Các bài suy niệm Chúa Nhật 16 Thường Niên – C

Thứ sáu - 15/07/2022 21:25

Các bài suy niệm Chúa Nhật 16 Thường Niên – C

Lời Chúa: St. 18, 1-10a; Cl. 1, 24-28; Lc. 10, 38-42

MỤC LỤC

  1. Phục vụ. 3
  2. Phần tuyệt hảo. 5
  3. Chọn phần tốt nhất – Thiên Phúc. 7
  4. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 10
  5. Phần tốt nhất 14
  6. Chỉ có một điều cần. 17
  7. Hiếu khách – Lm. Giuse Trần Việt Hùng. 21
  8. Phần tốt nhất – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ. 26
  9. Điều Cần – Lm Vũ Đình Tường. 31
  10. Để cho Lời Chúa soi dẫn cuộc đời 34
  11. Quà tặng vô giá – Lm. Ignatiô Trần Ngà. 38
  12. Maria đã chọn phần tốt nhất 42
  13. Cầu nguyện hướng tới phục vụ. 46
  14. Thời giờ cho Chúa và cho nhau. 52
  15. Chúa viếng thăm – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền. 55
  16. “Con lo lắng bối rối nhiều chuyện” – André Sève. 59
  17. Chỉ có một việc cần mà thôi – Veritas. 61
  18. Phục vụ – Lm Vũ Đình Tường. 65
  19. Một sự hiện diện thiết yếu – Achille Degeest 69
  20. Sự cân bằng. 71
  21. Chọn điều tốt nhất 73
  22. Ngồi dưới chân Chúa Giêsu – Charles E. Miller. 78
  23. Mời Chúa vào nhà. 81
  24. Ngồi dưới chân – Lm Vũ Đình Tường. 87
  25. Sai lầm của người thầu khoán – Lm. Mark Link. 91
  26. Mácta và Maria – McCarthy. 96
  27. Martha và Maria. 103
  28. Những mẫu gương sáng ngời. 106
  29. Gia đình chị em Maria – Lm Giacôbê Tạ Chúc. 110
  30. Yêu theo cách của người mình yêu. 113
  31. Phúc cho ai sẵn sàng đón nhận Chúa. 117
  32. “Chỉ một việc cần” – William Barclay. 125
  33. Một sự cần thiết 129
  34. Điểm dừng. 133
  35. Việc cần. 139
  36. Chọn phần tốt nhất – Lm Bùi Quang Tuấn. 142
  37. Lắng nghe. 146
  38. Phần tốt nhất quyết định ý nghĩa cuộc sống. 151
  39. Suy niệm của JKN.. 155
  40. Hoạt động và cầu nguyện – Gp Vĩnh Long. 161
  41. Lắng nghe Lời Chúa là điều tốt nhất 165
  42. Suy niệm của nhóm Đồng Hành. 172
  43. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin. 174
  44. Chú giải của Noel Quesson. 176
  45. Matta và Maria – R. Gutzwiller. 183
  46. Chú giải của Fiches Dominicales. 185
  47. Người khách muốn gì? – Lm FX. Vũ Phan Long. 191
  48. Chỉ một chuyện cần mà thôi 198
  49. Rước Chúa vào nhà – Lm. Carolô Hồ Bạc Xái 206


Phục vụ

Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về những thái độ của Macta và Maria. Trước hết là thái độ bận rộn và lắng nghe.

Thái độ của Macta là thái độ bận rộn, vồn vã để tiếp đãi Chúa Giêsu cho thật thịnh soạn, chứng tỏ một tấm lòng hiếu khách. Còn Maria thì lại biểu lộ cũng tâm tình ấy bằng cách ngồi dưới chân Chúa mà lắng nghe lời Người. Hai thái độ, nhưng cùng chung một tâm tình, cùng chung một đối tượng. Chỉ có điều là Chúa Giêsu đã từng coi những mối bận rộn là như một bụi gai làm nghẹt sức sống của Lời Chúa, hay có thể biến thành một ông chủ thống trị trong trái tim con người, chống lại chính Thiên Chúa tình thương, hoặc tệ hơn nữa là làm cho lòng con người ra nặng nề, đến độ không còn nhạy bén để đón chớ Chúa đến.

Trong khi Lời Chúa mà Maria đã chọn để lắng nghe là một ưu tiên tuyệt đối. Được coi là mẹ và anh em thật của Chúa Giêsu chính là những ai nghe và tuân giữ Lời Chúa. Khi quá bận rộn vì vừa phải lo phục vụ vật chất, lại vừa phải rao giảng trong cộng đoàn, các tông đồ đã ưu tiên chọn việc rao giảng Lời Chúa.

Tiếp đến là ý mình và ý khách. Macta đón tiếp Chúa Giêsu là để thiết đãi Người theo sở thích của cô, như một bà chủ nhà có dịp trổ tài nội trợ và bày tỏ tấm lòng hiếu khách, mà chả cần hiểu khách đang mong đợi điều gì. Trong thâm tâm của bà chủ nhà đó, niềm vui không phải là vì người khách, nhưng là vì tự mãn, tự thấy mình tài khéo và đức độ.

Điểm khác biệt còn rõ nét hơn nữa trong thái độ của Macta so sánh với tinh thần của Chúa Giêsu, và đã bắt Người phải can thiệp, chính là vì cô đã đánh giá, và đã lên tiếng phiền trách Maria và cả Chúa Giêsu sao lại không thấy việc cô làm mới là đúng, mới là quan trọng. Cô như muốn nói với Chúa Giêsu: Thưa Thầy, Thầy không thấy rằng em tôi để mặc tôi một mình lo phục vụ là sai quấy hay sao? Xin Thầy bảo nó giúp tôi với.

Thực ra vẫn có những cách tiếp đón làm cho chúng ta không còn gặp gỡ được Chúa Giêsu và tha nhân. Chẳng hạn Giáo Hội Do Thái thời đó với những chuyên viên về tôn giáo, với những tín đồ sùng mộ, lại đang thiết tha mong đợi Đấng Cứu Thế, nhưng họ đã không gặp được Người suốt hơn ba mươi năm trời Người sống giữa họ. Chẳng hạn hai môn đệ trên đường về Emmaus đã cùng đi với Người cả một ngày đàng mà vẫn không gặp gỡ được con người thật của Người. Phải chăng vì trong những trường hợp đó, mặc dù hình ảnh Chúa đang chiếm ngự tâm hồn họ, nhưng lại là hình ảnh do họ tư vẽ ra theo những ước vọng của bản thân họ mà thôi.

Điều kiện và quy luật cho mọi cuộc gặp gỡ đích thực với Thiên Chúa, đó là phải từ bỏ chính bản thân mình, để ngồi dưới chân Chúa, và lắng nghe Lời Người như Maria ngày xưa.

 

  1. Phần tuyệt hảo.

Có một thời người ta đã dựa vào đoạn Tin Mừng này để đề cao đời sống chiêm niệm, như là phần tối hảo mà Maria đã khôn ngoan giành lấy cho mình. Còn đời sống bôn chôn hoạt động của Martha là phần ít giá trị hơn. Thực ra Chúa Giêsu không thể bênh vực cho thứ chiêm niệm lười lĩnh cũng như thứ hành động múa may. Điều Ngài đòi hỏi là lắng nghe và thực thi lời Chúa.

Ngày kia, có lẽ bất ngờ, Chúa Giêsu đến thăm viếng gia đình ba chị em Martha, Maria và Lagiarô. Đối với người Do Thái, thì được tiếp đón một người khách đến thăm là một ơn huệ Chúa ban và cũng là dịp để tưởng niệm cuộc xuất hành của dân Chúa trên đường tiến tới miền đất Hứa. Việc đón tiếp khách được tổ chức một cách tỉ mỉ và ân cần. Khách vào nhà được rửa chân vì đi đường bụi bậm. Thường thì người nhỏ nhất trong nhà có phận sự rửa chân cho khách.

Trong đoạn Tin Mừng này, chúng ta có một vài dấu hiệu cho biết Maria là người được phân công rửa chân cho khách. Maria ngồi dưới chân Chúa Giêsu và xem ra Maria cũng đóng vai trò tiếp chuyện khách. Bà ngồi bên chân Chúa để lắng nghe lời Ngài. Trong khi đó Martha nắm giữ địa vị của một người nội trợ bận rộn với công việc bếp núc. Bà muốn cho việc tiếp đón phải thật chu đáo. Nhưng Chúa Giêsu thì lại nghĩ khác. Việc đón tiếp chu đáo và đúng nghĩa nhất đối với Ngài là đón nghe lời Ngài. Còn tất cả chỉ là phụ thuộc. Martha đã bị Chúa quở trách vì bà đã quá chú trọng vào những cái phụ thuộc, để mình chìm nghỉm trong mọi thứ công việc khiến không còn thời giờ và sức lực để nghe và đón nhận lời Ngài. Người khách như Chúa Giêsu đến với gia đình Bêtania, hẳn không phải là để được hạ, tiếp rước, mà là để ban phát, để thiết tiệc lời hằng sống. Do đó ưu tiên số một không phải là việc cho Ngài ăn gì, uống gì mà là lắng nghe lời Ngài vì của ăn đích thực của Ngài là rao giảng Tin Mừng Nước Trời.

Chúng ta còn nhớ một lần kia bên bờ giếng Giacóp, Ngài đã xác quyết: Của ăn của Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta. Và ý của Đấng đã sai Ngài chính là việc rao giảng Tin Mừng cứu độ cho muôn dân. Vì thế, những ai muốn theo Ngài, cũng phải lắng nghe và thực hiện những lời Ngài truyền dạy.

Vào một dịp lễ trọng như lễ Chúa Giêsu chẳng hạn, cả giáo xứ để hết tâm trí vào việc dọn dẹp và trang trí nhà thờ, làm hang đá, treo đèn kết hoa, khiến cho không còn thời giờ, không còn lòng trí để tìm hiểu và đào sâu ý nghĩa của việc Con Thiên Chúa làm người. Giáo xứ ấy đã đi theo vết chân của Martha và bỏ mất phần tối hảo.

Bởi đó chúng ta đã kiểm điểm đời sống xem chúng ta đã thực sự đầu tư một cách đầy đủ cho điều chính yếu, là lắng nghe và thực thi lời Chúa, hay vẫn còn đang lẩn quẩn ở những vòng ngoài, ở những cái phụ thuộc.

 

  1. Chọn phần tốt nhất – Thiên Phúc

(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)

Federic Ozanam, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Giáo Hội Pháp vào cuối thế kỷ 19 đã trải qua một cơn khủng hoảng đức tin trầm trọng lúc còn là một sinh viên đại học.

Một hôm, để tìm một chút thanh thản cho tâm hồn, anh bước vào một ngôi thánh đường cổ ở Paris. Đứng cuối nhà thờ, anh nhìn thấy một bóng đen đang quì cầu nguyện cách sốt sắng ở dãy ghế đầu. Đến gần, chàng sinh viên mới nhận ra người đang cầu nguyện ấy không ai khác hơn là nhà bác học Ampère. Anh đứng lặng lẽ một lúc để theo dõi cử chỉ của nhà bác học. Và khi vừa đứng lên ra khỏi giáo đường, người sinh viên đã theo gót ông về cho đến phòng làm việc của ông.

Thấy chàng thanh niên đang đứng trước cửa phòng với dáng vẻ rụt rè, nhà bác học liền lên tiếng hỏi:

– Anh bạn trẻ, anh cần gì đó? Tôi có thể giúp anh giải một bài toán vật lý nào không?

Chàng thanh niên đáp một cách nhỏ nhẹ:

– Thưa thầy, con là một sinh viên khoa văn chương. Con dốt khoa học lắm, xin phép thầy cho con hỏi một vấn đề liên quan đến đức tin!

Nhà bác học mỉm cười cách khiêm tốn:

– Anh lầm rồi, đức tin là môn yếu nhất của tôi. Nhưng nếu được giúp anh điều gì, tôi cũng cảm thấy hân hạnh lắm?

Chàng sinh viên liền hỏi:

– Thưa thầy, có thể vừa là một bác học vĩ đại, vừa là một tín hữu cầu nguyện bình thường không?

Nhà bác học ngỡ ngàng trước câu hỏi của người sinh viên, và với đôi môi run rẩy đầy xúc cảm, ông trả lời:

– Con ơi, chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện mà thôi!

Chúa phán: “Marta, Marta! Chị lo lắng và lăng xăng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi”. Phần tốt nhất ấy chính là ở bên cạnh Chúa, lắng nghe Chúa nói, và cầu nguyện với Chúa.

Nhà bác học đại tài Ampère, với công việc nghiên cứu của ông về điện tử học, về nam châm điện đã đem lại biết bao lợi ích cho nền văn minh của nhân loại. Thế nhưng, ông không cho đó là vĩ đại, mà ông nói: “Chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện mà thôi”.

Mẹ Têrêxa Calcutta, một nữ thánh giữa đời thường, mỗi ngày trước khi bước xuống “địa ngục Calcutta” để chăm sóc những người cùng khổ, hoặc đi vào “nhà hấp hối” để an ủi các kẻ liệt lào, các nữ tu của mẹ đã quì cầu nguyện trước Thánh Thể một tiếng đồng hồ để kín múc nơi Chúa: tình yêu, sức mạnh, lòng can đảm và nhiệt huyết tông đồ. Hoạt động tông đồ là mang tình yêu Chúa đến với anh em, tại sao chúng ta lại không kín múc nơi Chúa là suối nguồn yêu thương. Cho dù là hoạt động truyền giáo, hoạt động từ thiện bác ái, hay sinh hoạt hằng ngày theo bổn phận, chúng ta cũng đừng quên “chọn phần tốt nhất” này. Hãy nhớ lời Chúa: “Không có Ta, chúng con không làm gì được”.

Các triết gia Phương Tây có khuynh hướng hoạt động cho rằng Chúa không làm gì, con người làm hết. Các triết gia Phương Đông trái lại ưa thích thuyết tĩnh học, để Chúa làm hết và con người không làm gì. Nhưng khuôn vàng thước ngọc của chúng ta là: “Cầu nguyện và hoạt động”, Marta phải đi đôi với Maria. Cầu nguyện là linh hồn của hoạt động, và hoạt động là kết quả của cầu nguyện. P.Graef có một câu nói rất thâm thúy: “Hoạt động mà không có cầu nguyện là thiếu nguyên tắc căn bản, cầu nguyện mà không có hoạt động là thiếu đất gieo hạt”. Tuy nhiên, có một cám dỗ khiến chúng ta khó thoát khỏi. Đó là nhiều khi chúng ta tưởng mình phục vụ Chúa, nhưng hóa ra chúng ta phục vụ chính mình. Nhìn Marta lăng xăng dọn bữa ăn, chúng ta thấy dáng dấp của chính mình. Chúng ta hoạt động để được tiếng khen, để gây chú ý: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay”. Chúng ta mời gọi kẻ khác cộng tác, cũng là để phục vụ cho chương trình của chính mình. Đôi khi chúng ta cầu nguyện cũng là để kéo Chúa về phe mình, xin Chúa ủng hộ để cá nhân mình sớm được vẻ vang. Chúng ta muốn mình luôn được thành công. Chúng ta không chấp nhận thất bại. Chúng ta mãn nguyện với những hoạt động tông đồ của mình. Chúng ta hài lòng với công cuộc từ thiện của chúng ta. Chúng ta đi tìm chính mình!

 

  1. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

PHỤC VỤ TRONG TRẬT TỰ

Thoạt nghe bài Tin mừng hôm nay, có người đã trách móc: Sao Chúa quá mâu thuẫn. Mới tuần trước, Chúa kể truyện người xứ Samaria nhân hậu để dạy phải phục vụ. Vậy mà hôm nay, Chúa lại trách móc, tuy có nhẹ nhàng, nhưng vẫn đau đau, bà Martha đã lăng xăng phục vụ đón tiếp Chúa. Tại sao thế?

Nếu đọc kỹ bài tường thuật hôm nay cũng như toàn bộ Tin mừng, ta sẽ thấy phục vụ tuy được Chúa đề cao, nhưng vẫn phải nằm trong một trật tự toàn bộ của đời sống đạo.

Trật tự thứ nhất: Phục vụ phải biết quên mình.

Phục vụ mà không quên mình sẽ đi đến khoe khoang tự mãn. Ta hãy nhớ lại chuyện hai người lên đền thờ cầu nguyện. Ông Biệt phái đứng giữa đền thờ, lớn tiếng kể công: “Lạy Chúa, con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con” (Lc 18,12). Thái độ khoe mình của ông không được Thiên Chúa chấp nhận vì ông phục vụ mà không biết quên mình.

Phục vụ mà không quên mình sẽ đi đến ganh ghét, dòm ngó, lườm nguýt, loại trừ người khác. Về điểm này, Đức cha Bùi Tuần có đưa ra một hình ảnh rất ý nhị. Trên bàn thờ có ngọn nến và bông hoa. Cả hai cùng phục vụ bàn thờ. Nhưng nếu ngọn nến đốt cháy bông hoa thì thật đau lòng. Phục vụ mà không quên mình sẽ đưa đến loại trừ lẫn nhau. Điều Chúa muốn là phục vụ quên mình. Phục vụ quên mình là phục vụ kín đáo: “Tay trái không biết việc tay phải làm” (Mt 6,3). Phục vụ quên mình chỉ cố ý làm vui lòng Chúa chứ không so sánh hơn thua với anh em. Vì thế phục vụ quên mình sẽ rất khiêm tốn. “Sau khi đã làm tất cả thì hãy nói: Tôi chỉ là đầy tớ vô dụng, tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17,10).

Trật tự thứ hai: Phục vụ phải biết lắng nghe.

Trước hết phải biết lắng nghe lòng mình xem có đức bác ái không. Nếu không có đức bác ái thì mọi việc phục vụ dù có lớn lao cũng trở thành vô ích như lời thánh Phao-lô nói: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, nếu tôi không có đức bác ái, cũng chẳng ích gì cho tôi” (1 Cr 13,3).

Thứ đến phải biết lắng nghe đối tượng phục vụ. Một phục vụ tốt phải đúng lúc, đúng nơi, đúng cách, đúng nhu cầu. Nhưng trên hết phục vụ phải biết lắng nghe Lời Chúa. Việc phục vụ của ta chỉ tốt và có ý nghĩa khi ta làm đúng ý Chúa muốn. Muốn biết ý Chúa, phải lắng nghe tiếng Chúa trong Tin mừng, qua cầu nguyện và tiếp xúc tâm sự với Chúa trong bí tích Thánh Thể. Lời Chúa là đèn soi bước chân ta, là ánh sáng hướng dẫn ta trong mọi hoạt động. Lắng nghe Lời Chúa làm cho hoạt động được vững vàng. Đó là xây nhà trên đá (cf. Lc 6, 47).

Trật tự cuối cùng: Phục vụ phải biết nghỉ ngơi.

Cuộc sống văn minh hiện đại ngày càng cuốn con người vào cơn lốc hoạt động đến ngộp thở. Người ta không còn thời giờ cho gia đình, cho bạn bè, và nhất là cho đời sống tâm linh. Tại các nước phương Tây, con người đang biến thành những cỗ máy làm việc, làm việc không ngừng. Đó là một đời sống mất quân bình, rất nguy hiểm.

Trong Phúc âm, Chúa Giêsu nhiều lần nhắc nhở chúng ta: “Đừng quá băn khoăn lo lắng”. Hôm nay Chúa nhắc lại với bà Martha một lần nữa: “Đừng băn khoăn lo lắng quá”. Chúa không chê trách công việc bà làm, nhưng Chúa chê trách thái độ lăng xăng, lo lắng thái quá. Chúa mời gọi bà hãy biết nghỉ ngơi, biết giữ bình an nội tâm trong một đời sống quân bình bằng cách biết cầu nguyện. Cầu nguyện là nghỉ ngơi bên Chúa. Cầu nguyện tạo cho ta một khoảng không gian và thời gian, nhờ đó đời sống tâm linh phát triển. Chính nhờ những giây phút cầu nguyện bên Chúa mà sinh lực ta được phục hồi. Và ta có thể phục vụ tốt hơn.

Lời Chúa kêu gọi bà Martha, Chúa cũng muốn nói với mỗi người chúng ta hôm nay: “Con đừng quá băn khoăn lo lắng cho cuộc sống. Hãy biết đến bên Cha mà nghỉ ngơi. Cha sẽ bổ sức cho con. Hãy chọn lấy phần tốt nhất như Maria. Đó là một kho tàng bền vững mãi mãi”.

Xin cho mỗi người chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa mời gọi, hãy đến bên Chúa nghỉ ngơi. Để nhờ Chúa hướng dẫn, việc phục vụ của chúng ta sẽ theo đúng ý Chúa muốn và để đời sống tâm linh ta được phát triển toàn diện trong một nếp sống quân bình. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1-    Cầu nguyện là lắng nghe Chúa nói với mình, là gặp gỡ Chúa trong tình con thảo. Hiện nay bạn cầu nguyện thế nào? Có sốt sắng không? Có nhiều thời gian cầu nguyện không?

2-    Bạn đọc kinh nhiều, nhưng bạn có cầm trí không, hay chỉ đọc như máy?

3-    Khi phục vụ, bạn có thực sự quên mình, hay phục vụ để được tiếng là người đạo đức, để hơn người?

4-    Muốn việc phục vụ thực sự tốt đẹp, ta cần có thái độ nào?

 

  1. Phần tốt nhất

(Trích dẫn từ ‘Manna’)

Suy Niệm

Nếu dựa trên bài Tin Mừng về người Samari tốt lành, hẳn chị Mácta phải nhận được một lời ca ngợi, vì chị đã làm, đã phục vụ Đức Giêsu. Thế nhưng ở đây, Ngài chỉ dành cho chị lời trách móc.

Đức Giêsu có đối xử bất công không?

Chúng ta cần nhìn ngắm chị Mácta tất bật dưới bếp. Chị thấy còn bao việc phải làm ngay cho kịp. Lòng chị lo lắng bồn chồn về việc tiếp đãi Chúa. Vậy mà cô em Maria lại ngồi không… Mácta không thể nén được nữa. Chị ngắt lời lúc Đức Giêsu đang trò chuyện với em. Hơn nữa, chị muốn Ngài ra lệnh để em mình xuống bếp. Câu nói của chị có nguy cơ phá vỡ cuộc trò chuyện. Cả Đức Giêsu và Maria đều bị coi là những người vô tâm, thản nhiên trò chuyện khi mà công việc đang ngập đầu.

Câu trả lời của Đức Giêsu đầy cảm thông, trìu mến. Ngài hiểu nỗi bối rối của Mácta khi tiếp đãi Ngài, nhưng Ngài cho thấy ngồi nghe cũng là một cách tiếp đãi, thậm chí một cách tiếp đãi tuyệt vời.

Trong một thế giới thực dụng, coi trọng hiệu quả, Hội Thánh có khá nhiều Mácta và rất ít Maria.

Lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện bị coi là xa xỉ phẩm, là những điều vô ích, mất thì giờ, ù lì, thụ động. Nhưng có hành động nào hiệu quả bằng ngồi nghe Chúa? Tiếp xúc với Đấng Toàn Năng cho ta sức mạnh để làm mọi sự.

Một Hội Thánh quân bình khi có cả Mácta và Maria.

Một Kitô hữu quân bình khi coi trọng việc ngồi bên Chúa.

Không phải chỉ là làm cho Chúa, mà còn sống với Ngài trong một tương quan mật thiết bền chặt. Đừng đợi lúc rảnh, lúc lắng mới đến gặp Chúa. Lúc cần gặp Chúa hơn cả là lúc bận bịu, lo âu.

Con người hiệu năng là con người cầu nguyện.

Khi được hỏi về bí quyết của mình, Mẹ Têrêsa đáp: “Bí quyết của tôi rất đơn giản: tôi cầu nguyện.”

Có ai trong chúng ta muốn chọn phần tốt hơn như Maria?

Khi nhìn Mácta, chúng ta thấy khuôn mặt của mình.

Lúc đầu, chị chỉ muốn phục vụ Chúa. Nhưng dần dần, điều chi phối chị không phải là Chúa nữa, mà là sự thành công rực rỡ của bữa ăn do chị nấu. Chị huy động mọi người để phục vụ cho dự tính của chị, thay vì phục vụ Chúa. Chị đi đến chỗ nghi ngờ cô em lười biếng, trách Đức Giêsu vô tâm. Cuối cùng không rõ chị tìm Chúa hay tìm mình, tìm làm vui lòng Chúa hay thành công cá nhân.

Có khi chúng ta cũng bắt Chúa đứng vào phe mình để cho công việc mình chóng thành tựu.

Làm thế nào để chúng ta phục vụ mà không thấy mình phục vụ, không ngắm nghía, nhâm nhi sự quảng đại của mình?

Làm sao tôi có thể yêu một cách trong suốt như Maria?

Gợi Ý Chia Sẻ

Cầu nguyện là lắng nghe Chúa nói với mình, là gặp gỡ Chúa trong tình con thảo. Bạn nghĩ gì về đời sống cầu nguyện của bạn hiện nay? Chất lượng và thời gian ra sao?

Cái khó và cái dễ khi bạn cầu nguyện trong một xã hội công nghiệp hiện đại?

Cầu Nguyện

Lạy Ngôi Lời Thiên Chúa rất đáng mến, xin dạy con biết sống quảng đại, biết phụng sự Chúa cho xứng với uy linh Ngài, biết cho đi mà không tính toán, biết chiến đấu không ngại thương tích, biết làm việc không tìm an nghỉ, biết hiến thân mà không mong chờ phần thưởng nào ngoài việc biết mình đã chu toàn Thánh Ý Chúa. Amen.

 

  1. Chỉ có một điều cần

(Trích dẫn từ ‘Manna’)

Suy Niệm

Trên dặm đường rao giảng Tin Mừng, thỉnh thoảng Đức Giêsu và các môn đệ gặp được một chỗ nghỉ chân chan chứa tình người.

Mácta là chủ nhà đón tiếp Đức Giêsu. Chị tất bật lo việc tiếp đãi nấu nướng, chị lo lắng trước bao việc phải làm ngay để có được một bữa ăn thịnh soạn hầu tỏ lòng kính trọng đối với vị khách quý. Trong khi đó cô em Maria lại vô tư và bình thản, ngồi dưới chân Chúa mà nghe Lời Người.

Maria say mê nghe Lời Chúa, Lời mở tâm tư cô ra trước những chân trời mới mẻ. Cô thấy chẳng có gì hạnh phúc hơn giây phút này, được ngồi nghe Thầy giảng như một môn đệ thực thụ.

Mácta không hiểu được cô em gái, chị cũng không hiểu được Đức Giêsu, nên cuối cùng chị đã đến thưa với Chúa: Thầy không để ý tới sao? Mácta muốn Thầy để ý đến việc mình đang làm, muốn Thầy nhận ra sự vất vả mình phải chịu. Em con để mình con phục vụ. Mácta tưởng chỉ có mình mới là người phục vụ. Chị không nhận thấy rằng Maria cũng đang tiếp khách và ngồi nghe Chúa cũng là một cách phục vụ.

Xin Thầy bảo em giúp con một tay.

Mácta kéo Đức Giêsu vào cuộc, kéo Ngài đứng về phía mình, phía đúng, để gây áp lực trên cô em. Chị muốn Maria phải vào bếp với mình, phải phục vụ theo kiểu của mình. Ngấm ngầm, Mácta không chấp nhận kiểu phục vụ của Maria. Có lẽ chị nghĩ đó là một hành vi vô ích, trong khi có biết bao việc quan trọng khác cần làm.

Đức Giêsu không ghét Mácta, không coi nhẹ việc phục vụ của chị, nhưng buộc lòng Ngài phải lên tiếng. Ngài muốn giải phóng Mácta khỏi nỗi bồn chồn quá mức. Ngài muốn giải phóng chị khỏi cái tôi, khỏi lối nhìn hẹp hòi, để nhận ra điều duy nhất cần thiết.

Ngài gọi tên chị hai lần: Mácta! Mácta! Con lo lắng và xao động vì nhiều chuyện quá, dù chuyện ấy là chuyện con lo cho Thầy.

Cần thanh lọc lòng mình khỏi những tìm kiếm vị kỷ, khỏi những ganh tị nhỏ mọn và tự mãn ngấm ngầm, để có thể làm việc cho Chúa trong bình an thư thái, dù có gặp thất bại hay bị lãng quên.

Chỉ có một chuyện cần mà thôi.

Coi chừng nỗi lo lắng về nhiều chuyện phụ lại làm ta quên mất chuyện chính, một chuyện cần hơn cả, đó là an tĩnh gặp gỡ và lắng nghe Chúa mỗi ngày trong tư thế khiêm hạ của người môn đệ.

Cuộc sống dồn dập hôm nay dễ biến chúng ta thành Mácta: xao động, âu lo, căng thẳng, mất kiên nhẫn. Cả người làm việc cho Chúa cũng bị cuốn hút. Có lẽ cần bớt việc và thêm giờ cầu nguyện, cần để cho Chúa làm việc nơi tôi và qua tôi thay vì tự mình bươn chải một mình.

Phải chăng đời Kitô hữu là kết hợp giữa Mácta và Maria, giữa tất bật và an tĩnh, giữa lăng xăng và ngồi yên, giữa hoạt động và cầu nguyện?

Để rồi giữa tất bật, tôi tìm thấy an tĩnh, – giữa lăng xăng, tôi thấy mình ngồi yên, – giữa hoạt động, tôi thấy mình chiêm niệm.

Gợi Ý Chia Sẻ

Có khi nào những khúc mắc của cuộc sống đưa bạn đến ngồi dưới chân Chúa không? Bạn nghĩ gì về sự cân đối giữa cầu nguyện và hoạt động trong đời bạn? Bạn cầu nguyện có đủ và sâu không?

Cầu nguyện là gặp gỡ và lắng nghe như cô Maria. Có khi nào bạn có kinh nghiệm như Maria không? Bạn có khi nào nghe Chúa nói tự thẳm sâu cõi lòng không?

Cầu Nguyện

Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào, xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.

Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc, xin cho con quý chuộng những lúc được an nghỉ trước nhan Chúa.

Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo, xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa để nghe Lời Người.

Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng, xin cho con thoát được lên cao nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.

Lạy Chúa, ước gì tinh thần cầu nguyện thấm nhuần vào cả đời con.

Nhờ cầu nguyện, xin cho con gặp được con người thật của con và khuôn mặt thật của Chúa.

 

  1. Hiếu khách – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Hiếu khách là một đức tính tốt. Một người hiếu khách là người có tính xã hội. Họ dám mở cửa lòng đối diện với đời và với tha nhân. Kinh nghiệm cho chúng ta thấy trong bất cứ lĩnh vực nào như mở tiệm buôn bán, công ty, xí nghiệp, trường học, hội đường, chùa chiền, nhà thờ, tư gia… càng có nhiều người tham gia, sinh hoạt và thăm viếng thì càng sầm uất và thành công sinh hoa lợi. Người ta thường nói “đa khách đáo, đa ngân vào”. Đúng thế, mở một cửa tiệm hay một dịch vụ mà khách ra vào tấp nập thì việc làm ăn sẽ mau khấm khá. Một trong những yếu tố quan trọng là vấn đề nhân sự. Chủ nhân hay tiếp thị phải là những người hiếu khách luôn tươi cười và niềm nở. Vui lòng khách đến vừa lòng khách đi.

Nhân cách con người đi theo với sinh hoạt cuộc sống. Tính tình thể hiện qua cách xử thế, gọi là giao tế nhân sự. Câu truyện trong sách Sáng Thế kể rằng có ba vị khách đi ngang qua nhà ông Abraham. Ông đã vui vẻ chào đón khách một cách niềm nở, ông thưa: “Thưa Ngài, nếu tôi được đẹp lòng Ngài, thì xin Ngài đừng đi qua mà không ghé thăm tôi tớ Ngài.” (St 18,3). Thái độ của Abraham bày tỏ lòng thành kính và hiếu khách. Ông biết thương người và đáp ứng đúng nhu cầu cần thiết. Ông tiếp rước khách một cách rất tận tình: Tôi xin đi lấy ít bánh, để các ngài dùng cho chắc dạ, trước khi tiếp tục đi, vì các ngài đã ghé thăm tôi tớ các ngài đây! Khách trả lời: “Xin cứ làm như ông vừa nói.” (St 18,5).

Một phần thưởng ngoài sức tưởng tượng của cả hai ông bà. Ông bà đã nhận được một hồng ân quý báu trong lúc tuổi già. Ông bà sẽ sinh một cậu con trai nối dòng. Đây là lời cầu chúc tốt đẹp nhất của ba vị khách: “Người nói: “Sang năm, tôi sẽ trở lại thăm ông và khi đó bà Sara vợ ông sẽ có một con trai.” Bà Sara bấy giờ đang nghe ở cửa lều, phía sau.” (St 18,10). Thiên Chúa đã gọi Abraham rời bỏ quê hương xứ sở để đến miền đất hứa. Lòng thành tín của Abraham đưa dẫn ông trở thành cha của một dân tộc. Cha của những kẻ tin. Ông đã biết đón nhận và cho đi. Ông đã tuân theo đường lối của Chúa nhưng ông cũng đã trải qua muôn vàn khó khăn, đắng cay và thử thách. Ông đã đi đến cùng đường và giữ vững lòng tin tưởng nơi Thiên Chúa.

Mở cửa đón khách cũng giống như mở lòng với tha nhân. Nếu tư gia của chúng ta có mở cửa đón mời anh chị em và bạn bè, nhà sẽ vui nhộn tiếng cười. Phòng khách sẽ ấm cúng với mối tình thân. Nhà bếp cũng được ấm lên nhờ nấu nướng những món ăn mỹ vị đãi khách. Niềm vui sẽ trào dâng trong lòng mọi người. Càng có đông khách và bạn bè, cuộc sống càng nới rộng tình thương mến. Mở cửa như mở lòng. Chúng ta biết rằng ai có lòng quảng đại giúp đỡ tha nhân, họ sẽ được đáp trả mối ân tình. Có qua có lại mới toại lòng nhau. Đón tiếp anh chị em bạn bè đến với gia đình, niềm vui của chúng ta sẽ được nhân lên. Nếu chúng ta chỉ biết đón nhận mà không biết cho đi, cuộc sống sẽ bị đóng khung hạn hẹp. Cảm nghiệm đời sống, chúng ta đóng cửa nhà và cửa lòng vì sợ bà con làm phiền, cuộc sống sẽ buồn tênh.

Cũng không ngoại lệ, khi Chúa Giêsu đến thăm nhà chị em Martha và Maria. Hai chị em đón tiếp Chúa, mỗi người một cách, làm cho Chúa rất hài lòng. Câu truyện được lưu truyền kể lại trong Phúc Âm. Martha lo nấu nướng phục vụ và Maria ngồi bên chân Chúa để nghe lời Người giảng dạy. Cả hai việc đều tốt nhưng việc ngồi bên và lắng nghe lời Chúa thì tốt hơn: “Cô có người em gái tên là Maria. Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy.” (Lc 10,39). Chúa Giêsu đã biến đổi cả hai tâm hồn nên thánh thiện. Chúa nhìn thấu tỏ tâm hồn của Martha và Maria, hai chị em trở thành những chứng nhân đích thực cho Chúa Kitô Phục Sinh. Trong Giáo Hội đã có những vị dõi theo bước của Martha, chuyên lo phục vụ. Có những người đi theo đường lối của Maria, lắng nghe, suy niệm và chiêm niệm trong các dòng tu. Chúa Giêsu đã xác nhận Maria đã chọn phần tốt nhất: “Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi.” (Lc 10,42). Giáo Hội đã tuyên phong cả hai chị em lên bậc hiển thánh: Thánh Martha và Thánh Maria.

Như Abraham đã đón tiếp các vị khách và được phước lộc có con cháu nối dõi hoàn thành sứ mệnh. Martha và Maria đón rước Chúa vào nhà, các bà đã trở nên môn đệ và sinh hoa kết qủa trong vườn nho của Chúa. Thiên Chúa rộng lượng ban phát mọi ơn lành cho những ai đón rước Chúa. Chúng ta đọc câu truyện về hai biển hồ ở Palestine, biển Galilê và biển chết. Biển hồ Galilê có nguồn nước trong xanh mát. Trong hồ có đủ các loại tôm cá sinh sống. Có những vườn cây xanh tốt nhờ nguồn nước. Nhà cửa dân cư sống rất sầm uất. Biển thứ hai là biển chết. Biển chết vì nước mặn và không có loại cua cá nào sống nổi. Trơ trọi không có cây xanh tươi. Chúng ta biết cả hai biển hồ đều nhận nguồn nước từ sông Jordan. Nước chảy vào biển hồ Galilê và tiếp tục chảy tràn lan qua các hồ nhỏ, nhờ vậy mà nguồn nước luôn lưu chuyển trong lành. Còn biển chết cũng đón nhận nguồn nước nhưng bị tù đọng vì không chia sẻ, nước trở nên mặn chát. Sinh vật không thể sống được. Cuộc sống con người cũng thế, nếu chỉ biết khư khư giữ lại tất cả kho tàng cho riêng mình, thì sự sống cũng dần lụi tàn.

Thánh Phaolô đã nhận lãnh sứ điệp Tin Mừng từ chính Chúa Kitô Phục Sinh. Ngài đã hăng say nhiệt tình truyền rao lời chân lý. Phaolô đã thiết lập nhiều cộng đoàn tín hữu và đặt căn bản giáo lý trong các sinh hoạt sống đạo: “Tôi đã trở nên người phục vụ Hội Thánh, theo kế hoạch Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em: Đó là tôi phải rao giảng lời của Người cho trọn vẹn.” (Cl 1,25). Phaolô trở thành chứng nhân đích thực xông pha trong mọi lĩnh vực, cốt là để vinh danh Chúa Kitô. Tin Mừng đã lãnh nhận như một kho tàng, Ngài đã đem ra rao truyền và phân phát một cách nhưng không để lôi kéo mọi người về với Chúa.

Thánh Phaolô đã đến với dân ngoại, nơi có một cánh đồng truyền giáo bao la. Ngài rao giảng, thuyết phục và làm nhân chứng sống động. Ngài chấp nhận bị xua trừ, tẩy chay, đánh đập, tù đày và bị thiệt thòi danh phận để danh Chúa được cả sáng. Phaolô rao truyền Tin Mừng một cách nhiệt thành sứ vụ được Chúa Kitô trao: “Người đã muốn cho họ được biết mầu nhiệm này phong phú và hiển hách biết bao giữa các dân ngoại: Đó là chính Đức Kitô đang ở giữa anh em, Đấng ban cho chúng ta niềm hy vọng đạt tới vinh quang.” (Cl 1,27). Tất cả đều chung quy về Chúa Kitô Phục Sinh. Bất cứ sự gì ngài đã lãnh nhận nhưng không, thì ngài đã cho nhưng không. Không giữ lại điều gì làm của riêng để được vui hưởng một mình.

Cuộc sống của chúng ta phát triển không ngừng. Mỗi ngày, chúng ta hãy cố gắng làm một việc tốt, dù nhỏ, nó sẽ sinh hoa kết quả tốt. Một lời nói nhẹ nhàng êm dịu, có thể cải hoá được lòng người. Một cử chỉ đón tiếp ân cần, có thể làm vui mảnh hồn cô đơn, giá lạnh. Một hành động bác ái nhỏ như cho đi một ly nước vì danh Chúa sẽ không mất phần thưởng. Một ngọn lửa, dù bé nhỏ, có thể toả lan ánh sáng và sưởi ấm lòng người. Một bàn tay rộng mở, ân phước ngập tràn niềm vui. Chúng ta hãy cùng mở rộng tấm lòng đón nhận và mở cửa nhà chào đón anh chị em, cuộc sống gia đình của chúng ta sẽ thêm phúc lộc đầy tràn.

Lạy Chúa, Chúa rộng lượng từ bi và nhân hậu với hết mọi loài. Xin cho chúng con biết mở lòng quảng đại với tha nhân. Chúng con nhận lãnh quá nhiều hồng ân, nhưng cho đi chẳng bao nhiêu. Xin cho chúng con biết nhận lãnh và biết tiếp tục trao ban.

 

  1. Phần tốt nhất – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Khung cảnh gia đình

Bước vào Chúa nhật XVI thường niên C, thánh sử Luca thuật lại cho chúng ta chuyện gia đình của Matta và Maria. Gia đình hai cô hàng ngày ra sao chúng ta không hay biết, chỉ khi cô chị Matta rước Chúa Giêsu vào nhà và tất bật làm cơm thiết đãi Chúa, còn cô em thì ngồi bên chân nghe Chúa và nghe lời Người chúng ta mới có chuyện (Lc 10,38-42). Gia đình Matta và Maria còn có cậu em trai là Lazarô không thấy nói tới.

Chúng ta thử tưởng tượng quang cảnh diễn ra trong nhà: người chị chạy lên chạy xuống, còn người em ra như bị lôi cuốn vào việc chuyện trò với Khách. Một lúc sau, người chị Matta, chắc cảm thấy mệt nhọc, nên đã đứng lại và lên tiếng nói với vị Khách: “Lạy Thầy, em con để con hầu hạ một mình, mà không quan tâm sao sao? Xin Thầy bảo em con giúp con với?” Xem ra cô chị Matta không những bất bình với cô em là Maria mà còn cả với Khách mời nữa. Nhưng Chúa Giêsu bình tĩnh đáp lại: “Matta, Matta, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện. Chỉ có một sự cần mà thôi: Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất” (10,41-42).

Thái độ cần phải có

Chính câu nói này của Chúa Giêsu làm nảy sinh những khuynh hướng khác nhau. Có người cảm thấy tiếc cho Matta, vì Maria đã bỏ mặc tất cả mọi công việc cho Matta, trong lúc cô ta vui hưởng cuộc nói chuyện với Chúa Giêsu, khi Matta đến phàn nàn, Chúa Giêsu lại nói: “Matta, Matta con lo lắng nhiều chuyện, Maria đã chọn phần tốt nhất”. Vậy là việc cô làm chưa phải là tốt nhất.

Khuynh hướng khác cho rằng, Chúa Giêsu không có ý phê phán thái độ hiếu khách của Matta khi Ngài nêu bật hành vi của Maria “ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người.” Tuy nhiên, khi phải chọn lựa thì Chúa Giêsu vẫn thích người “nghe” lời Người hơn là loay hoay chuyện rót nước, dọn cơm… Ngài cũng cho biết đây là “phần tốt nhất, và sẽ không bị lấy mất. “

Hẳn Chúa Giêsu không làm một cuộc so sánh về hai thái độ: một của Matta tất bật với việc tiếp đãi Khách, và một của Maria ngồi bên chân Khách để trò chuyện. Trong thực tế, cả hai thái độ này đều cần thiết: tinh thần hiếu khách được biểu lộ cụ thể và tích cực qua việc chuẩn bị bữa ăn, nhưng cũng được thể hiện không kém qua sự hàn huyên tâm sự. Chúa Giêsu đề cao thái độ của Maria, nhưng không hề giảm thái độ của Matta. Chúa không chê hoạt động, lại càng không trách sự tiếp đón quảng đại, Ngài chỉ muốn mượn hình ảnh của Maria đang ngồi dưới chân Ngài để nói lên thái độ cơ bản con người phải có đối với Thiên Chúa, đó là thái độ lắng nghe lời Chúa. Lời Chúa thì vững bền và mang lại ý nghĩa cho các hoạt động hằng ngày của chúng ta.

Gương của Matta và Maria

Matta và Maria trong Tin Mừng hôm nay nêu gương cho chúng ta và bảo chúng ta rằng nhân đức không chỉ có một mặt, vì trong việc tông đồ, người này làm việc tích cực, hết sức mình, người kia quan tâm đến việc rao giảng Lời Chúa. Nếu sự quan tâm này kết hợp sâu xa với đức tin, thì sẽ rất tốt cho công việc: “Maria đã chọn phần tốt nhất”.

Chúng ta cũng thế, chúng ta cần phải cố gắng, để có được điều mà không ai có thể lấy mất được, nên cần phải lằng nghe. Lắng nghe ở đây không phải là đãng trí, nhưng là chú ý; vì ngay cả hạt giống lời Chúa từ trời xuống cũng bị lấy mất, nếu hạt giống đó gieo bên vệ đường, không được gieo vào đất tốt, tức là nghe những không được đón nhận (Lc 8, 5.12)

Lắng nghe lời Chúa như cô Maria là khôn ngoan, vì đây là việc làm cao cả và hoàn hảo nhất. Lo lắng phục vụ là cần thiết, nhưng làm sao để những lo lắng phục vụ không cản trở ta đón nhận Lời Chúa từ trời xuống. Hãy khoan đừng có chỉ chích phê bình hay kết án những sự nhàn rỗi, những người mà chúng ta sẽ thấy họ làm việc tất bật để có được sự khôn ngoan, như Salomon, một con người hiền hòa, đã nài xin Chúa gửi Đức khôn ngoan của Ngài tới cự ngụ nơi nhà ông, khi thưa: “Lạy Chúa, xin gửi Đức không ngoan Ngài tới, để phù trì và đồng lao cộng khổ với con” (Kn 9, 10). Tuy nhiên đấy không phải là lời trách móc những việc Matta làm: Maria được Đức Giêsu thích hơn vì Maria đã chọn phần tốt nhất. Đức Giêsu là Đấng giầu có, và Ngài trao ban cho cả hai cô Matta và Maria cách quảng đại; Maria là người nữ khôn ngoan, vì cô biết nhận ra và chọn lựa điều quan trọng nhất.

Các Tông Đồ cũng cho rằng: “Chúng tôi mà bỏ việc rao giảng Lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống, là điều không phải” (Tđcv 6,2). Khi đứng giữa hai điều, một là rao giảng Lời Chúa, hai là phục vụ, tất cả đểu là việc khôn ngoan: Stéphanô cùng với Philipphê, Pơrôkhôrô, Nicano, Timôn, Pácmêna và ông Nicôla, đã chọn việc phục vụ, với tư cách là thầy phó tế, và các ngài đã hoàn thành cách thật khôn ngoan (Tđcv 6,5.8)… Như thế, Giáo hội là một thân thể, các bộ phận tuy nhiều nhưng chỉ là một thân thể: “Vậy mắt không có thể bảo tay: “Tao không cần đến mày”; đầu cũng không thể bảo hai chân: “Tao không cần chúng mày”. (1 Cr 12, 21)… Nếu có một vài chi thể quan trọng nhất, thì các bộ phận khác cũng không kém phần quan trọng. Sự khôn ngoan ở trong đầu, còn hoạt động thể hiện nơi những bàn tay.

Lời Chúa trong cuộc đời

Sống trong một thế giới đang đánh mất dần ý thức về thần linh, trong một thế giới đề cao quá mức những thực tại vật chất. Người Kitô hữu phải lấy việc lắng nghe Lời Chúa là điều quan trọng nhất. Chúng ta có thể lắng nghe tiếng Ngài, bằng cách suy niệm Kinh Thánh với đức tin, bằng cách tĩnh tâm cầu nguyện riêng cá nhân cũng như cộng đoàn, bằng việc im lặng mặc niệm trước Thánh Thể; từ Nhà Tạm, Chúa Kitô nói với chúng ta về tình yêu của Người. Đặc biệt vào ngày Chúa Nhật, những người kitô được mời gọi đến gặp gỡ và lắng nghe Chúa. Điều này được thực hiện cách trọn vẹn, nhờ qua việc tham dự vào Thánh Lễ, trong đó Chúa Kitô dọn ra cho các tín hữu bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Bánh ban sự sống. Tuy nhiên, những giây phút cầu nguyện và suy tư, những giây phút nghỉ ngơi và sống tình huynh đệ, cũng có thể góp phần hữu ích vào việc thánh hóa ngày của Chúa.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giêsu, Mẹ đã chọn phần tuyệt hảo là lắng nghe và tuân giữ lời Chúa, xin Mẹ giúp chúng con gắn bó cùng Chúa cho đến trọn đời. Amen.

 

  1. Điều Cần – Lm Vũ Đình Tường

Có những điều chúng ta muốn và có những điều chúng ta cần. Những gì cần thì quan trọng hơn là muốn bởi vì muốn có nghĩa là có cũng được mà không có cũng chẳng sao. Quá quắt lắm muốn mà không được thì cãi nhau một trận, giận nhau một thời gian, rồi thôi. Nếu giận mãi, giận hoài sẽ trở thành quá khích mà quá khích thì khó chiều.

Điều cần là điều không thể thiếu. Nếu thiếu mà chấp nhận được, điều đó có thể nằm giữa cần và muốn. Điều cần là điều không thể thiếu vì nó cần thiết cho cuộc sống. Điều chúng ta muốn nếu có sẽ làm cho cuộc sống bảnh hơn trong khi điều cần mang lại sự sống cho con người vì thế điều cần là điều không thể thiếu vì nó liên quan đến sống còn.

Những điều chúng ta cần cũng thay đổi tùy hoàn cảnh cuộc sống. Hôm nay tôi cần có thời gian thinh lặng một mình, ngày mai tôi lại cần có bạn. Hôm nay tôi cần lắng nghe bạn và rất có thể ngày mai lại cần bạn lắng nghe tôi tâm sự. Hôm nay tôi cần bạn chia sẻ niềm vui ngày mai tôi cần bạn cùng tôi suy gẫm sự đời. Tình cảm con người lạ lắm. Cũng là tình cảm nhưng mỗi loại khác nhau. Niềm vui chia sẻ làm tăng niềm vui, tâm sự buồn chia sẻ làm vơi nỗi sầu. Cơn nóng giận tăng lên nếu có người châm dầu trong khi lời an ủi làm tươi làn môi.

Có điều cần liên quan đến bản thân, có điều cần liên quan đến tâm lí, có điều cần liên quan đến tâm linh con người. Những điều liên quan đến bản thân dễ nhận ra; điều cần liên quan đến tâm lí hơi khó nhận biết, đôi khi cần có người trợ giúp để nhận biết. Điều cần liên quan đến tâm linh rất khó nhận ra vì nó không gây áp lực mãnh liệt trong cuộc sống nhưng bàn bạc khi ẩn, khi hiện, khi mãnh liệt, lúc lại nhẹ nhàng. Dấu chỉ nhận biết nhu cầu tâm linh lệ thuộc vào đời sống nội tâm. Đời sống nội tâm không nhìn được chỉ cảm nhận được. Người cảm nhận mãnh liệt nhất chính là đương sự. Nếu đương sự không quan tâm để í vấn đề còn khó hơn nữa. Cảm thấy chán nản trong cuộc sống, bình an nội tâm thiếu vắng, mất í nghĩa cuộc đời, tương lai mù mờ, đời vô vị, mất nghị lực làm việc. Những dấu chỉ đó cho thấy tâm hồn đói khát tâm linh. Thân xác có thể no đủ nhưng tâm linh đói khát. Tâm linh mạnh khoẻ mang lại bình an nội tâm, hướng tâm hồn về tương lai trong tình yêu hy vọng. Không giống nhu cầu thân xác khi đói khát nó đòi hỏi rất mãnh liệt trong khi nhu cầu tâm linh đòi hỏi nhẹ nhàng, thoang quảng trong cuộc sống. Mất bình an nội tâm, cô đơn và mất hy vọng là những dấu chỉ rõ nhất. Một số tìm niềm vui nơi chốn đông hy vọng lấp khoả trống vắng tâm hồn, số khác trốn cô đơn qua rượu và thuốc. Tất cả những thứ đó làm dịu nhu cầu đang thiếu, thoả mãn nhu cầu tâm linh cách giả tạo. Tâm linh muốn những gì lâu dài, trường cửu. Vật chất trần thế có giới hạn riêng của nó, nên không thể tìm niềm vui vĩnh cửu nơi trần thế mà phải tìm niềm vui đó nơi Đức Kitô vì Người là nguồn tình yêu vô tận.

Trốn tránh cô đơn trong vật chất biến ta thành con người ích kỉ, chỉ biết đến mình, mong thoả mãn nhu cầu riêng mình, quên nhu cầu tha nhân. Kinh thánh hôm nay nhắc chúng ta một điều quan trọng. Đó là không cần phải đi tận chân trời, góc biển tìm kiếm bình an nội tâm. Tìm ngay trong gia đình, nơi người mình đang chung sống, nơi cộng đoàn mình đang sinh hoạt vì những nơi đó Lời Chúa được thể hiện, được mang ra thực hành. Điều rõ ràng là cô Martha bận rộn liên tục nhưng tâm bất an; trong khi cô Maria ngồi dưới chân Đức Kitô và cô tìm được bình an nội tâm. Những ai lắng nghe Lời Chúa sẽ tìm được bình an nội tâm. Dùng Lời Chúa biện hộ khi tranh luận là tỏ ra có kiến thức nhưng trong họ không có ơn khôn ngoan. Lời Chúa phải được thực hiện qua hành động bác ái, yêu thương, mà không dùng để nói lí lẽ.

 

  1. Để cho Lời Chúa soi dẫn cuộc đời

(Trích dẫn từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm Ignatiô Trần Ngà)

Hôm ấy, các đệ tử của Thầy hăng say thảo luận về nguyên nhân đau khổ của nhân loại.

Người thì nói là do lòng tham vô đáy của con người thúc đẩy, kẻ thì cho là do tính ích kỷ thâm căn cố đế hoặc tính kiêu căng và óc thống trị xui khiến, một số khác cho là do sự chia rẽ chủng tộc hay tôn giáo phát sinh…

Sau cùng, các đệ tử quay sang hỏi ý kiến Thầy, Thầy nói: “Mọi đau khổ đến từ việc con người thiếu khả năng ngồi yên lặng một mình để lắng nghe…” (Phỏng theo Cha Anthony de Mello)

* * *

Yên lặng để lắng nghe! Để nghe Chúa nói, để nghe lời khôn ngoan… Đó cũng là điều mà Cô Maria thể hiện qua đoạn Tin Mừng hôm nay.

Hôm ấy, Chúa Giêsu đến thăm gia đình Mácta. Mácta tất bật lo việc nấu dọn để hầu hạ Chúa, hy vọng Chúa sẽ rất hài lòng về sự tiếp đãi ân cần, chu đáo và tận tình như thế.

Vậy mà Chúa Giêsu lại đề cao thái độ chăm chú lắng nghe của Maria hơn và trách Mácta:

“Mácta! Mácta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi.” (Lc 10, 41-42)

Nhiều lần trong Tin Mừng, Chúa Giêsu khẳng định với mọi người rằng lắng nghe và thi hành Lời Chúa là điều tối cần thiết và quan trọng nhất.

Lắng nghe Lời Chúa là chuyện cần thiết nhất vì Lời Chúa là đèn soi cho loài người tiến bước trong đêm tối và vượt qua bao giông tố của cuộc đời. “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi.” (Thánh vịnh 119,105). Nhờ ngọn đèn nầy, người lầm lạc thấy được chân lý, người tội lỗi được hoán cải để sống đời thánh thiện, người thất vọng được tìm thấy niềm tin và hy vọng tràn trề… Thiếu Lời Chúa, nhân loại như đang chìm trong tối tăm.

Một chiếc xe vượt qua nhiều đoạn đường đèo quanh co, cheo leo hiểm trở trong đêm tối mà xe lại chạy không đèn thì chắc chắn sẽ lao xuống vực. Đời người với bao nhiêu thăng trầm thách thức của cuộc sống khác gì chiếc xe vượt đèo kia, nếu không được ánh sáng của Lời Chúa soi dẫn, thì sẽ không thoát khỏi tai ương.

Đối với những ai biết đón nhận Lời Chúa và nhận lấy ánh sáng Lời Chúa soi dẫn cho hành động, người ấy sẽ đạt được những thành quả tốt đẹp trong đời mình.

Lời Chúa thật sự đã mang lại giải pháp tối ưu cho mọi vấn đề của cuộc sống.

Trong thời kỳ đất nước Việt Nam của chúng ta bị đặt dưới ách đô hộ của người Pháp thì tại nam Á, một quốc gia khác to lớn hơn nhiều cũng bị đặt dưới ách thống trị của người Anh. Đó là quốc gia Ấn-độ. Đế quốc Anh cũng hùng cường không thua kém gì đế quốc Pháp. Cả nhân dân Việt Nam cũng như nhân dân Ấn đều đứng lên để lật đổ chế độ thực dân và giành độc lập cho xứ sở mình.

Trong cuộc đấu tranh nầy, nhân dân Việt Nam phải dùng đến bạo lực, đến khí giới và đã trả giá cho nền độc lập bằng vô vàn sinh mạng và máu xương!

Trong khi đó, tại Ấn-độ, dưới tài lãnh đạo của thánh Gandhi, vị anh hùng của nhân dân Ấn và là người được dân Ấn gọi là thánh, người dân Ấn đấu tranh bằng đường lối ôn hoà bất bạo động mà thánh Gandhi học được từ Tin Mừng của Chúa Giêsu: “Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét các ngươi… Ai vả má bên nầy thì hãy chìa má bên kia ra…”

Bằng đường lối bất bạo động học từ Tin Mừng của Chúa Giêsu, Gandhi và nhân dân Ấn-độ đã lật đổ được đế quốc Anh, bẻ gảy ách thống trị của người Anh, giành lại độc lập cho quê hương xứ sở mà không cần đến khí giới.

Vài chục năm, tại đất nước Hoa-kỳ, Mục sư Martin Luther King cũng đã dùng Lời Chúa soi sáng cho cuộc đấu tranh bất bạo động của mình, và ông đã đạt được thắng lợi vẻ vang, buộc người da trắng nhìn nhận, tôn trọng quyền lợi và phẩm giá của người da đen mà không cần đến khí giới.

Như thế, Lời Chúa quả đã đem lại những giải pháp tối ưu cho mọi vấn đề và thách thức trong cuộc sống.

Hôm nay, Chúa Giêsu lại đem Tin Mừng của Ngài trao tặng miễn phí cho chúng ta để làm đèn soi cho chúng ta trong cuộc sống nhiều mây mù u tối nầy.

Cuộc đời chúng ta như những chuyến xe phải vượt những chặng đường đèo cheo leo hiểm trở giữa màn đêm. Lời Chúa vẫn mãi mãi là đèn soi dẫn. Ước gì chúng ta đón nhận Lời Chúa để soi sáng cho hành trình còn lại trong cuộc đời chúng ta.

 

  1. Quà tặng vô giá – Lm. Ignatiô Trần Ngà

Khi Chúa Giê-su đến thăm nhà, cô Mác-ta đã dành cho Người một cuộc tiếp đón rất nồng nhiệt. Cô “tất bật lo việc phục vụ” Chúa thật chu đáo, Cô “băn khoăn lo lắng nhiều chuyện”… để cho Chúa được vui lòng. Thế mà chẳng được Chúa khen, lại còn bị trách là: “Sao con băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá!” Thế có oan không chứ?

Thật ra, Chúa Giê-su không có ý trách Mác-ta về việc phục vụ hầu hạ tận tình của cô. Chúa chỉ muốn lưu ý Mác-ta rằng: Điều cần thiết hơn cả là lắng nghe, là đón nhận lời Người. Cô Maria đã khôn ngoan chọn làm việc nầy (tức lắng nghe Lời Chúa) và Chúa Giê-su cho đó là chọn phần tốt nhất.

Maria đã chọn phần tốt nhất vì lắng nghe lời Chúa là việc làm hệ trọng nhất trên đời, là khai thác một kho tàng vô giá không có gì trên cõi đời nầy có thể sánh được, là nắm lấy bí quyết để được sống hạnh phúc muôn đời. ..

***

Hôm nay, Chúa Giê-su cũng lại đến nhà chúng ta và trao gởi cho chúng ta những tâm tình, những lời châu ngọc, những giáo huấn khôn ngoan… như Người đã trao ban cho cô Maria hôm xưa. Đó là cuốn Tin Mừng.

Để có thể trao tặng cho chúng ta cuốn Tin Mừng như chúng ta hiện có hôm nay, Chúa Giê-su đã phải ‘biên soạn’ rất công phu. Người đã phải mất đến ba mươi ba năm mới hoàn thành tác phẩm rất vĩ đại nầy.

Thật ra, Chúa Giê-su không viết Tin Mừng nhưng Người đã dệt nên Tin Mừng bằng ba mươi ba năm cuộc sống.

Tin Mừng của Chúa Giê-su được dệt bằng chính cuộc sống dương gian của Người, kể từ lúc đầu thai trong lòng Đức Maria, sinh ra trong chuồng bò, trốn lánh sang Ai Cập, trở về sống đời niên thiếu ở Na-da-rét, rồi lớn lên trong phấn đấu nhọc nhằn, đổ mồ hôi lao động đổi lấy áo cơm…

Tin Mừng của Đức Giê-su Ki-tô được tiếp tục dệt bằng ba năm thao thức rao giảng trên các nẻo đường Do-Thái, dệt bằng lòng yêu thương người tội lỗi, dệt bằng lòng thương xót các bệnh nhân và người đau khổ, dệt bằng lòng thứ tha vô hạn, bằng tình yêu không biên giới…

Tin Mừng Đức Giê-su được đan dệt bằng nước mắt và mồ hôi máu cùng nỗi buồn sầu quá đỗi trong vườn Cây Dầu, bằng roi đòn tươm máu, bằng vác thập giá đau thương, bằng những giọt máu cuối cùng vọt ra từ cạnh sườn bị đâm thâu trên thập giá…

Tin Mừng Đức Giê-su được thành hình như thế đó, không phải bằng chữ viết mà bằng cả cuộc đời, một cuộc đời sống cho tình yêu, chết cho tình yêu, yêu cho đến cùng…

Để trao tặng cho chúng ta một cuốn Tin Mừng, Đức Giê-su đã phải trả giá như vậy đó ! Vậy thì Tác Phẩm nầy đắt giá biết bao !

Tin Mừng Đức Giê-su cũng là kho tàng khôn ngoan siêu đẳng của Thiên Chúa, được Đức Giê-su đem từ trời xuống ban tặng cho thế gian để nhờ Tin Mừng của Người, loài người học được sự khôn ngoan của Thiên Chúa, được sống trong an bình và được vui hưởng hạnh phúc muôn đời trên thiên quốc.

So với sự khôn ngoan được Chúa Giê-su bày tỏ trong Tin Mừng, thì sự khôn ngoan của thế gian nầy chỉ là rơm rạ, cỏ rác!

Tóm lại, Tin Mừng là kho tàng trên hết mọi kho tàng, là nguồn mạch khôn ngoan trổi vượt khôn ngoan thế gian, là nguồn phát sinh hạnh phúc và sự sống, là con đường đưa tới sự sống đời đời. Đây là một công trình vĩ đại được hình thành suốt ba mươi ba năm dương thế của Thiên Chúa Ngôi Hai với sự chỉ đạo của Chúa Cha và sự cộng tác của Chúa Thánh Thần.

Công trình vĩ đại nầy, quà tặng vô giá nầy, kho tàng quý báu nầy được Thiên Chúa trân trọng trao vào tay chúng ta. Vậy mà chúng ta không muốn nhận. Chúng ta quá thờ ơ hờ hững với tặng phẩm cao quý nầy; như thế là xúc phạm đến Đấng đã trao ban.

Có lẽ cũng như Mác-ta ngày xưa, chúng ta “lo lắng băn khoăn về nhiều chuyện quá” nên chẳng còn tâm trí đâu mà nghĩ tới Tin Mừng; cõi lòng chúng ta đầy ắp những tham vọng trần thế, những ham muốn phàm trần nên không còn chỗ cho Tin Mừng của Chúa bén rễ. Đáng tiếc thay!

***

Hôm xưa, khi Chúa Giê-su đang giảng giữa đám đông, một phụ nữ thán phục Người quá đỗi nên đã cất tiếng ca tụng: “Phúc thay người Mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm !” Nhưng Chúa Giê-su trả lời người ấy rằng: “Đúng hơn phải nói rằng: “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa”. (Lc 11, 27-28)

Ước gì hôm nay chúng ta trân trọng đón nhận quà tặng vô giá Chúa ban là Tin Mừng sự sống và sốt sắng lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa, để mai ngày đáng được Thiên Chúa liệt vào hàng ngũ những người được hưởng phúc đời đời.

 

  1. Maria đã chọn phần tốt nhất

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn An Khang)

Chỉ còn ba cây số, Đức Giêsu và các môn đệ sẽ đến trung tâm Giêrusalem, Người đã dừng lại tại làng Bêtania, vào nhà Mácta, Maria và Ladarô, ngôi nhà Người quen biết. Các sách Tin Mừng nói về họ ba lần. Gioan trong một câu ngắn ngủi, đã kể lại: “Đức Giêsu quý mến cô Macta, cùng hai người em là cô Maria và anh Ladarô” (Ga 11,5). Macta, một người hoạt động; Maria, một người trầm lặng. Như thế, Đức Giêsu đã có những người bạn hữu.

Hôm nay, khi Đức Giêsu vào nhà, Macta phục vụ bữa ăn, Maria ngồi dưới chân Chúa. Đức Giêsu nói chuyện với Maria… cô lắng nghe. Hai người cùng nhau nói điều gì? Chắc Đức Giêsu sẽ tâm sự với Maria về cái chết và sự Phục sinh của Người, Người lên Giêrusalem là vì việc đó. Nó chiếm trọn tâm hồn Người. Đã nhiều lần Người chia sẻ với các môn đệ, nhưng xem ra họ không hiểu. Với Maria, cô có hiểu không? Về câu chuyện tâm sự đó, há chẳng có một sự đồng cảm mầu nhiệm và tuyệt vời của tình bạn cởi mở đó sao?

Dẫu sao, nhờ Maccô và Gioan, ta biết người phụ nữ trực cảm này đã hiểu rõ hơn những người khác mầu nhiệm cái chết, sự mai táng và sự sống lại của Đức Giêsu. Đức Giêsu sẽ trở lại Bêtania trong nhà cô, những ngày trước Lễ Vượt Qua. Một cách dịu dàng, Maria sẽ thực hiện trước việc ướp xác bằng dầu thơm cho Người, một việc mà các phụ nữ khác không thể thực hiện được, khi họ đến mộ “ngày đầu tiên trong tuần”, bởi mộ trống. Maria đã làm việc đó với sự tinh tế tuyệt diệu. Đức Giêsu hiểu điều đó: “Điều gì làm được, cô ấy đã làm. Cô đã lấy dầu thơm ướp xác Tôi, để chuẩn bị ngày mai táng” (Mc 14,8 & Ga 12,2-8).

Đang khi Maria tâm sự với Đức Giêsu, Macta tất bật lo việc phục vụ, đã nói: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Thầy bảo nó giúp con một tay”. Hẳn ta có thể mong đợi Đức Giêsu kêu gọi Maria phải ngoan ngoãn giúp chị. Trong nhiều tình huống, Đức Giêsu yêu cầu ta phải phục vụ, phải yêu thương. Tuy nhiên, câu trả lời của Đức Giêsu lại ngược hẳn: “Macta! Macta, con băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một điều cần mà thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất”.

Vâng, Macta lo lắng, dao động quá nhiều. Đây là một đề tài được Đức Giêsu ưa thích. Người đã nói, “những lo lắng về đời sống có thể bóp nghẹt Lời Chúa đã được gieo vào lòng người” (Lc 8,14). Người yêu cầu các Tông đồ không nên bận tâm về của ăn và áo mặc (Lc 12, 22-26). Người cũng bảo chớ để lòng mình ra nặng nề vì lo lắng sự đời, trong lúc chờ đợi Con Người lại đến (Lc 21,34). Đức Giêsu không trách Mácta về công việc cũng như sự nhiệt tình tiếp đón tích cực của cô, nhưng trách sự căng thẳng, sự dao động thái quá mà dường như cô đặt vào công việc. Rõ ràng là một sự bực bội nào đó, làm cho cô co quắp lại với chính mình.

Phần chúng ta, có lẽ nhiều khi cũng giống như Mácta, lúc nào cũng chạy phi nước đại, bận trăm công nghìn việc. Cuộc sống thường ngày của chúng ta được cấu thành bởi hàng loạt những việc mọn và bổn phận, chia làm hai hạng: Cấp bách và chính yếu. Rất nhiều việc chúng ta làm được gọi là cấp bách, nhưng chỉ có ít việc là thực sự chính yếu. Chúng ta cần phân biệt giữa hai hạng đó. Như Mácta, chúng ta có xu hướng coi trọng việc cấp bách. Việc chính yếu, việc cần thiết lại bị coi là thứ yếu và để lại làm sau. Nhưng khi được làm, nó được làm cách vội vàng, chiếu lệ.

Làm sao chúng ta có thể biết đâu là việc chính yếu, việc hàng đầu của mình? Cách tốt nhất để nhận ra nó, là phải suy nghĩ theo cách cư xử thông thường của mình. Điều gì làm cho chúng ta tốn thời gian nhất? Điều gì làm ta phải bỏ nhiều năng lực nhất? Đích thực đó là việc chính yếu của ta.

Maria đã làm điều chính yếu: “Ngồi bên chân Chúa, nghe lời Người dạy”. Khi khẳng định đó là điều cần thiết duy nhất của con người, bằng một phương thế triệt để và mạnh mẽ, Đức Giêsu đã thực hiện một mạc khải: Lời Chúa phải được ưu tiên hơn mọi lo lắng trần gian. Đức Giêsu cũng đã đưa ra cùng một yêu sách như thế trong những dịp khác: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh mà còn bằng Lời từ miệng Chúa phán ra” (Lc 4,4), “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn Đấng đã sai Thầy” (Ga 3,34). Đức Giêsu không đánh giá thấp sự phục vụ mà Macta đem lại, khi bận rộn với việc nội trợ và bếp núc. Nhưng để đi theo Đức Giêsu, ngay cả những gì có giá trị nhân bản nhất cũng phải buông bỏ (Lc 5,11-18; 22,9). Hãy lắng nghe lời Chúa, đó là bổn phận đầu tiên của con người. Giảng dạy lời Chúa là bổn phận trước hết của nhà truyền giáo. Đức Giêsu nói đó là sự cần thiết duy nhất, tuyệt đối, triệt để. Đây không phải là lần đầu tiên cũng không phải lần cuối cùng, Đức Giêsu khẳng định điều đó. Không lắng nghe lời Chúa, chính là xây nhà trên cát (Lc 6,47-49), lắng nghe lời Chúa chính là trở thành mảnh đất trổ sinh hoa trái (Lc 8,4-15). Hạnh phúc chân thật và duy nhất của Đức Maria không phải vì là Mẹ của Chúa, song vì Mẹ đã “lắng nghe lời Chúa và đem ra thực hành” (Lc 11,27-28).

Lòng chúng ta yêu thích lắng nghe Lời Chúa như thế nào? Có phải đó là phần tốt nhất của chúng ta? Chúng ta có ưu tiên không? Điều nào là điều chính yếu?

 

  1. Cầu nguyện hướng tới phục vụ

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)

Mẹ Têrêxa Calcutta chia sẻ bí quyết: “Nếu chúng ta cầu nguyện thì chúng ta mới tin; nếu chúng ta tin thì chúng ta mới yêu thương; nếu chúng ta yêu thương thì chúng ta mới phục vụ. Bí quyết sống của tôi hết sức đơn sơ. Tôi cầu nguyện. Và trong cầu nguyện, tôi say mê yêu mến Chúa Kitô, và tôi hiểu rằng cầu nguyện với Chúa là yêu mến Chúa, và điều này có nghĩa là chu toàn Lời Chúa dạy. Hãy nhớ những lời của Phúc Âm theo thánh Mathêu:Ta đói và các con đã không cho ta ăn, Ta khát và các con đã không cho ta uống; ta là khách lạ và các con đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các con đã không cho mặc. Ta bệnh hoạn và bị cầm tù, các con đã không đến thăm Ta.

Những người nghèo của tôi ở mức độ tận cùng của xã hội là như Chúa Kitô chịu đau khổ. Nơi họ, Con Thiên Chúa sống và chết, và qua họ Thiên Chúa chỉ cho tôi nhìn thấy dung mạo thật của Ngài. Đối với tôi, cầu nguyện có nghĩa là sống 24 giờ một ngày hoàn toàn tuân theo mệnh lệnh của Chúa Giêsu, là sống nhờ Ngài, trong Ngài và với Ngài.

Nếu chúng ta cầu nguyện, thì chúng ta mới tin; nếu chúng ta tin, thì chúng ta mới yêu thương; nếu chúng ta yêu thương thì chúng ta mới phục vụ. Chỉ khi đó chúng ta mới có thể đặt tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa trong hành động cụ thể, là phục vụ Chúa Kitô trong dung mạo cùng khổ của nguời nghèo”.

Sách Giáo Lý Công Giáo diễn tả: “cầu nguyện thế nào thì sống như vậy” (số 2725). Đời sống Kitô hữu đích thực vừa là một hoạt động có chiêm niệm vừa là một chiêm niệm có hoạt động. (Tông Huấn Giáo Hội tại Á Châu, số 23).

Cầu nguyện và hành động đều rất cần thiết cho đời sống Kitô hữu. Cần thực hiện cách quân bình và điều hòa trong cuộc sống hàng ngày.

Tin mừng hôm nay kể chuyện hai chị em Matta và Maria đón tiếp Chúa Giêsu, mỗi người mỗi cách. Maria ngồi bên chân Chúa với tâm thế lắng nghe. Cô không làm gì, không nói gì, chỉ ngồi nghe. Cô đón tiếp Chúa Giêsu với một phong cách tốt nhất.

Matta lo việc bếp núc, phục vụ ăn uống. Có lẽ Matta ganh tị với em nên khiếu nại với Chúa: “Thưa Thầy, em con để một mình con phục vụ mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay”. Matta trách em, nhưng cũng là một cách kể công và khoe mình quan trọng và có thể coi đó như một lời trách khéo đối với Chúa Giêsu.

Nhưng Chúa nhẹ nhàng đáp lại: “Matta, Matta ơi, con lo lắng bận rộn nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất “. Chúa đã khen Maria biết chọn phần tốt nhất. Chọn phần tốt nhất không phải là chọn làm nhiều, nhưng là biết nghe, hiểu, và làm theo ý Chúa. Việc lắng nghe để nhận ra thánh ý Chúa nhiều khi đòi hỏi người ta phải biết cầu nguyện, phải giữ một tâm hồn thanh tĩnh và phải biết tập trung cao độ để nhận ra được thánh ý Chúa. Đức Hồng Y FX Nguyễn Văn Thuận bị chính quyền Cộng sản bắt khi ngài đang tiến hành những công việc của giáo phận như mở Đại Chủng viện, các dòng tu, các khoá huấn luyện… Ai sẽ là người kế nhiệm để lo công việc mục vụ quan trọng này? Ngài lo lắng ngày này qua ngày khác. Rồi đến một ngày, ngài nhận ra rằng: “Tất cả những gì tôi đang lo lắng là việc của Chúa. Còn lúc này đây, Chúa muốn cho tôi tìm chính ý Chúa. Tôi đang làm việc cho Chúa thì tại sao lại lo lắng những công việc của Chúa. Nếu đã đạt được ý Chúa thì công việc của Chúa khắc có người lo”. Và từ lúc ấy, ngài tìm được bình an. Ngài chỉ tìm ý Chúa, còn công việc của Chúa thì người này lo, người khác lo và Chúa quan phòng luôn tiếp tục. Ngài nhận định “Không phải Maria ngồi yên dưới chân Chúa vì làm biếng. Phúc Âm không phong thánh cho người làm biếng. Maria chọn phần tốt nhất: nghe Chúa nói, để Lời Chúa thấm tận tâm can, lay chuyển mình, làm việc trong mình. Có gì hoạt động bằng sự lột xác, sự biến đổi ấy?” (ĐHV 147).

Người ta thường giải thích câu nói của Chúa Giêsu như một sự đề cao chiêm niệm trên hoạt động. Matta tiêu biểu cho đời sống hoạt động, lo lắng về những nhu cầu vật chất. Maria tiêu biểu cho đời sống chiêm niệm, lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện. Trên thiên đàng người ta chỉ còn chiêm ngắm Thiên Chúa trong niềm hạnh phúc vĩnh cữu. Như thế, Maria đã đạt tới cùng đích của đời sống Kitô hữu. “Phần hơn” của cô là ở chỗ đó. Có Chúa rồi, “chiếm hữu” được Chúa rồi thì còn gì hơn nữa!

Chúa Giêsu đón nhận sự phục vụ ân cần của Matta và đưa ra bậc thang giá trị, cần “chọn phần tốt nhất”. Chọn Lời Chúa và lắng nghe. Đó chính là “phần tốt nhất” như lời Tv 119: “Lạy Chúa, con đã nói, phần của con là tuân giữ Lời Ngài “. Lắng nghe Lời chính là xây dựng nhà mình trên đá (Lc 6,47-49). Lắng nghe Lời giúp tâm hồn trở thành mảnh đất trổ sinh hoa trái (Lc 8,4-15). Hạnh phúc của Đức Maria là “lắng nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 1 1,27-28).

Đối với Chúa Giêsu, cả hai cách phục vụ của Matta và Maria đều cần thiết và bổ túc cho nhau. Điều Chúa muốn nhắc cho Matta là: việc cốt yếu đối với người môn đệ là “nghe Lời Chúa và đem ra thực hành”. Nhiều lần, Chúa nói về điều cốt yếu ấy: “Phúc cho ai nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 11,28); “Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8,21; Mt 12, 46-50; Mc 3, 31-35).

Hoạt động và cầu nguyện là nhịp sống đời Kitô hữu. Cầu nguyện là linh hồn của hoạt động và hoạt động là kết quả của cầu nguyện. Cầu nguyện làm nền tảng cho mọi hoạt động.Nhờ cầu nguyện nên việc phục vụ tha nhân được tốt hơn. Mẹ Têrêxa Calcutta và các Nữ tu dù bận rộn công việc hằng ngày vẫn luôn dành thời giờ tham dự Thánh lễ, chầu Thánh Thể. Mẹ luôn là gương sáng cho các Nữ tu, cầu nguyện trước khi hoạt động. Mỗi ngày dành một giờ chầu Mình Thánh Chúa, sau đó mới đến các nơi nghèo nàn ở Calcutta để chăm sóc những người nghèo khổ hoặc đi vào trong các căn nhà tồi tàn giúp những người hấp hối được chết lành.

Tham dự Thánh lễ chính là lúc chúng ta như Maria ngồi dưới chân Chúa Giêsu lắng nghe Lời Ngài. Đến với Chúa, xin đừng dè sẻn cò kè thời giờ, đừng lật đật vội vã đến trễ về trước, xin đừng dự lễ “đạo gốc cây”, “đạo vòng vòng” ở ngoài sân nhà thờ. Xin đừng đến với Chúa chỉ vì bắt buộc, miễn cưỡng, sợ tội. Hãy đến với Chúa như một người con thảo, đến để gặp Chúa, lắng nghe Lời Chúa, đến là vì lòng yêu mến Chúa và muốn sống hiếu thảo với Ngài mà thôi.

Thánh lễ cũng chính là lúc Chúa đến thăm và ban ơn sủng cho chúng ta. Hãy quý trọng sự hiện diện của Chúa. Hãy tham dự tích cực, linh động, cầu nguyện sốt mến, thưa chuyện với Chúa. Lời Chúa và Thánh Thể ban thêm cho chúng ta đức tin, tình yêu, sức mạnh, lòng can đảm và nhiệt huyết tông đồ để chúng ta dấn thân phục vụ anh em.

Lạy Chúa Giêsu,

Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào, xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.

Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc, xin cho con quý chuộng những lúc được an nghỉ trước nhan Chúa.

Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo, xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa để nghe Lời Người.

Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng, xin cho con thoát được lên cao nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.

Lạy Chúa, ước gì tinh thần cầu nguyện thấm nhuần vào cả đời con.

Nhờ cầu nguyện, xin cho con gặp được con người thật của con và khuôn mặt thật của Chúa. Amen. (Mana)

 

  1. Thời giờ cho Chúa và cho nhau

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Hóa ra một món quà tặng không quan trọng bằng sự hiện diện bên nhau. Vì món quá có thể mua được, có thể thay thế được, nhưng không thay thế một người trong trái tim một ai đó. Có lẽ vì thế mà nhiều người cảm thấy cô đơn khi thiếu sự chia sẻ, sự hiện diện của người mình yêu. Họ được chu cấp tiền. Họ có thể đang ngồi trên nhung lụa nhưng vẫn không hạnh phúc cho bằng có người mình yêu bên cạnh.

Thế nhưng, vẫn còn đó những người chồng bỏ rơi vợ con chỉ vì quá chú trọng đến công việc để kiếm tiền. Vẫn còn đó những người cha người mẹ chỉ mải mê công việc mà thiếu quan tâm đến con cái. Vẫn còn đó những người con nại vào nhiều lý do để trì hoãn việc về thăm gia đình, thăm cha mẹ. Họ đã vì công việc, vì đồng tiền mà để cho những người thân của mình sống trong cô đơn. Họ đâu hiểu rằng: tình người quan trọng hơn đồng tiền. Ai cũng cần được quan tâm, được hỏi han, được chia sẻ, nhưng đôi khi chúng ta lại tưởng chỉ cần hàng tháng mang về ít tiền là đủ rồi! Đây là một sai lầm khiến cho biết bao gia đình tan vỡ.

Chúa Giê-su trong thân phận con người, Ngài cũng đề cao tình người. Mân cao cỗ đầy là tốt, nhưng tốt hơn vẫn là thời giờ dành cho nhau. Ngài đã trách Matta lo lắng nhiều chuyện. Ngài trách Matta lấy phụ thành chính. Ngài đề cao Maria, biết chọn phần tốt nhất là dành thời giờ cho Chúa và bên Chúa. Bữa ăn biểu lộ lòng hiếu khách nhưng bữa ăn sẽ mất ngon nếu thiếu những câu chuyện, những lời nói rộn ràng với nhau. Maria đã chọn phần tốt hơn. Khi cô không vì công việc mà bỏ bê khách. Cô ân cần, chu đáo ngồi bên Chúa để lắng nghe và tâm sự với Chúa.

Ngày hôm nay, thế giới càng văn minh, con người càng vội vã, bận rộn. Người ta có trăm ngàn công việc để quan tâm nên tình người bị xao nhãng. Người ta mải mê với công danh sự nghiệp mà quên đi tình người. Điều đáng sợ cho con người hôm nay là không còn thời giờ bên Chúa. Họ đi lễ vội vàng. Họ đến muộn nhưng về sớm. Họ đi lễ nhưng không gặp Chúa vì chỉ tranh thủ đi lễ cho xong. Họ có thể ngồi hàng giờ bên quán cafe để tán ngẫu với nhau nhưng lại không thể ngồi yên đến năm phút để tưởng nhớ đến Chúa. Họ bận rộn công việc làm ăn buôn bán mà quên rằng có một Đấng luôn chúc phúc cho việc làm ăn của mình. Họ quên sự hiện diện của Chúa. Họ quên cám ơn Chúa. Họ mải mê với công việc và vui chơi giải trí mà quên rằng cuộc đời của họ được như vậy là bởi ơn trời ban xuống.

Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy quảng đại dành thời giờ cho Chúa. Chúa vẫn viếng thăm chúng ta. Chúa vẫn đang lặng lẽ viếng thăm hồn ta. Hãy mở rộng lòng đón nhận Chúa. Hãy ngồi lại bên Chúa để tạ ơn về những ơn lành Chúa ban, để thưa chuyện với Chúa về những khó khăn mà chúng ta đang trải qua.

Việc chúng ta dành thời giờ cho Chúa xem ra có ích cho chúng ta hơn là cho Chúa. Vì qua thời giờ bên Chúa ta kín múc được muôn vàn ơn thánh của Chúa. Ta cầu xin ơn trên ban xuống cho cuộc đời chúng ta. Ta phó dâng vào sự quan phòng của Chúa những ưu tư khó khăn trong cuộc đời chúng ta.

Xin Chúa giúp chúng ta biết ưu tiên cho việc thờ phượng Chúa và biết dành thời giờ cho nhau. Ước gì chúng ta đừng phung phí thời giờ trong những giải trí vô bổ, những đam mê bất chính. Amen.

 

  1. Chúa viếng thăm – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Người Việt Nam thường có câu: “lời chào cao hơn mân cỗ”. Vì cái tình quý hơn là cái ăn cái mặc. Người ta bị bỏ đói một bữa chẳng sao nhưng sẽ cay đắng cả đời khi bị người đời bỏ rơi, hay bị đối xử ngược đãi xem thường. Thực vậy, cái qúy giá ở đời là được anh em yêu thương, tôn trọng và nhất là luôn được anh em chia sẻ, cảm thông. Dù cuộc đời có đau khổ. Dù cuộc đời có gặp bất hạnh hay đói khổ nhưng được anh em đùm bọc, cảm thông, an ủi thì vẫn cảm thấy lạc quan và bình an.

Người ta kể rằng thời Ông Abraham Lincoln làm Tổng Thống của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, ông vẫn thường có thói quen đến thăm các nhà thương để có dịp chuyện vãn với các anh em thương binh trong thời nội chiến.

Một hôm, bác sĩ dẫn Tổng Thống tới phòng các thương binh đang được điều trị và đến bên một bệnh nhân rất nặng. Với giọng nhẹ nhàng, ôn tồn ông hỏi:

– Tôi có thể làm chút việc gì giúp anh được không?

Có lẽ không nhận ra người khách đến thăm mình là ai, nên bệnh nhân gắng gượng nói:

– Xin ông làm ơn viết lá thư cho mẹ tôi.

Người ta trao bút giấy cho Tổng Thống, và ông bắt đầu viết xuống những gì bệnh nhân có thể nói lên được.

“Mẹ rất yêu dấu của con! Con bị thương nặng trong khi thi hành nghĩa vụ quốc gia. Có lẽ con sẽ không bao giờ bình phục được nữa. Xin mẹ đừng khóc nhiều vì con. Xin mẹ hôn hai em Mary và John dùm con. Nguyện xin Chúa chúc lành cho mẹ, cho ba và hai em.”

Nói tới đây, người thương binh ngừng vì không còn sức để nói tiếp nữa, nên ông Lincoln ký thay cho anh ta và thêm: “Viết thay cho con trai của bà. Ký tên: Abraham Lincoln.”

Bệnh nhân xin cho xem lại những gì người khách đã viết thay cho mình, anh ta sửng sốt khi nhận ra người đã tới thăm mình. Anh hổn hển hỏi với giọng ngạc nhiên:

– Ông thật là Tổng Thống của Hoa Kỳ ư?

Abraham Lincoln trả lời cách âu yếm.

– Phải chính tôi đây.

Tổng Thống hỏi thêm xem mình còn có thể giúp anh thương binh được việc gì nữa chăng. Gương mặt anh bỗng chốc bừng lên, anh sung sướng nói:

– Xin Tổng Thống cầm tay tôi, và giúp tôi đi đến cùng.

Trong căn phòng bé nhỏ, ông Tổng Thống với tâm hồn của người cha, âu yếm cầm lấy tay chàng thương binh trẻ trong tay mình và tiếp tục nói với anh những lời khích lệ thân mật cho tới khi anh ta trút hơi thở cuối cùng.

Lời Chúa hôm nay cũng gợi lại một cuộc viếng thăm đầy tình người mà Chúa Giêsu đã dành cho gia đình ở Betania. Ngài đã đến với gia đình Matta và Maria. Cả hai cô đều vui mừng vì có Chúa viếng thăm. Kẻ thì bận rộn rót nước, nấu ăn. Người thì ríu rít chuyện trò bên Chúa. Thật là hạnh phúc cho gia đình côi cút nay lại được ấm áp vui tươi vì có Chúa hiện diện. Thế nhưng, Matta lại quá chú trọng đến việc thiết đãi tiệc tùng. Cô muốn làm một bữa ăn thật thịnh soạn cho Chúa. Cô còn muốn cả em cô hãy ngưng tâm sự với Chúa để cùng giúp cô chuẩn bị bữa ăn. Cô đã mạnh dạn đề nghị với Chúa: xin Thầy hãy nói với Maria giúp con một tay. Lời đề nghị xem ra không được chấp nhận. Vì Chúa đến đây không vì miếng ăn. Vì Chúa không đến để được phục vụ. Con đường Chúa đến với tha nhân là để yêu thương và phục vụ. Chúa không muốn trở thành gánh nặng cho tha nhân. Sự hiện diện của Chúa nơi ngôi nhà này là để nói lên sự quan tâm, tình liên đới và cảm thông. Thế nên, Chúa đã nói với Matta: “Matta, con lo lắng nhiều chuyện, điều quan yếu không phải là việc phục vụ Chúa, mà hệ tại ở việc lắng nghe lời Chúa dạy bảo”.

Cuộc sống hôm nay cũng thật tất bật. Người ta ít có thời giờ để tâm sự với nhau. Người ta càng ít có thời giờ để viếng thăm nhau. Không có tâm sự sẽ không có sự hiểu biết, cảm thông lẫn nhau. Không có những cuộc viếng thăm tình người sẽ phôi phai theo thời gian. Đôi khi những người trong gia đình cũng chẳng có thới giờ viếng thăm nhau, hay chuyện trò với nhau. Thiếu sự viếng thăm tình người như xa dần. Thiếu sự đối thoại sẽ đánh mất sự cảm thông. Vì tình yêu đích thực không dừng lại ở đầu môi chóp lưỡi. Tình yêu không dừng lại ở việc chạnh lòng thương xót mà phải dấn thân để xoa dịu những nỗi đau của đồng loại, để băng bó những thương tích của anh em. Tình yêu đích thực luôn đòi hỏi sự gần gũi, sự cảm thông và nâng đỡ. Chính nhờ sự gần gũi người ta mới hiểu nhau, thông cảm với nhau và nâng đỡ cho nhau.

Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết dành thời giờ cho nhau qua những việc viếng thăm, qua những việc giúp đỡ, qua sự săn sóc đầy tình người, Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết quên đi cái tôi của mình để lo cái lo của anh em, để biết sống mình vì mọi người, để cùng nhau xây dựng một thế giới đầy ắp tình yêu thương. Amen.

 

  1. “Con lo lắng bối rối nhiều chuyện” – André Sève

(Trích dẫn từ ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)

Tôi thèm muốn được ở với Mácta, người phụ nữ độ lượng, hiếu khách. Hạnh phúc biết bao khi được tiếp đón Chúa Giêsu! Thế nhưng hơi thất vọng, Ngài đã rầy chị, một lần nữa Ngài mến Maria hơn.

Mến Maria hơn sao? Chắc chắn rằng Ngài quý mến tấm lòng tự do hoàn toàn lắng nghe Ngài của chị. Ngài không khinh dể Mácta, Ngài khó chịu do sự ân cần của chị. Phải hiểu sự lắng nghe và sự ân cần được nói đến ở đây.

Trong khi biết rằng những lo lắng không ngừng rơi xuống trên chúng ta. Chúa Giêsu không muốn chúng ta để cho những lo lắng ấy chiếm quá nhiều chỗ. Vì như thế là nghi ngờ Thiên Chúa, là mỉa mai kinh “Lạy Cha”, lời kinh của sự không lo lắng, của tấm lòng tự do. Chỉ có một ước muốn lớn lao duy nhất: “Xin cho Nước Cha trị đến!” và một niềm tin cũng lớn lao không kém: “Xin cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày”. Thánh Têrêxa nói: “Chỉ cho ngày hôm nay mà thôi”.

Đúng như ý tưởng của Chúa Giêsu: “Đừng băn khoăn chi cho ngày mai, ngày mai sẽ lo cho ngày mai… Trước tiên hãy tìm Nước Trời, còn mọi điều khác sẽ ban thêm cho các ngươi” (Mt. 6, 33-34). Nhưng chính cái phần cho thêm này làm chúng ta quá bận lòng, và Chúa Giêsu tuyên chiến với những nỗi lo xấu xa này của chúng ta: “Các ngươi lo ăn gì, mặc gì… Các ngươi đừng lo phải nói gì trước toà án… Các ngươi đừng để cho những cây gai lo lắng bóp chết Lời Chúa… Các ngươi đừng để cho những lo toan đè nặng tấm lòng các ngươi…”. Chắc Ngài đã phải kinh ngạc vì thấy nhiều người lo lắng đến thế, mà Ngài thì Ngài đòi cần phải có tinh thần hoàn toàn tự do.

Không thể lui tới với Ngài nếu chúng ta không luôn luôn chú ý giữ gìn sự tự do của chúng ta. Để lắng nghe hoặc để phục vụ Ngài, chúng ta cần loại bỏ các lo lắng thái quá. Chúng ta đã phá hoại rất nhiều sự lắng nghe của chúng ta, mọi người đều dễ dàng nhận ra điều đó.

Chúng ta ít chú ý đến việc các lo toan xâm nhập vào sự phục vụ. Sự lo lắng thái quá thì không tốt, nó có thể làm hỏng sự ân cần, người tận tuỵ trở thành hay càu nhàu, nô lệ cho sự bận rộn của mình và nhanh chóng ghen tị với những người khác vì “họ chẳng làm gì cả”. Chúng ta muốn làm cho vui vẻ thế nhưng lại tạo nên một bầu khí phản kháng, khó chịu.

Đây là điều đã xảy đến với Mácta đáng thương. Chị cũng cần phải có những giây phút đẹp đẽ để lắng nghe và những giây phút cao cả để phục vụ. Ngày hôm đó chị đã không biết hài lòng về tất cả trong sự độ lượng. Chúa Giêsu đến, bữa ăn ngon phải chuẩn bị, niềm vui được thấy Maria hạnh phúc.

Ôi Mácta, chị đã bắt đầu một ngày tốt đẹp biết bao! Chị có thể vừa làm vừa hát. Nhưng chị lo lắng, nóng lòng và không còn tấm lòng tự do nữa. Chính sự tự do này là phần tốt nhất.

 

  1. Chỉ có một việc cần mà thôi – Veritas

(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’)

Có một câu chuyện vui kể rằng, trên một chiếc phi cơ du lịch loại nhỏ có bốn người và một phi công, một thương gia, một linh mục nhà truyền giáo và một hướng đạo sinh. Phi cơ đang bay, bỗng một động cơ bị trục trặc, ngưng hoạt động, viên phi công cố gắng mãi mà động cơ vẫn không hồi phục và cũng không thể đáp khẩn cấp ở đâu được. Cuối cùng, ông phải tuyên bố một giải pháp là nhảy dù để thoát hiểm.

Ông mang ra ba cái dù và nói: Tôi là phi công, tôi còn có vợ và ba đứa con, nên tôi cần phải sống. Thế là ông ta đeo một chiếc dù rồi nhảy xuống. Liền sau đó vị thương gia tuyên bố: Tôi là một kỹ sư và là một thương gia, hiện thân của trí tuệ và giàu có của nhân loại nên tôi cần phải sống, rồi ông vội vã khoác tay vào dây đeo, lao đầu ra cửa nhảy xuống. Vị linh mục hốt hoảng nhìn chàng hướng đạo sinh và nói: Này con, con còn trẻ, tương lai đầy hứa hẹn, con cần phải sống và để giúp ích mọi người, con hãy mang cái dù còn lại mà thoát hiểm đi. Nhưng chàng hướng đạo sinh thưa với vị linh mục: “Tất nhiên ai cũng cần sống, cha hãy bình tĩnh lúc này hãy còn một cái dù cho cha và một cái cho con. Vì ông thương gia hiện thân của trí tuệ và giàu có của nhân loại đã đeo cái ba lô của con nhảy xuống mất rồi”.

Ai cũng cần phải sống, đó là lẽ tự nhiên, nhưng điều quan trọng hơn hết là biết cách làm thế nào để sống. Trong bài Tin Mừng hôm nay, chị em Mattha và Maria đón tiếp Đức Giêsu vào nhà, Mattha tất bật lo phục vụ, cô bận rộn đến nổi cáu kỉnh như vẻ trách cô em Maria không biết chia sẻ gánh nặng và thầm trách Đức Giêsu chưa quan tâm đủ đến sự tất bật của mình.

Nhiệt tình đón tiếp vị khách, nhất là khách quí như Chúa Giêsu, đó là lẽ thường tình, nhưng Đức Giêsu lại nói với Mattha: “Chị băn khoăn và lo lắng nhiều chuyện quá, chỉ có một điều cần mà thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất”.

Có người xem ra đồng tình với Mattha và phản kháng Đức Giêsu khi đưa ra câu nói: “Có thực mới vực được đạo”. Đúng! Có thực mới vực được đạo, nhưng đáng tiếc có người chỉ hiểu được có một nửa của câu nói. Họ không biết rằng bên cạnh cái thực còn có đạo; bên cạnh của ăn vật chất còn có của ăn thiêng liêng. Ngoài cuộc sống đời này còn có cuộc sống đời sau, và người ta còn nói: “Sống không phải để ăn, nhưng ăn để sống”. Cho nên trong khi lo lắng kiếm cái thực, cái ăn để sống thì cũng phải biết lo lắng cho cái đạo để sống cho ra sống và để sống được trọn vẹn.

Đức Giêsu không phủ nhận giá trị công việc phục vụ của Mattha cũng như không từ chối sự đón tiếp của gia đình cô, nhưng Ngài đề cao việc Maria nghe lời Người. Đức Giêsu đã chẳng từng quan tâm đến những sinh hoạt đời thường và chia sẻ những khổ đau bệnh tật của dân chúng sao? Ngài đã từng làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng, đã từng hóa nước thành rượu để niềm vui tiệc cưới được trọn vẹn. Ngài đã từng chăm sóc cứu chữa các bệnh nhân, cho người què đi được, người điếc được nghe, người mù được thấy, người chết sống lại, nhưng Ngài vẫn nhắm đến điều cần thiết hơn hết là cho mọi người được nghe, được lãnh nhận Lời Hằng Sống.

Có lần Người tuyên bố: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh mà còn bởi Lời của Thiên Chúa”. Con người sống không phải chỉ có vật chất, chỉ lo bơn chải những vấn đề cơm bánh mà còn phải có đời sống tinh thần, đời sống thiêng liêng nữa.

Đây chính là điều cần thiết hơn hết mà Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa. Đây cũng chính là điều chúng ta cần phải sống và sống hạnh phúc. Tất nhiên, Lời Chúa không phải là cái dù, chỉ cần đến khi nguy biến để thoát hiểm, nhưng chính Lời Thiên Chúa, Lời Chân Lý hằng sống làm cho những sinh hoạt hàng ngày của chúng ta có hiệu quả và có ý nghĩa hơn.

Thật khó hiểu khi một người cho mình là Kitô hữu mà không bao giờ biết lắng nghe và đón nhận Lời Thiên Chúa. Càng khó hiểu hơn khi một người làm việc tông đồ mà không được Lời Chúa nuôi dưỡng và hướng dẫn.

Thánh Phêrô và các tông đồ đã cho chúng ta một cái nhìn khi thưa với Đức Giêsu: “Bỏ Thầy con biết theo ai, vì Thầy mới có Lời ban sự sống đời đời”. Và có một lần khi Đức Giêsu đang giảng trong hội đường thì giữa đám đông có một phụ nữ lên tiếng thưa với Người: “Phúc thay dạ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm. Nhưng Đức Giêsu đáp lại, đúng hơn phải nói rằng, phúc thay kẻ đã lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa”.

Ước gì mỗi người chúng ta ý thức rằng, mình đã được mời gọi để sống hạnh phúc và luôn sẵn sàng đón nhận Lời ban sự sống. Lời của Thiên Chúa chính là điều tôi cần phải sống. Giờ đây mỗi người chúng ta cùng tuyên xưng đức tin.

 

  1. Phục vụ – Lm Vũ Đình Tường

Có nhiều cách phục vụ khác nhau. Tuỳ theo hoàn cảnh, khả năng và ý thích mà ta co thể chọn lựa phương cách phục vụ thích hợp. Đức Kitô đến thăm nhà hai chị em Maria và Martha. Hai cô rất vui mừng vì được Chúa đến thăm. Mỗi người tự nguyện chọn phương thế khác nhau tiếp thượng khách. Cô em Maria tiếp khách bằng cách ngồi bên lắng nghe tiếp chuyện. Cô chị Martha có lẽ giỏi về gia chánh hơn nên nhận việc nấu ăn cho cả nhà.

Không biết cô nấu món gì? Có lẽ là món cô thích nhất, nấu ngon nhất ngặt một điều món này khá phức tạp cần nhiều thời gian chuẩn bị. Sau thời gian làm việc cô cảm thấy khách đói, chờ đã lâu. Trễ lắm rồi mà bữa ăn chuẩn bị chưa xong, còn nhiều việc phải làm cô đành lên tiếng kêu cứu. Martha than phiền với Chúa.

Than phiền

Than phiền do nhiều yếu tố hợp lại. Một là do công việc đa đoan làm không xuể, đầu tắt mặt tối việc vẫn bề bộn. Hai là thời gian cấp bách, gấp rút lắm rồi, bấn súc xích lên mà công việc vẫn ì ra đó. Thời giờ cấp bách, việc nhiều tạo căng thẳng, lo lắng, bất an dễ đổ quạo, than phiền. Ba là quá chú trọng vào thành quả công việc, sợ thực phẩm không ngon, không vừa ý. Chính cái sợ là nguyên nhân gây nên phàn nàn, bất bình. Bốn là cảm thấy bị quên lãng. Năm là không hài lòng việc đã chọn. Cái hăm hở lúc đầu chìm xuống không còn thích như trước nữa. Nhiều người trong chúng ta có kinh nghiệm này. Khi mới bắt đầu có việc cảm thấy rất vui, làm một thời gian bắt đầu nhàm chán. Rồi ‘Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin thầy bảo nó giúp con một tay’.

Đức Giêsu đáp: ‘Martha, Matha ơi, chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá ! Chỉ có một điều cần mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất, và sẽ không bị lấy đi’.

Điều cần

Lời Chúa là của ăn nuôi dưỡng đời sống tâm linh. Thực phẩm nuôi dưỡng thể xác cũng quan trọng, cần thiết để sống còn. Lời Chúa nuôi dưỡng tâm hồn, thực phẩm nuôi dưỡng thể chất. Cả hai đều cần thiết. Chúa biết rõ điều này nên Chúa ra lệnh cho các tông đồ nuôi dân chúng sau khi họ đã nghe Chúa giảng. Các ông lo lắng không biết lấy gì cho họ ăn vì nơi đó là đồng hoang, hơn nữa nuôi tới năm ngàn người quả là tốn kém ngoài khả năng. Tài chánh đâu ra mua thực phẩm cho từng đó người. Chúa yêu cầu làm điều ngoài khả năng của các tông đồ. Các ông xoay xở không được trở lại với Chúa mặt nhăn nhó. Khó quá Thầy ơi! Chúng con lo không nổi. Chúa làm phép lạ nuôi năm ngàn người ăn no bằng năm chiếc bánh và hai con cá (Gioan 6). Đám dân được Chúa nuôi dưỡng cả hồn lẫn xác và còn dư tới 12 thúng đầy bánh vụn. Nuôi sống cả hồn lẫn xác là việc quan trọng và cần thiết. Chúa nuôi phần hồn trước sau đó lo cho đám đông phần xác. Cả hai công việc đều do Chúa lo.

Xem thế không thể kết luận ngồi lắng nghe lời Chúa quan trọng hơn nấu ăn đãi khách. Chúa hài lòng với sinh hoạt gia đình và chỉ lên tiếng khi có bất bình. Việc lắng nghe lời Chúa được tuyên dương nếu đem ra thực hành lời Chúa mới thực sự sinh hoa kết trái tốt lành, còn nghe cho biết, không thực hành bị coi là khờ dại. ‘Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá. Còn ai nghe những lời Thầy nói đây mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ tan tành’ (Mt 7,24-27)

Việc cần

Ngày phán xét không phải kẻ ngồi nghe lời Chúa được tuyên dương công phúc mà kẻ phục vụ được thưởng công. ‘Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập điạ. Vì xưa Ta đói các ngươi cho Ta ăn, Ta khác các ngươi cho Ta uống. Ta là khách lạ, các ngươi tiếp rước. Ta trần truồng, các ngươi cho mặc. Ta đau yếu, các ngươi thăm nom. (Mt 24,34-37)

Cựu Ước cũng coi trọng bác ái, hiếu khách, nuôi khách. Chuyện Abraham trong bài đọc I hôm nay nêu rõ điểm đó. Gia đình ông có con vì ông đã mời ba người khách lạ vào nhà thiết đãi và ông đã nhận được lời hứa ‘sang năm tôi sẽ trở lại thăm ông, và khi đó bà Sarah vợ ông sẽ có một con trai’.

Phần tốt

Maria đã chọn phần tốt nhất vì cô lắng nghe Lời Chúa để học hỏi, đây cũng là cách cô chọn để thiết đãi khách, chào đón và làm cho khách cảm thấy được săn đón và tự nhiên. Như thế cả chủ lẫn khách đền tìm thấy ấm cúng, vồn vã và thân mật.

Chọn phần tốt nhất vì chọn lựa đó đem lại bình an, hạnh phúc ngập tràn không còn ước mong gì khác. Chọn lựa đó đem lại nguồn vui sung mãn,

Maria chọn phần tốt nhất vì điều cô chọn mang đến bình an thực sự bắt đầu nội tâm tuôn trào ra bên ngoài.

 

  1. Một sự hiện diện thiết yếu – Achille Degeest

(Trích dẫn từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)

Tĩnh từ ‘tốt hơn’ chỉ một trạng thái trội hơn một trạng thái tốt khác. Có thể nói rằng phần tốt hơn của Maria không giảm giá trị cái phần tốt của Martha. Cả hai bà tiếp đón Đức Kitô, chăm chú săn sóc Chúa. Martha cư xử đúng vai chủ nhà lịch thiệp hiếu khách, nấu ăn bày bàn rất cầu kỳ. Đức Giêsu nhã nhặn vui vẻ, bảo bà chớ quá bận rộn làm chi. Tuy nhiên bao giờ cũng vậy, Chúa nhắm xa hơn cái hiện tại trước mắt. Chúa cho hai chị em cảm thấy sự quan trọng của chuyến viếng thăm. Điều quan trọng là không nên để các sự việc (phục vụ, hành động, …) dầu có giá trị và cần thiết hết sức, rút cuộc chiếm hết trí khôn, cản trở hoạt động của trái tim. Theo nghĩa trong Kinh Thánh, trái tim là tâm tình hướng về Đức Giêsu, cảm biết Chúa là sự Tuyệt Đối; chỉ có Chúa là hằng hữu, đáng kể, đáng chú ý. Do đó đương nhiên mọi sự phải giảm xuống mức tối thiểu. Khi Chúa đến thăm, Người chú ý đến chúng ta nhiều hơn là đến cách tiếp đón. Chúa ao ước chúng ta để ra thời giờ dừng lại tâm sự với Người, hơn là bận rộn sửa soạn lễ vật. Cách cư xử nào cũng có giá trị, cũng có mức tuyệt hảo. Bổn phận sửa soạn đãi khách không được làm giảm bớt sự săn sóc tiếp đón. Trái lại không nên vì quá săn sóc tiếp đón mà lơ là việc đãi đằng. Người ta thường căn cứ vào truyện hai bà Martha và Maria để so sánh hành động với chiêm niệm, điều thiết yếu là mỗi người phải sinh lợi ân huệ của Thiên Chúa. Ở đây chúng ta nêu ra hai điểm:

1) Đức Giêsu đến thăm gia đình Bêtania.

Điều cần là sự hiện diện thiết yếu của Chúa trong nhà chúng ta, tức là trong tâm khảm chúng ta, nơi xuất phát ý nghĩ và hành động. Giọng văn trong bài tường thuật, sự thân thiết tự nhiên của Martha, tất cả cho thấy Đức Giêsu được tiếp đãi như một người bạn thân. Đó là điểm đáng chú ý trong bài Phúc Âm hôm nay. Nói chung, trong tâm hồn chúng ta, Chúa phải cảm thấy dễ chịu như trong Nhà Người.

2) Trong nội bộ Giáo Hội, chúng ta phải tôn trọng ơn thiên triệu của giới này cũng như của giới kia.

Có thể là giới hành động không hiểu được đường lối tu trì ‘bất hành động’ của giới chiêm niệm, cho nên dễ đi đến chỗ muốn thưa với Chúa: ‘Lạy Chúa, xin Chúa xét xem có nên phối hợp tu sĩ các đan viện chẳng hạn, đưa họ vào công cuộc Phúc Âm hoá quá lớn lao không?’. Chắc chắn Chúa không trả lời. Nói đúng ra, Chúa trả lời, Chúa bảo không nên quan trọng hoá những phương thế bề ngoài của hành động. Hiệu năng công cuộc Phúc Âm hoá phát xuất từ sự hiện diện tác động của Thiên Chúa, tuỳ theo cường độ mạnh yếu, trong hành động cũng như trong kinh nguyện của chúng ta.

 

  1. Sự cân bằng

Có một ông bố đã tâm sự với thầy giáo đang dạy cho các con ông như sau: Các con tôi mặc dầu không còn sống với tôi nữa, nhưng tôi vẫn yêu thương chúng và muốn biết chúng hiện đang học hành ra sao? Rồi ông kể cho thầy giáo hay việc vợ và bốn đứa con của ông đã lìa bỏ ông như thế nào. Ông vốn là một nhà thầu khoán nên nhiều lúc rất bận rộn. Có ngày ông phải làm việc tới 16 tiếng đồng hồ. Ông thường xuyên vắng mặt trong gia đình, nền dần dần những người thân yêu cũng trở nên xa cách. Ông buồn bã cho biết: Tôi rất ao ước sắm sửa cho vợ con tôi mọi thứ mà tôi từng mơ ước. Nhưng vì quá mải mê với công việc làm ăn, nên tôi đã quên mất một điều mà vợ con tôi đang cần đến, đó là họ cần một người cha, một người chồng để yêu thương và nâng đỡ họ.

Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Chủ đích của đoạn Tin Mừng ấy là như thế này: Chúng ta có thể vì quá mải mê công việc làm ăn, đến nỗi quên mất lý do khiến chúng ta phải vất vả như thế. Chúng ta có thể vì quá mải mê khiếm sống đến nỗi quên mất chính mục đích của cuộc đời. Chúng ta trang bị những vật dụng mà đồng tiền có thể mua sắm được, để rồi quên mất tất cả những gì mà đồng tiền không thể mua sắm được.

Đây cũng chính là sự lầm lẫn của Martha được ghi lại qua đoạn Tin Mừng vừa nghe. Cô quá lăng xăng lo chuyện nấu nướng bữa ăn cho Chúa Giêsu đến nỗi đã quên mất rằng Chúa đến nhà cô là vì tình thương chứ đâu phải vì bữa ăn miễn phí.

Thực vậy con người chúng ta gồm có hồn và xác. Phục vụ vật chất cho thân xác là điều tốt. Thế nhưng con người còn có những nhu cầu, cần đến những phục vụ thiêng liêng cho linh hồn. Chẳng hạn, một người bạn đến chơi không phải chỉ cần đãi đằng họ là đủ, mà nhiều khi cần phải lắng nghe những tâm sự để chia sẻ những khó khăn họ gặp phải. Chính vì thế Chúa Giêsu đã khen Maria đã chọn phần tốt nhất bởi vì cô đã ngồi dưới chân Chúa để đón nhận những điều Ngài giảng dạy.

Còn chúng ta thì sao? Hiện thời chúng ta đang sống trong một thế giới rất dễ mất cân bằng, chúng ta vì bận rộn với công việc làm ăn, vì mải mê tìm kiếm tiền bạc, để rồi quân mất mục đích của đời mình, quên mất cái nào là ưu tiên số một trong cuộc sống, quên mất sự sáng suốt để lựa chọn, quên mất điều mình đang làm và lý do khiến mình làm điều đó.

Chúng ta giống như chú bé vẽ voi, đáng lẽ phải vẽ: con vỏi con voi với cái vòi đi trước, hai chân trước đi trước, hai chân sau đi sau, còn cái đuôi thì đi sau rốt. Thì chú bé lại vẽ: con vỏi con voi, cái đuôi đi trước, hai chân sau đi trước, hai chân trước đi sau, còn cái vòi thì đi sau chót.

Và quan trọng hơn nữa, đó là chúng ta quên mất phần rỗi của linh hồn chúng ta. Bởi vì như lời Chúa đã phán: Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào có ích lợi gì?

 

  1. Chọn điều tốt nhất

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

Cứ mỗi lần nghe trích đọc bài Tin Mừng thánh sử Luca kể chuyện hai chị em nhà Bêtania, thì người ta dễ liên tưởng đến việc so sánh hơn kém giữa đời sống chiêm niệm và đời sống hoạt động. Mọi sự thường có nguyên do. Đã một thời các nhà tu đức căn cứ vào đoạn tin mừng này để đề cao đời sống chiêm niệm. Không riêng gì Kitô hữu mà anh chị em lương dân và bà con khác đạo vốn kính trọng những con người như là “xuất thế” trong các đan viện. Chính vì thế ít có ai thắc mắc khi hình ảnh cô Maria ngồi dưới chân Chúa Giêsu để nghe Người tâm sự được ví với đời sống chiêm niệm thì được đề cao hơn đời sống hoạt động qua hình ảnh cô Matta bận rộn với chuyện nấu nướng.

Thế nhưng nếu đọc kỹ lời Chúa Giêsu nói với Matta thì chúng ta sẽ thấy lối so sánh và áp dụng ở trên có phần khập khiểng và khiên cưỡng cách nào đó. “Matta! Matta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất, và sẽ không bị lấy đi” (Lc 10,42). Khi khẳng định rằng Maria đã chọn phần tốt nhất thì Chúa Giêsu cũng hàm ý rằng cô chị Matta cũng chọn phần tốt nhưng chưa tốt nhất, mà nói nôm na là tốt nhì, tốt ba hay tốt tư…

Chọn điều tốt để cho mình hay để dâng? Câu hỏi dường như đã có câu trả lời cụ thể qua hành vi của cô chị Matta. Matta chọn điều tốt không phải cho mình mà để dâng cho Chúa Giêsu. Đó là các món thức ăn mà chị đang tất bật nấu nướng. Và có thể nói rằng đó không chỉ là món ngon mà còn nhiều đến nỗi cô chị phải cầu cứu Chúa Giêsu biểu cô em phụ giúp một tay. Chọn các món ăn để kính dâng Chúa là một hành vi tốt đẹp. Dâng trao cho ai đó cái mà chúng ta có, tuy tốt đẹp nhưng vẫn còn hạn chế, vì những cái chúng ta có, nếu làm bản liệt kê thì quá nhiều không sao kể xiết và có lẽ chúng ta không thể dâng tất cả được. Trái lại khi dâng trao cái chúng ta là, thì chúng ta đã dâng trao trọn vẹn con người chúng ta.

Matta dù cố gắng đến bao nhiêu cũng không thể kính dâng tất cả những gì cô có cho Chúa Giêsu. Bằng chứng là mới chỉ có chuyện cơm nước, cô đã tất bật đủ bề mà vẫn như chẳng xuể. Một nhận định thực tế, đó là những gì Matta chọn để dâng cho Chúa Giêsu thì “sẽ bị những ai đó lấy mất”, nghĩa là Chúa Giêsu không thể tự mình dùng tất cả những thức ăn Matta dâng. Xin đừng quên sự hiện diện của các tông đồ. Trái lại phần của Maria dâng cho Chúa Giêsu thì sẽ không bị ai lấy mất vì Maria đã dâng cho Thầy Chí thánh cái mình là, đó là con người của chị. Khi ta thật tình chăm chú lắng nghe một ai đó tâm sự, thì một cách nào đó ta đã dâng trao trọn tấm lòng của mình cho người ấy.

Một nghịch lý của tình yêu: Chính khi trao ban là lúc lãnh nhận và có thể lãnh nhận lại gấp bội so với phần đã hiến dâng. Bài đọc thứ nhất trích Sách Sáng Thế tường thuật tấm lòng hiếu khách của Abraham dành cho ba sứ thần của Thiên Chúa đã được đền đáp. Một chút nước để các vị rửa chân, một ít bánh, chút thịt bê cũng như chút sữa chua kính dâng các vị ấy dùng có thấm vào đâu với phần mà Abraham lãnh nhận lại. “Sang năm, tôi sẽ trở lại thăm ông, và khi đó bà Xara vợ ông sẽ có một con trai” (St 18,10). Chắc hẳn Abraham và bà Sara phải rất đỗi kinh ngạc trước phần mình sẽ lãnh nhận. Có được một đứa con trai làm người thừa tự trong cảnh hai ông bà đã cao niên mà còn son sẻ quả là một hạnh phúc vượt quá mọi niềm mơ ước.

Khi Maria dâng trao cho Thầy Giêsu tấm lòng của mình như là một người môn đệ ngồi dưới chân Người mà lắng nghe thì Maria đâu có ngờ rằng cô không chỉ được đón nhận một vị Thầy, một Vị Chúa mà còn đón nhận được một người bạn. “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã tỏ cho anh em biết”(Ga 15,15). Chúng ta có thể đoán chắc rằng trong cuộc nói chuyện hôm ấy, Chúa Giêsu ít nhiều đã tỏ cho cô Maria biết về hành trình lên Giêrusalem của Người cũng như cuộc khổ nạn Người sắp chịu. Tin Mừng thánh Gioan tường thuật sự kiện cô Maria đã lấy một cân dầu thơm cam tùng nguyên chất và quý giá mà xức chân Chúa Giêsu, rồi lấy tóc mà lau, cả nhà nức mùi thơm khiến cho ông Giuđa Iscariô phải chép miệng tiếc rẻ. Và chính Chúa Giêsu đã phân minh cho cô Maria rằng cô ấy đã dùng số dầu thơm hảo hạng ấy để làm trước việc mai táng mình (x.Ga 12,1-8).

Chuyện kể rằng có một vị vua thuộc hàng “minh quân lẫn thánh quân” trong một lần kia đi thị sát vương quốc mình bỗng gặp một ông lão hành khất ngồi bên vệ đường. Xuống xa giá, vua đến bên người hành khất. Người hành khất kia khấp khởi mừng, chìa bàn tay ra trong im lặng và chờ đợi ân lộc vua ban. Nhưng người hành khất kinh ngạc vì đức vua không ban gì mà lại ngửa bàn tay trước mặt mình. Hai bên nhìn nhau một lúc, người hành khất cho tay vào bị lấy ra ba hạt lúa bỏ vào bàn tay đức vua. Đức vua nắm tay lại, cám ơn, rồi lên xa giá tiếp tục hành trình. Dù lẩm bẩm kêu trách “sự keo kiệt” của vị vua vốn được dân tôn xưng là minh quân, thánh quân”, người hành khất vẫn tiếp tục việc ăn xin. Ngày hôm ấy cũng có nhiều người hảo tâm đổ vào bị ông ta nhiều bát lúa. Tối đến, người ăn xin đổ bị lúa ăn xin ra để đong đếm thành quả. Bỗng nhiên ông thấy lấp lánh ba hạt lúa bằng vàng to bằng đầu ngón tay ở giữa nhúm lúa ăn xin hôm ấy. Nhớ lại chuyện gặp đức vua hôm nay, ông lão hành khất đoán ra sự việc và cười sung sướng. Bỗng nhiên ông ta lại khóc to tiếng với lời rủa thầm trong lòng: tiếc quá, giá như sáng nay mình dâng cho đức vua hết cả bị lúa này.

“Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc 6,38).

Biết lấy gì để dâng lên Thiên Chúa, vì mọi sự đều là của Người. Thiên Chúa không cần chúng ta dâng gì cho Người, nhưng Người lại muốn chúng ta trao dâng cho nhau, nhất là cho những người anh em bé mọn những gì tốt nhất của mình. Chắc hẳn cái tốt nhất của chúng ta, cái mà không ai có thể lấy mất được đó chính là con người chúng ta, tấm lòng của chúng ta, một tấm lòng huynh đệ thủ túc, một tấm lòng bằng hữu nghĩa thiết. Và dù nhiều khi chúng ta không biết thì Thiên Chúa vẫn nhận đó là đã làm cho chính Người (x.Mt 25,31-46).

 

  1. Ngồi dưới chân Chúa Giêsu – Charles E. Miller

Tôi nghĩ rằng khi nghe câu chuyện về Matta và Maria, nhiều người trong chúng ta có khuynh hướng cảm thấy đáng tiếc cho Matta. Maria đã bỏ mặc tất cả mọi công việc cho Matta, trong lúc cô ta vui hưởng cuộc nói chuyện với Chúa Giêsu. Khi Matta đến phàn nàn, Chúa Giêsu có vẻ như gắt gỏng cho dù Ngài gắt gỏng nhẹ nhàng, có lẽ Ngài đã lắc đầu và nói: “Matta, Matta con lo lắng nhiều chuyện, Maria đã chọn phần tốt nhất”. Nhưng chính xác là Maria có chọn phần tốt nhất không? Có phải đơn giản là vui hưởng ân sủng và là bà chủ đáng yêu trong lúc Matta thì tất bật trên bếp lò nóng?

Khi Thánh Luca viết rằng Maria ngồi nơi chân Chúa Giêsu, Ngài không miêu tả tư thế nhưng là mối liên hệ giữa Maria với Chúa Giêsu. Cụm từ”ngồi nơi chân” của một người nào có nghĩa là môn đệ của người đó. Trong văn hóa Do Thái thời Chúa Giêsu, không nghe nói có một người phụ nữ nào làm môn đệ của một thầy Rabbi. Theo trong tôn giáo hoặc ít nhất là quan sát bên ngoài thì các môn đệ đều là những người đàn ông. Chúa Giêsu đã phá vỡ cái truyền thống kéo dài từ xa xưa bởi vì truyền thống không đúng. Ngài đã đến để kêu gọi tất cả mọi người, người phụ nữ cũng như người đàn ông, con nít cũng như người trưởng thành, ngay cả những kẻ được xem như là người tội lỗi để trở thành môn đệ của Ngài. Ngài đã nhấn mạnh rằng Maria đã chọn phần tốt nhất. Cô ta đã hiểu sự mời gọi của Ngài, đã chấp nhận nó. Matta cảm thấy buộc phải duy trì khuôn mẫu của cô ta và đồng ý rằng chỗ của cô ta là trong bếp. Chúa Giêsu đủ thực tế để nhận biết rằng thực phẩm đã được sửa soạn và như thế Ngài có thể đã nói với Matta rằng chỉ cần một đĩa, một cái gì đơn giản là đủ. Tiếp đó, Ngài thêm không chỉ cho Matta mà cho tất cả mọi người trong mọi thời: “Maria đã chọn phần tốt nhất và cô ấy sẽ không bị ai cướp mất”. Chúa Giêsu đã muốn Matta làm một chọn lựa đó.

Maria đã được giới thiệu với mọi người nữ trong Giáo Hội nhưng trong một ý nghĩa lớn hơn cô đã trở nên kiểu mẫu cho mọi người. Chúng ta được kêu gọi để trở nên môn đệ của Chúa Giêsu, để dâng hiến cho Ngài sự ấm áp mà Ngài đã cảm nghiệm nơi nhà Bêtania, để lắng nghe Người với tất cả sự chú ý như Maria đã làm, đặt Người lên hàng ưu tiên trước mọi việc trong cuộc sống của chúng ta, và không cho phép điều gì hoặc người nào có thể dứt chúng ta ra khỏi mối liên hệ của Người. Abraham đã dâng hiến sự hiếu khách cho các thiên thần như là những sứ giả của Thiên Chúa. Chúng ta cũng được khẩn nài dâng hiến sự hiếu khách cho Chúa Giêsu, Đấng là Con Thiên Chúa.

Chúng ta sẽ hiểu trong một ý nghĩa sâu xa, chúng ta ngồi nơi chân Chúa Giêsu trong Thánh Lễ khi cử hành phụng vụ Lời Chúa. Theo Công đồng Vatican II đã long trọng dạy cho chúng ta rằng: “Đức Kitô đang hiện diện trong Lời của Ngài, đó chính là Ngài đang nói khi Thánh Kinh được đọc trong nhà thờ” (Hiến chế về phụng vụ, số 7). Chúa Giêsu đã ước ao khi chúng ta đặt trọng tâm sự chú ý của chúng ta vào Người. Lắng nghe Người trong đức tin, hấp thụ Lời và áp dụng nó trong cuộc sống của chúng ta. Tiếp đó chúng ta được nuôi dưỡng bởi lương thực thánh, Thánh Thể, bữa tiệc này không phải được sửa soạn bởi Matta nhưng bởi chính Chúa Giêsu.

Có lẽ chúng ta có thể thấy gương của Maria thì thật khó để theo. Thật là quá dễ để cho phép những lo toan trong cuộc sống hằng ngày làm chúng ta xao lãng việc nghe theo lời dạy của Chúa Giêsu. Đó là những cám dỗ cho phép những giá trị gian dối mà những giá trị đó giới thiệu cho chúng ta một xã hội vật chết đang hướng chúng ta ra ngoài những chân lý của đức tin. Chúng ta phải trung thành đến với Thánh Lễ, bởi vì ở đây chúng ta có thể đặt những sự chia trí ra ngoài, để đặt trọng tâm vào những gì thật sự là quan trọng cho chúng ta. Trong lúc chúng ta cử hành phụng vụ, nơi thờ lạy của chúng ta sẽ trở thành Bêtania của chúng ta, nơi mà chúng ta sẽ học để trở thành những môn đệ thật.

 

  1. Mời Chúa vào nhà.

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Cách đây ít lâu, trong một bài báo, một phụ nữ đã kể lại việc trang trí nội thất của gia đình bà như sau:

Mọi công việc trang trí đều được vợ chồng tâm đầu ý hợp với nhau cho đến khi chồng bà dùng quyền độc đoán bảo người trang trí nội thất treo một bức ảnh Chúa Giêsu kích thước cỡ lớn: 40×50 vào chỗ nổi bật nhất trong nhà. Bà cố gắng thuyết phục chồng đổi ý, nhưng ông vẫn cứ khăng khăng không chịu.

Tuy nhiên, đang lúc tranh cãi với nhau, bà chợt nhớ lại những lời của Chúa Giêsu: “Bất cứ ai nhìn nhận Ta trước mặt kẻ khác, thì Ta cũng sẽ nhìn nhận người ấy trước mặt Cha Ta, Đấng ngự trên trời” (Mt 10,32). Thế là bà chịu nghe ý kiến của chồng.

Giờ đây bà nói, bà rất vui vì đã nghe theo ý chồng, vì bà nghĩ rằng bức ảnh Chúa Giêsu đã gây được ảnh hưởng đáng kể trên gia đình bà lẫn trên bạn bè khách khứa của bà. Chẳng hạn, ngày nọ có người khác lạ, sau khi chăm chú nhìn vào bức ảnh liền nói với bà: “Bà biết không, Chúa Giêsu trên bức ảnh kia không nhìn vào bà đâu, Ngài nhìn xuyên qua tâm hồn bà đó!. Và đêm nọ, một người bạn, sau khi ngồi ngắm bức ảnh cũng thốt lên: “Lúc nào tôi cũng cảm thấy trong nhà chị rất bình an”. Tuy nhiên, bà nói thêm, ấn tượng mạnh mẽ nhất tác động trên các bạn bè khách khứa xã hội tôi là mỗi khi nhìn tấm ảnh Chúa Giêsu thì tâm hồn họ luôn được nâng lên cao”.

Cuối cùng, bà nói rằng, có thể mọi người sẽ cười và không chừng còn nhạo báng những nhận xét trên đây của bà, nhưng bà chẳng bận tâm. Bà nói: “Theo thiển ý của tôi, một khi bạn biết mời Chúa vào nhà, chắc chắn bạn sẽ được biến đổi không còn như trước nữa”.

Thưa anh chị em,

“Một khi bạn biết mời Chúa vào nhà, chắc chắn bạn sẽ được biến đổi”. Sách Sáng Thế trong Bài đọc thứ nhất hôm nay đã kể lại câu chuyện ông Abraham mời Chúa vào nhà. Abraham vồn vã, nhã nhặn ra đón khách lạ theo kiểu Đông Phương. Ông sấp mình lạy, miệng mời Chúa ghé lại. Ông đặt ghế cho Chúa ngồi nghỉ mát, lấy nước cho Chúa rửa chân, lấy bánh và thịt mời Chúa dùng. Ông đứng hầu hạ phục vụ. Abraham được Chúa hứa ngay: “Sang năm vào độ nầy, tôi sẽ ở lại thăm ông, và khi đó bà Sara vợ ông sẽ có một con trai”. Thế là ông được một người con nối dõi tông đường trong lúc tuổi già và son sẻ.

Tin Mừng hôm nay cũng thuật lại câu chuyện hai chị em Matta và Maria tiếp đón Chúa Giêsu vào nhà. Matta người chị vốn có lòng hiếu khách và muốn tỏ ra lòng mộ mến sâu xa đối với một bậc thầy, là bạn của gia đình, nên chị định trổ tài nấu dọn một bữa ăn thật ngon để chiêu đãi Chúa. Chị lăng xăng chạy lên chạy xuống, lo sao cho mọi sự chu đáo…

Trong khi đó, Maria lại nghĩ rằng không nên để Chúa ngồi đơn độc một mình. Vả lại, Chúa cũng chẳng muốn chỉ vác bụng đến ăn không, nhưng còn muốn chia sẻ cho hai chị em những lời ban sự sống. Do đó, một người thì muốn nói, một người lại thích nghe, quên hết cả mọi sự!

Thế là Matta nổi cáu, trách Chúa không để ý đến mình, để mặc mình vất vả! Nỗi ghen tức kể ra cũng chính đáng. Nhưng Chúa cũng trách nhẹ Matta sao lo lắng nhiều chuyện quá làm chi. Chuyện ăn uống đâu có quan trọng đến nỗi ấy. Chỉ có một chuyện cần thiết thôi: “Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất”.

Có người giải thích câu nói: “Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi”, cho rằng Chúa muốn nói: “Chỉ cần làm một món ăn thôi cũng đủ rồi!”. Lời giải thích ấy không phải là vô căn cứ, giải thích theo nghĩa thông thường đi nữa, thì lời trách nhẹ của Chúa Giêsu vẫn chính đáng; bởi vì trong chuyện tiếp khách, vấn đề không phải chúng ta chỉ biết cho, và người khách chỉ biết nhận, mà chính chủ nhà cũng phải biết nhận và để cho khách niềm vui được chia sẻ. Cho và nhận, đây không phải là có ý nói tới những gì là vật chất, như ăn uống, quà cáp… mà trước hết là sự hiện diện cũng như những câu chuyện trao đổi. Một người bạn thân khi đến với chúng ta, dù có được mời đến để dự tiệc, cũng không bao giờ chỉ biết vác bụng đến, nhưng còn đến trước hết với tình bạn của mình: người ấy muốn gặp chúng ta, muốn nói chuyện với chúng ta, còn chuyện ăn uống chỉ là một phương tiện, một bối cảnh được tạo ra, như người xưa thường nói: “Miếng trầu là đầu câu chuyện”.

Vậy, nếu được phép góp ý kiến cho hai chị em Matta và Maria, thì chúng ta sẽ có thể đề nghị như sau: hai chị em nên phân công nhau rõ ràng, mỗi người một việc. Nhưng làm sao luôn có người ngồi đó tiếp chuyện với Chúa, và nếu hai chị em đã biết tính Chúa thích ăn uống giản dị, thì cũng không nên trổ tài nấu bếp làm gì cho phí thời giờ, Chúa đến không chỉ để ăn uống với hai chị, mà Ngài còn muốn chia sẻ Lời Thiên Chúa cho hai chị nữa, nên cũng phải biết tỏ ra sốt sắng đón nghe Lời Chúa nói với các chị nữa.

Còn chúng ta thì sao, thưa anh chị em?

Chúng ta có thể vì quá mải mê công việc làm ăn đến nỗi quên mất lý do khiến chúng ta phải lao khổ như thế. Chúng ta có thể vì mải mê kiếm sống đến nỗi quên mất chính mục đích của cuộc sống. Chúng ta có thể lu bu đeo đuổi những cái mà đồng tiền có thể mua sắm được để rồi quên béng những gì mà đồng tiền không thể mua sắm được. Và chúng ta vô tình đã biến thành những Matta nhiệt tình thật đấy, nhưng lăng xăng lo lắng đủ chuyện, mà quên mất “một chuyện cần thiết nhất”: lắng nghe Lời Chúa, tiếp chuyện với Ngài.

Chúng ta lo xây cất cho Chúa những ngôi thánh đường đồ sộ lộng lẫy, nhưng rồi mấy ai trong chúng ta âm thầm tới ngồi dưới chân Chúa để lắng nghe Chúa nói với chúng ta Lời Chúa, Lời làm cho chúng ta được sống. Bời vì “con người sống không chỉn hờ cơm bánh, nhưng còn nhờ Lời Chúa nữa” (Mt 4,4). Thực tế cuộc sống của chúng ta rất bận rộn. Chúng ta không có thời giờ để ngồi dưới chân Chúa. Chúng ta muốn cầu nguyện nhiều hơn, dự lễ ngày thường nhiều hơn, đọc Kinh Thánh hay sách báo đạo đức nhiều hơn. Nhưng chúng ta không có thời giờ.

Quả thật, Chúa muốn chúng ta vừa là Matta, vừa là Maria: vừa lao động vừa cầu nguyện. Chúa không nói rằng khi chúng ta làm việc như Matta, chúng ta không thể cầu nguyện như Marai, hay ngược lại. Hai việc đều liên hệ với nhau. Chúng ta phải vừa là Matta vừa là Maria. Ngày nay, một người phụ nữ danh tiếng nhất thế giới là một nữ tu bác ái, một Matta thời đại: Mẹ Têrêsa thành Calcutta Ấn Độ. Mẹ đã hiểu và đã truyền lại cho con cái thiêng liêng của Mẹ tinh thần Tin Mừng hôm nay. Cầu nguyện trước khi hoạt động. Mỗi ngày để ra một giờ để chầu Mình Thánh Chúa trước khi xuống “địa ngục Calcutta” để săn sóc những người nghèo khổ hoặc đi vào trong các “nhà hấp hối” để giúp những người sắp chết được an nghỉ trong Chúa.

Anh chị em thân mến,

Thánh lễ là lúc chúng ta trở thành những Maria ngồi dưới chân Chúa Giêsu lắng nghe Lời Ngài. Đến với Chúa, chúng ta đừng tiếc thời giờ, đừng lật đật vội vã đến trễ về trước, sợ thiệt thòi, mất mát, hay đến ở ngoài sân nhà thờ không chủ tâm dự lễ, không đón nhận Lời Chúa, Mình Thánh Chúa, không mời Chúa vào nhà. Chúng ta cũng đừng đến với Chúa ngày Chúa Nhật, chỉ vì bắt buộc, miễn cưỡng, sợ mắc tội. Hãy đến với Chúa như một người con, một người bạn, đến để tìm Chúa, gặp Chúa, lắng nghe Lời Chúa, chỉ vì tình yêu mến Chúa mà thôi.

Thánh lễ còn là lúc Chúa đến thăm chúng ta như đã đến với hai chị em Matta và Maria. Hãy quý trọng sự hiện diện của Ngài trong lòng chúng ta và biết tiếp chuyện với Ngài, để sự hiện diện của Chúa và Lời Chúa nuôi sống chúng ta ngày hôm nay, ngày mai và cho đến cuộc sống muôn đời.

 

  1. Ngồi dưới chân – Lm Vũ Đình Tường

Có ba hình ảnh ngồi dưới chân Chúa. Hình ảnh thứ nhất cô Maria ngồi dưới chân Chúa nghe giảng – Luca 10

Hình ảnh thứ hai cô Maria ngồi dưới chân Chúa lấy thuốc thơm mà sức, lấy tóc mà lau – Mathew 26: 6-13

Hình ảnh thứ ba Mẹ Maria và mấy bà đạo đức ngồi dưới chân Chúa, dưới chân thập tự, mắt đẫm lệ nhìn Chúa – Gioan 19,25

Cả ba hình ảnh ngồi dưới chân đều do phái nữ chủ xướng. Đây là hình ảnh quen thuộc trong Kinh Thánh. Trước khi nuôi năm ngàn người ăn trong phép lạ hoá bánh ra nhiều Đức Kitô bảo các môn đệ hãy cho đám đông ngồi xuống – Gioan 6. Hình ảnh ngồi để được cho ăn, nuôi sống.

Khiêm nhường

Đức Kitô ghé thăm nhà chị em Maria and Martha. Maria chọn ngồi dưới chân Chúa để nghe Ngài giảng. Cô chị tiếp khách kiểu khác, lo nấu nướng chuẩn bị thực phẩm nuôi thân. Cô em chọn tiếp khách bằng cách ngồi dưới chân. Cô không ngồi ngang hàng tiếp khách – chủ khách ngang nhau- nhưng cô chọn thái độ ngồi dưới chân. Một thái độ khiêm nhường. Một hành động tự nguyện, khiêm nhu, quí mến, tỏ ra rất gần, thân thiết với khách mà vẫn biểu tỏ lòng tôn kính.

Ngồi dưới chân để nghe giảng nói lên tinh thần hiếu học, ham học hỏi Lời Chúa. Maria không những yêu mến Đức Kitô, kính trọng Ngài mà còn yêu mến ngay cả lời giảng dạy, giáo huấn của Ngài. Người do Thái khuyên phụ nữ đừng đi học. Đức Kitô trái lại khuyến khích phụ nữ học, lắng nghe.

Thống hối

Hình ảnh thứ hai là hình ảnh Maria ngồi dưới chân Chúa khóc lóc, tỏ lòng thống hối, ăn năn. Sự việc xảy ra tại nhà ông Simon, người mời Đức Kitô dự tiệc với các tông đồ. Cả chủ nhà lẫn tông đồ đều chê trách hành động của người phụ nữ. Đức Kitô lên tiếng bảo họ hãy để cho cô ta chuẩn bị cho ngày an táng Ngài. Qua cái chết của Ngài kẻ thống hối, tội dù nhiều vẫn được thứ tha. Hình ảnh khóc dưới chân Chúa không mang ý nghĩa nỗi buồn bất tận mà là giờ của mừng vui. Vui vì tội dù nhiều nhưng vẫn được tha vì trong lòng yêu mến nhiều.

Maria khóc vì vui mừng. Tai được nghe Chúa thứ tha. Nhận được lời Chúa an ủi, bênh đỡ, khuyến khích. Việc làm khiêm nhường bị người đời lên án, chê trách. Chúa thưởng công, âm vang ngàn năm vì Maria làm với tâm tình yêu mến chân thành, tạ ơn tha thiết.

Hiệp thông

Hình ảnh các bà ngồi dưới chân thập tự khóc lóc tỏ lòng hiệp thông. Tự biết mình bất lực không làm gì được kẻ có quyền, có thế. Lên tiếng phản đối không ai nghe; gào thét ai thèm đáp trả; phản đối mấy ai quan tâm. Muốn yên thân hãy câm nín, ngoảnh mặt làm ngơ, tránh đường, nhường lối cho bạo quyền hành động. Bao nhiêu người sợ đứng nhìn qua khe cửa. Các bà cũng run sợ trước bạo quyền mà không lẩn trốn. Để nước mắt lăn dài trên má biểu tượng của cảm thông, chia sẻ nỗi đau khổ của Đức Kitô treo trên thập tự. Cảm xúc đau đớn là biểu lộ hiệp thông rõ ràng hơn cả. Lệ nhoà, lăn dài trên má, biểu lộ cảm thông chia sẻ niềm đau mãnh liệt hơn ngàn câu an ủi, lời than van. Mắt nhìn thân Chúa da nát, thịt tan, đầu đội mạo gai, chân lơ lửng giữa đất trời biểu tỏ lòng mẹ chơi vơi nhìn con trên thập tự. Ngồi dưới chân thập tự thông cảm niềm đau người mẹ mất con. Người bạn mất bạn.

Phần chúng ta

Ngồi dưới chân Chúa hay dưới chân thập tự là hình ảnh gần gũi, quen thuộc, của mỗi người trong chúng ta. Bao lần chúng ta ngồi trong thánh đường. Cũng ngồi dưới chân Chúa nghe lại các bài đọc được công bố, lời Chúa giảng năm xưa, nay được lập lại trong thánh đường, trong các phiên họp, các buổi cầu kinh, tụ họp và Lời Chúa được chia sẻ trong các bài giảng, nhảy nhót theo cung điệu nốt nhạc. Chúng ta lắng nghe với tâm tình lúc thắm thiết, lúc chán nản, lúc hoài nghi.

Ngồi dưới chân Chúa trong thánh đường là hình ảnh quen thuộc khi chúng ta thầm thĩ kêu xin, giãi bày tâm sự, nói lên cái thống khổ, đau xót của thân phận làm người. Nhiều lần chúng ta cũng khóc lóc van xin ơn tha thứ. Chúng ta cũng để giòng lệ tuôn dài khi thấy gánh nặng vơi đi, bình an nội tâm trở lại, và hy vọng một tương lai tươi sáng loé lên trong khoé mắt. Giọt nước mắt u sầu thành giọt lệ reo vui. Những lần như thế chúng ta ngồi dưới chân thập tự tâm tư tràn ngập niềm vui, miệng luôn cao rao lời cảm tạ. Vui mừng đến chảy nước mắt vì cảm thấy Chúa yêu thương tha thứ như chính Maria cảm thấy được Chúa yêu thương, thống hối đến dưới bàn thờ Chúa dâng lời tạ ơn.

Bao lần chúng ta cũng ngồi dưới chân thập tự khi trong thánh đường, lúc ngoài nghĩa trang. Lòng đau như cắt, tâm tư tan nát. Giọt nước mắt vơi đầy thương nhớ người thân. Chúng ta ngồi dưới chân thánh giá nói không nên lời, tư tưởng đứt đoạn vì người thân ra đi, câm nín trong quan tài cô đơn giữa nơi thánh đường đông người thân quen. Người nằm đó mà xa cách ngàn trùng. Cách nhau một lớp gỗ mỏng mà lòng thấy vĩnh biệt. Cũng bản nhạc này sao nay u buồn thế. Cũng lời kinh nọ nay cất lên tang thương nhiều hơn hy vọng.

Hình ảnh ngồi dưới chân Chúa hay dưới chân thập tự là hình ảnh của người đặt niềm tin vào Đức Kitô phục sinh, Đấng đến xoá tan u tối. Đấng đến mang lại ánh sáng chiếu dọi tâm hồn. Đấng đến mở đường dẫn về nhà Cha sau cuộc hành trình dương thế.

Hãy mở cửa tâm hồn đón Chúa vào nhà để được ngồi dưới chân Ngài.

 

  1. Sai lầm của người thầu khoán – Lm. Mark Link

“Trong cuộc đời, chúng ta cần thời gian thinh lặng cầu nguyện nếu chúng muốn quân bình và biết nhìn xa.”

Vào buổi tối kia, một người cha đến dự phiên họp giữa thầy cô và phụ huynh trong một trường trung học ở Chicago. Trong bài nói chuyện của một thầy giáo, người cha này đã bật khóc nức nở.

Sau khi lấy lại bình tĩnh, người cha xin lỗi và nói: “Con tôi không còn sống với tôi nữa. Nhưng tôi vẫn yêu thương cháu và tôi muốn biết việc học hành của cháu như thế nào.”

Sau đó, người cha cho biết vợ ông và 4 đứa con đã bỏ ông chiều hôm đó.

Ông là một thầu khoán xây cất và nhiều khi làm việc đến 16 giờ một ngày. Đương nhiên, ông ít gặp gia đình hơn và dần dà họ càng xa ông hơn nữa.

Sau đó, người cha nói lên một điều thật buồn thảm. Ông nói: “Tôi muốn mua cho vợ con tôi những gì mà tôi hằng mơ ước mua cho họ. Nhưng rồi tôi quá bận tâm làm ăn đến độ tôi quên đi điều mà gia đình tôi cần đến nhất: đó là một người cha có mặt trong gia đình hàng đêm để yêu thương và nâng đỡ vợ con.”

Câu chuyện có thật này cho thấy điểm quan trọng của bài Phúc Âm hôm nay. Đó là:

Chúng ta có thể quá bận tâm làm việc đến độ quên đi lý do tại sao chúng ta làm việc. Chúng ta có thể quá bận tâm đến đời sống đến độ quên đi mục đích của đời sống. Chúng ta có thể quá bận tâm theo đuổi những gì có thể mua được bằng tiền bạc mà quên đi những gì tiền bạc không thể mua được.

Đó là một loại sai lầm mà cô Martha đã vấp phạm trong bài Phúc Âm hôm nay. Cô quá bận tâm đến việc nấu nướng cho Chúa Giêsu đến độ cô quên đi lý do tại sao Chúa đến nhà cô. Người đến không vì miếng ăn; Người đến vì tình bạn.

Giả như khi chúng ta còn nhỏ, sống với cha mẹ và nếu Đức Giêsu cho biết Người sẽ đến thăm gia đình, chúng ta biết các bà mẹ sẽ làm gì. Họ sẽ động viên toàn thể nhân lực trong gia đình từ nhiều ngày trước để dọn dẹp, lau chùi nhà cửa. Họ sẽ sai con cái đi chợ mua thứ này thứ kia. Nói tóm, họ sẽ hành động giống như cô Máctha.

Nhưng mẹ chúng ta cũng giống như cô Maria. Họ luôn dặn dò để biết chắc là con cái ăn mặc đàng hoàng tử tế, đến ngồi chung quanh Đức Giêsu, chú ý đến những gì Người nói. Mẹ chúng ta sẽ quân bình giữa sự lưu tâm đến miếng ăn cho Đức Giêsu và lưu tâm đến tình cảm mà gia đình dành cho Người.

Đó là những người mẹ có tài giữ quân bình mọi sự, từ việc cơm nước trong nhà đến việc giặt giũ lau chùi. Nhưng các bà mẹ còn cần đến các người làm cha có khả năng quân bình mọi sự, từ việc kiếm tiền cho đời sống vật chất đến việc giáo dục con cái, nâng cao giá trị tinh thần của đời sống.

Ngày nay, không may, chúng ta sống trong một thế giới thật khác biệt.

Thật dễ để đánh mất sự quân bình trong thế giới ngày nay. Thật dễ để đánh mất cái nhìn xa trông rộng. Thật dễ để xáo trộn những gì là ưu tiên. Thật dễ để đánh mất khả năng nhận ra những gì cần làm và tại sao chúng ta làm công việc ấy.

Trong Thế chiến II, một người lính trẻ trấn đóng ở hòn đảo Saipan thuộc Nam Thái Bình Dương cho biết trong thời gian nghỉ ngơi, anh và bạn hữu đến bơi ở một chỗ vắng vẻ kín đáo, ngay ở mé hòn đảo. Đó là một nơi thật đẹp có núi đá bao quanh.

Khi đến nơi, họ thấy nước thật trong đến nỗi có thể nhìn thấy cá bơi lội sâu dưới nước cả 10 feet. Tuy nhiên, sau khi họ bơi lội chừng một tiếng đồng hồ, nước trở nên đục ngầu vì cát bị khuấy động, họ không còn thấy được dưới đáy dù chỉ cách có một feet.

Nhưng hôm sau, khi họ trở lại, cát đã lắng đọng. Nước lại trong trẻo như trước.

Tâm trí chúng ta cũng như vũng nước đó. Nó cũng có thể vẩn đục vì những biến động trong cuộc sống hằng ngày khiến chúng ta không còn nhìn thấy rõ ràng. Chúng ta mất khả năng nhìn thấy mọi sự: quan điểm của chúng ta trở nên mù mờ; những ưu tiên của chúng ta trở nên hỗn độn; sự quân bình của chúng ta đã bị mất.

Khi điều này xảy ra, điều chúng ta cần thi hành là tạm ngừng và để nước đục của tâm trí trở nên trong trẻo lại. Chúng ta cần thi hành điều mà cô Maria đã làm trong bài Phúc Âm hôm nay. Chúng ta cần ngồi dưới chân Đức Giêsu trong sự thinh lặng cầu nguyện. Chúng ta cần để Người dạy chúng ta biết điều gì là quan trọng và điều gì không đáng kể.

Bài Phúc Âm hôm nay là một lời mời gọi chúng ta mỗi ngày hãy dừng lại ở dưới chân Đức Giêsu trong sự cầu nguyện, cũng như cô Maria đã làm trong Phúc Âm.

Điều này nêu lên một câu hỏi. Nếu chúng ta quá bận rộn đến độ mất cả thói quen cầu nguyện thì sao? Nếu chúng ta không biết thinh lặng cầu nguyện dưới chân Đức Giêsu thì sao? Chúng ta có thể làm gì để biết cách cầu nguyện?

Thật may mắn là có chúng ta có thể thi hành vài điều gì đó. Và chúng ta có thể bắt đầu ngay tối nay. Chúng ta có thể áp dụng phương pháp cầu nguyện đơn giản đã từng giúp đỡ nhiều người như chúng ta làm lại thói quen cầu nguyện và biết được nghệ thuật cầu nguyện.

Mỗi đêm trước khi đi ngủ, chúng ta cần 3 phút để làm 3 điều.

Trong phút thứ nhất, chúng ta thinh lặng và nhớ lại những gì xảy ra trong ngày. Chúng ta nhớ đến các điều tốt đẹp khiến chúng ta vui sướng, tỉ như nhận được thư của người bạn cũ. Sau đó, chúng ta thành thật nói với Đức Giêsu về điều đó. Sau cùng, chúng ta cảm tạ Đức Giêsu vì lá thư ấy.

Trong phút thứ hai, chúng ta cũng nhớ đến những gì xảy ra trong ngày. Lần này, chúng ta nhớ đến điều không tốt, những điều làm chúng ta hối hận, tỉ như la hét cha mẹ, vợ chồng hay con cái. Chúng ta nói với Đức Giêsu về khuyết điểm này và xin Người tha thứ, chữa lành cho chúng ta.

Sau cùng, trong phút thứ ba, chúng ta nhìn đến ngày hôm sau, nghĩ đến một số điều quan trọng phải thi hành, tỉ như việc nói chuyện ôn hoà với cha mẹ, vợ chồng hay con cái về một vấn đề đã xảy ra. Chúng ta nói với Đức Giêsu về điều đó và xin Người soi sáng, thêm sức để chúng ta có thể thi hành cách tốt đẹp.

Phương cách cầu nguyện đơn giản này đã giúp nhiều người lấy lại thói quen cầu nguyện và học được nghệ thuật cầu nguyện. Điểm tuyệt vời của phương cách cầu nguyện này là không những giúp chúng ta quan hệ đến đời sống thực tế mà còn giữ liên lạc với Đức Giêsu.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con đừng quá bận tâm đến đời sống mà quên đi lý do tại sao Ngài đã ban sự sống cho chúng con.

Xin giữ chúng con quá bận tâm đến đời sống mà quên đi mục đích của nó.

Xin giữ chúng con đừng quá theo đuổi những gì mà tiền bạc có thể mua được rồi quên đi những gì tiền bạc không thể mua được.

 

  1. Mácta và Maria – McCarthy

Suy Niệm 1. CHO VÀ NHẬN

Tôi có một giấc mơ. Chúa đến nhà tôi như đã đến nhà của Mácta và Maria. Vì thế tôi lau chùi, cọ rửa từ trên xuống dưới, rửa sạch và đánh bóng mọi thứ. Rồi tôi dọn bàn với khăn bàn tốt nhất, bộ chén dĩa bằng sứ, bộ dao nĩa muỗng bằng bạc loại tốt nhất, và cũng bài trí nến và hoa. Về thức ăn, tôi chọn món đắt tiền. Khi tất cả đã sẵn sàng và khách mời sắp đến, tôi trải thảm đỏ ra tận cổng nhà.

Người đến và tôi nghĩ tôi đã làm Người phải tự hào. Tôi phô bày thành tích cao. Tôi cung kính đứng hầu bên cạnh. Không ông vua nào có được sự phục vụ hào phóng hơn. Tôi chắc rằng cuộc đàm đạo sẽ không bao giờ nhạt nhẽo. Về phần Người, Người rất vui, Người tỏ vẻ cảm kích khi thấy tôi lúng túng. Mọi việc kết thúc chính xác như đồng hồ. Khi Người đã ra về, tôi cảm thấy tốt đẹp, và tuy vậy có một điều gì đó làm tôi phải băn khoăn.

Có một lúc tôi như đã hụt hẫng với điều lẽ ra phải có. Rồi một câu hỏi hiện ra trong tôi: Người muốn điều gì nơi tôi? Thức ăn? Lòng hiếu khách? Tôi tự hỏi. Nhưng rồi tôi nghe thấy một câu hỏi thứ hai vang lên trong tôi: Người muốn cho tôi điều gì? Tôi cảm tháy chắc chắn Người muốn cho tôi điều gì? Nhưng dù là điều gì, tôi đã không cho Người cơ hội để ban nó cho tôi. Tôi đã tạo ra cảm tưởng mọi việc đều hoàn hảo và tôi không muốn có thêm điều gì nữa.

Có những người rất hào phóng và tốt bụng khi cho nhưng rất nghèo nàn khi nhận. Bác sĩ Marie de Hennezel thành thập một số bộ phận tiếp nhận những người bệnh ở giai đoạn cuối trong một bệnh viện ở Paris. Trong cuốn sách của bà nhan đề Intimate Death, bà nói về một phụ nữ được đưa đến bộ phận ấy. Người phụ nữ này đã từng giúp đỡ mọi người nhưng giờ đây không thể giúp đỡ chính mình. Bà luôn luôn muốn được người ta ban cho thật nhiều yêu thương. Nhưng nhận được chúng thì thật là khó khăn. Bà nói về sự yêu thương của gia đình, của bạn bè, của những người chăm sóc bà như “một suối nước mà bà không biết phải uống như thế nào”. Bà cần học cách nào để lại trở thành một trẻ nhỏ, khiêm tốn đủ để nhận một món quà. Nhưng điều đó không dễ dàng bởi vì bà hoàn toàn đối lập với điều đó: bà thích cho một cách vị kỷ.

Những người vị kỷ, coi mình là trung tâm không thích nhận. Tại sao thế? Bởi vì nó làm cho họ cảm thấy thấp kém hơn người khác và đặt họ vào sự mắc nợ những người khác. Mặt khác họ thích cho bởi vì điều ấy tâng bốc cái tôi của họ, do đó (có lẽ một cách vô thức) làm cho họ cảm thấy cao sang hơn những người khác.

Cho là việc quan trọng. Nhưng nhận cũng thế. Không ai trong chúng ta tự cho mình là đủ. Mọi người chúng ta đều bất toàn. Chúng ta cần tiếp nhận của nhau, và trên hết, tiếp nhận từ Thiên Chúa. Không có khả năng tiếp nhận quả là bi thảm. Biết cho như thế nào chưa đủ, chúng ta cũng phải biết nhận như thế nào. Cả hai đều là những hoạt động của ân sủng.

Câu chuyện Tin Mừng cho chúng ta thấy sự khác nhau chủ yếu giữa Mácta và Maria. Mácta không có khả năng nhận, trong khi Maria có. Maria cho Chúa món quà là một tâm trí mở rộng và một tâm hồn mẫn cảm. Còn Mácta, trong lúc rất tốt, rất hào phóng khi cho, lại rất nghèo nàn khi nhận. Cả Chúa cũng không thể cho cô điều gì. Có một bài thơ ngắn nói lên điều ấy:

Nếu bạn có thể làm cho mình trống rỗng

Giống như một vỏ sò không

Hẳn Người sẽ tìm thấy bạn

Trên một bãi cạn của đại dương

Và Người tự nhủ: Nó chưa chết.

Và làm đầy bạn bởi chính Người

Nhưng nếu bạn quá đầy với chính bạn

Và với bao hoạt động khôn ngoan,

Đến nỗi khi Người đến Người liền nói:

Nó đủ cho nó. Nó quá đầy

Không còn chỗ dành cho Ta

(T. Brown. Thi sĩ xứ Manx)

Suy Niệm 2. SỰ HIỆN DIỆN CỦA THIÊN CHÚA

Chúng ta không sống đời sống tâm linh một cách nghiêm túc, chúng ta không dành ra một ít thời gian để sống với Thiên Chúa và lắng nghe lời Người. Phần lớn chúng ta đọc một số kinh sáng và kinh chiều. Nhưng, khổ nỗi, những kinh nguyện ấy thường là những lời quá quen thuộc mà chúng ta đọc một cách máy móc, vội vàng trong lúc đầu óc cứ mãi chạy theo nhưng công việc đang chờ đợi chúng ta. Kinh nguyện như thế giống như mặc áo quần, rồi mới rửa tay của mình khi người ta cần phải được tắm rửa, kỳ cô. Chúng ta cần có sự cầu nguyện tập trung, dâng hiến, sự cầu nguyện giống như cơn đói phải được no thoả mà không gì có thể thay thế. Loại kinh nguyện ấy luôn làm cho chúng ta biến đổi và thêm sức mạnh. “Cầu nguyện không phải là xin xỏ. Nó là sự khao khát của linh hồn. Nó là sự thừa nhận mỗi ngày sự yếu đuối của chúng ta”.

Đối với nhiều người, cầu nguyện chủ yếu là đọc kinh hơn là cầu nguyện. Trong một ý nghĩa nào đó, cầu nguyện bắt đầu ở chỗ mọi diễn tả chấm dứt. Những lời nói mà môi miệng chúng ta thốt ra thường chỉ là những làn sóng trên bề mặt của bản thể chúng ta. Hình thức cao nhất của sự tôn thờ là thinh lặng.

Có lẽ kinh nguyện có lợi nhất chính là ở trong sự hiện diện của Thiên Chúa, không nói hoặc làm điều gì. Chỉ ngồi trong sự hiện diện của Thiên Chúa, như Maria ngồi trong sự hiện diện của Đức Giêsu. Nhưng đối với một số người, điều đó có vẻ như lãng phí thời gian trong khi có rất nhiều việc phải làm.

Ở trong sự hiện diện, không nói hoặc làm điều gì, không phải là một việc dễ dàng. Bởi vì ngay khi chúng ta ngừng lại, chúng ta cảm thấy trống rỗng kể cả thấy mình vô dụng. Phần đông chúng ta có ý thức về giá trị của mình qua việc làm. Họ không biết đương đầu như thế nào với sự ngưng nghỉ và bất động. Kết quả là đời sống của họ nông cạn và hời hợt bên ngoài.

Phần đông con người có xu hướng đặt tình yêu của Thiên Chúa với hoạt động của xã hội. Dĩ nhiên cầu nguyện có thể là một sự tránh né và thoát ly. Nhưng hoạt động xã hội cũng thế. Hoạt động của chúng ta có thể là một sự tránh né việc tìm kiếm Thiên Chúa. Và không có cầu nguyện người ta có thể dễ dàng quỵ ngã, hướng ngã thay vì được Thiên Chúa hứng khởi.

Henry David Thoreau đã sống hai năm trong một túp lều trong rừng ở Maine. Ông ta làm gì trong suốt hai năm ấy? Ông trồng một vườn rau, đọc sách, và quan sát thiên nhiên. Nhưng một đôi khi ông không làm gì cả. Ông nói: “Thỉnh thoảng vào một buổi sáng mùa hè, tôi ngồi trên con đường ngập nắng dẫn vào túp lều từ sáng sớm cho đến trưa, mê man trong mộng tưởng giữa những cây thông, trong sự cô đơn và bất động yên tĩnh, trong khi bầy chim ca hát xung quanh tôi”.

Ông đã thu hoạch được gì từ điều đó? Ông nói:

“Trong những mùa ấy, tôi lớn lên như ngũ cốc trong đêm. Đó không phải là thời gian bị lấy mất khỏi đời tôi, nhưng vượt ra ngoài và bên trên sự bớt đi thông thường. Cần cù như những con kiến chưa đủ. Bạn cần cù về điều gì? Đừng sợ cuộc đời bạn sẽ kết thúc; đúng hơn phải sợ cuộc đời chưa bao giờ đã bắt đầu”.

Một số người có thể cho rằng Thoreau là một người mơ mộng lười biếng. Nhưng chúng ta cần dành thời gian cho việc cầu nguyện và suy niệm, hoặc chỉ cần ngồi thinh lặng trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Đó không phải là thời gian bị lãng phí mà là thời gian được sử dụng tốt. Mỗi ngày chúng ta phải cố gắng, dù chỉ trong một thời gian ngắn, tìm kiếm khuôn mặt của Thiên Chúa.

Với cái nhìn nông cạn, phần việc của Maria có vẻ dễ dàng hơn –cô chỉ việc ngồi đó, và phần việc của Mácta khó khăn hơn. Nhưng suy nghĩ kỹ, chúng ta có thể thấy ít nhất đôi khi, phần việc của Maria khó khăn hơn nhiều trong hai phần việc ấy. Gạt bỏ công việc của mình và chú tâm hoàn toàn vào người khác không dễ dàng. Đem sự chú tâm trọn vẹn ấy vào Thiên Chúa lại càng khó khăn hơn. Nhưng đó là linh đạo sinh ra lợi ích rất lớn lao.

CÂU CHUYỆN KHÁC

Tổng Giám mục Anthony Bloom kể lại rằng người đầu tiên đến xin ngài một lời khuyên khi ngài đã được truyền chức thánh là một bà cụ, bà nói: “Thưa cha, con đã cầu nguyện hầu như không ngừng suốt mười bốn năm, và con chưa bao giờ có cảm giác gì về sự hiện diện của Thiên Chúa”.

“Con có để cho Thiên Chúa có cơ hội lên tiếng không?” ngài hỏi.

“Ồ không”, bà nói, “Con đã nói với Người suốt thời gian ấy. Như thế không phải là cầu nguyện sao?”.

“Không,” ngài nói. “Cha không nghĩ như thế. Bây giờ cha gợi ý thế này. Con hãy dành riêng mười lăm phút để chỉ ngồi trước mặt Thiên Chúa”.

Và bà đã làm như thế. Kết quả là gì? Không lâu sau, bà ta trở lại và nói: “Thật lạ lùng, khi con cầu nguyện cùng Thiên Chúa, nói cách khác khi con nói với Người, con không thấy điều gì. Nhưng khi con ngồi thinh lặng, yên tĩnh mặt đối mặt với Người, con cảm thấy được bao trùm trong sự hiện diện của Người”.

Sau cùng, cầu nguyện không phải để nhiều lời nhưng hướng đến sự hiệp thông với Thiên Chúa. Cầu nguyện là một sự yên nghỉ trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Đây là vấn đề giữ tĩnh lặng trong sự hiện diện của Người hơn là việc đọc kinh.

 

  1. Martha và Maria.

Có một bà bếp của cha sở nọ, mỗi lần nghe đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, đều than phiền:

– Phải rồi, nếu không có Martha, thì ai sẽ lau nhà, sẽ nấu ăn, sẽ rửa chén.

Cũng vậy, nếu tôi chỉ ngồi suy nghĩ và bàn luận về những sự cao siêu trên trời, thì chắc chắn chẳng có ai làm những công việc tầm thường ấy. Ngay trong lúc này, hẳn nhiều người trong chúng ta cũng tự hỏi:

– Làm thế nào để dung hòa giữa thái độ của Martha và thái độ của Maria, hầu nhờ đó mà áp dụng vào cuộc sống cụ thể của mỗi người chúng ta.

Thực tế cho hay cuộc sống của chúng ta thì rất bận rộn, chúng ta không có thời giờ để ngồi dưới chân Chúa. Chúng ta muốn cầu nguyện nhiều hơn, chúng ta muốn tham dự thánh lễ thường xuyên hơn, chúng ta muốn đọc và suy gẫm lời Chúa lâu giờ hơn, nhưng kẹt một nỗi chúng ta lại không có thời giờ.

Quả thật, Chúa Giêsu muốn chúng ta vừa là Martha lại vừa là Maria. Ngài không nói rằng: Khi làm việc như Martha, chứ không thể cầu nguyện như Maria, hay trái lại, khi cầu nguyện như Maria, chúng ta không thể làm việc như Martha. Hai thái độ trên liên hệ mật thiết và bổ túc lẫn cho nhau: Chúng ta vừa phải là Martha vừa phải là Maria. Vậy thì chúng ta thực hiện lý tưởng ấy như thế nào?

Tôi xin thưa: Chúng ta hãy khởi đầu một ngày mới bằng cách dâng lên Chúa lời nguyện vắn tắt sau đây:

– Lạy Chúa, con xin dâng lên Chúa trọn ngày hôm nay.

Còn nếu như có đủ thời giờ, chúng ta hãy cầu nguyện:

– Lạy Chúa, con xin dâng lên Chúa mọi tư tưởng, mọi lời nói và mọi việc làm, để tôn vinh danh Chúa, hợp cùng cuộc khổ nạn của Đức Kitô, Đấng cứu chuộc chúng con.

Đồng thời, thỉnh thoảng trong ngày, chúng ta hãy lặp lại lời kinh trên, nhờ đó thánh hóa những công việc tầm thường của chúng ta, biến những công việc tầm thường ấy trở thành một lời kinh liên tục, hay nói một cách khác biến cuộc đời chúng ta trở thành một thánh lễ nối dài.

Các vị thánh là những người bận rộn. Với các ngài, cái búa, cái cưa, cái cày, cái cuốc, cái chổi được coi như là những chén thánh ở trên bàn thờ. Tại sao lại như thế?

Tôi xin thưa vì những dụng cụ ấy là những dụng cụ để các ngài làm tôn vinh danh Chúa. Điểm chính yếu trong đời sống đạo đức đó là tinh thần phục vụ. Phục vụ Chúa trong mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc. Thánh lễ chúng ta đang tham dự cũng là một hình ảnh lý tưởng để chúng ta vừa là Martha lại vừa là Maria. Như Martha chúng ta cùng hát, cùng đọc và cùng dâng với mọi người. Như Maria chúng ta lắng nghe và suy gẫm lời Chúa, cũng như kết hiệp tâm tình để cầu nguyện với Chúa.

Khi rước lễ, Chúa Giêsu sẽ là vị khách quí ngự đến trong tâm hồn chúng ta, như ngày xưa Ngài đã là vị khách quí dưới mái nhà Bêtania. Xin Ngài hãy giúp chúng ta biết thực hiện tinh thần phục vụ như Martha và Maria, đó là hãy làm mọi việc dù tầm thường nhỏ bé nhất vì lòng yêu mến Ngài, nhờ đó những việc nhỏ bé tầm thường này sẽ trở thành những sợi chỉ vàng, dệt nên tấm vải cuộc đời chúng ta.

 

  1. Những mẫu gương sáng ngời.

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)

Ba bài đọc của Chúa Nhật hôm nay cho thấy những tấm gương sống Lời Chúa trong những hoàn cảnh khác nhau: Abraham, Maria và Phaolô.

Chọn điều tốt nhất

Đức Giêsu trên đường rao giảng, ghé vào một gia đình rất quý mến Ngài. Đó là gia đình của Martha, Maria và Lazarô. Cô Martha lo làm đồ ăn đãi khách. Có lẽ có cả các tông đồ cùng ở với Đức Giêsu, vì thế Martha một mình làm bếp cho mười sáu người ăn. Với gia đình này, Đức Giêsu và các tông đồ là những vị khách quý, nên có thể đây là bữa tiệc. Biết bao việc phải làm, thế mà Maria vẫn ngồi bên chân Đức Giêsu và nghe Ngài giảng dạy. Chắc Martha đã ra hiệu hoặc nói với Maria giúp mình, nhưng Maria vẫn giữ lập trường: ngồi tiếp chuyện Đức Giêsu, ngồi nghe Ngài giảng dạy. Không thể chịu nổi nữa, Martha đã xin Đức Giêsu can thiệp: “em con để một mình con với bao nhiêu việc, xin thầy bảo nó giúp con một tay”.

Theo nhiều người, Martha hoàn toàn có lý. Cả Maria lẫn Đức Giêsu đều không được tế nhị lắm. Có lẽ Martha không chỉ trách Maria, mà trách cả Đức Giêsu như thể Đức Giêsu vô tình không để ý đến vất vả của Martha.

“Martha, chị lo lắng về nhiều chuyện quá. Chỉ cần một điều thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và không ai cướp đi được”. Trên đời có nhiều điều có thể làm, phải chọn điều nào quan trọng và cần thiết để làm. Trong trường hợp này, không cần phải làm nhiều món để đãi Đức Giêsu và các môn đệ của Ngài. Không cần phải vất vả như vậy. Tại sao lại phải làm nhiều món, và điều đó lại là không quan trọng (đối với Đức Giêsu), để rồi phải càm ràm oán trách người khác. Maria đã chọn nghe Lời Chúa, và cũng sẵn sàng chấp nhận bị chị càm ràm, và cả người đời càm ràm chê trách, như thể là người lười, như thể là người không tế nhị và không biết giúp đỡ chị nữa.

Không có một bản lĩnh và một chọn lựa dứt khoát, không thể hành xử như Maria được. Trong cuộc sống, tôi đã chọn điều gì là quan trọng?

Niềm nở ân cần tiếp đón tha nhân

“Đang ngồi hóng mát, nhìn lên Abraham thấy “ba vị” đang đứng gần. Abraham chạy lại, cúi mình chào các vị, mời các vị khách rửa chân cho thoải mái trong một môi trường nóng bức, và dùng bữa”. Với Abraham, đây không phải là những người quen thường gặp, thế nhưng Abraham đã tiếp đón rất ân cần tử tế. Thái độ hiếu khách của Abraham đã làm tương quan giữa Abraham và khách trở nên rất tốt, đến độ các vị khách đã “tỏ mình” cho Abraham.

Thái độ hiếu khách của Abraham đặt vấn đề cho con người ngày nay. Thái độ sống của tôi đối với những người tôi gặp gỡ như thế nào? Abraham đã đón tiếp tha nhân, và cuộc đón tiếp này đã trở thành cuộc đón tiếp Thiên Chúa. Đức Giêsu cũng đã đồng hoá mình với những người nghèo, đến độ ai đón tiếp người nghèo là đón tiếp Chúa, ai cho người nghèo ăn là cho Chúa ăn, ai đi thăm và giúp đỡ người nghèo là đi thăm và đón tiếp Chúa (Mt.25, 31tt). Đối xử với con người, là đối xử với Thiên Chúa.

Rao giảng Tin Mừng Đức Giêsu Kitô

Cả cuộc sống của Phaolô sau khi trở lại, là rao giảng, phục vụ Tin Mừng. Ngài được gọi để được sai đi rao giảng, và Ngài đã thực hiện sứ mạng của Ngài trong mọi hoàn cảnh, bất chấp những khó khăn và nguy hiểm. Ngài rao giảng cả khi ở trong tù, cho cả người Do Thái lẫn người ngoại, cho người đời bình thường cũng như cho những người có địa vị và thế lực. Ngài vui ngay cả trong những khổ đau, và Ngài muốn “hoàn tất” những gì còn thiếu trong thân thể Giáo Hội. Với Phaolô, Ngài “học no học đói”, Ngài làm tất cả để Chúa được tôn vinh hơn.

Với Phaolô, Đức Giêsu là Tin Mừng. Đức Giêsu là mầu nhiệm được giữ kín từ muôn thuở, nay được mặc khải cho con người. Đức Giêsu Kitô là tất cả đối với Phaolô, Ngài sẵn sàng bỏ tất cả để được Đức Giêsu Kitô.

Phaolô trở thành con người tuyệt vời, nhờ thi hành sứ mạng rao giảng Tin Mừng. Ước gì mỗi người không mắc cỡ nhưng can đảm tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Tin Mừng. Chính nhờ Đức Giêsu Kitô mà mỗi người Kitô hữu trở thành người tuyệt vời.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

  1. Bạn có chấp nhận chọn lựa của Maria không? Tại sao?
  2. Theo bạn, hiếu khách có còn giá trị trong xã hội hiện tại không? Xin cho biết lý do.
  3. Có cần phải rao giảng Tin Mừng cho con người thời đại ngày nay không? Tin vào Tin Mừng giúp gì cho con người ngày nay?

 

  1. Gia đình chị em Maria – Lm Giacôbê Tạ Chúc

Trong cuộc đời công khai giảng dạy, Chúa Giêsu được nhiều người thương mến và giúp đỡ. Trong số đó không thiếu những người phụ nữ đi theo Chúa, cách đặc biệt một gia đình mà Chúa thường đến thăm và quan tâm tận tình: gia đình của chị em bà Matta và Maria. Các Tin mừng ghi nhận ít là ba lần Chúa đến nhà chị em này (Ga 11, 1-45; 12, 1-11; Lc 10, 38-42).

Làng Bêtania

Nói đến gia đình Matta và Maria chúng ta không thể nào không nhắc đến một địa danh lịch sử, gắn liền với tên tuổi của hai Thánh nữ. Bêtania một làng nằm ở phía đông nam núi Cây dầu, thuộc vùng phụ cận Giêrusalem, trên đường nối liền với Giêricô. Nơi ở của Lazarô, Mátta và Maria (Ga 11,1). Là nơi Chúa cho Lazarô sống lại (Ga 11). Bêtania bây giờ là El-Azariyeh, “nhà của Lazarô”. Nhìn từ xa, làng Bêtania được mô tả như là “nơi tốt đẹp đáng ghi nhớ, nơi ẩn náu của sự bình yên, của nguồn yêu thương”. Bây giờ cũng chỉ là một làng nhỏ. Dân số hiện nay khoảng 5000 người. Bêtania ngày nay là vùng đất tự do, chẳng thuộc quản lý của Israel hay của Palestine. Từ Giêrusalem về Bêtania xe hơi chạy khỏang một giờ đồng hồ”.

Mátta và Maria

Câu chuyện Chúa Giêsu vào nhà Mátta và Maria nghỉ ngơi, khi cùng với các môn đệ đang  trên đường rao giảng Tin mừng, cho chúng ta một nét đẹp trong chân dung của người Tông đồ phục vụ anh chị em mình. Trong khi cô em là Maria đang ngồi lắng nghe lời chúa, thì Mátta tất bật với công việc một người nội trợ thật tuyệt vời. Chúa Giêsu không có ý xem nhẹ, thái độ đón tiếp của bà. Bởi Chúa cũng cần lắm những cộng sự viên năng nổ, năng động như Mátta. Nếu làm một cuộc so sánh hai chị em thì chúng ta phải khẳng định rằng: Maria là người thiên về đời sống nội tâm, còn Mátta thì hướng đến sự chia sẻ và trao ban. Cả hai đều là những cách thế thể hiện một tình yêu đón nhận từ Thiên Chúa và tặng ban cho con người. Vả lại, Maria là người em nên có khi hơi ỷ lại một chút, công việc bếp núc cũng có phần nặng nhọc và cần đến sự khéo léo và tài tình, nên dành cho người chị thì có lẻ tốt hơn.

Một lần khác, khi ra chào đón Chúa Giêsu vào thăm trong hòan cảnh người em mới qua đời, Mátta bộc bạch cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Nhưng bây giờ con biết: bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy” (Ga 11,21). Lazarô đã chết, thế nhưng Mátta vẫn tin rằng Chúa Giêsu là sự sống vĩnh cửu của con người. Nói cách khác Mátta tin nhận Thầy Giêsu là Đấng Thiên sai, Đấng Messia mà thiên Chúa tặng ban cho nhân loại.

Lắng nghe và thực thi Lời Chúa dạy

Tin mừng dù ghi nhận sự khác biệt của hai chị em Maria và Mát-ta trong việc đón nhận lời Chúa, một bên là tĩnh lặng của tâm hồn, một bên là xao động của từng đường gân thớ thịt. Thế nhưng không ai có thể phủ nhận con tim của cả hai đang dạt dào tình yêu mến Thiên Chúa một cách vô bờ bến, trong con người của Mát-ta và Maria.

Kết hợp những nét đẹp rạng ngời của cả hai chị em, mỗi người sẽ thấy được việc lắng nghe và thực thi lời Chúa, chỉ là hai cách thế diễn tả của một tình yêu Giêsu.

 

  1. Yêu theo cách của người mình yêu

Trên đường đi Giêrusalem, cách thành thánh 3 cây số, Chúa Giêsu ghé lại Bêtania, nơi ở của Mácta, Maria và Lagiarô, một gia đình mà Ngài rất quen thân và vẫn thường lui về nghỉ ngơi trong những dịp thi hành sứ vụ tại thủ đô. Không có nơi nào tính cách nhân loại mà Luca chủ trương phác hoạ được diễn tả trọn vẹn hơn ở đây, trong khung cảnh đầm ấm của gia đình, mà cũng khó gặp được một bức hoạ tâm lý sống động hơn ở đây. Có người tưởng tượng rằng Mácta là người khô khan nhưng cương nghị và đắc lực, còn Maria thì đôn hậu, đa cảm và lười. Thật ra cả hai chị em đều có những đức tính đáng khen. Cả hai đều yêu kính Chúa Giêsu và ước ao làm vui lòng Chúa. Nhưng trong dịp này vì lòng nhiệt thành phục vụ, Mácta đã làm việc quá nhiều để sửa soạn một bữa ăn ngon. Còn Maria vì trực giác hơn được điều Chúa muốn nên cứ ngồi dưới chân Chúa mà nghe lời Nguời dạy. Nàng biết Ngài mong ước được mạc khải chính mình, muốn ban cho họ những sứ điệp từ trời, không phải vì lợi ích cho Ngài, mà vì phần rỗi của nhân loại. Bởi vậy, theo nghệ thuật tiếp khách, nàng phải để ý đến ý muốn của vị khách trước. Trong việc tiếp đãi Thầy, nàng đã làm được việc lớn hơn chị nàng.

“Mácta tất bật lo việc phục vụ”. Nàng bù đầu với nhiều công việc mình muốn làm. Một kẻ theo Chúa có thể cố gắng thái quá, đôi khi điều đó bị thúc đẩy do cảm giác tự tôn và kiêu hãnh. Điều đó đã khiến cho người ta cáu kỉnh như Mácta khi nàng chỉ trích em mình, làm giảm giá em mình trước mặt vị khách của cả hai, vì câu nàng nói với Chúa ngụ ý trách cả Chúa nữa: “Em con để con một mình phục vụ mà Thầy không quan tâm sao?”.

Đáp lại Chúa tỏ lòng ưu ái bằng cách thân mật gọi tên nàng, nhưng trách nhẹ tinh thần của nàng và bày tỏ nguồn gốc của tinh thần ấy: “Mácta! Mácta! Con băn khoăn lo lắng về nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi”. Ý Ngài muốn nói: không cần phải một bữa ăn thịnh soạn, một vài món cũng đủ rồi, nhưng có một điều cần thiết, điều ấy Maria đã chọn.

Chúng ta thử tìm những bài học nơi đây:

Nó bày tỏ sự va chạm giữa những tính tình khác biệt

Có người thì tự nhiên hăng hái hoạt động, lại có người khác ưa trầm tĩnh. Thật khó cho một người năng nổ hiểu một người chỉ thích ngồi yên để trầm tư mặc tưởng. Ngược lại, người trầm tư mặc tưởng lại thường khinh dể những người cứ luôn tay luôn chân. Không có vấn đề phải trái ở đây. Thiên Chúa đã không dựng nên mọi người giống nhau. Thiên Chúa cần có những người như Maria, nhưng Ngài cũng cần những người như Mácta, và cả hai người đó đều phục vụ Chúa. Không ai được độc quyền phục vụ Chúa hay chủ trương rằng chỉ có cách mình phục vụ mới là chính đáng.

Trong một cuộc lễ trọng, trên bàn thờ chưng đầy hoa nến, một cây nến được cắm giữa chậu hoa, đến cuối lễ, cây nến cháy hao dần và sức nóng toả ra làm các cánh hoa rũ rượi cụp xuống. Hoa than thở với nến: Chị và chúng em cùng phụng thờ Chúa, sao chị lại đốt rụi chúng em!

Nhưng ở đây còn có một bài học nữa: Bài học về một thứ lòng tốt sai lầm

Hãy nghĩ đến chỗ Chúa Giêsu đang đi đến khi chuyện này xảy ra. Ngài đang trên đường đến Giêrusalem. Toàn thể hồn xác Chúa đang lâm vào một cuộc chiến đấu nội tâm để làm cho ý muốn của Ngài hiệp nhất với ý muốn của Chúa Cha. Khi Chúa Giêsu tới gia đình này, đó là một ngày trọng đại cho họ. Để mừng ngày trọng đại này, Mácta rất muốn thực hiện một điều tốt nhất mà gia đình có thể thực hiện được. Vì thế nàng chạy ngược chạy xuôi, nấu nướng, và đó chính là điều Chúa Giêsu không muốn. Ngài chỉ muốn một điều là được yên tĩnh. Với hình ảnh thập giá ở trước mặt cùng một sự căng thẳng trong tâm hồn, Ngài đã rẽ bước về Bêtania để tìm một chỗ lặng lẽ nghỉ ngơi, dầu chỉ được một hai tiếng đồng hồ, để tránh xa đám đông dân chúng quá nôn nao đòi hỏi, và để có thể chia sẻ tâm tình với bạn thân để lòng vơi đi nỗi căng thẳng. Đó là điều Maria đã đem đến cho Ngài và đó cũng là điều mà Mácta vì lòng tốt đã làm hết sức để phá đi. “Chỉ một việc cần” câu ấy có thể có ý “Ta không muốn một bàn đầy thức ăn, Ta chỉ cần một món thật đơn giản”. Maria hiểu, còn Mácta thì không hiểu được. Đây là một trong những khó khăn của cuộc đời. Thường thì chúng ta muốn tử tế với mọi người, nhưng tử tế theo cách của chúng ta. Nếu cách thế của chúng ta không được thừa nhận, chúng ta cảm thấy dễ phật lòng tưởng rằng người ta không trọng mình.

Nếu chúng ta đang cố gắng ăn ở tốt với người khác, trước hết chúng ta phải hiểu ý của người mà mình muốn giúp đỡ, rồi chúng ta phải quên những chương trình của mình và chỉ nghĩ đến điều mà người đó đang cần.

Trong lịch sử nước Mỹ, trong những ngày đen tối nhất của cuộc nội chiến Nam Bắc, Lincoln viết thư mời ông bạn cũ ở xứ Illinois tới Washington để thảo luận vài vấn đề. Ông bạn tới Bạch cung và Lincoln nói với ông trong mấy tiếng đồng hồ về tờ thông báo ông định công bố để thủ tiêu chế độ nô lệ. Tổng thống ôn lại tất cả các lý lẽ bênh vực cho các đạo luật ấy và những lý lẽ phi bác lập trường đối nghịch. Ông lại đọc cả những bức thư và bài báo viết về vấn đề đó, trong đó nhiều người trách ông chần chừ chưa phế bỏ chế độ nô lệ, lại có những bài chỉ trích vì ông có ý tiến hành việc ủng hộ chế độ nô lệ. Sau khi hăng hái nói một hồi lâu. Lincoln bắt tay ông bạn già, chúc ông ta bình an và tiễn ông ta trở về Illinois, chẳng hỏi ý kiến gì hết. Lincoln đã nói, đã trút bỏ những suy nghĩ đang đè nặng trong lòng ông, như vậy đầu óc ông được sáng suốt. Ông bạn già kể lại: “Khi Lincoln nói xong rồi, ông ấy bình tĩnh hơn”. Lincoln chỉ cần một người bạn thân biết nghe ông nói và hiểu lòng ông để ông trút bầu tâm sự của ông thôi.

Chúa Giêsu yêu thương Mácta và Mácta cũng yêu mến Chúa, thế nhưng khi Mácta tỏ lòng tốt, thì lại chỉ tốt theo cách của nàng, điều mà thực sự không tốt với Đấng mà tâm hồn đang khao khát sự yên tịnh, sự thân mật. Chúa Giêsu yêu Maria vì Maria yêu Chúa, Maria cũng hiểu biết Chúa nữa.

 

  1. Phúc cho ai sẵn sàng đón nhận Chúa.

(Suy niệm của Jude Siciliano)

Khi viết Tin Mừng, thánh Luca chia cuộc đời Chúa Giêsu làm 3 giai đoạn:

  1. Ở quê hương Nazareth xứ Galilea;
  2. Hành trình đi lên Giêrusalem;
  3. Ở thành thánh Giêrusalem: chịu thương khó, bị giết chết và sống lại.

Thánh nhân thâu gom mọi hoạt động của Chúa vào 3 giai đoạn ấy bất kể nơi chốn và thời gian. Cho nên chúng ta khó xác định biến cố xảy ra ở đâu, lúc nào? thí dụ chuyện của hai chị em Matta và Maria hôm nay. Thánh sử ghi chép rất chung chung: “Trong khi Thầy trò đi đường. Đức Giêsu vào một làng kia…” Thánh Gioan nói rõ: làng Betania (11,1), và thời gian thì không phải Đức Giêsu đi lên Giêrusalem một lần duy nhất, nhưng vào nhiều dịp khác nhau. Tuy nhiên cứ theo thánh Luca thì câu chuyện Tin mừng hôm nay ở vào cuộc hành trình duy nhất này. Phụng vụ cho đọc về cuộc hành trình từ Chúa nhật 13 mùa thường niên. Một vài biến cố xảy ra lúc thầy trò đang đi đường. Một vài biến cố chỉ lấy con đường làm nền tảng còn thì xảy ra ở những nơi khác. Chuyện của hai chị em Matta và Maria không ở trên đường đi mà “vào một làng kia”. Cũng xin lưu ý nhiều tác gỉa không đồng nhất bà Maria này với Maria-Madalêna hay người đàn bà tội lỗi vô danh xức thuốc thơm chân Chúa ở nhà ông Simon (7,36). Ba người đàn bà có những tính nết khác nhau, không lẫn lộn được. Người đàn bà vô danh thánh Luca thuật chuyện ở giai đoạn thứ nhất. Ngài không lặp lại ở đây nữa (xem Le personnage de Marie-Madeleine dans L’Evangile, trong La revue Jerusalem tháng 9-10,1930).

Vì câu chuyện quá quen thuộc, chúng ta không nên vội vàng đi đến kết luận ngay, kẻo làm thiệt hại cho sự thật. Xin tưởng tượng mình đọc lần thứ nhất và để tâm suy nghĩ xem thánh Luca muốn nói gì với chúng ta nhân câu chuyện của hai chị em. Thí dụ về cô Matta, chúng ta đừng vội kết luận cô ta thuộc hạng người hoạt động thái quá, dễ nổi nóng và lo lắng tiếp đãi khách, cô không còn thời giờ lắng nghe lời Thiên chúa phán dạy. Nếu chúng ta có thành kiến gán cho cô như vậy, thì thử hỏi nhiều độc giả nghĩ thế nào khi đọc đoạn Tin mừng này? Bởi vì họ cũng là người cha, người mẹ vất vả kiếm sống cho con cái trong xã hội xô bồ hôm nay. Họ cũng là những công nhân, nông dân đầu tắt mặt tối kiếm tiền nuôi gia đình! Liệu có ai trong cuộc sống văn minh ngày nay được thời giờ nhàn hạ như cô Maria? Liệu chúng ta có kết án vô lý tầng lớp sản xuất của xã hội? Tầng lớp mọi người đều trân trọng vì lao động của họ?

Ví dụ một người cha, người mẹ độc thân, lương lậu thấp, cố gắng rất mực để cho gia đình đủ ăn đủ mặc mà nghe giải thích bài Tin mừng hôm nay theo não trạng cũ, mà lại không thấy mủi lòng? Liệu họ có thể lựa chọn ngồi một chỗ thinh lặng chiêm niệm lời Chúa như cô Maria được không? Cho nên chúng ta không thể loại trừ tầng lớp lao động chân tay khỏi ý nghĩa của Tin mừng. Chúng ta phải làm thế nào cho cô Matta cũng được tham dự vào “phần tốt nhất” mà Chúa Giêsu tuyên bố cho những kẻ lắng nghe lời Chúa! Như vậy thì những phụ nữ lao động tại gia đình hoặc trong các xí nghiệp. cơ quan mới cảm thấy không thiệt thòi về phần thiêng liêng. Chính họ đã phải hy sinh nhiều vì chồng con. Lắm người lại còn phải mang gánh nặng góa bụa. Liệu Matta có phải là một bà góa không nhỉ? Những chỉ số thống kê gần đây cho biết phụ nữ luôn lãnh lương thấp hơn so với nam giới trong cùng một công việc. Ngoài ra phụ nữ lại là những nhân viên tình nguyện đông hơn nam giới trong các cơ sở giáo hội, từ thiện, bác ái, công ích xã hội. Họ ít thời giờ giải trí, vui chơi hơn đàn ông. Thực tế họ là những phụ nữ “Samaritanô” nhân hậu lắng nghe và tuân giữ lời Chúa như chị em Maria và Matta. Cho nên chúng ta phải công bằng với họ trong lý thuyết và thực hành, làm sao cho họ cũng là những kẻ đón nhận Chúa Giêsu, lắng nghe lời Ngài như bao người khác. Để rồi như dụ ngôn người “thân cận” chúng ta hiểu được việc phục vụ của các tín hữu hệ tại nội dung nào?

Một điều cần nói là trong bản dịch khác của tiếng Anh thì từ “đón nhận” được chuyển ngữ là “tiếp đãi” Chúa Giêsu. Thoạt kỳ thủy chỉ có Chúa và cô Matta. Maria chưa xuất hiện. Trong suốt câu chuyện Maria chẳng nói lời nào! Matta theo truyền thống đông phương đã tiếp đãi kẻ đi đường rất nồng hậu và lịch thiệp. Chúng ta thấy truyền thống này trong bài đọc 1. Ông Abraham tiếp đãi ba người khách lạ xin trọ nhà ở Mambrê, gần Hébron. Ông đã giục vợ là Sara làm bánh tiếp đãi các vị, rồi sai đầy tớ bắt bê béo làm thịt. Sách Sáng thế Ký kể: “Ông Abraham vội vã vào lều tìm bà Sara mà bảo: Bà mau mau lấy ba thúng tinh bột mà nhồi rồi làm bánh. Ông chạy lại đàn vật, bắt một con bê non béo tốt, giao cho đầy tớ và anh này vội vã làm thịt. Ông lầy sữa chua, sữa tươi và thịt bê đã làm mà đãi khách”. Rõ ràng có những vội vã, rộn ràng trong việc tiếp khách của ông Abraham. Vậy mà ông đâu có bị quở mắng? Ngược lại hai ông bà lại được chúc phúc: sẽ có con cháu nối dòng. Đó là Isaac (tiếng này có nghĩa là nụ cười vì bà Sara cười thầm khi nghe khách báo tin). Cô Matta đã theo thói tục lâu đời của cha ông đãi khách lạ trong nhà mình. Cả hai câu chuyện đều có ý nghĩa chung: tiếp đón Thiên Chúa đến viếng thăm. Abraham và Sara đã được ơn phúc lớn vì sự hiếu khách của mình. Chẳng lẽ Matta lại bị quở phạt? Chúng ta phải hiểu câu chuyện của cô theo hướng khác.

Phụng vụ chọn đọc bài Sáng thế song song với bài Tin Mừng là có dụng ý. Chúng ta được kêu mời suy nghĩ kỹ hơn về các sự kiện. Nhờ lòng hiếu khách Abraham và Sara được Thiên Chúa chúc lành với người con nối dòng. Nhưng dòng dõi đích thực của họ là phần tinh thần. Con cái họ là những kẻ biết kính sợ và tin cậy Thiên Chúa. Đấng luôn luôn ngự giữa dân Ngài theo lời hứa. Đấng ký kết với Israel những giao ước vĩnh cửu. Dòng dõi Abraham và Sara là những kẻ lữ hành trong đức tin trên cuộc đời trần gian. Họ sẽ “mở lòng ra” đón nhận Thiên Chúa trong cuộc sống mình. Cũng như Matta và Maria, chúng ta là hậu duệ của hai ông bà, chúng ta cũng phải mở trí, mở lòng đón nhận lời Chúa, đón nhận “khách lạ” vào cuộc sống mình. Những khách lạ đó không hẳn là người đồng vai đồng vế, những môn đăng hộ đối về kinh tế, chính trị, học thức với mình. Nhưng có thể là thấp kém, cũng có thể là hơn. Hội thánh xưa nay vẫn vừa chiêm niệm vừa hoạt động, hai khả năng không loại trừ nhau. Đúng hơn hoạt động và chiêm niệm bổ túc cho nhau. Hoạt động để chiêm niệm và chiêm niệm để hoạt động. Không nghiêng hẳn về bên nào. “Cầu nguyện và hoạt động” như thánh Bênedictô dạy. Tuần này qua tuần khác, chúng ta lắng nghe Tin mừng thánh Luca. Giống như Maria ngồi bên chân Chúa và nghe lời Ngài, để học biết phải “đón tiếp” Chúa vào cuộc sống mình ra sao! Tuần vừa qua chúng ta nghe dạy mình phải là “thân cận” của những kẻ đang cần được giúp đỡ. Tuần này câu chuyện của Maria lắng nghe lời Chúa. Như vậy chúng ta học biết phải thi thố lòng hiếu khách và tử tế cho những ai có nhu cầu. Chẳng phải vô tình mà sử gia Luca đặt câu chuyện hôm nay ngay sau chuyện người Samaria nhân hậu. Thánh nhân có ngầm ý gởi cho độc giả một thông điệp. Mọi người phải thưa gởi Chúa Giêsu như thầy thông luật: “Con phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp” và câu chuyện của hai chị em Matta và Maria trả lời: “Hãy đón tiếp Chúa Giêsu vào cuộc sống và lắng nghe lời Người dạy bảo về yêu thương đồng loại, những kẻ thân cận của mình” và con đường dẫn đến cuộc sống vĩnh cửu sẽ rõ ràng cho mỗi linh hồn.

Chúa Giêsu hỏi ngược nhà luật sĩ: “trong luật đã viết gì?” Ông ta trả lời: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, hết trí khôn ngươi và yêu mến ngươi thân cận như chính mình”. Câu này có hai phần: phần thứ nhất: yêu mến Chúa, phần thứ hai: thương người thân cận. Dụ ngôn người Samaria nhân hậu trả lời cho phần thứ hai. Tin mừng hôm nay trả lời phần thứ nhất: Lắng nghe lời Chúa tức yêu mến Ngài. Đứng riêng lẻ một mình không nội dung nào đầy đủ cả. Trong dụ ngôn tuần trước người Samaria trông thấy và giúp đỡ kẻ bị nạn. Cô Maria hôm nay đón nghe lời Chúa. Cả hai gộp lại mới cho chúng ý nghĩa trọn vẹn lời giảng của Chúa Giêsu. Xin nhớ nữ giới thời Ngài thường bị hạ thấp giá trị, tương tự như trong xã hội chúng ta ngày nay. Cho nên, cả người Samaria, cả cô Maria là những mẫu người được Chúa Giêsu đề cao: “Mẹ và anh em Thầy là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành”(8,21). Thánh Phaolô trong bài đọc thứ 2 là gương mẫu người thực thi ý Chúa và thương yêu đồng loại. Ông viết: “Tôi đã trở nên người phục vụ Hội thánh, theo kế hoạch Thiên chúa đã ủy thác cho tôi, liên quan đến anh em! Đó là tôi phải rao giảng lời Người cho trọn vẹn, rao giảng mầu nhiệm đã được giữ kín từ bao thời đại”. Chữ “mầu nhiệm” thánh nhân dùng gồm tóm mọi chương trình của Thiên Chúa, dự định cho nhân loại. Nhưng nay đã được tỏ bày qua con người và sứ vụ của Chúa Giêsu.

Một từ giúp hiểu rõ bối cảnh của tin mừng hôm nay là danh xưng “Lạy Chúa” (tiếng Latinh: Dominus, tiếng Anh: Lord). Từ này chỉ được Tin Mừng dùng sau khi Chúa đã sống lại. Thí dụ ông Tôma thưa: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con (you are my Lord and my God)”. Thánh Luca đã có dụng ý biểu lộ phản ánh sinh hoạt của Giáo Hội tiên khởi nơi ông trụ trì. Họ đón nhận và lắng nghe Chúa sống lại trong cộng đoàn của mình. Hơn nữa Tin Mừng còn 2 lần nhắc lại từ “phục vụ”(diakonia) chỉ rõ thói quen hành xử của các viên chức hội thánh lúc bấy giờ. Người ta đã tranh luận nhiều về vai trò nữ giới trong các Hội thánh tiên khởi. Liệu họ có được phép “phục vụ” trong Giáo hội không? Nếu được thì phần việc của họ là gì? Tương tự như chúng ta ngày nay tranh cãi về các vấn đề nữ giới làm linh mục. Thực tế, thời thánh Luca nữ giới giữ nhiều chức vụ trong cộng đoàn: mục vụ, công việc tông đồ, lãnh đạo, rao giảng Tin mừng như trong các thơ của thánh Phaolô (Rm 16,1-5; 16,6-12; 1Cr 16,19; Phil 4,3…). Nhưng trong các thư cũng như bài đọc Tin Mừng hôm nay có sự chia rẽ. Một số thẩm quyền muốn nữ giới giữ vai trò lệ thuộc như cô Maria ngồi dưới chân Chúa Giêsu. Và như thế người phụ nữ im lặng là “phần tốt hơn”. Đó cũng là một lối giải thích cho câu chuyện của Luca! Liệu ông có dụng ý thực sự như vậy không? Ông muốn vai trò của phụ nữ là im lặng và thụ động? Nếu đúng, thì tại sao trong công vụ ông nhắc nhiều đến phụ nữ làm việc tông đồ, lãnh đạo giáo đoàn? Hơn nữa, theo thói tục Do thái người ngồi dưới chân “tôn sư” là chỗ của các sinh viên nam giới? Hoặc bởi vì Chúa Giêsu là người phóng khoáng, ít khi lệ thuộc vào thói quen và tập tục, cho nên không để cho những nề nếp trói buộc mình. Bất cứ ai lắng nghe lời Ngài đều được ngồi dưới chân và trở nên môn đệ của Ngài. Vấn đề thật nhiêu khê. Dầu sao,vai trò của Matta đón tiếp và phục vụ là công việc quan trọng trong Hội thánh. Ngày nay chúng ta luôn phải thực hành, để những người cô thân cô thế không bị bỏ rơi. Có biết bao nhiêu khách lạ, đói khát, rét mướt, trần truồng trong xã hội. Không người chăm lo cho họ thì Hội thánh liệu có làm tròn sứ vụ của mình? May thay, trong công việc này, nữ giới chiếm phần đa số. Tương tự như trong các giáo hội tiên khởi có rất nhiều phụ nữ tài năng. Kẻ thì ngồi im lặng lắng nghe lời Chúa như cô Maria, kẻ khác hoạt động cứu giúp những nạn nhân thiên tai, dịch họa, bần cùng, đói khát như cô Matta. Bằng đường lối riêng của mình cả hai loại người cùng đón tiếp Chúa Giêsu, cùng phục vụ Ngài. Rõ ràng cả hai đều được Ngài dạy dỗ, bày tỏ lòng yêu mến Thiên Chúa và giúp đỡ tha nhân. Chúng ta nên cân bằng những hoạt động của họ, không bên khinh bên trọng. Mọi tín hữu đều được mời gọi lắng nghe lời Thiên Chúa. Mọi tín hữu có bổn phận đem Lời Chúa ra thực hành. Loại trừ mọi khả năng ưu tuyển, nhận cho mình những phần hơn, phần tốt. Bởi lẽ khi hoàn thành công tác, mọi người đều được Thiên chúa thâu nhận vào nước trời, an hưởng cuộc sống đời đời. Đó là phần tốt nhất và không bị lấy đi. Trong thánh lễ hôm nay, xin Thiên chúa cho mọi linh hồn thấm nhuần được tinh thần đó. Amen.

 

  1. “Chỉ một việc cần” – William Barclay

Trên đường hướng về Giêrusalem, cách thành Thánh ba cây số, Chúa Giêsu ghé lại Bêtania, nơi ở của Mácta, Maria và Lagiarô, một gia đình mà Ngài rất quen thân và vẫn thường lui về nghỉ ngơi trong những dịp thi hành chức vụ tại thủ đô. Không có nơi nào tính cách nhân loại mà Luca chủ trương phác hoạ được diễn tả trọn vẹn nơi đây, trong khung cảnh đầm ấm của gia đình, mà cũng khó gặp được một bức hoạ tâm lý sống động hơn. Có người tưởng tượng rằng Mácta là người khô khan nhưng cương nghị và đắc lực, còn Maria thì đôn hậu, đa cảm và lười. Thật ra cả hai chị em đều có những đức tính đáng khen, cả hai đều yêu kính Thày và ước ao làm vui lòng Thầy. Nhưng trong dịp này vì lòng nhiệt thành phục vụ, Mácta đã làm việc quá nhiều để sửa soạn một bữa ăn ngon lành. Còn Maria vì trực giác hơn được điều Chúa muốn nên cứ ngồi dưới chân Chúa mà nghe lời Người dạy. Nàng biết Ngài mong ước được mạc khải chính mình, muốn ban cho họ những sứ điệp từ trời, không phải vì lợi ích cho Ngài, mà vì phần rỗi của nhân loại. Bởi vậy, theo nghệ thuật tiếp khách, nàng phải để ý đến ý muốn của vị khách trước. Trong việc tiếp đãi Thầy, nàng đã làm được việc lớn hơn chị nàng.

“Mácta tất bật lo việc phục vụ.” Nàng bù đầu với nhiều công việc mình muốn làm. Một kẻ theo Chúa có thể cố gắng thái quá, đôi khi điều đó bị thúc đẩy do cảm giác tự tôn và kiêu hãnh. Điều đó đã khiến cho người ta cáu kỉnh như Mácta khi nàng chỉ trích em mình, làm giảm giá em mình trước mặt vị khách của cả hai, vì câu nàng nói với Chúa ngụ ý trách cả Chúa nữa: “Em con để con một mình phục vụ Thầy mà Thầy không quan tâm sao?”

Đáp lại Chúa tỏ lòng ưu ái bằng cách thân mật gọi tên nàng, nhưng trách nhẹ tinh thần của nàng và bày tỏ nguồn gốc của tinh thần ấy: “Mácta! Mácta! Chị băn khoăn lo lắng về nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã không chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi.” Ý Ngài muốn nói: không cần phải một bữa ăn thịnh soạn, một và món cũng đủ rồi, nhưng có một điều cần thiết, điều ấy Maria đã chọn.

Chúng ta thử tìm hiểu những bài học nơi đây:

1) Nó bày tỏ sự va chạm giữa những tính tình khác biêt.

Có người thì tự nhiên hăng hái hoạt động, lại có người khác ưa trầm tĩnh. Thật khó cho một người năng nổ hiểu một người chỉ thích ngồi yên để trầm tư mặc tưởng, ngược lại người trầm tư mặc tưởng lại thường khinh dể những người cứ luôn tay luôn chân. Không có vấn đề phải trái ở đây, Thiên Chúa đã không dựng nên mọi người giống nhau. Thiên Chúa cần có những người như Maria, nhưng Ngài cũng cần những người như Mácta, và cả hai người đó đều phục vụ Chúa. Không ai được độc quyền phục vụ Chúa hay chủ trương rằng chỉ có cách mình phục vụ chính đáng.

Trong một cuộc lễ trọng, trên bàn thờ chưng đầy hoa nến, một cây nến được cắm giữa chậu hoa, đến cuối lễ, cây nến cháy hao dần và sức nóng toả ra làm các cánh hoa rũ rượi cụp xuống. Hoa than thở với nến! Chị và chúng em cùng phụng thờ Chúa, sao chị lại đốt rụi chúng em!

2) Nhưng ở đây còn có một bài học nữa: Bài học về một thứ lòng tốt sai lầm.

Hãy nghĩ đến chỗ Chúa Giêsu đang đi đến khi chuyện này xảy ra. Ngài đang trên đường đến Giê-ru-sa-lem. Toàn thể hồn xác Chúa đang lâm vào một cuộc chiến đấu nội tâm để làm cho ý muốn của Ngài hiệp nhất với ý muốn của Thiên Chúa. Khi Chúa Giêsu tới gia đình này, đó là một ngày trọng đại cho họ, để mừng ngày trọng đại này Mácta rất muốn thực hiện một điều tốt nhất gia đình có thể thực hiện. Vì thế nàng chạy ngược chạy xuôi, nấu nướng, và đó chính là điều Chúa Giêsu không muốn. Ngài chỉ muốn một điều là được yên tĩnh. Với hình ảnh thập giá ở trước mắt cùng một sự căng thẳng trong tâm hồn, Ngài đã rẽ bước về Bêtania để tìm một chỗ lặng lẽ nghỉ ngơi, dầu chỉ được một hai tiếng đồng hồ, để tránh xa đám quần chúng quá nôn nao đòi hỏi, và để có thể chia sẻ tâm tình với bạn thân để lòng vơi đi nỗi căng thẳng. Đó là điều Maria đã đem đến cho Ngài và đó cũng là điều mà Mácta vì lòng tốt đã làm hết sức để phá đi. “Chỉ một việc cần” câu ấy có thể có ý “Ta không muốn một bàn đầy thức ăn, Ta chỉ cần một món thật đơn giản.” Maria hiểu, còn Mácta thì không hiểu được. Đây là một trong những khó khăn của cuộc đời. Thường thì chúng ta muốn tử tế với mọi người, nhưng tử tế theo cách của chúng ta. Nếu cách thế của chúng ta không được thừa nhận, chúng ta cảm thấy dễ phận lòng tưởng rằng người ta không trọng mình.

Nếu chúng ta đang cố gắng ăn ở tốt với người khác, trước hết chúng ta phải hiểu ý của người mà mình muốn giúp đỡ, rồi chúng ta phải quên những chương trình của mình và chỉ nghĩ đến điều mà người đó đang cần.

Trong lịch sử nước Mỹ, trong những ngày đen tối nhất của cuộc nội chiến Nam Bắc, Lincoln viết thư mời ông bạn cũ ở xứ Illinois tới Washington để thảo luận vài vấn đề. Ông bạn tới bạch cung và Lincoln nói với ông trong mấy tiếng đồng hồ về tờ thông báo ông định công bố để thủ tiêu chế độ nô lệ. Tổng thống ôn lại tất cả các lý lẽ bênh vực cho các đạo luật ấy và những lý lẽ phi bác lập trường đối nghịch. Ông lại đọc cả những bức thư và bài báo về vấn đề đó, trong đó có nhiều người trách ông chần chừ chưa phế bỏ chế độ nô lệ, lại có những bài chỉ trích vì ông có ý tiến hành việc ủng hộ chế độ nô lệ. Sau khi hăng hái nói một hồi lâu Lincoln bắt tay ông bạn già chúc ông ta bình an và tiễn ông ta trở về Illinois, chẳng hỏi ý kiến gì hết. Lincoln đã nói, đã chút bỏ những nỗi suy nghĩ đang đè nặng trong lòng ông, như vậy đầu óc ông được sáng suốt. Ông bạn già kể lại: “Khi Lincoln nói xong rồi, ông ấy bình tĩnh hơn.” Lincoln chỉ cần một người bạn thân biết nghe ông nói và hiểu lòng ông để ông trút bầu tâm sự của ông thôi.

Chúa Giêsu yêu thương Mácta và Mácta cũng yêu mến Chúa, thế nhưng khi Mácta tỏ lòng tốt, thì lại chỉ tốt theo cách của nàng, điều mà thực sự không tốt với Đấng mà tâm hồn đang khao khát sự yên tịnh, sự thân mật. Chúa Giêsu yêu Maria vì Maria yêu Chúa, Maria cũng hiểu biết Chúa nữa.

 

  1. Một sự cần thiết

Nhìn vào cuộc sống, chúng ta phân biệt hai loại cần thiết, đó là cần thiết tương đối và cần thiết tuyệt đối. Vậy thế nào là cần thiết tương đối và thế nào là cần thiết tuyệt đối?

Cứ chung mà nói, ai trong chúng ta cũng cần đến tiền bạc cũng như cơm ăn áo mặc. Vì thiếu nó, chúng ta không thể sống và nếu có sống, thì cũng sống trong cảnh cùng cực túng thiếu, sống không ra người. Bời đó, ai cũng chịu khó bươm chải, chạy ngược chạy xuôi, làm lụng vất vả, đổ mồ hôi xôi nước mắt để tìm tiền kiếm bạc. Cơm áo gạo tiền là nỗi lo lắng số một của chúng ta. Và trong bất kỳ phạm vi nào, thì vấn đề đầu tiên bao giờ cũng phải là vấn đề tiền đâu.

Một khi tiền bạc đã rủng rỉnh, người ta lại mơ ước đến quyền hành và thế lực, nhờ đó mà lên mặt với đời và để lại trong thời gian một chút danh giá, một chút tiếng tăm.

Đô đốc Byrd là một nhà thám hiểm Nam cực, vì không có đủ tiền, ông đã cho đăng báo và hứa rằng nếu ai giúp đỡ ông về phương diện tiền bạc, thì khi tìm thấy sông hoặc núi, ông sẽ lấy tên người ấy mà đặt cho. Tức thì nhiều người giàu có đã mang tiền đến giúp vì họ muốn cho tên tuổi của mình được tồn tại mãi với thời gian.

Một trường hợp khác, đó là Carnégie, ông vua thép ở Mỹ. Trong việc làm ăn, đã xảy ra một sự cạnh tranh giữa ông và Pullman, nhiều lúc đã đi tới chỗ va chạm và xích mích, thiệt hại cho cả đôi bên. Ngày kia, Carnégie đến giặp Pullman và nói:

– Tôi nghĩ cả hai chúng ta đều điên khùng. Vậy tôi xin đề nghị với ông, thay vì cạnh tranh, chúng ta hãy hợp tác với nhau.

Nói rồi, Carnégie kể ra những lợi ích to lớn do sự hợp tác đem lại. Cuối cùng Pullman chỉ hỏi một câu:

– Vậy ông tính đặt tên cho công ty là gì?

– Công ty Pullman chứ sao nữa.

Nghe vậy, Pullman đã mỉm cười, bắt tay và mời Carnégie ở lại dùng cơm tối.

Xem đó, chúng ta thấy đô đốc Byrd và Carnégie đã đánh trúng vào yếu điểm của nhiều người, đó là lòng ham mê danh vọng.

Thế nhưng, tiền bạc và danh vọng có thực sự là điều cần thiết tuyệt đối hay không? Chắc chắn là không. Vì khi phải đối đầu với cái chết, chúng ta sẽ chẳng mang theo được một chút gì sang thế giới bên kia:

– Vua Ngô ba mươi sáu tấn vàng,

Chết xuống âm phủ, chẳng mang được gì.

Với chúng ta thì khác, sự cần thiết tuyệt đối chính là phần rỗi linh hồn như lời Chúa đã phán:

– Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào có ích lợi chi.

Tự đời đời, Chúa chẳng cần đến chúng ta. Nếu không có vũ trụ và loài người, thì Chúa vẫn là Chúa. Ngài hoàn toàn đầy đủ và hạnh phúc. Sở dĩ Chúa dựng nên chúng ta là để chúng ta được chia sẻ phần hạnh phúc với Ngài.

Bởi vậy, nhiệm vụ của chúng ta là phải nhận biết và thờ phượng Ngài, hầu nhờ đó đạt được phần rỗi cho linh hồn.

Đúng thế, chúng ta được sinh ra bên ngoài là nhờ cha mẹ. Nhưng không cha mẹ nào dám xác quyết rằng tất cả đều do mình trao ban. Những sự vật rất tầm thường như khí trời, cơm gạo, rau cỏ để cho chúng ta được sống là do ai, nếu không phải là do bởi chính Thiên Chúa.

Vì thế, sự cần thiết tuyệt đối đó là nhận biết và thờ phượng Thiên Chúa. Nếu thiếu sót trong phạm vi này, chúng ta đã thiếu sót một chuyện rất quan trọng. Vì chỉ có vấn đề này mới thực sự là cần thiết.

Cavalière là một nữ tài tử nổi tiếng và gặp nhiều may mắn. Thế nhưng, theo lời cô, giữa những lời khen tặng cô vẫn cảm thấy trống vắng, khiến cho nhiều lần cô muốn đi tìm cái chết. Tự đáy lòng, cô luôn nghe như có tiếng nói:

-Hỡi Cavalière, có phải mi được sinh ra là để bám lấy những cái phù du giả tạo đó hay sao?

Một hôm, người ta không thấy bóng dáng cô ở Paris, kinh thành ánh sáng nữa. Cô đi tới một miền núi, sống âm thầm và cầu nguyện trong một nhà dòng. Hai năm trước khi qua đời, Robert de Pierre, một nhà báo, tìm đến nơi cô đang ở. Thấy cuộc sống quá lặng lẽ và quạnh hưu, nên đã nói:

– Sống như thế này thì có chi là sung sướng.

Nhưng cô đã trả lời:

– Sung sướng lắm chứ. Sung sướng gấp ngàn lần ở Paris. Vì nhờ đó, tôi được sống gần Chúa, được sống trong Chúa và được sống với Chúa. Đó chính là niềm hạnh phúc tuyệt vời của tôi.

Hãy nhận biết và thờ phượng Chúa, nhờ đó đạt tới cuộc sống vĩnh cửu, đó là sự cần thiết tuyệt đối mà mỗi người chúng ta phải chọn lựa, phải thực hiện giữa cuộc đời đầy huyên náo và bon chen.

 

  1. Điểm dừng

Khi nói đến điểm dừng, tức là có chuyển động. Bởi nếu không bao giờ chuyển động thì đó không phải là điểm dừng, mà là điểm cố định, một điểm chết. Điểm dừng thì trước khi dừng đã chuyển động, và dừng để rồi sẽ chuyển động. Bởi lẽ, dừng mà không bao giờ chuyển động nữa thì cũng là điểm dừng chết.

Từ những điểm dừng trong đời.

Quan sát cuộc sống quanh ta, chúng ta sẽ bắt gặp được những điểm dừng. Có những điểm dừng chết chóc, nhưng cũng có những điểm dừng sống động. Có những điểm dừng mang đến tai họa, nhưng cũng có những điểm dừng mang lại niềm vui, một sự đổi mới, một sự cứu rỗi: đồng hồ đang chạy, ngưng đồng hồ chết; hạt giống gieo xuống đất rất cần để yên một thời gian nó mới nẩy mầm. Một người đang đi trong một cánh rừng, anh dừng lại quan sát xung quanh, sau đó quyết định đổi hướng đi vì biết mình đã lạc đường một điểm dừng cho sự đổi mới, một cái dừng giải thoát.

Trở lại bức tranh Tin Mừng hôm nay mà Luca phác họa cho chúng ta. Chúng ta cũng gặp được những điểm dừng: Chúa Giêsu và các môn đệ dừng chân ở nhà Mácta và Maria; Maria dừng chân dưới chân Chúa Giêsu; Mácta dừng chân bên chân Chúa Giêsu. Tất cả những điểm dừng đều có mục đích: Chúa Giêsu và các môn đệ nghỉ chân để tiếp tục hành trình lên Giêrusalem; Maria dừng bên chân Chúa để nghe Lời Chúa; Mácta dừng lại để cầu cứu Chúa, dường như muốn làm nũng, dường như muốn trách Chúa.

Qua điểm dừng của Mácta trong Phúc âm:

Cô Mácta bận rộn, rất bận rộn với công việc phục vụ bề bộn. Lòng mến Chúa, lòng hiếu khách của cô được thể hiện qua công việc, cô muốn làm những thức ăn ngon nhất, phục vụ chỗ nghỉ tốt nhất mà cô có thể dành cho Chúa và môn đệ của Ngài. Cô thật tốt bụng. Cô là chị lớn nên nặng trách nhiệm, cô đảm đang tháo vát và nhiều sáng kiến. Sáng kiến nhiều nên nhiều việc, và cuối cùng làm chẳng kham đành xin Chúa can thiệp.

Mácta phục vụ Chúa, điều đó thật tốt. Thế nhưng điều tốt xem ra bình thường đó lại có vấn đề. Vấn đề ở chỗ nào? Ở chỗ là cô không toàn tâm toàn ý phục vụ Chúa, vì cô còn bận tâm để ý đến người em, mà người em này hiện ra trong mắt cô với hình ảnh không mấy tốt đẹp đó là người trốn việc, biếng nhác, và do đó công việc của cô đã bề bộn lại càng bề bộn hơn, đã rối trí lại càng rối trí hơn, nhưng rất may cho cô là giữa lúc bế tắc đó cô còn biết dừng lại bên Chúa. Cái dừng lại đó cần thiết cho cô, ích lợi cho cô lắm, vì cô sẽ có người tiếp tay công việc, vừa khép sự chú ý của Chúa và mọi người về phía mình mà trước đó dường như không ai để ý tới, vừa giải tỏa được nỗi ấm ức trong lòng đối với cô em Maria. Mácta dừng lại để người khác khen mình, để tự khen mình, khen mình cũng là hạ giá người khác: “Em con để mình con phục vụ”. Phải chăng ý cô là: Con quá giỏi, còn em con nó vụng về chẳng biết làm gì, lại vô tâm quá. Một cái dừng để trách móc người khác, và cũng để trách Chúa: “Mà Thầy không để ý tới sao”. Cô trách khéo: sao con?. Một cái dừng để bắt người khác làm theo ý mình, làm như mình và cũng để lôi kéo Chúa về phe mình: “Xin Thầy bảo nó giúp con một tay”. Lấy uy của Chúa, dùng quyền của Chúa để bắt người khác phục vụ ý mình, làm như mình muốn.

Nhưng Chúa Giêsu tận dụng giây phút dừng lại ấy của Mácta để thức tỉnh cô. Sự thực thì Chúa có vô tâm với cô không? Thưa không, Chúa không vô tâm nhưng để ý tới cô, để ý nhiều nữa kìa, không những biết việc cô làm nhưng Chúa còn biết lòng dạ, suy nghĩ của cô: Mácta! Mácta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá!” vì băn khoăn lo lắng nhiều chuyện đến nỗi dường như không còn biết điều gì khác nữa, cô đang ngủ mê trong công việc của mình nên Chúa phải thức tỉnh cô. Thức tỉnh trong yêu thương, Chúa gọi cô Kitô hữu phải một mà đến hai lần, như đánh thức người mê ngủ: “Mácta! Mácta ơi!…” thật êm ái và yêu thương. Sao mà cô không tỉnh thức được. “Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất”. Một điểm dừng làm thay đổi nhận thức, làm đảo lộn những giá trị mà Mácta đã xây dựng trước đó, nó mang đến một sự đổi mới theo chiều kích thiêng liêng cần thiết cho sự cứu rỗi.

Câu trả lời của Chúa chắc chắn làm Mácta ngạc nhiên, giật mình vì ngoài sự phán đóan và tỉnh ngộ, có một cái nhìn mới, đón nhận những giá trị mới. Từ nay cô không phải lo lắng bởi lương thực vật chất, nhưng phải lo lắng cho lương thực thiêng liêng. Từ của ăn trần thế mau hư nát, Chúa hướng cô đến lương thực Nước Trời trường tồn. Từ lương thực nuôi sống thân xác phàm tục Chúa hướng cô đến lương thực linh hồn thiêng liêng Lương thực Nước Trời thì tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất đó chính là Lời Chúa, đó là ơn Chúa.

Đến điểm dừng của Kitô hữu trong cuộc sống;

Cuộc sống con người ngày nay hoạt động nhiều hơn tĩnh lặng, nhất là trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển vùn vụt, con người như bị cuốn hút vào vòng quay của nó đến nỗi dường như không có thời gian để thở, để thư giãn, để nghĩ ngơi…Người Kitô hữu trong hoạt động Tông đồ, hoạt động truyền giáo, bác ái từ thiện, dấn thân xã hội…dường như cũng bị ảnh hưởng của thời đại: Thế giới còn nhiều người chưa nhận biết Chúa, còn nhiều người nghèo đói, bệnh tật, gặp hoạn nạn, đau khổ…cho nên bổn phận, trách nhiệm của Giáo hội, của một Kitô hữu còn nặng nề, cần nhiều hoạt động cụ thể và thiết thực. Nhưng hoạt động Tông đồ, truyền giáo, bác ái của chúng ta có phản ánh tình yêu Của Thiên Chúa? Có là hoa quả của tình yêu Thiên Chúa? Hay chỉ để làm tăng uy tín, tăng giá trị, khuếch trương ảnh hưởng của chúng ta, kéo sự chú ý của người khác về phía mình, yêu cầu Chúa làm theo ý mình?

Chúa có thể mải mê công việc của Chúa mà không được quên đi chính Chúa. Chúng ta có thể loay hoay với công việc của cuộc sống, nhưng không được quên đi mục đích của cuộc sống. Cần có những điểm dừng trong cuộc sống để kín múc nơi Chúa: tình yêu, sức mạnh cho những hoạt động của chúng ta. Chiếc ly cần phải đứng yên mới có thể hứng lấy nguồn nước từ vòi rót xuống. Thiên Chúa không thể đổ vào tâm hồn chúng ta điều gì cả nếu trước đó đã bị đầy mọi sự rồi. Để phân phát tình yêu Thiên Chúa, ta cần phải có tình yêu Thiên Chúa tràn đầy nơi mình trước. Hoạt động Tông đồ là mang tình yêu Chúa đến với anh em. Thế giới không thích thú gì khi gặp gỡ ta, những thế giới đang khao khát tình yêu Thiên Chúa, đang khao khát những gì Thiên Chúa muốn trao ban cho họ qua trung gian chúng ta.

Khi bị quay cuồng trong cuộc sống, nếu chúng ta biết dừng lại như Mácta và cầu cứu Chúa: “Chúa ơi! Con mệt quá”, lúc đó chúng ta sẽ được Chúa tiếp sức bằng Lời của Chúa, sẽ được Chúa chỉ cho chúng ta điều nào là quan trọng nhất, điều nào là phụ thuộc và qua đó ơn Chúa, tình yêu Chúa sẽ nuôi dưỡng và tiếp sức cho chúng ta. Chúng ta đừng quên chọn Chúa và Lời Chúa là phần tốt nhất cho đời mình. Hoạt động của chúng ta phải là hoa trái của tình yêu của Thiên Chúa. Cành sinh hoa kết quả không phải vì cành, nhưng vì cành biết kết hợp cùng cây.

Hành trình nào cũng cần có những điểm dừng, những điểm dừng ấy thật cần thiết để tiếp sức cho hành trình đạt đến đích. Hành trình về tiếp nhận ân sủng, tăng cường sức khỏe thiêng liêng, bồi bổ tâm linh cho hành trình đến đích. Gặp gỡ Chúa trong thinh lặng, cầu nguyện là cần thiết nhất để giao tiếp với Chúa, nghe tiếng Chúa và đón nhận ơn Chúa.

Thế nhưng liệu có thinh lặng cầu nguyện được trong thế giới ồn ào náo nhiệt, tràn ngập công việc này chăng?

Mẹ Têrêsa Calcuta, một nữ thánh giữa đời thường, mỗi ngày trước khi bước xuống “địa ngục Calcuta” để chăm sóc những người cùng khổ, hoặc đi vào “nhà hấp hối” để an ủi các kẻ liệt lào, các nữ tu của mẹ đã quì trước Thánh Thể một tiếng đồng hồ, để kín múc nơi Chúa: tình yêu, sức mạnh, lòng can đảm và nhiệt huyết tông đồ.

 

  1. Việc cần

Truyện cổ tích Arập có kể lại câu chuyện: Một vị hoàng tử được vua cha gởi vào sa mạc để thụ huấn với một vị hiền triết. Vị hoàng tử này kinh ngạc về thái độ lạ thường của nhà hiền triết, suốt ngày không thèm nói lời nào với hoàng tử mà chỉ ra dấu cho hoàng tử hãy ngồi im bên cạnh mình.

Sau một tháng im lặng như vậy, hoàng tử bực mình hỏi:

– Thưa thầy, cha tôi gởi tôi đến đây để học cùng thầy, nhưng đã một tháng qua rồi mà tôi chưa học được gì cả?

Nhà hiền triết ôn tồn trả lời:

– Này hoàng tử trẻ tuổi của ta, nếu con không học quí trọng sự thinh lặng của ta thì con sẽ không thể nào quí trọng được những lời ta nói. Nếu con không học được bài học sống trong thinh lặng thì con sẽ không học được gì nữa cả.

Triết gia người Pháp ông Pascal đã nhận định về thời đại của ông như sau: “Sau khi đã quan sát cuộc sống của những người đồng thời trong một thời gian lâu, tôi có thể kết luận rằng, một trong những nguyên nhân quan trọng gây phiền phức xáo trộn cho con người là vì con người không còn khả năng sống trong thinh lặng nữa”.

Ông Pascal đã sống xa chúng ta hơn ba thế kỷ, ông sống vào thế kỷ XVII bên Pháp. Căn bệnh của những thời đại ông vẫn còn là căn bệnh của những người hay nhiều người của thời đại hôm nay, đó là căn bệnh sợ im lặng, sợ sống trong thinh lặng. Nhìn qua những ồn ào, những bạn trẻ lúc nào cũng phải nghe nhạc, xem truyền hình, lúc nào cũng phải đùa chơi với bạn bè, chúng ta có thể hiểu được phần nào căn bệnh này còn tồn tại. Nhưng không phải là sự thinh lặng của cô đơn, của sự trống rỗng không có gì cả. Người Kitô không bao giờ sống trong thinh lặng cô đơn trống rỗng này, vì có sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời và ngay bên cạnh. Sự thinh lặng của người Kitô là sự thinh lặng có đầy Chúa, để được đồng hiện diện với Chúa, để được nhìn thấy Chúa và lắng nghe tiếng nói của Ngài.

Thử hỏi trong một ngày sống chúng ta dành ra được bao nhiêu giây phút thinh lặng có đầy Chúa này? Bao nhiêu giây phút chúng ta im lặng đến gặp Chúa trong Bí tích Thánh Thể? Bao nhiêu giây phút chúng ta im lặng để đọc Kinh Thánh, để lắng nghe Lời Chúa? Đây là điều tốt nhất mà Maria đã chọn như trong Phúc âm Chúa nhật hôm nay kể lại cho chúng ta.

Sự thinh lặng để lắng nghe Lời Chúa, đó là sự thinh lặng có đầy Chúa. Không dừng lại ở sự thinh lặng, nhưng luôn đi trên con đường noi gương sống của Chúa, được hiện diện với Chúa, được đồng hóa với Ngài, được chia sẻ sứ mạng của Ngài. Đây là điều chúng ta nhận thấy nơi vị tông đồ Phaolô được nhắc lại nơi bài đọc II. Sống trong sự thinh lặng có đầy Chúa, thánh tông đồ Phaolô đã định nghĩa cuộc sống của mình như là một cuộc sống trong Chúa, sống đầy Chúa và sẵn sàng lãnh nhận những gì còn thiếu nơi cuộc thương khó của Ngài.

Cách nói còn thiếu nơi sự thương khó của Chúa không có nghĩa là sự thương khó của Chúa còn thiếu điều gì, nhưng muốn nói là sự thương khó của Chúa cần được chia sẻ, được sống trong cuộc đời của tông đồ Phaolô. Có sống trong thinh lặng đầy Chúa này chúng ta mới có đủ can đảm vác thập giá với Chúa, chia sẻ những đau khổ, hy sinh của Chúa trong những hy sinh đau khổ chúng ta đương đầu hằng ngày.

Tâm thức sống ồn ào là tâm thức của những kẻ trốn chạy khỏi cuộc sống. Sống trong thinh lặng có đầy Chúa như Maria ngày xưa và như Mẹ Maria im lặng bên cạnh Chúa cho đến dưới chân thập giá. Đó là thái độ tốt nhất để sống trọn vẹn cuộc sống đầy gian nan thử thách của chúng ta trong hoàn cảnh ngày nay.

Xin Chúa ban cho chúng ta được sống trong thinh lặng đầy Chúa này, thinh lặng để lắng nghe, để có thêm sức mạnh của Chúa, để giữ vững đức tin, đức cậy và đức mến vào Chúa.

 

  1. Chọn phần tốt nhất – Lm Bùi Quang Tuấn

Ngày kia, trong cuộc hành trình lên Giêrusalem để dự lễ Vượt qua, Đức Giêsu được một gia đình tại làng Bêtania đón tiếp. Nhà gồm ba chị em: Matta, Maria và Lazarô. Matta là người chị cả, có lòng hiếu khách và rất mến mộ Đức Giêsu. Nên chi khi được vị khách quí này viếng thăm, cô đã đôn đáo, tận tình trổ tài để chiêu đãi Chúa một bữa.

Trong khi đó cô em là Maria lại trầm tĩnh hơn. Nàng mời Đức Giêsu vào nhà và ngồi bên chân Ngài tiếp chuyện. Tất nhiên việc này không lọt khỏi đôi mắt tinh tường, đảm đang, và chú ý đến hết mọi thứ của bà chị. Thế nên, đợi hồi lâu mà vẫn không thấy cô em xuống bếp giúp mình một tay, hầu tiếp đãi Thầy cho đàng hoàng, Matta đã cất tiếng nhờ Đức Giêsu trợ giúp: “Thưa Thầy, em tôi để tôi phục dịch một mình mà Thầy không quan tâm sao? Xin Thầy bảo em tôi giúp tôi với.” Đây phải chăng là lời than trách nhẹ nhàng, ngầm nói Maria là người cứng đầu, chị bảo khó nghe, nên phải nhờ Chúa dạy? Hay đây là chính lời “cầu nguyện” mà một người đang hoạt động tất bật cho Nước Chúa, nhưng thiếu nhân sự cộng tác, nên phải cầu Chúa can thiệp?

Dẫu sao thì Đức Giêsu đã không bảo cô em: “Thôi để lúc khác chúng ta nói chuyện tiếp. Bây giờ hãy đi giúp chị đi.” Trái lại Ngài đã khẳng định cho bà chị biết một giá trị ưu tiên trong cuộc sống: “Ngươi lo lắng xao xuyến về nhiều chuyện quá! Cần thì ít thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất rồi và sẽ không bị ai giựt mất.”

Mới nghe qua, e rằng có người thương cảm cho Matta: bận rộn phục dịch Chúa đã chẳng được tiếng khen hay lời khích lệ. Trong khi người kia chỉ ngồi một nơi, chẳng làm lụng gì cả mà lại được Chúa khen là “biết chọn phần tốt nhất.”

Phải chăng có một nghịch lý trong Tin Mừng của Đức Giêsu: cách đây không lâu, qua câu chuyện Người Samari Nhân Hậu, Ngài đã mở ra cho môn đệ con đường dấn thân hoạt động, hy sinh phục vụ tha nhân – “Hãy đi và làm như vậy” – thế mà bây giờ thì dường như Ngài lại đề cao việc tĩnh lặng và lắng nghe ?

Điều đáng lưu ý là không phải Đức Giêsu khiển trách Matta, cũng chẳng phải Ngài thiếu quan tâm hay không đánh giá tốt việc làm của cô ấy. Trái lại Đức Giêsu muốn khuyên cô đừng quá bối rối lo lắng để trở thành một kẻ nô lệ cho công việc hay thành quả. Điều cần thiết nhất không phải là làm được gì cho Chúa nhưng là nhận được gì từ Chúa. Nhận nhiều hay ít để sau đó có thể trao ban cho tha nhân ít hay nhiều còn tùy thuộc thái độ người ta đón tiếp Chúa trong cuộc đời.

Có nhiều người quá hăng say hoạt động công ích xã hội mà quên đi đời sống nguyện cầu. Có lắm kẻ qua tích cực “giải phóng” anh em mà quên luôn Chúa. Như thế thì làm sao có thể thành công theo tinh thần của Phúc âm được. Vì như Đức Giêsu đã phán: “Không có Ta, các ngươi không làm được gì” cơ mà. Và Ngài cũng đã từng quả quyết: “Cũng như nhánh nho không thể tự mình sinh quả nếu không lưu lại với thân nho, thì các ngươi cũng vậy, nếu không lưu lại trong Ta.” (Ga 15:4)

Một vị linh mục đã viết: “Những hoạt động rầm rộ, những cuộc dấn thân vào đời mà không có sự liên hệ mật thiết với Chúa, không lấy sự cầu nguyện làm căn bản hỗ trợ, sẽ không đem lại ích lợi sâu xa và lâu bền. Có mến Chúa mới biết yêu người như Chúa đã yêu mến, có hiệp nhất với Chúa mới biết mở vòng tay lớn ôm lấy anh em.” Biết lấy Chúa làm căn bản của đời sống, biết tìm đến Ngài qua thinh lặng và nguyện cầu, người ta mới có được hướng đi đúng lối và sức mạnh cần thiết cho hành trình phục vụ Nước Trời.

Đó không chỉ là lối sống cần thiết đối với những người làm việc tông đồ, nhưng còn là “phần tốt nhất” mà mọi người phải có. Đã nhiều lần Đức Giêsu căn dặn các kẻ theo Ngài: đừng lo lắng thái quá về của ăn áo mặc, đừng bồn chồn xao xuyến về ngày mai, cũng đừng sợ hãi khi phải đứng trước bạo lực của trần gian… vì chỉ có một điều cần nhất thôi: “Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước đã, cùng sự công chính của Người” (Mt 6:33)

Có lẽ lắm khi người ta cứ dễ mãi mê với công việc, chạy đôn đáo với đồng tiền, xôn xao lo lắng cho tương lai của chính mình hay con cái mà quên đi những giây phút tĩnh lặng ngồi bên chân Chúa, để lắng nghe và để nhận chân giá trị quan yếu của cuộc đời. Nhiều người lo làm việc tối ngày, đến nỗi “không có giờ” ngồi yên để đọc một đoạn Thánh kinh, hay đôi dòng sách báo đạo đức. Như thế làm sao trám khỏi tinh thần bị còm cõi và đời sống mất đi ý vị.

Giữa một cuộc sống ồn ào bon chen, phải cố gắng tìm cho chính mình những giây phút thinh lặng. Bình an và sức mạnh nội tâm được kín múc từ những khoảnh khắc nầy đây. Thomas Merton từng đoạn quyết: “Thinh lặng là nhu cầu căn bản cho mọi người muốn sống nhân tính của mình cách tốt đẹp nhất.” Vì chỉ trong thinh lặng người ta mới dễ ghi nhận sâu xa những nét đẹp ở nơi Tạo Hóa và nơi con người.

Lắm khi người ta cũng đa đoan đến nỗi chỉ biết đôn đáo kiếm tìm: kiếm cá, kiếm cơm, kiếm tình, kiếm bằng cấp, kiếm kiến thức… mà quên dừng lại để đắm nhìn vào vũ trụ thinh không, hầu khám phá cội nguồn hạnh phúc cuộc đời. Cội nguồn đó chính là Thiên Chúa. Thiếu Ngài đời người chỉ là một chuỗi tìm kiếm vô vọng. Có Ngài chẳng ai giựt mất được sự an vui của tâm hồn.

“Maria đã chọn phần tốt rồi, và sẽ không bị ai giựt mất.”

Chắc hẳn bạn chẳng bao giờ muốn tìm kiếm những thứ mà khi vừa có lại bị thế gian giựt mất!

 

  1. Lắng nghe

Đoạn Tin Mừng thánh Luca kể lại câu chuyện tiếp đón Chúa Giêsu của hai chị em Marta và Maria tại nhà của họ ở làng Bêtania. Chúng ta thấy tất cả câu chuyện xoay quanh cách thức hai người tiếp đón Chúa, rồi tột đỉnh và kết thúc câu chuyện là nhận định của Chúa Giêsu về cách tiếp đón của mỗi người.

Trước hết, chúng ta thấy cả hai người đều tiếp đón Chúa, nhưng mỗi người một cách, mỗi người một vẻ: Marta thì bận rộn tíu tít, lo lắng lăng xăng nhiều việc. Còn Maria thì chỉ ngồi bên chân Chúa, tiếp chuyện Chúa và nghe Chúa giảng dạy. Cách tiếp đón nào làm hài lòng Chúa hay được Chúa yêu thích hơn? Đó là cách tiếp đón của cô Maria. Chính Chúa đã nhận định như thế: “Maria đã chọn phần tốt nhất”. Còn với cô Marta, Chúa nói: “Con lo lắng băn khoăn nhiều chuyện quá”. Thật ra, cả hai chị em đều hết lòng tiếp đón Chúa. Nhưng đối với Chúa: “Người ta sống không bằng cơm bánh mà thôi, nhưng còn bởi lời Thiên Chúa:, nghĩa là người ta không phải chỉ có sự sống như thực vật, động vật, mà còn phải có lẽ sống. Đối với chúng ta, lời Chúa cho chúng ta lẽ sống và đường sống. Vậy thì lời Chúa phải có vị trí ưu tiên, là vì phải nghe lời Chúa chúng ta mới có thể hoàn thành mọi nhiệm vụ của mình cho trung thực với lẽ sống và đường sống mà Thiên Chúa cho mình. Cô Maria đã làm đúng như thế. Đây là bài học thứ nhất chúng ta ghi nhận: Chúa muốn chúng ta, dù bận rộn công việc thế nào cũng phải biết dành thời giờ để lắng nghe và tìm hiểu lời Chúa.

Thực vậy, ai trong chúng ta cũng có nhiều việc phải làm. Đừng kể những người lười biếng hay những người chỉ muốn ăn không ngồi rồi, còn hầu hết chúng ta, nếu sống đúng vai trò và nhiệm vụ của mình, chúng ta đều thấy việc thì nhiều mà thời gian lại ít. Hai mươi bốn tiếng mỗi ngày hãy còn quá ngắn. Thời giờ lúc nào cũng chực chắp cánh bay đi, để lại công việc cứ tiếp nối nhau mãi, hoặc làm mãi mà không hết việc. Sống trong hoàn cảnh quá nhiều công việc như vậy, thì bài học nghỉ ngơi như cô Maria càng cần thiết cho chúng ta, chúng ta không thể để cho công việc lôi kéo mà quên mất mục đích chính của đời mình. Công việc làm ăn tay chân nghề nghiệp chỉ là phương tiện nuôi sống, là con thuyền đưa chúng ta về trời, chứ nó không thể là mục đích của đời chúng ta. Có lẽ Chúa chẳng hài lòng gì mà còn đau lòng nữa, khi thấy chúng ta quá bận rộn vào biết bao công việc, phí phạm bao nhiêu sức lực của tuổi đời, bao nhiêu thời gian quí giá, để lo cho những công việc không có giá trị trường cửu, để rồi kết thúc cuộc đời mình trong lo lắng, sợ hãi về số phận đời sau.

Như vậy, điều chúng ta cần ghi nhớ là chúng ta phải biết gặp gỡ Chúa trong hoạt động, trong việc làm. Nói cụ thể hơn, trong một ngày và trong hoạt động, chúng ta phải biết dành ra ít giây phút cho việc gặp gỡ Chúa. Thí dụ: một lúc im lặng, một khoảnh khắc nâng tâm hồn lên cao, một ít phút đọc Kinh Thánh, một ít phút để cầu nguyện, để tâm sự với Chúa và lắng nghe Chúa nói với tâm hồn mình. Nói tóm lại, chúng ta cần tìm ra ý nghĩa sâu xa những câu nhận định của Chúa Giêsu: “Chỉ có một chuyện cần mà thôi”, “Maria đã chọn phần tốt nhất”, nghĩa là cuộc đời của chúng ta, có nhiều điều phải lo lắng, có nhiều công việc phải làm, nhưng chúng ta phải biết khẳng định cái gì là ưu tiên, cái gì cần làm, cái gì phải làm trước. Đó là lắng nghe Lời Chúa, đó là cầu nguyện.

Đàng khác, bài Tin Mừng còn gợi cho chúng ta suy nghĩ thêm một vấn đề nữa, đó là câu nói của Marta: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ mà Thầy không để ý tới sao?”. Câu nói của Marta tỏ lộ phần nào thái độ phân bì ghen tị thường sẵn có trong lòng mọi người. Chúng ta biết: ghen tị là một trong bảy mối tội đầu, là tội nặng. Kẻ ghen tị rất tự cao, không muốn ai hơn mình. Mà nếu có ai hơn mình thì tỏ ra khó chịu, buồn rầu, chán nản, tức tối, oán ghét với những thành công của người khác… Có người chỉ ghen ghét một người nào đó trong một thời gian thôi. Nhưng có người ghen ghét suốt đời. Người ta ghen tị về đủ mặt: của cải, tài ba, nhan sắc, thành công, nhân đức… Thường những người ở trong cùng hoàn cảnh, cùng môi trường, cùng tình thân mới ghen ghét nhau, như bạn bè, chị em ghen nhau; nhà giáo, nghệ sĩ, hàng thịt, hàng cá ghen nhau. Rồi người lớn hay ghen tị nhiều hơn tuổi trẻ, vì tuổi trẻ còn đang ganh đua và có nhiều điểm phải vươn tới, rồi họ lại dễ bỏ qua, tha thứ. Cho nên, nếu có, thì chỉ là tạm thời. Còn người lớn ghen tị thường đưa đến oán thù, phá đổ.

Chẳng hạn, vua Saolê, khi thấy Đavid được dân chúng ca tụng là tài giỏi hơn vua, thì nhà vua ghen tức với Đavid, đến nỗi từ đó tìm đủ cách để giết Đavid, dù Đavid không có tội gì hết. Saolê ghen tị thật vô lý. Đavid là một tay tài giỏi, thắng trận trở về, xứng đáng được toàn dân ca tụng biết ơn. Còn Saolê, lẽ ra phải vui mừng vì Đavid đã đem phần thắng về cho mình, thì Saolê đã làm ngược lại là ghen tức và cay đắng trả thù. Đúng như câu nói: “Khi một người thắng trận trở về nhà, dù lòng đang vui cách mấy đi nữa, khi thấy có người khác hơn mình, thì niềm vui đó sẽ trở thành buồn bực và đau khổ”. Nếu như chúng ta ở trong trường hợp của Saolê, có lẽ chúng ta cũng ghen tức như Saolê. Chúng ta có thể cười người khác khi thấy họ ghen tị, và chúng ta cho đó là thái độ trẻ con. Nhưng chính chúng ta cũng nên phản tỉnh lại xem chúng ta có hơn trẻ con không? Khi thấy người khác đau khổ, chúng ta dễ chạnh lòng thương, an ủi giúp đỡ họ. Ngược lại, thử hỏi chúng ta có vui một cách thành thực khi anh em mình được may mắn thành công chăng? Thường thường chúng ta hay đi chia buồn hơn là chia vui. Chúng ta hãy nhớ: Ghen tị sinh ra nhiều tai hại: ghen tị thường đi đến chỗ nói hành, nói xấu, vu oan cáo vạ, bôi nhọ, xét đoán bừa bãi. Ghen tị làm đứt mất tình bác ái và gây nên nhiều gương mù gương xấu. Vì thế, bằng mọi giá chúng ta phải tốp lại cái thói ghen tị vô lối của mình.

Bài Tin Mừng cũng như những điều tìm hiểu trên đây nhắc nhở chúng ta suy nghĩ: Mỗi người chúng ta đã tiếp đón Chúa, gặp gỡ Chúa, lắng nghe lời Chúa như thế nào trong cuộc sống: theo kiểu của Marta hay Maria? Chúng ta có biết kết hợp giữa cầu nguyện và hoạt động trong cuộc sống để đáp ứng những đòi hỏi phát triển con người toàn diện không? Chúng ta có tự cho mình là đúng, công việc của mình là hay hơn cả, để rồi phủ nhận hoặc công kích người khác, công việc của người khác không? Trong khi có thể chính người đó mới đúng và công việc của họ mới đáng kể? Ước mong mỗi người hãy suy nghĩ và kiểm điểm để đổi mới hoặc bổ túc những gì còn sai lỗi hoặc thiếu sót trong đời sống đạo của mình.

 

  1. Phần tốt nhất quyết định ý nghĩa cuộc sống

(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Tiến Tặng)

Bài đọc thứ nhất của Chúa Nhật hôm nay đề cập đến vấn đề đón tiếp. Abraham được Thiên Chúa viếng thăm dưới hình ảnh ba người khách. Ông đã thể hiện sự hiếu khách của mình trong việc làm tất cả bao nhiêu có thể để làm hài lòng những vị khách đặc biệt ấy. Trước tiên, ông lấy nước để cho họ rửa tay chân, tiếp đến sai đầy tờ làm thịt bê, và nói với vợ mình Sara lấy bột để làm bánh. Một sự tiếp đón hết sức chu đáo. Điều này đã làm hài lòng ba vị khách. Nhờ thế, gia đình ông được chúc lành và được đón nhận trước một tin vui là chừng này năm sau hai ông bà sẽ có được một cậu con trai mặc cho đang ở độ tuổi cao niên.

Tiếp đón là phần không thể thiếu trong việc xây dựng các mối tương giao trong nhân loại. Tất cả các việc chuẩn bị chu đáo như các món ăn, bày bố trang trí bàn ăn đẹp mắt, tạo bầu khí dễ chịu thân thiện…nhằm mục đích làm hài lòng người được mời. Một bữa ăn không dừng lại ở vấn đề thỏa mãn cơn đói khát, mà còn vươn tới nét đẹp văn hóa ẩm thực mà chúng ta biết mỗi miền và mỗi quốc gia đều có những món ăn đặc trưng riêng của mình. Bữa ăn giúp xây dựng tình bạn ngày thêm sâu đậm. Khi cùng nhau chia sẻ bữa ăn là muốn nói cho người đồng bàn biết họ là quan trọng, là muốn cho họ được sống một cách triển nở, là muốn xây dựng một tình bằng hữu chân thực. Cũng chính trong bầu khí của bữa ăn, người ta có thể mở lòng ra để lắng nghe và chia sẻ nhiều điều với người đồng bàn. Qua đó mỗi bên nhận được những hoa trái bổ ích và có được nhiều kiến thức cũng như hiểu biết nhau hơn.

Cuộc viếng thăm của Thiên Chúa dành cho Abraham và lòng hiếu khách của ông dành cho Ngài là điều cần thiết nhất trong cuộc sống của mỗi Kitô hữu. Điều này lại được Đức Giêsu một lần nữa khẳng định khi nói về sự chọn lựa giữa lắng nghe Chúa và bên kia là công việc. Tin Mừng Thánh Luca kể về cuộc thăm viếng của Đức Giêsu đối với ba chị em trong một gia đình tại Bêtania. Đây là một gia đình có mối liên hệ gần gũi với Ngài. Có thể nói nơi đây là điểm dừng chân sau những chặng đường rao giảng của Đức Giêsu. Ba chị em của gia đình tại Bêtania cũng còn được các sách Tin Mừng khác nói đến, như Tin Mừng theo thánh Gioan có kể về việc Đức Giêsu cho ông Lazarô chết bốn ngày và đã an táng trong huyệt mộ được sống lại. Trong cuộc viếng thăm đang nói ở trên, hai thái độ hoàn toàn khác nhau được thể hiện nơi Martha và Maria. Trong khi cô chị Martha tất bật bận rộn với công việc bếp núc, thì cô em Maria lại cứ ngồi bên chân Chúa để lắng nghe Ngài. Không những thế, cô em lại còn được Đức Giêsu khen là đã biết chọn phần nhất, đồng thời cô chị lại bị trách cứ là « lo lắng bối rối về nhiều chuyện » nữa.

Thực ra, hình ảnh lắng nghe Chúa của Maria và bận tâm nhiều việc của Martha không thể tách rời. Đây chỉ là hai mặt của một vấn đề. Trước hết cần phải lắng nghe Chúa thì sau đó mới có thể bước đi đúng hướng, cũng như dẫn đến hành động để làm những việc cần làm. Điều quan trọng là biết dành thời gian cần thiết và có con tim nhạy bén để nhận ra tiếng nói của Thiên Chúa. Đó chính là cuộc gặp gỡ mật thiết với Ngài trong cầu nguyện. Chỉ trong khung cảnh ấy người tín hữu mới có thể đón nhận thánh ý Chúa để rồi chấp nhận bỏ ý riêng của mình, để cuộc đời của mình được bước đi trong sự tín thác. Điều này khác hoàn toàn với việc xin Thiên Chúa thực hiện nơi cuộc đời của mình những tiêu chuẩn theo cái nhìn của người đời, và những gì mà chính bản thân muốn được như ý của mình vậy. Dành thời gian để lắng nghe Chúa nói, hơn là nói thật nhiều với Ngài, trở nên tối cần thiết và được coi như hơi thở của mỗi Kitô hữu.

Cuộc đời quanh ta vẫn tấp nập tiếp diễn hết ngày này tháng khác. Đôi khi, con người bị cuốn hút vào nhịp độ với áp lực thật cao dẫn đến cuộc sống bị mất quân bình. Tuy nhiên, có khi đạt được thành công lại là lúc người ta chủ quan cho rằng khả năng của mình quyết định yếu tố thành công ấy. Từ đó, sẽ làm cho ý nghĩa của cuộc đời mất đi điều chính yếu. Cuộc sống nhân loại được kết hợp bởi nhiều mảng khác nhau như vật chất, tinh thần, đời sống tâm linh, nghề nghiệp, gia đình, cộng đoàn, xã hội…Vượt lên trên tất cả, có Đấng là Chủ thể của thời gian và không gian, là nguyên lý tối hậu của muôn loài muôn vật. Nhờ Ngài mà chúng được tồn tại. Đấng đó chính là Thiên Chúa, Người cho chúng ta sự sống và chỉ cho mỗi người thấy ý nghĩa đích thực. Điều tất yếu, người tín hữu cần phải thiết lập mối mối tương quan chặt chẽ với Ngài, vì khi tách ra khỏi Ngài, con người sẽ trở nên hư vô. Như thế, mới thấy lời khuyên của Đức Giêsu hôm nay dành cho Martha thật sâu sắc. Khi chọn phần tốt nhất là dành thời gian để nghe Chúa, thì các mảng khác trong cuộc sống của con người mới được triển nở và mới đạt tới như lòng Chúa mong muốn.

Mỗi Chúa Nhật, người tín hữu được quy tụ trong bầu khí bữa tiệc được chính Đức Giêsu dọn ra để cho chúng ta được bồi bổ sức mạnh và đời sống được thăng hoa. Ngài mời gọi chúng ta lắng nghe Lời Ngài và muốn chúng được đem ra thực hành nhằm trổ sinh hoa trái. Ngài cũng cho chúng ta thưởng thức lương thực là chính mình của Ngài, để cho đời sống đức tin chúng ta được củng cố và tăng triển không ngừng.

Xin cho chúng ta có tâm hồn lắng nghe Lời Chúa như Mẹ Maria, để trong mọi hoàn cảnh chúng ta biết gẫm suy Lời Chúa trước khi đem ra thực hành. Khi chọn phần tốt nhất chính là lúc thánh ý của Thiên Chúa được thực hiện nơi chúng ta và trong suốt cả cuộc đời.

 

  1. Suy niệm của JKN

Câu hỏi gợi ý:

  1. Thử đặt ngược lại vấn đề: nếu cả Mácta cũng tiếp chuyện Đức Giêsu mà không có ai lo việc tiếp đãi Ngài, cụ thể là lo nước nôi tiếp khách và bữa ăn cho Ngài, thì có nên không? Ngài có hài lòng về cách tiếp đãi đó không?
  2. Giữa hai chị em với nhau, thái độ của mỗi người có chỗ nào hay, chỗ nào dở? Mỗi người phải sửa đổi lại thái độ của mình thế nào cho hoàn hảo?
  3. Bạn nghĩ gì về người năng cầu nguyện mà không năng hành động, hay năng hành động mà không năng cầu nguyện?

Suy tư gợi ý:

  1. Hiếu khách phải là một đặc điểm của người Kitô hữu

Đức Giêsu đến làng Bê-ta-ni-a, nơi nhà Mácta và Maria, là những người rất mến mộ Ngài. Đây là một dịp tốt để hai chị em tỏ lòng yêu thương và quí mến Ngài. Tinh thần hiếu khách như hai chị em này là một trong những đặc điểm của người Á Đông, mà cũng phải là đặc điểm của mọi Kitô hữu, vì đó là một khía cạnh quan trọng và cụ thể của tình yêu thương vốn là nền tảng của Kitô giáo. Trong bài đọc I, A-bra-ham đã tỏ ra thật hiếu khách. Không ngờ lần này khách đến lại là sứ giả của Thiên Chúa. Nếu bình thường ông không hiếu khách, thì khi thiên sứ đến bất ngờ dưới dạng người thường, làm sao ông tỏ ra hiếu khách với các vị ấy được? Điều này giúp chúng ta ý thức lại: mọi người khách đến với gia đình ta đều là hình ảnh của Thiên Chúa, và phần nào là hiện thân của chính Đấng mà ta đang tôn thờ và muốn yêu mến hết lòng. Như thế, quí mến khách cũng là một cách tỏ lòng quí mến Chúa.

  1. Cần có sự phân công hợp lý trong gia đình, trong tập thể

Để tiếp đón Ngài cho phải lẽ và làm hài lòng Ngài, phải có người tiếp chuyện Ngài, vì nếu để Ngài ngồi không một mình thì quả là bất lịch sự. Nhưng cũng phải có người lo chuyện nước nôi và những món ăn tiếp đãi khách chứ! Vì nếu tới bữa ăn mà để cho khách ra về bụng đói, hoặc cho khách ăn một bữa cơm quá thanh đạm, xoàng xĩnh, thì còn gì là quí mến khách nữa? Vì thế, hai chị em không ai nói với ai, đã tự phân công: một người hầu chuyện Ngài, một người lo chuyện phục vụ Ngài, điều ấy thật hợp lý. Nếu cả hai cùng tiếp chuyện Ngài, thì ai lo nấu ăn? Hay nếu cả hai đều lo nấu ăn, thì ai tiếp chuyện Ngài?

  1. Cần quan tâm đến nhau và tìm cách làm cho nhau hạnh phúc

Ưu điểm của Mácta là tinh thần năng động, cô biểu lộ tình yêu và sự quí mến của mình bằng việc phục vụ, quan tâm tới nhu cầu cụ thể của người khác. Thật là một đức tính tốt! Nhưng điều không hay nơi Mácta là ganh tị với em: thấy em ngồi nói chuyện với Đức Giêsu, có vẻ nhàn nhã quá, để mình phải vất vả cực nhọc, thì đâm ra buồn phiền. Cô không thể dấu trong bụng sự tị nạnh đó, mà phải bộc lộ ra, đến độ có vẻ như trách móc Đức Giêsu: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!”. Có vẻ như cô cảm thấy không được ai chú ý tới, nhất là không ai biết tới sự khó nhọc của mình. Cái thiếu sót này rất đáng thông cảm vì tâm lý chung mọi người đều như vậy!

Cái hay của Maria là biểu lộ tình yêu và lòng quí mến của mình bằng cách chăm chú nghe và ghi nhận, học hỏi những điều hay từ Đức Giêsu. Điều này sẽ rất ích lợi cho cô, nhất là về mặt tâm linh. Nhưng cái thiếu sót của Maria là dành độc quyền nói chuyện với khách, mà không nghĩ gì tới sự khó nhọc vất vả của chị mình để tìm cách chia sẻ công việc với chị. Chẳng hạn, thỉnh thoảng cô có thể mời chị lên tiếp chuyện với Thầy và làm bếp thay thế chị một chút. Hai chị em thay phiên nhau, vừa tiếp Thầy, vừa lo chuyện phục vụ Thầy thì đẹp hơn biết mấy!

Trong cuộc sống chung của gia đình hay tập thể, nếu chúng ta biết quan tâm đến nhau, đến niềm vui, nỗi khổ, đến những nhu cầu, lo lắng, bận tâm của nhau, thì cuộc sống chung trở nên hạnh phúc biết bao! Sự quan tâm ấy thể hiện cụ thể tình yêu thương của ta đối với nhau. Nếu không có tình yêu thương, nếu ai cũng chỉ nghĩ đến mình, đến niềm vui và nỗi khổ, nhu cầu và lo lắng của mình, thì cuộc sống chung sẽ trở thành hỏa ngục.

  1. Cần ưu tiên cho đời sống tâm linh.

Cách trả lời của Đức Giêsu: “Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi”, khiến cho nhiều người nghĩ rằng Đức Giêsu đã coi việc tiếp chuyện Ngài là quan trọng và đẹp lòng Ngài hơn chuyện lo chăm sóc bữa ăn cho Ngài. Từ đó họ suy ra rằng việc cầu nguyện thì đáng quí và làm hài lòng Chúa hơn việc hoạt động. Nhưng ta thử đặt vấn đề: nếu cả hai chị em đều lo ngồi hầu chuyện Đức Giêsu, mà chẳng ai lo bữa ăn chu đáo cho Ngài, thì Ngài có hài lòng lắm không?

Là người hướng dẫn tâm linh, Ngài thấy đời sống tâm linh quan trọng hơn thể chất rất nhiều, nhân đó Ngài muốn, bằng câu nói trên, cho hai chị em một bài học: cần phải đặt nặng và lo cho đời sống tâm linh hơn thể chất. Tại sao? Vì người đời thường có khuynh hướng lãng quên đời sống tâm linh, mà chỉ chú tâm đến đời sống thể chất. Họ dành rất nhiều thì giờ và năng lực vào chuyện cơm ăn áo mặc, chuyện tiện nghi vật chất, chuyện quyền lực địa vị, chuyện tranh đua để hơn người khác, tóm lại là những chuyện liên quan đến đời sống tạm bợ ở trần gian. Đa số ít quan tâm, hoặc ít người quan tâm đầu tư cho đời sống tâm linh của mình, là điều chẳng những đem lại hạnh phúc thanh tao ở đời này, mà còn đem lại hạnh phúc lâu dài đời sau.

  1. Cần có sự điều hòa và quân bình giữa tâm linh và thể chất, giữa cầu nguyện và hành động

Trong thực tế, hai khía cạnh của sự sống – tâm linh và thể chất – liên quan đến nhau, hỗ trợ nhau. Khía cạnh này tốt đẹp và lành mạnh thì cũng sẽ ảnh hưởng tốt đẹp lên khía cạnh kia. Tuy nhiên, quá quan tâm đến khía cạnh này thì sẽ bỏ bê đồng thời làm hại cho khía cạnh kia. Do đó, hai khía cạnh ấy của sự sống cần phải được quan tâm một cách điều hòa và quân bình: không nên quá quan tâm đến khía cạnh này mà bỏ bê khía cạnh kia, nhất là đối với giáo dân, là những người sống giữa trần gian.

Cũng tương tự như thế, cần phải có sự điều hòa và quân bình giữa sự cầu nguyện và hành động. Cầu nguyện nhiều mà không cảm thấy có sức mạnh nào thúc đẩy mình đi đến hành động thực tế, thì sự cầu nguyện ấy hẳn nhiên không phải là cầu nguyện đích thực, nghĩa là không thật sự gặp gỡ Thiên Chúa. Rất nhiều Kitô hữu hiện nay ở trong tình trạng này. Họ cảm thấy an tâm, tự cho mình là người đạo đức, chỉ vì họ đã dành rất nhiều thì giờ để cầu nguyện. Nhưng sự cầu nguyện của họ chẳng dẫn họ đến hành động để thể hiện cụ thể tình yêu thương mà đáng lẽ họ phải đạt được khi cầu nguyện đích thực. Vì thế, rất nhiều việc đáng lẽ họ nên làm hoặc phải làm, nhưng họ đã không làm. Và hiện nay cũng có nhiều nhà hướng dẫn tu đức chỉ hoặc quá nhấn mạnh đến cầu nguyện, mà không quan tâm hoặc không nhắc nhở gì đến bổn phận phải hành động.

Tuy nhiên, năng hành động mà không năng cầu nguyện thì ta dễ đi đến chỗ hành động chỉ vì lợi ích riêng của mình, chứ không phải vì Thiên Chúa hay tha nhân. Hành động như thế xét về mặt tâm linh thì không mấy giá trị và ít đem lại lợi ích thiêng liêng. Người hành động nhiều mà không cầu nguyện giống như người hành trình vào một vùng đất lạ, chỉ biết đi tới mà không biết phải lâu lâu dừng lại xem bản đồ để biết mình đang ở đâu, và biết phải đi đường nào để tới nơi mình muốn. Vì thế, có rất nhiều khả năng là họ sẽ lạc đường. Hoặc như người hành trình không biết dừng lại để ăn uống, hay để đổ xăng, hầu tiếp sức cho chính bản thân hoặc tiếp nhiên liệu cho phương tiện di chuyển. Họ sẽ không đủ sức và phương tiện để đi hết cuộc hành trình. Vậy, cầu nguyện và hành động đều rất cần thiết cho đời sống Kitô hữu mà chúng ta cần phải thực hiện một cách quân bình và điều hòa trong cuộc sống.

Cầu nguyện

Lạy Chúa, bất kỳ một nhân đức nào trong đời sống cũng đòi hỏi phải được bổ túc bằng một nhân đức đối nghịch với nó thì nhân đức ấy mới thật sự là nhân đức. Vì thế, xin hãy cho con ơn khôn ngoan và khiêm nhượng đi đôi với lòng can đảm, cho con hiền lành mà cương quyết, năng cầu nguyện nhưng dám hành động, v.v… Tóm lại, cho con vừa biết lắng nghe lời Chúa như Maria, nhưng cũng vừa biết săn tay lên để làm việc như Mácta. Amen.

 

  1. Hoạt động và cầu nguyện – Gp Vĩnh Long
  2. Dân gian có câu: “Khách tới nhà không gà thì vịt”, câu nói nầy thể hiện lòng hiếu khách của chủ nhà. Trong bài đọc I, cho thấy tổ phụ Abraham cũng rất hiếu khách, ông đang ngồi trong lều giữa trưa nóng, thì thấy bên ngoài có 3 người đàn ông. Ông vội vàng lấy bột làm bánh, bắt một con bê tốt nhất làm thịt để tiếp đãi họ. Những người nầy là sứ giả của Thiên Chúa. Trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, Martha cũng thể hiện lòng hiếu khách của mình, chị lo dọn tiệc thết đãi Chúa, thế nhưng người em là Maria phục vụ Chúa bằng cách khác, ngồi nghe Chúa giảng dạy và được khen. Tại sao Chúa khen Maria? Và qua hình ảnh của Matha và Maria tiếp đón Chúa mỗi người mỗi cách, Chúa muốn dạy chúng ta điều gì?
  3. Chắc hẳn không chỉ một mình Đức Giêsu ghé qua nhà chị em Martha, Maria và Lagiarô (người đã chết và chôn được 4 ngày mà được Chúa cho sống lại), mà còn các tông đồ nữa. Việc chuẩn bị chỗ nghỉ ngơi và ăn uống cho ít là 13 người khách và 3 người nhà làm cho Martha, người chị, người chủ nhà tất nhiên phải rất bận rộn. Cho nên chúng ta không lạ gì Martha trách em mình không phụ giúp gì với mình! Dường như trách cả Chúa nữa là không biết nhắc Maria phụ với chị, mà chỉ ngồi nghe Chúa nói chuyện, trong khi gần tới bữa ăn rồi! Rõ ràng Martha làm việc phải làm của người chủ nhà, thế nhưng Chúa không khen, mà Chúa còn bảo: “Martha, Martha ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá. Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất”(Lc 10,42). Câu nói này hẳn làm cho Martha và cả chúng ta cũng phải suy nghĩ nữa!
  4. Xét về phương diện xã hội, khách đến nhà chúng ta thường thấy có hai phương cách phục vụ. Phương cách giống như của Martha: lo ăn, lo chỗ nghỉ cho khách. Theo cách nghĩ thông thường càng lo thức ăn thịnh soạn, chỗ nghỉ càng chu đáo chừng nào chứng tỏ mình càng trân trọng, quý mến khách. Phương cách giống của Maria: lắng nghe những điều chia sẻ của khách. Càng thâm giao, càng tri kỷ khi đến thăm nhau dường như cần có nhiều thời giờ để tâm sự, để chia sẻ nhau hơn là vấn đề ăn uống.
  5. Xét về phương diện thiêng liêng, Martha tiêu biểu cho người hoạt động, lo lắng về những nhu cầu vật chất. Còn Maria tiêu biểu cho những người lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện. Tuy việc hoạt động phục vụ không phải là không cần thiết, nhưng phải coi chừng kẻo chúng làm ta phân tâm mà không để ý đến điều quan trọng hơn đó là lắng nghe Lời Chúa. Chính Chúa Giêsu đã nhắc lại lời Thiên Chúa dạy từ thời Cựu Ước: “Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4).
  6. Hoạt động và cầu nguyện hai việc không thể tách rời nơi đời sống của người Kitô hữu, mà cần bổ túc cho nhau. Trong đó việc cầu nguyện phải làm nền tảng hoạt động cho đời sống của Kitô hữu. Thật vậy, ta hãy xem qua một vài lĩnh vực để thấy rõ:

– Nhờ gắng bó với Đấng Tối Cao làm cho người sống đúng với phẩm giá cao quý của mình hơn. Tháng 07 năm 2004, trung tâm nghiên cứu Howard thuộc Đại học Austin, Texas, Hoa Kỳ đã công bố kết quả nghiên cứu cho thấy giới thanh thiếu niên có đời sống tôn giáo mạnh thì vấn đề phạm pháp, vấn đề dục tính tiền hôn nhân, lạm dụng chất kích thích, phạm pháp đều giảm đáng kể.

– Nhờ cầu nguyện nên giải quyết những vấn đề trong cuộc sống được tốt hơn. Charles de Foucauld có phương cách giải quyết các vấn đề khó khăn như sau: (1) Thưa với Chúa những điều mình gặp phải. (2) Cầu nguyện (thinh lặng) lắng nghe Chúa hướng dẫn. (3) Đưa ra hướng để giải quyết vấn đề. Nhờ vậy mà ngài đã giải quyết thành công nhiều điều. Điều nầy ai trong chúng ta cũng có thể học hỏi để áp dùng cho đời sống của ta.

– Nhờ cầu nguyện nên việc phục vụ tha nhân được tốt hơn. Mẹ Têrêsa Calcutta và các nữ tu dòng của Mẹ dù bận rộn công việc hằng ngày như thế nào, nhưng luôn luôn dành thời giờ tham dự Thánh lễ, chầu Thánh Thể. Người ta ghi nhận rằng Mẹ Têrêsa luôn là người có mặt ở nhà nguyện sớm nhất!

  1. Như vậy cầu nguyện và hoạt động là hai việc không thể tách rời nơi một Kitô hữu, giống như một đồng tiền phải có hai mặt. Có thể nói cầu nguyện như là phần chìm, nền móng, của tòa nhà; hoạt động như là phần trên của tòa nhà; toà nhà muốn vững phải nhờ móng chắc chắn. Nhờ cầu nguyện mới có thể phân định được những việc nên làm và không nên làm, nếu thế thì cầu nguyện còn có thể nói như tay lái của chiếc xe để dìu dắt cả chiếc xe đi đúng hướng, an toàn. Nhờ cầu nguyện mà chúng ta có thể phục vụ, cư xử với nhau theo tinh thần người con Chúa được tốt hơn.

Đừng tiếc gì một ít thời giờ đọc kinh hôm, kinh mai, xét mình hằng ngày, đừng tiếc gì phải dành một vài tiếng đồng hồ tham dự Thánh Lễ ngày Chúa Nhật… Đức Giêsu là mẫu gương cho cầu nguyện và hoạt động. Người muốn việc hoạt động của người tông đồ phải bắt nguồn từ sự cầu nguyện và cần có những giây phút nhìn lại việc mình làm, vậy hãy dành thời gian tâm sự với Chúa, như là Maria; để rồi mới có thể có được sức mạnh phục vụ Chúa và tha nhân như Martha, cách bền bỉ.

 

  1. Lắng nghe Lời Chúa là điều tốt nhất

(Suy niệm của Lm. Jos. Vinc. Ngọc Biển)

Trong truyền thống Việt Nam, văn hoá ứng xử qua việc giao tiếp là rất quan trọng, điều này đã được cha ông chúng ta rất đề cao. Qua việc đón tiếp khách, người ta đánh giá được sự hiếu khách hay không của gia chủ; đồng thời nó cũng thể hiện sự văn minh và nền giáo dục của gia đình đó như thế nào.

Bài Tin Mừng hôm nay trình thuật cho chúng ta thấy việc Đức Giêsu ghé thăm gia đình của Martha. Nơi đây, Ngài nhận được sự đón tiếp nồng nhiệt của của hai chị em Martha và Maria. Hai cách đón tiếp khác nhau, nhưng đều thể hiện sự kính trọng, yêu mến mà hai cô dành cho Đức Giêsu. Tuy nhiên, kết quả lại khác nhau, bởi vì hệ tại ở hành vi lựa chọn.

  1. Cuộc đời là một sự lựa chọn không ngừng

Kinh nghiệm trong cuộc sống cho chúng ta thấy: có rất nhiều điều cần phải “lựa” và “chọn”. Khi còn nhỏ, cha mẹ lựa chọn cho con cái trường nào tốt để gửi con vào học; khi lớn lên một chút, ta lựa chọn bạn để chơi, lựa chọn thầy để học, lựa chọn nghề để mưu sinh, lựa chọn người yêu để cưới… Như vậy, có lẽ trong cuộc đời, chỉ có lần sinh ra và chết đi là ta không có quyền chọn lựa mà thôi, còn mọi trường hợp đều đòi ta phải có sự chọn lựa.

Có những lựa chọn tích cực và những lựa chọn tiêu cực. “Lựa chọn” trong đời thường là lọc ra những thứ không cần thiết và chọn cho mình những thứ cần dùng. Còn “lựa chọn” theo Kinh Thánh tức là nghe theo tiếng Chúa và thi hành hay là ngược lại.

Thật vậy, có biết bao điều cần phải lựa chọn. Lựa chọn cái tốt, tốt vừa, tốt hơn, hay tốt nhất? Đây chính là điều đòi hỏi chúng ta phải suy nghĩ, đắn đo trước khi chọn.

Mỗi sự chọn lựa đều có giá của nó, và ta phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về chính ta qua sự chọn lựa của mình. Nếu lựa chọn đúng thì sẽ đem lại hạnh phục. Lựa chọn sai thì sẽ dẫn đến sự bất hạnh. Chọn lựa được coi là “đích đến” và “bánh lái” cho cuộc đời nếu lựa chọn đó là tốt, là đúng. Còn nếu lựa chọn sai thì sẽ bị tác dụng ngược lại. Lựa chọn là khởi đầu của một hành trình, thì sống sự lựa chọn đó là đi về đích điểm. Thật hạnh phúc cho những ai biết quyết định và lựa chọn đúng với thánh ý của Thiên Chúa.

Hôm nay, bài Tin Mừng cho chúng ta thấy: Martha lựa chọn phục vụ Chúa qua việc nấu nướng để thiết đãi Chúa một bữa ăn thịnh soạn. Maria thì lựa chọn việc ngồi để lắng nghe Chúa nói. Đây là tư thế và thái độ của người môn đệ trước vị tôn sư của mình… Nếu Martha thể hiện lòng kính trọng và yêu mến Chúa qua việc nấu ăn, thì Maria cùng một lòng kính trọng và tình yêu mến Chúa như Martha, nhưng Maria thì thể hiện cách khác là lắng nghe Lời Chúa. Hai công việc đều phát xuất từ lòng mến và được khởi đi từ sự kính trọng. Hai thái độ đều tốt. Một bề ngoài, một bề trong. Nhưng giá trị thì lại khác nhau. Hôm nay Chúa khen và nói Maria đã chọn phần tốt nhất, còn Martha có thể đã chọn phần tốt hoặc tốt hơn chứ chưa phải là tốt nhất.

  1. Lắng nghe lời Chúa là điều tốt nhất

Thật vậy, lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành phải là điều quan trọng nhất bởi vì: mọi sự sẽ qua đi, nhưng Lời Chúa vẫn luôn tồn tại.

Trong Cựu Ước, Chúa phán: “Giả như ngươi lưu ý đến mệnh lệnh của Ta, thì sự bình an của ngươi chan chứa như dòng sông, sự công chính của ngươi sẽ dạt dào như sóng biển, tên của ngươi sẽ chẳng bao giờ bị huỷ diệt, chẳng bao giờ bị xoá bỏ khỏi mắt Ta.” (Is 48,18-19b).

Sang thời Tân Ước, Kinh Thánh đã ca ngợi Mẹ là người luôn suy đi nghĩ lại Lời Chúa trong lòng (x. Lc 2,19.51). Vì thế, Đức Giêsu đã khen Mẹ trước mặt mọi người: “Mẹ và anh em tôi chính là những ai nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành.” (Lc 8,21). “… Lời ấy chính là Tin Mừng đã được rao giảng cho anh em.” (1 Pr 1, 25; x. Is 40, 8). Lời ấy chính là Đức Kitô.

Trong cuốn Đắc nhân tâm, bà Carnegie đã viết: “Cách làm cho khách vui lòng nhất là lắng nghe khách nói, lắng nghe ước muốn, nguyện vọng, tâm tư của người khác. Như  vậy, tỏ ra mình kính trọng, quan tâm đến người để hiểu biết, thông cảm, chia sẻ những tâm tình, những kiến thức, những yêu cầu thiết thực của người, quí hơn cả cơm ăn, áo mặc.”

Quả thật, thái độ của Maria thật thích hợp để làm vui lòng Chúa trong thời điểm này, bởi vì Chúa sắp lên Giêrusalem để chịu nạn chịu chết, nên việc lắng nghe để chia sẻ những tâm tư của Chúa và thi hành phải là điều quan trọng nhất. Maria đã lựa chọn điều tốt nhất là được ở bên Chúa, nghe lời Chúa dạy. Bà đã chọn cho mình phần phúc Nước Trời, bởi lẽ Đức Giêsu chính là nội dung của Tin Mừng, vì thế, loan báo Tin Mừng chính là giới thiệu về Đức Kitô cho con người và thế giới. Có Đức Giêsu là được cả Nước Trời. Nghe được Lời Chúa nói với mình và đem ra thực hành thì được ví như “người khôn xây nhà trên đá; mưa có đổ xuống, nước có tràn vào, gió bão có thổi đến và lùa vào nhà đó, nhà đó vẫn không sập, vì nhà ấy được xây trên đá”. Đức Giêsu chính là kho tàng quý giá mà Thiên Chúa Cha đã đem trồng vào trong mảnh vườn nhân loại. Sống trong Ngài là được trở nên nghĩa thiết với Ngài và được Ngài yêu thương. Maria trong bài Tin Mừng hôm nay đã có được đầy đủ các yêu tố trên, nên cô đáng được Đức Giêsu khen là người có phúc: “Chỉ có một sự cần mà thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất.”

  1. Lời Chúa trong đời sống Giáo Hội và nơi mỗi chúng ta

Giáo Hội được sinh ra và sống bằng Lời Chúa. Vì thế, “Giáo Hội luôn tôn kính Thánh Kinh như chính Thân Thể Chúa”.

Khi dành cho Lời Chúa một vị trí quan trọng và ngang hàng với chính Chúa như thế, Giáo Hội muốn xác tín niềm tin của mình vào sức mạnh vạn năng của Lời ấy: “Lời Chúa có một sức mạnh và quyền năng có thể nâng đỡ và tăng cường Giáo Hội, ban sức mạnh đức tin cho con cái Giáo Hội, là lương thực linh hồn, nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu cho con cái Giáo Hội.” (x. DV, số 21).

Như vậy, trong mọi thời, Giáo Hội luôn mời gọi con cái của mình hãy siêng năng đọc Thánh Kinh, suy gẫm và đem ra thực hành cách sống động trong gia đình, lối xóm, giáo xứ và bất cứ môi trường nào… Thế nhưng, vì quen lối sống đạo xưa kia, nên chúng ta nhiều khi chỉ thuộc kinh và không mấy coi trọng Thánh Kinh. Khi nói như thế, chúng ta không có ý phủ nhận lối sống đạo bình dân của cha ông, vì trên thực tế, đời sống đạo truyền thống này đã sản sinh cho Giáo hội Việt Nam nhiều chứng nhân anh dũng và chúng ta ngày hôm nay được kế thừa niềm tin cũng nhờ cung cách sống đạo bình dân đó. Tuy nhiên, chúng ta quên mất rằng, mọi lời giáo huấn, truyền thống của Giáo Hội, mọi lời kinh từ bao thế hệ đều được khởi đi và suy tư từ Thánh Kinh mà ra. Nếu chúng ta am tường và hiểu biết Thánh Kinh càng nhiều, thì đời sống đạo của chúng ta càng sống động. Thật thế, Thánh Giêrônimô đã nói: “Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô.” Vì thế, Hội đồng Giám mục Việt Nam đã gợi lên cho chúng ta cách tiếp cận cụ thể với Thánh Kinh như sau: “Yêu mến Thánh Kinh không chỉ thể hiện qua việc phổ biến sách Thánh Kinh, mà còn là siêng năng đọc Lời Chúa trong đời sống và cho đời sống cụ thể của mình. Nói cách khác, đọc Lời Chúa không những để hiểu về Chúa mà còn để tìm hướng đi cho cuộc đời.” (x. Thư Chung 1980, số 8).

Như vậy, qua hình ảnh, thái độ của Maria, và nhất là được nghe lời chúc phúc của Đức Giêsu cho cô, mỗi người chúng ta hãy yêu mến Lời Chúa, chăm chỉ đọc Thánh Kinh, và nhất là đem Lời Chúa ra thực hành. Đây chính là điều cao trọng nhất để ta thể hiện lòng yêu mến Chúa trọn vẹn. Yêu mến Chúa mà không giữ Lời Chúa thì là người giữ đạo hình thức; giữ Lời Chúa như một luật lệ cứng ngắc, thậm chí chỉ giữ trong nhà thờ mà thôi. Nếu đời sống đạo của chúng ta đúng như vậy, thì chẳng khác gì người mang danh và đeo cái mác Công giáo, chứ thực ra không phải là người mang đạo trong mình.

Nhưng để nghe được tiếng Chúa muốn gì nơi chúng ta, chúng ta cần phải loại bỏ một số thứ không cần thiết, và phải kết hợp với Chúa trong thinh lặng nội tâm thực sự. Làm được như thế, tâm hồn chúng ta hoàn toàn thuộc về Chúa và để chúng ta dễ nhận ra tiếng Chúa trong Thánh Kinh, cuộc sống và qua lương tâm.

Mong thay, mỗi chúng ta biết chọn sao cho trọn. Chọn điều tốt sẽ dẫn đến kết quả tốt. chọn điều xấu ắt sẽ xấu. Nhưng trong tất cả mọi sự chọn lựa, Lời Chúa phải chiếm địa vị quan trọng nhất, và thực hành Lời Chúa trong cuộc sống là làm cho Chúa được hiện tại hóa trong lời nói, cử chỉ, hành động của mỗi chúng ta. Có thế, Lời Chúa mới thực sự bén rễ sâu và sinh hoa kết quả trong đời sống đạo của chúng ta.

Ước gì Lời Chúa khen ngợi cô Maria khi xưa vì đã biết chọn phần tốt nhất cũng là lời tác phúc cho mỗi chúng ta khi chúng ta thành tâm đi tìm kiếm Chúa và yêu mến Chúa bằng việc lắng nghe và đem ra thực hành Lời ấy trong cuộc sống.

Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết chọn Chúa làm chủ tể đời chúng con. Xin cho chúng con biết yêu mến và lắng nghe Lời Chúa bằng thái độ của người môn đệ. Và, xin cho chúng con biết đem Lời Chúa ra để thực hành trong cuộc sống hiện tại. Amen.

 

  1. Suy niệm của nhóm Đồng Hành

Chi Tiết Hay

Câu chuyện xảy ra trong chuyến đi lên Jerusalem lần cuối cùng. Đây là thành Bethany nơi ông Lazarô sống với hai người chị là Martha và Maria.

(c.38) Trong văn hóa Địa Trung Hải, người phụ nữ là sở hữu chủ của nhà cửa. Người mẹ sẽ truyền gia sản lại cho người con gái lớn nhất. Trong nhiều bản dịch dựa trên bản tự Hy-lạp như Kinh Thánh Tân Ước 1994, câu “nhà của bà” được bỏ đi.

(c.39) Maria là người xức dầu và lau chân Chúa Giêsu bằng tóc của mình (Ga 12:1-3).

Vì Chúa Giêsu được dân chúng ưa chuộng vào những ngày cuối cùng của Ngài, rất có thể là có những người khác trong nhà lúc đó. Các môn đệ có thể đi theo Ngài vào nhà. Người Địa Trung Hải có lối sống đại gia đình như người Á Đông, nên trong nhà thế nào cũng có bà con của hai bà. Hơn nữa truyền thống khiến ông Lazarô phải có mặt với Chúa Giêsu để bảo vệ danh dự của 2 chị mình trong sự hiện diện của một người đàn ông không cùng họ hàng (Ga 11).

Nếu theo truyền thống phân chia vị trí theo nam nữ, thì Maria đang ngồi với Chúa Giêsu ở chổ dành riêng cho đàn ông.

Hành động của Maria nhấn mạnh đến tình yêu Thiên Chúa, trong khi hành động của người Samari trong dụ ngôn người Samari Tốt Lành (Lc 10:29-37) nhấn mạnh đến tình yêu đồng loại.

Một Điểm Chính

Phục vụ vì yêu mến Thiên Chúa, chớ không phải vì yêu thích công việc làm ấy.

Suy Niệm

Công việc phục vụ của tôi có đem tôi lại gần Thiên Chúa hơn không? Khi làm, chủ tâm của tôi là công việc, hay chủ tâm của tôi là làm để danh của Thiên Chúa được vinh quang?

Nhìn lại lòng nhân từ của tôi. Nhiều lần tôi sẵn sàng tỏ lòng nhân từ với người khác, nhưng chỉ khi nào chương trình của tôi không bị ảnh hưởng đến. Tôi muốn thương người, nhưng theo cách của riêng tôi.

Suy niệm bối cảnh của câu chuyện này. Vài ngày trước khi tử nạn, Chúa Giêsu đã ngang dọc khắp nơi giảng dạy. Ngài mệt mỏi. Tim Ngài nặng trĩu vì hình ảnh thập giá càng ngày càng rõ ràng. Ngài đã đến nhà tôi, người mà Ngài coi như bạn. Ngài đến để tìm gì? Ngài muốn một bữa cơm thịnh soạn? Hay là Ngài đến là vì tâm tình của tôi, vì tôi thương Ngài? Ngài cần con tim của tôi để an ủi và lắng nghe? Nếu tôi thương Ngài thì tôi sẽ làm sao? Tôi có trìu mến cầm tay Ngài và nói: Thầy ơi, con nghe đây. Con sẵn sàng chia sẽ những ưu tư, những đau khổ của Thầy? Lắng nghe Chúa Giêsu và để lòng mình dẫn dắt, chiêm niệm tâm tình của Chúa Giêsu chia sẽ với tôi.

 

  1. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin

MATTA VÀ MARIA

Trình thuật đưa độc giả vào đề tài tình yêu Chúa cũng nhắc đến đoạn Chúa Giêsu đi đường và xin chỗ trú ngụ. Bà chủ nhà và người con gợi nhớ tới, đối với ai biết Tin Mừng thứ tư, hai người chị của Ladarô ở Bêtania (Ga 11;12,1-8). Nhưng trong trình thuật của Luca còn ghi lại là những người xa lạ mà theo lôgich1 thì ngược lại là những người kia ở mãi Giêrusalem. Maria không có gì để đồng hoá được với Maria Magđala cả (8,2; 24,10).

Sự tương phản giữa hai chị em trước hết là ở việc được trình bày Maria như một đệ tử hoàn hảo, ngồi dưới chân Thầy để đón nhận giáo huấn Ngài. Ngồi là tư thế cổ điển (x.8,35; Cv 22,3); truyền thống lại đã chẳng nói: Ước gì nhà con là nhà hội họp cho các hiền nhân, hãy níu lấy bụi đất ở chân họ và uống lấy lời của họ cho đã khát! (Misnha, Abot 1,4). Có điều không ổn ở đây nói tới một phụ nữ! Khi một Kinh sư nổi tiếng ở cuối thế kỷ thứ nhất dám nói: “Dạy cho con gái mình luật thì như dạy nó sống truỵ lạc” (Misnha, Sota 3,4), thì Chúa Giêsu lại khuyến khích một phụ nữ theo giáo huấn của mình. Thái độ của cô chủ nhà thì khỏi cần khách sáo: cô tất bật lo việc phục vụ –điều đó rất phù hợp với vai trò các phụ nữ- môn đệ ở 8,3. Nhất là cô muốn người em cũng phải phục vụ như cô: cô còn xác tín rằng Chúa không thể nào không đồng ý với cách thẩm định giá trị của riêng cô (c.40).

Ngoài tiếng gọi “Chúa!” –tước hiệu “Chúa” ở đây được Luca dùng hai lần. Như lời tuyên tín của cộng đoàn Kitô hữu đối với Đấng Phục Sinh (x. Cv 2,36), chính Chúa ở đây cần can thiệp trong Giáo Hội Người, bởi vấn đề được nêu lên luôn luôn có tính cách thời sự. Ở Cv 6,2-4, ta sẽ gặp được một đối nghịch tương tự giữa phục vụ Lời Chúa và phục vụ bàn ăn. Ngoài chuyện nêu lên việc phục vụ bàn ăn; vấn đề là nhìn nhận có một tầm mức quan trọng khác nhau giữa hai việc: Chúa trách cô chủ nhà về sự băn khoăn lo lắng của cô là điều trái ngược với tâm trạng của người tín hữu đích thực (12,25-26) và, khi cô cho việc phục vụ bàn ăn là ưu tiên, Ngài bênh vực cô Maria đã đặt việc nghe lời Ngài lên trước mọi quan tâm khác. Như thế, làm môn đệ Chúa Giêsu, chính là chọn điều cần duy nhất. Thực ra, đó không phải chính là yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực… sao? Khi trình bày câu chuyện như ông đã làm từ câu 25, đó chính là điều mà Luca muốn gợi lên cho độc giả của mình.

Có cần xác định thêm là một phụ nữ có thể là môn đệ đúng hệt với danh nghĩa ấy như một nam nhân và không bị giới hạn vào việc phục vụ bàn ăn chăng? Chắc chắn rồi… Khẳng định theo đó “phần tốt này sẽ không bị lấy đi” lại không chói tai đối với nhiều Kitô hữu là những người, như Matta, lấy làm khó chịu khi phải chấp nhận để một người phụ nữ nghe Lời và phục vụ Lời sao?.

 

  1. Chú giải của Noel Quesson

Trong khi thầy trò đi đường, Đức Giêsu vào làng kia.

Chúng ta chớ quên đang cùng với Đức Giêsu trên “con đường” nào.

Vẫn luôn luôn là chính lộ lên Giêrusalem mà Luca dành nhiều chươg để thuật lại. Không dưới mười chương dài (Lc 9,51 đến 19,28). Như chúng ta đã thấy trong Chúa nhật thứ mườl ba thường niên, ngay sau khi Đức Giêsu được thật sự nhận biết là Đấng Mêsia, Người quyết tâm lên đường đến Giêrusalem (Lc 9,51). Kế đó, trong Chúa nhật thứ mười bốn, chúng ta chứng kiến sứ vụ của bảy mươi hai môn đệ (Lc 1ọ,l-20). Chúa nhật vừa qua, chúng ta đã ở trên con đường đến Giêrikhô, cách Giêrusalem ba mươi kilômét để lắng nghe dụ ngôn người Samari tốt lành (Lc 10,25-37). Hôm nay chúng ta dừng lại trong một ngôi làng không được nêu tên, nhưng đó là làng Bêtania, cách trung tâm thủ đô ba kilômét. Dọc đường, Luca cho chúng ta thấy Đức Giêsu nói chuyện với các bạn hữu của Người rất lâu, có lẽ để chuẩn bị họ vào thời điểm mà Người sẽ chỉ còn ở với họ không bao lâu nữa. Điều này nói lên sự quan trọng của các tình huống và lời nói cắm mốc trên con đường lên Giêrusalem đó.

Chúng ta sắp tham dự vào một cảnh thể hiện lòng, hiếu khách đầy sự dịu dàng.

Chúng ta còn nhớ Người ta không muốn tiếp đón Người, trong một ngôi làng ở Samari. Hôm nay, Đức Giêsu tìm được một gia đình hiếu khách. Chúng ta vui mừng vì biết rằng không phải lúc nào Đức Giêsu cũng bị xua đuổi, không phải lúc nào Người cũng đi lang thang không nới trú ẩn… và có lúc Người cũng dừng lại ở nhà các bạn hữu Người để nghỉ ngơi, để ngồi nói chuyện… để sử dụng thời gian… và thời gian của tình bằng hữu không phải là thời gian đánh mất!

Ở đầu dốc, bên cạnh con đường đầy bụi có ngôi nhà mà Người quen biết. Bên cạnh cửa sổ có đặt lưới sắt, một cây táo đầy hoa (bây giờ là mùa xuân và lễ Vượt qua gần đến) tỏa hương thơm ngát. Đức Giêsu gõ cửa. Cửa mở ra. “Chào! ôi, vui biết mấy, nào mời Thầy vào!”

Có một người phụ nữ tên là Mácta đón Người vào nhà. Cô có người em gái tên là Maria

Đó là hai chị em. Họ có một em trai là Ladarô.

Các sách Tin Mừng nói về họ ba lần, trong những cảnh ở đó tính khí của họ đã được điển hình hóa và giống nhau trong mỗi câu chuyện. Mácta, một người hoạt động. Maria, một người trầm lặng. Thánh Gioan trong một câu ngắn ngủi đã kể lại: “Đức Giêsu quý mến cô Mácta, cùng hai người em là cô Maria và anh Ladarô” (Ga 11,5). Và trong dịp gia đình họ có đám tang, Gioan- thuật lại cho chúng ta rằng Đức Giêsu đã khóc. Một lần khác, người ta thấy Mácta đang phục vụ một bữa ăn, còn cô Maria “cứ ngồi bên chân Chúa” (Ga 12,2-3). Như thế, Đức Giêsu đã có những người bạn gái Tuần lễ cuối cùng trước khi chết, chiều nào Người cũng trở về nhà họ (Mt 2 1,7 -26,2; Mc 11,11; Ga 11,1-18-12,1; Lc 19,29).

Vậy thì ít nhất đó là một nơi mà Đức Giêsu có thể đề cao sự dịu dàng của tình bằng hữu.

Trong sách Khải Huyền, Gioan sẽ sử dụng hình ảnh ấy để nói về đời sống của Người Kitô hữu: “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà Người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3,20).

Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy. Còn cô Mácta thì tất bật lo việc phục vụ.

Ôi! Một bức tranh thánh kỳ diệu! Phải ở yên thật lâu trong sự im lặng để nhìn ngắm cảnh tượng ấy, hình ảnh ấy. Ví dụ như, hãy thử tưởng tướng mình có mặt trong phòng tiệc ấy. Hãy thử hình dung lại các động tác, cử chỉ, âm thanh, mùi vị, màu sắc, những lúc im lặng, những khuôn mặt và những tấm lòng.

Đức Giêsu nói chuyện với cô Maria ngồi bên chân Chúa… cô lắng nghe. Hai người cùng nhau nói điều gì? Giọng nói của Người như thế nào? Người kể lại cho cô dụ ngôn người Samari tốt lành chăng? Người giải thích lại các mối phúc thật cho cô chăng? Người là Đức Giêsu đã không mệt mỏi nói với cô Người quan niệm thế nào về các suối nguồn của hạnh phúc thật? Bản thân tôi, tôi thích nghĩ rằng Đức Giêsu nói nhỏ với Maria những lời tâm sự về cái chết và sự sống lại của Người.

Người lên Giêrusalem là vì việc đó! Nó chiếm trọn tâm hồn Người. Đã nhiều lần, Người thử chia sẻ sự lo lắng của Người với các môn đệ nhưng xem ra họ không hiểu. Với Maria, cô có hiểu không? Về câu chuyện tâm sự đó, há chẳng có một sự đồng cảm mầu nhiệm và tuyệt vời của tình bạn cởi mở đó sao.” Dẫu sao, nhờ Máccô và Gioan, chúng ta biết rằng người phụ nữ trực cảm này đã hiểu rõ hơn những người khác mầu nhiệm cái chết, sự mai táng và sự sống lại của Đức Giêsu. Đức Giêsu sẽ trở lại Bêtania trong nhà cô những ngày trước lễ Vượt qua, và một cách dịu dàng, Maria sẽ thực hiện trước một cách ướp xác bằng dầu thơm cho Người.

Các phụ nữ sẽ không thể thực hiện việc ướp xác ấy khi họ muốn đến ngôi mộ “ngày đầu tiên trong tuần” để làm việc đó, bởi vì họ sẽ thấy ngôi mộ trống. Nhưng Maria đã làm việc đó rồi, với sự tinh tế tuyệt diệu của cô! Và Đức Giêsu sẽ hiểu điều đó: “Điều gì làm được thì cô ấy đã làm: cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi, để chuẩn bị ngày mai táng (Mc 14,8). Cô ấy giữ lại dầu thơm này cho ngày mai táng Thầy; còn Thầy, anh em không có mãi đâu”(Ga 12,7-8).

Cô tiến lại mà nói: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!”

Sự can thiệp này của Mácta làm nổi bật sự khác nhau hoàn toàn của hai chị em. Trước khi nghe câu trả lời của Đức Giêsu, chúng ta phải thán phục Mácta không nên đánh giá thấp cô chị. Ở đây không có sự đối lập giữa Mácta và Maria. Mácta thì hữu ích. Sự phục vụ của cô là cần thiết. Đức Giêsu cũng được tôn vinh vì đã đem trọn tình yêu “phục vụ” những người khác… “Nào những kẻ Cha Ta phúc phúc hãy đến. Vì xưa Ta đói, các người đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống” (Mt 25,34).

Lạy Chúa, con xin dâng cho Chúa những công việc nội trợ đa đoan rất khiêm hạ, đầy ắp yêu chuộng của vô số các phụ nữ trên toàn thế giới, trong mọi nền văn minh.

Chúa đáp

Chúng ta không thể không nhận thấy sự trang trọng khi Luca dùng danh xưng “Đức Chúa” ba lần. “Đức Chúa” chỉ Đức Kitô trong vinh quang sau Phục sinh. Điều đó chỉ cho chúng ta thấy rằng cảnh tượng không chỉ nhằm kể lại một giai thoại lịch sử dù rất thú vị mà một lần nữa, chúng ta đứng trước một “mạc khải”. Đấng sắp nói chính là Đức Chúa Vinh hiển. Người sắp nói một điều quan trọng và phải được chúng ta tiếp nhận “trong đức tin”. Vả lại, toàn bộ câu chuyện trên đây rất dung dị, nhưng lại dẫn đến lời tuyên bố sau đây:

Mácta! Mácta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá!

Hẳn người ta có thể mong đợi Đức Giêsu kêu gọi Maria phải ngoan ngoãn như chị cô. Trong nhiều tình huống. Đức Giêsu đã yêu cầu chúng ta phải “phục vụ”, phải yêu thương. Rõ ràng, câu trả lời của Người đã được đặt vào một bình diện khác.

Đức Giêsu nhận thấy rằng Mácta lo lắng và “giao động” quá nhiều. Đây là một đề tài được Người ưa thích. Người đã nói rằng “những lo lắng về đời sống! có thể bóp nghẹt Lời Chúa đã được gieo vào lòng người (Lc 8, 14). Người sẽ yêu cầu các tông đồ không nên lo lắng về của ăn và của mặc (Lc 12,22-26). Người sẽ khuyến cáo các thừa sai chớ lo lắng phải biện hộ như thế nào khi họ bị kết tội trước các toà án (Lc 12,11). Người sẽ nói rằng chớ để “lòng mình ra nặng nề vì lo lắng sự đời” trong lúc chờ đợi Con Người lại đến” (Lc 21,34). Đức Giêsu nói: “Bạn ơi! Chớ quên điều chủ yếu!”

Đức Giêsu không lên án Mácta vì công việc của cô cũng như nhiệt tình tiếp đón tích cực… nhưng vì sự căng thẳng, sự giao động thái quá mà dường như cô đặt vào công việc.. Rõ ràng là một sự bực bội nào đó làm cho chúng ta co quắp lại với chính mình.

Chúng ta hãy tiếp nhận lời lời gọi của Chúa cho chúng ta biết phải chậm lại đôi chút. Lúc nào chúng ta cũng chạy, phi nước đại, cũng bận trăm công nghìn việc. Thời gian nghỉ hè lẽ ra phải trở thành thời gian để tìm lại sự, quân bình của chúng ta hơn để “sống” thay vì để chạy! Đức Giêsu nói: Bạn ơi! Ta nói lại với bạn điều này, bạn chớ quên điều chính yếu.

Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi

Vậy “chuyện cần thiết duy nhất” ấy là gì?

Đó là làm điều Maria đã làm “Ngồi bên chân Chúamà nghe lời Người dạy”. Khi khẳng định đó là điều cần thiết duy nhất của con người. Bằng một phương thế triệt để và mạnh mẽ, Đức Giêsu đã thực hiện một mạc khải. Vâng, Lời Chúa phải được ưu tiên hơn mọi lo lắng trần gian khác Đức Giêsu cũng đã đưa ra càng một yêu sách trong những dịp khác. “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh” (Lc 4,4). “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy” (Ga 4,34) Đức Giêsu nói: Bạn ơi! Bạn chớ quên điều chính yếu.

Vậy quả thật Đức Giêsu không đánh giá thấp sự “phục vụ” mà Mácta đem lại khi bận rộn với việc “nội trợ và bếp núc”. Nhưng để “đi theo Đức Giêsu” thì ngay cả những gì có giá trị nhân bản nhất cũng phải buông bỏ (Lc 5,11-18,22-9,61). Hãy lắng nghe Lời Chúa! Đó là bổn phận đầu tiên của con người, của Kitô hữu. Đức Giêsu nói đó là sự cần thiết duy nhất, tuyệt đối, triệt để. Và đây không phải là lần đầu tiên cũng không phải là lần cuối cùng mà Đức Giêsu khẳng định điều đó. Không lắng nghe Lời chính là xây dựng nhà mình trên cát (Lc 6,47-49). Lắng nghe Lời chính là trở thành mảnh đất trổ sinh hoa trái (Lc 8,4-15). Hạnh phúc chân thật và duy nhất của Đức Maria, Mẹ Đức Giêsu không phải vì Mẹ là Mẹ Người, mà vì Mẹ đã “’lắng nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 1 1,27-28).

Vả lại khác với các Thánh sử khác, rõ ràng Luca đã đồng hóa lời của Đức Giêsu với “Lời của Thiên Chúa” (Lc 5,1-8-11-21-11,28).

Lòng chúng ta yêu thích lắng nghe Lời như thế nào? Có phải đó là “phần tốt nhất” hàng ngày của chúng ta? Chúng ta có những ưu tiên sao? Điều nào là điều chính yếu?

 

  1. Matta và Maria – R. Gutzwiller

Ta chỉ có thể hiểu dễ dàng những lời Chúa nói với Matta khi đặt chúng vào trong mối tương quan mật thiết với chủ đề ‘lên đường’. ‘Lên đường’ không có nghĩa là dửng dưng với những cái thuộc về vật chất hay những lo toan trần thế.

Đây không có vấn đề đối nghịch giữa đời chiêm niệm và đời hoạt động, mà chính là giá trị và sự hài hoà đúng đắn giữa hai đời sống đó. Chúng ta không nên đắm mình vào chủ nghĩa duy hoạt mà hãy biết sử dụng những giây phút trầm tư thinh lặng, hoàn toàn kết hợp với Thiên Chúa -dĩ nhiên là không tìm kiếm, ước ao an nhàn thanh thản nhưng chính là kín múc ở đó một năng lực mới để phục vụ con người. Vì sống là ‘lữ hành’ là ‘đi’ nên con người phải dành cho đời mình những lúc ‘dừng chân đứng lại’, ‘nghỉ ngơi lại sức’ định lại hướng đi, dò lại bước đường đã qua để có thể vững bước tiếp tục cuộc hành trình và ra đi phấn khởi hơn.

Hoạt động phải được xen kẽ bằng chiêm niệm và chiêm niệm phải chứa chan cuộc sống và triển nở trong việc làm. Trong Tổng yếu giáo lý, Th. Tôma nhấn mạnh rằng việc giảng dạy và soi sáng những người khác thì quan trọng hơn là chỉ có sự hiểu biết thông suốt nội tâm thôi.

Dĩ nhiên chúng phải bắt nguồn nơi việc chiêm niệm nhưng thay vì khư khư giữ lấy cho mình, chúng ta phải thông truyền sự hiểu biết và thông suốt nội tâm ấy cho tha nhân. Chỉ có tác động hợp nhất với Thiên Chúa và sự hợp nhất với Ngài triển nở ra việc làm, mới cấu thành một mối toàn vẹn, sự trọn hảo tối cao….

Những lời Chúa nói với Matta, là một cảnh tỉnh chống lại thứ hoạt động ồn ào, giả tạo, quá khích tức là thứ hoạt động không hề hay biết đến dành cho những khoảnh khắc để cầu nguyện, hay ít là những lời nguyện tắt, không để ý gì đến tiếng Chúa mời gọi trong cái thinh lặng và dần dà để mình bị tha hoá, thác loạn.

Còn việc Chúa khen cô Maria không có nghĩa là Ngài bảo chúng ta phải chuyên tâm chiêm niệm mà thôi, để thấy rõ điều này, chúng ta hãy xem gương của Đức Giêsu; Như vậy, việc Ngài khen cô Maria chẳng qua là Ngài nói đến tinh thần sẵn sàng và tỉnh thức để sống trọn vẹn và tích cực cho Chúa, vào lúc mà Ngài muốn nói với tâm hồn ta một cách đặc biệt.

Lên đường có nghĩa là đi về với Chúa, tức là luôn hướng nhìn về Ngài và hằng lắng nghe Lời Ngài. Như thế không phải là dừng laị và nghỉ ngơi trong việc chiêm niệm, mà chính là để tiếp tục cuộc hành trình kết hợp với Chúa đích thực. ‘Chiêm niệm trong hành động’ hiệp nhất với Thiên Chúa trong công việc, phục vụ con người là dấu đích xác cho thấy việc phục vụ Thiên Chúa. Việc phục vụ ấy chỉ có thể có đối với những ai biết dành những khoảnh khắc cầu nguyện đặc biệt, thuộc trọn về Chúa để có thể hiến thân trọn vẹn phục vụ con người hơn. Đó là thái độ Đức Giêsu đã sống. Theo Chúa Kitô giả thiết một thái độ tương tự như thế.

 

  1. Chú giải của Fiches Dominicales

TRÊN ĐƯỜNG LÊN GIÊRUSALEM, ĐỨC GIÊSU DỪNG CHÂN TẠI NHÀ CỦA MÁCTA VÀ MARIA.

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:

  1. Dừng chân trên đường lên Giêrusalem

“Trên đường” lên Giêrusalem “cùng với các môn đệ”, Đức Giêsu vào một làng kia. Người được “một phụ nữ tên là Mácta” mời vào nhà, Người thực thi điều đã dạy các môn đệ: “Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em” (Tin Mừng Chúa nhật XIV).

Trình thuật về câu chuyện này tiếp liền với Dụ ngôn người Samaria nhân hậu, mà ta vừa đọc trong Chúa nhật trước, tạo nên một kết cấu hai mặt, một bộ tranh gồm hai bức. Như vậy nếu có ai nêu bản văn Tin Mừng này như lý lẽ làm chứng rằng đời chiêm niệm cao trọng hơn đời hoạt động, thì mạch văn mà Luca sử đụng sẽ thuyết phục họ từ bỏ ý định đó. Nếu sự việc hôm nay soi tỏ giới răn yêu mến Thiên Chúa, thì tấm gương của người Samaria nhân hậu cũng soi tỏ tuyệt vời giới răn thương người thân cận. Nó tỏ cho thấy, người môn đệ lắng nghe Lời Chúa sẽ đi đến những kết luận thực hành nào.

  1. Hai hình thức đón tiếp của Đức Giêsu bổ túc lẫn nhau.

Chân dung hai chị em Mácta và Maria mà Luca phác họa nêu bật hai thái độ, hai cách đón tiếp Đức Giêsu trái ngược nhau.

– Mácta có mặt khắp nơi trong trình thuật vắn vỏi này. Trước hết, cô có mặt bằng sáng kiến của mình, Mácta mời Chúa vào nhà mình. Rồi cô có mặt bằng sự tất bật lo việc phục vụ. Và sau cùng, cô có mặt bằng vẻ bối rối xin Chúa can thiệp.

– Còn về Maria, cô luôn im lặng. “Cô ngồi bên chân Chúa” trong tư thế một đồ đệ thực thụ (Lc 7,38 và 8,35) “cô lắng nghe lời Chúa dạy”.

Cấu trúc văn chương cũng rất gợi ý. Trong khi Maria hướng cái nhìn về Chúa (ngồi dưới chân, nghe lời Chúa) thì Mácta là người mời Chúa nên thực sự cô phải bận tâm đến việc phục vụ. Mácta tất bật lo lắng nhiều chuyện quá, đến độ muốn “lấy đi” phần tốt nhất mà cô em đã chọn.

  1. Thái độ lăng xăng không được lấn lướt thái độ lắng nghe.

Trước phản ứng tức tối của Mácta: “Em con để mình con phục vụ mà Thầy không để ý tới sao?”, câu trả lời của Đức Giêsu là đỉnh cao của trình thuật này. Ở đây, khi trách Mácta lo lắng và lăng xăng, Đức Giêsu nhắc lại đề tài đã nói nhiều trong Tin Mừng thứ ba: Khi Người mời gọi các nhà truyền giáo không nên lo lắng biện hộ cho mình trước tòa án của kẻ bách hại (11, 12); khi Người khuyên nhủ các môn đệ đừng quá lo về của ăn, áo mặc (12,22-26); khi Người cảnh giác những kẻ theo Người đừng để những “lo lắng về cuộc sống” bóp nghẹt hạt giống Lời Chúa (8,14).

Tuy Đức Giêsu chấp nhận lòng hiếu khách của Mácta với lòng biết ơn, và đánh giá đúng mức những cố gắng cô thực hiện để tiếp khách cho tốt đẹp, nhưng dù sao Người cũng muốn cô khám phá một điều còn quan trọng hơn, một điều khẩn thiết bậc nhất và duy nhất, mà cô liều mình quên mất: đó là lắng nghe Lời Chúa. Và, vì đã bỏ tất cả để chỉ giữ “một chuyện cần thiết”, mà Maria, em cô, đã tỏ mình là một môn đệ gương mẫu hoàn hảo nhất.

  1. Meynet chú giải thêm: Mácta tiếp đón Đức Giêsu vào nhà. Chúa vừa bước vào, thì cô đã bỏ người đó, để lo trăm nghìn chuyện. Vịn cớ phục vụ Người, cô tất bật, cô lo lắng mọi sự chỉ trừ Chúa ra. Việc phục vụ của cô lấn lướt cả vị khách của cô. Cô lăng xăng, lo lắng, sợ rằng mình không tiếp đãi đúng mức với vị khách quí. Về phần Maria, cô giữ một thái độ xứng hợp nhất, ngồi bên chân Đức Giêsu, trong tư thế của người môn đệ. Cô không làm gì, không nói gì, cô chỉ ngồi và nghe. Cô đã quên tất cả mọi sư, ngoài Chúa. Cô quên chính mình. Cô dành cả con mắt, lỗ tai để nhìn và nghe lời Người. Cô cũng đón tiếp Đức Giêsu hơn ai hết, với phong cách tốt nhất. Nhìn cô, người ta dám nói rằng: chính cô được Người tiếp đón mới đúng. (Sđd, tr.125).

Chúa nhật vừa qua, khi đọc Dụ ngôn người Samaria nhân hậu, ta học biết rằng con đường lên Giêrusalem, theo chân Đức Giêsu, phải đi qua tình yêu thương người thân cận, đó mới là giới luật vượt trội mọi giới luật. Hôm nay, ta học biết thêm rằng con đường này không thể tách rời con đường lắng nghe lời Thiên Chúa.

BÀI ĐỌC THÊM:

  1. Lắng nghe lời Chúa: thái độ tất yếu của người môn đệ.

Tiếp nối câu chuyện về người Samaria nhân hậu, câu chuyện về Macta và Maria trong Tin Mừng được trình bày trong bối cảnh của giới luật yêu mến Thiên Chúa, và câu chuyện cho ta thấy người môn đệ đón nhận Lời Chúa sẽ rút ra những kết luận thực tiễn nào.

Đặt thái độ của Mácta và Maria đối chọi nhau và nghĩ rằng chỉ có một phía đúng, là quá vội vàng. Maria lắng nghe lời Chúa, còn Mácta tất bật lo phục vụ Chúa. Mỗi cô mỗi cách, họ đều muốn giữ chân Chúa nghỉ lại, trên đường lên Giêrusalem. Cô này bằng cách phục vụ, thì làm tất cả những gì có thể làm cho Người; cô kia bằng cách lắng nghe lời Chúa, thì cố gắng ghi nhớ lời Người, lời của Thiên Chúa.

Trong cuộc sống của người môn đệ. có lúc “tất bật”, và có lúc “lắng nghe”. Tuy nhiên, không thể có hoạt động tốt nếu không lắng nghe tốt. Maria đã thành công khi tạo cho mình thái độ không thể thiếu của một môn đệ: là ngồi dưới chân Đức Giêsu, cô quên mọi sự khác, để toàn tâm chú ý vào Chúa và lời Người… nhưng sau đó, có lẽ cô sẽ là một tông đồ hoạt động vì Thầy mình.

Hết mọi tín hữu đều phải chọn lắng nghe. Trước hết, chính vì có biết lắng nghe lời Chúa một cách sâu sắc các môn đệ mới có thể đổi mới thế giới.

  1. Maria và người Samaria nhân hậu: hai thái độ cùng minh họa huấn lệnh kép về yêu mến Thiên Chúa và yêu người thân cận

Chính trong dụ ngôn người Samaria nhân hậu, ta thấy thái độ bổ xung cho thái độ của Maria. Một người gặp một nạn nhân bị thương nằm ở vệ đường. Ông săn sóc, đưa về quán trọ và xuất tiền túi để trả mọi chi phí. Người này thực thi giới luật thứ hai là “Ngươi hãy yêu người thân cận như chính mình “. Đây là dung mạo đẹp đẽ của người Kitô hữu mà Luca đặt đối diện với một dung mạo đẹp đẽ khác là Maria.

Thay vì đặt thái độ của người hao tốn sức lực để phục vụ anh em đối nghịch với thái độ của người ngồi dưới chân Đức Giêsu để nghe lời Người, hai trình thuật này bảo ra rằng Đức Giêsu phê chuẩn cả hai thái độ. Đúng là cả hai cùng minh họa Lề Luật. “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi… Ngươi phải yêu người thân cận”. Ta phải phân biệt hai giới luật này như hai lối sống được đề ra. Tuy nhiên, nếu phân biệt là điều cần thì không phải để tách biệt hoặc đối nghịch nhau. Hai giới luật này chỉ là một. Trong cuộc sống cụ thể của người tín hữu, nếu người ấy không nỗ lực nối kết hai giới răn ấy với nhau, thì đời sống của người ấy sẽ ra sao? Cầu nguyện ư, đúng, nhưng là để giúp đỡ và phục vụ. Đào sâu ý nghĩa của việc phục vụ trong lúc cầu nguyện. Giáo Hội sẽ ra sao, nếu Giáo Hội chỉ có chiêm niệm? Giáo Hội sẽ ra sao, nếu Giáo Hội chỉ gồm những tín hữu tự cho là “hoạt động?“ Dĩ nhiên, là tùy theo tính khí và lịch sử của từng người, người này thì cảm thấy thích hợp hơn với đời sống nghiêng về chiêm niệm, người kia thích hợp hơn với đời sống hướng về hoạt động.

Tuy nhiên, dựa trên lời Đức Giêsu khen người Samaria nhân hậu, thì tất cả những ai tận hiến hoặc nghiêng về cầu nguyện, cần phải nhớ rằng phục vụ con người có tầm quan trọng rất lớn. Phần họ, họ cũng phải sống ơn gọi cầu nguyện của mình như là một việc phục vụ con người. Và người ta thấy có những đan viện mở cửa cơ sở, nhà thờ, cộng đoàn của mình để tiếp đón những người hoạt động ngoài xã hội đến bồi dưỡng trong cầu nguyện, tĩnh tâm và trong thinh lặng của chiêm niệm.

Nhưng dựa trên lời Đức Giêsu khen ngợi Maria, những ai sống ơn gọi được coi là hoạt động, phải coi đó như lời mời gọi họ tiên liệu một thời gian xả hơi trong thời biểu của mình, xóa đi trong nhật ký công việc một số trang, để có được một lúc đến ngồi dưới chân Đức Giêsu.

Đối với nhóm người này cũng như với nhóm người kia, việc tiên liệu những giờ phút bổ túc cho nhau như thế, sẽ cho phép họ nhận thức được rằng cuộc sống của họ không đơn thuần phó thác mặc cho sự tự phát của tính tình, nhưng cuộc sống phải được thực hiện như một lời đáp lại tiếng Chúa gọi.

 

  1. Người khách muốn gì? – Lm FX. Vũ Phan Long

“Phần duy nhất cần thiết” của đời môn đệ Đức Giêsu là: lắng nghe giáo huấn của Người, và là để cho Người tiếp tục hướng dẫn.

1.- NGỮ CẢNH

Chúng ta vẫn đang ở trong chuyến đi lên Giêrusalem. Vì có lý để nghĩ rằng hai chị em Mácta và Maria chính là những nhân vật của Ga 11,1tt, tức ở Bêtania, gần Giêrusalem, chúng ta phải tự hỏi tại sao tác giả Luca lại đặt truyện này ở đây, vì đến lúc này truyện vẫn gần với Galilê hơn Giêrusalem. Hơn nữa, ngài lại bỏ tên Bêtania đi, mà chẳng lẽ ngài lại không biết? Như thế, hẳn ngài có ý gì đó khi đặt truyện này ở đây chứ không phải ở chỗ khác (chẳng hạn ở ch. 19 hoặc 20). Chúng ta xem truyện này liên hệ với các bản văn trước thế nào. Maria được mô tả như người “lắng nghe lời” Đức Giêsu. Đức Giêsu công bố rằng chính việc “lắng nghe lời” này sẽ không bị lấy mất. Trước đó, Đức Giêsu mới nói đến quan hệ sâu sắc, duy nhất, Người có với Chúa Cha (10,22). Quan hệ này được nói đến vì nó liên hệ đến các môn đệ Đức Giêsu: họ được chúc phúc bởi vì họ được Người mạc khải Chúa Cha cho; họ được nghe và thấy những điều Người biết về Chúa Cha. Như thế, các môn đệ có một đặc quyền lớn lao là được thấy và nghe những điều mà thậm chí các ngôn sứ và các vua chúa ước ao hết sức mà không được. Ở đây, tác giả Lc nhắc lại đặc quyền đó. Ngài mô tả Maria trong tư thế tốt đẹp nhất: lắng nghe lời dạy của Đức Giêsu. Khi lắng nghe Người, Maria nghe Người mạc khải về Chúa Cha. Chính vì thế, tác giả đã nhắc lại động từ “lắng nghe” (cc. 24.39) như để nối kết các ý tưởng của hai đoạn văn.

Sau đó, Lc trình bày cuộc đối thoại về “điều răn lớn” (10,25-37), với câu kết: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy” (c. 37). Mục đích của ngài khi bố trí truyện Mácta-Maria ở đây là để nêu bật tầm quan trọng tối hậu của giáo huấn của Đức Giêsu trong Lc 10,25-37: giáo huấn này là một mạc khải mà “các vua chúa và ngôn sứ” không được đón nhận.

Truyện Mácta-Maria cũng có thể được đặt ở đây để điều chỉnh một sự hiểu lầm có thể có đối với dụ ngôn Người Samari nhân hậu. Ông này đã “chạnh lòng thương” (esplanchnisthê): vậy, hành vi luân lý của chúng ta rất có thể được hướng dẫn bởi các tình cảm của con người! Lc muốn sửa lại: chính giáo huấn của Đức Giêsu mới điều hành hành vi luân lý.

2.- BỐ CỤC

Bản văn có thể chia thành hai phần:

1) Khung cảnh và các nhân vật (10,38-40a);

2) Đối thoại giữa Mácta và Đức Giêsu (10,40b-42).

3.- VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

– một làng kia (38): Trong TM III, làng này không có tên (x. 9,56). Cứ theo bản văn, “làng” này còn gần Galilê hơn là Giêrusalem. Theo Ga 11,1; 12,1-3, ta biết rằng Mácta và Maria, hai chi của Ladarô, ở tại Bêtania, một làng gần Giêrusalem.

– Maria (39): Cô này cũng được xác định là em gái của Mácta trong Ga 11,1. Không được đồng hóa cô này với Maria Mácđala ở 8,2.

– ngồi bên chân Chúa (39): Đây là tư thế của người môn đệ đang lắng nghe (x. 8,35).

– Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi (42): dịch sát: “Chỉ cần một điều mà thôi”. Lời Đức Giêsu đáp lại yêu cầu của Mácta dường như lúc đầu nhằm trấn an cô, bằng cách bảo cô rằng cô chỉ cần dọn một món thôi. Nhưng khi nghe trọn câu nói của Đức Giêsu, ta mới hiểu ra rằng “một điều” không chỉ là “một món” mà còn có ý nghĩa khác. “Một điều” đây chính là “phần tốt nhất” (= lắng nghe lời Chúa). Và Đấng là thành phần của “phần tốt nhất” ấy bảo đảm là Maria sẽ không bị lấy mất.

4.- Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN

* Khung cảnh và các nhân vật (38-40a)

Chúng ta vẫn đang ở trong chuyến đi lên Giêrusalem. Đức Giêsu đã dừng lại tại một làng kia (hẳn là Bêtania?), để thăm gia đình những người bạn thân. Cô chủ Mácta đón Người vào và tất bật phục vụ. Còn cô em Maria thì cứ bình thản ngồi bên chân Đức Giêsu mà nghe Người giảng dạy. Theo truyền thống của các kinh sư, chỉ phái nam mới được ban cho những lời giảng dạy và những huấn thị; các phụ nữ bị loại ra bên ngoài. Nhưng Đức Giêsu nhìn nhận các phụ nữ có cùng một phẩm giá như phái nam, nên Người ngỏ lời cả với phụ nữ. Ở đây tác giả đã không ngần ngại mô tả một người nữ như là môn đệ ngồi bên chân Đức Giêsu. Thái độ của Đức Giêsu khiến chúng ta nhớ đến Cn 31,26.

* Đối thoại giữa Mácta và Đức Giêsu (40b-42)

Bấy giờ Mácta mới lên tiếng nhận định về Maria và về bản thân mình. Lời trách của cô có lý, vì hoàn cảnh quá rõ: một người khách quí vừa đến nhà. Phải làm mọi sự để đón tiếp người ấy cho chu đáo; thật ra còn cả đoàn môn đệ của Đức Giêsu nữa! Nhà chỉ có hai chị em; thế mà Maria cứ để cho chị phải xoay sở một mình. Mácta có lý khi yêu cầu em giúp mình.

Mácta có lý, nếu vấn đề là phải tiếp đãi người khách cho tươm tất. Nhưng nhận định của Đức Giêsu khiến chúng ta phải tự hỏi: vấn đề phải chăng là như thế? Người khách phải chăng chỉ muốn được tiếp đãi ân cần chu đáo? Đối với Người, điều gì quan trọng nhất? Những câu hỏi này, Mácta không hề đặt ra cho mình. Ngay từ đầu, hầu như là do thói quen, cô tưởng là mình biết tình thế cần cái gì. Không hề tự hỏi là người khách thật sự muốn gì, cô áp đặt cho người khách ấy điều cô nghĩ là hợp lý hơn, cần thiết hơn, vào lúc này. Chắc chắn Mácta có hảo ý. Nhưng cô không mấy quan tâm đến các sở thích và ý hướng của người khách. Đức Giêsu giúp cô hiểu rằng trước tiên Người không muốn được đón tiếp, nhưng muốn một điều quan trọng hơn nhiều.

Maria lắng nghe Ngài. Đây là điều duy nhất cần thiết và là điều luôn luôn đúng: lắng nghe Chúa. Đức Giêsu đến nhà Mácta và Maria trước hết không phải để được đón tiếp, nhưng là để được lắng nghe. Với tất cả thiện chí, Mácta đã sao nhãng ý muốn này của Đức Giêsu. Chỉ có Maria là đã gắn bó với điều Đức Giêsu muốn. Trước hết, Người muốn cống hiến, chứ không muốn đón nhận. Trước hết, Người không muốn có một sinh hoạt chuyên chăm cần cù, qua đó người ta chứng tỏ người ta luôn biết điều gì là đúng và điều gì phải làm; nhưng Người muốn người ta suy nghĩ và ở yên để lắng nghe, suy tư và để cho Đấng khác nói với mình điều thật sự quan trọng và điều thật sự mình phải làm.

+ Kết luận

Khi viết 10,38-42, tác giả Lc không hề muốn phân biệt giữa đời sống tu trì chiêm niệm và đời sống tu trì hoạt động, cũng không hề coi thường việc phục vụ người khác. Ngài chỉ muốn nhấn mạnh đến “phần duy nhất cần thiết” là: làm môn đệ Đức Giêsu, là lắng nghe giáo huấn của Người, để Người tiếp tục hướng dẫn.

Nhìn lại ngữ cảnh rộng, chúng ta có thể cho rằng Lc đặt bản văn 10,38-42 ở đây nhắm nêu bật giáo huấn của Đức Giêsu ở 10,25-37 (Điều răn lớn) như là đáng để mọi người lưu ý, như là thuộc về “điều duy nhất cần thiết”, và như mạc khải về Chúa Cha, Đấng mà không ai biết như Đức Giêsu, đồng thời để dạy rằng động lực của mọi hành vi luân lý Kitô hữu phải tuyệt đối là giáo huấn của Đức Giêsu.

5.- GỢI Ý SUY NIỆM

  1. Đối với Mácta, tiếp khách là chuyện quan trọng nhất. Thường thường chúng ta gặp nguy cơ bị thu hút bởi mối bận tâm đối với các nhu cầu vật chất, đối với đồ ăn thức uống, chuyện ăn mặc, nhà cửa trú ngụ, những tiện nghi, và chúng ta dùng hết năng lực và thì giờ cho những chuyện ấy. Dĩ nhiên, cần phải quan tâm đến những điều ấy. Nhưng cũng phải thấy rằng chỉ lo chừng ấy chuyện thì chưa đủ. Phải có một bậc thang các giá trị để đi theo.
  2. Các Kitô hữu cần thường xuyên xét lại hệ thống các xác tín và các thói quen của mình để sẵn sàng điều chỉnh. Người tín hữu cần được thanh thoát, không bị ràng buộc bởi những thói quen cá nhân, khuynh hướng hưởng thụ, mức sống. Không phải chỉ đơn giản chấp nhận những gì môi trường chung quanh coi là thông thường, cần thiết và đúng đắn, là đã đủ. Người Kitô hữu còn cần phải suy nghĩ về những gì là thật sự cần thiết và đúng đắn. Đức Giêsu đặt việc lắng nghe lời Người vào chỗ nhất. Như thế, Kitô hữu chúng ta cần có một thời gian yên tĩnh và suy tư để cầu nguyện. Chúng ta cần phải thường xuyên lắng nghe Đức Giêsu và để Người chỉ đường. Khi đó, chúng ta không được tránh né cố gắng và thậm chí đau khổ để có thể tái định hướng và thay đổi.
  3. Trong đời sống chung (cộng đoàn tu trì, gia đình, giáo xứ…), cần biết thường xuyên đặt câu hỏi: “Những người khác đang muốn gì? Họ đang cần gì, ngoài những của cải vật chất?”. Khi đó, hẳn là ta sẽ thấy rằng những người ấy đang đặc biệt cần được chúng ta quan tâm và cần có thì giờ của chúng ta. Các em bé không chỉ cần được ăn cái gì mà thôi. Các cha mẹ phải có giờ cho chúng, để chơi với chúng, để trả lời những câu hỏi của chúng, để giúp chúng kể những kinh nghiệm của chúng. Những người già cũng muốn xin chúng ta có thì giờ cho họ, muốn chúng ta lắng nghe họ, chúng ta hiệp thông vào các suy tư, các mối bận tâm, và cả những kỷ niệm của họ. Những người thợ trong một hãng xưởng không chỉ cần một đồng lương hậu hĩ; họ cũng cần được quan tâm và nhìn nhận, cần một lời khen và một lời nói nhân ái. Giúp đỡ về vật chất mà thôi thì chưa thỏa mãn được nhu cầu số một là có giờ cho nhau, lắng nghe nhau trong kiên nhẫn và yêu thương và sống cho nhau.

 

  1. Chỉ một chuyện cần mà thôi
  2. HỌC LỜI CHÚA
  3. Ý CHÍNH: Câu chuyện trong Tin mừng hôm nay có 3 nhân vật chính: Đức Giê-su và hai chị em Mác-ta Ma-ri-a. Hai chị em này phục vụ Chúa mỗi người một cách: Mác-ta thì bận rộn lo việc cơm nước, đang khi Ma-ri-a lại ngồi bên chân Chúa và nghe Lời Người. Mác-ta khó chịu với em và xin Chúa can thiệp bảo Ma-ri-a giúp đỡ mình. Nhưng Người lại cho biết việc nghe Lời Chúa mà Ma-ri-a đang làm mới là điều quan trọng và cần thiết hơn cả.
  4. CHÚ THÍCH:

– C 38-39: + Trong khi Thầy trò đi đường vào làng kia: Đức Giê-su vào làng Bê-ta-ni-a, cách Thủ đô Giê-ru-sa-lem 3 cây số. + Có một người phụ nữ tên là Mác-ta: Đây là chị cả trong một gia đình có ba chị em. Mác-ta chưa lập gia đình, vì nếu đã có chồng thì người chồng đã đứng ra tiếp đón Đức Giê-su. Là chị cả nên Mác-ta phải đảm đương mọi việc. Bà lo dọn bữa ăn phục vụ Đức Giê-su và các môn đệ. + Đón Người vào nhà: Người Do thái vốn hiếu khách. Đức Giê-su không những là khách mà còn là bạn thân của gia đình (x. Ga 11,5). Thái độ tiếp đón này trái với thái độ dân làng Sa-ma-ri trước đó đã từ chối không đón tiếp Người (x. Lc 9,53). Trong thời điểm những ngày cuối đời, việc đón tiếp Đức Giê-su của Mác-ta còn là hành động can đảm. Vì Người khi ấy đang bị các đầu mục Do thái nghi kỵ theo dõi, và ai đón tiếp Người có thể bị coi là đồng đảng và có thể bị khai trừ khỏi hội đường nữa (x. Ga 9,22; 12,10.42). + Người em gái tên là Ma-ri-a: Đây là Ma-ri-a làng Bê-ta-ni-a, khác với Ma-ri-a làng Mác-đa-la (x. Lc 8,2), cũng không phải là Ma-ri-a thân mẫu Gia-cô-bê và Giô-sép (x. Mt 27,56), không phải Ma-ri-a mẹ của Gio-an (x. Cv 12,12). Cô Ma-ri-a là em của Mác-ta, là chị của La-da-rô. Chính cô đã hy sinh bình dầu đắt tiền để xức chân Đức Giê-su (x Ga 12,3). Cần phân biệt cô Ma-ri-a này với người phụ nữ tội lỗi cũng xức dầu thơm trên chân Đức Giê-su (x Lc 7,38). Cả 3 chị em nhà này đều được Đức Giê-su yêu mến (x. Ga 11,5). + Ngồi bên chân Chúa mà nghe Lời Người dạy: Trong Lu-ca, ngồi dưới chân là thái độ của người môn đệ (x. Lc 8,35; Cv 22,3)

– C 40-42: + Em con để mình con phục vụ…: Mác-ta luôn tỏ ra quí mến Đức Giê-su và quan tâm phục vụ Người (x. Ga 12,2). Cô không hài lòng khi thấy cô em Ma-ri-a nhàn nhã ngồi bên và lắng nghe lời Thầy đang khi cô phải vất vả lo dọn bữa ăn cho Người. Do đó cô đã yêu cầu Đức Giê-su cho Ma-ri-a xuống bếp giúp cô một tay. + Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi: Chuyện cần thiết duy nhất này là gì? Đó là điều cô em Ma-ri-a đang làm: “Ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy”. Đức Giê-su không đánh giá thấp việc nội trợ bếp núc của Mác-ta. Nhưng việc tìm biết thánh ý Thiên Chúa lại là điều duy nhất cần thiết. Hơn nữa, Lời Chúa là của ăn tinh thần nên có giá trị cao hơn của ăn vật chất như Người đã nói: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh” (Lc 4,4) và “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy” (Ga 4,34).

  1. CÂU HỎI: 1) Tin mừng đã kể ra mấy phụ nữ tên Ma-ri-a và các bà này liên quan thế nào với Đức Giê-su? 2) Có mấy người phụ nữ đã xức dầu thơm cho chân Đức Giê-su? 3) Đức Giê-su đã cho biết quan điểm thế nào giữa hai việc làm phục vụ Người: Một là việc phục vụ bàn ăn của Mác-ta và hai là việc ngồi bên chân Chúa mà nghe Lời Người của Ma-ri-a?
  2. SỐNG LỜI CHÚA
  3. LỜI CHÚA: “Cô Ma-ri-a cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe Lời Người dạy. Còn cô Mác-ta thì tất bật lo việc phục vụ” (Lc 10,39-40).
  4. CÂU CHUYỆN: Giá trị của cầu nguyện.

PHÊ-ĐÊ-RIC Ô-DA-NAM (Federic Ozanam), một nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Giáo hội Pháp vào cuối thế kỷ 19, khi đang là sinh viên đại học đã trải qua một cơn khủng hoảng về đức tin. Một hôm, để tìm một chút thanh thản cho tâm hồn, anh vào một ngôi thánh đường ở Pa-ri. Từ cuối nhà thờ, anh nhìn thấy một bóng đen đang quì cầu nguyện ở hàng ghế đầu gần gian cung thánh. Đến gần, chàng sinh viên mới nhận ra đó không ai khác hơn là nhà bác học Ăm-pe (Ampère), giáo sư của anh, một nhân vật nổi tiếng lúc bấy giờ. Anh đứng lặng lẽ một hồi để quan sát nhà bác học khi ấy đang cầu nguyện rất sốt sắng. Sau đó, anh theo gót thầy trở về phòng làm việc của ông. Thấy chàng sinh viên đứng thập thò ngòai cửa, nhà bác học liền mở lời hỏi: “Này anh bạn trẻ, anh cần gì đó? Tôi có thể giúp gì được cho anh đây?” Chàng thanh niên nhỏ nhẹ thưa: “Thưa giáo sư, con là một sinh viên khoa văn chương. Con dốt khoa học lắm. Hôm nay con xin hỏi thầy một vấn đề về đức tin!” Nhà bác học mỉm cười khiêm tốn đáp: “Anh lầm rồi. Đức tin là môn yếu nhất của tôi đấy. Nhưng nếu giúp được anh điều gì thì tôi cũng sẵn sàng”. Chàng sinh viên liền hỏi: “Thưa giáo sư, người ta có thể vừa là một nhà bác học vĩ đại, vừa là một tín hữu đạo đức chuyên cần cầu nguyện hay không?” Nhà bác học ngỡ ngàng trước câu hỏi của anh học trò. Sau một lát im lặng, ông trả lời bằng một giọng run run đầy cảm xúc: “Con ơi! Chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện mà thôi!”.

  1. SUY NIỆM:

1) Về hai chị em Mác-ta và Ma-ri-a: Câu chuyện được Lu-ca đặt trong cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem của Đức Giê-su (c 38). Làng Bê-ta-ni-a là một trong những nơi Đức Giê-su đi ngang qua trong cuộc hành trình rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa (x Lc 13,22). Chính trong ngôi nhà của ba chị em Mác-ta, Ma-ri-a và La-da-rô này mà Đức Giê-su sẽ cho biết thái độ nào cần thiết để đón nhận được Tin Mừng Nước Thiên Chúa ấy.

– “Thầy chẳng quan tâm”: Mác-ta đã tỏ thái độ bất mãn trước sự thờ ơ của Đức Giê-su và của cô em Ma-ri-a khi để mặc cô phải làm bữa một mình. Cô nhờ Đức Giê-su nhắc Ma-ri-a giúp cô. Trong câu trả lời, Đức Giê-su cho biết đâu là thái độ Người muốn (c 41). Đức Giê-su không bác bỏ việc vất vả làm bữa phục vụ của Mác-ta, nhưng Người muốn cô nhận biết đâu mới là việc tốt nhất và cần thiết để có được Nước Thiên Chúa làm phần sản nghiệp của mình. Khi nhận xét về thái độ của Mác-ta, Đức Giê-su dùng từ “nhiều chuyện”, nghĩa là quá lo lắng về việc phục vụ bữa ăn cho Người.

– “Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi”: Đức Giê-su không chê trách thái độ phục vụ của cô chị Mác-ta, vì đó là dấu chỉ lòng mến cô đã dành cho Người. Tuy nhiên, qua thái độ của cô em Ma-ri-a, Đức Giê-su nhìn thấy một tâm tình cao đẹp hơn. Đó là lắng nghe lời Chúa, đặt Chúa làm trung tâm cuộc đời của mình. Ở đây, Đức Giê-su muốn dùng Ma-ri-a làm mẫu gương cho các tín hữu chúng ta. Tuy đang sống giữa trần gian, phải tất bật lo tìm kiếm cái ăn cái mặc giống như cô Mác-ta, nhưng chúng ta cũng phải biết dành ra thời giờ để cầu nguyện, bằng việc lắng nghe lời Chúa và tâm sự với Người noi gương cô Ma-ri-a.

2) Về sự cầu nguyện trong cuộc đời người tín hữu:

– Gương sáng về sự cầu nguyện: Nhân vật thứ nhất là AM-PE, tên đầy đủ là André-Marie Ampère (1775–1836), một nhà vật lý lừng danh người Pháp, đã để lại nhiều thành quả nghiên cứu khoa học về điện học, nam châm điện… ang lại nhiều ích lợi cho nền văn minh nhân loại. Thế nhưng, Am-pe không coi những thành quả đó là lớn lao khi nói rằng: “Chúng ta chỉ vĩ đại khi cầu nguyện mà thôi”. Nhân vật thừ hai là Mẹ Tê-rê-sa thành Can-quýt-ta, một vị nữ tu thánh thiện sồng giữa đời thường. Mỗi ngày trước khi bước xuống “địa ngục Can-quýt-ta” để chăm sóc những người cùng khổ, hoặc đến “nhà hấp hối” để an ủi những kẻ đau liệt, Mẹ Tê-rê-sa đều cùng các chị em nữ tu trong nhà quì chầu Thánh Thể tại nhà nguyện một giờ đồng hồ.

– Ích lợi của sự cầu nguyện: Ngày nay, trong một thế giới thực dụng, coi trọng hiệu quả vật chất bề ngoài, Hội thánh đang có nhiều Mác-ta và có rất ít Ma-ri-a. Nhiều người đã coi việc lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện là xa xỉ phẩm, là mất thời giờ vô ích, là thái độ ù lì thụ động. Nhưng thực ra có hành động nào hiệu quả bằng nghe và thực hành Lời Chúa? Hoạt động tông đồ là mang tình yêu Chúa đến với tha nhân. Vậy tại sao chúng ta lại không múc đầy tình yêu nơi Thánh Tâm Chúa là suối nguồn yêu thương vô tận. Cho dù hoạt động truyền giáo, từ thiện bác ái, hay sinh hoạt hàng ngày, chúng ta cũng đừng quên “chọn phần tốt nhất” này. Hãy nhớ Lời Chúa: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).

– Sự cần thiết phải cầu nguyện: Đôi tay của cô Mác-ta phục vụ bữa ăn cho Đức Giê-su là việc làm quan trọng và không thể thiếu để phục vụ Chúa về phần thể xác. Nhưng đôi chân quì bên Chúa và đôi tai lắng nghe Lời Người của cô Ma-ri-a lại quan trọng và cần thiết hơn vì nó mang lại sự sống đời đời như lời Đức Giê-su trong Tin Mừng hôm nay (x Lc 10,42).

– Tập cầu nguyện ngay khi đang làm việc: Một Hội thánh sẽ trở nên quân bình khi có cả Mác-ta và Ma-ri-a. Một tín hữu sẽ quân bình khi vừa chu tòan các việc bác ái tông đồ phục vụ Chúa và tha nhân, nhưng đồng thời còn phải luôn sống cầu nguyện hiệp thông với Người. Đừng đợi tới khi rảnh việc mới đến gặp Chúa, vì chính khi đang bận rộn làm việc lại là lúc chúng ta cần tới sự nâng đỡ của Chúa hơn cả.

TÓM LẠI: Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta thống nhất đời sống: Trong một ngày, chúng ta thường chỉ dành một ít giờ phút cho việc cầu nguyện dâng lễ, còn phần lớn thời gian còn lại, chúng ta dành cho các sinh hoạt khác. Dù vậy, chúng ta vẫn có thể biến mọi sinh hoạt đời thường như: ăn uống, ngủ nghỉ, học tập, làm việc… kia trở thành một lời cầu nguyện liên lỉ, bằng việc dâng ngày mỗi buổi sáng khi vừa thức giấc, bằng những lời nguyện tắt dâng lên Chúa trước mỗi công việc… Nhờ đó, chúng ta sẽ biến những việc làm ấy trở thành lễ vật hy sinh, kết hiệp với lễ vật cao trọng là Mình Máu Chúa Giê-su đang được dâng trên các bàn thờ mỗi ngày. Nhờ đó chúng ta mới có sự sống đời đời như lời Chúa dạy.

  1. THẢO LUẬN: 1) Qua Lời Chúa dạy hôm nay, bạn thấy cầu nguyện có cần thiết không? Mỗi ngày bạn thường cầu nguyện vào những lúc nào? Bạn thường cầu nguyện bằng cách nào? 2) Noi gương cô Ma-ri-a, có bao giờ bạn cầu nguyện bằng cách đọc một đoạn Tin mừng, sau đó suy nghĩ và cầu nguyện dựa theo ý tưởng mà Lời Chúa gợi ra hay không? 3) Bạn có thể dùng cách nào để biến các việc làm hằng ngày trở thành lời cầu nguyện liên lỉ dâng len Thiên Chúa không?
  2. NGUYỆN CẦU

– Lạy Chúa Giêsu, Khi con bị bao vây bởi những tiếng ồn ào, xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng bên Chúa. Khi con vất vả với trăm công nghìn việc, xin cho con biết quý trọng những lúc được an nghỉ bên Chúa. Khi con bị kéo ghì bởi những đam mê dục vọng, xin cho con được ơn giải thoát và bay lên cao nhờ biết kêu cầu Danh Chúa.

– Lạy Chúa, Ước gì tinh thần cầu nguyện thấm nhuần vào cả cuộc sống của con, để chúng con có thể cầu nguyện không ngừng trong cuộc sống hằng ngày như lời thánh Phao-lô đã dạy: “Vậy, dù ăn, dù uống, hay bất cứ làm việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1 Cr 10,31).

  1. X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

 

  1. Rước Chúa vào nhà – Lm. Carolô Hồ Bạc Xái

“Maria ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Ngài dạy”

  1. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến,

Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện hai chị em Matta và Maria rước Chúa Giêsu vào nhà mình. Matta thì ân cần lo việc phục vụ, còn Maria thì ngồi bên chân Chúa để lắng nghe lời Ngài.

Trong Thánh lễ này, chúng ta có dịp làm điều mà Maria đã làm, là ngồi bên chân Chúa để lắng nghe Lời Ngài. Xin Chúa cho chúng ta được thân thiết với Chúa ngày một hơn.

  1. Gợi ý sám hối

    Chúng ta quá lo lắng những việc trần gian mà ít quan tâm đến việc Chúa.

    Chúng ta dành thời giờ cho Chúa mỗi ngày quá ít.

    Chúng ta chưa quan tâm đủ đến việc ở bên Chúa và lắng nghe tiếng Chúa.

III. Lời Chúa

  1. Bài đọc I (St 18, 1-15)

Câu chuyện này làm nổi bật lòng hiếu khách của tổ phụ Abraham: Ông đang ngồi trong lều giữa trưa nóng bức thì thấy bên ngoài có 3 người đàn ông. Abraham vội vàng mời 3 người vào lều mình, lấy nước cho họ rửa chân, lấy bột làm bánh, bắt một con bê tốt nhất làm thịt để tiếp đãi họ. 3 người này chính là sứ giả của Thiên Chúa.

Đáp lại lòng hiếu khách của Abraham, Thiên Chúa đã cho bà Sara vợ ông có được đứa con trai đầu lòng mặc dù cả hai ông bà đều đã già quá tuổi sinh con.

  1. Đáp ca (Tv 14)

Tv này thuộc loại giáo huấn, nhằm trả lời cho câu hỏi “Ai được Thiên Chúa tiếp đón vào cư ngụ trong nhà Ngài?” Tác giả trả lời: đó là người sống thanh liêm và thực thi công chính.

  1. Tin Mừng (Lc 10, 38-42)

Câu chuyện có 3 vai: vai chính là Chúa Giêsu, hai vai phụ là Mác-ta và Maria mỗi người phục vụ Chúa một cách khác nhau:

    Mác-ta lăng xăng lo cơm nước, giường chiếu v. v.

    Maria “ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Ngài dạy”

Mác-ta khó chịu xin Chúa Giêsu bảo Maria tiếp mình. Nhưng Chúa Giêsu nói: “Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi”, đó là việc Maria đang làm, tức là ngồi bên chân Chúa đề lắng nghe lời Chúa.

  1. Bài đọc II (Cl 1, 24-28) (Chủ đề phụ)

Thánh Phaolô tỏ ý sung sướng vì được chịu khổ trong khi thi hành sứ vụ tông đồ. Sở dĩ những đau khổ ấy trở thành niềm vui vì Phaolô ý thức rằng nhớ đó mà ông bổ khuyết nơi thân xác mình những gì còn thiếu trong cuộc chịu nạn của Chúa Giêsu Kitô.

  1. Gợi ý giảng

* 1. Chọn phần tốt nhất (Lc 10, 38-42)

Federic Ozanam, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Giáo Hội Pháp vào cuối thế kỷ 19 đã trải qua một cơn khủng hoảng đức tin trầm trọng lúc còn là một sinh viên đại học.

Một hôm, để tìm một chút thanh thản cho tâm hồn, anh bước vào một ngôi thánh đường cổ ở Paris. Đứng cuối nhà thờ, anh nhìn thấy một bóng đen đang quì cầu nguyện cách sốt sắng ở dãy ghế đầu. Đến gần, chàng sinh viên mới nhận ra người đang cầu nguyện ấy không ai khác hơn là nhà bác học Ampère. Anh đứng lặng lẽ một lúc để theo dõi cử chỉ của nhà bác học. Và khi vừa đứng lên ra khỏi giáo đường, người sinh viên đã theo gót ông về cho đến phòng làm việc của ông.

Thấy chàng thanh niên đang đứng trước cửa phòng với dáng vẻ rụt rè, nhà bác học liền lên tiếng hỏi:

– Anh bạn trẻ, anh cần gì đó? Tôi có thể giúp anh giải một bài toán vật lý nào không?

Chàng thanh niên đáp một cách nhỏ nhẹ:

– Thưa Thầy, con là một sinh viên khoa văn chương. Con dốt khoa học lắm, xin phép Thầy cho con hỏi một vấn đề liên quan đến đức tin!

Nhà bác học mỉm cười cách khiêm tốn:

– Anh lầm rồi, đức tin là môn yếu nhất của tôi. Nhưng nếu được giúp anh điều gì, tôi cũng cảm thấy hân hạnh lắm?

Chàng sinh viên liền hỏi:

– Thưa Thầy, có thể vừa là một bác học vĩ đại, vừa là một tín hữu cầu nguyện bình thường không?

Nhà bác học ngỡ ngàng trước câu hỏi của người sinh viên, và với đôi môi run rẩy đầy cảm xúc, ông trả lời:

– Con ơi, chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện mà thôi!

* * *

Chúa phán: “Macta, Macta ơi! Chị lo lắng và lăng xăng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi” (Lc 10, 41-42). Phần tốt nhất ấy chính là ở bên cạnh Chúa, lắng nghe Chúa nói, và cầu nguyện với Chúa.

Nhà bác học đại tài Ampère, với công việc nghiên cứu của ông về điện tử học, về nam châm điện đã đem lại biết bao lợi ích cho nền văn minh của nhân loại. Thế nhưng, ông không cho đó là vĩ đại, mà ông nói: “Chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện mà thôi”.

Mẹ Têrêsa Calcutta, một nữ thánh giữa đời thường, mỗi ngày trước khi bước xuống “địa ngục Calcutta” để chăm sóc những người cùng khổ, hoặc đi vào “nhà hấp hối” để an ủi các kẻ liệt lào, các nữ tu của Mẹ đã quì cầu nguyện trước Thánh Thể một tiếng đồng hồ để kín múc nơi Chúa: tình yêu, sức mạnh, lòng can đảm và nhiệt huyết tông đồ.

Hoạt động tông đồ là mang tình yêu Chúa đến với anh em, tại sao chúng ta lại không kín múc nơi Chúa là suối nguồn yêu thương. Cho dù là hoạt động truyền giáo, hoạt động từ thiện bác ái, hay sinh hoạt hằng ngày theo bổn phận, chúng ta cũng đừng quên “chọn phần tốt nhất” này. Hãy nhớ lời Chúa: “Không có Ta, chúng con không làm gì được”.

Các triết gia phương Tây có khuynh hướng hoạt động cho rằng Chúa không làm gì, con người làm hết. Các triết gia phương Đông trái lại ưa thích thuyết tĩnh học, để Chúa làm hết và con người không làm gì. Nhưng khuôn vàng thước ngọc của chúng ta là: “Cầu nguyện và hoạt động”, Macta phải đi đôi với Maria. Cầu nguyện là linh hồn của hoạt động, và hoạt động là kết quả của cầu nguyện. P. Graef có một câu nói rất thâm thuý: “Hoạt động mà không có cầu nguyện là thiếu nguyên tắc căn bản, cầu nguyện mà không có hoạt động là thiếu đất gieo hạt”.

Tuy nhiên, có một cám dỗ khiến chúng ta khó thoát khỏi. Đó là nhiều khi chúng ta tưởng mình phục vụ Chúa, nhưng hóa ra chúng ta phục vụ chính mình. Nhìn Mácta lăng xăng dọn bữa ăn, chúng ta thấy dáng dấp của chính mình. Chúng ta hoạt động để được tiếng khen, để gây chú ý: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay” (Lc 10, 40-41). Chúng ta mời gọi kẻ khác cộng tác, cũng là để phục vụ cho chương trình của chính mình.

Đôi khi chúng ta cầu nguyện cũng là để kéo Chúa về phe mình, xin Chúa ủng hộ để cá nhân mình sớm được vẻ vang. Chúng ta muốn mình luôn được thành công. Chúng ta không chấp nhận thất bại. Chúng ta mãn nguyện với những hoạt động tông đồ của mình. Chúng ta hài lòng với công cuộc từ thiện của chúng ta. Chúng ta đi tìm chính mình!

* * *

Lạy Chúa , xin dậy chúng con biết rằng: Cầu nguyện là ở bên Chúa, lắng nghe và chuyện vãn với Chúa, chứ không phải thuyết phục Chúa làm theo ý muốn chúng con.

Xin cho chúng con một tình yêu trong suốt như Maria dưới chân Chúa. Xin đừng để chúng con bị ô nhiễm bởi tính háo danh và óc vụ lợi khi phục vụ Chúa và anh em. Amen. (Thiên Phúc).

* 2. Chọn phần ưu tiên

Có thể xếp những việc chúng ta phải làm hằng ngày thành hai loại: việc cấp bách (urgent) và việc thiết yếu (essential). Những việc cấp bách thì rất nhiều, những việc thiết yếu thì rất ít.

Cũng như Matta, chúng ta thường dành ưu tiên cho những việc cấp bách. Còn việc thiết yếu thì chúng ta hoãn lại. Khi nào làm xong hết những việc cấp bách, ta mới nghĩ đến việc thiết yếu. Nhưng khi đó thì đã quá muộn, chúng ta làm việc thiết yếu đó một cách hấp tấp và hời hợt.

Đức Hồng Y Joseph Bernardin, Tổng giám mục giáo phận Chicago, khi hay tin mình bị ung thư đến giai đoạn cuối, đã nói: “Bây giờ tôi mới nhận thức ra rằng chúng ta thường bỏ rất nhiều thời giờ của cuộc sống để làm những việc phụ thuộc không mấy ý nghĩa”.

Việc thiết yếu nhất mà người ta thường hoãn lại không làm là gì? Thưa đó là việc mà Maria đã làm, đó là ngồi bên chân Chúa và lắng nghe lời Chúa”. Chính Chúa Giêsu đã đánh giá đó là việc thiết yếu duy nhất và là việc tốt nhất phải làm (FM)

* 3. Một cách cầu nguyện

Đối với nhiều người, cầu nguyện là nói để xin.

Nhưng, xét theo một nghĩa nào đó, sự cầu nguyện đích thực chỉ bắt đầu khi ta ngừng nói. Cách cầu nguyện tốt nhất là ở bên chân Chúa, chẳng nói lời nào và cũng chẳng làm gì cả, như Maria vậy.

Có người nghĩ rằng làm việc là cách chứng tỏ cụ thể tình yêu của mình đối với Chúa, cho nên cứ ngồi im bên chân Chúa là mất giờ vô ích, nhất là khi ta còn nhiều việc phải làm. Có lẽ đúng. Nhưng nếu làm việc mà không cầu nguyện thì những việc làm kia dễ trở thành những việc làm vì mình và cho mình chứ không phải vì Chúa và cho Chúa; và cũng có thể chúng trở thành những việc của mình chứ không phải của Chúa. Kết quả là sau khi ngưng việc, ta cảm thấy lòng mình trống rỗng, con người mình rất hời hợt nông cạn.

Thoreau nói: “Đừng sợ đời mình kết thúc, nhưng hãy sợ đời mình chưa bao giờ bắt đầu”.

Nhà tâm bệnh học Thomas Moore nói: “Có người có thể chữa khỏi những rối loạn tâm thần chỉ cần bằng cách tự ban cho mình mỗi ngày một ít phút thinh lặng suy nghĩ”. Đối với sức khoẻ tâm thần mà đã là như thế, huống chi đối với sức khoẻ siêu nhiên.

  1. Chuyện minh họa

a/ Một bà lão đến một Linh mục xin tham vấn:

– Thưa cha, tôi đã cầu nguyện không ngừng suốt 14 năm qua, nhưng tôi chả cảm thấy sự hiện diện của Chúa gì cả.

– Thế Bà có cho Chúa cơ hội để nói với Bà lời nào không?

– À… không. Tôi cứ nói miết. Nhưng như thế không phải là cầu nguyện sao?

– Không. Bây giờ tôi khuyên bà mỗi ngày bỏ ra 15 phút chỉ ngồi im trước mặt Chúa thôi.

Bà cụ đã làm theo lời khuyên đó. Chỉ vài ngày sau, Bà trở lại khoe:

– Thật tuyệt diệu: Khi tôi nói với Chúa thì tôi chẳng cảm thấy gì cả. Nhưng khi tôi ngồi yên trước mặt Ngài thì tôi thấy như mình được sự hiện diện của Ngài bao phủ lấy tôi.

b/ Khi linh mục đang thống kê tình hình của xứ đạo, ngài hỏi một gia đình câu hỏi thường lệ:

– Các con có thường cầu nguyện chung cả gia đình không?

Gia trưởng trả lời:

– Thưa cha, chúng con không có thời giờ.

– Giả như con biết một đứa con sẽ bị bệnh nếu chúng con không cầu nguyện, gia đình con có cầu nguyện không?

– Ồ, con đoán chúng con sẽ cầu nguyện.

– Giả sử con biết ngày nào đó khi gia đình lơ là việc cầu nguyện, một đứa con sẽ gặp tai nạn. Các con có cùng cầu nguyện không?

– Tất nhiên chúng con sẽ cầu nguyện.

– Giả sử mỗi ngày con quên cầu nguyện, giáo luật phạt 5 đôla. Các con có sao lãng việc cầu nguyện không?

– Chắc chúng con sẽ cầu nguyện. Nhưng ý của những câu hỏi này là gì?

– Vấn đề của con là không có thời giờ. Con có thể tìm được thời giờ. Con không nghĩ cầu nguyện chung gia đình là quan trọng như nộp phạt hay giữ sức khỏe cho con. Ơn ban của Chúa qua lời cầu nguyện quan trọng hơn bất cứ những gì con có thể nghĩ tới.

c/ Một ngư dân đưa một thanh niên lên thuyền của ông. Một bên mái chèo có viết chữ cầu nguyện và bên kia viết chữ làm việc. Anh thanh niên nói vẻ khinh miệt: “Này chú, chú lỗi thời quá. Ai muốn cầu nguyện làm gì, nếu như họ làm việc?”

Bác ngư phủ không nói gì, nhưng buông lỏng mái chèo có viết chữ cầu nguyện và chèo mái kia. Ông chèo và chèo mãi, nhưng chiếc thuyền chỉ quay tròn mà không tiến đi được.

Anh thanh niên hiểu ra rằng bên cạnh mái chèo làm việc, chúng ta cũng cần phải có mái chèo cầu nguyện.

Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Lời Chúa hôm nay đặt cho mỗi người chúng ta một câu hỏi: Chúng ta đã đón tiếp Chúa như thế nào trong cuộc sống thường ngày? Với ước mong được đón tiếp Chúa thật xứng đáng, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:

  1. Hội thánh là đại gia đình của những ai tin Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành viên trong đại gia đình này / luôn sống hiệp nhất và yêu thương nhau.
  2. Hiện nay có biết bao người không chốn nương thân / sống cảnh màn trời chiếu đất / không ai ngó ngàng gì đến họ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai đang sống không nhà không cửa / tìm được một chỗ ở xứng hợp với nhân phẩm của mình.
  3. Lời Chúa là ánh sáng chỉ đường dẫn lối cho người Kitô hữu trong cuộc lữ hành trần thế / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Lời Chúa soi sáng các Kitô hữu / để mọi việc họ làm đều phù hợp với chân lý và tình thương của Chúa.
  4. Hằng ngày trước mắt chúng ta / có biết bao người nghèo là hiện thân của Đức Kitô bị bỏ rơi / bị hất hủi / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết quảng đại nâng đỡ những người bất hạnh trong xã hội.

Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, xin cho lòng chúng con trở nên thửa đất phì nhiêu, hầu đón nhận hạt giống lời Chúa và làm cho sinh hoa kết quả dồi dào. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.

Trong Thánh Lễ

– Trước kinh Lạy Cha: Không lời cầu nguyện nào hay bằng lời kinh Lạy Cha do chính Chúa Giêsu đã dạy chúng ta. Vậy chúng ta hãy sốt sắng cầu nguyện bằng lời kinh Chúa dạy.

VII. Giải tán

Chúng ta đã ý thức rằng làm việc và cầu nguyện phải đi đôi với nhau, và chính sự cầu nguyện sẽ hỗ trợ cho những việc chúng ta làm. Anh chị em sắp trở lại với những việc làm hằng ngày. Đừng quên cầu nguyện để Chúa giúp anh chị em làm những việc đó tốt hơn.

 

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây