Thánh Giêrônimô, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
"Sự bằng an của các con sẽ đến trên người ấy".
* Thánh nhân sinh quãng năm 340 tại Xơtriđôn, Đanmaxia. Người đến Rôma học văn chương và đã lãnh bí tích Thánh Tẩy tại đó. Người sang Đông phương và làm linh mục. Trở lại Rôma, người làm thư ký cho Đức Giáo Hoàng Đamaxô. Thời gian này, người bắt đầu dịch Sách Thánh sang tiếng La tinh và cổ võ nếp sống đan tu. Nhưng nhất là người đã sống 35 năm cuối đời ở Bêlem, gần cái hang nơi Đức Giêsu ra đời. Ở đây, người cầu nguyện hãm mình, chăm chỉ nghiên cứu, dịch và chú giải Kinh Thánh. Người qua đời ở Bêlem năm 420.
Lời Chúa: Lc 10, 1-12
Khi ấy, Chúa chọn thêm bảy mươi hai người nữa và sai các ông cứ từng hai người đi trước Người, đến các thành và các nơi mà chính Người sẽ tới.
Người bảo các ông rằng: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người. Các con hãy đi. Này Thầy sai các con như con chiên ở giữa sói rừng. Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép, và đừng chào hỏi ai dọc đường. Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: "Bình an cho nhà này". Nếu ở đấy có con cái sự bình an, thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng không, sự bình an lại trở về với các con. Các con ở lại trong nhà đó, ăn uống những thứ họ có, vì thợ đáng được trả công. Các con đừng đi nhà này sang nhà nọ.
"Khi vào thành nào mà người ta tiếp các con, các con hãy ăn những thức người ta dọn cho. Hãy chữa các bệnh nhân trong thành và nói với họ rằng: "Nước Thiên Chúa đã đến gần các ngươi". Khi vào thành nào mà người ta không tiếp đón các con, thì hãy ra giữa các phố chợ và nói: "Cả đến bụi đất thành các ngươi dính vào chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin phủi trả lại các ngươi. Nhưng các ngươi hãy biết rõ điều này: Nước Thiên Chúa đã đến gần". Thầy bảo các con, ngày ấy, thành Sôđôma sẽ được xử khoan dung hơn thành này".
Suy niệm 1: Như chiên con
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Đức Giêsu sai các môn đệ của mình đi trước,
từng hai người một, vào mọi thành phố và mọi nơi Ngài sẽ đến.
Sứ mạng dọn đường này không dễ chút nào.
Đức Giêsu biết rõ những hiểm nguy và chống đối đang chờ đợi họ.
“Thầy sai anh em đi như chiên con vào giữa bầy sói.” (c. 3).
Chiên con trở nên hình ảnh của người môn đệ,
yếu đuối, không có khả năng chống cự khi gặp sự tấn công hung hãn.
Chính Đức Giêsu cũng là Chiên Con được Thiên Chúa sai đi.
Chính Ngài cũng “như chiên bị đem đi làm thịt,
như cừu câm nín khi bị xén lông, Người chẳng hề mở miệng” (Is 53, 7).
Người môn đệ được sai vào thế giới mãi mãi thấy mình mong manh,
trước thế lực tưởng như không thể thắng nổi của sự dữ.
Nhưng người môn đệ lại không được trang bị nhiều:
không túi tiền, không bao bị, không giầy dép,
dù đó là những điều bình thường thiết yếu cho một cuộc hành trình.
Chính vì thế họ buộc lòng phải cậy dựa vào người khác.
Mà không phải ai cũng có lòng, ai cũng vui vẻ đón nhận.
Như thế là chấp nhận liên tục bấp bênh,
liên tục cậy dựa vào sự quan phòng của Thiên Chúa.
Nhà của các tín hữu là nơi hoạt động của người môn đệ.
Căn nhà là nơi các môn đệ được trú ngụ, được chia sẻ bữa ăn.
Họ sống gần gũi như người trong nhà, như người thợ làm việc.
Nếp sống giản dị và siêu thoát của họ phải được bày tỏ
qua việc chấp nhận mọi đồ ăn thức uống người ta dọn cho (cc. 7-8),
cũng như việc không đi tìm một căn nhà khác tiện nghi hơn (c. 7).
Ngoài ra các thành phố cũng là điểm đến của họ (cc. 8-12).
Nhưng dù là vào một căn nhà hay vào một thành phố (cc. 5. 8),
thái độ của người môn đệ đều rất tích cực và thân thiện.
Họ chúc bình an, chữa bệnh, loan báo Nước Thiên Chúa đã đến gần.
Họ cũng khiêm tốn chấp nhận bị từ chối,
khi ơn bình an không được đón nhận, lời loan báo không được lắng nghe.
Những lời dặn dò của Đức Giêsu ngày xưa, bây giờ vẫn còn giá trị.
Chúng ta vẫn tiếp tục được sai vào các thành phố hôm nay.
Có biết bao người cần được chữa lành về thân xác, tinh thần,
với những thứ bệnh mới của thời đại được coi là văn minh.
Có bao người cần được nghe một lời đem lại cho đời họ chút hy vọng.
Được sai vào thành phố thế kỷ 21 để rao giảng, thật là một thách đố.
Làm sao ta có can đảm nói về Nước Trời cho những người vô tín,
và những người bị cuốn vào cơn lốc của vật chất và khoái lạc ?
Làm sao nói về Đấng Vô Hình khi nhiều người chỉ tin vào cái hữu hình ?
Người môn đệ hôm nay vẫn phải lại gần con người để chia sẻ cuộc sống,
như xưa các môn đệ xưa đã sống chung, ăn chung,
và làm việc như một người thợ để phục vụ.
Giáo Hội vẫn cần xin nhiều thợ hiền lành và can đảm để đến với thế giới.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu thương mến,
xin ban cho chúng con
tỏa lan hương thơm của Chúa
đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con
bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.
Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con
để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa.
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con,
để những người chúng con tiếp xúc
cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa,
không phải bằng lời nói suông,
nhưng bằng cuộc sống chứng tá,
và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa. (Mẹ Têrêxa Calcutta).
Suy niệm 2: Triều đại Thiên Chúa
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Triều đại Thiên Chúa. Đó là điều muôn đời ngàn dân trông đợi. Vì đời sống trần gian khổ cực đau thương. Chưa hề có triều đại nào đem lại hạnh phúc cho người dân. Chưa có chế độ nào hoàn toàn được tín nhiệm. Chưa có hệ thống ý thức hệ nào thực sự tạo nên thiên đường.
Dân Ít-ra-en cảm nhận được tất cả những nỗi khổ đau, nhục nhã khi bị lưu đầy. Nên khi được trở về. Được thờ phượng Chúa. Được nghe Lời Chúa. Lòng họ tràn đầy niềm vui. “Ông Ét-ra mở sách... Bấy giờ ông Ét-ra chúc tụng đức Chúa là Thiên Chúa vĩ đại, và toàn dân giơ tay lên đáp rằng: “Amen! Amen!” Rồi họ sấp mặt sát đất mà thờ lạy Đức Chúa….Các thầy Lê-vi thì trấn an mọi người như sau: “Anh em đừng khóc nữa, vì hôm nay là ngày thánh!...” Bấy giờ toàn dân đi ăn uống, rồi gửi các phần ăn, và liên hoan tưng bừng”. Họ sống một cuộc sống hạnh phúc vì tuân theo Lề Luật. Vì Thiên Chúa hướng dẫn họ.
Chúa Giê-su là Đấng phải đến. Quả thực Triều đại Thiên Chúa đã đến. Đó là tin vui lớn lao. Cần loan báo cho cả địa cầu. Vì thế Chúa không chỉ sai 12 tông đồ. Mà còn sai 72 môn đệ đi loan báo. Triều đại được chứng nghiệm bằng việc xua trừ ma quỉ. Chữa lành bệnh tật. Giải phóng con người khỏi mọi ách nô lệ ràng buộc của ma quỉ và sự dữ. Và đem bình an cho mọi người. Tuy nhiên chính người loan báo phải chứng tỏ Triều đại Thiên Chúa bằng một thái độ siêu thoát: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép”. Sứ điệp quan trọng. Thời giờ cấp bách. Nên “đừng chào hỏi ai dọc đường”. Tập trung vào sứ mạng. Không chú ý đến những gì phụ thuộc ở đời này như ăn uống, ngủ nghỉ: “người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó”. Khi người môn đệ siêu thoát, nghèo khó, chính Thiên Chúa ngự trong họ sẽ làm việc. Họ sẽ có sức mạnh của Thiên Chúa.
Chính vì hi vọng Triều Đại Thiên Chúa đến mà thánh Gióp, trong cơn đau khổ cùng cực, vẫn hi vọng tin tưởng đợi chờ. Luôn gắn bó với Chúa: “Tôi biết rằng Đấng bênh vực tôi vẫn sống, và sau cùng, Người sẽ đứng lên trên cõi đất. Sau khi da tôi đây bị tiêu huỷ, thì với tấm thân này, tôi sẽ được ngắm nhìn Thiên Chúa… Lòng tôi những tha thiết mong chờ” (năm chẵn).
Phần chúng ta hãy làm cho Triều Đại Thiên Chúa mau đến ngay trong bản thân mình. Bằng đời sống siêu thoát. Bằng tin tưởng vượt qua mọi gian khổ như thánh Gióp. Và bằng lời loan báo tin vui cho mọi người.
Suy niệm 3: Tinh Thần Nghèo Khó Ðích Thực
Có một nhà hiền triết đến nghỉ hè tại một thành phố nọ; ông vua của đô thị này thường tự hào mình là người giàu có nhất trần gian. Vốn là người siêu thoát mọi của cải trần thế, nhà hiền triết quyết định đến gặp cho được con người khoe khoang này. Khi nhà hiền triết vừa đến cung điện, nhà vua liền đưa ông đi một vòng và cho ông thấy tất cả sự giàu sang của mình. Nhà vua hỏi một cách huênh hoang:
Nhà ngươi nghĩ gì về tất cả sự giàu có của ta?
Nhà hiền triết cúi đầu giữ im lặng. Nhà vua lại hỏi tiếp:
Theo nhà ngươi, thì ai là người hạnh phúc nhất trần gian này?
Nhà hiền triết suy nghĩ một lúc rồi kể tên của những người Hy lạp mà có lẽ không ai biết đến, kể cả nhà vua. Nhận ra thái độ khiêu khích của nhà hiền triết, nhà vua liền nổi giận; ông yêu cầu nhà hiền triết phải giải thích ngay về thái độ ấy. Lúc bấy giờ, nhà hiền triết mới thong thả nói:
Thưa ngài, không ai có thể được xem là hạnh phúc, khi trái tim người đó còn gắn bó với của cải vật chất. Ðiều này cũng giống như một cuộc hôn phối, của cải vật chất qua đi, người có của sẽ thành một người góa, mà người góa thì đương nhiên sẽ khóc lóc; hoặc giả như người có của cải qua đi, người đó cũng chẳng mang theo được một đồng xu nào, lúc đó cũng chỉ có khóc lóc mà thôi.
Tin Mừng hôm nay nhắc nhớ chúng ta về tinh thần nghèo khó đích thực. Cuộc sống nghèo khó của Chúa Giêsu là một chọn lựa: Ngài đã chọn sinh ra trong nghèo khó; Ngài đã lớn lên trong khó nghèo; và trong ba năm sống công khai, Ngài đã chọn lựa nếp sống nghèo khó. Khi sai các môn đệ đi rao giảng Nước Trời, Ngài cũng đã khuyến dụ các ông hãy sống khó nghèo. Ra đi hai tay không, người ta tiếp đón thì ở lại, người ta không niềm nở thì ra đi, giũ bỏ lại mọi thứ bụi trần, đó là hình ảnh của sự siêu thoát mà Chúa Giêsu luôn đòi hỏi ở những môn đệ của Ngài. Ðây không chỉ là điều kiện của những người môn đệ, những nhà truyền giáo hay các tu sĩ: nghèo khó là đồng phục của mọi người mang danh hiệu Kitô. Nghèo khó là bộ mặt đích thực của các nghĩa tử của Thiên Chúa, họ phải giũ bỏ tất cả để mặc lấy phẩm giá của những con người được tái sinh.
Trong thực tế, người Kitô hữu phải sống thế nào mới gọi là nghèo khó? Ðó là thắc mắc mà trong xã hội nào, ở thời đại nào, các Kitô hữu cũng có thể nêu lên. Phải chăng sống nghèo khó, họ phải từ bỏ mọi thứ của cải trần thế? Phải chăng về lý tưởng nghèo khó, Kitô giáo chủ trương bần cùng hóa xã hội? Thực tế, nghèo không hề mâu thuẫn với sự phát triển hay làm giầu tài nguyên vốn có trong thiên nhiên mà Kitô giáo luôn cổ võ và nâng đỡ. Kitô giáo vốn là sức mạnh tiên phong trong việc khai hóa và mở mang vào thời Trung Cổ tại Âu Châu; những khám phá khoa học và tiến bộ kỹ thuật ở khởi đầu đều phát xuất từ Kitô giáo, như vậy, phát triển hay làm giầu không hề mâu thuẫn với Tin Mừng.
Thế nhưng, làm thế nào để sống tinh thần nghèo khó theo Tin Mừng? Kinh nghiệm cuộc sống cho chúng ta thấy rằng tự nó, của cải vật chất không đương nhiên đem lại hạnh phúc cho con người, trái lại nó luôn có nguy cơ tha hóa và nô lệ hóa con người. Của cải vật chất vốn dễ làm cho con người trở nên mù quáng đối với bản thân cũng như trong quan hệ với tha nhân; và khi đã trở thành mù quáng, con người tôn của cải vật chất lên làm cứu cánh và tự giam mình trong vỏ ích kỷ. Như vậy, có tinh thần nghèo khó đích thực có nghĩa là luôn biết giữ khoảng cách đối với của cải vật chất, biết sử dụng nó như phương thế để tìm kiếm và xây dựng những giá trị Nước Trời, như công bằng, bác ái, liên đới. Một cách cụ thể, có tinh thần nghèo khó đích thực là biết mưu cầu cho công ích, biết san sẻ với người túng thiếu, biết làm ra của cải, nhưng không thuộc về của cải.
Hơn bao giờ hết, người Kitô hữu chúng ta phải không ngừng suy nghĩ về ý nghĩa của tinh thần nghèo khó. Túng thiếu, nghèo đói, mà vẫn tin tưởng cậy trông và giữ bàn tay thanh sạch, chứ không bán đứng lương tâm để làm điều gian ác; may mắn hơn người khác vì được thịnh vượng, giầu có, mà vẫn biết mở rộng trái tim và bàn tay để chia sẻ cho người nghèo khó, đó là thể hiện của tinh thần nghèo khó đích thực. Trong một xã hội của chụp giựt và xâu xé lẫn nhau, một cuộc sống như thế chắc chắn là một chứng tá cao độ cho Nước Trời.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Rao Giảng Và Chữa Lành Bệnh Tật
Chúng ta vừa đọc lại bài tường thuật của thánh sử Luca nói về việc Chúa sai nhóm mười hai Tông Ðồ ra đi rao giảng Tin Mừng và chữa lành bệnh tật. Ðây là cuộc sai đi trước biến cố phục sinh để thực tập, để chuẩn bị cho cuộc sai đi quyết định sau phục sinh, khi đó Chúa sẽ nói với các ông một cách vĩnh viễn: "Mọi quyền hành trên trời dưới đất đã được trao ban cho Thầy. Vậy, các con hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ mọi điều Thầy đã truyền cho các con, và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28,18-20).
Hai lần sai đi này, trước và sau Phục Sinh, trước và sau biến cố vượt qua của Chúa Giêsu, rất quan trọng và bổ túc cho nhau. Nếu lần sai đi thứ hai sau Phục Sinh, mà không có lần sai đi thứ nhất trước Phục Sinh thì người ta dễ dàng rơi vào cám dỗ quả quyết rằng, những đồ đệ của Chúa Giêsu tự bày việc cho mình để thành lập cộng đoàn Giáo Hội do sáng kiến riêng chứ không phải do ý muốn của Chúa Giêsu . Ngược lại, nếu lần sai đi thứ nhất trước Phục Sinh mà không có lần sai đi thứ hai sau Phục Sinh thì người ta cũng dễ dàng rơi vào cám dỗ khác nữa, cho rằng Chúa Giêsu đã thất bại trong dự án của Ngài sau khi bị giết chết trên thập giá. Nhưng các sách Phúc Âm đã ghi lại cho chúng ta hai lần sai đi trước và sau Phục Sinh, và điều này làm nổi bật ý định của Chúa Giêsu. Vượt qua giới hạn của thời gian, Chúa đã kêu gọi, huấn luyện và sai các tông đồ ra đi rao giảng Tin Mừng, vì Chúa muốn rằng sứ mệnh rao giảng của Chúa cần được tiếp tục mãi trong thời gian nhờ những con người được mời gọi cộng tác với Chúa, làm công việc của Chúa với những quyền năng do Chúa ban cho.
Sự hiện diện và sứ mệnh của Giáo Hội qua các thời đại trong lịch sử nhân loại đều nằm trong chương trình của Chúa ngay từ đầu và do ý Chúa muốn, chứ không do sáng kiến của con người. Hơn nữa, chúng ta thấy tác giả Phúc Âm thánh Luca mô tả sứ mệnh của các tông đồ được Chúa sai đi bằng hai cụm từ rao giảng và chữa lành bệnh tật. Nói theo ngôn ngữ ngày nay, chúng ta có thể nói rằng đây là sứ mệnh toàn diện ôm trọn cả con người xác hồn. Rao giảng và chữa lành, công bố sự thật ban ơn cứu rỗi của Chúa và chăm sóc cho cuộc sống phần xác được lành mạnh, đó là cứu rỗi và phát triển luôn đi đôi với nhau. Người đồ đệ của Chúa khi làm công việc của Chúa là công bố sự thật của Chúa, phân phát ơn cứu rỗi đã được Chúa thực hiện. Khi làm công việc này không thể nào lơ là hay đóng kín trước những việc phục vụ cho công cụ phát triển xã hội, phục vụ lợi ích tốt lành cho anh chị em chung quanh. Nhà thờ để thờ Thiên Chúa, nhà thương chăm sóc bệnh nhân, nhà săn sóc người cao niên, nhà học tập cho người trẻ, nhà ở cho người nghèo, nhà cứu trợ cho anh chị em gặp nạn, đó là những nhà, những loại công tác nằm trong sứ mệnh của người đồ đệ của Chúa.
Lịch sử hai ngàn năm qua của Giáo Hội cho thấy những đồ đệ của Chúa còn luôn trung thành với lệnh truyền của Chúa: rao giảng và chữa lành, mặc dù không thiếu những sai sót lỗi lầm mà giờ đây những đồ đệ chân thật của Chúa không ngần ngại ăn năn xin tha thứ và dốc quyết thực hiện tốt đẹp hơn trong tương lai.
Lạy Chúa,
Xin thương ban cho chúng con quyền năng của Chúa để chúng con được canh tân và dấn thân nhiều hơn nữa, để chu toàn tốt hơn sứ mệnh Chúa đã trao phó cho trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Xin Chúa hãy thương hiện diện với chúng con và cùng hoạt động với chúng con luôn mãi.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 5: Đừng ảo tưởng
Sau đó Chúa chỉ định bảy mươi hai người khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến. Người bảo các ông: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.” (Lc. 10, 1-2)
Đừng ảo tưởng! truyền giáo, theo Đức Kitô, chính là không ngừng nghỉ. Ngay từ đầu các môn đệ đã được chỉ định rõ rệt. Thầy đã nói từng chi tiết những gì các ông trông đợi trước khi sai các ông đi. Đi từng hai đến các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến. Trước hết, các môn đệ cần phải xác tín rằng: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít”. Muốn có số thợ gặt sẵn sàng và có hiệu quả, phải cầu nguyện tận lực xin tuyển mộ được những thợ gặt chân chính và chắc chắn để đi loan truyền sứ điệp của Đức Kitô.
Số thợ tuyển mộ thì ít, họ như chiên ở giữa sói rừng! họ không được phép giơ tay năm ngón chỉ trỏ kiêu hãnh để áp đặt sứ điệp bằng bạo lực hay bất cứ thứ gì như thế. Nhưng chỉ đề nghị, rất trong sáng, an bình và tự do, không một chút bó buộc nào cả.
Những người truyền giáo nghèo khó, trơ trụi không trang bị những phương tiện gì to lớn của loài người, như tiền của tài năng, trù ếm, ảo thuật, không được dính bén những gía trị quan trọng quyền thế của trần tục, của bảo hiểm dưới đất, của an toàn vật chất, tuy không khinh bỉ chúng, nhưng không để chúng lôi kéo mình vịn lý do cần thiết.
Đối với Đức Kitô, những lời chào hỏi dọc đường là không cần thiết. Hãy trực tiếp đến nơi để rao giảng thì tốt hơn. “Đừng chào ai dọc đường” cũng có nghĩa là “hãy đi thẳng đến mục đích”. “Trước tiên hãy nói: Bình an cho nhà này”, đó là đem niềm vui đến cho họ, rồi đừng để mất giờ, hãy chữa bệnh tật cho họ và nói cho họ biết: “Triều đại Thiên Chúa đã đến gần các ông”.
Đó là những chỉ dẫn thật chính xác, rất ngắn gọn và cô đọng, đáng cảm phục biết bao một tinh thần trung thực vĩ đại! Người ta chấp nhận hay từ chối sứ điệp không phải dài dòng lý sự bắt người ta phải kính trọng. Người còn nói: “Nếu người ta không tiếp đón, hãy đi nơi khác”.
Người truyền giáo cần hành động chứ không van xin than thở.
GF
Suy niệm 6: Mỗi người đều là nhà thừa sai
Xem lại CN 14 TN C
Loan báo Tin Mừng là sứ mạng của hết mọi người chứ không chỉ dành riêng cho các linh mục hay tu sĩ. Hình ảnh 72 môn đệ được Đức Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng cho thấy tính phổ quát của sứ vụ này.
Khi được sai đi loan báo Tin Mừng, người thừa sai cần hiểu rõ một nguyên tắc căn bản về sứ vụ tông đồ là: việc Tông đồ là của Chúa. Người tông đồ là người được sai đi để thi hành ý muốn của Thiên Chúa. Mục đích là làm sao cho muôn người được ơn cứu độ.
Tuy nhiên, không phải ai được sai đi cũng đều thành công trong sứ mạng, bởi lẽ người tông đồ sẽ bị những thử thách, khó khăn do ngoại cảnh gây nên, và đôi khi do chính sự yếu đuối của bản thân, nên dẫn đến tình trạng buồn chán, thất vọng và buông xuôi...
Vì vậy, bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã hướng dẫn các môn đệ về tư cách, phương pháp và tinh thần của người thừa sai, để các ông ra đi và hy vọng mang lại nhiều hoa trái.
Trước tiên: người môn đệ phải noi gương Thầy của mình, đến để cứu độ bằng con đường thập giá. Vì thế, can đảm đón nhận những khó khăn, trở ngại do hiểu lầm, kỳ thị, ghen tức và hóa giải nó trong yêu thương là tinh thần của người môn đệ. Khó khăn này được ví như: "Chiên giữa bầy sói".
Thứ đến: người môn đệ phải sống cuộc sống thanh thoát, nhẹ nhàng trong sự thiếu thốn. Không quá lo lắng về cơm áo gạo tiền cách thái quá. Không bị của cải, sự sung sướng và an thân níu kéo bước chân người thừa sai. Bởi vì của cải vật chất không đương nhiên đem lại hạnh phúc cho con người, trái lại nó luôn có nguy cơ tha hóa và nô lệ hóa con người. Của cải vật chất vốn dễ làm cho con người trở nên mù quáng đối với bản thân cũng như trong tương quan với tha nhân; và khi đã trở thành mù quáng, con người tôn của cải vật chất lên làm cứu cánh và tự giam mình trong vỏ ích kỷ. Cần cảm nghiệm được tình yêu của Chúa trên cuộc đời mình qua sự chăm sóc của Ngài, vì thợ thì đáng được thưởng công. Vì thế: không bị, không tiền, không mang hai áo ... là tinh thần của người thừa sai.
Tiếp theo: hãy noi gương Đức Giêsu, Đấng đến để cho chiên được sống và sống dồi dào, còn bản thân Ngài thì lại hóa mình ra không đến nỗi trở nên của ăn cho người khác. Vì thế, người môn đệ cần nhạy bén để khước từ cám dỗ là tìm mọi cách để thay đổi điều kiện sống cho mình, nhằm an thân và sung túc, trong khi đó sứ vụ thì bỏ bê. Như thế, không cẩn thận sẽ dẫn đến tình trạng: "Đi hết nhà này đến nhà kia" mà sứ vụ thì không sinh hoa trái.
Mặt khác: hội nhập văn hóa là điều cần thiết để Lời Chúa thấm nhập vào truyền thống, văn hóa, được chuyển tải bằng những thứ ngôn ngữ của chính người bản địa. Những sinh hoạt hằng ngày như ăn uống, nghỉ ngơi cũng cần thích nghi. Được như thế, người thừa sai sẽ không bị cuốn theo bản năng để chỉ lo cho bản thân nhằm đáp ứng nhu cầu "hạ đẳng" của chính mình. Vì vậy: "Vào bất cứ thành nào mà người ta tiếp đón thì cứ ăn những gì mà người ta dọn cho anh em".
Hơn nữa: truyền giáo phải đi đôi với bác ái. Nếu lời giảng dạy là để giới thiệu Đức Giêsu như một vị Thiên Chúa nhân từ, yêu thương, đứng về phía người nghèo, áp bức, bất công để giải thoát con người cách toàn diện, thì việc bác ái chính là một chứng minh cụ thể về tình thương, sự liên đới do lòng thương xót của Thiên Chúa cho con người. Vì thế, người môn đệ cần: an ủi kẻ âu lo, nâng đỡ kẻ yếu đuối... để làm chứng cho: "Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần".
Cuối cùng: nhà truyền giáo phải là người thấm thía sự bình an của Chúa. Nếu không có bình an thì không thể trao ban cho người khác bình an được. Cuộc đời sứ vụ của người thừa sai mà thiếu đi yếu tố này, thì hẳn chính bản thân cũng bất hạnh, và như thế, chỉ còn gieo rắc sự thất vọng mà thôi. Tuy nhiên, bình an là một ơn ban của Thiên Chúa, kèm theo sự cộng tác của con người. Vì vậy: "Nếu ở đấy có con cái sự bình an, thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng không, sự bình an lại trở về với các con".
Lạy Chúa Giêsu, lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Xin Chúa sai những người thợ lành nghề để ra đi thu lúa về cho Chúa. Xin Chúa cũng ban cho chính chúng con, là những người cũng được mời gọi tham gia vào sứ mạng truyền giáo ngày lãnh Bí tích Rửa Tội, luôn biết làm gương sáng, chu toàn bổn phận và trung thành với đời sống bác ái yêu thương. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Nhiệm vụ loan báo Tin Mừng
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Nhiệm vụ loan báo Tin Mừng không chỉ dành riêng cho mười hai tông đồ, nhưng là sứ mạng của tất cả mọi người. Là người Kitô hữu, ta được Chúa sai đi nối tiếp công việc truyền giáo của các tông đồ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, khi sai các môn đệ ra đi, Chúa đã căn dặn các ông cầu xin Chúa Cha ban nhiều thợ gặt. Chúa muốn các ông ý thức vai trò của các ông là hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa, vì Chúa Cha là chủ ruộng. Hôm nay, Chúa cũng mời con lên đường truyền giáo, nhưng công việc truyền giáo cần phải bắt đầu bằng những giờ cầu nguyện. Vâng Chúa ơi, công việc của Chúa trao phó luôn luôn bắt đầu từ tấm lòng đáp trả lại lời mời gọi, và được cụ thể hoá bằng giờ phút riêng tư giữa con với Chúa. Vì lạy Chúa, những giờ phút cầu nguyện sẽ đem lại cho con một nghị lực mới, một ánh sáng chan hòa, tạo được một sức sống trào dâng. Xin Chúa dạy con biết cầu nguyện.
Lạy Chúa, cầu nguyện là điều cần thiết, nhưng Chúa không miễn chuẩn cho con phải làm việc: “Anh em hãy ra đi”. Lệnh truyền của Chúa thật dứt khoát. Xin Chúa giúp con ra đi với một tấm lòng rộng mở. Con tin việc làm của con sẽ có một năng lực phi thường vì có Chúa trợ giúp. Xin giúp con biết làm việc tông đồ trong khi kết hiệp với Chúa.
Xin Chúa cho con biết ra đi khỏi chính mình để luôn bận tâm làm việc cho Chúa mà thôi. Xin cho con ra đi khỏi những ràng buộc của thế gian, để có thể phục vụ một người Chủ duy nhất là chính Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Sự bằng an của các con sẽ đến trên người ấy”.
Suy niệm 8: Tin vào Thiên Chúa
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Tướng Carreau bị thương nặng, sắp chết. Sau khi được chịu các phép sau hết, ông cầm lấy thánh giá mà vợ ông đã mang vào cổ ông, nói với các bạn binh sĩ của ông:
“Các bạn hãy can đảm lên!. Giữa các sự cực nhọc và đau khổ của mình, các bạn đừng quên rằng cuộc đời là vắn vỏi và ta thật vô phúc nếu khi chết, ta thấy rằng ta đã không hiểu biết, đã không thờ lạy và đã không bênh vực Chúa Giêsu”.
Suy niệm
Tyrô và Siđôn, những thành phố phồn thịnh, nổi tiếng thời Cựu ước, cũng là cửa ngõ bị ảnh hưởng của đời sống ngoại giáo xâm nhập vào Israel, nên các ngôn sứ hay phê phán nặng lời các thành phố này (x. Is 23; Ed 26-28; Ge 4,4-8; Am 1,9-10; Dcr 9,2-4). Riêng Sôđôma là thành phố tội lỗi đã bị Chúa hủy diệt bằng lửa… Các ngôn sứ lên án vì nếp sống thực dụng vật chất hưởng thụ dẫn tới những sa đọa luân lý, tôn thờ ngẫu tượng của ngoại bang tại các thành phố này.
Corozain, Bethsaiđa và Capharnaum là những thành phố nằm trên bờ hồ Giênêgiarét. Chúa Giêsu và các môn đệ đã nhiều lần rao giảng Tin Mừng, cũng như làm nhiều phép lạ ở các nơi này. Cuộc sống vật chất sung túc, làm cho con người không chỉ sa đọa, mà còn chối bỏ tương quan với Ðấng Tạo Hóa qua việc họ không tin vào lời giảng dạy của Đấng Thiên Sai đang ở giữa họ. Thế mà dân ở đây vẫn cứng lòng không lãnh nhận giáo huấn Chúa. Chính sự chối bỏ, cứng tin của họ, làm cho họ bị phán xét nặng hơn vì ngoan cố không chịu nghe theo Chúa. Thế mà dân ở đây vẫn cứng lòng không theo Chúa. Hình phạt cho các thị trấn sẽ nặng hơn vì ngoan cố không chịu nghe theo Chúa.
Khi loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, đời người sẽ trở nên trống rỗng vắng bóng Ngài, dễ dàng rơi vào sa đọa... Chỉ tin vào Thiên Chúa, khi đó con người mới biết đặt Ngài vào trọng tâm cuộc đời, sống những giá trị thiêng liêng và xây dựng tình người với nhau.
Ý lực sống
“Con hy vọng rất nhiều vào Chúa,
linh hồn con trông cậy ở Lời Chúa” (Tv 130,5).
Suy niệm 9: Bảy mươi hai môn đệ đi truyền giáo
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Đức Giêsu đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời cho dân chúng để đem lại ơn cứu độ cho họ. Mối ưu tư hàng đầu của Ngài là làm cho mọi người được nghe biết Tin Mừng. Và mối ưu tư ấy đã được diễn tả trong lúc thổ lộ tâm tình với các môn đệ:”Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít. Vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ gặt lúa về”(Lc 10,2).
Sau khi đã trang bị cho họ những khả năng tinh thần tuyệt diệu, Đức Giêsu đã sai 72 môn đệ đi loan báo Tin Mừng bình an cho mọi người. Ngài ân cần khuyên họ đừng lo tìm an toàn nơi các phương tiện vật chất trần gian. Họ vâng lời ra đi và trở về trong hân hoan. Đức Giêsu cho họ biết họ hãy vui mừng vì tên tuổi họ đã được ghi trên Nước Trời.
2. Khi sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, điều đầu tiên Chúa muốn nơi họ là lòng tin tưởng tuyệt đối vào sự quan phòng của Thiên Chúa. 72 môn đệ được sai đi tay không. Chúa cũng không ra lệnh cho họ đến các Hội đường hay các ngã ba đường để rao giảng, nhưng là đến từng nhà và hội nhập vào đó, hiện diện như một phần tử trong gia đình, ăn những gì người ta dọn cho. Nhờ đó Tin Mừng sẽ được đón nhận dễ dàng hơn, bởi vì Tin Mừng không còn là sức mạnh áp đặt từ bên ngoài, mà là một sức sống từ người rao giảng truyền sang những người khác và đâm rễ sâu trong lòng họ (Mỗi ngày một tin vui).
3. Bảy mươi hai môn đệ là hình bóng của mọi tín hữu được kêu mời tham gia vào việc tông đồ của hàng Giáo phẩm. Đức Giêsu đã nói:”Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít”. Vậy thợ gặt là ai ? Trước đây người ta thường dành danh xưng “thợ gặt” cho các linh mục, các tu sĩ nam nữ, các nhà truyền giáo. Đây là một nhầm lẫn. Không ai có thể trở thành Kitô hữu mà lại không cảm nghiệm nơi mình nỗi lo âu của Đức Giêsu trước cánh đồng lúa chín mênh mông. Những tác vụ đa dạng sẽ làm nảy sinh những hình thức hoạt động khác nhau nơi mỗi người, nhưng ai nấy theo cách của mình, đều được gọi và làm việc ở đồng lúa chín (L. Sintas).
4. Ngay từ đầu sứ vụ, Đức Giêsu đặt công việc truyền giáo trong cái nhìn cấp bách và khẩn thiết. Cho nên Chúa tuyển chọn 12 tông đồ và sau đó là 72 môn đệ, huấn luyên và sai đi truyền giáo. Hội thánh ngày hôm nay cũng không ngừng tiếp tục mời gọi những người thành tâm thiện chí tiếp tục ra đi loan báo sứ điệp tình thương và ơn cứu độ của Chúa cho trần gian, qua mọi thời đại. Cần ý thức rằng, qua bí tích Rửa tội, mỗi tín hữu cũng là một nhà truyền giáo, được sai đi để làm công việc của Chúa là cứu chữa các linh hồn (5 phút mỗi ngày).
5. Trong tinh thần ấy, thánh Phanxicô Xaviê hồi còn là sinh viên ở trường đại học Paris, đã nghe được lời mời gọi trở thành linh mục và sau đó ngài là một nhà truyền giáo ở Ấn độ. Một trong những lá thư của ngài từ Ấn độ vang vọng lời Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay. Đây là một phần của lá thư:
“Nơi đây, nhiều người không trở nên Kitô hữu được, chỉ vì lý do là không có ai sẵn sàng đảm nhận việc dạy dỗ cho họ về Chúa. Tôi thường nghĩ đến việc đi tới trường đại học ở châu Âu và kêu gọi những người thợ đến thu hoạch mùa ở Ấn độ”.
6. Đức Giêsu đã kêu gọi và ngày nay Hội thánh cũng kêu gọi chúng ta hãy tích cực tham gia vào trong việc truyền giáo này. Đức Giêsu đã không dành riêng việc rao giảng Tin Mừng cho các Tông đồ, mà còn sai 72 môn đệ ra đi. Nói khác đi, Ngài muốn gửi sứ mạng rao giảng đến mỗi người chúng ta. Ước gì chúng ta luôn ý thức sứ mạng rao giảng đó, không những bằng lời nói mà nhất là bằng cuộc sống yêu thương và phục vụ.
Nói một cách cụ thể, chúng ta có thể tham gia vào việc truyền giáo bằng cầu nguyện, xin Chúa sai nhiều thợ gặt đến cánh đồng truyền giáo. Đây là một việc mọi người có thể làm bất cứ lúc nào. Cầu nguyện còn chứng tỏ lòng tin tưởng cậy trông của chúng ta, vì từ việc sai thợ gặt đến cánh đồng truyền giáo, cho đến việc cứu độ thực sự là làm cho người ta chấp nhận Tin Mừng, trở về với Chúa để được hưởng ơn cứu độ .
7. Truyện: Đôi tay của Chúa.
Vào cuối thế chiến thứ hai, để thu phục thiện cảm và tin tưởng của người dân trong làng vừa mới được giải phóng khỏi tay Đức Quốc xã, toán lính thuộc lực lượng đồng mình cố gắng lượm lại từng mảnh vỡ của bức tượng Chúa Giêsu đã được dựng lên ở ở quảng trường trước ngôi nhà thờ nhỏ, trung tâm sinh hoạt của làng quê miền cực nam nước Italia.
Sau nhiều ngày cố gắng, toán lính đã gắn lại được gần như toàn bức tượng của Chúa. Nhưng chỉ có đôi tay bức tượng là không thể nào hàn gắn lại được. Vì các mảnh vụn lớp thì bị bể quá nhỏ, lớp thì đã bị nát thành như bụi.
Sau nhiều giờ bàn luận và gần như sắp quyết định bỏ dở công việc, thì một người trong toán lính có sáng kiến tìm lấy hai khúc gỗ gắn vào nơi hai cánh tay bị bể nát của bức tượng, rồi viết vào đó một hàng chữ bất hủ, không những đánh động được tâm hồn những người dân trong làng, mà còn thu hút được nhiều khách du lịch đến vùng này để được tận mắt xem hàng chữ đầy ý nghĩa. Các bạn có thể đoán được hàng chữ này không? Đó là “CHÍNH BẠN LÀ ĐÔI TAY CỦA CHÚA”.
Suy niệm 10: Đi rao giảng Tin Mừng
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Chúa Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng:
- Theo tường thuật của Thánh Luca, Chúa Giêsu đã sai đi rao giảng không phải chỉ nhóm tông đồ mà còn cả nhóm môn đệ nữa. Luca muốn nhấn mạnh rằng không riêng gì các tông đồ, mà tất cả mọi người đều được Chúa Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng. Ý này lại được làm rõ thêm với con số 72. Đây là số dân của loài người mà St 10 đã liệt kê.
- “Từng nhóm hai người”: Việc loan Tin mừng không phải là việc của một cá nhân riêng lẻ, mà là việc của cộng đoàn, không phải là độc quyền của riêng ai, nhưng phải liên đới và liên kết với nhiều người khác.
- “Hãy cầu xin”: Việc đầu tiên mà nhà truyền giáo phải làm là “cầu xin”. Thiên Chúa là chủ mùa gặt, nhận ai vào Nước Thiên Chúa là quyền của Ngài và là ơn của Ngài. Chúa Giêsu bảo cầu xin là để các môn đệ ý thức rằng họ được gọi là nhờ ơn Chúa, và để có thêm nhiều người nữa nhận được ơn ấy.
- “Như chiên non vào giữa sói rừng”: Chúa Giêsu khuyến cáo các môn đệ về những hiểm nguy và sự thù nghịch mà có thể họ sẽ gặp phải.
- “Đừng chào ai dọc đường”: việc chào hỏi của người Phương Đông thường kéo theo những câu chuyện rề rà rất lâu. Trong khi sứ mạng loan Tin mừng đòi phải gấp.
- “Bình an cho nhà này”: đây vừa là một lời chúc vừa là một lời ban ơn bởi vì nó có sức tạo nên điều nó chúc (Is 45,23). Người rao giảng Tin Mừng phải là “con cái của sự bình an”. Họ phải có bình an trong mình và sau đó đem bình an ấy ban lại cho người khác. Nếu nhà nào đáng được hưởng ơn bình an thì được bình an, nếu không thì ơn bình an trở lại cho người chúc.
- “Cứ ở lại nhà ấy”: gặp nhà nào đầu tiên cho ở thì người môn đệ hãy ở đó. Đừng tìm hiểu nhà để so sánh chọn lựa nhà nào tiện nghi hơn. Điều quan trọng là loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa chứ không phải tiện nghi cho mình hoặc cách người ta tiếp rước mình.
- “Ăn uống của người ta cung cấp cho mình”: sứ mạng của môn đệ đừng để bị ảnh hưởng bởi những quan tâm có tính cách trần thế (đòi hỏi hoặc e ngại những gì của ăn uống người ta lo cho mình).
- “Thợ đáng trả lương”: đây là một nguyên tắc (1Tm 5,18 ; 1Cr 9,11). Nhưng người thừa sai cũng có thể tự ý từ chối (1Cr 9,14-18).
- “Người ta dọn thức gì cứ ăn thức ấy”: Người rao giảng Tin Mừng Chúa Giêsu không còn bị bận vướng bởi luật Môsê về sự phân loại thức ăn nào sạch, thức ăn nào dơ (1Cr 10,27).
- “Hãy chữa lành các bệnh nhân”: đây là dấu hiệu Nước Thiên Chúa gần đến.
- “Phủi bụi chân”: người Do Thái thường phủi bụi chân khi từ một vùng đất ngoại trở về đất Palestina vốn được coi là đất thánh. Cử chỉ này có nghĩa là không có chung đụng giữa Israel và dân ngoại. Thành nào không đón nhận sứ điệp của Chúa Giêsu thì cũng cắt đứt liên hệ với dân Thiên Chúa, trách nhiệm là thuộc về họ.
- Thành đó sẽ đáng chịu phán xét trong ngày chung thẩm, họ sẽ bị trừng phạt nặng nề còn hơn Sôđôma ngày xưa. Việc các thừa sai đến loan Tin mừng là cơ hội cho người ta chọn lựa để hoặc được cứu độ hoặc bị luận phạt.
B.... nẩy mầm.
1. Truyền giáo là bổn phận của tất cả mọi tín hữu không trừ ai. Thực ra, người tín hữu VN chỉ mới lo giữ đạo chứ chưa ý thức truyền đạo.
2. Việc đầu tiên người truyền giáo phải làm là “cầu xin”. Đây là điều mà chúng ta hay quên.
3. Điều thứ hai người truyền giáo phải lưu ý là: cái họ cần có hơn là ơn Chúa chứ không phải là những phương tiện vật chất (túi tiền, bao bị, giày dép…)
4. Việc làm chính của người truyền giáo là “chữa lành các bệnh tật”, nghĩa là làm giảm bớt đi những đau khổ tinh thần và vật chất của người ta.
5. “Anh em hãy ra đi. Đừng mang theo túi tiền, bao bị giày dép.(Lc 10,4)
Nếu phải thực hiện một chuyến đi dài, tôi sẽ mang theo thứ gì ? Chắc chắn là những gì gọn nhất, nhẹ nhất, cần thiết nhất. Và hôm nay, trong lênh truyền của Chúa Giêsu tôi đọc được nét nhẹ nhàng thanh thoát ấy trong bước chân của người môn đệ không giày dép, bao bị, tiền nong...
Và phải chăng cũng vang động trong tâm hồn tôi lời mời gọi “ra một cuộc lữ hành” ? Nhưng lạy Chúa, khó quá, vì nơi con: Đã quen rồi bóng râm của tiện nghi, an toàn. Đã quen rồi đôi giày của danh vọng. Đã quen rồi chiếc đồng hồ kế hoạch. Đã quen rồi bao bị của bằng cấp, bạc tiền.
Lạy Chúa, trên hành trình tiến về nhà Chúa, xin giải thoát con khỏi những ràng buộc của bản thân, của lề thói xã hội, để biết trao ban cho anh em chính Chúa chứ không phải chính con (Hosanna)
SUY NIỆM
Lời của Đức Giê-su trong bài Tin Mừng mời gọi chúng ta nhận ra ba đặc điểm thuộc về sứ mạng loan báo Tin Mừng, và để con tim của chúng ta được chinh phục, nghĩa là được ơn hiểu biết sâu sa, có lòng ước ao và quảng đại dấn thân thực hiện sứ mạng loan báo Tin Mừng trong hành trình đi theo Đức Ki-tô trong một ơn gọi.
1. Sứ mạng phục vụ cho sự sống
Sẽ thật là ấn tượng và rất có ý nghĩa, khi chúng ta hình dung ra một nhóm rất đông gồm bảy mươi hai môn đệ, được Đức Giê-su đích thân chỉ định, sai đi từng hai người một. Hình ảnh bảy mươi hai môn đệ nói cho chúng ta về sự phong phú của đời tu hôm nay, nam cũng như nữ, trong Giáo Hội và nhất là tại Giáo Hội Việt Nam, và về chính chúng ta nữa, hay những người thân yêu của chúng ta. Chúng ta đang ở trong Năm Đời Sống Thánh Hiến. Vì thế, chúng ta hãy xin Chúa ban cho tất cả chúng ta và cách đặc biệt cho tất cả những người đang tìm hiểu và sống ơn gọi dâng hiến, niềm xác tín này : đó là được Chúa đích thân tuyển chọn và sai đi, cho dù trong thực tế đã diễn ra như thế nào.
Và sứ mạng của các môn đệ là chuẩn bị cho Chúa đến một cách đích thân : « Người sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến ». Nói cách khác, cánh đồng và sứ mạng là của Chúa, chúng ta không phải chủ, nhưng là nữ tì, là tôi tớ, là « ơn huệ », Chúa ban cho cánh đồng nhờ lời cầu nguyện của Giáo Hội, của rất nhiều người, nhất là của những người thân yêu. Và lời loan báo : « Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần », gắn liền với hoạt động chữa những người đau yếu :
Hãy chữa những người đau yếu trong thành,
và nói với họ: “Triều Đại Thiên Chúa
đã đến gần các ông.”
(c. 9)
Đức Giê-su cũng đã làm như thế khi loan báo Nước Trời. Như thế, các môn được mời gọi làm cùng một điều như Đức Giê-su đã làm, khi được chọn và sai đi, đó là hoạt động phục vụ cho sự sống : chữa bệnh liên quan đến sự sống ở mức độ căn bản nhất là sức khỏe, nhưng sự sống của con người không chỉ là sức khỏe, nhưng còn là và nhất là được đón nhận, được đồng hành, được tôn trọng, được yêu thương, được lắng nghe, được hòa giải với bản thân và với nhau, được cảm thông, được bao dung tha thứ, được chữa lành những vết thương trong tâm hồn.
2. « Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói »
Giống như Đức Giê-su, Đấng chọn và sai chúng ta đi, chính khi chúng ta thi hành sứ mạng phục vụ cho sự sống, chúng ta đánh liều chính sự sống của mình :
Thầy sai anh em đi như chiên con
đi vào giữa bầy sói. (c. 3)
Chiên con, chứ không phải chiên mẹ hay chiên bố, ở giữa bầy sói, thì chắc chắn là « chết » ! Bởi vì chính Đức Giê-su là « Chiên Con », như chúng ta tung hô nhiều lần trong Thánh Lễ : « Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian… »
Tuy nhiên, hình ảnh chiên và sói lại diễn tả cách tuyệt vời sự tương phản giữa sự hiền lành của Thiên Chúa và tính bạo lực của sự dữ. Giống như Đức Ki-tô, chúng ta được mời gọi chiến thắng bạo lực của sự dữ, không phải bằng bạo lực, nhưng bằng lời tạ ơn và ca tụng Thiên Chúa, bằng cách phó thác cho sự quan phòng của Thiên Chúa, bằng chính sự dịu hiền của Thiên Chúa :
Chúa cho miệng con thơ trẻ nhỏ,
cất tiếng ngợi khen chống lại địch thù,
khiến kẻ thù quân nghịch phải tiêu tan.
(Tv 8, 3)
Bởi vì nếu chúng ta sử dụng cùng một phương tiện bạo lực, mà sự dữ dùng, để chống lại sự dữ, thì chúng ta sẽ không khác gì sự dữ, và nhất là vì chúng ta sẽ rất mau bị cuốn vào xoáy của sự dữ. Thật vậy, khi người ta dùng gươm dao súng ống để chống lại kẻ xấu, không sớm thì muộn, người ta sẽ say mê gươm dao súng ống luôn. Chính vì thế, Đức Giê-su mời gọi chúng đừng chống lại kẻ dữ (x. Mt 5, 39).
Đánh liều sự sống, khi thi hành sứ mạng phục vụ sự sống. Điều này thật là thiệt thòi, thử thách và đau khổ. Nhưng đó lại là qui luật muôn đời của sự sống, được ghi khắc trong công trình sáng tạo và trong kinh nghiệm sống của loài người chúng ta : muốn phục vụ sự sống, muốn cho sự sống sinh sôi nẩy nở, phải cho đi chính sự sống của mình : đó là hạt lúa mì khi được gieo vào lòng đất, đó là người mẹ khi cưu mang và sinh con. Đức Ki-tô đến để cho thế gian được sống, và sống dồi dào (x. Ga 10, 10), và Người đã không đi con đường nào khác, ngoài con đường của hạt lúa mì. Thử thách và đau khổ, nhưng đồng thời cũng là hạnh phúc sâu xa và niềm vui bao la nếu được sống bằng tình yêu và lòng biết ơn. Và nhất là khi, trong Chúa, đó là con đường Vượt Qua, dẫn chúng ta đến ơn huệ sự sống gấp trăm và viên mãn.
3. « Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép »
Chính Chúa ban sự sống và ban lại sự sống gấp trăm, điều này, giúp chúng ta hiểu hiểu được ý nghĩa của lời dặn rất triệt để của Đức Giê-su, không thể áp dụng được trong thực tế, đó là không mang theo túi tiền, bao bị, giày dép.
Như thế, chúng ta đi vùng sâu vùng xa hoặc đi Đông hay đi Tây làm sao được ? Không thể thực hiện được nhưng lại mang một ý nghĩa quyết định, đó là sứ mạng loan báo Tin Mừng của chúng ta không tuyệt đối phụ thuộc vào những phương tiện vật chất chúng ta có và những khả năng chúng ta tạo lập được, mặc dù những điều này là quan trọng. Sống ơn gọi và thi hành sứ mạng, chúng ta được mời gọi sống bằng ơn Chúa và bằng chính Chúa, chứ không phải bằng phương tiện và khả năng sinh sống và làm việc của riêng mình. Đó là ý nghĩa của phép lạ bánh hóa nhiều.
Và ơn Chúa được ban cho chúng ta một cách rất cụ thể ngang qua sự tiếp đón và quà tặng do người khác chia sẻ, cụ thể là bữa ăn :
Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó… Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em. (c. 7-8)
Trong lời dặn dành cho các môn đệ được sai đi, Đức Giê-su nói tới bữa ăn người ta đãi tới hai lần, và lần sau ăn lớn hơn lần trước, bởi vì là bữa ăn cấp thành phố !
* * *
Ước ao phục vụ, có khả năng phục vụ và làm được cái gì đó cho người khác, Giáo Hội, hay Hội Dòng, đó là điều mọi người thao thức, và việc tuyển lựa ơn gọi và huấn luyện cũng dựa vào những tiêu chuẩn này. Điều đó thật đáng vui, như kinh nghiệm của các môn đệ cho thấy:
Khi ấy nhóm Bảy Mươi Hai môn đệ hớn hở nói với Đức Giê–su: “Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con”! (Lc 10, 17)
Tuy nhiên, Đức Giê-su mời gọi chúng ta hướng tới một niềm vui lớn hơn, đó là “tên anh em đã được ghi trên trời”:
Anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời. (c. 20)
Lời Đức Giê-su muốn nói rằng, các môn đệ của Ngài, xưa kia cũng như hôm nay, hiện diện trong cung lòng Thiên Chúa từ muôn thủa và mãi về sau cách nhưng không. Đây không chỉ là niềm vui lớn hơn, mà còn là nguồn hành động và làm cho hành động trở nên đích thực và đi đúng hướng. Hơn nữa, đó chính là lẽ sống, khi chúng ta không còn phục vụ được gì nữa, không còn sức lực nữa. Không chỉ sau này về già, hay những lúc đau bệnh, nhưng ngay những lúc thất bại, bị coi thường, chê bỏ…
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
Thursday (September 30):
The Kingdom of God Has Come near to You Scripture: Luke 10:1-12 1 After this the Lord appointed seventy others, and sent them on ahead of him, two by two, into every town and place where he himself was about to come. 2 And he said to them, “The harvest is plentiful, but the laborers are few; pray therefore the Lord of the harvest to send out laborers into his harvest. 3 Go your way; behold, I send you out as lambs in the midst of wolves. 4 Carry no purse, no bag, no sandals; and salute no one on the road. 5 Whatever house you enter, first say, `Peace be to this house!’ 6 And if a son of peace is there, your peace shall rest upon him; but if not, it shall return to you. 7 And remain in the same house, eating and drinking what they provide, for the laborer deserves his wages; do not go from house to house. 8 Whenever you enter a town and they receive you, eat what is set before you; 9 heal the sick in it and say to them, `The kingdom of God has come near to you.’ 10 But whenever you enter a town and they do not receive you, go into its streets and say, 11 `Even the dust of your town that clings to our feet, we wipe off against you; nevertheless know this, that the kingdom of God has come near.’ 12 I tell you, it shall be more tolerable on that day for Sodom than for that town. |
Thứ Năm 30-9
Nước Thiên Chúa đã đến gần các ngươi Lc 10,1-12 1 Sau đó, Chúa chỉ định bảy mươi hai người khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến.2 Người bảo các ông:3 Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói.4 Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường.5 Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: “Bình an cho nhà này! “6 Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng không thì bình an đó sẽ trở lại với anh em.7 Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia.8 Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em.9 Hãy chữa những người đau yếu trong thành, và nói với họ: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông.”10 Nhưng vào bất cứ thành nào mà người ta không tiếp đón, thì anh em ra các quảng trường mà nói:11 “Ngay cả bụi trong thành các ông dính chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin giũ trả lại các ông. Tuy nhiên các ông phải biết điều này: Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần.”12 Thầy nói cho anh em hay: trong ngày ấy, thành Xơ-đôm còn được xử khoan hồng hơn thành đó.” |
Meditation: What kind of harvest does the Lord want us to reap today for his kingdom? When Jesus commissioned seventy of his disciples to go on mission, he gave them a vision of a vast field that is ready to be harvested for the kingdom of God. Jesus frequently used the image of a harvest to convey the coming of God’s reign on earth. The harvest is the fruition of much labor and growth – beginning with the sowing of seeds, then growth to maturity, and finally the reaping of fruit for the harvest. God’s word grows like a seed within us In like manner, the word of God is sown in the hearts of receptive men and women who hear his word, accept it with trust and obedience, and then share the abundant fruit of God’s word in their life with others. The harvest Jesus had in mind was not only the gathering in of the people of Israel, but all the peoples (and nations) of the world. John the Evangelist tells us that “God so loved the world that he gave his one and only Son, that whoever believes in him shall not perish but have eternal life” (John 3:16).
Be a sower of God’s word of peace and mercy What does Jesus mean when he says his disciples must be “lambs in the midst of wolves”? The prophet Isaiah foretold a time when wolves and lambs will dwell in peace (Isaiah 11:6 and 65:25). This certainly refers to the second coming of the Lord Jesus when all will be united under the Lordship of Jesus after he has put down his enemies and established the reign of God over the heavens and the earth. In the meantime, the disciples must expect opposition and persecution from those who would oppose the Gospel. Jesus came to lay down his life for us, as our sacrificial lamb, to atone for our sins and the sins of the world. We, in turn, must be willing to offer our lives with gratitude and humble service for our Savior, the Lord Jesus Christ.
We are called to speak and witness in God’s name What is the significance of Jesus appointing seventy disciples to the ministry of the word? Seventy was a significant number in biblical times. Moses chose seventy elders to help him in the task of leading the people through the wilderness. The Jewish Sanhedrin, the governing council for the nation of Israel, was composed of seventy members. In Jesus’ times seventy was held to be the number of nations throughout the world. Jesus commissioned the seventy to a two-fold task – to speak in his name and to act with his power.
Jesus gave his disciples instructions for how they were to carry out their ministry. They must go and serve as people without guile, full of charity (selfless giving in love) and peace, and simplicity. They must give their full attention to the proclamation of God’s kingdom and not be diverted by other lesser things. They must travel light – only take what was essential and leave behind whatever would distract them – in order to concentrate on the task of speaking the word of the God. They must do their work, not for what they can get out of it, but for what they can give freely to others, without expecting reward or payment. “Poverty of spirit” frees us from greed and preoccupation with possessions and makes ample room for God’s provision. The Lord Jesus wants his disciples to be dependent on him and not on themselves.
God gives us his life-giving word that we may have abundant life in him. He wills to work in and through each of us for his glory. God shares his word with us and he commissions us to speak it boldly and plainly to others. Do you witness the truth and joy of the Gospel by word and example to those around you?
Lord Jesus, may the joy and truth of the Gospel transform my life that I may witness it to those around me. Grant that I may spread your truth and merciful love wherever I go. |
Suy niệm: Ngày hôm nay, Chúa muốn chúng ta thu hoạch loại mùa gặt nào cho vương quốc của Người? Khi Đức Giêsu ủy quyền cho 70 môn đệ đi truyền giáo, Người cho họ thấy cảnh tượng của cánh đồng rộng lớn sẵn sàng cho một mùa gặt lớn cho nước Chúa. Đức Giêsu thường dùng hình ảnh mùa gặt để diễn tả việc vương quyền của Chúa sẽ đến trên thế gian. Mùa gặt là sự kết tinh của sự lao công và sự lớn lên – khởi đầu với việc gieo giống, rồi lớn lên, và cuối cùng đem lại hoa trái cho mùa gặt. Lời Chúa lớn lên như hạt giống trong ta Trong cách thức tương tự, lời Chúa được gieo vào lòng những người nam hay nữ lắng nghe lời Người, tiếp nhận nó với lòng tin tưởng và vâng phục rồi chia sẻ hoa trái sung mãn của lời Chúa trong cuộc đời mình và người khác. Mùa gặt mà Đức Giêsu đề cập tới không chỉ là việc quy tụ dân Israel, nhưng là tất cả mọi dân tộc (mọi quốc gia) trên thế giới. Thánh sử Gioan nói với chúng ta rằng “Thiên Chúa quá yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để những ai tin nhận Người sẽ không phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Hãy là người gieo lời bình an và thương xót của Thiên Chúa Đức Giêsu có ý muốn nói gì khi Người nói các môn đệ phải như “chiên giữa bầy sói”? Ngôn sứ Isaia đã tiên báo một thời gian khi sói và chiên sống trong hòa bình (Is 11,6- 65,25). Điều này chắc chắn có ý nói đến việc Đức Kitô sẽ đến lần thứ hai khi tất cả sẽ được hiệp nhất dưới uy quyền của Đức Giêsu, sau khi Người hạ bệ các kẻ thù của Người xuống và thiết lập vương quốc của Chúa cả trên trời dưới đất. Đồng thời, các môn đệ phải đón nhận sự chống đối và bách hại từ những kẻ chống lại Tin mừng. Đức Giêsu đến để hiến mạng sống mình vì chúng ta, như con chiên tế lễ để đền bù tội lỗi của chúng ta và của thế giới. Phần chúng ta cũng phải sẵn sàng hy sinh cuộc đời mình trong sự phục vụ Đấng cứu độ chúng ta là Chúa Giêsu Kitô cách biết ơn và khiêm tốn. Chúng ta được kêu gọi để nói và làm chứng nhân danh Thiên Chúa Ý nghĩa của việc Đức Giêsu chỉ định 70 môn đệ lo việc mục vụ lời Chúa là gì? Bảy mươi là một con số ý nghĩa trong Kinh thánh. Môisen đã chọn 70 vị trưởng lão để giúp ông trong việc hướng dẫn dân chúng trong thời kỳ đi trong hoang địa. Tòa án tối cao của Dothái, hội đồng quốc gia Israel, gồm có 70 thành viên. Vào thời Đức Giêsu, con số 70 được gắn liền với con số các quốc gia trên thế giới. Đức Giêsu ủy quyền cho nhóm 70 hai công việc: Nói nhân danh Người và hành động với uy quyền của Người.
Đức Giêsu cho họ những chỉ dẫn để thực hiện sứ mệnh của mình. Họ phải đi và phục vụ với tư cách là những người không lừa dối, đầy bác ái, bình an, và giản dị. Họ phải chú trọng hoàn toàn đến việc rao giảng vương quốc của Chúa, không được lệch hướng sang những chuyện nhỏ nhặt khác. Họ phải ra đi nhẹ nhàng – chỉ đem những gì cần thiết và bỏ lại sau lưng bất cứ thứ gì có thể làm cho họ sao lãng – để tập trung vào việc rao giảng lời Chúa. Họ phải thực hiện sứ mạng của mình, không vì những gì họ có thể lãnh nhận, nhưng vì những gì họ có thể ban tặng cho người khác cách tự do, mà không mong đợi phần thưởng hay sự đáp trả nào. “Tinh thần nghèo khó” giải thoát chúng ta khỏi sự tham lam và tích trữ của cải vật chất, và mở rộng cõi lòng cho sự quan phòng của Thiên Chúa. Chúa Giêsu muốn các môn đệ phải tùy thuộc vào Người chứ không phải họ.
Đức Giêsu ban lời sự sống của Người cho chúng ta để chúng ta có được cuộc sống sung mãn trong Người. Người muốn hoạt động qua và trong mỗi người chúng ta cho vinh quang của Người. Thiên Chúa chia sẻ lời Người cho chúng ta và Người ủy thác cho chúng ta nói lời Người một cách mạnh mẽ nhưng đơn giản cho những người khác. Bạn có làm chứng về sự thật và niềm vui của Tin mừng bằng lời nói và gương mẫu của mình cho những người xung quanh mình không? Lạy Chúa Giêsu, chớ gì niềm vui và chân lý của Tin mừng biến đổi cuộc đời con, để con có thể làm chứng cho những người xung quanh. Chớ gì con gieo rắc chân lý và ánh sáng của Người bất cứ nơi nào con đến. |
Tác giả: Don Schwager
(http://dailyscripture.servantsoftheword.org/readings/)
Bro. Paul Thanh Vu – chuyển ngữ
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn