s CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN NĂM C - NGÀY 29/6 LỄ HAI THÁNH TÔNG ĐỒ PHÊRÔ VÀ PHAOLÔ Cv 12,1-11; 2Tm 4,6-8.17-18; Mt 16,13-19

CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN NĂM C - NGÀY 29/6 LỄ HAI THÁNH TÔNG ĐỒ PHÊRÔ VÀ PHAOLÔ Cv 12,1-11; 2Tm 4,6-8.17-18; Mt 16,13-19

Thứ sáu - 27/06/2025 23:05
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN NĂM C - NGÀY 29/6
LỄ HAI THÁNH TÔNG ĐỒ PHÊRÔ VÀ PHAOLÔ
Cv 12,1-11; 2Tm 4,6-8.17-18; Mt 16,13-19

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Mat-thêu
13 Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt thành Cêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: “Người ta bảo Con Người là ai ?”
14 Các ông thưa: “Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó”.
15 Chúa Giêsu nói với các ông: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai ?” 16 Simon Phêrô thưa rằng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
17 Chúa Giêsu trả lời rằng: “Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.
18 Vậy Thầy bảo cho con biết: Con là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được.
19 Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời. Sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở”.

SUY NIỆM 1: SỨC MẠNH TRONG CHÚA KITÔ
Lời Chúa: “Con là đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” (Mt 16,13-18).
Nhập lễ:
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,
Hôm nay, Giáo hội long trọng mừng đại lễ kính hai Thánh tông đồ Phêrô và Phaolô. Phêrô là đá tảng kiên cường; Phaolô hăng hái mở đường đức tin. Cả hai đấng là cột trụ vững bền để xây dựng tòa nhà Giáo hội:
Mến yêu xin dám chung phần,
Dầu cho cuộc sống ngàn lần đau thương.
Phêrô đá tảng kiên cường,
Phaolô hăng hái mở đường Phúc Âm.
Đường đi theo Chúa gian truân,
Ta luôn vững bước chẳng ngần ngại chi.
Hiệp dâng thánh lễ hôm nay, xin cho mỗi người chúng ta biết trung thành tuân giữ giáo lý đức tin do các Tông Đồ truyền lại và loan báo đức tin ấy cho những ai sẵn lòng đón nhận. Nhờ đó, muôn dân được biết ơn cứu độ của Chúa. Trong tâm tình đó, giờ đây chúng ta hãy thành tâm sám hối.
Sám hối:
X. Lạy Chúa, Chúa đã tuyển chọn các Tông đồ để các ngài tiếp tục sứ mạng của Chúa. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa Kitô, Chúa đã đặt Thánh Phêrô làm Thủ lãnh Hội thánh. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa, Chúa đã sai Thánh Phaolô đem Tin Mừng cho những người chưa nhận biết Chúa. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
Kết: Xin thiên chúa tòan năng thương xót tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sốt muôn đời.

Suy niệm:
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Cùng với mẹ Giáo hội, hôm nay chúng ta long trọng mừng kính hai thánh Phêrô và Phaolô tông đồ, các ngài là nền tảng của Giáo Hội. Dù là hai con người được sự giáo dục và hấp thụ những văn hoá khác nhau, nhưng các ngài có một điểm chung là đã đón nhận cùng một đức tin từ nơi Thiên Chúa. Thánh Phêrô đã mạnh mẽ tuyên xưng Chúa Giêsu là Chúa Cứu Thế, và là người đầu tiên thay mặt Chúa Kitô điều khiển Giáo Hội. Thánh Phaolô là người bảo vệ đức tin và dạy dỗ muôn dân lãnh nhận ơn cứu độ. Tuy các ngài đã có một quá khứ đầy yếu đuối, nhưng các ngài đã trở nên sức mạnh trong Chúa Kitô.
Thưa anh chị em, các bài đọc phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy, trước khi trở thành đá tảng và là cột trụ của tòa nhà Giáo hội, Phêrô và Phaolô đều mang trong bản thân mình sự yếu hèn của con người. Nhưng trong bản thân của con người yếu hèn đó, nhờ sức mạnh của ơn Chúa các ngài đã trở nên mạnh mẽ. Trước hết, sách Tông đồ Công vụ hôm nay cho chúng ta thấy sự yếu hèn của Phêrô đã nằm trong tay Hêrôđê, không còn một phương cách nào để giải thoát ông: bị giam ngục, bị xiềng xích cùng với còng sắt xà lim, với bốn đội binh canh phòng, mỗi đội bốn người canh giữ, nằm ngủ giữa hai tên lính, và có quân canh giữ trước cửa ngục, chắc chắn Phêrô đã thấy hoàn toàn bất lực. Nhưng Thiên Chúa là Đấng quyền năng, Ngài đã sai thiên sứ đến để giải thoát Phêrô khỏi xiềng xích tù ngục. Thiên thần bảo rằng: “Hãy khoác áo vào mà theo ta”. Phêrô liền đi ra theo thiên thần, mà chẳng biết việc thiên thần làm có thật chăng, đến nỗi Phêrô phải thốt lên rằng: “Bây giờ tôi biết thật Chúa đã sai thiên thần cứu tôi khỏi tay Hêrôđê và khỏi mọi âm mưu của dân Do-thái”. Nhờ đó, Phêrô càng xác tín hơn sứ mạng mà Thầy đã trao cho: “Con là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được”. Trên tảng đá này, Chúa sẽ xây dựng đức tin mà Phêrô tuyên xưng. Phêrô có trách nhiệm củng cố niềm tin và chăn dắt đoàn chiên của Chúa Kitô trong tư cách là thuyền trưởng con tàu của Giáo hội. Thứ đến là Phaolô, ông đồng lõa với các biệt phái trong vụ giết Stêphanô, hung hăng tự nguyện đi khắp nơi lùng bắt các tín hữu. Nhưng đang trên đường đi Đa-mas để lùng bắt các môn đệ của Chúa Giêsu, ông đã bị một luồng sáng đánh quật té xuống khỏi ngựa và từ trong ánh sáng ấy, Phaolô đã nhận ra tiếng nói của Chúa Giêsu: "Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt hại". Từ đó, sự hăng say bách hại các Kitô hữu của Phaolô đã biến thành lòng nhiệt thành phụng sự Giáo hội của Chúa Kitô. Chúa đã sử dụng Phaolô làm khí cụ truyền giảng Tin Mừng cho dân ngoại.

Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Chúng ta vừa nhìn lại niềm tin của Phêrô và Phaolô để giúp củng cố niềm tin và xây dựng tinh thần hiệp nhất cho cộng đoàn chúng ta. Đường đời mỗi người đều có những lần sa ngã, có những lúc sa chìm tưởng như tuyệt vọng. Nhưng Chúa đã không chọn một tông đồ trong trắng để đứng đầu Giáo Hội mà lại chọn Phêrô với những kinh nghiệm sa ngã và chỗi dậy, là để gọi chúng ta hãy yên tâm vững dạ mà đi. Miễn là biết sám hối. Và mỗi lần sám hối chính là lặp lại niềm tin của mình một cách chân thành với ước vọng sẽ được nhiệt thành và trung thành hơn. Nhưng điều nổi bật hơn cả là tinh thần hiệp nhất giữa hai Thánh Tông đồ, mỗi người đã dùng những đường lối khác nhau để quy tụ một gia đình cho Chúa. Gia đình ấy là Giáo Hội hiệp thông liên kết, vừa là khí cụ kết hợp với Chúa và kết liên nhân loại.
Xin hai Thánh tông đồ Phêrô và Phaolô mà chúng ta mừng lễ hôm nay, cầu cùng Chúa cho chúng ta được gặp gỡ nhau trong niềm tin và luôn biết nỗ lực xây dựng tinh thần hiệp nhất trong Giáo Hội và giữa muôn người. Amen.
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang

SUY NIỆM 2: NHỮNG TƯƠNG ĐỒNG LẠ LÙNG
Giáo hội mừng kính hai Thánh Tông đồ, hai cột trụ Giáo hội cùng chung một ngày. Hai con người khác nhau từ cá tính đến thân thế nhưng có rất nhiều cái chung: Cùng chung một ơn gọi từ Chúa Kitô, cùng chung một niềm tin vào Chúa Kitô, cùng chung một sứ mạng Chúa Kitô trao phó, và cuối đời cùng chịu tử đạo vì Chúa Kitô tại Roma. Cả hai Ngài cùng chia sẻ một niềm tin, cùng thi hành một sứ mạng. Chúa Kitô đã đã đưa hai Ngài đến một cùng đích, một vinh quang đội triều thiên khải hoàn, cùng trở thành nền móng xây toà nhà Giáo hội, cùng trở nên biểu tượng hiên ngang của niềm tin Công Giáo. Hai Thánh Tông Đồ được Giáo hội mừng chung vào một ngày lễ 29 tháng 6.
Hai con người khác biệt ấy lại có những điểm tương đồng lạ lùng. Chúa Kitô đã nối những điểm tương đồng ấy để tất cả được nên một ở trong Người. Thánh Phêrô, trước đây hèn nhát, sợ hãi, chối Chúa, về sau yêu Chúa nồng nàn thiết tha; Thánh Phaolô, trước kia ghét Chúa thậm tệ, sau này yêu Chúa trên hết mọi sự. Trước kia hai vị rất khác biệt, bây giờ cả hai nên một trong tình yêu Chúa.

Hai tên gọi cùng được đổi mới
Theo cách dùng Thánh Kinh, tên không những chỉ là danh xưng dùng để gọi một người mà còn là hiện thân của một người (x. Từ điển Công Giáo phổ thông). Tên gọi nói lên một sứ mạng. Tên mới biểu tượng một thân phận mới, một bản chất mới. Ađam đặt tên cho mọi giống vật và đặt tên cho vợ: “Ngươi sẽ gọi tên vợ là Eva, vì bà là mẹ của chúng sinh” (St 3,20). Abram được đổi tên để nhận lấy một sứ mạng cao cả: “Tên ngươi không còn là Abram nữa, mà là Abraham… Sarai, vợ ngươi, sẽ không còn là Sarai nữa. Song tên nó là Sara. Bởi Sara, ngươi có một người con trai, ngươi sẽ đặt tên cho nó là Isaac” (St 17,5-20). Tổ phụ Giacop được đổi tên là Israel: “Người đó hỏi ông: “Tên ngươi là gì?” Ông đáp: “Tên tôi là Giacop. “Người đó nói: “Người ta sẽ không gọi tên ngươi là Giacop nữa, nhưng là Israel, vì ngươi đã đấu với Thiên Chúa và với người ta, và ngươi đã thắng.” (St 32,28-29). Theo lời Sứ thần Gabriel, Đức Maria đặt tên cho con là Giêsu. Ông Giacaria đặt tên cho con trai là Gioan.
Khi Anrê dẫn em trai là Simon đến gặp Chúa Giêsu, Người nhìn Simon và nói: “Anh là Simon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha” (tức là Phêrô) (Ga 1,42). Chúa xây dựng Giáo Hội trên Đá Tảng Phêrô: “Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá. Trên tảng đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt 16,18). Chúa còn trao chìa khoá Nước trời cho Phêrô.
Saolô là một biệt phái nhiệt thành. Trên đường đến Đamát, thình lình một luồng sáng từ trời bao tỏa lấy Saolô. Ông ngã xuống đất và nghe một giọng nói với ông: “Saolô, Saolô, tại sao ngươi bắt bớ Ta? Saolô hỏi: “Ngài là ai?” Và có tiếng trả lời “Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ” (Cv 9,1-5). Saolô đã bị mù lòa. Ông làm những gì được chỉ bảo. Ba ngày sau, ông Annanias đến, đặt tay trên Saolô và ngay lập tức có cái vảy bong ra khỏi mắt và ông được sáng. Ông đứng dậy và chịu phép rửa (Cv 9,6-18). Từ đó, Chúa Giêsu biến đổi Saolô thành một Tông đồ dân ngoại. Kể từ chương 13 sách CVTĐ, Saolô có tên mới là Phaolô.
Đặt tên cho một người là định hướng cuộc đời người ấy theo tên gọi. Từ đó có một chương trình trong sự quan tâm trìu mến của người đặt tên. Tên Giêsu là sứ mạng của Người (Mt 1,21) nghĩa là cứu độ (Cv 14,3), cứu thoát (Cv 4,12), đem lại sự sống siêu nhiên cách viên mãn (Col 3,17). Ai cầu nguyện nhân danh Đức Giêsu, theo ý hướng của Người sẽ luôn luôn được nhận lời (Ga 15,16); Ai kêu cầu tên Người sẽ được cứu thoát (Rm 10,13); Những ai tin vào tên Người sẽ làm nên Hội Thánh (1 Cor 1,2) và từ đó được gọi là Kitô hữu (Cv 11,26). Simon và Saolô đón nhận tên gọi mới là Phêrô và Phaolô với sứ vụ cao cả là đá tảng và là cột trụ của Giáo Hội.

Hai khuôn mặt cùng một niềm tin
Có nhiều dư luận nói về Chúa Giêsu. Người hỏi các môn đệ: “Các con bảo Thầy là ai?”. Simon Phêrô nhanh nhẹn đáp: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Chúa Giêsu rất hài lòng về câu trả lời của Phêrô. Người nói với Phêrô: “Này anh Simon, con ông Gioan, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16,17). Phêrô tuyên xưng niềm tin. Chúa Giêsu đặt thánh Phêrô làm đầu Giáo Hội (Mt 16,18).
Từ khi nhận phép rửa, Phaolô đã mạnh dạn rao giảng về Chúa Kitô khiến nhiều người Do Thái ngạc nhiên tự hỏi: “Ông này chẳng phải là người ở Giêrusalem vẫn tiêu diệt những ai kêu cầu danh Giêsu sao? Chẳng phải ông đã đến đây với mục đích bắt trói họ giải về cho các thượng tế sao?” (Cv 9, 21). Phaolô đã làm bẽ mặt những người Do Thái ở Đamát, khi minh chứng rằng Đức Giêsu là Đấng Mêsia (Cv 9, 22). Phaolô đã được các tông đồ tin tưởng nhờ đó ngài và các tông đồ đi lại hoạt động tại Giêrusalem. Phaolô mạnh dạn rao giảng nhân danh Chúa Giêsu Kitô (Cv 9, 28).
Phêrô tuyên xưng đức tin. Trên đá tảng Phêrô, đức tin được xây dựng. Phaolô làm sáng tỏ đức tin. Vị tông đồ dân ngoại hăng hái đem đức tin gieo trồng khắp mọi nơi. Hai khía cạnh của đức tin luôn sống động trong Giáo Hội, sứ mạng củng cố đức tin, xây dựng nội bộ và sứ mạng truyền giáo, đem đức tin đến với muôn dân.

Hai tính cách  cùng một lòng mến
Thánh Phêrô, tính tình nóng nảy, bộc trực và đôi lúc hơi liều lĩnh. Nói về ông người ta không thể không nhắc đến cái vết thật đen trong cuộc đời của ông. Đó là lần ông đã chối Chúa. Alain một nhà tư tưởng lớn của Pháp đã viết những lời như thế thật chua cay về cái biến cố này: “Tôi hình dung ra ông ta đang ở trên Thiên đàng, đầu đội triều thiên hào quang sáng chói nhưng mỗi khi nhớ đến ‘dzụ’ ấy, chắc ông còn phải đỏ mặt”. Lý do, ông viết tiếp: “Tông đồ Phêrô trong hoàn cảnh lúc đó đã lẩn trốn như thỏ hay như chuột”. Lời nhận định hơi chua chát một chút nhưng nó cho chúng ta thấy tính cách nghiêm trọng của vấn đề. Vì Phêrô là Thủ lãnh các tông đồ, thủ lãnh nhóm 12 và nhất là trước đó Chúa đã cảnh cáo ông.
Đời ông là giằng co giữa yếu đuối và dũng mãnh, giữa trọn vẹn và dang dở, giữa xa và gần, giữa trời và đất. Trái tim ông có u tối đi tìm ánh sáng, có nuối tiếc đi tìm lý tưởng. Đời ông có tự tin gặp vấp ngã, có phấn đấu gặp thất bại. Tuy nhiên, thánh Phêrô có nhiều đức tính đáng nể phục. Chính những đức tính sáng chói này sẽ làm lu mờ đi những cái tầm thường nơi con người của ngài. Nhờ đó, ngài đã xứng đáng với sự tín nhiệm của Chúa. Thánh Phêrô có lòng quảng đại. Khi được Chúa gọi, ông nhanh nhẹn bỏ tất cả mọi sự rồi theo Chúa. Thánh Phêrô có một đức tin chân thành và lòng gắn bó keo sơn với Chúa: “Lạy thầy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai vì Thầy có lời ban sự sống đời đời”. Đức tính đáng cảm phục nhất chính là lòng khiêm nhường. Đó là nhân đức nền tảng của mọi nhân đức. Khiêm nhường là mẹ các nhân đức. Rõ ràng, trong trái tim Phêrô lúc nào cũng yêu Chúa. Ngay cả khi Chúa bảo Phêrô là Satan thì Phêrô cũng không giận Chúa. Chỉ vì sự sợ hãi yếu đuối mà chối Thầy, chứ trong tâm hồn lúc nào Phêrô cũng yêu mến Chúa. Không phải Phêrô yếu đuối vấp ngã mà Chúa bỏ rơi, chính tình yêu chân thành trong tâm hồn Phêrô mà Chúa đã yêu thương chọn làm Tảng Đá.
Saolô là người Do thái, trí thức, thông thạo nhiều thứ tiếng miền Do thái – Hy lạp, rất sùng đạo theo môn phái Gamaliên ở Giêrusalem. Saolô là biệt phái nhiệt thành đi lùng sục bắt bớ Đạo Chúa, tham gia vào vụ giết Têphanô và trên đường Đamát truy lùng các Kitô hữu. Được ơn trở lại, Saolô được biến đổi để trở nên chứng nhân vĩ đại là Phaolô, Tông Đồ dân ngoại. Khi đã biết Chúa Kitô thì “những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Kitô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa tôi còn coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô, Chúa của tôi. Vì Ngài, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức Kitô và được kết hợp với Người. Được như vậy, không phải nhờ sự công chính của tôi, sự công chính do luật Môsê đem lại, nhưng nhờ sự công chính do lòng tin vào Đức Giêsu” (Pl 3,7-9). Phaolô hiên ngang được sống và được chết cho Chúa Kitô. Ngài trở thành một Tông đồ dân ngoại kiệt xuất, thành lập nhiều Giáo đoàn, mở mang phát triển Hội Thánh cách quang minh chính đại, khiến bản thân phải ra toà, tù tội, vất vả trăm đường. Các mối phúc thật được kết tinh nơi cuộc đời thánh nhân. Phaolô đã sung sướng tự hào cả khi ý thức những yếu đuối của mình “Ơn Ta đủ cho con vì chưng quyền năng trong yếu đuối mới viên thành” (2 Cor 12,9). Không gì có thể làm nao núng lòng tin mãnh liệt ấy “Chúng tôi bị dồn ép tư bề nhưng không bị đè bẹp; hoang mang nhưng không tuyêt vọng; bị ngược đãi nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã nhưng không bị tiêu diệt” (2cor 4,8-9). Vị Tông đồ dân ngoại đã nhiệt thành loan truyền Chúa Kitô với tất cả thao thức “Khốn thân tôi,nếu tôi không rao giảng Tin mừng” (1Cor 5,14). Ngài luôn sống trong niềm tin tưởng yêu mến vào Đấng đã kêu gọi Ngài “Tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa,là Đấng yêu mến tôi và thí mạng vì tôi” (Gal 2,20). Vì Đức Kitô và vì Tin mừng, thánh nhân đã sống và chết cho sứ vụ. Cuộc sống buôn ba vì Nước trời được điểm tô muôn ngàn vạn nét đẹp của Phaolô mãi mãi được hát lên như một bài ca khải hoàn “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, bắt bớ, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, gươm giáo? … Vì tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, hay bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 8,35-39).
Hai vị Thánh Tông Đồ có chung một lòng mến, một niềm tin và một khát khao nên thánh. Cả hai vị đều có những lầm lỗi và yếu đuối. Và cả hai đều hối hận, đều yêu mến Chúa thật tình. Chúa đã gọi và chọn hai vị làm Tông Đồ. Nhân danh và nhờ quyền năng Chúa Giêsu Kitô, hai vị đã làm được nhiều phép lạ.
Phêrô cùng với Gioan chữa lành một người què từ lúc lọt lòng mẹ vẫn ngồi ăn xin ở Cửa Đẹp Đền Thờ (x. Cv 3, 7 – 9 ); Phêrô làm cho người chết sống lại (x. Cv 9, 40 – 42); Phêrô chữa nhiều người đau ốm bệnh hoạn mà dân chúng khiêng họ ra tận đường phố để khi Phêrô đi qua, ít ra cái bóng của ông phủ lên một bệnh nhân nào đó, và tất cả đã được chữa lành (x. Cv 5, 15 – 16)…
Phaolô đã chữa lành một người bẩm sinh bị bại chân tại Lítra (x. Cv 14, 8 – 10). Phaolô cũng làm cho một người đã chết sống lại (x. Cv 20, 9 – 12). Sách Công Vụ Tông Đồ cho biết Phêrô bị bắt giam trong ngục, đã được Chúa sai thiên sứ đến cứu thoát khỏi tay vua Hêrôđê (x. Cv 12, 1–11). Cả hai vị được đầy quyền năng và vinh quang trước mặt người đời.
Cuối cùng hai vị cũng bị bắt và chịu chết vì Danh Đức Giêsu Kitô. Cả hai vị đã bằng lòng hy sinh đến giọt máu cuối cùng để làm chứng cho Đức Giêsu Phục Sinh. Hai vị đã trở nên trụ cột của Giáo Hội. Phêrô là Anh Cả, đứng đầu Tông Đồ Đoàn. Phaolô là Tông Đồ Dân Ngoại. Hai vị có tính tình khác nhau, trình độ văn hóa khác nhau, khả năng làm việc khác nhau, nhưng lại cùng hoạt động, cùng xây dựng Nước Chúa. Những khác biệt của hai vị là để bổ túc cho nhau, giúp đỡ nhau, cùng nhau thăng tiến trong sứ vụ Tông đồ. Trên “tảng đá Phêrô” và “cột trụ Phaolô”, Giáo Hội Chúa Kitô bền vững và phát triển đến thiên thu vạn đại.
Sự nghiệp Tông đồ tiếp bước Chúa Kitô, hai vị hiệp nhất trong cùng một lòng chân thành tuyên xưng, hiệp nhất trong một tâm huyết nhiệt thành rao giảng để rồi mãi mãi hiệp nhất trong cùng một đức tin minh chứng. Mặc dù có nhiều khác biệt về thành phần bản thân, về ơn gọi theo Chúa về hướng truyền giáo, nhưng cả hai vị đã tạo nên sự hiệp nhất trong đa dạng. Hiệp nhất là một công trình được xây dựng với nhiều nổ lực của con người dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh. “Khác nhau trong điều phụ, hiệp nhất trong điều chính, yêu thương trong tất cả”, đó là khuôn vàng thước ngọc cho tinh thần hiệp nhất trong Giáo hội.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An

SUY NIỆM 3: HAI VIÊN ĐÁ TẢNG DIỆU KỲ 
Sau một thời gian rao giảng Tin Mừng cứu độ, Chúa Giêsu muốn biết xem người ta nhận định thế nào về thân thế và sứ mạng của Người, nên Người mới hỏi các môn đệ: “Người ta bảo con người là ai ?” (Mt 16,13). Câu hỏi này như một hình thức trắc nghiệm về niềm tin. Dân chúng trả lời mỗi người mỗi cách, nhưng tất cả đều không chính xác. Chỉ có lời tuyên tín của Phêrô, “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16) là câu trả lời làm Chúa Giêsu hài lòng nhất. Nếu cho điểm, có lẽ Phêrô đã đạt điểm tuyệt đối, điểm 10. Ngay sau đó Chúa Giêsu đã cúi xuống để nâng Phêrô lên một địa vị đặc biệt. Chúng ta biết lúc ấy Phêrô đang mang cái tên cúng cơm, tên thường gọi là Simon. Đây là cái tên rất phổ biến đối với dân Do Thái. Ngay trong Tân ước, cũng có tới 3 nhân vật cùng có tên Simon được nhắc đến, đó là Simon nhiệt thành – một trong nhóm Mười Hai, Simon thành Kyrênê và Simon Phêrô.
Chúa Giêsu đã long trọng đặt tên mới cho ngài là Phêrô, tiếng Do Thái là Kêpha, nghĩa là đá. Simon, cái tên đang đẹp như vậy, giờ được đổi thành đá (Nguyễn văn Đá !). Chắc hẳn Phêrô đã rất ngạc nhiên vì cha mẹ mình đặt tên như vậy, sao giờ Thầy mình lại đặt cho cái tên lạ lùng như thế. Tại sao lại là Đá ? Là đá có ý nghĩa gì ? Là đá, bởi vì chúng ta biết rằng trong Cựu Ước, hình ảnh đá là hình ảnh hết sức kiêu hùng, hết sức cao vượt. Đá ở đây không phải là đá lăn đá lộn ngoài đường; đá ở đây chính là hình ảnh, là biểu tượng của Thiên Chúa. Bởi thế mà người Dothái mỗi lần cầu nguyện, họ thường nói với Chúa rằng : Lạy Chúa, Ngài là Đá Tảng con nương nhờ; Ngài là Thạch Động, là Núi Đá cho con ẩn mình; Ngài là Đá Cứu Độ…. Được Chúa lấy tên đó mà đặt cho mình, hẳn là Simon Phêrô rất hãnh diện. Và cũng chính qua tên đó mà Phêrô được gởi cho một căn tính mới, một lý lịch mới. Vì chưng đối với người Dothái, cái tên luôn gắn liền một sứ mạng. Cái tên mới đồng nghĩa với sứ mạng mới (x. Lm. Nguyễn Thế Toàn, CD Bài Giảng). Sứ mạng mới ở đây là làm nền tảng cho Giáo hội Chúa Kitô : “Con là Đá, trên đá này, Thầy sẽ xây Hội thánh của Thầy” (Mt 16,18). Nói theo ngôn ngữ ngày hôm nay thì ngài là Đức Giáo Hoàng cơ đấy !
Thế còn thánh Phaolô thì sao ? Một số bạn trẻ lý luận vui rằng tại sao Chúa Giêsu không đặt cho ngài cái tên là Phao-rin, Phao xịn, mà lại đặt tên là Phao-lô, vì Phao-lô nghĩa là Phao dỏm. Mà phao dỏm thì ai mà xài! Thực sự thì Chúa Giêsu không đặt tên cho Phaolô. Phaolô là cái tên Hylạp của ngài; còn Saolê là tên gọi theo tiếng Do Thái. Tuy nhiên, một điều cần ghi nhận là ngài được chính Chúa Giêsu trực tiếp chọn gọi trên đường đi Đamas, và đích thân Chúa Giêsu trao sứ mạng cho ngài, một sứ mạng cao cả là làm tông đồ cho dân ngoại. Như vậy thánh Phaolô đã cùng với thánh Phêrô giữ vai trò là hai trụ cột, hai viên đá sống động làm nền cho Giáo hội Chúa Kitô.
Thế nhưng, một điều ngỡ ngàng là khi đọc lại các sách Tin mừng và sách Công vụ Tông đồ, chúng ta thấy cả hai Tảng Đá này đều bị nứt (một bị nứt trước khi xây và một bị nứt sau khi xây). Trước khi đặt xây thì tảng đá Phaolô đã bị nứt (x. Giọt Nước Mắt Hồng, Lm. Đỗ Văn Thiêm, NXB Tôn Giáo 2005). Những lần bắt bớ Giáo hội, và giết hại các Kitô hữu là những vết nứt. Là một người nhiệt thành với Giavê Thiên Chúa và trung thành với luật Môisê, Phaolô đã không ngần ngại tiêu diệt những ai xưng mình là môn đệ Đức Kitô. Đối với Chúa Giêsu, Phaolô là một viên đá tảng kiên vững của đạo Do Thái, song là tảng đá đầy góc cạnh, ngang ngược, kiêu căng, tự mãn và cũng quá nhiều đường nứt. Tuy thế, Chúa Giêsu sẽ sử dụng viên đá này trong công trình mở mang ngôi nhà Giáo hội của Người. Chúa Giêsu sẽ sửa lại, gọt đẽo lại bằng lòng thương xót của Người, cùng với cả những thập giá khổ đau mà thánh nhân phải chịu, như bị mù lòa, bị bắt bớ, bị tù đày, bị đánh đòn, bị ném đá, bị trộm cướp, bị đắm tàu, bị đói khát…(x. 2Cr 11,23-27). Chính tình yêu của Đức Kitô và những đau khổ mà thánh nhân chịu đã biến luyện ngài trở thành một viên đá trơn tru lành lặn, và nhất là luôn gắn kết với Đá Tảng Góc Tường là Đức Kitô, như lời ngài xác nhận : “Không có gì tách tôi ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô” (Rm 8, 35.39).
Thưa quý Ông bà anh chị em. Nếu tảng đá Phaolô bị nứt trước khi xây thì tảng đá Phêrô, đá chính hiệu, không bị nứt bể ngay từ đầu, mà lúc đặt xây rồi mới bị nứt. Không phải nứt một đường mà là ba đường. Mỗi lần chối Chúa là một đường nứt; đường nứt sau lớn hơn đường nứt trước, và có nguy cơ tách lìa khỏi Đức Kitô là Viên Đá Góc.
Nhiều người vẫn thắc mắc : liệu Chúa Giêsu có biết trước những điều này không, mà sao Ngài vẫn chọn tảng đá này. Ngài vẫn chọn vì chính ngài sẽ giúp Phêrô hàn gắn lại tảng đá đời mình. Hàn gắn bằng gì ? Thưa đối với Phêrô là bằng ánh mắt bao dung khoan thứ của Chúa Giêsu. Chính ánh mắt dung thứ ấy đã làm cho vết nứt nơi tâm hồn ông liền lại. Hơn nữa ngài còn sửa chữa bằng nước mắt. Kỳ lạ ở chỗ, đá mà biết khóc, tảng đá mà biết rơi lệ. Tương truyền rằng thánh nhân đã khóc lóc ăn năn (khóc như mưa mấy ngày qua vậy), khóc đến độ nước mắt chảy làm mòn cả hai gò má. Nước mắt ấy được các nhà tu đức gọi là nước mắt hồng. Gọi là nước mắt hồng vì là nước mắt chảy ra từ trái tim sám hối. Như thế, tảng đá Phêrô chẳng những đã trở nên lành lặn mà còn cứng rắn hơn, vững chắc hơn. Chính Chúa Giêsu đã xác nhận điều này : “Dầu sức mạnh hỏa ngục có nổi lên cũng không làm gì được” (Mt 16,18). Nhưng đồng thời tảng đá ấy cũng “khiêm tốn” hơn, vuông đẹp hơn trước rất nhiều.
Giờ đây, Chúa Giêsu có thể hoàn toàn yên tâm trước sứ mạng mà Người đã giao phó cho hai vị. Nhờ đá tảng Phêrô mà tòa nhà Giáo hội được nên kiên vững; nhờ đá tảng Phaolô mà Hội thánh Chúa Kitô được mở rộng cho muôn dân nước.
Kính thưa quý Ông bà anh chị em. Qua Bí tích Rửa tội, mỗi người chúng ta cũng được mang một danh xưng mới, danh xưng Kitô hữu. Danh xưng này nói lên một sứ mạng đặc biệt, sứ mạng xây dựng Hội thánh Chúa ở trần gian. Nếu chúng ta không là đá tảng như Phêrô hay Phaolô, thì chúng ta cũng được mời gọi làm một viên gạch góp phần xây nên tòa nhà Giáo hội. Thế thì chúng ta phải khiêm tốn đặt câu hỏi cho mình : Viên gạch đời tôi đang trong tình trạng nào ? Có thể là nó quá méo mó, cong queo và nhiều góc cạnh khi con người của mình còn đầy những tính hư nết xấu, đầy những đam mê tội lỗi chăng ? Có thể là bị nứt bể và mất hiệp thông với Viên Đá Góc là Đức Kitô, khi đời sống của chúng ta thiếu cầu nguyện, thiếu lòng yêu mến Chúa chăng ? Và cũng có thể là không còn gắn kết với các viên gạch khác là anh chị em mình, khi sống thiếu tình liên đới và lòng bác ái yêu thương chăng ?… Nếu viên gạch đời tôi còn cong queo méo mó, xin Chúa giúp uốn nắn lại cho ngay thẳng; nếu còn quá nhiều góc cạnh, xin Chúa gọt đẽo cho vuông vức; nếu bị nứt bể, xin Chúa hàn gắn; và nếu tách lìa với Đức Kitô và Giáo hội, thì xin Thánh Thần Nguồn Tình Yêu nối kết lại, để cuộc đời chúng ta luôn là những viên gạch thật đẹp trong bàn tay Người Thợ Xây là chính Chúa.
Vậy hôm nay, trong ngày lễ mừng hai thánh Quan Thầy Phêrô và Phaolô, chúng ta cùng nguyện xin Chúa, qua lời cầu bầu của các ngài, giúp mỗi người chúng ta luôn biết ý thức về sứ mạng của mình và nỗ lực chu toàn sứ mạng ấy trong việc cộng tác xây dựng ngôi nhà chung của Giáo Hội ngày một tươi đẹp và lớn mạnh hơn. Amen.
Lm. Giuse Nguyễn Thành Long

SUY NIỆM 4: “CON LÀ ÐÁ, TRÊN TẢNG ĐÁ NÀY, THẦY SẼ XÂY HỘI THÁNH CỦA THẦY”
Hôm nay, chúng ta mừng trọng thể lễ hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, là những trụ cột của Giáo Hội.
Phêrô, một ngư phủ bình thường tại biển hồ Tibêria, được Chúa Giêsu kêu gọi trở thành “ngư phủ lưới người” và được đặt làm thủ lãnh của Giáo Hội: “Con là Ðá, trên đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy.”
Phaolô, người bách hại khốc liệt các Kitô hữu, được Chúa Giêsu Phục Sinh hoán cải trên đường đi Ðamát và đã trở nên Tông Ðồ dân ngoại nhiệt thành của Chúa.
Ðại lễ này cũng là dịp để chúng ta suy niệm về một trong những hồng ân tuyệt vời mà Chúa Kitô đã ban cho chúng ta trước khi về với Chúa Cha. Hồng ân đó là Giáo Hội mà các Tông Ðồ là nền móng và các Kitô hữu là những viên đá sống động.
Nhưng Giáo Hội là gì? Trước tiên, Giáo Hội là tác phẩm và là ý muốn của Thiên Chúa. Giáo Hội là sự biểu lộ và hiện tại hóa mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Chúa Kitô đã lập Giáo Hội để công trình cứu chuộc của Người được tiếp diễn cho tới ngày tận thế. Và ngay cả “cửa địa ngục sẽ không thắng được”, như Chúa Giêsu đã tuyên bố trong bài Tin Mừng.
Như chúng ta tuyên xưng đức tin trong kinh Tin Kính, Chúa Kitô đã thiết lập một Giáo Hội duy nhất; thánh thiện vì được liên kết với Chúa Kitô là Đấng Thánh, được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần; công giáo, nghĩa là toàn vẹn và phổ quát, và được dành cho tất cả mọi người không phân biệt dân tộc, màu da, ngôn ngữ, địa vị hay văn hóa, tất cả đều được mời gọi trở nên con Chúa trong Hội Thánh; tông truyền vì Chúa Kitô đã trao Giáo Hội của Người cho các tông đồ mà Phêrô là thủ lãnh, và tất cả giáo lý đức tin của Hội Thánh là do các tông đồ truyền lại.
Giáo Hội là Dân Chúa, là toàn thể Kitô hữu muốn sống theo gương Chúa Kitô. Công Ðồng Vaticanô II đã xác định rõ điều đó. Giáo Hội không chỉ là Ðức Giáo Hoàng, các giám mục và các linh mục. Giáo Hội là tất cả chúng ta, những Kitô hữu hiện diện trên toàn thế giới.
Trong số các Kitô hữu này, một số được Chúa chọn riêng và trao cho trách nhiệm quy tụ và hướng dẫn dân Chúa trong việc sống và chia sẻ đức tin của mình, cũng như cử hành các nghi lễ, tán tụng Thiên Chúa. Trách nhiệm này được trao trước tiên cho Ðức Giáo Hoàng, người kế vị thánh Phêrô, rồi đến các giám mục và phụ tá của các ngài là các linh mục và phó tế, được gọi là hàng giáo phẩm. Hàng giáo phẩm có nhiệm vụ bảo vệ các chân lý đức tin và gìn giữ Giáo Hội luôn hiệp nhất. Như thế, hàng giáo phẩm phục vụ dân Chúa với tình yêu thương mà Chúa Giêsu là đối tượng và là khuôn mẫu.
Nhân nói đến hàng giáo phẩm, chúng ta hãy nghĩ đến đức Giám Mục Giáo phận chúng ta, các linh mục, các cha tuyên úy đang coi sóc chúng ta. Thường thì chúng ta dễ phàn nàn vì những thiếu sót của các ngài trong mục vụ, nhưng liệu chúng ta có thường xuyên cầu nguyện cho các ngài không? có nỗ lực cộng tác với các ngài trong những việc của giáo xứ, của hội đoàn không? chúng ta có cảm thông với các ngài, qua những niềm vui và những nỗi ưu tư của các ngài không?
Xây dựng Giáo Hội không phải chỉ là công việc của các linh mục, tu sĩ, nhưng là công việc của tất cả chúng ta. Tuy vai trò mỗi người trong Giáo hội là khác nhau, nhưng tất cả bổ túc cho nhau. Linh mục hay giáo dân, tất cả chúng ta đều được mời gọi cùng nhau xây dựng một Giáo Hội duy nhất và thánh thiện, là Nhiệm Thể của Chúa Kitô. Đây là điều mà Công Ðồng Vaticanô II đã lưu tâm và nhấn mạnh.
Giáo Hội vừa là mầu nhiệm đức tin, vừa là thực tại nhân loại. Giáo Hội được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần, nhưng lại được điều hành bởi những con người trần thế. Giáo Hội tuy thánh thiện nhưng được quy tụ bởi những con người yếu đuối, tội lỗi và bất toàn. Phêrô, vị giáo hoàng đầu tiên lại chẳng phải là người đã chối Chúa ba lần khi Chúa bị bắt đó sao? Còn Phaolô, vị tông đồ dân ngoại, một trong những trụ cột của Giáo Hội lại là người đã từng hăng hái bách hại các Kitô hữu. Và còn biết bao yếu đuối lỗi lầm của những người kế vị các tông đồ, và của chính chúng ta nữa. Vì thế, Giáo Hội không ngừng tự thanh luyện và sửa mình do những yếu đuối của các thành viên.
Trong ngày lễ kính hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, chúng ta hãy cầu nguyện cách đặc biệt cho Đức Thánh cha, vị cha chung của chúng ta, để người biết dẫn dắt Giáo Hội đi trong đường lối Tin Mừng của Chúa. Chúng ta cũng cầu nguyện cho các vị chủ chăn của chúng ta, và cho mỗi người chúng ta, để với ơn Chúa, chúng ta sống xứng đáng với danh xưng Kitô hữu của mình, và cùng nhau xây dựng Giáo hội hiệp nhất và yêu thương.
Lm. Giuse Vũ Thái Hòa

SUY NIỆM 5: THẦY BIẾT CON YÊU MẾN THẦY 
Hôm nay, Hội Thánh hân hoan và long trọng mừng kính Hai Thánh Tông Đồ Phêrô – Phaolô, hai cột trụ đã được chính Đức Kitô cắt đặt để xây dựng tòa nhà Giáo Hội bằng chính máu của mình như lời Ca Nhập Lễ mà Giáo hội hát lên trong phụng vụ thánh lễ hôm nay :
“Đây là hai vị Tông Đồ đều anh dũng
Dâng máu đào xây Giáo Hội ngàn thu
Chén đắng Thầy trao, uống cạn chẳng từ
Chúa ưu đãi, nâng lên hàng tâm phúc”
Trong ý nghĩa đó, tất cả mọi kitô hữu chúng ta hôm nay đều được thừa hưởng và dự phần vào công trình và công nghiệp của hai vị Đại Tông Đồ này. Xin dâng lên các Ngài tâm tình yêu mến và tri ân cảm tạ. Tâm tình này chắc chắn sẽ đặc biệt hơn, nồng thắm hơn nơi tất cả những ai, những cộng đoàn, những tổ chức… đã chọn hai Thánh Phêrô – Phaolô làm Vị Bổn Mạng của mình.
Chắc chắn không phải tình cờ, khi phụng vụ chọn đọc các trích đoạn Lời Chúa trong ngày Đại lễ kính hai Thánh Tông Đồ hôm nay : Bài Đọc 1 : Sách Công Vụ kể lại : từ ngục tù, Thánh Phêrô đã được giải cứu để lên đường làm chứng đức tin giữa những lời cầu nguyện thiết tha của cộng đoàn Hội Thánh. Trong khi đó Bài đọc 2, cũng từ tù ngục, Thánh Phaolô sắp sửa hoàn tất cuộc hành trình chứng tá, cuộc chiến đấu của niềm tin mà lời nhắn gởi cho người môn đệ yêu dấu Timôthê mang âm hưởng của một lời trăng trối. Và rồi, Lời Chúa đã liên kết hai cuộc đời, hai cá tính, hai sứ vụ xem ra khác biệt của Phêrô và Phaolô thành một đáp án duy nhất qua 2 câu trả lời : một của Phêrô dành cho Chúa Giêsu : “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” và một của Chúa Giêsu dành cho Phêrô : “…Trên Đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy…”. Quả thật, sứ vụ Tông Đồ, cuộc hành trình chứng tá và tình yêu trọn vẹn dành cho Chúa Giêsu và Hội Thánh, phải chăng là những điểm chung cốt yếu đã đem hai Vị Tông Đồ tương đối dị biệt này tiến lại gần nhau, gần nhau cho đến độ cả hai đã cùng hội tụ tại kinh thành Rôma để cùng làm chứng đức tin cách trọn vẹn và anh hùng trong cùng một thời điểm : Phêrô bị đóng đinh ngược đầu và Phaolô bị xử trảm.
Mừng lễ hai Thánh Tông Đồ Phêrô – Phaolô có lẽ là dịp tốt nhất để chúng ta cùng khám phá những chứng từ sống động nơi hai cuộc đời vĩ đại đã cùng nhau thiết kế Ngôi Nhà Giáo Hội và chuyển tải cho muôn thế hệ những sứ điệp tuyệt vời của Lời Mặc khải của Thiên Chúa.
  1. Hai cuộc đời khác biệt :
  2. Trên bình diện cội nguồn và cá tính :
– Thánh Phêrô là người thành Bétsaiđa, miền Galilê, xuất thân từ môi trường bình dân, ít học, làm nghề đánh cá (Mt 4, 18). Trong khi đó, mặc dù là gốc dân do Thái, Phaolô lại sinh tại Tarsô (Cv 9,11), mang quốc tịch Rôma (CV 16,37), được học hành đến nơi đến chốn với danh sư biệt phái Gamaliel (CV5,34; 22,3).
– Nếu Phêrô luôn trung thành với lề luật và gắn bó với môi trường xã hội Do Thái như những người mộ đạo đương thời : giữ luật cắt bì, coi trọng việc qui định sạch dơ về đồ ăn thức uống… (Cv 10,14), thì Phaolô, cho dù có nhiệt thành với luật Môsê, nhưng vì được hấp thụ nền văn hóa Hi Lạp, lại sinh trưởng nơi môi trường hải ngoại, nên có cái nhìn thông thoáng và cởi mở hơn đối với thế giới lương dân.
  1. Trên bình diện ơn gọi và sứ vụ :
– Phêrô là một trong những môn đệ đầu tiên đi theo Chúa và đã dấn thân trong ơn gọi này với tất cả lòng nhiệt thành và bộc trực của mình. Trích đoạn Tin mừng chúng ta vừa nghe đã minh họa rõ nét : chính lòng nhiệt thành và tính bộc trực đã thúc đẩy Phêrô vượt trên anh em để tuyên xưng niềm tin : “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”. Một lời tuyên tín sâu sắc tuyệt vời, là kết quả của ơn mặc khải của Thiên Chúa cùng với cảm nhận của riêng mình đã khiến Chúa Giêsu khen ngợi và đặt Ngài làm đá tảng xây nền Giáo Hội. Nhưng “Đá Tảng” ấy vì đã vội “bốc đồng”, muốn chơi trội định ngăn cản Đức Giêsu thực thi chương trình cứu độ, nên đã bị Chúa quở trách là Satan. Mà nào chỉ có lần này ! Chuyện trên trên Biển Hồ đêm nào vẫn còn đó : Đầu tiên, khi con hướng về Chúa, Phêrô đã bước những bước an toàn trên sóng nước. Nhưng sau đó, suýt nữa đã chìm nghỉm yếu đuối của mình. Nhưng thê thảm nhất phải là chuyện xảy ra trong biến cố khổ nạn : Chính tại bàn tiệc ly, Phêrô đã thách thức : “Dù cho mọi người vấp ngã, nhưng con thì không!…Dù phải chết với Thầy, con sẽ không chối Thầy”. Thế nhưng, trong chính đêm định mệnh ấy, Phêrô đã run sợ chối Thầy ba lần chỉ vì lời nói của một người đầy tớ. Nhưng thật may mắn cho Phêrô khi ông vẫn còn lẽo đẽo theo Thầy để cuối cùng nhận được ánh mắt nhân từ tha thứ để rồi, cũng tại nơi Biển Hồ Tibêriat, sau ngày Chúa sống lại, Phêrô hết còn tự tin nơi chính mình mà chỉ biết phó thác nơi sự khôn ngoan của chính Chúa : “Thầy biết hết mọi sự. Thầy biết con yêu mến Thầy”. “Tảng Đá” Phêrô đã vỡ vụn hôm nào tưởng đâu sẽ bị loại bỏ; ai ngờ Đức Kitô đã hàn gắn lại để ân cần trao cho Ông sứ mệnh chăn dắt đoàn chiên.
– Ơn gọi của Thánh Phaolô lại không đơn giản như thế. Trước khi trở thành một Tông Đồ nhiệt thành sâu sắc của Đức Kitô, thì Phaolô đã là một Pharisiêu cương quyết loại trừ Kitô giáo với tất cả nhiệt tình và suy nghĩ chín chắn. Với niềm tin được cắm rễ vững chắc trong truyền thống lề luật Môsê, làm sao Phaolô lại chấp nhận một tên Giêsu Nadarét nào đó vi phạm luật ngày Sabát ? và còn hơn thế nữa, làm sao chịu được những luận điệu tuyên truyền của đám dân chài Galilê, đồ đệ của Giêsu cho rằng Ngài đã sống lại và đang sống ! Đồng tình trong vụ ném đá chết Stêphanô chưa đủ đâu ! Phaolô còn hung hăng đi truy bắt các kitô hữu để tiêu diệt mọi mầm mống có nguy cơ phát sinh một tôn giáo mới, ngược lại tôn giáo cựu truyền của cha ông. Nhưng rồi, một ánh sáng diệu kỳ đã đánh mù đôi mắt xác thịt trần tục của ông để mở ra cho ông một nguồn sáng mới. Tên Pharisiêu cực đoan bài xích kitô giáo hết cỡ, thì với biến cố Damas, giờ đây đã trở thành “người loan báo Chúa Kitô hăng nồng như một “vận động viên lao về phía trước” (Pl 3,13), như một chiến sĩ “chiến đấu ngoan cường trong trận chiến chính nghĩa” (Thư gởi Timôthê trong BĐ 2) mà không một trở lực nào, dù bắt bớ tù đày, dù đòn vọt khổ đau, dù sống hay chết… có thể “tách Phaolô khỏi lòng mến của Thiên Chúa trong Đức Kitô”. Và cuộc sống của Phaolô từ đó đã xoay quanh chân lý nền tảng này : “Tôi sống đây, nhưng không phải là tôi, mà chính Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).
  1. Hai cuộc đời hiệp nhất trong Đức Kitô :
Qua vài phân tích sơ lược trên, quả thật “Hai Cột trụ” của Giáo Hội có nhiều điểm khác biệt mà chính Kinh Tiền Tụng trong phụng vụ hôm nay đã nhắc tới : “Cha đã sắp đặt để thánh Phêrô là người đầu tiên tuyên xưng đức tin, thánh Phaolô là người làm sáng tỏ đức tin, thánh Phêrô thiết lập Hội Thánh tiên khởi cho người Ítraen, thánh Phaolô là thầy giảng dạy muôn dân. Như vậy các Ngài đã dùng đường lối khác biệt, để qui tụ một gia đình duy nhất cho Đức Kitô…”. Quả thật, chính niềm tin, lòng yêu mến Chúa Kitô và Hội Thánh Ngài, đã đem Phêrô và Phaolô lại gần nhau. Chính Phêrô đã không bao giờ nhân danh quyền thủ lãnh để áp đặt Phaolô, nhưng đã biết khiêm hạ nhìn nhận khuyết điểm (Gl 2,2tt). Cũng thế, Phaolô không bao giờ nại vào trình độ văn hóa, khả năng suy tư để xem thường Phêrô. Phaolô luôn ý thức vai trò củng cố đức tin và sứ mệnh chăn dắt Giáo Hội của Phêrô được chính Chúa Kitô trao phó. Và nhất là, cho dù ở hai lãnh vực hoạt động khác nhau, nhưng niềm tin và lòng yêu mến đã thúc đẩy Phêrô – Phaolô cùng hội tụ tại thủ đô Rôma để làm chứng cho Chúa Kitô bằng chính máu của mình. Phêrô bị đóng đinh ngược đầu còn Phaolô bị xử trảm.
  1. Bài học hôm nay :
Gần 2000 năm qua rồi nhưng cuộc đời của Phêrô -Phaolô vẫn còn là một gợi hứng đầy sinh động và cuốn hút cho Dân Chúa nói chung và cho mỗi một người chúng ta nói riêng. Bài học lớn đầu tiên mà Hội Thánh rút ra từ hai cuộc đời vĩ đại này phải chăng là “Sự hiệp nhất trong đa dạng”. Đa dạng trong tính tình, khuynh hướng, trình độ tri thức lẫn phương cách hoạt động nhưng Hai Vị Tông Đồ lại hiệp nhất trong cùng một đức tin và một lòng yêu mến. Sự hiệp nhất như thế thật sự là quá cần thiết cho Giáo Hội muôn nơi và muôn thuở. Cho dù hôm nay, Giáo hội có toả lan cỡ nào, có vươn dài đến mọi biên giới của muôn dân tộc, quốc gia, thì sự khác biệt mãi mãi sẽ không làm cho Giáo Hội chia rẽ, phân tán, nhưng càng thêm phong phú tốt tươi vì mọi phần tử được liên kết với nhau trong một mối dây thâm sâu nhất đó là tình yêu và lòng trung tín đối với Chúa Kitô, đối với Hội Thánh của Ngài.
Cách riêng đối với mỗi người chúng ta, chỉ cần nhớ lại một đôi câu nói của Hai Ngài, chúng ta cũng có thể tìm thấy cả một linh đạo cần thiết cho hành trình đức tin của mình :
– Để sống khiêm hạ: “Lạy Thầy xin hãy xa con, vì con là người tội lỗi…” (Phêrô); “Cho đến bây giờ chúng tôi đã nên như rác rưởi thế gian…” (Phaolô)
– Để vững lòng trông cậy: “Lạy Thầy cứu con” (Phêrô), “Tôi biết tôi đã tin vào ai” (Phaolô)
– Để thuộc trọn về Đức Kitô như chọn lựa cuối cùng: “Bỏ Thầy con biết đến cùng ai…” (Phêrô), “Đối với tôi, sống là Đức Kitô…”, “Tôi sống đây không phải tôi nhưng chính Đức kitô sống trong tôi” (Phaolô)
– Để yên mến Đức Kitô hết mình: “Thầy biết con yêu mến Thầy” (Phêrô), “Không có gì tách tôi khỏi lòng mến của Thiên Chúa trong Đức Kitô” (Phaolô).
– Để trung thành với Chúa Kitô trong mọi hoàn cảnh: “Dù có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy” (Phêrô), “Tôi đã chạy đến cùng đường và giữ vững niềm tin” (Phaolô)
– Để vâng lệnh Chúa Kitô ra đi loan báo Tin Mừng : “Vâng lời Thầy con xin thả lưới” (Phêrô), “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (Phaolô)
– Để củng cố và xây dựng Hội Thánh; “Anh em là Dân tộc thánh…là những viên đá sống xây dựng đền thờ Thiên Chúa” (Phêrô), “Anh em là thân thể Đức Kitô và mỗi người là một bộ phận” (Phaolô
Lm. Giuse Trương Đình Hiền

SUY NIỆM 6: TRỞ NÊN CHỨNG NHÂN TRUNG THÀNH CỦA CHÚA GIÊSU
Hôm nay, chúng ta cùng với Giáo Hội mừng kính trọng thể lễ hai thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ. Chúng ta đã nghe, đã đọc nhiều về các ngài, nhưng chúng ta đã học được gì ở các ngài để đem ra thực hành trong đời sống hằng ngày của mình. Chúng ta hãy để lời Chúa hướng dẫn chúng ta, hầu khi mừng lễ các ngài hôm nay, chúng ta không để việc mừng kính này trôi qua cách vô hiệu, nhưng học ở các ngài, biết đặt Thiên Chúa làm trung tâm đời mình và trở nên những chứng nhân trung thành của Ngài trong đời sống hằng ngày.
Bài đọc 1 hôm nay thuật lại việc Hội Thánh sơ khai đối diện với bắt bớ, ngược đãi và việc Thiên Chúa giải thoát Phêrô khỏi ngục tù. Câu chuyên thuật lại cho chúng ta nhân vật ngược đãi Hội Thánh sơ khai là vua Hêrôđê. [Ông là Herod Agrippa I, cháu của Hêrôđê cả]. Những việc ông làm là: (1) ngược đãi một số người trong Hội Thánh; (2) chém đầu ông Giacôbê là anh ông Gioan; và (3) bắt Phêrô tống ngục. Hình ảnh đáng để chúng ta lưu ý là việc Phêrô được Thiên Chúa giải cứu. Sự kiện này xảy ra là do bàn tay Thiên Chúa can thiệp. Chúng ta nhận ra điều này qua hai chi tiết: (1) Việc canh giữ của lính canh [“Trong đêm trước ngày bị vua Hêrôđê đem ra xử, ông Phêrô ngủ giữa hai người lính, và bị khoá vào hai cái xiềng. Trước cửa ngục lại có lính canh” (Cv 12:6)]. Chi tiết này cho thấy, về phía con người, không ai có thể vào cứu và Phêrô cũng không thể trốn chạy. Nhưng (2) Hội Thánh cầu nguyện cho Phêrô [“Đang khi ông Phêrô bị giam giữ như thế, thì Hội Thánh không ngừng dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện khẩn thiết cho ông” (Cv 12:5)]. Dù con người không thể làm được gì, thì mọi sự Thiên Chúa có thể làm. Chính điều này đã làm cho Phêrô thốt lên khi đã được đưa ra khỏi tù ngục: “Lúc ấy ông Phêrô mới hoàn hồn và nói : “Bây giờ tôi biết thực sự là Chúa đã sai thiên sứ của Người đến, và Người đã cứu tôi thoát khỏi tay vua Hêrôđê, và khỏi mọi điều dân Do Thái mong muốn tôi phải chịu” (Cv 12:11).
Trong bài đọc 2, Thánh Phaolô viết những lời “tâm sự” đầy xúc động cho Timôthê trước khi đối diện với cái chết của mình để làm chứng cho Chúa Giêsu. Ngài đã cho Timôthê biết rằng: “Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy, và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện” (2 Tm 4:7-8). Trong những lời này, Thánh Phaolô nói cho Timôthê biết hai đặc tính quan trọng trong đời sống của người môn đệ [tông đồ] của Chúa Giêsu, đó là trung thành và chỉ mong phần thưởng từ Thiên Chúa.
Thánh Phaolô cũng nói cho Timôthê biết về một thực tại sẽ xảy ra trong đời sống làm chứng cho Chúa Giêsu, đó là sẽ bị mọi người bỏ mặc (x. 2 Tm 4:16a). Tuy nhiên, không phải vì vậy mà người môn đệ cảm thấy nản chí thất vọng. Sức mạnh trong đời sống làm chứng không đến từ con người, nhưng đến từ Thiên Chúa: “Nhưng có Chúa đứng bên cạnh, Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng. Và tôi đã thoát khỏi nanh vuốt sư tử. Chúa sẽ còn cho tôi thoát khỏi mọi hành vi hiểm độc, sẽ cứu và đưa tôi vào vương quốc của Người ở trên trời” (2 Tm 4:17-18). Thiên Chúa là Đấng không bao giờ bỏ rơi người môn đệ. Chỉ khi nhận ra điều này, chúng mới có thể cất cao lời ca tụng như Thánh Phaolô ngay cả khi chúng ta đối diện với đau khổ và chống đối: Chúc tụng Người vinh hiển đến muôn thuở muôn đời.”
Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta nghe Thánh Phêrô, đại diện các môn đệ, tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Kitô. Trình thuật này cũng được tìm thấy trong Tin Mừng Thánh Máccô (8:27-30) và Thánh Luca (9:18-21). Việc tuyên xưng của Phêrô tạo nên điểm quan trọng trong Tin Mừng Thánh Maccô. Thánh Mátthêu thêm vào trình thuật của mình câu 16b-19, để nói đến sự bổ xung nổi tiếng mang tính Giáo Hội về lời tuyên xưng của Thánh Phêrô. Chúng ta suy gẫm trên lời tuyên xưng của Thánh Phêrô và lời khen của Chúa Giêsu dành cho Thánh Phêrô.
Trước câu hỏi: “Người ta nói Con Người là ai?” Các môn đệ thuật lại cho Chúa Giêsu nghe những gì mà người khác nói về Ngài: “Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, người khác lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ” (Mt 16:14). Điều chúng ta lưu ý ở đây là việc Thánh Mátthêu nói đến Giêrêmia. Tại sao Thánh Mátthêu đề cập đến vị ngôn sứ này ở đây? Bởi vì kinh nghiệm sự bị loại trừ và đau khổ phải đối diện của vị ngôn sứ này báo trước việc bị loại trừ và những đau khổ của Đấng Kitô. Những lời trên chứa đựng câu trả lời của những người nghe Ngài giảng, nhìn thấy phép lạ Ngài làm, nhưng không “ở lại” với Ngài. Chúa Giêsu muốn nghe câu trả lời từ những người “theo” Ngài và “ở lại” với Ngài, nên Ngài hỏi: “Còn anh em, anh em nói Thầy là ai?” (Mt 16:15).  Câu hỏi này nói lên sự khác biệt đến từ việc “ở lại” với Chúa Giêsu. Phêrô đại diện các môn đệ: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16:16). Chúng ta cũng đã theo Chúa Giêsu nhiều năm, đã nghe lời Ngài và đã chứng kiến nhiều phép lạ Ngài làm trong cuộc sống chúng ta và người khác. Chúng ta đã biết Chúa Giêsu đến mức nào? Biết Chúa Giêsu không hệ tại ở một số “kiến thức” chúng ta có về Ngài, nhưng là trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài ngày một hơn. Chúng ta đã trở nên giống Chúa Giêsu chưa?
 Câu trả lời của Thánh Phêrô đã mang lại cho thánh nhân một lời khen và một sứ mạng. Trong lời khen, chúng ta đọc thấy: “Này anh Simôn con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16:17). Những lời này cho thấy, lời chúc lành cho Thánh Phêrô không đến từ nỗ lực học hỏi của cá nhân, nhưng là ân ban của Thiên Chúa. Một cách cụ thể, để biết về Thiên Chúa, lý trí con người luôn có giới hạn. Chúng ta không thể nào đạt đến Thiên Chúa nếu Ngài không mạc khải chính mình cho chúng ta. Thiên Chúa luôn mạc khải chính mình cho những kẻ “bé mọn,” những người sống khiêm nhường và luôn chìm sâu trong đời sống cầu nguyện. Thiên Chúa chỉ tìm thấy trong những con tim tràn đầy tình yêu, chứ không ở trong những khối óc tràn đầy kiến thức.
Sứ mạng của được trao cho Thánh Phêrô là nắm giữ chìa khoá Nước Trời: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh ràng buộc điều gì, trên trời cũng sẽ ràng buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16:18-19). Sứ mạng của Thánh Phêrô là trở nên tảng đá để Chúa Giêsu xây dựng Hội Thánh của Ngài. Thánh nhân cũng là người nắm giữ chìa khoá của Nước Trời, của tha thứ, của yêu thương. Nói cách khác, sứ vụ của Thánh Phêrô là trở nên nền móng đức tin cho mọi người theo Chúa Kitô. Thánh nhân thực hiện điều này qua sứ vụ tha thứ và yêu thương. Mỗi người chúng ta cũng được mời gọi học nơi Thánh Phêrô, trở nên những thừa tác viên mang ơn tha thứ của Chúa đến cho mọi người, bắt đầu từ những người chúng ta gặp gỡ mỗi ngày và nhất là những người chúng ta thấy khó tha thứ.
Lm Antôn Nguyễn Ngọc Dũng, SDB

SUY NIỆM 7: DUY NHẤT TRONG NHỮNG KHÁC BIỆT
Giá như Giáo Hội tách ngày lễ trọng kính hai thánh Phê-rô và Phaolo riêng ra thì hay biết mấy, mỗi vị được cử hành long trọng một ngày, rõ ràng. Nhưng chắc chắn Giáo Hội có lý do khi mừng hai vị thánh trụ cột của Giáo Hội vào một ngày, mặc dù có sự khác biệt lớn giữa hai ngài.
  1. Khác biệt giữa thánh Phê-rô và Phaolô
Giữa thánh Phê-rô và thánh Phaolo có những khác biệt rất lớn về văn hoá và về hành trình đức tin. Thánh Phê-rô là người chài lưới, ít học; trong khi thánh Phaolo là người trí thức, môn sinh của vị danh sư Do Thái thời bấy giờ, Gamaliel. Thánh Phê-rô là người môn đệ đi theo Chúa từ những ngày đầu; trong lúc thánh Phaolo mãi sau này mới đi theo Chúa. Thánh Phê-rô rất gần gũi với Chúa, cùng theo Chúa trên các nẻo đường truyền giáo, cùng chịu nhiều gian nan với Chúa; trong lúc thánh Phaolo có thời đi bắt đạo, giết chết các tín hữu Chúa. Thánh Phê-rô nhắm loan báo Tin Mừng cho dân Do Thái; còn thánh Phaolo là “tông đồ dân ngoại.” Thánh Phê-rô là tông đồ của Chúa; thánh Phaolo không nằm trong số Mười Hai tông đồ v.v. Thông thường, những khác biệt giữa con người trong xã hội rất dễ sinh ra mẫu thuẫn và xung đột. Chiến tranh cũng từ những mẫu thuẫn, bất hoà phát sinh xung đột. Thế mà Giáo Hội lại mừng lễ trọng kính hai con người đầy khác biệt đó vào một ngày. Tại sao vậy? Thưa, vì các ngài hiệp nhất với nhau trong cùng một đức tin vào Chúa Ki-tô, các ngài cộng tác với nhau phục vụ cùng thi hành một sứ mạng, đó là truyền giáo.
  1. Cùng một phép Rửa, cùng một đức tin, cùng một sứ mạng
Thánh Phê-rô và thánh Phaolo hiệp nhất với nhau trong cùng một đức tin. Thánh Phê-rô tuyên xưng Chúa Giê-su là “Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống.” Thánh Phaolô tuyên xưng “mọi miệng lưỡi đều phải mở ra mà tuyên xưng rằng Chúa Giê-su là Chúa” và hễ ai mở miệng tuyên xưng Chúa Giê-su là Chúa, thì sẽ được cứu độ (Rm 10,9). Đức tin đã liên kết các ngài lại với nhau, bởi trong cùng một Chúa Thánh Thần mà các ngài cùng tuyên xưng Chúa Giê-su là Chúa. Thánh Phaolo xác tín như thế (x. 1Cor 12,3).
Thánh Phê-rô và thánh Phaolo hiệp nhất với nhau trong cùng một sứ mạng truyền giáo. Một câu nói nổi tiếng của văn hào Antoine de Saint Éxupery được nhiều người biết đến: “Yêu nhau không phải nhìn nhau, nhưng cùng nhìn về một hướng.” Các ngài không phải nhìn vào những khác biệt của nhau để sinh ra xung đột, nhưng cùng nhìn về bổn phận truyền giáo để nhận biết rằng đó là bổn phận của cả hai: “Chúng ta là Giáo Hội”, sứ mạng của “chúng ta” là truyền giáo. Vì thế, không hề có sứ mạng của anh, sứ mạng của tôi, sứ mạng của chị hay của cộng đoàn này, của nhóm kia, mà là sứ mạng của chúng ta. Cho sứ mạng này, khi được Chúa giao cho sứ mạng, thánh Phê-rô đã thưa với Chúa Giê-su: “Thưa Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy.” Thánh Phaolo quả quyết: “Tôi rao giảng Chúa Ki-tô chịu đóng đinh”, và “tôi phải chịu những đau khổ này; nhưng tôi không hổ thẹn, vì tôi biết tôi tin vào ai.” Như vậy, một khi người ta không còn ý thức và trách nhiệm cho một sứ mạng truyền giáo, thì những khác biệt giữa họ là nguyên cớ mâu thuẫn; ngược lại, khi ai nấy ý thức trách nhiệm đối với sứ mạng Chúa giao, thì họ cùng nhìn về một hướng và cùng gánh vác trách nhiệm với nhau. Những người đứng ngoài mới dễ trở thành nguyên nhân phê phán, đố kỵ, ghen tương; những người cùng làm việc với nhau, sự thông cảm làm nảy sinh lòng nhẫn nại, chịu đựng những khác biệt nhau. Nói như thánh Phaolo, họ chịu hết tất cả mọi sự, miễn là Chúa Ki-tô được rao giảng.
Trong ngày lễ thánh Phê-rô và Phao-lô, chúng nhận ra giữa chúng ta có những khác biệt như các thánh Phê-rô và Phaolo. Chúng ta khác nhau về vùng miền: người bắc, người trung, người nam, quê quán khác nhau, lại đến ở trong cùng một giáo xứ. Chúng ta khác biệt nhau về trình độ: người chỉ khiêm tốn học được vài lớp, người thì học sâu rộng, thành công. Người thì có nhiều khả năng, người thì ít khả năng v.v. Những khác biệt đó cũng là cơ hội cho giáo xứ phong phú, sống tình huynh đệ phục vụ cho công cuộc truyền giáo của giáo xứ. Đáng tiếc, những khác biệt giữa chúng ta đôi khi làm ngưng trệ sinh hoạt của giáo xứ và làm tổn thương nhau.
Nay, chúng ta theo gương của hai vị trụ cột của Giáo Hội để cùng nhận ra chúng ta có cùng một Phép Rửa, cùng một đức tin, cùng một sứ mạng truyền giáo để cộng tác với nhau. Chúa cho chúng ta cùng một trong giáo xứ này là để chúng ta cùng bắt tay nhau truyền giáo. Nếu mọi người ý thức được mời gọi cùng chung lan truyền đức tin và truyền giáo, thì giáo xứ này là nơi mọi tín hữu được đầy niềm vui thánh thiện, chứ không là nơi xung đột, mâu thuẫn.
Kinh nghiệm của thánh Phaolo cho biết, những gì chúng ta làm cho anh em mình, là làm cho Chúa Giê-su. Khi đi bắt các tín hữu, thánh Phaolo bị ngã ngựa. Bấy giờ Chúa Giê-su hỏi: “Saolô, sao người bắt bớ ta?” Có lẽ Phaolo ngạc nhiên, Phaolo có bắt bớ Chúa Giê-su đâu mà nói bắt bớ Chúa? Phaolo chỉ bắt các người theo Chúa thôi mà? Chúng ta cũng phải nhận ra điều này, khi cản trở, ghen tỵ, ghen ghét anh em mình, là chúng ta đang ghen tỵ, cản trở Chúa.
Xin Chúa cho chúng con biết cộng tác với nhau truyền giáo, nhờ đó giáo xứ con ngày một tấn tới.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Thú

 

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây