Ngày 18 tháng 5, 2020 là kỷ niệm sinh nhật thứ 100 của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Tại Âu Châu nhiều cử hành được diễn ra nhằm tôn vinh và bày tỏ lòng biết ơn đối với vị Giáo Hoàng Ba Lan đã có công giải thoát hàng trăm triệu người Đông Âu khỏi ách thống trị của chủ nghĩa cộng sản.
Nhân dịp này, Đức Giáo Hoàng danh dự Bênêđíctô thứ 16 đã viết một bức thư gởi cho Hội Đồng Giám Mục Ba Lan trình bày các nhận định của ngài về vị tiền nhiệm của ngài và đề nghị danh xưng Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô Cả. Lá thư này được đánh giá như một bản tổng luận về triều Giáo Hoàng của Thánh Gioan Phaolô II mà Đức Bênêđíctô thứ 16 đã phục vụ trong tư cách Tổng trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin trong thời gian 23 năm từ 1982 đến 2005.
Bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
100 năm trước, vào ngày 18 tháng Năm, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã chào đời tại thị trấn nhỏ Wadowice của Ba Lan.
Sau khi bị chia cắt hơn 100 năm bởi ba cường quốc láng giềng là Phổ, Nga và Áo; Ba Lan đã giành lại độc lập vào cuối Thế chiến thứ nhất. Đó là một sự kiện lịch sử phát sinh niềm hy vọng lớn; nhưng nó cũng đòi hỏi nhiều khó khăn khi Nhà nước mới, trong quá trình tái tổ chức của mình, tiếp tục cảm thấy bị áp lực bởi hai cường quốc Đức và Nga. Trong tình trạng bị áp bức này, nhưng trên hết lại được đánh dấu bằng hy vọng, chàng trai trẻ Karol Wojtyła đã lớn lên. Anh đã mất mẹ và anh trai của mình khá sớm và cuối cùng, cha anh, là người từ đó anh kín múc được lòng đạo đức sâu sắc và sốt mến, cũng từ giã anh. Chàng trai trẻ Karol bị thu hút đặc biệt bởi văn học và sân khấu. Sau khi vượt qua kỳ thi trung học, anh đã chọn học những môn này.
“Để tránh bị trục xuất, vào mùa thu năm 1940, anh đã làm việc tại một mỏ đá của nhà máy hóa chất Solvay.” (x. Ân sủng và Mầu nhiệm). “ Vào mùa thu năm 1942, anh đã thực hiện quyết định cuối cùng là vào chủng viện Kraków, mà Đức Tổng Giám Mục Sapieha Kraków đã bí mật thành lập tại Tòa Giám Mục của ngài. Trong tư cách một công nhân nhà máy, Karol đã bắt đầu học thần học từ những sách giáo khoa cũ; và vì thế, vào ngày 1 tháng 11 năm 1946, anh đã được thụ phong linh mục.” (x. Thd.) Dĩ nhiên, Karol không chỉ nghiên cứu thần học trong sách vở mà còn thông qua kinh nghiệm của mình về tình hình khó khăn mà anh và quốc gia mình phải trải qua. Đây phần nào là một đặc thù trong toàn bộ cuộc sống và công việc của anh. Anh nghiên cứu những cuốn sách nhưng những câu hỏi mà những sách ấy đặt ra đã trở thành hiện thực mà anh trải nghiệm một cách sâu sắc và sống động. Là một Giám mục trẻ - với tư cách là Giám Mục Phụ Tá từ năm 1958 và sau đó là Tổng giám mục Kraków từ năm 1964 - Công đồng Vatican II đã trở thành trường học của toàn bộ cuộc đời và công việc của ngài. Các câu hỏi quan trọng xuất hiện, đặc biệt trong mối tương quan với văn kiện được gọi là Phác thảo 13 mà sau đó sẽ trở thành Hiến Chế Gaudium et Spes - Giáo Hội trong Thế Giới ngày nay - cũng là những câu hỏi của chính ngài. Các câu trả lời do Công Đồng đưa ra sẽ mở đường cho sứ mệnh của ngài trong tư cách là Giám mục và sau này là Giáo Hoàng.
Khi Đức Hồng Y Wojtyła được bầu làm Người kế vị Thánh Phêrô vào ngày 16 tháng 10 năm 1978, Giáo Hội đã ở trong một tình huống bi thảm. Các ý kiến của Công Đồng đã được trình bày trước công chúng như là một sự tranh cãi về chính Đức tin, điều này dường như làm mất đi sự xác tín không thể sai lầm và bất khả nhượng của Công Đồng. Chẳng hạn, một linh mục giáo xứ trong vùng Bavaria, nhận xét về tình hình này như sau: “Té ra, chúng ta đã rơi vào một đức tin sai lầm”. Cảm giác theo đó không có gì là chắc chắn, rằng mọi thứ đều có thể bị chất vấn, đã được nhen nhóm nhiều hơn bởi phương pháp thực hiện việc cải tổ phụng vụ. Cuối cùng, dường như phụng vụ có thể được tạo ra từ chính nó. Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục đã đưa Công Đồng đến hồi bế mạc với năng lượng và quyết tâm, nhưng sau khi Công Đồng kết thúc, ngài đã phải đối mặt với những vấn đề cấp bách hơn mà chung cuộc là chất vấn về sự tồn tại của chính Giáo Hội. Bàn về thời điểm đó, các nhà xã hội học đã so sánh tình hình của Giáo Hội với tình hình của Liên Xô dưới sự cai trị của Gorbachev, trong đó cấu trúc hùng mạnh của Nhà nước Xô Viết sụp đổ dưới quá trình cải cách.
Do đó, về bản chất, một nhiệm vụ gần như bất khả thi đang chờ đợi vị Giáo Hoàng mới. Tuy nhiên, ngay từ giây phút đầu tiên, Đức Gioan Phaolô II đã khơi dậy những nhiệt tình mới dành cho Chúa Kitô và Giáo Hội của Người. Câu nói của ngài từ bài giảng tại lễ khai mạc sứ vụ Mục Tử Toàn Thể Hội Thánh của ngài: “Đừng sợ! Hãy mở ra, hãy mở rộng cánh cửa cho Chúa Kitô!” là một lời mời gọi, và giai điệu này sẽ đặc trưng cho toàn bộ triều đại giáo hoàng của ngài và khiến ngài trở thành người khôi phục tự do cho Giáo Hội. Điều này có được nhờ thực tế là vị tân Giáo Hoàng đến từ một quốc gia nơi sự tiếp nhận Công Đồng là rất tích cực: đó là một thái độ đổi mới mọi thứ trong hân hoan chứ không phải thái độ nghi ngờ và không chắc chắn về mọi thứ.
Đức Giáo Hoàng đã đi khắp thế giới, thực hiện 104 chuyến tông du mục vụ, bất cứ nơi nào ngài đến, Tin Mừng được loan báo như một thông điệp của niềm vui, và nghĩa vụ bảo vệ những gì là Thiện và dành cho Chúa Kitô cũng được giải thích theo cách này.
Trong 14 Thông điệp của mình, ngài đã trình bày một cách toàn diện đức tin và giáo huấn của Giáo Hội một cách nhân văn. Bởi thế, ngài chắc chắn đã gây ra tranh cãi trong Giáo Hội Tây phương, lúc đó đã bị che mờ bởi sự nghi ngờ và không chắc chắn.
Ngày nay dường như điều quan trọng là chúng ta phải xác định trung tâm đích thực, với viễn tượng là từ trung tâm này chúng ta có thể đọc được thông điệp Tin Mừng chứa đựng trong các văn bản khác nhau. Chúng ta có thể nhận thấy điều đó vào giờ chết của ngài. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II qua đời trong những giây phút đầu tiên của Lễ Lòng thương xót mới được thành lập. Trước tiên tôi xin thêm một nhận xét cá nhân ngắn gọn, nhưng xem ra là một khía cạnh quan trọng trong bản tính và công việc của Đức Giáo Hoàng. Ngay từ đầu, Đức Gioan Phaolô II đã cảm động sâu sắc trước thông điệp của Thánh nữ Faustina Kowalska, một nữ tu từ Kraków, là người đã nhấn mạnh đến Lòng Thương Xót Chúa như một trung tâm thiết yếu của đức tin Kitô. Cô đã hy vọng Giáo Hội sẽ thiết lập một ngày lễ như vậy. Sau khi tham khảo ý kiến, Đức Giáo Hoàng đã chọn Chúa Nhật thứ hai trong mùa Phục sinh. Tuy nhiên, trước khi đưa ra quyết định cuối cùng, ngài đã yêu cầu Bộ Giáo lý Đức tin bày tỏ quan điểm về sự phù hợp của ngày này. Chúng tôi đã phản ứng tiêu cực vì một ngày lễ có từ xa xưa, một ngày lễ truyền thống và có ý nghĩa như ngày Chúa Nhật “in Albis” - Chúa Nhật Áo trắng- kết thúc Tuần Bát Nhật Lễ Phục Sinh không nên bị chồng chất thêm với các ý tưởng hiện đại. Chắc chắn không dễ để Đức Thánh Cha chấp nhận câu trả lời của chúng tôi. Tuy nhiên, ngài đã làm như vậy với sự khiêm tốn và chấp nhận phản ứng tiêu cực của chúng tôi lần thứ hai. Cuối cùng, ngài đã hình thành một đề nghị theo đó giữ nguyên việc cử hành Chúa Nhật thứ hai mùa Phục sinh dưới hình thức lịch sử nhưng bao gồm Lòng thương xót của Thiên Chúa vào ý nghĩa nguyên thủy của ngày lễ này. Thường có những trường hợp tương tự mà tôi rất cảm kích trước sự khiêm nhường của vị Giáo Hoàng vĩ đại này, là người đã từ bỏ những ý tưởng mà ngài ấp ủ vì ngài không thể tìm được sự đồng thuận của các cơ quan chính thức phải được hỏi ý kiến theo các chuẩn mực đã được thiết lập.
Khi Đức Gioan Phaolô II trút hơi thở cuối cùng trên thế giới này, lời cầu nguyện trong Giờ Kinh Chiều đầu tiên của Lễ Lòng Thương Xót vừa kết thúc. Điều này dõi chiếu ánh sáng lên giờ chết của ngài: ánh sáng của lòng thương xót của Chúa xuất hiện như một thông điệp an ủi trước cái chết của ngài. Trong cuốn sách cuối cùng Ký ức và Căn tính, được xuất bản ngay trước cái chết của ngài, Đức Giáo Hoàng một lần nữa tóm tắt thông điệp về Lòng thương xót Chúa. Ngài chỉ ra rằng nữ tu Faustina đã chết trước khi sự khủng khiếp của Thế chiến thứ hai xảy ra nhưng đã đưa ra câu trả lời của Chúa cho tất cả các cuộc xung đột không thể chịu đựng nổi này. Như thể Chúa Kitô muốn nói qua nữ tu Faustina rằng: “Cái ác sẽ không nhận được chiến thắng cuối cùng. Mầu nhiệm Phục Sinh khẳng định rằng sự thiện cuối cùng sẽ chiến thắng, rằng sự sống sẽ chiến thắng trên sự chết, và tình yêu sẽ vượt qua sự hận thù”.
Trong suốt cuộc đời, Đức Giáo Hoàng đã tìm cách thủ đắc cho mình trung tâm khách quan của đức tin Kitô giáo, là giáo lý về ơn cứu rỗi, và giúp đỡ những người khác thủ đắc điều đó. Qua Chúa Kitô phục sinh, lòng thương xót Chúa được dành cho mỗi cá nhân. Mặc dù trung tâm của bản ngã Kitô giáo này được trao cho chúng ta chỉ trong đức tin, nhưng nó cũng có ý nghĩa về mặt triết học, bởi vì nếu lòng thương xót của Chúa không phải là sự thật, thì chúng ta lạc lối trong một thế giới nơi sức mạnh tối thượng của sự thiện chống lại cái ác là không thể nhận ra. Vượt lên trên ý nghĩa lịch sử khách quan này, nói cho cùng, điều thiết yếu đối với mọi người là nhận ra rằng chung cuộc lòng thương xót của Chúa mạnh hơn sự yếu đuối của chúng ta. Hơn nữa, tại thời điểm này, sự thống nhất bên trong thông điệp của Đức Gioan Phaolô II và ý định cơ bản của Đức Thánh Cha Phanxicô cũng có thể được tìm thấy: Đức Gioan Phaolô II không phải là người nghiêm khắc đạo đức như một số người đã miêu tả một cách phiến diện về ngài. Khi đặt trọng tâm nơi lòng thương xót Chúa, ngài mang đến cho chúng ta cơ hội chấp nhận những yêu cầu luân lý dành cho con người, ngay cả khi chúng ta không bao giờ có thể đáp ứng đầy đủ những yêu cầu ấy. Bên cạnh đó, những nỗ lực đạo đức của chúng ta được thực hiện dưới ánh sáng của lòng thương xót Chúa, là điều được chứng tỏ là một lực lượng chữa lành cho sự yếu đuối của chúng ta.
Trong khi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đang hấp hối, Quảng trường Thánh Phêrô có rất nhiều người, đặc biệt là nhiều người trẻ, những người muốn gặp vị Giáo Hoàng của họ lần cuối. Tôi không thể quên khoảnh khắc khi Đức Tổng Giám Mục Sandri tuyên bố thông báo về sự ra đi của Đức Giáo Hoàng. Trên tất cả, khoảnh khắc khi tiếng chuông lớn của Đền Thờ Thánh Phêrô đưa ra thông điệp này vẫn không thể nào quên. Trong Thánh lễ an táng của ngài, có rất nhiều biểu ngữ với dòng chữ “Santo subito!” Đó là một tiếng kêu vang lên từ cuộc gặp gỡ với Đức Gioan Phaolô II từ mọi phía. Không phải từ quảng trường mà còn trong những giới trí thức khác nhau ý tưởng dành cho Đức Gioan Phaolô II danh hiệu “The Great” – “Vĩ Đại” – Đức Gioan Phaolô Cả – đã được thảo luận.
Từ “thánh” chỉ định một chiều kích liên quan đến Thiên Chúa, còn từ “vĩ đại” liên quan đến chiều kích nhân loại. Theo tiêu chuẩn của Giáo Hội, sự thánh thiện của một người có thể được công nhận bởi hai tiêu chí: các nhân đức anh hùng và một phép lạ. Hai tiêu chí này có liên quan chặt chẽ. Vì thuật ngữ “nhân đức anh hùng” không có nghĩa là một loại thành tích Olympic nhưng đúng hơn là một cái gì đó trở nên hữu hình nơi và qua một người mà không phải là công việc của người ấy, nhưng là công việc của Thiên Chúa được trở nên dễ nhận ra nơi và qua người ấy. Đây không phải là một loại cạnh tranh đạo đức, nhưng là kết quả của việc từ bỏ sự vĩ đại của chính mình. Vấn đề là một người để Thiên Chúa hoạt động trên chính mình, và vì vậy công việc và quyền năng của Thiên Chúa trở nên hữu hình thông qua người ấy.
Điều tương tự cũng áp dụng cho tiêu chí phép lạ: ở đây cũng vậy, điều đáng quan tâm không phải là điều gì đó giật gân xảy ra mà là sự mặc khải hữu hình về lòng nhân từ chữa lành của Thiên Chúa, vượt qua mọi khả năng của con người. Một vị thánh là người mở lòng mình ra với Chúa và được Chúa thấm nhuần. Một người thánh thiện là người thoát ra khỏi chính mình và cho chúng ta thấy và nhận ra Chúa. Kiểm tra điều này một cách pháp lý, khách quan và nghiêm nhặt, hết sức có thể, là mục đích của hai tiến trình tuyên chân phước và tuyên thánh. Trong trường hợp của Đức Gioan Phaolô II, cả hai tiến trình đều được thực hiện đúng theo các quy tắc hiện hành. Vì vậy, bây giờ Người đứng trước chúng ta với tư cách là người Cha, người làm cho lòng thương xót và lòng nhân lành của Chúa được thể hiện rõ với chúng ta.
Còn khó khăn hơn nữa để định nghĩa một cách chính xác thuật ngữ “vĩ đại”. Trong quá trình lịch sử gần 2,000 năm dài của các triều giáo hoàng, danh hiệu “vĩ đại” đã chỉ được dành cho hai vị Giáo Hoàng: là Đức Lêô Đệ Nhất, với triều Giáo Hoàng bắt đầu năm 440 và kết thúc năm 461, và Đức Giáo Hoàng Grêgôriô Đệ Nhất với triều Giáo Hoàng bắt đầu năm 590 và kết thúc năm 604. Trong trường hợp của cả hai vị, từ “vĩ đại” có hàm ý chính trị, nhưng chính vì một điều gì đó liên quan đến mầu nhiệm Thiên Chúa trở nên hữu hình thông qua thành công chính trị của các ngài. Thông qua cuộc đối thoại, Đức Lêô Cả đã có thể thuyết phục Attila, Hoàng tử của xứ Huns, tha cho Rôma - thành phố của các Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô. Không có vũ khí, không có sức mạnh quân sự hay chính trị, nhưng thông qua sức mạnh trong niềm xác tín vào niềm tin của mình, ngài đã có thể thuyết phục được tên bạo chúa đáng sợ tha cho Rôma. Trong cuộc đấu tranh giữa tinh thần và quyền lực trần thế, tinh thần tỏ ra mạnh mẽ hơn.
Thành công của Đức Giáo Hoàng Grêgôriô Đệ Nhất không ngoạn mục, nhưng đã có thể bảo vệ Rôma nhiều lần chống lại người Lombard – và trong trường hợp này cũng bằng cách dùng tinh thần để chống lại quyền lực trần thế và giành chiến thắng cho tinh thần.
Nếu chúng ta so sánh cả hai câu chuyện với trường hợp của Đức Gioan Phaolô II, thì sự tương đồng là không nào thể nhầm lẫn được. Đức Gioan Phaolô II cũng không có quyền lực quân sự hay chính trị. Trong cuộc thảo luận về hình dạng tương lai của Châu Âu và nước Đức vào tháng 2 năm 1945, người ta nói rằng cần phải lưu ý đến ý kiến của Đức Giáo Hoàng. Stalin liền hỏi: Giáo hoàng thì có được bao nhiêu sư đoàn? Đúng thế, Đức Giáo Hoàng không có sư đoàn nào. Tuy nhiên, sức mạnh của đức tin lại hóa ra là một lực lượng cuối cùng đã giật sập được hệ thống quyền lực của Liên Sô vào năm 1989 và tạo ra một khởi đầu mới cho nhân loại. Không thể chối cãi rằng đức tin của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II là một yếu tố thiết yếu trong sự sụp đổ của các thế lực. Và vì vậy, sự vĩ đại xuất hiện nơi Thánh Giáo Hoàng Lêô thứ Nhất và Thánh Giáo Hoàng Grêgôriô thứ nhất chắc chắn cũng được nhìn thấy ở đây.
Chúng ta hãy mở ngỏ cho câu hỏi liệu tính ngữ ‘The Great’ – nghĩa là ‘Vĩ Đại’ hay ‘Cả’ - sẽ thịnh hành hay không. Đúng là sức mạnh và lòng nhân lành của Thiên Chúa đã trở nên hữu hình đối với tất cả chúng ta nơi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Trong một thời gian khi Giáo hội một lần nữa phải chịu sự áp bức của cái ác, đối với chúng ta ngài là một dấu chỉ của niềm hy vọng và sự tự tin.
Thánh Gioan Phaolô II, xin cầu cho chúng con!
Source:Catholic News AgencyFull text: Benedict XVI's letter marking St. John Paul II's birth centenary
Nhân dịp này, Đức Giáo Hoàng danh dự Bênêđíctô thứ 16 đã viết một bức thư gởi cho Hội Đồng Giám Mục Ba Lan trình bày các nhận định của ngài về vị tiền nhiệm của ngài và đề nghị danh xưng Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô Cả. Lá thư này được đánh giá như một bản tổng luận về triều Giáo Hoàng của Thánh Gioan Phaolô II mà Đức Bênêđíctô thứ 16 đã phục vụ trong tư cách Tổng trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin trong thời gian 23 năm từ 1982 đến 2005.
Bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
100 năm trước, vào ngày 18 tháng Năm, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã chào đời tại thị trấn nhỏ Wadowice của Ba Lan.
Sau khi bị chia cắt hơn 100 năm bởi ba cường quốc láng giềng là Phổ, Nga và Áo; Ba Lan đã giành lại độc lập vào cuối Thế chiến thứ nhất. Đó là một sự kiện lịch sử phát sinh niềm hy vọng lớn; nhưng nó cũng đòi hỏi nhiều khó khăn khi Nhà nước mới, trong quá trình tái tổ chức của mình, tiếp tục cảm thấy bị áp lực bởi hai cường quốc Đức và Nga. Trong tình trạng bị áp bức này, nhưng trên hết lại được đánh dấu bằng hy vọng, chàng trai trẻ Karol Wojtyła đã lớn lên. Anh đã mất mẹ và anh trai của mình khá sớm và cuối cùng, cha anh, là người từ đó anh kín múc được lòng đạo đức sâu sắc và sốt mến, cũng từ giã anh. Chàng trai trẻ Karol bị thu hút đặc biệt bởi văn học và sân khấu. Sau khi vượt qua kỳ thi trung học, anh đã chọn học những môn này.
“Để tránh bị trục xuất, vào mùa thu năm 1940, anh đã làm việc tại một mỏ đá của nhà máy hóa chất Solvay.” (x. Ân sủng và Mầu nhiệm). “ Vào mùa thu năm 1942, anh đã thực hiện quyết định cuối cùng là vào chủng viện Kraków, mà Đức Tổng Giám Mục Sapieha Kraków đã bí mật thành lập tại Tòa Giám Mục của ngài. Trong tư cách một công nhân nhà máy, Karol đã bắt đầu học thần học từ những sách giáo khoa cũ; và vì thế, vào ngày 1 tháng 11 năm 1946, anh đã được thụ phong linh mục.” (x. Thd.) Dĩ nhiên, Karol không chỉ nghiên cứu thần học trong sách vở mà còn thông qua kinh nghiệm của mình về tình hình khó khăn mà anh và quốc gia mình phải trải qua. Đây phần nào là một đặc thù trong toàn bộ cuộc sống và công việc của anh. Anh nghiên cứu những cuốn sách nhưng những câu hỏi mà những sách ấy đặt ra đã trở thành hiện thực mà anh trải nghiệm một cách sâu sắc và sống động. Là một Giám mục trẻ - với tư cách là Giám Mục Phụ Tá từ năm 1958 và sau đó là Tổng giám mục Kraków từ năm 1964 - Công đồng Vatican II đã trở thành trường học của toàn bộ cuộc đời và công việc của ngài. Các câu hỏi quan trọng xuất hiện, đặc biệt trong mối tương quan với văn kiện được gọi là Phác thảo 13 mà sau đó sẽ trở thành Hiến Chế Gaudium et Spes - Giáo Hội trong Thế Giới ngày nay - cũng là những câu hỏi của chính ngài. Các câu trả lời do Công Đồng đưa ra sẽ mở đường cho sứ mệnh của ngài trong tư cách là Giám mục và sau này là Giáo Hoàng.
Khi Đức Hồng Y Wojtyła được bầu làm Người kế vị Thánh Phêrô vào ngày 16 tháng 10 năm 1978, Giáo Hội đã ở trong một tình huống bi thảm. Các ý kiến của Công Đồng đã được trình bày trước công chúng như là một sự tranh cãi về chính Đức tin, điều này dường như làm mất đi sự xác tín không thể sai lầm và bất khả nhượng của Công Đồng. Chẳng hạn, một linh mục giáo xứ trong vùng Bavaria, nhận xét về tình hình này như sau: “Té ra, chúng ta đã rơi vào một đức tin sai lầm”. Cảm giác theo đó không có gì là chắc chắn, rằng mọi thứ đều có thể bị chất vấn, đã được nhen nhóm nhiều hơn bởi phương pháp thực hiện việc cải tổ phụng vụ. Cuối cùng, dường như phụng vụ có thể được tạo ra từ chính nó. Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục đã đưa Công Đồng đến hồi bế mạc với năng lượng và quyết tâm, nhưng sau khi Công Đồng kết thúc, ngài đã phải đối mặt với những vấn đề cấp bách hơn mà chung cuộc là chất vấn về sự tồn tại của chính Giáo Hội. Bàn về thời điểm đó, các nhà xã hội học đã so sánh tình hình của Giáo Hội với tình hình của Liên Xô dưới sự cai trị của Gorbachev, trong đó cấu trúc hùng mạnh của Nhà nước Xô Viết sụp đổ dưới quá trình cải cách.
Do đó, về bản chất, một nhiệm vụ gần như bất khả thi đang chờ đợi vị Giáo Hoàng mới. Tuy nhiên, ngay từ giây phút đầu tiên, Đức Gioan Phaolô II đã khơi dậy những nhiệt tình mới dành cho Chúa Kitô và Giáo Hội của Người. Câu nói của ngài từ bài giảng tại lễ khai mạc sứ vụ Mục Tử Toàn Thể Hội Thánh của ngài: “Đừng sợ! Hãy mở ra, hãy mở rộng cánh cửa cho Chúa Kitô!” là một lời mời gọi, và giai điệu này sẽ đặc trưng cho toàn bộ triều đại giáo hoàng của ngài và khiến ngài trở thành người khôi phục tự do cho Giáo Hội. Điều này có được nhờ thực tế là vị tân Giáo Hoàng đến từ một quốc gia nơi sự tiếp nhận Công Đồng là rất tích cực: đó là một thái độ đổi mới mọi thứ trong hân hoan chứ không phải thái độ nghi ngờ và không chắc chắn về mọi thứ.
Đức Giáo Hoàng đã đi khắp thế giới, thực hiện 104 chuyến tông du mục vụ, bất cứ nơi nào ngài đến, Tin Mừng được loan báo như một thông điệp của niềm vui, và nghĩa vụ bảo vệ những gì là Thiện và dành cho Chúa Kitô cũng được giải thích theo cách này.
Trong 14 Thông điệp của mình, ngài đã trình bày một cách toàn diện đức tin và giáo huấn của Giáo Hội một cách nhân văn. Bởi thế, ngài chắc chắn đã gây ra tranh cãi trong Giáo Hội Tây phương, lúc đó đã bị che mờ bởi sự nghi ngờ và không chắc chắn.
Ngày nay dường như điều quan trọng là chúng ta phải xác định trung tâm đích thực, với viễn tượng là từ trung tâm này chúng ta có thể đọc được thông điệp Tin Mừng chứa đựng trong các văn bản khác nhau. Chúng ta có thể nhận thấy điều đó vào giờ chết của ngài. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II qua đời trong những giây phút đầu tiên của Lễ Lòng thương xót mới được thành lập. Trước tiên tôi xin thêm một nhận xét cá nhân ngắn gọn, nhưng xem ra là một khía cạnh quan trọng trong bản tính và công việc của Đức Giáo Hoàng. Ngay từ đầu, Đức Gioan Phaolô II đã cảm động sâu sắc trước thông điệp của Thánh nữ Faustina Kowalska, một nữ tu từ Kraków, là người đã nhấn mạnh đến Lòng Thương Xót Chúa như một trung tâm thiết yếu của đức tin Kitô. Cô đã hy vọng Giáo Hội sẽ thiết lập một ngày lễ như vậy. Sau khi tham khảo ý kiến, Đức Giáo Hoàng đã chọn Chúa Nhật thứ hai trong mùa Phục sinh. Tuy nhiên, trước khi đưa ra quyết định cuối cùng, ngài đã yêu cầu Bộ Giáo lý Đức tin bày tỏ quan điểm về sự phù hợp của ngày này. Chúng tôi đã phản ứng tiêu cực vì một ngày lễ có từ xa xưa, một ngày lễ truyền thống và có ý nghĩa như ngày Chúa Nhật “in Albis” - Chúa Nhật Áo trắng- kết thúc Tuần Bát Nhật Lễ Phục Sinh không nên bị chồng chất thêm với các ý tưởng hiện đại. Chắc chắn không dễ để Đức Thánh Cha chấp nhận câu trả lời của chúng tôi. Tuy nhiên, ngài đã làm như vậy với sự khiêm tốn và chấp nhận phản ứng tiêu cực của chúng tôi lần thứ hai. Cuối cùng, ngài đã hình thành một đề nghị theo đó giữ nguyên việc cử hành Chúa Nhật thứ hai mùa Phục sinh dưới hình thức lịch sử nhưng bao gồm Lòng thương xót của Thiên Chúa vào ý nghĩa nguyên thủy của ngày lễ này. Thường có những trường hợp tương tự mà tôi rất cảm kích trước sự khiêm nhường của vị Giáo Hoàng vĩ đại này, là người đã từ bỏ những ý tưởng mà ngài ấp ủ vì ngài không thể tìm được sự đồng thuận của các cơ quan chính thức phải được hỏi ý kiến theo các chuẩn mực đã được thiết lập.
Khi Đức Gioan Phaolô II trút hơi thở cuối cùng trên thế giới này, lời cầu nguyện trong Giờ Kinh Chiều đầu tiên của Lễ Lòng Thương Xót vừa kết thúc. Điều này dõi chiếu ánh sáng lên giờ chết của ngài: ánh sáng của lòng thương xót của Chúa xuất hiện như một thông điệp an ủi trước cái chết của ngài. Trong cuốn sách cuối cùng Ký ức và Căn tính, được xuất bản ngay trước cái chết của ngài, Đức Giáo Hoàng một lần nữa tóm tắt thông điệp về Lòng thương xót Chúa. Ngài chỉ ra rằng nữ tu Faustina đã chết trước khi sự khủng khiếp của Thế chiến thứ hai xảy ra nhưng đã đưa ra câu trả lời của Chúa cho tất cả các cuộc xung đột không thể chịu đựng nổi này. Như thể Chúa Kitô muốn nói qua nữ tu Faustina rằng: “Cái ác sẽ không nhận được chiến thắng cuối cùng. Mầu nhiệm Phục Sinh khẳng định rằng sự thiện cuối cùng sẽ chiến thắng, rằng sự sống sẽ chiến thắng trên sự chết, và tình yêu sẽ vượt qua sự hận thù”.
Trong suốt cuộc đời, Đức Giáo Hoàng đã tìm cách thủ đắc cho mình trung tâm khách quan của đức tin Kitô giáo, là giáo lý về ơn cứu rỗi, và giúp đỡ những người khác thủ đắc điều đó. Qua Chúa Kitô phục sinh, lòng thương xót Chúa được dành cho mỗi cá nhân. Mặc dù trung tâm của bản ngã Kitô giáo này được trao cho chúng ta chỉ trong đức tin, nhưng nó cũng có ý nghĩa về mặt triết học, bởi vì nếu lòng thương xót của Chúa không phải là sự thật, thì chúng ta lạc lối trong một thế giới nơi sức mạnh tối thượng của sự thiện chống lại cái ác là không thể nhận ra. Vượt lên trên ý nghĩa lịch sử khách quan này, nói cho cùng, điều thiết yếu đối với mọi người là nhận ra rằng chung cuộc lòng thương xót của Chúa mạnh hơn sự yếu đuối của chúng ta. Hơn nữa, tại thời điểm này, sự thống nhất bên trong thông điệp của Đức Gioan Phaolô II và ý định cơ bản của Đức Thánh Cha Phanxicô cũng có thể được tìm thấy: Đức Gioan Phaolô II không phải là người nghiêm khắc đạo đức như một số người đã miêu tả một cách phiến diện về ngài. Khi đặt trọng tâm nơi lòng thương xót Chúa, ngài mang đến cho chúng ta cơ hội chấp nhận những yêu cầu luân lý dành cho con người, ngay cả khi chúng ta không bao giờ có thể đáp ứng đầy đủ những yêu cầu ấy. Bên cạnh đó, những nỗ lực đạo đức của chúng ta được thực hiện dưới ánh sáng của lòng thương xót Chúa, là điều được chứng tỏ là một lực lượng chữa lành cho sự yếu đuối của chúng ta.
Trong khi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đang hấp hối, Quảng trường Thánh Phêrô có rất nhiều người, đặc biệt là nhiều người trẻ, những người muốn gặp vị Giáo Hoàng của họ lần cuối. Tôi không thể quên khoảnh khắc khi Đức Tổng Giám Mục Sandri tuyên bố thông báo về sự ra đi của Đức Giáo Hoàng. Trên tất cả, khoảnh khắc khi tiếng chuông lớn của Đền Thờ Thánh Phêrô đưa ra thông điệp này vẫn không thể nào quên. Trong Thánh lễ an táng của ngài, có rất nhiều biểu ngữ với dòng chữ “Santo subito!” Đó là một tiếng kêu vang lên từ cuộc gặp gỡ với Đức Gioan Phaolô II từ mọi phía. Không phải từ quảng trường mà còn trong những giới trí thức khác nhau ý tưởng dành cho Đức Gioan Phaolô II danh hiệu “The Great” – “Vĩ Đại” – Đức Gioan Phaolô Cả – đã được thảo luận.
Từ “thánh” chỉ định một chiều kích liên quan đến Thiên Chúa, còn từ “vĩ đại” liên quan đến chiều kích nhân loại. Theo tiêu chuẩn của Giáo Hội, sự thánh thiện của một người có thể được công nhận bởi hai tiêu chí: các nhân đức anh hùng và một phép lạ. Hai tiêu chí này có liên quan chặt chẽ. Vì thuật ngữ “nhân đức anh hùng” không có nghĩa là một loại thành tích Olympic nhưng đúng hơn là một cái gì đó trở nên hữu hình nơi và qua một người mà không phải là công việc của người ấy, nhưng là công việc của Thiên Chúa được trở nên dễ nhận ra nơi và qua người ấy. Đây không phải là một loại cạnh tranh đạo đức, nhưng là kết quả của việc từ bỏ sự vĩ đại của chính mình. Vấn đề là một người để Thiên Chúa hoạt động trên chính mình, và vì vậy công việc và quyền năng của Thiên Chúa trở nên hữu hình thông qua người ấy.
Điều tương tự cũng áp dụng cho tiêu chí phép lạ: ở đây cũng vậy, điều đáng quan tâm không phải là điều gì đó giật gân xảy ra mà là sự mặc khải hữu hình về lòng nhân từ chữa lành của Thiên Chúa, vượt qua mọi khả năng của con người. Một vị thánh là người mở lòng mình ra với Chúa và được Chúa thấm nhuần. Một người thánh thiện là người thoát ra khỏi chính mình và cho chúng ta thấy và nhận ra Chúa. Kiểm tra điều này một cách pháp lý, khách quan và nghiêm nhặt, hết sức có thể, là mục đích của hai tiến trình tuyên chân phước và tuyên thánh. Trong trường hợp của Đức Gioan Phaolô II, cả hai tiến trình đều được thực hiện đúng theo các quy tắc hiện hành. Vì vậy, bây giờ Người đứng trước chúng ta với tư cách là người Cha, người làm cho lòng thương xót và lòng nhân lành của Chúa được thể hiện rõ với chúng ta.
Còn khó khăn hơn nữa để định nghĩa một cách chính xác thuật ngữ “vĩ đại”. Trong quá trình lịch sử gần 2,000 năm dài của các triều giáo hoàng, danh hiệu “vĩ đại” đã chỉ được dành cho hai vị Giáo Hoàng: là Đức Lêô Đệ Nhất, với triều Giáo Hoàng bắt đầu năm 440 và kết thúc năm 461, và Đức Giáo Hoàng Grêgôriô Đệ Nhất với triều Giáo Hoàng bắt đầu năm 590 và kết thúc năm 604. Trong trường hợp của cả hai vị, từ “vĩ đại” có hàm ý chính trị, nhưng chính vì một điều gì đó liên quan đến mầu nhiệm Thiên Chúa trở nên hữu hình thông qua thành công chính trị của các ngài. Thông qua cuộc đối thoại, Đức Lêô Cả đã có thể thuyết phục Attila, Hoàng tử của xứ Huns, tha cho Rôma - thành phố của các Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô. Không có vũ khí, không có sức mạnh quân sự hay chính trị, nhưng thông qua sức mạnh trong niềm xác tín vào niềm tin của mình, ngài đã có thể thuyết phục được tên bạo chúa đáng sợ tha cho Rôma. Trong cuộc đấu tranh giữa tinh thần và quyền lực trần thế, tinh thần tỏ ra mạnh mẽ hơn.
Thành công của Đức Giáo Hoàng Grêgôriô Đệ Nhất không ngoạn mục, nhưng đã có thể bảo vệ Rôma nhiều lần chống lại người Lombard – và trong trường hợp này cũng bằng cách dùng tinh thần để chống lại quyền lực trần thế và giành chiến thắng cho tinh thần.
Nếu chúng ta so sánh cả hai câu chuyện với trường hợp của Đức Gioan Phaolô II, thì sự tương đồng là không nào thể nhầm lẫn được. Đức Gioan Phaolô II cũng không có quyền lực quân sự hay chính trị. Trong cuộc thảo luận về hình dạng tương lai của Châu Âu và nước Đức vào tháng 2 năm 1945, người ta nói rằng cần phải lưu ý đến ý kiến của Đức Giáo Hoàng. Stalin liền hỏi: Giáo hoàng thì có được bao nhiêu sư đoàn? Đúng thế, Đức Giáo Hoàng không có sư đoàn nào. Tuy nhiên, sức mạnh của đức tin lại hóa ra là một lực lượng cuối cùng đã giật sập được hệ thống quyền lực của Liên Sô vào năm 1989 và tạo ra một khởi đầu mới cho nhân loại. Không thể chối cãi rằng đức tin của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II là một yếu tố thiết yếu trong sự sụp đổ của các thế lực. Và vì vậy, sự vĩ đại xuất hiện nơi Thánh Giáo Hoàng Lêô thứ Nhất và Thánh Giáo Hoàng Grêgôriô thứ nhất chắc chắn cũng được nhìn thấy ở đây.
Chúng ta hãy mở ngỏ cho câu hỏi liệu tính ngữ ‘The Great’ – nghĩa là ‘Vĩ Đại’ hay ‘Cả’ - sẽ thịnh hành hay không. Đúng là sức mạnh và lòng nhân lành của Thiên Chúa đã trở nên hữu hình đối với tất cả chúng ta nơi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Trong một thời gian khi Giáo hội một lần nữa phải chịu sự áp bức của cái ác, đối với chúng ta ngài là một dấu chỉ của niềm hy vọng và sự tự tin.
Thánh Gioan Phaolô II, xin cầu cho chúng con!
Source:Catholic News AgencyFull text: Benedict XVI's letter marking St. John Paul II's birth centenary