển ngữ

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây