Các bài suy niệm Chúa Nhật 24 Thường Niên C
Lời Chúa: Xh 32,7-11.13-14; 1Tm 1,12-17; Lc 15,1-32
MỤC LỤC
Suy Niệm
Khi chiêm ngắm người cha nhân hậu, ta khám phá ra khuôn mặt một Thiên Chúa yêu thương.
Thiên Chúa yêu thương là Thiên Chúa khiêm tốn.
Như người cha chấp nhận chia gia sản cho con, chấp nhận để con bỏ nhà ra đi, Thiên Chúa cũng tôn trọng tự do của con người.
Đấng Toàn Năng đã tự giới hạn quyền năng của mình để chúng ta có thể hiện hữu một cách tự do. Ngài như thể thu mình lại để nhường chỗ cho thụ tạo.
Không phải chỉ con người mới cần cởi giày trước Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa cũng cởi giày trước mầu nhiệm con người, vì lòng con người cũng là phần đất thiêng thánh.
Thiên Chúa yêu thương là Thiên Chúa biết chờ đợi.
Thiên Chúa vẫn nuôi hy vọng khi con người lìa xa Ngài.
Người Cha vẫn luôn ngóng con từ bên cửa sổ. Lòng Cha luôn hướng về con. Bởi thế ngay khi con còn ở đàng xa, Cha đã thấy. Cha vẫn nhận ra con, dù con xanh xao tiều tụy.
Thiên Chúa không thất vọng về con người. Ngài không bắt ép người ta hoán cải, Ngài chỉ chờ. Ngài chờ vì Ngài tôn trọng tự do của họ.
Thiên Chúa yêu thương là Thiên Chúa biết tha thứ.
Ngài là Cha yêu con bằng cung lòng người mẹ.
Rõ ràng con thứ thật đáng trách, vì bất hiếu. Nhưng tình thương của Cha còn lớn hơn tội của anh.
Cha thương anh vì anh đã lỗi phạm.
Tội lỗi tự nó đã đem lại hình phạt rồi.
Người cha có vẻ không cần nghe con mình xin lỗi. Sự trở về của anh đã là lời thống hối ăn năn. “Con ta đã chết, nay đang sống; đã mất, nay lại tìm thấy.”
Thiên Chúa không nhớ mãi chuyện đã qua. Điều quan trọng là hiện tại: con đang sống trong vòng tay Cha.
Thiên Chúa yêu thương là Thiên Chúa luôn chạy ra, như người cha chạy ra để đón đứa con thứ, như người cha đi ra để năn nỉ đứa con cả.
Thiên Chúa dường như không yên trong hạnh phúc của mình, nếu có một người con còn đứng ngoài.
Người cha trong dụ ngôn chẳng sợ mất uy nghi, đạo mạo. Ông chạy đến với con, phá vỡ khoảng cách của quyền uy. Quyền uy của người cha là quyền uy của tình yêu, mà tình yêu thi có can đảm vượt qua mọi khoảng cách.
Thiên Chúa yêu thương là Thiên Chúa biết nhảy mừng.
Thiên Chúa đãi tiệc vì một người ăn năn sám hối.
Nhưng Thiên Chúa nhảy mừng cũng là Thiên Chúa từng đau khổ. Ngài đau nỗi đau của con khi cố tình xa Cha.
Thiên Chúa biết buồn vui với con người và vì con người.
Hãy trở lại và ở lại trong nhà Cha, vì Cha muốn trao cho bạn tất cả những gì Ngài có. Tiệc đã sẵn, vào với Cha cũng là về với anh em.
Gợi Ý Chia Sẻ
Qua bài Tin Mừng này, bạn hãy cho thấy khuôn mặt khiêm tốn của người cha. Bạn thấy Thiên Chúa có khi nào khiêm tốn với bạn không?
Đâu là những nét giống nhau giữa người con thứ và người con cả? Người con cả cần hoán cải về tội gì?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, người con thứ đã muốn tự định đoạt lấy đời mình.
Chúng con vẫn rơi vào tội của người con thứ, khi coi Cha như người cản trở hạnh phúc của chúng con. Chúng con thèm được tự do bay nhảy ngoài vòng tay Cha, nhưng tự do ấy lại biến chúng con thành nô lệ.
Hạnh phúc do thế gian ban tặng thì bọt bèo. Như người con thứ, chúng con bỗng thấy mình tay trắng, rơi xuống chỗ cùng cực và bị cái chết đe dọa.
Lạy Cha đầy lòng bao dung, xin kéo chúng con trở về với Cha mỗi ngày, giúp chúng con điều chỉnh những đam mê lệch lạc. Xin nâng chúng con đứng lên trong niềm vui vì tin rằng tình Cha lớn hơn tội chúng con vạn bội.
Ước gì những vấp ngã khiến chúng con lớn lên, thấy mình mong manh, thấy Cha rộng lượng.
Ước gì sau mỗi lần được Cha tha thứ, chúng con lại thấy mình hiền hòa hơn với tha nhân.
Ai trong chúng ta cũng mong muốn mình hoàn hảo, không sai lỗi… Chúng ta cố gắng sống tốt lành, hòa hợp với những người xung quanh, yêu mến Chúa và tha nhân. Nhưng với thân phận yếu hèn của kiếp người, càng cố gắng, ta càng hay lỗi phạm như lời thánh Phaolô nói “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm.”(Rm 7,19) Và ngài khẳng định là “Do tội vẫn ở trong tôi.” Vâng, tất cả chúng ta là người tội lỗi, nhiều hay ít, chúng ta đều là tội nhân trước mặt Chúa. Thế nhưng, Chúa Giêsu- khuôn mặt của Thiên Chúa lại được nói đến như “Một người đón tiếp phường tội lỗi.” Chính vì thế, chúng ta tin tưởng vào Lòng Xót Thương Tha Thứ của Thiên Chúa mà Chúa Giêsu vén mở cho ta thấy qua ba dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay.
– Xót Thương nên hết lòng tìm kiếm. Sự tính toán của Thiên Chúa khác với chúng ta. Chúng ta luôn để ý tới số lượng. Còn Thiên Chúa, Ngài tính “Một” bằng “Chín mươi chín”. Mỗi người chúng ta có một giá trị cao quí. Đây là mầu nhiệm về sự tôn trọng của Thiên Chúa với mỗi người trong chúng ta. Chúa yêu chúng ta cách cá nhân và riêng biệt. Thế nên, chiên lạc mất, Người luôn nghĩ tới, lo lắng, đi tìm…cho bằng được. Đứa con thứ bỏ nhà ra đi, Người trông ngóng từng giây chờ nó trở về. Chúng ta có một Thiên Chúa không ngừng nghĩ đến những con cái sai lầm, lạc lối. Một Thiên Chúa yêu thương những đứa con không yêu Ngài. Một Thiên Chúa luôn lên đường tìm kiếm “Những con chiên bị mất” và vui mừng khi tìm thấy.
Mục tử hạnh phúc khi tìm thấy chiên “Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai.” Một hình ảnh kỳ diệu chúng ta được chiêm ngắm. Mục tử cười rạng rỡ, hoan hỉ và vui mừng. Đó là Thiên Chúa mà Chúa Giêsu giới thiệu với chúng ta. Và qua chính Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã đến, ở cùng chúng ta như vậy. Người đón tiếp, tìm kiếm những người tội lỗi. Vì thế, Thiên Chúa không ở yên chờ đợi nhưng lên đường tìm kiếm. Chúng ta là con, ta không bị bỏ rơi, lòng thương xót của Thiên Chúa luôn bao phủ chúng ta, tìm kiếm khi ta lạc lối và ôm ấp, dẫn chúng ta về. Niềm vui của Thiên Chúa là tìm thấy những con cái bị lạc mất và tha thứ cho chúng tất cả lỗi lầm.
– Xót Thương nên hết lòng Tha Thứ. Thật quan trọng đối với Thiên Chúa khi chỉ một người sám hối mà cả Nước Trời vui mừng. “Trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.” Vậy ta hãy can đảm đến với Thiên Chúa, xin lỗi Ngài về các tội của ta vì Ngài luôn sẵn lòng tha thứ cho chúng ta.Thiên Chúa không bao giờ rời bỏ chúng ta. Dẫu cho ta có tội lỗi thế nào, Thiên Chúa nhìn con tim của ta, Người nhìn vào sâu thẳm hồn ta khi ta thực lòng nhận mình sai lỗi và xin tha thứ.
Thiên Chúa, Đấng rất mực xót thương, Người luôn tha thứ cho tất cả những ai đến van xin Người. Sự tha thứ của Thiên Chúa không có giới hạn, vượt quá sức tưởng tượng của chúng ta, dù cho ta có trở về vì quá đói khổ chứ chưa phải là vì yêu thương cha như người con thứ. Thế nhưng, Thiên Chúa- Cha nhân lành chỉ cần ta biết nhận ra sai lỗi của mình và trở về. Người trông ngóng và đón chờ để tha thứ, để bao phủ ta bằng lòng xót thương “Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để.” Dù tội lỗi có ngập tràn cũng không ngăn cản được tình yêu, lòng xót thương tha thứ của Thiên Chúa dành cho chúng ta và mãi nhận ta là con cái của Ngài.
– Xót Thương nên phục hồi địa vị là con. Thiên Chúa đã tác tạo nên chúng ta với một phẩm giá cao quí, nhưng vì những vết nhơ tội lỗi, ta đã làm hoen ố phẩm giá của mình.Vậy hãy gượng đứng dậy, cất bước, lên đường trở về với Chúa vì Người luôn đang chờ đợi chúng ta. Người không màng tới tội lỗi của ta, cho dù ta có xưng thú, nhưng Người chẳng để ta nói hết câu, vì Người biết tất cả, biết tận cõi lòng ta chân thành sám hối hay không. Và với cung cách hành xử đầy lòng thương xót của Thiên Chúa, Người sẽ phục hồi cho chúng ta phẩm giá là con (x. Lc 15,22-24). Bởi vì, không có gì mạnh mẽ hơn lòng thương xót của Thiên Chúa.
Chúng ta là những tội nhân mà Thiên Chúa như người mục tử bỏ chín mươi chín chiên ngoan, đi tìm một chiên lạc; như người cha nhân lành đã chạy ra ôm lấy và thứ tha tất cả cho đứa con đi hoang và cả người con ở nhà; và như người phụ nữ “thắp đèn”,”quét nhà”, “moi móc tìm cho kỳ được”. Xin cho chúng ta cũng được ở dưới ánh đèn tình yêu của Chúa để Người thấy ta, đem ta về với Người. Chúng ta tin tưởng vào lời khẳng định của Chúa Giêsu “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.” Vậy ta hãy khiêm tốn trở về với Chúa và khẩn cầu “Lạy Chúa, xin thương xót chúng con”. Chúng ta hãy đến với Chúa trong Bí tích Hòa Giải, Người luôn chờ đợi để tha thứ tất cả những lỗi lầm của ta và để yêu thương ta. Qua Bí tích Hòa Giải, Chúa nắm lấy chúng ta, ôm chúng ta vào lòng và đổ tràn lòng thương xót của Người cho chúng ta. Sự trở về và được tha thứ là một niềm vui đối với chúng ta, nhưng còn là niềm vui mừng lớn lao hơn đối với Thiên Chúa và cả Nước Trời.
Trong Năm Thánh Lòng Thương Xót này, hơn bao giờ hết, mỗi người Kitô hữu chúng ta được mời gọi thực lòng trở về với Chúa vì Người đang tìm ta, trông chờ ta. Chúng ta hãy sống tâm tình của người con, luôn tin tưởng vào tình yêu và lòng bao dung tha thứ của Cha. Cha chúng ta là Thiên Chúa Tình yêu và chúng ta là con cái của Người. Vậy Chúa cũng mong chúng ta cộng tác với Người trong sứ mạng tìm kiếm anh em lạc đường và dẫn họ trở về với Chúa. Vì còn biết bao anh chị em đang lầm lạc, đi xa; đang đau khổ, đói nghèo tình yêu Chúa mà không biết lối quay trở về. Nhiều người còn đang sống trong thù hận, ghen tương, đố kỵ và ích kỷ với anh em mình dù chẳng xa đàn chiên. Thái độ và cách đối xử đó không phải là của những người con cùng một Cha, và không phải là lối sống của Kitô hữu. Vậy chúng ta hãy trở về với Chúa Cha Nhân Từ, ăn năn sám hối, cầu xin Người tha thứ và đổ tràn lòng xót thương trên chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu- Dung Nhan Lòng Thương Xót của Thiên Chúa Cha, xin giúp chúng con biết tín thác vào lòng Chúa xót thương mà can đảm nhìn nhận tội lỗi và trở về với Chúa để được tha thứ và được sống trong vòng tay, trong mái nhà của Chúa Cha Nhân Hậu. Amen.
(Bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô ngày 03 tháng 05 năm 2016)
Câu chuyện trong Tin Mừng mở đầu bằng một sự đối nghịch, một đàng các người tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người, đàng khác các là các luật sĩ và các kinh sư nghi ngờ tránh xa Chúa vì thái độ hành xử của Người. Họ tránh xa bởi vì Chúa Giêsu tới gần những người tội lỗi. Những người này kiêu căng, họ tin mình là những người công chính, những người tuân giữ luật Môse một cách nhiệm nhặt.
Dụ ngôn trong Tin Mừng xoay quanh ba nhân vật: mục tử, con chiên lạc và số còn lại của đàng chiên. Nhưng chỉ có mục tử là người hành động, chứ không phải các con chiên. Như vậy, mục tử là nhân vật chính và điểm nhấn là những hành động nơi người mục tử này. Dụ ngôn được dẫn nhập bằng một câu hỏi: “Ai trong các ngươi, nếu có một trăm con chiên và mất một con, lại không bỏ chín mươi chín con trong sa mạc và đi tìm con chiên lạc, cho tới khi tìm ra nó?” Đây là một mâu thuẫn dẫn đưa tới chỗ nghi ngờ hành động của người mục tử: có khôn ngoan không khi bỏ chín mươi chín con chiên để đi tìm một con chiên lạc như vậy? Còn hơn nữa bỏ chúng không phải trong một chuồng chiên mà trong sa mạc? Theo truyền thống Kinh thánh, sa mạc là nơi của chết chóc, khó mà tìm ra nước và thực phẩm, không có chỗ trú ngụ và bị bỏ rôi cho thú dữ và tôm cướp. chín mươi chín con chiên để lại sẽ không được bảo vệ? Tuy nhiên, sự mâu thuẫn tiếp tục khi nói rằng người mục tử, sau khi tìm thấy con chiên, vác nó lên vai, về nhà, gọi bạn bè và hàng xóm láng giềng tới chung vui. Dường như người mục tử không trở vào trong sa mạc để dẫn chín mươi chín con chiên trở về đàng! Duy chỉ hướng đến con chiên đi lạc, xem ra người mục tử quên chín mươi chín con chiên kia. Nhưng thật ra không phải vậy!
Giáo huấn của Chua Giêsu muốn dạy cho chúng ta, đó là không có con chiên nào bị hư mất. Chúa không chịu để một ai phải hư mất dù chỉ một người nhỏ bé nhất. Hoạt động của Thiên Chúa là hoạt động của người đi tìm các con cái bị mất để rồi vui mừng với tất cả vì tìm lại được họ. Đây là một ước muốn không thể nào kìm hãm được: chín mươi chín con chiên có thể kéo chân người mục tử lại, và giữ ông trong chồng chiên. Ông có thể lý luận như sau: tôi có chín mươi chín con chiên mất một con thì chẳng có gì là quá đáng! Nhưng không! Người mục tử đi tìm con chiên lạc ấy vì mỗi một con chiên đều rất quan trọng đối với ông, và con chiên đó là con chiên cần được giúp đỡ nhất, con chiên bị bỏ rơi nhất, bị gạt bỏ nhất và ông đi tìm nó.
Tất cả chúng ta đều cảm nhận lòng xót thương của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi là cách thức hành động của Thiên Chúa và Ngài tuyệt đối trung thành với lòng xót thương ấy. Không có gì và không có ai lấy đi khỏi Chúa ý muốn cưú rỗi của Ngài. Thiên Chúa không biết tới nền văn hóa lại bỏ của chúng ta ngày nay. Trong Thiên Chúa không có điều đó. Thiên Chúa không loại bỏ một người nào. Ngài yêu thương tất cả mọi người. Ngài tìm kiếm tất cả mọi người. Tất cả! Từng người một. Ngài không biết từ “loại bỏ người ta,” bởi vì Ngài là tất cả tình yêu và tất cả lòng thương xót.
Đàn chiên của Chúa luôn luôn tiến bước. Nó không chiếm hữu Chúa. Nó không thể nuôi ảo tưởng nhốt Ngài trong các lược đồ và chiến thuật của con người. Người mục tử ra đi để tìm thất con chiên bị lạc ở bất cứ nơi dâu. Như vậy người mục tử là chủ thể của hành động. Ngài muốn đến gặp gỡ chúng ta, chứ không phải chúng ta yêu sách muốn tìm thất Ngài. Không có cách nào khác có thể quy tụ đàn chiên nếu không theo con đường do lòng thương xót của người mục tử vạch ra.
Trong khi người mục tử tìm con chiên lạc, người mục tử mời gọi chín mươi chín con khác đến tham dự vào viẹc tái hiệp nhất đàn chiên. Khi đó không chỉ con chiên lạc được mang trên vai, mà tất cả sẽ theo mục tử trở về nhà để chung vui với các bạn bè và hàng xóm láng giềng.
Chúng ta phải năng suy tư dụ ngôn này, bởi vì trong cộng đoàn Kitô luôn luôn có ai đó thiếu và đã ra đi bỏ chỗ mình trống. Đôi khi điều này khiến nản lòng, và khiến cho chúng ta tin rằng một sự mất mát là điều không thể tránh được, một tật bệnh không có thuốc chữa. Và khi đó chúng ta có nguy cơ khép kín mình trong chuồng chiên, nơi sẽ không có mùi của chiên, nhưng mùi hôi của việc đóng kín. Và người kitô hữu không được phép đóng kín, vì chúng ta sẽ có mùi hôi của những gì đón kín. Không bao giờ! Chúng ta phải ra khỏi việc đóng kín nơi chính mình, trong các cộng đoàn nhỏ, trong giáo xứ.
Chúng ta đón kín mình khi thiếu lòng hăng say truyền giáo. Đóng kín mình khiến chúng ta không còn muốn đến gặp gỡ người khác. Trong nhãn quan của Chúa Giêsu, không có con chiên nào bị mất vĩnh viễn, nhưng chỉ có các con chiên cần tìm về. Chúng ta phải hiểu rõ điều này, đối với Thiên Chúa không có ai bị hư mất vĩnh viễn. Không bao giờ! Cho tới phút cuối cùng, Thiên Chúa vẫn tìm kiếm và cứu vớt. Chúng ta hãy nghĩ tới anh trộm lành. Trong Thiên Chúa không có ai bị hư mất vĩnh viễn, mà chỉ có các con chiên được tìm thấy.
Vì thế viễn tượng hoàn toàn năng động, rộng mở, khuyến khích và sáng tạo. Nó thúc đẩy chúng ta tìm bước đi trên một con đường của tình huynh đệ. Không có khoảng cách nào có thể giữ người mục tử ở xa và không có đàng chiên nào có thể khước từ một người anh em. Tìm ra người anh em đã mất là một niềm vui của chúng ta trong tư cách tham dự vào sứ mạng của Vị Mục Tử Nhân Lành Giêsu. Và đó cũng là niềm vui của cả đàn chiên là cộng đoàn dân Thiên Chúa! Chúng ta tất cả đều là các con chiên được tìm lại và được quy tụ do lòng xót thương của Chúa, được mời gọi cùng Ngài thu thập thành đàn chiên. Amen.
CHIÊM NGẮM TÌNH YÊU CHÚA CHA: TRÁI TIM TA MỞ RA
Ngôi Lời Nhập Thể, đặc biệt trong sứ vụ công khai, Chúa Giêsu nổi bật dung mạo Thiên Chúa đầy yêu thương nhân từ. Tình yêu của Người quá kỳ lạ, quá lớn lao, thật khác thường.
Chúa Giêsu chính là Hiện thân của Thiên Chúa Vô hình, Thiên Chúa tình yêu (Cl 1,15). Trái tim Chúa Giêsu dành yêu thương hết mọi người, đặc biệt người nghèo khổ, bệnh tật, bọn thu thuế, đĩ điếm… nói chung họ thuộc thành phần tội lỗi, thuộc đối tượng cảnh giác, bị tôn giáo gạt lề. Do đó họ bị xã hội Do Thái ghét ra mặt, khinh khi ra mặt, tẩy chay ra mặt; tệ hơn còn ra luật vạ tuyệt thông: cấm tiếp xúc, ai tiếp xúc đều lây tội.
Một người Do Thái giáo đạo đức thời Chúa Giêsu không bao giờ nói chuyện, tiếp xúc chứ đừng nói chuyện ăn chung bàn với người mà họ cho là quân tội lỗi.
Khi còn tại thế, nhiều người Do Thái công nhận Chúa Giêsu là bậc thầy, là sư phụ không chỉ uyên thâm Lời Chúa, giảng dạy như Đấng có uy quyền mà còn là nhà đạo đức số một.
Chúa Giêsu nhà đạo đức số một, ấy thế mà!…
Người ta bắt đầu nghi ngờ về đạo đức của Chúa Giêsu, nhất là nhóm Biệt phái- luật sĩ là những bậc thầy đạo đức của người Do Thái, khi thấy Chúa Giêsu đối xử tử tế, nhân hậu với người tội lỗi như người bình thường, xem ra còn ưu ái hơn người bình thường. Khó chịu nhất cảnh Người trò chuyện thân tình, đồng bàn ăn với họ.
Tin Mừng hôm nay, thánh sử Luca cho thấy phản ứng khó chịu, thái độ nghi ngờ đạo đức Chúa Giêsu của nhóm Biệt phái luật sĩ. Họ xầm xì: nếu Thầy Giêsu đạo đức tại sao ngài đón tiếp những kẻ tội lỗi và cùng ăn uống với chúng?.
(Ở đây ta lại đụng phải thành kiến vững chắc, cố chấp của họ. Nhất định cho mình đúng, cái gì không như mình nghĩ là sai. Xét cho cùng đấy là thái độ kiêu ngạo. Chính trong thái độ không chịu sám hối- thay đổi lối nhìn ấy mà người Do Thái chưa nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Messia)
Để trả lời nghi vấn của họ, Chúa Giêsu kể ba dụ ngôn: con chiên lạc, đồng tiền mất và đứa con hoang đàng.
Tất cả những dụ ngôn này đều đề cao hình ảnh một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Ngài xót xa khi một người lầm đường rơi vào tội lỗi, tha thiết tìm cứu người tội lỗi. Khi cứu được một người tội lỗi, Ngài rất vui mừng.
Mặt khác, Chúa Giêsu cho thấy rõ giá trị Tin Mừng của một người tội lỗi biết ăn năn sám hối trở về với Chúa.
Như người Mục tử tìm được chiên lạc, như người đàn bà tìm được đồng tiền mất, như người cha tìm được đứa con hoang- họ đã không vui một mình, niềm vui quá lớn không thể vui một mình, đòi hỏi cần phải có người chia sẻ, phải mở tiệc ăn mừng- Họ đã rủ người khác đến chia sẻ niềm vui:
Người Mục tử tìm được chiên lạc: “Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc…
Người Đàn bà tìm được đồng tiền: “Chị em hãy vui mừng với tôi, vì tôi đã tìm được đồng bạc tôi đã mất…
Người Cha khi thấy con trở về nhà: Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng, vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Và người ta bắt đầu ăn uống linh đình”
Cha chúng ta trên trời của cũng thể, một người tội lỗi có nguy có mất ơn cứu độ sám hối trở về Nhà Cha không chỉ có mình Thiên Chúa vui mà cả triều thần thiên quốc mừng vui. “Các thiên thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải…Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải.”
Tất cả là hình ảnh để diễn tả Tình yêu của Thiên Chúa, một Tình yêu quá tuyệt vời, mà bất cứ ai trong chúng ta một khi đã chạm đến Tình yêu ấy, một lần gặp gỡ có kinh nghiệm về Tình yêu ấy không thể thờ ơ, không thể không trở về với Cha.
Nói rõ hơn, Chúa không chỉ xót xa khi thấy những người con yêu dấu của Ngài phạm tội, mà còn tha thiết tìm cứu người tội lỗi. Khi cứu một con chiên lạc, một người tội lỗi Chúa không nản chí vì bất kỳ lý do nào, không mệt nhọc hoặc hiểm nguy. Ngài dùng mọi cách để đánh động, để báo động tình trạng tội lỗi của mình, Ngài luôn nói với ta qua tiếng lương tâm (bởi thế khi phạm tội, nhất là tội trọng lương tâm ta bất an), nếu ai đó lương tâm khô khan hơn, Ngài đánh động chúng ta mạnh hơn, chẳng hạn qua một biến cố tai nạn, qua biến cố đau thương nào đó….
Đặc biệt trong Giáo hội và qua Giáo hội Tông truyền, Thiên Chúa luôn đồng hành, hằng ngày nói với chúng ta qua Lời Chúa; gia tăng ân sủng qua các Bí tích để ta có thêm, có dư đủ sức mạnh chiến thắng những cám dỗ của ma quỷ- thế gian và xác thịt.
Đến hết cách mà chúng ta nhân danh tự do từ chối lòng Thương xót của Chúa thì Chúa cũng đành… bó tay. Bởi Ngài không thể và không bao giờ xâm phạm tự do mà Ngài đã đặc ban cho con người- thụ tạo được dựng nên giống Hình Ảnh Chúa. Đấy là lúc ta chạm ngưỡng tội phạm Chúa Thánh Thần, điều mà Chúa cảnh báo: “mọi tội, kể cả tội phạm thượng cũng sẽ được tha cho con người, chứ tội phạm đến Cha Thánh Thần sẽ chẳng được tha” (Mt 12,31). Tội phạm Thánh Thần là gạt bỏ ơn tha thứ của Thiên Chúa, cố tình chai lì sống tội lỗi, không chịu sám hối trở.
Nói cách khác, trực diện trước Tình yêu của Chúa Cha trong Chúa Con nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, trái tim của mỗi chúng ta không thể không mở ra, không thể không sinh ra hoa trái hiệp thông và bác ái.
Ở đây ta không nói về chiên lạc, đồng tiền mất, hay đứa con hoang trở về mà nói về Người Mục tử mất chiến- người đàn bà mất đồng tiền- người cha mất con.
Nghĩa là ta nói về Cha trên trời của chúng ta, chiêm ngắm về Tình yêu giàu lòng Thương xót của Cha chúng ta dành cho mỗi ta, cho cả nhân loại, đặc biệt dành cho những người tội lỗi biết sám hối trở về. Điều mà chúng ta đáng học- đáng noi theo hơn cả nơi các dụ ngôn này là Tình yêu thương của Người Cha của chúng ta.
Đấy là điều Chúa Giêsu muốn khi Ngài kêu mời: “Các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ”;
Đấy là điều Chúa Giêsu muốn khi Người công khai đòi hỏi môn đệ học theo Ngài: “hãy học nơi Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường”.
Đấy là điều Chúa Giêsu dạy chúng ta khi khẩn nguyện: “Lạy Cha chúng con ở trên trời… Xin Cha tha tội chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”
Đấy là điều Chúa Giêsu muốn, trước khi ra đi chịu chết đã trăn trối giơi răn mới yêu thương làm nền tảng, thuộc bản chất cho Kitô giáo: “các con hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương các con”.
Nghĩa là con của Thiên Chúa được gọi là Tình yêu; mang danh Kitô hữu- có Chúa Giêsu hiện diện nơi mình chúng ta phải là những Sứ giả của Tình yêu Thiên Chúa; là hiện thân của Tin Mừng cứu độ là Chúa Giêsu.
Đánh mất Tình yêu, chúng ta đánh mất quyền làm con Chúa, không còn Kitô hữu đích thực nữa. Thực tế biến chất, mất chất ‘Kitô hữu’ mà vẫn mang danh Kitô hữu, nguy hiểm cho ta và cho xã hội. Sự hiện diện của ta chẳng khác gì cáo đội lốt chiên; chẳng khác gì, miệng nam mô mà bụng một bồ dao găm…
Năm Thánh Lòng Chúa Thương Xót đã bước vào trong những tháng cuối cùng. Vậy ta đã sống và Loan báo Lòng Chúa Thương xót chưa? Đôi khi đơn giản là nụ cười cảm thông, lời nói trân trọng dễ nghe, lời cầu nguyện cho những người mình….dễ ghét….
Bài Tin mừng hôm nay có thể coi là một trong những bài Tin Mừng làm nổi bật Lòng Thương Xót của Cha trời. Chiêm ngắm Lòng Xót Thương của Thiên Chúa là Cha, liệu trái tim ta có mở ra, có Thương xót như Cha không?
Là Sứ giả Tình yêu, vậy chúng ta phải yêu thế nào?
Thánh Phaolô về Tình yêu Kitô giáo: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc; không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù; không mùng khi thấy sự gian ác,nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả , tin tưởng tất cả; hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cr 13, 4-7)
Lời thánh Phaolô trên, có thể nói như bản ‘xét mình’ về Giới răn yêu thương.
Lạy Chúa xin cho chúng con luôn biết tin tưởng vào lòng nhân từ của Chúa, biết sam hối ăn năn, đổi mới cuộc sống để chúng con trở thành Sứ giả Tình yêu của Chúa giữa trần thế. Amen.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Ngày 13/05/1981 giữa lúc hàng chục ngàn người chen chúc nhau tại công trường Thánh Phêrô để đón Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, thì một tiếng nổ chát chúa vang lên làm mọi người đứng tim, Đức Thánh Cha đã ngã gục trên chiếc xe mui trần, máu vọt lên tung tóe. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại: một vị Giáo hoàng bị mưu sát. Ali Agca, hung thủ tội ác, bị bắt ngay tại chỗ. Người thanh niên Thổ Nhĩ Kỳ này bị giam tại nhà tù Rebibbia ở Rôma, cả thế giới kinh hoàng về tội ác tầy trời này. Năm 1984, thế giới còn kinh ngạc hơn nữa: Đấng bị thảm sát đã đến nói chuyện với kẻ sát hại mình. Không ai biết hai bên nói gì. Nhưng người ta rất cảm động thấy Đức Thánh Cha bắt tay Ali Agca với nụ cười rất trìu mến.
Đây là hình ảnh sống động nhất về tình yêu Đức Giêsu niềm nở đón tiếp các tội nhân. Đức Thánh Cha, vị đại diện Đức Giêsu, bị bắn gục, vẫn tỏ lòng rất nhân từ đối với kẻ tội ác. Ali đã nhập vào đoàn hành hương của đoàn chiên hiền lành đang vui mừng chào đón chủ chiên đến thương yêu, chăm sóc, nuôi dưỡng tinh thần đoàn chiên bằng lời hằng sống. Ali như con chiên ghẻ, như đứa con phung phá, xô đến giết chủ chiên, giết cha mình, nhưng người cha hiền, người mục tử nhân hậu đã sẵn sàng liều chết đến cứu đứa con hư, sẵn sàng tha thứ, hòa giải và vui mừng ôm lấy đứa con trở về.
Bài Tin Mừng nói lên tình yêu của Đức Giêsu đối với những người tội lỗi qua ba dụ ngôn: Chiên lạc, đồng tiền mất và đứa con đi hoang. Mỗi dụ ngôn diễn tả một sắc thái đậm tình sâu thẵm.
1- Dụ ngôn chiên lạc: Ông chủ có 100 con chiên, chỉ lạc một con giữa cảnh bao la rừng núi, biết đâu mà tìm, thế mà với đôi chân trần đạp trên sỏi đá, gai gốc, ông đã chạy lang thang khắp nơi để tìm con chiên lạc. Một con sánh với 99 con còn lại thì chỉ như số không, không đáng gì, đâu có làm ông nghèo đi chút nào! Việc làm của ông chứng tỏ hùng hồn rằng: Bất cứ giá nào, ông cũng không để mất, dù một con. Một con được ông cho giá trị như 99 con. Nó giống như Đại tướng bất cứ giá nào cũng không để chết đi một người lính quèn, một người lính được coi như cả một đoàn quân. Chết một tên lính gác, có thể chết cả đoàn quân.
Đức Giêsu như chủ chiên, mỗi người dù chẳng đáng gì, nhưng đều được Người thương yêu đặc biệt nhưng không. Người cứu độ từng người với bất cứ giá nào. Người thương một người tội lỗi như yêu tất cả các thánh. Người đánh giá mạng sống mỗi người hơn tất cả lời lãi thế gian. Vì thế, “cả triều thần thiên quốc, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối”. Đức Giêsu còn đặc biệt tôn trọng từng người tội lỗi: Người ăn uống với họ, tọa đàm với họ và còn vui mừng vác họ lên vai.
Thực ra, tình yêu Thiên Chúa đối với con người không thể so sánh với bất cứ dụ ngôn nào được. Chủ với chiên cũng chỉ là loại thụ tạo, còn Thiên Chúa với con người cách xa nhau vô cùng. Thiên Chúa là Đấng tạo hóa, con người là thụ tạo. Thiên Chúa thánh thiện cao sang vô cùng, con người tội lỗi và thấp hèn như bùn đất. Thế mà, Thiên Chúa đã bỏ trời vinh quang xuống thế chịu chết, cứu vớt con người. “Tình yêu của Thiên Chúa đối với tội nhân không ai hiểu thấu”.
2- Dụ ngôn “Người phụ nữ có mười đồng bạc, chẳng may đánh mất một đồng”. Chúng ta tiếp tục chiêm ngưỡng một khía cạnh khác của tình yêu Thiên Chúa đối với tội nhân. Ở dụ ngôn chiên lạc, con số 1 cực kỳ nhỏ mọn so với số 99 cực kỳ lớn lao. Còn ở đây 1 so với 10 khá quan trọng. Nếu gói gọn cuộc đời của bà vào 10 đồng: Mất 1 đồng là mất sống một ngày, chỉ còn sống chín ngày. Vậy mất một đồng là một thiệt hại lớn đến chừng nào! Thiên Chúa mất đi một linh hồn là Thiên Chúa mất đi một ngày sống, chỉ còn chín ngày nữa thôi. Dụ ngôn nói lên sự khẩn thiết của con người được sống trong tình yêu thương Thiên Chúa. Thiên Chúa coi con người thiết yếu cho sự hiện diện tình thương của Thiên Chúa, giáo lý dạy: Con người không thêm gì cho vinh quang và hạnh phúc nội tại của Thiên Chúa. Nhưng theo dụ ngôn này, mỗi người chiếm một địa vị thiết yếu trong tình yêu của Thiên Chúa đến chừng nào! Nếu không có bệnh nhân, thì đâu có thầy thuốc. Nếu không có tội nhân, thì đâu có tình thương cứu độ nữa. Một kẻ tội lỗi như Phaolô trở lại, quan trọng đến chừng nào cho Thiên Chúa. Thánh Phaolô đã tâm sự với môn đệ Timôthêu rằng: “Trước kia, cha đã từng nói phạm thượng, ngược đãi và lăng nhục Người. Thế mà Đức Giêsu Kitô đã đến thế gian để cứu những người tội lỗi, mà người thứ nhất là cha. Sở dĩ cha được thương xót là vì Đức Giêsu Kitô muốn tỏ bày tất cả lòng khoan dung của Người, trước hết nơi cha, mà đặt cha làm gương cho những ai sẽ tin vào Người, để được sống muôn đời”. “Ôi tội Adam cần thiết thay để Thiên Chúa ban Đấng Cứu độ trần gian”
3- Dụ ngôn: Một người kia có hai con trai, nói lên tình yêu Thiên Chúa càng tuyệt diệu hơn nữa đối với người tội lỗi. Người cha có hai con trai: một đứa đi hoang, một đứa ở nhà chẳng coi cha ra gì, lại ghen ghét giận dữ cha và muốn đứa em chết đi. Thế là người cha kể như mất cả hai con. Ông sẽ bị rêu rao là kẻ bạc phước, neo đơn, cô độc, tuyệt tự. Ông không còn được ai gọi là cha nữa.
Nếu xếp cả nhân loại vào hai hạng đứa con đó, thì Thiên Chúa không còn ai để ca tụng Thiên Chúa là Cha nữa, vì “nơi cõi chết, ai nhớ đến Người; chốn âm ty, ai sẽ chúc tụng Người (Tv. 6,6). Hơn nữa, quỷ sẽ rêu rao xỉ nhục Người như Môsê đã nói với Chúa rằng: “Chúa đã đưa dân này ra khỏi Ai Cập … mà lại tiêu diệt chúng … thì Ai Cập sẽ rêu rao rằng: Chúa đã manh tâm đưa chúng ra đi để giết chúng nơi sơn cước và tận diệt chúng khỏi mặt đất” (Xh. 7, 12 Bài đọc II).
Không, không bao giờ, tình yêu của Thiên Chúa không cho phép xẩy ra như vậy, vì “Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống” (Lc. 20, 38). Thiên Chúa đã dựng nên và cứu độ con người để họ được sống vinh quang hạnh phúc muôn đời, để tình yêu Thiên Chúa được cả sáng.
Lạy Chúa, Chúa đã ban phúc cho chúng con nhưng không. Xin cho chúng con biết trao lại cho nhau nhưng không. Mạng sống của chúng con thiết yếu nhờ vào sự cứu độ của người khác, xin cho mọi người chúng con cứu độ nhau để chúng con được cứu độ và tôn vinh lòng thương xót của Chúa đến muôn đời.
Trong phần chia sẻ sáng hôm nay, tôi muốn dừng lại ở thái độ của người cha và của người anh cả. Trước hết là của người cha.
Người Cha
Ở vào hoàn cảnh của chúng ta, chúng ta có nhiều cách xử sự. Trước hết, ông có thể đuổi ngay đứa con vừa mới trở về và nói với nó: Hãy cút đi, hãy xéo cho khỏi mặt tao. Mày đã chẳng đem lại gì ngoài sự nhục nhã đến cho gia đình. Đồ khốn nạn, đồ mất dạy. Mày coi cả xứ này đang bàn tán về gia đình mày, vì vậy mà tao chẳng dám vác mặt đi tới đâu. Thứ đến ông có thể thử thách đứa con một thời gian, và đây là điều mà bất cứ người con nào đã bỏ nhà ra đi, khi trở về đều mong được hưởng: Xin hãy xử với con như một người làm thuê trong gia đình. Sau hết người cha có thể làm thinh, không thèm để ý đến nó. Cách này là một hình phạt nặng nề nhất đối với đứa con trở về. Nhưng người cha đã chẳng chọn một cách nào trong ba cách nói trên, thay vào đó, ông sung sướng như một đứa trẻ khi thấy cha mẹ đi xa trở về. Ông còn trút như mưa trên đứa con những dấu chỉ mạnh mẽ để chứng tỏ tình yêu khoan dung ông dành cho con. Ông phục hồi quyền lợi cho nó một cách tràn đầy như một người con của ông vậy. Người ta nói rằng đứa con trở về đó như đã mất mà nay lại tìm thấy và lại được thương mến hơn trước.
Vậy Chúa Giêsu muốn nói về ai thế? Ngài nói về Thiên Chúa, bởi vì chính người cha chứ không phải là đứa con giữ vai trò chính trong câu chuyện. Đó là cách Thiên Chúa cư xử với tội nhân khi họ quay trở về với Ngài, khi họ thực sự đổi mới cách ăn nết ở. Đó là tâm tình đích thực của Thiên Chúa.
Người con cả
Trái lại người con cả sau khi nghe biết đứa em trở về và người cha giết bê béo ăn mừng, thì anh liền nổi giận và nhất quyết không vào nhà. Anh đã trả lời cùng người cha: Cha coi, đã bao năm tôi hầu hạ cha, không hề trái lời cha, vậy mà chẳng bao giờ cha cho tôi một con bê con để ăn mừng với chúng bạn. Câu chuyện có thể chấm dứt một cách tốt đẹp khi bữa tiệc được chuẩn bị. Vậy tại sao Chúa Giêsu lại thêm phần này vào dụ ngôn? Tôi xin thưa vì Ngài muốn mạc khải cho chúng ta biết về cách thức Thiên Chúa suy nghĩ, cách thức ấy hoàn toàn trái ngược với con người. Như người anh cả xét đoán đứa em thế nào thì người đời cũng đoán xét kẻ tội lỗi như vậy, dù họ đã ăn năn hối cải. Người đời đâu có thèm vui mừng khi thấy một người tội lỗi trở lại như Thiên Chúa đã làm. Đối với họ, kẻ tội lỗi là một con người xấu xa và đáng khinh chê. Họ còn chống đối lòng thương xót của Chúa nữa. Và đó cũng là lý do để Chúa nói lên dụ ngôn này. Người bị người ta chê trách vì đã làm bạn với bọn thu thuế và tội lỗi, khi những người này tìm đến để mong Ngài ban ơn cứu độ. Chúng ta chỉ cần đọc lại câu dẫn nhập là thấy rõ điều đó: Khi ấy những người thu thuế và tội lỗi đến gần Người để nghe giảng, thấy vậy bọn biệt phái và luật sĩ lẩm bẩm: Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi và cùng ăn uống với chúng. Với ba dụ ngôn vừa nghe, Chúa Giêsu đã chỉ trích cái nhìn hẹp hòi của người đời, chứng tỏ cho họ thấy rằng họ chẳng biết gì về Thiên Chúa. Người đã nhấn mạnh: Trên trời sẽ vui mừng biết mấy khi một kẻ tội lỗi ăn năn hối cải hơn là 99 người công chính. Dù có vấp phạm, chúng ta đừng bao giờ thất vọng, trái lại hãy tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa mà chỗi dậy, mà trở về để được hưởng nhờ ơn Ngài tha thứ.
Chủ đề của đoạn Tin Mừng hôm nay đó là tình thương tha thứ của Thiên Chúa, nhất là qua hình ảnh người cha nhân hậu.
Thực vậy, đây là hình ảnh của một tình yêu không biên giới và vô điều kiện của Thiên Chúa. Ngài là Cha và chúng ta là con. Làm con thì có quyền hưởng gia tài của cha. Thiên Chúa luôn tôn trọng quyền tự do của chúng ta nhưng đồng thời mỗi người chúng ta lại phải chịu trách nhiệm về mọi hành vi của mình trước mặt Ngài. Vì tôn trọng quyền tự do của con, người cha đã chia gia tài cho cậu út và để cho cậu ra đi. Nhưng tình yêu của người cha luôn đi theo cậu không ngơi, luôn mong chờ cậu trở về. Ngày ngày ông những nóng cùng trông. Cho tới một ngày kia, ông nhìn thấy bóng dáng cậu từ xa thất thểu lê lết từng bước chân. Thế là ông vội chạy về phía cậu, quên đi tuổi già sức yếu của mình, ông lại gạt bỏ khỏi lòng mình mọi đau buồn về lầm lỗi thất hiếu của cậu. Ông ráng chạy, chạy thật nhanh mà ôm lấy người con yêu dấu, đã chết mà nay lại sống. Rồi ông mở tiệc linh đình để ăn mừng.
Thiên Chúa là thế. Vì là Cha, Ngài luôn trông chờ, sẵn sàng đón nhận chúng ta trở về. Chỉ cần chúng ta biết nhớ lại tình thương vô bờ bến của Cha, nhận ra sự dại dột của mình mà ăn năn sám hối. Chúa luôn tha thứ và muốn chúng ta được lãnh nhận ơn tha thứ, như một trong những ơn cao đẹp nhất của tình yêu Ngài ban cho con người.
Chúng ta cũng nên dừng lại một chút với thái độ của người anh cả, nhờ đó mà hiểu được ý Chúa muốn dạy chúng ta qua dụ ngôn này. Người anh cả trong thời Chúa Giêsu, ám chỉ dân Do Thái. Họ tưởng rằng chỉ họ là trung thành với Thiên Chúa và đáng được Chúa thương, có quyền hưởng gia tài, họ khinh bỉ các dân tộc khác và những kẻ mà lề luật đạo cũ gọi là tội lỗi.
Ngày nay, người công giáo chúng ta cũng nên thật trọng, kẻo lại có cách nhìn và thái độ của đạo cũ, tự coi mình là nắm hết chân lý, có sự trọn hảo đạo đức, rồi khinh chê, xa tránh và thậm chí thù ghét những người không cùng chia sẻ một niềm tin, một lối sống như chúng ta.
Thiên Chúa rất khác chúng ta. Đối với Ngài, mỗi con người là như một khúc ruột của mình. Ngài thương mỗi người, để ý chăm sóc đến mỗi người như chỉ có một không hai trên đời. Nếu chúng ta lỡ lần đường lạc lối, Ngài tạo mọi điều kiện để chúng ta có thể trở về. Và điều kiện duy nhất Ngài đòi hỏi chúng ta, đó là tin vào tình thương tha thứ của Ngài, để mà dám trở về. Sự trở về của con chiên lạc đem lại niềm vui cho mục tử nhiều hơn niềm vui có chín mươi chín con ở lại trong đàn. Niềm vui tha thứ thật trong lòng là niềm vui của những người biết và dám sống nội dung của kinh Lạy Cha, lời kinh duy nhất của những công dân đích thực Nước Trời, đó là: Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.
Qua phần phụng vụ lời Chúa hôm nay, tôi muốn chia sẻ một vài ý nghĩ đơn sơ về tình yêu của Thiên Chúa.
Trước hết đó là một tình yêu đi bước trước.
Thực vậy, hình ảnh mà tiên tri Ezechiel cũng như nhiều vị tiên tri khác đã dùng, đó là hình ảnh một mục tử lặn lội đi tìm kiếm con chiên, không quản ngại đường xa và khó khăn khôn lường.
Chính Chúa Giêsu cũng đã nhiều lần khẳng định chân lý ấy: Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước khi có chúng ta. Người đã cứu độ chúng ta trước khi chúng ta trở về, nghĩa là khi chúng ta còn ở trong tội lỗi. Thái độ và cách thức cư xử của Chúa Giêsu đối với những kẻ thu thuế và tội lỗi đã là một lời nói hùng hồn chứng minh cho sự thật trên.
Từ đó chúng ta nhận thấy tình yêu đi trước cũng chính là tình yêu vô điều kiện và hoàn toàn vô vị lợi, hoàn toàn nhằm tới hạnh phúc của người được yêu thương. Chỉ mình Thiên Chúa, mới có được thứ tình yêu tinh ròng và cao cả như vậy, còn chúng ta chúng ta được Chúa mời gọi để sống trọn lành như Ngài, nghĩa là cũng phải có một tình yêu đi bước trước, một tình yêu không điều kiện, một tình yêu vô vị lợi đối với những người anh em.
Tiếp đến tình yêu của Thiên Chúa là một tình yêu thiên vị.
Lời xác quyết này có lẽ làm cho chúng ta hơi ngạc nhiên. Đúng thế, Thiên Chúa yêu thương hết mọi người, không trừ một ai, không bỏ bất cứ con người nào, dù người đó xấu xa tội lỗi đến đâu chăng nữa. Tuy nhiên có một điều cũng hết sức hiển nhiên là trong cung cách sống của Chúa Giêsu, chúng ta thấy được một tình yêu ưu tiên, một tình yêu thiên vị, dành cho những kẻ sống bên lề xã hội thời bấy giờ, đó là đàn bà, trẻ em, những người thu thuế, những người ngoại đạo và những kẻ tội lỗi công khai, như đĩ điếm, trộm cướp… Người Do Thái đã gán cho Ngài cái biệt hiệu là bạn đồng bàn với phường tội lỗi, và họ đã nói lên được một sự thật.
Tuy nhiên họ không hiểu được tâm trạng và cõi lòng của Thiên Chúa như chính Ngài đã diễn tả: Tư tưởng và đường lối của Ta thật khác biệt với tư tưởng và đường lối của các ngươi. Quả thật, Chúa Giêsu đã gần gũi, đã làm bạn, đã cứu vớt những kẻ tật nguyền, bệnh hoạn và tội lỗi. Ngài đã khẳng định một cách rõ ràng và minh bạch: Chỉ có bệnh nhân mới cần đến thầy thuốc, và Ngài chính là vị thầy thuốc mà các tâm hồn ốm đau đang chờ đón. Hơn thế nữa, Chúa Giêsu còn xác định mục tiêu Ngài phải theo đuổi, sứ mạng Ngài phải thực hiện khi đến trong trần gian:
– Con Người tới là để tìm kiếm và cứu chuộc những gì đã hư đi.
Chỉ khi nào chúng ta hiểu được cái thế ưu tiên, cái thế thiên vị ấy trong cách chọn lựa của Chúa, chúng ta mới nghiệm ra được tại sao nỗi vui mừng hân hoan của Chúa lại lớn lao đến thế, khi tìm thấy một con chiên lạc, một đồng bạc bị đánh rơi hay một người con hoang đàng trở về nhà cha. Cả thiên đàng sẽ vui mừng vì một kẻ tội lỗi sám hối ăn năn hơn là 99 người công chính không cần ăn năn sám hối.
Và như vậy, ước muốn của Thiên Chúa là con người được cứu rỗi và sống trong tình thương yêu của Ngài, chứ không phải là lặn ngụp trong chốn bùn nhơ tội lỗi, để rồi cuối cùng sẽ bị kết án đoạ đầy muôn kiếp.
Chủ Ðề: Lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa. Người mục tử đi tìm con chiên lạc. (Lc 15, 4)
Anh chị em thân mến
Chúng ta rất hạnh phúc vì có một Thiên Chúa rất nhân từ, Ngài sẵn sàng tha thứ cho những kẻ tội lỗi biết sám hối. “Nếu Chúa chấp tội thì ai nào đứng vững được!”
Thánh lễ là một bằng chứng biểu lộ lòng nhân từ của Chúa: mặc dù chúng ta nhiều tội lỗi, nhưng Chúa vẫn mở rộng cửa đón chúng ta vào nhà Ngài và cho chúng ta cùng ăn đồng bàn với Ngài.
Chúng ta hãy bắt đầu Thánh lễ bằng cách nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình và xin Chúa tha thứ.
* Dùng công thức sám hối trong sách lễ Rôma trang 567.
III. Lời Chúa
Đoạn này bắt đầu câu chuyện con bê vàng.
Ngay sau khi Thiên Chúa kết Giao ước với dân Israel, họ đã vi phạm Giao ước đó bằng cách đúc tượng một con bê vàng và thờ lạy trước tượng đó. Thiên Chúa rất giận. Ngài cho Môsê biết Ngài muốn tiêu diệt họ, thay vào đó Ngài sẽ tạo một dân mới từ dòng dõi Môsê. Nhưng Môsê đã van xin Thiên Chúa và cuối cùng Thiên Chúa nguôi giận không giữ ý định tiêu diệt dân Israel nữa.
Trong chuyện này có 2 điểm đáng chú ý:
Môsê đã liên kết với dân: mặc dù Thiên Chúa hứa làm một dân mới từ dòng dõi của ông, nhưng ông vẫn xin Thiên Chúa duy trì dòng dõi Israel.
Thiên Chúa tha thứ cho dân không phải vì Môsê mà vì chính lòng nhân từ Thiên Chúa của Ngài. Câu chuyện kết thúc bằng câu “Thiên Chúa đã thương, không giáng phạt dân Ngài như Ngài đã đe”.
Lời cầu nguyện của tội nhân sám hối. Lý do được nêu lên để nài xin tha thứ không gì khác hơn là lòng nhân từ thương xót của Chúa: “Lạy Chúa xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm”.
Khung cảnh: thấy Chúa Giêsu gần gũi với những người tội lỗi đến gần, nhóm pharisêu và kinh sư trách Ngài. Chúa Giêsu đã dùng những dụ ngôn để trả lời cho họ.
Có 3 dụ ngôn: 1 con chiên trong số 100 con bị mất, 1 đồng trong số 10 đồng bị đánh rơi, và 1 đứa trong hai đứa con bỏ nhà đi hoang. Tỉ lệ mất mát ngày càng cao (1/100 à 1/10 à ½). Giá trị những thứ bị mất cũng ngày càng cao (1 con vật, đồng bạc – người ta thường nói “đồng tiền liền khúc ruột – và 1 đứa con). Tất cả những dụ ngôn này đều đề cao hình ảnh một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Ngài xót xa khi một người lầm đường rơi vào tội lỗi. Do đó Ngài tha thiết tìm cứu người tội lỗi. Khi cứu được một người tội lỗi, Ngài rất vui mừng.
Thánh Phaolô tạ ơn Thiên Chúa vì lòng nhân từ thương xót của Ngài:
“Trước kia tôi là kẻ lộng ngôn, bắt đạo và ngạo ngược, nhưng đã được Ngài thương xót”
“Đức Kitô đã đến thế gian để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi”
“Sở dĩ tôi được thương xót là vì Chúa Giêsu Kitô muốn tỏ bày tất cả lòng đại lượng của Ngài nơi tôi là kẻ đầu tiên, mà đặt tôi làm gương cho những ai sẽ tin vào Ngài”.
* 1. Giá trị của từng con người
Một hội từ thiện kia xây dựng một ngôi trường nhằm giúp cho những thiếu niên hư hỏng hoán cải. Khi bàn đến những chi tiết trong việc điều hành trường như mua sắm phương tiện, thuê mướn giáo viên v. v. một hội viên phát biểu: “Chúng ta đừng ngại tốn kém. Chỉ cần hoán cải được một thiếu niên thôi thì tốn bao nhiêu cũng đáng”. Một người khác hỏi tại sao thì ông này đáp: “Bởi vì thiếu niên hư hỏng ấy là con của tôi”.
Bài Tin Mừng hôm nay gồm tới 3 dụ ngôn. Dụ ngôn đầu xem ra không hợp lý: ai lại bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc? Dụ ngôn thứ hai cũng chẳng có sức thuyết phục bao nhiêu: một đồng xu có đáng là bao so với công sức mà người đàn bà kia bỏ ra để tìm lại nó? Nhưng rồi tất cả đều trở thành hợp lý khi ta đọc dụ ngôn thứ ba: Ý của Chúa Giêsu không nhằm nói tới con chiên, cũng không nói tới tiền bạc mà nói tới con người. Trước mặt Thiên Chúa, mỗi một con người đều có giá trị vô cùng, bởi vì mỗi một con người, dù là tội lỗi, cũng đều là con của Ngài.
Tuy nhiên có mấy ai chia xẻ tâm ý của Chúa? Những người pharisêu và các kinh sư thấy Chúa Giêsu bỏ công lui tới với những người tội lỗi thì họ cho là mất công vô ích nên xầm xì phản đối. Đối với họ, việc làm của Chúa Giêsu là không đáng, bởi vì những kẻ tội lỗi là hạng đáng vất đi. Nhưng đối với Chúa Giêsu, đó là những con người, những giá trị. Một đồng xu quý giá thế nào đối với người đàn bà nghèo khổ, một người con quý giá thế nào đối với tấm lòng người cha, thì một người tội lỗi cũng đáng giá thế ấy đối với tấm lòng của Thiên Chúa.
Thế còn việc bỏ 99 con chiên trong đàn để đi tìm con chiên lạc thì sao? Vì con chiên ấy cần được chăm sóc hơn 99 con kia: nó cô đơn, nó bơ vơ, nó đói khát hơn, nó bị nguy hiểm nhiều hơn. Vì thế nên người mục tử nhân lành không thể ở yên chờ nó tìm được đường về, mà phải đích thân ra đi tìm nó. Chúa Giêsu đã làm như người mục tử ấy: Ngài không chờ kẻ tội lỗi đến với mình, nhưng được bước trước đến với họ. Ngài kết thân với họ trong tình trạng của họ còn đang là tội nhân, còn đang lầm lạc. Chính đó là cách đối xử khác những người pharisêu và kinh sư, và chính đó là lý do khiến họ xầm xì phản đối. Nhưng chính cách đối xử này đã hoán cải được một người pharisêu nổi tiếng là Thánh Phaolô (bài đọc 2).
* 2. Cái mất là cái quý
Nhiều người không thể hiểu tại sao người mục tử bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc, và người đàn bà còn 9 đồng trong tay lại chịu khó tìm cho bằng được một đồng bị mất.
Lý do là: cái mất đi trở thành cái quý giá. Rất nhiều thứ khi bị mất rồi chúng ta mới thấy quý.
Sự quý giá của một vật hay một người không chỉ do vật hay người đó đã làm ích cho ta (thí dụ một chiếc đồng hồ chính xác, một người giúp việc tận tụy), mà còn do những công sức mà ta đã đổ dồn vào đó (thí dụ bức tranh mà người họa sĩ đã tốn nhiều thời gian để vẽ, một người thợ mà ông thầy đã dầy công đào tạo), và còn do những hy sinh đau khổ mà ta đã dành cho vật hay người đó (như đứa con mà người mẹ phải sinh nặng đẻ đau)
Có một câu chuyện biến ngôn như sau: Chúa Giêsu gặp một người mục tử đang rất buồn rầu. Ngài hỏi tại sao thì người ấy đáp: “Vì tôi lạc bị mất một con chiên”. Chúa Giêsu nói: “Để Ta đi tìm nó cho”. Một lúc sau, Chúa Giêsu trở lại, ôm theo con chiên lạc giao lại cho người mục tử, và căn dặn: “Từ nay anh phải yêu thương nó, chăm sóc nó nhiều hơn những con khác nhé, vì Ta đã tốn rất nhiều công sức mới tìm lại được nó đó”.
Tất cả chúng ta đều là những đồng bạc đã từng bị mất, những con chiên đã từng đi lạc và những đứa con đã từng đi hoang. Nhờ công lao khó nhọc của nhiều người và nhất là của Chúa mà chúng ta đã được tìm lại. Vậy chúng ta phải có những tâm tình gì?
Tâm tình cảm mến, vì mình đã hư mất mà đã được tìm lại.
Tâm tình vui sướng, vì biết mình là đối tượng được thương yêu nhiều hơn.
Và tâm tình tự trân trọng, đừng để mình bị lạc mất thêm một lần nào nữa.
* 3. Những con người bị mất
Không chỉ đồ vật hay thú vật bị mất, mà chính con người cũng có thể bị mất.
Những con người bị mất ấy là ai?
Là những đứa trẻ không tìm được hạnh phúc trong gia đình nên đi hoang.
Là những thiếu niên bị thói xấu xã hội lôi kéo.
Là những người nghiện ngập đến nỗi hư cả cuộc đời.
Là những vợ chồng bất thuận đến nỗi không còn là vợ chồng với nhau.
Là những anh em bất hòa không còn coi nhau là anh em nữa.
Là những tín hữu yếu đuối lỡ phạm tội nên mặc cảm và xa lánh gia đình xứ đạo.
Những con người lạc mất ấy không ở đâu xa, mà đang ở bên cạnh chúng ta, ở giữa chúng ta. Nhưng buồn thay, nhiều người không hề quan tâm đi tìm họ lại.
* 4. Tuyệt đỉnh của yêu thương (Lc 15,1-12)
Một lần kia, các tu sĩ trong miền dẫn tới đức Giám Mục Amôna một thiếu nữ mang bầu xin ngài ra hình phạt. Nhưng Đức cha đã ban phép lành cho thai nhi, rồi ra lệnh ban cho cô sáu tấm vải bằng lanh mịn. Những kẻ tố cáo lại nói:
– Tại sao Đức Cha làm như thế? Xin ra cho nó một hình phạt.
Ngài ôn tồn bảo:
– Anh em thử nghĩ xem, cô ta đã đau khổ muốn chết được; tôi phải làm gì hơn nữa.
Nói thế rồi ngài cho cô ta về. Từ đấy không tu sĩ nào còn dám tố cáo ai nữa.
***
Cũng như các tu sĩ trong câu chuyện trên đây, nhóm Pharisêu và các kinh sư thường lên án những người tội lỗi, nên khi Chúa Giêsu tiếp đón những hạng người này thì họ lẩm bẩm kêu trách Người. Thấy vậy, Chúa Giêsu đã trả lời bằng ba dụ ngôn: Con Chiên Lạc Mất, đồng Bạc Đánh Rơi, và Đứa Con Hoang Đàng, để bày tỏ lòng nhân hậu và niềm vui của Thiên Chúa dành cho người tội lỗi hối cải ăn năn.
Còn gì vui bằng khi cái đã mất lại tìm thấy được; còn gì sướng hơn khi cái tìm thấy lại là vật quí. Tìm kiếm chính là mục đích của Con Thiên Chúa khi xuống trần gian: “Con Người đến tìm kiếm những gì đã mất”. Con người là đối tượng duy nhất mà Thiên Chúa muốn kiếm tìm. Con người thật vô cùng quí giá trước mặt Người. Thiên Chúa lao đao vất vả đi tìm kiếm con người. Người không muốn để mất một ai trên trái đất này.
Thiên Chúa yêu thương người tội lỗi, như người mục tử tốt lành sẵn sàng để chín mươi chín con chiên lại đi tìm cho bằng được con chiên lạc mất. Khi tìm thấy rồi mừng rỡ khoác chiên trên vai.
Thiên Chúa yêu thương kẻ lầm lỡ, như người đàn bà cần mẫn, đốt đèn kiếm cho được đồng bạc đánh rơi. Khi thấy rồi tíu tít chia vui với mọi người.
Thiên Chúa yêu thương tội nhân, như người cha già nhân hậu, ngày ngày ra ngõ tìm con. Khi thấy con rồi ông vui mừng chạy lại ôm choàng lấy nó.
Thật vậy, “lỗi lầm là của con người và tha thứ là của Thiên Chúa” (A. Pope). Thiên Chúa yêu thương con người và yêu thương đến cùng. Tuyệt đỉnh của yêu thương chính là tha thứ, vì thế dù phải chịu hấp hối lâu dài và đớn đau khôn tả, phải chịu khinh miệt và chối bỏ, nhưng Người vẫn cầu nguyện tha thiết: “Lạy Cha, xin tha cho họ”. Đây chính là lời rõ ràng và trang trọng nhất nói lên tâm hồn cao thượng và tấm lòng nhân hậu của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu.
Thiên Chúa luôn sẵn sàng tha thứ cho chúng ta, những con người lầm lỗi; nhưng Người chỉ có thể thứ tha khi chúng ta thật lòng sám hối. Người trộm lành suốt một đời lầm lỡ, thế mà chỉ trong giây phút cuối cùng, tỏ lòng sám hối ăn năn đủ trở nên một vị thánh. Ông trở nên thánh không phải vì ông là người tội lỗi, nhưng vì ông nhận biết mình là kẻ tội lỗi. Đứa con hoang đàng được người cha tha thứ cũng vì anh đã biết nhận ra lỗi lầm, trở về sám hối ăn năn. Người cha không chỉ tha thứ mà còn phục hồi chức vị làm con. Một chiếc nhẫn mới, một đôi giầy mới, một bữa tiệc linh đình, vinh dự còn lớn hơn cả trước khi ra đi.
Nếu Thiên Chúa đã tỏ lòng nhân hậu và tha thứ cho chúng ta, thì Người muốn chúng ta cũng hãy tha thứ cho nhau như người cha nhân hậu xin ông anh cả tha thứ cho đứa em lầm lỗi.
Người ta chỉ có thể dễ dàng tha thứ cho kẻ khác khi ý thức thân phận mỏng dòn yếu đuối của mình. Có nhận ra mình hay lầm lỗi, con người mới dễ cảm thông tha thứ cho những lỗi lầm của anh em. Đừng bắt người có tội phải bị trừng phạt mới hả dạ, đừng đòi hỏi cho được sự công bằng mới thôi, vì Martin Luther King có viết: “Nếu cứ áp dụng luật mắt đền mắt thì mọi người đều trở nên mù loà”.
***
Lạy Chúa, nếu Chúa không tha thứ cho các tội nhân thì thiên đường sẽ trống rỗng, và thế giới này không có thánh nhân.
Xin cho chúng con mỗi lần được Chúa thứ tha lại thấy mình nên giống Chúa hơn, vì đã biết tha thứ cho anh em. Amen. (Thiên Phúc)
a/ Sự tha thứ của Chúa
Một nhà truyền giáo trên một đảo ngạc nhiên khi nhìn thấy một phụ nữ mang một nắm cát ướt bước vào túp lều của ông.
– Ông biết đây là gì không?
– Nó giống như cát.
– Ông có biết tại sao tôi mang nó vào đây không?
– Không, tôi không thể tưởng tương được tại sao.
– Đây là tội tôi. Tội tôi không thể đếm được như cát biển. Làm thế nào tôi có thể được tha thứ tất cả?
– Bà hãy đưa cát đó ra bãi biển và chất thành một ít cát. Rồi ngồi nhìn xem những cơn sóng ập tới, chắc chắn sẽ cuốn đi tất cả. Đó là cách Chúa thực hiện sự tha thứ của Ngài. Lòng nhân từ của Chúa bao la như đại dương. Hãy thành thật hối lỗi và Chúa sẽ tha thứ.
b/ Không cần đếm
Ở Phi châu, có một bộ tộc khá kì lạ. Họ không bao giờ đếm, không ai biết tí gì về toán học. Có người hỏi một người dân bản địa có bao nhiêu cừu. Anh đáp: không biết. “Vậy nếu lỡ mất một hai con, làm sao anh biết? ” Câu trả lời thật ý nhị: “Không phải tôi mất một con số, mà mất một bộ mặt. “
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Người sẵn sàng tha thứ mọi lỗi lầm của người có tội thật lòng ăn năn thống hối. Tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa, chúng ta cùng khẩn khoản nài xin:
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy chúng con phải tha thứ cho nhau không chỉ bảy lần, mà đến bảy mươi lần bảy. Xin ban ơn giúp sức để chúng con có thể sống trọn vẹn lời Chúa dạy. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
– Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta là những người vô cùng hạnh phúc vì có một người Cha vô cùng nhân từ thương xót là Thiên Chúa. Với tất cả tâm tình kính mến, chúng ta hãy dâng lên Ngài lời Kinh Lạy Cha sau đây.
VII. Giải tán
Chúng ta đã thấy Chúa đã đối xử với chúng ta cách nhân từ thương xót như thế nào. Chúng ta cũng hãy đối xử như thế với những anh chị em chúng ta.
(Suy niệm chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Chúa Nhật XXIV Thường Niên Năm C mời gọi suy niệm về tấm lòng nhân hậu của Thiên Chúa, Người sẵn sàng tha thứ cho những kẻ tội lỗi biết sám hối:
“Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội,
nào có ai đứng vững được chăng?
Nhưng Chúa vẫn rộng tha thứ
để chúng con biết kính sợ Ngài” (Tv 130: 3-4).
Xh 32: 7-11, 13-14:
Nhờ lời chuyển cầu tha thiết của ông Mô-sê, Thiên Chúa đã nguôi giận và tha thứ tội lỗi của dân.
1Tm 1: 12-17:
Thánh Phao-lô viện dẫn cuộc hoán cải của chính mình để làm chứng “tất cả lòng đại lượng” của Đức Ki-tô, Đấng “đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta” (Rm 8: 34).
Lc 15: 1-10:
Chúa Giêsu trả lời cho lời phàn nàn của người Biệt Phái tại sao Ngài giao du với những người tội lỗi qua hai dụ ngôn ngắn: “Con chiên bị lạc đàn” và “Đồng bạc bị đánh mất”. Qua hai dụ ngôn này, Đức Giêsu hiện thân tấm lòng đầy xót thương của Thiên Chúa.
BÀI ĐỌC I (Xh 32: 7-11, 13-14)
Trong khi ông Mô-sê còn lưu lại trên núi, dân chúng bắt ép ông A-ha-ron đúc cho họ một vị thần linh mà họ có thể thấy và chạm được – loại thần linh mà các dân tộc chung quanh đang phụng thờ. Bản văn nhấn mạnh sự kiện con bê được đúc bằng bạc vàng do bàn tay con người, chỉ là một sản phẩm của các nghệ nhân, có tai mà không nghe, có miệng mà không nói, có mắt mà không thấy (x. Tv 105: 19-20; 115: 5tt). Bản văn cũng nói đến “lễ hội” (32: 5) có thể hàm ý đến những nghi lễ cúng tế thần linh bắt chước những gì dân Do thái thấy ở nơi các dân tộc chung quanh.
Thiên Chúa báo tin dữ cho ông Mô-sê và ngỏ ý muốn tiêu diệt dân phản nghịch, dân mà Ngài không còn gọi là “dân Ta” một cách thân tình nữa, nhưng là “dân ngươi” (32: 7) một cách xa lạ. Tội này quá nghiêm trọng, đáng bị trừng phạt bằng họa diệt vong. Nhưng vì công lao khổ nhọc của ông Mô-sê, Thiên Chúa hứa với ông Ngài sẽ làm nên một dân tộc khác, lớn hơn dân Do thái, xuất từ ông để dân ấy thừa hưởng lời hứa (32: 10).
Ông Mô-sê tuy rất buồn giận dân, nhưng lòng thương của ông dành cho dân khiến ông không muốn dân bị hủy diệt. Ông chuyển cầu cho dân. Ông gợi lên hai lý do để xin Chúa tha thứ. Lý do thứ nhất, tiêu diệt dân có thể khiến cho người ta hiểu lầm lòng tốt của Thiên Chúa: người Ai-cập có thể lấy cớ đó mà rêu rao rằng “chính vì ác tâm mà Thiên Chúa đã đưa chúng ra, để giết chúng trong miền núi và tiêu diệt chúng khỏi mặt đất” (32: 12). Lý do thứ hai, tiêu diệt dân thì đi ngược lại với những lời Thiên Chúa đã hứa với các tổ phụ: “Ngài đã lấy chính danh Ngài mà thề với các vị ấy rằng: Ta sẽ làm cho dòng dõi các ngươi đông đúc như sao trên trời, và sẽ ban cho dòng dõi các ngươi tất cả miền đất ấy, là miền đất Ta đã hứa, chúng sẽ thừa hưởng miền đất ấy đến muôn đời” (32: 33; x. St 22: 16-18).
Có lẽ hai lý do này không đủ làm nguôi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa cho bằng chính hành vi chuyển cầu của ông cho dân. Ông là một phàm nhân mà còn không muốn dân phải chết dù tội của dân đáng phải chịu như thế, Thiên Chúa lại không mở rộng lòng mà tha thứ cho dân sao? Vai trò chuyển cầu của ông Mô-sê cho toàn dân được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong bộ Ngũ Thư: tại Ai-cập (Xh 5: 22-23; 8: 4; 9: 28; 10: 17), nhất là nơi hoang địa (Xh 32: 11-14, 30-32; Ds 11: 2; 14: 13-19; 16: 22; 21: 7; Đnl 9: 25-29), còn được nhắc lại ở Gr 15: 1; Tv 99: 6; 106: 23; Hc 45: 3, và báo trước vai trò chuyển cầu của Đức Giêsu sau này.
BÀI ĐỌC II (1Tm 1: 12-17)
Lời phát biểu chủ chốt trong đoạn trích này là “Đức Ki-tô đã đến thế gian, để cứu những người tội lỗi” (1: 15). Trong tâm tình tri ân, thánh Phao-lô nhắc lại cho ông Ti-mô-thê, người môn đệ thân tín của mình, cuộc hoán cải của thánh nhân (x. Gl 1: 13-16; 1Cr 15:9; Ep 3: 8) và trình bày nó như mẫu gương cho những người khác. Nếu Thiên Chúa đã ban cho thánh nhân tràn đầy ân sủng, Thiên Chúa cũng ban tràn đầy ân sủng cho bất kỳ ai. Không ai tự coi mình là không thể sống sự sống của Đức Ki-tô.
Chúng ta không thể kỳ vọng lòng thương xót của Thiên Chúa tác động trong chúng ta, nếu chúng ta vẫn cứ cố chấp trong tội khi mà chúng ta biết đó là tội (x. Rm 2: 4). Thánh Phao-lô “đã hành động một cách vô ý thức, trong lúc chưa có lòng tin” (1: 13). Chúng ta nhớ lại lời cầu nguyện của Đức Giêsu: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23: 34). Nhưng ngay cả khi không biết việc mình làm, thánh Phao-lô cũng ý thức rằng: “Đức Ki-tô Giêsu, Chúa chúng ta, đã ban cho tôi đầy tràn ân sủng, cùng với đức tin và đức mến của một kẻ được kết hợp với Người” (1: 14). Chính đó là đức tin và đức mến mà hiện nay Đức Ki-tô đổ tràn đầy trên thánh nhân (x. Gl 2: 16; Rm 5: 15-20), vì “tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2: 20).
Ân sủng Thiên Chúa ban đã là mẫu gương khuyến khích mọi người, và hiện nay chính là sứ vụ của thánh Phao-lô (1: 12; x. 2Cr 3: 5-6; 4: 1; 5: 18; 6: 3; Rm 11: 13; Cl 1: 7, 23), quyền năng của sứ vụ đến từ Thiên Chúa chứ không từ thánh Phao-lô (1: 12; x. 2Cr 12: 9; Pl 4: 13), đó là kể cho mọi người biết điều này, ngỏ hầu họ cũng trải nghiệm cùng ân sủng tràn đầy như vậy.
Cuộc hoán cải của thánh Phao-lô làm chứng cho “tất cả lòng đại lượng” của Đức Ki-tô, Ngài sẽ không bao giờ ngừng theo đuổi chúng ta. Đấng yêu thương chúng ta là Đấng “đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta” (Rm 8: 34). Thánh Phao-lô hy vọng rằng thánh nhân sẽ là mẫu gương để không ai còn phải thất vọng. Chúng ta không thể giả vờ như thử không nhận ra tội lỗi tác hại như thế nào, để rồi vẫn cứ ở lỳ trong tội. Nhưng dù chúng ta đã làm bất kỳ điều gì, quá khứ của chúng ta đã như thế nào, Ngài vẫn một mực yêu thương chúng ta. Ngài đã hiến thân mình cho chúng ta và sẽ không bao giờ ngừng kêu mời chúng ta sám hối và tin tưởng vào lòng thương xót của Ngài (1: 16; x. Rm 9: 33; 10: 11), nhờ đó chúng ta được vui hưởng cuộc sống đời đời với Ngài. Tư tưởng này khiến thánh Phao-lô cất lên lời ca ngợi Thiên Chúa bất diệt (Rm 1: 23), vô hình (Cl 1: 15) và duy nhất (Ep 4: 6).
Trong cuộc sống của mình, thánh Phao-lô luôn bày tỏ tình yêu kỳ diệu của Đức Ki-tô (1: 16), được lập đi lập lại như một điệp khúc trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô: “ngợi khen vinh quang của Người” (Ep 1: 6, 12, 14). Đó là kế hoạch của Thiên Chúa đối với toàn thể nhân loại (Ep 1: 3-14). Đó là sứ điệp trọng tâm mà thánh Phao-lô muốn ông Ti-mô-thê bảo đảm thường hằng giảng dạy cho các cộng đoàn Ki-tô hữu khắp miền Ê-phê-xô.
TIN MỪNG (Lc 15: 1-10)
Trong chương 15 này, thánh Lu-ca kể lại ba trong số những dụ ngôn trong đó Chúa Giêsu mô tả niềm vui của Thiên Chúa khi thấy những người tội lỗi hối cải. Tin Mừng dạy rằng không ai bị loại ra ngoài ơn tha thứ của Thiên Chúa, vì thế những tội nhân có thể trở thành những người con yêu dấu của Thiên Chúa nếu họ ăn năn hối cải. Thiên Chúa ước mong những tội nhân hối cải đến mức mỗi một dụ ngôn này đều kết thúc với một điệp khúc kể về niềm vui lớn lao trên trời khi thấy một tội nhân hối hận ăn năn.
Đây không là lần đầu tiên những người thu thuế và những người tội lỗi năng lui tới với Đức Giêsu (15: 1; x. Mt 9: 10). Họ bị hấp dẫn bởi chính lời rao giảng của Đức Giêsu và tấm lòng rộng mở của Người đối với họ. Trái lại, những người Biệt Phái và các kinh sư vấp phạm vì thấy Chúa Giêsu giao du và bầu bạn với những người tội lỗi, những người mà chẳng những họ không chỉ khinh bĩ mà còn cấm không được giao thiệp để khỏi bị ô uế.
Trước đây, Đức Giêsu đã gặp phải phản ứng bất bình như thế và đã trả lời ngắn gọn và đanh thép: “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5: 31-32). Ở đây, Đức Giêsu phát biểu ý kiến của mình theo cách khác, gợi hình và cụ thể, qua ba dụ ngôn, hai dụ ngôn ngắn: “Con chiên bị lạc đàn” (15: 4-7), “Đồng bạc bị đánh mất” (15: 8-10) và một dụ ngôn dài: “Người Cha nhân hậu” (15: 11-32). Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay chỉ trích dẫn hai dụ ngôn ngắn: “Con chiên bị lạc đàn” (15: 4-7) và “Đồng bạc bị đánh mất” (15: 8-10).
Hai dụ ngôn ngắn này được gọi là “cặp dụ ngôn sinh đôi” vì có cùng một cấu trúc song song với nhau. Cả hai dụ ngôn đều bắt đầu với một câu hỏi giả thiết, một lời đáp trả khẳng định. Một cái gì đó “bị mất” (lập lại đến năm lần) mà người ta “đã tìm lại được” (sáu lần). Sau khi đã tìm lại được, người ta chia sẻ niềm vui với người chung quanh. Như vậy, cặp dụ ngôn sinh đôi này không quan tâm đến tới cách thức đã xảy ra sự mất mát; ngay cả việc tìm thấy cái đã mất cũng thuộc về quá khứ. Việc tìm kiếm ít được nhấn mạnh hơn là lời mời gọi cùng chia sẽ niềm vui cả ở dưới thế lẫn ở trên trời. Như thế, việc Chúa Giêsu thường giao du với các kẻ bị loại trừ được biện minh bởi hành động của Thiên Chúa. Và hai dụ ngôn này như muốn nêu lên cho các người Biệt Phái, các kinh sư và cả độc giả một câu hỏi: Các bạn có thể chung vui với Đức Giêsu khi thấy “những người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Ngài giảng” không?
Công việc của người chăn chiên tại xứ Pa-lét-tin là một công việc khó nhọc và nguy hiểm. Đồng cỏ thì hiếm. Cánh đồng cao nguyên ở giữa xứ chỉ rộng chừng vài dặm thôi, còn địa thế phần nhiều là những khe trũng dốc đứng và cảnh sa mạc hoang vu, chiên dể đi lạc. Những người chăn chiên có tài theo dấu vết cách đặc biệt, có thể theo dõi dấu chân của một con chiên đi lạc hằng dặm qua núi đồi.
Tác giả của sách suy niệm “Hosanna” đã quảng diễn niềm vui của người chăn chiên khi gặp được con chiên bị lạc như sau: “Vui với tôi bạn nhé, tôi lại tìm thấy được tình yêu. Đôi mắt tôi không còn nhìn anh em với những thành kiến hẹp hòi. Lời nói tôi thôi làm bạn đau đớn. Tai tôi biết lắng nghe bạn trân trọng, cảm thông. Bàn tay tôi trong tay bạn, ấm nóng yêu thương nhiệt thành. Và tôi đến với bạn với cả tấm lòng của kẻ nhận ra mình được Thiên Chúa yêu thương. Người đặt tình yêu của mình trong hình ảnh bạn và trong đôi mắt tôi. Tạ ơn Chúa đã cho con hạnh phúc của người tìm lại được tình yêu bị lãng quên. Xin Cha cho con luôn biết gìn giữ, trân trọng tình yêu của Người”.
Phải chăng lời phát biểu của Đức Giêsu: “Hơn là chính mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn” là một lời mỉa mai nhằm ngụ ý nhắn gởi đến các người Pha-ri-sêu và kinh sư, vì họ phải biết rằng không ai tự cho mình là công chính trước mặt Thiên Chúa mà tẩy chay và kết án người khác (x. Rm 3: 10tt), vì thế chính họ cũng cần hoán cải? Hay phải chăng đây là một cách nhấn mạnh tận mức, như trong chính dụ ngôn ở câu 4, giá trị khôn sánh của từng cá nhân đối với Thiên Chúa khi họ quay về với Ngài? Điều này không có nghĩa rằng Chúa Giêsu không đánh giá cao sự kiên trung bền vững của những người công chính. Người đơn giản nhấn mạnh niềm vui của Thiên Chúa và các thánh về sự hoán cải của người tội lỗi. Đây rõ ràng là lời kêu gọi ăn năn sám hối, đừng bao giờ nghi ngờ Thiên Chúa sẵn lòng tha thứ.
Công Đồng Vatican II áp dụng dụ ngôn này vào phương cách các linh mục tiến hành công việc mục vụ của mình: “Linh mục hãy nhớ rằng mình phải tỏ cho các tín hữu và lương dân, cho người công giáo và ngoài công giáo thấy gương mặt tử tế và mục vụ của một thừa tác viên thật sự, phải minh chứng cho mọi người thấy chân lý và sự sống. Như mục tử tốt lành, linh mục còn phải đi tìm (x. Lc 15: 4-7) những người đã lãnh nhận phép rửa trong Giáo Hội Công Giáo nhưng đã xao lãng không lãnh nhận các bí tích hay nhất là đã mất đức tin” (Vatican II, Lumen gentium, 28). Tuy nhiên, mỗi một tín hữu cũng phải có chung một mối bận lòng này – được diễn tả một cách huynh đệ – đối với anh chị em của mình, đối với mọi người trên con đường tiến bước đến sự thánh thiện và ơn cứu độ.
Một người đàn bà chong đèn quét nhà moi móc tìm cho bằng được một đồng bị đánh mất rõ ràng là hình ảnh của một bà mẹ quê tần tảo chắt chiu từng đồng xu mà chúng ta thường gặp thấy ở bất kỳ đất nước nào. W. Baclay cung cấp cho chúng ta một lý do khác, một khía cạnh văn hóa thi vị như sau. Tại Pa-lét-tin, dấu hiệu của một người phụ nữ có chồng là một chiếc vành trên đầu làm bằng mười đồng tiền nhỏ bằng bạc xâu lại với nhau bằng một sợi dây bạc. Trong nhiều năm, một cô gái làm lụng để dành cho đủ mười đồng tiền nhỏ đó, bởi vì xâu chuỗi tiền trên đầu của nàng cũng đánh giá ngang bằng chiếc nhẫn cưới. Khi nàng đã sắm được nó, thì nó là của riêng nàng, đặc biệt đến nổi người khác không thể đoạt được của nàng, và nếu có đánh mất một đồng tiền nhỏ thì phải tìm kiếm nó như bất cứ người nào khác cũng làm thế khi đánh mất chiếc nhẫn cưới (Trích từ “Tin Mừng theo Thánh Lu-ca”, 191).
Tác giả “Hạt Giống Nẩy Mầm” đã suy niệm hai dụ ngôn ngắn này cách sâu xa như sau: “Thật cảm động thái độ ân cần của người chăn chiên đối với con chiên bị lạc: chỉ vì một con chiên nhỏ trong bầy một trăm con mà đành bỏ mọi việc để chỉ làm một việc là đi tìm nó, tìm thấy rồi thì vác nó trên vai, mời bạn bè và hàng xóm đến chung vui. Thái độ của người đàn bà mất tiền cũng thế: chỉ một đồng quan mà tìm rất cực khổ và kỷ lưỡng: thắp đèn quét nhà, moi móc, và cũng mời bạn bè hàng xóm chung vui khi tìm thấy. Nhưng cảm động hơn nữa là cảnh trên thiên đàng: ‘Giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng, vì một người tội lỗi ăn năn sám hối’. Chúng ta hãy im lặng. Không cần suy nghĩ, chỉ chiêm ngưỡng, cảm xúc và cảm tạ tình thương vô biên của Chúa đối với tội nhân”.
Chủ đề Tin mừng Chúa Nhật 24 Thường Niên C là lòng thương xót của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã nói với những người Pharisêu 3 dụ ngôn: dụ ngôn một con chiên lạc mất trong số 100 con chiên; dụ ngôn một đồng bạc bị mất trong số 10 đồng; và dụ ngôn người con hoang đàng (một trong hai anh em). Mức độ càng tăng từ cấp độ thứ nhất đến cấp độ thứ ba cho thấy lòng thương xót của Thiên Chúa đối với người tội lỗi thật lớn lao. Một trên một trăm( 1/100) và một trên mười (1/10) không đáng giá bằng một trên hai (1/2). Lòng thương xót của Thiên Chúa được thể hiện qua cung cách của người cha già luôn sẵn sàng mở rộng vòng tay đón người con hoang đàng trở về, tha thứ cho hắn trước khi hắn mở miệng xin lỗi Cha. Thiên Chúa luôn chờ đón mọi người chúng ta quay trở về trong vòng tay yêu thương của Người.
Khi bắt đầu sứ vụ của mình, Đức Giêsu đã long trọng tuyên bố trước mặt mọi người:
“Thánh Thần Chúa ngự trên tôi,
bởi Người đã xức dầu cho tôi
sai tôi đem Tin mừng cho người nghèo khó
ban bố ân xá cho kẻ tù đày
cho người đui mù được thấy
cho kẻ bị áp bức được giải oan
loan báo năm hồng ân của Chúa”
Niềm vui và hạnh phúc đến với những ai tội lỗi khi đã gặp được Đức Giêsu: – Với người bất toại: “Tội lỗi của anh đã được tha”; Với Lêvi, người thu thuế: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà là kẻ tội lỗi”; Với Giakêô: “Con Người đến để tìm kiếm những gì đã hư mất”.
Những người đau khổ, bé mọn cảm thấy mình được yêu thương nâng đỡ khi tìm gặp Đức Giêsu: Với người phung hủi: “Tôi muốn anh được sạch”; Với người nghèo: “Phúc cho những người nghèo”; Với các trẻ nhỏ: “Hãy để trẻ nhỏ đến cùng tôi, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Trời thuộc về những người giống như chúng”. Với người phụ nữ băng huyết: “Lòng tin của chị đã chữa chị, hãy đi bình an”.
+ Người không để người góa bụa cô thế cô thân ra về mà không một lời an ủi.
+ Người trả lại sự sống cho đứa con duy nhất của bà góa thành Naim.
+ Người ngợi khen bà góa bỏ hai đồng xu vào hòm tiền dâng cúng.
Cao điểm khuôn mặt dịu hiền của Đức Giêsu bộc lộ khi Người hấp hối trên thập giá: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”.
Kitô hữu là người đứng bên bờ vực thẳm, nhích lên một milimét nữa là rớt xuống vực thẳm như: Vực thẳm của nạn ghiền ma túy; Vực thẳm của rượu chè, cờ bạc; Vực thẳm của nạn mại dâm.
Đó là vực thẳm mà NGƯỜI CON THỨ rơi vào.
Vực thẳm nguy hiểm hơn, khó nhận thấy hơn, là vực thẳm của NGƯỜI ANH CẢ: Khi cho rằng chu toàn lề luật là đủ; khi cho rằng mình phục vụ nhiều, nào đi học, dạy giáo lý, tập hát… cho mình quyền đòi hỏi. Đó là một điều ích kỷ khi phục vụ. Khi tưởng rằng mình thờ Thiên Chúa, nhưng thực ra là chỉ thờ một bức tượng khô cứng, bụi bậm. Và vì thế họ dễ phê phán người khác.
Lạy Chúa,
Ngài kêu gọi chúng con phải tha thứ cho nhau luôn mãi.
Mỗi ngày nhiều biến cố xảy ra,
nhiều sự hiểu lầm to và nhỏ khiến chúng con phiền lòng,
mỗi ngày vang lên tiếng kêu mời hãy tha thứ cho nhau.
Nhưng, lạy Chúa, con lại không muốn tha thứ,
vì con thấy phải hạ mình để tha thứ.
Thế rồi con nhìn Chúa trên thập giá,
Chúa đã phải can đảm lắm và yêu mến nhiều
thì mới có thể thốt lên lời “Lạy Cha, xin tha cho chúng…”.
Xin cho chúng con sức mạnh để tha thứ luôn mãi.
(Suy niệm của Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc)
Tin Mừng Lc 15: 1-32 Sự trở về của con chiên lạc đem lại niềm vui cho người mục tử nhiều hơn niềm vui có 99 con ở lại trong đàn.
Richard Pidell có viết một câu chuyện ngắn nhan đề: “Đứa con trai của một ai đó” (Somebody’s son). Câu chuyện mở đầu với một cậu bé tên là David bỏ nhà ra đi sống bụi đời. Vì khổ quá, không chịu nổi, cậu bèn viết một lá thư gửi về nhà cho mẹ bày tỏ niềm hy vọng được ông bố cổ hủ tha thứ cho cậu và chấp nhận cậu làm con trở lại. Lá thư như sau: “Mẹ kính mến, trong một vài ngày nữa con sẽ đi ngang qua nhà. Nếu bố bằng lòng nhận con trở lại, thì mẹ yêu cầu bố cột một miếng vải trắng lên cây táo hồng ở miếng đất cạnh nhà chúng ta”. Vài ngày sau, David lên tàu hỏa đi về. Trong lúc tàu hỏa lao nhanh đến nhà thì hai hình ảnh cứ liên tục hiện ra trong trí cậu ta: khi thì trên cây táo có cột một miếng vải trắng, khi thì trên cây chẳng cột một miếng vải trắng nào. Tàu hỏa càng tiến gần nhà, trái tim David càng đập nhanh hơn. Không bao lâu nữa cây táo sẽ hiện ra ở khúc quẹo, nhưng David không dám tự mình nhìn tới vì sợ nhỡ không có miếng vải trắng cột ở đó. Thế là cậu quay sang người đàn ông bên cạnh ấp úng nói: “Thưa ông, ông có thể làm ơn giúp cháu một việc không? Vào khúc quẹo bên tay mặt, ông sẽ thấy một cây táo. Ông làm ơn cho cháu biết trên cành cây táo đó có cột một miếng vải trắng không nhé”.
Khi tàu hỏa rầm rập lướt qua cây táo, David nhìn chăm chăm về phía trước. Đoạn run run giọng, cậu hỏi người đàn ông: “Thưa ông, có một miếng vải trắng nào treo ở cành cây táo đó không?” Ông ta sửng sốt trả lời: “Ồ, nầy cậu bé, cành cây nào ta cũng thấy có một miếng vải trắng cả!”
Anh chị em thân mến,
Thiên Chúa cũng đối xử với chúng ta như thế. Phiêu lưu trong tội lỗi, chúng ta chỉ cảm thấy chán chường thất vọng. Nhưng Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về chúng ta. Ngài chờ đợi chúng ta từng giây từng phút. Tình yêu của Ngài vượt lên trên mọi tính toán, đo lường của chúng ta. Người con hoang đàng trong Tin Mừng chỉ xin được đối xử như một người làm công trong nhà, nhưng người cha đã phục hồi anh trong tước vị làm con. Ông đã xỏ nhẫn cho anh, mặc áo mới cho anh và sai mở tiệc ăn mừng.
Phải, Thiên Chúa yêu thương và tha thứ hơn cả sự chờ mong của chúng ta. Đối với Chúa, mỗi người chúng ta đều đáng kể, không thể có gì khác thay thế được . Mỗi con người là như một con chiên trong đàn, phải được chăm sóc như nhau, không được để thất lạc. Chín mươi chín con chiên yên lành không làm nguôi được lòng thương đối với một con chiên lạc. Thiên Chúa cũng cuống quít như một bà già nghèo đánh mất một đồng bạc quý. Phải hì hục moi móc mọi ngóc ngách trong nhà để tìm cho bằng được. Như người cha già, con mình đã hư quá thể mà trong lòng vẫn lo lắng không nguôi, vẫn không thôi chờ đợi đến mõi mòn, cho đến lúc ôm lại đứa con vào lòng và rạo rực vui sướng không gì kìm hãm được và cả Thiên đàng cũng vui lây, vui sướng vì một người tội lỗi ăn năn trở lại hơn cả vui sướng vì 99 người lành thánh không cần sám hối ăn năn.
Thiên Chúa rất khác chúng ta. Đối với Ngài, mỗi con người là như một khúc ruột của mình. Ngài thương mỗi người, để ý chăm sóc mỗi người như chỉ có một không hai trên đời. Nếu chúng ta lỡ lạc đường, Ngài tạo mọi điều kiện để ta có thể trở về. Và điều kiện duy nhất Ngài đòi hỏi là tin vào tình thương tha thứ của Cha để mà dám trở về. Sự trở về của con chiên lạc đem lại niềm vui cho người mục tử nhiều hơn niềm vui có 99 con ở lại trong đàn.
Thưa anh chị em,
Đến đây, đáng lẽ dụ ngôn về người cha nhân hậu đã có thể kết thúc rất đẹp với nỗi vui mừng của người cha. Nhưng Chúa Giêsu lại nối thêm cái đoạn cuối về người con cả. Chúng ta cũng nên dừng lại một chút với thái độ của người con cả để hiểu hết ý Chúa muốn dạy chúng ta qua dụ ngôn nầy.
Người con cả là một người con chí thú làm ăn ở nhà với cha, nhưng xem ra quan hệ với cha không được thân mật, thẳng thắn. Tuy ở nhà với cha nhưng lòng vẫn xa cách. Và kết quả là người con cả đã không hiểu và không chấp nhận nổi cách xử sự của cha đối với đứa em của anh vừa trở về. Do đó, thay vì nhập tiệc chia vui với cha và với em, người con cả đã dừng lại ở cửa, tự mình đứng ở thế tách biệt với gia đình sum họp.
Người con cả ở đây tiêu biểu cho nhóm người Biệt phái Pharisêu trong dân Do Thái. Họ tưởng rằng họ trung thành với Thiên Chúa và đáng được Chúa thương, có quyền hưởng gia tài, rồi khinh bỉ các dân ngoại và những hạng người mà họ cho là tội lỗi. Thì ra, Tin Mừng hôm nay là một Tin Mừng đối với người tội lỗi sám hối trở về, nhưng đồng thời lại cũng là một lời cảnh cáo đối với những người “ở trong nhà”, những người tưởng mình đạo đức, tốt lành. Người con cả, bao nhiêu năm ai cũng tưởng là ngoan ngoãn tốt lành lắm. Đến ngày em của anh hồi sinh và trước niềm vui vô bờ của người cha, anh đâm ra hậm hực, bực tức… thì ra bề ngoài anh ngoan, nhưng nội tâm của anh thì cay nghiệt, tù túng, đầy những ghen tị, sát phạt. Cả anh nữa, anh cũng chẳng hiểu thế nào là lòng thương xót. Cuối cùng anh không muốn bước vào lòng thương xót đó. Anh chưa gặp được Thiên Chúa. Anh vẫn ở ngoài ơn cứu độ.
Dụ ngôn cho thấy, người cần trở lại hơn hết lại chính là người con cả, người con vẫn ở nhà với cha nhưng lòng thì không ở cùng với cha.
Anh chị em thân mến,
Hãy tin vào tình thương yêu vô bờ bến của Thiên Chúa mà trở về với Ngài, nếu chúng ta lỡ lạc đàng, sa ngã. Và hãy khoan dung tha thứ cho những người anh em, nếu chẳng may có ai trượt chân vấp ngã. Phải tìm đến với người anh em đó để giúp họ trở lại với Chúa là Cha yêu thương. Đừng có thái độ lên án, loại trừ như thái độ của người con cả trong dụ ngôn. Trái lại, hãy vui mừng vì đã giúp được một người anh em gặp lại niềm vui cứu độ. Hãy coi thái độ khoan dung, quảng đại yêu thương tha thứ của người cha trong dụ ngôn là hình ảnh của lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa, để chúng ta biết đối xử với những người anh em như Chúa đã đối xử với chính chúng ta.
“Lạy Chúa, xin tỏ lòng thương xót con, và lấp đầy trái tim con tình yêu tha thứ của Chúa.
Con là đứa con thư đã bỏ nhà ra đi rồi lại trở về. Con cảm ơn Chúa đã đón nhận lại con.
Và con cũng là người con cả đã từng khư khư không chịu tha thứ cho anh chị em con như Ngài đã tha thứ cho con. Vậy xin Chúa hãy chạm vào trái tim con với tình yêu tha thứ của Ngài.
Để rồi sau khi an nghỉ trong cõi chết, con sẽ thức dậy trước thánh nhan Ngài mãi mãi cùng với anh chị em từng được con tha thứ lỗi lầm”. Amen.
(Suy niệm của Lm. GB. Trần Văn Hào)
Đặc nét của Kitô giáo chính là tình yêu thương. Không một tôn giáo nào có thể gọi Thần linh của họ là ‘Cha’ giống chúng ta. Hơn nữa,Thiên Chúacủa chúng ta còn là một người Cha nhân hậu, luôn sẵn sàng thứ tha những phản bội và bất trung nơi con người. Cao điểm diễn bày lòng thương xót chính là cái chết của Đức Giêsu trên Thập Giá. Điều này đã được chính Chúagợi nhắc trong cuộc đàm đạo với Nicôđêmô. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga. 3,16). Các bài đọc Lời Chúa hôm nay xoáy sâu vào chủ đề này, đặc biệt trong bối cảnh của năm nay, năm thánh tôn vinh Lòng Thương Xót Chúa. Sứ điệp Lời Chúa gợi nhắc chúng ta ba điều: Mỗi người đều là tội nhân đáng phải chết; Thiên Chúa luôn sẵn sàng bao dung và tha thứ; Cuối cùng chúng ta cũng phải quảng đại tha thứ cho nhau để diễn bày lòng thương xót như Thiên Chúa.
Mọi người đều là tội nhân
Cervantes, một biên kịch gia khá nổi tiếng đã nói một câu để đời: “Trong các sinh vật trên mặt đất, loài có khuôn mặt đẹp nhất chính là con người, và loài có khuôn mặt xấu xa bỉ ổi nhất cũng là chính con người.” Tội lỗi làm méo mó khuôn mặt chúng ta, vốn được dựng nên giống họa ảnh của Thiên Chúa. Chắc chắn không ai trong chúng ta dám vỗ ngực tự hào nói mình vô tội. Chúng ta nhớ lại giai thoại được thánh Gioan kể lại khi Chúa được mời tham dự phiên tòa xét xử người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Ngài nói với đám đông: “Ai trong các ông sạch tội, hãy cầm đá mà ném trước đi” (Ga. 7,7). Sau khi được Chúa lay động lương tâm, tất cả đám đông ‘biến’ sạch, từ những tay già đầu nhất. Chúng ta đừng vội kết án người khác, nhưng trước tiên hãy nhìn lại chính mình. Hãy can đảm bới tìm những xấu xa bẩn thỉu, sâu tận bên trong tâm hồn mỗi người. Kinh nghiệm của thánh Phaolô mà Giáo hội đọc lên trong phụng vụ hôm nay (bài đọc 2) cũng là một kinh nghiệm rất thực tế để giúp chúng ta xét mình và lục soát lương tâm mỗi ngày. Ngài viết “Đức Giêsu Kitô đã đến thế gian để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi.” (1Tm15).
Thiên Chúa là Đấng khoan dung và hay tha thứ.
Cả ba dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay đều diễn bày phẩm tính cao đẹp này nơi Thiên Chúa. Đây là ba dụ ngôn độc sáng của thánh Luca. Những hình ảnh rất đời thường nơi một người chăn chiên đi tìm con chiên lạc, nơi một người đàn bà thắp đèn để kiếm tìm đồng bạc bị mất, nhất là qua dung mạo của một người cha ngày đêm mong ngóng đợi chờ đứa con đi hoang trở về, đã được Chúa Giêsu vay mượn để lột tả chân dung lòng thương xót của Chúa Cha. Thay vì kết án, Ngài tha thứ. Thay vì ruồng bỏ, Ngài lại đi kiếm tìm. Xét về kinh tế, Chúa Giêsu tính toán rất tồi. Ai lại dám liều lĩnh bỏ lại chín mươi chín con chiên giữa rừng vắng để đi kiếm một con ốm yếu lỡ đi lạc. Xét về bình diện toán học, Ngài làm tính cũng quá dở, khi coi con số 1 lớn hơn con số 9. Một đồng bạc lỡ đánh mất đáng là gì. Nhưng Thiên Chúa của chúng ta không phải là một kinh tế gia, cũng không phải là một nhà toán học. Ngài là một người Cha giàu lòng lòng thương xót đối với phận người tội lỗi. Vì thế, Đức Giêsu đã nói với các học trò: “Anh em phải có lòng thương xót như Cha anh em trên trời là Đấng xót thương” – Misericordes sicut Pater (Lc. 6.36). Đây cũng là chủ đề của năm nay, năm thánh Lòng Thương Xót.
Bài học về sự tha thứ
Tháng 03 năm 1981, Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II bị một thanh niên Thổ Nhĩ Kỳ mưu sát tại quảng trường Thánh Phêrô. Anh ta tên là Ali Agca. Đức Thánh Cha thoát chết như một phép lạ, và cảnh sát bắt giữ chàng thanh niên ngay lập tức. Sau khi ra khỏi bệnh viện, Ngài đã sắp xếp thời gian để đến nhà tù Rebibbia gặp anh ta. Vị đại diện của Chúa đã hoàn toàn tha thứ cho kẻ sát nhân. Cái bắt tay chân tình, vòng ômhôn thắm thiết và ánh mắt dịu dàng của Đức Thánh Cha làm cả thế giới xúc động. Vài năm sau, vợ của kẻ sát nhân đã đích thân sang Rôma để bày tỏ lòng biết ơn đối với Người đã tha thứ cho chồng mình. Còn chính đương sự sau khi mãn hạn tù, cũng nài nỉ xin nhập quốc tịch Vatican và tự nguyện xin làm đàn em của Đức Thánh Cha. Đức Thánh Giáo hoàng đã không hề đưa ra một triết lý mới, hay một cung cách ứng xử đặc thù, nhưng đây chính là cốt lõi của Tin Mừng mà Ngài sao chép lại. Trên Thập Giá, Chúa Giêsu đã giang tay cầu nguyện: ‘Xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm’. Chúa Giêsu cũng dạy chúng ta lời cầu nguyện với kinh Lạy Cha: ‘Xin Cha tha cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ mắc lỗi với chúng con’. Đó là những bài học rất căn bản, mời gọi chúng ta quảng diễn lòng thương xót và sự tha thứ như Thiên Chúa.
Một cha xứ nọ đã kể cho chúng tôi nghe một kinh nghiệm đau đớn, xảy ra nơi giáo xứ của ngài. Hai đứa bé chơi với nhau và đánh nhau, chuyện rất nhỏ vẫn thường hay xảy ra. Nhưng chuyện trẻ em dần dần lây lan thành chuyện của người lớn. Cả hai gia đình xúm vào cãi nhau, lúc đầu chỉ lời qua tiếng lại, sau đó dẫn đến tranh chấp. Đấu bằng miệng không đủ, chuyển sangđấu đá bằng tay chân. Khổ nỗi,vị đứng đầu một trong hai gia đình lại là trùm xứ, có tiếng là đạo đức và rất siêng năng trong việc chung. Một buổi tối nọ khi trời nhá nhem tối, hai gia đình lại xô xát. Ông trùm cầm một cây gậy lớn phang vào đầu đối thủ, chẳng may đập ngay vào đầu đứa con trai mình. Thằng bé chết trên đường chuyển đến bệnh viện. Từ đó, trong lòng ông, sự căm thù ngày càng dâng cao và ông quyết tâm trả thù. Cha xứ khuyên can thế nào ông cũng chẳng nghe. Lúc ông lâm trọng bệnh và hấp hối chờ chết, người nhà mời cha xứ đến để giải tội và xức dầu. Một lần nữa cha xứ lại hết lời khuyên lơn xin ông làm hòa để tìm lại bình an trong tâm hồn, nhưng ông nhất định không. Cha xứ không thể nào giải tội và ban Bí tích Xức dầu cho ông ta. Tâm hồn ông vẫn còn mang nặng một khối đá lớn cản che ơn thánh, đó là sự hận thù. Ông ta chết đi, đôi mắt vẫn luôn trợn ngược và không thể nhắm lại. Một kinh nghiệm thật đáng buồn.
Kết luận
Nói về lòng khoan dung và sự tha thứ thì dễ, nhưng thực hành không phải là chuyện giản đơn. Con người chúng ta ai cũng có tự ái và không dễ thứtha một cách vô điều kiện như Chúa mong muốn. Trong năm thánh Lòng Thương Xót, chúng ta xin Chúa giúp chúng ta biết trải nghiệm và thấm sâu lòng thương xót của Ngài, để chúng ta cũng biết quảng đại tha thứ cho nhau. Misericordes sicut Pater.
Bài Tin mừng hôm nay kể lại các dụ ngôn của Lòng Thương Xót: dụ ngôn con chiên lạc, đồng xu thất lạc và người cha với hai đứa con (x. Lc 15,1-32). Trong Tông sắc Dung Mạo Lòng Thương Xót, Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Các dụ ngôn này cho thấy Thiên Chúa luôn tràn ngập vui mừng, nhất là khi Ngài tha thứ. Nơi những dụ ngôn ấy, chúng ta thấy được điểm cốt lõi của Tin Mừng và của đức tin, vì lòng thương xót tỏ hiện như một sức mạnh vượt thắng tất cả, đong đầy trái tim bằng tình yêu thương và mang lại an ủi bằng ơn tha thứ” (Số 9).
Thật vậy, vì thương xót, Thiên Chúa đã tha thứ tội lỗi cho nhân loại như người cha đã tha thứ cho đứa con đi hoang trở về. Không những tha thứ mà người cha còn tìm mọi cách để trả lại cho đứa con của mình những chức phận làm con mà anh ta đã đánh mất. Ông nói với gia nhân: “Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu, hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu và xỏ giầy vào chân cậu” (Lc 15, 22). Không những thế, ông còn cho giết bê béo để mở tiệc ăn mừng (x. Lc 15, 23).
Vì thương xót, Thiên Chúa luôn đi tìm kiếm con người khi con người xa đường lạc lối. Người đàn bà đi tìm đồng tiền bị đánh mất và người chăn chiên đi tìm con chiên lạc, đó là hình ảnh của chính Ngài đi tìm kẻ tội lỗi. Hành động đốt đèn, quét nhà và tìm kỹ lưỡng cho đến khi tìm được, hoặc hành động bỏ 99 con chiên còn lại để trèo đèo lội suối tìm kiếm cho bằng được con chiên lạc…nói lên sự hy sinh, sự quan tâm lo lắng của Ngài đối với người tội lỗi.
Vì thương xót, Thiên Chúa đã không dấu được sự vui mừng khi có người tội lỗi ăn năn hối cải. Đó là niềm vui của người chủ chiên khi tìm thấy con chiên lạc: ông vui mừng vác chiên trên vai, trở về nhà, kêu bạn hữu và những người lân cận mà nói rằng: “Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc!”(x. Lc 15,5-6). Đó là niềm vui của người đàn bà khi tìm thấy đồng tiền bị đánh mất. Bà mời bạn bè và những người láng giềng đến mà rằng: “Chị em hãy vui mừng với tôi, vì tôi đã tìm được đồng bạc tôi đã mất” (x. Lc 15, 9). Niềm vui đó được lan tỏa tới các thần thánh trên Thiên đàng. Chính Đức Giêsu khẳng định rằng: “Các Thiên Thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải”(Lc 15, 10).
Vì thương xót, Đức Giêsu đã bị những người luật sỹ và biệt phái khiển trách khi Ngài đón tiếp và ăn uống với người tội lỗi. Đó cũng chính là hình ảnh người cha bị người con cả giận hờn, xa lánh khi ông tha thứ tội lỗi cho đứa con thứ. Mặc dầu bị khiển trách, nhưng Ngài vẫn không thay đổi thái độ yêu thương, vì yêu thương là bản chất của Ngài. Ngài không những yêu thương kẻ tội lỗi, đứa con thứ mà Ngài còn yêu thương cả những người biệt phái, yêu thương người con cả. Ngài nói với đứa con cả rằng: “Hỡi con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con. Nhưng phải ăn tiệc mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”(Lc 15, 31-32).
Bài đọc I hôm nay còn cho chúng ta biết, lòng thương xót của Thiên Chúa còn được thể hiện qua việc Ngài tha thứ cho dân Do Thái: khi được Thiên Chúa giải thoát ra khỏi Ai-cập, dân Do thái phải có bổn phận trung thành với Ngài, tiếp tục thực hiện theo đường lối Ngài chỉ dạy…Đó là cách tốt nhất để đền đáp công ơn của Ngài. Nhưng họ không làm như vậy. Trái lại, họ còn phạm tội, bỏ đường lối của Ngài chỉ dạy, thay vì trung thành với Ngài thì họ lại đúc tượng một con bò và thờ lạy nó, dâng lên nó của lễ hiến tế. Chính vì thế, Thiên Chúa đã nổi giận và định hủy diệt họ. Nhưng nhờ lời cầu khẩn của ông Môsê, Thiên Chúa đã không hủy diệt họ.
Bài đọc II, Thánh Phaolô cũng cho chúng ta thấy vì tình thương mà Đức Giêsu đã tha thứ cho Thánh nhân. Thánh Nhân không ngần ngại kể lại rằng: trước đây, Thánh nhân là “kẻ nói phạm thượng, bắt đạo và kiêu căng,” nhưng vì lòng thương xót, Đức Giêsu đã đi tìm và biến đổi Thánh nhân thành người Kitô hữu, đặt Thánh nhân làm Tông đồ của dân ngoại.
Ngày hôm nay, Thiên Chúa vẫn tiếp tục thi thố lòng thương xót của Ngài trên nhân loại. Ngài vẫn đi tìm kẻ tội lỗi. Ngài vẫn tha thứ cho họ khi họ biết ăn năn thống hối trở về. Lòng thương xót của Thiên Chúa luôn mở ra cho con người niềm hy vọng lớn lao. Ở đời, một người mất chức, mất quyền, một người giàu có bị tán gia bại sản, một người suy sụp về sức khỏe…thật khó để phục hồi lại như trước. Nhưng thật hạnh phúc cho chúng ta là người Kitô hữu, nếu lỡ may sa ngã phạm tội, đánh mất phẩm giá cao đẹp của mình. Chỉ cần chúng ta cố gắng quyết tâm ăn năn thống hối, chạy đến với Bí tích Giao hòa thì Thiên Chúa sẽ tức khắc trả lại phẩm giá cao quý cho chúng ta. Chúng ta thấy điều này nơi chính đứa con hoang đàng. Đó cũng chính là hình ảnh của biết bao nhiêu người có quá khứ tội lỗi, nhờ thống hối ăn năn họ đã được làm thánh. Chẳng hạn: Thánh Augustinô, thánh Mathêu, Thánh Maria Mađalêna…
Mới đây, trên trang wed phanxico.vn có đăng tải bài viết với chủ đề: “Sự trở lại lạ lùng của một người bị lên án tử hình qua một bản tin cáo phó.” Nội dung bài viết kể lại cuộc đời của tử tội Joshua Daniel Bishop, 41 tuổi, ở Mỹ. Ông can tội giết người và bị chích thuốc để chết. Một luật sư cũng là người bạn từ thời thơ ấu của tử tội kể lại từng giai đoạn trong cuộc đời của ông, từ tuổi thơ ấu bất hạnh cho đến những giây phút cuối cùng ở Texas. Ông nêu lên tình trạng nghiện ngập ma túy và rượu, và những “sai lầm khủng khiếp” mà tử tội đã phạm. “Sự nghiện ngập này đã cướp đi đời sống của Joshua, nhưng Joshua mong các bạn trẻ đối diện với các trạng huống như anh đã đối diện học được bài học từ kinh nghiệm của anh”, bài báo viết.
Người bạn luật sư kể lại giai đoạn anh “sống dưới cầu Milledgeville” và thế nào mà khi ở tù anh đã quay về với Chúa Kitô và xin rửa tội theo đạo Công Giáo. Chính vì thế mà tử tội đã ý thức, “không một ai mà không được tha thứ.”
Sau đó, ông Joshua bắt đầu học vẽ và ông là một nghệ sĩ thực thụ. Điểm xúc động là vào giây phút cuối cùng, người tử tội được những người thương mình ở bên cạnh mình. “Cho đến giờ cuối, Joshua đã an ủi các bạn của mình. Anh cầu nguyện với chúng tôi, nhắc chúng tôi săn sóc nhau, rồi tất cả cùng hát bài “Amazing Grace.” Anh hy vọng cái chết của mình sẽ làm anh khỏi đau khổ và giúp anh có được bình an, sau tất cả những gì anh đã chịu đựng.”
Cho đến khi anh đi vào hành lang tử thần, anh luôn chú ý đến sự đau khổ của người khác, điều này chứng tỏ, đến điểm nào, “con quỷ” mà nhà nước muốn gạt hẳn ra trong con người của anh đã không còn. “Điều duy nhất thực sự khi anh rời thế gian này là một tâm hồn được cứu chuộc, dứt khoát muốn làm điều tốt…”
Thiên Chúa đầy lòng thương xót. Cánh cửa tha thứ của Ngài luôn rộng mở. Chúng ta hãy mạnh dạn bước vào. Đồng thời, chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa cho tất cả những kẻ tội lỗi biết thống hối ăn năn trở về và đi qua cánh của của lòng thương xót Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Để đối phó với những người phạm tội, luật hình sự tại các quốc gia quy định nhiều hình phạt khác nhau: phạt tiền, giam nhốt trong các nhà tù hay xà lim, lưu đày biệt xứ hoặc trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng thì đem ra xử tử để vĩnh viễn loại trừ người lỗi phạm khỏi thế giới loài người.
Trong khi đó, để đối phó với tội nhân, Thiên Chúa không muốn trừng phạt mà chỉ muốn giúp tội nhân ăn năn hối cải quay về đường lành. Từ ngàn xưa, Thiên Chúa phán qua miệng ngôn sứ Ê-dê-kiên: “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết nhưng muốn nó ăn năn sám hối mà được sống” (Ê-dê-kiên 18, 23 và 33, 11)
Đối với Thiên Chúa, mỗi một người đều có giá trị rất cao nên cần phải được trân trọng và yêu thương. Dù con người có đắm chìm trong lầm lạc và tội lỗi, Thiên Chúa không bỏ rơi, không hủy diệt họ, nhưng tìm mọi cách đưa họ trở về đàng lành.
Dụ ngôn người đi tìm chiên lạc trong Tin Mừng Luca (Lc 15, 4-7) chứng tỏ cho chúng ta thấy điều đó:
Người chăn chiên tốt hết lòng yêu thương, quý mến từng con trong đàn, bất kể đó là chiên tốt hay chiên xấu, mập hay gầy, già hay non. Và khi phát hiện ra một con chiên lạc đàn, anh ta bôn ba, tất tả kiếm tìm cho bằng được con chiên lạc với bất cứ giá nào. Một khi đã tìm thấy, anh vác chiên lên vai, mừng vui hớn hở trở về, kêu mời bà con làng xóm đến chia mừng với anh.
Qua dụ ngôn trên đây, Chúa Giêsu tỏ cho chúng ta thấy Thiên Chúa xem mỗi người chúng ta là báu vật vô giá, nên nếu có bất kỳ ai “lạc mất”, thì Ngài phải tìm về cho bằng được.
Dụ ngôn trên cũng cho thấy cung cách ứng xử rất khoan dung và đầy thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân.
Thay vì trừng trị hoặc trừ khử các tội nhân như các tòa án khắp nơi thường làm, Thiên Chúa Ngôi Hai đã rời bỏ ngai trời vinh hiển, vượt qua khoảng cách gần như vô tận giữa trời và đất, hạ mình xuống thế, trở nên người phàm để đi tìm kiếm từng người trong nhóm họ.
Thay vì tống giam các tội nhân vào ngục, bắt họ mang gông cùm xiềng xích, Chúa Giêsu rất tôn trọng và quý mến tội nhân, tìm nhiều cách hoán cải họ; có khi Ngài còn đến ở lại trong nhà người tội lỗi, cùng ăn uống đồng bạn với họ, trở nên bạn bè của họ, nhằm lấy tình bạn mà cảm hóa họ trở về. (Luca 15,2)
Thay vì kết liễu mạng sống của các tội nhân ác nghiệt, bắt họ phải đền nợ máu họ đã gây ra như các tòa án nhân loại thường làm, Chúa Giêsu đã đổ máu châu báu của mình ra để chết thay cho họ, để rửa sạch họ khỏi muôn vàn tội lỗi và cho họ được sống đời đời.
Lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân, ngay cả những tội nhân bầm dập, khốn cùng nhất, đã được Chúa Giêsu khẳng định trong Tin Mừng Mat-thêu: “Cây lau bị giập, Ngài không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi, cho đến khi Ngài đưa công lý đến toàn thắng.” (Mt 12, 20 và Is 42, 3)
Lạy Chúa Giêsu,
Hôm xưa, Chúa đã rong ruổi tìm kiếm từng con chiên lạc để vác chiên về. Hôm nay, để tiếp tục sự nghiệp đó, Chúa đã dùng bí tích Thánh Tẩy để tháp nhập chúng con vào Thân Mình Chúa, cho chúng con trở thành một chi thể sống động trong Thân Thể Chúa để chúng con đồng hành với Chúa trên hành trình tìm kiếm và đưa về đàn nhiều con chiên lạc trong thôn xóm chúng con.
Xin cho chúng con trở nên đôi chân của Chúa, rảo bước không mệt mỏi trên vạn nẻo đường đời, để tìm kiếm và đưa về những anh em lạc xa đường Chúa.
Xin cho chúng con trở nên đôi vai của Chúa để làm chỗ dựa tinh thần cho những con người lâm cảnh khốn cùng đang cần một chỗ tựa nương. Amen.
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Trước mắt người đời thì những người tội lỗi là thành phần xấu trong xã hội nên thường bị chê bài, khinh bỉ và xa lánh.
Tuy nhiên, đối với Thiên Chúa thì bất cứ người nào, dù nhỏ bé, hèn hạ và tội lỗi đến đâu đi nữa cũng được nhìn nhận là những người con đáng yêu, đáng quý của Ngài.
Hai dụ ngôn Tin mừng hôm nay chứng tỏ điều đó.
Qua dụ ngôn chiên lạc, Chúa Giêsu ví người tội lỗi như con chiên lạc mà người chăn chiên trân trọng và quý mến. Thế nên anh sẵn sàng rời xa 99 con chiên trong đàn để đi tìm cho được con chiên lạc đó. Và một khi đã tìm được rồi, anh không quật cho nó một trận cho hả giận vì nó đã gây ra bao điều cực nhọc cho mình, trái lại, anh vui mừng ôm lấy nó, vác nó lên vai, hăm hở trở về, mời bà con làng xóm đến chia vui.
Qua dụ ngôn tiếp theo, người tội lỗi được ví như một đồng quan bị đánh mất, khiến người phụ nữ mất tiền cảm thấy tiếc nuối, nên dù trong đêm tối, bà cũng vội thắp đèn lên, quét nhà cho kỹ, moi móc mọi ngóc ngách, cố tìm cho bằng được đồng tiền bị mất ngay tức khắc, không đợi đến ngày mai. Và khi đã tìm thấy, bà reo lên vui sướng và chia sẻ niềm hoan lạc này với bạn bè lối xóm.
Từ hai dụ ngôn này, Chúa Giêsu kết luận: “Cũng thế, tôi nói cho các ông hay: Giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối.”
Qua hai dụ ngôn này, Chúa Giêsu tỏ cho biết ngay cả người tội lỗi lầm lạc cũng là những người con đáng trân trọng và quý mến đối với Thiên Chúa.
Thiên Chúa trân trọng và quý mến con người nên Chúa Cha đã sai chính Con Một mình từ trời xuống thế để cứu độ loài người.
Vì yêu quý và trân trọng người tội lỗi nên khi vừa gặp Gia-kêu, một nhân viên thu thuế cho đế quốc Rô-ma bị người Do-thái kỳ thị, Chúa Giêsu thân mật đón chào và đề nghị ở lại nhà ông: “Gia-kêu, xuống mau đi! Vì hôm nay tôi sẽ lưu lại nhà ông.”
Vì yêu quý và trân trọng người tội lỗi nên Chúa Giêsu không ngần ngại chọn Lê-vi, một người thu thuế bị liệt vào hạng tội lỗi, làm tông đồ của Ngài và làm tác giả sách Tin mừng thứ nhất.
Vì yêu quý và trân trọng người tội lỗi nên khi những người biệt phái đưa người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình đến với Chúa Giêsu, thì Ngài cũng không lên án hay luận tội người này. Trái lại, Ngài dùng lời hay lẽ phải giải tán đám đông đang hung hăng với nhiều ác ý, rồi nhẹ nhàng khuyên lơn người phụ nữ: “Tôi không lên án chị đâu. Chị hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8, 2-11).
Vì yêu quý và trân trọng người tội lỗi nên khi vừa nghe tên tử tội cùng bị treo lên thập tự giá với Chúa Giêsu van xin Ngài: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi”, thì Chúa Giêsu liền hứa ban thiên đàng cho anh ta: “Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên đàng” (Lc 23,42).
Lòng quý mến và trân trọng của Thiên Chúa đối với người tội lỗi lên đến cao điểm khi Chúa Giêsu hiến thân chịu khổ hình. Ngài chịu đòn vọt và đau khổ thay cho muôn người tội lỗi; Ngài chịu chết thay cho muôn người để họ được sống đời đời.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa là Chúa tể trời đất, còn chúng con chỉ như những hạt bụi li ti trong vũ trụ, chẳng đáng là gì, thế mà Chúa lại trân quý từng người trong chúng con, ngay cả những người tội lỗi hư hèn nhất. Vậy thì chúng con là ai mà dám coi thường, khinh dể anh chị em chung quanh mình.
Xin cho chúng con biết học với Chúa để đem lòng yêu quý và trân trọng mọi người như Chúa đã nêu gương.
Trên đời này, không tìm được ai có lòng nhân từ như Chúa Giêsu. Vì Ngài là Thiên Chúa đầy lòng yêu thương và nhân hậu. Ngài đến trần gian để cứu chúng ta khỏi quyền lực tội lỗi và sự chết. Ngài kêu mời mọi người, nhất là những kẻ tội lỗi biết ăn năn quay về đường ngay nẻo chính. Lời mời gọi nhân từ của Ngài được diễn tả qua 3 hình ảnh: Con chiên lạc, đồng bạc mất và người con hoang đàng. Qua ba dụ ngôn đó, chúng ta cảm nghiệm được tấm lòng nhân ái vô cùng của Thiên Chúa đối với loài người. Và không chỉ là dụ ngôn mà chính Chúa Giêsu đã thực thi lòng nhân từ đó. Cuộc đời Chúa Giêsu là dấu chứng rõ ràng nhất về lòng nhân từ vô biên của Chúa Cha đối với loài người chúng ta.
Chính Chúa Giêsu từ trời đã lặn lội xuống trần gian để tìm những kẻ sắp hư mất, để dẫn đưa những con chiên lạc đàn về chính lộ, giúp thế giới đón nhận chân lý, đón nhận ơn làm con Chúa. Nhờ việc Chúa Giêsu hiến thân trên thánh giá, mọi người chúng ta đã được chúa dành sẵn ơn cứu chuộc rồi, chỉ cần chúng ta đến lãnh nhận thôi.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn thấy, loài người hay tự ái, ngại ngùng, không muốn tìm hiểu về Chúa cho đến nơi đến chốn và tự cho rằng mình không được chúa đoái hoài tới. Vì vậy, hôm nay, trong bài Phúc âm này, Chúa mạc khải cho chúng ta hiểu lòng quãng đại của Ngài. Ngài luôn ban phát ơn lành cách quãng đại, không tính toán hơn thiệt như thế gian. Ngài ưu tiên cứu giúp con người không phải vì số đông. Không phải nhiều mới cứu. Chúa ưu ái từng người một, không coi nhẹ một linh hồn nào. Một vị thánh nói rằng: nếu thế gian này chỉ một người, Chúa cũng sẵn sàng chịu chết để cứu chuộc. Điều này cho thấy Chúa quí trọng linh hồn ta đến độ nào. Vậy mà có nhiều khi bản thân tôi lơ là trong việc lo cho linh hồn mình, không quí trọng phần rỗi mình cho đúng mức. Chúa rất quí trọng chúng ta. Như người đàn bà kia có 10 đồng bạc, lỡ rơi mất một đồng thì đốt đèn cho sáng, quét nhà tìm thật kỷ lưỡng cho đến khi tìm thấy đồng bạc đã mất. Chúa đối xử với từng người chúng ta cũng tương tự như vậy. Dù tôi không đáng giá chi trước mặt chúa, Chúa cũng thương mến tôi. Nếu tôi lạc mất, Chúa cũng lo hết sức để tìm lại tôi. Tìm thấy rồi thì vui mừng mời mọi người đến chia vui. Chúa rất quý từng người chúng ta. Nếu thiếu tôi, Chúa sẽ rất buồn, Chúa không muốn bữa tiệc Thiên Đàng thiếu tôi. Chúa nhớ rất kỷ từng linh hồn Chúa đã dựng nên và mong muốn mọi người đều hạnh phúc trong bữa tiệc cánh chung.
Thế nhưng, đáng buồn thay, có những con chiên không chịu trở về đàn, có những đồng bạc nhất định bám vào ngõ tối trần gian hoặc vì ham mê những danh vọng giả trá, những lợi lộc nhất thời không muốn trở về với Chúa để nhận ra giá trị của mình trong trái tim của Chúa. Tôi có biết rằng linh hồn tôi là vô giá trong mắt Chúa. Dù tôi chỉ là thụ tạo đơn hèn nhưng Chúa rất quý tôi, rất thương tôi, coi tôi như một phần không thể thiếu trong thân thể Ngài.
Chúng ta đừng ngại quay trở về khi phạm lỗi, dù tôi có tội lỗi đến đâu đi nữa, dù tôi có như người con hoang đàng, đã có lúc quyết định sai lầm, đã có lúc truỵ lạc hay phản bội lại tình thương của cha mẹ, và giết chết phẩm giá con người mình. Chúa vẫn chờ vẫn đợi, mong một ngày tôi biết suy nghĩ, bớt cố chấp, bớt thành kiến kiêu căng để nhận ra sự thật về mình, về sự thưởng phạt đời sau và hạ mình trông cậy vào lòng thương xót của chúa. Chúa như người cha của đứa con đi hoang, chiều nào cũng trông ngóng con mình. Khi thấy con từ đàng xa, người cha vội chạy ra ôm lấy con và kêu đầy tớ mau đem áo, giày, nhẫn ra để phục hồi nhân cách cho đứa con đi hoang nay quay về nhà. Tất cả những áo, nhẫn đó ông đã chuẩn bị rồi và ngày nào ông cũng dặn đầy tớ khi nào cậu trở về thì đem ra mặc cho cậu, phục hồi địa vị làm con cho kẻ đi hoang biết quay về chính lộ.
Lòng nhân từ Chúa thật quá bao la, Chúa luôn đối xử với chúng ta như vậy, chúng ta đã nhận ra tình thương Chúa đang ấp ủ riêng từng người chúng ta hay chưa? Hãy nhắm mắt lại và cảm nghiệm tình yêu Chúa trong con tim mình, chúng ta sẽ thấy tình thương Chúa ngọt ngào đang bao phủ tâm hồn chúng ta, đang thôi thúc chúng ta dâng trọn cuộc sống mình trong sự quan phòng yêu thương của Chúa.
Xin Chúa cho chúng con luôn biết đáp trả tình yêu Chúa cách quãng đại, bằng cách đối xử nhân hậu với mọi người bằng đời sống phục vụ cho người xung quanh trong chức vị, trong vị trí hiện tại của mình, để chúng con xứng đáng là con cái Cha trên Trời.
(Trích dẫn từ ‘Nút Vòng Xoay’ – ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống)
Hôm qua có dịp ra phố ghé ngang một sáp báo, tôi tình cờ nghe từ quán cà phê đối diện vẳng ra một giọng hát trong trẻo: “Cao cao bên cửa sổ có hai người hôn nhau”. Bài hát đã nghe dăm lần bảy lượt qua các phương tiện truyền thông, có chăng chỉ là một cảm nhận về mùa xuân hạnh phúc, thế mà chiều nay bỗng thấy nôn nao khác lạ. Đó không phải là thứ nôn nao của kẻ độc thân bất chợt thấy mùa xuân bên cửa sổ, rồi tự nhiên tủi về phận mình như Michel Quoist đã ghi trong cuốn sách của ông; cũng chẳng phải thứ nôn nao của những kẻ trên đường phố đang hối hả về nhà dịp nghỉ cuối tuần. Thứ nôn nao rất lạ mà cũng rất đỗi thân quen.
Đang còn vẩn vơ với cái nôn nao ấy thì cô chủ sạp đã trao cho tôi tờ báo và vui miệng cô hát theo: “Thành phố ơi hãy im lặng cho hai người hôn nhau”.
Tới lúc này, tôi mới vỡ lẽ. Thì ra mình nôn nao là vì cái nụ hôn. Không phải của “anh lính về thăm phố với cô gái vào ca ba” như bài hát kể, mà là cái nụ hôn của một người cha dành cho đứa con hoang đàng trở về của bài Phúc Âm. Giai điệu ấy, nụ hôn ấy quyện lấy nhau và tự nhiêm ngấm vào người tôi trở thành một thứ nôn nao, để hôm nay, xin được trang trải với cộng đoàn như suy nghĩ về trang Tin Mừng. Đó là nụ hôn của lòng thương xót.
Nếu để ý, người ta thấy nếp nghĩ của những người con trong dụ ngôn Tin Mừng là nếp nghĩ vượt trên lẽ công bình. Làm sao người con thứ dám xin cha mình chia gia tài mà anh gọi là “thuộc về anh” trong khi cha mình sờ sờ còn sống? Làm sao người con cả lại vùng vằng làm mày làm mặt với cha khi cả đời hầu hạ mà chẳng có lương? Sẽ là hỗn nếu dựa trên cái tình, nhưng cũng có thể quan niệm được nếu dựa vào cái lý. Chính nhân danh sự công bình đương nhiên nào đó mà tư cách của hai người con trong dụ ngôn đã được hình thành.
Nhất là việc người con thứ trở về. Sau những ngày phung phá đến bước đường cùng, đến độ khánh kiệt gia tài, cạn kiệt sức khỏe, anh vẫn còn đủ tỉnh táo để hạch toán nẻo lối tìm về. Bởi vì dựa trên công bình, anh đã đốt cháy quyền làm con nên không thể được gọi là con nữa. Bởi vì dựa trên công bình, anh đã tự ý bỏ nhà ra đi ôm theo sản nghiệp nên muốn tìm về phải được cha chấp nhận. Bởi vì dựa trên công bình, anh chỉ dám coi mình như “người cần việc” tìm đến “việc cần người”. Nếu anh có gặp cảnh then cài khóa ổ xua đuổi chối từ có lẽ anh cũng phải công bình mà chấp nhận.
Lẽ công bình khó khăn là như thế nhưng nụ hôn của người cha đã hóa giải tất cả. Nó vượt qua giới hạn của lẽ công bình để rạng rỡ là một nụ hôn của lòng thương xót. Người cha tha thứ hết. Không khóa trái đời sống người con thứ vào quá khứ tội lỗi, không niêm phong nhịp đời của anh vào bước đường phóng đãng, nhưng phục hồi quyền làm con như thuở ban đầu. Người ta không biết ở đâu lẽ công bình dừng lại và ở đâu lòng thương xót khởi đầu, nhưng chỉ biết rằng, bằng nụ hôn ấy sự tha thứ đã vượt lên chiếm lĩnh tiếng nói của lẽ công bình để trở nên nụ hôn của lòng thương xót.
Vẫn biết rằng khuôn khổ của tình yêu là một tình yêu không theo một khuôn khổ nào, nhất là tình ấy lại là tình cha, lại là lòng mẹ, cùng lắm chỉ dám ví von như núi cao biển rộng, tựa lai láng của dòng sông và mênh mông của đồng lúa. Nhưng trong trọng trách giáo dục, người ta cũng phải mặc nhiên chấp nhận một thứ khuôn khổ nào đó. Chả thế mà ca dao Việt Nam bảo: “Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”. Yêu con không phải là nuông chiều theo ý của con, nhưng là biết cách cho con roi giọt giáo hóa, và ghét con đâu phải chỉ là hằn học mắng la mà nhiều khi lại là những ngọt ngào ghẻ lạnh của một tình thương vắng bóng.
Một trong những châm ngôn nổi tiếng trong bổn phận giáo dục con cái là câu: “Nếu hôm nay không muốn con khóc vì được dạy dỗ, thì coi chừng sẽ phải khóc vì con hư đốn mai ngày”. Như trường hợp nóng hổi thời sự tại phiên tòa, khi người cha nghe con mình, một thành viên trong băng cướp “quý tử”, bị kết án chung thân đã nhỏ lệ thốt lên: “Tôi đã thiếu trách nhiệm làm cha”. Cũng là tình phụ tử, nhưng quá muộn màng.
Tình phụ tử cũng cần theo một khuôn khổ nào đó. Nhưng tình phụ tử trong dụ ngôn đã vượt lên tất cả. Không có một lời trách móc, không có một lời răn đe, cũng chẳng có hình phạt để mà nhớ đời. Chỉ có nụ hôn như một minh chứng: Với bản lĩnh của lòng thương xót, người ta vẫn có thể đi xa hơn để yêu con đích thực bằng cách cho ngọt cho ngào.
Đây chính là đỉnh cao của trang Tin Mừng. Nó mở ra một nhãn giới mới lạ. Nơi nụ hôn ấy là rạng rỡ lên hình ảnh của một Người Cha: chung cho người con cả và người con thứ, chung cho dân Do Thái và Dân Ngoại, chung cho cả người đã biết Chúa hay chưa biết Chúa. Nếu “cha chung không ai khóc” theo lẽ thường tình, thì ở đây lại khác, Cha chung này không cần đến tiếng khóc của ai, nhưng lại sẵn sàng cúi xuống với bất cứ tiếng khóc sám hối nào để ban tặng nụ hôn ntha thứ nồng nàn xót thương. Người Cha chung ấy yêu thương hết mọi người và chẳng bao giờ bỏ quên những trường hợp tội lỗi đáng thưong và bởi đáng thương nên Ngài cũng thương cho đáng với tấm lòng không vơi cạn của mình.
Qua nụ hôn đầu ngõ, Người Cha ấy biến nỗi buồn sám hối trở thành niềm vui tha thứ. Ngài ban ơn rộng rãi cho những kẻ tìm về với Ngài, rồi nhanh chóng gửi họ về lại gia đình cộng đoàn xã hội trong một nhịp sống mới nồng nàn tình xót thương, để những kẻ được ơn tha thứ hiểu rằng, từ nụ hôn ấy, họ phải minh chứng bằng cả cuộc đời biết phát triển ơn tha thứ và cũng biết dìu đưa những kẻ còn sa chìm về với lẽ xót thương. Đó là niềm vui của lòng thương xót, không dừng lại nhưng triển nở sinh sôi, không khép kín cá nhân nhưng mở ra cho hết mọi người.
Tóm lại, ba lý do: vượt trên lẽ công bình, vượt trên nền giáo dục và vượt trên đời sống cá nhân khiến nụ hôn cha – con là nụ hôn của lòng thương xót. Dẫu có kinh nghiệm về nụ hôn như phần lớn cộng đoàn hay chưa có kinh nghiệm ấy như một số bạn nhỏ, thiết tưởng nụ hôn xót thương của Tin Mừng cũng đọng lại trong ta một thứ nôn nao lạ lạ quen quen.
Khi thấy quen quen, là khi ta đồng hóa mình với người con phung phá tìm về và được tha thứ, trong lời kinh, trong Thánh Lễ, nơi tòa Giải Tội. tất cả đều là những nụ hôn thương xót. Khi thấy là lạ, là khi ta chợt nhận ra vẫn còn lẩn khuất đâu đó trong ta một anh con cả vùng vằng: Chúa đã đối xử với ta bằng tình thương xót còn ta chỉ đối xử với Chúa theo sự công bình, ta không đi hoang lang thang xa đạo, nhưng cách sống của ta biết đâu còn tệ hơn cả chối Chúa công khai.
Và khi thấy chen lẫn quen quen lạ lạ ấy chính là khởi đầu cho một quyết định: bởi tôi đã nhận được ơn tha thứ của Chúa, tới phiên tôi phải sống ơn tha thứ bằng cách bỏ qua lỗi lầm cho anh em; tôi đã nhận lòng xót thương của Chúa, tôi phải phát triển lòng thương xót ấy qua cách sống tốt lành của mình. Hãy quên đi những phần đời không đáng nhớ khi anh em có lỗi với mình, và hãy nhớ lấy những phần đời không thể quên khi mình đã được Thiên Chúa tha thứ xót thương.
Làm được như thế cũng là lúc ta có thể hát lên: “Thành phố ơi, hãy im lặng cho mọi người hôn nhau”.
(Suy niệm của Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng)
Tin Mừng Lc 15: 1-32 Thiên Chúa là tình yêu, Ngài là Thiên Chúa của lòng tha thứ. Tha thứ đến độ vui mừng mở tiệc để đón người tội lỗi ăn năn trở về. Thiên Chúa thương xót và mời gọi chúng ta cùng yêu thương tha thứ cho nhau như ngài.
Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót và luôn tha thứ. Chính vì thế, mà Con Một của Ngài đã đến và ở giữa nhân loại. Người đến để công bố và thể hiện lòng thương xót của Thiên Chúa Cha dành cho nhân loại, chính vì thế, những lời rao giảng của Chúa Giêsu được gọi là Tin Mừng.
Thiên Chúa là tình yêu, Ngài là Thiên Chúa của lòng tha thứ. Tha thứ đến độ vui mừng mở tiệc để đón người tội lỗi ăn năn trở về. Thiên Chúa thương xót và mời gọi chúng ta cùng yêu thương tha thứ cho nhau như ngài. Tin Mừng hôm nay minh chứng điều đó.
Thiên Chúa vui mừng khi người tội lỗi quay trở về
Để làm nổi bật niềm vui mừng lớn lao của Thiên Chúa khi tha thứ và khi người tội lỗi quay trở về, Thánh sử Luca đã liên kết ba dụ ngôn nói lên lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân: Dụ ngôn con chiên lạc, đồng bạc bị mất và người con hoang đàng.
Để trả lời cho những người luật sĩ và biệt phái đến chất vấn mình vì sao lại ngồi chung, đồng hành với những người tội lỗi, Chúa Giêsu đã dùng các dụ ngôn này.
Tất cả ba dụ ngôn đều được đánh dấu bằng một điệp khúc: ‘tìm thấy được cái gì đã mất’. Nhằm nêu lên sáng kiến đi bước trước tìm kiếm người tội lỗi và mời gọi họ quay trở về của Thiên Chúa. Khi họ trở về thì Thiên Chúa vui mừng. Sự hiện diện của Chúa Giêsu bên những người tội lỗi nói lên tất cả sự thật ấy. Sự thật về lòng thương xót vô bờ bến của Thiên Chúa.
Mỗi người chúng ta không chỉ được mời gọi quay trở về với Thiên Chúa vì chúng ta đang là những tội nhân, chúng ta còn đựơc mời gọi thể hiện lòng thương xót của Chúa qua việc đến kêu gọi những anh chị em tội lỗi, lầm lạc quay ttrở về với Chúa. Đồng thời, biết chia sẽ niềm vui với Chúa khi những anh chị em ấy quay trở về.
Mỗi Kitô hữu ngày nay, công tâm nhìn lại mình thì sẽ luôn nhân thấy rõ mỗi người đều là tội nhân cả. Tuy nhiên, đừng bi quan thất vọng chán nản, tình yêu Thiên Chúa luôn dư đủ để khoả lấp tội lỗi của mình. Tình yêu của Chúa luôn theo đuổi, chờ đợi và tha thư cho chúng ta. Hãy mạnh dạn sám hối, quay về với Chúa. Sự quay về không bao giờ là trễ cả; hãy tin tưởng vào lòng quang đại xót thương của Thiên Chúa.
Thiên Chúa vui mừng vì người tội lỗi quay trở về. Chúng ta hãy vững tin cho mình và cho người khác. Thân phận khốn nạn của kiếp tội nhân không làm suy giảm tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta, không làm cho Thiên Chúa ghét bỏ mình. Tin tưởng quay về không chỉ mình vui mừng vì được ơn tha thứ mà điều đó còn làm cho Thiên Chúa vui mừng. Vậy thì, quay về làm cho Thiên Chúa vui mừng cũng chính là cách thức chúng ta biểu lộ tình yêu thương của chúng ta dành cho Ngài. Yêu ai thì biết làm cho người vui mừng và hạnh phúc.
Tin Mừng hôm nay mời gọi Kitô hữu nhìn lại thái độ của mình khi đối xử với những người tội lỗi, những người xúc phạm đến mình. Không chỉ tha thứ mà còn phải chủ động tha thứ và vui mừng thực sự khi người anh em trở về.
III. Lời Cầu Chung
* Lời mở: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa vui mừng thực sự khi người tội lỗi biết ăn năn trở về. Trong tâm tình vui mừng và hy vọng vào lòng thương xót của Chúa chúng ta cùng dâng lời nguyện xin.
1) Hội Thánh được Chúa thiết lập để cống bố và trao ban lòng thương xót của Người cho nhân loại. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các vị chủ chăn trong Hội Thánh luôn có một tấm lòng nhân hậu thể hiện trung thực hình ảnh Thiên Chúa là người Cha giàu lòng xót thương.
2) Ngày nay biết bao anh chị em, thanh niên nam nữ đã và đang đi vào con đường lầm lạc của tệ nạn xã hội gây nên biết bao thảm trạng khổ đau cho gia đình cũng như xã hội. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong xã hội, những tổ chức thiện nguyện, các nhà lãnh đạo quốc gia luôn biết nỗ lực cùng cộng tác loại trừ tệ nạn xã hội và thực lòng yêu thương đón nhận người lầm lạc hoàn lương trở về.
3) Thiên Chúa yêu thương mời gọi con người cùng với Ngài yêu thương và tha thứ cho nhau. Chúng ta cùng cầu xin cho mọi người trong chúng ta luôn biết yêu thương quảng đại và tha thứ cho nhau, kiến tạo nên niềm vui và hiệp nhất trong cộng đoàn, trong gia đình.
* kết nguyện: Lạy Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót. Chúng con luôn tin tưởng vào tình yêu của Chúa. Xin cho chúng con luôn biết yêu thương và quảng đại tha thư cho nhau như Chúa đã luôn yêu thương và tha thứ cho chúng con. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
THIÊN CHÚA GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT
Bài Phúc Âm vừa nghe là một trong những trang đẹp nhất của Tin Mừng. Có thể gọi đó là Tin Mừng của Tin Mừng. Vì chương 15 Phúc Âm Luca này được coi như bản tóm tắt tất cả Phúc Âm. Tin Mừng đó là Thiên Chúa Cha giàu lòng thương xót. Lòng thương xót của Thiên Chúa thực vô biên, dài, rộng, cao, sâu khôn lường, ta không thể nào hiểu thấu. Những bài sách thánh hôm nay hé mở cho ta mấy nét của lòng thương xót vô biên đó.
Tình yêu đích thực không được đo bằng đam mê nồng cháy. Bởi những đam mê nồng cháy mau qua như một cơn bão lốc. Bão lốc qua đi chỉ để lại đổ vỡ điêu tàn.
Tình yêu đích thực không được đo bằng hy sinh tận cùng. Người ta có thể hy sinh mạng sống vì của cải, danh vọng. Hy sinh như thế có thể chỉ vì bản thân mình chứ không phải vì người khác.
Tình yêu đích thực được đo bằng sự tha thứ. Chỉ có yêu thực lòng, yêu tha thiết mới có thể tha thứ. Khi yêu người ta dám cho đi tất cả. Nhưng ít có ai cho đi sự tha thứ. Chính tha thứ mở cho ta cánh cửa dẫn vào thâm cung nhiệm mầu của tình yêu.
Tha thứ là đặc tính của tình yêu Thiên Chúa. ta hãy đọc lại lịch sử dân Israel. Biết bao lần dân chúng phản bội, chống lại Thiên Chúa. Nhưng Chúa vẫn nhân từ tha thứ. Khi Môsê cầu nguyện trên núi, dân Do Thái đã phản bội, gom góp vàng bạc đúc tượng bò mà thờ. Chúa nổi giận muốn phạt họ. Nhưng khi Môsê nài xin Chúa, Chúa đã nguôi giận mà tha thứ cho dân.
Phaolô ghét đạo Chúa, đi tìm bắt những người theo Chúa. Nhưng Chúa đã thương hoán cải ông. Hơn nữa, Chúa còn chọn ông làm Tông đồ cho Chúa.
Người con bỏ nhà ra đi, phung phí hết tiền của cha, nhưng người cha già vẫn yêu thương chờ đời, tha thứ hết khi nó trở về.
Sự tha thứ của Thiên Chúa đối với con người, nhất là người tội lỗi thực là vô biên. Sự tha thứ ây minh chứng tình yêu của Thiên Chúa đối với con người lớn lao biết chừng nào.
Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ, nhưng Người không chỉ ngồi đó chờ kẻ có tội trở về xin lỗi rồi mới thứ tha. Không, chính Thiên Chúa chủ động, có sáng kiến đi tìm con người. Đó là nét độc đáo trong tình yêu thương tha thứ của Thiên Chúa.
Chính Chúa đi tìm Phaolô khi ông đang trên đường lầm lạc, có sáng kiến làm ông té ngựa để đưa ông trở lại với Chúa. Chính Chúa là người chăn chiên đi tìm con chiên bị lạc. Là người ra ngõ tìm đứa con bỏ nhà đi hoang. Cuộc đi tìm không phải dễ dàng. Người chăn chiên phải băng đồi vượt sông, luồn lách qua gai góc, dẫm đạp sỏi đá, chịu đựng nắng mưa, bất chấp thú dữ rình rập. Người phụ nữ phải thắp đèn soi vào mọi ngóc ngách trong nhà, lùa chổi vào những khe nứt nhỏ bé, kiên nhẫn moi móc tìm kiếm niềm hy vọng mong manh. Người cha phải vượt qua những thành kiến xã hội, lòng tự ái bị thương tổn, trái tim đau đớn vì yêu thương.
Đi tìm là yêu thương. Còn hơn thế, đi tìm là đã tha thứ. Quả thật Chúa đã yêu thương ta trước. Người yêu thương ta trước khi ta biết Người. Người tha thứ cho ta trước khi ta xin lỗi. Người đi tìm ta trước khi ta trở về.
Trong đời sống xã hội, những người bé nhỏ nghèo hèn thường bị bỏ quên: sống cô đơn, chết cô độc, chìm vào quên lãng. Nhưng trong trái tim Thiên Chúa, mỗi người đều chiếm một vị trí quan trọng. Mỗi người đều là duy nhất độc đáo, không thể thay thế được đối với Thiên Chúa. Càng bé nhỏ nghèo hèn lại càng chiếm vị trí quan trọng trong tình yêu Thiên Chúa.
Một con chiên lạc có gì so với 99 con chiên còn lại. Giữ 99 con còn lại vừ nhàn nhã lại vừa có lợi. Đi tìm một con đi lạc vừa mệt nhọc lại vừa thiệt thòi. Nhưng trong tình yêu làm gì có tình toán thiệt hơn. Một con chiên nhỏ bé lạc loài đã chiếm hết trái tim của người mục tử nhân từ. Bao lâu chưa tìm được con chiên nhỏ bé gầy gò, lạc bầy ấy, lòng người mục tử ấy vẫn còn khắc khoải lo âu.
Đứa con bỏ nhà ra đi, xài phí hết gia sản cha mẹ làm sao sánh được với đứa con trai ngoan ngoãn ở nhà, biết chăm lo công việc, luôn hiếu thảo phụng dưỡng mẹ cha. Ấy vậy mà người cha ăn không ngon, ngủ không yên, tắt tiếng cười, mắt mờ lệ, bao lâu đứa con hư hỏng chưa trở về.
Thật kỳ diệu tình thương của Thiên Chúa. chính vì những tâm hồn bé nhỏ, tội lỗi, yếu đuối ấy mà Thiên Chúa đã sai Con Một Người xuống trần gian như lời Chúa Giêsu nói: “Những người bệnh mới cần đến thầy thuốc”.
Thực là vô biên lòng thương xót của Thiên Chúa. lòng thương xót ấy lớn hơn cả trái tim của ta. Ơn lành của Thiên Chúa lớn hơn cả tội lỗi của ta. Sự tha thứ của Thiên Chúa lớn hơn cả trí tưởng tượng của ta. Tất cả chúng ta hãy đến với Người. Hãy mang theo những yếu đuối lầm lỡ của ta. Hãy cho Người xem vết thương từ lâu gặm nhấm trái tim ta. Hãy tâm sự nỗi buồn vô vọng của ta. Thiên Chúa Cha chúng ta Đấng giaù lòng thương xót. Không có tội lỗi nào Người không tha thứ,không có vết thương nào Người không chữa lành. Không có nỗi buồn nào Người không an ủi.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
(Trích dẫn từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm Ignatiô Trần Ngà)
Chỉ có tội lỗi là nguyên nhân duy nhất tàn phá phẩm chất cao đẹp của con người.
Cho dù lũ lụt có thể cuốn trôi tất cả nhà cửa ruộng vườn, biến người ta thành người tay trắng, nhưng không thể cuốn trôi phẩm giá người ta.
Cho dù hoả hoạn có thiêu rụi nhiều phố xá làng mạc, cướp đi tất cả tài sản của người dân, nhưng cũng không thể thiêu rụi phẩm giá con người.
Dù tai ương hoạn nạn có cướp đi một vài chi thể của con người, khiến người ta trở nên tàn phế, nhưng cũng không thể cướp đi phẩm chất cao đẹp của người ấy.
Không gì từ bên ngoài có thể làm mất phẩm chất, mất giá trị con người, nhưng chỉ có tội lỗi và chỉ có tội lỗi mà thôi mới có thể huỷ diệt phẩm giá cao đẹp của họ. Chính Chúa Giêsu cũng khẳng định điều nầy: “Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế.” (Mc 7, 21-23).
Câu chuyện người con thứ trong Tin Mừng hôm nay minh hoạ cho thấy tội lỗi làm băng hoại phẩm giá con người đến mức nào.
Sau khi đòi chia gia tài và phung phí tài sản của mình với bọn đàng điếm, người con thứ lâm vào cảnh đói khát cùng cực và phải xin làm nghề chăn heo là nghề ô nhục nhất đối với người Do Thái.
Không có hình ảnh nào diễn tả tình trạng xuống cấp và suy đồi phẩm giá cho bằng hình ảnh một con người đói rách thảm hại, chen chúc với đàn heo bẩn thỉu hầu mong được ăn thực phẩm của heo nhưng chẳng ai cho.
Chính tội lỗi và chỉ có tội lỗi mà thôi mới có thể làm cho giá trị con người bị suy sụp cách thảm hại như thế.
Nhưng cũng qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mở ra cho chúng ta một chân trời hy vọng: những con người bị tội lỗi làm mất giá trị có thể được phục hồi nhân phẩm cách tuyệt vời.
Phục hồi lại phẩm chất cao đẹp của mình nhờ quay về với Chúa.
Một người giàu có bị phá sản, còn rất lâu mới có cơ may xây dựng cơ đồ, phục hồi sự nghiệp.
Một người bị mất chức, mất việc… khó lòng kiếm lại được chức, được việc ngon lành như trước.
Nhưng thật vô cùng may mắn và hạnh phúc cho chúng ta là những người tội lỗi, một khi lỡ sa ngã phạm tội, đánh mất hết phẩm chất cao đẹp của mình… thì chỉ cần cố gắng, kiên quyết hoán cải là có thể phục hồi lại được phẩm chất cao đẹp như trước.
Sau khi người con thứ lâm vào tình trạng đói khát, anh ta hồi tâm lại và quyết chí trở về nhà cha, để xin làm một người tôi tớ.
Khi thấy con từ đằng xa, người cha mừng rỡ chạy lại ôm lấy đứa con hoang và hôn nó hồi lâu.
Không để cho đứa con hư nói hết lời hối lỗi, ông truyền sai tôi tớ mau mau đem áo đẹp nhất ra mặc cho cậu, xỏ nhẫn quý vào tay cậu, mang giày sang quý vào chân cậu và hãy hạ bò tơ để ăn mừng…
Thế là từ một con người thân tàn ma dại, một thằng chăn heo hèn hạ đói khát, người con hoang đàng đã trở thành chàng công tử thượng lưu với bao nhiêu tôi tớ hầu hạ. Thay vì tấm áo rách hôi hám, cậu được mặc vào người tấm áo đẹp nhất. Thay vì đi chân đất bần cùng, cậu được mang giày dép sang trọng, được đeo nhẫn quý vào tay như những người quyền quý. Thay vì trước đây khao khát được ăn chung máng với đàn heo, ăn giữa đàn heo, cậu được ngồi ăn với cha, với họ hàng, với những bậc tai mắt trong làng xóm, có kẻ hầu người hạ. Thay vì những đồ cặn bã của heo, nay cậu được ăn thịt bê đã vỗ béo ngon lành. Thật khác ngày hôm qua một trời một vực. Thật là một sự thay đổi tuyệt vời, nằm mơ không thấy.
* * *
Chỗi dậy trở về cùng Chúa là từ bỏ tội lỗi và tính hư tật xấu, là kết hợp với Đức Kitô để trở nên con người mới, thụ tạo mới như lời thánh Phao lô dạy trong thư gửi tín hữu Cô-rinh- tô: “Phàm ai kết hợp với Đức Kitô, đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua đi, và cái mới đã có đây rồi.” (2C 5,17).
Cơ hội trở về luôn luôn sẵn có. Lời Chúa và Hội Thánh vẫn liên tục kêu mời. Điều còn lại hoàn toàn tuỳ thuộc ở nơi ta. Điều quan trọng là chúng ta có quyết tâm làm lại cuộc đời, sửa đổi và nâng cấp đời sống mình hay không.
(Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh)
Trong cuộc đời truyền giáo, Chúa Giêsu có nhiều dịp tiếp xúc nhiều hạn người, nhiều tầng lớp xã hội. Theo Tin Mừng, Chúa đặc biệt ưu ái người nghèo, nghèo vật chất và nhất là nghèo phẩm giá. Chúa lui tới, gặp gỡ, ăn uống với họ. Chúa bày tỏ tình yêu đối với họ là tình yêu thương xót, thông cảm, bao dung, tha thứ và đón nhận. Chúa đi ngược hẳn lối suy nghĩ của những người lãnh đạo trong đạo, ngoài đời của xã hội Dothái đương thời. Họ khinh miệt những người nghèo. Họ xa tránh và gọi những người nghèo ấy là “phường tội lỗi”.
Hôm nay, bằng ba dụ ngôn, Chúa dạy những “nhà lãnh đạo Dothái” bài học của lòng yêu thương thông cảm.
Bài Tin Mừng hôm nay, với ba dụ ngôn, để diễn tả nỗi lòng yêu thương cao cả của Thiên Chúa, có nhiều động từ được Chúa Giêsu lặp đi lặp lại, đó là những động từ: “mất” (6 lần), “tìm” (8 lần), “mừng” (8 lần).
Người ta bị mất, người ta đi tìm. Tìm thầy, người ta vui mừng.
Cái bị mất càng quý giá, càng phải tìm. Tìm thấy, nỗi vui mừng càng lớn.
Con người lưu lạc khỏi vòng tay Thiên Chúa, Thiên Chúa lạc mất con người. Cả dòng lịch sử cứu độ trải dài hàng thế kỷ là hành động của Thiên Chúa tình yêu đi tìm con người. Bởi thế, dòng lịch sử cứu độ đã ghi một dấu ấn tích cực, đó là dấu ấn của cả Hội Thánh Chúa và biết bao nhiêu anh chị em đã đáp lại sự tìm kiếm của Chúa.
Con người, đối với Thiên Chúa, đó là quà tặng quý giá dành cho chính bản thân Người. Bởi con người đáng quý, cho nên sự bội nghĩa vong ân của họ gây nên nỗi đau lớn nơi lòng Thiên Chúa. Một khi Thiên Chúa đã tìm thấy con người qua sự đáp trả của họ, đó là một niềm mừng vui không xiết. Chúa Giêsu diễn tả niềm vui này bằng nhiều hình ảnh:
– Người chủ chiên, sau khi tìm thấy con chiên tự ý bỏ đàn ra đi, đã “vui mừng vác chiên lên vai, trở về nhà, kêu bạn hữu và những người lân cận mà nói rằng: ‘Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc”.
– Người phụ nữ cất mọi công sức đi tìm đồng bạc bị lạc mất: “Đốt đèn, quét nhà, tìm kỹ lưỡng cho đến khi tìm thấy”. Khi tìm thấy, “bà mời các chị em bạn và những người láng giềng đến mà rằng: ‘Chị em hãy vui mừng với tôi, vì tôi đã tìm thấy đồng bạc tôi bị mất”.
– Nhất là người cha nhân hậu, sau bao năm mỏi mòn trông đợi đứa con phụ nghĩa bạc tình, ông vui mừng hết sức khi tìm thấy con ông trở về. Niềm vui của ông vỡ òa trong ngày chính ông được chạm đến cuộc đời đứa con hư hỏng: “Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu, hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu, và xỏ giày vào chân cậu. Hãy bắt con be béo làm thịt để chúng ta ăn mừng, vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”.
Ba động từ MẤT – TÌM – MỪNG xuyên suốt ba dụ ngôn, trở thành một tình ca hay, ca ngợi lòng yêu thương vừa kỳ diệu, trường kỳ, sâu thẳm trong hành động tìm kiếm con người của Thiên Chúa, vừa cho thấy: Tội lỗi đáng ghét, đáng loại trừ, nhưng người có tội, dù tội của họ nặng đến mức độ nào, vẫn đáng thương, đáng được tha thứ một khi họ biết ăn năn.
Một con chiên lạc, một đồng bạc bị mất, một đứa con hư hỏng. Thực ra đó là hình ảnh của loài người tội lỗi, là linh hồn con người cần được tình yêu tha thứ của Chúa đón nhận. Linh hồn còn quý giá hơn bội lần đối với con chiên, quý giá hơn đồng bạc, quý giá hơn đứa con hoang đàng. Bởi vậy, một khi tìm lại được linh hồn con người, thì không phải chỉ cả nhà vui, người chủ vui, hàng xóm vui, nhưng cả thiên đàng đều vui: “Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải”.
Thứ nhất: Biết mình có tội.
Cả vô tình lẫn cố ý, nhiều lần ta trở thành “người anh cả” trong dụ ngôn thứ ba, đã không thể thông cảm, không thể đón nhận anh em mình đứng lên sau khi đã vấp ngã, lại còn ganh ghét, lên án, kết tội. Đó là thái độ của những biệt phái và luật sĩ mà bài Tin Mừng nhắc đến nói riêng, các nhà lãnh đạo trong đạo ngoài đời của xã hội Dothái nói chung. Chính thái độ loại trừ một cách độc ác này đã “bị” Chúa dạy liên tiếp bằng ba dụ ngôn đáng giá, để nhắc nhở họ về tình trạng tội lỗi của chính họ. Họ cũng cần được tha thứ, cũng cần được Thiên Chúa yêu thương đón nhận như mọi người. Họ phải khôn ngoan nhìn mình để khám phá con người thực của mình hơn là nhìn người anh em để đổ vạ, để lên án.
Hơn bao giờ hết, chính lúc này đây, lúc mà ta đang lắng nghe và suy niệm Lời Chúa, hãy biết rằng, Chúa dạy ta đừng xét đoán, đừng lên án anh em, bởi không phải anh em có tội, nhưng là chính bản thân ta có tội. Chúa đang dạy ta hãy cúi đầu nhìn nhận mình tội lỗi mà ăn năn tội và cầu xin ơn tha thứ như lời thú nhận của người con thứ trong dụ ngôn thứ ba: “Thưa Cha, con thật đắc tội với Cha”.
Thứ hai: Đừng đánh mất hy vọng.
Dù ta xấu thế nào, tội nặng đến đâu, ta vẫn không có quyền thất vọng. Hãy tin mãnh liệt rằng, trước khi ta trở về, Chúa đã đi tìm ta. Chẳng những Chúa không bỏ rơi người có tội, ngược lại Chúa chủ động đi tìm. Chúa tìm đến lúc tìm được mới thôi. Ngày nào ta còn xa Chúa, ngày ấy Chúa còn mòn mỏi trông ngóng, chờ đợi, đau khổ. Chúa tìm ta, Chúa cần ta, Chúa thương ta, Chúa nâng niu ta. Một khi đã tìm lại được ta, Chúa không chỉ đón nhận như đón nhận người con ân hận trở về. Nhưng lòng Chúa mở hội, lòng Chúa vui mừng khôn tả.
Ta không có quyền thất vọng trước tình yêu hãi hà của Chúa. Tại sao ta lại thất vọng trong khi Chúa đang tha thiết chờ đợi ta trở về cùng Chúa? Tại sao ta không xác tín rằng, với ơn Chúa, ta sẽ có đủ nghị lực đứng lên trở về với Chúa? Người con hoang đàng trong dụ ngôn thứ ba toàn làm điều xấu, chỉ duy nhất có một hành động đẹp mà thôi: Đứng lên trở về cùng cha. Dẫu chỉ một, nhưng hành động ấy quá đủ để anh lại được ngự giữa tình yêu của cha. Dù ta phạm tội đến mức độ nào đi nữa, thì cũng hãy dứt khoát thực hiện một hành động rất đẹp mà người con hoang đàng đã thực hiện: Ra đi, trở về cùng Cha và thưa với Cha rằng: Lạy Cha, con đã lỗi phạm đến Cha. Hãy nhớ một điều rất quan trọng: Thất vọng là động lực nguy hiểm lôi kéo ta càng ngày càng xa Chúa. Do đó, thất vọng càng nhấn chìm ta. Càng đẩy ta lún sâu vào vũng bùn dơ bẩn của tội lỗi. Thất vọng là giết chết cuộc đời mình, giết chết tương lai vĩnh cửu của mình, giết chết cơ hội trở về với tình yêu của Chúa.
Thứ ba: Tin vào khả năng mình sống thánh thiện.
Ai trong chúng ta cũng có khả năng làm việc thiện. Đó là thực tế. Ngay cả một người dù bậm trợn nhất, xấu xa nhất, thì nội tâm anh ta vẫn khao khát hướng về sự thiện.
Tin vào khả làm việc thiện, sẽ đưa ta tới một niềm tin quan trọng khác: Ta có thể đứng lên thay đổi đời sống và hoán cải lòng mình. Hình tượng người con hoang đàng quyết trở về với cha của anh là bằng chứng mà Chúa đã dùng để nhắc ta hãy tin vào khả năng mình nên thánh thiện. Lịch sử Hội Thánh đã ghi nhận nhiều tấm gương sống đúng như Lời Chúa dạy qua hình ảnh người con hoang đàng. Chẳng hạn: thánh Phêrô, thánh Âugustinô, Thánh Phanxicô Asisi, á thánh Charles de Foucauld… Tất cả những con người thánh ấy, đều đã có một thời gian sai phạm, nhưng đã tự tin đứng lên về cùng Chúa. Họ đã thành công. Họ đã nên thánh. Chính tình yêu của Chúa đã trao cho họ động lực hoán đổi đời mình. Cũng vậy, Chúa vẫn bao bọc đời ta bằng tình yêu triều mến của Chúa. Tin tưởng Chúa không bỏ ta, ta sẽ đủ nghị lực, đủ mạnh mẽ mà dứt khoát giả từ tội lỗi, trở về cùng Chúa.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bước vào Chúa nhật thứ XXIV thường niên C, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta đọc Tin Mừng chương 15 Phúc Âm theo thánh Luca (15,1-32). Chương này gồm ba thể hiện lòng thương xót nên gọi là “dụ ngôn lòng thương xót”: con chiên lạc, đồng tiền mất, và người con trai hoang đàng.
Khi đọc “Người kia có hai con trai”, dù người biết rất ít về Tin Mừng vừa nghe đọc mấy lời trên sẽ biết ngay là ” dụ ngôn người con trai hoang đàng”, có người gọi là “dụ ngôn người cha nhân hậu”.
Dụ ngôn này thường được khai thác dưới nhiều khía cạnh về mặt thiêng liêng. Thực ra dụ ngôn này chỉ là chuyện hoà giải giữa cha và con, một sự hòa giải như thế là thiết yếu cho hạnh phúc của các người cha và con cái.
Trong ca dao, thơ ca, hò vè, văn chương, nghệ thuật, kịch nghệ sân khấu và những quảng cáo, xem ra chỉ tập trung vào một tương quan nhân bản duy nhất là tình yêu lứa đôi giữa người nam và người nữ, giữa người vợ và người chồng. Tương quan giữa cha và con thật quan trọng, vậy mà ít được khai thác. Tương quan này là đem lại vui mừng cho sự sống, niềm vui trong cương vị làm cha và làm con.
Khi nói về tương quan gia đình, không có gì xấu hơn trong tương quan giữa một người nam và một người nữ cho bằng sự lạm dụng, khai thác và bạo lực, và không có gì dễ bị phơi bày và biến dạng trong tương quan giữa những người cha và con cái cho bằng tính độc đoán, chủ nghĩa gia trưởng, sự nổi loạn, sự loại trừ, sự thiếu liên lạc.
Thiên Chúa đã than: “Ta đã nuôi nấng đàn con, cho chúng nên khôn lớn, nhưng chúng đã phản nghịch cùng Ta” (Is 1, 2). Nhiều người cha ngày nay có kinh nghiệm về điều trên.
Sự đau khổ là hỗ tương; không phải như dụ ngôn mà lỗi hoàn toàn ở người con. Có những người cha bị đau khổ hơn cả trong cuộc đời khi bị con cái loại bỏ hay khinh chê. Và có những đứa con bị đau khổ sâu xa nhất, đến nỗi không thể chấp nhận được khi cảm thấy bị hiểu lầm, không được coi trọng, bị loại trừ bởi cha mình.
Thực ra một sự hoà giải giữa cha mẹ và con cái và một sự chữa lành nội tâm sâu thẳm về tương quan giữa họ là một điều quan trọng cho sự tân phúc âm hóa. Chúng ta biết, tương quan của một người cha trần thế có thể ảnh hưởng rất lớn, tích cực hay là tiêu cực, đến tương quan chúng ta với Cha trên trời và như thế cũng ảnh hưởng tới đời sống Kitô hữu.
Vậy khi chúng ta phạm tội phản nghịch cùng Thiên Chúa, chúng ta khước từ Ngài, chúng ta phải làm gì, vì Thiên Chúa vẫn một lòng trung tín, không từ bỏ chúng ta? Thiết nghĩ, chúng ta lấy lại những lời đã soạn sẵn của người con thứ trong dụ ngôn, cùng với can đảm để thưa với cha mình.
“Tôi muốn ra đi, trở về với cha tôi và thưa người rằng: ‘Thưa cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha’ “. Lời thú nhận đầu tiền của chúng ta với Thiên Chúa là Cha, Đấng Tạo Hóa, giầu lòng thương xót và là thẩm phán là như thế. Cho dẫu Thiên Chúa biết mọi sự, Ngài vẫn đợi chờ chúng ta trở về lên tiếng thú lỗi; lý do là “tuyên xưng nơi miệng thì được ơn cứu rỗi” (Rm 10,10)…
Đó là điều người con thứ đã từng nói với cha mình; nói thôi, chưa đủ, nếu anh không về cùng Cha. Nhưng giờ này biết cha ở đâu để về gặp? ” Tôi sẽ trỗi dậy”. Đó là điều thánh Phaolô Tông Đồ nói: “Thức dậy đi, hỡi người ngủ mê! Từ trong cỏi chết, hãy đứng dậy!” (Ep 5,14)… Trước hết hãy trỗi dậy, nếu chúng ta đang ngồi đây và ngủ mê. Hãy thức dậy trở về với Giáo hội, với Thiên Chúa là Cha, là Con, là Thánh Thần. Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn sâu thẳm nơi con người, đến tìm gặp con người; nếu người cha trong dụ ngôn ngày ngày ra ngóng chờ con, nên khi con còn ở đàng xa ông đã chạy tới ôm chầm lấy con. Thiên Chúa là Cha, Ngài luôn dõi mắt theo con người, khi thấy con người khi còn ở đàng xa, Chúa đã thấy và chạy tới ôm chầm lấy con người và hôn lấy hôn để… khi con người bị tội lỗi thế gian vùi dập, Ngài cúi xuống để nâng con người lên; hướng con người về Trời để tìm thấy Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên mình. Đức Giêsu chính là Thiên Chúa, Ngài đã hạ mình xuống để giải thoát con khỏi thân phận nô lệ và trở nên chỗ êm ái nhẹ nhàng để con người dưỡng sức nghỉ ngơi, khi nói, nơi Đức Giêsu, con người gặp được Thiên Chúa Cha Đấng giầu lòng thương xót: «Hãy đến với Ta, hết thảy những kẻ lao đao và vác nặng”. Và Ta sẽ cho nghỉ ngơi lại sức” (Mt 11,28). Đó là cách mà Chúa ôm chặt con người, nếu con người hoán cái trở về với Chúa. Áo, nhẫn, giầy, con người đánh mất, Thiên Chúa sẽ ban lại. Áo ở đây là áo sự khôn ngoan…, áo tinh thần và là y phục lễ cưới. Nhẫn ở đây không gì khác là dấu ấn của niềm tin chân thành và dấu ấn của chân lý đó sao? Còn đôi giầy đi, chỉ sự loang báo Tin Mừng. Hãy hồi tâm và trỗi dậy, can đảm trở về với Thiên Chúa khi ta lầm đường lạc lối, để đón nhận được lòng xót thương của Thiên Chúa là Cha nhân lành. Amen.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Ba dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay làm nổi bật hình ảnh ba chiều về Một Thiên Chúa giầu lòng ái tuất.
Dụ ngôn: “Con chiên lạc” (x. Lc 15, 4-7); “Đồng bạc bị đánh mất” (x. Lc 15, 8-10); cụ thể hơn cả là dụ ngôn “Tình phụ tử” (x. Lc 15, 11-32) thể hiện niềm vui viên mãn tràn đầy. Nếu như hai dụ ngôn trước nói về sự vui mừng hay chung vui, thì dụ ngôn “Tình phụ tử là phải ăn tiệc và vui mừng”. Vì đồng bạc vô tình bị đánh mất, con chiên lạc có thể cố gắng tìm thấy đàn của mình, và người mất chiên cũng có thể tìm lại được chiên, nhưng không một trường hợp nào hồi tâm trở về với chính mình. Nên người tội lỗi trở về, Chúa Cha khao tiệc ăn mừng. Chúng ta không thể vui mừng sao được, khi có Thiên Chúa là Cha, Đấng đầy lòng trắc ẩn và rất mực yêu thương chúng ta.
“Từ bỏ cha tôi là người hết mực thương tôi, tôi thật đã làm điều sai trái; tôi đã phung phí hết tiền của vào cuộc đời trác táng, thân tôi tan nát và dơ bẩn, làm thế nào cha tôi có thể nhận ra tôi là con trai mình? Tôi sẽ sấp mình xuống dưới chân cha tôi, lấy nước mắt lau chân cha tôi và khẩn xin cha tôi coi tôi như người làm công của cha”… Người cha, từ ngày con bỏ nhà ra đi, ông thương con, ngày ngày ra ngóng con trở về, nên khi ông thấy nó từ đàng xa, ông quên cả tuổi già và quên luôn cuộc sống phóng đãng của con trai ông, ông chạy tới ôm choàng lấy cổ nó và hôn lấy lấy hôn để. Thằng con trai ông hết sức kinh ngạc về tình yêu mà cha nó dành cho nó, nó kêu lên…: “Con không còn xứng đáng được gọi là con cha nữa, xin cha coi con như người làm công của cha” (Lc 15, ). Không, không, con trai của cha, người cha nó kêu lên…, tiếng kêu xóa sạch lỗi lầm của con, và tình cha tuôn trào xuống người con bằng hành động: “phải ăn tiệc và vui mừng “(Lc 15, 32). “Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu, hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu, và xỏ giầy vào chân cậu. Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng: vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất, nay lại tìm thấy” (Lc 15, 22-24).
Khi quan sát hình ảnh người cha ôm người con, nghe người cha nói với người con khiến chúng ta liên tưởng tới Thiên Chúa là Cha xử với chúng ta là tội nhân như thế. Thánh Gioan Maria Vianney cha sở họ Ars đã thốt lên rằng: Đây hình ảnh tuyệt đẹp về sự vĩ đại của lòng thương xót Thiên Chúa đối với tội nhân khốn khổ nhất!… Ôi Thiên Chúa của con, rằng tội lỗi là một cái gì đó thật khủng khiếp! Làm thế nào chúng con có thể phạm tội được? Nhưng tất cả chúng con là những kẻ khốn nạn, ngay khi chúng con còn là tội nhân, thì Thiên Chúa đã yêu thương chúng con trước. Lòng thương xót của Thiên Chúa cộng với lòng trắc ẩn. Tình yêu của Đấng Cứu Thế thật bất ngờ bởi ân sủng của Người trước các tội nhân, Người ôm hôn tội nhân, trao ban cho họ sự an ủi tuyệt vời… Ôi khoảnh khắc tuyệt với! Chúng ta mà hiểu được thì chúng ta sẽ rất hạnh phúc! Nhưng than ôi, chúng ta không phù hợp với ơn thánh, nên những khoảnh khắc hạnh phúc tuyệt vời ấy biến mất…Chao ôi, đâu là điều mà tội nhân tin tưởng, cho dù tội lỗi đến đâu đi chăng nữa, thì hãy biết và tin rằng lòng thương xót của Thiên Chúa là vô cùng vô hạn! (Trích bài giảng thứ Chúa nhật III Mùa Chay của thánh Gioan Maria Vianney).
Người cha mất con, ngày ngày ngóng chờ con trở về là hình ảnh của Thiên Chúa là Cha luôn cháy lửa tình yêu đối với nhân loại, cha ôm con vào lòng, không đơn giản chỉ là tội nhân, nhưng là kẻ có tội biết ăn năn, đó là một con người biết đọc lại các biến cố đời mình, hiểu được những gì đã xảy đến với mình để sửa chữa, tái lập trật tự trong đời sống và quyết tâm: “Tôi sẽ trỗi dậy và trở về với cha tôi” (Lc 15,18), nhưng thực tế, ai trỗi dậy và ai trở về với cha mình. Vì thế, cuộc gặp gỡ giữa người cha và người con, khơi dậy sự trở về trong ân sủng của người con, đơn giản không chỉ là ơn tha tội nhưng không do Thiên Chúa ban. Đây là cuộc gặp gỡ của niềm tin mà người con tội lỗi đã đặt để vào lòng thương xót của người cha, cuộc gặp gỡ này mang dấu ấn của vòng tay cha và con tìm thấy được tình yêu trìu mến.
Chúa Giêsu đồng bàn với quân tội lỗi, nhưng Người không đến để hợp thức hóa tội lỗi, làm cho những kẻ lầm lỗi cứng lòng, hay ngày càng tội tề hơn. Người đến để loan báo rằng họ có thể sống khác để chứng tỏ tình yêu của Thiên Chúa không mệt mỏi khi tha thứ, không nản vì sự thờ ơ, hay khác biệt của những con người.
Vậy, hãy trở về với Chúa bằng lòng thống hối ăn năn, lao mình vào vòng tay của Chúa, để cho tình thương lân tuất của Chúa làm ta hồi sinh. Đúng như thế, tội nhân được tha thứ là con người của niềm vui và tác động của ân sủng.
Lạy Mẹ Maria, người mẹ khoan nhân, xin giúp đỡ chúng con. Amen.
Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm bị mất. Không phải chỉ con người bị mất mà ngay cả loài thú hoang cũng có kinh nghiệm bị mất. Nói một cách chung thì có hai loại mất cho con người đó là mất về mặt thể chất và mất về mặt tinh thần.
Về thể chất lại được chia làm hai loại. Mất những gì trong con người và mất những gì liên quan đến con người. Có những thứ mất trong ta thể hiện bản tính của ta. Thí dụ như mất tự chủ, hay nóng giận thể hiện bản tính con người. Mất trí nhớ, mắt kém, mất ăn, mất ngủ đều thể hiện trạng thái trong con người. Mất liên quan đến con người như vật kỉ niệm, quà tặng, giấy tùy thân, mất hướng đi, mất học. Tất cả đều ảnh hưởng đến cuộc sống.
Mất về mặt tinh thần được chia thành tinh thần và tâm linh. Mất về mặt tinh thần nguy hiểm hơn mất vật chất. Thí dụ như mất bạn hữu, mất nhận biết mình là ai. Mất tự tin, mất hy vọng vào cuộc sống, mất lòng tin vào anh em. Mất nguy hiểm nhất là mất đức tin bởi mất đức tin là mất tất cả, kéo theo cả sự sống trường sinh.
Mất ảnh hưởng đến cả cuộc đời là mất người thân và đây chính là kinh nghiệm của người cha trong Kinh Thánh nhắc đến. Nghe thoáng qua thì người ta thấy người cha này mất con. Khi suy nghĩ kĩ sẽ thấy người cha mất nhiều hơn là mất con. Truớc hết người cha không còn chọn lựa nào khác ngoại trừ chia nửa gia tài cho người con. Như thế ông ta mất rất nhiều của, nửa gia tài. Có của trong tay người con bỏ nhà ra đi như thế ông ta biết rõ con ông mất hướng đi tốt. Cách sống tốt lành ông dậy con, mong con thành người tốt, nhân đức bị con cho vào sọt rác. Ông là người thành công trên thương trường, có gia sản đồ sộ, có con ăn, đầy tớ, người làm nhưng ông thất bại trong gia đình, thất bại việc bày tỏ tình yêu cho con hiểu. Hai điều mất tiếp theo làm ông đau khổ hơn nhiều. Thứ nhất là việc người con bỏ nhà ra đi đánh mạnh vào cái tâm lí thất bại của người cha. Con bỏ nhà đi vì không chịu nổi cha. Ở đây không phán đoán đúng sai nhưng nói về cảm xúc người này cảm nhận về người kia. Người con cảm nhận cha anh không yêu anh. Tình cha con sứt mẻ không thể hàn gắn ngoài cách thoát li. Điều làm người cha đau khổ hơn nữa là vấn đề tâm linh của người con. Anh ta đi theo con đuờng ăn chơi, bê tha đời sống đức tin và ảnh hưởng đến sự sống trường sinh.
Người cha có quá nhiều kinh nghiệm đau thương, mất mát nhưng người cha không bao giờ mất hy vọng, không tuyệt vọng. Không biết điều gì khiến ông tin tưởng mãnh liệt ngày nào đó con ông sẽ trở về. Điều chắc chắn là tình yêu ông dành cho con lớn hơn lỗi lầm con mắc phạm- bỏ nhà ra đi, chê trách cha. Tình yêu ông dành cho con quan trọng hơn vật chất- nửa gia tài của ông. Niềm hy vọng của người cha luôn vững chắc và tin tưởng ngày nào đó con ông sẽ nhận ra sai lầm của mình và quay về. Người cha không chỉ hy vọng trong thầm lặng, hy vọng, ông chuẩn bị đón chờ ngày đó đến. Ông âm thầm cho vỗ béo bò chuẩn bị cho tiệc mừng con ông trở về. Bên cạnh đó ông còn sắm giầy cho cậu, mua áo mới cho cậu. Khi việc chuẩn bị tạm ổn, chiều chiều ông ngồi trước cổng nhìn về phía chân trời hy vọng trông thấy con thất thểu trở về. Niềm hy vọng của ông không tắt và ông được toại nguyện. Người con nhận ra mình sai lầm, nhận biết tình yêu của cha và anh đã từ giã bóng tối trở về ánh sáng tình thương. Người con trở về nhận lại tình yêu cha dành cho, ông ôm con trong lòng, tha thứ mọi lầm lỗi và mở tiệc mừng đón con.
Tình yêu và lòng xót thương Chúa dành cho ta khoan dung, đại lương hơn tất cả tội ta đã phạm. Xin ơn này để can đảm trở về.
1.”Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ” (Is 49,15). Đó là lời tiên tri Isaia đã phản ánh rất trung thực về tình cảm của người mẹ trần thế đối với đứa con của mình, và hơn thế nữa, Isaia cho thấy tình yêu của Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta.
Vâng đúng thế, Thiên Chúa luôn yêu thương con người, chủ đề của các bài Thánh Kinh hôm nay đều nói về lòng nhân từ của Thiên Chúa đối với loài người, nhất là những tội nhân. Bài đọc I, trích sách Xuất hành, diễn tả cơn thịnh nộ của Thiên Chúa trước tội “thờ bò vàng” của dân Israel, nhưng nhờ lời cầu nguyện của Môsê, cơn thịnh nộ ấy đã được nguôi dần. Bài đọc II, trích thư của thánh Phaolô gởi cho Timôthê, thánh Phaolô cho thấy Thiên Chúa không chỉ nhân hậu cách chung chung với một dân, một nhóm người, mà Ngài còn nhân hậu với từng người một, như kinh nghiệm chính thánh Phaolô đã thuật lại khi xác tín:”Đức Kitô Giêsu đã đến thế gian, để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi ” (1Tm 1,15). Hình ảnh Thiên Chúa là Đấng nhân hậu càng rõ nét, qua ba dụ ngôn nổi tiếng như trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe: “Con Chiên Lạc”, “Đồng Bạc Mất” và “Người Cha Nhân Hậu”.
Đọc Tin Mừng, chúng ta thấy Đức Giêsu thật là hình ảnh của Thiên Chúa nhân hậu. Phêrô đã từng chối Thầy mà sau khi hối lỗi vẫn được Thầy tin tưởng giao trọng trách. Người trộm lành được hoàn toàn tha thứ và còn được hứa hưởng hạnh phúc với Chúa… Thật là đúng theo một bài hát cầu hồn mà chúng ta thường nghe “Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu, Người đại lượng và chan chứa tình thương. Người không xử với ta như ta đáng tội, và không trả cho ta theo lỗi của ta “.
Truyện kể: Một thầy giáo nói với các học sinh trong lớp: Các em hãy viết lại Dụ ngôn Con Chiên Lạc, qua đó, các em sẽ cảm nhận được ý nghĩa sâu sắc hơn. Một học sinh viết: Giả sử bạn hoàn thành đánh máy một luận án dài 100 trang. Bạn đã miệt mài nghiên cứu, tìm tòi và sửa chữa rồi đánh máy. Bạn cảm thấy sung sướng khi đã hoàn tất. Bạn thu thập các trang lại bấm ghim và dán bìa, khi đó bạn phát giác ra bị thiếu mất một trang. Tưởng tượng sự sợ hãi, hoang mang và cảm thấy bực bội, xôi bao tử. Bạn bỏ 99 trang đó và bắt đầu lục lọi tìm kiếm. Bạn mong tìm cho được trang giấy đã bị thất lạc. Vì thiếu một trang, cả luận án sẽ vô nghĩa và bị mất giá trị. Đột nhiên, đàng kia, nó rơi ở ngay góc phòng. Bạn phấn khởi, dời ghế, ném tung 99 trang và quỳ gối xuống, nhặt vội trang đã bị lạc mất.
Tội lỗi đã nhập vào thế gian. Lòng con người thường dễ hướng chiều về đàng dữ. Những kéo lôi thỏa mãn của dục vọng tội lỗi gọi mời con người đi ngược lại với ý muốn của Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn kiên nhẫn đợi chờ lòng hối cải, chứ không tiêu diệt. Niềm vui của Chúa Giêsu và của thần thánh trên trời là người tội lỗi lầm lạc biết ăn năn hối cải trở về. Chúa nói: “Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải (Lc 15, 7). Chúa đến để kêu gọi người tội lỗi. Biết rằng chỉ những bệnh nhân mới cần đến thầy thuốc. Chúa Giêsu có quyền tha tội và chữa lành cả thân xác lẫn linh hồn. Chúa mở rộng cửa đón nhận những người tội lỗi. Chúa không kết án hay bỏ mặc họ chìm đắm trong vũng bùn của tội nhơ. Chúa tạo cho họ có cơ hội sám hối trở về.
Ngày xưa, Thiên Chúa đã chọn ông Môisen làm thủ lãnh dẫn Dân Do-thái ra khỏi nước Ai-cập. Giải thoát họ khỏi làm nô lệ cho người Ai-cập. Bước đầu của Chương trình cứu độ là đưa Dân Riêng vào miền Đất Hứa. Mới ra khỏi vòng nô lệ, lòng dân chưa được thuần thành. Tâm hồn họ còn bị ảnh hưởng bởi cách sống của dân ngoại. Nên khi có cơ hội, họ dễ quay trở lại thờ các thần do chính họ đúc thành. Họ đã nhiều lần phạm tội phản nghịch cùng Thiên Chúa. Khi ông Môisien lên núi cầu nguyện, thì dân chúng ở dưới chân núi đã hùa nhau gây rối và làm phản: Chúa phán cùng Môsê rằng: “Ngươi hãy đi xuống; dân mà ngươi dẫn ra khỏi đất Ai-cập đã phạm tội (Xh 32, 7). Dân chúng muốn tìm thỏa mãn ngay những nhu cầu hạ giới. Họ lo cho sự an toàn cuộc sống, lo cái ăn, cái mặc hiện tại, chứ không nhận biết đường đi nước bước mà Thiên Chúa sẽ dẫn đưa họ.
Phải mất rất nhiều thời gian để cải đổi thuần thành tâm hồn một nhóm dân đông đảo. Thiên Chúa đã yêu thương, bao bọc, chở che, dạy dỗ, sửa phạt và từ từ mạc khải về chương trình cứu độ. Dân Do-thái trên đường lữ hành đã đối diện với nhiều khó khăn thăng trầm. Cũng đã nhiều lần họ bỏ Chúa chạy theo tà thần: Chúng đã sớm bỏ đường lối Ta đã chỉ dạy cho chúng, chúng đã đúc tượng bò con và sấp mình thờ lạy nó; chúng đã dâng lên nó của lễ hiến tế và nói rằng: “Hỡi Israel, này là Thiên Chúa ngươi, Đấng đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập” (Xh 32, 8). Họ chưa nhận biết Thiên Chúa duy nhất, thánh thiện, nhân từ và công bằng vô cùng. Tâm trí của dân xưa chỉ nhìn nhận một Thiên Chúa vĩ đại, quyền uy, cao sang và sửa phạt công thẳng. Họ chưa cảm nghiệm được hình ảnh một Thiên Chúa đầy lòng xót thương và nhân hậu. Thiên Chúa luôn khoan dung kiên nhẫn đợi chờ.
Chúa Giêsu là hình ảnh Chúa Cha. Không ai biết Chúa Cha ngoài Chúa Con và không ai biết Chúa Con ngoài Chúa Cha. Chúa con là Ngôi Lời mạc khải. Ngài thi hành sứ mệnh Chúa Cha giao phó. Trước hết, Chúa mang ơn cứu độ cho các con chiên lạc nhà Israel. Thời đó, các vị chức sắc tôn giáo chưa nhận diện được sứ vụ của Chúa Giêsu. Họ càm ràm: Thấy vậy, những người biệt phái và luật sĩ lẩm bẩm rằng: “Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi, cùng ngồi ăn uống với chúng” (Lc 15, 2). Các biệt phái và luật sĩ rất bén nhậy quan sát cách hành xử của Chúa. Tư tưởng, cung cách sống đạo và thi hành lề luật của họ chỉ giới hạn nơi hình thức bên ngoài. Chúa Giêsu đi vào nội tâm khao khát của từng người. Chúa chữa lành và ban lại sự bình an cho mọi tâm hồn.
Chúa dùng nhiều thí dụ để nói lên niềm vui của tâm hồn. Chúa mong muốn những mảnh hồn đang bị xa lạc, tội lỗi, thương tích và tan nát được rửa sạch thay bằng trái tim lành mạnh đầy yêu thương. Chúa vui lắm khi một người tội lỗi biết ăn năn sám hối trở về. Tôi bảo các ông: Các Thiên Thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải” (Lc 15, 10). Trên trời vui mừng, các Thiên Thần vui mừng và mọi người cùng hối nhân vui mừng. Sự mừng vui trong tâm hồn không thể trả giá. Vui của nước mắt ăn năn, vui của sự hối cải trở về và niềm vui của ơn cứu độ. Niềm vui an bình và thanh thoát của tâm hồn được kết hợp cùng Chúa.
Mỗi người có tiến trình trở về khác nhau. Người xa kẻ gần, người tốt kẻ xấu, ai ai cũng cần có những giây phút trở về. Đừng nghĩ rằng mình là người công chính thánh thiện không cần hối cải. Ai nói mình không phạm tội là người nói dối. Có thể chúng ta không hư thân mất nết, ăn chơi phung phí hết tiền của như người con phung phá để rồi cuối cùng mới trở về: Tôi muốn ra đi, trở về với cha tôi và thưa người rằng: ‘Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha (Lc 15, 18). Tự vấn, có thể chúng ta không đến nỗi sống tệ bạc như người bạn trẻ này, nhưng có khi chúng ta đã lạc xa Chúa qua những sự dối gian, ích kỷ, giận ghét, thù hận và kiêu căng khác. Những thói xấu này làm xói mòn đời ta hơn nữa. Tội lỗi âm ỉ như những con vi trùng ung thư lan tràn khắp châu thân. Tội như là những con vi khuẩn độc hại tàn phá từng ngày. Chúng ta phải luôn cảnh tỉnh xét mình qua lời nói, hành động và cách suy nghĩ. Sẽ không thừa thãi, chúng ta biết chạy đến bác sĩ để khám bệnh, phòng bệnh và chữa bệnh kịp thời.
Một tâm hồn biết hối cải sẽ là niềm vui chung. Trong dụ ngôn người con phung phá trở về, đã được cha mở tiệc ăn mừng. Cha nói: Nhưng phải ăn tiệc mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy (Lc 15, 32). Thật cảm động về tình cha nhân hậu! Cha không ngoái lại quá khứ để bắt bẻ, hạch hỏi hay la rầy. Cha đón nhận một tâm hồn thống hối với trái tim yêu thương rộng mở. Lòng xót thương của cha thật bao la vĩ đại. Cha ôm con vào lòng và thổ lộ rằng con ta đã bị lạc mất nay lại tìm thấy. Niềm vui vỡ òa. Con được đón nhận trở lại trong vòng tay âu yếm của cha. Của cải của cha giờ đây sẽ là của con. Sự giao hòa, tha thứ và yêu thương sẽ đan kết nên một tương lai an vui và hạnh phúc.
Thánh Phaolô không ngại nói về quá khứ bất hảo của mình. Khi được ơn trở lại, Phaolô đã sống trong ân sủng của Chúa. Thánh Phaolô tâm sự: Dù trước kia cha là kẻ nói phạm thượng, bắt đạo và kiêu căng, nhưng cha đã được Thiên Chúa thương xót, vì cha vô tình làm những sự ấy trong lúc cha chưa tin (1Tm 1, 13). Phaolô đã dũ bỏ qúa khứ lỗi lầm và bước đi trên con đường cứu độ. Ngài không ngừng rao giảng về Chúa Kitô chịu đóng đinh và phục sinh từ cõi chết để chuộc lại lỗi lầm của chúng ta. Chúa đến để cứu thoát những con người tội lỗi. Phaolô chấp nhận thân phận yếu đuối của mình: Lời nói chân thật và đáng tiếp nhận mọi đàng là: Đức Giêsu Kitô đã đến trong thế gian này để cứu độ những người tội lỗi, trong số ấy, cha là người thứ nhất (1Tm 1, 15). Noi gương thánh Phaolô, mỗi người chúng ta cũng tự xét mình, cúi đầu nhận lỗi và xưng thú lỗi lầm, ăn năn sám hối và xin ơn tha thứ.
Lạy Chúa, chúng con đã nhiều lần lạc xa và phạm tội mất lòng Chúa. Đôi khi chúng con tự cho mình là người thánh thiện và công chính. Xin cho chúng con biết cúi đầu đấm ngực ăn năn và hối lỗi trở về với Thiên Chúa là Đấng từ bi nhân hậu.
(Trích dẫn từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)
Có ai đó đã nói rằng: “con tim có lý lẽ của con tim”. Hành động của con tim không đo lường bằng toán học, không kiểm chứng bằng khoa học. Hành động của con tim chỉ có thể hiểu được bằng tình yêu. Thế nên, chỉ có những ai ở trong tình yêu mới có thể hiểu được những việc làm xem ra thiếu tính toán của tình yêu. Đó cũng là cách hành xử mà Chúa Giêsu đã nói đến qua dụ ngôn con chiên lạc và đồng tiền đánh mất. Cả hai dụ ngôn đều nói lên một tình yêu vượt lên trên mọi tính toán vụ lợi. Vì không ai dại gì bỏ lại 99 con chiên trong rừng vắng để đi tìm con chiên lạc. Và cũng không có ai dại gì bỏ hàng vạn đồng để chiêu đãi bà con lối xóm khi tìm lại 1 đồng bạc bị đánh mất. Thiên Chúa không tính toán thiệt hơn.Thiên Chúa luôn hành động vì yêu thương. Chính tình yêu đã thúc bách Ngài phải lên đường ngay để tìm con chiên lạc. Chính trong sự nhẫn nại của tình yêu đã làm cho Ngài tràn ngập niềm vui sướng khi tìm được đồng tiền đã mất.
Con chiên và đồng tiền đánh mất tựa như cuộc đời của mỗi người chúng ta. Vì chạy theo danh vọng. Vì chạy theo những đam mê trần gian đã làm cho nhiều người lầm đường, lạc lối và đánh mất phẩm giá cao qúy của mình là hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa không bỏ rơi con người. Thiên Chúa dùng muôn nghìn cách để tìm lại chúng ta. Ngài sẽ làm tất cả để chuộc lại con người chúng ta. Đó cũng là cách mà Thiên Chúa đã thực hiện trong suốt dọc dài của lịch sử ơn cứu độ. Loài người luôn bất trung, bội tín, bội thề. Thiên Chúa thì luôn tín trung. Tình yêu của Ngài dành cho con người mãi mãi vẫn là một. Ngài không bao giờ thay đổi. Ngài có giận, giận trong giây lát nhưng yêu thương, yêu thương ngàn đời.
Tình yêu của Ngài hôm nay vẫn thế. Ngài vẫn đeo đuổi cuộc đời mỗi người chúng ta. Ngài sẽ đau khổ nếu chúng ta lạc xa tình Chúa. Ngài sẽ buồn nhiều nếu chỉ vì tiền tài và lạc thú mà chúng ta đánh mất phẩm giá làm người của mình. Phẩm giá con người lớn hơn những giá trị vật chất. Ngài không đang tâm đứng nhìn con người tự hạ thấp phẩm giá của mình để đổi lấy đồng tiền và lạc thú. Ngài càng không làm ngơ và bỏ mặc con người cho ma qủy lôi kéo vào hố diệt vong. Ngài sẽ làm muôn ngàn cách để đưa con người trở về nẻo chính đường ngay. Điều đó, Ngài đã thể hiện nơi cuộc đời của vua Đavít. Đavít là một con người được Chúa yêu thương nhưng lại vì đam mê lạc thú đã lỗi luật Chúa. Ông đã phạm tội ngoại tình với Batseva, là vợ của tướng Uria. Ông còn đang tâm đẩy Uria vào chỗ chết để chiếm lấy nàng Batseva. Thế nhưng, tình yêu Chúa còn lớn hơn tội của Đavít, Ngài đã không giáng phạt theo như tội Đavít đã làm. Ngài đã cho Đavít cơ hội làm lại cuộc đời. Qua tiên tri Nathan, Thiên Chúa đã thức tỉnh Đavít nhận ra lỗi lầm mà ăn năn trở về. Đavít đã sám hối ăn năn. Đavít đã cảm nhận tình thương Chúa dành cho ông quá to lớn đến nỗi mà ông phải thốt lên: “Nếu Chúa chấp tội nào ai rỗi được”. Chúa đã không chấp tội Đavít mà “lòng nhân từ của Chúa còn theo đuổi Đavít suốt cuộc đời”.
Vâng, lòng nhân từ của Thiên Chúa vẫn ở trong cuộc đời chúng ta. Lòng nhân từ của Thiên Chúa ví tựa như tấm lòng người mẹ, luôn yêu con bằng trái tim chứ không bằng trí óc. Và cũng chỉ có tình thương trời bể của người mẹ mới cho chúng ta hiểu nổi tình thương vô biên của Thiên Chúa dành cho chúng ta, nhất là đối với kẻ tội lỗi, người nghèo khó bé mọn. Vì “Có người mẹ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Nhưng cho dù người mẹ có quên con đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ”.
Dù có những người mẹ độc ác bỏ con mình, Chúa không bao giờ bỏ chúng ta. Người còn ban ơn chăm sóc chúng ta hằng ngày: “Các ngươi sẽ được nuôi bằng sữa mẹ, được bồng ẵm bên hông, nâng niu trên đầu gối. Như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy”.
Chúng ta thường nghe hát: “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình”. Còn lòng Chúa thương chúng ta thì không gì sánh được. Tình mẹ đã khó mà đền đáp cho đủ, còn tình Chúa thì sao? Liệu rằng chúng ta sẽ làm gì để đền đáp ơn Ngài cho cân xứng?
Ước gì mỗi người chúng ta cũng nhận ra lòng Chúa xót thương để ăn năn sám hối trở về với Chúa, và cũng biết sống tình yêu đó cho anh em. Amen.
Cha ông ta nói rằng:
Chữ nhẫn là chữ tương vàng
Ai mà nhẫn được thì càng sống lâu
Sự nhẫn nại sẽ giúp chúng ta sống bao dung hơn với anh em. Sự nhẫn nại sẽ giúp chúng ta kìm chế tính nóng giận hay nổi nóng với anh em. Sự nhẫn nại sẽ giúp chúng ta “sống dĩ hòa vi quý” để gìn giữ sự hòa thuận với nhau.
Có một thầy giáo vừa mở cửa bước ra thì đụng ngay một người đàn ông có bộ râu quay nón, cú va chạm mạnh và bất ngờ khiến cặp kính của thầy rơi vỡ vụn và mắt bị bầm tím. Ông ta đã không xin lỗi mà còn lớn tiếng quát: Ai bảo ông đeo kính làm gì? Ông thầy đồ vẫn đáp lại sự vô lý của người đàn ông bằng nụ cười rất hiền hòa khiến hắn kinh ngạc hỏi:
– Này, sao ông không tức giận?
Thầy đồ mới nói:
– Tức giận vừa không gắn được cặp kính đã vỡ, vừa không xoá được vết bầm trên mắt ta. Vả lại nếu ta tức giận mắng chửi anh hoặc động đến chân tay, ắt gây ra cãi vã lớn hơn thậm chí hại đến thân mà vẫn không hoá giải được sự việc. Chi bằng cứ vui vẻ chấp nhận cho xong!
Ông ta nghe xong rất cảm động về bài học đầy tình người này và rồi tiếp tục lên đường. Bẵng đi một thời gian, một hôm thầy đồ nhận một bức thư như sau: “Rất cảm ơn thầy đã khai sáng cho con, hôm đó nhờ đụng phải thầy mà sau nầy con đã cứu được 3 sinh mạng. Sự thể là thế nầy: một hôm đi làm con quên cặp tài liệu nên quay về nhà lấy, không ngờ bắt gặp vợ con đang hú hí với người đàn ông khác. Con rất tức giận, chạy vào bếp cầm dao định giết họ sau đó tự sát để chấm dứt mọi chuyện. Không ngờ người đàn ông đó kinh hoàng quay đầu lại, cặp kính đeo mắt rơi xuống đất vỡ toang… con bỗng nhớ đến thầy và câu nói của thầy “Tức giận không giải quyết được vấn đề” giúp con bình tĩnh lại và thấy rằng oán báo oán, oán lại chập chùng… Con đã tha thứ tất cả. Hiện nay cả nhà chúng con sống hạnh phúc hòa thuận, công việc làm ăn thuận lợi. Gương sáng của thầy đã thay đổi nhận thức của con. Ngàn lần tri ân thầy.
Vâng, đã là con người thì bất cứ ai cũng sẽ mắc sai lầm trong cuộc đời. Vì thế hãy khoan dung với những ai biết hối hận, biết sửa chữa. Hãy cho nhau cơ hội được tha thứ. Vì chắc chắn cuộc đời ta cũng cần những cơ hội như thế. Có tha thứ thì tâm mới bình yên và lòng mới thanh thản. Tha thứ cũng chính là liệu pháp chữa lành tâm hồn chúng ta khỏi nỗi đau của vô ơn, của phản bội…
Thiên Chúa vẫn nhẫn nại với lỗi lầm của con người. Ngài còn ân cần với từng người chúng ta. Ngài ví cuộc đời chúng ta như con chiên đi lạc, như đồng tiền đã mất. Ngài đã tức tốc đi tìm mà không màng đến những con chiên còn lại và cũng không tiếc sót mở tiệc ăn mừng khi tìm thấy đồng tiền đã mất. Ngài còn ví tình yêu của Ngài như người cha nhân ái bao dung. Một người cha đã chia gia tài cho con, thế nhưng nó lại dùng của cải để ăn chơi, để vượt ra khỏi mái nhà của cha. Nó đàn điếm đến nỗi thân tàn ma dại. Thế mà, chỉ cần thấy nó trở về, Cha đã quên hết quá khứ tội lỗi của con, và còn ban lại quyền làm con mà nó đã tự đánh mất.
Cuộc sống nơi các gia đình sẽ đẹp biết bao nếu chúng ta biết sống chữ nhẫn này.
+ Cha con biết nhẫn nhịn, gia đạo mới an vui.
+ Vợ chồng biết nhẫn nhịn, gia đình mới không bị đổ vỡ.
+ Anh em biết nhẫn nhịn, gia đình êm ấm bình yên.
+ Bạn bè biết nhẫn nhịn, tình nghĩa mãi không phai mờ.
+ Tự mình biết nhẫn nhịn, được mọi người yêu mến.
Ước mong năm thánh Lòng Thương Xót là dịp chúng ta theo gương Chúa mà nhẫn nhịn nhau. Xin đừng ăn thua đủ với nhau. Xin hãy đối xử khoan dung với nhau. Ước gì chúng ta biết làm sáng danh Chúa khi họa lại chân dung Lòng Thương Xót Chúa trong thế giới hôm nay. Amen.
Một cô bé và cha đi ngang qua cây cầu. Cô bé sợ nên hỏi cha:
“Cha ơi, con có thể nắm lấy tay cha để con khỏi rơi xuống sông không?”
Cha đáp:
“Con yêu, không được, chính Cha sẽ nắm tay con đi.”
Cô bé nói: “Như vậy thì có khác nhau gì đâu?”
Cha đáp.
“Rất khác đó con ơi.”
Và người cha nói tiếp: “Nếu con nắm tay cha và có điều gì đó xảy ra với con, rất có thể là con thả tay cha ra. Nhưng nếu cha nắm tay con, con biết là cho dù điều gì xảy ra, cha sẽ không bao giờ buông tay con ra.”
Thiên Chúa không bao giờ buông tay chúng ta ra. Ngài luôn nắm chặt tay chúng ta để dìu chúng ta đi qua những khó khăn của giòng đời. Cho dù, đã nhiều phen chúng ta cố tình buông tay khỏi tay Chúa. Cho dù chúng ta muốn vuột khỏi tầm tay Chúa, Chúa vẫn níu kéo chúng ta và gìn giữ chúng ta. Vì Chúa biết một khi chúng ta vuột khỏi tầm tay Chúa, sẽ phải đối phó với biết bao cạm bẫy của Sa tan, của sự dữ. Chúa biết một khi chúng ta vuột khỏi tầm tay Chúa, sẽ lạc vào những ảo ảnh của danh lợi thú mau qua.
Tình yêu Chúa đời đời vẫn là thế! Nhân ái – bao dung và nhẫn nại. Tình yêu của Ngài luôn ân cần với từng người chúng ta. Ngài ví cuộc đời chúng ta như con chiên đi lạc, như đồng tiền đã mất. Ngài đã tức tốc đi tìm mà không màng đến những con chiên còn lại và cũng không tiếc sót mở tiệc ăn mừng khi tìm thấy đồng tiền đã mất. Ngài còn ví tình yêu của Ngài như người cha nhân ái bao dung. Một người cha đã chia gia tài cho con, thế nhưng nó lại dùng của cải để ăn chơi, để vượt ra khỏi mái nhà của cha. Nó đàn điếm đến nỗi thân tàn ma dại. Thế mà, chỉ cần thấy nó trở về, Cha đã quên hết quá khứ tội lỗi của con, và còn ban lại quyền làm con mà nó đã tự đánh mất.
Vâng, tình yêu Thiên Chúa thì bao dung và không giới hạn. Tình yêu của Ngài luôn chậm bất bình và rất mực khoan dung. Tình yêu ấy Ngài đã thể hiện qua sự bao dung dành cho Adam – Eva. Ngài không đoạn tình với ông bà, dù rằng ông bà đã cố tình quay lưng lại với Chúa. Ngài không bỏ rơi dân Ngài đã tuyển chọn, cho dù họ cố tình không để Chúa dẫn dắt họ. Tình yêu ấy, hôm nay Ngài vẫn dành cho chúng ta. Ngài vẫn kiên nhẫn với lỗi lầm chúng ta. Ngài vẫn vui mừng khôn xiết khi thấy chúng ta ăn năn trở về. Ngài sẽ ân cần choàng chiếc áo ân sủng và ban thưởng gia tài trên trời cho chúng ta.
Làm người ai cũng có những lầm lỗi. Ai cũng có những bước chân lầm lạc. Điều quan yếu là biết tỉnh thức và quay trở về. Đừng cố tình sống trong tội lỗi. Đừng làm ngơ trước tiếng mời gọi trở về của lương tâm, của lề luật. Đừng nại vào lòng thương xót của Chúa để cố tình ngủ mê trong tội lỗi.
Hãy nhớ rằng: Chúa không bao giờ buông tay và rời xa chúng ta, mà chính chúng ta đã nhiều lần cố tình rời xa Chúa. Ước gì cuộc đời chúng ta luôn bước đi trong sự dẫn dắt của Chúa. Xin hãy để Chúa dẫn dắt chúng ta hơn là để ma quỷ lôi kéo chúng ta. Xin hãy để Chúa cầm tay chúng ta trong sự phó thác trọn vẹn nơi Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang – Joshepus Quang Nguyễn)
Các bạn thân mến,
Có một nhà thần học nhận xét: giả sử một ngày nào đó người ta đánh mất toàn bộ cuốn sách Phúc âm nhưng chỉ còn 3 dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay: một trăm con chiên lạc mất một con, mười đồng đánh mất một đồng và hai đứa con trai, người ta vẫn tìm thấy cái cốt lõi của Tin mừng. Tại sao? Vì nó diễn tả trọng tâm của sứ điệp Tin mừng mà Chúa Giêsu loan báo. Đó là tình yêu thương xót vô điều kiện của Thiên Chúa vượt lên trên mọi gian nan khốn khổ và mọi tính toán của con người.
Dụ ngôn thứ nhất: ông chủ bỏ chín mươi chín con đi tìm một con. Nghe qua ta nói ngay ông chủ này điên rồi vì nếu bỏ 99 con đi tìm một con lạc, khi tìm được con lạc được về thì chắc chắn 99 con kia đi lạc hay bị thú dữ ăn thịt. Ông không điên đâu! Vì theo tục lệ người Do thái, dân du mục, khi đi chăn là chăn theo bày đàn nên nhiều chủ. Cho nên, ông chủ kia đi tìm thì gửi 99 kia cho chủ khác coi dùm. Nhưng, Chúa dùng dụ ngôn này nói đến tình yêu thương xót của Thiên Chúa dành cho chúng ta đến nỗi dám hy sinh gian khổ, liều mạng để tìm cho được con chiên lạc, con chiên hư hỏng về đàn chiên. Tình yêu thương xót vượt trên gian nan khốn khổ. Cho nên, bài đọc 1, sách Xuất Hành kể dân Ít-ra-en được Chúa thương cứu mạng sống, đáng lý ra phải vâng nghe theo Chúa dạy, đàng này phản bội, nỗi loạn, phạm tội thờ bò vàng thay vì thờ Chúa. Nhưng, qua Môsê, Chúa không những thương không giáng phạt mà còn ban cho con đàng cháu đống và đất như lời Chúa hứa.
Dụ ngôn thứ hai, các bạn thân mến,
Ai đời, bà kia mất một đồng nhưng tìm được rồi phải “rửa”, mở tiệc mừng tốn hết mười đồng. Chúa nói mừng vì tìm được, tốn mấy cũng chẳng sao miễn sao tìm được? Tình yêu thương xót vượt trên mọi tính toán! Cho nên, trong bài đọc hai, Thánh Phaolô nói rằng Chúa Kitô đã đến thế gian đi tìm những kể tội lỗi, tìm mãi tìm đến nỗi phải chết và sống lại tìm cứu lấy những kẻ tội lỗi trong đó có Phaolô trở về đường ngay nẻo chính. Nên Thánh Phaolô xác tín rằng Chúa đã đặt tôi làm gương, nên ai tin vào Chúa Kitô thì được cứu, được sống muôn đời.
Tình yêu thương xót Chúa dành cho chúng ta là thế. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có dám tin và sống cho tình yêu thương xót ấy không? Chắc chắn chúng ta sẽ trả lời không ngay! Vì chúng ta là con người chứ đâu phải thánh đâu mà yêu người vô vị lợi như thế. Nhưng, nói đi thì phải nói lại rằng các Thánh cũng là con người nhưng biết sám hối trở về, phó thác đời mình cho Chúa, sống theo Lời Chúa. Cụ thể, thánh Phêrô, Thánh Phaolô. Cho nên, nếu chúng ta không dám tin và trao phó cuộc đời mình cho tình yêu thương xót vô điều kiện của Thiên Chúa, chúng ta sẽ rơi vào một trong hai trạng thái của hai người con trong dụ ngôn thứ ba.
+ Hoặc như người con út.
Người con út cảm thấy Thiên Chúa như bức tường cản trở, bó buộc tự do của mình và vì thế mình tìm mọi cách để dành lại quyền tự do để sống cuộc đời theo sở thích của mình cho nó đả. Cho nên, hắn nói xin cha chia gia tài khi cha còn sống đồng nghĩa rằng xin cha chết quách đi cho rồi, để con tự do bay nhảy, bao lâu còn ở với cha thì bị gò bó, mất tự do. Thật sự, trong cuộc sống hằng ngày có những lúc chúng ta suy nghĩ, hành động như thế? Chẳng hạn, bây giờ thời đại văn minh rồi thứ bảy, Chúa Nhật đi nhậu, giải trí, thể thao hay đi bắt “Pokemon Go” cho đả, chứ tội gì mà phải đi lễ Chúa nhật khổ quá, mất giờ… Hoặc chuyện gian dối trong làm ăn, buôn bán, học hành là chuyện thường tình, ai ai cũng làm được mà tại sao Chúa cấm tôi, mất tự do quá! Xin Chúa thông cảm nhé, đợi kiếp sau con theo Chúa, nghe Lời và sống Lời Chúa vậy. Cho nên, không lạ gì, việc giữ và sống Đạo của các bạn trẻ ngày nay rất hời hợt, tẻ nhạt và khô khan. Cụ thể, trong một báo cáo mới đây, tiến sĩ Mark Gray, một chuyên viên nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu ứng dụng về Tông đồ (viết tắt CARA) tại đại học Georgetown cho biết rằng các tín hữu Công giáo trẻ cũng cho thấy độ tuổi đặc trưng quyết định rời bỏ đức tin là vào khoảng 13 tuổi. 63% những người được hỏi nói rằng họ đã bỏ Công giáo vào khoảng từ 10-17 tuổi, và 23 % rời bỏ trước khi lên 10. Ông cho biết lý do các bạn trẻ rời bỏ đức tin Công giáo vì thánh lễ nhàm chán, ngoài xã hội có nhiều thú vui hơn.
Các bạn thân mến, đó là thằng em út, còn anh cả thì sao?
Anh không đủ can đảm để đòi quyền tự do bỏ nhà ra đi vì sợ chết sợ đói, cho nên đành ở nhà cha nhưng không sống như người con mà như một tên nô lệ vì anh ta nghĩ mình phải lo mọi việc tỷ mỉ bởi ông cha lúc nào cũng rình mò, ông thấy được thì tống xuống hoả ngục thì khốn khổ thay. Nếu chúng ta sống đạo một cách sợ hãi, không có niềm vui, không có lòng mến, như thế chẳng khác nào thờ Chúa vì bất đắc dĩ, cực chẳng đả.
Các bạn thân mến,
Trong đời sống xã hội, những người bé nhỏ nghèo hèn thường bị bỏ quên: sống cô đơn, chết cô độc, chìm vào quên lãng. Nhưng trong trái tim Thiên Chúa, mỗi người đều chiếm một vị trí quan trọng. Mỗi người đều là duy nhất độc đáo, không thể thay thế được đối với Thiên Chúa. Càng bé nhỏ nghèo hèn lại càng chiếm vị trí quan trọng trong tình yêu Thiên Chúa. Qủa thật, lòng thương xót Chúa lớn hơn cả trái tim của ta. Ơn lành của Thiên Chúa lớn hơn cả tội lỗi của ta. Sự tha thứ của Thiên Chúa lớn hơn cả trí tưởng tượng của ta. Tất cả chúng ta hãy đến với Người. Hãy mang theo những yếu đuối lầm lỡ của ta. Hãy cho Người xem vết thương từ lâu gặm nhấm trái tim ta. Hãy tâm sự nỗi buồn vô vọng của ta. Thiên Chúa Cha chúng ta Đấng giàu lòng thương xót. Không có tội lỗi nào Người không tha thứ, không có vết thương nào Người không chữa lành. Không có nỗi buồn nào Người không an ủi.
Ước gì qua lời Chúa hôm nay, xin Chúa giúp chúng con thờ phượng Chúa và thi hành Lời Chúa hết mình không tính toán, so đo hay vụ lợi chỉ vì Chúa đã thương con như vậy. Nhất là biết tín thác vào lòng Chúa xót thương dù cuộc đời có ban chìm bảy nổi chín lênh đênh, biết ăn năn sám hối, năng chịu các Bí Tích để mọi chúng ta được mọi ơn lành của Chúa. Đặc biệt biết thương xót mọi người xung quanh ta bằng một tình yêu thương xót vô điều kiện, không tính toán như Đức Giêsu, Chúa chúng ta như thế chúng ta mới thật sự là môn đệ của Chúa giàu lòng xót thương. Amen.
YÊU SẼ LUÔN KIẾM TÌM HẠNH PHÚC CHO NGƯỜI MÌNH YÊU
Báo VnExpress có bài viết: “Người cha 15 lần xuất cảnh để tìm con nơi ‘động quỷ’ kể rằng ông Thắng đã bỏ ra hơn 400 ngày, đi dọc 30.000km đường bộ ở Trung Quốc mới tìm thấy con gái mình. Vì sao con ông sang tới đó? Ông nói: “Năm 2007, như nhiều đứa trẻ mới lớn, Lương – cô con gái thứ ba của ông Thắng đòi bố mua cho chiếc điện thoại di động để tiện cho việc học. Từ những tin nhắn vu vơ của người lạ, cô bé 16 tuổi bị một kẻ lừa đảo rủ đi chơi rồi chuốc thuốc mê bán sang Quảng Tây (Trung Quốc). Con gái mất tích, cả nhà bấn loạn. Họ lùng sục khắp hang cùng ngõ hẻm của 11 tỉnh thành miền Bắc nhưng không tìm thấy con. Ông cũng báo công an nhưng sau nhiều ngày vẫn bặt vô âm tín. Ông vẫn kiên trì đi tìm, cứ đi tìm rồi lại quay về. Năm 2008, thình lình cô bé mất tích bật tin ngắn gọn rằng cô bé đang ở Sùng Tả, Quảng Tây, Trung Quốc. Ông sang Trung Quốc, trong vai khách làng chơi, hai người cùng vào hỏi bà chủ “Có gái Việt Nam không?”. Sau cái gật đầu, một cô gái trẻ tiến ra. “Ối con!”, ông Thắng kêu lên một tiếng rồi cắn chặt miệng ngăn dòng nước mắt chảy ra. Cô con gái cũng nấc nghẹn nhưng rồi câm bặt. “Nếu lúc đó 2 cha con mà không nén cảm xúc thì có khi tôi cũng đã bỏ mạng bên đó”. Tim đập thình thịch, tay chân run lẩy bẩy, ông kịp trấn tĩnh lại, lấy lý do chê cô gái xấu rồi bỏ đi. Ra ngoài, ông nhanh chóng gọi điện cho cơ quan chức năng Trung Quốc, bồn chồn chờ đợi, chỉ sợ chủ chứa phát hiện rồi đưa cô bé đi xa. Một lúc sau công an tới, triệt phá địa điểm mại dâm này. Bố con ông Thắng cùng 10 cô gái Việt khác được đưa về nhà ở Việt Nam.
Nhà vật lý học Pascal đã nói: “Con tim có lý lẽ của con tim”. Hành động của con tim không đo lường bằng toán học, tính toán hơn thua, thiệt hại mà hành động của con tim chỉ bằng tình yêu. Thế nên, chỉ có những ai ở trong tình yêu mới có thể hiểu được những việc làm xem ra thiếu tính toán, không sợ thiệt thân, không mệt mõi tìm kiếm hạnh phúc cho ngưới mạnh yêu. Đó cũng là cách hành xử mà Chúa Giêsu đã nói đến qua dụ ngôn con chiên lạc và đồng tiền đánh mất. Cả hai dụ ngôn đều nói lên một tình yêu vượt lên trên mọi tính toán vụ lợi, không sờn lòng nãn chí, không sợ mệt mõi tìm kiếm cho ra và cứu đuọc người mình yêu. Vì không ai dại gì bỏ lại 99 con chiên trong rừng vắng để đi tìm con chiên lạc. Và cũng không có ai dại gì bỏ hàng ngàn đồng để chiêu đãi mọi người bà con lối xóm khi tìm lại 1 đồng bạc bị đánh mất như bà kia. Vâng, Thiên Chúa không tính toán thiệt hơn, không mệt mõi tìm kiếm hạnh phúc cho mọi người. Chính tình yêu đã thúc bách Ngài phải lên đường ngay, không ngại hy sinh gian khổ, liều mạng để tìm cho được con chiên lạc, con chiên hư hỏng về đàn chiên duy nhất. Chính trong sự nhẫn nại, kiên trì, không tính toán của tình yêu đã làm cho Ngài tràn ngập niềm vui sướng khi tìm được được con chiên lạc. Cho nên, bài đọc 1, sách Xuất Hành kể dân Ít-ra-en được Chúa thương cứu mạng sống, đáng lý ra phải vâng nghe theo Chúa dạy, đàng này phản bội, nỗi loạn, phạm tội thờ bò vàng thay vì thờ Chúa. Nhưng, qua Môsê, Chúa không những thương không giáng phạt mà còn ban cho con đàng cháu đống và đất tràn trề sữa và mật ong như lời Chúa hứa. Còn trong bài đọc hai, Thánh Phaolô nói rằng Chúa Kitô đã đến thế gian đi tìm những kể tội lỗi, tìm mãi tìm đến nỗi phải chết và sống lại để cứu lấy những kẻ tội lỗi trong đó có Phaolô. Nên Thánh Phaolô xác tín rằng Chúa đã đặt tôi làm gương, nên ai tin vào Chúa Kitô thì được cứu và được sống muôn đời.
Tình yêu Chúa dành cho chúng ta là thế. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có dám tin và sống cho tình yêu ấy không? Chắc chắn chúng ta sẽ trả lời không! Vì chúng ta là con người chứ đâu phải thánh đâu mà yêu người vô vị lợi, khiên nhẫn tìm kiếm hạnh phúc cho người mình yêu như Chúa được. Nhưng, nói đi thì phải nói lại rằng các Thánh cũng là con người nhưng biết sám hối trở về, phó thác đời mình cho Chúa, sống theo Lời Chúa: Đức Mẹ, Thánh Giuse, thánh Phêrô, Thánh Phaolô hay Thánh Nữ Têrêxa Calcutta… Con chiên và đồng tiền đánh mất tựa như cuộc đời của mỗi người chúng ta. Vì chạy theo danh lợi thú, chạy theo những đam mê trần gian đã làm cho nhiều người lầm đường, lạc lối và đánh mất phẩm giá cao qúy của mình là hình ảnh Thiên Chúa, vì sợ mọi thứ mà chúng ta không hy sinh đi tìm kiếm hạnh phúc cho người lầm được lạc lối. Thiên Chúa không bỏ rơi con người. Thiên Chúa dùng muôn nghìn cách để tìm lại mọi người. Ngài sẽ làm tất cả để chuộc lại chúng ta. Đó cũng là cách mà Thiên Chúa đã thực hiện trong suốt dọc dài lịch sử ơn cứu độ. Loài người luôn bất trung, bội tín, bội thề còn Thiên Chúa thì luôn tín trung. Tình yêu của Ngài dành cho con người mãi mãi vẫn là một. Ngài không bao giờ thay đổi. Ngài có giận, giận trong giây lát nhưng yêu thương, yêu thương cả ngàn đời.
Tình yêu Thiên Chúa hôm nay vẫn thế. Ngài vẫn đeo đuổi cuộc đời mỗi người chúng ta. Ngài sẽ đau khổ nếu chúng ta lạc xa tình Chúa. Ngài sẽ buồn nhiều nếu chỉ vì tiền tài và lạc thú mà chúng ta đánh mất phẩm giá làm người của mình. Thiên Chúa không đang tâm đứng nhìn con người tự hạ thấp phẩm giá của mình để đổi lấy đồng tiền và lạc thú. Ngài càng không làm ngơ và bỏ mặc con người cho qủy lôi kéo vào hố diệt vong. Ngài sẽ làm muôn ngàn cách để đưa con người trở về nẻo chính đường ngay. Điều đó, Ngài đã thể hiện nơi cuộc đời của vua Đavít. Đavít là một con người được Chúa yêu thương nhưng lại vì đam mê lạc thú đã lỗi luật Chúa. Ông đã phạm tội ngoại tình với Batseva, là vợ của tướng Uria. Ông còn đang tâm đẩy Uria vào chỗ chết để chiếm lấy nàng Batseva. Thế nhưng, tình yêu Chúa còn lớn hơn tội của Đavít, Ngài đã không giáng phạt theo như tội Đavít đã làm. Qua tiên tri Nathan, Thiên Chúa đã thức tỉnh Đavít nhận ra lỗi lầm mà ăn năn trở về. Đavít đã sám hối ăn năn và trở nên vị vua thánh vĩ đại.
Vâng, lòng nhân từ của Thiên Chúa vẫn ở trong cuộc đời chúng ta. Lòng nhân từ của Thiên Chúa ví tựa như tấm lòng người mẹ, luôn yêu con bằng trái tim chứ không bằng trí óc. Và cũng chỉ có tình thương trời bể của người mẹ mới cho chúng ta hiểu nỗi tình thương vô biên của Thiên Chúa dành cho chúng ta, nhất là đối với kẻ tội lỗi, người nghèo khó bé mọn. Vì Thiên Chúa đã phán: “Có người mẹ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Nhưng cho dù người mẹ có quên con đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ”. Dù có những người mẹ độc ác bỏ con mình, Chúa không bao giờ bỏ chúng ta. Người còn ban ơn chăm sóc chúng ta hằng ngày như Lời Chúa nói: “Các ngươi sẽ được nuôi bằng sữa mẹ, được bồng ẵm bên hông, nâng niu trên đầu gối. Như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy” ,
Ước gì, qua Lời Chúa hôm nay, mỗi người chúng ta cũng nhận ra tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta để ăn năn sám hối trở về với Chúa, và cũng biết sống tình yêu đó cho anh chị em xung quanh chúng ta. Amen.
Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại ba dụ ngôn: – người chăn chiên đi tìm con chiên lạc. – Người đàn bà tìm đồng tiền mất. – Và người cha nhân hậu đón nhận đứa con phung phá trở về. Ba dụ ngôn đó nội dung khác nhau nhưng đều quy về một đề tài là: lòng thương xót bao la của Thiên Chúa đối với con người có tội.
Ta có thể nói, toàn bộ Thánh Kinh, Cựu ước cũng như Tân Ước chứng minh rằng: Thiên Chúa hằng đi tìm và kêu gọi kẻ có tội, Thiên Chúa nhẫn nại chờ đợi họ quay về và vui mừng đón nhận khi họ quay trở lại.
Trước hết Thiên Chúa đi tìm và kêu gọi kẻ có tội.
Tất cả lịch sử cứu độ, Cựu ước cũng như Tân ước cho ta thấy: Thiên Chúa hằng làm mọi cách để đưa con người tội lỗi trở về, bằng sự ngăm đe, bằng lời hứa hẹn, bằng tiếng kêu gọi, bằng những cử chỉ ưu ái, những phép lạ vĩ đại, những hình phạt nặng nề, những lần xuất hiện uy linh, bằng sai các vị tiên tri khuyến cáo, và sau cùng bằng sai chính Con Ngài xuống trần gian chịu chết trên thập giá để cứu chuộc kẻ có tội.
Trong vườn địa đàng, Thiên Chúa đã đích thân đi tìm con người lẩn trốn và Ngài đã lên tiếng kêu gọi: “Ngươi ở đâu?”. Đây là tiếng gọi đầu tiên trong muôn vàn tiếng gọi. Về sau Thiên Chúa thôi thúc con người, kêu gọi trong oán trách như một người tình bị phụ bạc, kêu gọi trong đau buồn như người mẹ xót thương con. Những lời kêu gọi đó được nhắc đi nhắc lại nhiều lần qua miệng các tiên tri. Thí dụ, qua tiên tri Ô-zê Chúa phán như sau: “Khi Israel còn niên thiếu, Ta đã yêu thương chúng, và từ nước Ai-cập Ta đã gọi con Ta về. Nhưng khi kẻ khác gọi chúng, chúng liền bỏ Ta. Chúng đã đốt lễ vật dâng kính các thần tượng. Dù thế, chính Ta đã tập cho chúng bước đi, Ta đã bồng bế chúng trên cánh tay Ta, nhưng chúng nào biết rằng mình được chăm sóc. Chúng đã từ chối không trở lại cùng Ta. Vì thế, lưỡi gươm sẽ vung lên trong thành của chúng và tiêu diệt đồn luỹ của chúng”.
Lời Thiên Chúa kêu gọi con người tội lỗi ăn năn trở về, lời kêu gọi đó luôn được nhắc đi nhắc lại trong Cựu ước và đã tiếp tục vang lên một cách mạnh mẽ trong Tân ước qua những lời giảng dạy, qua cuộc đời của Đức Giêsu nhất là qua cái chết của Người trên thập giá.
Trong những năm giảng Đạo, Chúa không quản ngại hy sinh thời giờ sức lực và cả danh dự để đi tìm kẻ có tội, gần gũi họ, ngồi ăn đồng bàn với họ, tha thứ và cứu giúp họ, thái độ đó đã làm cho người Biệt phái bất bình, phản đối. Họ gọi Chúa là bạn bè với những người thu thuế và tội lỗi. Nhưng Chúa cương quyết trả lời: không phải những người khoẻ mạnh cần đến thầy thuốc nhưng là những người đau yếu. Ta đến không để kêu gọi người công chính, mà kêu gọi người tội lỗi. Con Người đến tìm và cứu vớt những gì đã hư mất.
Không những Thiên Chúa đi tìm và kêu gọi người có tội trở về mà Ngài còn chờ đợi một cách kiên nhẫn không biết mệt mỏi như người cha hằng ngày ra đứng cửa trông đợi đứa con phung phá trở về. Thánh Augustinô nói: Biết bao kẻ mê ngủ trong tội lỗi nhiều tháng nhiều năm. Họ còn khoe khoang về những tội ác của họ, thế mà Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn chờ đợi. Thánh nhân tiếp: “Lạy Chúa, chúng con khiêu khích cơn thịnh nộ Chúa, còn Chúa thì lại đưa chúng con tới lòng thương xót của Người”.
Trong cuộc đời, có khi chúng ta thắc mắc vì thấy người nọ người kia quá gian ác mà Thiên Chúa không phạt nó chết đi, để nó làm khổ người khác, làm khổ những người vô tội. Chúng ta thắc mắc như vậy vì không hiểu lòng Thiên Chúa. Cũng như một ông bố trong gia đình có đứa con hư không ai chịu nổi muốn tống cổ nó ra khỏi nhà, thế mà ông bố kia vẫn kiên nhẫn chịu đựng chỉ vì nó là con mình và mình đã sinh ra nó. Thiên Chúa cũng kiên nhẫn chờ đợi kẻ có tội chỉ vì Ngài là Cha nhân lành đã sinh ra nó, đã cứu chuộc nó bằng giá Máu cực trọng Con Ngài, có thế thôi.
Thiên Chúa đi tìm và kêu gọi kẻ có tội, Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi nó hối cải, hơn nữa Ngài còn vui mừng đón nhận nó khi trở về. Dụ ngôn người đàn bà tìm thấy đồng tiền mất, người chăn chiên tìm thấy con chiên lạc và ông bố gia đình đón nhận người con phung phá trở về, cả ba dụ ngôn đó chứng minh như vậy.
Người đàn bà tìm thấy đồng tiền mất, mời chị em bạn bè đến chia vui. Người chăn chiên tìm thấy con chiên lạc không hắt hủi đánh đập nó vì đã làm cho ông mất bao thì giờ, hao tốn sức lực và liều để 99 con khác ở một nơi. Trái lại,ông vui mừng sung sướng âu yếm vuốt ve nó, ôm nó lên ngực, vác nó trên vai đem về nhà mời chúng bạn đến chia vui với mình. Cũng thế, người bố trong gia đình, khi thấy đứa con phung phá trở về, ông không hề xua đuổi trách mắng vì nó bỏ nhà ra đi, phụ bạc tình cha, phung phí tài sản, ăn chơi truỵ lạc, bôi nhọ danh dự gia đình… không, ông không hề trách mắng, mà trái lại, khi nó ở đàng xa ông đã vội vã chạy ra ôm choàng lấy nó mà hôn thật lâu, ông cũng không cần nghe nó thú tội xin lỗi, ông truyền đầy tớ lấy áo đẹp mặc cho nó, lấy nhẫn đeo vào tay, lấy giầy xỏ vào chân nó. Hỏi rằng ở trần gian có ông bố nào đối xử với đứa con phụ bạc một cách lạ lùng như vậy? Ông bố trong dụ ngôn đón nhận đứa con phung phá chính là Cha trên trời nhận kẻ có tội quay trở về. Thật âu yếm biết bao! Cảm động biết bao! Lạ lùng biết bao! Nếu Đức Giêsu không tỏ ra thì ai có thể tin được?
Sau đây, ta rút ra hai bài học thực hành:
* Trong đời ta dù có sa ngã phạm tội, dù tội ta nhiều và nặng đến đâu cũng cứ vững lòng trông cậy Chúa sẽ khoan hồng tha cho ta như người cha trong Phúc âm tha thứ cho người con phung phá trở về.
* Theo gương người con đó, ta phải thành khẩn và khiêm tốn nhìn nhận tình trạng khốn nạn của ta khi phạm tội lìa xa Chúa. Khi bỏ nhà ra đi, người con đó tưởng mình sẽ được tự do sung sướng, nhưng tự so không thấy, lại phải làm đầy tớ chăn lợn cho người, sung sướng không thấy lại phải đói khổ cùng cực muốn ăn cám lợn cũng chẳng ai cho. Khi phạm tội lìa bỏ Thiên Chúa chúng ta cũng mất địa vị và sự tự do của con cái Thiên Chúa rơi vào ách nô lệ của tà thần. Sung sướng không thấy lại phải nhiều sự khốn khó đời này và nhất là đời sau trong hoả ngục, vì tội là nguyên nhân sinh ra mọi sự dữ. Người con phung phá đã hối hận lên đường trở về. Theo gương người con đó, ta cũng quyết tâm từ bỏ tội lỗi ăn năn hối cải và nói như anh: “Tôi đi về cùng cha tôi”.
Chúng ta biết mỗi năm Phụng vụ C, Giáo hội sẽ cho con cái mình đọc và suy niệm Tin mừng của Chúa Giêsu theo thánh Luca. Tin Mừng theo thánh Luca được gọi là Tin mừng của lòng thương xót. Điều ấy được thể hiện rõ nét nhất nơi những dụ ngôn chúng ta sẽ đọc và suy niệm trong Chúa nhật hôm nay.
Lòng thương xót của Thiên Chúa là tấm lòng của Đấng hạ mình xuống để nâng con người lên. Nhờ lòng thương xót ấy, chúng ta được cứu khỏi tội lỗi và sự chết đời đời. Lòng thương xót của của Đấng đến tìm và cứu chữa những gì hư mất. Và lòng thương xót ấy được thể hiện nơi hình ảnh người chủ chiên, người phụ nữ bị mất tiền và người cha nhân hậu.
Trước hết là thái độ lạ thường của người chủ chiên với những con chiên bị lạc mất. Ông ta sẵn sàng “để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất”. Lạ hơn, khi tìm được ông “mừng rỡ vác lên vai” và “về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi”. Dầu vậy, thái độ này sẽ không lạ gì với một người chủ chăn thật sự gắn bó với những con vật nuôi của mình. Họ sẽ để ý và chăm sóc đặc biệt hơn với những con bệnh tật. Một người mẹ thương con thật sự cũng sẽ quan tâm nhiều hơn cho những đúa con chịu nhiều thiệt thòi hơn. Cũng vậy và hơn thế, lòng thương xót của Thiên Chúa không cho Người đành lòng bỏ đi một con người bị mất đi trong tội lỗi.
Kế đến là thái độ lạ thường của người phụ nữ có mười quan tiền. Một hôm chị lỡ đánh mất một trong mười quan ấy, chị ta “thắp đèn, rồi quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được”. Theo cái nhìn thông thường, chúng ta sẽ nghĩ chỉ mất một quan thôi thì bỏ đi tội gì kiếm chi cho mệt. Tuy nhiên, ông bà thường nói “Đồng tiền dính liền khúc ruột”. Do đó, nếu lỡ mất đi dù chỉ số nhỏ chúng ta cũng cảm thấy đau lòng. Sự đau lòng ấy càng dữ dội hơn, khi chính những đồng tiền ấy do chính mồ hôi nước mắt của mình tạo nên. Nhìn như thế chúng ta sẽ dể hiểu hơn tấm lòng của Thiên Chúa chúng ta. Thiên Chúa có thể vui được khi thấy một trong những đứa con của mình bị hư mất chăng? Chắc chắn Thiên Chúa sẽ đau lòng hơn nhiều khi thấy chúng ta đang đắm chìm trong tội lỗi và sự chết. Chính sự đau lòng ấy sẽ thôi thúc Người đi tìm và cứu chữa chúng ta cho bằng được.
Sau cùng, hình ảnh người cha nhân hậu có lẽ sẽ đánh động ta nhiều hơn. Một đứa con hư hỏng cố ý chối bỏ tình thương của cha. Vì nghĩ rằng tiền bạc, lạc thú trọng hơn cha nên nó đã sẵn sàng coi ông như đã chết (đòi chia gia tài) mặc dù ông vẫn còn sống đó. Đến nỗi, lúc quyết định trở về chỉ vì cái bụng của nó (đang chết đói). Nhưng cha nó chẳng để tâm đến những điều đó. Ngày đêm ông trông ngóng nó trở về. Từ đàng xa thấy nó trở về, ông đã “chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để” và bảo các đầy tớ ” Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng”. Ông hoàn toàn không ngó ngàng gì đến quá khứ của con mình. Bấy giờ ông chỉ còn biết con mình thật sự trở về. Những cử chỉ đón tiếp ấy cho thấy ông đã nhanh chóng phục hồi địa vị mà con ông đã làm mất trước kia.
Như thế, những hình ảnh trên của lòng thương xót Chúa chắc chắn ít nhiều gì cũng đánh động và đáng cho ta suy nghĩ nhiều. Thiên Chúa đau khổ biết bao khi thấy chúng ta cố ý lìa xa tình thương của Người. Sự đau khổ ấy sẽ trở thành niềm vui lớn khi Người tìm được chúng ta trở về cũng như khi chúng ta biết quay trở về với tình thương của Người.
Chúng ta hãy tin tưởng vào lòng thương xót vô cùng lớn lao của Thiên Chúa. Tin tưởng để chúng ta cố gắng đừng gia tăng đau khổ cho Thiên Chúa. Tin tưởng để chúng ta biết sớm trở về mỗi khi lỡ dại đi theo con đường tội lỗi.
Tôi là ai: ông anh hay cậu em trong dụ ngôn?
Chương 15 của Phúc âm Luca, một chương hoàn toàn nói về lòng thương xót của Thiên Chúa, có kể ba dụ ngôn. Dụ ngôn thứ ba tường thuật về một nhân vật mà mà truyền thống gọi là đứa con hoang đàng và coi anh như nhân vật chính của câu truyện. Ngày nay nhiều tác giả cho rằng người cha nhân hậu mới là nhân vật chính. Một nhân vật thứ ba được đề cập tới, và chắc chắn chỉ giữ vai phụ là người anh tuân phục. Khi kể câu chuyện dụ ngôn lừng danh này, ý của Đức Giêsu về các nhân vật rất rõ ràng: Người cha là Thiên Chúa nhân hậu và thứ tha, người con hoang đàng phải là những kẻ tội lỗi tiếp nhận Tin Mừng, còn người con cả để chỉ những người Do Thái, đặc biệt các Pharisêu, đang xầm xì phản đối.
Xét theo diện luân lý thông thường thì người anh tuân phục mới là diện mạo đáng được đề cao hơn cả. Là con trưởng trong nhà, không khi nào dám làm trái lệnh cha, hầu hạ cha trong mọi sự, không có gì đáng trách… anh đáng được thừa hưởng phần lớn gia tài của cha. Trước mặt mọi người xung quanh, anh thật đáng nể phục và kính trọng, đáng nêu gương cho mọi người. Ai có thể đòi hỏi nơi anh điều gì hơn nữa?
Còn cậu em thì ngược lại, cậu thật đáng cho mọi người khinh khi. Bất tuân lệnh cha và làm phật lòng người, chơi bời trác táng, sống mất nhân phẩm… cậu thật không đáng hưởng bất cứ phần gia tài nào của cha. Như thế cậu em này chẳng có gì đáng được đề cao để nêu gương cho hậu thế soi chung. Nói trắng ra anh chàng này chẳng có giá trị gì hết!
Thế nhưng khi kể câu chuyện dụ ngôn Đức Giêsu cho thấy có một yếu tố mới làm đảo lộn tất cả; yếu tố đó là điểm độc đáo đặc trưng nhất của Tin Mừng, đó là cảm nhận và sống trong lòng nhân ái của Cha. Cho dầu có hội đủ tất cả mọi điều được coi là tốt lành nhất, ông anh vẫn còn thiếu một điều gì đó để biến cuộc sống đúng khuôn phép trong gia đình của anh trở nên hạnh phúc. Còn cậu em, thì dầu đã đánh mất tất cả mọi điều được luân thường đạo lý cho là cao đẹp, nhưng may mắn đã khám phá ra được điều sẽ thực sự làm cho mối tương quan giữa anh với cha già từ đây trở nên sâu đậm, đó là nhận ra lòng nhân ái của cha. Đức Giêsu hình như muốn gói ghém trong câu chuyện này một điều gì quan trọng lắm mà Người gọi là Tin Mừng, là rượu mới. Nếu ông anh là hình ảnh của nhóm Do Thái Pharisêu trung thành thuộc Cựu Uớc thì chính cậu em mới là hiện thân của Kitô hữu Tân ước qua mọi thời.
Nhận ra điều này tôi mới thấy sững sờ. Hình như chính tôi và nhiều Kitô hữu đã dành quá nhiều thời giờ và sức lực để xây dựng cho mình, và cho những người mình được trao phó, hình ảnh một ông anh hơn là cậu em. Chúng ta đã chẳng dành quan tâm hàng đầu nhấn mạnh phải sống trung thành với luật Chúa, phải tuân phục cặn kẽ mọi qui tắc luân lý đạo đức… để vào Nước Thiên Chúa hay được lên thiên đàng… hơn là nhận biết và cảm tạ lòng nhân ái cứu độ của Cha trên trời hay sao? Chúng ta đã chẳng từng mong đợi được Chúa thưởng công cho sự công chính đạo đức của mình hơn là phó thác trọn vẹn cho lòng từ bi nhân ái của Người là gì? Thậm chí đôi lúc có người trong chúng ta còn cảm thấy ganh tị khi nghĩ rằng các cậu em tội lỗi kia sẽ được Cha nhân ái đối xử ngang bằng với mình hay hơn cả mình trên thiên quốc. Một người đã trọn đời dâng hiến và phục vụ trong tư cách là linh mục, tu sĩ, hay giáo dân lành thánh – lẽ ra phải được Thiên Chúa ưu đãi thưởng công xứng đáng hơn trên thiên đàng mới phải chứ!
Thế đấy, chúng ta, vì chưa xác định được điều gì là độc đáo đặc trưng nhất của một Kitô hữu (và hơn nữa của linh mục, tu sĩ) nên có thể đã đặt cuộc sống mình sai trọng tâm chăng? Chính tôi vẫn thường nhắc nhở cho giáo dân: phải trung thành giữ các lề luật Chúa và Hội Thánh… và dựa vào tiêu chuẩn đó mà đánh giá giáo dân mình là tốt hay xấu. Vô hình chung tôi đang biến mình thành con người của Cựu Ước hơn là Tân Ước chăng, có khác chi chỉ là thay tên gọi Gia-vê thành Thiên Chúa? Câu chuyện dụ ngôn, và nhất là khi so sánh vai diễn của ông anh và cậu em, cho tôi thấy hiện rõ một chân lý mà từ lâu mình đã lãng quên: hãy sống triệt để Tin Mừng Tân Ước hơn qua việc đón nhận tình yêu tha thứ của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi thập giá Đức Kitô, hơn là chỉ chăm chú vun quén một đời sống tốt lành đạo đức theo kiểu Cựu Ước. Hãy thâm tín sâu hơn nữa câu khảng định của Đức Giêsu: “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế” (Mt 9,13). Giữ luật là quan trọng, nhưng nhận biết và sống lòng thương xót từ nhân của Thiên Chúa còn quan trọng hơn rất nhiều. Tóm lại hãy trở thành cậu em hơn là chỉ cố sống như ông anh. Đừng dừng lại mãi trong Cựu Ước một hãy thẳng tiến ngày càng sâu hơn vào Tân Ước của Tin Mừng.
Lạy Chúa, xin không chỉ hoán cải con trong một vài chi tiết tốt xấu luân lý của cuộc sống. Xin cho con được lột xác tận căn và chuyển bước dứt khoát từ Cựu Ước qua Tân Ước. Xin cho con, nếu đang được sống trong nhà như ông anh, thì cũng có được tâm tình và cảm nghiệm sâu xa của cậu em khi đi bụi trở về. Xin cho con biết ngước nhìn lên Thập giá Chúa Kitô để nhận ra Thiên Chúa không phải là người cha nghiêm nghị bắt phải tuân phục, nhưng trên hết là người cha đầy lòng nhân ái thứ tha. Xin cho con ơn trọng đại này để được sống hạnh phúc trong nhà Cha muôn đời. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin Mừng Lc 15: 1-32 Trước mặt Thiên Chúa, mỗi một con người đều có giá trị vô cùng, bởi vì mỗi một con người, dù là tội lỗi, cũng đều là con của Ngài.
Bài Tin Mừng hôm nay gồm tới ba dụ ngôn. Dụ ngôn đầu xem ra không hợp lý: ai lại bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc? Dụ ngôn thứ hai cũng chẳng có sức thuyết phục bao nhiêu: một đồng xu có đáng là bao so với công sức mà người đàn bà kia bỏ ra để tìm lại nó? Nhưng rồi tất cả đều trở thành hợp lý khi ta đọc dụ ngôn thứ ba: ý của Chúa Giêsu không nhằm nói tới con chiên, cũng không nói tới tiền bạc mà nói tới con người. Trước mặt Thiên Chúa, mỗi một con người đều có giá trị vô cùng, bởi vì mỗi một con người, dù là tội lỗi, cũng đều là con của Ngài.
Tuy nhiên có mấy ai chia sẻ tâm ý của Chúa? Những người pharisêu và các kinh sư thấy Chúa Giêsu bỏ công lui tới với những người tội lỗi thì họ cho là mất công vô ích nên xầm xì phản đối. Đối với họ, việc làm của Chúa Giêsu là không đáng, bởi vì những kẻ tội lỗi là hạng đáng bỏ đi. Nhưng đối với Chúa Giêsu, đó là những con người, những giá trị. Một đồng xu quý giá thế nào đối với người đàn bà nghèo khổ, một người con quý giá thế nào đối với tấm lòng người cha, thì một người tội lỗi cũng đáng giá thế ấy đối với tấm lòng của Thiên Chúa.
Quả thật trong dụ ngôn “con chiên đi lạc”, người mục tử đã bỏ 99 con kia, dĩ nhiên là được canh giữ cẩn thận, để đi tìm con chiên lạc. Con chiên lạc này mất vì lý do nào đó không được nêu ra trong dụ ngôn. Nhưng có một đều chắc chắn là nó đang sống những giây phút khốn cực, cần sự giúp đỡ của chủ chăn. Chủ chăn đã phải bỏ 99 con trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc. Một con sánh với 99 còn lại thì chỉ như số không, không đáng gì, đâu có làm cho ông nghèo đi chút nào.
Và trong dụ ngôn “đồng tiền bị mất”, Đức Giêsu lại tiếp nối tư tưởng bằng một dụ ngôn khác. Đồng tiền nói ở đây là một đồng tiền nhỏ, dễ bị mất trong nhà dân quê xứ Palestina, và có khi phải mất rất nhiều thì giờ mới tìm lại được. Nhà của người Do Thái thường tối tăm, vì chỉ có một cửa sổ tròn đường kính khỏang 45 phân. Nền nhà thì bằng đất nện được phủ bằng những tấm liếp sậy và cành cây khô. Tìm kiếm một đồng bạc trên một nền nhà như thế khác nào tìm một cây kim trong đống rác.
Rồi trong dụ ngôn “người con hoang đàng”, Chúa Giêsu cho chúng ta tình yêu cao vời của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã tạo dựng nên chúng ta có tự do, Ngài cũng muốn đối xử với chúng ta như một con người có tự do. Đó là điều Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta qua hình ảnh một người cha không muốn cứ khư khư giữ lấy đứa con, trái lại, ông đã chia gia tài cho nó, để nó được tự do xử dụng tất cả những gì thuộc về nó. Nhưng cho dẫu người con có lên đường ra đi tạo lập một cuộc sống riêng thì người cha vẫn không ngừng theo dõi, chờ đợi đứa con.
Quả thế, đường về của người con chính là hành trình người cha đi tìm. Nếu người cha đã không mở đường cho con về, thì ngày về của người con sẽ chẳng bao giờ có. Nếu người cha không trông ngóng đợi chờ, thì bao giờ con mới hồi tâm, đứng dậy, lên đường. Đừng nghĩ người con đã tự mình về nhà, không đâu! vì thiếu tình cha, người con sẽ không nhận ra phương hướng của đường về.
– Không có “đôi mắt đã loà vì quá đợi chờ” của người cha, người con sẽ không thấy rõ đường về.
– Không có vòng tay ấm áp của người cha, người con sẽ không dám trở về, vì nghi ngờ, sợ hãi.
– Không có sự quảng đại của trái tim người cha, người con sẽ đứng mãi ở đầu ngõ, không dám bước vào nhà, vì mặc cảm bất xứng.
– Không có sự tha thứ của người cha thì đời con vẫn mãi là đời giang hồ, phiêu bạt.
– Không có sự hy vọng của người cha, người con sẽ mãi mãi sống trong tuyệt vọng.
– Và không có tình cha yêu thương, bao phủ, người con sẽ đời đời bất hạnh.
Như vậy cả ba dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay đều muốn nói lên một điều quan trọng: chính Thiên Chúa luôn yêu thương chủ động đi tìm kiếm con người
Có câu chuyện về một người con bỏ cha, lên đường đi đến một nơi xa xôi sinh sống theo sự tự do phóng khoáng của mình. Vì ăn chơi thái quá anh trở nên nghèo khổ. Người cha ở nhà, sau bao năm tháng chờ đợi không thấy con trở về, đành lên đường đi tìm con. Sau nhiều năm tìm kiếm, hỏi han, người cha đã tìm ra được tung tích của người con. Nhưng người con lại không thể nào nhận ra cha nó, một ông già đầy quyền lực và cao sang. Người con vẫn tiếp tục từ chối và lẩn trốn. Người cha rất đau lòng để con mình lẩn trốn như vậy, nhưng ông ra lệnh cho gia nhân theo dõi cậu, mướn cậu vào nhà làm việc cho ông. Sau đó, người cha vứt bỏ quần áo sang trọng, đóng vai một người đầy tớ để có cơ hội gần gũi và chinh phục người con. Qua nhiều năm thân thiết, người cha đã chinh phục được trọn vẹn tình cảm của cậu. Sau cùng vào cuối đời, người cha mới tiết lộ cho biết anh là con của ông và được quyền thừa kế tất cả gia tài của cha để lại.
Quả thế, chính Thiên Chúa đi tìm kiếm con người.
Câu chuyện kể rằng, có một người đạo đức nọ, khao khát tìm gặp Thiên Chúa, ông đi khắp nơi để thụ giáo với những bậc thánh hiền, ông vùi đầu vào những pho sách dầy cộm, nhưng vẫn không gặp được Chúa.
Một ngày nọ, ông đến một dòng sông, ngồi thơ thẩn nhìn dòng nước trôi lững lờ, ông bỗng thấy một con vịt mẹ và một đàn vịt con đang bơi lội. Đàn vịt con tinh nghịch cứ muốn rời xa mẹ. Còn vịt mẹ thì lúc nào cũng phải canh chừng hết con này đến con khác. Phải vất vả như vậy nhưng vịt mẹ không hề tỏ vẻ giận giữ hay gắt gỏng.
Nhìn hình ảnh đó, người đạo đức mỉm cười mãn nguyện. Ông chợt khám phá ra một sự thật “bấy lâu nay tôi đã đi tìm Thiên Chúa và cuối cùng tôi đã khám phá ra rằng chính Thiên Chúa lại đang đi tìm tôi”. Con vịt mẹ không ngừng đi tìm kiếm con mình, Thiên Chúa cũng không ngừng đi tìm kiếm con người như vậy. Amen.
Chúa Nhật ngày 11.9.2016 năm nay, trùng vào dịp nước Mỹ nói riêng và thế giới nói chung, tưởng niệm mười lăm năm biến cố khủng khiếp, làm chấn động và hoang mang cả thế giới, nhất là người Mỹ, xảy ra ngày 11.9.2001.
Đó là một ngày đầy nước mắt, kinh hoàng và sửng sốt đối với dân chúng nước này. Vì thế, nhân dịp này, dựa vào Lời Chúa Giêsu dạy, tôi muốn nói về những mất mát và sự tìm thấy.
Lời của Chúa dạy hôm nay là ba dụ ngôn: Người chủ tìm thấy con chiên lạc, Người đàn bà tìm thấy đồng bạc bị mất, Người cha đón nhận đứa con hoang đàng trở về, mang cùng một ý nghĩa: MẤT MÁT và TÌM THẤY (Lc 15, 1-32).
Cái bị mất càng lớn, người đi tìm càng vất vả bao nhiêu, khi tìm thấy, nỗi vui mừng càng lớn bấy nhiêu. Ý nghĩa của sự mất mát và tìm thấy trong ba dụ ngôn, là lòng ca ngợi tình yêu lớn lao của Thiên Chúa đối với con người.
Nhất là mỗi khi con người phải sống trong tai ương, mất mát, đổ vỡ, tang tóc, chết chóc, chia lìa, hận thù, lo sợ, nghi nan và giết hại nhau…, là mỗi lần khuôn mặt của tình yêu ấy lại sáng ngời, làm dịu bớt nỗi thất vọng, thăng hoa niềm hy vọng.
Nhờ tình yêu của Thiên Chúa, chính trong mất mát, con người hiểu rằng, họ đã được tìm thấy.
Chính trong nỗi chết chóc của sự tàn bạo, họ lại nhận ra chiều kích thánh thiêng của sự sống.
Tôi muốn nói tới vụ khủng bố Trung tâm Thương mại Thế giới tại New York gồm hai tòa nhà cao 110 tầng và Ngũ Giác đài ở Washington, bị ba chiếc máy bay lớn do không tặc khống chế đâm vào. Một chiếc khác cũng bị khống chế, rơi tại Pennsylvania dọc đường đến mục tiêu.
Người ta ước tính trên 3.000 nạn nhân thiệt mạng. Phải mất gần chín tháng mới dọn dẹp hết đống đổ nát gồm 1.600.000 tấn. 100 tỷ đôla bị mất trắng. 8.300.000 người thất nghiệp trên khắp nước Mỹ.
Ngoài ra, từ biến cố kinh hoàng ấy, người Mỹ và thế giới còn mất rất nhiều thứ quý báu khác:
– Mất cảm giác bảo đảm và an toàn, vì từ trước đến nay, khoa học thời nay vẫn tự hào, đặc biệt nước Mỹ rất tự hào: họ ổn định. Hơn nữa, người Mỹ còn có phần ngủ yên trong hãnh diện mình là quốc gia giàu có, quyền hành, sẽ chẳng ai dám thọc vào sự ổn định của mình. Nhưng mọi suy nghĩ ấy, giờ đây bị “lật đổ”.
– Con người khắp nơi cũng đánh mất sự bình an trong tâm hồn. Vì từ đó đến nay, không ngày nào, thế giới và nước Mỹ không sống trong nỗi lo và cảnh giác. Sống mà cứ phải lo lắng và cảnh giác từng ngày, làm sao có bình an!
– Lòng tin nơi người Mỹ cũng bị đánh cắp. Lòng tin vào con người, trên khắp thế giời, ngày càng vắng bóng. Nhìn bất cứ ai xa lạ, nhất là những người từ Trung Đông, những người xuất thân từ đạo Hồi, họ đều có thể đáng nghi ngờ. Thay vì bắt tay thân thiện, họ chấm ngay một dấu hỏi thật to trên khuôn mặt người lạ ấy. Anh ta là ai? Lương thiện hay bất lương?
– Cứ như thế, sự tấn công khủng bố sát hại hàng loạt đã và có thể sẽ xảy ra khắp nơi, quá nhiều, làm nhức nhối lương tâm từng người chúng ta. Sự tấn cống ấy, càng ngày càng cho thầy nước Mỹ và châu Âu là mục tiêu hàng đầu.
Từ vụ khủng bố 1.9.2001 đến nay, hai tiếng “khủng bố” luôn là nổi ám ảnh ghê gớm trong tâm trí từng người, trên khắp thế giới. Những gì mà loài người đã và vẫn mất mát thật là lớn lao. Những gì mà chúng ta phải và vẫn chịu đựng thật là đau đớn.
Nhưng những gì đã tìm thấy được cũng không phải ít. Đó chính là đức tin, tin nơi Thiên Chúa và tìm đến Thiên Chúa để được giải thoát nỗi u buồn.
Người ta kể rằng, sau ngày đại họa của năm 2001, rất nhiều người đến nhà thờ cầu nguyện. Các thánh lễ liên tục được tổ chức để tưởng nhớ người bị nạn và cầu bình an. Tất cả các thánh lễ ấy đều có rất đông người đến tham dự. Chính tổng thống Bush đã trích Thánh Vịnh 23 để trấn an dân chúng: “Lạy Chúa, dù bước đi trong thung lũng của sự chết, con không lo nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm”.
Nhưng chẳng phải chỉ có người Mỹ – là những người, nhờ nền văn minh rực rỡ của mình, đã góp phần không nhỏ làm cho lối sống tiêu thụ, tâm lý hưởng thụ lớn lên, từ đó phần nào lôi kéo đạo đức xã hội đi xuống – lại có dịp tiếp cận và lấy lại đức tin của mình, nhưng trong ngày ấy, họ còn nhận được biết bao nhiêu sự cảm thông và lời cầu nguyện mà khắp thế giới dành cho họ.
Cho đến hôm nay, mỗi lần ở đâu đó xảy ra những tấn công kinh hoàng như thế, cũng đều lôi kéo những con người, nhất là những nạn nhân còn sống sót trở về với lòng tin, trở về với Đấng giàu lòng xót thương.
Những gì tìm thấy được còn là niềm tương trợ lẫn nhau, sống gắn bó và thắt chặt tình đoàn kết. Tất cả những nơi bị đánh, đều tìm thấy những tấm lòng quả cảm và can đảm của biết bao nhiêu người liều mạng cứu lấy người khác.
Lính cứu hỏa và các nhân viên cảnh sát đã hy sinh trong khi thi hành nhiệm vụ giải cứu và cấp cứu nạn nhân là một điển hình. Trong số những người hy sinh vào ngày 11.9,2001, có cha Mychal Judge, một linh mục dòng Phanxicô, tuyên úy cho lính cứu hỏa tại thành phố New York.
Cũng như anh chị em mình, cha hiểu rất rõ, giữa cảnh điêu tàng, nếu đến gần, sẽ nguy hiểm vô cùng, nhưng cha vẫn đến làm tròn nghĩa vụ của mình. Tòa nhà kinh khủng ấy đã tàn nhẫn đè bẹp và vùi lấp cha Judge cùng mấy trăm lính cứu hỏa, trong khi cha đang cử hành bí tích Xức dầu và ban các phép lần sau hết cho họ.
Hóa ra, trong những lúc tối tăm của cuộc đời, người ta ngỡ rằng, mình đã mất, đã chẳng còn, đã tiêu tang, thì chính lúc ấy, ánh sáng của những cái được nơi những gì có thể tìm thấy, lại cứ lóe lên.
Bởi thế, ta có thể nói mạnh rằng, không ai sống lạc quan cho bằng những anh chị em tín hữu Kitô. Họ biết khôn ngoan trực diện với nỗi đau xé lòng đang diễn ra trước mắt, và lấy ánh mắt đức tin nhìn vào đó.
Đức tin dạy họ rằng, thập giá không dừng lại ở ngày thứ Sáu ảm đạm nhuộm đầy máu, tử nạn và ô nhục, nhưng thập giá đã bừng lên ánh sáng trường cửu, bừng lên sự sống không tàn không phai của sáng Chúa Nhật Phục sinh.
Với đức tin, nhìn vào sự tàn phá của tử thần, họ tìm thấy sự sống. Nhìn vào hận thù tưởng đã lên ngôi thống trị, họ tìm thấy lòng yêu thương. Nhìn vào nỗi bi đát ê chề của đổ nát, của mất mát, của tha hóa, họ tìm thấy niềm lạc quan tin tưởng. Nhìn vào nỗi hoang mang nghi ngờ của nhân loại, họ tìm thấy khuôn mặt dịu hiền, đầy yêu thương thông cảm và thứ tha của Thánh Giá Chúa Kitô.
Thiên Chúa không bao giờ vắng mặt. Con người không bao giờ mất Thiên Chúa. Bởi thế, cái mất vẫn còn đó trong nỗi đau cuộc đời, trong tội lỗi, trong sự tha hóa, và lòng hận thù lồng lộng như một con thú dữ, thì những gì tìm thấy được vẫn cao cả, vẫn sang trọng, vẫn vượt thắng.
Và Tình yêu vời vợi của Thiên Chúa là niềm hạnh phúc, là sức mạnh lớn, giúp con người vượt qua, đó là điều mà các Kitô hữu tìm thấy được trong nỗi đau mất mát tột cùng.
Bạn ạ, Thiên Chúa tôn trọng tự do của chúng ta. Người là Đấng toàn năng, tự giới hạn quyền năng của mình, đứng ngoài tự do của chúng ta, để chúng ta có thể hiện hữu một cách tự do.
Lý do mạnh nhất, khiến ta đánh mất rất nhiều, là bởi ta lạm dụng tự do và lỗi phạm không ngừng. Chính vì có tự do, ta đánh mất chính mình, đánh mất Thiên Chúa, xa lìa tình yêu của Chúa, để trôi tuột khỏi cuộc đời mình bao nhiêu ơn lành mà Chúa hằng ban phát. Đánh mất là sự thật của mỗi con người đầy yếu đuối, hèn mọn.
Nhưng còn một sự thật khác vô cùng quan trọng, vì nhờ đó mà ta sống và lấy lại những gì đã mất. Sự thật ấy chính là Thiên Chúa đi tìm con người.
Người không đi tìm như tìm một cái gì có lợi cho Người. Người cũng không đi tìm như tìm một thứ sở hữu cho riêng mình. Sự tìm kiếm của Chúa là một sự tìm kiếm có lợi cho ta.
Đó là một sự tìm kiếm đầy hân hoan, vui mừng, tin tưởng. Đó là một sự tìm kiếm mà khi tìm thấy, vỡ òa vì một niềm vui trào dâng tột đỉnh. Bởi ta là con chiên thất lạc, là đồng bạc bị mất, đã lìa xa Chúa vì chọn cuộc đời này làm bạn, chọn tội lỗi làm chốn nương thân.
Một khi tìm thấy ta trong bóng đen tăm tối ấy, Thiên Chúa đã vui mừng đưa về, không phải dẫn đi, mà vác trên vai, như giữ lấy một của báu quý giá. Niềm vui ấy còn là một niềm vui nức nỡ, được diễn tả qua lời mời mọc bè bạn chia vui với mình, vì mới đưa về chốn hạnh phúc một kẻ vong thân.
Chưa dừng lại, Chúa Giêsu đã đẩy đến đỉnh điểm, để kết thúc nỗi vui mừng vì yêu ấy trên một cao trào đẹp khôn xiết: Tình yêu quá đỗi diệu hiền, nhưng rất mạnh mẽ của một người cha dành cho đứa con hư đốn của mình.
Dụ ngôn người cha nhân hậu đón nhận đứa con đi hoang trở về vì đói, chứ không phải vì nghĩ đến tình cha, cho ta bài học không thể có bài học nào lớn hơn, về lòng thương xót đến không thể tưởng tượng, không thể hiểu nổi mà Thiên Chúa dành cho ta.
Bài học ấy còn dạy ta rằng, vong thân trong tội, ta đánh mất tất cả: cả sự sống (biểu hiện qua sự đói khát của người con), cả nhân phẩm (biểu hiện qua nồi cám heo mà người con phải ăn cắp để nhét cho đầy bụng), cả tình yêu (người con bị ruồng rẩy, bị bỏ rơi), là những cái làm nên căn cội của cuộc đời con người.
Chỉ có trở về cùng Thiên Chúa, ta mới lấy lại tất cả những gì đã mất mà thôi. Chính người cha đã trả lại cho đứa con sự sống, nhân phảm và tình yêu (Lc 15, 22-32).
Ý thức Thiên Chúa luôn luôn yêu thương kiếm tìm, chúng ta đừng cứng đầu, nhưng hãy trở lại cùng Người.
Hãy đứng lên để quyết tâm đi tới. Hãy đứng lên để làm một chọn lựa mới: chọn lựa tách mình khỏi tội và đứng về phía tình yêu của Chúa.
Tội lỗi đã là điều đáng sợ khôn cùng. Nhưng chưa phải đáng sợ nhất. Điều đáng sợ nhất là ta cứng đầu ở lỳ trong tội. Vì tự đánh mất chính mình đã là một nguy hiểm. Tự chôn mình chìm đắm trong sự mất mát ấy, là một nguy hiểm khó lường, một nỗi dại khờ không có gì có thể biện minh.
Vậy với tất cả những gì đã suy nghĩ, bắt đầu từ Lời Chúa đến tội ác khủng bố, sự mất mát và sự tìm thấy trong đời sống nhân loại, cũng như mất mát và tìm thấy đối với đời sống đức tin, chúng ta thành tâm dâng lên Chúa lời cầu nguyện tha thiết của mình:
Lạy Chúa, xin giúp chúng con nhận ra ánh sáng của sự sống giữa chết chóc bạo tàn; ánh sáng của hy vọng giữa những tuyệt vọng; ánh sáng của sự tìm thấy giữa những mất mát và đổ nát; ánh sáng của tình yêu Chúa giữa những thù hận dối gian; ánh sáng của ơn cứu độ giữa bóng tối tội lỗi đang cuốn hút chúng con vong thân; ánh sáng của niềm tin giữa những lầm lạc, hụt hẫng.
Lạy Chúa, xin ban ơn bình an để nhân loại được hạnh phúc. Và xin ban cho tâm hồn chúng con hạnh phúc vì biết giữ mình thanh sạch, thánh thiện.
Xin cho chúng con bao dung để tha thứ; khiêm nhu để tránh kiêu căng; ôn hòa để nhường nhịn; yêu chuộng hòa bình để tâm hồn bình an.
(Trích dẫn từ ‘Suy Gẫm’ – Cánh Đồng Truyền Giáo)
TÌM VỀ CHÍNH MÌNH
Khi con người sai lầm, con người phạm tội, con người “chạy trốn” chính mình! Khi ấy, con người không muốn nghe tiếng nói lương tâm, tiếng nói từ sâu thẳm lòng mình.
Nhiều kẻ lún sâu vào sai lầm, vào tội ác, nhưng vẫn sống an nhiên như người thánh thiện. Họ đã rời xa con người thật của họ. họ sống trong lớp vỏ bình an giả tạo. Với loại người này, họ không còn con đường về nẻo thiện lương. Họ đánh mất chính mình. Họ đánh mất nhân tính. Có những vụ án giết người, mà kẻ tội phạm kể lại tội ác mình làm khi đứng trước vành móng ngựa thật bình thản đến lạ lùng!
“Sai lầm là thường tình của con người”. Để “nhận ra mình sai lầm”, cần phải khiêm nhường.
Không khiêm nhường không thể thấy mình sai. Không thấy mình sai thì cứ cho mình đúng. Cứ cho mình đúng là kiêu ngạo. Mà kiêu ngạo thì đối nghịch lại khiêm nhường… cái vòng lẫn quẫn ấy cản trở con người bước vào con đường nội tâm. Không đi vào nội tâm, không thể tìm về chính mình được.
Đi vào nội tâm là lúc con người hồi tâm lại, và nhìn đoạn đường mình đã đi qua. Để xem mình đang đi về đâu. Có hồi tâm mới có hối hận. Không giọt nước mắt ăn năn sám hối nào rơi xuống mà con người không nhìn sâu vào tận đáy lòng mình. Đó chính là lúc tìm về chính mình thật sự.
TÌM VỀ GIA ĐÌNH
“Không ai là một hòn đảo”. Ngay cả những người đã “phủi bụi trần” để khép mình vào “bốn bức tường” tu viện, vẫn cần có tình người. Tìm về gia đình – hay đại gia đình – là mở rộng tấm lòng để sống có trách nhiệm với cha mẹ, anh em, người thân, tha nhân, đoàn thể, cộng đồng…
Trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, đứa con hoang đàng đã tìm về không phải vì nhớ thương cha mẹ hay anh em trong nhà, mà vì cái bụng đói, vì cuộc sống quá gian nan, nhục nhã. Lý do tìm về chỉ nhắm tới lợi ích riêng mình, còn rất ích kỷ. Khi ra đi với lý do ích kỷ, tìm về cũng với lý do ích kỷ. Động lực sám hối chưa sâu xa. Chính vì lý do đó mà người anh trong câu chuyện đã không thể chấp nhận được. “Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay tìm về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!” (Lc 15,30)
Nhưng, cũng chính vì lý do non nớt, trẻ con đó, mà tình cha càng nổi bật, càng lớn lao. Bất kể là vì lý do gì, miễn là đứa con biết ăn năn sám hối, biết tìm về gia đình. Người cha không nói rằng đứa con trai lớn đã nghĩ sai, nhưng chỉ nói lên lý do đứa con lầm lỗi cần được thương xót. Nó đang cần tình thương. Và dù cho thế nào, nó vẫn là đứa con mà ông hết mực thương yêu. Và tình yêu đó không có sức mạnh nào lay chuyển. Và người cha muốn đứa con trai lớn mình phải hiểu và chấp nhận em mình với tấm lòng bao dung cao cả như vậy. “Yêu thương em mình như tình cha”. Điều này, chúng ta gặp thấy nơi giới luật yêu thương của Chúa Giêsu: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương chúng con”.
Và đó, chính là ý nghĩa của việc tìm về gia đình. Không có nơi nào con người nương tựa vững chắc như mái ấm gia đình. Trong sự bảo vệ, đùm bọc của tình cha nghĩa mẹ. Đó còn là hình ảnh của “gia đình Chúa Giêsu”, của “đại gia đình nhân loại”. Tình thương anh em phải được nâng cao lên, hơn tầm nhìn của người anh trong câu chuyện Tin Mừng này. Vì đó là Đại Gia Đình Thiên Chúa. “Một Đức Tin, một Phép Rửa, một Thiên Chúa là Cha”.
TÌM VỀ BÊN CHÚA
Trong cuộc đời, có những cuộc tìm về bị chối từ, nhưng với Thiên Chúa thì không, vòng tay của Ngài luôn rộng mở.
Điều Ngài muốn duy nhất, là con người biết ăn năn, sám hối. Sự sám hối có khi còn rất nông cạn, còn rất đời thường, còn rất vật chất, còn vì cái lợi trước mắt. Nhưng căn bản là nhận ra rằng Chúa chính là nơi con người nương tựa thật sự. Không tìm về nơi đâu khác, mà tìm về chính Thiên Chúa. Và tin tưởng rằng Chúa vẫn hằng yêu thương tha thứ.
Sự tìm về của Giuđa Ít-ca-ri-ốt là sự tìm về dang dở.
Giuđa biết “tìm về chính mình”. Anh ta đã “nhìn lại mình” và đau khổ. Anh có sám hối. Đó là một khởi đầu rất tốt. Giuđa thật can đảm. Sự tìm về với chính mình của Giuđa thật tuyệt vời. Nhưng thật đáng tiếc, những bước tiếp theo lại thất bại. Thật tội nghiệp cho Giuđa, anh đã không đến được với Chúa vì anh không hình dung được tình yêu Chúa bao la đến mức có thể tha thứ tội tày trời của anh!
Có người bảo rằng thật tiếc là kết thúc cuộc đời của Giuđa “không có hậu”. Nếu Giuđa tin vững vào Tình Yêu của Chúa, không ngã lòng trông cậy, phần kết luận sẽ khác! Thí dụ như Giuđa không tự tử, Giuđa khóc lóc hối hận một đời như thánh Phêrô. Rồi Giuđa sau này rao giảng về Chúa phục sinh, lời lẽ của Giuđa sẽ mạnh mẽ: “Tôi đã từng bán Chúa! Tôi đã chen vào đám đông và đứng chứng kiến người ta đóng đinh Chúa trên Thập Giá. Trong khoảnh khắc tình cờ từ trên Thập Giá Chúa đã nhìn thấy tôi. Đôi mắt Ngài nhân từ, đượm buồn nhưng rất âu yếm…”. Và cuối cùng, Giuđa đã bị treo cổ vì đã rao giảng về Giêsu đã chết và đã Phục Sinh, chứ không phải tự treo cổ vì tuyệt vọng! Kết thúc được như vậy cuộc đời Giuđa thật đẹp biết bao!
Có thể sự hối hận của Giuđa quá muộn màng. Cách sống của Giuđa quá biệt lập trong “gia đình các môn đệ”. Khi Giuđa biết “tìm về chính mình” và sám hối ăn năn, Giuđa lại cảm thấy lẻ loi, mang nặng mặc cảm tội lỗi với Chúa và với anh em. “Một trong các môn đệ của Chúa Giêsu là Giuđa Ít-ca-ri-ốt, kẻ sẽ nộp Người, liền nói: ‘Sao lại không bán dầu thơm đó lấy ba trăm đồng bạc mà cho người nghèo?’ Y nói thế, không phải vì lo cho người nghèo, nhưng vì y là một tên ăn cắp: y giữ túi tiền và thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào quỹ chung” (Ga.12.4-6). Bước tiếp theo “tìm về gia đình”, hòa nhập vào “cộng đoàn môn đệ” là không thể được. Giuđa không thể nào chịu nổi sự lạc lỏng, cô đơn, có khi là “búa rìu” của “dư luận” ngay trong “gia đình môn đệ”, không còn con đường tìm về bên Chúa được nữa, Giuđa đã chọn con đường tự tử. Giuđa không đủ niềm tin để chỗi dậy.
Hãy thử tưởng tượng đứa con trai hoang đàng trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay đã “không dám” về gặp thẳng cha mình, mà về gặp anh mình để “thăm dò” xem cha mình có thể “nhận” mình không, thì người anh sẽ phản ứng ra sao? Dựa vào phần kết câu chuyện, chắc chúng ta cũng có thể suy ra những câu nói của người anh đối với em mình thế nào! Những câu nói có thể đại loại như: – “mầy còn vác mặt mày về đây hả?” – “Mày định về đây chia cái gì nữa đây?” – “ Mày làm tán gia bại sản chưa hài lòng chắc?” – “Ông già thất vọng về mày”… Và đứa con trai hoang đàng sẽ rút lui. Sự tìm về của nó thất bại. Nó sẽ lại bước vào dòng đời gió bụi. Nó sẽ chết ở xó kẹt nào đó, mang theo nỗi lòng đau khổ sám hối ăn năn mà không còn cơ hội nhận ra được người cha đang yêu thương chờ đợi nó.
Có rất nhiều vật cản trên “bước đường tìm về”. Có rất nhiều sương mù làm nhạt nhòa hình ảnh Thiên Chúa là Người Cha Nhân Hậu. Không phải chỉ ngày xưa, thời Pharisêu, Biệt Phái, mà trong cả thời nay, có khi ngay cả trong lòng Giáo Hội.
Chuyến tìm về của đứa con trai hoang đàng trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay thành công, vì anh đã can đảm đến với cha mình. Anh trực tiếp thấy được dung nhan hiền từ của cha mình ngoài sức tưởng tượng của anh. Không có cánh tay trừng phạt giáng xuống anh, chỉ có vòng tay êm ái ôm chằm lấy anh. Không có những lời hạch tội quát mắng, chỉ có những lời ra lệnh mở tiệc ăn mừng. Không có những lời lên án, chỉ có những lời bênh vực. Không có bờ môi đay nghiến, chỉ có những nụ hôn. Không có chỗ ở để nhận thêm một đầy tớ, chỉ có chỗ ở dành cho đứa con bao năm chờ đợi trở về. Anh trực tiếp cảm nghiệm được lòng yêu thương của cha anh trổi vượt hơn vạn lần anh suy đoán. Anh nhận được ân huệ của cha anh lớn lao vạn lần hơn những gì anh van xin.
Sự vui mừng của cha anh cho anh lòng tự trọng. Cho anh vững bước tiến lên để xứng đáng với tình cha. Cha anh tin tưởng anh làm lại cuộc đời mới. “Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy.” (Lc.15,32).
Chỉ có Chúa Giêsu mới trả lời được vì sao “các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Người”, và vì sao Người lại “đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với họ”. Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Những người Pharisêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.” (Lc.15,1-32).
Chỉ có Chúa Giêsu mới diễn tả đúng mức thế nào là Thiên Chúa là Cha Nhân Từ. và thế nào là Tình Yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại khi vòng tay của Người dang rộng trên Thập Giá. “Ông Philípphê nói: ‘Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện’. Đức Giêsu trả lời: ‘Thấy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philíphê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: ‘Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha’?” (Ga.14,8-9).
Lạy Chúa, Xin đừng làm rạng rỡ chúng con, vâng, lạy Chúa, xin đừng! nhưng xin cho danh Ngài rạng rỡ, bởi vì Ngài thành tín yêu thương. (Tv.115,1). Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn An Khang)
Hai dụ ngôn: con chiên lạc và đồng bạc bị mất giống nhau về hình thức, lời văn cũng như nội dung tư tưởng và giáo huấn, đến nỗi có thể gọi chúng là hai dụ ngôn sinh đôi. Thực vậy, hai dụ ngôn đó, Đức Giêsu lần lượt đưa ra một người đàn ông và một người đàn bà, một mục tử mất chiên và một nội trợ mất tiền. Có khác về con số nhưng cùng một giáo huấn:
Dụ ngôn chiên lạc
Một người chăn chiên có một trăm con, lạc mất một, người đó để chín mươi chín con nơi hoang vắng để đi tìm con lạc, việc đi tìm không phải dễ, giữa cảnh bao la rừng núi. Vả lại, một sánh với chín mươi chín có là gì. Thế mà với đôi chân trần đạp trên đá sỏ, ông đã chạy lang thang khắp nơi để tìm.
Tại sao? Vì yêu thương. Đối với tình yêu, số học không còn như cũ. Lúc đó có thể đặt dấu bằng ở giữa số một và số chín mươi chín (1=99). Như thế, bất cứ giá nào, ông cũng không để mất, dù một con. Một con được ông coi giá trị như chín mươi chín. Giống như đại tướng yêu binh lính, bất cứ giá nào cũng không để chết đi một người, dù là lính quèn. Một người lính được coi như cả một đoàn quân, chết một có thể chết cả đoàn.
Bởi thế, khi tìm thấy con chiên lạc, ông đã vui mừng chạy lại ôm lấy, vác trên đôi vai, cho dù con chiên có nặng, ông rất mệt, đã chạy nhiều giờ trên những ngọn đồi sỏi đá, dưới ánh nắng chói chang của mặt trời. Nhưng theo ông, một con chiên xa đàn, lang thang nhiều giờ, nó kiệt sức, cần ông vác. Khi về đến nhà, niềm vui như vỡ bờ, ông đã kêu bạn bè hàng xóm đến chia vui, niềm vui của ông tỏa rộng và lây sang người khác.
Đồng bạc bị đánh mất.
Đây là cảnh xảy ra bên trong nhà người dân xứ Palestin: Một căn phòng bằng đất nện, với vài chiếc chiếu, hay ít đồ đạc lỉnh kỉnh, ánh sáng không bao nhiêu và chỉ lọt qua cửa chính, giữa ban ngày cũng cần một ngọn đèn nhỏ để soi các góc xó. Một phụ nữ có mười đồng bạc, bị mất một, bà đã gia công tìm kiếm, soi đèn quét nhà, moi móc khắp nơi, tìm cho kỳ được, tìm được, lòng tràn ngập vui mừng, đồng tiền thế nào cũng được cất vào một nơi chắc chắn, bà cũng mời bạn bè hàng xóm đến chia vui.
Tại sao? Đối với bà một đồng trị giá bằng một ngày công, nhưng nó quá lớn. Mất đi một đồng, bà mất đi một ngày sống. Dụ ngôn con chiên lạc, một so với chín mươi chín là quá nhỏ. Ở đây một so với chín quá quan trọng. Vì thế người đàn bà này có lý vui mừng.
Giáo huấn của hai dụ ngôn
Qua hai dụ ngôn, Đức Giêsu dạy: Tội nhân muốn trở lại cần có sự hối cải, nhưng sự hối cải của họ không phải là điều kiện tiên quyết để được Thiên Chúa ân cần đón tiếp, như những người Pharisiêu và các Kinh sư chủ trương. Trái lại, sự hoán cải này trước tiên được Thiên Chúa thực hiện.
Các triết gia đã biến Thiên Chúa thành một hữu thể bất động, không thay đổi. Đức Giêsu cho chúng ta thấy một Thiên Chúa chuyển động, đang mở chiến dịch tìm kiếm cái Người đã mất. Đức Giêsu đặt trước mặt chúng ta: Người mục tử vùng đồi núi Galilê, chân trần trên đá sỏi đang chạy hết tốc độ, để tìm con chiên lạc; người đàn bà đang soi đèn quét tước tìm đồng bạc đã mất. Đức Giêsu bảo: Thiên Chúa là như thế. Không có người nào bị Thiên Chúa bỏ rơi, không có người nào bị mất hẳn, bởi vì có Đấng yêu thương không ngừng đi tìm người ấy. Thiên Chúa không chịu ngồi chờ kẻ tội lỗi trở về, Người ra đi tìm họ.
Đối với người chăn chiên, một con bằng chín mươi chín, với người đàn bà, một đồng bằng chín. Đối với Thiên Chúa, mỗi người đàn ông, mỗi người đàn bà, có một giá trị độc nhất vô giá. Một con chiên lạc mất đã chiếm hết ý nghĩ của người mục tử, một đồng bạc bị mất đã chiếm hết ý nghĩ của người đàn bà. Xem ra chỉ con chiên lạc, đồng bạc mất mới là đáng kể. Chúng ta có một Thiên Chúa như thế. Một Thiên Chúa tiếp tục nghĩ đến những ai đã bỏ rơi Ngài, một Thiên Chúa đau khổ vì một linh hồn hư mất, bởi mỗi người đều quý giá, đều chiếm chỗ quan trọng trong con tim Ngài.
Tuy giáo lý dạy, con người không thêm gì cho vinh quang và hạnh phúc nội tại của Thiên Chúa. Nhưng theo những dụ ngôn này, mỗi người chiếm địa vị thiết yếu trong tình yêu Ngài đến chừng nào. Nếu không có bệnh nhân, đâu có thầy thuốc. Nếu không có tội nhân, đâu có tình thương cứu độ. Nói thế, không có nghĩa đề cao tội lỗi. Đức Giêsu không bao giờ nói, tội lỗi không quan trọng. Trái lại, sự lên án của Người đối với tội lỗi thì mãnh liệt và không chút mơ hồ: “Nếu tay ngươi hoặc chân ngươi làm dịp tội cho ngươi, hãy chặt nó đi…” Như mọi ngôn sứ, Đức Giêsu đòi hỏi sự hoán cải và sám hối (Mc 1,15). Nếu các dụ ngôn này là một lời rao giảng về tình yêu Thiên Chúa, chúng cũng là một lời rao giảng về sự hoán cải cần thiết của kẻ tội lỗi.
Câu chuyện minh họa
Ngày 13-5-1981, giữa lúc hàng chục ngàn ngời chen chúc nhau tại quảng trường thánh Phêrô để đón đức giáo hoàng Gioan Phaolô II, thì một tiếng nổ chát vang lên làm mọi ngời đứng tim. đức thánh cha đã ngã gục trên chiếc xe mui trần, máu vọt lên tung tóe. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, một vị giáo hoàng bị mu sát. Ali Agaca, hung thủ tội ác, bị bắt ngay tại chỗ. Người thanh niên Thổ Nhĩ Kỳ này bị giam tại nhà tù Rebiblia ở Rôma, cả thế giới kinh hoàng về tội ác tày trời này. Năm 1984, thế giới còn kinh ngạc hơn nữa. Đấng bị thảm sát đã đến nói chuyện với kẻ sát hại mình. Không ai biết hai bên nói gì. Nhưng người ta rất cảm động, thấy đức thánh cha bắt tay Ali Agaca, với nụ cười rất trìu mến. Phải chăng đây là hình ảnh sống động nhất về tình yêu Đức Giêsu niềm nở đón tiếp các tội nhân. Đức thánh cha, vị đại diện Đức Giêsu, bị bắn gục, vẫn tỏ lòng rất nhân từ đối với kẻ tội ác. Ali Agaca đã nhập vào đoàn hành hương của đoàn chiên lành đang vui mừng chào đón chủ chiên đến thương yêu, chăm sóc, nuôi dưỡng tinh thần bằng lời hằng sống. Ali Agaca như con chiên ghẻ, như đứa con phung phá xô đến giết chủ chăn, giết cha mình. Nhưng người cha hiền, người mục tử nhân hậu đã sẵn sàng liều chết đến cứu đứa con hư, sẵn sàng tha thứ hòa giải và vui mừng ôm lấy đứa con trở về.
(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Một lần kia, các tu sĩ trong miền dẫn tới Đức Giám Mục Anmôna một thiếu nữ mang bầu xin ngài ra hình phạt. Nhưng Đức cha đã ban phép lành cho thai nhi, rồi ra lệnh ban cho cô sáu tấm vải bằng lanh mịn. Những kẻ tố cáo lại nói:
– Tại sao Đức Cha làm như thế? Xin ra cho nó một hình phạt.
Ngài ôn tồn bảo:
– Anh em thử nghĩ xem, cô ta đã đau khổ muốn chết được; tôi phải làm gì hơn nữa?
Nói thế rồi ngài cho cô ta về. Từ đấy không tu sĩ nào còn dám tố cáo ai nữa.
Cũng như các tu sĩ trong câu chuyện trên đây, nhóm Pharisêu và các kinh sư thường lên án những người tội lỗi, nên khi Đức Giêsu tiếp đón những hạng người này thì họ lẩm bẩm kêu trách Người. Thấy vậy, Đức Giêsu đã trả lời bằng ba dụ ngôn: Con Chiên Lạc Mất, Đồng Bạc Đánh Rơi, và Đức Con Hoang Đàng, để bày tỏ lòng nhân hậu và niềm vui của Thiên Chúa dành cho người tội lỗi hối cải ăn năn.
Còn gì vui bằng khi cái đã mất lại tìm thấy được; còn gì sướng hơn khi cái tìm thấy lại là vật quí. Tìm kiếm chính là mục đích của Con Thiên Chúa khi xuống trần gian: “Con Người đến tìm kiếm những gì đã mất”. Con người là đối tượng duy nhất mà Thiên Chúa mướn kiếm tìm. Con người thật vô cùng quí giá trước mặt Người. Thiên Chúa lao đao vất vả đi tìm kiếm con người. Người không muốn để mất một ai trên trái đất này.
Thiên Chúa yêu thương người tội lỗi, như người mục tử tốt lành sẵn sàng để chín mươi chín con chiên lạc, đi tìm cho bằng được con chiên lạc mất. Khi tìm thấy rồi mừng rỡ khoác chiên trên vai.
Thiên Chúa yêu thương kẻ lầm lỡ, như người đàn bà cần mẫn, đốt đèn kiếm cho được đồng bạc đánh rơi. Khi thấy rồi tíu tít chia vui với mọi người.
Thiên Chúa yêu thương tội nhân, như người cha già nhân hậu, ngày ngày ra ngõ tìm con. Khi thấy con rồi ông vui mừng chạy lại ôm choàng lấy nó.
Thật vậy, “lỗi lầm là của con người và tha thứ là của Thiên Chúa” (A.Pope). Thiên Chúa yêu thương con người và yêu thương đến cùng. Tuyệt đỉnh của yêu thương chính là tha thứ, vì thế dù phải chịu hấp hối lâu dài và đớn đau khôn tả, phải chịu kinh miệt và chối bỏ, nhưng Người vẫn cầu nguyện tha thiết: “Lạy Cha, xin tha cho họ”. Đây chính là lời rõ ràng và trang trọng nhất nói lên tâm hồn cao thượng và tấm lòng nhân hậu của Thiên Chúa qua Đức Giêsu.
Thiên Chúa luôn sẵn sàng tha thứ cho chúng ta, những con người lầm lỗi; nhưng Người chỉ có thể thứ tha khi chúng ta thật lòng sám hối. Người trộm lành suốt một đời lầm lỡ, thế mà chỉ trong giây phút cuối cùng, tỏ lòng sám hối ăn năn đủ trở nên một vị thánh. Ông trở nên thánh không phải vì ông là người tội lỗi, nhưng vì ông nhận biết mình là người tội lỗi. Đứa con hoang đàng được người cha tha thứ cũng vì anh đã biết nhận ra lỗi lầm, trở về sám hối ăn năn. Người cha không chỉ tha thứ mà còn phục hồi chức vị làm con. Một chiếc nhẫn mới, một đôi giầy mới, một bữa tiệc linh đình, vinh dự còn lớn hơn cả trước khi ra đi.
Nếu Thiên Chúa đã tỏ lòng nhân hậu và tha thứ cho chúng ta, thì Người muốn chúng ta cũng hãy tha thứ cho nhau như người cha nhân hậu xin ông anh cả tha thứ cho đứa em lầm lỗi.
Người ta chỉ có thể dễ dàng tha thứ cho kẻ khác khi ý thức thân phận mỏng dòn yếu đuối của mình. Có nhận ra mình hay lầm lỗi, con người mới dễ cảm thông tha thứ cho những lỗi lầm của anh em. Đừng bắt người có tội phải bị trừng phạt mới hả dạ, đừng đòi hỏi cho được sự công bằng mới thôi, vì Martin Luther King có viết: “Nếu cứ áp dụng luật “mắt đền mắt” thì mọi người đều trở nên mù loà”.
Lạy Chúa, nếu Chúa không tha thứ cho các tội nhân thì thiên đàng sẽ trống rỗng, và thế giới này chẳng có thánh nhân.
Xin cho chúng con mỗi lần được Chúa thứ tha lại thấy mình nên giống Chúa hơn, vì đã biết tha thứ cho anh em. Amen.
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Chúa Giêsu làm thân với những người thu thuế và tội lỗi làm ngứa mắt mấy ông Pharisêu và kinh sư. Các ông xầm xì phản đối. Họ xem những người tội lỗi là những thành phần xấu phải xa lánh, loại trừ, vì Thiên Chúa không thể chấp nhận họ.
Các ông Pharisêu là những người rất thiện chí, giữ luật Chúa rất nghiêm chỉnh và đòi buộc người khác phải như họ. Một số người trong họ kiêu căng và hãnh diện, vì họ giữ đúng luật và khinh khi những người tội lỗi.
Chúa Giêsu thì trái lại, Người thấu hiểu sự yếu đuối của con người và tìm hết cách để giúp họ hoán cải. Con tim của Chúa Giêsu tràn đầy tình thương và tế nhị. Ngài là Thiên Chúa Tình Yêu. Ngài yêu thương mọi người, Ngài hiểu và cảm thông với mọi người, nhất là với người tội lỗi, vì “Ngài biết tất cả những gì nơi con người”.
Ngài muốn cho các ông Pharisêu “công chính” kia biết tại sao Ngài làm như thế, Ngài cho họ một vài dụ ngôn.
Ba dụ ngôn mà Giáo hội muốn cho chúng ta suy gẫm hôm nay được gọi là dụ ngôn của lòng thương xót.
Dụ ngôn con chiên lạc và đồng tiền bị mất nói về những đồ vật. Con chiên là một tài sản. Người chăn chiên tiếc con chiên bị lạc mất và cố công tìm nó. Đó chỉ là một vật có một giá trị tương đối nhỏ, nhưng người ta không dễ bỏ qua. Phải tìm cho bằng được.
Đồng tiền bị mất cũng thế. Đồ vật mà còn quý như thế, thì con người càng quí hơn biết bao!
Dụ ngôn thứ ba về người con hoang đàng diễn tả rõ nét hơn thái độ của Chúa Giêsu đối với người tội lỗi. Chúa là Tình Yêu tuyệt đối, Ngài không thể không yêu, dù chúng ta có chối từ cự tuyệt, Ngài vẫn yêu. Đó là điều mà chúng ta không thể hiểu vì chúng ta chưa biết yêu hay chưa yêu thực sự.
Chúng ta ngạc nhiên tại sao người cha có thể thương con đến như thế, vì chúng ta thường hạn chế tình yêu, đặt điều kiện cho tình yêu. Thiên Chúa yêu vô điều kiện và nếu có thì chỉ một điều kiện duy nhất là trở về.
Đứa con út trong gia đình được yêu thương tràn đầy, đã tự ý xin phần gia tài để sống theo ý mình. Theo luật Môsê, khi trưởng thành con cái có quyền xin phần gia tài và cha mẹ không có quyền từ chối.
Trong dụ ngôn, gia đình chỉ có ba cha con, vì thế, đứa con út luôn được yêu thương hơn. Chắc chắn người cha, khi nghe đứa con út của mình xin phần gia tài để đi phương xa, thì không vui chút nào, đã cản ngăn con, cho nó biết những hiểm nguy có thể xảy đến cho nó khi rời bỏ gia đình, sống một mình khi còn quá trẻ, ham vui. Nhưng chàng thanh niên vẫn quyết định rời bỏ gia đình để sống tự do hơn. Như thế chứng tỏ chàng không nghĩ gì đến tình thương của cha mà chỉ muốn theo ý mình.
Cậu út ra đi với một mớ tài sản khá dồi dào. Tất nhiên, tuổi trẻ ham vui, đâu cần nghĩ đến ngày mai. Mặc sức ăn chơi phung phí. Chẳng mấy chốc, tất cả gia tài tan ra mây khói. Lúc này cậu mới biết cuộc sống không chỉ là vui chơi. Vùng cậu ở mùa màng thất thu, dân chúng đói kém, vật giá tăng vọt. Lấy gì mà ăn? Cậu phải đi chăn heo cho một người dân địa phương, không phải là Do Thái.
Đây là một sỉ nhục cho một người Do Thái, vì luật Môsê không cho phép giao du với người ngoại và nếu cần làm mướn thì chỉ làm cho người Do Thái mà thôi. Làm tôi mọi cho một người ngoại là một sỉ nhục. Hơn nữa, đối với người Do Thái, con heo là một con thú ô uế nhất trong các con vật. Chăn heo là mắc uế. Cậu đành phải chăn heo. Trong thời đói kém, chủ nhà cho cậu ăn không đủ no, cậu phải thèm thuồng muốn lấy đồ ăn của heo để ăn cho đỡ đói. Nhục nhã biết bao!
Không còn gì là sĩ diện. Từ đứa con nhà giàu, cậu trở thành một tên nô lệ bần cùng, hèn mạt. Trong vực sâu sa đọa, cậu nhìn lại bản thân. Cậu quyết tâm trở về với cha cậu.
Cuộc trở về này chỉ là một cuộc trở về có tính cách lợi dụng, vì đói chứ không vì tình yêu, chỉ vì đói chứ không vì nhìn thấy mình lỗi phạm với cha. Nhưng khi gặp lại cha, thấy thái độ của cha, cậu mới thấy xót xa và xấu hổ.
Người cha, ngày đêm nhớ đến đứa con bạc tình, trông chờ con trở về. Có lẽ ông cũng có trực giác là nó sẽ vỡ mộng và trở về.
Khi thấy con trở về, ông đã chạy đến ôm chầm lấy con, vui mừng khôn tả vì đã tìm được con. Không một lời trách móc, ông đã trả lại cho con những gì con đã đánh mất: “Mau đem nhẫn mới cho con ta, giày mới, áo mới cho con ta”.
Nhẫn mới vì nó đã biến mất rồi. Mất chiếc nhẫn là mất quyền làm con, không được bước chân vô nhà. Vì thế mà cậu đã nói: “Con không xứng đáng làm con cha nữa”.
Cậu không ngờ được phục hồi dễ dàng như thế. Lúc ấy cậu mới đo được tình thương của cha. Và cuối cùng là tiệc mừng. Người cha bảo: “Phải ăn mừng.”
Niềm vui của người cha vì đã tìm được đứa con yêu và niềm vui đó đã trở thành hạnh phúc cho đứa con hư hỏng. Tình thương đã xóa bỏ tất cả mọi chướng ngại, mọi mặc cảm.
Bữa tiệc đang tưng bừng với đàn ca thịt rượu. Người anh cả trở về, thấy cảnh nhà tưng bừng nhộn nhịp. Ngạc nhiên, cậu gọi một đầy tớ và hỏi xem chuyện gì đã xảy ra. Tên đầy tớ hóm hỉnh cho cậu hay: “Cậu út đã về. Cậu ơi, nếu cậu thấy cậu út cậu sẽ hỡi ôi thôi: te tua!”
Thấy cậu cả trở về, người cha đoán chắc sẽ có chuyện, chạy ra đón con. Nhưng cậu cả cự tuyệt không chịu vào nhà. Cậu cho rằng cha đã bất công đối với cậu và cưng “thằng con khốn nạn của cha”. Cậu tính toán: “con đã phục vụ cha bao năm, cha không cho con một con bê nhỏ để chơi với chúng bạn, còn thằng con của cha kia, cha lại tiếp đón nó tưng bừng như vậy”.
Cậu tỏ ra bất bao dung. Trước mặt cậu, thằng em kia là một con người khốn nạn, tội lỗi, không đáng tha thứ. Đó là thái độ Pharisêu, loại trừ và cố chấp, thái độ mà Chúa Giêsu đã từng lên án. Cậu cả không sống trong tình yêu, làm sao cậu có thể hiểu được tâm hồn của cha cậu? Làm sao hiểu được niềm vui của tha thứ?
Có lẽ trong chúng ta có nhiều người mang tâm trạng của người anh cả, vì thế trong các cộng đồng giáo xứ thường xảy ra những tranh chấp, ganh tị, làm cho bầu không khí giáo xứ bị nhiễm độc và mất vui.
Ai tha thứ sẽ được thứ tha. Hằng ngày chúng ta vẫn cầu xin: “Xin Cha tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha…”
Sống trong tình yêu, chúng ta mới cảm nghiệm được niềm vui trong sáng và êm đềm. Hãy như Cha trên trời, Ngài luôn tha thứ và yêu thương.
Trên thập giá, trong giây phút đau đớn tột cùng, Chúa Giêsu vẫn nói lời tha thứ: “Xin Cha tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”.
Vui cho Chúa biết bao khi thấy một người tội lỗi trở về! Chúng ta hãy làm trọn niềm vui của Chúa khi chính chúng ta trở về, lột bỏ tất cả những tính toán nhỏ nhen, những cố chấp và kiêu căng hẹp hòi để biết yêu thương thực sự.
Chúa Giêsu cho chúng ta một bài học yêu thương bằng lời dạy thiết thực, Ngài con cho chúng ta thấy tình yêu vô biên của Ngài nơi Bí tích Thánh Thể mà chúng ta chia sẻ mỗi ngày. Ăn lấy Tấm Bánh Tình Yêu, chúng ta dám yêu thương thực sự, dám “tha thứ tất cả, chịu đựng tất cả” để tạo nên một làn sóng yêu thương quanh ta, để tình yêu của Chúa Giêsu càng lan rộng trong cuộc sống hôm nay, trong xã hội đầy phản trắc chúng ta đang sống.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Richard Pidell có viết một câu chuyện ngắn nhan đề: “Đứa con trai của một ai đó” (Somebody’s son). Câu chuyện mở đầu với một cậu bé tên là David bỏ nhà ra đi sống bụi đời. Vì khổ quá, không chịu nổi, cậu bèn viết một lá thư gửi về nhà cho mẹ bày tỏ niềm hy vọng được ông bố cổ hủ tha thứ cho cậu và chấp nhận cậu làm con trở lại. Lá thư như sau: “Mẹ kính mến, trong một vài ngày nữa con sẽ đi ngang qua nhà. Nếu bố bằng lòng nhận con trở lại, thì mẹ yêu cầu bố cột một miếng vải trắng lên cây táo hồng ở miếng đất cạnh nhà chúng ta”. Vài ngày sau, David lên tàu hỏa đi về. Trong lúc tàu hỏa lao nhanh đến nhà thì hai hình ảnh cứ liên tục hiện ra trong trí cậu ta: khi thì trên cây táo có cột một miếng vải trắng, khi thì trên cây chẳng cột một miếng vải trắng nào. Tàu hỏa càng tiến gần nhà, trái tim David càng đập nhanh hơn. Không bao lâu nữa cây táo sẽ hiện ra ở khúc quẹo, nhưng David không dám tự mình nhìn tới vì sợ nhỡ không có miếng vải trắng cột ở đó. Thế là cậu quay sang người đàn ông bên cạnh ấp úng nói: “Thưa ông, ông có thể làm ơn giúp cháu một việc không? Vào khúc quẹo bên tay mặt, ông sẽ thấy một cây táo. Ông làm ơn cho cháu biết trên cành cây táo đó có một miếng vải trắng không nhé”.
Khi tàu hỏa rầm rập lướt qua cây táo, David nhìn chăm chăm về phía trước. Đoạn run run giọng, cậu hỏi người đàn ông: “Thưa ông, có một miếng vải trắng nào treo ở cành cây táo đó không?” Ông ta sửng sốt trả lời: “Ồ, nầy cậu bé, cành cây nào ta cũng thấy có một miếng vải trắng cả!”
Anh chị em thân mến,
Thiên Chúa cũng đối xử với chúng ta như thế. Phiêu lưu trong tội lỗi, chúng ta chỉ cảm thấy chán chường thất vọng. Nhưng Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về chúng ta. Ngài chờ đợi chúng ta từng giây từng phút. Tình yêu của Ngài vượt lên trên mọi tính toán, đo lường của chúng ta. Người con hoang đàng trong Tin Mừng chỉ xin được đối xử như một người làm công trong nhà, nhưng người cha đã phục hồi anh trong tước vị làm con. Ông đã xỏ nhẫn cho anh, mặc áo mới cho anh và sai mở tiệc ăn mừng.
Phải, Thiên Chúa yêu thương và tha thứ hơn cả sự chờ mong của chúng ta. Đối với Chúa, mỗi người chúng ta đều đáng kể, không thể có gì khác thay thế được. Mỗi con người là như một con chiên trong đàn, phải được chăm sóc như nhau, không được để thất lạc. Chính mươi chín con chiên yên lành không làm nguôi lòng thương đối với một con chiên lạc. Thiên Chúa cũng cuống quýt như một bà già nghèo đánh mất một đồng bạc quý. Phày hì hục moi móc mọi ngóc ngách trong nhà để tìm cho bằng được. Như người cha già, con mình đã hư quá thể mà trong lòng vẫn lo lắng không nguôi, vẫn không thôi chờ đợi đến mỏi mòn, cho đến lúc ôm lại đứa con vào lòng và rạo rực vui sướng không gì kìm hãm được và cả Thiên đàng cũng vui lây, vui sướng vì một người tội lỗi ăn năn trở lại hơn cả vui sướng vì chính mươi chín người lành thánh không cần sám hối ăn năn.
Thiên Chúa rất khác chúng ta. Đối với Ngài, mỗi con người là như một khúc ruột của mình. Ngài thương mỗi người, để ý chăm sóc mỗi người như chỉ có một không hai trên đời. Nếu chúng ta lỡ lạc đường, Ngài tạo mọi điều kiện để ta có thể trở về. Và điều kiện duy nhất Ngài đòi hỏi là tin vào tình thương tha thứ của Cha để mà dám trở về. Sự trở về của con chiên lạc đem lại niềm vui cho người mục tử nhiều hơn niềm vui có chín mươi chính con ở lại trong đàn.
Thưa anh chị em,
Đến đây, đáng lẽ dụ ngôn về người cha nhân hậu đã có thể kết thúc rất đẹp với nỗi vui mừng của người cha. Nhưng Chúa Giêsu lại nối thêm cái đoạn cuối về người con cả. Chúng ta cũng nên dừng lại một chút với thái độ của người con cả để hiểu hết ý Chúa muốn dạy chúng ta qua dụ ngôn nầy.
Người con cả là một người con chí thú làm ăn ở nhà với cha, nhưng xem ra quan hệ với cha không được thân mật, thẳng thắn. Tuy ở nhà với cha nhưng lòng vẫn xa cách. Và kết quả là người con cả đã không hiểu và không chấp nhận nổi cách xử sự của cha đối với đứa em của anh vừa trở về. Do đó, thay vì nhập tiệc chia vui với cha và với em, người con cả đã dừng lại ở cửa, tự mình đứng ở thể tách biệt với gia đình sum họp.
Người con cả ở đây tiêu biểu cho nhóm người Biệt phái Pharisêu trong dân Do Thái. Họ tưởng rằng họ trung thành với Thiên Chúa và đáng được Chúa thương, có quyền hưởng gia tài, rồi khinh bỉ các dân ngoại và những hạng người mà họ cho là tội lỗi. Thì ra, Tin Mừng hôm nay là một Tin Mừng đối với người tội lỗi sám hối trở về, nhưng đồng thời lại cũng là một lời cảnh cáo đối với những người “ở trong nhà”, những người tưởng mình đạo đức, tốt lành. Người con cả, bao nhiêu nămm ai cũng tưởng là ngoan ngoãn tốt lành lắm. Đến ngày em của anh hồi sinh và trước niềm vui vô bở của người cha, anh đâm ra hậm hực, bực tức… thì ra bề ngoài anh ngoan, nhưng nội tâm của anh thì cay nghiệt, tù túng, đầy những ghen tị, sát phạt. Cả anh nữa, anh cũng chẳng hiểu thế nào là lòng thương xót. Cuối cùng anh không muốn bước vào lòng thương xót đó. Anh chưa gặp được Thiên Chúa. Anh vẫn ở ngoài ơn cứu độ.
Dụ ngôn cho thấy, người cần trở lại hơn hết chính lạ người con cả, người con vẫn ở nhà với cha nhưng lòng thì không ở cùng với cha.
Anh chị em thân mến,
Hãy tin vào tình thương yêu vô bờ bến của Thiên Chúa mà trở về với Ngài, nếu chúng ta lỡ lạc đàng, sa ngã. Và hãy khoan dung tha thứ cho những người anh chị em, nếu chẳng may có ai trượt chân vấp ngã. Phải tìm đến với người anh chị em đó để giúp họ trở lại với Chúa là Cha yêu thương. Đừng có thái độ lên án, loại trừ như thái độ của người con cả trong dụ ngôn. Trái lại, hãy vui mừng vì đã giúp được một người anh em gặp lại niềm vui cứu độ. Hãy coi thái độ khoan dung, quảng đại yêu thương tha thứ của người cha trong dụ ngôn là hình ảnh của lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa, để chúng ta biết đối xử với những người anh em như Chúa đã đối xử với chính chúng ta.
“Lạy Chúa, xin tỏ lòng thương xót con, và lấp đầy trái tim con tình yêu tha thứ của Chúa.
Con là đứa con thứ đã bỏ nhà ra đi rồi lại trở về. Con cảm ơn Chúa đã đón nhận lại con.
Và con cũng là người con cả đã từng khư khư không chịu tha thứ cho anh chị em con như Ngài đã tha thứ cho con. Vậy xin Chúa hãy chạm vào trái tim con với tình yêu tha thứ của Ngài.
Để rồi sau khi an nghỉ trong cõi chết, con sẽ thức dậy trước thánh nhan Ngài mãi mãi cùng với anh chị em từng được con tha thứ lỗi lầm”. Amen.
(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’)
Có câu chuyện kể rằng, một ngày nọ Abraham mời một lữ hành vào lều của ông dùng một bữa cơm, sau khi đọc kinh chúc tụng trước khi ăn, người khách này bắt đầu chửi rủa Thiên Chúa, ông nói rằng, ông không thể chịu nổi khi nghe gọi tên Thiên Chúa. Phẫn nộ trước thái độ đó Abraham đuổi ngay kẻ phạm thượng ra khỏi lều. Tối đến, khi Abraham cầu nguyện Chúa nói với ông: “Abraham, người kia đã chửi rủa Ta từ 50 năm nay và Ta vẫn cứ ban cho ông ta lương thực hằng ngày. Còn ngươi, ngươi không thể nào cho ông ta chỉ một bữa cơm sao?”.
Tin Mừng theo thánh Luca của Chúa nhật hôm nay vốn được mệnh danh là Tin Mừng về “Lòng thương xót của Thiên Chúa”. Và quả thực như vậy, bài Tin Mừng khá dài nhưng thật cảm động, Chúa Giêsu không chỉ đưa ra một mà tới ba dụ ngôn để phá đổ thái độ hống hách đạo đức giả của những người thuộc phái Pharisêu và các kinh sư. Nhưng quan trọng hơn hết là Ngài bày tỏ lòng nhân hậu đầy lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân.
Dụ ngôn đầu tiên, Thiên Chúa như người mục tử nhân lành quyết tâm đi tìm cho bằng được con chiên bị lạc, dù chỉ là một trong số một trăm. Khi tìm được rồi, ông vui mừng vác chiên trên vai, về đến nhà ông mời bà con hàng xóm đến chung vui.
Dụ ngôn thứ hai, Thiên Chúa như người phụ nữ mất một đồng bạc, có lẽ giá trị của nó chỉ bằng tiền lương của một ngày công lúc bấy giờ. Nó không lớn đối với nhiều người trong chúng ta, nhưng nó quan trọng đối với người phụ nữ. Bà đã thắp đèn quét nhà moi móc tìm kiếm cho bằng được, khi tìm được rồi bà mời bạn bè hàng xóm đến chung vui.
Trong cả hai dụ ngôn này, thái độ vui mừng của người mục tử và của người phụ nữ có lẽ trong thời buổi thị trường kinh tế chúng ta thấy thật phi lý, nhưng nó lại là lôgích của tình yêu trong cuộc sống và là bản chất yêu thương của Thiên Chúa. Rõ ràng giá trị của con chiên bị lạc hay đồng bạc bị mất không đặt trong sự so sánh cái này với cái khác, cũng không đặt trong tỉ lệ phần trăm hay phần mười, nhưng giá trị của chính nó trong tương quan của người tìm kiếm, trong lòng thương xót và trong ơn cứu độ của Thiên Chúa. Đó là sự vui mừng của Nước Trời khi có một tội nhân ăn năn sám hối.
Điều này càng nổi bật hơn trong dụ ngôn thứ ba người cha nhân hậu. Người cha không những đã bày tỏ lòng thương yêu đối với người con thứ, đứa con đã đòi chia gia tài, rồi sau khi ra đi đã ăn tiêu hoang phí, khi trở về lúc nó còn đàng xa người cha đã nhận ra và lập tức chạy đến ôm chầm lấy, hôn lấy hôn để. Ông còn cho mở tiệc ăn mừng, vì điều quan trọng đối với ông là đứa con đã trở về. Đứa con của ông đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Người cha còn bày tỏ lòng nhân hậu với người con cả, đứa con hằng ngày vẫn ở bên cha mà hình như tâm hồn của nó đã đi hoang từ lâu. Nó kể công, nó phân bì, nó ghen tị rồi tức tối giận dỗi, nó muốn cắt đứt tình nghĩa huynh đệ không chấp nhận cho đứa em trở về và nó cũng đang cắt đứt luôn tình nghĩa phụ tử không chịu vào nhà, vì trong lòng của nó chưa bao giờ có tình thương. Sự chuyên cần trong công việc hằng ngày của nó xem ra vì thói quen hoặc vì bổn phận hơn là vì một mối tình. Nhưng người cha vẫn nhân hậu đầy yêu thương năn nỉ: “Này con, hằng ngày con vẫn ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con”.
Thiên Chúa, Ngài đã kiếm tìm chúng ta trước khi chúng ta tìm kiếm Ngài. Ngài chờ đón chúng ta trước khi chúng ta trở về, và Ngài đã yêu thương chúng ta khi chúng ta vẫn còn là tội nhân. Trong lòng thương xót của Thiên Chúa, mỗi người chúng ta đã trở nên viên ngọc quí mà Ngài là thương gia bán tất cả gia tài đang có để chuộc lấy viên ngọc quí là chúng ta. Ngài vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người thế. Người còn tự hạ sống vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá.
Thiên Chúa vẫn luôn luôn là Thiên Chúa nhân hậu và hay thương xót. Ngài không nỡ bẻ gãy cây lau bị dập, không đánh dập tắt tim đèn còn khói. Ngài vẫn kiên trì, vẫn chờ đợi chúng ta những người con yếu đuối, tội lỗi ăn năn sám hối trở về với Ngài. Thiên Chúa là mục tử nhân lành như thế đó; Thiên Chúa là người cha nhân hậu như thế đó, và Thiên Chúa đã tìm kiếm chúng ta như thế đó. Xin cho mỗi người chúng ta biết ăn năn sám hối để đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa.
Người ta có thể nói: Tại sao người mục tử lại quan trọng hóa như thế với một con chiên đi lạc trong lúc người ấy vẫn còn 99 con khác? Và tại sao người phụ nữ lại quan trọng hóa như thế với một đồng tiền đánh mất? Bất cứ cái gì mà chúng ta đánh mất đều có một giá trị thái quá. Ví dụ như bạn đánh mất một cái chìa khóa. Ngay khi bạn làm mất, cái chìa khóa ấy trở nên quan trọng hơn tổng số mọi vật mà chúng ta vẫn có. Không bao giờ chúng ta biết giá trị của một vật chúng ta có cho đến khi chúng ta mất nó.
Một lần kia, có một thanh niên mong ước mình sẽ trở thành một nhà nhiếp ảnh. Mỗi năm, anh đem một gói các bức ảnh đẹp nhất của mình đến nhà một nhiếp ảnh gia lão thành và danh tiếng để xin ông này chỉ dẫn và đánh giá. Nhiếp ảnh gia lão thành nghiên cứu các bức ảnh và chia ra làm hai gói nhỏ, một gói gồm các bức ảnh đẹp và một gói gồm các bức ảnh xấu, chưa đạt. Năm nào ông cũng nhận thấy rằng người thanh niên luôn đem đến một bức ảnh chụp phong cảnh và lần nào cũng bị xếp vào các bức ảnh xấu bị loại. Vì thế, ông mới quay lại người thanh niên và nói: “Rõ ràng là cậu đánh giá cao bức ảnh này. Tại sao cậu lại thích nó như thế?”
Người thanh niên đáp: “Bởi vì cháu phải leo lên núi để chụp nó”.
Một vật trở nên quí giá đối với chúng ta bởi vì chúng ta mất nó. Nhưng nó cũng có thể trở nên quí giá vì công sức mà chúng ta đã bỏ ra cho nó. Những hy sinh mà chúng ta đã thực hiện có được hoặc giữ được nó làm tăng thêm giá trị của nó trong mắt chúng ta.
Có một câu chuyện tuyệt vời kể lại rằng một ngày nọ Đức Giêsu hiện ra với một người mục tử đang gặp chuyện đau buồn. “Tại sao con buồn bã thế?” Người hỏi “Bởi vì con đã để mất một trong các con chiên của con”, người mục tử đáp “và dù con đã tìm kiếm khắp nơi, con đã không tìm thấy nó. Có lẽ chó sói đã xé xác nó”. Nghe đến đây Đức Giêsu nói: “Con hãy chờ ở đây. Chính Thầy sẽ đi tìm nó”.
Nói xong, Người biến mất vào trong các đồi. Ít giờ sau, Người trở lại với con chiên lạc. Đặt con chiên dưới chân người mục tử, Người nói: “Kể từ ngày hôm nay, con phải yêu thương con chiên này hơn những con chiên khác trong bầy chiên của con, vì nó đã mất mà nay đã tìm lại được”.
Trong các câu chuyện con chiên lạc và đồng tiền đánh mất Đức Giêsu nhấn mạnh một điều, đó là: Đối với Thiên Chúa, mỗi người đều quan trọng và quí giá. Nhất là khi người ấy đã hư mất. Thiên Chúa sẽ yêu thương người ấy nhiều hơn chứ không ít đi.
Những người Pharisêu tự coi mình là những mẫu mực về đạo đức nên không liên can gì đến những người tội lỗi. Họ cho rằng Thiên Chúa cũng không quan tâm đến những người tội lỗi. Tín điều chính yếu trong tôn giáo của họ là: “Thiên Chúa yêu thương người đạo đức và ghét bỏ kẻ tội lỗi”. Nhưng Đức Giêsu cho họ thấy có một loại Thiên Chúa hoàn toàn khác hẳn.
Đức Giêsu nhân hậu và yêu thương khi Người tiếp cận với những người tội lỗi. Người biết rằng sự loại trừ và phán xét không bao giờ giúp cho một người thay đổi. Vì thế Người dùng sự hiện diện của Người như một cách để người ta cảm thấy được chấp nhận và yêu thương và trong bầu không khí ấy họ có thể đáp lại và thay đổi.
Dù từ một quan điểm nhân bản, sự tiếp cận của Người cũng mang nhiều ý nghĩa. Nếu một đứa bé bị lạnh và đói lả, nó không cần một bài giảng thuyết; nó cần hơi ấm và lương thực. Jean Vanier cũng nói rất hay: “Con người ở trong cảnh khốn cùng không cần một cái nhìn xét đoán và chỉ trích, nhưng cần một sự hiện diện đầy an ủi đem lại bình an, hy vọng và sự sống”.
“Khi một người cha than khóc đứa con của mình đã đi vào những con đường xấu xa, ông sẽ làm gì? Ông sẽ yêu thương nó nhiều hơn bao giờ hết” (Beal Shem Tov).
Dụ ngôn về đứa con hoang đàng, về chàng trai phung phá, hay nói đúng hơn, câu chuyện về tấm lòng của một người cha là một hình ảnh cảm động thật nói lên tình thương vô biên của Thiên Chúa. Ngài luôn chờ đời và sẵn sàng tha thứ cho chúng ta, ngay cả những tội lỗi xấu xa và nặng nề nhất.
Chàng thanh niên, tuổi đời còn ít và kinh nghiệm chẳng được bao nhiêu, đã đòi người cha phải chia gia tài cho mình, để rồi lên đường đi bụi đời.
Chàng hăm hở lao mình vào những cuộc ăn chơi đàn đúm, tiêu xài hoang phí cho đến khi không còn một đồng xu dính túi.
Chính trong giây phút đau khổ và đói khát, chàng mới nhận ra rằng mình đã hành động sai quấy đối với người cha. Và cũng chính những đau khổ và đói khát ấy đã làm cho chàng suy nghĩ và quyết tâm làm lại cuộc đời.
Biết bao nhiêu người ngày hôm cũng thế. Sau những hành động tội lỗi, thì trong cảnh tĩnh mịch của nhà tù họ mới tìm lại khuôn mặt của Thiên Chúa mà họ đã quên lãng từ lâu.
Hiểu được sự sai trái của mình, chàng thanh niên đã dứt khoát trở về nhà cha. Cõi lòng chàng tan nát khiêm cung, cho dù cái lý do thúc đãy chàng trở về chưa thực sự tốt lành và tinh ròng cho lắm. Chàng sẽ quì xuống để xin cha tha thứ. Chàng nói:
– Thưa cha, con đã phạm tội nghịch với trời và lỗi với cha, con không xứng đáng được gọi là con cha nữa, xin cha hãy đối xử với con như một người làm công.
Và thế là chàng lên đường. Khi chàng còn ở đàng xa, thì người cha đã trông thấy, bởi vì biết bao nhiêu ngày ông đã mòn mỏi đợi chờ.
Nếu là chúng ta, có lẽ chúng ta đã quát tháo:
– Cái thằng trời đánh thánh vật kia ơi. Mày đã làm cho tao đau khổ biết bao nhiêu. Mày không còn là con tao nữa. Hãy cút xéo khỏi nhà tao.
Nhưng không. Người cha trong câu chuyện đã không nói và làm như thế. Trái lại, ông đã tha thứ hết. Ông chạy tới, ôm choàng lấy chàng và hôn chàng hồi lâu.
Không một lời khiển trách, trái lại với tất cả tình yêu thương, ông đã truyền lấy áo mới cho chàng mặc, lấy nhẫn cho chàng đeo, lấy giày cho chàng đi, rồi lại còn chuẩn bị tiệc mừng. Ông nói:
– Hãy giết con bê béo làm tiệc ăn mừng vì con ta đã chết nay được sống, đã mất nay lại tìm thấy.
Câu chuyện trên đây quả thực đã đem lại cho chúng ta, những kẻ tội lỗi, một niềm an ủi lớn lao. Bởi vì qua câu chuyện này, Chúa Giêsu muốn tỏ cho chúng ta thấy lòng nhân từ, khoan dung và thương xót của Thiên Chúa. Ngài sẵn sàng tha thứ, sẵn sàng xóa bỏ tất cả mọi tội lỗi của chúng ta, miền là chúng ta biết sám hồn ăn năn và lên đường trở về với Ngài.
Cha Piô là một vị linh mục nổi tiếng thánh thiện. Ngày kia, ngài tới Rotondo và tình cờ gạp Cesare Festa, một kẻ đứng đầu phái Tam Điểm tại đây. Khi gặp ngài, ông ta ngạc nhiên và nói:
– Ngài cũng ở đây với chúng tôi, những người theo phái Tam Điểm hay sao?
Cha Piô đáp lại:
– Phải, thế các anh đã làm gì?
Ông ta trả lời:
– Chúng tôi chống lại Giáo hội.
Cha Piô cầm tay ông ta, nhìn ông ta bằng cặp mắt trìu mến, rồi kể lại cho ông ta nghe câu chuyện đứa con hoang đàng, hay câu chuyện tấm lòng của một người cha.
Một giờ sau, ông ta đã quì gối xưng tội. Rồi sau đó, ở mọi nơi và trong mọi lúc, ông ta sẵn sàng tuyên xưng lòng khoan dung và thương xót bao la của Thiên Chúa.
Riêng mỗi người chúng ta, hãy sám hối ăn năn trở về cùng Chúa để được hưởng nhờ ơn tha thứ, bởi vì tâm tình sám hối ăn năn chính là một thứ tiền để mua lấy ơn tha thứ.
(Trích dẫn từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Suy niệm của chúng ta về dụ ngôn đồng bạc đánh mất rồi tìm thấy, bắt đầu từ ý niệm việc tông đồ của người Kitô hữu phải tỏa rộng niềm vui đã tìm thấy ơn cứu độ.
Người đàn bà nói trong dụ ngôn rất bực vì đánh mất đồng bạc, món tiền nhỏ nhưng rất quý đối với mình. Moi móc các nơi trong nhà, tìm được rồi, bà ấy vui mừng phân phô với hàng xóm. Chúng ta chuyển dụ ngôn sang bình diện đời sống nhân loại. Kitô hữu là một người đau xót vì thiết mất một vật gì, biết rõ nó là của mình trước đây, mình đã vô ý đánh mất; mơ hồ cảm thấy tất cả con người mình khao khát tình thân thiết của Thiên Chúa, nhận thức rằng tai họa do sự tội đã khiến mình đánh mất tình thân thiết quý báu ấy. Nhưng không cam chịu mất mát, người ấy tìm tòi trong mình và quanh mình, tự hỏi lòng mình, hỏi cả người xung quanh. Một ngày kia, gặp thấy ơn cứu độ trong Đức Giêsu Kitô, lại tìm thấy ý nghĩa cuộc đời, người ấy vui mừng. Của bị mất nay lại tìm thấy, nó quý vô cùng, đến nỗi không thể vui riêng một mình, người ấy phải san sẻ với người xung quanh. Người ấy có giống người đàn bà mất tiền không? Có gọi bạn bè hàng xóm đến chung vui không? Vấn đề ấy không đặt ra ở đây. Vấn đề khác sâu sắc hơn là niềm vui phải làm rạng ngời vẻ mặt một kẻ được cứu vớt, vui từ thâm tâm tỏa ra trên nét mặt, lúc nào cũng sẵn sàng chia sẻ niềm vui giữa anh em mình. Hai câu hỏi đặt ra cho chúng ta:
1) Chúng ta có cảm biết sâu sắc không, thế nào là đánh mất rồi tìm lại được?
Có thể rằng chúng ta tự tại trong niềm tin, trong sự giữ đạo đầy đủ, cho nên không hiểu được thấm thía tai họa to lớn xảy đến cho kẻ không có đời sống siêu nhiên. Người Kitô hữu rất có thể -nói theo ngôn từ Phúc Âm- lâm vào tình huống mất tiền mà không biết; vì không biết nên không tìm kiếm; không tìm kiếm nên không tìm được đồng bạc, không có được niềm vui. Chúng ta thử nghĩ về bi kịch đời sống kẻ đã mất Thiên Chúa; chúng ta hãy vui lên vì đã tìm lại được tình thân thiết của Thiên Chúa (hoặc nói đúng hơn, vì tình thân thiết của Thiên Chúa đã tìm lại được chúng ta- đàng nào kết quả cũng vậy).
2) Chúng ta có san sẻ niềm vui với anh em không?
Ở đây đặt ra vấn đề hoạt động tông đồ theo một đường lối nào đó. Một số đường lối truyền giáo (nhất là một số buổi họp đoàn thể) ít lan tỏa niềm vui… Niềm phấn khởi, sức năng động của công việc truyền giáo phải bắt nguồn từ niềm xác tín sâu sắc và kinh nghiệm sống rằng ‘chúng ta đã tìm thấy’. Bình thường thì phát hiện ấy phải khiến chúng ta vui mừng, niềm vui của chúng ta phải tỏa rộng. Chúng ta biết rằng niềm vui thu hút, niềm vui đa dạng. Chúng ta cũng biết, nụ cười tươi của chiến sĩ truyền giáo thu được nhiều thành quả hơn mọi kỹ thuật hành động.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)
Khi những người cha người mẹ yêu con cái của mình họ sẵn lòng làm bất cứ điều gì cho chúng. Tuy nhiên đã xảy ra là những đứa con ít khi nhận biết tình yêu sâu nặng của cha mẹ dành cho chúng. Cả hai người con trong dụ ngôn hôm nay của Chúa Giêsu đã không hiểu được tình yêu của cha mình. Cũng không thể hiểu được sự dâng hiến của ông dành cho chúng, như là những người con của ông không hề thay đổi, không hề có vấn đề gì. Người cha không thể nào tưởng tượng có gì đổi khác trong mối liên hệ với những người con của mình.
Đầu tiên, tôi nghĩ về người con thứ, người con mà chúng ta hay nhắc tới là người con hoang đàng, người con phung phá hết tất cả tài sản của mình. Khi anh nhận ra sự điên rồ của mình, anh đã sửa soạn một bài diễn văn nhỏ để nói với cha của mình. Trong những lời anh đã soạn sẵn đó, anh cũng nhận ra rằng anh không còn xứng đáng để được gọi là con, và anh mong cha coi anh như một người làm công thôi. Khi anh trở về nhà và nói lên những lời đã soạn sẵn của mình, nhưng người cha không hề để ý đến điều ấy. Người cha đã ôm choàng lấy người con, hôn lấy hôn để và gọi gia nhân làm tiệc mừng. Ông ta nhấn mạnh: “Hãy xỏ giày vào chân cậu”, một dấu hiệu anh trở về với gia đình như một thành phần của gia đình chứ không phải là một tôi tớ, bởi vì chỉ những phần tử của gia đình mới mang giày trong nhà. (Một bài hát thiêng liêng cổ đã hát: ‘Tất cả những con cái của Thiên Chúa đều được mang giày’).
Người con lớn mà chúng ta cũng không hề có cảm tình. Anh ta không hề rời xa nhà, anh vẫn tiếp tục chu toàn công việc bổn phận với người cha. Anh đã từ chối vào dự tiệc mừng đứa em của mình và lý do anh đưa ra để biện minh cho sự từ chối của mình tiết lộ rằng, anh ta đã quá thất bại trong mối tương quan của anh với cha của mình. Anh ta minh chứng: “Bao nhiêu năm con đã làm việc hầu hạ cha như nô lệ, mà cha không hề cho con một con dê nhỏ để con ăn mừng với chúng bạn”. Người ch của anh đã trở thành một chủ nô, một người chủ keo kiệt bủn xỉn, đứa con đã nghĩ rằng nó như nô lệ, vì anh ta chỉ trông đợi một phần thưởng, anh ta đã không phục vụ người cha của mình với tình yêu. Nhưng người cha đã đáp lại: “Con luôn luôn ở với cha, mọi sự của cha là của con”. Thật sự điều này đã biểu lộ được cảm xúc của người cha, thật ra ông ta đã đáp lại sự giận dữ của con trai bằng một sự dịu dàng. Ông ta không hề khuyên nhủ con mình, ông chỉ nhìn con và nói hai từ: “Con ơi”.
Người Cha trong dụ ngôn là một người đáng để ý. Khi người con thứ quyết định trở về nhà thì ông đã nồng nhiệt chạy ra tiếp đón nó: “Khi người con cả từ chối vào dự tiệc, người cha cũng chạy ra nói anh ta và nài xin anh ta vào”.
Điểm đáng chú ý hơn, Thiên Chúa là Cha của chúng ta. Để bắt đầu hiểu và nhận biết Thiên Chúa, chúng ta phải nhớ chúng ta là ai. Chúng ta là con cái của Thiên Chúa, là những con trai, con gái yêu dấu của Người. Thiên Chúa sẽ không bao giờ thay đổi tình yêu mà Người luôn luôn qua tâm đến chúng ta ngay cả khi chúng ta từ bỏ Ngài. Không có vấn đề chúng ta điên rồ thế nào trong cách sống, không có vấn đề chúng ta xa rời tình yêu của Thiên Chúa thế nào. Thiên Chúa vươn đến chúng ta bằng ân sủng của Người.
Mỗi ngày Chúa Nhật, Thiên Chúa mời gọi chúng ta đến nhà của Ngài, nhà thờ. Thiên Chúa luôn luôn là Cha của chúng ta. Nhà của Người là ngôi nhà gia đình của chúng ta. Nơi đây Ngài mời gọi chúng ta cử hành nghi thức gia đình, một bữa ăn thánh thiện mà tại đó Người Con thần linh của Ngài nói với chúng ta bằng những lời trong Thánh Kinh, nuôi dưỡng chúng ta bằng Thánh Thể. Chúng ta được kêu gọi tới bữa ăn này như là một bữa tiệc vui mừng và một biến cố hạnh phúc của chúng ta, bởi vì chúng ta nhận biết rằng chúng ta đã chết một lần trong tội lỗi, nhưng Chúa Giêsu bằng cái chết đã phục hồi cho chúng ta sự sống. Chúng ta đã trở nên thành phần của gia đình Thiên Chúa, những con cái yêu dấu của Người và Thiên Chúa sẽ không bao giờ thay đổi mối quan hệ đó. Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta và Ngài đã trình bày rằng Ngài sẵn sàng làm bất cứ điều gì cho chúng ta. Chúng ta có thể điên rồ hoặc là quên lãng được Thiên Chúa là Cha chúng ta và chúng ta là con cái của Người sao?
Không chỉ có chiên cừu và các đồng tiền bị đánh mất. Con người cũng bị lạc mất. Theo tờ The Tablet (Tháng 12-1996) có khoảng 250.000 người ở Anh Quốc bị mất tích mỗi năm. Đủ mọi loại tuổi và thành phần, từ trẻ em cho đến người đứng tuổi, bởi mọi loại lý do và không lý do nào giống lý do nào, và họ bỏ đi mất tích. Những người ở lại, gia đình của họ bị nghi kỵ dày vò, tội lỗi dằn vặt và lo lắng, người ta vừa sống với niềm hy vọng vừa tuyệt vọng, không thể chấp nhận điều đã xảy ra hoặc đau buồn vì họ đã chết. Đường dây những người mất tích của quốc gia được thiết lập ở Anh quốc năm 1992 và mở ra 24 giờ mỗi ngày, 365 ngày mỗi năm. Đây là một trong những hoạt động từ thiện phát triển nhanh nhất ở nước Anh.
Vấn đề còn to lớn hơn ở Mỹ. Người ta ước chừng 50.000 trẻ em xuất tích mỗi năm, trong đó có 5000 em tìm thấy đã chết. Tại sao những em ấy mất tích? Một số em cha hoặc mẹ đã ly dị bắt đem đi. Một số em là bạn thân của các tội ác bạo hành. Một số bỏ trốn khỏi những gia đình không hạnh phúc.
Kevin là một cậu bé mười tuổi hay cười. Cậu sống với cha mẹ cậu và hai người chị ở San Francisco. Một ngày kia, cậu rời khỏi trường sau giờ thực hành bóng rổ. Người ta không còn nhìn thấy cậu nữa.
Phần lớn các quốc gia không có con số chính xác các trẻ em mất tích mỗi năm. Hầu hết các lực lượng cảnh sát không hành động theo một báo cáo có một đứa trẻ mất tích ít nhất trong vòng 24 giờ. Ở Mỹ, cảnh sát liên bang FBI nói rằng nếu họ phải đi tìm mỗi đứa trẻ mất tích, họ sẽ không có thời gian để làm những việc khác. Nhiều quốc gia có những chương trình hiện đại để lần theo dấu vết của các xe cộ bị mất cắp và thẻ tín dụng nhưng không có chương trình nào cho các trẻ em bị mất tích.
Người ta có thể lạc loài bằng nhiều cách. Có người đã nghiện rượu hoặc ma túy, có người không thể ổn định cuộc sống, có người không thể giữ được việc làm hoặc hoàn tất chương trình học, có người không thể duy trì một tương quan rất khó mà tìm thấy họ. Điều làm cho sự việc thêm trầm trọng là thông thường họ không bỏ đi. Họ biến mất ở giữa chúng ta, họ lạc loài ngay giữa gia đình mình.
Dĩ nhiên xem ra không ai có thể đến gần họ. Trong những trường hợp như thế, nhiệm vụ của người mục tử không tìm kiếm họ cho bằng giúp họ tìm thấy chính mình.
Và dĩ nhiên, người ta lạc loài về tinh thần và tâm linh. Những người như thế giống như con thuyền không neo hoặc một thủy thủ không có la bàn. Trong số họ, có những người lạc loài vì lỗi của họ. Nhưng những người khác lạc loài vì họ không có người hướng dẫn, không có một ai quan tâm tích cực đến những người sống lạc loài.
Đức Giêsu bày tỏ mối quan tâm của Người đối với các “con chiên lạc” – những người thu thuế, những người tội lỗi v.v…là những người đã bị các mục tử chính thức bỏ rơi. Những mục tử chính thức phẫn nộ đối với việc mà một mục tử xứng đáng với danh xưng ấy phải làm.
Người mục tử không chờ cho con chiên lạc quay về; người ấy đi tìm nó. Đức Giêsu cũng thế. Người là vị sứ giả mà Chúa Cha sai đến với chúng ta. Người không chờ cho những người có tội đến tìm Người. Người ra đi tìm họ. Và khi người tìm thấy họ, Người đưa họ trở về nhà Cha với niềm hoan hỉ.
Hối cải là trở về với Thiên Chúa, và trở về với Thiên Chúa là trở về nhà mình.
Có một vấn đề ngày càng gia tăng trong xã hội hiện nay, đó là con người không thể và không muốn tha thứ cho nhau.
Một sự kiện cụ thể chứng minh cho sự thật trên, đó là tình trạng ly dị mỗi lúc một gia tăng, nó làm cho nhiều cặp vợ chồng phải đau khổ, nhiều gia đình bị đổ vỡ.
Qua sự điều tra về những người vợ đòi ly dị, một tác giả đã rút ra hai kết luận như sau:
Trước hết, họ đã phải tiêu phí một cách khủng khiếp năng lực và tiền bạc để trả thù người chồng cũ của họ. Tiếp đến vì cứ nuôi mãi mối căm hận, nên nhiều người tự gây thương tổn cho mình hơn là cho người chồng cũ mà họ thù ghét.
Để thấy rõ sự giận hờn và căm thù có thể hủy diệt chúng ta như thế nào, hội y khoa nước Mỹ đã mở cuộc thăm dò hàng ngàn bác sĩ với câu hỏi:
– Trong một tuần lễ, bạn điều trị được bao nhiêu bệnh nhân?
Hầu như tất cả đều trả lời rằng họ chỉ điều trị được khoảng 10% bệnh nhân. Còn 90% kia, mặc dù có đau đớn, nhưng nỗi đau đớn của họ lại thuộc lãnh vực tâm lý, mà những thuốc men bình thường không thể giải quyết được. Và nguyên nhân chính gây bệnh đó là nỗi căm giận, sự thù ghét dồn nén, những bất mãn và phản kháng.
Kinh nghiệm cũng cho thấy: khi chúng ta giữ mãi trong mình mối ác cảm, không chịu tha thứ và luôn tìm cách báo thù, thì chúng ta gây thương tổn cho mình không kém gì gây thương tổn cho kẻ thù.
Nói một cách sống động hơn, mũi gươm thù địch chúng ta dùng để gây thương tích cho đối phương sẽ đâm vào bản thân chúng ta trước. Hay như một câu danh ngôn đã bảo:
– Ai cứ quyết tâm nuôi mộng báo thù thì nên đào sẵn hai cái huyệt, một cái cho kẻ thù và một cái cho chính mình.
Tất cả những sự việc trên góp phần làm sáng tỏ lời Chúa về lòng tha thứ qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Đây là sứ điệp mà mỗi người chúng ta cần phải ghi nhớ và thực hành.
Hãy tự vấn lương tâm xem chúng ta đang làm gì đối với sự thù hận, mối ác cảm chua chát đang làm cho đời sống chúng ta mất đi sự bình an? Hãy xét lại mối liên hệ giữa chúng ta và những người chung quanh để xem chúng ta đã thực sự sống lời Chúa truyền dạy về vấn đề này hay chưa:
– Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét bỏ chúng ta. Hãy để của lễ đó, trở về làm hòa với người anh em mình trước đã, rồi hãy đến mà dâng của lễ sau? Hãy tha thứ không phải bảy lần mà là bảy mươi lần bảy lần. Chúng ta đã phản ứng như người cha nhân từ, giàu lòng thương xót, hay như người anh cả vừa nhỏ nhoi lại vừa ích kỷ.
Để kết luận, chúng ta hãy mượn lời kinh hòa bình của thánh Phanxicô mà dâng lên Chúa:
– Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm.
Câu hỏi gợi ý:
Suy tư gợi ý:
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dùng một hình ảnh, một câu chuyện cụ thể để mô tả chân dung của Thiên Chúa, vừa là Cha chung của toàn thể nhân loại, vừa là Cha của mỗi người chúng ta. Trong chân dung ấy, có hai đặc tính nổi bật: tình thương vô hạn và sự tha thứ vô điều kiện.
a/ Tình thương vô hạn của Thiên Chúa: Thiên Chúa được Đức Giêsu mạc khải là một người Cha (chắc hẳn nếu phải nói về Thiên Chúa trong một nền văn hóa mẫu hệ thì Ngài sẽ mạc khải Thiên Chúa là một người Mẹ). Cha mẹ nào mà chẳng thương yêu con cái bằng một tình thương tự nhiên, vô điều kiện, nghĩa là bất chấp con cái tốt xấu, hay dở, có lợi hay gây hại cho mình, bất chấp cả việc chúng đối xử tệ bạc với mình tới đâu. Tình thương đích thực luôn luôn tự động biểu lộ thành hành động. Bản chất của tình thương là như thế, nếu không như thế thì không phải là tình thương đích thực. Tình thương không biểu lộ thành hành động chỉ là tình thương ngoài môi miệng (x. Gc 2,16.26). Và hai cách biểu lộ rõ rệt nhất của tình thương là: (1) sự tha thứ vô điều kiện, và (2) sẵn sàng chấp nhận đau khổ hoặc chết cho người mình yêu thương. Tình yêu của Thiên Chúa đối với con người đã được biểu lộ qua cả hai cách ấy nơi con người Đức Kitô: «Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là người tội lỗi. Đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta» (Rm 5,7).
b/ Sự tha thứ vô điều kiện của Thiên Chúa: Trong dụ ngôn bài Tin Mừng hôm nay, người con hoang đàng đã đối xử thật tệ bạc với cha, đã rời bỏ cha mẹ mình để đi hoang, không còn biết nghĩ đến nỗi cô đơn, thương nhớ và đau khổ của cha mẹ khi mình bỏ đi, lại còn tiêu tán hết gia sản cha mẹ dành cho mình. Thế mà khi đứa con bội bạc ấy trở về, thái độ của người cha là: khi «anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để» và ngay tức khắc ra lệnh cho «các đầy tớ: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng!». Ông làm như đứa con ấy chưa hề phạm một lỗi nhỏ nào đối với mình. Tội lỗi của đứa con hết sức to lớn nhưng ông làm như không nhìn thấy, chỉ nhìn thấy nó đã trở lại với mình, như thể nó «đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy». Tình thương, lòng tha thứ và quảng đại chỉ có thể biểu lộ đến thế là cùng.
Chúng ta đã từng nghe nói có biết bao cha mẹ đã đến thăm nuôi đứa con tệ bạc và bất hiếu với mình hiện đang bị tù đày, bất chấp xa xôi, hiểm nguy hay trước đó nó đã làm phiền lòng mình tới đâu. Cho dù cha mẹ đó có là phường xấu xa trộm cướp, cũng vẫn có thể đối xử tốt với đứa con tệ bạc của mình như vậy. Có thế mới là bậc cha mẹ! Có nghĩ như thế, ta mới thấy được ý nghĩa vô cùng sâu xa khi Đức Giêsu mạc khải cho ta biết Thiên Chúa là Cha Mẹ của chúng ta. Tình thương đầy khiếm khuyết của cha mẹ trần gian còn như thế, huống gì tình thương hoàn hảo của Thiên Chúa! Ngài đã được thánh Gioan định nghĩa là Tình Thương (x. 1 Ga 4,7-8), một tình thương vô hạn của bản tính Thiên Chúa, nên sự tha thứ của Ngài cũng vô hạn. Đây quả là một thông tin hết sức vui mừng và vô cùng quí báu cho tất cả mọi con người, vốn yếu đuối và đầy lầm lỗi!
Động lực nào đã làm cho đứa con quay trở về nhà mình? Chắc chắn không phải vì thương cha mình, mà vì sự khốn khổ nó đang phải chịu do sự ngu xuẩn và bất hiếu của nó. Tóm lại, nó về là vì nó thương bản thân nó hơn là thương cha. Chắc chắn khi thấy nó trở về với «thân tàn ma dại», cha nó cũng biết nó về vì động lực gì. Nhưng đối với ông, điều ấy không quan trọng. Điều quan trọng là nó đã trở về, vì nó tưởng như «đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy». Động lực khiến người cha tha thứ và vui mừng đón nhận nó trở về hoàn toàn vì yêu thương con, vì muốn cho nó hạnh phúc, bất chấp quá khứ lầm lỗi của nó.
Đó cũng chính là tâm tình của Thiên Chúa đối với những người con tội lỗi. Chỉ cần người tội lỗi quay trở về với Thiên Chúa và nói lên lời hối hận: «Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa…», thì lập tức trước mặt Thiên Chúa, họ trở thành người vô tội, trở thành con cái trong nhà, được yêu thương, bảo vệ, được hưởng mọi quyền lợi của một người con y như trước. Vì thế, dù ta có phạm một tội tầy đình, nếu ta biết trở về với Chúa, Ngài sẽ tha thứ tất cả, và coi ta như con cái hiếu thảo trong nhà.
Mẹ Giáo Hội của chúng ta đã từng có những hành vi như thế. Chẳng hạn, Âu-Tinh, một thanh niên đã từng sống trụy lạc, ăn chơi, và có những đứa con rơi rớt không kém gì đứa con hoang đàng trong Tin Mừng. Thế mà khi trở về với Giáo Hội, Giáo Hội đã mở rộng vòng tay đón nhận. Sự đón nhận trở nên hoàn toàn khi Giáo Hội chấp nhận chàng vào tu viện, và khi thấy chàng xứng đáng, đã phong chức giám mục cho chàng. Nhờ sự tha thứ quảng đại ấy của Giáo Hội, Âu-Tinh đã trở nên một vị thánh. Giáo Hội xưa là như thế, Giáo Hội ngày nay thì sao? Thiết tưởng Giáo Hội không nên quá chú trọng đến vấn đề lý lịch hay quá khứ của những người muốn trở về với Thiên Chúa và với Giáo Hội. Chúng ta không nên lấy cớ khôn ngoan để hành xử giống như những thế lực trần gian. Đức Giêsu đã trao cho Giáo Hội quyền tha và buộc (x. Mt 16,19; 18,18), thiết tưởng Giáo Hội nên tha nhiều hơn là buộc, nên có thái độ của bậc cha mẹ yêu thương con cái hơn là thái độ của các quan tòa. Các bậc làm cha mẹ cũng cần có thái độ quảng đại như thế đối với những đứa con hư hỏng. Đọc Tin Mừng, tôi chỉ thấy Đức Giêsu kết án có một loại người duy nhất là bọn kinh sư và biệt phái giả hình hoặc các tiên tri giả mà thôi!
Người con hoang đàng sẽ không dám quay trở về khi đoán rằng cha mẹ mình sẽ không tha thứ, sẽ ruồng rẫy nó khi nó trở về. Nếu biết như thế thì trở về làm gì? Vì thế, nếu cha mẹ vẫn luôn luôn tỏ thái độ yêu thương chăm sóc khi chúng bất hiếu và tệ bạc với mình, thì sẽ khiến chúng trở về với đường ngay nẻo chính hơn là thái độ bỏ rơi, ruồng rẫy chúng. Thái độ kết án, ruồng rẫy chỉ làm cho con cái xa lìa và chống lại cha mẹ mà thôi. Lịch sử Giáo Hội cũng như chuyện đời thường chứng minh điều ấy.
Dụ ngôn người cha và đứa con hoang đàng của Đức Giêsu là một bài học cho nhiều loại người: không chỉ cho những người tội lỗi cần quay trở về, mà còn đề nghị với các bậc làm cha mẹ và với cả những người tốt lành ở trong Giáo Hội cách đối xử với những người con hay anh em đang sống trong lầm lạc tội lỗi. Không nên có thái độ như người anh kém quảng đại trong bài Tin Mừng chỉ biết ganh tị với em, mà không hề tỏ một tâm tình yêu thương gì với cha và với em cả.
Cầu nguyện
Lạy Cha, Đức Giêsu đã cho con thấy khuôn mặt đầy tình thương và giàu lòng tha thứ của Cha qua dụ ngôn người cha nhân hậu và đứa con hoang đàng. Xin cho con luôn ý thức tình yêu thương ấy của Cha để sẵn sàng quay trở về với Cha ngay khi lầm lỗi, đồng thời cũng luôn luôn bắt chước Cha trong việc quảng đại tha thứ vô điều kiện cho con cái, cũng như cho tất cả mọi người có lỗi đối với con. Amen.
“Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải”
Xưa nay, trong xã hội, thường có hạng người đa nghi, hay dòm ngó, xét nét người khác. Việc người thì sáng việc mình thì quáng. Nhóm Biệt phái và luật sĩ Do-thái thuộc về hạng người ấy. Họ tìm cách để bắt bẻ Chúa Giêsu trong lời nói, trong việc làm. Họ không thể vạch ra những sơ hở của Chúa trong lời giảng dạy thì họ theo dõi mọi cử chỉ, mọi giao dịch của Chúa. Chúa Giêsu lại không mấy quan tâm đến. Ngài đi nhiều lần với những người thu thuế, vào trọ trong nhà họ, ngồi ăn với họ; Ngài để cho người đàn bà được coi là tội lỗi đem thuốc thơm xức, xõa tóc lau, lại còn hôn cả lên bàn chân. “Ông này, nếu quả thực là tiên tri, ắt đã biết người đàn bà sợ đụng đến mình kia là ai, và thuộc hạng nào: một đứa tội lỗi!” (Lc 7, 39).
Ngài đi xuống hố thẳm tội lỗi để “cứu những gì hư mất”.
Để minh giải trước bọn đối thủ, nhất là để nói lên tình thương của Ngài đối với người tội lỗi, Chúa Giêsu đã để lại 3 dụ ngôn của Ngài thật cảm động. Hơn nữa, đây không phải chỉ là những dụ ngôn mà là những lời cầu nguyện sống, rất thực tế, đánh động lòng chúng ta là kẻ tội lỗi.
Đó là câu chuyện con chiên lạc, đồng bạc đánh mất, và nhất là câu chuyện người con trai đi hoang hối cải trở về. Trong cả ba câu chuyện, điểm nổi bật hơn cả, đáng chú ý hơn cả, đánh động tâm hồn hơn cả, là sự vui mừng của Thiên Chúa khi gặp lại những người hư mất sau bao công chờ đợi tìm kiếm.
Thiên Chúa, Đấng toàn thiện toàn năng mà lại vui mừng. Thật là một mầu nhiệm: “Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải”. Nhà Tiên tri Mikha cũng đã nói đến: “Có Thiên Chúa nào như Ngài lại vui mừng khi ban ơn tha thứ” (Mk 7,18).
Đây cũng là bài học cho chúng ta. Bao nhiêu lần chúng ta tuyên bố tha cho kẻ xúc phạm, làm cực lòng ta, nhưng ta vẫn giữ một thái độ lãnh lẽo, mặt nặng như chì với họ.
Ngày 5-7-1902, Maria Goretti bị thanh niên Alexandro đâm 18 lát dao, vì muốn bảo toàn đức trong sạch. Trước khi chết, vô vui vẻ tha thứ cho hung thủ và “muốn cho Alexandro được về Thiên Đàng với cô”. Bức gương của vị nữ thánh phản ánh tình thương hay tha thứ của Chúa.
Dụ ngôn thứ ba về người con trai đi hoang trở về lại càng tô điểm mối tình Chúa thương ta bằng những nét thật sâu đậm. Đọc lại cuộc đón tiếp vồn vã của người cha già với những cái hôn nóng hổi, với nhẫn xỏ tay, áo đẹp phủ người, tiệc tùng thịnh soạn, có người cho rằng làm gì cóm một người cha tốt lành quá như vậy đối với người con thất hiếu bất trung? Nhưng nên nhớ rằng đây chỉ là hình bóng phai mờ của người Cha trên trời đầy tình thương xót hay tha thứ. Tình thương của chúa thật vô biên, “thương đến tận cùng”.
Lạy Đấng chăn chiên, hãy để lại đó 99 con kia,
Và mau đi tìm con chiên duy nhất đã thất lạc,
Hãy đi tìm con, vì con đang tìm Chúa.
Hãy đón nhận con, vác con trên vai Chúa…
Dưới đất Chúa ban vơn cứu độ, và trên trời sẽ có niềm vui lớn.
(Thánh Ambrosiô thành Milan)
(Suy niệm của Lm. Thiện Duy)
Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI viết trong Tự Sắc Cửa Đức Tin số 13 như sau: “Một điều quan trọng trong Năm Đức Tin này là điểm lại lịch sử đức tin của chúng ta, được ghi dấu bằng mầu nhiệm lạ lùng về sự đan xen giữa thánh thiện và tội lỗi”.
Phụng vụ lời Chúa hôm nay là dịp để mỗi người chúng ta điểm lại lịch sử lạ lùng về mầu nhiệm thánh thiện và tội lỗi của nhân loại cũng như của từng người chúng ta.
Thiên Chúa đã yêu thương, chọn một dân bơ vơ, vất vưởng, rày đây mai đó làm dân riêng của mình: “Ta sẽ nhận các ngươi làm dân riêng của Ta, và đối với các ngươi, Ta sẽ là Thiên Chúa” (Xh 6, 7). Ngài đã sử dụng “cánh tay quyền lực của Ngài” để “quyến rũ” dân, không phải vì Ngài cần được người ta tôn thờ, nhưng bởi vì: “Thiên Chúa nhớ lại giao ước của Ngài với các tổ phụ Apraham, Isaac và Giacop” (Xh2, 24). Sau khi dùng Môsê đưa dân vượt qua biển Đỏ, thoát khỏi ách nô lệ của người Ai Cập, Thiên Chúa đã gặp gỡ riêng tư với ông để có những kế hoạch dành cho dân tộc Israel: “Người gọi ông Môsê lên đỉnh núi và ông đi lên” (Xh20, 20b).
Thế nhưng sự việc xảy ra là: “Dân thấy ông Môsê lâu quá không xuống núi, bèn tụ họp bên ông Aaron và nói với ông: “Xin ông đứng lên, làm cho chúng tôi một vị thần để dẫn đầu chúng tôi, vì chúng tôi không biết chuyện gì đã xảy ra cho cái ông Môsê này, là người đã đưa chúng tôi lên từ đất Ai Cập” (Xh 32, 1).
Thiên Chúa nhìn thấy cảnh tượng đó nên đã “méc” ông Môsê: “Hãy đi xuống, vì dân ngươi đã hư hỏng rồi. Chúng đã vội đi ra ngoài con đường Ta truyền cho chúng đi. Chúng đã đúc một con bê rồi sụp xuống lạy nó, tế nó và bảo: đây là thần của chúng ta” (x. Xh 32, 7-9). Chúng ta phải đặt mình trong hoàn cảnh của Thiên Chúa, để thấy được sự nỗi giận của Thiên Chúa là hoàn toàn đúng.
Một người mới cưới vợ, cô vợ này xấu xí lắm, nhưng anh chồng vẫn thương lạ thương lùng. Một thời gian sau, anh chồng có công việc phải đi vắng, cô vợ này ở nhà rước một người thanh niên khác về và bảo: đây là chồng tôi. Cô vợ này ôm ấp, tình tứ với người thanh niên “mà cô gọi là chồng” ngay trước mặt người chồng cũ của mình, thì thử hỏi người chồng đó có chịu nỗi không? Trời đất ơi, chắc tức, giận, và có cả sự kinh tởm không thể tưởng tượng được!
Thiên Chúa đã đòi tiêu diệt dân này, và sẽ thay thế bằng nhà của ông Môsê. Nhưng chúng ta để ý thái độ của ông Môsê, quả thật là một con người tuyệt vời. Nếu là chúng ta, hổng chừng chúng ta sẽ nói: “Được đó, Chúa giết sạch hết đi, chừa lại nhà của con thôi, con sẽ làm cho Chúa được vinh quang, rạng rỡ…”. Đằng này: “Ông lại cố làm cho nét mặt Đức Chúa dịu lại”. Chắc có lẽ ông cũng dùng những lời nói chơi, những lời xoa dịu cho Chúa mát bụng: “Thôi Chúa ơi, có gì đâu mà giận dữ vậy, Chúa phải vất vả lắm mới đưa được dân này ra khỏi đất Ai Cập. Với lại tụi nó mới quá mà. Bây giờ giả dụ tụi nó có làm gì sai, thì thây kệ tụi nó, Chúa chỉ cần nhớ đến mấy người lớn, ông Apraham, Isaac, Giacop, bạn thân của Ngài không hà, nể họ mà tha cho dân lần này đi nghe Chúa!”. Nhờ vậy mà: “Đức Chúa đã thương, không giáng phạt dân Người như Người đã đe”.
Qua câu chuyện này, chúng ta thấy được 3 điều:
Thứ nhất, không phải dân chúng bỏ Chúa, không tin Chúa nên sụp lạy con bò vàng, mà bởi vì họ muốn một vị Thiên Chúa có hình ảnh cụ thể, một vị Thiên Chúa như họ muốn. Hay nói cách khác, họ muốn một Thiên Chúa vừa với tầm nhìn của họ.
Thứ hai, hình ảnh ông Môsê, một khi đã nhận nhiệm vụ lãnh đạo dân, ông coi dân như chính bản thân mình, gắn bó với dân, không màng chi đến những lợi lộc cá nhân, coi tội lỗi của dân chính là tội lỗi của mình.
Điểm thứ ba quan trọng hơn, đó là tình yêu của Thiên Chúa dành cho những ai Ngài đã tuyển chọn. Sẽ có những lúc họ làm cho Thiên Chúa nỗi giận, nhưng giận thì giận mà thương thì vẫn thương. Ngài sửa dạy họ để mỗi ngày họ nên tốt hơn. Đó là mầu nhiệm tội lỗi và thánh thiện nơi con người và từng người chúng ta.
Đây là thánh vịnh nổi tiếng về lòng ăn năn sám hối. Nó là tâm tình của vua Đavit sau khi được Thiên Chúa cho biết những tội lỗi tày trời của ông. Ông đã phạm tội ngoại tình, hơn thế nữa, để ngoại tình ông đã bày mưu giết người, mà người đó lại là một vị tướng giỏi của ông. Ông không che giấu, không biện minh, mà chỉ biết nói: “Nguyện xót thương con theo lòng nhân hậu của Chúa, nguyện xóa tội con theo lượng cả đức từ bi Người”. Mầu nhiệm thánh thiện và tội lỗi được đan xen nơi con người vua Đavit.
Thánh Phaolô trong thư gửi cho ông Timôthêô đã nói rất rõ ràng: “Đức Giêsu Kitô đã đến thê gian để cứu những người tội lỗi”, ông cũng không ngần ngại xác nhận: “Mà kẻ đầu tiên là tôi’’ (1Tm1, 15). Ông không giấu diếm về quá khứ của mình: “Trước kia tôi là kẻ nói lộng ngôn, bắt đạo và ngạo ngược” (1Tm1, 13). Tuy nhiên: “Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta đã ban cho tôi đầy tràn ân sủng, cùng với đức tin và đức mến của một kẻ được kết hợp với Người” (1Tm1, 14). Có ai ngờ một người bắt đạo lại trở thành một người giảng đạo cách nhiệt thành. Đó là mầu nhiệm thánh thiện và tội lỗi nơi cuộc đời Phaolô, vị tông đồ dân ngoại.
3 dụ ngôn trong đoạn Tin mừng hôm nay làm nổi bật khuôn mặt thật của Thiên Chúa: Thiên Chúa chúng ta là Đấng giàu lòng thương xót.
Chúng ta nhớ bối cảnh của bài Tin Mừng hôm nay là Chúa Giêsu đang trên đường lên Giêrusalem, đổ máu mình ra để chuộc tội cho muôn người. Tuy nhiên, những người biệt phái và Pharisêu thì lại bực bội, khó chịu khi thấy Chúa Giêsu “đón tiếp phường tội lỗi”. Hơn thế nữa còn “đồng bàn với quân thu thuế và phường tội lỗi”, nghĩa là tỏ ra mình thuộc về phe của những người đó.
Để trả lời cho bức xúc của những người được cho là đạo đức, thánh thiện, Chúa Giêsu đã kể một loạt 3 dụ ngôn về lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
Cả 3 dụ ngôn đều làm nổi bật sáng kiến của Thiên Chúa. Chính Ngài đi bước trước để tìm kiếm những thứ đã hư mất, những gì là lạc loài và những con người tội lỗi. Một mục tử băng rừng vượt suối để đi tìm con chiên lạc. Một bà góa đốt đèn, quét nhà để tìm đồng tiền đánh mất. Một người cha chiều chiều ra ngõ ngóng đứa con trở về, và khi thấy nó về thì chạy lại ôm chầm lấy nó.
Tác giả Cousin đã nhận xét về 3 dụ ngôn này như sau: “Tình yêu ấy của Thiên Chúa dành cho tất cả những ai chẳng được yêu và cũng chẳng đáng yêu, gián tiếp lên án sự cứng cỏi và khắc nghiệt mà những con người “đàng hoàng” hơn kia đã đối xử với họ”.
Lòng Thương Xót của Thiên Chúa làm cho cuộc đời của chúng ta trở thành một mầu nhiệm. Mầu nhiệm không phải là sự thánh thiện, càng không thể là tội lỗi; mà mầu nhiệm ở chỗ “đan xen giữa thánh thiện và tội lỗi”.
Đâu là sự đan xen giữa thánh thiện và tội lỗi, khiến nó trở thành một mầu nhiệm? Thưa đó chính là lòng hoán cải phát xuất từ một tình yêu chân thành.
Nơi mỗi con người, ranh giới giữa sự thánh thiện và tội lỗi chính là sự trở về. Chính con tim sẽ đẩy lùi tội lỗi và hướng đến thánh thiện. Hay nói cách khác nhờ tình yêu mà chúng ta sẽ quyết tâm từ bỏ những gì bất xứng để hướng đến những gì là xứng hợp. Các nhà tu đức nói: “Không có thánh nhân nào mà không có quá khứ, cũng như không có tội nhân nào mà không có tương lai”. Với thân phận mỏng dòn của một con người, chắc chắn chúng ta sẽ bị ma quỷ cám dỗ để đi nghịch lại đường lối của Thiên Chúa. Nhưng cảm nghiệm tình yêu của Thiên Chúa sẽ giúp chúng ta biết vươn lên, vượt thoát khỏi những cạm bẫy của ma quỷ.
Tình trạng bi thảm của con người là không nhận ra được lỗi lầm của mình. Vì vậy mà đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Tội lỗi lớn nhất của con người là cho rằng mình không có tội”. Luôn luôn nghĩ rằng mình công chính, thánh thiện. Luôn luôn cho rằng mình không làm gì sai.
Người ta kể quỷ đến trách Chúa: “Tại sao con người làm biết bao nhiêu tội mà Chúa cũng tha thứ hết, còn tôi chỉ phạm một tội thôi mà Chúa không tha?” Chúa hỏi nó: “Thế có bao giờ ngươi xin Ta tha thứ cho ngươi chưa?” Nghe đến đó, quỷ ngoảnh mặt bỏ đi.
Ngạn ngữ Đức có câu: “Sa ngã vào tội chính là con người, nhưng ở lại trong tội chính là quỷ sứ”.
Chúng ta hãy thường xuyên nhìn lại những suy nghĩ, lời nói và việc làm của mình; nhìn lại những dự tính, những chương trình của chúng ta; nhất là nhìn lại đời sống đức tin của mỗi cá nhân để kịp thời chỉnh đốn những sai lỗi và sai xót.
Thiên Chúa biết được quá khứ tội lỗi của chúng ta, nhưng Ngài cũng biết cả tương lai của chúng ta nữa. Như người cha biết chắc sẽ có ngày con trai mình trở về nên chiều chiều ra ngõ ngóng trông. Trong việc chờ mong của người cha đã có ý định tha thứ. Tuy nhiên người con cả trong nhà lại không muốn cha mình tha thứ cho đứa em. Thái độ đó hoàn toàn đi ngược lại với lòng nhân từ của Thiên Chúa.
Chúng ta muốn Thiên Chúa, muốn người khác tha thứ cho mình, mà mình lại không muốn tha thứ cho người khác. Vì vậy hoán cải là chúng ta biết rộng lượng tha thứ cho người khác. Khi chúng ta tha thứ cho người khác là chúng ta đang mở đường để Thiên Chúa tha thứ cho mình: “Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Đừng bao giờ đặt dấu chấm hết cho một người, dù cho người đó có cố chấp, có đang trong tình trạng tội lỗi. Đó là con đường của Đức Giêsu Kitô. Ngài đồng bàn với tội nhân, tự xem mình thuộc về phe của họ.
Nói tóm lại, phụng vụ lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy được mầu nhiệm thánh thiện và tội lỗi luôn đan xen trong cuộc đời chúng ta. Dù chúng ta có tội lỗi, và tội tày trời: “không đáng là con cha nữa”, thì tình yêu của Thiên Chúa cũng tha thứ, mở ngõ, chờ đợi để được ôm ấp chúng ta vào lòng, miễn là chúng ta biết hoán cải để quay trở về. Đồng thời cũng phải biết rộng rãi tha thứ cho những lỗi lầm của người khác.
Đoạn văn mở đầu bài Tin Mừng hôm nay (CN 24 TN-C. Lc 15, 1-32) có nêu nhận định của đám người Pha-ri-sêu và các kinh sư về Đức Giêsu Ki-tô: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng”. Trước đó, cũng đám kinh sư thuộc nhóm Pha-ri-sêu thắc mắc như vậy và đã được Đức Giêsu trả lời thẳng: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn.” (Lc 5, 31-32). Biết quá rõ về đám người này chỉ chuyên đi “nhìn người” để săm soi, xét nét, rồi kết án nọ kia; nên lần này Đức Giêsu không trả lời thẳng vào thắc mắc của họ, mà kể cho họ nghe 3 dụ ngôn liền: “Con chiên bị mất”, “Đồng bạc bị đánh mất” và “Người cha nhân hậu”.
Dụ ngôn thứ nhất nói về con chiên lạc đàn. Đối với chiên cừu thì những con đi hai bên cạnh hoặc ở cuối đàn thường hay bị lạc bầy, lạc đàn. Lý do chiên bị lạc thường chỉ vì đồng cỏ phía trước mặt đã bị những con chiên đi trước ăn trụi, chỉ còn ở hai bên mới có cỏ, vì thế nên mải mê với những bãi cỏ non xanh, quên mất hoặc không nghe được tiếng chủ chăn, lạc xa bầy đàn. Chủ chăn với tấm lòng nhân hậu, thương đàn chiên như con cái, khi kiểm diện nếu thấy có chiên bị lạc, thì dù chỉ có một con trong tổng số cả trăm con, chắc chắn sẽ bằng mọi cách tìm lại con chiên lạc ấy. Và khi tìm được, sẽ vác nó trên vai đem về với sự vui mừng hân hoan khôn tả và mời mọi người đến “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó”. Dụ ngôn kết bằng Lời Đức Giêsu: “Vậy, tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.” (Lc 15, 4-7).
Đến dụ ngôn thứ hai nói về người phụ nữ có 10 đồng quan, đánh mất một đồng, liền thắp đèn, quét nhà, moi móc tìm, và khi tìm được thì mời hàng xóm láng giềng lại để “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất” (Lc 15, 8-10). Thực tế, có thể không có trường hợp tương tự như người phụ nữ trong dụ ngôn. Mất có một đồng quan, tiếc của, tìm cho kỳ được thì có thể; nhưng mời xóm giềng lại chung vui thì hơi quá! Tuy nhiên phải hiểu đây là một dụ ngôn, mà đã nói đến dụ ngôn (ví ngầm) là muốn nói đến cái ngụ ý ẩn trong câu chuyện kể hiện thực. Cụ thể hơn, đó là cách dùng con vật (chiên, cừu), hoặc vật chất (đồ dùng, tiền bạc) để nói về con người. Ca dao hay truyện cổ Việt Nam cũng không thiếu những ngụ ngôn dùng cách này. Đức Ki-tô đã kết lụân dụ ngôn này rất rõ ràng: “Cũng thế, tôi nói cho các ông hay: giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối.”
Cuối cùng, dụ ngôn thứ ba (Lc 15, 11-32) kể lại chuỵên một người có hai đứa con trai. Khi được chia gia tài thì người con thứ hai đã chứng tỏ mình là một “phá gia chi tử” (người con phá nhà) bằng cách “thu góp tất cả (phần tài sản được chia) rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình”. Khi đã nhẵn túi, anh ta mới “Bừng con mắt dậy, thấy mình tay không” (Nguyễn Gia Thiều), đến cám heo cũng không có mà ăn, liền hồi tâm và “Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha. Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chay ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. Bấy giờ người con nói rằng: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa.” (Lc 15, 20-21). Chính nhờ vậy mà anh được người cha vui mừng đón tiếp rất nồng hậu (“Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng!”).
Một đứa con hoang đàng tội lỗi biết ăn năn hối cải trở về với gia đình hoặc một con chiên lạc mất mà tìm lại được, mở tịêc mời bà con lối xóm đến chung vui thì còn có thể hiểu được, nhưng đến như mất một đồng quan mà tìm lại được cũng mời hàng xóm tới chung vui thì… kỳ quá! Thực tế có thể không có chuyện đó, nhưng đây là một dụ ngôn nên những hành động biểu hiện bên ngoài chỉ là một cách diễn tả ngụ ý bên trong. Và ẩn ý trong cả ba dụ ngôn đó chính là: “giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối” (Lc 15, 10). Con chiên hay đồng bạc chỉ là một hình ảnh ẩn dụ về một người lầm lạc, sa vòng tội lỗi (như người con hoang đàng). Và mục đích chính của dụ ngôn nhắm tới chính là biểu hiện tấm lòng bao dung độ lượng đầy tính nhân đạo của chủ đàn chiên, người chủ đồng tiền hay người cha nhân hậu của đứa con hoang đàng.
Như vậy là đã rõ: con chiên lạc, đồng tiền bị mất hay đứa con hoang đàng cũng chỉ là hình ảnh phản ánh trong muôn một bản tính con người trần thế. Kể từ khi Nguyên tổ loài người sa vòng tội lỗi, bị tội lỗi thống trị, đã kéo theo hệ luỵ cho con cháu đến muôn đời muôn kiếp, để tội lỗi trở nên như một bản tính cố hữu. Nói đến tội lỗi là nói đến bản chất con người. Là con người thì không ai là không có những thiếu sót, lỗi lầm, “nhân vô thập toàn” là điều hiển nhiên. Vấn đề đặt ra là bản thân có nhìn ra được những sai lầm tội lỗi hay không, và khi đã nhận ra những thiếu sót lầm lỗi, thì có biết ăn năn hối cải hay không.
Đối với chủ con chiên bị lạc, chủ đồng tiền bị mất hay người cha của đứa con hoang đàng, thì luôn luôn và mãi mãi vẫn rất vui mừng khi tìm lại được con chiên, tìm thấy đồng bạc hoặc đứa con biết ăn năn sám hối trở về. Người chủ, người cha ấy đối với những cảnh “đã lạc, đã mất nay lại tim thấy, đã chết nay lại sống” luôn tỏ ra bao dung độ lượng với tấm lòng nhân hậu vô bờ bến. Đó chỉ có thể là Thiên Chúa với Tình Yêu vô lương dành cho con người. Một minh hoạ sống động cho cảnh “người con đã chết nay lại sống”, là chính tác giả bài đọc 2 trong Thánh lễ CN hôm nay: Thánh Phao-lô với biến cố Đa-mat (Cv 9, 1-19).
Thánh Phao-lô trong Thư gửi tín hũu Ti-mô-thê đã bày tỏ rõ ràng sự vui mừng mà Đức Giêsu Thiên Chúa ban cho ngài. Thánh nhân chân thành cảm tạ Thiên Chúa, vì ngài đã được đón nhận cách lạ lùng lòng thương xót của Chúa. Nếu Thiên Chúa không thương xót thánh nhân, thì Phao-lô suốt đời chỉ là Sao-lô, một biệt phái rất thông thái nhưng đã tiêm nhiễm giáo lý sai lạc của Do-thái giáo, sống với não trạng và thái độ kỳ thị, chỉ có mình và “phe ta” là đáng được hưởng ân huệ của Thiên Chúa, còn những kẻ khác (thuộc nhóm “theo Ki-tô”) thì không xứng đáng và cần diệt đi. Sao-lô đã là một con chiên không những lạc bầy mà còn a dua theo sói dữ quay lại mưu toan hãm hại chủ chiên và cả đàn chiên (lùng bắt Ki-tô, sát hại những người theo Ki-tô).
Rõ ràng não trạng tôn giáo của biệt phái, của Sao-lô đã sai lầm về Chúa, sinh ra sai lỗi về đồng bào, kỳ thị người khác và hết coi họ là anh em. Lòng Thương xót của Chúa không vì thế mà bị suy giảm, trái lại càng tăng trưởng mãnh liệt, vì “ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5, 20). Và với biến cố Đa-mát, Đức Giêsu Thiên Chúa đã làm cho một kẻ đã chết là Sao-lô được sống lại thành Phao-lô Tông đồ kiệt xuất. Thánh nhân khẳng định chắc nịch: “Đây là lời đáng tin cậy và đáng mọi người đón nhận: Đức Ki-tô Giêsu đã đến thế gian, để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi. Sở dĩ tôi được thương xót, là vì Đức Giêsu Ki-tô muốn tỏ bày tất cả lòng đại lượng của Người nơi tôi là kẻ đầu tiên, mà đặt tôi làm gương cho những ai sẽ tin vào Người, để được sống muôn đời.” (1Tm 1, 15-16).
Người Ki-tô hữu hôm nay rất cần thiết nhìn lại mình xem có phải mình cũng cách nào đó giống Sao-lô hoặc những biệt phái, Pha-ri-sêu… với cái não trạng hẹp hòi ích kỷ, chỉ biết “săm soi người” mà không biết “xét tật mình”. Từ đó, sám hối để trở về cùng Người Cha Nhân Lành, cũng tức là thể hiện tinh thần hoà giải với Thiên Chúa và với anh em. Muốn đạt được hiệu quả tốt thì phải biết đổi mới tận gốc rễ con người của minh, mà muốn đổi mới thì phải biết nhìn lại mình để thấy được những sai lầm tội lỗi và quyết tâm thống hối. Hãy cầu nguỵên xin cho được cùng chết đi với Đức Ki-tô để được cùng sống lại với Người. Hãy cùng với Thánh Phao-lô dâng lời tôn vinh: “Kính dâng Vua muôn thuở là Thiên Chúa bất diệt, vô hình và duy nhất, kính dâng Người danh dự và vinh quang đến muôn thuở muôn đời. A-men.” (1Tm 1, 17).
Ôi! Lạy Chúa! “Cao vời khôn ví, tình yêu của Chúa cao vời khôn ví, tình yêu của Người, con lấy gì, Chúa ơi, đền đáp cho cân, Chúa ơi, con lấy gì đền đáp cho cân (là đền đáp cho cân). TK: Thương con thủa rất xa vời (là vời), từ khi chưa chưa có (í-a) mặt trời, (trăng) mặt trăng. Khi chưa tạo tác (í-a) gian trần, người luôn ấp ủ (í-a) một niềm, một niềm son sắt son.” (TCCĐ “Cao vời khôn ví”). Ôi! Lạy Chúa con! Lạy Thiên Chúa của con. Amen.
(Trích dẫn từ ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)
Tin Mừng không phải là một đồng bằng, nhưng có những đỉnh cao. Chúng ta đang đứng trước một trong những đỉnh cao nhất: Luca 15,11-32. Người ta nói rằng đây là dụ ngôn đứa con hoang đàng, nhưng Chúa Giêsu làm nổi bật ba nhân vật: một người cha và hai đứa con trai. Đối với người con thứ, những cuộc phiêu lưu của cậu ta có hề chi, có biết bao cách để phung phí món quà cuộc đời khi đi sống xa cha mình. Điều phải khám phá chính là Chúa Cha, nhờ Chúa Giêsu. Tất cả các nhà chú giải và tất cả các nhà linh hướng đều nói điều đó. Chúa Giêsu đã mặc khải Thiên Chúa chính trong trang Tin Mừng này.
“Khi cậu còn ở xa, cha cậu đã trông thấy cậu”. Người cha đang chờ đợi. Ông không tự hỏi người con thứ của mình nói gì hoặc làm gì, ông chỉ nghĩ: “Nếu con ta xuất hiện nhỉ!”. Ngay khi ông thấy cậu, ông ôm cậu vào lòng, hết sức thương hại và yêu mến. Ông chạy lại (không cần phải làm đến như thế đâu!), ông hôn cậu tới tấp (nói cha tha thứ cho con không tốt hơn sao!), ông không lắng nghe những lời xin lỗi, ông quá vội vàng khi làm bùng lên niềm vui và ngày lễ hội. Nhanh lên, hãy đưa áo quần lại đây! Nhanh lên, hãy làm thịt bê béo! Con ta đã mất nay lại tìm thấy.
Đây chính là mặc khải đáng ngạc nhiên mà Chúa Giêsu muốn cho chúng ta biết: chúng ta được yêu thương biết bao! Nhưng dại dột và thậm chí những tội ác của chúng ta là gì trước nhiệt tình này: “Cậu ấy lại được tìm thấy”. Nếu chúng ta dám tin điều ấy thì quan hệ tình yêu giữa chúng ta với Chúa Cha kỳ lạ biết mấy! Tại sao khó mà thấy được Thiên Chúa yêu thương đến thế? Có phải vì sự khó khăn này mà Chúa Giêsu giới thiệu người con cả với chúng ta nhiều lần đến thế? Ngài có thể đã nghĩ đến dụ ngôn này sau khi nghe những lời đả kích của những người công chính trước thái độ của Ngài: “Người này tiếp đón những kẻ tội lỗi, thậm chí ngồi cùng bàn ăn với họ!”. Đúng y như lời lẩm bẩm của người con cả! Thay vì vui mừng, anh ta phản đối, anh ta bị ảnh hưởng xấu. Thật là đứa em làm bực mình.
Than ôi, biết bao lần chúng ta cũng bị dồn vào thế bí, cũng đóng kín đối với tình yêu. Chúng ta phán xét thay vì mở rộng vòng tay. Nhưng tôi thấy rõ sự khó khăn: nếu chúng ta chấp nhận tất cả, thì đạo đức dùng để làm gì? Và Thiên Chúa là ai nếu Ngài chấp nhận tất cả?
Chúng ta đã được đào tạo ghê sợ tội lỗi, lên án sự vô trật tự, chúng ta không thể trở nên vừa lòng một cách đáng ngờ! Chính Thiên Chúa là Đấng chúng ta bảo vệ bằng cách bảo vệ luật lệ của Ngài và bằng cách tỏ ra cứng rắn!
Như thế thì làm thế nào mà mở rộng vòng tay được? Làm thế nào bắt chước người cha trong dụ ngôn theo cách hoàn toàn điên rồ của ông, đó là tiếp đón đứa con lưu manh trở về vì đói được?
Nhưng cậu ấy trở về! Hành động của người cha trước tiên là tình yêu thương, chứ không phải trước tiên là những câu hỏi về những thái độ công chính. Sau đó, chúng ta sẽ xem xét việc sống trong nề nếp như thế nào. Điều cấp bách nhất chính là yêu thương.
Chúng ta, những người công chính, muốn là những người công chính, chúng ta trước hết nghĩ đến việc xét đoán, lưu ý những điều cần thiết, giới hạn điều xấu xa, xem điều gì có thể chấp nhận được. Khi tất cả đều khá rõ ràng, được sửa chữa tốt, chúng ta mới có thể yêu thương.
Như thế là hỏng hết 90% rồi. Chúa Giêsu đã nhận thấy điều đó trong khi quan sát những cố gắng thực sự của những người công chính vào thời của Ngài, tức những người biệt phái và những luật sĩ: khởi đi từ sự công chính, họ không đi đến được tình yêu. Họ cố gắng yêu thương, nhưng họ vẫn ở trong những giới hạn chật hẹp và tất nhiên đặt Thiên Chúa trong cũng những giới hạn đó: “Dầu sao thì Ngài cũng không thể yêu thương những kẻ tội lỗi!”, họ nghĩ như thế. Chúng ta, bởi vì Chúa Giêsu đã nói điều ấy, nói chung chúng ta chấp nhận rằng Thiên Chúa yêu thương những kẻ tội lỗi, điều này thậm chí lại tốt cho chúng ta hoặc người này người nọ, nhưng không phải cho người kia đâu!, xem nào! Người kia, “những người kia”, Thiên Chúa không thể yêu thương họ được.
Có chứ! Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng không có ai bị loại bỏ, rằng Thiên Chúa đúng là người cha trong dụ ngôn của Ngài. Và chúng ta là những người con của Ngài khi chúng ta trước hết là đặt mình vào trong tình yêu thương.
Chúng ta không nên chấp nhận tất cả, chúng ta phải chiến đấu chống lại tội lỗi và chiến đấu vì sự công chính. Nhưng làm những điều đó trong tình yêu. Tất cả đều nằm ở đó. Chính trong khi yêu thương chúng ta Thiên Chúa đưa chúng ta ra khỏi tội lỗi, chính Thiên Chúa chiến đấu tội lỗi nơi chúng ta, không phải bằng cách đè bẹp hoặc loại bỏ chúng ta.
Xin Chúa giúp chúng ta quay lại để đạt được suy tư Tin Mừng trong sáng duy nhất này: luôn luôn đặt mình trong tình yêu. Khi tôi tự phán xét tôi, hãy nghĩ rằng Chúa Cha yêu thương tôi. Khi tôi phải phán xét những người khác, trước tiên hãy nghĩ đến việc yêu thương họ như Thiên Chúa yêu thương họ. Đó là vị Thiên Chúa thật được Chúa Giêsu mặc khải.
Trong ánh sáng tình yêu này tất cả đều có thể trở về lại sự sống: “Con trai tôi đã chết mà nay vẫn còn sống! Em con đã chết mà nay vẫn còn sống!”.
Trong bộ sưu tập về các vị ẩn tu, ta đọc được câu chuyện sau đây: Có hai tội nhân quyết tâm vào sa mạc để ăn chay đền tội. Nhiều tháng trời ròng rã, mỗi người giam mình trong một túp lều, ngày đêm đánh tội, ăn năn và cầu nguyện.Ngày ngày các tu sĩ của một cộng đoàn ẩn tu mang thức ăn, nước uống đến tận căn lều của mỗi người. Sau đúng một năm thử thách, các tu sĩ nhận thấy có sự khác biệt giữa hai người. Một người thì khỏe mạnh, vui tươi, một người thì lại ốm o buồn phiền. Cả hai người đến trình diện trước vị bề trên của cộng đoàn để chờ đợi sự phán quyết của ngài, theo đó họ có xứng đáng gia nhập cộng đoàn hay không. Khi được hỏi trong suốt một năm qua họ đã suy niệm về những gì. Con người ốm o buồn phiền lên tiếng đáp: Trong suốt một năm qua, ngày ngày tôi nhớ lại những tội lỗi tôi đã phạm. Từng giây từng phút tôi nghĩ đến hình phạt tôi sẽ gánh chịu, tôi sợ hãi đến mất ăn mất ngủ. Đến lượt mình, con người vui tươi khỏe mạnh trình bày như sau: Suốt một năm qua, từng giây từng phút tôi hằng nghĩ đến những ơn lành Thiên Chúa đã ban cho tôi, tôi luôn luôn nghĩ đến tình thương của Thiên Chúa.
Các tu sĩ trong cộng đoàn rất cảm kích về chứng từ của con người khỏe mạnh vui tươi. Vì lòng sám hối của anh đã biến thành lời ca chúc tụng, tri ân đối với tình yêu của Thiên Chúa. Nhưng con người ốm o sầu buồn kia cũng được đón nhận vào cộng đoàn.
Sám hối là khởi đầu của sự nên thánh. Không phải tất cả các vị thánh đều bắt buộc phải là những tội nhân. Nhưng tất cả đều bắt đầu có ý thức sâu sắc về tội lỗi và sự yếu hèn của mình. Càng ý thức về thân phận tội lỗi yếu hèn của mình con người càng cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa. Đó là thực trạng tâm hồn của tất cả các vị thánh trong giáo hội. Lời đầu tiên Chúa Giêsu dùng để khai mạc sứ mệnh của Ngài chính là: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Chúa Giêsu đã nối kết lòng sám hối với Tin Mừng. Tin Mừng là gì nếu không phải là tình yêu của Thiên Chúa thể hiện qua con người của Đức Giêsu Kitô? Sám hối không chỉ là ý thức và hồi tưởng về tội lỗi của mình. Sám hối đích thực không dừng lại ở đau xót, buồn phiền, sợ hãi, mà phải là ngõ dẫn đến Tin Mừng, nghĩa là hoan lạc, vui mừng.
Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã mạc khải qua cuộc sống và nhất là cái chết của Ngài là một người cha yêu thương và tha thứ, một người cha muốn được con cái yêu mến hơn là sợ hãi. Do đó, đạo mà Chúa Giêsu đã thiết lập không phải là đạo của buồn phiền, của khổ đau mà là đạo của Tin Mừng, của Tình Yêu, của hân hoan, của hy vọng. Đành rằng thập giá là biểu tượng của Kitô giáo. Nhưng người Kitô hữu không dừng lại ở chết chóc, buồn phiền, khổ đau. Họ luôn được mời gọi nhìn ra ánh sáng, hy vọng, tin yêu, sự sống bên kia thập giá.
Tình yêu của con người (tình mẫu tữ, tình phụ tử, tình phu thê, tình bạn, tình láng giềng,…) chỉ là tình yêu phàm tục, thế mà chúng ta còn khó lý giải xác đáng, huống chi là tình yêu của Thiên Chúa, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
“Tình yêu thương con người là tài sản quý giá nhất” (tục ngữ Ả Rập). Tình yêu chân chính không xói mòn theo thời gian và cũng chẳng biến đổi theo hoàn cảnh. Tình yêu luôn huyền diệu, tính túy và thuần khiết, không biến động theo ý muốn của chúng ta. Có thể ví tình yêu như chiếc đồng hồ cát có hai ngăn, ngăn lý trí và ngăn trái tim, ngăn này đầy thì ngăn kia trống.
Mẹ Thánh Teresa Calcutta (1910-1997) nói về tình yêu với những lời giản dị mà sâu sắc: “Bạn có thể làm gì để xây dựng hòa bình thế giới? Hãy về nhà và yêu thương gia đình của mình. Chúng ta hãy luôn gặp nhau với nụ cười, bởi nụ cười là điểm bắt đầu của yêu thương. Nếu bạn phán xét người khác, bạn chẳng còn thời gian để yêu thương họ nữa. Những lời tử tế có thể ngắn và dễ nói, nhưng tiếng vọng của chúng thực sự vĩnh cửu. Điều chúng ta cần là yêu mà không mệt mỏi. Việc tốt là những mắt xích tạo nên sợi xích tình yêu”.
Giáo hội Công giáo đã long trọng tuyên thánh cho Mẹ Teresa ngày 4-9-2016. Mẹ là một phụ nữ có vóc dáng nhỏ nhắn nhưng lại có trái tim vĩ đại khả dĩ chứa đựng cả thế giới. Ngay khi còn sinh thời, Mẹ đã nổi tiếng khắp thế giới về lòng nhân hậu, đến nỗi Australia tỏ lòng kính phục Mẹ nên đã làm tem in hình Mẹ Teresa, sản xuất tháng 10-2015, ghi nhớ dịp Mẹ được chính phủ tặng Huân Chương năm 1982. Mẹ Teresa đã đến Australia 12 lần, Việt Nam cũng được diễm phúc đón Mẹ 3 lần (tháng 9/1991, tháng 11/1993, tháng 4/1994). Mẹ đã đến nhà thờ Thanh Đa – TGP Saigon, nhà thờ Thái Hà – Bắc Việt, và một số nơi khác).
Tình yêu thương là một huyền nhiệm – huyền bí và mầu nhiệm, nghĩa là chúng ta không tài nào hiểu thấu với trí tuệ phàm nhân. Tuy không hiểu thấu và không thể có một định nghĩa trọn vẹn, nhưng ai cũng khả dĩ thể hiện và cảm nhận. Thật là kỳ diệu biết bao!
Từ ngàn xưa, Thiên Chúa đã chứng tỏ Lòng Thương Xót với dân Ít-ra-en, nhưng họ luôn cứng đầu cứng cổ. Thiên Chúa phải nói thẳng với ông Môsê: “Hãy đi xuống, vì dân ngươi đã hư hỏng rồi, dân mà ngươi đã đưa lên từ đất Ai Cập. Chúng đã vội đi ra ngoài con đường Ta truyền cho chúng đi. Chúng đã đúc một con bê, rồi sụp xuống lạy nó, tế nó và nói: ‘Hỡi Ít-ra-en, đây là thần của ngươi đã đưa ngươi lên từ đất Ai Cập’. Đức Chúa lại phán với ông Môsê: “Ta đã thấy dân này rồi, đó là một dân cứng đầu cứng cổ. Bây giờ cứ để mặc Ta, cứ để cơn thịnh nộ của Ta bừng lên phạt chúng, và Ta sẽ tiêu diệt chúng. Nhưng Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn” (Xh 32:7-11).
Thương mới cho roi vọt, thương mới sửa trị, thương mới nói tới, nhưng người ta thường cảm thấy khó chịu. Đó là cứu vớt, đó là thương xót. Ngược lại, không thương thì mặc kệ, không cần quan tâm, muốn ra sao thì sao, nhưng người ta không biết rằng như vậy mới đáng sợ. Đó là lòng thương xót bị làm ngơ, không được đáp lại.
Tuy nhiên, ông Môsê thân thưa: “Xin Ngài nhớ đến các tôi tớ Ngài là Áp-ra-ham, I-xa-ác và Ít-ra-en; Ngài đã lấy chính danh Ngài mà thề với các vị ấy rằng: Ta sẽ làm cho dòng dõi các ngươi đông đúc như sao trên trời, và sẽ ban cho dòng dõi các ngươi tất cả miền đất ấy, là miền đất Ta đã hứa; chúng sẽ được thừa hưởng miền đất ấy đến muôn đời” (Xh 32:13). Quả thật, “Đức Chúa đã thương, không giáng phạt dân Người như Người đã đe” (Xh 32:14). Điều này chứng tỏ rằng lời cầu nguyện của người khác là điều cần thiết đối với chúng ta, và việc cầu nguyện cho người khác rất hiệu quả.
Trước khi được Trời cứu thì phải tự cứu mình, trước khi được người khác cầu thay nguyện giúp thì phải biết chân thành cầu nguyện: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy” (Tv 51:3-4).
Ai cũng là tội nhân, không ai là người công chính trước mặt Thiên Chúa. Vì thế, cầu nguyện liên lỉ, sám hối không ngừng, ăn năn không ngớt luôn là điều cấp bách và cần phải kiên trì: “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ. Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh, đừng cất khỏi lòng con thần khí thánh của Ngài” (Tv 51:12-13).
Cầu nguyện liên lỉ là cầu nguyện mọi nơi và mọi lúc, ngay khi mở mắt thức dậy và khi nhắm mắt nghỉ ngơi: “Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con, cho con cất tiếng ngợi khen Ngài” (Tv 51:17). Có nhiều cách ca tụng Thiên Chúa, không nhất thiết phải nói ra bằng lời. Càng tội lỗi càng phải tín thác vào Thiên Chúa, vì tội nhân là “đối tượng” số một của Lòng Chúa Thương Xót. Vả lại, “ở đâu tội lỗi đã tràn lan thì ở đó ân sủng càng chan chứa gấp bội” (Rm 5:20). Vấn đề quan trọng là ĐỪNG NẢN CHÍ hoặc TUYỆT VỌNG. Hãy tin tưởng vào sự thật minh nhiên này: “Lạy Thiên Chúa, tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát, một tấm lòng tan nát giày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê” (Tv 51:19).
Mỗi người có một ơn gọi riêng, tất cả là để vinh danh Thiên Chúa mà thôi. Trong thư gởi cho ông Timôthê (1 Tm 1:12-17), ông Phaolô cho biết cách suy nghĩ của ông về ơn gọi của mình, đồng thời cũng là lời tự thú của ông:
“Tôi tạ ơn Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta, Đấng đã ban sức mạnh cho tôi, vì Người đã tín nhiệm mà gọi tôi đến phục vụ Người. Trước kia, tôi là kẻ nói lộng ngôn, bắt đạo và ngạo ngược, nhưng tôi đã được Người thương xót, vì tôi đã hành động một cách vô ý thức, trong lúc chưa có lòng tin. Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta, đã ban cho tôi đầy tràn ân sủng, cùng với đức tin và đức mến của một kẻ được kết hợp với Người. Đây là lời đáng tin cậy và đáng mọi người đón nhận: Đức Kitô Giêsu đã đến thế gian để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi. Sở dĩ tôi được thương xót vì Đức Giêsu Kitô muốn tỏ bày tất cả lòng đại lượng của Người nơi tôi là kẻ đầu tiên, mà đặt tôi làm gương cho những ai sẽ tin vào Người để được sống muôn đời”.
Rất chân thành, và cũng rất can đảm. Chúng ta cũng phải can đảm thú nhận, đừng tránh né, đừng bao che, đừng giấu giếm, đừng biện hộ. Càng chân thành thì càng được giải án tuyên công. Đó là huyền nhiệm của tình yêu thương, là huyền nhiệm của Lòng Chúa Thương Xót, hãy giữ vững niềm tín thác vào Thiên Chúa! Tại sao? Bởi vì Ngài tuyệt đối từ bi và nhân hậu: “Cây lau bị giập, Người không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi” (Mt 12:20). Kinh Thánh cho thấy Lòng Thương Xót của Thiên Chúa vô cùng huyền nhiệm!
Trình thuật Lc 15:1-32 trình bày ba dụ ngôn về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa: “Con Chiên Bị Mất” (tương đương Mt 18:12-14), “Đồng Bạc Bị Đánh Mất” và “Người Cha Nhân Hậu”.
Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Nhóm Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng”. Đúng là lắm chuyện!
Đức Giêsu đặt vấn đề với họ: “Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất?”. Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai, về nhà rồi mời thân hữu đến chung vui vì ông đã tìm được con chiên thất lạc. Ngài nói với họ: “Tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn”.
Ngài nói với họ dụ ngôn khác về một phụ nữ có mười đồng quan và đánh mất một đồng. Bà thắp đèn, quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được. Tìm được rồi, bà mời thân hữu cùng chia vui vì bà tìm được đồng quan đã mất. Rồi Ngài xác định rằng, giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối.
Hai con số đối lập: một đối với chín hoặc chín mươi chín – nhỏ và lớn, ít và nhiều. Tuy nhiên, số ít lại quan trọng hơn số nhiều. Cuối cùng là dụ ngôn đặc biệt: Người Cha Nhân Hậu và Đứa Con Hoang Đàng (Lc 15:11-32), một dụ ngôn thâm thúy và rất quen thuộc. Đứa con hoang đàng là ai? Chắc chắn không ai xa lạ, đó là chính mỗi chúng ta.
Chính Con Thiên Chúa đã chuộc chúng ta về bằng giá máu của Ngài (x. Kh 5:9).
Chúng ta vừa là đứa con thứ, vừa là đứa con trưởng. Là đứa con thứ thì dễ hiểu, vì ai trong chúng ta cũng là tội nhân, là kẻ hoang đàng. Nhưng có lẽ chúng ta ít thấy mình là đứa con trưởng. Thật ra đứa con trưởng cũng chẳng tốt lành gì: so đo với người cha, ghen tỵ với đứa em, và kiêu căng – tự nhận mình là đứa con ngoan. Một lúc phạm cả ba tội, thế mà vẫn mạo nhận là công chính. Quá ảo tưởng!
Mẹ Thánh Teresa (1910-1997) đặt vấn đề về cách yêu thương hiệu quả: “Nếu bạn phán xét người khác, bạn chẳng còn thời gian để yêu thương họ nữa”. Người con trưởng đã phán xét người khác nên khó thể hiện lòng yêu thương với chính đứa em ruột của mình, thậm chí kể cả với người cha.
Yêu thương người yêu thương mình, hợp ý mình, cùng phe với mình thì quá dễ dàng, nhưng yêu thương người đối lập với mình thì thật khó biết bao! Nhưng phải yêu thương tới mức đó mới đúng là Kitô hữu. Người cha nhân hậu giải thích với người con trưởng: “Chúng ta PHẢI ăn mừng, PHẢI vui vẻ, vì em con đây đã CHẾT mà nay lại SỐNG, đã MẤT mà nay lại TÌM THẤY”. Ước mong mỗi chúng ta có thể “sáng mắt” khi được giải thích như vậy.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết yêu thương vô điều kiện, không mệt mỏi. Xin giúp con gặp được Ngài khi con giao tiếp với tha nhân, và xin cho mọi người cũng gặp được Ngài khi họ giao tiếp với con, mọi nơi và mọi lúc. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Một văn sĩ nọ đã kể lại câu chuyện ngắn về cậu bé David trong câu chuyện có tựa đề là: “Người Con Của Ai Đó” như sau:
David đã bỏ nhà ra đi, nó viết thư về cho mẹ như sau: Thưa Mẹ, vài ngày nữa con sẽ đi ngang qua nhà, con sợ cha lắm, nếu cha tha thứ cho con thì mẹ hãy xin cha cột một dây vải trắng nơi cây xoài trước nhà, nhìn thấy dấu hiệu này con biết là cha đã tha thứ và con sẽ về lại.
Vài ngày sau, David lấy vé xe lửa về quê. Đường xe lửa đi ngang qua trước nhà, cậu nghĩ, nếu cậu thấy được sợi dây vải trắng cột trên cây xoài thì cậu sẽ xuống trạm xe kế bên và đi về nhà, nếu không thì sẽ đi luôn sang nơi khác.
Cậu David rất hồi hộp khi xe gần đến nhà, sợ mình có thể nhìn lầm hay không kịp nhìn, cậu nhờ một người bên cạnh cùng nhìn phụ. Xe chạy ngay qua địa điểm, không những là cậu mà cả người bạn cũng nhìn thấy, người bạn hỏi cậu:
– Tại sao cây xoài nhà đó lại đầy những tấm vải trắng treo trên khắp các cành cây như vậy?
David mỉm cười không trả lời, cậu chỉ giữ lấy ý nghĩa của dấu hiệu đó cho riêng mình mà thôi và hân hoan xuống trạm xe kế tiếp.
Câu chuyện vui trên giúp chúng ta hiểu thêm sứ điệp Phúc âm mà Chúa gởi đến chúng ta hôm nay. Như cậu David, chúng ta mang nặng ý thức về những lỗi lầm của mình và nghi ngờ tình thương tha thứ của Thiên Chúa. David cần được củng cố vì tình thương của cha sẵn sàng tha thứ. Chúng ta cũng vậy, Thiên Chúa đã thực hiện nhiều dấu chỉ trong cuộc đời để chỉ cho chúng ta thấy tình thương của Ngài, và dấu chỉ quan trọng nhất hằng ngày chúng ta thấy, đó là thập giá Chúa Giêsu Kitô, dấu chỉ đó cho chúng ta thấy tình thương tha thứ của Thiên Chúa đối với mỗi người chúng ta.
Bài Phúc âm hôm nay ghi lại ba dụ ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa: dụ ngôn con chiên bị mất; dụ ngôn đồng bạc bị đánh mất, nhất là dụ ngôn người cha nhân hậu.
Qua bài Phúc âm, Giáo Hội nhắc lại cho chúng ta dụ ngôn về tình thương của Thiên Chúa Cha đối với con người tội lỗi. Thái độ của người chăn chiên đi tìm con chiên lạc, của người đàn bà bị mất một đồng tiền và của người cha có đứa con bỏ nhà đi hoang, thái độ yêu thương tha thứ đó vượt quá mức độ bình thường con người có thể tưởng tượng được và phản chiếu thái độ của Thiên Chúa đối với con người.
Theo lệ thường, nếu chúng ta có một trăm con chiên mà lỡ bị mất một con, chúng ta có nhất quyết đi tìm con chiên lạc cho đến khi gặp được mới thôi hay không? Chắc chắn là không, vì số chín mươi chín con còn lại không đáng giá hơn một con bị lạc mất hay sao? Quan niệm của con người chúng ta thường hay căn cứ vào số lượng, và có thể chúng ta cho rằng hành động của người chăn chiên là một hành động khác thường, nếu không muốn nói là điên khùng theo mức độ con người. Nhưng đối với Thiên Chúa thì không điên khùng, vì Ngài không đặt tương quan của Ngài trên căn bản con số, chất lượng nhiều hay ít, nhiều người hay ít người, nhưng trên căn bản tương quan giữa Ngài với từng cá nhân. Mỗi con chiên, mỗi người đều có giá trị duy nhất đối với Ngài, và do đó nếu bị lạc mất thì nhất quyết phải tìm cho được mới thôi. Rồi hành động của người đàn bà cũng thế, theo thường tình thì mất một đồng cũng không sao, vì còn cả chín đồng kia mà. Nhưng để diễn tả mức độ của Thiên Chúa thì một đồng bị mất kia là hết sức quan trọng, phải tìm cho được mới thôi.
Người cha của đứa con đi hoang, theo thường tình thì bỏ mặc kệ nó, nhưng để diễn tả thái độ của Thiên Chúa đối với con người thì người cha kia hằng ngày đứng trông con mình trở về, và đã nhìn thấy con mình trở về trước khi nó nhìn thấy ông. Người cha tha thứ cho đứa con ngay cả trước khi nó mở miệng xin tha, rồi làm tiệc ăn mừng.
Thiên Chúa muốn cứu rỗi mọi người và mỗi người, Ngài muốn tận dụng mọi phương thế có thể để ban ơn cứu rỗi cho con người. Vì Ngài yêu thương con người, yêu thương từng người một cách vô cùng, nhưng con người có chấp nhận ân sủng và tình thương của Ngài hay không?
Trong bài dụ ngôn về người cha của đứa con hoang đàng, chúng ta còn quan sát thái độ giữa hai anh em ganh tị với nhau. Người anh cả ở nhà với cha, thay vì thông cảm và mừng với em mình trở về thì anh lại tỏ ra ganh tị.
Mặt khác, như trong Cựu ước, chúng ta thấy Môisen cầu nguyện cùng Chúa, xin Ngài tha thứ cho dân đã phạm tội đến Ngài, Môisen đã không xin Chúa hủy diệt dân mình, nhưng hãy tha thứ cho dân mình. Cũng thế, chúng ta đừng bắt chước thái độ của người anh cả trong dụ ngôn, đừng ganh tị với anh chị em được ơn Chúa tha thứ cho, nhưng hãy bắt chước thái độ của Môisen cầu nguyện cùng Chúa, xin Ngài tha thứ tội lỗi cho anh chị em và cho cả chính mình nữa.
Trước nhan Thiên Chúa, tất cả mọi người chúng ta đều là những kẻ tội lỗi, đều cần đến lời cầu nguyện của nhau để trở lại cùng Chúa và trung thành với đức tin. Nguyện xin Chúa thương tha thứ các tội lỗi và nâng đỡ thành tâm thiện chí mỗi người chúng ta, giúp mỗi người chúng ta biết trở về cùng Chúa, sống xứng đáng là con cái Cha trên trời.
Đề cập đến Tin Mừng nghiêm chỉnh một chút, chúng ta sẽ nhận thấy rõ điều này: những kẻ cầm quyền đương thời trong đạo Do thái, những người Pharisêu, những người tự cho mình là công chính… đã khinh thường và tẩy chay Chúa Giêsu. Trái lại, những người tội lỗi, những kẻ thu thuế… đã trân trọng và nhận biết Ngài. Thử hỏi: Nếu Chúa Giêsu trở lại giữa chúng ta hôm nay, chúng ta sẽ thuộc hạng người nào? Thuộc hạng người “công chính” không cần đến Ngài hay thuộc hạng người tội lỗi, đối tượng Ngài quan tâm khi đến thế gian? Bài Tin Mừng nêu lên vấn đề ấy. Chúng ta thấy Chúa Giêsu yêu thích “những gì đã lạc mất” một cách hết sức ngỡ ngàng. Ngài đến “tìm kiếm và cứu vớt những gì đã lạc mất”. Những lời nói này giúp chúng ta đi sâu vào tâm khảm của Chúa. Những lời nói đó đã làm rung lên một cung nhịp chính yếu của Kitô giáo: cung nhịp của tình thương.
Bài Tin Mừng thánh Luca kể lại một loạt ba dụ ngôn cùng diễn tả về một chủ đề duy nhất. Dụ ngôn thứ nhất nói về sự lo âu tìm kiếm và mừng rỡ của người chăn chiên khi tìm lại được con chiên lạc trong số 100 con chiên. Dụ ngôn thứ hai tương tự như vậy, nói về sự cố công tìm kiếm và vui mừng của người đàn bà khi tìm lại được đồng bạc rơi trong số 10 đồng. Dụ ngôn thứ ba nói về tình phụ tử hay thường gọi là dụ ngôn đứa con hoang đàng. Cả ba dụ ngôn đều nói lên tình thương tha thứ của Thiên Chúa. Cả ba đều cho biết Thiên Chúa vui mừng biết bao khi một tội nhân ăn năn hối cải. Dụ ngôn con chiên lạc cho thấy: khi người chăn chiên tìm thấy con chiên lạc, đã vác nó lên vai, vui sướng trở về nhà, kêu gọi láng giềng lại và nói với họ: “Các bạn hãy vui mừng với tôi vì tôi đã tìm được một con chiên đã lạc mất”. Rồi Chúa kết luận: “Tôi bảo thật các ông: trên trời sẽ vui mừng vì người tội lỗi hối cải hơn 99 người công chính không cần hối cải”. Cùng một cung giọng, trong dụ ngôn đồng tiền mất, chúng ta thấy những câu kết còn rõ ràng và vui vẻ tưng bừng hơn: “Tôi nói thật với các ông: các thiên thần của Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn thống hối”. Rồi trong dụ ngôn đứa con hoang đàng, cung giọng càng cảm kích hơn nữa về tình phụ tử của Chúa đối với người tội lỗi thống hối ăn năn trở về với Chúa: khi đứa con còn ở xa, người cha đã nhận ra nó, và ông thổn thức trong lòng, chạy lại ôm cổ con mà hôn.
Qua ba dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta hai điều: Thứ nhất, sứ mạng tình thương của Ngài. Thứ hai, bổn phận và thái độ của chúng ta. Trước hết, chúng ta đều biết: Sứ mạng của Chúa Giêsu đến trần gian để cứu vớt những kẻ tội lỗi. Ngài đến để kêu gọi những người tội lỗi thống hối ăn năn, và để tìm kiếm, cứu vớt những gì đã lạc mất. Thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi cho Timôthêô cũng khẳng định: “Chúa Kitô đến thế gian để cứu vớt những kẻ tội lỗi”. Đó là động lực cần có để kéo Ngài xuống thế gian. Về điểm này, giáo huấn của mạc khải thật đồng nhất. Không có một đoạn văn nào, không có một chỗ nào quả quyết rằng: không có kẻ tội lỗi, Ngài cũng vẫn xuống thế gian.
Quả thực, Chúa Giêsu đã đến vì tội nhân. Đó chính là ánh sáng trong đó mạc khải bày tỏ Chúa Giêsu cho chúng ta và chúng ta phải luôn luôn ngắm nhìn Ngài trong ánh sáng này. Nói khác đi, vì yêu thương loài người tội lỗi mà Chúa Giêsu đã bỏ trời xuống thế gian. Chính tên “Giêsu” của Ngài, nghĩa là “Cứu Thế” cũng đã gắn liền với kẻ có tội. Cứu ai? Người lành đâu cần cứu, mà cứu là phải cứu người có tội. Do đó, đối với chúng ta, tình thương đã hiển hiện như một nét nổi bật của Chúa. Tình thương của Chúa không phải là một tình cảm mờ nhạt, mong manh mà là cả một tâm hồn say mê nóng bỏng. Lòng say mê đó là tình yêu đã đến cảm mến cảnh cùng khổ của chúng ta và để nâng cảnh cùng khổ đó lên. Tình thương của một Thiên Chúa làm người khôn lường và da diết. Tình thương đó không phải là một đức tính phụ thuộc nơi bản thân Người, nhưng là một nét chính yếu, đặc biệt: chính vì đó mà Ngài đã đến. Tội lỗi của chúng ta nếu được đưa vào ngọn lửa nóng bỏng yêu thương này sẽ bị thiêu hủy ngay.
Vậy nếu chúng ta có xa cách Ngài thì không phải vì chúng ta khốn cùng mà chính vì chúng ta đã không dâng lên cho Ngài sự khốn cùng đó. Chúng ta đã chẳng dâng lên cho Ngài sự khốn cùng hoặc vì chúng ta còn quá ham cái cái cảnh cùng khốn, hoặc vì chúng ta nghĩ rằng tình thương xót của Ngài quá nhỏ bé so với tội lỗi tầy trời của chúng ta. Nhưng nếu chúng ta thực sự dâng lên cho Ngài sự khốn cùng đó, thì Ngài đã vồ lấy con người tội lỗi chúng ta mau lẹ hơn cả chim phượng hoàng vồ lấy con mồi. Khi ấy, dầu tội lỗi của chúng ta có thắm đỏ bao nhiêu, Ngài cũng sẽ biến nó trắng tinh như tuyết.
Chúng ta nghĩ sao đây? Chúng ta sẽ được liệt vào hạng người Pharisêu, kinh sư hay vào hạng những người tội lỗi, những người thu thuế? Chúng ta tự nhận mình là người công chính hay người tội lỗi? Chắc chắn không ai dám cho mình là trong sạch, vô tội trước mặt Chúa, bởi vì từ ngày có trí khôn cho đến nay, biết bao nhiêu lần chúng ta đã không giữ trọn 10 điều răn của Chúa. Bao nhiêu lần chúng ta đã chịu thua cám dỗ và sa ngã. Bao nhiêu lần lời ăn tiếng nói của chúng ta là những lời hành tỏi, xét đoán, gièm pha, kết án hay là những lời hư từ vô ích. Bao nhiêu lần chúng ta đã ghen ghét, oán thù, tranh chấp… Có lẽ chúng ta không chịu bới đống rác tội lỗi của chúng ta ra thôi, chứ thiếu gì những lý do để chúng ta phải ăn năn thống hối. Chúng ta phải thành thật nhận mình là tội nhân đáng hình phạt như người trộm lành; chúng ta là đứa con hoang đàng trở về, là Mađalêna thống hối, là Phaolô bị quật ngã, là Âu Tinh cần đổi mới. Kinh Kính mừng, Thương xót, An năn tội, Chiên Thiên Chúa… dạy cho chúng ta biết chúng ta chỉ là tội nhân, là kẻ bại trận, chỉ trông hòng vào lòng Chúa thương xót mà thôi.
Mong sao tự thâm tâm chúng ta luôn vọng lên lời tự thú của người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện: “Lạy Chúa, con là kẻ tội lỗi”. Và rồi chúng ta cũng hãy trào ra những giọt lệ sung sướng như Tin Mừng đã kể. Không cần phải có những giọt lệ trào ra từ khóe mắt, nhưng là những dòng lệ âm thầm chảy tự trong lòng. Những bước chân trở về và hoán cải thường gọi là niềm ân hận, âm thầm đau đớn về những lầm lỡ đã qua, đó là con tim tan vỡ, hay nói giản dị hơn, là lòng ăn năn hối cải. Tấm lòng ăn năn đó đôi khi được bộc lộ bằng những dòng lệ chảy ra từ khóe mắt, đó là những dòng lệ thấy được từ bên ngoài, nhưng quí hóa hơn, âm thầm sâu kín hơn vẫn là những dòng lệ đau đớn của con tim. Ước mong đó là những dòng lệ của chúng ta. Lạy Chúa, xin đừng chê bỏ con, xin nhận lấy tấm lòng con: tấm lòng tan nát khiêm cung.
Có một bài hát chúng ta hay hát trong lễ cầu hồn mà tôi rất thích: “Chúa là Đấng Từ Bi và Nhân Hậu, Người đại lượng và chan chứa tình thương”. Vâng, tình thương nhân hậu ấy của Thiên Chúa từ ngàn xưa đến nay vẫn luôn tuôn đổ trên muôn loài Chúa tác thành: trên muôn vật, muôn dân, muôn người, và đặc biệt trong Phúc âm hôm nay, tình thương ấy còn được tuôn đổ trên tội nhân khiến “Người không xử với họ như họ đáng tội, và không trả cho họ theo lỗi của họ”.
Vâng, trong Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay, chúng ta sẽ được chiêm ngưỡng cách rõ nét và cụ thể lòng nhân hậu ấy của Thiên Chúa, để rồi từ đó ta được mời gọi sống noi gương Ngài, cư xử nhân ái với anh chị em xung quanh.
Trước hết, điều đáng chú ý trong các bài đọc Lời Chúa hôm nay là: có một sự tiến triển trong việc mạc khải khuôn mặt nhân hậu của Thiên Chúa. Nói cách khác, từ bài đọc I đến bài Phúc âm, lòng nhân hậu của Thiên Chúa được khắc họa ngày càng rõ nét hơn.
Thật vậy, nếu như ở bài đọc I, tác giả sách Xuất Hành diễn tả cơn thịnh nộ của Thiên Chúa trước tội “thờ bò vàng” của dân Israel, và phải nhờ lời cầu khẩn của Môsê, cơn thịnh nộ ấy mới nguôi dần, cho thấy khuôn mặt nhân hậu của Thiên Chúa mới chỉ được phác họa cách mờ nhạt, thì đến bài đọc II, thánh Phaolô đã diễn tả khuôn mặt ấy ở một chiều kích khác, cụ thể hơn, gần gũi hơn: Chúa nhân hậu không chỉ cách chung chung với một dân, một nhóm người, mà Ngài còn nhân hậu với từng người một, như kinh nghiệm chính thánh Phaolô đã thuật lại khi xác tín: “Đức Giêsu đã đến trần gian để cứu chuộc những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi”. Với câu nói này, khuôn mặt nhân hậu của Thiên Chúa đã được cụ thể hóa nơi Đức Giêsu, Đấng được Chúa Cha sai đến để cứu độ con người.
Tuy nhiên, hình ảnh Thiên Chúa nhân hậu chỉ thực sự được xuất hiện cách rõ nét trong bài Phúc âm qua chính hình ảnh của Chúa Giêsu và ba dụ ngôn nổi tiếng về lòng nhân hậu của Thiên Chúa mà chỉ Phúc âm thánh Luca, một Phúc âm được mệnh danh là “Phúc âm của lòng nhân hậu Chúa” mới ghi lại, đó là các dụ ngôn: “Con chiên lạc”, “đồng bạc mất” và “người cha nhân hậu”.
Đi vào bối cảnh của ba dụ ngôn ta sẽ thấy được chủ ý của Chúa Giêsu khi đưa ra ba dụ ngôn này. Người Biệt phái thấy Đức Giêsu đón tiếp người tội lỗi thì khó chịu và phiền trách Chúa: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng”. Trước thái độ ấy, Chúa Giêsu đã cho họ một bài học. Với giáo huấn của Chúa Giêsu, Thiên Chúa không còn là một Thiên Chúa xa xôi, hay giận dữ như trong Cựu ước quan niệm nữa, nhưng là một Thiên Chúa rất gần gũi và giàu lòng nhân hậu đối với những kẻ lỗi lầm.
Lòng nhân hậu ấy của Thiên Chúa được diễn tả qua hai hành động cụ thể: Đi bước trước đến với tội nhân và hoàn toàn tha thứ mọi lỗi lầm cho tội nhân.
Đi bước trước đến với người tội lỗi: các dụ ngôn hôm nay đều diễn tả điều này. Hình ảnh người chăn chiên không chờ phải nghe tiếng con chiên lạc kêu cứu mới đi tìm, mà ngay khi phát hiện nó đi lạc, ông đã vội vã đi tìm ngay; hay người cha nhân hậu chạy ào ra đón con khi thấy nó từ đàng xa, mà không chờ một lời xin lỗi đã nói lên điều đó. Cũng thế, Thiên Chúa luôn yêu thương và đi bước trước đến với con người. Ngay khi ta còn là tội nhân, Thiên Chúa đã sai Con Một đến cứu độ chúng ta. Chính Chúa Giêsu, trong cuộc đời tại thế cũng vậy, Ngài từng đi bước trước đến với người tội lỗi để cứu chữa họ, nâng họ dậy. Những cuộc gặp gỡ giữa Ngài và Mađalêna, người phụ nữ bên giếng Giacop, Giakêu… đã cho thấy điều này. Cảm nghiệm được tình thương ấy của Thiên Chúa, thánh Gioan đã thốt lên: “Chúa thương ta ngay từ khi ta còn là kẻ có tội”.
Hoàn toàn tha thứ mọi lỗi lầm cho tội nhân: dấu chỉ của sự tha thứ ấy là: phục hồi nguyên trạng cho họ. Hình ảnh người cha sai gia nhân mang áo, nhẫn, giày mới… cho người con trở về đã nói lên điều đó. Anh ta đã được tha thứ mọi lỗi lầm và được lại địa vị làm con trong gia đình. Chúa Giêsu cũng từng phục hồi phẩm giá cho tội nhân khi tha thứ mọi lỗi lầm cho họ: cho Phêrô, cho người phụ nữ ngoại tình, người trộm lành… và nhất là cái chết của Ngài đã phục hồi địa vị làm con cho toàn nhân loại tội lỗi.
Chúng ta cũng cảm nhận được điều này khi lãnh nhận Bí tích Giải tội: được lại những công phúc ta lập đã bị mất đi do tội lỗi gây nên, và nhất là được lại địa vị làm con Thiên Chúa.
Tóm lại, qua giáo huấn và chính cuộc đời Chúa Giêsu, ta nhận ra một Thiên Chúa nhân hậu với những hành động thật cụ thể. Tuy nhiên, không dừng ở lại đó, Ngài còn mời gọi ta hãy noi gương Ngài, cư xử nhân hậu với tha nhân.
Với lời mời gọi: “Hãy chung vui với tôi” và “chúng ta phải vui mừng vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”. Chúa đang mời gọi chúng ta hãy noi gương Ngài cư xử nhân hậu với tha nhân, những anh chị em của mình, đặc biệt là những người bị coi là tội lỗi.
Tuy nhiên, với bản tính con người ta thấy, thực hiện điều này không phải là dễ: làm sao tôi có thể đi bước trước để đến với kẻ xúc phạm tôi? Làm sao tôi có thể tha thứ cho kẻ đã cướp bóc, chà đạp nhân phẩm tôi …? Vậy thì công bằng ở đâu? Vâng, đó cũng là suy nghĩ của người Biệt phái và người anh cả hôm nay, thế nên họ không thể tha thứ lỗi lầm cho người khác. Với lẽ tự nhiên của con người thì không thể được, nhưng thử nhìn lại cuộc đời mình xem: biết bao lần nếu Chúa cư xử công bằng với ta như ta đáng tội, thì liệu ta có còn tồn tại như ngày hôm nay không? Thế nên, trong cuộc sống không chỉ có công bằng mà còn có bác ái, có lòng nhân hậu nữa, nhất là đối với những người con cái Chúa. Như vậy, lời mời gọi sống nhân hậu của Chúa hôm nay vẫn là lời mời gọi chúng ta. Dù biết rằng khó, ta vẫn phải cố gắng thực hiện, lý do vì:
Mỗi người đều là tội nhân, đều từng được Chúa cư xử nhân hậu, nên phải nhân hậu với nhau. Đừng để lời quở trách trên con nợ bất lương xưa kia giờ lại xuống trên ta: “Sao ngươi không cư xử với anh em ngươi như Ta đã cư xử với ngươi!”. Hơn nữa, “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”, nếu Chúa là Đấng Nhân hậu thì tại sao là con, ta không sống nhân hậu như Thiên Chúa là Cha của mình?
Tóm lại, lời Chúa hôm nay trình bày cho ta hình ảnh một Thiên Chúa từ bi nhân hậu, qua đó mời gọi chúng ta noi gương Ngài trong cư xử với tha nhân. Để kết luận, xin đưa một vài thực hành cụ thể qua Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay như sau:
* Đối với Chúa: Ta hãy luôn sống trong tâm tình cảm tạ, vì Chúa đã đối xử nhân hậu với ta, bằng cách tránh xa tội lỗi; đồng thời, mỗi khi lỡ phạm tội, hãy tin tưởng vào lòng Chúa xót thương mà chạy đến với Ngài trong Bí tích Giải tội.
* Đối với tha nhân: Ta hãy noi gương Chúa, luôn thông cảm với những lỗi lầm của anh em, và tha thứ khi anh em xúc phạm đến mình, không mang tật xấu của họ ra bàn tán…
Nguyện xin Thiên Chúa ban ơn giúp sức để chúng ta biết sống noi gương Ngài, Đấng Từ Bi Nhân hậu, hầu xứng danh là con của Cha trên trời.
Ở Trung Hoa người ta thường truyền miệng nhau câu chuyện về Tống Thế Tổ nói với thần tử là Lưu Đức Nguyên rằng: “Nếu ông vì qúy phi của ta đã chết mà khóc ai oán thì ta sẽ thưởng cho rất nhiều của cải”.
Lưu Đức Nguyên lập tức đấm ngực, dậm chân khóc khan cả cổ họng, nước mắt nước mũi chảy xuống ào ào, hoàng đế rất hài lòng liền ban cho làm thích sứ Dự Châu.
Tôn Thế Tổ lại kêu đại phu Dương Chí, ông này cũng khóc rất là thảm thiết, không bao lâu sau có người hỏi Dương Chí: “Ngài làm thế nào mà giống như thật vậy?”
Dương Chí nói: “Vì lúc ấy bà vợ bé của tôi cũng mới chết”.
Qua câu chuyện kể trên, ta thấy lưu Đức Nguyên và Dương Chí đều khóc lóc thảm thiết, có thể qua mặt được Tống Thế Tổ, nhưng trong lòng hai người với hai kiểu khóc khác nhau, một người khóc vì,lợi danh còn một người khóc vì thương tiếc người vợ bé của mình. Đó cũng chính là hai kiểu khóc mà chúng ta rất dễ thấy trong cuộc sống. Đặc biệt trong bài dụ ngôn người cha nhân hậu hôm nay, chúng ta dễ dàng nhận ra các kiểu khóc qua 3 nhân vật:
Việc người con thứ xin chia gia tài trong lúc người cha còn sống là một thái độ bất trung, bất hiếu, vì khi còn sống người cha không buộc chia gia tài cho con. Có thể nói người con thứ này thật đáng trách, cái đáng trách không phải ở vật chất, của cải mà là vì muốn thõa mãn ý riêng bất chấp tất cả dù điều đó làm phiền lòng cha “xin cha cho con phần gia tài thuộc về con”. Mọi hành động của người con thứ chỉ có thể diễn ta bằng hai chữ “tội lỗi”. Nhưng tất cả những lỗi lầm đó đã được xóa bỏ cũng bằng hai chữ “sám hối”. Qua việc anh ta muốn “thưa cha con đã phạm đến Trời và đến cha”. Sự hối lỗi ở đây không phải vì miếng ăn, cũng không vì anh ta qúa cực, nhưng nó được ăn năn hối lỗi từ tấm lòng thành, từ tình thương của người cha đã làm cho anh ta hối lỗi thật sự. Tự nơi đáy lòng anh một tiếng khóc thống hối đã được cất lên, từ một con tim, từ một quyết tâm từ nay quay đầu trở lại, quyết sống thành một người con tốt. Thật vây ta mới thấy rõ “không một thánh nhân nào không có quá khứ, không một tội nhân nào lại không có tương lai”. Vì thế, chúng ta không có quyền đáng dấu chấm hết cho bất cứ ai, nhưng hãy mở ra cho họ một con đường sống, và điều quan trọng là mở rộng tình thương đón nhận người khác và nhìn lại mình để mà cất tiếng khóc thống hối.
Là kiểu khóc dành cho người anh, vì khóc mướn chính là hành động bên ngoài xem ra rất tốt, nhưng bên trong thì không. Có khi là hoàn toàn ngược lại, họ khóc với một điệu bộ thê lương vì tiền, chứ không phải vì tử biệt sinh li, họ bán nước mắt, bán cử điệu bên ngoài, hay nói đúng hơn là họ làm động tác giả để mà sống… họ chỉ còn thiếu một chút xíu đó là tấm lòng.
Hình ảnh người con cả hôm nay ám chỉ người Do Thái cách riêng ám chỉ các luật sĩ và biệt phái… Suốt ngày họ không phạm một điều gì trong lề luật “không hề trái lệnh cha một điều nào”. Sống bên ngoài xem ra rất tốt, học “khóc” rất hay, nhưng chính lời nói cuối cùng đã tố cáo con người của họ “còn thằng con của cha kia”, câu nói cho thấy một sự loại bỏ, một sự trù dâp, thiếu tình yêu thương nhưng lại thể hiện một sự kiêu ngạo tự mãn về mình. Do đó, một hành động tốt, hay một loạt hành động tốt cũng không thể chứng minh đó là người tốt, mà người tốt phải có hành động tốt, và con tim tốt. hàng ngày chúng ta vẫn khóc qua các cử chỉ và hành động, nhưng Thiên Chúa luôn muốn chúng ta khóc cả bên ngoài lẫn tâm tình bên trong. Ngài không hề vui khi chúng ta không đạo đức, siêng năng đi đọc kinh xem lễ lại sống xa cách, hay dửng dưng với người xung quanh.
Người cha trong bài Tin Mừng nhằm ám chỉ Thiên Chúa. Trước tiên Thiên Chúa luôn tôn trọng tự do của con người nên: “người cha liền chia gia tài cho con”, tuy rằng theo luật người cha không buộc phải chia gia tài cho con khi còn sống, nhưng người cha lại chia ngay, không do dự, không ngăn cản khi người con xin: điều này chứng tỏ người cha tôn trọng sự tự do vì thương con. Điều này muốn diễn tả Thiên Chúa tôn trọng tự do của con người ngay cả khi con người bất trung với Người, vì Người luôn trung thành và yêu thương con người. Điều quan trọng nhất trong bài Tin Mừng hôm nay là lòng nhân từ của người cha, và sự hối lỗi của đứa con hoang đàng. Hai hình ảnh này đã vẽ lên cho bài dụ ngôn một bức tranh tuyệt vời. Một bên là người con khóc hối lỗi, còn một bên là người cha nhân từ khóc hạnh phúc vì đã tìm được đứa con mà mình mong ước. Chắc chắn người cha không lúc nào lại không chờ mong con mình. Ông không cần đợi thằng con “bất hiếu” lên tiếng, nhưng vì tình yêu và lòng nhân từ ông đã đi bước trước “khi nó còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy liền động lòng thương!”. Ôi lòng nhân từ của Thiên Chúa đã vượt xa hơn muôn ngàn tội lỗi con người, Thiên Chúa luôn đợi ta mỗi ngày, còn ta thì cứ dửng dưng, lạm dụng tự do, mê của đời trần thế mà bỏ chính người cha luôn yêu thương mình. Chắc chắn Thiên Chúa ghét tội, nhưng Ngài luôn yêu thương kẻ có tội. Vậy trong tâm tình sám hối chúng ta hãy trở về với người cha đang chờ đón chúng ta. Amen.
Một hội từ thiện kia xây dựng một ngôi trường nhằm giúp cho những thiếu niên hư hỏng hoán cải. Khi bàn đến những chi tiết trong việc điều hành trường như mua sắm phương tiện, thuê mướn giáo viên v.v… một hội viên phát biểu: “Chúng ta đừng ngại tốn kém. Chỉ cần hoán cải được một thiếu niên thôi thì tốn bao nhiêu cũng đáng”. Một người khác hỏi tại sao thì ông này đáp: “Bởi vì thiếu niên hư hỏng ấy là con của tôi”.
Bài Tin Mừng hôm nay gồm tới ba dụ ngôn. Dụ ngôn đầu xem ra không hợp lý: ai lại bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc? Dụ ngôn thứ hai cũng chẳng có sức thuyết phục bao nhiêu: một đồng xu có đáng là bao so với công sức mà người đàn bà kia bỏ ra để đi tìm lại nó? Nhưng rồi tất cả đều trở thành hợp lý khi ta đọc dụ ngôn thứ ba: Ý của Chúa Giêsu không nhằm nói tới con chiên, cũng không nói tới tiền bạc mà nói tới con người. Trước mặt Thiên Chúa, mỗi một con người đều có giá trị vô cùng, bởi vì mỗi một con người, dù là tội lỗi, cũng đều là con của Ngài.
Tuy nhiên có mấy ai chia sẻ tâm ý của Chúa? Những người Pharisêu và các kinh sư thấy Chúa Giêsu bỏ công lui tới với những người tội lỗi thì họ cho là mất công vô ích nên xầm xì phản đối. Đối với họ, việc làm của Chúa Giêsu là không đáng, bởi vì những kẻ tội lỗi là hạng đáng vất đi. Nhưng đối với Chúa Giêsu, đó là những con người, những giá trị. Một đồng xu quí giá thế nào đối với người đàn bà nghèo khổ, một người con quí giá thế nào đối với tấm lòng người cha, thì một người tội lỗi cũng đáng giá thế ấy đối với tấm lòng của Thiên Chúa.
Thế còn việc bỏ 99 con chiên trong đàn để đi tìm con chiên lạc thì sao? Vì con chiên ấy cần được chăm sóc hơn 99 con kia: nó cô đơn, nó bơ vơ, nó đói khát hơn, nó bị nguy hiểm nhiều hơn. Vì thế nên người mục tử nhân lành không thể ở yên chờ nó tìm được đường về, mà phải đích thân ra đi tìm nó. Chúa Giêsu đã làm như người mục tử ấy: Ngài không chờ kẻ tội lỗi đến với mình, nhưng được bước trước đến với họ. Ngài kết thân với họ trong tình trạng của họ còn đang là tội nhân, còn đang lầm lạc. Chính đó là cách đối xử khác những người Pharisêu và kinh sư, và chính đó là lý do khiến họ xầm xì phản đối. Nhưng chính cách đối xử này đã hoán cải được một người Pharisêu nổi tiếng là thánh Phaolô (bài đọc 2).
Nhiều người không thể hiểu tại sao người mục tử bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc, và người đàn bà còn 9 đồng trong tay lại chịu khó tìm cho bằng được một đồng bị mất.
Lý do là: Cái mất đi trở thành cái quí giá. Rất nhiều thứ khi bị mất rồi chúng ta mới thấy quí.
Sự quí giá của một vật hay một người không chỉ do vật hay người đó đã làm ích cho ta (thí dụ một chiếc đồng hồ chính xác, một người giúp việc tận tụy), mà còn do những công sức mà ta đã đổ dồn vào đó (thí dụ bức tranh mà người họa sĩ đã tốn nhiều thời gian để vẽ, một người thợ mà ông thầy đã dầy công đào tạo), và còn do những hy sinh đau khổ mà ta đã dành cho vật hay người đó (như đứa con mà người mẹ phải sinh nặng đẻ đau).
Có một câu chuyện biến ngôn như sau: Chúa Giêsu gặp một người mục tử đang rất buồn rầu. Ngài hỏi tại sao thì người ấy đáp: “Vì tôi bị lạc mất một con chiên”. Chúa Giêsu nói: “Để Ta đi tìm nó cho”. Một lúc sau, Chúa Giêsu trở lại, ôm theo con chiên lạc giao lại cho người mục tử, và căn dặn: “Từ nay anh phải yêu thương nó, chăm sóc nó nhiều hơn những con khác nhé, vì Ta đã tốn rất nhiều công sức mới tìm lại được nó đó”.
Tất cả chúng ta đều là những đồng bạc đã từng bị mất, những con chiên đã từng đi lạc và những đứa con đã từng đi hoang. Nhờ công lao khó nhọc của nhiều người và nhất là của Chúa mà chúng ta đã được tìm lại. Vậy chúng ta phải có những tâm tình gì?
– Tâm tình cảm mến, vì mình đã hư mất mà đã được tìm lại.
– Tâm tình vui sướng, vì biết mình là đối tượng được thương yêu nhiều hơn.
– Và tâm tình tự trân trọng, đừng để mình bị lạc mất thêm một lần nào nữa.
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Qua những gì Thiên Chúa làm cho con người, con người biết hơn về Thiên Chúa. Qua thái độ của Thiên Chúa đối với tội nhân, con người biết Thiên Chúa là Đấng nhân từ, Đấng yêu thương con người vô cùng.
Con người có là chi!
Con người thường chỉ yêu quý những người tài giỏi và ngoan hiền. Với những người không tốt, con người thường xa lánh. Thiên Chúa không đối xử với con người như vậy. Ngài đi tìm người tội lỗi như người chăn chiên đi tìm con chiên lạc, như người cha đứng chờ người con hoang trở về. Con người là chi đối với Thiên Chúa, mà Thiên Chúa đối xử với con người như vậy?
Như người chăn chiên bỏ lại 99 con chiên để đi tìm con chiên lạc, và khi tìm được, lại còn vác nó trên vai, Thiên Chúa cũng yêu thương và trân trọng con người như vậy! Tin Mừng hôm nay cho thấy khi một tội nhân trở về, cả trời đất đều vui mừng, cả triều thần trên trời hân hoan. Theo cách nói nhân hình, có thể nói, chính Thiên Chúa cũng vui mừng khi một người tội lỗi ăn năn trở lại. Thiên Chúa yêu thương con người, yêu thương ngay cả người tội lỗi vô cùng.
Người con bỏ nhà đi hoang đắc tội với cha và với anh của mình. Thế nhưng, người con trưởng cũng lỗi phạm với cha và với em của anh ta. Vì anh ta sống với cha mà có thái độ và tâm tình của người làm thuê. Người con trưởng coi cha như ông chủ chứ không phải như cha mình, hơn nữa, anh ta không muốn nhận em mình khi nó trở về. Người con thứ từ bỏ cha và anh để ra đi; còn người anh đã không coi cha như cha và cũng chẳng muốn nhận em mình; có lẽ cả hai đều giống nhau. Còn người cha, người cha không chỉ yêu thương người con thứ hoang đàng, nhưng Ngài yêu thương cả người con trưởng. Ngài năn nỉ người con trưởng, xin người con trưởng chấp nhận em mình.
Trong dụ ngôn hai người con, chính người cha đã nhận ra đứa con bỏ nhà ra đi trở về, và người cha này đã không còn tự chủ đứng chờ người con đi về với mình nữa, người cha cũng không chờ người con nói lời xin lỗi, nhưng người cha đã chạy tới với người con, ôm lấy con và hôn người con hoang đàng cho dù nó chưa nói lời xin lỗi. Người cha yêu thương người con quá sức, cho dù nó hoang đàng đã bỏ cha bỏ nhà ra đi! Con người được Thiên Chúa yêu thương đến như vậy sao?! Nếu Thiên Chúa yêu thương con người và ngay cả người tội lỗi vô cùng, thì con người phải có thái độ đối với nhau thế nào cho xứng hợp là con cái Thiên Chúa.
Con người có là gì mà được Thiên Chúa yêu thương và quý trọng như vậy? Giá trị con người là tuyệt vời. Nếu không tuyệt vời, tại sao lại được Thiên Chúa yêu thương và quý chuộng như vậy? Nếu Thiên Chúa yêu thương con người như vậy, con người còn gì phải lo lắng nữa? Thiên Chúa yêu thương con người đến độ ban chính Con của Ngài cho chúng ta, vậy thì Ngài còn tiếc gì với chúng ta nữa? Chắc chắn chúng ta sẽ được cứu độ, không phải vì chúng ta tốt, nhưng vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Ngài yêu thương chúng ta, ai giựt chúng ta khỏi tay Ngài được?!
Thiên Chúa nhân từ
Con người yếu hèn mong manh, nay còn mai mất, thế nhưng lại là tạo vật vô cùng quý đối với Thiên Chúa. Qua người tội lỗi được yêu thương, con người nhận biết Thiên Chúa là Đấng nhân từ và yêu thương.
Thiên Chúa là tình yêu. Ngài chỉ biết yêu thôi, và làm tất cả vì yêu. Ngài không làm bất cứ điều gì cho con người mà không phải vì tình yêu đối với con người. Cụ thể Thiên Chúa không làm gì cho tôi mà không phải vì yêu thương tôi. Phaolô trước khi trở lại, là người tội lỗi. Chính Phaolô đã giữ áo cho những người ném đá thánh Tê-pha-nô. Phaolô đã miệt mài bắt bớ các Kitô hữu. Biến cố trên đường Đamas xảy ra khi Phaolô đang trên đường truy lùng Kitô hữu. Tuy vậy, Thiên Chúa vẫn yêu thương và chọn Phaolô, và không chỉ thế, Thiên Chúa còn dùng Phaolô như lợi khí của Thiên Chúa đối với dân ngoại. Thiên Chúa không chỉ yêu thương tha thứ, nhưng Ngài còn luôn mời gọi người tội lỗi trở lại cộng tác và thực hiện chương trình yêu thương của Thiên Chúa đối với con người.
Bài đọc trong sách Xuất Hành cho thấy tình yêu tha thứ của Thiên Chúa. Thiên Chúa tha thứ, để dân Do Thái bắt đầu lại cuộc đời mới, tương quan mới với Thiên Chúa. Đôi khi một vài bản văn của một số sách Cựu Ước làm người ta có cảm tưởng rằng Thiên Chúa không nhân từ bằng Abraham hay Môsê, nhưng đó là cách diễn tả để tôn trọng tính tuyệt đối của Thiên Chúa, chứ chính Thiên Chúa là Đấng đã làm cho Abraham và Môsê như các ông là, để cho dân được hưởng tình yêu nhân từ tha thứ của Thiên Chúa.
Trong mọi bằng chứng diễn tả tình yêu của Thiên Chúa đối với con người, Đức Yêsu chết trên thập giá là bằng chứng tuyệt hảo nhất cho thấy Thiên Chúa nhân từ và yêu thương con người. Nếu không yêu thương, tại sao Lời Thiên Chúa lại nhập thể làm người? Nếu không yêu thương, tại sao Ngài phải chịu chết ô nhục như vậy? Thập giá mình chứng tình yêu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
Một hạt giống nhỏ bé nằm ở dưới lòng đất, và bắt đầu nảy mầm. Nhìn thấy những đóa hoa khác, nó tự hỏi, “Không biết mai mốt tôi sẽ nhìn giống hoa gì nhỉ?”
“Gương mặt của hoa huệ thì đẹp, lộng lẫy, nhưng hơi lạnh lùng. Còn hoa hồng thì quá sặc sỡ, và cũng quá cổ rồi. Còn đóa hoa tím, tôi sẽ không chọn kiểu hoa ấy đâu, hoặc là cả cái hoa mầu xanh dương.”
Và cái hoa nhỏ bé đó đã phê bình đủ mọi thứ hoa cho đến khi nó tỉnh giấc vào một buổi trưa hè nắng khi nó nhận ra mình chỉ là một loại hoa cỏ dại!
Các thánh ký viết Phúc Âm nói cho chúng ta biết rằng Chúa Giêsu đã bị bè phái Pharisiêu phê phán đủ chuyện cả. Trong bài Phúc Âm hôm nay, họ bàn tán phản đối Ngài là người qua lại với thứ tội lỗi. Trong thời Chúa Giêsu, kẻ tội lỗi được hiểu là người chống lại Thiên Chúa, có thể là cuộc sống vô luân hoặc là đang làm công việc bần tiện. Dĩ nhiên, câu định nghĩa này bao gồm luôn cả những người thu thuế, đĩ điếm, là những người bị phái Pharisiêu xa cách, mà chỉ có Chúa Giêsu thì không.
Thánh Luca kể lại cho chúng ta biết rằng những người thu thuế và kẻ tội lỗi thì đến gần Chúa Giêsu để nghe Ngài giảng. Còn những người Pharisiêu và luật sĩ thì bàn tán với nhau rằng, “Ông này qua lại và ăn uống với kẻ tội lỗi” (Lc 15:2). Những người Pharisiêu là những kẻ bị gai mắt soi bói rằng: Làm sao mà ông này lại nói về Thiên Chúa với thứ dân này? Chúa Giêsu đã trả lời các ông qua các dụ ngôn.
Dụ ngôn thứ nhất là về người chăn 100 con chiên mà bị lạc mất một con. Anh đã bỏ 99 con kia lại mà đi tìm con chiên bị lạc mất. Khi tìm thấy nó, anh đã vác nó lên vai và trở về nhà vui mừng. Sau đó, anh đã gọi bạn bè lại và ăn mừng. “Tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn” (Lc 15:7).
Dụ ngôn thứ hai là người đàn bà có 10 đồng quan, mà chẳng may bà đã đánh mất một đồng. Sau đó, bà đi tìm và tìm thấy nó, bà vui mừng và mời bạn bè đến chia vui (Lc 15:8-9).
Dụ ngôn thứ ba là người con hoang đàng. Anh đã đòi cha của anh chia gia tài và đi chơi phung phí ở phương xa. Sau khi đã xài hết tiền của rồi, hai bàn tay trắng, anh đã trở về với lòng thống hối xin cha anh tha thứ. Người cha đã sẵn sàng tha thứ cho anh mà còn ôm hôn anh. Thế nhưng, người con lớn trong gia đình thì không chút vui vẻ gì đối với thái độ cư xử nhân hậu của cha, anh hậm hực tức tối bởi vì anh đã ở nhà với cha trong khi người em của anh lại đi trụy lạc ở ngoài.
Có lẽ nhiều người sẽ thà chịu mất một con chiên và ở lại với 99 con chiên, hoặc là chẳng để công mà tìm một quan tiền, đàng nào cũng còn 9 quan. Có lẽ nhiều người sẽ đồng ý với thái độ bực tức của người con lớn bởi vì anh đã trung thành ở với cha mình mà lo lắng tất cả những công việc trong nhà.
Hãy thành thật với chính mình đi! Bạn có thấy tiếng từ trong tâm hồn của bạn đang đồng ý với những điều đó không? Đáng lẽ người con trung thành ở nhà với cha, phải đáng giá hơn chứ?
Trong đề tài về giá trị con người, nhà thần học Michael P. Green đã trình bày như sau:
Giả dụ như có một bà mẹ vừa mới sinh ra được một người con. Sau đó, một người đến hỏi bà mẹ đó bán người con đó cho ông. Ông sẽ trả cho bà $10,000 hoặc thậm chí ông có thể trả cho bà cả một triệu đồng. Thế nhưng bà mẹ ấy sẽ vẫn không bán người con yêu quí của mình cho người đàn ông đó. Bà chỉ biết ôm con sát vào lòng và trả lời, “Con của tôi thì vô giá.”
Một điều dĩ nhiên là bà mẹ đã đó không suy nghĩ gì đến những vất vả mà bà sẽ phải trả khi phải nuôi lớn đứa con của bà. Bà sẽ phải thay cả đến hơn ngàn cái tã, thức khuya dậy sớm, lo thuốc thang khi nó bệnh. Thế nhưng tất cả những cái khổ cực đó vẫn không là gì bởi vì bà mẹ đó đã chọn cái giá trị của đứa bé đó cao quí hơn là tiền bạc và khó nhọc. Bà đã chọn để yêu người con của bà.
Đáng giá như thế không phải là ở chỗ cái nhìn ở bên ngoài, nhưng là con người. Cái đáng giá đó, phản chiếu hình ảnh của Thiên Chúa, phải là một căn bản cho sự định giá của con người chúng ta.
Trở về dụ ngôn người con hoang đàng, người cha đã có thể mở rộng cánh tay để ôm người con vào lòng là bởi vì ông không nghĩ đến những điều cậu đã làm, nhưng vì cậu là con của ông.
“Tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn” (Lc 15:7). Điều này không có nghĩa là Thiên Chúa yêu thương kẻ có tội hơn là những người ăn ở tốt lành. Chân lý của Phúc Âm không phải là Thiên Chúa thiên vị yêu kẻ này hơn kẻ khác. Chân lý của Phúc Âm chính là Thiên Chúa yêu thương tất cả chúng ta một cách đồng đều. Chân lý đó là tất cả chúng ta đều là kẻ tội lỗi, kể luôn cả những kẻ cho rằng mình tốt lành mà không nghĩ rằng mình cần phải sám hối.
Còn có Thứ Tình Yêu nào cao cả hơn?
“Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì 99 người công chính không cần ăn năn…” (Lc 3, 24)
Anh chị em thân mến,
Chương 15 của Phúc âm thánh Luca mà chúng ta đọc trong ngày Chúa Nhật hôm nay, gồm 3 dụ ngôn, được coi như tuyệt phẩm của Tình yêu: dụ ngôn bầy chiên với 100 con: lỡ mất một con; ông chủ sẵn lòng để 100 con lại đó, đi tìm cho được con mất, vác trên vai đem về – dụ ngôn 2: người đàn bà lỡ mất một đồng bạc, liền thắp đèn, quét nhà tìm cho đến khi thấy được đồng bạc đó – nhất là dụ ngôn cuối cùng: người con hoang đàng và người cha nhân hậu với lời kết luận từ miệng người cha: “chúng ta phải ăn mừng, vì em con đây đã chết, mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy…” Cả ba dụ ngôn diễn tả thật đậm nét tình yêu thương vô bờ Thiên Chúa đối với tội nhân hối cải. Kính mời anh chị em cùng suy niệm.
(Suy niệm của Lm. Cao Tấn Tĩnh)
Suy nghiệm kỹ hai bài Phúc Âm, bài của Chúa Nhật XXIII Mùa Thường Niên Năm C tuần trước và bài của Chúa Nhật XXIV Mùa Thường Niên Năm C tuần này, chúng ta thấy ý nghĩa của hai bài Phúc Âm này rất ăn khớp với nhau. Nếu trong bài Phúc Âm tuần trước Chúa Giêsu khuyên dạy đối tượng muốn theo Người phải “từ bỏ chính bản thân mình”, thì trong bài Phúc Âm tuần này, Người lại diễn tả tâm tưởng của Người về đối tượng không chịu “bỏ mình” theo Người, tức lạc xa Người, là “Tôi đã tìm thấy con chiên thất lạc… tôi đã tìm thấy đồng bạc bị mất”. Đúng thế, theo lời Chúa Giêsu ở bài Phúc Âm tuần trước, con người có trách nhiệm phải chủ động bỏ mình đi và vác thập giá mới có thể theo Người, tức mới có thể đến cùng Cha, mới có thể hiệp thông với Thiên Chúa. Trái lại, trong bài Phúc Âm tuần này, dù con người không thể hay không chịu theo Chúa, không thể hay không chịu đến với Người, vì không chịu hay không thể bỏ mình và vác thập giá theo Người, mà chính Người đã phải chủ động và tích cực đi tìm họ cho đến khi gặp được họ, để có thể dẫn họ về với Cha, nghĩa là Người đã tự bỏ mình và vác thập giá theo đuổi họ, thay vị họ phải bỏ mình và vác thập giá mà theo Người. Chính vì thế, trong bài chia sẻ tuần trước, chúng ta đã cùng nhau cảm nghiệm là: “Thiên Chúa chẳng những đã ‘bỏ mình đi’, khi ban Con Một Ngài cho chúng ta, để có thể đến với chúng ta nơi Mầu Nhiệm Nhập Thể, Ngài còn phải ‘vác thập giá’, khi phó nạp Con Ngài vì chúng ta qua Mầu Nhiệm Vượt Qua, để có thể cứu độ chúng ta và ban Thánh Linh hiệp thông cho chúng ta”.
Ở đây, qua bài Phúc Âm hôm nay, Giáo Hội muốn chúng ta cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa hơn là nhấn mạnh đến phản ứng của tội nhân đối với Ngài. Sự kiện đề cao thái độ chủ động của Thiên Chúa khoan dung, hơn là phản ứng của tội nhân trong bài Phúc Âm hôm nay, được hiện tỏ qua hai bài đọc một và hai. Đó là lý do, Giáo Hội chỉ buộc đọc hai dụ ngôn, dụ ngôn thứ nhất về việc chủ chiên tìm thấy con chiên lạc duy nhất trong đàn 100 con, và dụ ngôn thứ hai về người đàn bà tìm thấy đồng bạc bị mất duy nhất trong 10 đồng. Ngoài ra, chúng ta cũng có thể đọc dụ ngôn thứ ba về người con hoang đàng, nhưng lại là đoạn Phúc Âm được Giáo Hội để trong ngoặc đơn, nghĩa là không buộc đọc. Tại sao? Theo tôi, tại vì hai lý do sau đây. Thứ nhất là vì dụ ngôn thứ ba liên quan đến thái độ chủ động thống hối của người con hoàng đàng hơn thái độ thứ tha của người cha, do đó mới có lý do thứ hai, lý do là vì dụ ngôn thứ ba này nói đến thái độ người cha chờ con về chứ không tự động đi tìm kiếm nó, như thái độ của người chủ chiên đi tìm chiên lạc hay như thái độ của người đàn bà tìm của mất ở hai dụ ngôn trước. Tuy nhiên, nếu chỉ để ý đến khía cạnh Thiên Chúa chấp nhận con người, dù con người tội lỗi đi nữa, thì dụ ngôn về người con hoang đàng cũng hợp với dụ ngôn chiên lạc và đồng bạc mất. Thật vậy, qua bài Phúc Âm của Chúa Nhật XXIV Năm C tuần này, chúng ta thấy được giá trị hết sức cao cả của bản thân mỗi một con người tạo vật chúng ta trước nhan Thiên Chúa hằng sống vô cùng toàn thiện. Việc Thiên Chúa yêu thương tìm kiếm con người nói chung và từng người nói riêng cho chúng ta thấy con người tạo vật chúng ta, chung cũng như riêng, thực sự là loài được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và tương tự như Ngài. Không phải hay sao, nếu Thiên Chúa Duy Nhất nhưng lại một Thiên Chúa Duy Nhất có Ba Ngôi là Cha và Con và Thánh Thần, thì con người cũng thế, cho dù đều là con người như nhau, song mỗi con người lại là một ngôi vị riêng biệt, một chủ thể biệt lập, chứ không phải chỉ là một khối đồng thể như nơi loài thú vật?
“Thiên Chúa là tình yêu”, như Vị Tông Đồ được Chúa Giêsu yêu định nghĩa trong Thư Thứ Nhất của mình ở đoạn 4 câu 8 và 16, đã chẳng những “yêu (chung) thế gian đến ban Con Một mình” (Jn 3:16), mà còn yêu riêng từng người đến trong thế gian nữa; và Ngài chẳng những yêu họ khi họ đã vào đời mà còn yêu họ ngay cả trước khi họ nhập thế nữa, khi họ còn trong lòng mẹ nữa, như chính Ngài đã phán cùng tiên tri Giêrêmia, vị đã ghi nhận sự thật cảm kích này ở đoạn 1 câu 5: “Trước khi Ta hình thành ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi, trước khi ngươi được sinh ra, Ta đã thánh hiến ngươi, Ta đã chỉ định ngươi làm tiên tri cho các dân nước”. Chưa hết, “Thiên Chúa là tình yêu” chẳng những yêu thương mỗi một người chúng ta chỉ vì chúng ta là tạo vật của Ngài, một tạo vật được Ngài dựng nên hoàn toàn tốt lành ngay từ ban đầu, nghĩa là khi chúng ta còn ngây thơ vô tội chưa biết đến tội lỗi là gì, mà còn yêu thương chúng ta cả khi chúng ta “là những tội nhân” nữa, như Vị Tông Đồ Dân Ngoại xác nhận trong Thư gửi Giáo Đoàn Rôma ở đoạn 5 câu 8. Đó là lý do, ngay sau khi sa ngã phạm tội, hai nguyên tổ của loài người chúng ta, lúc hai vị còn đang đổ lỗi cho nhau, không hề biết mở miệng xin Chúa thứ tha, thì chính Ngài đã tự động tuyên hứa cứu độ cho chính thành phần tạo vật phản nghịch Ngài rồi, như Sách Khởi Nguyên ghi lại ở đoạn 3 câu 15. Trường hợp “Thiên Chúa là tình yêu” yêu thương chúng ta khi chúng ta “là những tội nhân” còn được thể hiện tỏ tường qua việc Ngài tha không tận diệt dân Do Thái nữa, đám dân đã thực sự bỏ Ngài là Đấng họ đã tận mắt chứng kiến thấy Ngài ra tay uy quyền để cứu họ ra khỏi cảnh làm tôi Ai Cập, mà quay đầu đi tôn thờ con bò vàng đúc do họ tạo nên, như Sách Xuất Hành thuật lại trong bài đọc thứ nhất hôm nay. “Thiên Chúa là tình yêu” yêu thương chúng ta khi chúng ta “là những tội nhân” chẳng những được thể hiện qua việc thứ tha cho cả loài người ngay từ ban đầu, hay cho cả một dân tộc, như trường hợp Dân Do Thái trong bài đọc một hôm nay, mà còn cho từng con người chúng ta nữa, như trường hợp của chính Vị Tông Đồ Dân Ngoại, qua những gì ngài chia sẻ với Timôthêu trong bài đọc thứ hai hôm nay: “Chúa Giêsu Kitô đến thế gian để cứu các tội nhân. Trong số đó, cha là đệ nhất tội nhân”.
Ôi, như thế thì Thiên Chúa đã chẳng yêu thương chung loài người tạo vật vô cùng thấp hèn chúng ta và mỗi con người tội nhân vô cùng bất xứng của chúng ta cho đến cùng hay sao? Mức độ “cho đến cùng” nơi tình yêu Thiên Chúa tỏ ra qua Chúa Giêsu Kitô đây, như Thánh Ký Gioan viết trong Phúc Âm của mình ở đoạn 13 câu 1, theo tôi, không liên quan đến chủ thể yêu là Thiên Chúa, mà là đến đối tượng yêu là tội nhân chúng ta. Bởi vì, đối với “Thiên Chúa là tình yêu” thì một khi yêu là Ngài yêu bằng cả tấm lòng của Ngài, một tình yêu tuyệt đối thủy chung, yêu từ đầu đến cuối, “yêu đến cùng”, chứ không yêu dang dở, yêu từ từ, yêu có hạn, yêu bập bềnh lên xuống tùy theo đối tượng có đáng yêu chăng, hay đáng yêu bằng nào hoặc đáng yêu lúc nào v.v. Đó là lý do Thiên Chúa vẫn yêu loài người chúng ta cả khi chúng ta “là những tội nhân”. Và cũng chính vì Thiên Chúa đã yêu chúng ta “là những tội nhân” mà Người đã yêu “cho đến cùng”. “Cho đến cùng” ở đây không phải chỉ được hiểu “Thiên Chúa là tình yêu” tỏ lòng xót thương với chung loài người tội lỗi chúng ta, mà còn được hiểu là Ngài yêu thương cho đến tội nhân cuối cùng trong chúng ta, hay cho đến con người “đệ nhất tội nhân” trong chúng ta nữa. Đó là lý do Thánh Ký Gioan, sau khi cảm nhận “Người đã yêu thương thành phần thuộc về mình trên thế gian và muốn tỏ cho họ thấy Người yêu họ cho đến cùng”, liền nói ngay đến tông đồ Giuđa Ích-Ca: “Ma quỉ đã cám dỗ Giuđa trong việc phản nộp Người”, rối chính thánh nhân dùng câu “không phải mọi người đều sạch cả đâu”, câu Chúa Giêsu nói với tông đồ Phêrô, để ám chỉ về tông đồ Giuđa là: “vì Người biết kẻ phản nộp mình”. Như thế, Chúa Giêsu “đã yêu những kẻ thuộc về mình trên thế gian và Người cho họ thấy rằng Người yêu họ cho đến cùng” ở đây có nghĩa là Chúa Giêsu yêu cả Giuđa là kẻ Người biết trước là sẽ phản nộp Người, bằng việc Người cũng cúi mình xuống rửa chân cho cả Giuđa nữa vậy.
Nếu qua Lời Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô, “Thiên Chúa là tình yêu” đã yêu thương nhân loại tội nhân chúng ta “cho đến cùng”, tức là cho đến con người “đệ nhất tội nhân” trong chúng ta, hay cho đến con chiên lạc duy nhất trong đàn 100 con, cho đến đồng bạc duy nhất bị mất trong số 10 đồng bạc, thì quả thực, như Chúa Giêsu quả quyết với các môn đệ của Người trong Bữa Tiệc Ly, ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 14 câu 1 và 2, là: “Lòng các con đừng bối rối. Hãy tin vào Thiên Chúa và hãy tin tưởng nơi Thày. Trong nhà Cha thày có nhiều chỗ ở lắm”. Chúng ta hãy nhớ rằng, Chúa Giêsu phán lời này ngay sau khi Người báo trước cho Phêrô biết sự việc Phêrô sẽ chối bỏ Người. Như thế có nghĩa là, dù chúng ta là ai và có tội lỗi đến đâu đi nữa, Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta, yêu thương từng người chúng ta, tức mỗi một người tội nhân chúng ta bao giờ cũng có chỗ của mình trong cung lòng yêu thương vô biên bất tận của Thiên Chúa. Miễn là, phải, miễn là tội nhân chúng ta biết hết lòng tin tưởng vào tình yêu vô cùng nhân hậu của Ngài, đừng bao giờ hồ nghi tình Ngài yêu thương chúng ta “cho đến cùng”. Như thế, “hãy tin vào Thiên Chúa và hãy tin tưởng nơi Thày” chính là lời Con Thiên Chúa mời gọi “người ta từ đông sang tây, từ bắc chí nam đến ngồi vào chỗ của mình trong bữa tiệc vương quốc Thiên Chúa” vậy. Thành phần từ đông tây nam bắc được Chúa Giêsu nhắc đến trong Phúc Âm Thánh Luca Chúa Nhật Thường Niên XXII Năm C cách đây 2 tuần này không phải là thành phần “khi được mời thì đến ngồi vào chỗ thấp nhất” hay sao? Điển hình là con người đã thành thực cảm nhận trong bài đọc thứ nhất hôm nay: “Chúa Giêsu Kitô đến thế gian để cứu các tội nhân. Trong số đó, cha là đệ nhất tội nhân”, hay con người thu thuế trong dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện ở Phúc Âm Thánh Luca đoạn 18 câu 13: “không dám ngẩng đầu lên trời. Chỉ biết đấm ngực mà thưa: ‘Ôi lạy Chúa, xin thương xót tôi là kẻ tội lỗi’”.
Vấn đề thực hành sống đạo: Bài Phúc Âm Chúa Nhật XXIV Mùa Thường Niên Năm C theo Phúc Âm Thánh Luca hôm nay cho chúng ta thấy Thiên Chúa thực sự yêu thương con người tạo vật chúng ta “cho đến cùng”. Ở chỗ, qua Con Một của mình, Ngài đã đến để tìm kiếm chung loài người chúng ta cũng như riêng từng người chúng ta trong khi chúng ta “là những tội nhân”. Vì mỗi một con người chúng ta là một ngôi vị, một chủ thể, chứ không phải là thú vật, là một khối đồng thể, (tức là loài có thể cloning hay có thể được tạo sinh theo phương pháp vô tính dục), do đó, Thiên Chúa không thể yêu thương thế gian mà lại không yêu thương từng người chúng ta, hay yêu thương riêng cá nhân hơn tập thể loài người, như Ngài có vẻ tỏ ra như thế trong bài đọc một hôm nay. Tuy nhiên, dù là một ngôi vị riêng biệt, chúng ta cũng là một con người thuộc về loài người, loài được Thiên Chúa yêu thương đến nỗi đã làm người như loài người chúng ta. Phải chăng vì thế mà chúng ta phải yêu thương nhau như Ngài đã yêu chúng ta, và phải tha thứ cho nhau như Ngài đã thứ tha cho chúng ta?
(Suy niệm của Anphong Nguyễn Công Minh, OFM. – lấy ý từ Lm. Nguyễn Hữu An)
Linh mục Jude Siciliano OP, viết suy niệm trong bài “Cuộc trở về an toàn” như sau: “Nếu từ ‘hoang đàng’ có nghĩa là phung phí thái quá, thì chúng ta có thể gọi cả hai cha con trong dụ ngôn hôm nay là hoang đàng, tuy mỗi người một kiểu. Người cha thì hoang phí về tình thương, và người con thì hoang phí về tiền bạc vật chất.”
Người con hoang phí
Người con thứ hoang phí, hoang đàng như thế nào thì dụ ngôn đã nói rõ. Nó đòi cha chia gia tài. Với tiền bạc, nó bỏ đi và ăn chơi trác táng. Hết tiền, nó đi chăn heo và muốn ăn thức ăn của heo. Khi trở về, nó chẳng còn gì cả. Tiền bạc, sức khoẻ, danh dự, lòng tự trọng… mọi thứ đã bị nó tiêu xài cực kỳ hoang phí.
Người cha hoang phí
Người cha mòn mỏi đợi chờ con trở về. Kể từ ngày con cất bước ra đi, cha ngong ngóng mong con về. Đứa con đã trở về thật rồi. Nó về vì chẳng có chỗ nào đón nhận, chẳng còn chỗ nào nuôi dưỡng, chẳng còn người bạn nào tiếp đón. Không sao cả, con trở về là cha mừng vui.
Nếu chúng ta là người cha, người cha không hoang phí, thì người cha sẽ xử theo 1 trong 3 cách này:
1) Ông có thể đuổi ngay đứa con vừa mới trở về và nói với nó: “Hãy cút đi, hãy xéo cho khỏi mặt tao. Mày đã chẳng đem lại gì ngoài sự nhục nhã đến cho gia đình. Đồ khốn nạn, đồ mất dạy. Mày coi cả xứ này đang bàn tán về gia đình tao (và cũng là gia đình mày); vì mày mà tao chẳng dám vác mặt đi tới đâu.”
2) Ông có thể làm thinh, không thèm để ý đến nó. Cách này là một hình phạt nặng nề đối với đứa con trở về.
3) Ông có thể thử thách đứa con một thời gian, và đây là điều mà bất cứ người con nào đã bỏ nhà ra đi, khi trở về đều mong được hưởng: “Xin hãy xử với con như một người làm thuê trong gia đình.”
Nhưng người cha đã chẳng chọn một cách nào trong ba cách nói trên, thay vào đó, ông sung sướng như một đứa trẻ khi thấy cha mẹ đi xa trở về. Ông còn trút như mưa trên đứa con những dấu chỉ mạnh mẽ để chứng tỏ tình yêu khoan dung ông dành cho con. Trong một thoáng, khi đứa con chưa có một động tác nào thì người cha đã có 4 động tác: nhìn thấy, chạnh lòng thương, chạy đến, ôm hôn.
Trong một thoáng ngắn ngủi, khi chàng trai tuổi trẻ còn bất động thì ông lão già nua đã thực hiện 4 động tác rất nhanh nhẹn. Ông thật là người cha phung phí.
Ông đã phung phí sức lực trong cuộc gặp gỡ với đứa con trở về. Ông đã phung phí tiền bạc khi chia gia tài một cách dễ dãi. Ông đã phung phí khi đem áo mới, giày mới, nhẫn vàng, lại còn tổ chức một bữa tiệc mừng có bê béo, có cả đàn hát múa nhảy để đón đứa con đi hoang trở về. Làm thế chẳng sợ hàng xóm cười cho sao! Tắt một lời, ông đã phung phí tình yêu thương. Yêu thương quá độ. Yêu thương đến vô lý. Tin Mừng Gioan 3,16 ghi: “Thiên Chúa yêu thế gian quá sức đến nỗi đã tặng ban luôn người Con Một…” Yêu gì mà đến nỗi đem con, mà là con một, tặng cho người khác? Giải thích nổi không? Mà có lý lẽ nào giải nghĩa được yêu thương? Chỉ có tình yêu thương mới giải nghĩa được những điều vô lý đó.
Nhiều người không chấp nhận lối hành xử phung phí (*) lòng tốt của Thiên Chúa theo dụ ngôn “Người Cha nhân hậu”. Kiểu cách suy tư và thái độ của người anh cả là một biểu trưng. Người anh cả tưởng rằng, Thiên Chúa chỉ có nhiệm vụ thưởng người có công, phạt kẻ có tội. Người anh cả không hiểu rằng, Thiên Chúa không thể đứng yên nhìn cảnh con người bị hư mất, chịu thất bại trong ơn gọi làm người do chính Ngài tạo dựng nên; Ngài không có quyền gìn giữ, yêu thương quí mến, nâng niu trong bàn tay nhân hiền của Ngài hay sao? Ðể cứu rỗi loài người khỏi hư mất, khỏi thất bại trong ơn gọi cao cả ấy, Thiên Chúa đã nhập thể làm người, làm anh, làm cha, làm mẹ để đem người con trở về trong vòng tay yêu thương của Ngài.
Một hội từ thiện kia xây dựng một trung tâm nhằm giúp cho những thiếu niên hư hỏng hoán cải. Khi bàn đến những chi tiết trong việc điều hành trung tâm, như mua sắm phương tiện, thuê mướn giáo viên v.v. một hội viên phát biểu: “Chúng ta đừng ngại tốn kém. Chỉ cần hoán cải được một thiếu niên thôi thì tốn bao nhiêu cũng đáng”. Một người khác hỏi tại sao thì ông này đáp: “Bởi vì một trong các thiếu niên hư hỏng ấy là con của tôi“.
Ngôi Con hoang phí
Anh Piere Marie người sáng lập Huynh Đoàn Giêrusalem, một cộng đoàn các tu sĩ sống trong thành phố, đã suy niệm về Chúa Giêsu như người con phung phí hoang đàng theo Phúc Âm một cách thú vị:
“Sau khi đã hạ mình xuống ở giữa những con cái hư mất của nhà Israel, Ngôi Con đã phung phí thời giờ của Ngài với những người đau ốm tật nguyền, với những người tội lỗi. Ngay cả với những gái điếm, Ngài cũng hứa cho họ vào Nước của Cha Ngài. Sau khi đã bị đối xử như một tên tham ăn, như một bợm nhậu, như một người bạn của bọn thu thuế và tội lỗi, như một người Samaria, một người bị quỷ ám, một kẻ phạm thượng; sau khi đã phung phí tất cả mọi sự, ngay cả thân xác và máu Ngài; và khi linh hồn Ngài cảm thấy một nỗi buồn sâu xa, hấp hối, phiền sầu; sau khi đã đi tới đáy của sự tuyệt vọng, Ngôi Con muốn mặc lấy nơi mình sự bị bỏ rơi bởi Ngôi Cha, khi đã phung phí hết đến cạn kiệt để phải thốt lên trên thập giá: ‘Ta khát’. Ngôi Con đã yên nghỉ trong bụi đất và bóng đêm sự chết. Ba ngày sau Ngài Phục Sinh, trỗi dậy từ chiều sâu ngục tối nơi Ngài đã xuống, Ngài đã mang lấy tội lỗi của chúng ta, Ngài đã gánh hết những đau thương của chúng ta. Đứng thẳng, Ngài kêu lên: ‘Phải, Ta lên Trời với Cha Ta cũng là Cha của các con, là Thiên Chúa Ta cũng là Thiên Chúa các con’. Và Ngài đã trở lại Thiên Đàng (như người con hoang đàng trở về nhà cha trong dụ ngôn).
“Trong sự thinh lặng chiêm ngắm tất cả con cái trong Người Con (Ngôi Con) từ khi Người Con trở thành tất cả cho mọi người, Người Cha nói với các tôi tớ: ‘Nhanh lên, hãy mang áo đẹp nhất mặc cho cậu, hãy xỏ nhẫn vào tay cậu, giày vào chân cậu. Chúng ta hãy mở tiệc ăn mừng, vì con Ta đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy… Người ‘Con Hoang Đàng’ của Ta đã mang tất cả mọi ngươì trở về…
“Và tất cả họ bắt đầu dự tiệc, mang trên mình chiếc áo trắng dài đã được giặt sạch trong máu của Con Chiên…”
Chúng ta nhắc lại câu nói của hội viên: “đừng ngại phí tổn gì hết, bởi một trong những thiếu niên hư hỏng đó là con tôi”
Chúa Cha rất hoang phí lòng thương xót miễn là cứu được đứa con hoang đàng là chúng ta trở về. Hãy trở về với Cha đấng hoang phí lòng thương xót, và nhất là hãy bắt chước Cha, hoang phí lòng thương xót đối với anh chị em khác, nhất là đó lại là những người thân yêu trong gia đình đang gặp khó khăn.
_____________________
(*) Ta nhớ lại dụ ngôn người gieo giống, cũng phung phí quá sức. Ông tung gieo hạt giống, hạt xuống vệ đường, hạt kẹt bụi gai, hạt rải trên sỏi đá, rất phóng khoáng, phung phí, chỉ ít hạt mới rơi vào đất. Ta mà gieo giống thì không phung phí như vậy!
(Suy niệm của Anphong Nguyễn Công Minh, OFM.)
Bài Tin Mừng dài hôm nay kể luôn 3 dụ ngôn “mất và tìm lại được” độc quyền của Luca. Chỉ xét về con số mà thôi, thì 3 dụ ngôn: chiên lạc, đồng tiền, người con hoang, có một bước lùi dần dần về sở hữu: có 100 mất 1; có 10 mất 1; và có 2 mất 1…, nhưng cái tỉ lệ mất nhân lên: 1%, 10% và 50%… Nếu mất 1%, 10% tìm lại được thì mừng rỡ, thì dụ ngôn người con hoang đàng, có hai mất một, tức mất 50% khi tìm lại được, niềm vui phải lớn biết bao, nếu như không có bóng dáng người con cả.
Đã nhiều lần chúng ta nghe về người con hoang đàng, về người cha nhân từ. Hôm nay chúng ta để mắt tới người con cả trong dụ ngôn nổi tiếng của Chúa Giêsu mà chỉ mình thánh Luca ghi lại, với hai câu hỏi: (1) Tại sao ta lại để mắt tới người con cả; và (2) Làm sao để ta thoát khỏi thái độ như người con cả.
Vì mỗi người chúng ta có dáng dấp giống anh ta. Anh ta đi làm về, nghe trong nhà đàn ca múa hát. Anh khoát tay dò hỏi một đứa ở, nó cho biết cha của anh đang bày tiệc mừng đứa con đi hoang mới về. Anh nổi giận, không thèm vào nhà. Người cha phải ra tận nơi để dỗ dành anh ta. Anh phân phô hơn thiệt –rất có lý khiến người cha đứng nghe từ đầu đến cuối (khác người con thứ không cho nó nói hết câu)-: “Đã bao năm, con ở với cha, chẳng trái lệnh cha điều nào. Thế mà có bao giờ cha thí cho con một con dê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn đâu? Vậy mà khi cái thằng con của cha kia đã ngốn hết gia tài của cha cùng với gái làng chơi, thì nay trở về cha lại làm thịt bò tơ béo tốt để ăn mừng nó!”
Lập luận lý lẽ của người con cả này không xa lạ gì với chúng ta lắm đâu –nếu một ngày nào chúng ta nhận ra rằng Chúa cũng cứu, cũng cho vào thiên quốc những người chưa theo đạo, hoặc những người theo đạo mà chẳng lễ lạy gì, hay tệ hơn nữa, như lời Chúa nói: “Tôi nói thật cho các ông: những người thu thuế tội lỗi đĩ điếm sẽ vào Nước Trời trước các ông”.
Chúng ta, những người đạo gốc, đi lễ hàng ngày, hoặc ít ra cũng giữ lễ Chúa Nhật, giữ trọn 10 điều luật của Chúa, chịu thương chịu khó dậy sớm đến nhà thờ, tối thì đọc kinh, theo Chúa trọn đạo, vậy mà Chúa thình thoảng cũng cư xử dửng dưng, thử thách này nọ; còn một số kẻ khác ăn no ngủ kỹ, hoặc 10 điều răn thì lỗi cả chục, tự do phóng túng…, ấy vậy mà cuối cùng Chúa lại cư xử với họ thật nồng hậu. Cái ấm ức làm sao không có được. (Ở đây ta không nói họ phải có điều kiện như thế nào thì Chúa mới đoái thương, nhưng mình nghĩ cho dù họ hội đủ điều kiện, thì cùng lắm tha thứ, cho qua là xong, chứ đây lại là tiếp đãi linh đình ra như thể khuyến khích đi hoang!)
Hoạ sĩ thiên tài Rembrandt đã hiểu thật hay ý hướng sâu sắc của bài dụ ngôn này, nên vẽ bức tranh như sau: Người con thứ ở trong bóng tối, đang quì, quay lưng với khán giả, khuôn mặt vùi giấu trong lòng người cha. Còn người cha là một cụ già đáng kính và toả sáng tuy cặp mắt đã loà vì khóc nhiều. Hai bàn tay run rẩy vẫn đặt tì trên vai chàng trai như để giữ anh ta lại. Một nhân vật khác –con cả– đứng đó, nhìn nghiêng một bên, hay nhắm một mắt –tất cả thái độ của anh ta toát ra sự khinh bỉ, và hai bàn tay co quắp như diễn tả sự nhờm tởm của toàn thân trước cảnh cha già bạc nhược! Còn từ trong bóng tối, Rembrandt vẽ hai người đầy tớ, những nhân vật phụ nhưng dáng vẻ láu cá như đang cố rình xem chuyện gì sẽ xảy ra giữa cha con nhà họ. Đó, thái độ của chúng ta, không phải tất cả, nhưng hầu như phần đông, trong đó có tôi, đều dễ có thái độ như người con cả: khó chịu, tức tối khi Chúa đối xử nhân từ với những người xem ra tội lỗi.
Ngoài câu trả lời căn bản là đừng ganh tị với lòng nhân lành của Chúa, -như câu ông chủ trả lời trong dụ ngôn những người thợ làm vườn nho, sau một ngày công, ai nấy đều được một đồng, khiến người làm từ sáng sớm ghen tức với kẻ chỉ làm được mỗi một giờ! Người chủ nói: hay là anh ghen tị với tôi vì tôi xử nhân từ với họ- Ngoài lời khuyên đừng ghen tị, ta có thể nương theo mẩu thoại của hai cha con trong dụ ngôn này: người con cả nói: “Thằng con của cha” (ra điều như chẳng liên hệ gì đến mình). Đáp lại, người cha nói: “Đứa em của con” (ừ, thì dẫu sao nó cũng là em của con) khác với chỉ là “đứa con của cha.”
Làm anh (làm chị) thì phải quảng đại. Có đại ca, đại huynh nào mà không rộng lượng với đàn em không? Vậy thì trong mức độ nào đó, chúng ta, những người đạo gốc là đàn anh trong đức tin đối với người khác. Hoặc nếu cùng một đức tin, thì ta cũng là đàn anh trong sự trung tín vì ta không đi hoang, ở nhà với cha. Hãy coi họ như là em (đứa em của con) để dễ có quảng đại mừng vui vì đàn em trở về.
Truyện 1001 đêm của Ba Tư có kể lại câu chuyện này: Có hai anh em nhà kia bắt trói được thủ phạm giết chết người cha của mình. Ra toà, thủ phạm thú nhận tội lỗi, nên luật mắt đền mắt, mạng đền mạng được áp dụng. Nhưng trước khi xử, hắn ta xin ân huệ cuối cùng là được trở về nhà trong 3 ngày để giải quyết một vấn đề liên hệ tới người cháu đã được giao phó cho hắn chăm sóc từ nhỏ. Hắn hứa sau 3 ngày sẽ trở lại để chịu tử hình. Quan toà và dân xem chừng không tin… thì giữa đám đông có một bàn tay giơ lên: Tôi xin bảo đảm lời cam kết của tử tội, nếu 3 ngày sau hắn không trở lại thì cứ xử tử tôi thay hắn! Tên tử tội được tự do 3 ngày để giải quyết việc gia đình. Hết hạn 3 ngày, y… trở lại để chịu tử hình. Trước khi bị hành quyết, y nói lớn: “Tôi đã giải quyết xong việc riêng, giờ đây tôi trở lại chịu tội, tôi muốn trung thành với lời cam kết của tôi, để người ta không nói được rằng chữ trung tín không còn trên mặt đất này nữa. Sau lời phát biểu của tử tội, người đàn ông bảo lãnh cũng đứng ra tuyên bố: Tôi đứng ra bảo lãnh vì tôi không muốn người ta nói rằng lòng quảng đại không còn trên mặt đất này nữa. Nghe hai lời tuyên bố trên, cả đám đông thinh lặng. Dường như ai cũng cảm thấy được mời gọi thể hiện những gì là cao quí trong lòng người. Bỗng từ giữa đám đông, hai người con trai của người cha đã bị giết tiến ra thưa với quan toà: Thưa ngài, chúng tôi xin tha cho kẻ đã giết cha chúng tôi, để người ta không còn nói được rằng: lòng khoan dung tha thứ không còn có trên mặt đất này nữa.
Toàn câu chuyện không liên hệ gì lắm tới bài Tin Mừng, nhưng 3 lời tuyên bố của 3 người trong câu chuyện lại gắn chặt với điều chúng ta rút ra từ Tin Mừng. Người con cả (là chúng ta đây) đã có ít ra được chữ tín (vì ở mãi với cha) nay nếu thêm lòng quảng đại nữa, thì sẽ dễ dàng vui mừng đón nhận sự khoan dung tha thứ của Người Cha đối với đứa em.
Xin Chúa giúp chúng ta giàu lòng quảng đại để vững tin vào một Thiên Chúa không những toàn năng, mà là nhân từ nữa mà kinh Tin Kính chúng ta sắp tuyên xưng: một Thiên Chúa là CHA toàn năng, tuy không nói “nhân từ,” nhưng chữ CHA đã bao gồm lòng nhân từ đó, mà suốt cả chiều dài kinh Tin Kính chúng ta tiếp tục tuyên xưng lòng trung tín, sự quảng đại, lòng nhân từ của Người Cha đó.
(Suy niệm của Lm Đam. Nguyễn Ngọc Long)
Niềm vui khi tìm gặp lại, thiết tưởng ai cũng đã sống trải qua trong đời. Cha mẹ gặp lại con cái sau lâu ngày đi làm hay đi học xa nhà. Vợ chồng gặp lai nhau, vì hoàn xa cách do chiến tranh gây ra, do tỵ nạn di cư mỗi người lạc một nơi. Bạn bè tìm thấy nhau sau thời gian cùng chung học mỗi người lưu lạc mỗi phương trời…
Còn nỗi vui mừng nào lớn lao hơn nữa, khi gia đình, bạn bè, đồng hương được xum hợp, đất nước được thống nhất không còn chia cắt hai miền Nam Bắc năm xưa ở bên quê nhà Việt Nam, năm 1989 khi bức tường Bá Linh sụp đổ không còn chia cắt hai miền đất nước Đông Tây nữa, khi người Đại Hàn ở miền Nam được sang tìm gặp lại thân nhân của mình ở miền Bắc nước Triều Tiên…
Đức Mẹ Maria và bà thánh Elisabét vui mừng hân hoan gặp lại nhau. Họ mừng rỡ chúc tụng nhau và cảm tạ Thiên Chúa (Lc 1:39-45)
Đức Mẹ Maria và Ông thánh Giuse lo lắng âu sầu đi tìm trẻ Giêsu đi lạc. Khi tìm gặp lại con mình, niềm vui mừng của Ông Bà biểu lộ qua sự ngạc nhiên, vì thấy con mình chững chạc ngồi nói chuyện với những người thông thái. Hai Ông Bà thở ra nhẹ nhàng và thốt lên lời biểu lộ niềm vui mừng âu yếm thương con: “Con ơi, sao con lại xử với Cha Mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” (Lc 2:41-48)
Khi tìm gặp lại người thân yêu hay đồ vật quí báu đã lâu ngày thất lạc, tưởng như đã mất, lúc đó niềm vui mừng hân hoan không chỉ dào dạt trong trái tim trí não, nhưng hiện lộ ra trên gương mặt, nơi khoé mắt.
Niềm vui mừng đó có thể biến thành giòng nước mắt sung sướng hạnh phúc vì quá cảm động không nói nên lời và chỉ còn biết giang tay đón nhận. Như người cha con nhân lành mừng mừng tủi tủi giang đôi tay ôm hôn cậu ấm trở về bình an. (Lc 15:11-32).
Niềm hạnh phúc đó biến đổi gương mặt thành sáng rực đỏ chói, không phải vì xấu hổ, nhưng là dấu hiệu của sung sướng hạnh phúc đang sôi sục dâng tràn trong tâm hồn.
Niềm hân hoan sung sướng có thể là tiếng cười dòn đã vang tiếng, là lời khoe báo tin mừng cho mọi người. Như người mục đồng tìm thấy lại con chiên, con trâu, con bò, con dê của mình đi lạc đàn. Như một bà lão sống cảnh đạm bạc nghèo khó chiu chắt tiết kiệm từng đồng xu cắc bạc, lo âu quét nhà soi đèn mò mẫm tìm thấy lại đồng bạc đã mất. Vì đồng bạc này có thể giúp bà mua được gạo, được thức ăn cho ngày sống (Lc 15:1-10).
Vui mừng sung sướng hạnh phúc vì của châu báu hay người mình quý mến thương yêu đã thất lạc xa vắng, nay lại tìm gặp thấy.
Đó cũng là nỗi vui mừng hân hoan của Thiên Chúa, Đấng sinh thành nuôi dưỡng đời con người, khi chúng ta từ bỏ điều xấu xa tội lỗi sống theo điều thiện, theo giới răn Tình Yêu như Chúa muốn: “Triều Thần Thiên Chúa, ai nấy vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối”. (Lc 15:10).
Theo một bản thống kê được đăng trên tờ Tablet (12/1996): hàng năm tại Anh quốc có khoảng 250 ngàn người thuộc mọi lứa tuổi bị mất tích, vì đủ thứ lý do. Một cơ quan bác ái chuyên về tìm người thất lạc được thành lập năm 1992, hoạt động liên tục 24 giờ một ngày, 365 ngày một năm, và hiện nay vẫn đang phát triển không ngừng.
Riêng tại Hoa kỳ, mỗi năm, có khoảng 50 ngàn đứa bé được ghi nhận mất tích. Trong số đó, 5 ngàn em bị thiệt mạng trước khi được tìm thấy xác. Tại nhiều quốc gia, người ta không thể đưa ra con số chính xác về các vụ mất tích. Có nơi chính phủ chỉ thành lập các chương trình tìm kiếm xe mất cắp, các đồ vật bị đánh rơi, hay quà cáp thư từ bị giao sai chỗ, chứ không hề có chương trình tìm người thất lạc.
Nguyên nhân gây nên tình trạng mất tích hay thất lạc thì vô số, nhưng các chuyên gia xã hội tóm tắc vào ba điều căn bản sau đây: 1) bị bắt cóc bởi các cha mẹ không còn chung sống với nhau; 2) là nạn nhân của các tội ác bạo động trong xã hội; 3) bỏ nhà ra đi vì không tìm thấy hạnh phúc gia đình.
Dù khởi đi từ nguyên nhân nào, sự thất lạc cũng đều gây cho người ở lại một nỗi xót xa nuối tiếc. Của thất lạc càng quí thì niềm tiếc nuối càng da diết, càng thúc đẩy một cuộc kiếm tìm. Càng tha thiết gắn bó với của bị mất bao nhiêu càng làm cho nỗi vui mừng thêm chất ngất khi tìm gặp lại bấy nhiêu.
Nhớ nhung, xót xa, nuối tiếc, kiếm tìm, hân hoan, hạnh phúc… tất cả diễn tả tâm tình của một người Cha nhân từ đối với đứa con “bị lạc” nhưng nay lại “tìm thấy,” “bị chết” mà nay đã “phục sinh.” Nỗi niềm đó được trình bày trong ba dụ ngôn: “Con Chiên Lạc,” “Đồng Bạc Mất,” và “Người Con Hoang Đàng.”
Các dụ ngôn, với cấp độ đi lên, từ con vật đến đồng tiền rồi đến con người, và cấp số giảm xuống từ 100 đến 10 rồi còn 2, đã nói lên giá trị quí báu của từng con người trong đôi mắt yêu thương của Thiên Chúa. Đối với Ngài, ai cũng có một phẩm giá riêng biệt. Không phải vì con số 99 quá lớn mà chấp nhận bỏ đi số “1” nhỏ nhoi.
Với người giàu, một đồng nào có nghĩa lý gì, công đâu bỏ ra để bới tìm một đồng cho phí giờ, nhọc thân. Trên thế gian có biết bao nhiêu sinh linh, hà cớ chi phải lao đao vất vả vì một kẻ tội đồ. Chắc hẳn những người biệt phái nghĩ thế. Nhưng Chúa Giêsu nghĩ khác. Ngài ví mình như một người rất nghèo, thiếu thốn những tâm hồn sám hối, khao khát tìm lại những gì thất lạc để đưa về với nẻo chính đường ngay. Phải chăng vì “nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở”, hay vì lòng Cha quá quảng đại bao dung mà thêm một tâm hồn lầm lạc trở về, thì lòng Ngài lại mừng vui sung sướng: “Bà con hãy chia vui với tôi… Bà con hãy vui mừng cùng tôi… Chúng ta phải ăn khao mới được” (Lc 15:6,9,23).
Những “con chiên lạc đàn” được ví như những chiếc tàu không bánh lái hay mất hướng đi. Hành trình lầm đường này có thể xảy ra do sự u mê của chính nó, nhưng cũng có khi vì không được quan tâm chỉ dẫn đúng mức.
Có những con chiên xa đàn lạc lối, nhưng cũng có những con đang sống trong đàn mà chẳng phải là chiên. Có đứa con bỏ nhà xa cha, nhưng cũng có đứa con tuy sống gần cha mà lòng dường như đi hoang từ lâu. Nó coi cha không khác gì ông chủ hà khắc keo kiệt, chẳng hề bố thí cho một con dê để vui vầy với chúng bạn. Như vậy, có thứ lạc đàn thể lý và cũng có thứ lạc đàn tâm linh. Có những người không đi nhà thờ vì lòng họ xa Chúa, song cũng có những người không bỏ nhà thờ nhưng lòng cũng chẳng gần Chúa hơn được bao nhiêu. Có lẽ vì tâm trí họ đang đi lạc trong khu rừng có nhiều tieng ca của danh vọng, hương sắc của đồng tiền, hung khí của hận thù, giọng ríu rít đầy lôi cuốn của xác thịt.
Sai lạc nào cũng cần chỉnh đốn. U mê nào cũng cần ánh sáng chiếu soi. Nhưng có thứ ánh sáng nào ấm đẹp cho bằng yêu thương. Vì có yêu thương mới có tìm kiếm chiên, cõng lên vai, đem về nhà. Có yêu thương, người ta mới ngóng trông, đón nhận, dung thứ, ăn mừng. Nhờ yêu thương mà chiên lạc thành chiên ngoan và con đi hoang lại tìm được mái ấm gia đình.
Cách đây không lâu, Nhật báo Người Việt có đăng một bản tin: Vào một ngày tối trời tháng Ba năm 1999, đang lúc xem TV trong nhà, bà Huỳnh P. T. Vân tại Bà điểm Hóc môn chợt nghe tiếng chó sủa dữ dội. Bà vội mở cửa xem thì khám phá một em bé trai sơ sinh trần trụi, đang nằm dưới hàng dậu trước nhà. Đứa bé dường như mới chào đời, cuống rốn còn nguyên chưa ai cắt, mình mẩy dính đầy cát, kiến đang bắt đầu bu lại, và đôi chân tím bầm.
Hốt hoảng, bà vội bế đứa bé vào nhà và tìm cách đưa ngay đến bệnh xá trong huyện. Sau khi được y tá cắt cuống rốn cùng chữa trị đôi chân, bà Vân đưa đứa bé về nhà, đặt tên Trần Minh Phúc.
Nhiều người dân trong vùng muốn nhận em làm con nuôi, thậm chí có người xin tặng bà Vân ba lượng vàng để có được cháu bé. Thế nhưng bà Vân vẫn không tha thiết với lời đề nghị kia. Bà tâm sự: “Nhìn mặt cháu tự nhiên thấy thương như con đẻ của mình. Thức với nó mấy đêm, thương lắm rồi, không xa được.” Nhà tuy nghèo nhưng bà khẳng định sẽ giúp cháu sau này ăn học đàng hoàng.
Xót xa làm sao khi người mẹ ruột đành đoạn đánh mất con mình trong mớ bung xung của áp lực xã hội, danh dự gia đình, và nỗi yếu đuối cá nhân. Nhưng cảm động và đáng phục biết bao khi có những con người bất chấp tình cảnh túng nghèo, vượt thoát áp lực của một xã hội chuyên lấy đồng tiền và quyền lực làm thước đo mọi giá trị, để làm nỗi bật phẩm chất cao quí của yêu thương. Nhờ tình thương, sự sống đã được bảo tồn và nâng cao.
Lắm khi vì tiếng gọi ngọt ngào của hưởng thụ, phóng túng, đam mê, ích kỷ mà người ta đã bán đứng nhân phẩm và bước vào con đường lầm lạc, nhưng nhờ tình thương và lòng quảng đại từ ái mà bao tâm hồn tìm được mái ấm và bước chân hoang can đảm trở về.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết gieo yêu thương trên mọi lối đi của cuộc đời, để tha nhân có thể gặp được dấu mà bước vào, và lần tìm về với Chúa là cội nguồn của yêu thương tha thứ. Chúng con tin rằng: đi theo Chúa, hạnh phúc sẽ không hề tắt; ở bên Ngài, hoan lạc sẽ chẳng hề phai bao giờ.
Niềm vui phát xuất từ đâu? Tình yêu là một nguồn vui lớn. Hôm nay, Đức Giêsu muốn mạc khải bản chất tình yêu Thiên Chúa qua những nét từ bi lạ lùng. Nói khác, lòng thương xót là chiều kích thực tế của tình yêu Thiên Chúa đối với loài người.
LÒNG XÓT THƯƠNG.
Đức Giêsu đã phải dùng ba dụ ngôn liên tiếp để diễn tả phần nào một khía cạnh của tình yêu Thiên Chúa. Lòng xót thương chính là một đặc tính vô cùng cao quí của Thiên Chúa. Nếu không đầy lòng thương xót, chắc chắn Thiên Chúa không bao giờ có thể đi sâu vào lòng người đến thế. Chính vì lòng thương xót trời bể, Thiên Chúa mới cảm thấy “vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối.” (Lc 15:7, 10) Niềm vui không đến với Chúa qua đường lối thông thường “có vay có trả”. Lòng thương xót đó rất nhiệm mầu nhưng cũng rất thực tế. Chẳng ai hiểu thấu bản chất lòng xót thương. Nhưng ai cũng có thể cảm nhận lòng xót thương đó. Chính vì thế Đức Giêsu phải dùng nhiều dụ ngôn để khai sáng những chiều cạnh bí hiểm của mầu nhiệm lớn lao này.
Trước hết, ngược với mọi toan tính thường tình, người Mục tử nhân lành dám để chín mươi chín con chiên ngoài đồng hoang, để tìm con chiên bị mất (x. Lc 15:4) Ngoài đồng hoang chín mươi chín con chiên đó dễ trở thành mồi ngon cho bọn chó sói hay những quân đạo chích. Nhưng vì lòng xót thương đối với con chiên thất lạc, ông đã quên tất cả. Ông liều mạng xông vào những chỗ nguy hiểm để tìm lại một giá trị đã mất. Mỗi người là một giá trị độc đáo đối với Thiên Chúa. Không ai không được hưởng lòng thương xót của Chúa. Chính Chúa đã âu yếm gọi con người là “con chiên của tôi?” (Lc 15:6) Thiên Chúa tìm lại được tội nhân, giống như tìm lại được hình ảnh mình. Thánh Phaolô đã bám chặt vào lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, đến nỗi ông dám thách thức: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô?” (Rm 8:35) Tình yêu Đức Kitô là nguyên nhân tạo nên mọi giá trị đích thực.
Giá trị đó có thể ví như đồng quan người phụ nữ đánh mất. Mất một đồng bà cũng cặm cụi tìm kiếm. Tìm được rồi, “bà ấy mời bạn bè, hàng xóm lại” (Lc 15:9) chung vui với bà. Niềm vui đó thật chẳng có ý nghĩa gì đối với những người giàu có. Nhưng đối với bà, một đồng thực là ý nghĩa và quan trọng. Cũng như một con chiên vẫn có một giá trị hơn chín mươi chín con kia. Thiên Chúa cần phẩm chứ không cần lượng. Quả thế, Thiên Chúa “sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.” (Lc 15:7) Chỉ có tấm lòng sám hối mới tạo nên tất cả giá trị con người. Đó là một sự thật!
Sự thật đó có thể tìm thấy nơi người con hoang đàng. Trong cảnh cùng cực, anh đã thấy tất cả sự thật và ý nghĩa cuộc đời. Anh không thể chịu nổi cảnh phi lý: “Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói!” (Lc 15:17) Không thể phung phí cuộc đời trong vô vọng như thế! Khi trở về, đụng chạm trực tiếp với người cha bao dung, anh đã để những giọt nước mắt tự do tuôn rơi. Anh chẳng còn gì ngoài lòng sám hối. Nhưng đó mới là tất cả lý do khiến người cha nhân lành “mở tiệc ăn mừng!” (Lc 15:23) Ông như tìm được một giá trị vô cùng lớn lao trong người con trở về đó, “vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.” (Lc 15:24) Chính lòng sám hối có khả năng phục hồi tất cả những gì đã mất và tạo được niềm vui vô cùng lớn lao.
Phải có một con mắt nhân hậu như người cha mới thấy được giá trị cao cả của tấm lòng sám hối. Người con thứ đã trải qua những giây phút tan nát như thế và đã cảm thấy phải lệ thuộc hoàn toàn vào tình thương của cha. Nhờ lòng sám hối, người con thứ mới hưởng được một bữa tiệc thịnh soạn. Ngồi giữa bàn tiệc với “thịt con bê béo” (Lc 15: 27) và “đàn ca nhảy múa” (Lc 15:25), chắc chắn anh không thể tưởng tượng được lòng cha bao dung tới mức đó! So với lúc còn xa cha, “anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho dầy bụng, nhưng chẳng ai cho,” (Lc 15:16), thật là một trời một vực! Anh thấy rõ cảnh trái ngược giữa tình cha nồng thắm và tình đời bạc đen.
Đại diện cho tình đời đen bạc đó là người anh cả, một con người chỉ biết sống với lý trí. Anh không thể hiểu được con tim người cha. Anh chỉ sống theo lẽ công bình. Suốt đời phục vụ cha, anh chỉ nhằm “một con dê con để ăn mừng với bạn bè.” (Lc 15:29) Anh lại còn cố cắt nghĩa cho cha hiểu về công trạng cồng kềnh của mình. Bởi vậy anh không thể chung vui với cha. Không cảm thấy mất mát khi em lìa xa mái ấm, nên anh cũng chẳng thấy tìm lại được gì sau khi em trở về. Cha không chỉ bao dung với người em, nhưng cũng quảng đại với người anh nữa: “Tất cả những gì của cha đều là của con.” (Lc 15:31) Anh hoàn toàn không hiểu biết chút gì về tấm lòng trời bể của cha. Bởi thế anh không hòa nhập và chia sẻ với cha trong nếp sống gia đình. Anh không có một cái nhìn khoan dung và bao quát để đi sâu vào tâm hồn thân phụ. Tâm hồn anh hoàn toàn khép kín với cha và em.
HÒA BÌNH VÀ LÒNG THƯƠNG XÓT.
Ngày nay, chính sự khép kín đó là sinh ra mọi thứ chiến tranh. Mặc dầu sống giữa thời đại đầy ắp những phương tiện thông tin hiện đại, người ta vẫn không hiểu biết nhiều về nhau. Bởi vậy mới có những thái độ bất khoan dung và thù nghịch. Biến cố 11/9/2001 tại Hoa Kỳ là một bằng chứng. Hàng ngàn người vô tội tại World Trade Center đã phải thiệt mạng vì sự thù hận. “Không thể kiếm được từ nào để diễn tả ảnh hưởng của một trong những cuộc tấn công đẫm máu nhất thời đại.” (Federico Lombardi, CWNews 111/9/2001) Toàn thể thế giới kinh hoàng khi nhìn thấy hai chiếc phản lực dân sự do bọn không tặc lao vào hai ngôi nhà chọc trời, trung tâm dịch vụ thế giới. Trong phút chốc hai biểu tượng của đất nước giàu có nhất thế giới đã sụp đổ tan tành, đè chết hàng ngàn người dưới đống gạch vụn.
Không ngờ con người có thể có những hành động quái ác như vậy! Đó là “một hành động lăng mạ khủng khiếp tới phẩm giá con người.” (ĐGH Gioan Phaolô II, CWNews 12/9/2001) Con người chưa thể thương yêu nhau vì chưa ý thức về lòng xót thương Chúa dành cho mỗi người và cộng đồng nhân loại. Lòng xót thương của Thiên Chúa chính là động lực giúp cho con người nhìn nhau như anh em và tha thứ cho nhau. Trong hoàn cảnh nhân loại, không thể tìm thấy điều kiện lý tưởng cho tình yêu. Nếu cứ chờ đợi có đủ lý do mới yêu nhau, con người sẽ thất vọng, vì trần gian là một cõi tương đối. Chỉ có lòng thương xót hay lòng khoan dung mới giúp nhân loại tồn tại.
Trước thảm họa khủng bố hôm nay, chúng ta phải làm gì? “Các nhà lãnh đạo thế giới đừng để sự thù hận và tinh thần trả thù thống trị mình, hãy làm tất cả những gì có thể làm để kìm giữ những vũ khí phá hoại gieo rắc sự hận thù và chết chóc mới và cố gắng chiếu ánh sáng vào nơi tăm tối của mối lo âu nhân loại bằng những việc làm hòa bình.” (ĐGH Gioan Phaolô II, CWNews 12/9/2001) Việc làm hòa bình đó chắc chắn phải phát xuất từ niềm tin vào tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa đã in dấu từ bi vào bản tính nhân loại. Nhưng không hiểu tại sao “từ tận tầng thẳm sâu của tâm hồn con người đôi khi nổi lên những mưu kế độc ác ngoài sức tưởng tượng, có thể phá hủy trong chốc lát đời sống thường ngày của một dân tộc. Nhưng khi chữ nghĩa không diễn tả nổi, thì đức tin đến giúp chúng ta.” (ĐGH Gioan Phaolô II, CWNews 12/9/2001) Đức tin đem lại niềm hi vọng. Chỉ vì không đặt niềm tin nơi Đức Giêsu, hiện thân lòng Thiên Chúa xót thương, nên “những tên khủng bố là những người tuyệt vọng; họ cảm thấy không có gì để mất. Họ không nhìn thấy tương lai, bởi thế họ sẵn sàng giết người khác và chính mình.” (TGM Renato Martino, CWNews 13/9/2001) Đúng là một thảm họa cho nhân loại. Thảm họa đó chỉ có thể diệt trừ nếu “cả thế giới thành thật cam kết tìm kiếm hòa bình” và đừng chỉ “chú tâm tới quyền lợi riêng” (TGM Renato Martino, CWNews 13/9/2001).
Chính vì chỉ chú ý tới quyền lợi riêng, nên lòng người anh cả không bao giờ bình an. Nhưng bình an bao giờ cũng là mối phúc chính yếu Chúa gởi đến nhân loại. Bằng chứng, ngay sau khi Trung Tâm Mậu Dịch Thế Giới sụp đổ, hàng ngàn nhân viên cứu trợ tình nguyện đã túa đến tìm kiếm những người còn sống sót trong đông gạch vụn. Khắp nơi dân chúng đã rủ nhau đi hiến máu. Dân chúng New York “thi đua tỏ lòng liên đới” (TGM Renato Martino, CWNews 13/9/2001) với những nạn nhân khủng bố.
Khủng bố chỉ là một dấu chỉ sự xáo trộn cực độ trong tình liên đới nhân loại. Con người không thèm nhìn nhau là anh em, chỉ vì không thấy được hình ảnh Thiên Chúa nơi anh em. Để có thể thấy được hình ảnh Thiên Chúa, con người cần sám hối. Lý do vì nhờ sám hối, con người nhìn lại được hình ảnh Thiên Chúa trong đáy lòng mình. Nhờ đó, họ mới thấy được tình liên đới với anh em.
Tóm lại, dù nhiều người đang chìm ngập trong thất vọng, nhưng Kitô hữu vẫn vững tin. Vì tình yêu Thiên Chúa còn đó! Lòng sám hối còn đó! Sám hối có thể phục hồi tất cả. Người con thứ đã dạy chúng ta bài học lớn lao đó. Nhưng có sám hối được hay không, đó là nhờ lòng tin tưởng sâu xa vào Thiên Chúa. Càng tin tưởng sâu xa, càng cảm nghiệm lòng thương xót trời bể của Thiên Chúa. Thánh Phaolô cảm nghiệm sâu xa về lòng Chúa xót thương: “Tôi đã được Người thương xót. Sở dĩ tôi được thương xót, là vì Đức Giêsu Kitô muốn tỏ bày tất cả lòng đại lượng của Người nơi tôi là kẻ đầu tiên.” ((1 Tm 1:13.16) Xưa kia, trước cơn đe loi của Thiên Chúa, “ông Môsê cố làm cho nét mặt Đức Chúa, Thiên Chúa của ông, dịu lại. Đức Chúa đã thương, không giáng phạt dân Người như Người đã đe.” (Xh 32:11.14)
LINH MỤC KHÔNG PHẢI LÀ ÔNG CHỦ, NHƯNG LÀ TÔI TỚ CỦA ĐÀN CHIÊN
(Giuse Võ Tá Hoàng chuyển ngữ /zenit.org)
Chúa nhật hôm nay chúng ta đọc các dụ ngôn của thánh sử Luca về lòng thương xót, cùng chung với 3 bài đọc Kinh thánh của phụng vụ Lời Chúa, cho phép chúng ta đặc biệt áp dụng giáo huấn này đối với hình ảnh và sứ vụ của linh mục.
Trước hết, trang Tin mừng giới thiệu hình ảnh của người mục tử, người đi tìm kiếm chiên lạc trong sa mạc, mạc khải về lòng thương xót của Thiên Chúa Cha trong Đức Kitô, cũng như ám chỉ rõ ràng về thái độ của mỗi linh mục, được mời gọi tìm kiếm những người đang quay lưng lại với đoàn chiên của ơn cứu độ. Dụ ngôn tiếp theo sau cũng chung một bài học như vậy.
Trong phần thứ hai của Tin mừng, Chúa Giêsu kể về dụ ngôn người cha giàu lòng thương xót và đứa con hoang đàng. Qua dụ ngôn này chúng ta lưu ý chỉ một điều: đứa con hoang đàng đang ở trong nhà cha mình, anh không muốn sống như một người con, anh muốn tự thay thế cha mình: vì thế anh đòi quyền quản lý phần tài sản của mình, để có được nó, để có thể sống như ông chủ của những thứ đó và của những người ông gặp gỡ, qua đó anh sẽ dùng ảnh hưởng của mình bằng cách sử dụng của cải đã nhận được. Tuy nhiên, trong khi anh ở trong nhà, dưới sự hướng dẫn khôn ngoan của cha mình, anh đã có thể tận hưởng được tất cả những mối lợi của vị thế làm con của mình; nhưng trái lại, giờ đây anh đã tiêu hoang tất cả, kết thúc trong sự khốn khổ, bị bạn bè thân thích bỏ rơi, bởi vì họ đã kết giao với anh chỉ vì lợi ích của họ, và có thể lấy hết tất cả những gì người con hoang đàng có trong tay.
Đây cũng là vấn đề cay đắng của mỗi linh mục trong nhà Chúa, là Giáo hội. Vị linh mục muốn hành động không như người con, mà như một ông chủ. Người con hoang đàng là hình ảnh rõ ràng của những người tội lỗi, và cũng bao gồm hình ảnh của linh mục, người không biết tự kiềm chế và không cư xử như thừa tác viên của Thiên Chúa (Minister, tiếng la tinh có nghĩa là tôi tớ). Và như vậy, linh mục muốn nắm giữ quyền bính trong tay mình: ngài quyết định! Và cũng có thể, linh mục làm cho một số người bị ràng buộc với ngài, vì một số lý do, ngoại trừ một điều: cùng đồng hành với nhau hướng về Thiên Chúa. Nhưng cuối cùng, điều gì còn lại trong đôi tay của vị linh mục, người đã đặt cuộc sống mình theo cách này? Sự nghèo nàn của cuộc sống và của một thừa tác viên bị thất bại. Cho nên, linh mục phải khôn ngoan và trở về với Cha, để sống như là người con và tôi tớ của cha. Phải ở lại trong nhà, vâng phục Thiên Chúa, và chỉ như vậy linh mục mới có thể làm trổ sinh hoa trái tốt đẹp.
Trong bài đọc I, bài học này đã được tiên báo. Dân tộc tội lỗi và Thiên Chúa, có lẽ để thử thách Môsê, Người nói với ông: “Dân của ngươi, dân mà ngươi đưa ra khỏi đất Ai-cập, đã bị hư hỏng”. Đứng trước hoàn cảnh này, Môsê có thể quyết định để giải quyết vấn đề một mình, bằng nổ lực và bằng những quyết định độc lập của mình: “Tôi đã đưa dân tộc này ra khỏi Ai-cập, giờ đây họ không còn lắng nghe những chỉ dẫn của tôi, tôi sẽ giải quyết vấn đề theo cách này….”
Nhưng Môsê là người của Chúa và là tôi tớ của Thiên Chúa: ông biết rằng dân này không phải của ông; ông biết rằng ông là người trung gian giữa Thiên Chúa với dân, một thừa tác viên của Thiên Chúa bên cạnh dân, là những người còn sót lại của Chúa chứ không phải của ông. Cho nên ông trả lời: “Lạy Chúa, tại sao Chúa nổi cơn thịnh nộ với dân mà Chúa đã dùng quyền lực và cánh tay hùng mạnh đưa ra khỏi đất Ai-cập?. Môsê trả lời rất hay: Dân tộc này đã được Thiên Chúa giải thoát chứ không phải ông. Sau câu trả lời đầy khôn ngoan, Thiên Chúa đã ra tay can thiệp. Như là dân của Người, Người sẽ sửa dạy những lỗi lầm, tha thứ tội lỗi và sẽ chỉ ra lối đi để đi lại hành trình tiến về đất hứa.
Linh mục không phải là ông chủ, nhưng là tôi tớ của đoàn chiên. Những con chiên là của Thiên Chúa, chúng thuộc về Người và Người sẽ hướng dẫn chúng. Cho dù có muốn thực hiện nó bằng cách thừa nhận quyền bính thực sự cho các thừa tác viên của mình trên thế gian, với lý do này họ xứng đáng được lắng nghe, vâng phục và cả được tôn kính. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là họ có thể nâng mình lên trên bệ lý tưởng một cách kiêu ngạo và cho mình sở hữu những chìa khóa của sự hiểu biết, bằng cách đó họ đã không vào, mà những kẻ muốn vào, cũng không được vào (x. Lc 11,52).
Điều thực sự giúp các linh mục vẫn khiêm nhường và nhận ra sự lớn lao của ơn sủng đã lãnh nhận mà không cần chạy theo thói kiêu căng, tự mãn, là kiên trì suy niệm về chính sự bé nhỏ của con người, giải quyết nó, cố gắng phân tích lương tâm mình và thực hành bí tích hòa giải thường xuyên, ngay cả trong trường hợp không có tội trọng, được xem như là thuốc giải hữu hiệu cho sự nông cạn và kiêu căng. Trong bài đọc thứ hai, Thánh Phaolô đã thừa nhận mình như là tội nhân, chính trong giây phút mà ngài nhận ra sự lớn lao của đặc sủng tông đồ đã lãnh nhận từ Đức Kitô, ngài nói: “Cha cảm tạ Đấng đã ban sức mạnh cho cha là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, vì Người đã kể cha là người trung tín, khi đặt cha thi hành chức vụ: dù trước kia cha là kẻ nói phạm thượng, bắt đạo và kiêu căng […] Đức Giêsu Kitô đã đến trong thế gian này để cứu độ những người tội lỗi, trong số ấy, cha là người thứ nhất”. Điều quan trọng căn bản là linh mục thường xuyên lặp lại những điều này hoặc bằng những lời đơn giản: “Chúa Kitô đã sai tôi tìm những con chiên lạc, để cứu độ những người tội lỗi, nhưng trong số đó tôi là người thứ nhất! Ngay sau khi tôi đã nhận được lòng thương xót, tôi cũng sẽ đi gặp gỡ anh em bằng cách mang theo tôi lòng thương xót của Thiên Chúa”.
Trong ánh sáng của Lời Chúa hôm nay, chúng ta nổ lực cầu nguyện liên lỉ và tiếp tục như vậy, để các linh mục ý thức được sự nhỏ bé của con người là món quà đặc biệt của ân sủng đã nhận được, luôn biết tìm kiếm với lòng nhiệt thành để quyến rũ những con chiên trong đàn chiên của Đức Kitô, đưa chúng đến đồng cỏ xanh rì của cuộc sống bất tử.
Anh chị em thân mến.
Trong bài giảng tĩnh tâm cho giáo triều Roma, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận có nói: Chúa Giêsu cũng có những khuyết điểm.
Trước tiên Ngài là người không biết về toán học. Ngài đã bỏ lại 99 con chiên để đi tìm một con. Giữa con số 1 và 99 không biết số nào lớn.
Kế đến Ngài là người không biết làm kinh tế. Đang có 9 đồng lại không màn đến, để đi tìm một đồng, rồi vui mừng, mời bạn bè đến chia vui.
Hơn nữa, Ngài còn là Người hay quên. Những người tội lỗi vây quanh mà dường như Ngài không hay biết. Như đứa con trong dụ ngôn, đã ra đi phung phí tiêu hao tiền của, thế mà Ngài vẫn ngày đêm mong đợi, để rồi khi nhìn thấy đứa con, Ngài vui mừng.
Nhưng thật ra đó không phải là những khuyết điểm, mà chính vì Tình Yêu Thương bao la đã vượt qua tất cả, vượt qua sự tính toán hơn thua của trần thế, vượt qua mọi đố kỵ của người đời. Ngài chỉ còn nhìn thấy Tình Yêu được đáp trả. Như thế đã đủ rồi và Ngài không đòi hỏi điều gì nữa.
Như trong bài phúc âm chúng ta vừa nghe. Ngài vui mừng vì tìm được con chiên lạc. Ngài không chờ đợi con chiên phải la lối, kêu cứu, nhưng Ngài đã đi và tìm được nó.
Cũng như đồng bạc bị mất đi. Vui mừng vì tìm được. Không phải vì giá trị của nó hơn những đồng khác. Nhưng vì Ngài không muốn những gì của mình phải hư đi, mất đi một cách vô cớ, nên đã làm hết mọi cách để tìm cho được.
Cao hơn nữa, đối với con người. Thiên Chúa chờ đợi một dấu hiệu chứng tỏ lòng ăn năn sám hối. Quay trở về, chỉ cần có dấu hiệu quyết tâm như thế, còn mọi việc khác Ngài sẽ bù đắp cho bằng Tình Yêu Thương bao la của Ngài. “Phải ăn tiệc vui mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”.
Mỗi người trong chúng ta là con chiên trong đàn của Chúa, là đồng bạc trong tay Chúa, hơn thế nữa còn là người con rất yêu quý của Ngài.
Nhưng chúng ta là người con như thế nào? Người con hằng ngày ở kề cận bên cha để tính toán thiệt hơn, để rồi bất bình khi thấy Cha không làm theo ý muốn của mình. Đó là người con cả trong bài Phúc âm chúng ta vừa nghe. Hay là chúng ta thấy mình đáng được một chút gì đó, để rồi đòi hỏi và tự mãn với những gì mình có, không cần biết đến ai, kể cả Người đã ban cho mình những cái hiện có. Chính thái độ tự mãn đó đã tiêu hao đi những gì đã được, đến nỗi không còn gì hết. Đó là người con thứ.
Nhưng chúng ta có biết hồi tâm, có nhìn thấy được sự mất mát, thiếu thốn của chính mình để biết quay trở về, nhận sự tha thứ và sống lại trong tình yêu thương và vui mừng của Thiên Chúa. Hay là chúng ta cứ tưởng mình đang giàu có, đang có công trạng qua sự tính toán riêng tư của mình và Thiên Chúa phải trả công cho chúng ta. Nên chúng ta không cần phải trở về, không cần phải vào nhà, cho dù bao nhiêu lời van xin, bao nhiêu lời giải thích, chúng ta cũng không thể hòa nhập với những gì mình cho là không xứng đáng, không hợp lý, chỉ có mình là đúng nhất, còn người khác thì không bao giờ. Đó có phải là những bước chân hoang? Không phải bằng thân xác, nhưng đó là những bước chân hoang của tâm hồn.
Thiên Chúa đang chờ đợi mỗi người quay trở về, để Ngài ôm vào lòng, để Ngài ban cho tất cả, để Ngài ban cho tình Yêu thương bao la của Ngài.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta biết từ bỏ kiếp đi hoang, biết nhìn thấy được những lỗi lầm của mình, để quay trở về sống trong sự vui mừng Nước Trời.
Bạn thân mến,
Có bao giờ bạn bị lạc mất một món đồ mà phải vất vả đi tìm không? Lúc chưa kiếm được thì tâm trạng bạn ra sao? Có bồn chồn nóng nảy, bực mình cay cú không? Còn khi tìm được rồi thì bạn cảm thấy thế nào nhỉ? Có thấy vui và nhẹ nhõm không?
Tuần trước tôi để cái thẻ nhớ của máy chụp hình trong chiếc áo khoác ngoài mà quên bẵng đi. Rồi cứ loay hoay cả buổi đi tìm. Moi móc từng góc cạnh của căn phòng nhỏ để tìm cho bằng được. Tìm mãi không ra, cứ ngỡ rằng đã mất, mãi cho đến khi tình cờ đem quần áo đi giặt, lục túi áo mới bắt gặp nó. Tôi thở phào nhẹ nhõm!
Mất cái thẻ nhớ của máy hình thì tôi có thể mua mấy cái khác thay thế. Nhưng tôi quyết tâm kiếm cho được vì trong đó có chứa một vài tấm hình phong cảnh tôi chụp ở VN. Những tấm hình đó có đầy ở trên internet, có khi còn đẹp hơn là hình tôi chụp nữa. Nhưng đây là những tấm hình quan trọng, có giá trị với tôi nên tôi đã vất vả đi tìm.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng nói lên một tâm tình tương tự như thế. Ba dụ ngôn của Tin Mừng Luca chương 15 nói về con chiên lạc, đồng bạc bị mất, và người con đi hoang. Cả ba dụ ngôn đều nói lên trọn vẹn tâm tình của một Thiên Chúa yêu thương và nhẫn nại. Cả ba đều diễn tả niềm vui khi tìm được cái đã mất. Cả ba dụ ngôn đều nhấn mạnh vào hai cụm từ được lập đi lập lại: “mất” (Hy lạp: apollymi) và “tìm đuợc” (heuriskô) và sự vui mừng khi tìm thấy điều đã thất lạc.
Này nhé, trong dụ ngôn con chiên lạc, ta nghe thấy: “Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất? Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó!’”
Cũng tương tự như thế trong dụ ngôn đồng bạc bị đánh mất, ta lại nghe: “Hoặc người phụ nữ nào có mười đồng quan, mà chẳng may đánh mất một đồng, lại không thắp đèn, rồi quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được? Tìm được rồi, bà ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất.”
Và trong dụ ngôn người cha và hai đứa con, ta cũng nghe: “Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy. Và họ bắt đầu ăn mừng… Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy.”
Trong phụng vụ Lời Chúa hôm nay, điểm nhấn là hai dụ ngôn đầu chứ không phải là dụ ngôn thứ ba vốn đã được đọc trong Chúa nhật thứ IV Mùa Chay năm nay. Ở đây nói lên sự quan tâm của Thiên Chúa cho từng cá nhân. Lòng khoan dung của Thiên Chúa, chứ không phải thái độ ăn năn thống hối của tội nhân, là đề tài Hội Thánh mời chúng ta cùng suy tư.
Con chiên, đồng bạc và người con thứ bị thất lạc trong những hoàn cảnh khác nhau. Con chiên đi lạc vì nó không định hướng được với đàn. Có thể vì nó u mê đi lạc, có thể vì nó ham ăn quên cả đường về, hay có thể vì nó vấp ngã đâu đó, bị cả đàn bỏ lại đằng sau. Còn đồng bạc không tự mình đi, nhưng có thể nó bị mất vì rơi rớt đâu đó. Có khi nó bị lẫn lộn trong hàng trăm thứ vật dụng cỏn con. Nhưng đồng bạc lại không thể kêu lên như con chiên để người chủ đi kiếm. Nó phải an phận trong bóng tối cho đến khi ai đó tìm thấy được. Còn người con thứ thì có đủ tự do chọn lựa, nhưng anh ta đã chọn lầm và đã phải trả một giá đắt cho sự sai lầm của mình. Thông thường chúng ta nghĩ rằng anh ta ra đi vì ham chơi đua đòi, muốn độc lập, hoặc bất mãn với cha mình. Nhưng biết đâu đó là vì hoàn cảnh mà anh ta phải ra đi. Có thể vì cuộc sống ở gia đình quá ngột ngạt buồn tẻ, có khi vì người anh ganh tị chèn ép. Dù sao anh ta cũng đã bỏ nhà ra đi, và đối với gia đình làng xóm, anh ta đã thất lạc.
Dù đến từ nguyên nhân nào, sự thất lạc cũng đều gây cho người bị mất mát một nỗi xót xa nuối tiếc. Một con chiên, có thể là một con chiên nhỏ trong đàn, có đáng giá là bao mà người chăn phải vất vả đi tìm cho kỳ được? Một đồng bạc, chỉ là một đồng trong chuỗi tiền dùng làm đồ trang sức, có giá trị thế nào để người đàn bà phải đốt đèn quét nhà tìm cho kỳ được? Phải chăng hai dụ ngôn này cho thấy hình ảnh của mỗi người chúng ta trong ánh mắt yêu thương của Thiên Chúa?
Từ cấp số 100 đến cấp số 10, Thiên Chúa luôn quan tâm đến từng cá nhân và quý trọng từng người một, như họ là những người duy nhất. Không phải bởi vì 99 con chiên không lạc mà Ngài bỏ qua một con nhỏ nhoi. Không phải vì 9 đồng bạc còn đó mà Ngài bỏ mặc một đồng bị rơi vào xó xỉnh nào đó. Càng tha thiết gắn bó với của bị mất bao nhiêu, thì càng thôi thúc kiếm tìm bấy nhiêu. Càng quý trọng vật bị mất bao nhiêu, thì càng làm cho nỗi vui mừng thêm chất ngất khi tìm gặp lại bấy nhiêu.
Đó cũng là tâm tình của người cha. Ông vui mừng khôn tả khi thấy bóng con thất thểu từ đằng xa. Ông quên hết những ưu phiền sầu muộn, những sỉ nhục dằn vặt mà đứa con thứ đã để lại cho ông khi nó đòi chia của rồi ra đi. Ông quên hết tất cả. Ông tha thứ tất cả. Bây giờ chỉ còn lại trong ông là nỗi vui mừng hoan hỉ vì “con ta đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.” Niềm hân hoan sung sướng là tiếng cười dòn dã, là lời khoe báo tin vui cho mọi người.
Thiên Chúa của chúng ta là thế đó. Như lời thánh vịnh mô tả “Ngài chậm giận và chan chứa tình thương. Ngài không xử với ta như ta đáng tội. Và không trả cho ta theo giá của ta” (TV 103).
Như người chăn chiên tìm lại được con chiên bị lạc, như người phụ nữ kiếm được đồng bạc bị mất, như người cha mở tiệc, giết bê béo ăn mừng, Thiên Chúa hân hoan vui mừng khi một người con của Ngài ăn năn trở về hơn là bao người lành thánh. Và Ngài mong ước chúng ta chia sẻ niềm vui này với nhau. Trong dụ ngôn thứ ba người cha kiên nhẫn mời người anh cả bước vào bàn tiệc để cùng chung vui với cha, với em.
Ba dụ ngôn của Tin Mừng Luca chương 15 là câu trả lời của Đức Yêsu cho những lời phàn nàn và ganh tị của người Biệt Phái. Nhưng đó cũng là những lời cảnh tỉnh cho chúng ta hôm nay. Thông thường mỗi khi phạm tội, chúng ta có khuynh hướng khoan hồng nhân nhượng với chính mình, nhưng lại ít khoan dung với kẻ khác. Qua ba dụ ngôn này Đức Yêsu nhắc nhở chúng ta về lòng thương xót vô lượng của Thiên Chúa, cho chúng ta và ngay cả cho những người chúng ta không chấp nhận trong cuộc sống của mình – những người mà chúng ta coi là con chiên lạc hay người con hoang đàng.
Trong cuộc sống chúng ta hôm nay có biết bao người sa đọa, lầm đường lạc lối. Như người con thứ, họ cũng đã phải trả một giá khá đắt cho những sai lầm của họ. Nhưng liệu chúng ta có sẵn sàng đón nhận họ trở về? Liệu chúng ta có là những chướng ngại vật ngăn cản họ đến với Chúa Cha? Liệu thái độ xét đoán và óc phê bình của chúng ta có làm họ chùn bước để trở về với Thiên Chúa qua Hội Thánh? Liệu chúng ta có tập mở rộng lòng thương xót, đồng cảm để đón nhận họ như người anh chị em cùng một Cha trên trời?
Lòng quảng đại và khoan dung của chúng ta là thước đo mối tương giao mật thiết với Thiên Chúa. Chúng ta cần tập lòng khoan dung để có thể đón nhận người anh chị em lầm đường lạc lối với lòng thương xót, như lòng từ bi Thiên Chúa đã dành cho chúng ta. Và như thế, chúng ta tiếp tay với Thiên Chúa để chia sẻ sự tha thứ và hoà giải trong thế giới hôm nay.
Lạy Chúa, xin cho con biết mở lòng khoan dung với anh em con như Chúa đã khoan dung nhân hậu với con.
Là dụ ngôn. Con chiên bị lạc – Không có trí khôn – không biết mình đi lạc – không biết trở về nói chi là sám hối-hối cải-không tìm thì mất luôn.
Đồng bạc-vô tri vô giác.
Con người-có trí khôn-có tự do-biết mình đi lạc-biết trở về, quyết tâm thật lờng sám hối và chừa cải-không bắt buộc”vác trên vai” đem về được. Không tự mình muốn và quyết tâm thì THIÊN CHÚA cũng chịu thua và thực tế là đúng vậy.
Luca kết luận bằng một câu giống y nhau ở cuối cả hai dụ ngôn: “Trên trời vui mầng vì một người tội lỗi hối cải” nói lên đó là ý chính mà Luca muốn chúng ta quan tâm.
Dụ ngôn là dụ ngôn. Kể một dụ ngôn để nói lên một “ý”. Ý ấy thường không khớp với dụ ngôn. Ý là một chuyển ý có tính thần học hoặc luân lý làm một bài học để dạy giáo lý.
Bài hoc ở đây là “hối cải”. Giáo lý nầy đã được Đức Giêsu trình bày rất rõ và cờn được nhấn mạnh ở nhiều nơi trong Phúc Âm. Rõ nhất và nhấn mạnh nhất trong câu chuyện Philatô giết những người galilê và tháp siloê ngã đè chết 18 nguời với kết luận y như nhau “không sám hối thì tất cả sẽ bị huỷ diệt”. Với nguời phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình: Đừng phạm tội nữa. Với nguời baị liệt ở hồ Betsaida: Đừng phạm tội nữa kẻo phải khốn hơn truớc.
Chủ đề ” sám hối- hối cải là chủ đề chính bao trùm tất cả giaó huấn của Đức Giêsu. “Ta đến để kêu gọi nguời tội lỗi hối cải” Luca tập hợp trong ba dụ ngôn đáng lẽ goị là dụ ngôn về sự “Hối cải”. Ý cuả Luca rất rõ mà laị bị dịch ra là dụ ngôn về lờng thuơng xót.
Nguời ta nói ngon miệng “Đức Giêsu đi tìm chiên lạc”. Thực tế là thế nào?
THIÊN CHÚA tạo dựng bằng lời. Lời để dạy, để ra lệnh cho nguời khác làm. Tạo dựng xuống cấp vì lời tạo dựng mênh mông khó nhận ra nên con người không biết để làm theo, lạc lối. THIÊN CHÚA cứu độ bằng lời. Cứu độ là nâng cấp. Lời chỉ đường rõ ràng cho đi đúng hướng theo ý THIÊN CHÚA. THIÊN CHÚA chỉ đường. Đi trong đường của THIÊN CHÚA là bổn phận của con người. Cứu độ là một can thiệp đặc biết của THIÊN CHÚA trên tiến trình tự nhiên để điều chỉnh những sai lệch, đặt con người lại đúng hưóng, đúng vị trí của mình để đi cho mau tới đích là phát triển cho tới mức hoàn thiện công trình tạo dựng trong đó con người được THIÊN CHÚA giao cho đóng vai chính. Con người sẽ đựoc sống đời đời, hửong hạnh phúc vỉnh củư nếu con nguời chí thiện và tạo dựng đựoc nhờ con người mà đựoc hờan thiện. THIÊN CHÚA giao cho con người nhiệm vụ “canh tác” vừon địa đàng.
Lời làm người để dạy con người bằng ngôn ngử loài người. Rõ ràng. Chi tiết.Đầy đủ. Là mạc khải cuối cùng. Lời mở đường. Lời là đường. Đường chân lý. Không có đường nào khác. Đức Giêsu để ba mươi năm cuộc đời làm thành con đường cho con người.Ba năm giảng dạy là giải thích cho rõ về con đường của mình. Ta là đường, là chân lý.Cuộc đời của DG là con đường. Lời dạy của Người là chân lý. Ai muốn theo Ta thì…..đi trong con đường của Ta.THIÊN CHÚA không ban ơn cứu độ mà THIÊN CHÚA ban lời cứu độ.
Đức Giêsu, Con THIÊN CHÚA nhập thế đến thế gian. Thế gian phải đến với Người mới có gặp gỡ.
Đức Giêsu xuất hiện giảng dạy, chữa bệnh, trừ quỉ và làm nhiều phép lạ. Ai đến, nghe, thấy, xin.. thì mới được hưởng. Bình chân như vại. Không nhúc nhíc để đến thì “vủ như cẩn”. Sự thật nầy rõ như ban ngày. Cụ thể: Đức Giêsu đến hội đường ngày sabbat để giảng dạy. Người bệnh hoặc bị quỉ ám có mặt, được gặp Người thì được chữa lành và chỉ những người có mặt gặp gở Đức Giêsu. Đức Giêsu giảng dạy nơi vắng vẻ. Ai dến nghe thì gặp gở Nguời được ăn bánh lạ no nê. Đức Giêsu đi ngang qua thành Giêricô. Giakeu tìm mọi cách để thấy thì Người đáp lại đến nhà để gặp gở và ban ơn hối cải cho ông và cả nhà. Những người khác thì không đựoc gì. Đức Giêsu đến tìm người tội lỗi. Nhưng người tội lỗi có đến gặp gở Người, hối cải đời sống, đi theo Ngươi thì mới được sự sông mà Ngươi muốn cứu.
Đức Giêsu đến mời gọi qua một trung gian nhưng đời phải tỏ lờng tin, cụ thể là bằng sự sám hối, chừa cải. Ta đến kêu gọi người tội lỗi hối cải. Hối cải là một đáp ứng đầy đủ lời mời gọi của Đức Giêsu. Đó là ý của Luca qua hai dụ ngôn nầy: Trên trời (THIÊN CHÚA) vui mừng vì một người tội lỗi hối cải chứ không phải vì tìm đựoc con chiên lạc hay đồng bạc bị mất. Hối cải là trở nên công chính làm công dân nước Trời, là cải tạo thế gian, là cúư độ.
Hối cải là cử động đầu tiên con nguời phải làm để có thể có tiếp xúc với THIÊN CHÚA.
Chúng ta hãy hối cải chính mình và tích cực giúp người lân cận hối cải để cùng nhau đến với THIÊN CHÚA để được THIÊN CHÚA cứu độ.
Biệt phái, luật sĩ không hối cải. Do thái không hối cải. Thế gian không hối cải. THIÊN CHÚA không làm cho họ hối cải được. Đây là cái bí ẩn của tự do. THIÊN CHÚA không cưỡng chế. THIÊN CHÚA có nhiều ân sủng. Con người quyết định có nhận hay không và có làm cho sinh lợi hay không. THIÊN CHÚA có thể biến đổi lòng dạ con người nhưng chỉ những người thiện chí, cộng tác tích cực với ơn Chúa thí mới có kết quả như lờng Chúa mong muốn.
Mọi sự phải bắt dầu từ hối cải.
Bài Phúc âm hôm nay ghi lại ba dụ ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa: dụ ngôn con chiên bị mất, dụ ngôn đồng bạc bị đánh mất, nhất là dụ ngôn người cha nhân hậu.
Qua bài Phúc âm, Giáo Hội nhắc lại cho chúng ta về tình thương của Thiên Chúa Cha đối với con người tội lỗi. Thái độ của người chăn chiên đi tìm con chiên lạc, của người đàn bà bị mất một đồng tiền và của người cha có đứa con bỏ nhà đi hoang, thái độ yêu thương tha thứ đó vượt quá mức độ bình thường con người có thể tưởng tượng được và phản chiếu thái độ của Thiên Chúa đối với con người.
Theo lệ thường, nếu chúng ta có một trăm con chiên mà lỡ bị mất một con, chúng ta có nhất quyết đi tìm con chiên lạc cho đến khi gặp được mới thôi hay không? Chắc chắn là không, vì số chín mươi chín con còn lại không đáng giá hơn một con bị lạc mất hay sao? Đó là quan niệm của con người chúng ta. Đối với Chúa, mỗi con chiên, mỗi người đều có giá trị duy nhất đối với Ngài, và do đó nếu bị lạc mất thì nhất quyết phải tìm cho được mới thôi. Rồi hành động của người đàn bà cũng thế, theo thường tình thì mất một đồng cũng không sao, vì còn cả chín đồng kia mà. Nhưng để diễn tả mức độ của Thiên Chúa thì một đồng bị mất kia là hết sức quan trọng, phải tìm cho được mới thôi. Người cha của đứa con đi hoang, theo thường tình thì bỏ mặc kệ nó, nhưng để diễn tả thái độ của Thiên Chúa đối với con người thì người cha kia hằng ngày đứng trông con mình trở về, và đã nhìn thấy con mình trở về trước khi nó nhìn thấy ông. Người cha tha thứ cho đứa con ngay cả trước khi nó mở miệng xin tha, rồi làm tiệc ăn mừng.
Thiên Chúa muốn cứu rỗi mọi người và mỗi người, Ngài muốn tận dụng mọi phương thế có thể để ban ơn cứu rỗi cho con người. Vì Ngài yêu thương con người, yêu thương từng người một cách vô cùng, nhưng con người có chấp nhận ân sủng và tình thương của Ngài hay không?
Trong Cựu ước, chúng ta thấy Môisen cầu nguyện cùng Chúa, xin Ngài tha thứ cho dân đã phạm tội đến Ngài, Môisen đã không xin Chúa hủy diệt dân mình, nhưng hãy tha thứ cho dân mình. Cũng thế, chúng ta đừng bắt chước thái độ của người anh cả trong dụ ngôn, đừng ganh tị với anh chị em được ơn Chúa tha thứ cho, nhưng hãy bắt chước thái độ của Môisen cầu nguyện cùng Chúa, xin Ngài tha thứ tội lỗi cho anh chị em và cho cả chính mình nữa.
Trước nhan Thiên Chúa, tất cả mọi người chúng ta đều là những kẻ tội lỗi, đều cần đến lời cầu nguyện của nhau để trở lại cùng Chúa và trung thành với đức tin. Nguyện xin Chúa thương tha thứ các tội lỗi và nâng đỡ thành tâm thiện chí mỗi người chúng ta, giúp mỗi người chúng ta biết trở về cùng Chúa, sống xứng đáng là con cái Cha trên trời.
Đề cập đến Tin Mừng nghiêm chỉnh một chút, chúng ta sẽ nhận thấy rõ điều này: những kẻ cầm quyền đương thời trong đạo Do thái, những người Pharisêu, những người tự cho mình là công chính…đã khinh thường và tẩy chay Chúa Giêsu. Trái lại, những người tội lỗi, những kẻ thu thuế… đã trân trọng và nhận biết Ngài. Thử hỏi: Nếu Chúa Giêsu trở lại giữa chúng ta hôm nay, chúng ta sẽ thuộc hạng người nào? Thuộc hạng người “công chính” không cần đến Ngài hay thuộc hạng người tội lỗi, đối tượng Ngài quan tâm khi đến thế gian? Qua đó, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta hai điều:
Thứ nhất, sứ mạng tình thương của Ngài.
Thứ hai, bổn phận và thái độ của chúng ta.
Chúng ta đều biết: Sứ mạng của Chúa Giêsu đến trần gian để cứu vớt những kẻ tội lỗi. Ngài đến để kêu gọi những người tội lỗi thống hối ăn năn, và để tìm kiếm, cứu vớt những gì đã lạc mất. Thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi cho Timôthêô cũng khẳng định: “Chúa Kitô đến thế gian để cứu vớt những kẻ tội lỗi”. Quả thực, Chúa Giêsu đã đến thế gian vì tội nhân. Đó chính là ánh sáng trong đó mạc khải bày tỏ Chúa Giêsu cho chúng ta và chúng ta phải luôn luôn ngắm nhìn Ngài trong ánh sáng này. Nói khác đi, vì yêu thương loài người tội lỗi mà Chúa Giêsu đã bỏ trời xuống thế gian. Chính tên “Giêsu” của Ngài, nghĩa là “Cứu Thế” cũng đã gắn liền với kẻ có tội. Cứu ai? Người lành đâu cần cứu, mà cứu là phải cứu người có tội. Do đó, đối với chúng ta, tình thương đã hiển hiện như một nét nổi bật của Chúa. Tình thương của Chúa không phải là một tình cảm mờ nhạt, mong manh mà là cả một tâm hồn say mê nóng bỏng. Lòng say mê đó là tình yêu đã đến cảm mến cảnh cùng khổ của chúng ta và để nâng cảnh cùng khổ đó lên. Tình thương của một Thiên Chúa làm người khôn lường và da diết. Tình thương đó không phải là một đức tính phụ thuộc nơi bản thân Người, nhưng là một nét chính yếu, đặc biệt: chính vì đó mà Ngài đã đến. Tội lỗi của chúng ta nếu được đưa vào ngọn lửa nóng bỏng yêu thương này sẽ bị thiêu hủy ngay.
Nếu chúng ta sẽ được liệt vào hạng người Pharisêu, kinh sư hay vào hạng những người tội lỗi, những người thu thuế? Chúng ta tự nhận mình là người công chính hay người tội lỗi? Chắc chắn không ai dám cho mình là trong sạch, vô tội trước mặt Chúa, bởi vì từ ngày có trí khôn cho đến nay, biết bao nhiêu lần chúng ta đã không giữ trọn 10 điều răn của Chúa. Bao nhiêu lần chúng ta đã chịu thua cám dỗ và sa ngã. Bao nhiêu lần lời ăn tiếng nói của chúng ta là những lời hành tỏi, xét đoán, gièm pha, kết án hay là những lời hư từ vô ích. Bao nhiêu lần chúng ta đã ghen ghét, oán thù, tranh chấp… Có lẽ chúng ta không chịu bới đống rác tội lỗi của chúng ta ra thôi, chứ thiếu gì những lý do để chúng ta phải ăn năn thống hối. Chúng ta phải thành thật nhận mình là tội nhân đáng hình phạt như người trộm lành; chúng ta là đứa con hoang đàng trở về, là Mađalêna thống hối, là Phaolô bị quật ngã, cần đổi mới. Kinh Kính mừng, Thương xót, ăn năn tội,… dạy cho chúng ta biết chúng ta chỉ là tội nhân, là kẻ bại trận, chỉ trông hòng vào lòng Chúa thương xót mà thôi.
Mong sao tự thâm tâm chúng ta luôn vọng lên lời tự thú của người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện: “Lạy Chúa, con là kẻ tội lỗi”. Những bước chân trở về và hoán cải thường gọi là niềm ân hận, âm thầm đau đớn về những lầm lỡ đã qua, là lòng ăn năn hối cải.
Lạy Chúa, xin đừng chê bỏ con, xin nhận lấy tấm lòng con: tấm lòng tan nát khiêm cung. Chúng con tin tưởng và cậy trông nơi Chúa. Xin thương xót chúng con. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Các bài đọc của Chúa Nhật Thứ 24 Mùa Thường Niên, Năm C, cách riêng bài Tin Mừng có vẻ khá quen thuộc với Kitô hữu, nhất là với những người chuyên chăm tham dự Thánh Lễ và xem trọng phần Phụng Vụ Lời Chúa. Thánh Kinh trình bày về tình yêu của Thiên Chúa thật phong phú và đa dạng. Tuy nhiên cũng có thể khẳng định rằng những dòng tin mừng theo thánh sử Luca ở chương XV mà Giáo Hội cho trích đọc một phần trong Thánh Lễ Chúa Nhật này quả là một mạc khải gây “chưng hửng” cho không chỉ nhiều người biệt phái năm xưa mà còn cho cả chúng ta hôm nay, dĩ nhiên là nếu chúng ta biết “suy đi nghĩ lại” như Mẹ Maria và biết đặt mình vào chính ngữ cảnh khiến Chúa Giêsu phán dạy những Lời ấy.
Ngữ cảnh: Giêsu thành Nagiarét, một vị tôn sư đầy quyền năng trong lời giảng dạy cũng như trong hành động (x.Mt 7,29; Mc 6,2), một người được dân chúng mến mộ tôn xưng vào hàng ngôn sứ (x.Mt 16,13-15)…, Người không chỉ chuyên chăm chữa lành bệnh tật cho dân chúng và xua trừ ma quỷ ra khỏi những người chúng ám, Người còn giảng dạy các chân lý về Nước Trời và mời gọi người ta hoán cải ăn năn. Thế mà Người lại thường xuyên lui tới và cùng ngồi ăn uống với những hại dân hại nước là “bọn thu thuế” và “phường bán thân nuôi miệng”. Bá nhân bá tánh, mười người trăm ý, chuyện miệng tiếng người đời thì làm sao lường cho xuễ. Cũng thế, việc một số người biệt phái và luật sĩ lảm bẩm, xầm xì và bình phẩm chuyện Chúa Giêsu thường xuyên lui tới và cùng ngồi ăn uống với người thu thuế và phường “tội lỗi” thì cũng không là vô cớ. Ngài Giêsu đã không từng giảng dạy rằng chớ có làm cho người ta vấp phạm đấy ư. Ngài còn mạnh miệng cho rằng nếu ai làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn thì thà cột cối đá vào cổ người ấy mà liệng xuống biển còn hơn. Tuy nhiên chúng ta đừng quên cớ vấp phạm ở đây là cái nguyên nhân xấu. Còn những dữ kiện gây thắc mắc, gây tranh luận, gợi thao thức là việc khác hoàn toàn. Chính Chúa Giêsu đã từng ví Người là viên đá vấp cho nhiều người, đúng như lời tiên tri Simêon loan báo dịp cha mẹ Người đem Người lên Giêruslem để làm lễ tiến dâng theo Lề Luật (x.Lc 2,33-35).
Nguyên cớ gây thao thức: Tình yêu đón nhận mọi sự hạn chế, mọi sự bất toàn. Khi nghe đọc bài tin mừng về dụ ngôn người con hoang đàng hay đã được sửa lại là dụ ngôn người cha nhân hậu hoặc đã từng được đề nghị là dụ ngôn người con ganh tị. Đã từng một thời Kitô hữu được gợi ý là tập trung vào hình ảnh người con phung phá hoang đàng để nhận biết thân phận tội lỗi của mình để rồi sám hối, ăn năn. Cũng đã từng có lúc người ta tập trung vào hình ảnh người con cả của câu chuyện để mời gọi Kitô hữu cảnh giác với sự ganh tương đố kỵ như trường hợp một số người biệt phái ngày xưa, hoặc biết phản tỉnh với lối sống “người thì bên trong mà lòng thì bên ngoài”. Vì lắm khi chúng ta tuy mang danh con cái Chúa, nhưng chỉ là “hữu danh vô thực”. Thời gian gần đây ngưởi ta tập trung vào tình yêu bao la của người cha nhân hậu và có thể nói rằng đây chính là trọng tâm của lời mạc khải qua câu chuyện dụ ngôn mà Chúa Giêsu kể hôm ấy.
Nói đến sự bao la của tình yêu Thiên Chúa, một số đấng bậc có vẻ như ngại ngần vì cho rằng sẽ làm cớ cho đoàn tín hữu sống ỉ lại. Và rồi số vị ấy thích đề cao sự công thằng của Thiên Chúa hơn. Một số vị khác thì phân vân như đứng giữa ngã ba đường khi vừa nói đến lòng thương xót của Thiên Chúa vừa nói đến sự công thẳng của Người. Thiên Chúa là Đấng tốt lành vô cùng và cũng là Đấng công bình vô cùng. Khởi đầu triều đại giáo hoàng của mình Đức Bênêđictô XVI qua Thông Điệp Thiên Chúa là Tình Yêu đã nhấn mạnh hiện thực này: Thiên Chúa bày tỏ tình yêu của Người cho nhân loại chúng ta một cách như chống lại sự công minh của Người (x.số 10).
Người cha trong câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể đã rộng tay chia gia tài cho các con. Ông chia gia tài cho đứa con mở miệng kêu xin và chia cho cả đứa con không xin. Ông ta quả là liều lĩnh và bất chấp các tình huống có thể xảy ra. Ông chẳng thể lường đứa con thứ kêu xin sẽ sử dụng gia tài ra sao. Ông cũng chẳng biết đứa con còn lại không xin vì không dám xin hay vì không muốn xin. Không lưỡng lự, ông đã chia cho cả hai.
Chắc chắn người cha nhân hậu biết rõ tình cảnh bi đát đến độ thua cả loài heo của đứa con đi hoang, vì chính người con cả đã khẳng định sự thật này (x.Lc30). Thế mà ông cứ ngày ngày ngóng trông đứa con “bất hiếu và hỏng hư” quay gót trở về. Lòng của ông vẫn ắp đầy niềm hy vọng sẽ có ngày thấy con mình “đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”. Và kìa, nó đây rồi, nó đã trở về. Nó về vì thương cha già này hay là chỉ xót cái bụng rỗng của nó? Không sao cả, tình yêu không cần đặt điều kiện. Đứa con lớn đang ở trong nhà mà lòng như kẻ ăn người ở, ông cũng đón nhận hết tình. Không sao cả, rồi sẽ đến lúc nó hiểu rằng mọi sự của ông là dành cho nó, đã thuộc về nó, vì mọi sự của cha đều là của con (x.Lc 15,31).
Đã yêu thì không ngồi chờ người mình yêu hoàn thiện rồi mới đón nhận. Đón nhận người mình yêu cả trong sự hạn chế lẫn bất toàn của người mình yêu thì mới là tình yêu đích thực vô cầu, vô vị lợi, nghĩa là chỉ vì người mình yêu. Thánh tông đồ dân ngoại khẳng định chân lý này khi nói rằng Chúa Kitô đã chết vì chúng ta, ban ơn tha thứ cho chúng ta, đưa chúng ta về làm con cái Thiên Chúa ngay khi chúng ta còn là kẻ phản nghịch, nghĩa là ngay khi chúng ta đang còn trong cảnh tình tội lỗi.
Xin đừng sợ bị lợi dụng, chẳng thà yêu lầm còn hơn bỏ sót. Xin đừng ngồi chờ tha nhân hoàn thiện rồi chúng ta sẽ yêu thương. Chính tình yêu của chúng ta, một tình yêu vô điều kiện mới là động lực giúp tha nhân nên hoàn thiện. Đồng thời cũng chính tình yêu ấy sẽ giúp chúng ta hoàn thiện vì chúng ta đang ngày càng nên giống Cha, Đấng hoàn thiện ở trên trời, Đấng cho mưa rơi đều trên người lành lẫn kẻ bất lương, cho mặt trời mọc lên soi người công chính lẫn tội nhân (x.Mt5,48).
(Suy niệm của Fx Đỗ Công Minh)
Bài Tin Mừng theo Thánh Luca hôm nay cho con nhận ra được lòng thương xót của Chúa với con người thật là cao cả.” Để cứu rỗi chúng con, Người đã từ trời xuống thế” (Kinh Tin kính), và còn hơn thế nữa, những người tội lỗi lại là những người đựoc Chúa thương một các đăc biệt. Không vì tán đồng những hành vi của họ, nhưng là thương xót, không muốn để họ phải hư mất. Người đã đến với họ, cùng ăn chung một bàn, cùng ngồi chung một chiếu. Sẵn sàng lắng nghe họ, tìm hiểu họ, với mục đích chỉ ra cho họ con đường thóat khỏi xiềng xích của ác thần, dẫn dắt họ trở về với tình thương yêu, trở về với Cha để đón nhận đựoc tình thương của Ngài. Tuy nhiên việc Chúa làm lại bị những kẻ giả hình phê phán: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng”.
Đức Giêsu đã mô tả việc một người tội lỗi trở về là một niềm vui, cho họ được cơ hội đón nhận tình yêu thương của Chúa, qua đó nói lên sứ mạng của Người khi đến trần gian. Như người chăn chiên đau đáu trong lòng khi có một con chiên trong đàn bị thất lạc, bằng bất cứ giá nào ông sẽ đi tìm về, thậm chí dám rời bỏ cả đòan 99 con, để đi tìm lại một con. Chúa cũng nêu hình ảnh một người phụ nữ tiếc xót thế nào khi đánh mất một đồng quan trong nhà. Bà không quản ngại tìm cho được, dù phải thắp đèn, moi móc, quýet dọn để tìm cho ra. Và khi tìm thấy thì vui mừng vô kể, mời xóm giềng đến chia vui. Và còn hơn thế nữa, chuyện người cha nhân hậu càng làm cho con nhận ra được Chúa yêu thương con người xiết bao.
Người Cha trong tin mừng chính là Thiên Chúa, đấng luôn ngóng trông con mình tội lỗi trở về đã củng cố cho con niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa. Hành động người con hoang đàng trở về là một mẫu gương cho con trong đời sống. Con cũng bao lần bỏ nhà ra đi, cũng bao lần đựoc Cha chia gia tài là ơn Chúa, là khả năng, là phúc lộc… vậy mà con vẫn bỏ đi, phung phá, sa vào mọi điều xấu. Đã nhiều lúc lâm vào tình trạng kiệt quệ, thay vì trở về với cha, con lại tìm đến cầu cứu nơi các thế lực đen tối khác, để mong thóat ra khỏi cơn nguy nan. Con không nhận ra Chúa vẫn dang tay gọi mời.
Lạy Chúa,
Xin cho con khi nhận biết tình Chúa yêu con, con dám can đảm đứng lên, rời bỏ quá khứ tội lỗi để trở về với Chúa, Đấng là Cha hết mọi người. Con biết rằng thân phận con thì mỏng dòn yếu đuối. Con biết được, khi trở về ở nhà rồi, được mấy ngày, lại tìm cách kiếm ít tiền của rồi trốn đi, ăn chơi, sa ngã. Tái đi tái lại bao lần. Sợ Cha rầy la, không chấp nhận, nên con ngã lòng đến nỗi bỏ đi thật xa. Tư tưởng ấy tồn tại trong con, cho thấy lòng tin của con vào tình thương của Chúa còn non yếu. Xin Chúa giúp con, xin Người ban thêm đức tin cho con.
Xin cho con biết nhìn nhận mình yếu đuối, phải cây dựa vào Lòng Chúa xót thương, biết thưa lên như người con thứ trong Tin Mừng: “Cha ơi! Nay con đã về, về đây cùng ở với Cha. Bao nhiêu tháng năm hoang đàng, một lần ghi dấu ăn năn. Con xin làm người tôi hầu, về đây bên Cha dấu yêu. Rồi đây những khi ưu sầu, con được tình Cha xót thương nhiều ”. Amen.
Niềm vui khi tìm được những gì đã mất
Trong đời sống hàng ngày, ta có thể đã có kinh nghiệm khi tìm lại được những gì đã mất, nhất là những vật qúi giá và cần thiết. Ai mà không vui thích khi tìm lại được cặp kiếng đeo mắt. Ai mà không thích thú khi tìm lại được chùm chìa khoá. Ai mà không hí hửng khi tìm lại được ví tiền có chứa đựng những giấy tờ cần thiết. Ai mà không vui mừng khi tìm lại được cái nhẫn cưới. Tìm lại được tình yêu hôn nhân đã chết trong con tim mà nay được đổi mới lại, đã khiến cho những cặp vỡ chồng vui mừng cảm động khóc ra nước mắt.
Cái tâm trạng vui mừng của những người khi tìm lại được những vật đã mất cũng là cái tâm trạng của người chăn chiên trong Phúc âm hôm nay khi tìm thấy con chiên lạc, hay của người đàn bà chỉ có mười đồng bạc mà mất một đồng, nay lại tìm thấy, hay của người cha có hai đứa con mà một đứa đi lưu lạc, nay lại trở về. Vậy tìm thấy được vật đã mất, lưu lạc rồi trở về, phạm tội rồi được tha thứ, xa cách rồi làm hoà, bằng cách này hay bằng cách khác là đề tài chung của ba bài đọc Thánh kinh hôm nay.
Bài trích sách Xuất hành ghi lại câu chuyện con bò vàng. Khi người Do thái trong hoang địa không còn kiên nhẫn đủ về sự vắng mặt lâu dài của Môsê trên núi Sinai, thì họ kêu trách Chúa đã đem con đi bỏ chợ. Vì thế họ xin Aaron để đúc con bò vàng cho họ tôn thờ thần tượng vô tri vô giác thay vì tôn thờ một Thiên Chúa. Vì tội bất trung của dân chúng, Thiên Chúa nổi giận định huỷ diệt họ. Nhưng Môsê van xin Thiên Chúa tha thứ và Chúa đã nguôi giận tha phạt dân chúng. Lòng thương xót của Chúa còn được tỏ hiện qua việc trở lại của Thánh Phaolô.
Trong thư gửi cho Timôthêô, Phaolô viết: Đức Kitô Giêsu, đã đến trong thế gian, để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi (1Tm 1:15). Cả ba ngụ ngôn trong Phúc âm hôm nay nói lên lòng nhân từ hay thương xót của Chúa. Nếu người chăn chiên bày tỏ nỗi vui mừng với người lân cận, và người đàn bà mời chị em đến chia vui vì đã tìm thấy đồng bạc, nếu người cha biểu lộ nỗi vui mừng khi thấy đứa con hoang lạc trở về, thì trên trời cũng có sự vui mừng khi có người tội lỗi ăn năn trở lại.
Thính giả nghe bài Phúc âm từ chính miệng Chúa giảng là những người Biệt phá và Luật sĩ. Họ phàn nàn là Chúa thường lui tới, ăn nhậu với phường tội lỗi và thâu thuế. Họ không muốn thấy Chúa lai vẵng tới xóm nhà lá. Vì thế khi thấy Chúa làm quen với những thành phần bị coi là căn bã của xã hội, họ lấy làm vấp phạm. Chúa trả lời cho họ là: Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất (Lc 19:10).
Hôm nay mỗi người cần tự hỏi, có khi nào ta đã đi lưu lạc, lìa bỏ đàn chiên của Chúa? Ta đi lạc khỏi đàn chiên khi ta sa phạm tội, bất trung với lời giao ước khi chịu phép Rửa tội. Ta trở thành những chiên lạc khi ta không sống theo đường lối phúc âm, không tuân giữ giới răn Chúa. Thiết tưởng ít ai muốn chối bỏ đức tin vào Chúa. Tuy nhiên ta có thể quên Chúa khi ta tạm gác bỏ việc thờ phượng qua một bên, hoặc khi ta nhốt Chúa vào góc xó nhà của tâm hồn. Điều quan trọng là khi ta sa ngã phạm tội, ta có can đảm tìm đường trở về nhà Cha, hay ta vẫn chần chừ trong bóng tối của đam mê, của tham vọng hão huyền hay của nghi ngờ thất vọng?
Có lẽ có người cho rằng các dụ ngôn được kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay hơi có tính cách cường điệu. Có mục tử nào dám bỏ lại chín mươi chín con chiên trên cánh đổng rổi đi tìm con chiên bị lạc mất? Có ai lại bỏ công tìm cho kỳ được đổng bạc trong khi mình còn chín đổng nữa? Hay có người cha nào sẵn sàng đợi chờ, tha thứ cho đứa con đã đòi chia gia tài và bỏ nhà ra đi?
Quả vậy, theo quan điểm của con người, ít có khi nào xảy ra những điều như thế. Nhưng đối với Thiên Chúa, chẳng có gì là cường điệu. Những câu chuyện này cho thấy thế nào là tình yêu, là lòng thương xót của Thiên Chúa.
Tình thương không giới hạn
Con người được Thiên Chúa tạo dựng do lòng yêu thương. Thế nhưng, con người đã từ khước tình yêu ấy qua việc ăn trái cấm. Và Thiên Chúa đã không bỏ mặc con người dưới quyền thống trị của tội lỗi, của sự chết. Nếu Thiên Chúa có trừng phạt con người thì cũng là việc xứng đáng. Nhưng Thiên Chúa không xử sự như thế. Một tình yêu đích thực không thể bằng lòng với việc trợ giúp cách chung chung, để rổi khi bị từ khước thì bỏ rơi không còn đoái hoài gì tới. Nếu Thiên Chúa hành động như thế thì khó có người được cứu, và Đức Giêsu đã không được sai đến trần gian.
Đàng khác, Thiên Chúa cũng chẳng tính toán những hổng ân Người đã ban. Thiên Chúa không đưa cho con người một bản tỗng kết những gì Người đã ban cho họ: ân sủng của Người tuôn chảy không ngừng, tình yêu thương chẳng bao giờ vơi cạn. Nếu có kể ra những hổng ân, điều đó chỉ có mục đích nhắc nhở con người hãy sống xứng đáng với hổng ân đã lãnh nhận để rổi tiếp tục nhận được những ân huệ khác. Cả khi con người đi lang thang phiêu lãng, Thiên Chúa vẫn đuỗi theo. Không có chỗ nào con người ở một mình cả. Chẳng bao giờ con người có thể tự nhủ Thiên Chúa bỏ rơi mình rổi. Một người thợ săn kiên nhẫn, rình chờ con mổi, một người câu cá âm thầm chờ đợi. Thiên Chúa như thế đó.
Thật vậy, chính lòng yêu thương đã thúc đẩy Thiên Chúa tìm kiếm con người. Thiên Chúa đã tạo dựng con người, không phải như một đổ vật, nhưng là để họ tham dự vào sự sống của Người, để sống trong tình yêu thương. Nếu Thiên Chúa chỉ coi con người là một đổ vật, thì khi bị lạc mất, Người có thể tiếc nuối, những rổi thôi, Người có thể lại có cái khác, hay hơn, tốt đẹp hơn, và nhiều hơn nữa. Ở đây, các dụ ngôn cho thấy tính cách lớn rộng của tình yêu: quan tâm đến tất cả, nhưng không bỏ rơi bất cứ ai, dù người đó có thế nào chăng nữa. Vì tình yêu, Thiên Chúa không bao giờ cảm thấy mệt mỏi, chán nản, chỉ cần là Người tìm lại được người tội lỗi, chỉ cần là họ cảm nhận được tình thương của Thiên Chúa. Vì thế, trong tình thương của Thiên Chúa, không có ai là người bị bỏ quên. Mỗi người đều được Thiên Chúa quan tâm săn sóc, mỗi người đều ở trong trái tim của Thiên Chúa, không có ai bị đẩy ra ngoài, không có ai nhận được ít tình thương…
Hãy chia vui với tôi
Trong cả ba dụ ngôn, Đức Giêsu đều kết thúc bằng những lời nói đến niềm vui. Người chăn chiên tìm được chiên lạc thì vác chiên lên vai, và mời bạn hữu láng giềng đến chia vui; người đàn bà tìm thấy đổng bạc đã mất cũng vậy; và người cha có đưa con đi hoang trở về thì mở tiệc lớn ăn mừng.
Lý do của việc ăn mừng này đã rõ ràng. Nhưng sau đó, Đức Giêsu muốn cho thấy niềm vui của Thiên Chúa khi người tội lỗi hối cải. Ở dụ ngôn thứ nhất, “trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải”; ở dụ ngôn thứ hai, “các thiên thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải”; và ở dụ ngôn thứ ba, “phải ăn mừng, vì em con đây đã chết, mà nay lại sống; đã thất lạc, mà nay lại tìm thấy”.
Tội nhân hối cải, không những được tha thứ, nhưng còn được chờ đợi, được đón tiếp. Niềm vui của Thiên Chúa thật lớn lao khi người tội lỗi biết từ bỏ con đường xấu xa, để trở về sống trong tình thương của Thiên Chúa.
Có thể nói, Thiên Chúa không có niềm vui nào khác ngoài việc con người sống thân mật với Người. Dù cho có thế nào chăng nữa, Người vẫn chờ đợi họ, vẫn mở rộng vòng tay đón tiếp. Đây thực là một lời an ủi và nhắc nhở cho con người. Là một lời an ủi, vì con người biết rằng Thiên Chúa vẫn yêu thương họ và mong họ trở về với Người. Thiên Chúa vẫn đi tìm họ, dù họ cố tình tránh né. Thiên Chúa vẫn thi ân giáng phúc, dù họ từ khước không nhận. Là một lời nhắc nhở, vì nếu như tội lỗi đã làm Thiên Chúa phiền lòng, thì Người sẽ còn phiền lòng hơn biết mấy khi con người từ chối tình thương Người dành cho họ, mong họ trở về sống trong tình thương.
Hơn nữa, ở đây còn có lời mời gọi chia sẻ niềm vui với Thiên Chúa vì người tội lỗi đã trở về. Kẻ từ chối chia vui với Thiên Chúa cũng chính là kẻ phải trở về, phải sám hối. Kẻ từ chối chia vui với Thiên Chúa cũng chính là người không nhận ra tình thương đích thực, và như thế là họ đã từ khước tình thương của Thiên Chúa.
* * *
Ở giai đoạn đầu của lịch sử cứu độ, sau khi con người phạm tội, Thiên Chúa đã lên tiếng hỏi, đang khi họ chạy trốn: “Ngươi đang ở đâu?” Ngày nay, Thiên Chúa đã mở tiệc để thết đãi họ. Nhờ sự tuân phục của Đức Giêsu Ki-tô, nhân loại đã được cứu thoát, đã được chữa lành khỏi mọi thương tích, đã được tha thứ.
Đó là niềm vui của Thiên Chúa, hãy chia vui với Người.
* * *
Phải tin vào Thiên Chúa
vì Người đã tin tưởng chúng ta.
Người đã làm cho chúng ta tin vào Người,
khi trao cho chúng ta Người Con duy nhất.
Phải tin vào Thiên Chúa
vì Người đã tín nhiệm chúng ta
đã làm cho chúng ta tin vào Người.
Chẳng lẽ sự tín nhiệm của Thiên Chúa
dành cho chúng ta
lại không được đặt đúng chỗ?
Thiên Chúa đã làm bừng lên nơi chúng ta niềm hy vọng
Người đã khởi đầu.
Người mong rằng kẻ tội lỗi
sẽ làm một chút gì đó
cho ơn cứu độ của mình.
Một chút! chỉ cần một chút thôi!
phỏng theo Charles Péguy
Chúa Giêsu kể những dụ ngôn này trong một hoàn cảnh đặc biệt. Các thầy dạy luật và các đạo sĩ Do thái lấy làm vấp phạm khi thấy Chúa Giêsu giao du với những kẻ mà người Do thái đạo đức gọi là tội nhân. Đạo sĩ Do thái đã xếp tất cả những ai không tuân giữ luật pháp vào chung một hạng, họ gọi những người đó là ‘dân của đất’. Có một hàng rào ngăn cản dứt khoát giữa những đạo sĩ Do thái và người ‘dân của đất’. Gả con gái cho một người dân của đất thì chẳng khác gì trói cô gái ấy nộp cho sư tử. Luật của đạo sĩ Do thái định rằng: “Khi có một người là dân của đất, thì đừng trao tiền cho nó, đừng lấy chứng của nó, đừng nói điều bí mật cho nó, đừng đặt nó coi trẻ mồ côi, đừng để nó giữ của bố thí, đừng đi đường với nó”. Có luật cấm đạo sĩ Do thái không được mời một người dân của đất đến dùng bữa, cũng không được nhận lời mời của ai trong hạng người đó. Luật cũng cấm đạo sĩ Do thái không được giao dịch thông thường với họ, không được mua gì của họ hoặc bán gì cho họ. Các đạo sĩ Do thái quyết tâm tránh hẳn mọi liên hệ với đám dân của đất, tức là những người không giữ đủ các chi tiết tỉ mỉ trong luật pháp. Dĩ nhiên họ rất khó chịu khi thấy Chúa Giêsu làm bạn với những người chẳng những thuộc hạng cùng đinh mà còn là tội nhân nữa, vì liên hệ với hạng người này thì bị ô uế. Chúng ta sẽ hiểu các dụ ngôn này đầy đủ hơn nếu chúng ta nhớ rằng người Do thái ngoan đạo không nói: “Cả thiên đàng mừng vui vì một tội nhân ăn năn hối cải”. Nhưng họ nói: “Cả thiên đàng mừng vui vì một tội nhân bị hủy diệt trước mặt Thiên Chúa!”. Họ hướng đôi mắt độc ác chờ xem sự hủy diệt tội nhân chứ không mong chờ tội nhân được cứu thoát.
Trước hết Chúa Giêsu nói cho họ dụ ngôn về con chiên lạc và niềm vui của kẻ chăn. Chăn chiên ở xứ Do thái là một công việc khó khăn và nguy hiểm. Đồng cỏ thì hiếm hoi. Cánh đồng cao nguyên ở giữa xứ chỉ rộng chừng vài dặm thôi, còn phần nhiều là địa thế những khe trũng dốc đứng và cảnh sa mạc hoang vu. Không có một bức tường chắn giữ nên chiên dễ đi lạc đàn. Người chăn phải trực tiếp chịu trách nhiệm về bày chiên. Nếu một con chiên bị mất, thì người chăn phải mang về nhà ít nhất là cái lốt chiên để chứng tỏ là nó đã chết thế nào. Những người chăn chiên có tài theo dấu vết cách đặc biệt, họ có thể theo dõi dấu chân của một con chiên đi lạc hàng dặm qua núi đồi. Không có người chăn chiên nào không coi bổn phận mỗi ngày của mình là bỏ mạng sống mình vì bầy chiên. Có nhiều bầy chiên là tài sản chung thuộc một làng và có hai hay ba người chăn. Những người chăn có bầy chiên còn đầy đủ thì có thể về nhà đúng giờ vào báo tin rằng còn có một người chăn đang lặn lội trên sườn núi để tìm kiếm con chiên lạc. Cả làng sẽ chờ đợi, rồi khi thấy từ đàng xa một người chăn chiên đang vội vã trở về, trên vai có một con chiên, cả làng sẽ reo vui cảm tạ. Đó là hình ảnh Chúa Giêsu phác vẽ về Thiên Chúa. Người bảo Thiên Chúa cũng thế, Ngài vui mừng vì tìm lại được một tội nhân đã lạc mất cũng như người chăn tìm lại được con chiên đi lạc đem về chuồng.
Chúa nối tiếp tư tưởng bằng một dụ ngôn khác. Đồng tiền nói đến ở đây là một đồng tiền nhỏ, dễ bị lạc mất trong nhà dân quê xứ Palestin, và có khi phải mất rất nhiều thời giờ mới tìm lại được. Nhà của người Do thái thường tối om, vì chỉ có một cửa sổ tròn đường kính khoảng bốn mươi lăm phân. Nền nhà thì bằng đất nện được phủ bằng những tấm liếp sậy và cành cây khô. Tìm kiếm một đồng bạc trên một nền nhà như thế khác nào tìm một cây kim trong đống rác. Nhưng người đàn bà quét đi quét lại, tìm cho bằng được, có hai lý do khiến người đàn bà sốt sắng và kiên nhẫn tìm kiếm đồng tiền.
1) Có thể vì nhu cầu.
Dù một đồng tiền không nhiều nhưng nó cũng cao hơn công giá một ngày làm việc của một công nhân tại xứ Palestin. Họ thường sống trong cảnh thiếu hụt và hầu như luôn bị nạn đói đe dọa. Có thể người đàn bà nóng nảy tìm cho ra, vì nếu không, gia đình bà sẽ không có ăn.
2) Nhưng có thể còn có một lý do khác thơ mộng hơn lý do trên.
Tại Palestin, dấu hiệu của người đàn bà có chồng là một chiếc vành trên đầu làm bằng mười đồng tiền nhỏ bằng bạc xâu lại với nhau bằng một sợi dây bạc. Trong nhiều năm, một cô gái làm lụng và để dành cho đủ mười đồng tiền nhỏ đó. Bởi vì cái chuỗi trên đầu của nàng cũng đáng giá gần bằng chiếc nhẫn cưới. Khi nàng đã sắm được nó thì trở nên của riêng nàng, đặc biệt đến nỗi người khác không thể đoạt lấy của nàng món nữ trang đó để trừ nợ. Có thể người đàn bà trong dụ ngôn đã đánh mất một đồng bạc thuộc loại đó, và bà ta đã tìm kiếm nó như bất cứ người nào khác cũng làm thế khi đánh mất cái nhẫn cưới vậy.
Vì thế chúng ta cũng dễ hiểu nỗi vui mừng của người đàn bà khi tìm lại đồng bạc bị mất. Chúa Giêsu cho biết: cũng thế, Thiên Chúa và các thiên sứ vui mừng khi một tội nhân ăn năn trở về, như khi một gia đình vui mừng tìm lại được đồng bạc quyết định cái no hay đói của họ, hay cũng giống người đàn bà đánh mất một tài sản có giá trị hơn tiền bạc rồi tìm lại được.
Niềm vui lạ lùng này được sáng tỏ hơn qua dụ ngôn người con hoang đàng. Theo luật Do thái, người cha không được chia gia tài tùy ý mình thích, đứa con cả đương nhiên được hai phần ba, đứa con thứ được một phần ba gia tài (x. Dnl 21,17). Không phải là một việc lạ khi một người cha phân chia gia tài ngay khi còn sống nếu ông muốn được nghỉ ngơi khỏi bận tâm buôn bán làm ăn. Nhưng có một sự trơ tráo nơi đứa con thứ khi chính nó đề xuất việc chia gia tài. Khi nó nói vào mặt cha nó: “Cha hãy cho tôi ngay bây giờ phần gia tài mà trước sau gì tôi cũng được lãnh sau khi cha chết, và hãy để tôi ra khỏi nơi này”. Người cha không tranh luận gì, ông hiểu rằng nếu con ông cần được một bài học thì nó sẽ có một bài học đắt giá, và ông đã cho như ý nó xin. Tức khắc đứa con lấy phần dành cho nó và bỏ nhà ra đi…
Nó nhanh chóng tiêu xài hết tiền và kết thúc bằng việc chăn heo, một công việc đáng nguyền rủa đối với người Do thái. Và Chúa Giêsu cho nhân loại tội lỗi một lời khen lớn nhất chưa từng có: “Khi nó hồi tâm tự nhủ, trở về với chính mình”. Chúa Giêsu tin rằng bao lâu con người xa cách và chống lại Thiên Chúa, thì con người không thực sự là chính mình khi đang trên đường trở về nhà. Nó quyết định trở về nhà và xin cha nhận lại mình không phải để làm con, nhưng làm một tên nô lệ mạt hạng trong nhà, một tên đầy tớ ở thuê, một tên lao động công nhật trong nhà. Theo một nghĩa thì người nô lệ là một phần tử của gia đình, nhưng đầy tớ ở thuê thì có thể bị đuổi sau khi chủ báo trước một ngày vì nó không thuộc về gia đình chút nào. Vậy khi đứa con trở về, cha chàng không để chàng kịp mở miệng xin làm đầy tớ, ông đã lên tiếng trước. Chiếc áo dài tiêu biểu cho việc được tôn trọng, chiếc nhẫn tượng trưng cho quyền bính, đôi dày là dấu hiệu làm con, và yến tiệc được bày ra để mọi người ăn mừng đứa con hoang nay đã trở về.
Nếu chúng ta chú ý, chúng ta sẽ thấy ba câu chuyện xoay quanh một chủ đề: đã mất mà lại tìm thấy. Loài người bị mất, Thiên Chúa mất loài người. Loài người đã bị mất tức là đã đi khỏi sự hiện diện của Thiên Chúa, và đó là cái mất lớn lao nhất. Thiên Chúa không mất gì đáng tiếc hơn mất loài người. Dụ ngôn nêu lên ba khía cạnh để giải thích giá trị của loài người: con chiên bị mất, đồng tiền bị mất, đứa con bị mất.
Loài người có ba điều quý: tài sản, tiền bạc và con cái. Cả ba đều mất, mất lớn lao đáng tiếc. Chúa không mất súc vật, tiền bạc, nhưng mất loài người, mất cái quý báu nhất, không gì sánh bằng. Và Ngài tiếc như ta tiếc của cải, tiền bạc, con cái.
Khi mất một phần trăm đã tiếc, mất mười phần trăm tiếc hơn, mất năm mươi phần trăm tiếc hơn nữa. Nhưng Thiên Chúa mất hết, mất từ thời Adam, nên Chúa lập cách cứu loài người: “Con Người đến tìm kiếm những gì đã mất”.
Khi nghiên cứu nguyên nhân đưa tới việc mất, chúng ta thấy khác biệt. Con chiên bị lạc mất vì hoàn toàn ngu dại. Nó không biết suy nghĩ, nhưng có nhiều người sẽ tránh được tội lỗi nếu họ suy nghĩ kịp thời. Đồng tiền bị mất vì không phải lỗi của chính nó. Có người đi lạc đường vì bị kẻ khác lừa dối, và Thiên Chúa không kể là vô tội kẻ nào xui kẻ khác phạm tội. Đứa con tự ý đi lạc, nhẫn tâm quay lưng lại với cha mình.
Nhưng Thiên Chúa có thể dùng tình yêu của Ngài chiến thắng sự dại dột của con người, chiến thắng những tiếng cám dỗ, và chiến thắng cả sự phản bội của con tim chúng ta nữa. Đứng trước một tình yêu như vậy, chúng ta không thể không chìm trong kinh ngạc, ngợi khen và yêu mến Ngài hơn nữa.
Có thể nói cuộc đời của mỗi người chúng ta từ lúc tượng thai đến lúc từ giã cõi đời là cả một chuỗi những sự đón nhận. Chúng ta đón nhận sự sống từ nơi cha mẹ. Chúng ta cũng đón nhận sự chăm sóc, nuôi nấng và dạy dỗ từ nơi cha mẹ. Và rồi chúng ta còn đón nhận bao nhiêu sự chăm lo từ vật chất đến tinh thần từ những người thân quen, cả đến những người chúng ta không hề biết mặt. Cũng vậy, là người có đức tin chắc hẳn không ai trong chúng ta dám phủ nhận việc chúng ta đã, đang và sẽ mãi mãi đón nhận tình thương từ nơi Thiên Chúa Đấng chúng ta tôn thờ.
Ba dụ ngôn nổi tiếng trong Tin mừng Luca chương 15 hôm nay làm sáng tỏ về lòng thương xót vô bờ bến của Thiên Chúa dành cho từng người trong chúng ta. Hình ảnh người chăn chiên có một trăm con chiên lặn lội đi tìm cho bằng được cho được con chiên bị mất và vác trên vai mang về. Hình ảnh người đàn bà có mười quan tiền thức đêm thức hôm tìm cho được một đồng bị mất. Xúc động hơn là hình ảnh người cha nhân hậu có thái độ khoan nhân đón nhận cả hai người con, cách riêng là với đứa con thứ hư hỏng trắc nết.
Sở dĩ Chúa Giêsu nói lên ba dụ ngôn này là vì những người Pharisêu và các kinh sư đã có thái độ không bằng lòng khi thấy Chúa Giêsu tiếp xúc cũng như đồng bàn với những người thu thuế và những người tội lỗi.
Trong suy nghĩ của họ, Chúa Giêsu chỉ được tiếp xúc với những người công chính. Còn những hạng người như vậy Chúa Giêsu không được phép giao tiếp. Mà họ lại tự cho mình là những người công chính.
Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã có lần khẳng định: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn.” (Lc 5, 31b – 32)
Trước mặt Thiên Chúa tất cả mọi người chúng ta đều là những con người đáng thương. Thiên Chúa sẵn sàng làm tất cả và chẳng tiếc gì miễn sao chúng ta được sống và sống dồi dào hạnh phúc. Ai trong chúng ta biết ăn năn sám hối trở về là niềm vui cho cả triều thần thiên quốc. Bởi vì: “Tôi nói cho các ông hay: giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối.” (Lc 5, 10)
Chúng ta không thể đón nhận mà không biết trao ban. Đón nhận càng nhiều bao nhiêu thì trao ban cần rộng lớn bấy nhiêu: trao ban tình thương cho nhau, trao ban sự quan tâm lẫn nhau, trao ban sự hy sinh cho nhau….Chúng ta trao ban cho những người thân yêu. Chúng ta trao ban cho những người chưa quen biết. Thậm chí chúng ta còn được kêu mời trao ban cho những kẻ thù nghịch với mình. Trao ban không phải là thái độ của người lớn cho kẻ nhỏ mà là thái độ của những anh chị em con cùng một Cha – cùng một sự đón nhận từ tình yêu của Thiên Chúa.
BA DỤ NGÔN VỀ LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA
Làm sao có thể tự nhận là môn đệ của Đức Giêsu, khi khinh bỉ quay mặt tránh người anh em đang ở trong tình trạng bần khốn nhất, do tội lỗi gây nên?
1.- Ngữ cảnh
Đoạn Tin Mừng chúng ta đọc hôm nay nằm trong phân đoạn độc đáo nhất của Tin Mừng Luca (9,51–19,27): cuộc hành trình lên Giêrusalem. Trong cuộc hành trình này, có đám đông dân chúng đi theo Đức Giêsu.
Sau khi đã giáo huấn đám đông về những điều kiện để làm môn đệ Ngươi (14,25-35), bây giờ Đức Giêsu dùng một số dụ ngôn mà ngỏ lời với các người Pharisêu và các kinh sư, vì họ đã lẩm bẩm trách móc Ngươi khi Ngươi tiếp đón những người thu thuế và tội lỗi, và cùng ăn uống với những người ấy.
Ba dụ ngôn của chương 15 (con chiên bị lạc mất [cc. 4-7], đồng bạc bị đánh mất [cc. 8-10], người con hư mất [cc. 11-32]) đã được gọi là “trái tim của Tin Mừng III” (Romaroson), vì được kết cấu rất nghệ thuật để nêu bật được đề tài duy nhất là tình yêu của Thiên Chúa và lòng thương xót đối với những kẻ tội lỗi qua lời Đức Giêsu kêu gọi hoán cải.
Hai dụ ngôn đầu nói về việc tìm được cái đã mất, dụ ngôn thứ ba cũng triển khai cùng một đề tài, nhưng như một tổng hợp với những hình ảnh được vận dụng rất tài tình. Trước đây dụ ngôn này vẫn được gọi là “Dụ ngôn đứa con hoang đàng”, nhưng gọi là “Dụ ngôn người cha nhân hậu” thì hợp lý hơn, bởi vì dung mạo trung tâm của truyện chính là người cha. Hoặc để tương ứng với hai đầu đề của hai dụ ngôn trước, thì có thể gọi là “Dụ ngôn người con hư mất”, nhưng nhớ rằng nhân vật chính là người cha, cũng như trong hai dụ ngôn trước, nhân vật chính là người mục tử và người phụ nữ.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Một dẫn nhập (15,1-3);
2) Ba Dụ ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa (15,4-32):
3.- Vài điểm chú giải
– Tất cả những người thu thuế và những người tội lỗi (1): Đây là những người ở bên lề xã hội Do Thái, những kẻ vô đạo, sống vô luân. Họ đến nghe Đức Giêsu như đã từng đến nghe Gioan Tẩy Giả (3,12-13). Tác giả Luca đã nói quá khi dùng từ ngữ “tất cả”, nhưng mục đích là cho thấy chiều hướng căn bản của sứ điệp và cách xử sự của Đức Giêsu: Người đến để tìm và cứu những gì đã mất, nghĩa là tất cả.
– lẩm bẩm (2): Cũng như ở 5,30 và sau này ở 19,7, thì vị hồn (imperfect) cho hiểu đây là thái độ thường xuyên của người Pharisêu và các kinh sư.
– ông này (2): Đại từ chỉ định houtos có nghĩa xấu: “tên này”.
– Người nào trong các ông có một trăm con chiên (4): Đây là một mục tử vô danh, được dùng như biểu tượng của Thiên Chúa giàu lòng từ bi thương xót (xem Cựu Ước: Tv 23,1-3; Ed 34,11-16).
– hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn (7): Nếu chín mươi chín người này là các kinh sư và người Pharisêu, thì câu kết này có giọng mỉa mai. Nhưng rất có thể đây chỉ là cách tác giả Lc phóng đại niềm vui của Thiên Chúa khi có một người tội lỗi hối cải.
– mười đồng bạc (10): Đồng drachmê là đồng bạc cổ. Chúng ta khó biết giá trị chính xác của đồng bạc này. Có một thời người ta có thể dùng một đồng drachmê mà mua được một con chiên, hoặc được nhận như lương làm việc một ngày. Vào thời hoàng đế Nêrôn, đồng denarius được dùng đểthay thế đồng drachmê và coi như tương đương.
– Một người kia có hai con trai (11): Có thể giả thiết đây là một ông chủ trang trại giàu có xứ Paléttina.
– phần tài sản con được hưởng (12): Theo tập tục xứ Paléttina, một người cha có thể định đoạt về của cải của ông hoặc bằng một di chúc (HL. diathêkê) được thi hành sau khi ông qua đời (Ds 36,7-9; 27,8-11) hoặc bằng một tặng-dữ ban cho các con trong khi ông còn sống (HL. dôrêma; x. Hc 33,19-23). Trưởng nam được hưởng “hai phần sản nghiệp”, nghĩa là gấp đôi phần được ban cho mỗi người con khác (Đnl 21,17). Ở đây, vì chỉ có hai đứa con, người con cả được nhận hai phần ba và người con thứ nhận một phần ba. Khi đó, người con có quyền sở hữu, nhưng quyền thu hoa lợi vẫn thuộc về người cha cho đến khi ông qua đời. Nếu người con bán phần gia sản của mình, người mua chỉ được nhận lấy sau khi người cha chết. Khi làm như thế, người con sẽ không còn có quyền đòi hỏi gì về của cải, cả về vốn lẫn lãi.
– sống phóng đãng (13): Trạng từ asôtôs có nghĩa là “một cách không lành mạnh”. Chúng ta không biết là “không lành mạnh” cụ thể là thế nào; ở c. 30, người anh cả mô tả là “nuốt hết của cải với bọn điếm”, nhưng phải chăng anh đã phóng đại?
– chăn heo (15): Theo Lv 11,7 (x. Đnl 14,8), con heo, tuy có chân chẻ làm hai móng, nhưng không là loài nhai lại, nên bị coi là “ô uế” đối với người Do Thái. Chi tiết này cho thấy sự sa sút của chàng trai.
– nhưng chẳng ai cho (16): Thế thì anh ta lấy thức ăn ở đâu, tác giả không nói, bởi vì điều này không quan trọng.
– chạy ra (20): Chi tiết này diễn tả sáng kiến của người cha, tình yêu bền bỉ của ông đối với đứa con đã bỏ đi.
– và hôn lấy hôn để (20): Không phải chỉ là để chào đón, nhưng là bày tỏ sự tha thứ (x. 2 Sm 14,33).
– Thưa cha … con (21): Người con lặp lại lời thú lỗi đã soạn trước (cc. 18-19), nhưng trước khi anh ta kịp nói ra lời thỉnh cầu, người cha đã can thiệp rồi.
– áo đẹp nhất (22): dịch sát là “chiếc áo thứ nhất”, tức là áo hạng nhất. Như thế, người cha không xử với người con như anh ta yêu cầu (“như người làm công”), nhưng như một người khách được tôn kính.
– xỏ nhẫn… xỏ dép (22): Nhẫn là dấu chỉ quyền bính (St 41,42; Et 3,10; 8,2); dép là dấu chỉ một con người tự do.
– đã mất mà nay lại tìm thấy (24): Đây là cụm từ móc nối liên kết dụ ngôn này với hai dụ ngôn trước.
– con hầu hạ cha (29): Người con cả dùng động từ douleuein, “phục vụ”, “hầu hạ”, hàm ý là anh ta không chỉ tự liệt mình vào hạng người làm công (misthios), nhưng là hạng nô lệ (doulos): “hầu hạ cha trung thành như một tên nô lệ”.
– chẳng khi nào trái lệnh (29): Anh ta ý thức về sự trung thành của anh, anh nhấn mạnh đến lòng trung thành này, tức nêu bật điều nghịch lý ở đây là nhân đức lại được ban thưởng tồi tệ hơn là tật xấu!
– một con dê con (29): Chi tiết này cho thấy người con cả không tin tưởng vào cha, anh tính toán, kể công.
– thằng con của cha đó (30): Người con cả diễn tả mức khinh bỉ cao độ; anh ta không thể chấp nhận nói về người con thứ như là “em con”. Ở đây thêm một lần nữa, tính từ houtos được dùng với nghĩa xấu.
– lúc nào con cũng ở với cha (31): Người cha không trách móc, than thở, không nói rằng người con cả sai; ông cũng chẳng phê phán thái độ cao ngạo hoặc bình phẩm gì cả. Ông coi mọi chuyện đó là đúng như thế. Nhưng ông chỉ nhấn mạnh trên sự liên kết thâm sâu giữa cha con: “Lúc nào con cũng ở với cha” (= con chưa bao giờ chết; con chưa bao giờ mất).
– tất cả những gì của cha đều là của con (31): nghĩa là tất cả của cải (x. c. 12), những gì còn lại sau khi người con thứ đã lấy đi phần của anh ta; tất cả những thứ này sẽ thuộc về người con cả, sau khi cha chết.
– em con (32): Câu trả lời của người cha làm vọng lại công thức của người anh, và là một cách sửa chữa.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Một dẫn nhập (1-3)
Đức Giêsu đã đến để cứu tất cả mọi người; những người thu thuế và tội lỗi phải đến với Người bởi vì họ không gặp được ở nơi nào khác lời đưa lại niềm hy vọng và sự tiếp đón ân cần nhưng-không. Cách xử sự này khiến người Pharisêu và các kinh sư phải lẩm bẩm trách móc. Họ trách Đức Giêsu hai điểm: đón tiếp người tội lỗi và ăn uống với họ. Các kinh sư thường nói: “”Chớ có một ai đi giao du với những kẻ xấu xa, cho dù là thử thuyết phục họ đi theo luật của Thiên Chúa”. Những người thu thuế và tội lỗi không được thuộc về cộng đoàn, vì Thiên Chúa đã ngoảnh mặt đi tránh họ; do đó, Israel cũng phải làm như thế. Vậy mà Đức Giêsu lại đón tiếp họ! Đã thế, Người lại còn ăn uống với họ, tức là làm một việc đáng trách hơn nữa, vì ăn uống với ai là kết giao, chia sẻ tình bạn, tình liên đới với người ấy.
Dẫn nhập này đưa lại cho [các] dụ ngôn một đặc tính là biện hộ, là bào chữa cho cách xử sự của Đức Giêsu đối với người tội lỗi. Qua cách xử sự này, Đức Giêsu cho thấy là sự hoán cải không là điều kiện tiên quyết người ta phải có để được Thiên Chúa đón tiếp; trái lại Thiên Chúa đã thực hiện “sự hoán cải” trước, để người ta có thể lại đi vào quan hệ an bình với Ngài.
* Ba Dụ ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa (4-32)
Từ dụ ngôn đầu đến dụ ngôn thứ ba của chương 15, tác giả cho thấy có một sự tiệm tiến: một con chiên trong số một trăm, một đồng bạc trong số mười đồng, rồi một đứa con trong số hai người. Bản văn càng đi tới càng cho thấy rằng điều đã mất nay lại tìm thấy càng lúc càng trở nên quí báu hơn.
Người mục tử, người phụ nữ và người cha đều vô danh, bởi vì cả ba được đề ra như một biểu tượng của Thiên Chúa yêu thương.
Một con chiên có giá trị của nó. Không phải vì còn chín mươi chín con kia, mà con chiên bị lạc không đáng kể. Người mục tử sẽ kiên nhẫn đi tìm con chiên lạc cho đến khi tìm thấy nó. Chín đồng bạc còn lại vẫn không miễn cho người phụ nữ khỏi tha thiết đi tìm đồng đã mất. Một người con thì còn đáng giá hơn muôn vàn con chiên hoặc đồng bạc. Các kinh sư dạy rằng Thiên Chúa vui mừng khi người công chính sống lại, và kẻ gian ác phải tiêu vong. Đứcd Giêsu lại nói rằng Thiên Chúa vui mừng khi kẻ gian ác được sống lại, “trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn” (c. 7). Ở đây không phải là một lời kêu gọi hãy phạm tội, nhưng là một lời mời gọi hãy nhìn nhận rằng tất cả chúng ta là những kẻ tội lỗi trước mắt Thiên Chúa. Không có một ai là “công chính” cả. Vị thần linh ban thưởng tùy theo các công trạng chỉ hiện hữu trong tâm trí người Pharisêu (xưa và nay). Vị Thiên Chúa của Đức Giêsu là một vì Thiên Chúa ban tặng nhưng-không ơn cứu độ cho tất cả chúng ta mặc dù chúng ta không đáng nhận.
Giờ đây chúng ta suy niệm về truyện người con thứ và người con cả. Thật ra, cả hai người con được nói tới chỉ là để cho người cha có cơ hội diễn tả các tâm tình của ông ra.
Sau khi đã nhận đủ phần gia tài, người con thứ đi đến một xứ xa xôi, hẳn là một miền đất dân ngoại. Tại đó, anh đã xài hết tiền của. Rơi vào tình trạng khốn đốn, anh phải chăn heo: đây là sự sa cơ thất thế cùng cực! Anh ta suy nghĩ. Nhưng không phải là hối hận về lối sống, không phải là tiếc nuối vì đã làm cho cha đau buồn. Anh ta chỉ tự trách là ngu ngốc chịu đói chịu khát ở đây trong khi các tôi tớ ở nhà có ăn dư thừa. Thế là để có thể trở về và được nhạn vào nhà như người làm công, anh chuẩn bị một bài “diễn từ cảm đông” để mong cha nguôi giạn: các lời lẽ hối tiếc không đi đôi với các tâm tình của anh.
Quả thật hình ảnh này không tôn vinh kẻ tội lỗi chút nào. Đây đúng là chân dung mà người Pharisêu chờ đợi.
Lúc người con thứ trở về, người con cả đang làm việc ngoài đồng. Khi trở về, anh nhận ra trong nhà có chuyện lạ. Sau khi hỏi một người đầy tớ, anh ta hiểu chuyện; anh không thể chấp nhận được, anh nổi giận. Ta thông cảm với anh. Vì anh không chịu vào nhà, người cha đã ra gặp. Thế là anh cho tuôn ra hết những gì vẫn chất chứa tận đáy lòng: anh nói với giọng chua cay, nhưng kể ra đúng các sự việc. Theo anh, đúng là người cha đã xử sự bất công! Những người Pharisêu và các kinh sư cũng nghĩ rằng họ có lý khi tỏ ra khó chịu với Đức Giêsu.
Trước tiên người con cả nói về chính mình: “Bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh”. Chắc chắn đấy cũng là lý tưởng của người Pharisêu và các kinh sư: “phục vụ” Thiên Chúa bền bỉ, và rất chú ý để không bao giờ vi phạm một điều răn nào.
Sau đó, người con cả nói về em với giọng hết sức khinh bỉ. Anh không gọi là “em con”, nhưng nói là “thằng con của cha đó”. Điều này cũng giống như người Pharisêu trong dụ ngôn Lc 18,10-14 nói đến “tên thu thuế kia” với giọng miệt thị.
Như thế, Đức Giêsu đã ngỏ lời với những người vẫn nghĩ rằng mình là những tôi tớ tốt lành, luôn quan tâm để không bao giờ thiếu sót một điều răn nhỏ. Khi đó, họ nghĩ họ có nhiều quyền; họ tỏ ra khó chịu, không phải đối với người tội lỗi, nhưng đối với chính Thiên Chúa vì Ngài đã đối xử với kẻ tội lỗi như vậy: Nếu như thế, sống đạo đức còn ích lợi gì? Nếu như thế, sống trung thành và vâng phục Thiên Chúa còn có ý nghĩa gì nữa?
Người cha trông mong người con thứ từng ngày, nên ngay khi anh còn ở đàng xa, ông đã trông thấy. Ông vội vã chạy ra đón con, ông cuống quýt thúc đầy tớ chuẩn bị lễ mừng. Ông chẳng màng đến bài diễn từ bần tiện của anh ta. Ở nhà có con bê béo, ông quyết định cho giết ngay để ăn mừng. Rõ ràng trong lòng ông, niềm vui đang bùng nổ. Ông chưa bao giờ thôi thương yêu con. Nó đi xa, nó đã mất; nay nó lại được tìm thấy. Quá khứ không còn gì đáng kể, Điều quan trọng là nó đã trở về!
Đã không muốn nghe lời hối lỗi của con thứ, nay người cha lại để cho người con cả tha hồ nói lên những tâm tình chua chát. Sau đó, ông đã trả lời với giọng dịu dàng âu yếm. Qua lời ông nói, người con cả chẳng còn lý do gì mà nói rằng cha xử bất công với mình nữa. Nhưng ông tế nhị điều chỉnh: “vì em con đây…”. Nếu cha đã sung sướng đến thế khi gặp lại con, lẽ nào người anh lại không vui sướng khi gặp lại em?
Chúng ta không bao giờ biết được phản ứng sau đó của người con cả (nghe theo đề nghị của cha? Đi vào nhà và chào em? Đi vào ăn tiệc chung vui?). Chúng ta cũng không biết người con thứ được sống theo chế độ nào, anh ta sẽ đáp lại thế nào. Dù sao, toàn chương 15 giống như một bài ca chan hòa niềm vui được tấu lên để mừng niềm hạnh phúc của người đã tìm lại được điều mà họ đã mất.
+ Kết luận
Nếu đọc cả ba dụ ngôn, chúng ta sẽ thấy hai dụ ngôn đầu kết “có hậu”, còn dụ ngôn thứ ba có kết mở: Người con cả có vào nhà theo lời cha mời chăng? Như thế, hai kết luận tốt đẹp đầu nhằm đưa tới chúng ta một câu hỏi: Chúng ta có hết lòng chia sẻ niềm vui của Thiên Chúa mà đón người tội lỗi hối cải vào Nước Thiên Chúa không? Trong thực tế, chúng ta vẫn được Thiên Chúa vui lòng đón tiếp, chúng ta cũng hãy sẵn lòng đón lấy người anh em trở về.
5.- Gợi ý suy niệm
NHỮNG DỤ NGÔN VỀ NIỀM VUI TẬP THỂ SAU KHI TÌM LẠI ĐƯỢC CÁI ĐÃ MẤT
Trong các chương từ 15 đến 19 sẽ có nhiều giáo huấn của Chúa Giêsu, chủ yếu dưới hình thức các dụ ngôn, được trình bày trước hết để soi sáng trên thái độ ân cần của Thiên Chúa đối với những kẻ bị xã hội tôn giáo khinh chê và ruồng bỏ. Đó là trường hợp của ba dụ ngôn làm nên chương 15. Tình yêu của Thiên Chúa đối với những kẻ không được yêu thương, cũng không đáng thương lên án một cách gián tiếp sự cứng cỏi và nghiêm khắc mà những người”công chính” hơn đối xử với họ.
Điểm bắt đầu ở chương 15 lại là một bữa ăn (cc. 1-3). Nhưng lần này Chúa Giêsu đón tiếp –có thể tại chính nhà Ngài- những người thu thuế và những người tội lỗi (với nghĩa xã hội lẫn tôn giáo của từ này) và Ngài ăn uống với họ. Những người thuộc phái Pharisêu và các Kinh sư lên án cử chỉ này vì nó bẻ gãy những hàng rào truyền thống phù hợp với sự khôn ngoan Kinh Thánh (x. Cn 1,1-15), và như họ đã từng làm nhân bữa ăn tại nhà ông Lêvi (5,29-30), họ lẩm bẩm. Dưới dạng dụ ngôn, lời đáp của Chúa Giêsu ở đây ngắn gọn và đanh thép (5,31-32); sự tương phản giữa những kẻ công chính và người tội lỗi ăn năn sám hối được nói đến ở 5,32 cũng như ở 15,7. Ba dụ ngôn ở đây thiết lập một liên hệ chặt chẽ giữa cách hành xử của Chúa Giêsu và thái độ của Thiên Chúa –đó là điều mới mẻ và căn bản. Những dụ ngôn này được gắn liền với nhau bằng các đề tài (niềm vui, sự hoán cải) và một diễn ngữ (bởi vì cái mất lại được tìm thấy) như một sợi chỉ đỏ chạy xuyên suốt cả chương. Hai đề tài đầu tiên (cc. 4,10) minh hoạ phần đầu của lời khẳng định: ”Ta đến không phải để gọi những người công chính mà gọi các tội nhân” (5,32a), đề tài sau cùng minh hoạ phần cuối”để chúng ăn năn sám hối” (5,32b).
Để biện minh cho thái độ của mình, Chúa Giêsu bắt đầu bằng hai dụ ngôn có cấu trúc song song (cc.4,10). Cùng một câu hỏi giả thiết một lời đáp khẳng định. Một cái gì đó bị mất (từ nayù được dùng tới năm lần) mà người ta đã tìm lại được (sáu lần). Một người chăn chiên khá giả và ngược lại, một bà nội trợ nghèo mời bạn bè hàng xóm lại chia sẻ niềm vui của họ. Nếu con chiên tự đi lạc, thì một trong số mười đồng bạc –với một đồng đủ sống một ngày- bị người đàn bà đánh mất. Như vậy các dụ ngôn này không quan tâm tới cách thức sự mất mát; ngay cả việc tìm thấy cái đã mất cũng thuộc về quá khứ. Việc tìm kiếm ít được nhấn mạnh hơn là lời mời gọi cùng chia sẻ niềm vui.
Các dụ ngôn kép này (cc. 4-6.8-9) và việc áp dụng của chúng chỉ hơi khác nhau ở hình thức (cc.7-10), đồng hoá cái đã mất với tội nhân. Điều quan trọng hàng đầu là đừng đọc lời giải thích mà không có con người đi trước: liên hệ giữa chúng nhấn mạnh rằng việc sám hối của tội nhân không thể xảy ra, nếu trước đó Thiên Chúa đã không đi tìm họ. Ở cuối tiến trình này là niềm vui của Thiên Chúa đối với chỉ một tội nhân sám hối, một niềm vui mà Thiên Chúa chia sẻ cho toàn triều thần Thiên Quốc. Ở câu 7 (chứ không ở câu 10) có vấn đề chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn. Phải chăng đó là một lời mai mỉa nói với các người Pharisêu và Kinh sư, vì họ phải biết rằng không ai là công chính trước mặt Thiên Chúa (x. Rm 3,10tt) và chính họ cũng cần hoán cải? Phải chăng đây là một cách nhấn mạnh cách tột cùng – như trong chính dụ ngôn, câu 4 – cái giá trị của từng cá nhân đối với Thiên Chúa khi họ quay về với Ngài?
Như thế, việc Chúa Giêsu năng lui tới các kẻ bị loại trừ được biện minh bằng hành động của chính Thiên Chúa. Và diễn từ dụ ngôn như muốn nêu lên cho các thính giả một câu hỏi: Các bạn có thể chung vui với Chúa Kitô khi thấy những người tội lỗi đến gần Ngài để nghe Ngài chăng?
Dụ ngôn về người có hai con trai (cc.11-32) được trình bày như một bức tranh bộ đôi đưa vào hoạt cảnh người con út, rồi người con cả; trong cả hai trường hợp, người cha giữ một vai trò quyết định. Khi đọc dụ ngôn này chúng ta sẽ nhận thấy rằng: trong một dụ ngôn có hai kết luận, hai”cao điểm” thì cao điểm thứ hai là điều Luca muốn nhấn mạnh hơn cả.
Phần thứ nhất của dụ ngôn trình bày người con út dưới một hình ảnh không có gì đáng khen (cc. 1-24). Nó không đợi cha qua đời rồi mới sử dụng phần gia tài của nó, và nhất là nó hoang phí gia tài khi sống một cách truỵ lạc. Thế là nó phải đi làm công cho một kẻ ngoại giáo đến đỗi đi chăn heo –loại thú vật nhơ bẩn trong Do Thái giáo- và sẵn sàng nhét cho đầy bụng thức ăn của chúng. Nó chỉ quyết định trở về vì tình thế bắt buộc thôi. Chắc hẳn rằng trước một dung mạo như thế những người Pharisêu và luật sĩ đang nghe một câu chuyện phải cảm thấy đối với nhân vật này một tâm tình tương tự như họ đã có đối với các thực khách đồng bàn với Chúa Giêsu! Giọng văn thay đổi với sự suy tư của đứa con hoang đàng (cc. 17-19). Hành động mà anh ta định làm chắc hẳn có một lý do vụ lợi, nhưng nó ghi dấu bước chân khởi đầu của một cuộc hoán cải, một cuộc trở về với Thiên Chúa cũng như với cha của mình. Khi anh ta quả quyết rằng anh chẳng con đáng gọi là”con”, và xin được đối xử như một người làm công cho cha anh, anh không toan tính một mưu mẹo gì, với óc thực tế, anh ta tính toán về cái giá phải trả cho một cuộc trở về của anh.
Thái độ của người cha, trong phần thứ nhất này, làm người ta phải ngạc nhiên, ông không từ chối yêu cầu của đứa con út. Ông chia của cải cho các con, phân phát gia tài cho hai đứa. Đứa út nhận được một phần ba của cải, trong khi hai phần ba kia dành cho con cả (x. Đnl 21,17), thì người cha vẫn quản lý cho tới khi ông qua đời. Người cha để cho đứa con út được hoàn toàn tự do và, khác với người chăn chiên và bà nội trợ trong dụ ngôn trước, ông không làm bất cứ điều gì để tìm lại con mình. Nhưng chính tuy ân cần mà ông đón tiếp con khi nó trở về, có nguy cơ gây nên cho chúng ta, các độc giả, một lời kêu ca trách móc gần giống như lời trách móc mấy ông Pharisêu ở câu 21. Người ta cứ tưởng, như chính đứa con út đã tưởng, cùng làm người cha sẽ đối xử với nó như một người làm công cho mình (c.18), và sẽ đòi buộc nó phải đền bù lỗi lầm. Thay vì làm thế, người cha chạnh lòng thương, ông hạ mình chạy ra đón con –một sự vội vã không xứng đáng với một người Đông phương- ông bày tỏ với nó cách công khai những dấu hiệu yêu thương, ngay cả trước khi nó xưng thú tội lỗi. Rồi ông ngắt lời nó xưng thú, cho nó đeo nhẫn là dấu chỉ uy quyền, cho nó mang giày là dấu hiệu riêng của người tự do. Ông hồi phục nó hoàn toàn trong cuộc sống gia đình và tổ chức một bữa tiệc để cả nhà cùng chia sẻ niềm vui.
Cùng một lý do như người chăn chiên và bà nội trợ: ”Vì con ta… đã mất nay lại tìm thấy”. Hơn nữa, lý do ấy được bày tỏ một cách mới mẻ: ”Nó đã chết mà nay sống lại”. Hoán cải là trở về với Thiên Chúa và như thế là trở về với cuộc sống đích thức. Nói một cách trống không –với các đầy tớ, mà cũng với các người Pharisêu và cả với chúng ta nữa- lời mời gọi hãy vui mừng mang một hình thức rõ rệt: ”Hãy mở tiệc ăn mừng!”. Niềm vui này dễ hiểu đối với con chiên hay đồng bạc bị mất, thì ở đây lại làm cho chúng ta ngỡ ngàng vì tội lỗi của đứa con hoang đàng –một đề tài không có trong hai dụ ngôn đầu này. Niềm vui đó sẽ làm cho người con cả nổi giận như các người Pharisêu: chẳng lẽ cha lại mời nó ăn tiệc mừng với một tên tội lỗi, với một kẻ nhơ bẩn!
Trong phần thứ hai của dụ ngôn, chân dung của người con cả biểu lộ sự giận dữ, ganh tỵ và gây gổ (cc. 25-32) khi anh ta quả quyết rằng đã bao nhiêu năm trời hầu hạ cha và chẳng khi nào trái lệnh (c.19), anh tự đặt mình trong tương quan với cha như là một bổn phận hơn là do tình yêu. Thái độ”công chính” của anh làm ta nghĩ đến thái độ của các người Pharisêu và các luật sĩ. Như họ, anh tỏ ra giữ khoảng cách với tên hoang đàng khi nhắc đến tội của hắn (nó đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm) và gọi hắn là”thằng con của cha đó” –chứ không phải là”em của anh ta”. Anh ta tố cáo cha đã thiên vị và cuối cùng, trách cha đã giết bê béo ăn mừng với một kẻ chỉ là tội nhân.
Hình ảnh người cha phù hợp với chân dung đã có trong phần thứ nhất. Ở đây nữa, thái độ của ông không phải được tạo nên do những ước lệ của Đông phương mà bởi tình yêu đối với con ông: ông ra và năn nỉ con ông (c.28)! Để biện minh cho cách xử sự của mình, ông nhìn nhận rằng người con cả của ông chưa bao giờ đã chết hay bị mất và ông nhấn mạnh đến cuộc sống thân tình giữa hai người. Câu nói”tất cả những gì của cha đều là của con” nhắc nhở rằng, từ khi chia gia tài, người cha và người con cả cùng chung hưởng phần gia tài nhiều gấp đôi thuộc về người con cả (xc.12). Hai điểm được nhấn mạnh với cậu cả đang giận dữ: phải mở tiệc ăn mừng –thái độ này nằm trong chương trình của Thiên Chúa (x.2,49). Bởi vì được dựa trên hành động của chính Thiên Chúa (x.7,10). Và”đứa con” (c.30) cùng là”người em” của anh cả… Cuối cùng người cha nói lại lý do nền tảng, lần này được phong phú hoá nhờ lời giải thích thần học (cc.24-32): việc đi từ sự chết đến sự sống.
Dụ ngôn vẫn còn mở ngỏ: người ta không biết anh con cả có đón nhận lời khuyến dụ của cha và quyết định chia sẻ niềm vui vì cái đã mất lại tìm thấy như các bạn bè và hàng xóm trong hai dụ ngôn trước chăng. Anh có chịu chấp nhận cùng ăn với đứa em”nhơ bẩn” không hay cứ tự nhốt mình trong cơn giận dữ của anh ta? Vậy, nếu chính tôi, là thính giả hay độc giả của dụ ngôn này, đang ở trong hoàn cảnh của người con cả, thì chính tôi phải chọn lựa chấp nhận hay không lời năn nỉ của người cha. Một lời đáp tích cực là điều khó, đôi khi còn đau đớn nữa, dụ ngôn không nói rằng điều đó sẽ tự động có được. Lập trường của người con cả, trong đó phần chót của dụ ngôn đặt chúng ta vào, ngột ngạt hơn những gì phụng vụ thống hối đề nghị: vì phụng vụ này chỉ giới hạn ở phần thứ nhất của dụ ngôn và dẫn dắt chúng ta như thể đồng hoá chúng ta với người con út – điều này có lẽ dễ dàng hơn! Không thể chối cãi và Luca nhấn mạnh nhiều hơn đến phần thứ hai. Dù sao, quan điểm chính nhắm tới tình yêu và sự thương cảm của người cha đối với từng đứa con, được thể hiện qua suốt cả trình thuật. Chính đó là điều làm cho việc trở về của tội nhân thành khả thi và mời gọi chúng ta vui mừng, dù đôi khi có khó khăn lắm cũng phải vui mừng.
Tin Mừng hôm nay, nếu đọc đầy đủ, gồm “ba dụ ngôn nổi tiếng về lòng nhân hậu, mà Luca đã tập họp trong chương 15: *1. Con chiên bị mất và tìm lại được *2. Đồng bạc bị đánh mất và tìm lại được *3. Đứa con đi mất và trở về. Ba dụ ngôn này được xây dựng trên cùng một sơ đồ và đạt đỉnh cao trong dụ ngôn thứ ba mà nhan đề truyền thống là “dụ ngôn đứa con hoang đàng”. Tuy nhiên, vì dụ ngôn thứ ba này đã được suy gẫm vào Chúa nhật IV Mùa Chay của cùng năm Phụng vụ này, nên hôm nay chúng ta chỉ cần chú giải hai dụ ngôn đầu.
Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Những người Pharisêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.
“Ông này đón tiếp phường tội lỗi, đó là một định nghĩa về Chúa Giêsu, đồng thời cũng là một mạc khải của Thiên Chúa!”. “Ai thấy tôi là thấy cha tôi” (Ga 14,9).
Những người Pharisêu và các kinh sư là những người rất được trọng vọng. Họ thật sự bị sỉ nhục vì Đức Giêsu thường tiếp phường tội lỗi. Phần chúng ta, chúng ta có thể hoàn toàn bỏ qua khía cạnh “Tin Mừng” của ngày hôm nay, nếu chúng ta không nhận ra rằng bài Tin Mừng này cũng vì chúng ta. Phải chăng chúng ta là những người nói rằng: “Tôi không làm gì xấu, tôi là một người tử tế, tôi không có tội”.
Tuy nhiên, trong phần thư của Thánh Phaolô mà chúng ta đọc hôm nay, thánh nhân lặp lại với chúng ta: “Đức Kitô Giêsu đã đến thế gian, để cứu những người tội lỗi mà kẻ đầu tiên là tôi” (1 Timôtê I,15). Phụng vụ ngày Chúa nhật đầy rẫy thực tại “cứu độ” “tội lỗi được tha thứ”. Chúng ta có đem lại một nội dung cụ thể cho các từ đó? Chúng ta có thuộc phái Pharisêu chỉ nhìn thấy tội lỗi. Trong những người khác? Trước khi đi xa hơn trong sự suy niệm của tôi, tôi cần phải bình tâm và sáng suốt nhận thực rằng tôi là kẻ tội lỗi” khi nhớ đến những thiếu sót mà tôi phạm phải trong đời tôi.
Đức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn này: Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang để tìm cho kỳ được con chiên bị mất?”
Đức Giêsu hỏi. Người kêu gọi kinh nghiệm của các cử tọa, các ông nghĩ gì? Các ông sẽ làm gì? Thật ra, không một mục đồng nào chịu mất dù chỉ một con chiên, nhưng lo lắng để tìm lại nó.
Các triết gia đã biến Thiên Chúa thành một ý niệm vững chắc: Một hữu thể bất động, không hề thay đổi… Còn ở đây chúng ta đứng trước một Thiên Chúa “chuyển động”, đang mở chiến dịch tìm kiếm cái mà Người đã mất? Và Đức Giệsu đặt trước mắt – chúng ta các cậu mục đồng vùng đồi núi Galilê đang chạy hết tốc độ, chân trần trên sỏi đá để tìm lại một con chiên đi lạc khỏi đàn. Chúng ta đoán được sự ngoan cường của các cậu trai ấy, “tìm kiếm cho tới khi nào tìm thấy!”
Thiên Chúa là như thế…
Không bao giờ có người nào bị Thiên Chúa bỏ rơi.
Không bao giờ có người nào “bị mất” hẳn, bởi vì có Đấng yêu thương người ấy không ngừng đi tìm người ấy. Thiên Chúa không chịu ngồi chờ kẻ tội lỗi trở về. Người ra đi tìm họ.
Chúng ta còn phải chiêm niệm lâu dài Thiên Chúa đó, Đấng mà Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta. Khi người ta yêu thương, thì số học không còn như cũ. Lúc đó, có thể đặt dấu bằng (=) ở giữa số 1 và số 99. Đối với Thiên Chúa, mỗi người đàn ông, mỗi phụ nữ có một giá trị độc nhất, vô giá. Tôi nhìn thấy con chiên độc nhất ấy đã bò trốn hoặc đã bị mất. Đó là con chiên chiếm hết ý nghĩ của cậu mục đồng. Và xem ra chỉ có nó mới là đáng kể. Chúng ta có một Thiên Chúa như thế. Một Thiên Chúa tiếp tục nghĩ đến những ai đã bỏ rơi Người, một Thiên Chúa yêu mến những ai không yêu mến Người, một Thiên Chúa đau khổ chỉ vì một trong số các con chiên của Người làm Người lo lắng.
Đôi khi, tôi chẳng phải là con chiên đó sao? Và, xung quanh tôi, như ông nọ, bà kia, cô X…, ông Y… không người nào bị bỏ rơi. Thiên Chúa đang tìm kiếm họ.
“Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai…”
Đây là một hình ảnh kỳ diệu, một trong những tranh thánh đã thể hiện Đức Giêsu như thế ngay từ những thế kỷ đầu: Một người chăn chiên sung sướng, tươi cười, vác trên vai một con chiên. Trong nội tâm mình, chúng ta còn phải chiêm niệm hình ảnh ấy của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã có một sự quan sát rất tinh tế với chi tiết đơn giản đó: “vác con chiên trên đôi vai”, khi một con chiên đi lang thang nhiều giờ hoặc nhiều ngày xa đàn chiên, nó kiệt sức và nằm xuống. Thật ra phải vác nó thời. Và một con chiên nặng đấy? Nhất là khi người chăn chiên cũng đã chạy nhiều giờ trên những ngọn đồi nhiều sỏi đá dưới ánh nắng mặt trời… Chính người chăn chiên cũng rất mệt nhọc? Nhưng, Đức Giêsu nói, hoàn toàn vui mừng, người đó quên đi sự mệt nhọc của mình, bế nó lên tay và vác nó.
Chính Thiên Chúa được giới thiệu với chúng ta như thế! Vả lại hình ảnh ấy không mới mẻ. Toàn thể Kinh thánh đã thể hiện Thiên Chúa dưới những đường nét của “Người chăn chiên” (Isaia 40,11; 49,10 v.v…). Và mỗi Kitô hữu thỉnh thoảng phải đọc lại Thánh Vịnh 26 tuyệt vời: “Chúa là đấng chăn dắt tôi, tôi không thiếu thốn chi”.
“Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại và nói: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó”.
Niềm vui của người chăn chiên rất mạnh mẽ nên người ấy không thể, giữ lại cho một mình mình. “Xin chung vui với Ta” Thiên Chúa nói. Vậy giờ đây Thiên Chúa là hữu thể đang vui mừng và chia sẻ nềm vui. Chúng ta hoàn toàn khác với các người Pharisêu và kinh sư hay càu nhàu, bẳn gắt!
Vậy tôi nói cho các ông hay: “Trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn”.
Thiên Chúa vui mừng tha thứ cho những kẻ tội lỗi.
Thiên Chúa vui mừng để cứu độ, vì Người không biết kết án ai. Trên trời có niềm vui! Vậy khi nào? Mỗi lần một kẻ tội lỗi hoán cải. Chỉ một thôi ư! Mỗi lần mà sự ác lùi lại một chút trên mặt đất.
Hoặc người phụ nữ nào có mười đồng quan, mà chẳng may đánh mất một đồng, lại không thắp đèn, rồi quét nhà moi móc tìm cho kỳ được?
Luca, vốn rất quan tâm đến các phụ nữ là người duy nhất thuật lại cho chúng ta dụ ngôn đầy “nữ tính” này, để nói lại với chúng ta cùng một sự việc dưới một hình ảnh bổ sung. Sự lặp lại này không đơn thuần là một minh họa mới: Đức Giêsu nhấn mạnh, như để nói với chúng ta rằng điều Người vừa mới mạc khải không phải là một sự nói quá hoặc một sự nhầm lẫn ngẫu nhiên. Tình yêu phi thường của Thiên Chúa được tái xác nhận ở đây.
Tìm được rồi, bà ấy mời bạn bè, hàng xóm lại và nói: “Xin chung vui với tôi vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất”.
Vậy giờ đây một niềm vui rất đơn sơ được chia sẻ giữa những Người phận nhỏ. Đây cũng là một sự quan sát cụ thể của Đức Giêsu. Người phụ nữ được đưa lên sân khấu này là một Người nghèo: Bà không sở hữu “một trăm con chiên”, bà chỉ có mười “đồng quan “! Đồng quan này chỉ số tiền lương trung bình một ngày công nông nghiệp (Mt 20;2). Vì thế không phải là gia tài to lớn gì mà bà đã tìm lại được Nhưng bà cũng muốn chia sẻ niềm vui. Thiên Chúa là như thế đó. Chúng ta còn chưa hiểu đủ bầu khí vui mừng xuất phát từ tấm lòng của Thiên Chúa nằm rải rác khắp nơi trong toàn bộ Tin Mừng như một “Tin Mừng”, và niềm vui ấy muốn tràn ngập nhân loại được “cứu thoát”.
“Cũng thế, tôi nói cho các ông hay: Giữa triều thần Thiên Chúa ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối”.
Hình ảnh này rất đẹp. Không nên cụ thể hóa nó. Có một cuộc lễ trên thiên giới. Niềm vui của Thiên Chúa lan truyền và trở thành niềm vui của các thiên thần.
Tất cả lễ hội hân hoan này chỉ vì sự hối cải của một người tội lỗi?
Tư tưởng Kitô giáo, phản ánh tư tưởng của Đức Giêsu đầy sự tinh tế. Phải nhấn mạnh rằng, không hề có một sự làm hại thanh danh với “tội lỗi” trong thái độ đó. Đức Giêsu không bao giờ nói rằng tội lỗi không quan trọng. Trái lại, sự lên án của Người đối với tội lỗi thì mãnh liệt và không chút mơ hồ. Như mọi ngôn sứ, Đức Giêsu đòi hỏi sự hoán cải và sám hối (Máccô 1,15). Và nếu các dụ ngôn mà chúng ta vừa nghe là một lời rao giảng về tình yêu Thiên Chúa thì chúng cũng là một lời rao giảng về sự hoán cải cần thiết của kẻ tội lỗi. Nhưng điều được nói ở đây một cách mạnh mẽ là luôn luôn Thiên Chúa có sáng kiến “đi tìm” điều đã bị mất. ‘Tình yêu cốt ở điều này; không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta trước” (1Ga 4,10 -19).
Chúng ta có để Thiên Chúa yêu thương chúng ta không? Chúng ta có mang lại niềm vui cho Thiên Chúa không? Và có bước vào trong niềm vui của Thiên Chúa không? Cần phải đọc lại phần kế tiếp là dụ ngôn về đứa con hoang đàng, trong Chúa nhật IV Mùa Chay.
CHIÊN LẠC (15, 1-7)
Trong số những người môn đệ Chúa, có nhiều người thu thuế và tội lỗi. Các ký lục và biệt phái lấy điều đó là gương mù và ta biết là họ đã tỏ ý không chấp thuận điều đó, cho nên họ đưa ra những vấn nạn là chuyện đương nhiên.
Những người thu thuế là những người làm ăn sinh sống bằng những nghề khá mập mờ. Thế nên, họ chẳng lưu tâm đến luật lệ của Thiên Chúa trong lý thuyết lẫn trong thực hành; họ chẳng cần biết đến những giá trị tinh thần, những cái họ coi là chỉ tổ mất thì giờ và bất lợi. Họ còn có thái độ khinh dể những nơi thờ phượng nữa.
Còn những người tội lỗi, họ chỉ thấy bình thản khi lãng quên Thiên Chúa và cố tránh né mọi bận tâm về tôn giáo.
Thế nhưng sao họ đến với Chúa Giêsu thật đông như thế? Chúa Giêsu không chấp nhận một não trạng duy vật, một cuộc sống xa cách Thiên Chúa, Ngài cũng chẳng có ý làm cho tôn giáo thành dễ theo hơn. Thế mà sao họ vẫn đến với Ngài?
Ngược lại, những người biệt phái, đại biểu cho thành phần tôn giáo ‘đạo gốc’, là những nhà đạo đức chuyên nghiệp, những người sùng đạo nhiệt thành, những người hoàn toàn không thể trách cứ: tóm lại họ là thành phần đạo đức ưu hạng.
Các luật sĩ là những nhà chuyên môn, những người thông thạo lề luật và thực hành về tôn giáo, thông thái về khoa giáo điều, nói những lời đáng tin về Thiên Chúa. Và hẳn là những hạng người này đã không đến với Đức Kitô, có chăng là tính cách địch thủ, hầu hại Ngài và làm cho Ngài ‘mất tín nhiệm’.
Những người thu thuế và tội lỗi vẫn là những kẻ bị lên án, còn luật sĩ và biệt phái là những người ưu tuyển. Dân chúng nghĩ như thế và chắc có lẽ là Thiên Chúa cũng vậy. Thế mà tại sao lại xẩy ra thế khác?
Nhưng Thiên Chúa đã và còn đang xét định cách khác. Tư cách của những người thu thuế và tội lỗi có xâú thật, tư cách của luật sĩ và biệt phái có đúng về nhiều điểm thật. Thế nhưng, những ý định bên trong, những động lực của việc họ làm lại chứng tỏ hoàn toàn khác hẳn.
Những người thu thuế và tội lỗi coi mình như hạng hư mất, xa cách Thiên Chúa, không còn sùng mộ chi nữa, đúng ra đầy tội lỗi. Do đó họ xác tín về sự bất lực của họ, không thể tự thoát mà phải chờ mong tất cả từ ân sủng và lòng nhân lành của Thiên Chúa.
Biệt phái và luật sĩ tự hào là những người công chính, được bảo đảm an toàn, nơi họ tất cả đều ổn định và ân sủng đầy tràn. Vì tự lực thánh hoá bản thân, những người như thế đâu cần nhờ nguồn lực thánh hoá độc nhất nữa.
Nhưng Thiên Chúa lại có cái nhìn khác hẳn. Ngài không xét hành vi bên ngoài, nhưng là những ý định trong lòng.
Linh hồn có ý thức sự yếu đuối của mình, sự hèn hạ, giới hạn và tội lỗi của mình, khi ấy nó mới tìm kiếm Thiên Chúa nơi thâm sâu của lòng mình, mới ao ước Ngài, mới có thể đón nhận ân sủng của Ngài và như thế là mở cửa để đón Ngài.
Nương đồng dẫu có sỏi đá cũng không hề chi: nó đã được cày bừa và những luống cày sâu sẵn sàng tiếp nhận hạt giống sẽ gieo vào. Tạo vật mang tật bệnh, vì thế nó cần đến y sĩ; vì thấy mình trống rỗng, nên chỉ có sự viên mãn của Thiên Chúa mới có thể lấp đầy. Sự viên mãn ấy thấu nhập nơi ngõ hẹp cuộc đời của nó: vì thế nó sẵn sàng trở về, sẵn sàng hoán cải, nó khẩn khoản bàn tay cứu nhân độ thế đến cứu thoát mình.
Ngược lại, con người tự hào về sự cao trọng, về sức mạnh của mình, nghĩ rằng mình không thể phạm tội và vinh vang vì giai cấp được tôn trọng, tưởng rằng mình hoàn hảo trong đàng đạo đức, thì họ sẽ chẳng lo kiếm tìm Thiên Chúa, bởi vì họ lấy bản thân làm nơi an nghỉ. Tin tưởng ở mình thì không còn tin tưởng nơi Thiên Chúa; tình yêu mình sẽ thay thế cho lòng yêu mến Thiên Chúa.
Người thu thuế có thể hoán cải khi họ nhận thấy thân phận tội lỗi của mình. Còn biệt phái và luật sĩ không thể hối cải vì họ cứ ngỡ là mình công chính. Trên trời sẽ vui mừng khi có một người cải tà qui chánh, bởi vì đây là một sự quay về, một khuôn mặt nhìn lại Chúa, một con người đã hư mất được cứu thoát. Như thế trên trời sẽ vui mừng mỗi lần có người ‘tội lỗi’ trở về, chứ không phải mỗi khi có người ‘công chính’ tin rằng mình không cần hoán cải nữa. Trên trời vui mừng vì người tội lỗi thực sự được Chúa Kitô, Đấng hằng tìm kiếm những tâm hồn tội lỗi, đến cứu thoát.
Nhưng trên trời không vui vì số phận của những người –và họ là đa số- không thể được cứu thoát chỉ vì lý do họ nghĩ rằng không cần thiết.
Tư tưởng của Thiên Chúa không phải là ý tưởng của chúng ta và đường lối của Người chẳng phải là đường lối của ta. Vì đó, Chúa Kitô đã cho họ thấy rằng những ý định của Thiên Chúa khác hẳn của con người, xưa cũng như nay, Ngài đi tìm kiếm những kẻ tội lỗi thực sự, và bỏ qua những người ‘công chính’ giả hiệu.
TÌM KIẾM (15, 8-10)
Liều mất mạng sống vì tình yêu Chúa Kitô, mất mạng sống vì không có Ngài… Bây giờ là vấn đề được Đức Kitô kiếm tìm và đi tìm kiếm theo gương Ngài.
Người đàn bà đánh mất một đồng bạc. Bà tìm kiếm không ngơi cho đến khi thấy lại đồng bạc đã mất: theo một nghĩa loại suy, dựa theo lời Đức Kitô, ta có thể nói về việc Thiên Chúa tìm kiếm.
Ân sủng không được ban theo kiêủ buôn bán, dè xẻn, mà Thiên Chúa cũng chẳng đưa cho con người một bản tổng kết những gì Ngài đã ban cho họ. Ân sủng của Người tuôn chảy không ngừng, tình Người yêu thương chẳng bao giờ cạn.
Thiên Chúa kiếm tìm tạo vật đã lạc mất bằng những lời khuyên nhủ, cảnh cáo, khích lệ; đó là bề trong, còn bề ngoài người dùng Giáo Hội, các linh mục, sách vở, người này người nọ, biến cố này biến cố khác. Nhiều biến cố có vẻ phũ phàng. Nhưng thực ra đó chỉ là những dấu chân hữu hình của Thiên Chúa, dõi theo từng người chúng ta.
Bệnh tật giúp người ta mau mắn hồi tâm lại, mất mát của cải sẽ tách người ta ra khỏi những sự thế trần. Thất vọng sẽ cho thấy không nên quá tin tưởng vào con người. Thất bại sẽ thanh lọc tính kiêu căng và những lời phê bình gay gắt sẽ giải thoát ta khỏi tính ích kỷ.
Cả khi con người lang thang phiêu lãng, Thiên Chúa vẫn đuổi theo. Không có chỗ nào con người ở một mình cả. Chẳng bao giờ con người có thể tự nhủ Thiên Chúa đã bỏ rơi mình rồi. Một người thợ săn kiên nhẫn, rình chờ con mồi, một ngư phủ lưới người cũng kiên nhẫn đợi chờ chú cá bé nhỏ dính vào lưới ân sủng, hoặc là có dẫy dụa đi nữa, thì cũng mắc vào chiếc lưỡi câu. Đấy Thiên Chúa như thế đấy.
Chỉ có ở thế giới bên kia, tạo vật đã bị chiếm hữu sẽ nhận thấy rằng Thiên Chúa vẫn luôn theo đuổi, tìm kiếm mình, và tình Ngài yêu thương không ngừng đưa ra hết cách, và hết thế để dẫn đưa mình trở về. Tất cả mọi người chúng ta –dầu không nhận thấy- đang sống trong bầu khí yêu thương của Người.
Trước nhan Thiên Chúa, chúng ta tỏ ra phong phú –đây là điều khó có thể tưởng tượng được-. Điều này giải thích niềm vui trên trời khi một người xa lạc được tìm về.
Cũng có thể áp dụng dụ ngôn này cho việc tìm kiếm những người con đã hư mất. Người mục tử không bao giờ được bằng lòng với những con chiên sốt sắng ngoan đạo, mà phải biết nghĩ đến những tâm hồn còn đang xa cách, đang gặp nguy khốn, đã sa ngã, đã lầm đường lạc lối.
Thực là một hiện tượng đáng buồn khi thấy trong tiểu thuyết hiện đại, thường các vị linh mục được miêu tả như những vị trưởng giả đầy đủ. Rõ ràng những nguyên tắc bất can thiệp và nhẫn nhục ảnh hưởng nhiều đến đời sống linh mục. Ngạc nhiên hơn nữa là ngày nay các toà Giám mục, đa số gồm có những vị trẻ trung, tinh thần cởi mở, đến độ gần như cách mạng trong khoảng thời gian thế chiến thứ nhất. Kết quả vẫn chán nản biết bao!
Một số lớn các linh mục hiện nay đã tham dự vào thế chiến thứ hai, và rồi người ta mới thấy điều đó.
Có lẽ người ta cho rằng nhận một trọng trách trong Giáo Hội đã có quy củ, chắc chắn sẽ làm cho họ mau an phận và làm suy yếu tinh thần tìm kiếm của họ. Thực sự những người mà Giáo Hội có trách nhiệm, đã tiếp tục lìa xa Giáo Hội.
Nếu người mục tử tốt lành để lại chín mươi chín con chiên để tìm kiếm một con thất lạc, và nếu người đàn bà bỏ mọi công chuyện để tìm đồng bạc đánh mất, thì người mục tử cũng phải tìm ra đường lối và phương pháp để dẫn những kẻ lầm lạc trở về. Chúng tôi có ý nói đến sứ vụ tông đồ tại các gia đình, tổ chức thăm viếng tận nhà, tái phối trí những họ đạo lớn, phát huy tinh thần tìm kiếm trong công tác tông đồ giáo dân, sự chuẩn bị môi trường bằng báo chí, những nỗ lực bác ái xã hội, những điều kiện ưu tiên cho vùng ‘sỏi đá’. Nói tóm lại, ta không thể bằng lòng với những gì mình đang có mà phải nghĩ đến những gì đã mất mát đi.
Làm cho những người vốn đã tốt, trở nên tốt hơn không đủ. Thực tế rất thường chưa hẳn những người đó đã là những người tốt.
Nhiều khi những người tân tòng, những người ăn năn hối cải lại khiến cho người ta mừng rỡ hơn bởi vì họ biết mình lầm lạc và đã được tìm kiếm, họ biết rằng chính bản thân họ đã tìm lại điều đã mất; Họ quí chuộng kho tàng của họ hơn là những người bao giờ đức tin cũng bình thường, không yếu đuối cũng chẳng lu mờ.
NGƯỜI CON HOANG ĐÀNG (15, 11-32)
Xét theo tâm lý, phải là bậc thầy mới hoạ nổi dụ ngôn đứa con hoang đàng. Thế nhưng đây lại chẳng nhấn mạnh về đứa con hoang đàng, về những nỗi khốn nạn và sự trở về của chàng ta. Mà lại nhấn mạnh nhiều đến người cha.
Tất cả những đoạn văn Thánh Luca nói về vấn đề hư mất đã kết thúc một cách ý nghĩa khi đưa chúng ta về Thiên Chúa, Đấng cứu thoát những gì đã hư hại và bù đắp dư dật.
Trong dụ ngôn, người cha có thể, hoặc tạm thời từ chối không chia cho người con phần gia tài của anh ta, hoặc là nói cho thấy hơn thiệt. Bản văn lại chẳng đả động đến chi tiết. Người cha đã chia gia tài cho anh, và để anh ra đi. Đối với đứa con, chẳng phải vì xung khắc hay vì sự sa đoạ nào đó thúc đẩy anh ra đi, nhưng là vì anh khát khao được sống ngoài vòng kềm toả, vì háo hức khao khát kinh nghiệm, vì muốn biết cái mới lạ, vì chưa có bản lãnh, vì tính hung hăng và bản năng thích phiêu lưu mạo hiểm.
Thiên Chúa cũng để cho con người hành động. Người có thể gìn giữ con người khỏi tội lỗi bằng những đường lối quan phòng của Người hoặc bằng áp lực của ân sủng mà con người không thể nào cưỡng lại được. Thế nhưng, Người vẫn tôn trọng tự do của con người: điều này làm chúng ta ngạc nhiên và khó hiểu.
Nhưng thể theo Thánh ý của Người, sau khi con người đã được tạo dựng một cách tự do và được ban cho quyền tự do, Thiên Chúa đã thực sự để cho con người làm chủ những quyết định của mình, lại còn ban cho con người sự trợ giúp tự nhiên để thực hiện những quyết định đó nữa. Bởi chưng mọi chuyện con người thực hiện –cả khi con người làm điều ác nữa- con người cần phải có sự trợ lực của Thiên Chúa, nếu không con người hoàn toàn bất lực.
Trong dụ ngôn, đứa con lầm lạc dần dần sa sút, trước tiên là một sự phung phí dại dột, rồi hắn phung phí gia tài cho bọn đĩ điếm cho đến lúc hắn hoàn toàn chìm đắm trong tình cảnh khốn nạn và phải đi chăn heo (ta chớ quên thái độ xa lánh của người Do thái đối với loại thú vật này) rồi suýt chết đói.
Thiên Chúa cũng thế, Ngài để mặc con người tự do theo con đường đã chọn lựa, để họ xuống dốc theo ý muốn và ao ước của họ. Ai tưởng mình có thể định đoạt giá trị sự vật thì Chúa sẽ để họ theo ý riêng mình, cho đến khi họ hiểu rằng ý muốn tự quyết của họ chỉ là sự sụp đổ bất lực.
Thiên Chúa thường thông cảm với việc con người yếu đuối sa ngã giữa lúc làm bạn với bầy heo và cơn đói ám ảnh. Tuy nhiên –sẽ có một hiện tượng kỳ dị- bao lâu mọi sự tốt đẹp thì con người ít nghĩ đến Thiên Chúa. Họ muốn quán xuyến tất cả và tự mình quyết định. Nhưng khi có trục trặc vì lỗi của họ, họ vội vàng quy trách cho Thiên Chúa.
Trong dụ ngôn, người con đã trở về với chính mình. Bị lâm vào cảnh phiền muộn, nó mới biết đến kinh vực sâu, thú nhận lỗi lầm của mình và dọn sẵn lời thú tội: ‘Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha’. Nó ý thức mình không còn quyền lợi nữa và chỉ còn trông cậy vào lòng nhân hậu để được coi như một kẻ hèn hạ nhất trong đám thợ làm công.
Khi con người có kinh nghiệm sâu sắc và chua cay về thất bại bản thân, họ dễ ý thức giá trị của ân sủng. Lúc ấy, họ biết không thể tự sức mình mà được việc, nên phải phó thác vào ân sủng của Thiên Chúa. Tội lỗi đã làm cho con người mất địa vị làm con Thiên Chúa, cho nên, làm tôi tớ đối với nó là một đặc ân. Con người không còn đến trước Thiên Chúa Cha với tư cách một người con quấy rầy, nhưng như một kẻ van xin đầy lòng hối hận đứng trước chủ nhân. Và Thiên Chúa chấp nhận họ.
Trong dụ ngôn, người cha đã chờ đợi rồi ông đã chạy ra đón đứa con hư, tỏ lòng tha thứ mà không cần đứa con giãi bày lời thú tội. Ông đã dọn một bàn tiệc, tổ chức một buổi lễ… Đối với tội nhân hối cải, Thiên Chúa cũng có một thái độ tương tự. Ngài đến gặp họ. Phán quyết trong nội tâm và lòng hối cải đã là dấu hiệu của ân sủng Thiên Chúa. Kẻ lầm lạc khi tự phán quyết rồi lại quyết định trở về với Thiên Chúa, đó cũng là ân sủng.
Thiên Chúa cầu mong lại đón nhận họ. Đó là do lòng nhân hậu của Ngài. Và, nói một cách sát chữ, Ngài đem lòng yêu thương dạt dào người tội lỗi đã hối cải, quên đi quá khứ, xoá bỏ ác quả và tội vạ, và hơn nữa, cho họ được những đặc ân không ngờ, đây là mầu nhiệm khôn dò của ân sủng Người.
Bữa tiệc sẽ minh chứng là Thiên Chúa yêu thương. Người anh khó tính với cảm nghĩ tầm thường lấy vẻ liêm chính che đậy đầu óc thiển cận, tâm hồn hẹp hòi của mình. Trái lại, qua hành vi quảng đại của người cha, dụ ngôn cho chúng ta thấy bản tính thâm sâu của Thiên Chúa, tầm mức vô biên của tình yêu, nhịp điệu và hài hoà, âm vang trong Thiên Chúa.
Lầm lạc không còn là điều đáng quan tâm. Tăm tối đã biến đi. Ánh sáng chói chan khắp nơi, mọi sự thấy đẹp hơn bao giờ hết. Tội hồng phúc!… Tội lỗi là dịp vô cùng hữu ích để chúng ta nhận ra sự cao cả của Thiên Chúa đến nỗi chính các lỗi lầm của con người lại dẫn đến ơn cứu độ và vinh quang của Thiên Chúa.
XIN CHUNG VUI VỚI TÔI
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
Ở đây chúng ta chỉ nhắc qua bối cảnh là một cuộc tranh luận, và tập trung chú ý vào lời mời gọi hãy chung vui vì tìm lại được những gì đã mất, được ghi lại trong cả ba dụ ngôn.
Đức Giêsu đang trên đường lên Giêrusalem, nơi Người sẽ phải đổ máu để cứu muôn người. Nhiều “người thu thuế và tội lỗi, đến để nghe Người giảng. Những người Biệt phái và kinh sư thì khó chịu “xầm xì với nhau” chống lại Người bởi vì không chỉ “đón tiếp phường tội lỗi”, Đức Giêsu còn “ăn uống đồng bàn với chúng”, một hành động tỏ ra cùng phe với bọn chúng!
Để trả lời, Đức Giêsu nói với họ ba dụ ngôn rất hay về lòng thương xót, làm thành chương 15 của Tin Mừng Luca. Để biện minh cho cách đối xử của mình, Đức Giêsu nêu lên lòng thương xót của Thiên Chúa đối với những kẻ tội lỗi. Qua những lời Người nói và các việc Người làm, từng là cớ vấp phạm cho đối phương, Người cho thấy lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa đang được thể hiện và hoạt động. Và “tình yêu ấy của Thiên Chúa dành cho tất cả những ai chúng được yêu và cũng chúng đáng yêu, gián tiếp lên án sự cứng cỏi và khắc nghiệt mà những con người “đàng hoàng” hơn kia đã đối xử với họ” (Cousin, L’Evangile de Luc, Centurion, trg 211).
Cả ba dụ ngôn đều nêu bật sáng kiến của Thiên Chúa, Đấng đi bước trước trong việc tìm kiếm tội nhân (hai dụ ngôn đầu) và đã “chạy ra” đón đứa con hoang trở về dụ ngôn thứ ba. Tuy nhiên đỉnh cao của mỗi dụ ngôn đều nằm ở lời mời gọi hãy chung vui vì đã tìm lại được: Niềm vui của người “chăn chiên” vác “con chiên lạc đã được tìm thấy” trên vai. Mời gọi bạn bè và hàng xóm đến chia sẻ: “xin chung vui với tôi!”.
Niềm vui của “người phụ nữ” tìm lại được “đồng bạc đã đánh mất”, mời gọi bạn bè và chị em xóm giềng đến chia sẻ: “xin chung vui với tôi!”.
Niềm vui của “người cha” khi đứa con trở về, “đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”, mời gọi người con cả cố chấp của mình cùng chia sẻ: “chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ!”.
Roland Meynet nhận định, “Những người Pharisêu và các kinh sư, coi thái độ xử sự của Đức Giêsu như một hành dộng phản lại họ. Bởi vì đón tiếp những kẻ tội lỗi cũng có nghĩa là bỏ rơi những người công chính, là để mặc những con chiên ngoan ngoài hoang địa. Như vậy, chính những người này đã tự tách riêng mình ra, đứng ngoài bữa tiệc vui của Đức Giêsu và những kẻ tội lỗi ăn năn trở lại niềm vui của người khác làm gai mắt họ, trong khi chính họ cũng được mời đến tham dự cuộc vui đoàn tụ của tất cả mọi người. Họ không hiểu rằng niềm vui đoàn tụ không chỉ riêng của con chiên lạc với chủ nó mà thôi, nhưng còn là niềm vui đoàn tụ chung của tất cả các con chiên với nhau, của con chiên lạc với 99 con kia, trong cùng một chuồng chiên, dưới cùng một chiếc gậy chăn của một chủ chiên duy nhất. Niềm vui còn phải được nới rộng ra đến mọi người hàng xóm và bạn bè, nếu không nó sẽ không trọn vẹn. Sẽ không thể có niềm vui đoàn tụ đích thực nếu có ai đó còn đứng ngoài. Tất cả đều được mời, và vòng tròn tham dự còn rộng mở đến tận trời cao, đến các thiên thần của Thiên Chúa. Như vậy làm sao tự cho phép mình đứng ngoài và tự tách rời khỏi cuộc hoà giải của tất cả? Từ chối chung vui với Đức Giêsu, không chia sẻ niềm vui của ơn tha thứ được trao ban và đón nhận, chính là khước từ niềm vui Nước Trời, là xầm xì chống lại Thiên Chúa” (L’Evangile selon Saint Luc. Analyse rhélorique, tập 2, Cerf, trg 161-162).
BÀI ĐỌC THÊM:
(G. Bessière, trong “Diêu siproche. Année C”, Desclée de
Brouwer, trg 146-147)
“Một xã hội đang bị câu thúc. Nhiều phe cánh kình chống nhau. Cả một mớ những lời lẽ và ánh mắt thô tục. Ở giữa đó, hiện lên một khuôn mặt, đó là Đức Giêsu. Con người ấy đã dám đánh đổ mọi phe phái đạo đức và tôn giáo của đất nước mình. Thử tưởng tượng xem: “ông ta đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng”. Tất cả bọn chúng tuôn đến để nghe ông ta. Trong lúc phía bên kia là những phần tử ưu tú trong dân về mặt trí thức, nhân đức và lòng đạo: nhóm Pharisêu và các kinh sư, những đấng bậc khả kính, những con người đủ tư cách sửa dạy người khác…
Sự thinh lặng được phá vỡ. Và đây con người lạ lùng kia, với biệt tài vô song, lên tiếng kể chuyện. Có ai ngờ được rằng suốt hai ngàn năm, và còn mãi về sau, người ta vẫn còn ngồi lại thuật cho nhau nghe những câu chuyện đó, và chúng sẽ mãi mãi là những gì quí báu nhất còn ghi lại trong ký ức của nhân loại.
Con chiên bị mất, không hề có chi tiết nào nói nó kêu be be, để gọi chủ. Nó chẳng có công gì xứng đáng để được chủ vác lên vai. Mọi sự đều phát xuất từ người chăn chiên mà ‘niềm vui trong tim’ cứ muốn tràn sang đến tất cả. Và cả cõi thiên đình chẳng quan tâm bao nhiêu tới trật tự tốt đẹp nơi bầy chiên ngoan, lại tỏ ra vui mừng rộn ràng khi có một con người biết chỗi dậy và bắt đầu cuộc sống mới? Còn việc trở về của thằng con phung phá, ăn chơi và hư đốn? Tới bước đường cùng hắn mới chịu “hồi tâm suy nghĩ”: dù có cố tìm một lời lẽ gì đó để nói khi về đến nhà, thì chẳng qua chỉ vì đói nên hắn mới chịu mò về đó thôi. Cũng thế, tất cả đều khởi động từ cõi lòng người cha, “trông thấy con từ xa, ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ con và hôn lấy hôn để”. Thằng con có ráng ấp úng bài diễn văn tạ tội đã dọn sẵn trong đầu cũng vô ích thôi, bởi lúc này ai nấy đang tưng bừng chuẩn bị dọn tiệc ăn mừng. Có cả tiếng ca tiếng đàn nữa! Chắc chắn rồi. Đối diện trước cả hai cánh tốt xấu trên của nhân loại, Đức Giêsu tuyên bố mọi sáng kiến của Người dành cho những kẻ bị loại trừ, bị khinh miệt và tất cả những người tật nguyền về mặt tinh thần, đều là những sáng kiến của chính Đấng được tung hô ba lần Thánh. Người là Mục Tử của Israel, là Cha của dân tộc, là người đã chạy đi tìm con chiên lạc và ra đón đứa con hoang trở về.
Thiên Chúa, mà người nhân đức thánh thiện tưởng mình độc quyền sở hữu, kẻ tội lỗi thì nghĩ mình đã quá xa rời, chính Người đã lật đổ mọi thứ học thuyết và mọi lề lối sống đạo có sẵn. Chúng ta có thực sự tin rằng nơi vị Thiên Chúa ấy có tình yêu mãnh liệt, khiến Người luôn mơ đến một thế giới trong đó mọi người đều là anh em, và làm dậy lên trong Người một niềm vui mong được chia sẻ với tất cả?”.
(“Missel Emmaus des Dimanches”, trg 1105).
“Thiên Chúa! Đấng chúng ta muốn là quan toà kết tội người khác, nhất là những kẻ thù nghịch, trong lúc chúng ta lại xin Người tỏ lòng nhân từ với chính mình: phải chăng đó là chuyện “hoàn toàn tự nhiên?”.
Do suy nghĩ như vậy, nên giữa chúng ta vẫn xảy ra thói xét đoán lẫn nhau, lên án lẫn nhau.
Thiên Chúa chúng ta mơ tưởng đó thực ra chỉ là một ngẫu tượng do chúng ta nhào nặn ra và nhằm phục vụ lợi ích của bản thân. Đó không phải là Thiên Chúa thật. Phải, Thiên Chúa là Đấng giầu lòng xót thương. Chúng ta sẽ thấy rõ điều này khi xua tan đi lớp mây mù do trí khôn loài người bày ra che phủ khuôn mặt thật của Người. Tuy nhiên chỉ những ai nhận ra tình yêu nhưng không của Thiên Chúa, và những ai để cho ân sủng ấy chiếm hết đời mình, đồng thời phản chiếu ra bên ngoài qua cách ăn ở với mọi người xung quanh. Chỉ những người như vậy mới cảm nghiệm được khuôn mặt thật của Thiên Chúa. Ích kỷ chỉ biết đến mình là điều ai nấy đều không thể chấp nhận cho dù đó là những con người “ngoan đạo” nhất!
VUI MỪNG CỦA NGƯỜI CHĂN CHIÊN (15,1-7)
Có thể nói không chương nào trong Tân Ước quen thuộc và đáng yêu cho bằng chương 15 của Luca. Nó được gọi là “Phúc Âm trong Phúc Âm”, như thể chứa đựng chính bản chất tinh tuyền của Tin Mừng Chúa Giêsu đã rao giảng.
Những dụ ngôn này của Chúa Giêsu đã phát xuất trong một bối cảnh đặc biệt. Các Kinh sư và Pharisêu đã vấp phạm vì thấy Chúa Giêsu nhập bọn và bầu bạn với những kẻ mà người Do Thái chính thống gọi là tội nhân. Pharisêu đã xếp tất cả những ai không tuân giữ luật vào chung một hạng, họ gọi những người đó là “dân của đất”. Có một hàng rào ngăn cách dứt khoát giữa Pharisêu và người “dân của đất”. Gả con gái cho một người dân của đất thì chẳng khác gì trói cô gái ấy nộp cho sư tử. Luật của Pharisêu định rằng “Khi có một người dân của đất, thì đừng trao tiền cho nó, đừng nói điều bí mật cho nó, đừng đặt nó coi sóc trẻ mồ côi, đừng để nó giữ của bố thí, đừng đi đường với nó”. Có luật cấm Pharisêu không được mời một người dân của đất đến dùng bữa, cũng không được nhận lời của ai trong hạng người đó. Luật cũng cấm Pharisêu không được liên lạc bình thường với họ, không được mua bán với họ. Pharisêu tránh hẳn mọi liên hệ với đám dân của đất, tức là những người không giữ đủ các chi tiết vớ vẩn, nhỏ nhen trong luật. Dĩ nhiên họ rất khó chịu khi thấy Chúa Giêsu làm bạn với những người không những thuộc hạng cùng đinh mà còn là tội nhân nữa, vì giao thiệp với hạng người đó thì bị ô uế. Chúng ta sẽ hiểu các dụ ngôn này đầy đủ hơn nếu chúng ta nhớ rằng người Do Thái ngoan đạo không nói “cả thiên đàng vui mừng vì một tội nhân hoán cải”, nhưng họ nói “cả thiên đàng vui mừng vị một tội nhân bị diệt mất trước mặt chúng”. Họ hướng cặp mắt độc ác để chờ xem huỷ diệt tội nhân, chứ không chờ mong giải cứu tội nhân.
Vì thế Chúa Giêsu nói cho họ dụ ngôn về con chiên lạc và vui mừng của kẻ chăn. Người chăn chiên ở xứ Do Thái có một công việc khó nhọc và nguy hiểm. Đồng cỏ thì hiếm. Cánh đồng cao nguyên ở giữa xứ chỉ rộng chừng vài dặm thôi, còn phần nhiều địa thế là những khe trũng dốc đứng và cảnh sa mạc hoang vu. Không có những bức tường chắn giữ nên chiên dễ đi lạc. G.A. Smith đã viết về người chăn chiên như sau “Trên mọt cánh đồng khô cỏ cháy, ban đêm chỉ có tiếng chó hú, người chăn chiên với gương mặt tỉnh táo, đôi mắt nhìn xa, màu da cháy nắng, mình đeo khí giới, đứng dựa trên cây gậy, mắt chăm chú nhìn bầy chiên đang ăn”. Chúng ta hiểu tại sao người chăn chiên ở xứ Do Thái lại là những người ở vị trí hàng đầu trong lịch sử nước họ, tại sao người chăn chiên là biểu tượng về sự quan phòng của Thiên Chúa, tại sao Chúa Cứu Thế đã lấy hình ảnh người chăn chiên làm gương mẫu cho sự từ bỏ mình. Người chăn sẽ trực tiếp chịu trách nhiệm về đoàn chiên. Nếu một con chiên bị mất thì người chăn phải mang về nhà ít ra là cái lốt chiên để chứng tỏ là nó đã chết. Những người chăn chiên có tài theo dấu vết cách đặc biệt, có thể theo dõi dấu chân của một con chiên đi lạc hàng dặm qua núi đồi. Không có người chăn chiên nào không coi bổn phận mỗi người của mình là bỏ mạng sống mình vì đoàn chiên. Có nhiều đoàn chiên là tài sản chung, không thuộc cá nhân nào, nhưng thuộc một làng và có hai hay ba người chăn. Những người chăn có đoàn chiên còn đầy đủ thì có thể về nhà đúng giờ và báo tin rằng còn có một người chăn đang lặn lội trên sườn núi để tìm con chiên lạc. Cả làng sẽ thức chờ đợi, rồi khi thấy từ đàng xa một người chăn đang vội vã về làng, trên vai vác một con chiên, cả làng sẽ reo mừng và cảm tạ. Đó là hình ảnh của Chúa Giêsu nói về Thiên Chúa. Chúa Giêsu nói Thiên Chúa cũng thế, Ngài vui mừng vì tìm lại được một tội nhân đã lạc mất, cũng như người chăn vui mừng vì tìm được chiên lạc đem về chuồng. Một thánh nhân đã nói “Thiên Chúa cũng vậy, niềm vui vô cùng lớn lao khi tìm thấy những sự đã mất”.
Có một ý tưởng kỳ diệu ở đây. Đó là chân lý vĩ đại cho ta biết Thiên Chúa nhân từ hơn loài người. Những người Do Thái chính thống hẳn sẽ gạt bỏ các kẻ thâu thuế, các tội nhân như một thứ phải loại trừ, chỉ đáng tiêu diệt. Chúa thì chẳng bao giờ như thế. Loài người có thể mất hết hy vọng về một tội nhân nào đó, nhưng Chúa thì không thế, Ngài yêu mến nhưng con chiên không hề đi lạc, nhưng trong lòng Ngài, có sự vui mừng cực lớn khi một con chiên lạc được tìm thấy và đem về nhà.
NGƯỜI PHỤ NỮ VỚI ĐỒNG TIỀN ĐÁNH MẤT RỒI TÌM LẠI ĐƯỢC (15,8-10)
Đồng tiền nói trong dụ ngôn này là đồng Drachma, trị giá chừng 4 xu Anh. Đồng tiền nhỏ nhất rất dễ rơi mất trong nhà của người dân quê xứ Palestine, và cũng phải mất nhiều thì giờ mới tìm được. Nhà của người Palestine thường tối om, vì chỉ có một cửa sổ tròn mà đường kính khoảng 4 tấc rưỡi. Nền nhà thì bằng đất nện được phủ bằng những tấm liếp sậy và cành cây nhỏ. Tìm kiếm một đồng tiền nhỏ trên một nền nhà như vậy không khác gì tìm một cây kim trong đống cỏ khô. Người đàn bà quét nhà, hy vọng nhìn thấy mặt đồng tiền lấp lánh hoặc nghe tiếng kêu của nó khi lăn trên những cành cây nhỏ. Có hai lý do khiến người đàn bà sốt sắng tìm kiếm đồng tiền.
Dù 4 xu không phải là nhiều, nhưng nó cũng cao hơn tiền công một ngày làm việc của một công nhân tại xứ Palestine. Họ thường sống trong cảnh thiếu hụt và hầu như luôn bị nạn đói đe doạ. Có thể người đàn bà nóng nảy tìm cho ra nếu không tìm được thì gia đình bà sẽ thiếu ăn.
Tại Palestine, dấu hiệu của một phụ nữ có chồng là một chiếc vành trên đầu làm bằng một sợi dây bạc. Trong nhiều năm, một cô gái làm lụng và để dành cho đủ mười đồng tiền nhỏ đó, bởi vì cái chuỗi tiền tên đầu của nàng cũng đáng giá gần bằng chiếc nhẫn cưới. Khi nàng đã sắm được nó, thì nó là của riêng nàng, đặc biệt đến nỗi người khác không thể đoạt được của nàng, và nếu có đánh mất một đồng tiền nhỏ thì phải tìm kiếm nó như bất cứ người nào khác cũng làm thế khi đánh mất cái nhẫn cưới.
Vì thế chúng ta dễ hiểu niềm vui mừng khi bà nhìn thấy tia óng ánh của đồng bạc mất và khi tìm lại được nó. Chúa Giêsu phán: Thiên Chúa cũng làm thế, niềm vui mừng của Ngài và của các Thiên Thần khi có một tội nhân quay về nhà, cũng như niềm vui mừng của một gia đình khi đồng bạc quyết định cái no hay đói của họ được tìm thấy và cũng giống như người đàn bà đánh mất một tài sản có giá trị hơn tiền bạc, rồi tìm lại được.
Không có một Pharisêu nào lại mơ đến một Thiên Chúa như vậy. Một học giả Do Thái danh tiếng đã thừa nhận đây là một điều tuyệt đối mới mà Chúa đã dạy cho loài người về Thiên Chúa –đó là Ngài thực sự tìm kiếm con người. Người Do Thái có thể hình dung một người bò về nhà Chúa với tất cả sự hạ mình và kêu xin thương xót và được thương xót. Nhưng họ không bao giờ có thể hình dung ra một Thiên Chúa lại ra đi tìm kiếm con chiên lạc. Chúng ta thấy tình yêu đó hiện thân trong Chúa Giêsu. Con Thiên Chúa, Đấng đến để tìm và cứu những ai lạc mất.
CÂU CHUYỆN VỀ NGƯỜI CHA NHÂN LÀNH (15, 11-32)
Không phải là không có lý do khi người ta gọi chuyện này là chuyện ngắn vĩ đại nhất thế giới. Theo luật Do Thái, người cha không được tự do phân chia gia tài mình tuỳ ý thích, đứa con cả đương nhiên được 2/3, đứa con thứ 1/3 gia tài (Đnl 21,17). Không phải là một việc lạ khi một người cha phân chia gia tài ngay khi còn sống nếu ông muốn được nghỉ ngơi khỏi hoạt động kinh doanh. Nhưng có một sự vô tâm trơ tráo nơi đứa con thứ khi nó đề xuất việc chia gia tài này. Thực ra nó đã nói “Cha hãy cho con ngay bây giờ phần gia tài mà trước sau gì con cũng được lãnh khi cha chết, và hãy để con ra khỏi nơi này”. Người cha không tranh luận gì, ông hiểu rằng nếu con ông cần được một bài học thì nó phải có một bài học đắt giá, và ông đã cho như ý nó xin. Tức khắc đứa con lấy phần riêng của nó và bỏ nhà ra đi.
Hắn nhanh chóng tiêu xài hết tiền và kết thúc bằng việc chăn heo, một công việc cấm kỵ đối với người Do Thái, vì luật nói: “đáng rủa xả kẻ nào chăn heo”. Và Chúa Giêsu cho nhân loại tội lỗi một lời khuyên chưa từng có “Khi nó trở về với chính mình (nó tỉnh ngộ)”. Chúa Giêsu tin là bao lâu con người còn xa cách và chống nghịch với Thiên Chúa thì con người không thực sự là con người, con người chỉ thực sự là chính mình khi con người đang trên đường trở về nhà. Có một điều kỳ diệu nơi Chúa Giêsu là Ngài không tin rằng con người hư hỏng hoàn toàn. Ngài không bao giờ tin rằng ai đó có thể tôn vinh Thiên Chúa bằng cách phỉ báng con người, Ngài tin rằng con người không bao giờ được thực sự là mình cho đến khi nào con người trở về nhà với Chúa. Cho nên đứa con đã nhất định trở về nhà và xin cha nhận lại mình không phải để làm con, nhưng làm một tên nô lệ mạt hạng trong nhà, một tên đầy tớ ở thuê, một tên lao động công nhật trong nhà cha. Theo một nghĩa thì người nô lệ là một phần tử của gia đình, nhưng đầy tớ ở thuê thì có thể bị đuổi sau khi chủ báo trước một ngày vì nó không thuộc về gia đình chút nào. Vậy khi đứa con đã về nhà –theo bản Hy văn tốt nhất- cha chàng không để chàng kịp mở miệng xin làm đầy tớ. Ông đã lên tiếng trước. Chiếc áo dài tiêu biểu sự tôn trọng, chiếc nhẫn tượng trưng cho quyền bính, vì nếu ai cho kẻ khác chiếc nhẫn ấn tín của mình thì cũng như uỷ quyền cho người đó thay thế mình; đôi giày là dấu hiệu làm con khác với nô lệ vì con cái trong gia đình mới mang giày, còn nô lệ thì không được. (Ước mong của người nô lệ trong bài ca của người da đen là mau đến thời kỳ mà “mọi con cái Chúa được mang giày” vì đi giày là dấu hiệu sự tự do). Và một bữa tiệc được bày ra để mọi người ăn mừng đứa con hoang đàng trở về. Chúng ta dừng lại ở đây, thử nhìn xem chân lý trong dụ ngôn này.
Nhưng câu chuyện đến đây chưa chấm dứt. Người anh cả đi về, anh thực sự buồn rầu vì em anh đã trở về. Người anh cả đại diện cho Pharisêu tự kiêu, tự mãn, họ thà xem thấy tội nhân bị tiêu diệt hơn là được cứu. Có mấy điều nổi bật nơi người anh cả.
Một lần nữa chúng ta lại gặp một chân lý diệu kỳ là hoán cải, xưng tội với Chúa dễ hơn xưng tội với loài người. Thiên Chúa xét xử nhân từ hơn những người ngoại đạo. Tình yêu Chúa rộng lớn hơn tình yêu của loài người. Đứng trước một tình yêu như vậy, chúng ta không thể không chìm sâu trong kinh ngạc, ngợi khen và yêu mến Ngài hơn.
BA VẬT LẠC MẤT
Sau cùng chúng ta nên lưu ý rằng ba dụ ngôn này không chỉ là ba cách diễn tả cùng một việc. Có một sự khác biệt. Con chiên bị lạc mất hoàn toàn chỉ vì ngu dại. Nó không biết suy nghĩ. Có nhiều người sẽ tránh được tội lỗi nếu họ suy nghĩ kíp thời. Đồng bạc bị mất không phải vì lỗi của chính nó. Có người đi lạc đường vì bị kẻ khác lừa dối và Thiên Chúa không kể là vô tội kẻ nào xui kẻ khác phạm tội.
Nhưng Thiên Chúa có thể dùng tình yêu của Ngài, chiến thắng sự dại dột của con người, chiến thắng những tiếng cám dỗ, và chiến thắng cả sự tự ý phản loạn của con tim chúng ta nữa.
TIN VÀO SỰ THA THỨ ĐỂ LÀM HÒA VỚI CHÚA VÀ VỚI ANH EM
Kính thưa quý OBACE
Trên tầm mức thế giới chúng ta thấy các cuộc nội chiến tại một số quốc gia hiện nay dường như mỗi ngày một khốc liệt hơn, anh em chém giết lẫn nhau. Các quốc gia khác, kể cả Tòa Thánh cũng đã nỗ lực hết mình để mong tìm được giải pháp hòa bình, hòa giải cho các quốc gia nội chiến này, mà dường như vẫn chưa đạt được kết quả như mong đợi. Quốc gia này còn đang đánh nhau thì quốc gia khác lại bắt đầu khai chiến chém giết, đàn áp, trả thù… con người dường như khó chấp nhận sự tha thứ và hòa giải với nhau. Ngay trong một gia đình, một xóm nhỏ cũng đã xảy ra như thế, những cuộc cãi vã qua lại giữa hàng xóm, giữa vợ chồng thường xuyên xảy ra, bởi vì ai cũng cho rằng mình là người đúng, còn bên kia hoàn toàn có lỗi. Trong lãnh vực đời sống tâm linh đối với Thiên Chúa cũng thế, nhiều người đã cố tình sai phạm, quay lưng lại với Thiên Chúa nhưng họ vẫn cho là mình đúng, và tìm mọi cách để biện minh cho những hành động sai trái của mình.
Thưa quý vị, con người chỉ có thể thực sự hòa giải được với Thiên Chúa, làm hòa được với anh em khi mỗi người nhận ra tình trạng sai lỗi của mình, tin vào sự tha thứ và quyết tâm làm lại cuộc đời. Nếu như Chúa nhật tuần trước, Tin Mừng mời gọi chúng ta sám hối cách cụ thể chân thành, thì Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tin vào sự tha thứ của một Thiên Chúa là Cha để trở về với Ngài làm hòa cùng Thiên Chúa và anh em, làm lại cuộc đời mới.
Câu chuyện Người Cha nhân hậu mà Thánh Luca thuật lại hôm nay, trước hết muốn diễn ta một Thiên Chúa là cha yêu thương con người và sẵn sàng tha thứ cho những ngỗ nghịch của con người. Đứa con thứ tượng trưng cho sự ngỗ nghịch ấy. Trong ánh mắt của người con thứ, người cha dường như chẳng con vị trí nào quan trọng, mặc dù rằng ông yêu thương kể cả chiều chuộng nó, ông đáp ứng cho nó đầy đủ không thiếu thứ gì. Khi khôn lớn, người con thứ đòi chia gia tài của ông, ông cũng sãn lòng chia cho nó, rồi nó bỏ nhà ra đi mang theo của cải của ông. Ông biết rõ, là nó sẽ phung phí hết số tài sản đó, và nó sẽ không còn nhớ gì đến ông, nhưng ông vẫn đợi vẫn chờ. Đến khi nó trở về với thân tàn ma dại quần áo tả tơi thì ông lại chạy ra ôm lấy nó mà hôn, ông còn ra lệnh cho đầy tớ đem áo, đem nhẫn và giày dép mang vào cho nó và còn giết bê béo ăn mừng với chỉ một lý do duy nhất: Vì con ta đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Mặc dù nó trở về vời lý do khác, nhưng ông vẫn tin vào sự trở về của nó và đã trả lại cho nó quyền được làm con cái trong nhà. Điều đó cho thấy rằng Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về tình trạng của con người, dù con người có tội lỗi xấu xa, nếu biết quyết tâm chỗi dậy, thì Thiên Chúa luôn tin vào sự hoán cải của con người, để đón nhận và tha thứ.
Đứa con thứ đã lao vào tình trạng tồi tệ, tội của nó đáng chết đến trăm lần, nó đã bỏ tình yêu và cuộc sống hạnh phúc trong nhà Cha để lao đầu vào cuộc sống hưởng thụ sa đọa, nó lấy tiền của cha nó để ăn chơi đàng điếm. Chỉ khi nó sa cơ thất thế, không còn tiền bạc của cải, không còn chỗ dựa nào nữa, nó đã rơi xuống tận đáy của xã hội, đến tột cùng của sự nhục nhã nó phải đi chăn heo cho người khác, và thậm chí còn phải giành ăn đồ ăn của mấy con heo. Chính từ lúc cùng quẫn nhục nhã đó, nó có cơ hội để nhìn lại quãng đời của mình, và thấy rằng, chỉ có quãng thời gian ở trong nhà với cha là quãng đời đẹp nhất và hạnh phúc nhất, trong khi đầy tớ trong nhà cũng được ăn uống dư thừa, còn nó thì đang phảỉ đói khát phải sống cùng bầy heo. Nó tin rằng nó trở về, thì cha nó sẽ tha thứ, sẽ đón nhận nó, dù cho nó sẽ phải sống kiếp đầy tớ trong nhà, thì vẫn còn hạnh phúc hơn là cảnh xa nhà: Nó hồi tâm và tự nhủ tôi sẽ chỗi dậy và trở về với Cha tôi và thưa Người rằng: Thưa Cha con đã lỗi phạm đến trời và đến Cha, con không đáng được gọi là con cha nữa, xin Cha đối xử với con như đầy tớ trong nhà của cha. Nhận ra tình trạng của mình, tin vào sự tha thứ của Cha, và nó đã chỗi dậy làm một cuộc trở về với Cha, bỏ lại quá khứ để làm lại cuộc đời, bắt đầu một cuộc đời mới, và nó đã đón nhận được sự tha thứ vượt trên cả sức nó tưởng tượng. Người cha đã chạy ra ôm nó vào lòng, trả lại danh dự cho nó, và đón nhận nó với niềm vui mừng hân hoàn: Vì con ta đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy.
Nếu như lý do thúc đẩy cho sự trở về làm hòa với Thiên Chúa là: Tin vào tình yêu tha thứ của Thiên Chúa, thì việc làm hòa với anh em, đòi phải nhìn thấy tình huynh đệ con cùng một cha nơi người anh em mình, để có thể tha thứ và đón nhận nhau, đó là câu chuyện xảy ra cho người con cả. Anh này không chấp nhận và không tin vào sự hối hận trở về của em mình, vì thế anh ta đã giận dỗi và từ chối không chỉ người em, mà vì giận người em, anh từ chối không bước vào nhà cha nữa. Khi người ta giận dỗi nhau, thì người ta cũng từ chối gặp mặt Thiên Chúa, đó cũng là thái độ của nhiều người hôm nay: khi có vấn đề xích mích với anh em thì bỏ bê việc đến với Chúa. Người anh cả này đã nhất định từ chối người em, và từ chối bước vào nhà cha để dự bữa tiệc vui: Cha coi, đã bao năm tôi hầu hạ cha chẳng hề trái lời, vậy mà có bao giờ cha cho riêng tôi được một con bê để ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của Cha kia sau khi đã phung phí hết tài sản thì cha lại cho làm thịt bê béo để ăn mừng.
Anh đã tự mãn với đời sống hiện tại của mình, anh ganh tị với người em, anh không nhìn nhận nó là em của anh nữa, anh đã gọi nó là: thằng con của cha kia, chứ không phài là em tôi. Anh ở với Cha, nhưng lại không cảm nhận được tình thương của cha, anh có đầy đủ, cả khối tài sản được chia giống như người em, nhưng anh vẫn không thỏa mãn, anh còn tham một con bê nhỏ. Anh không thể tha thứ khi nhìn em của anh được cha tha thứ, anh muốn tiếp tục đẩy người em ra khỏi nhà, và khi anh giận dỗi với em mình, thì anh cũng đã tự tách mình ra khỏi nhà của cha, trở thành kẻ đứng ngoài.
Thưa quý OBACE, người cha trong câu chuyện của Tin Mừng hôm nay là hình ảnh của Thiên Chúa là cha yêu thương đang vẫn đang ngày ngày đợi chờ chúng ta là những đứa con trở về với Ngài. Có thể chúng ta giống như đứa con thứ đã xa lìa tình cha, vô ơn bội nghĩa với thiên Chúa, để mình chìm đắm trong cuộc sống hoang đàng, song chúng ta không thất vọng, chỉ cần mỗi người cũng hãy tự nhủ với mình rằng: Tôi sẽ chỗi dậy và trở về với cha tôi và thưa với ngài rằng: thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha, và chỗi dậy trở về, thì chúng ta sẽ được Thiên Chúa là Cha chạy ra ôm lấy chúng ta và tha thứ cho chúng ta.
Cũng có thể nhiều khi chúng ta thấy mình không đến nỗi tội lỗi, cũng không bỏ nhà đi hoang như người con thứ, thì rất có thể chúng ta đang giống như người con cả, mặc dù vẫn ở gần Cha nhưng lòng thì xa Cha, và nhất là chúng ta đang để trong mình sự so đo tính toán với cha, ganh tị với anh em khác và cũng nhiều lần chúng ta đã khép lòng từ chối anh em, và không cho họ có cơ hội trở về, và cũng nhiều lần vì ghét bỏ anh em, mà chúng ta đã không đáp lại lời mời của Thiên Chúa từ chối tình thương của Thiên Chúa… tất cả chúng ta đều được mời gọi trở về để xin lỗi cha và làm hòa với anh chị em.
Thánh Phaolo đã cho thấy, tất cả chúng ta đã trở nên tạo vật mới, con người mới, với cuộc đời mới, nhờ Đức Giêsu Kitô, Đấng đã hòa giải chúng ta với Thiên Chúa, và vì thế chúng ta hãy mạnh dạn đến cùng Thiên Chúa là cha, và nhất là mỗi người chúng ta đã lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa, thì chúng ta cũng phải biết đón nhận và tha thứ cho nhau.
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người, mỗi gia đình, hãy mau chóng làm hòa cùng Thiên Chúa và làm hòa lại với nhau, đừng ngại ngần, hãy bước đến với Thiên Chúa nơi Bí tích Hòa giải, để mỗi người sẽ cảm nhận được tình yêu tha thứ của Thiên Chúa là cha, được an ủi và được chữa lành. Hãy rà soát lại các mối tương quan với anh chị em, hãy gỡ bỏ những bất đồng thành kiến, những giận hờn thù oán, hãy chủ động bước tới và đưa tay ra để bắt tay người anh em, để xóa đi những mặc cảm và giận dỗi, để cùng nhau sống tình huynh đệ con cùng một cha.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta đừng bao giờ thất vọng về tình trạng của mình, nhưng luôn tin tưởng vào lòng bao dung của Thiên Chúa để làm lại cuộc đời. Amen.
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Trong ba dụ ngôn của bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đều kết thúc bằng những lời nói đến niềm vui. Người chăn chiên tìm được chiên lạc và vác chiên lên vai rồi về nhà mời bạn hữu láng giềng đến chia vui; người đàn bà tìm thấy đồng bạc mất cũng mời lối xóm đến chia vui; người cha có đưa con đi hoang trở về liền mở tiệc ăn mừng.
Ba dụ ngôn đều đề cao hình ảnh một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Ngài xót xa khi một người lầm đường rơi vào tội lỗi. Do đó Ngài tha thiết tìm cứu người tội lỗi. Khi cứu được một người tội lỗi, Ngài rất vui mừng.
Chúa Giêsu bày tỏ niềm vui của Thiên Chúa khi người tội lỗi hối cải. Ở dụ ngôn thứ nhất, “trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải”; ở dụ ngôn thứ hai “các thiên thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải”; và ở dụ ngôn thứ ba “phải ăn mừng, vì em con đây đã chết, mà nay lại sống, đã thất lạc mà nay lại tìm thấy”.
Tội nhân hối cải, không những được tha thứ, nhưng còn được chờ đợi, được đón tiếp. Niềm vui của Thiên Chúa thật lớn lao khi người tội lỗi biết từ bỏ con đường xấu xa, trở về sống trong tình thương của Thiên Chúa.
Hôm nay xin suy niệm về dụ ngôn thứ ba. “Dụ ngôn đứa con hoang đàng” được gọi là “Dụ ngôn người cha nhân hậu” thì hợp lý hơn, bởi vì dung mạo trung tâm của câu chuyện chính là người cha.
Đại văn hào người Anh, Charles Dickens, xem dụ ngôn “Người cha nhân hậu” là câu chuyện hay nhất, là hạt ngọc đẹp nhất của Tin mừng.
Tình thương của cha đối với hai con, nổi bật nơi người con thứ.
Người con thứ đòi Cha chia gia tài rồi bỏ đi vô tình, rời khỏi ngôi nhà, nơi mình sinh ra, nơi mình được nuôi dưỡng và lớn lên. Trẩy đi miền xa, người trai trẻ mang nổi khát khao mãnh liệt là ra khỏi luỹ tre làng, muốn nhìn xem thế giới mới lạ bên ngoài, thích miền xa hơn là gần gũi quê nhà. Người con thứ bỏ nhà ra đi với tiền bạc và lòng kiêu ngạo, quyết sống riêng khỏi gia đình và cộng đoàn. Anh ta ra đi không phải để học hành, tìm việc làm mà là ăn chơi đàng điếm, phung phí hết tài sản, sức khoẻ, bất kể đó là mồ hôi nước mắt của cha mẹ, bất chấp tiếng tốt của gia đình. Chơi bời nên mau chóng suy sụp. Anh ta trở nên hèn hạ khi đi chăn heo và muốn ăn thức ăn của heo. Heo là con vật người Do thái ghê tởm.
Khi trở về chẳng còn gì: tiền bạc, sức khoẻ, danh giá, lòng tự trọng… mọi thứ đã bị tiêu xài hoang phí. Anh ta chỉ còn lại một điều duy nhất là “đứa con nhỏ của cha nó”.
Động lực nào đã khiến nó trở về? Thánh Luca viết rõ: “Hồi tâm lại, nó nói: biết bao người làm công cho Cha tôi có dư thừa bánh ăn, còn tôi thì phải chết đói ở đây! Thôi, đứng lên, tôi sẽ về cùng Cha tôi”. Như vậy động lực nó trở về là đói, vì miếng ăn. Trước khi bị đói chắc chắn nó không bao giờ nhớ đến Cha, không bao giờ sám hối vì bỏ Cha ra đi, không thấy băn khoăn hồi tâm về mái ấm gia đình, nơi còn có Cha già chẳng biết đau yếu ra sao, không thấy tiếc nuối vì phá tan cả sự nghiệp của Cha. Khi bị cơn đói hành hạ, phải đi chăn heo, nó mới băn khoăn tìm đường về. Cái hồi tâm, cái băn khoăn của nó là làm sao để được ăn. Nó dự tính nói với Cha là nó trót phạm lỗi nghịch với trời, nó không còn đáng gọi là con, nó chỉ xin được đối xử như người làm công.
Đó phải chăng là một cuộc trở về trọn vẹn? Đó là cuộc lên đường được thúc đẩy bởi lòng sám hối hay sao? Sự thống hối của nó chỉ là vị kỷ nhằm khả năng có thể sống sót thôi. Nếu người con thứ thành công xây dựng cơ nghiệp, có lẽ sẽ không hiểu được tình Cha. Vì nếm mùi thất bại chua chát của cuộc đời nên nó lên đường trở về. Nó không đủ can đảm đi làm người ăn xin, nó không đủ liều mạng để đi trộm cướp, nó không dám đánh đổi cả cuộc đời để gây tiếng xấu. Nó sống bằng nghề lương thiện là đi chăn heo, sống bằng sức lao động của mình. Từ kinh nghiệm của vực thẳm này, nó mới hiểu được mặt trái cuộc đời. Đó không là chốn nương thân cho kẻ nghèo khổ, không là chỗ hạnh phúc cho kẻ khố rách áo ôm, không là chỗ cho kẻ cô thân cô thế. Vì vậy chỉ còn một con đường duy nhất là trở về xin tha thứ và làm công cho Cha để có cơm ăn áo mặc. Tất cả ý nghĩa của cuộc trở về được diễn tả cách cô đọng trong những lời “Cha ơi… con không đáng gọi là con Cha nữa”.
Đọc câu chuyện, tôi nhận thấy sự trở về của người con thứ chẳng phải là mẫu mực. Sự trở về lý tưởng phải là sự trở về của lòng sám hối với tình yêu tha thiết. Nhưng trong thực tế cuộc sống, khi ngồi giải tội có nhiều hối nhân sau 5 năm, 10 năm thậm chí đến 20 năm, 30 năm mới trở về cùng Chúa; mỗi người mỗi hoàn cảnh khác nhau. Những bầm dập của của cuộc đời, những gian truân vất vả, những thất bại chua chát… đã cho họ rút kinh nghiệm là cần trở về với Chúa, nguồn mạch của bình an nội tâm, của niềm vui và hạnh phúc. Chính Chúa đã yêu thương, đã tác động và một khi nào đó như Chúa muốn họ trở về cùng Ngài. Như thế họ đã chọn lấy sự sống. Gặp gỡ nhiều người như thế, tôi cảm thông với người con thứ.
Hiếu thảo, vâng phục cha, không đi hoang, không ăn chơi. Con người lao động cần cù có tinh thần trách nhiệm, không rượu chè trác táng, chỉ lo ruộng rẫy nương vườn. Anh là con người mẫu mực. Thế nhưng, biến cố đứa em trở về đã bộc lộ con người thật của anh.Tuy ở trong nhà cha nhưng lại xa trái tim cha. Tại sao cha đãi tiệc bê béo cho thằng em bất hiếu, còn anh một con bê nhỏ để vui với bạn bè cũng không có. Anh tức giận vì thấy quyền lợi bị xúc phạm. Anh chẳng chịu vào nhà. Hoá ra cả hai người con vừa khác lại vừa giống nhau. Cả hai đều ở ngoài nhà cha. Con thứ không thấy hạnh phúc bên cha nên ra đi. Con cả không chia sẽ được hạnh phúc của cha nên không vào nhà. Anh thiếu bao dung và thiếu sự tha thứ cho em. Thái độ của người con cả là thái độ tiêu biểu của người biệt phái, luật sĩ hôm qua và hôm nay. Ích kỷ cho quyền lợi riêng mình. Tự mãn về cách giữ luật “con không hề trái lệnh cha một điều nào”, tự hào về cách sống đạo ” không như thằng con của cha” Chỉ muốn kẻ lỗi lầm không được cứu thoát mà phải chết.
Lúc sự giận dữ bùng nổ đến cực điểm, anh cả gặp lại tình cha. Cha đi ra năn nỉ, anh chẳng chịu nghe. Cha bộc bạch tâm tình với anh: “con ơi, mọi sự của cha đều là của con, chúng ta phải ăn mừng vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”. Lời cha làm anh bàng hoàng xúc động vì anh hiều rằng mình quá ích kỷ, quá nhỏ mọn. Cái ích kỷ làm anh tẩy chay sự trở về của đứa em. Cái nhỏ mọn làm anh làm anh xua tan lòng bao dung của cha. Tình cha lớn hơn cuộc đời anh, lớn hơn tính ích kỷ trong anh.
Hình ảnh người con cả thật gần với chúng ta. Phụng dưỡng cha mẹ với trách nhiệm, chứ chưa phải là tình thương. Không chia sẽ nổi buồn, nổi khổ tâm, nổi âu lo của cha mẹ. Chỉ biết than trách và đòi quyền lợi cho mình thật nhiều. Ghen tị, chỉ trích phê bình, đặt mình là tiêu chuẩn cho mọi việc đạo đức. Thiếu lòng bao dung, không chịu tha thứ. Hình ảnh đó thật giống tinh thần biệt phái, có đạo mà không có đức.
Cả hai người con cần phải trở về. Sám hối chính là trở về với tình cha, trở lại với tình yêu, tìm lại niềm vui và sự sống.
Khi chia gia tài cho con lòng cha đau đớn. Vì tôn trọng tự do của con chứ không phải cha nhu nhược. Ngày nhìn con ra đi, bóng nó nhạt dần cuối chân trời như cánh chim bay, lòng cha thấy trống trải, muộn phiền vì thiếu vắng hình bóng con. Ngày ngày cha ngóng trông đợi con trở về. Thế rồi một ngày kia, đứa con trở về thật. Nó về trong dáng vẻ thất bại thảm hại, thất thểu rách nát. Thua cuộc đời nó về làm dấy lên những lời bình phẩm của làng xóm. Giả như nó không về, người ta sẽ lãng quên. Nay nó trở về nhắc cho bà con làng xóm thấy sự thất bại của gia đình ông. Con ông về trong thất bại chua cay là câu chuyện đám tiếu đầu làng cuối xóm. Vậy mà ông mở tiệc ăn mừng. Thật lạ lùng!
Ở đời, khi con thi đậu đại học, khi con công thành danh toại vinh quy bái tổ, khi con là Việt kiều về thăm, cha mẹ mở tiệc ăn mừng, mời bà con làng xóm đến chia vui. Người ta thường dấu kín chuyện thất bại của con cái, người ta mắc cở không dám kể về đứa con bất hiếu, ngổ nghịch, ăn chơi đàng điếm. Người ta chỉ khoe đứa con ngoan, tự hào đứa con học hành thành đạt, vui mừng khi con có việc làm có sự nghiệp. Thế mà, người cha lại mở tiệc lớn. Mừng đứa con trở về thất bại tả tơi. Khách mời ngỡ ngàng khi chủ nhà giới thiệu con ông về nhà sau những ngày chăn heo đói khổ. Thế nhưng, người hiểu tình yêu là gì, tình phụ tử là gì thì thông cảm và chia vui với người cha. Cha đã tha thứ cho con trước khi con tự thú. Cha vui vì đứa con đã chết nay sống lại, đã mất nay tìm thấy.
Dung mạo người cha đó, chính là Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương. Thái độ người cha đối với hai đứa con là thái độ của Thiên Chúa đối với con người. Trong trái tim Thiên Chúa chỉ có tình thương. Người không có trí nhớ về tội lỗi con người.
Cha yêu con dù con hư hỏng, bất trung. Cha yêu con không vì con ngoan được việc, cha yêu con chỉ vì con là con. Cha không muốn mất một đứa con nào. Thiên Chúa của Đức Giêsu mạc khải là người cha nhân hậu, hiền từ, bao dung, hay tha thứ.
Hành trình thiêng liêng của cuộc đời, cả hai người con trong dụ ngôn đều có mặt trong mỗi con người chúng ta. Nhiều lần ta nghe theo cơn cám dỗ của thế gian xác thịt mà nên hoang đàng, hoang phí, gặp thất bại đau khổ mới hối hận trở về với Chúa. Nhiều lần ta là con cả tưởng mình đạo đức mà lên án tẩy chay người khác. Cần trở về với Cha, về với Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương.
Để có được niềm vui trong Chúa, điều căn bản là phải tin tưởng gắn bó cuộc đời với Chúa, phải thực lòng yêu mến Ngài. Chính niềm tin và tình yêu dành cho Thiên Chúa thúc đẩy con người hoán cải khi lầm lỗi. Cuộc sống sẽ vui tươi hạnh phúc khi chúng ta có Chúa trong cuộc đời của mình. Niềm vui đức tin là niềm vui trong Chúa và có Chúa ở giữa chúng ta.
“Hãy chia vui với tôi”, Thiên Chúa vui mừng khi con người sống thân mật với Ngài trong tình cha con.
“Hãy chia vui với tôi”, đó cũng là lời mời gọi mỗi kitô hữu chia sẻ niềm vui đức tin với anh em mình trong cuộc sống hàng ngày.
CHÚA GIÊSU TRỞ NÊN “NGƯỜI CON HOANG ĐÀNG” VÌ CHÚNG TA.
Lm Jude Siciliano OP, viết suy niệm trong bài “cuộc trở về an toàn”: Nếu từ “hoang đàng” có nghĩa là phung phí thái quá, thì chúng ta có thể gọi cả hai cha con trong dụ ngôn hôm nay là hoang đàng, tuy mỗi người một kiểu. Người cha về tình thương và người con về tiền bạc vật chất. Theo thói quen chúng ta gọi dụ ngôn là người con hoang đàng. Nhưng nhiều nhà mô phạm cũng gọi người cha là hoang đàng nữa. Ông đã phung phí tình cảm trên hai đứa con vô độ, không có giới hạn nào. Người cha thế gian dù dễ dãi đến đâu cũng phải có chút hạn chế cho những đứa con của mình. Đàng này, trước các lỗi lầm của hai con, ông chỉ biết trông chờ, vui mừng và nài nỉ…Thiên Chúa là Đấng phung phí lòng xót thương trên các tội nhân.
Người con thứ đòi cha chia gia tài. Với tiền bạc, nó bỏ đi vô tình và ăn chơi trác táng. Hết tiền, nó đi chăn heo và muốn ăn thức ăn của heo. Khi trở về, nó chẳng còn gì cả. Tiền bạc, sức khoẻ, danh dự, lòng tự trọng… mọi thứ đã bị nó tiêu xài hoang phí.
Người cha mòn mỏi đợi chờ con trở về. Kể từ ngày con cất bước ra đi, cha ngong ngóng mong con về. Đứa con đã trở về thật rồi. Nó về vì chẳng có chỗ nào đón nhận, chẳng còn chỗ nào nuôi dưỡng, chẳng còn người bạn nào tiếp đón. Không sao cả, con trở về là cha mừng vui. Người cha không cần lời thú lỗi của con, cha đã tha thứ cho con rồi. Trong một thoáng, khi đứa con chưa có một động tác nào thì người cha đã có 4 động tác: nhìn thấy, chạnh lòng thương, chạy đến, ôm hôn. Trong một thoáng ngắn ngủi, khi chàng trai tuổi trẻ còn bất động thì ông lão già nua đã thực hiện 4 động tác rất nhanh nhẹn. Ông thật là người cha phung phí. Ông đã phung phí sức lực trong cuộc gặp gỡ với đứa con trở về. Ông đã phung phí tiền bạc khi chia gia tài một cách dễ dãi. Ông đã phung phí khi đem áo mới, giày mới, nhẫn vàng, lại còn tổ chức một bữa tiệc mừng có bê béo, có cả đàn hát múa nhảy để đón đứa con đi hoang trở về. Làm thế chẳng sợ hàng xóm cười cho sao! Tắt một lời, ông đã phung phí tình yêu thương. Yêu thương quá độ. Yêu thương đến vô lý. Mà có lý lẽ nào giải nghĩa được yêu thương? Chỉ có tình yêu thương mới giải nghĩa được những điều vô lý đó.
Nhiều người không chấp nhận lối hành xử nhân lành của Thiên Chúa theo dụ ngôn “Người Cha nhân hậu”. Kiểu cách suy tư và thái độ của người anh cả là một biểu trưng. Người anh cả tưởng rằng, Thiên Chúa chỉ có nhiệm vụ thưởng người có công, phạt kẻ có tội. Người anh cả không hiểu rằng, Thiên Chúa không thể đứng yên nhìn cảnh con người bị hư mất, chịu thất bại trong ơn gọi làm người do chính Ngài tạo dựng nên; Ngài gìn giữ, yêu thương quí mến, nâng niu trong bàn tay nhân hiền của Ngài hay sao? Ðể cứu rỗi loài người khỏi hư mất, khỏi thất bại trong ơn gọi cao cả ấy, Thiên Chúa đã nhập thể làm người, làm anh, làm cha, làm mẹ để đem người con trở về trong vòng tay yêu thương của Ngài.
Anh Piere Marie người sáng lập Huynh Đoàn Giêrusalem, một cộng đoàn các tu sĩ sống trong thành phố, đã suy niệm về Chúa Giêsu như người con hoang đàng theo Phúc Âm một cách thú vị. Xin trích dẫn tác phẩm “Người Cha Nhân Hậu” của Henri J. M. Nouwen, trong đó có một đoạn anh Pierre Marie đã viết:
“Đức Giêsu được sinh ra không bởi dòng dõi, ước muốn hay ý chí của con người, nhưng bởi chính Thiên Chúa. Một ngày kia, Ngài đã để mọi sự dưới chân Người và ra đi với gia sản của Ngài, là tước hiệu làm Con Thiên Chúa của Ngài…
Với giá chuộc tất cả, Ngài đã ra đi tới miền xa… miền đất rất xa… nơi mà Ngài đã trở thành như con người và đã làm trống rỗng chính mình. Chính dân của Ngài cũng không nhận biết Ngài và cái giường đầu tiên của Ngài là một nệm rơm. Giống như một cây đâm rễ nơi đất khô cằn, Ngài trưởng thành trước chúng ta, đã bị khinh bỉ là hạng thấp nhất trong con người. Chẳng bao lâu Ngài đã nếm sự lưu đày, sự chống đối, sự cô độc… sau khi đã cho đi mọi thứ trong đời sống cách rộng rãi, của cải, bình an, ánh sáng, sự thật, chính đời sống của Ngài… mọi kho tàng hiểu biết, khôn ngoan và mầu nhiệm đã được giữ kín từ muôn đời.
Sau khi đã hạ mình xuống ở giữa những con cái hư mất của nhà Israel, Ngài đã phung phí thời giờ của Ngài với những người đau ốm tật nguyền, với những người tội lỗi, ngay cả với những gái điếm, Ngài cũng hứa cho họ vào Nước của Cha Ngài; sau khi đã bị đối xử như một tên tham ăn, như một bợm nhậu, như một người bạn của bọn thu thuế và tội lỗi, như một người Samaria, một người bị quỷ ám, một kẻ phạm thượng; sau khi đã hiến dâng tất cả mọi sự, ngay cả thân xác và máu Ngài; và khi linh hồn Ngài cảm thấy một nỗi buồn sâu xa, hấp hối, phiền sầu; sau khi đã đi tới đáy của sự tuyệt vọng, Ngài muốn mặc lấy nơi mình sự bị bỏ rơi bởi Cha, lìa xa ngưồn Nước Hằng Sống, Ngài đã kêu lên từ Thánh Giá nơi Ngài bị đóng đinh: ”Ta khát”. Ngài đã yên nghỉ trong bụi đất và bóng đêm sự chết. Ba ngày sau Ngài Phục Sinh, chỗi dậy từ chiều sâu ngục tối nơi Ngài đã xuống, Ngài đã mang lấy tội lỗi của chúng ta, Ngài đã gánh hết những đau thương của chúng ta. Đứng thẳng, Ngài kêu lên: ”Phải, Ta lên Trời với Cha Ta cũng là Cha của con, là Thiên Chúa Ta cũng là Thiên Chúa các con”. Và Ngài đã trở lại Thiên Đàng…
Trong sự thinh lặng chiêm ngắm tất cả con cái trong Người Con từ khi Người Con trở thành tất cả cho mọi người, Người Cha nói với các tôi tớ: “Nhanh lên, hãy mang áo đẹp nhất mặc cho cậu, hãy xỏ nhẫn vào tay cậu, giày vào chân cậu. Chúng ta hãy mở tiệc ăn mừng, vì con Ta đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy… Người Con Hoang Đàng của Ta đã mang tất cả mọi ngươì trở về…”
Và tất cả bọn họ bắt đầu dự tiệc, mang trên mình chiếc áo trắng dài đã được giặt sạch trong máu của Con Chiên…”
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
Chủ đề của ba bài đọc hôm nay là Thiên Chúa thương xót những người tội lỗi. Trong bài đọc 1, chúng ta thấy ngay sau khi dân Do thái ký Giao ước với Thiên Chúa đã quay ra phản bội, họ đã bỏ Chúa mà đi tìm một thần tượng khác làm hộ mạng, tức là thờ lạy con bê vàng. Thiên Chúa nổi cơn thịnh nộ định tiêu diệt dân này để lậïp một dân lớn hơn, trung thành hơn, nhưng nhờ lời cầu xin của ông Maisen, Thiên Chúa đã nguôi giận và tha tội cho dân. Thực ra, sứ điệp mà Thiên Chúa muốn gửi đến cho chúng ta qua bài đọc 1 này là Thiên Chúa rộng lòng thương xót sẵn lòng tha thứ cho những kẻ tội lỗi.
Lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa được thể hiện một cách cụ thể trong Đức Giêsu Kitô. Sự kiện Đức Giêsu đã đón tiếp và cùng ăn với những người tội lỗi làm cho những người biệt phái phẫn nộ. Họ là những người “biệt phái” tránh né mọi tiếp xúc với những người tội lỗi. Họ cho rằng những kẻ tội lỗi là những đồ bỏ đi. Phản ứng lại những lời chỉ trích của nhóm họ, Đức Giêsu đã chỉ ra cho họ một Thiên Chúa giầu lòng thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan dung, Ngài sẵn sàng tha thứ cho mọi lỗi lầm của con người, bằng cách đưa ra ba dụ ngôn: con chiên đi lạc, đồng tiền bị mất và đứa con hoang đàng. Cả ba dụ ngôn đều nhấn mạnh đến việc Thiên Chúa quan tâm đến một người hư mất và niềm vui của Ngài khi tìm lại được một người hư mất.
Theo gương Đức Giêsu, chúng ta phải thay đổi cách nhìn của chúng ta đối với người tội lỗi. Họ không phải là những hạng người bỏ đi như người biệt phái vẫn nghĩ thế; trái lại, họ là một con người, một con người cao qúi trước mặt Chúa không thể để hư mất. Nếu họ hư đi thì phải nỗ lực đi tìm kiếm như người chăn chiên bỏ 99 con mà đi tìm con chiên lạc, đem về cùng chung vui vì một người tội lỗi đã trở lại.
+ Bài đọc 1: Xh 32,7-11.13-14.
Ngay sau khi Thiên Chúa ký Giao ước với dân Israel, họ đã vi phạm Giao ước. Vì ông Maisen ở lâu trên núi, nên dân đâm ra sợ hãi và tự tạo cho mình một thần tượng để hộ mạng. Đó là dân đã đúc con bê vàng và thờ lạy trước tượng đó. Sự bất tín này làm Thiên Chúa nổi giận và muốn tiêu diệt dân, đồng thời Ngài lại hứa với Maisen như xưa đã hứa với Abraham là sẽ làm cho ông nên tổ phụ của một dân tộc lớn. Nhưng ông Maisen đã khẩn khoản xin Chúa tha tội cho dân, và cuối cùng Thiên Chúa nguôi giận không giữ ý định tiêu diệt Israel nữa.
Mặc dầu Thiên Chúa hứa tạo cho ông một dân tộc mới, ông đã không lìa bỏ dân tộc mình, vẫn liên đới gắn bó với dân như trước. Chính ông van xin Thiên Chúa tha thứ và được Ngài nhận lời vì Thiên Chúa kiên nhẫn và trung tín.
+ Bài đọc 2: 1Tm 1,12-17.
Trước khi nói cùng ông Timôthê yêu dấu, thánh Phaolô muốn nhắc lại cách Thiên Chúa đối xử với loài người. Nếu không có điều ấy, ơn gọi của chính ngài khó mà giải thích được: Thiên Chúa tha thứ. Ngài tạ ơn Chúa vì lòng nhân từ thương xót của Chúa.
Trước kia, ngài là người bắt đạo và ngạo ngược nhưng đã được Chúa xót thương. Sự trở lại của ngài là một thí dụ điển hình về ơn tha thứ Thiên Chúa dành cho mọi người.
+ Bài Tin mừng: Lc 15,1-32.
Thấy Đức Giêsu hay gần gũi với những người tội lỗi, nhóm biệt phái và luật sĩ tỏ ra rất khó chịu, lẩm bẩm với Ngài. Nhân dịp này Đức Giêsu đưa ra ba dụ ngôn nói lên lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa đối với tội nhân: con chiên bị lạc, đồng tiền bị mất và đứa con hoang đàng. Tất cả đều nói lên Thiên Chúa là người Cha nhân hậu.
Để ý nhận xét, đồng tiền là một vật nhỏ nhất mà cũng mất công tìm tòi kỹ lưỡng, điều này nói lên sự quan tâm rất mực của Thiên Chúa đối với tội nhân. Dụ ngôn đứa con hoang đàng trở về càng làm nổi bật lòng nhân hậu, thứ tha của Thiên Chúa, Ngài là người Cha không bao giờ bỏ rơi con cái bạc bẽo. Chi tiết này càng làm cho người tội lỗi vững tâm trở về cùng Chúa.
Tấm lòng nhân hậu của người Cha.
Đối với Đức Giêsu, người ta có hai thái độ trái ngược nhau: đối với những người biệt phái và luật sĩ, họ cho mình là người công chính nên khinh thường và tẩy chay Ngài. Còn những người tội lỗi thì lại đến gần Ngài, nghe Ngài giảng và sửa đổi con người của mình. Người Do thái rất khó chịu khi thấy Đức Giêsu giao du với những người tội lỗi và lại còn đồng bàn với họ nữa. Người ta khó chịu với Đức Giêsu vì họ thấy Ngài cư xử ngược với quan niệm của họ.
Đạo sĩ Do thái đã xếp tất cả những ai không tuân giữ lưật pháp vào chung một hạng, họ gọi những người đó là “Dân của đất”. Có một hàng rào ngăn cách dứt khoát giữa những đạo sĩ Do thái và người “Dân của đất”. Gả con gái cho một người dân của đất thì chẳng khác gì trói cô gái ấy nộp cho sư tử. Luật của đạo sĩ Do thái dạy rằng: Khi có một người là dân của đất, thì đừng trao tiền cho nó, đừng lấy chứng của nó, đừng nói điều bí mật cho nó, đừng đặït nó coi kẻ mồ côi, đừng để nó giữ của bố thí, đừng đi đường với nó”.
Có luật cấm đạo sĩ Do thái không được mời một người dân của đất đến dùng bữa, cũng không được nhận lời mời của ai trong hạng người đó. Luật cấm đạo sĩ Do thái không được giao dịch thông thường với họ, không được mua gì của họ hoặc bán gì cho họ. Các đạo sĩ Do thái quyết tâm tránh hẳn mọi liên hệ với đám dân của đất, tức là những người không giữ đủ các chi tiết tỉ mỉ trong luật pháp.
Trước thái độ kỳ thị ra mặt của các đạo sĩ Do thái đối với người bị coi là tội lỗi, Đức Giêsu mới kể cho họ ba dụ ngôn để nói về lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa, Ngài muốn tìm kiếm và cứu vớt những gì đã lạc mất.
Trước tiên ta cần lưu ý là hình ảnh người chăn chiên và bầy chiên là chủ đề cổ điển trong Cựu ước nói lên tương quan giữa Thiên Chúa và dân Ngài (St 48,15: Lc 12.32). Dụ ngôn này cũng có trong Tin mừng Matthêu, nhưng trong lúc Matthêu áp dụng vào trách nhiệm những vị lãnh đạo Giáo hội, còn Luca nói lên việc Thiên Chúa tìm kiếm người tội lỗi.
Trong dụ ngôn này, người mục tử đã bỏ 99 con kia, dĩ nhiên là được canh giữ cẩn thận, để đi tìm con chiên lạc. Con chiên lạc này mất vì lý do nào đó không được nêu ra trong dụ ngôn. Nhưng có một đều chắc chắn là nó đang sống những giây phút khốn cực, cần sự giúp đỡ của chủ chăn. Chủ chăn đã phải bỏ 99 con trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc. Một con sánh với 99 còn lại thì chỉ như số không, không đáng gì, đâu có làm cho ông nghèo đi chút nào. Việc làm của ông chứng tỏ hùng hồn rằng: bất cứ giá nào, ông cũng không để mất, dù một con. Một con đây cho giá trị như 99 con. Ý nghĩa này nói lên tầm mức quan trọng và tự do sự trở về của tội nhân: Quan trọng đến nỗi bất cứù giá nào, người tội lỗi đó cũng phải được trở về, điều đó chứng tỏ lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân.
Còn một chi tiết làm cho chúng ta cảm động: ”vác con chiên trên đôi vai”, vì khi con chiên đi lang thang nhiều giờ hay nhiều ngày xa đàn chiên, nó kiệt sức và nằm xuống. Thật ra phải vác nó lên thôi. Và một con chiên nặng đấy! Nhất là khi người chăn chiên cũng đã chạy nhiều giờ trên những ngọn đồi đầy sỏi đá dưới ánh nắng mặt trời… Chính người chăn chiên cũng rất mệt nhọc! Nhưng, Đức Giêsu nói hoàn toàn vui mừng, người đó quên đi sự mệt nhọc của mình, bế nó lên tay và vác nó.
Chính Thiên Chúa giới thiệu với chúng ta như thế! Vả lại hình ảnh ấy không mới mẻ. Toàn thể Thánh Kinh đã thể hiện Thiên Chúa dưới những đường nét của “người chăn chiên” (Is 40,11-49, 10 …(Quesson).
Đức Giêsu lại tiếp nối tư tưởng bằng một dụ ngôn khác. Đồng tiền nói ở đây là một đồng tiền nhỏ, dễ bị mất trong nhà dân quê xứ Palestina, và có khi phải mất rất nhiều thì giờ mới tìm lại được. Nhà của người Do thái thường tối om, vì chỉ có một cửa sổ tròn đường kính khỏang 45 phân. Nền nhà thì bằng đất nện được phủ bằng những tấm liếp sậy và cành cây khô. Tìm kiếm một đồng bạc trên một nền nhà như thế khác nào tìm một cây kim trong đống rác. Nhưng người đàn bà quét đi quét lại, tìm cho bằng được.
Một đồng bạc ở đây có giá trị tương đương với một ngày làm công (Mt 20,2). Ở đây muốn nói lên sự mất mát dù chỉ có một đồng cũng là điều quan trọng khiến cho chủ cũng phải tốn công tìm kiếm. Điều này cũng muốn ám chỉ lòng thương yêu của Thiên Chúa không muốn để ai bị hư đi, nhưng muốn cứu vớt mọi người.
Ngoài lý do vì nhu cầu cần tìm đồng tiền bị mất, lại còn có một lý do khác thơ mộng hơn. Tại Palestina, dấu hiệu của người đàn bà có chồng là một chiếc vành trên đầu làm bằng 10 đồng tiền nhỏ bằng bạc xâu lại với nhau bằng một sợ dây bạc. Trong nhiều năm, một cô gái làm lụng và để dành cho đủ 10 đồng tiền nhỏ đó. Bởi vì cái chuỗi trên đầu của nàng cũng đáng giá gần bằng chiếc nhẫn cưới. Khi nàng đã sắm được nó thì trở nên của riêng nàng, đặc biệt đến nỗi người khác không thể đoạt lấy của nàng món nữ trang đó để trừ nợ. Có thể người đàn bà trong dụ ngôn đánh mất một đồng bạc thuộc loại đó, và bà ta đã tìm kiếm nó như bất cứ người nào khác cũng làm như thế khi đánh mất cái nhẫn cưới vậy.
Vì thế, chúng ta dễ hiểu nỗi vui mừng của người đàn bà khi tìm lại được đồng bạc bị mất. Đức Giêsu cho biết: cũng thế, Thiên Chúa và các thiên sứ vui mừng khi một người ăn năn trở về, như khi một gia đình vui mừng tìm lại được đồng bạc quyết định cái no hay cái đói của họ, hay cũng giống người đàn bà đánh mất một tài sản có giá trị hơn tiền bạc rồi lại tìm lại được.
Niềm vui lạ lùng này được sáng tỏ hơn trong dụ ngôân đứa con hoang đàng. Ông chủ chỉ có hai người con trai, tưởng rằng được sống bình yên trong tuổi già với hai con. Nhưng người con thứ tính phóng khoáng, thích tụ tập, muốn xin cha chia gia tài cho anh.
Theo luật Do thái, người cha không được chia gia tài tùy ý mình thích, đứa con cả đương nhiên được hưởng 2/3, đứa con thứ được 1/3 gia tài (x. Đnl 21,17). Không phải là một việc lạ khi một người cha phân chia gia tài ngay khi còn sống nếu ông muốn được nghỉ ngơi khỏi bận tâm buôn bán làm ăn. Nhưng có một sự trơ tráo nơi đứa con thứ khi chính nó đề xuất việc chia gia tài. Khi nó nói với cha nó: ”Cha hãy cho tôi ngay bây giờ phần gia tài mà trước sau gì tôi cũng lãnh được sau khi cha chết, và hãy để tôi ra khỏi nhà này”. Người cha không tranh luận gì, ông hiểu rằng nếu con ông cần một bài học thì nó sẽ có một bài học đắt giá, và ông đã chia gia tài cho nó. Tức khắc đứa con lấy phần dành cho nó và bỏ nhà ra đi.
Tuy nhiên, việc xin chia gia tài này có hợp lý không, thì không rõ, chỉ biết rằng sau này chính người con thứ đã hối hận vì hành động trên.
Đi xa nhà một thời gian, nó đã nhanh chóng xài hết tiền và kết thúc bằng việc chăn heo, một công việc đáng nguyền rủa của người Do thái… Trong cảnh khốn cùng, nó hồi tâm suy nghĩ lại và quyết định ra đi về với cha nó mà chỉ xin được coi như kột đứa đầy tớ thôi, chứ không dám nhận là con nữa. Nó trở về, cha nó chạy ra ôm chằm lấy mà hôn. Cha nó không để nó kịp mở miệng xin làm đầy tớ, ông đã lên tiếng trước. Ông đã phục hồi địa vị làm con cho nó bằng những cử chỉ đầy ý nghĩa:
. Xỏ giầy vào chân cậu: . Xỏ giầy vào chân chứng tỏ ông đã tha thứ hoàn toàn cho cậu. Vào thời Kinh Thánh thuở xưa, mang giầy là dấu chỉ của một người tự do, còn đám nô lệ thì đi chân trần. Xỏ giầy vào đôi chân trần của cậu con tức là xóa đi dấu hiệu thằng con ấy từng là nô lệ của một người nào đó, và đồng thời trả lại cho cậu ta dấu chỉ cậu là đứa con trai trong gia đình.
. Trao nhẫn cho cậu. Gắn nhẫn vào ngón tay cậu chứng tỏ ông bố phục hồi trọn vẹn cho cậu tình trạng trước khi cậu bỏ nhà ra đi. Đeo nó vào đồng nghĩa với được quyền hành xử như một thành viên trong gia đình.
Và như thế, khi choàng tay ôm, xỏ giầy, đeo nhẫn cho đứa con trai, người bố đã cho thấy ông hoàn toàn nồng nhiệt tiếp đón cậu ta, tha thứ hoàn toàn và phục hồi cho cậu ta trọn vẹn tình trạng trước khi cậu bỏ nhà ra đi.
Truyện: Vải trắng trên cây táo.
Richard Pindell có viết một chuyện ngắn nhan đề “Đứa con trai của một người nào đó” (somebody’s son). Câu chuyện mở đầu với một cậu bé tên là David bỏ nhà ra đi sống bụi đời. Vì khó quá, không chịu nổi, cậu bèn viết một lá thư gửi về nhà cho mẹ bày tỏ niềm hy vọng được ông bố cổ hủ tha thứ cho cậu và chấp nhận cậu làm con trở lại. Lá thư như sau: ”Mẹ kính mến, trong một vài ngày nữa con sẽ đi ngang qua nhà. Nếu bố bằng lòng nhận con trở lại, thì mẹ yêu cầu bố cột một miếng vải trắng lên cây táo hồng ở miếng đất cạnh nhà chúng ta.
Vài ngày sau, David lên xe lửa đi về. Trong lúc tầu hỏa lao nhanh đến nhà thì hai hình ảnh cứ chớp lòe liên tục hiện ra trong trí cậu ta. Khi thì trên cây có cột một miếng vải trắng, khi thì trên cây chẳng có một miếng vải trắng nào. Xe lửa càng tiến gần nhà, trái tim David càng đập nhanh hơn. Không bao lâu nữa cây táo sẽ hiện ra nơi khúc quẹo, nhưng David không dám tự mình nhìn tới vì sợ nhỡ không có miếng vải trắng cột ở đó. Thế là cậu quay sang người đàn ông bên cạnh ấp úng nói: ”Thưa ông, ông có thể làm ơn giúp cháu một việc không? Vào khúc quẹo bên tay mặt, ông sẽ thấy một cái cây. Ông làm ơn cho cháu biết trên cành cây có cột một miếng vải trắng không nhé”.
Khi chiếc xe lửa rầm rầm lướt qua cây táo, David nhìn chăm chăm về phía trước. Đoạn run run giọng cậu hỏi người đàn ông: ”Thưa ông, có một miếng vải trắng treo ở một cây nào đó không”? Ông ta sửng sốt trả lời: ”Ồ, này cậu bé, cành cây nào ta cũng thấy có cột một miếng vải trắng cả” (Mark Link).
Người cha trong dụ ngôn phải là một ông chủ giầu sang, đầy quyền lực và oai nghi đúng với đặc điểm của một phú ông miền Đông phương. Đứng trước sự ngông cuồng của người con thứ, người cha đã chia gia tài cho các con không phải vì ông nhu nhược mà vì ông tôn trọng quyền tự do của con. Ngày người con thứ ra đi cũng chính là ngày ông bắt đầu ngóng chờ với niềm tin sẽ có ngày con ông trở về. Quả đúng như vậy. Mặc dù tuổi già sức yếu, người cha vẫn nhìn ra người con từ rất xa. Có thể nói chính ông đã phá tan dáng vẻ oai nghi đường bệ của một phú ông Đông phương để hồ hởi chạy ra với người con tựa như trẻ thơ mong mẹ về.
Nỗi mừng vui cũng như hàng loạt mệnh lệnh dồn dập của người cha làm cho chúng ta có cảm nghĩ hẳn ông đang chuẩn bị tiếp đón một nhân vật quan trọng. Mà không quan trọng sao được khi ý nghĩa của những mệnh lệnh trên hàm chứa một tình yêu vô bờ bến ông dành cho người con “phá gia” trở về mà không một ngôn từ nào có thể diễn tả hết được.
Chiếc áo mới nhất mà ông mặc cho người con hẳn phải là chiếc áo dành cho ngày Đại lễ. Bởi chỉ có ngày Đại lễ, dịp lễ hội, người ta mới mặc áo mới, mới có dịp để chưng diện mà thôi. Chưa dừng lại ở đó. Chúng ta biết rằng đối với người Do thái, chiếc nhẫn không chỉ là kỷ vật, là món đồ trang sức, không chỉ là biểàu trưng của tình yêu mà nó còn là cái ấn đóng dấu nhằm xác nhận tư cách của một người con và đồng thời cũng xác nhận tư cách của một người được thừa hưởng quyền kế thừa tài sản. Như thế, bằng việc xỏ nhẫn và xỏ dép vào tay chân của người con, người cha trong Tin mừng đã xác nhập mối tương quan cha-con, đồng thời cũng xác nhập quyền thừa kế và trả lại quyền tự do cho nó – điều mà người con thứ không bao giờ nghĩ tới. Chưa hết, người cha còn ra lệnh giết bê đã vỗ béo để ăn mừng cho sự trở về này. Như thế đã rõ, bê chỉ vỗ béo để chờ dịp Đại lễ. Ngày người con trở về và người cha đã hạ bê béo để ăn mừng chẳng phải là dịp Đại lễ mà từ lâu ông hằng ôm ấp mong chờ để có được ngày hôm nay sao?
Truyện: Thiền sư Sengai.
Có rất nhiều đệ tử đang tu luyện thiền học dưới sự hướng dẫn của thiền sư Sengai. Trong số đó có một đệ tử thường hay thức dậy ban đêm, lẻn trốn một mình trèo tường ra phố rong chơi dạo mát cho thỏa thích. Và một đêm kia, thiền sư Sengai đi kiểm tra phòng ngủ các đệ tử, thấy vắng mặt một người và cũng khám phá ra chiếc ghế đẩu mà anh ta thường dùng để leo qua tường ra ngoài. Sau khi suy nghĩ, thiền sư Sengai liền dời chiếc ghế đi chỗ khác và đứng thay vào chỗ đó. Một lát sau, anh chàng ham rong chơi trở về không biết rằng thầy mình là chiếc ghế, cứ thản nhiên đặt chân vào đầu thầy mình để nhảy xuống đất. Đúng lúc đó mới khám ra sự thể động trời của mình, anh ta hoảng hốt sợ đến ngất xỉu. Nhưng thiền sư Sengai nhỏ nhẹ bảo anh: ”Sáng sớm trời lạnh lắm, con hãy cẩn thận kẻ bị cảm đấy”. Và từ đó, người đệ tử hoang đàng ấy không bao giờ dám ra ngoài chơi ban đêm nữa.
Thiên Chúa được Đức Giêsu mạc khải là một người Cha. Cha nào mà chẳng thương yêu con bằng một tình thương tự nhiên, vô điều kiện, nghĩa là bất chấp con cái tốt xấu, hay dở, có lợi hay gây hại cho mình, bất chấp cả việc chúng đối xử với mình tệ bạc đến đâu. Tình thương đích thực luôn luôn tự động biểu lộ thành hành động. Bản chất của tình thương là như thế, nếu không như thế thì không phải là tình thương đích thực. Tình thương không biểu lộ bằng hành động chỉ là tình thương ngoài môi miệng (x. Gc 2,16.26). Và hai cách biểu lộ rõ rệt nhất của tình thương là sự tha thứ vô điều kiện và sẵn sàng chấp nhận sự đau khổ hoặc chết cho người mình yêu thương. Tình yêu của Thiên Chúa đối với con người đã được biểu lộ qua hai cách ấy nơi con người Đức Kitô: ”Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là người tội lỗi. Đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta”.
Trở lại dụ ngôn đứa con hoang đàng, ta hỏi động lực nào đã làm cho đứa con quay trở về nhà mình? Chắc chắn không phải vì thương cha mình, mà vì sự khốn khổ nó đang phải chịu do sự ngu xuẩn và bất hiếu của nó. Tóm lại, nó về là vì nó thương bản thân nó hơn là thương cha. Chắc chắn khi thấy nó trở về với “thân tàn ma dại”, cha nó biết nó về với động lực gì. Nhưng đối với ông, điều đó không quan trọng. Điều quan trọng là nó đã trở về, vì nó tưởng như “đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Động lực khiến người cha tha thứ và vui mừng đón nhận nó trở về hoàn toàn vì yêu thương con, vì muốn cho nó hạnh phúc, bất chấp quá khứ lầm lỗi của nó. Đó cũng chính là tâm tình của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi. Chỉ cần người tội lỗi quay trở về với Chúa trong sự hối hậân về đời sống quá khứ của mình.
Truyện: Tình mẹ tha thứ.
Ở Batna, có một gia đình nằm vào địa điểm hẻo lánh, gồm bà mẹ với các con, mà thằng con lớn phản bội vô số kể, tên là Sidi Melkassen, ưa a tùng với côn đồ du đãng, bị mẹ khiển trách hằng ngày. Mất tự do, thằng đó bực tức, nhất định hai mẹ con không đội trời chung. Liền bắt mẹ đem giam cầm vào một nhà cô tịch tăm tối. Lấy sợi xiềng xích lớn mà xiềng hai chân mẹ nó lại, đoạn đục vách tường gắn móc khóa lại và giữ chìa khóa trong túi. Đành lòng đóng cửa lại trước những tiếng kêu la, khóc lóc, van nài của mẹ.
Trên ba năm trời tồi túng, nóng nực, lạnh lẽo. Không mền, không chiếu, bữa đói bữa no, người mẹ than khóc đã khô nước mắt, kêu không ai nghe, buồn không một lời an ủi.
Chiều nọ, một nàng dâu thảo giật được chìa khóa và mở cửa, tháo xiềng giải thoát cho người mẹ vô phúc. Bà đi ra giữa thanh thiên bạch nhật, không còn hình tượng người nữa, ai nấy đều thương hại. Việc này thấu đến tai nhà chức trách, thằng con bất hiếu bị bắt và kêu án sáu tháng tù ở. Ai nấy đều vỗ tay ca tụng công lý. Chỉ có bà mẹ quên tội của con, cất tiếng lên vừa than khóc vừa xin tòa đừng tống giam con mình tội nghiệp.
Ôi, tình mẹ bao la!
Bài Tin mừng hôm nay gồm tới 3 dụ ngôn. Dụ ngôn đầu xem ra không hợp lý: ai lại bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc? Dụ ngôn thứ hai cũng chẳng có tính thuyết phục bao nhiêu: một đồng xu có đáng là bao so với công sức mà người đàn bà kia bỏ ra để tìm lại nó? Nhưng rồi tất cả đều trở nên hợp lý khi ta đọc dụ ngôn thứ ba: Ý của Chúa Giêsu không nhằm tới con chiên, cũng không nói tới tiền bạc mà nói tới con người. Trước mặt Thiên Chúa, mỗi một con người đều có giá trị vô cùng, bởi vì mỗi một con người, dù là tội lỗi, cũng đều là con của Ngài.
Tuy nhiên có mấy ai chia sẻ tâm ý của Chúa? Những người biệt phái và luật sĩ thấy Chúa Giêsu bỏ công lui tới với những người tội lỗi thì họ cho là mất công vô ích nên xầm xì phản đối. Đối với họ, việc làm của Chúa Giêsu là không đáng, bởi vì những kẻ tội lỗi là hạng đáng vất đi. Nhưng đối với Chúa Giêsu, đó là những con người, những giá trị. Một đồng xu qúi giá thế nào đối với người đàn bà nghèo khổ, một người con quí giá thế nào đối với tấm lòng người cha, thì một người tội lỗi cũng đáng giá thế ấy đối với tấm lòng của Thiên Chúa.
Thế còn việc bỏ 99 con chiên trong đàn để đi tìm con chiên lạc thì sao? Vì con chiên ấy cần được săn sóc hơn 99 con kia: nó cô đơn, nó bơ vơ, nó đói khát hơn, nó bị nguy hiểm nhiều hơn. Vì thế nên người mục tử nhân lành không thể ở yên mà chờ nó tìm được đường về, mà phải đích thân ra đi tìm nó. Đức Giêsu đã làm như người mục tử ấy: Ngài không chờ đợi kẻ tội lỗi đến với mình, nhưng được bước trước đến với họ. Ngài kết thân với họ trong tình trạng của họ còn đang là tội nhân, còn đang lầm lạc. Chính đó là cách đối xử khác những người biệt phái và luật sĩ, và chính đó là lý do khiến họ xầm xì phản đối. Nhưng chính cái đối xứ này đã hoán cải được một người biệt phái nổi tiếng là thánh Phaolô (Trích Carôlô, Sợi chỉ đỏ A, tr 710-711).
III. CHÚNG TA CŨNG PHẢI CƯ XỬ NHƯ VẬY.
Giáo hội là Mẹ của chúng ta đã từng có cách cư xử như Đức Giêsu, tạo điều kiện để lôi kéo những con chiên lạc đàn trở về với Chúa. Chẳng hạn , Augustinô, một thanh niên đã từng sống trụy lạc, ăn chơi, và có những đứa con rơi rớt không kém gì đứa con hoang đàng trong Tin mừng. Thế mà khi trở về với Giáo hội, Giáo hội đã mở rộng vòng tay đón nhận. Sự đón nhận trở nên hoàn toàn khi Giáo hội chấp nhận chàng vào tu viện, và khi thấy chàng xứng đáng, đã phong chức Giám mục cho chàng. Nhờ sự tha thứ quảnng đại ấy của Giáo hội, Augustinô đã trở nên một vị thánh.
Chúng ta cũng phải bắt chước Giáo hội mà phải thay đổi cách nhận định và thái độ cư xử đối với tội nhân. Nghĩa là đừng quá quan trọng hóa nết xấu, lỗi lầm của anh em, đừng nuôi lòng thích thú khi thấy anh em sa ngã, lỡ lầm, đừng giả đò thương hại khi đưa lỗi lầm của anh em ra bàn tán và đừng bao giờ tỏ vẻ khinh khi, ruồng bỏ anh em bằng lời ăn tiếng nói, bằng cử chỉ ánh mắt, nhưng hãy bắt chước Chúa biết thông cảm với nỗi khổ tâm của anh em, biết thao thức lo lắng giúp anh em sửa mình, biết tôn trọng, bênh vực anh em, biết cầu nguyện cho anh em.
Có những con chiên xa đàn lạc lối, nhưng cũng có những con đang sống trong đàn mà chẳng phải là chiên. Có đứa con bỏ nhà xa cha, nhưng cũng có đứa con tuy sống gần cha mà lòng dường như đi hoang từ lâu. Nó coi cha không khác gì ông chủ hà khắc keo kiệt, chẳng hề bố thí cho một con bê để vui vầy với chúng bạn. Như vậy, có thứ lạc đàn thể lý và cũng có thứ lạc đàn tâm linh. Có những người không đi nhà thờ vì lòng họ xa Chúa, song cũng có những người không bỏ nhà thờ nhưng lòng họ chẳng gần Chúa hơn được bao nhiêu. Có lẽ vì tâm trí họ đang đi lạc trong khu rừng có nhiều tiếng ca của danh vọng, hương sắc của đồng tiền, hung khí của hận thù, giọng ríu tít đầy lôi cuốn của xác thịt.
Vậy chúng ta có phải là con chiên đích thực không hay chỉ là hữu danh vô thực? Chắc chắên không ai trong chúng ta dám xưng mình là người công chính như luật sĩ và biệt phái, chúng ta vẫn xưng mình là kẻ có tội, và nếu đã biết mình có tội thì phải có lối cư xử với người khác bằng tình thương yêu.
Nếu Thiên Chúa tỏ lòng nhân hậu và tha thứ cho chúng ta, thì Ngài muốn chúng ta cũng hãy tha thứ cho nhau như người cha nhân hậu xin ông anh cả tha thứ cho đứa em lỗi lầm.
Người ta chỉ có thể dễ dàng tha thứ cho kẻ khác khi ý thức thân phận mỏng dòn yếu đuối của mình. Có nhận ra mình hay lầm lỗi, con người mới dễ cảm thông tha thứ cho những lỗi lầm của anh em. Đừng bắt người có tội phải bị trừng phạt mới hả dạ. Đừng đòi hỏi cho được sự công bằng mới thôi, vì Martin Luther King có viết: ”Nếu cứ áp dụng luật “mắt đền mắt” thì mọi người trở nên mù lòa”.
Có người nói rằng, xếp quyển Thánh Kinh lại, chỉ để lại trang Luca chương 15 mà hôm nay chúng ta được nghe.
Chương 15 của Luca là một trong những chương sách đẹp nhất của toàn bộ Thánh Kinh Tân Ước. Cả chương sách bừng lên niềm vui chan chứa, niềm vui của tình yêu mà những ai sống trong quỹ đạo của ích kỷ không cảm nếm được. Bối cảnh là những người thu thuế và tội lỗi đến với Chúa Giêsu để nghe Người giảng, làm cho người Pharisêu và các kinh sư khó chịu. Bối cảnh đó làm nổi bật lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân và là lời cảnh giác cho những kẻ tự hào mình là người công chính.
Trang Tin Mừng Tin Mừng Lc 15,1-3.11-32 đã từng được gọi là dụ ngôn đứa con hoang đàng. Với sự quyến định trở về của mình, người con này được đề cao hơn cả cuộc đời hoang đàng của anh ta. Ngày nay, người ta lại chuyển hướng và nhìn vào hình ảnh từ bi đại hải của người cha. Nhìn như thế để như là trách khứ tấm lòng không bao dung, không nhân hậu và miệt thị của người anh cả.
Dẫu sao đi nữa, dụ ngôn ngôn trên đây có ý nghĩa rất phong phú liên quan đến cách sống và cách xử sự của cả ba nhân vật: Người cha và hai người con. Dường như nhân vật nổi bật của dụ ngôn là người anh cả. Bởi vì trong câu chuyện, những nhân vật đang nghe Đức Giêsu kể dụ ngôn có cách sống và cách xử sự giống như người con cả.
Nét độc đáo nổi bật trong chân dung của Luca về Chúa Giêsu đó là lòng thương xót. Trong sách Tin Mừng thứ ba, Chúa Giêsu thường xuyên quan tâm đến người nghèo, các tội nhân, những người bị gạt ra bên lề xã hội. Không phải các đạo sĩ nhưng chính những người chăn chiên mới là người đến máng cỏ đầu tiên (2,8-18); Chúa đón tiếp người phụ nữ tội lỗi nhưng có lòng thống hối (7,36-50); Chúa nói những điều tốt lành về người Samaria (10,30-37); Chúa đến thăm người thu thuế (19,1-10); Chúa kể những dụ ngôn tuyệt vời về lòng thương xót (chương 15). Các phụ nữ cũng chiếm vị trí đặc biệt trong Tin Mừng Luca. Vào thời đó, phụ nữ chỉ là công dân hạng hai và bị coi thường, nhưng Chúa Giêsu lại trân trọng họ (10,38-42), đón nhận sự giúp đỡ của họ (8,1-3), và cho thấy đức tin kiên cường của các bà trong những giai đoạn thử thách nhất (23,49; 24,1; Cv 1,14).
Tin Mừng Luca chương 15 được gọi là các dụ ngôn về lòng thương xót, chương này gồm một lời mở đầu và ba dụ ngôn. Lời mở đầu có tầm quan trọng đặc biệt, vì đó là chìa khoá để hiểu Đức Giêsu nói dụ ngôn trong bối cảnh nào, có ẩn ý gì và nói cho ai. Người thuật chuyện cho biết bối cảnh và lý do Đức Giêsu kể các dụ ngôn ở Lc 15,1-3: “1Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. 2Những người Pharisêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: ‘Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.’ 3Đức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn này:…”
Lc 15,1-3 cho biết nhiều chi tiết liên quan đến lý do Đức Giêsu kể các dụ ngôn. Trước hết là những người thu thuế và những người tội lỗi đến với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Tiếp đến là lời xầm xì của những người Pharisêu và các kinh sư: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.” Lời xầm xì này cho biết thêm hai yếu tố mới. Không chỉ là việc những người thu thuế và tội lỗi đến với Đức Giêsu và nghe Người giảng, mà chính Đức Giêsu tiếp đón họ và ăn uống với họ. Nghĩa là sự đón nhận đến từ hai phía. Về phía Đức Giêsu, Người tiếp đón và ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi. Về phía họ, họ đến với Đức Giêsu để nghe Người giảng.
Dụ ngôn “Tìm chiên lạc” (câu 4-7) mô tả Thiên Chúa như người mục tử bỏ 99 con chiên lại để đi tìm chiên lạc, và niềm vui tràn bờ khi Ngài tìm lại được con chiên lạc, đến nỗi vác nó lên vai đem về, và mời mọi người đến chung vui vì đã tìm lại được con chiên bị mất. Trong mắt của Chúa, mỗi một con người, bất kể yếu đuối và tội lỗi đến đâu, đều là một nhân vị độc đáo và không thể thay thế. Vì thế, Ngài chăm sóc từng con chiên và đau đáu đi tìm khi nó lạc bầy. Chính vì thế, không ai có quyền thất vọng về tình thương của Chúa vì tình thương ấy dứt khoát lớn hơn tội lỗi của chúng ta. Điều duy nhất cần thiết là sám hối ăn năn, nghĩa là thay đổi cách nhìn, cách nghĩ và cách sống của mình.
Trong chùm dụ ngôn về lòng thương xót, dụ ngôn “Người con hoang đàng” vẫn là dụ ngôn nổi tiếng nhất, cả về văn chương lẫn nội dung (15,11-32). Không phải vô lý mà có tác giả đã đề nghị đặt tên cho dụ ngôn này là “Người cha phung phí” thay vì “Đứa con hoang đàng”. Bởi lẽ trọng tâm của dụ ngôn không phải là sự phung phí của cải vật chất của đứa con thứ, mà chính là lòng thương xót của người cha dành cho cả hai đứa con, lòng thương xót vô bờ đến độ không thể hiểu nổi… cho nên được gọi là ‘phung phí’ tình yêu.
Con đầu lòng được hưởng gấp đôi phần gia sản theo luật lệ của người Do thái (Đnl 21,17). Và bởi thế, người con út trong dụ ngôn được chia một phần ba sản nghiệp. Việc phân chia tài sản phải đợi đến khi người cha qua đời theo lẽ thường của sự đời. Nếu như việc chia gia tài tiến hành trước thời gian thì có những khoản về hình phạt đi theo đó. Tuy nhiên điều quan trọng của luật ở khía cạnh tinh thần chứ không nằm ở khía cạnh lề luật. Người con út đã đoạn tuyệt với gia đình, không thương tiếc cha mình, anh mình sau khi có tài sản trong tay. Bất chấp tất cả, anh ta đòi hỏi chia gia tài rồi bỏ nhà đi,. Với quyết định như thế, anh ta đem mọi sự theo mình và không có hi vọng gì sẽ trở lại. Dĩ nhiên đây là sự mất mát lớn đối với gia đình, cách riêng với người cha.
Phải chăn heo, đó là kết cục bi tham cho cuộc sống phóng đãng và phung phí dẫn người con út. Chăn heo, với người Do thái, gợi lên ý tưởng ô uế, “lạc đạo” và như thế, người con út đã đánh mất tư cách là thành viên trong gia đình cũng như trong Dân Chúa. Trong dụ ngôn, người con út thậm chí còn tệ hơn cả heo, vì “ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng nhưng chẳng ai cho”.
Người con út hồi tâm khi đối diện với nỗi cơ cực đến tột cùng. Được trở về nhà trong tư cách kẻ làm thuê, đó là ước muốn của anh ta. Để cuộc trở về được thành công theo ước muốn, anh chuẩn bị kỹ lưỡng những gì phải thưa thốt với cha mình, và lường trước sẽ bị mọi người tiếp nhận bằng cái nhìn soi mói và nghi ngờ. Chuyện đặc biệt là dù thế nào đi chăng nữa nhưng cha anh vẫn thương anh. Ông vẫn ngày đêm trông ngóng, và khi thấy con ở đàng xa, “ông chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để” (câu 20) đến độ người con không kịp nói hết bài diễn văn đã soạn sẵn! Cuộc đoàn tụ này rất giống với cuộc đoàn tụ của Esau và Giacóp (St 33,4). Giacóp nhớ đến tội ác mình đã phạm chống lại anh, nhưng giống như người cha trong dụ ngôn này, Esau chỉ nghĩ đến hoà giải. Người cha ra lệnh cho gia nhân chăm sóc mọi sự cho đứa con của mình, nào là áo, nào là nhẫn, nào là bê béo… tất cả diễn tả sự nhìn nhận đây là đứa con của chủ nhà chứ không phải tôi tớ. Không có chuyện hỏi tội, không có chuyện tra khảo, cũng không có chuyện bàn bạc xem thằng con hư hỏng này có xứng đáng được tha tội không… chỉ có điều quan trọng duy nhất là: “con ta đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy” (câu 24).
Câu chuyện đẹp tưởng chừng đã hạ màn với cảnh đẹp tuyệt vời như thế, không ngờ lại thêm cảnh khác xen vào. Người con cả đã nổi đóa lên. Anh đã cố gắng, đã tự nhủ rằng anh đã cố gắng sống công chính đến thế: “Đã bao năm con hầu hạ cha và chẳng khi nào trái lệnh” (câu 29), thế mà “chưa bao giờ cha cho lấy một con dê con để ăn mừng với chúng bạn”. Và nhân danh sự công chính đó, anh khước từ việc chia sẻ niềm vui với gia đình khi “thằng con của cha” (chứ không phải đứa em của tôi) trở về. Lại một lần nữa, tình yêu và lòng thương xót của người cha bừng sáng và xua tan mọi hận thù ghen ghét. Ông đã bước ra đón đứa con hoang đàng thì ông cũng bước ra đón người con cả, vì ông mong muốn cả hai đứa con đều được hạnh phúc. Anh con cả chỉ nhìn thấy gia tài và nỗ lực làm việc của bản thân anh. Người cha không từ chối điều đó, nhưng những điều đó đều không quan trọng bằng điều này là: một đứa con và một người anh em đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Vì thế, mọi chuyện khác đều phải dẹp sang một bên để “chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ” (câu 32). Lại một lần nữa, tâm trí ta nhớ đến câu chuyện Giacóp. Giống như Esau, đến giai đoạn cuối đời, Giacóp khám phá ý nghĩa và tầm quan trọng của đoàn tụ, nên khi nghe tin Giuse vẫn còn sống, ông quên hết những tội ác mà chính những anh em trong nhà đã gây ra cho Giuse, và chỉ nhớ một điều: “Thế là đủ. Giuse con ta vẫn còn sống” (St 45,28).
Thiên Chúa, là Cha giàu lòng thương xót, Ngài mãi mãi xót thương chúng ta. Chúng ta, có quay về với Chúa như người em và chúng ta có bao dung cho em chúng ta khi em chúng ta lầm lỗi hay không, vẫn là lời mời gọi lòng bao dung thương xót của mỗi người chúng ta.
Đối với tôi, Đức Giêsu là ai?
Trong dòng chảy sự sống, bao người nối tiếp nhau làm nên lịch sử nhân loại. Trong dòng lịch sử ấy, mỗi người viết lên trang sử riêng đời mình. Có một dòng sử bao trùm tất cả, dòng sử cứu độ. Con người cảm thấy lịch sử đời mình qua dòng sử cứu độ này, và một thực tại được tỏ bày: con người được Thiên Chúa yêu thương. Dung mạo một Thiên Chúa yêu thương đưọc tiệm tiến mặc khải cho con người. Trong mỗi khúc quanh của lịch sử, Thiên Chúa lại tỏ bày rõ nét hơn dung mạo yêu thương và kế hoạch cứu độ của Người. Kế hoạch này được thể hiện qua Đức Giêsu Kitô, Con Chí Ái của Chúa Cha. Đức Giêsu đã đến cắm lều ở trần gian để trở nên bạn nghĩa thiết của con người, yêu thương và cứu chuộc họ, qua Đức Giêsu, Thiên Chúa Cha được mặc khải một cách trọn vẹn là Đấng giàu lòng thương xót và rất mực thứ tha. Qua những bước thăng trầm, đặc biệt những lúc lịch sử con người trở nên đen tối nhất, Thiên Chúa lại được tỏ lộ như Vị cứu tinh, là niềm hy vọng, là ánh sáng dẫn lối con người tiến bước. Khi con người chìm ngập trong tội lỗi, Thiên Chúa được tỏ bày là Đấng Thánh Thiện muôn trùng, thương xót vô cùng và thứ tha tất cả.
Qua lịch sử cứu độ, chúng ta có thể thấy được nhiệm cục tình thương Thiên Chúa thể hiện nơi con người. Khởi đầu là con người được tạo dựng và yêu thương, và rồi con người với những bước chân lầm lỡ đã thất trung và phản bội. Trong đau khổ con người đã hồi tâm sám hối, Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương qua việc thứ tha. Và chóp đỉnh của tình thương ấy là Thiên Chúa đã ban chính Con Một của mình để giao hòa nhân loại với Người và ban cho nhân loại ơn cứu độ. Chúng ta khởi đi từ nhịp sống đầu tiên của con người, để dần dần làm sáng lên hình ảnh của Đức Giêsu, và đối với bản thân, đây cũng là một nỗ lực để trả lời câu hỏi: “Đối với tôi, Đức Giêsu là ai?” qua Đức Giêsu chúng ta biết rõ được rằng:
Con người được Thiên Chúa yêu thương.
Như đứa con là kết qủa của tình yêu cha mẹ, mỗi chúng ta và cả nhân loại này cũng thế, là kết qủa tình yêu của Thiên Chúa. Vì yêu thương Thiên Chúa đã sáng tạo con người, để cho con người được thông chia chính sự sống của Người (St 2, 7), mang hình ảnh sống động của Người (St 1, 26-27). Con người được tham dự vào quyền sáng tạo của Thiên Chúa, và ngày càng lan tràn trên mặt đất. Thiên Chúa không yêu thương con người một cách chung chung, đại khái, nhưng đó là một tình yêu cụ thể, cá vị; khởi đầu bằng việc Người chọn Israel làm dân riêng của mình (Đnl 7, 6-9,11), chăm sóc và bảo vệ dân, dẫn dân đến vùng đất sự sống.
Dân Thiên Chúa được ví như người tình của Giavê, Đức Chúa tỏ tình với dân như người yêu sắp cưới (Dc 4, 12-16). Cô gái Israel quá được yêu thương nhưng lại vong thân, thất nghĩa, ngoại tình, phản bội Đức Chúa là Đấng lang quân. Nhưng cho dù dân có bất trung, Người vẫn trung tín và yêu thương đến cùng. Đức Chúa lại tiếp tục tái lập hôn ước với người vợ bất trung ấy (Hs 2, 16-25).
Thiên Chúa yêu thương cũng được tỏ bày như người mẹ, người mẹ hiền ấp ủ con thơ (Is 49, 13-16). Người mẹ trao ban sự sống cho con mình thế nào, thì Thiên Chúa cũng là sức sống cho dân Người như vậy (Gr 31, 1-9). Con người mắc nợ Thiên Chúa sự sống, sự hiện hữu của mình. Không chỉ con người mà toàn thể vũ trụ này, toàn thể muôn loài thọ sinh đều mắc nợ Thiên Chúa, bởi vì “Tình thương Người chan hòa mặt đất” (Tv 32). Cả thế giới là một bài ca tán dương tình yêu của Người. Đặc biệt tình yêu đó tỏ lộ qua lòng xót thương. Lòng xót thương này cùng một trật cho thấy con người mỏng dòn, yếu đuối, tội lụy và cần đến Chúa biết bao.
Con người phản phản bội, Thiên Chúa xót thương
Đây là một khúc quanh lớn trong lịch sử của con người. Bao phen con người đã nói “không” với Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vẫn nói “có”, một tiếng “có” tràn đầy mãnh lực yêu thương. Chúng ta thấy điều này lan tỏa trong trong Kinh thánh, đặc biệt trong Tin mừng. Xin lấy ba dụ ngôn tiêu biểu theo Tin mừng Thánh Luca, để thấy dung mạo Thiên Chúa xót thương được Đức Giêsu diễn tả như thế nào:
Dụ ngôn “con chiên lạc” (Lc 15, 4-7): Thiên Chúa luôn là một Mục tử nhân lành thí mạng sống mình vì đoàn chiên (Ga 10, 11). Người không muốn để một ai hư mất. “Những người Cha ban cho con, con không để hư mất người nào” (Ga 17, 12). Mỗi con người đều có một vị trí, một giá trị tuyệt đối trong trái tim nhân hậu của Thiên Chúa. Vì thế, “Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là chín mươi chín người công chính không cần hối cải” (Lc 15, 7). Thiên Chúa luôn yêu thương khao khát con người đáp trả tình yêu của Người, quay về với Người, nơi đó có sự sống hạnh phúc đích thực.
Tương tự dụ ngôn trên là dụ ngôn “đồng bạc bị mất” (La 15, 8-10): Cái lôgic của Thiên Chúa là cái nghịch lý theo kiểu con người, chỉ một đồng bạc mất, khi đã tim được thì mời hàng xóm láng giềng, bà con bạn hữu đến ăn mừng. Nếu không đặt vào trong mối tương quan tình yêu, lòng thương xót, thì không thể nào chúng ta cảm được niềm vui tột cùng của người phụ nữ tìm thấy đồng bạc. Bà là hình ảnh của một Thiên Chúa đang kiếm tìm và gặp được lời đáp xin vâng của con người.
Đỉnh cao của ba dụ ngôn về lòng thương xót phải kể đến dụ ngôn “người cha nhân hậu” (Lc 15, 14-31). Qua dụ ngôn này, dung mạo của một Thiên Chúa yêu thương tỏ hiện rõ rệt, mặc khải ra Người là Cha, một người Cha rất mực khoan nhân, yêu thương đến tận cùng và luôn tha thứ. Chúng ta bắt gặp được nơi đây niềm an ủi lớn lao mỗi khi thấy mình xa rời Thiên Chúa và hồi tâm trở về. Nơi đó vẫn một vòng tay giang rộng, một trái tim thổn thức đợi chờ, chỉ một việc phải làm là người con lăn vào vòng tay Cha, để thấy mình được yêu thương mà thôi. Mọi tội lỗi, mọi bất trung giờ đây đứng trước một tình yêu quá lớn tất cả chẳng con là gì, tất cả nhường chỗ cho hạnh phúc tràn về. Thiên Chúa của chúng ta là như vậy.
Rải rác đây đó, ta vẫn bắt gặp hình ảnh Thiên Chúa gần gũi với con người, đi bên đời họ, chữa lành những đau khổ thể xác và tâm hồn. Trên đường đi Giêrusalem, Đức Giêsu đã chữa mười người phong cùi và cho họ được sạch (Lc 17, 11-19). Đi đến đâu, Người thi ân giáng phúc đến đó, dẫu cho con người khước từ hay vong ơn.
Con người được tha thứ
“Phúc thay kẻ được lỗi lầm mà được tha thứ, người có tội mà được khoan dung” (Tv 31)
Ơn thứ tha đã được Cựu ước khắc họa đậm nét. Đavít phạm tội được Chúa thứ tha (2 Sm 12, 1-17), ơn thứ tha này cũng được ban cho cho dân Israel khi dân sám hối trở về. Thời Tân ước ơn tha thứ càng được tỏ bày hơn nữa, những người tội lỗi đến với Đức Giêsu đều được thứ tha, những bệnh nhân đều được chữa lành và đón nhận được ơn tha thứ. Người phụ nữ ngoại tình, Phêrô chối Chúa, Tôma chậm tin, Phaolô ngã ngựa… và rồi cuối cùng, họ cũng nhận ta một điều là Thiên Chúa sẵn lòng thứ tha.
Trên bước đường lữ thứ trần gian hôm nay, hơn một lần chúng ta gục ngã vì tội lụy, có bao giờ quay về với Chúa mà không được thứ tha! Đó phải là một niềm xác tín, một lời mời gọi chúng ta vươn lên mãi, tin tưởng vào tình yêu và không bao giờ nản lòng và thất vọng. Thiên Chúa vẫn làm những việc diệu kỳ trên những yếu đuối của con người, có những thứ tội trở nên “tội hồng phúc”, vì qua đó, Thiên Chúa lại càng gần gũi, liên lụy với con người hơn. Trong kinh Tin kính chúng ta vẫn đọc, Giáo hội dạy rằng: “Vì loài người chúng ta và để cưú rỗi chúng ta, Người đã từ trời xuống thế”. Thiên Chúa đã đi vào cuộc đời, cùng chung số kiếp với con người, để cảm thông thứ tha và cứu độ. Đỉnh cao của cuộc nhập thể là hy tế thập giá, nơi đó, một con người Giêsu trần trụi đẽ trở thành lễ vật hiến tế Chúa Cha, để bộc lộ lời thứ tha cuối cùng và mãi mãi. Bên thập giá, tên trộm lành đã trở thành kẻ ăn trộm được cả Nước Trời.
Nếu trong Cựu ước Thiên Chúa còn mang dáng dấp một quan tòa ngay thẳng, phạt con cháu đến ba bốn đời vì tội cha ông của chúng, một Thiên Chúa còn thiên vị, ghen tương, yêu người này và ghét kẻ nọ (yêu Aben và ghét Cain), thì trong thời Tân ước, qua Đức Giêsu, Thiên Chúa được tỏ bày trong dung mạo người cha nhân từ, một người cha mang trái tim người mẹ. Trong trái tim Đức Giêsu, nước mắt và nụ cười, khổ đau và hạnh phúc của con người đều được Người ôm ấp tất cả. Có một Giêsu đã vào cuộc đời và yêu thương con người đến thế. Nhưng,
Đối với tôi, Đức Giêsu là ai?
Những câu trả lời mang tính tín điều, giáo lý đã dạy, tôi thuộc lòng từ bé. Tôi không muốn trả lời một cách bài bản, vì như thế, tôi có thể nói như con vẹt mà không cảm nhận được gì. Để trả lời chính xác cho câu hỏi này, có lẽ tôi chỉ nói được: Người là Đấng tôi đang tìm kiếm. Có lúc tôi thấy Người thật gần, có lúc thấy Người xa xăm diệu vợi, có lúc Người ân cần với tôi qúa, có lúc Người chỉ đến với tôi bằng sự im lặng tràn đầy.
Khi trải qua đêm tối cô đơn khắc khoải, tôi thấy Người là Đấng lấp đầy những khát vọng của tôi. Có nhiều lúc tôi đi tìm những thứ khác (không phải là Người), để lấp đầy khoảng trống, nhưng khốn thay, tâm hồn tôi lại bị khoét sâu và bị vỡ vụn hơn nữa. Tôi cảm nghiệm được rằng, trong mọi khó khăn người ta có thể phấn đấu và vượt thắng, nhưng trong sự cô đơn sâu thẳm, con người có thể ngã quỵ. Trong khoảng lặng của sự cô đơn đó, tôi nhận ra Đức Giêsu là bạn của mình, một người bạn đúng nghĩa. Người hiện diện ở đó, không khuyên lơn, không trách móc, không lên lớp dạy luân lý cho tôi, không tìm cách kéo tôi ra khỏi sự cô đơn, nhưng Người cùng lặng lẽ cảm thông và chia sẻ. Chính lúc cô đơn tuyệt vọng nhất, đêm tối dày đặc nhất, thì tôi lại thấy vỡ òa một ánh sáng linh diệu xuyên thấu tâm hồn mình. Và tôi thấy Đức Giêsu cũng là một con người cô đơn như thế, có ai cô đơn hơn Người nữa không “Lạy Cha, Cha bỏ con sao?” (Mc 15, 34). Trong vườn cây Dầu, Người đã phải thốt lên “Tâm hồn Thầy buồn sầu đến nỗi chết được” (Mc 14, 34). Người cô đơn đấy, nhưng không bi lụy, không ngã gục, mà vẫn đi đến trọn hành trình vâng phục: “Xin vâng ý Cha, đừng theo ý con” (Mc 14, 36). Tôi vẫn thích chiêm ngưỡng Đức Giêsu trong lúc tất tưởi này; thấy Người gần gũi, đồng hội đồng thuyền với tôi. Đức Giêsu người qúa, nhưng cũng linh thánh quá! Con đường Người đi, không phải là con đường hoa thơm cỏ lạ, nhưng là lối mòn đầy sỏi đá. Người sống giữa cuộc đời nhưng vẫn bát ngát thanh tao.
Kết luận
Tôi muốn dùng bức tranh của họa sĩ Rembrandt thế kỷ XVII, vẽ chân dung “người cha nhân hậu”, để làm hình ảnh gợi ý kết thúc những dòng suy tư này. Trong bức tranh của tác giả, người ta thấy người cha già mắt như đã mù lòa, hai tay ôm lấy bờ vai người con đang quỳgục đầu vào ngực mình. Tác giả khắc họa người con trong tấm thân khắc khổ, tấm áo lót ngả mầu cáu bẩn, đôi xăng đan mòn vẹt, chiếc mất chiếc còn, một cái đầu trọc lóc như một tên tử tội. Thực là cảm động, sau những ngày lưu lạc, chỉ lúc này đây người con mới tìm lại được chính mình, chỉ nơi trái tim cha, người con mới thấy tim mình rộn lên nhịp sống. Đôi tay cha đã đón nhận con, và cái đầu trọc lóc của con một lần nữa như được làm trẻ thơ trở về cung lòng mẹ, đó cũng là nơi con ra đi, và là nơi hôm nay con lại trở về.
Đức Giêsu là hình ảnh người cha đó. Người là hiện thân của Chúa Cha, Đấng giàu lòng xót thương, Người là người bạn đang lặng lẽ bên tôi. Cuối cùng Người là Đấng cứu độ tôi, ban cho tôi sức sống mới, phục hồi phẩm giá cho tôi và đưa tôi vào dự tiệc mừng. Một Giêsu như thế vẫn hiện diện trong cuộc đời và dõi theo bước tôi từng giây từng phút.
(Suy niệm của Lm Giuse Lê Minh Thông)
Dụ ngôn người cha nhân hậu và hai người con.
Tìm hiểu Lc 15,1-3.11-32
Nội dung
Dẫn nhập
Kết luận
Dẫn nhập
Đoạn Tin Mừng Lc 15,1-3.11-32 đã từng được gọi là dụ ngôn đứa con hoang đàng. Nhưng bản văn đề cao quyết định quay trở về của người con này hơn là sự hoang đàng của anh ta. Hiện nay người ta thường gọi là dụ ngôn người cha nhân hậu, nhưng có lẽ bản văn nhấn mạnh hơn đến sự không nhân hậu của người con cả, là người đã trách cha và miệt thị em mình. Có thể dụ ngôn trên đây có ý nghĩa rất phong phú liên quan đến cách sống và cách xử sự của cả ba nhân vật: Người cha và hai người con. Dường như nhân vật nổi bật của dụ ngôn là người anh cả. Bởi vì trong câu chuyện, những nhân vật đang nghe Đức Giêsu kể dụ ngôn có cách sống và cách xử sự giống như người con cả.
Sự phong phú về ý nghĩa của bản văn làm cho việc đặt một tựa đề thường là rất khó. Một câu chuyện mô tả ba cách nhìn cuộc đời khác nhau của ba nhân vật thì không thể tóm tắt chỉ trong dăm ba chữ. Có lẽ nên tìm hiểu ý nghĩa của dụ ngôn này trong bối cảnh văn chương của nó, để từ đó có thể thưởng thức, lắng nghe và sống với dụ ngôn hơn là loay hoay tìm cách đặt một tựa đề.
Tin Mừng Lu-ca chương 15 được gọi là các dụ ngôn về lòng thương xót, chương này gồm một lời mở đầu và ba dụ ngôn. Lời mở đầu có tầm quan trọng đặc biệt, vì đó là chìa khoá để hiểu Đức Giêsu nói dụ ngôn trong bối cảnh nào, có ẩn ý gì và nói cho ai. Người thuật chuyện cho biết bối cảnh và lý do Đức Giêsu kể các dụ ngôn ở Lc 15,1-3: “1Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. 2Những người Pharisêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: ‘Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.’ 3Đức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn này:…”
Lc 15,1-3 cho biết nhiều chi tiết liên quan đến lý do Đức Giêsu kể các dụ ngôn. Trước hết là những người thu thuế và những người tội lỗi đến với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Tiếp đến là lời xầm xì của những người Pharisêu và các kinh sư: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.” Lời xầm xì này cho biết thêm hai yếu tố mới. Không chỉ là việc những người thu thuế và tội lỗi đến với Đức Giêsu và nghe Người giảng, mà chính Đức Giêsu tiếp đón họ và ăn uống với họ. Nghĩa là sự đón nhận đến từ hai phía. Về phía Đức Giêsu, Người tiếp đón và ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi. Về phía họ, họ đến với Đức Giêsu để nghe Người giảng.
Trong bối cảnh trên, “Đức Giêsu kể cho họ dụ ngôn:…”. “Họ” – thính giả nghe các dụ ngôn trong bản văn – chính là những người Pharisêu và các kinh sư. Có thể hiểu thêm là có cả những người thu thuế và những người tội lỗi nữa, vì bản văn nói về họ. Như thế, mục đích việc Đức Giêsu kể dụ ngôn là để giải thích và trả lời cho câu hỏi đặt ra: Tại sao Đức Giêsu và những người thu thuế và tội lỗi lại đến với nhau? Đây là điều mà những người Pharisêu và các kinh sư cho là chướng tai gai mắt, nên dẫn đến việc xầm xì. Đồng thời, dụ ngôn cũng cho biết thực chất về cách cư xử của họ.
Ngày nay, nhân vật “họ” là bất kỳ ai đọc bản văn. Thực vậy, độc giả mới là thính giả đích thực của câu chuyện, vì bản văn được viết ra cho họ. Độc giả trực tiếp là cộng đoàn Lu-ca cuối thế kỷ I, tiếp đến là độc giả qua mọi thời đại, với tư cách là người đọc bản văn. Vậy, dụ ngôn này có ý nghĩa gì cho độc giả? Câu chuyện này nói gì với độc giả là tất cả chúng ta ngày nay?
Trong Lc 15, Đức Giêsu kể ba dụ ngôn, trong đó, hai dụ ngôn đầu tiên rất ngắn, nói về con chiên đi lạc (Lc 15,4-7) và đồng bạc bị đánh mất (Lc 15,8-10). Hai dụ ngôn này diễn tả tấm lòng của Thiên Chúa dành cho những người lạc lối, qua hình ảnh người mục tử đi tìm cho bằng được chiên lạc và người phụ nữ tìm cho bằng được đồng tiền bị mất. Điều hai dụ ngôn này nhấn mạnh là chính Thiên Chúa đi bước trước để tìm kiếm những gì đã mất. Áp dụng vào bối cảnh câu chuyện thì hai dụ ngôn đầu tiên muốn ám chỉ Đức Giêsu, Người đến để tìm kiếm những con chiên lạc, tìm kiếm những gì đã mất. Cụ thể là Người đến với những người thu thuế và tội lỗi để dẫn họ trở về với Thiên Chúa.
Dụ ngôn thứ ba, tạm gọi là dụ ngôn người cha nhân hậu, dài hơn và ý nghĩa phong phú hơn. Dụ ngôn thứ ba này bổ túc thêm những gì hai dụ ngôn trước chưa diễn tả được. Điểm mới trong dụ ngôn này là chính “con chiên lạc” tự tìm đường trở về với người mục tử, qua việc đứa con hoang đàng quyết định trở về với cha của mình, chứ người cha không đi tìm. Như thế, thay vì đi tìm chiên, đi tìm đồng bạc như trong hai dụ ngôn trước, thì dụ ngôn thứ ba trình bày hoàn cảnh và tâm tư của những người đi lạc. Đi lạc theo cả hai nghĩa: Bỏ nhà đi hoang (người con thứ) và đi lạc ngay tại nhà mình (người con cả), anh ta ở nhà mà sống như người làm công.
Tóm lại, hai dụ ngôn đầu giải thích tại sao Đức Giêsu tiếp đón và ăn uống với phường tội lỗi, dụ ngôn thứ ba giải thích hành động tích cực của những người thu thuế và những người tội lỗi: Họ đến với Đức Giêsu và nghe Người giảng. Dụ ngôn thứ ba còn cho biết thái độ của người cha và đề cao sự tự do của hai người con trong sự lựa chọn của mình.
Người con thứ tự quyết định ra đi và tự quyết định trở về sau khi học được bài học quý giá từ cuộc sống. Người cha không ngăn cản con mình ra đi. Đó là cách tốt để người cha huấn luyện con mình có trách nhiệm với lựa chọn của mình. Như thế, nhận ra mình đã lạc đường và can đảm quyết định quay trở về là một bước tiến lớn trong sự trưởng thành nhân cách. Anh ta đã đi một bước dài trong tiến trình tự đào tạo bản thân. Điều anh ta tự nhủ đáng cho người đọc qua mọi thời đại học hỏi: “17Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! 18Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: ‘Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, 19chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy.’ 20Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha” (15,17-20).
Hoàn cảnh sống và quyết định của người con thứ là lời mời gọi độc giả hãy học lấy từ cuộc sống, từ những thất bại, những bài học quý giá để làm cho mình trưởng thành hơn. Nhờ học trường đời mà người con thứ đã can đảm làm lại cuộc đời và biết lấy quyết định đúng đắn, không mặc cảm tự ti hay tự tôn, cũng không sợ mất thể diện.
Nhân vật phản diện của dụ ngôn người cha nhân hậu là “người con cả”. Thái độ và cách xử sự của anh ta ám chỉ thái độ của những người Pharisêu và các kinh sư. Lời xầm xì giữa họ với nhau được đặt song song với lời người con cả trách cha mình và nhục mạ em mình: “29Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. 30Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng” (Lc 15,29-30). Lời trách móc cha (ám chỉ Đức Giêsu trong lời xầm xì ở 15,2) và lời chối bỏ em mình (ám chỉ những người thu thuế và tội lỗi ở 15,1-2) cho thấy người con cả đã không sống “tư cách làm con” và “tư cách làm anh” trong gia đình. Những người Pharisêu và các kinh sư cũng đang xử sự như người con cả.
Không sống và cư xử như một người con, không đứng ở địa vị con cái, người con cả suy nghĩ và hành động như một đứa ở trong nhà. Từ trước đến bây giờ anh ta không biết đến điều cha anh nói: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con” (Lc 15,31).
Người con cả cũng không sống tư cách làm anh vì đã không đón nhận sự trở về của em mình. Anh ta đã phủ nhận tư cách làm anh và hạ thấp em mình khi nói: “Thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng” (15,30). Đó là “thằng con của cha” chứ không phải là “đứa em của con”, một đứa em đáng quý trọng vì đã biết ăn năn hối cải trở về.
Điều trớ trêu và châm biếm trong bản văn là tương phản giữa hai người con: Người con thứ quay trở về chỉ xin được cha xem là “người làm công”, vì nghĩ rằng mình không xứng đáng “làm con”, thì người con thứ lại được hưởng trọn vẹn quyền “làm con” qua các biểu tượng: Mặc áo đẹp, đeo nhẫn, đi dép và dự tiệc mừng (15,22-23). Ngược lại người anh cả tự cho mình là “người con gương mẫu”, đã có công “hầu hạ” cha trong nhiều năm, anh ta lại sống và suy nghĩ “như người làm công”, “như người làm thuê”, “như đứa ở” chứ không phải là “người con thực sự”.
Tình trạng của người con cả trầm trọng hơn nhiều so với việc bỏ nhà đi hoang của người con thứ. Bởi vì người con cả ở nhà với cha nhưng không sống tư cách làm con mà anh ta lại không biết điều ấy, nghĩa là vẫn nghĩ mình là đứa con ngoan và hiếu thảo.
Người con cả tưởng mình là con cái trong nhà, nhưng thực ra là không phải. Cũng vậy, những người Pharisêu và các kinh sư tưởng mình thuộc về Thiên Chúa, làm công việc của Thiên Chúa, phục vụ Thiên Chúa, nhưng thực sự không phải. Họ đang đi ngược lại ý định của Thiên Chúa khi chống lại Đức Giêsu.
Sự tương phản giữa các nhân vật: “con cả – con thứ”, “những người Pharisêu và các kinh sư – những người thu thuế và những người tội lỗi” song song với nhau. Bên ngoài, người con cả ở nhà là đứa con ngoan, chăm lo hầu hạ cha nhưng thực chất bên trong anh ta là đứa ở. Bên ngoài, người con thứ bỏ nhà đi hoang, không nhận ra lòng thương xót của cha, nhưng tự trong lòng, anh đã biết hối cải quay về. Như thế người con đi hoang trở về mới là “người con đích thực”. Mạch văn cho phép hiểu: Những người thu thuế và những người tội lỗi sám hối trở về với Thiên Chúa mới thực sự là con cái Thiên Chúa. Còn những người Pharisêu và các kinh sư là những người làm thuê.
Liệu những người Pharisêu có hiểu và có nhận ra sự trớ trêu này qua dụ ngôn không? Bản văn không cho độc giả biết, vì dụ ngôn kết cách đột ngột với lời dạy của người cha: “31Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. 32Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy” (15,31-32). Dụ ngôn kết dở dang ở đây để lại nhiều câu hỏi: Người anh cả phản ứng thế nào trước lời dạy của cha mình? Liệu lời giáo huấn này có làm người con cả thay đổi lập trường để biến tức giận thành niềm vui và trở lại làm con cái trong nhà hay không? Liệu người anh có đổi cách suy nghĩ của người nô lệ để sống và ứng xử với cha với tư cách là con và đón nhận em mình với tư cách là anh hay không?
Khi áp dụng dụ ngôn cho những người Pharisêu và các kinh sư, độc giả biết câu trả lời cho những câu hỏi trên là “KHÔNG”, bằng chứng là trong phần tiếp của Tin Mừng, những người Pharisêu và các kinh sư đã đeo đuổi cho đến cùng việc chống đối Đức Giêsu và họ đã góp phần vào việc giết chết Đức Giêsu trên thập giá.
Những điều trên đây là diễn tiến trình thuật trong Tin Mừng, điều quan trọng mà bản văn nhắm tới là quyết định của độc giả, vì bản văn được viết ra cho độc giả. Ở đây là độc giả của cộng đoàn Luca cuối thế kỷ I và cũng độc giả qua mọi thời đại. Độc giả nghĩ gì và quyết định thế nào sau khi đọc trình thuật. Thiết nghĩ độc giả có thể rút ra ba bài học từ câu chuyện:
1) Bài học nơi người con thứ. Dám quyết định, dám ra đi, dám sống hết mình, dám nhìn nhận sự thật về mình, dám nhận trách nhiệm về sự lựa chọn của mình. Đáng phục hơn cả là dám đứng lên, dám làm lại cuộc đời, dám quay lưng lại với quá khứ, dám hối cải và trở về để sống trọn vẹn tư cách làm con trong tình yêu thương của cha mình. Trong trình thuật, việc những người thu thế và tội lỗi “đến với Đức Giêsu và nghe Người giảng” (15,1) được ví như là người con thứ đã can đảm hối cải trở về. Vậy, độc giả đang ở giai đoạn nào trong hành trình tìm kiếm của người con thứ?
2) Bài học từ người anh cả. Có bao giờ chúng ta nghĩ mình là “con cái trong nhà” mà thực sự đang sống như “người làm công” hay không? Trong tương quan với anh chị em mình, làm thế nào để đón nhận và cùng chia sẻ trách nhiệm với anh chị em mình chứ không dùng kiểu nói của người con cả: “Thằng con của cha đó”. Liệu lời dạy của người cha có làm cho độc giả nhận ra sự thật trong tương quan với Cha trên trời và với anh chị em mình không?
3) Bài học nơi cách xử sự của người cha. Có nhiều điều để học hỏi nơi người cha về cách giải quyết những vấn đề phức tạp và tế nhị trong cuộc sống. Có thể nói, khởi đầu dụ ngôn, người cha có hai người con, nhưng trong thực tế lại không có đứa con nào cả. Một đứa thì đi hoang, một đứa thì sống ở nhà với cha nhưng lại sống như một người làm công chứ không phải là con. Làm thế nào để vừa tôn trọng tự do của đứa con muốn ra đi, vừa biết chỉ dạy cho đứa con ở lại về cách thức làm con? Bản văn mời gọi các bậc cha mẹ – cũng như những người có trách nhiệm trên người khác – biết áp dụng cách giáo dục của người cha: Dùng tình thương để cảm hoá và tôn trọng sự tự do để giáo dục sự tự do. Nhờ đó con người có khả năng lấy những quyết định đúng đắn cho mình.
Cả ba bài học trên được trao vào tay người đọc là tất cả chúng ta. Câu chuyện vẫn chỉ là câu chuyện, dụ ngôn vẫn mãi mãi là dụ ngôn. Bản văn luôn là những gợi ý, những đề nghị chứ không trả lời thay cho chúng ta.
Kết luận
Trình thuật mở đầu (Lc 15,1-3) và dụ ngôn người cha nhân hậu với hai người con (Lc 15,11-32) vẽ lên một bức tranh với nhiều màu sắc mạnh mẽ có khả năng dẫn người đọc đến suy tư và nhận ra chính mình trong các nhân vật ấy.
Phần mở đầu (15,1-3) và phần dụ ngôn (15,11-32) soi sáng cho nhau và nối kết chặt chẽ với nhau. Đứa con hoang đàng sám hối trở về là hình ảnh của những người thu thuế và những người tội lỗi đến với Đức Giêsu và nghe Người giảng dạy. Cách xử sự của người con cả là hình ảnh của những người Pharisêu và các kinh sư. Họ tưởng mình phụng thờ Thiên Chúa, nhưng khi chống đối và bách hại Đức Giêsu, họ đã lạc đường và không sống tư cách làm con Thiên Chúa nữa. Tất cả những tình tiết trong toàn bộ trình thuật được gửi đến độc giả như một lời mời gọi độc giả đọc ra được ý nghĩa của câu chuyện.
Ước mong độc giả thưởng thức được những chi tiết độc đáo trong bản văn, với những nét đẹp, nét tương phản, nét châm biếm, cùng với những lời trách móc và sự hiểu lầm của các nhân vật… Nhờ việc sống với bản văn và suy niệm dụ ngôn, người đọc sẽ được biến đổi để dần dần sống trọn vẹn tư cách làm con và xây dựng tình anh em nhờ sự hối cải và trở về với Tình Yêu đích thực của Cha trên trời.
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Chúa Giêsu thường quan tâm chăm sóc gần gũi những người tội lỗi, nhóm Pharisêu và Kinh sư trách móc, xầm xì, phản đối. Đối với họ, việc làm của Chúa Giêsu là không đáng, bởi vì những kẻ tội lỗi là hạng vất đi. Nhưng đối với Chúa Giêsu, đó là những con người, những giá trị. Chúa đã dùng những dụ ngôn để trả lời cho họ.
Ba dụ ngôn: con chiên lạc, đồng bạc mất, người con hoang đàng trình bày đề tài: Thiên Chúa tình yêu và Ngài luôn tìm kiếm người tội lỗi. Một con chiên quý giá vô ngần đối với mục tử. Một đồng xu rất quý giá đối với người đàn bà nghèo khổ. Một người con quá quý giá đối với tấm lòng người cha. Cũng vậy, một người tội lỗi cũng đáng giá như thế ấy đối với tấm lòng của Thiên Chúa.
Ba dụ ngôn đều đề cao hình ảnh một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Ngài xót xa khi một người lầm đường rơi vào tội lỗi. Do đó Ngài tha thiết tìm cứu người tội lỗi. Khi cứu được một người tội lỗi, Ngài rất vui mừng.
Hôm nay chúng ta cùng suy niệm về dụ ngôn thứ ba. “Dụ ngôn đứa con hoang đàng” được gọi là “Dụ ngôn người cha nhân hậu” thì hợp lý hơn, bởi vì dung mạo trung tâm của câu chuyện chính là người cha.
Đại văn hào người Anh, Charles Dickens, xem dụ ngôn “người cha nhân hậu” là câu chuyện hay nhất, là hạt ngọc đẹp nhất của Tin mừng.
Tình thương của cha đối với hai con, nổi bật nơi người con thứ.
Người con thứ.
Người con thứ đòi Cha chia gia tài rồi bỏ đi vô tình, rời khỏi ngôi nhà, nơi mình sinh ra, nơi mình được nuôi dưỡng và lớn lên. Trẩy đi miền xa, người trai trẻ mang nổi khát khao mãnh liệt là ra khỏi luỹ tre làng, muốn nhìn xem thế giới mới lạ bên ngoài, thích miền xa hơn là gần gũi quê nhà. Người con thứ bỏ nhà ra đi với tiền bạc và lòng kiêu ngạo, quyết sống riêng khỏi gia đình và cộng đoàn. Anh ta ra đi không phải để học hành, tìm việc làm mà là ăn chơi đàng điếm, phung phí hết tài sản, sức khoẻ, bất kể đó là mồ hôi nước mắt của cha mẹ, bất chấp tiếng tốt của gia đình. Chơi bời nên mau chóng suy sụp. Anh ta trở nên hèn hạ khi đi chăn heo và muốn ăn thức ăn của heo. Heo là con vật người Do thái ghê tởm.
Khi trở về chẳng còn gì: tiền bạc, sức khoẻ, danh giá, lòng tự trọng… mọi thứ đã bị tiêu xài hoang phí. Anh ta chỉ còn lại một điều duy nhất là ”đứa con nhỏ của cha nó”.
Động lực nào đã khiến nó trở về? Thánh Lu-ca viết rõ: “Hồi tâm lại, nó nói: biết bao người làm công cho Cha tôi có dư thừa bánh ăn, còn tôi thì phải chết đói ở đây! Thôi, đứng lên, tôi sẽ về cùng Cha tôi”. Như vậy động lực nó trở về là đói, vì miếng ăn. Trước khi bị đói chắc chắn nó không bao giờ nhớ đến Cha, không bao giờ sám hối vì bỏ Cha ra đi, không thấy băn khoăn hồi tâm về mái ấm gia đình, nơi còn có Cha già chẳng biết đau yếu ra sao, không thấy tiếc nuối vì phá tan cả sự nghiệp của Cha. Khi bị cơn đói hành hạ, phải đi chăn heo, nó mới băn khoăn tìm đường về. Cái hồi tâm, cái băn khoăn của nó là làm sao để được ăn. Nó dự tính nói với Cha là nó trót phạm lỗi nghịch với trời, nó không còn đáng gọi là con, nó chỉ xin được đối xử như người làm công.
Đó phải chăng là một cuộc trở về trọn vẹn? Đó là cuộc lên đường được thúc đẩy bởi lòng sám hối hay sao? Sự thống hối của nó chỉ là vị kỷ nhằm khả năng có thể sống sót thôi. Nếu người con thứ thành công xây dựng cơ nghiệp, có lẽ sẽ không hiểu được tình Cha. Vì nếm mùi thất bại chua chát của cuộc đời nên nó lên đường trở về. Nó không đủ can đảm đi làm người ăn xin, nó không đủ liều mạng để đi trộm cướp, nó không dám đánh đổi cả cuộc đời để gây tiếng xấu. Nó sống bằng nghề lương thiện là đi chăn heo, sống bằng sức lao động của mình. Từ kinh nghiệm của vực thẳm này, nó mới hiểu được mặt trái cuộc đời. Đó không là chốn nương thân cho kẻ nghèo khổ, không là chỗ hạnh phúc cho kẻ khố rách áo ôm, không là chỗ cho kẻ cô thân cô thế. Vì vậy chỉ còn một con đường duy nhất là trở về xin tha thứ và làm công cho Cha để có cơm ăn áo mặc. Tất cả ý nghĩa của cuộc trở về được diễn tả cách cô đọng trong những lời “Cha ơi… con không đáng gọi là con Cha nữa”.
Giuđa đã phản bội Chúa, Phêrô đã chối Chúa. Cả hai đều đánh mất tình con cái. Giu-đa không còn tiếp tục tin tưởng mình vẫn là con Chúa, không tin vào lòng tha thứ của Chúa nên đã đi thắt cổ tự vẫn. Còn Phêrô khi ở giữ sự tuyệt vọng đã muốn nối lại tình Cha con với những giòng nước mắt thống hối. Giuđa chọn cái chết. Phêrô chọn sự sống. Đọc câu chuyện, thấy sự trở về của người con thứ chẳng phải là mẫu mực. Sự trở về lý tưởng phải là sự trở về của lòng sám hối với tình yêu tha thiết. Nhưng trong thực tế cuộc sống, khi ngồi giải tội có nhiều hối nhân sau 5 năm, 10 năm thậm chí đến 20 năm, 30 năm mới trở về cùng Chúa. Mỗi người mỗi hoàn cảnh khác nhau. Những bầm dập của của cuộc đời, những gian truân vất vả, những thất bại chua chát… đã cho họ rút kinh nghiệm là cần trở về với Chúa, nguồn mạch của bình an nội tâm, của niềm vui và hạnh phúc. Chính Chúa đã yêu thương, đã tác động và một khi nào đó như Chúa muốn họ trở về cùng Ngài. Như thế họ đã chọn lấy sự sống. Gặp gỡ nhiều người như thế, tôi cảm thông với người con thứ.
Người con cả.
Hiếu thảo, vâng phục cha, không đi hoang, không ăn chơi. Con người lao động cần cù có tinh thần trách nhiệm, không rượu chè trác táng, chỉ lo ruộng rẫy nương vườn. Anh là con người mẫu mực. Thế nhưng, biến cố đứa em trở về đã bộc lộ con người thật của anh.Tuy ở trong nhà cha nhưng lại xa trái tim cha. Tại sao cha đãi tiệc bê béo cho thằng em bất hiếu, còn anh một con bê nhỏ để vui với bạn bè cũng không có. Anh tức giận vì thấy quyền lợi bị xúc phạm. Anh chẳng chịu vào nhà. Hoá ra cả hai người con vừa khác lại vừa giống nhau. Cả hai đều ở ngoài nhà cha. Con thứ không thấy hạnh phúc bên cha nên ra đi. Con cả không chia sẽ được hạnh phúc của cha nên không vào nhà. Anh thiếu bao dung và thiếu sự tha thứ cho em. Thái độ của người con cả là thái độ tiêu biểu của người biệt phái, luật sĩ hôm qua và hôm nay. Ích kỷ cho quyền lợi riêng mình. Tụ mãn về cách giữ luật “con không hề trái lệnh cha một điều nào”, tự hào về cách sống đạo “ không như thằng con của cha” Chỉ muốn kẻ lỗi lầm không đựơc cứu thoát mà phải chết.
Lúc sự giận dữ bùng nổ đến cực điểm, anh cả gặp lại tình cha. Cha đi ra năn nỉ, anh chẳng chịu nghe. Cha bộc bạch tâm tình với anh: con ơi, mọi sự của cha đều là của con, chúng ta phải ăn mừng vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Lời cha làm anh bàng hoàng xúc động vì anh hiều rằng mình quá ích kỷ, quá nhỏ mọn. Cái ích kỷ làm anh tẩy chay sự trở về của đứa em. Cái nhỏ mọn làm anh làm anh xua tan lòng bao dung của cha. Tình cha lớn hơn cuộc đời anh, lớn hơn tính ích kỷ trong anh.
Hình ảnh người con cả thật gần với chúng ta. Phụng dưỡng cha mẹ với trách nhiệm, chứ chưa phải là tình thương. Không chia sẽ nổi buồn, nổi khổ tâm, nổi âu lo của cha mẹ. Chỉ biết than trách và đòi quyền lợi cho mình thật nhiều. Ghen tị, chỉ trích phê bình, đặt mình là tiêu chuẩn cho mọi việc đạo đức. Thiếu lòng bao dung, không chịu tha thứ. Hình ảnh đó thật giống tinh thần biệt phái, có đạo mà không có đức.
Cả hai người con cần phải trở về. Sám hối chính là trở về với tình cha, trở lại với tình yêu, tìm lại niềm vui và sự sống.
Người cha
Khi chia gia tài cho con lòng cha đau đớn. Vì tôn trọng tự do của con chứ không phải cha nhu nhược. Ngày nhìn con ra đi, bóng nó nhạt dần cuối chân trời như cánh chim bay, lòng cha thấy trống trải, muộn phiền vì thiếu vắng hình bóng con. Ngày ngày cha ngóng trông đợi con trở về. Thế rồi một ngày kia, đứa con trở về thật. Nó về trong dáng vẻ thất bại thảm hại, thất thểu rách nát. Thua cuộc đời nó về làm dấy lên những lời bình phẩm của làng xóm. Giả như nó không về, người ta sẽ lãng quên. Nay nó trở về nhắc cho bà con làng xóm thấy sự thất bại của gia đình ông. Con ông về trong thất bại chua cay là câu chuyện đám tiếu đầu làng cuối xóm. Vậy mà ông mở tiệc ăn mừng. Thật lạ lùng!
Ở đời, khi con thi đậu đại học, khi con công thành danh toại vinh quy bái tổ, khi con là Việt kiều về thăm, cha mẹ mở tiệc ăn mừng, mời bà con làng xóm đến chia vui. Người ta thường dấu kín chuyện thất bại của con cái, người ta mắc cở không dám kể về đứa con bất hiếu, ngổ nghịch, ăn chơi đàng điếm. Người ta chỉ khoe đứa con ngoan, tự hào đứa con học hành thành đạt, vui mừng khi con có việc làm có sự nghiệp. Thế mà, người cha lại mở tiệc lớn. Mừng đứa con trở về thất bại tả tơi. Khách mời ngỡ ngàng khi chủ nhà giới thiệu con ông về nhà sau những ngày chăn heo đói khổ. Thế nhưng, người hiểu tình yêu là gì, tình phụ tử là gì thì thông cảm và chia vui với người cha. Cha đã tha thứ cho con trước khi con tự thú. Cha vui vì đứa con đã chết nay sống lại, đã mất nay tìm thấy.
Dung mạo người cha đó, chính là Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương. Thái độ người cha đối với hai đứa con là thái độ của Thiên Chúa đối với con người. Trong trái tim Thiên Chúa chỉ có tình thương. Người không có trí nhớ về tội lỗi con người.
Cha yêu con dù con hư hỏng, bất trung. Cha yêu con không vì con ngoan được việc, cha yêu con chỉ vì con là con. Cha không muốn mất một đứa con nào. Thiên Chúa của Đức Giêsu mạc khải là người cha nhân hậu, hiền từ, bao dung, hay tha thứ.
Hành trình thiêng liêng của cuộc đời, cả hai người con trong dụ ngôn đều có mặt trong mỗi con người chúng ta. Nhiều lần ta nghe theo cơn cám dỗ của thế gian xác thịt mà nên hoang đàng, hoang phí, gặp thất bại đau khổ mới hối hận trở về với Chúa. Nhiều lần ta là con cả tưởng mình đạo đức mà lên án tẩy chay người khác. Cần trở về với Cha, về với Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương.
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
Một hôm, Sa-tan ra lệnh cho một người kia phải thi hành một trong ba điều nó yêu cầu, nếu không nó sẽ đoạt linh hồn người đó. Ba điều đó: một là giết cha, hai là hành hạ người em, ba là uống rượu. Người đó ngẫm nghĩ: giết cha, đánh đập em là điều trái với đạo lý, anh không thể nào làm được, còn uống rượu thì dễ quá ai mà làm không được. Sau khi cân nhắc mọi hơn thiệt, anh đi mua rượu về uống. Lúc đầu anh còn tự chủ được, nhưng về sau, không còn làm chủ được mình nữa, anh đã say túy lúy, và kết quả đã diễn ra đúng như Sa-tan mong đợi, anh đã giết cha và hành hạ người em.
Câu chuyện trên có lẽ không chỉ là chuyện ngụ ngôn mà là thực tế xảy ra từng ngày trước mắt chúng ta. Tội ác nằm trong máu của con người, rơi vào một hoàn cảnh nào đó, ai cũng có thể là một tên sát nhân. Thế nhưng câu chuyện trên không phải chỉ nêu lên mặt trái của con người, nó còn nói lên nét cao quý trong lòng con người nữa. Người thanh niên trong câu chuyện, chúng ta thấy anh đã không lao vào tội ác như một phản ứng bình thường, đạo lý và lẽ phải đã đến với anh trước tiên. Điều đó cho chúng ta thấy: từ thâm cung của lòng mình, con người luôn hướng về điều thiện. Con thú cắn xé rồi lăn ra ngủ yên, nhưng con người thì không như thế, có kẻ sát nhân nào mà không cảm thấy bị cắn rứt trong lương tâm, có hành động xấu nào mà không dày vò lòng dạ con người. Con người sinh ra vốn hướng về điều thiện: “Nhân chi sơ, tính bản thiện”. Không có một tâm hồn nào hư đốn hoàn toàn, không có một con người nào xấu xa tuyệt đối, đâu đó trong tâm hồn mỗi người luôn vang vọng lời mời gọi của thiện hảo.
Vì thế, con người dù lầm lỗi thế nào chưa quan trọng, điều quan trọng hơn là có biết cải thiện sửa đổi hay không, và trong việc cải thiện đời sống hay ăn năn trở lại, có ít là ba giai đoạn: Thứ nhất là nhận biết hay nhìn nhận tình trạng sai lỗi của mình. Không nhìn nhận mình là tội nhân thì làm sao có thể nghĩ đến việc trở lại. Thứ hai là quyết định trở lại, quyết tâm sửa đổi như người con hoang đàng: “Thôi, tôi sẽ lên đường trở về cùng cha tôi”. Chúng ta dễ dùng dằng, lần lữa từ tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác là chuyện quá thường, là cơn cám dỗ quen thuộc của ma quỷ để ngăn cản việc cải thiện đời sống. Thứ ba là thi hành điều quyết định trở về như người con hoang đàng: “Anh đã chỗi dậy mà về nhà cha anh”. Đó là bước quyết liệt đòi nhiều can đảm và hy sinh để dứt bỏ mọi quyến rũ của đối phương. Người Âu châu thường nói: “Bước khó khăn nhất là bước qua ngưỡng cửa”, tức là bước quyết định. Vì khó, nên cần ơn trợ giúp của Chúa. Thay đổi tóc trên đầu đen thành trắng hay trắng thành đen còn làm được huống nữa là thay đổi tâm hồn từ tội lỗi trở nên thánh thiện, chỉ cần tỏ thiện chí tối thiểu là lập tức có đủ ơn trợ giúp để cải thiện đời sống.
Mỗi người khi dấn thân đổi mới cuộc đời, từ bỏ tật xấu, tập nhân đức và lớn lên trong các nhân đức đòi hỏi ba yếu tố: Thứ nhất là sự kiên quyết, thứ hai là ơn trợ giúp của Thiên Chúa, thứ ba là sự giúp đỡ của những người chung quanh.
Không ai có thể tự mình chừa bỏ tật xấu, tự mình luyện tập nhân đức, sự quyết tâm là điều cần thiết, nhưng cũng còn cần đến sự trợ giúp của ơn Chúa và sự giúp đỡ của những người chung quanh.
Ơn Chúa chắc chắn luôn luôn được ban cho mỗi người, vì Thiên Chúa nhân từ, hằng muốn mọi người ăn năn trở về với Ngài: “Ta không kết án con”. Ngài là Đấng vui mừng mạc khải cho chúng ta biết: toàn thể thiên đàng hân hoan vì một người tội lỗi ăn năn trở lại hơn 99 người công chính không cần trở lại. Còn lại hai yếu tố: sự nhất quyết của cá nhân và sự giúp đỡ của những người chung quanh. Mỗi người có quyết tâm cải thiện đời sống hay không, và có được những người chung quanh thông cảm, nâng đỡ để giúp nhau sửa đổi đời sống hay không? Rồi đến lượt chúng ta, mỗi người có trở thành một người giúp đỡ kẻ khác, để khuyến khích họ trở về với Chúa không? Hay chúng ta lại nghiêm khắc xét đoán, lên án, khinh thường và loại bỏ người anh em đang thành tâm chiến đấu với tật xấu của họ để đổi mới cuộc đời. Cùng chia sẻ thân phận tội lỗi, chúng ta dễ dàng thông cảm, tha thứ và giúp đỡ nhau để cùng nhau đổi mới đời sống.
Xin Chúa thương gọi chúng ta trở về với Ngài, đổi mới cuộc đời cho tốt đẹp hơn, và giúp chúng ta trở thành một người bạn thay vì là một quan tòa, một người bạn đầy thông cảm, nâng đỡ anh chị em chung quanh, để chúng ta biết giúp đỡ nhau và nương tựa nhau sửa đổi đời sống mỗi ngày tốt đẹp hơn.
(Suy niệm của Jos.Vinc. Ngọc Biển)
Tin Mừng Lc 15: 1-32 Phụng vụ Lời Chúa hôm nay làm toát lên bản chất của Thiên Chúa, một vị Thiên Chúa luôn yêu thương con người; Ngài là Đấng luôn luôn tha thứ, cảm thông và sẵn sàng chết cho người mình yêu.
Trong cuộc sống, chúng ta vẫn thường nghe đâu đó những lời bàn tán: “tại sao Thiên Chúa không phạt nhãn tiền những kẻ tội lỗi, kiêu căng, tự phụ và làm những chuyện gian ác! Thiên Chúa phải chăng dung túng cho những kẻ bất lương, để họ tha hồ lộng hành và ‘tác oai tác quái…?'” Khi có những suy nghĩ như vậy, chúng ta quên mất một điều căn bản về Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa làm những chuyện ngược lại với bản chất của Ngài, thì Ngài không còn là mình nữa, bởi vì “Thiên Chúa là Tình Yêu”.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trình bày cách tiệm tiến cho chúng ta thấy rất rõ về lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa qua các bài đọc.
Khởi đi từ bài đọc I: sách Xuất hành trình thuật cho chúng ta biết, sau khi rời khỏi Aicập, dân Do Thái là một toán người ô hợp, nên Thiên Chúa đã thiết lập Giao Ước với họ để củng cố trật tự cho dân. Chiếu theo những điều khoản trong quy định của luật Giao Ước, Thiên Chúa chọn dân Israel làm dân riêng của mình và dân chúng thì tôn thờ Thiên Chúa, trung thành với điều luật đã được ký kết. Tuy nhiên, không lâu sau khi ký kết Giao Ước, dân đã bội thề với Chúa, đã đúc và thờ bò vàng là một thứ ngẫu tượng thay thế Thiên Chúa. Tệ hơn và xúc phạm đến Thiên Chúa cách nặng nề là họ đã coi bò vàng như là Đấng đã giải thoát họ ra khỏi ách nô lệ bên Aicập. Thiên Chúa nổi nóng và muốn diệt trừ, nhưng qua Môsê, ông đã xin Chúa tha thứ cho dân, Ngài đã đồng ý và sẵn sàng tha, không còn có ý định tiêu diệt dân nữa.
Sang bài đọc II: thánh Phaolô nhắc lại cho ông Timôthê về lòng thương xót mà Thiên Chúa đã ban cho ông. Nếu Chúa không tha thứ, thì ông không thể được phần phúc biết và rao giảng về Đức Kitô Giêsu, bởi chưng trước kia ông là một người phỉ báng danh Chúa như chính ông đã bộc lộ: “Người đã kể cha là người trung tín, khi đặt cha thi hành chức vụ: dù trước kia cha là kẻ nói phạm thượng, bắt đạo và kiêu căng, nhưng cha đã được Thiên Chúa thương xót, vì cha vô tình làm những sự ấy trong lúc cha chưa tin”.
Đỉnh cao là bài Tin Mừng: bài Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu thường xuyên tiếp xúc với những người thu thuế và những người tội lỗi, vì họ rất thích nghe Ngài giảng. Thấy được điều đó, những người Pharisiêu và những người Biệt Phái liền xầm xì với nhau, đồng thời bàn tán về hành động của Đức Giêsu đang làm. Thấy vậy, Ngài mới kể cho họ nghe một loạt dụ ngôn, nhằm giúp cho họ nhận ra bản chất của Thiên Chúa.
Bắt đầu từ dụ ngôn “chiên lạc”: qua dụ ngôn này, Thiên Chúa được ví như người mục tử, sẵn sàng bỏ 99 con còn lại để đi tìm 1 con thất lạc. Con chiên lạc này mất vì lý do nào ta không biết, chỉ biết là nó đã tách ra khỏi đàn và biến mất khi chiều về. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể hiểu được rằng: nó đang trong hoàn cảnh cùng cực, lấm lem và đối diện với sự nguy hiểm vì không nhận được sự chăm sóc của chủ nó cũng như không có sự bảo vệ tập thể. Thấy được nỗi sợ hãi, bơ vơ… của chiên bị lạc và với bản chất của người chủ chiên tốt lành, ông đã lên đường đi tìm. Nếu xét về góc độ toán học thì ông chủ này quả là vô lý khi chấp nhận bỏ lại 99 con để chỉ đi tìm 1 con bị lạc. Vô lý vì 1 so với 99 thì 1 không có ảnh hưởng đến kinh tế là mấy. Mất 1 ông cũng không nghèo đi chút nào cả. Tuy nhiên, với ông thì sự giàu nghèo thua thiệt về số lượng không quan trọng, điều quan trọng chính là mỗi một con chiên đều có giá trị trước mặt ông, vì thế ông không thể để mất nó được. Một hành động hết sức gợi cảm, đó là ông chủ tìm được rồi thì vác nó lên vai. Hành động vác trên vai thể hiện sự trân trọng, yêu mến và nâng niu. Chấp nhận tha thứ tất cả và thể hiện tình thương trọn vẹn cho nó. Thiên Chúa là thế đó.
Tiếp theo là dụ ngôn “đồng bạc bị mất”: 1 đồng bạc ở đây chỉ có giá trị bằng một ngày công thời bấy giờ. Mất một đồng tức là bị mất một phần rất nhỏ về giá trị vật chất. Nhưng lạ kỳ thay, khi mất một đồng như vậy, người đàn bà đã làm mọi cách để tìm cho bằng được đồng bạc đã mất. Nào là thắp đèn, quét nhà, moi móc, và khi tìm được rồi thì vui mừng mời hàng xóm láng giềng đến chung vui. Hành vi này của người đàn bà trong dụ ngôn lại trở nên khó khăn hơn rất nhiều, bởi vì nhà của người Do Thái thời đó rất thiếu ánh sáng, trật trội. Còn nền nhà thì làm bằng đất và được phủ lên bằng những tấm liếp được đan bằng sậy và cành cây đã khô. Tìm một đồng bạc như vậy chẳng khác gì “mò kim đáy biển…”. Tuy nhiên, bà vẫn cố tìm, khi tìm được, bà sẵn sàng mời mọi người đến chung vui. Tìm được một đồng, mà lại mời hàng xóm đến chung vui thì quả là một người không biết tính toán. Nhưng không, bà nghĩ đồng bạc tìm thấy là cái gì đó gắn liền với bà, nên tìm được rồi thì niềm vui nhân lên gấp nhiều lần chi phí phải trả để mời bạn bè. Thiên Chúa là thế đó.
Cuối cùng là dụ ngôn “người con hoang đàng”: với người Do Thái thì việc xin cha mẹ chia gia tài cho mình lúc còn sống chính là một điều bất kính, chẳng khác gì mong cho cha mẹ chết sớm. Dụ ngôn cho thấy, ông chủ có hai người con, và lẽ dĩ nhiên hai người con của ông chính là điểm tựa lúc về già. Ấy vậy mà người con thứ đã ngạo ngược xin cha chia gia tài cho mình. Vì tình thương, và tôn trọng sự tự do, người cha không nghĩ gì cho mình, nên đã sẵn sàng chia gia tài theo ý con của mình xin. Có được tiền bạc trong tay, người con thứ ra đi, ăn chơi, đàn điếm và phung phí hết tiền bạc, kết cục bằng việc phải đi làm mướn bằng nghề chăn nuôi heo. Đây là công việc mà người Do Thái cho là ghê tởm và đáng bị nguyền rủa, bởi vì loài heo là loài ô uế và hình ảnh của Ma Quỷ. Sống trong tình trạng cơ cực như vậy, nó mới hồi tâm và quyết định trở về với cha mình. Khi nó trở về, người cha không hề oán trách tại sao mày ra nông nỗi này, hay tiền có còn hay hết, hoặc mày muốn đi thì cho đi luôn, đừng quay trở lại nữa. Không! Người cha đã trông mong nó trở về từ lâu, ngày nó ra đi cũng là ngày người cha sống trong hy vọng được gặp lại nó. Quả thật, khi nó quay về, ông vui mừng khôn siết, không cần suy nghĩ gì cả, và việc đầu tiên ông làm là ôm hôn nó. Sau đó là phục hồi nhân phẩm cho đứa con tội nghiệp của mình. Nào là: xỏ giầy vào chân cậu, đây là dấu chỉ của người được tự do, không còn là nô lệ cho ông chủ nào đó mà con ông đã từng bị bắt phải chăn heo. Trao nhẫn vào tay cho cậu, hành vi này thể hiện sự phục hồi hoàn toàn nhân phẩm cho đứa con một thời dại dột. Và, cuối cùng, ông đã mở tiệc ăn mừng vì việc con ông trở về. Sự trở về của người con thứ được ví như “đã mất mà nay tìm thấy, đã chết mà nay sống lại”. Thiên Chúa là thế đó.
Như vậy, qua các bài đọc hôm nay, phụng vụ Lời Chúa làm toát lên bản chất của Thiên Chúa, một vị Thiên Chúa luôn yêu thương con người; Ngài là Đấng luôn luôn tha thứ, cảm thông và sẵn sàng chết cho người mình yêu. Thật vậy, bình thường, không một ai lại bất thường đến độ bỏ 99 con chiên để đánh đổi 1 con; mất một đồng bạc lại tốn công hại sức để đi tìm và tìm được rồi lại mở tiệc khao xóm giềng chỉ vì tìm được một đồng. Nhưng những điều xem ra nghịch lý đó được trở nên hợp lý khi chúng ta bước sang dụ ngôn thứ ba nói về người cha nhân hậu. Thật vậy, Thiên Chúa luôn luôn tha thứ và sẵn sàng chấp nhận tất cả, miễn là con người có sự trở về và tỏ lòng sám hối. Với Chúa, hình ảnh 1 con chiên và đồng bạc là một cái gì đó quý giá trước mặt Ngài, bởi vì mỗi người đều là một hữu thể duy nhất trước mặt Chúa, nên cần được Chúa yêu thương. Tấm lòng của Thiên Chúa là tấm lòng của một người cha nhân từ, tha thứ. Người Cha này không thể ngủ yên khi con của mình đang thiếu thốn tình thương, đang sống trong tình trạng nguy hiểm. Một người chủ chiên không thể nào “bình chân như vại” khi biết trước được vận mệnh của con chiên đi lạc. Một người phụ nữ không thể nào chấp nhận mất đi cái mà mình luôn coi trọng vì nó gắn liền với cuộc sống của bà. Thiên Chúa là như thế đó. Ngài đã yêu là yêu đến cùng. Thật vậy, tận cùng của tình yêu là yêu không giới hạn.
Chúng ta thật hạnh phúc vì có một vị Thiên Chúa giàu lòng xót thương, một vị Thiên Chúa luôn đồng hành, tha thứ và xóa bỏ hết những tội lỗi cho chúng ta cho dù tội của chúng ta có nặng tới đâu: “dù tội con có đỏ như son, Ta cũng làm cho trở nên trắng như tuyết. Có thẫm tựa vải điều, Ta cũng làm nên trắng như bông”. Vì thế, noi gương Chúa, chúng ta cần phải có thái độ tha thứ và nhận định đúng về người anh chị em của chúng ta. Không ai là xấu hết, cũng như không ai là tốt hết. Đã là con người, ai cũng có những sự bất toàn của mình. Thái độ của chúng ta đôi khi cũng giống như những người Biệt Phái và Kinh Sư khi xưa là tìm cách bắt bẻ anh chị em mình để “bới lông tìm vết” và vạch trần những tội lỗi của anh chị em. Đôi khi lại còn thích thú khi thấy người khác sa ngã, vì đây là cơ hội để mình lên mặt dạy đời, hay có những khi tỏ vẻ nhân từ để sửa lỗi cho anh chị em mà lại vô tình đẩy anh chị em chúng ta vào chỗ chết.
Thật vậy, Lời Chúa ngày hôm nay dạy cho chúng ta phải có lòng nhân từ đích thực như Thiên Chúa, phải vui mừng vì thấy người anh chị em chúng ta sám hối trở về, đừng bao giờ vội kết luận người khác là “đồ bỏ”. Muốn làm được điều đó, thiết nghĩ mỗi chúng ta cũng cần nhận ra mình là kẻ tội lỗi và đã được Chúa yêu thương. Biết bao lần nếu Chúa không cho chúng ta có cơ hội để làm lại thì ta đã mất ơn nghĩa với Chúa từ lâu rồi. Trong kinh Vực Sâu có viết: “Nếu Chúa chấp tội thì nào ai rỗi được”.
Thật vậy, trước mặt Chúa, chúng ta phải thành thật mà thú nhận rằng: đôi khi chúng ta không phải là đứa con đi hoang, ra khỏi nhà để sống một cuộc sống trụy lạc như người con thứ, song nhiều lúc, chúng ta lại đi hoang trong cõi lòng. Môi miệng thì đọc kinh, hằng ngày vẫn đi lễ, nhưng hành động và thái độ yêu thương lại quá xa vời hay hời hợt với tinh thần của Chúa. Có những người nói là con chiên ngoan đạo, nhưng không thể hướng một ánh mắt thân thiện, một nụ cười cởi mở, một cái bắt tay chân tình với những người mà ta không ưa. Như vậy, chúng ta chính là những người đang đi hoang, lạc đàn về tâm linh như người con cả. Ở trong nhà cha mà bấy lâu anh ta cứ tưởng mình như người làm công cho cha mà thôi, và tệ hơn nữa là có những hành xử thiếu tình gia đình với em của mình.
Như vậy, nếu Thiên Chúa đã tỏ lòng nhân hậu với chúng ta, mặc dù chúng ta đáng tội chết, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải yêu thương và sẵn lòng tha thứ cho những người xúc phạm đến ta. Kinh nghiệm cho thấy, chúng ta không thể tha thứ được cho người khác là vì chúng ta luôn nghĩ mình tốt lành hơn họ. Nhưng trong thực tế, đôi khi tội của ta còn nặng hơn gấp bội lỗi của anh chị ta, chỉ có điều tội của ta thì không ai biết nên ta dễ dàng vênh vang và tự phụ, nhưng Chúa biết cả. Bao lâu chúng ta nghĩ mình cũng là người yếu đuối và đã được Thiên Chúa yêu thương thì chúng ta cũng cần tha thứ cho nhau như Chúa đã tha thứ cho chúng ta.
Lạy Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Xin tha thứ cho những thiếu xót của chúng con; đồng thời xin ban cho mỗi chúng con cũng có một trái tim, ánh mắt nhân từ như Chúa, để chúng con sẵn sàng tha thứ cho người khác khi họ xúc phạm và có lỗi với chúng con. Amen.
Dụ ngôn trong Kinh Thánh diễn tả tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa với nhân loại và lòng tha thứ vô biên vượt khỏi sự mong đợi của phạm nhân. Mục đích chính của dụ ngôn hướng dẫn ta về mầu nhiệm nước trời.
Dụ ngôn mặc dù có nhiều điểm tương tự như chuyện ngụ ngôn vì cả hai đều nhắm đến mục đích hướng dẫn cách sống, cách xử thế của con người nhưng ngụ ngôn hoàn toàn khác với dụ ngôn. Điểm khác biệt chính trong chuyện ngụ ngôn là dùng hình ảnh động vật, cây cối hoặc phong cảnh thiên nhiên trong chuyện để giải thích, hướng dẫn về đạo đức trong cuộc sống trong khi dụ ngôn trong Kinh Thánh nhân vật chính là tình yêuThiên Chúa và lòng xót thương của Ngài đối với con người.
Dụ ngôn thường có rất ít chi tiết trong chuyện. Nếu nhắc đến chi tiết thì mỗi chi tiết dù nhẹ nhàng, nhỏ đến đâu chúng đều có ý nghĩa riêng của nó. Dụ ngôn cũng không nhắc đến nơi chốn cố định, rõ ràng và thời gian. Chi tiết trong dụ ngôn rất thực với thực tế cuộc sống và hiện thực trong xã hội loài người vì thế dụ ngôn bất biến với thời gian và văn hoá. Chính điểm này biến dụ ngôn thành bất biến với thời gian. Có thể áp dụng dụ ngôn thích hợp cho cuộc sống trong mọi thời đại và mọi hoàn cảnh với phong tục tập quán khác nhau.
Cấu tạo của dụ ngôn thường có ba phần. Trước hết là khung cảnh của dụ ngôn. Sau đó là hành động hoặc tâm tình của nhân vật và thứ ba là kết quả ngạc nhiên, bất ngờ xảy đển ngoài sự tiên đoán, mong đợi của người đọc. Tâm tình của nhân vật trong dụ ngôn thường liên quan đến quyết định khó khăn, nhức nhối thuộc về đạo đức, nhân cách và công bằng xã hội. Nói tóm gọn là vấn đề tình yêu. Nhân vật trong dụ ngôn không hài lòng với cuộc sống hiện tại và tìm cách giải phóng mình khỏi ràng buộc hiện tại. Kết quả là sau giải phóng là đau khổ dồn dập. Trở thành nạn nhân, tối tăm mặt mày vì điều mình mơ tưởng. Dụ ngôn một mặt có ý nghĩa trong sáng dễ nhận biết điều dụ ngôn muốn nhắc đến. Mặt khác, chiều sâu tâm linh của dụ ngôn rất khó nhận biết. Khó khăn này gây nên bởi nhiều iếu tố khác nhau. Thứ nhất dụ ngôn thường dủng hình ảnh đơn giản thực tế, so sánh, giải thích những vấn đề phức tạp. Thứ hai dụ ngôn dùng hình ảnh cụ thể dẫn dắt người đọc đến hình ảnh trìu tượng mà hình ảnh cụ thể không thể giải thích rõ. Thứ ba dụ ngôn thường có những biến chuyển đột ngột, bất ngờ, xa lạ người đọc cảm thấy bất thường và nếu suy nghĩ thấy không ăn khớp với cách suy nghĩ bình thường của đại chúng. Thứ tư dụ ngôn thường được đọc đi đọc lại hàng năm nên người nghe không chú tâm vào dụ ngôn và bỏ qua chi tiết. Chi tiết đã hiếm lại trở nên hiếm hơn nếu không chủ tâm lắng nghe. Thứ năm phong tục, tập quán dùng trong dụ ngôn xa lạ với người nghe. Điều này khiến người nghe khó hình dung ra quang cảnh trong đầu hay tạo mối liên hệ liên quan đến cốt lõi dụ ngôn. Cuối cùng lí do quan trọng nhất là chính Đức Kitô chủ trương có dụ ngôn giúp ta hiểu rõ ràng, cũng có dụ ngôn ta cần phải suy niệm trong lòng, mở rộng tâm hồn tìm hiểu mới có thể hiểu được. Điều này tìm thấy trong những đối thoại giữa Đức Kitô và các môn đệ.
Các môn để hỏi sao Thầy lại dậy họ bằng dụ ngôn và Đức Kitô trả lời.Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm nước trời, còn họ thì không…. Bởi thế Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không nhìn, nghe mà không nghe, không hiểu. Mat 13,10-13
Đức Kitô hỏi các môn đệ: Anh em có hiểu tất cả những điều ấy không? Họ đáp: Thưa hiểu Mat 13,51
Một nơi khác Đức Kitô nói với các ông: Anh em không hiểu dụ ngôn này thì làm sao hiểu tất cả các dụ ngôn? Macô 4,13
Người dùng nhiều dụ ngôn tương tự mà rao giảng lời cho họ, tuỳ theo mức họ có thể nghe. Người không bao giờ rao giảng cho họ mà không dùng dụ ngôn. Nhưng khi chỉ có thầy trò với nhau, thì Người giải nghĩa hết. Mk 4,33-35.
Xin ơn cẩn trọng khi dùng Kinh Thánh biện hộ trong giao tế hàng ngày.
Tin Mừng Lc 15:1-10: Trang Tin Mừng hôm nay đó là tình thương tha thứ của Thiên Chúa, nhất là qua hình ảnh người cha nhân hậu.
Trang Tin Mừng hôm nay đó là tình thương tha thứ của Thiên Chúa, nhất là qua hình ảnh người cha nhân hậu.
Lòng nhân từ của Thiên Chúa vẫn ở trong cuộc đời chúng ta. Lòng nhân từ của Thiên Chúa ví tựa như tấm lòng người mẹ, luôn yêu con bằng trái tim chứ không bằng trí óc. Và cũng chỉ có tình thương trời bể của người mẹ mới cho chúng ta hiểu nổi tình thương vô biên của Thiên Chúa dành cho chúng ta, nhất là đối với kẻ tội lỗi, người nghèo khó bé mọn. Vì “Có người mẹ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Nhưng cho dù người mẹ có quên con đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ”.
Dù có những người mẹ độc ác bỏ con mình, Chúa không bao giờ bỏ chúng ta. Người còn ban ơn chăm sóc chúng ta hằng ngày: “Các ngươi sẽ được nuôi bằng sữa mẹ, được bồng ẵm bên hông, nâng niu trên đầu gối. Như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy”
Thật thế. đây là hình ảnh của một tình yêu không biên giới và vô điều kiện của Thiên Chúa. Ngài là Cha và chúng ta là con. Làm con thì có quyền hưởng gia tài của cha. Thiên Chúa luôn tôn trọng quyền tự do của chúng ta nhưng đồng thời mỗi người chúng ta lại phải chịu trách nhiệm về mọi hành vi của mình trước mặt Ngài. Vì tôn trọng quyền tự do của con, người cha đã chia gia tài cho cậu út và để cho cậu ra đi. Nhưng tình yêu của người cha luôn đi theo cậu không ngơi, luôn mong chờ cậu trở về. Ngày ngày ông những nóng cùng trông. Cho tới một ngày kia, ông nhìn thấy bóng dáng cậu từ xa thất thểu lê lết từng bước chân. Thế là ông vội chạy về phía cậu, quên đi tuổi già sức yếu của mình, ông lại gạt bỏ khỏi lòng mình mọi đau buồn về lầm lỗi thất hiếu của cậu. Ông ráng chạy, chạy thật nhanh mà ôm lấy người con yêu dấu, đã chết mà nay lại sống. Rồi ông mở tiệc linh đình để ăn mừng.
Thiên Chúa luôn trông chờ, sẵn sàng đón nhận chúng ta trở về. Chỉ cần chúng ta biết nhớ lại tình thương vô bờ bến của Cha, nhận ra sự dại dột của mình mà ăn năn sám hối. Chúa luôn tha thứ và muốn chúng ta được lãnh nhận ơn tha thứ, như một trong những ơn cao đẹp nhất của tình yêu Ngài ban cho con người.
Trở lại với câu chuyện trong vườn địa đàng, ta thấy Thiên Chúa đã đích thân đi tìm con người lẩn trốn và Ngài đã lên tiếng kêu gọi: “Ngươi ở đâu?”. Đây là tiếng gọi đầu tiên trong muôn vàn tiếng gọi. Về sau Thiên Chúa thôi thúc con người, kêu gọi trong oán trách như một người tình bị phụ bạc, kêu gọi trong đau buồn như người mẹ xót thương con. Những lời kêu gọi đó được nhắc đi nhắc lại nhiều lần qua miệng các ngôn sứ.
Và qua ví dụ rõ ràng, nơi ngôn Ô-zê Chúa phán như sau: “Khi Israel còn niên thiếu, Ta đã yêu thương chúng, và từ nước Ai-cập Ta đã gọi con Ta về. Nhưng khi kẻ khác gọi chúng, chúng liền bỏ Ta. Chúng đã đốt lễ vật dâng kính các thần tượng. Dù thế, chính Ta đã tập cho chúng bước đi, Ta đã bồng bế chúng trên cánh tay Ta, nhưng chúng nào biết rằng mình được chăm sóc. Chúng đã từ chối không trở lại cùng Ta. Vì thế, lưỡi gươm sẽ vung lên trong thành của chúng và tiêu diệt đồn luỹ của chúng”.
Còn gì vui bằng khi cái đã mất lại tìm thấy được; còn gì sướng hơn khi cái tìm thấy lại là vật quí. Tìm kiếm chính là mục đích của Con Thiên Chúa khi xuống trần gian: “Con Người đến tìm kiếm những gì đã mất”. Con người là đối tượng duy nhất mà Thiên Chúa mướn kiếm tìm. Con người thật vô cùng quí giá trước mặt Người. Thiên Chúa lao đao vất vả đi tìm kiếm con người. Người không muốn để mất một ai trên trái đất này.
Thiên Chúa yêu thương và tha thứ hơn cả sự chờ mong của chúng ta. Đối với Chúa, mỗi người chúng ta đều đáng kể, không thể có gì khác thay thế được. Mỗi con người là như một con chiên trong đàn, phải được chăm sóc như nhau, không được để thất lạc. Chín mươi chín con chiên yên lành không làm nguôi lòng thương đối với một con chiên lạc. Thiên Chúa cũng cuống quýt như một bà già nghèo đánh mất một đồng bạc quý phải hì hục moi móc mọi ngóc ngách trong nhà để tìm cho bằng được. Như người cha già, con mình đã hư quá thể mà trong lòng vẫn lo lắng không nguôi, vẫn không thôi chờ đợi đến mỏi mòn, cho đến lúc ôm lại đứa con vào lòng và rạo rực vui sướng không gì kìm hãm được và cả Thiên đàng cũng vui lây, vui sướng vì một người tội lỗi ăn năn trở lại hơn cả vui sướng vì chính mươi chín người lành thánh không cần sám hối ăn năn.
Thiên Chúa yêu thương người tội lỗi, như người mục tử tốt lành sẵn sàng để chín mươi chín con chiên lạc, đi tìm cho bằng được con chiên lạc mất. Khi tìm thấy rồi mừng rỡ khoác chiên trên vai.
Thiên Chúa yêu thương kẻ lầm lỡ, như người đàn bà cần mẫn, đốt đèn kiếm cho được đồng bạc đánh rơi. Khi thấy rồi tíu tít chia vui với mọi người.
Thiên Chúa yêu thương tội nhân, như người cha già nhân hậu, ngày ngày ra ngõ tìm con. Khi thấy con rồi ông vui mừng chạy lại ôm choàng lấy nó.
Lời Thiên Chúa kêu gọi con người tội lỗi ăn năn trở về, lời kêu gọi đó luôn được nhắc đi nhắc lại trong Cựu ước và đã tiếp tục vang lên một cách mạnh mẽ trong Tân ước qua những lời giảng dạy, qua cuộc đời của Đức Giêsu nhất là qua cái chết của Người trên thập giá.
Thiên Chúa vẫn luôn luôn là Thiên Chúa nhân hậu và hay thương xót. Ngài không nỡ bẻ gãy cây lau bị dập, không đánh dập tắt tim đèn còn khói. Ngài vẫn kiên trì, vẫn chờ đợi chúng ta những người con yếu đuối, tội lỗi ăn năn sám hối trở về với Ngài. Thiên Chúa là mục tử nhân lành như thế đó; Thiên Chúa là người cha nhân hậu như thế đó, và Thiên Chúa đã tìm kiếm chúng ta như thế đó. Xin cho mỗi người chúng ta biết ăn năn sám hối để đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa.
Thiên Chúa đi tìm và kêu gọi kẻ có tội, Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi nó hối cải, hơn nữa Ngài còn vui mừng đón nhận nó khi trở về. Dụ ngôn người đàn bà tìm thấy đồng tiền mất, người chăn chiên tìm thấy con chiên lạc và ông bố gia đình đón nhận người con phung phá trở về, cả ba dụ ngôn đó chứng minh như vậy.
Người ta chỉ có thể dễ dàng tha thứ cho kẻ khác khi ý thức thân phận mỏng dòn yếu đuối của mình. Có nhận ra mình hay lầm lỗi, con người mới dễ cảm thông tha thứ cho những lỗi lầm của anh em. Đừng bắt người có tội phải bị trừng phạt mới hả dạ, đừng đòi hỏi cho được sự công bằng mới thôi, vì Martin Luther King có viết: “Nếu cứ áp dụng luật “mắt đền mắt” thì mọi người đều trở nên mù loà”.
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn