Các Bài Suy niệm Lễ Chúa Ba Ngôi – Năm C
Lời Chúa: Cn 8,22-31; Rm 5,1-5; Ga 16,12-15
MỤC LỤC
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
“Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em, nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi.”
Đức Giêsu khi sắp về với Cha, đã chấp nhận giới hạn của các môn đệ. Ngài chưa nói hết được những điều Ngài muốn nói, nhưng Ngài không muốn ép họ phải cố hiểu. Cần có thời gian, và nhất là cần Thánh Thần…
Đức Giêsu chấp nhận ra đi khi việc huấn luyện còn dang dở. Ngài chấp nhận mình không phải là vị thầy duy nhất: Sau này, Thánh Thần sẽ dạy anh em mọi điều (Ga 14,26).
Ngài cũng chẳng phải là Đấng Bảo Trợ duy nhất vì còn một Đấng Bảo Trợ khác đến sau Ngài (x. Ga 14,16).
Ngài đã vén mở cho các môn đệ thấy sự thật, sự thật về Cha, về bản thân mình và về con người. Nhưng Ngài biết rằng cần có Thánh Thần từ từ dẫn dắt các môn đệ mới hiểu thấu và đi vào toàn bộ sự thật.
Vì lợi ích của họ, Đức Giêsu sẵn sàng ra đi (x. Ga 16,7), để nhường chỗ cho Đấng Cha và Ngài sai đến.
Đức Giêsu chẳng tìm mình, và Thánh Thần cũng vậy.
Thánh Thần chỉ có sứ mạng là đưa con người đến với Cha và Con là Đức Giêsu. Ngài chẳng tìm vinh quang cho mình, nhưng chỉ tìm tôn vinh và làm chứng cho Đức Giêsu.
Cha cũng chẳng tìm mình. Cha chẳng giữ gì làm của riêng.
“Mọi sự Cha có đều là của Thầy” (c.15) Cha là nguồn mạch luôn trào dâng qua Con. Con là Con vì đón nhận tất cả từ Cha.
Tình yêu liên kết Cha và Con là Thánh Thần,
Khi chiêm ngắm thế giới của Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta thấy đó là một cộng đoàn lý tưởng. Mỗi ngôi vị đều sống cho hai ngôi vị kia.
Yêu thương và hiệp thông với nhau đòi từ bỏ. Nhưng từ bỏ lại làm cho mỗi ngôi vị trọn vẹn là mình, và sống trong hạnh phúc viên mãn.
Thiên Chúa của Kitô giáo là một cộng đoàn yêu thương, nhưng thế giới của Thiên Chúa Ba Ngôi lại không khép kín.
Thế giới ấy vươn ra ngoài mình, để cho hạnh phúc tuôn đổ trên toàn bộ công trình sáng tạo.
Cha yêu loài người đến độ sai Con Một làm người. Con yêu loài người đến độ dám sống và chết cho họ. Thánh Thần yêu loài người đến độ luôn ở bên để ủi an nâng đỡ. Cả Ba Ngôi cùng nhau lo cho loài người.
Ước mơ lớn nhất của Ba Ngôi là đưa cả nhân loại đi vào thế giới thần linh của mình, để mỗi người được hưởng hạnh phúc làm con trong Chúa Con.
Thiên Chúa Ba Ngôi là tình yêu mở ra, chia sẻ, mời gọi.
Tình yêu đích thực bao giờ cũng khiêm hạ đợi chờ. Chúng ta tự hỏi mình có sẵn sàng mở ra để Chúa đi vào thế giới của mình và để mình đi vào thế giới của Chúa không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Cha là Đấng Sáng Tạo, Con là Đấng Cứu Độ, Thánh Thần là Đấng đem lại sự sống, sự canh tân, sự hiệp nhất. Bạn là hình ảnh Chúa Ba Ngôi, bạn thấy mình giống Ngài ở điểm nào?
Thế giới hôm nay bị đổ vỡ vì lòng ích kỷ của nhiều người, bị xâu xé giữa tôi và chúng ta. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi giúp gì để giải quyết vấn đề trên?
Cầu Nguyện
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận, xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt, xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ, xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị, xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi, Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng, xin cho các Kitô hữu chúng con trở thành tình yêu cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài, biết sống nhờ và sống cho tha nhân, biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh, xin cho chúng co tin vào sự hiện diện của Chúa ở sâu thẳm lòng chúng con, và trong lòng từng con người bé nhỏ.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Mỗi ngày chúng ta làm dấu thánh giá nhiều lần, chúng ta nhắc đến Chúa Ba Ngôi là Cha, Con và Thánh Thần. Chúng ta muốn ghi dấu của Ba Ngôi trên thân thể, và trên mọi hoạt động của ta, hay đúng hơn, chính Ba Ngôi đã không ngừng ghi dấu trên cuộc đời ta và trong suốt dòng lịch sử.
Mầu nhiệm Một Thiên Chúa Duy Nhất trong Ba Ngôi vị là mầu nhiệm được Đức Giêsu mạc khải cho ta.
Cha là Đấng yêu Con và hằng sinh ra Con. Con là người được yêu và được Cha sai vào thế giới. Thánh Thần là tình yêu, nối kết Cha và Con.
Như vậy Thiên Chúa của Kitô giáo không phải là một ngôi vị đơn độc, nhưng là Ba Ngôi hiệp thông chặt chẽ với nhau.
Ba Ngôi chia sẻ cho nhau mọi sự mình có: “Mọi sự Cha có đều là của Thầy” (Ga 16,15).
Ba Ngôi cùng nhau hành động trong sự hoà hợp. Thánh Thần không tự mình mà nói nhưng chỉ nhắc lại và đào sâu lời Đức Giêsu, giống như Đức Giêsu đã chẳng tự mình mà nói nhưng chỉ nói những gì mình nghe được từ Cha.
Thánh Thần sẽ tôn vinh Đức Giêsu như Đức Giêsu đã suốt đời tôn vinh Cha.
Nếu sống là sống với, sống cho, sống nhờ thì ta có thể gặp được mẫu mực sống tuyệt vời nơi Ba Ngôi Thiên Chúa.
Mỗi Ngôi đều không tìm mình, chỉ sống cho Ngôi khác, và từ đó tạo ra khuôn mặt riêng của mình. Thiên Chúa vừa là một, vừa là ba. Hội Thánh cũng vừa duy nhất, vừa đa dạng. Mười hai tông đồ, bốn sách Tin Mừng, hai kinh Lạy Cha… Để sự duy nhất đừng trở thành độc khối nghèo nàn, để sự đa dạng đừng trở thành cớ chia rẽ, cần có sự hiệp thông sâu xa trong Hội Thánh.
Đời sống của Ba Ngôi là mẫu mực cho mọi tổ chức của con người trên trần thế.
Mừng lễ Chúa Ba Ngôi, chúng ta chiêm ngắm sự hiện diện của Ba Ngôi ở nơi ta.
“Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23), “Thánh Thần ở lại bên cạnh anh em và sẽ ở trong anh em” (Ga 14,17).
Đây là tin mừng quá đỗi lớn lao: Thiên Chúa siêu việt xa thẳm lại ở rất gần ta, chỉ cần quay vào nội tâm, là ta gặp được Ngài.
Kitô hữu là người mang trời cao, mang thiên quốc trong mảnh đời yếu đuối của mình. Hãy cung kính trước sự hiện diện đó, và để cho Tình Yêu Ba Ngôi tự do hoạt động nơi bạn, và qua bạn mà lan đến toàn thế giới.
Gợi Ý Chia Sẻ
“Mình với ta tuy hai mà một, ta với mình tuy một mà hai.” Bạn có kinh nghiệm gì về việc sống hết mình cho người khác, mà vẫn không đánh mất chính mình?
Một em bé nói: “Thiên Chúa là một người cha yêu con cái như một người mẹ.” Đâu là hình ảnh của bạn về Thiên Chúa? Có khi nào bạn cảm nghiệm được Ngài yêu bạn không?
Cầu Nguyện
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận, xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt, xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ, xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị, xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi, Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng, xin cho các Kitô hữu chúng con trở thành tình yêu cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài, biết sống nhờ và sống cho tha nhân, biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh, xin cho chúng co tin vào sự hiện diện của Chúa ở sâu thẳm lòng chúng con, và trong lòng từng con người bé nhỏ.
Henry Kissinger, cựu ngoại trưởng Mỹ dưới thời tổng thống Nixon, có viết một cuốn sách trong đó ghi lại biến cố xảy ra đêm 7.8.1974, đêm cuối cùng trước khi tổng thống Nixon từ chức. Lúc đó vào khoảng 9 giờ tối, chuông điện thoại vang lên, tổng thống gọi ông đến toà Bạch Ốc ngay lập tức. Khi đến ông thấy tổng thống đang ngồi uể oải trong chiếc ghế màu nâu. Ánh sáng yếu ớt từ chiếc đèn nhỏ dùng để đọc sách hắt xuống nền nhà. Hai người trao dổi với nhau về nhiều vấn đề. Tổng thống tiễn ông đến tận chân cầu thang. Thình lình tổng thống dừng lại và yêu cầu ông cùng quỳ gối cầu nguyện. Kissinger cho hay rằng mình không biết là có quỳ xuống hay không, nhưng ông nhớ rất rõ là lúc ấy ông cảm thấy lo sợ và không biết phải cầu xin điều gì.
Hình ảnh Kissinger sợ hãi quỳ xuống trong bóng đêm và không biết phải cầu xin điều gì khiến chúng ta suy gẫm về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi hôm nay. Thực vậy, giống như Kissinger, chúng ta cũng có cảm giác đầy lo âu, nhưng chúng ta lại không biết phải cầu xin gì với Chúa Ba Ngôi. Chúng ta phải áp dụng mầu nhiệm này vào cuộc sống thường nhật ra làm sao?
Các tu sĩ thường coi ba lời khấn của mình là cách thế thuận tiện giúp họ tận hiến cho Chúa Ba Ngôi. Với đức khó nghèo, họ tận hiến cho Chúa Cha vì qua đó họ biểu lộ lòng phó thác vào sự quan phòng của Ngài: Các con đừng lo mình sẽ ăn gì mặc gì. Cha trên trời biết rõ các con cần đến những thứ ấy. Với đức khiết tịnh, họ tận hiến cho Chúa Con, bởi vì Đức Kitô đã sống độc thân như họ. Người đã tự cho mình thuộc về mọi người chứ không thuộc riêng về một ai. Và sau cùng với đức vâng lời, họ tận hiến cho Chúa Thánh Thần. Họ muốn lắng nghe sự thôi thúc của Chúa Thánh Thần và bước đi dưới sự soi dẫn của Ngài.
Với chúng ta cũng vậy, dưới một góc độ nào đó, chúng ta có thể áp dụng ba nhân đức trên vào cuộc sống chúng ta để tận hiến cho Chúa Ba Ngôi. Thực vậy, trước một tình hình kinh tế đầy biến động, mỗi người chúng ta, nhất là những người già cả và thất nghiệp, chúng ta cần phải tín thác vào Chúa Cha, như chim trời hay như cánh hoa ngoài đồng nội. Tiếp đến, trước một thế giới đầy tham lam ích kỷ, chúng ta cần noi gương Chúa Giêsu Đấng đã đến để phục vụ và Ngài đã truyền cho chúng ta: Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con. Và sau cùng, trước một xã hội bùng nổ về thông tin, chúng ta cần được Chúa Thánh Thần dẫn lối để luôn đi đúng con đường phải đi.
Và như thế, mặc dù không tuyên hứa, nhưng chúng ta vẫn có thể áp dụng tinh thần ba nhân đức ấy vào cuộc sống thường ngày. Thực vậy, hãy phó thác vào sự quan phòng của Chúa Cha. Hãy thực thi giới luật yêu thương của Chúa Con và hãy bước đi dưới sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ – Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi là chân lý nền tảng và cao siêu nhất trong đạo, nhưng lại ảnh hưởng trực tiếp đặc biệt tới con người.
Các tông đồ học với Đức Giêsu chỉ mới được gần ba năm, coi như trình độ lớp ba. Cho nên Người nói: “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ anh em không có sức chịu nổi”. Đối với môn học đời, muốn biết được những điều căn bản phổ thông, phải học hết lớp mười hai; muốn biết sâu sắc tường tận một môn học phải học hết cử nhân, kỹ sư, luật sư, phó tiến sĩ. Muốn khám phá được điều mới, phải là tiến sĩ, bác học. Đó là tiến trình học vấn của loài người. Những mầu nhiệm cao siêu trên trời mênh mông vô cùng chỉ có kỳ công của Chúa Thánh Thần soi sáng, dậy dỗ được thôi: “Khi nào Thánh Thần chân lý đến, Người sẽ dậy anh em tới chân lý toàn diện”.
I- Bây giờ các tông đồ mới biết được vài điều về Chúa Ba Ngôi.
Điều thứ nhất: Một Thiên Chúa có Ba Ngôi riêng biệt: Khi Đức Giêsu chịu phép rửa trên sông Gióc-đan: “Trời mở ra, tiếng Đức Chúa Cha phán: Này là Con Ta yêu dấu” và Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu đáp trên Người. Nhờ thế, các ông biết được: Một Thiên Chúa duy nhất mà có Ba Ngôi, gọi theo tiếng loài người là: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Ví như trong một gia đình có cha, mẹ và con; hay một mặt trời có ánh sáng, sức nóng và lửa cháy; hay một hình tam giác đều có ba góc riêng biệt và bằng nhau.
Điều thứ hai: Ba ngôi bằng nhau về bản tính, uy tín và phép tắc vô cùng. Khi Đức Giêsu dậy: “Anh em hãy đi làm cho muôn dân trở thành môn đệ và làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt. 28, 19).
Chữ và chỉ ngang hàng nhau, không có ngôi nào hơn ngôi nào kém nhau. Ví như ta nói: Anh và tôi và ông ấy, cả ba nhân vị đều là người cùng bản tính như nhau, cùng phẩm giá như nhau, và ba người đều có những cơ năng: Trí khôn, ý chí, tình cảm, tinh thần và vật chất. Mỗi khi ta làm dấu Thánh giá, nhắc nhở ta đã được Rửa tội nhân danh Ba Ngôi và tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi, đồng thời ta được chia sẻ đời sống hạnh phúc vinh quang của Người.
II- Ba Ngôi với con người: Ba Ngôi đặc biệt trực tiếp thương yêu ta
Theo giáo lý “Chúa Cha dựng nên ta, Chúa Con cứu chuộc ta, Chúa Thánh Thần thánh hóa ta”. Tuy nhiên, Ba Ngôi luôn luôn hợp nhất với nhau nên một để cứu độ ta như Đức Giêsu đã nói trong bài Tin Mừng hôm nay: “Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy. Vì thế, Thầy đã nói: Thánh Thần lấy những gì của Thầy và loan báo cho anh em”. Như vậy, của Cha là của Con và cũng là của Thánh Thần. Thánh Phaolô đã giải thích cho Giám mục Titô về công việc Ba Ngôi thực hiện ơn cứu độ cho ta như thế này: “Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, đã biểu lộ lòng nhân hậu và lòng thương yêu của Người đối với nhân loại. Không phải tự sức chúng ta đã làm nên việc công chính, nhưng vì Người thương xót, nên Người đã cứu chúng ta nhờ phép rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng ta được tái sinh và đổi mới. Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta” (Tt. 3, 4-6). Như vậy, chúng ta có thể nói: Của trời đất vô tận Chúa Cha đã dựng nên, Chúa Con hy sinh làm lụng vất vả, cực khổ đến chết để thâu góp lương thực vào kho cho ta, và Chúa Thánh Thần lấy lương thực đó ra ban phát cho ta. Hay Ngôi Cha như một bác học, sáng chế đủ mọi thứ thuốc, Ngôi Con như một bác sĩ toàn năng đến sống lăn lộn với chúng ta, khám bệnh, ra toa cho ta, Ngôi Thánh Thần như một dược sĩ coi toa phát thuốc cứu chữa ta. Thánh Phaolô cảm thấy ơn phúc Chúa Ba Ngôi làm cho ta vô cùng trọng đại, nên Ngài luôn luôn nhập đề các thơ gởi cho các giáo đoàn bằng những lời chào: “Chúc tụng Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Trong Đức Kitô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần” (Eph 1, 3) và khi kết thúc, Phaolô thường dâng lời cầu chúc cho các giáo đoàn bằng câu: “Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô và tình yêu của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em” (2Cr. 13, 13)
Ba bài đọc lời Chúa hôm nay còn giúp ta nhận ra sâu sắc hơn ơn Chúa Ba Ngôi làm cho ta:
Bài I kể ra công trình sáng tạo của Thiên Chúa Cha. Ngài đã dựng nên đức khôn ngoan được áp dụng vào Đức Kitô. Thực vậy, “Thiên Chúa Cha đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một cho thế gian được sống”. Con Một đã sinh ra từ đời đời như tác phẩm đầu tay và Người lấy làm vui thú đến ở giữa phàm nhân. Rồi Chúa Cha dựng nên cõi trời, làm ra mặt đất, vực thẳm, núi non, mạch nước và các nguyên tố vũ trụ. Sau là dựng nên phàm nhân được sống với đức khôn ngoan là nguồn vui của Chúa Cha.
Bài II kể đến công trình cứu độ của Ngôi Con là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người làm cho ta nên công chính, mở lối cho ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, cho ta được trông đợi hưởng vinh quang Thiên Chúa, nên khi gặp gian truân, ta phải trung kiên chịu đựng, đừng thất vọng “vì Thiên Chúa đã đổ đầy tình yêu của Người vào lòng chúng ta, Nhờ Thánh Thần mà Người ban cho ta”.
Bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói đến công trình giáo dục, thánh hóa của Thánh Thần: Người sẽ dẫn ta đến chân lý toàn diện. “Người sẽ lấy những gì của Thầy và loan báo cho anh em”. Như vậy “chỉ một mình Thánh Thần mới có thể hé mở cho ta thấy tình yêu của Chúa Ba Ngôi, dẫn dắt ta vào tình yêu của Ngài, và giúp ta sống sâu thẳm trong tình yêu chân thật của Thiên Chúa” (Charles Brethes; Feuillets liturgiques, Annec).
Lạy Ba Ngôi cực Thánh, qua phép rửa tội, chúng con đã được ghi ấn tín Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Xin cho chúng con trọn đời trung thành với đức tin để Người thương đổ đầy tình yêu của Người vào lòng chúng con. Amen.
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm chính yếu của Kitô giáo. Chúng ta tuyên xưng đức tin trong kinh Tin Kính. Chúng ta tin một Thiên Chúa duy nhất là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Từ “Thiên Chúa Ba Ngôi” phải đợi nhiều thế kỷ mới hình thành. Đầu tiên, vào cuối thế kỷ thứ hai, Giám Mục Thêôphilô thành Antiôkia sử dụng từ này trong một bức thư gởi cho Antolycus, một người lạc giáo và được các Giáo hội chấp nhận. Tuy nhiên, phải đợi đến thế kỷ VI từ Chúa Ba Ngôi mới được hình thành và được chấp nhận.
Người Do Thái chỉ tin vào Thiên Chúa độc nhất, toàn năng. Trong Kinh Thánh, Thiên Chúa cũng tự mạc khải là Cha của dân Do Thái. Nơi các tiên tri, Ngài thường gọi Israen là “con Ta”. Ngài cũng tỏ cho dân Do Thái thấy tình yêu của Ngài đối với dân. Ngài yêu dân Israen như một người chồng yêu thương vợ và đau đớn khi bị phụ tình. Tiên tri Hôsê đã có những trang tràn đầy tình yêu.
Tiên tri Giêrêmia diễn tả tình yêu Thiên Chúa như một người cha, yêu thương đứa con bé bỏng của mình, chăm sóc, nâng niu.
Nhưng chỉ có Chúa Giêsu mới mạc khải khuôn mặt thật của Chúa Cha, mới cho chúng ta biết Thiên Chúa là Ba Ngôi, là Cha, Con và Thánh Thần. Chính Thiên Chúa cũng tỏ ra cho chúng ta biết Ngài là Cha của Chúa Giêsu: “Này là Con Ta rất yêu dấu, Con đẹp lòng Ta”. Chúa Thánh Thần cũng xuất hiện dưới hình thức chim bồ câu khi Chúa Giêsu chịu phép rửa của Gioan Tẩy Giả ở sông Giođan.
Chúa Giêsu nói đến Chúa Cha, mạc khải Cha trên trời và chứng tỏ Ngài là Con. Ngài thường dùng cách nói: “Cha Ta, Đấng ngự trên trời”. Khi cầu nguyện, Ngài dùng từ “Abba” là tiếng nói của trẻ thơ để gọi Cha Ngài.
Trong đoạn Tin Mừng Giáo hội trích dẫn hôm nay, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy sự hiệp thông toàn vẹn giữa Ba Ngôi Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần được gọi là “Thần Khí Sự Thật sẽ đến và dẫn anh em đến sự thật vẹn toàn”, sự thật đó chính là Ba Ngôi Thiên Chúa. Thánh Thần sẽ giúp chúng ta hiểu về Ba Ngôi một cách đầy đủ hơn. Thánh Thần đó không tự mình nói điều gì, “Ngài chỉ nói những gì Ngài đã nghe từ Chúa Cha và Chúa Con. “Ngài sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em”. Điều này chứng tỏ mối hiệp thông giữa Ba Ngôi thật tuyệt diệu!
Mối liên hệ giữa Chúa Cha với Chúa Con cũng vẹn toàn vì “mọi sự của Chúa Cha đều là của Thầy”, vì “Cha với Thầy là một”. Là một nhưng không lẫn lộn. Thầy không phải là Chúa Cha và Chúa Cha không là Thầy. Thánh Thần là của Thầy, nhưng Ngài không phải là Chúa Cha, cũng không là Chúa Con. Ngài là mối liên hệ yêu thương giữa Cha và Thầy. Ngài là của Thầy, nhưng đồng thời Ngài cũng là của Cha Thầy.
Làm sao giải thích điều không thể giải thích? Giáo hội vẫn cố gắng tìm cách giải thích mầu nhiệm Ba Ngôi bằng nhiều cách, nhưng vẫn còn phải cố gắng đào sâu mãi. Thiên Chúa là vô biên và ngôn ngữ và trí khôn loài người có hạn. Nhưng không phải vì thế mà chúng ta có thể lười biếng tìm kiếm sâu hơn. Phải nhờ Thánh Thần mà thôi vì Ngài mới dẫn chúng ta đến “sự thật toàn vẹn”.
Chúng ta không thể hiểu Thiên Chúa bằng những lý luận mà chỉ hiểu bằng ánh sáng Thánh Thần, bằng đức tin mà thôi. Chúng ta không thể múc cạn đại dương bằng một vỏ sò.
Các thánh hiểu Ba Ngôi như một gia đình. Ngài là hiến ban, là tình yêu, là niềm vui yêu thương và được yêu. Khi chúng ta nói đến tình yêu, chúng ta chỉ hiểu theo tình yêu hạn chế của con người. Thiên Chúa là Tình Yêu tuyệt đối. Chúa Cha yêu Chúa Con bằng một tình yêu tuyệt đối. Tình yêu đó không thể có ở trong thế giới của con người. Chúa Con cũng yêu Chúa Cha bằng một tình yêu tuyệt đối và tình yêu tuyệt đối giữa Chúa Cha và Chúa Con là Thánh Thần.
Chúng ta chỉ tuyên xưng những gì chúng ta có thể hiểu được, và tất cả được gồm tóm trong một câu của thánh Gioan: “Thiên Chúa là Tình Yêu”.
Vì là Tình Yêu, Ngài yêu thương chúng ta. Vì yêu thương chúng ta, Ngài đến liên hệ với chúng ta, Ngài sai Con Một Ngài đến trần gian để chứng tỏ cho chúng ta thấy tình yêu của Ngài sâu đậm đến mức nào. Và Thánh Thần là Tình Yêu khôn tả của Ngài được đổ tràn trên chúng ta, khiến chúng ta trở thành con và trong tình con thảo đó, chúng ta gọi Ngài là “Abba” (cha).
Mầu nhiệm Ba Ngôi là tất cả đối với chúng ta. Chúng ta không thể tìm đâu ra ý nghĩa cuộc sống và hạnh phúc. Tất cả khơi nguồn từ tình yêu Ba Ngôi và kết thúc trong tình yêu đó.
Ngài ban cho chúng ta một hồng ân tuyệt hảo là được yêu mến Ngài. Chúng ta có cảm thấy đó là một hồng ân không? Thánh Inhaxiô thành Antiôkia viết: “Anh em chỉ yêu một mình Thiên Chúa thôi”. Chúa cũng mong chúng ta yêu Ngài thôi, vì chỉ có Ngài là hạnh phúc độc nhất của chúng ta. Giới răn của Ngài là Yêu: “Nghe đây, hỡi Israen. Đức Chúa là Thiên Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết sức ngươi…” Chúa Giêsu lặp lại: “Điều răn thứ nhất và quan trọng nhất là hãy yêu mến Chúa hết lòng, hết sức, hết trí khôn, hết linh hồn…” Chỉ có Thiên Chúa là đáng yêu trên hết mọi sự. Thế nhưng, dù được khích lệ như thế nào, hình như chúng ta vẫn không yêu. Có cái gì cản trở tình yêu.
Tình yêu Chúa vẫn mời gọi, nhưng chúng ta vẫn ởm ờ, không dứt khoát.
Các thánh đã yêu và đã chuyển lại cho chúng ta những kinh nghiệm quý báu của các ngài, nhưng hình như chúng ta vẫn không có can đảm bước vào tình yêu. Đó là một điều đáng tiếc.
Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu chỉ biết sống cho tình yêu: “Ơn gọi của em là yêu”. Đó cũng là ơn gọi của chúng ta. Chúng ta có đáp lại ơn gọi đó không?
Ai? hay cái gì đã cản trở không cho chúng ta yêu mến Chúa? Ai đã tách chúng ta ra khỏi tình yêu Chúa? Chúng ta phải tìm cho ra nguyên nhân, nếu không, chúng ta không bao giờ có thể yêu mến Chúa, và như thế, chúng ta sẽ không bao giờ đạt tới hạnh phúc. Cầu xin cho chúng ta đủ can đảm dứt khoát với những gì không giúp chúng ta yêu mến Chúa. Xin cho chúng ta đủ can đảm bỏ mình để chỉ sống cho Chúa mà thôi.
Chúa Giêsu không bỏ rơi chúng ta trong sự yếu hèn của chúng ta, Ngài vẫn kề cận, nâng đỡ chúng ta. Ngài đã dùng một phương tiện hết sức tuyệt vời để đến trong chúng ta là một tấm bánh, nhờ đó chính Ngài sẽ ở trong chúng ta và giúp chúng ta yêu mến Chúa, miễn là chúng ta không cản trở hoạt động của Ngài. Ăn lấy Ngài đi, sống với Ngài trong những thực tại nhỏ bé hằng ngày của chúng ta, như thế cũng đủ để đền đáp tình yêu của Ngài.
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
Chủ Ðề: Vai trò Ba Ngôi Thiên Chúa trong đời sống tín hữu
“Chúa Thánh Thần sẽ dẫn chúng con đến sự thật toàn vẹn”. (Ga 1613)
Anh chị em thân mến
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là một trong ba mầu nhiệm căn bản của đức tin chúng ta, căn bản vì có ảnh hưởng quan trọng trên cách sống đức tin của chúng ta. Nhưng hình như từ trước tới nay chúng ta chưa ý thức bao nhiều về tầm quan trọng ấy.
Trong Thánh lễ này, chúng ta xin cho Lời Chúa soi sáng cho chúng ta hiểu được tầm quan trọng ấy, và xin ơn Chúa giúp chúng ta sống đức tin của mình một cách tích cực hơn.
Thiên Chúa là Cha yêu thương. Nhưng chúng ta chưa mấy tin tưởng phó thác vào tình yêu Chúa.
Chúa Con đã chịu chết để Thiên Chúa tha thứ tội lỗi chúng ta. Nhưng chúng ta không biết tha thứ cho nhau.
Chúa Thánh Thần muốn mọi người sống yêu thương nhau như anh em cùng một Cha trên trời. Nhưng chúng ta thường nhìn người chung quanh như những kẻ xa lạ, thậm chí là những kẻ thù.
III. Lời Chúa
Trích đoạn này trình bày Ngôi Hai như là Sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa.
Ngài hiện hữu từ thuở đời đời.
Ngài đóng vai trò chủ chốt trong việc tạo dựng.
Ngài vừa ở bên cạnh Thiên Chúa, vừa gần gũi với loài người.
Đây là một bài ca tụng công trình tạo dựng của Thiên Chúa, đặc biệt con người là thụ tạo cao quý nhất, chỉ thua kém thiên thần một chút.
Đoạn Tin Mừng này nói đến sự liên hệ giữa Ba Ngôi, nhưng đặc biệt nhấn mạnh vai trò của Chúa Thánh Thần:
Tất cả những gì mà Chúa Con mặc khải đều là do lãnh nhận từ Chúa Cha.
Chúa Thánh Thần sẽ dạy các môn đệ hiểu rõ tất cả những gì Chúa Con đã dạy, nhờ đó các môn đệ được dẫn đến sự thật toàn vẹn.
Đoạn thư Phaolô này cũng nói đến vai trò của Ba Ngôi trong cuộc sống người tín hữu: Nhờ Chúa Giêsu Kitô và trong Chúa Thánh Thần, chúng ta được thông phần sự sống của Thiên Chúa.
Chúa Thánh Thần là Đấng dẫn ta đến sự thật toàn vẹn. Sự thật toàn vẹn là gì? Đó chính là điều Chúa Giêsu ngụ ý trong câu đầu bài Tin Mừng hôm nay “Thầy còn nhiều điều muốn nói với chúng con, nhưng bây giờ chúng con không có sức chịu nổi”. Trong khoảng thời gian Chúa Giêsu sống cạnh các môn đệ, có nhiều điều Chúa Giêsu vừa mới nói hé một chút thì các môn đệ đã không chịu nổi nên Chúa Giêsu thôi không nói nữa. Thí dụ khi hai người con của bà Giêbêđê đến xin Chúa cho họ được ngồi hai bên tả hữu Ngài, Chúa Giêsu hỏi lại “Nhưng chúng con có uống nổi chén đắng của Thầy không?” Hai ông tuy đáp liều là nổi nhưng sau đó không dám xin nữa và Chúa Giêsu cũng không nói thêm gì nữa. Trong câu chuyện ấy, sự thật toàn vẹn mà Chúa Giêsu chưa nói rõ chính là chén đắng. Một lần khác Chúa Giêsu vừa mở miệng báo tin Ngài sẽ bị bắt bị hành hạ và bị giết chết, thì Phêrô cũng không chịu nổi nên vội lên tiếng can ngăn. Trong chuyện này, sự thật toàn vẹn mà Chúa Giêsu chưa thể nói rõ chính là mầu nhiệm đau khổ của Thập giá. Trong đêm thứ năm trước khi ra đi chịu chết, Chúa Giêsu quỳ trước các môn đệ và rửa chân cho họ, Phêrô lại một lần nữa không chịu nổi nên cự nự “Không đời nào con để Thầy rửa chân cho con”. Ở đây sự thật toàn vẹn mà Chúa Giêsu cũng chưa tiện nói hết là sự hạ mình của Ngài và của các môn đệ. Tóm lại sự thật toàn vẹn là các môn đệ phải chấp nhận số phận của Thầy mình, phải tự khiêm tự hạ, phải chịu đau khổ chịu bắt bớ và có thể chịu chết giống như Thầy. Nhưng trong tất cả những lần kể trên Chúa Giêsu không nói hết ý nghĩ của mình được vì các môn đệ đã không chịu nổi. Về sau khi Chúa Giêsu đã sống lại và lên trời, Chúa Thánh Thần đã dẫn các môn đệ đến sự thật toàn vẹn ấy, và khi đó, nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, các ông đã chịu nổi, chẳng những chịu nổi mà còn vui lòng chịu: một lần kia vì đã rao giảng về Chúa Giêsu, các tông đồ bị bắt giam trong tù hết một đêm, sau đó bị điệu ra Thượng Hội đồng, bị đánh đòn một trận rồi mới được thả ra. Sách Công vụ viết khi ấy các ông lòng đầy hân hoan vì được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Chúa Giêsu. Thánh Phaolô cũng thế, sau biết bao gian truân nguy hiểm vì loan báo Tin Mừng, ngài nói “Tôi sung sướng vì được thông phần cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu Kitô trong thân xác tôi”. Ngài còn nói “Vinh dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô”, cái thập giá mà những người trí thức hy lạp coi là điên rồ và những người Do Thái sùng đạo coi là cớ vấp phạm.
Một đêm nào đó trời thanh mây tạnh, chúng ta hãy ra khỏi nhà, ngước mắt nhìn lên bầu trời. Chúng ta thấy gì? Chúng ta sẽ thấy các tinh tú hằng hà sa số, có cái sáng nhiều có cái sáng ít, có cái nằm riêng rẻ có cái ở trong một chùm sao.
Trong hằng hà sa số các tinh tú ấy, trái đất chúng ta chẳng đáng là gì cả. Một hành tinh nhỏ bé, rất nhỏ bé.
Thế mà Thiên Chúa lại quan tâm đặc biệt đến hành tinh nhỏ bé này. Trong vô vàn tinh tú, chỉ có hành tinh nhỏ bé này được hai vinh dự vô cùng to lớn:
Vinh dự to lớn thứ nhất là con người trên hành tinh nhỏ bé này được Thiên Chúa đặt làm chủ tể mọi loài trong vũ trụ rộng lớn bao la.
Vinh dự to lớn thứ hai là không một hành tinh nào khác ngoài hành tinh này được Ngôi Hai Thiên Chúa đến cư ngụ. Chẳng những thế, Ngài còn chịu chết ở cái hành tinh nhỏ bé này nữa.
Tác giả Thánh Vịnh 8 đã ngỡ ngàng không hiểu nỗi tình yêu bao la của Thiên Chúa và hạnh phúc vô cùng của con người: “Khi tôi nhìn ngắm cõi trời, công cuộc tay Chúa tạo ra, mặt trăng và muôn tinh tú mà Chúa tôi gầy dựng, thì nhân loại là chi mà Chúa tôi nhớ đến, con người là gì mà Chúa để ý chăm nom. Chúa dựng nên con người chỉ kém thiên thần một chút. Chúa trang sức con người bằng danh dự với vinh quang. Chúa đặt con người cai trị các công trình tay Chúa tác thành. Chúa đặt muôn vật dưới chân con người.”
Chúng ta không sống cô độc một mình, nhưng cùng sống với những người khác: gia đình, vợ chồng, bạn bè, đồng nghiệp, cộng đoàn giáo xứ v.v.
Trong những cộng đoàn sống chung ấy, chúng ta thường mơ ước:
Phải chi mọi người đều “trong suốt” với nhau, nghĩa là ai nấy cũng hiểu nhau vì ai nấy đều chân thành tỏ cho nhau hết mọi ý nghĩ của mình.
Phải chi mọi người đều hết lòng yêu thương nhau, nghĩa là chỉ có yêu thương chứ không hề có một chút gì là ganh ghét, đố kỵ, e dè nhau
Phải chi mọi người đều hết sức hợp tác giúp nhau trong mọi công việc.
Phải chi mọi người đều chia xẻ tất cả những gì của mình để tất cả đều là của chung.
Đó chính là cuộc sống của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Chúng ta mơ ước cuộc sống đó. Mơ ước này không phải chỉ là ước mơ suông không bao giờ đạt được. Chúa Giêsu nói Thiên Chúa sẵn sàng thông chia cho chúng ta cuộc sống ấy nếu chúng ta biết thông hiệp với Ba Ngôi Thiên Chúa.
a/ Thế nào là một người cha?
– Cha là kẻ yêu thương con mình bằng một tình yêu vô cùng quảng đại
Ngay cả trước khi đứa con sinh ra: vừa biết nó thụ thai thì đã yêu thương và nôn nóng chờ ngày nó sinh ra.
Ngay cả khi chưa biết sau này nó sẽ ra sao: chưa biết sau này nó đẹp hay xấu, thông minh hay ngu đần, khoẻ mạnh hay yếu ớt, tốt hay xấu, hiếu thảo hay ngỗ nghịch… Chỉ vì nó là con cho nên mình yêu thương nó.
– Cha là kẻ muốn cho con mình tất cả những gì mình có:
Người cha nào cũng muốn đứa con khoẻ như mình, thông minh như mình, giỏi như mình, khéo như mình, có của cải địa vị như mình, hạnh phúc như mình… Thậm chí còn hơn mình… Và làm tất cả để đứa con được như thế.
– Cha là kẻ không bao giờ quên con và bỏ con:
Chỉ có con quên cha và bỏ cha, chứ không hề có cha quên con và bỏ con. Dù đứa con ấy xấu xa và ngỗ nghịch đến đâu đi nữa, Cha vẫn yêu thương nó.
– Hạnh phúc và đau khổ của người Cha là do thấy con hạnh phúc hay đau khổ.
Cha sung sướng khi thấy con vui, con khoẻ, con thành đạt… Cha đau buồn khi thấy con bất hạnh, khổ sở…
– Cha là kẻ lệ thuộc con:
Yêu thương ai là lệ thuộc người ấy, là để cho người ấy có quyền trên mình, mình ở thế yếu đối với người ấy.
Trẻ con dù rất yếu ớt nhưng lại có quyền lực rất lớn trên cha mẹ. Do đó chúng nhõng nhẽo, đòi cái này cái nọ, giận không thèm ăn uống khi không được cho cái mà chúng đòi… Những yêu sách ấy của chúng đã làm cho cha mẹ phải “điêu đứng” khổ sở.
b/ Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu và là Cha của chúng ta
Tất cả những gì ta đã nói về người cha tự nhiên đều đúng với Thiên Chúa, và đúng một cách tuyệt đối, trọn vẹn:
– Cha là kẻ yêu thương con mình bằng một tình yêu vô cùng quảng đại: “Từ muôn đời Chúa đã yêu con”
– Cha là kẻ muốn cho con mình tất cả những gì mình có:
Sách Sáng thế nói Thiên Chúa dựng nên con người theo hình ảnh Ngài.
Tin Mừng Ga ghi lại lời Chúa Giêsu “Mọi sự của Cha là của Con” (Ga 17,10)
– Cha là kẻ không bao giờ quên con và bỏ con:
Điều này hoàn toàn và tuyệt đối đúng với Thiên Chúa: “Con người có thể sống không Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa không thể thôi làm Cha được” (Louis Evely).
Dụ ngôn người cha nhân hậu và đứa con hoang đàng minh họa điều này rất rõ.
– Hạnh phúc và đau khổ của người Cha là do thấy con hạnh phúc hay đau khổ.
“Thiên Chúa là người táo bạo nhất trong thiên hạ, bởi vì Ngài đã dám đặt tất cả hạnh phúc của mình trong hành vi yêu thương. Ngài đã để hạnh phúc mình tuỳ thuộc vào một kẻ khác” (Louis Evely)
– Cha là kẻ lệ thuộc con:
“Thiên Chúa là Cha, Cha cách trọn vẹn, hoàn toàn. Chúng ta thì khác, chúng ta chỉ là cha một ít thôi. Đồng ý rằng ta là cha của con cái chúng ta, nhưng chúng ta cũng còn lệ thuộc đủ mọi thứ khác như là công việc, nghề nghiệp, cuộc sống hôn nhân, những sở thích riêng tư, những thành công, những việc giải trí của mình, và chúng ta lại cũng còn lệ thuộc về chính mình nữa. Chúng ta không là cha cho đủ… Chỉ một mình Thiên Chúa mới là Cha mà thôi. Đối với Con của Ngài, Ngài đã hiến mình trọn vẹn. Nơi Ngài không còn có một phần nhỏ nhoi nào là quay trở về mình, là tìm “cái tôi” nữa” (Louis Evely)
* Tóm lại Thiên Chúa là Cha ở chỗ “Thiên Chúa chỉ biết yêu thương và trao ban. Ngoài ra Ngài không là cái gì khác nữa” (Louis Evely)
Trong phòng xử án Toà án nhân dân Thành phố Hồ chí Minh sáng ngày 16-8-1996, ngay ở hàng ghế đầu, suốt những giờ xét xử của Hội đồng xử án, một người đàn bà với đôi mắt ướt đẫm nước mắt, cứ nhìn đăm đăm vào chiếc lưng của bị cáo đang đứng trước vành móng ngựa. Đó là chiếc lưng của đứa con đầu lòng của bà trong chiếc áo tù, và có in ký hiệu “AB”. Cho đến khi công tố viên đọc xong lời buộc tội và đề nghị mức án “hai mươi năm tù vì tội giết người” bà bỗng nấc lên một tiếng rồi ngất xỉu. Bà ngất xỉu có lẽ vì bà chịu đựng không nổi mức án dành cho con bà: 20 năm tù vì cái tội giết người; mà người nó định giết không ai khác hơn là chính bà. Bà là mẹ của bị cáo và cũng chính là người bị hại!
Hơn một năm trước đây, vào ngày 16 tháng 7, 1995, chính nó đã cầm một thanh gỗ tròn dài nửa mét đánh vào đầu bà, rồi cầm một con dao đâm vào ngực bà. Người đầm đìa máu bà ngã xuống ngất xỉu – vì con. Hôm nay bà lại ngã xuống, ngất xỉu… cũng vì con.
Con bà – Lương Quốc Tuấn, sinh năm 1976, ở quận 11, làm thợ cửa sắt. Từ khi lên 5 tuổi, cha của Tuấn đã bỏ mẹ con Tuấn đi sống với người khác. Mẹ của Tuấn lặn lội nuôi hai đứa con thơ lớn lên. Thế mà… Sáng hôm đó, chúa nhật, Tuấn dậy trễ. Tuấn hỏi xin mẹ mấy ngàn ăn hủ tiếu. Mẹ Tuấn không cho, bảo lấy mì ăn liền nấu ăn. Tuấn khai trước toà: “Mẹ nói từ ngày quen con nhỏ đó thân ốm nhom ốm nhách, không tiền không bạc… mẹ không cho tiền còn nói nọ nói kia…” Thế là Tuấn đã làm cái điều mà có lẽ nghe đến, ai cũng phải thấy rợn cả người: đánh, giết mẹ! Với 10 vết thương, chỉ có hai vết ở tay, còn lại toàn ở đầu và ngực nhưng khi từ bệnh viện sau sáu ngày điều trị trở về, bà lại ráng sức để xách đồ ăn vào thăm con đang bị giam trong tù! Sợ con bị đưa ra toà, bà đã viết giấy bãi nại xin xóa tội cho con. Và trước toà, bà cứ khóc nói: “Từ nhỏ đến khi lớn nó ngoan lắm. Nó không uống rượu, không hút thuốc, xin toà giảm tội!” Rồi bà nức nở tỏ ra ray rứt, ân hận, trách mình: “Tôi không nuôi nó ăn học đến nơi đến chốn. Nó phải đi làm sớm, lúc học xong lớp 8.” Hoàn toàn bà không hề nhắc gì đến cái tội tày trời mà đứa con của mình đã mắc phải.
Bên trong phòng xử án, khi bà tỉnh lại, phóng viên Hoàng Chức Nguyên đến xin hỏi chuyện bà, bà lại khóc nói: “Tôi không nói được gì đâu, đau đớn quá.” Khi có các phóng viên đến chụp ảnh con bà đang bị một tay còng vào ghế, bà van nài: “Xin đừng chụp ảnh con tôi…” Khi những người công an còng hai tay con bà giải đi, bà đã lao người với theo, bà ngã trong vòng tay của người quen. Lúc ấy phóng viên lại thấy rất rõ một vết thẹo trên trán bà. Vết thẹo do chính tay con bà cầm một thanh gỗ đập vào để lại… (theo Tuổi Trẻ 17-8-1996, trang 2).
Chắc không ai lại không bị đánh động do câu chuyện vừa kể. Một đàng là khối tình quá lớn nơi người mẹ, đàng khác là điều gì đó hơn là sự vô ơn bạc nghĩa về phía người con, có khi những con vật không xử sự với mẹ chúng cách tàn nhẫn đến như vậy! Nhưng như vậy lại càng làm nổi bật khối tình trước sau như một, vô điều kiện và cho không nơi người mẹ. Thử hỏi do đâu mà người mẹ có được thứ tình yêu cao cả đến như thế? Ta nên để ý về lời cắt nghĩa của sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo về vấn đề này liên quan tới Thiên Chúa Ba Ngôi như sau:
“Khi gọi Thiên Chúa là “Cha”, ngôn ngữ đức tin chủ yếu muốn nêu lên hai khía cạnh: Thiên Chúa là nguồn gốc đầu tiên của mọi sự và là Đấng uy quyền siêu việt, đồng thời là Đấng nhân hậu yêu thương chăm sóc mọi con cái. Nơi Thiên Chúa, tình cha con trìu mến này cũng có thể diễn tả qua tình mẫu tử. Hình ảnh này làm rõ nét hơn tính nội tại của Thiên Chúa, mối thâm tình giữa Thiên Chúa và thụ tạo. Như vậy, ngôn ngữ đức tin được hình thành từ kinh nghiệm về cha mẹ trần thế, những người dưới một khía cạnh nào đó, là đại diện đầu tiên của Thiên Chúa nơi con người. Nhưng kinh nghiệm đó cũng cho thấy là cha mẹ trần thế có thể làm sai lệch và bóp méo hình ảnh làm cha làm mẹ. Cho nên, cần phải nhắc lại là Thiên Chúa vượt trên sự phân biệt phái tính của người phàm. Người không là nam mà cũng không là nữ. Người là Thiên Chúa. Vì Người là nguồn gốc và là chuẩn mực cho chức năng làm cha làm mẹ, nên Người luôn trổi vượt trên cha mẹ trần thế: không ai là cha một cách trọn hảo như Thiên Chúa (GLGHCG,239).
Bạn có tin vui nào để nói với gia đình này?
Nhưng câu chuyện lại cho thấy một hình ảnh của một gia đình bi đát. Chồng đã bỏ vợ và hai con nhỏ, nay đứa con đầu lòng lớn lên dám đâm chém người mẹ đã sinh ra mình, để rồi lãnh 20 năm tù! Nếu Thiên Chúa là nguồn gốc đầu tiên của mọi sự và là Đấng uy quyền siêu việt, đồng thời là Đấng nhân hậu yêu thương chăm sóc mọi con cái, Ngài có kế hoạch nào hữu hiệu để cứu vãn gia đình này chăng? Nếu bạn là người từng tìm hiểu và chia sẻ đời sống Tin Mừng của Đức Kitô, Đấng cứu độ trần gian, chính bạn có tin vui nào để nói với gia đình này, với người mẹ đáng kính, người con ngồi tù, hoặc với người bố đi hoang cần được kêu gọi trở về? Ở đây không bàn về công tác xã hội nhưng chủ yếu bàn về niềm tin, khởi đi từ niềm tin đối với Thiên Chúa Ba Ngôi.
Nhờ lý trí tự nhiên, con người có thể nhận biết Thiên Chúa cách chắc chắn, dựa vào những công trình của Người. Hãy coi người mẹ trong câu chuyện nói trên là công trình kỳ diệu biết bao về yêu thương. Nhưng còn có một loại nhận biết khác, mà con người không thể đạt tới bằng sức lực của chính mình, đó là loại nhận biết nhờ mạc khải của Thiên Chúa.
Đức Giêsu đã mạc khải cho ta biết Thiên Chúa là CHA theo một nghĩa chưa từng có: Người không chỉ là cha vì là Tạo Hoá, từ muôn thuở Người là Cha trong tương quan với Con duy nhất, Ngôi Con từ muôn thuở cũng chỉ là Con trong tương quan với Ngôi Cha: “Không ai biết Người Con trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết Chúa Cha trừ Người Con và kẻ mà Người Con muốn mạc khải cho.” (Mt 11,27) – GLGHCG, 240.
Trước lễ Vượt Qua, Đức Giêsu báo tin sẽ cử một Đấng Bào Chữa khác, đó là Chúa Thánh Thần. Người tác động từ thuở khai thiên lập địa (x. St 1,2). Người đã dùng các ngôn sứ mà phán dạy (Kinh Tin Kính Nixêa Contantinôpôli). Nay Người sẽ ở lại với và trong các môn đệ (x.Ga 14,17) để dạy bảo (Ga 14,26) và dẫn đưa họ đến sự thật trọn vẹn” (Ga 16,13). Chúa Thánh Thần được mạc khải như một Ngôi Vị Thiên Chúa, khác với Đức Giêsu và với Chúa Cha (GLGHCG, 243).
Mọi người trong gia đình phạm nhân Lương Quốc Tuấn trong câu chuyện, đều cần được vén màn cho thấy Thiên Chúa là hạnh phúc trường cửu, sự sống bất diệt, ánh sáng không tàn lụi. Thiên Chúa là tình thương tràn lan giữa Ba Ngôi vị tựa như sức nóng và ánh sáng tràn lan từ mặt trời. Thiên Chúa tự ý muốn thông chia vinh quang sự sống hạnh phúc của Người. Đó là “kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa từ thuở đời đời” (x.Ep 1,9). Người đã cưu mang kế hoạch đó từ trước khi tạo dựng vũ trụ nơi Con yêu dấu của Người là Đức Giêsu Kitô. “Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử trong Con của Người” (Ep 1,4-5). Ta được mời gọi “trở nên đồng hình đồng dạng với Con của Người” (Rm 8,29) nhờ “Thần Trí làm nên nghĩa tử” (Rm 8,15), kế hoạch này đúng là “ân sủng được trao ban từ muôn thuở” (2Tm 1, 9-10) xuất phát trực tiếp từ tình thương Ba Ngôi. Tình thương này được trải ra trong cuộc sáng tạo, trong toàn bộ lịch sử cứu độ sau khi nguyên tổ sa ngã, trong sứ mạng của Chúa Con và Chúa Thánh Thần, Thánh Thần mà sứ mạng Hội Thánh nối tiếp (Sắc lệnh Truyền Giáo AG 2-90).
Chính theo kế hoạch yêu thương của Ba Ngôi mà mọi người trong gia đình phạm nhân Lương Quốc Tuấn, kể cả chính phạm nhân, người bố của phạm nhân và người mẹ đáng mến của anh, đều được mời gọi đạt tới hạnh phúc bất diệt chính họ hằng ao ước. (Lm Augustine, sj. Vietcatholic)
Người ta kể rằng: Thánh Augustin, một hôm đi bách bộ dọc bờ biển Địa Trung Hải, vừa đi vừa suy nghĩ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Bỗng nhiên Thánh nhân gặp một em nhỏ lấy vỏ sò múc nước đổ vào một cái lỗ. Đang còn ngạc nhiên về công việc luống công vô ích này, em bé đã trả lời: việc em múc hết nước biển đổ vào lỗ nhỏ, còn dễ hơn điều mà Thánh nhân suy nghĩ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Rồi em bé biến đi.
Nhớ lại lớp giáo lý xa xưa, ở đó, Chúa Ba Ngôi được ví như một hình tam giác đều, có ba góc bằng nhau. Hay chúng ta cũng được nghe so sánh Chúa Ba Ngôi với nước ở ba thể: khí, lỏng và rắn… Tuy nhiên, tất cả những lối so sánh ấy dường như quá khô khan, vì không phản ánh một cách trung thực và sống động hình ảnh thật sự của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Cách đây vài năm, vào ngày cuối của khoá học về Chúa Ba Ngôi, cha giáo sư hỏi chúng tôi:
– Bây giờ các anh chị đã hiểu mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi chưa?
Gần như cả lớp đồng thanh:
– Thưa cha hiểu.
Cha bật cười:
– Vậy thì các anh chị giỏi hơn tôi rồi!
Dĩ nhiên, con người giới hạn của chúng ta không thể hiểu thấu mầu nhiệm quá siêu vượt này, nhưng để sống, lại là điều hoàn toàn có thể. Mầu nhiệm Ba Ngôi chính là hình ảnh rất thân quen, rất gần gũi nếu nhìn Ba Ngôi dưới khía cạnh tình yêu. Vâng, Ba Ngôi Thiên Chúa chính là một cộng đoàn hiệp nhất yêu thương. Tình yêu ấy đã không giữ lại cho mình, nhưng đổ tràn vào trần gian. Một tình yêu tràn ngập vũ trụ khi Thiên Chúa Cha dựng nên con người theo hình ảnh của Ngài; là tình yêu cứu độ, thứ tha qua cái chết nhục nhằn của Chúa Con chí thánh; là tình yêu thánh hóa, đổi mới trong Thánh Thần. Thánh Gioan đã định nghĩa: Thiên Chúa là tình yêu. Một tình yêu chan hòa, chia sẻ giữa Ba Ngôi: Cha trao cho Con tất cả, Con dâng tất cả cho Cha, tình yêu khắng khít giữa Cha-Con là Thánh Thần. Tình yêu chân thực là tình yêu hiến trao, không phải chỉ là trao quà tặng hay cái gì đó ở bên ngoài mình, nhưng là trao đi điều quý nhất: “Thiên Chúa yêu thế gian, đến nỗi tặng ban cả Con Một…”
Thiết nghĩ không có hình ảnh nào diễn tả đẹp hơn mầu nhiệm Ba Ngôi cho bằng hình ảnh một gia đình: vợ chồng yêu thương nhau và con cái là kết tinh của tình yêu.” Mình với ta tuy hai mà một… Ta thương nhau quá nên hai hóa ra thành một”. Dù là hai, bốn, mười hoặc nhiều hơn đi nữa, nhưng gia đình, cộng đoàn chúng ta sẽ thực sự phản ánh sự hiện diện của Thiên Chúa Ba Ngôi, nếu chúng ta chỉ có một trái tim để yêu thương, một niềm vui để chia sẻ, một nỗi buồn để cảm thông nâng đỡ, một khát vọng nên thánh… Tiếc rằng ngày nay, nhiều gia đình, cộng đoàn đã không còn là tổ ấm, nhưng biến thành nhà trọ: khách đến rồi khách lại đi, chẳng cần biết những người thân yêu của mình đang nghĩ gì, làm gì, cần gì và sống như thế nào! Đời sống gia đình nặng nề, khó thở và tẻ nhạt, bởi vì nơi ấy đã không còn tình yêu nữa.
Chợt nhớ lại câu chuyện khá ngộ nghĩnh xảy ra tại một cộng đoàn các sư huynh ở Việt Nam. Cộng đoàn gồm ba vị, người Việt mình thường quen gọi là các “phe” (frère). Lần kia, một nhân viên của sở bưu điện đem thư đến, vừa giao thư vừa lẩm bẩm: “Nhà có ba người thì ba phe, sống chó gì được!” (chỉ là vì trên bì thư, người gởi viết: Kính gởi phe M., phe H., phe B.). Thật là một sự hiểu lầm tai hại!
Chúng ta sẽ mãi còn xa lạ với mầu nhiệm Ba Ngôi, nếu chúng ta còn xa lạ với tình yêu được bắt đầu ngay trong gia đình, cộng đoàn. Gia đình, cộng đoàn chúng ta hãy trở thành một bản nhạc du dương hòa điệu, trong đó mỗi người là một nốt nhạc đã được Thiên Chúa đặt để. Xin đừng tự ý thăng giáng, cũng đừng thay đổi vị trí, vai trò của mình. Hãy sống đúng bổn phận Chúa trao, và như thế, mọi việc chúng ta làm đều bắt nguồn và quy hướng về tình yêu, tình yêu của mầu nhiệm Ba Ngôi mà mỗi ngày chúng ta lặp lại nhiều lần khi làm dấu thánh giá: Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.(Sr Têrêsa, trích từ Vietcatholic)
Một vị vua kia đến cuối cuộc đời cảm thấy buồn chán. Ông nói: “Suốt đời ta, ta đã cảm thụ được tất cả những gì mà một con người có thể cảm thụ được bằng các giác quan. Nhưng vẫn còn một điều ta chưa được thấy, đó là ta chưa thấy Chúa. Bây giờ nếu ta chỉ được nhìn thấy Chúa một thoáng thôi thì ta cũng sẽ mãn nguyện mà chết”. Nhà vua tham khảo ý kiến những bậc khôn ngoan, hứa cho họ đủ thứ phần thưởng nếu họ giúp ông thực hiện điều mơ ước ấy. Nhưng chẳng ai giúp được.
Thế rồi có một chàng chăn cừu nghe chuyện trên và tìm đến gặp nhà vua. Chàng nói: “Có lẽ hạ thần có thể giúp Bệ Hạ được”. Nhà vua rất sung sướng theo người chăn cừu leo lên nhiều ngọn đồi. Khi đến đỉnh một ngọn đồi nọ, người chăn cừu đưa tay chỉ mặt trời và bảo: “Hãy xem kìa”. Nhà vua ngước mắt nhìn lên nhưng liền nhắm lại ngay vì chói quá. Ông bảo: “Nhà ngươi muốn cho ta mù sao!” Người chăn cừu đáp: “Tâu Bệ Hạ, đây chỉ mới là một phần nhỏ của vinh quang Thiên Chúa mà Bệ Hạ còn nhìn không nổi. Thế thì làm sao Bệ Hạ có thể nhìn được Thiên Chúa bằng cặp mắt bất toàn của Bệ Hạ? Bệ Hạ phải tìm cách nhìn Ngài bằng cặp mắt khác”.
Nhà vua rất thích ý tưởng ấy, nói: “Ta cám ơn ngươi đã mở cắp mắt trí khôn của ta. Bây giờ hãy trả lời cho câu hỏi khác của Ta: Thiên Chúa sống ở đâu?” Người chăn cừu lại đưa tay chỉ lên trời: “Bệ Hạ hãy nhìn những con chim đang bay kia. Chúng sống trong bầu không khí bao quanh. Chúng ta cũng thế, chúng ta sống trong sự bảo bọc của Thiên Chúa. Xin Bệ Hạ đừng tìm kiếm nữa, mà hãy mở rộng mắt ra để nhìn, mở tai ra để nghe. Thế nào Bệ Hạ cũng thấy được Ngài. Thiên đàng ở ngay dưới chân chúng ta cũng như ở ngay trên đầu chúng ta”.
Nhà vua dừng bước, cố gắng nhìn, cố gắng lắng nghe. Thế là một cảm giác bình an lộ rõ trên khuôn mặt buồn thảm của ông. Người chăn cừu nói tiếp: “Tâu Bệ Hạ, còn một điều nữa”. Rồi chàng dẫn nhà vua đến một cái giếng. Nhà vua nhìn xuống mặt nước bằng phẳng, hỏi: “Ai sống dưới đó thế?” Người chăn cừu đáp: “Thiên Chúa”. “Ta có thể nhìn thấy Ngài không?” “Được chứ, Bệ Hạ chỉ cần nhìn”. Nhà vua chăm chú nhìn xuống giếng, nhưng chỉ thấy gương mặt của mình phản chiếu trên mặt nước. Ông nói: “Ta chỉ thấy mặt Ta thôi”. Người chăn cừu giải thích: “Bây giờ thì Bệ Hạ đã biết Thiên Chúa sống ở đâu rồi. Ngài sống trong Bệ Hạ đó”.
Nhà vua nhận ra rằng người chăn cừu khôn ngoan và giàu có hơn ông. Ông cám ơn chàng và trở về hoàng cung. Chẳng ai biết ông có nhìn thấy Thiên Chúa không, nhưng ai cũng nói rằng có một điều gì đó đã biến đổi trái tim ông, bởi vì từ đó trở đi ông đối xử rất nhân hậu với mọi người, kể cả người đầy tớ hèn hạ nhất của ông.
Thiên Chúa ở khắp chung quanh chúng ta. Nhưng chừng nào chúng ta chưa khám phá Ngài ở ngay trong lòng chúng ta thì Ngài như vẫn còn ở xa, vẫn như một người lạ thờ ơ vô tình. Còn khi chúng ta cảm nhận Ngài ở trong chúng ta thì không bao giờ chúng ta còn cảm thấy cô đơn nữa, và khi đó chúng ta sẽ nhìn thấy thiên nhiên là một công trình của một Đấng Nghệ Sĩ thân thiết của chúng ta.
Thiên Chúa Ba Ngôi vừa ở trong chúng ta vừa siêu vượt chúng ta. Đúng là một mầu nhiệm, nhưng là một mầu nhiệm tình yêu. (FM)
Người Châu Phi có một câu chuyện sau đây về Thiên Chúa:
Một hôm Thiên Chúa đi thăm châu lục rộng lớn này và Ngài thấy có một bộ lạc bị mất đức tin. Thế là Ngài hiện ra giữa một mảnh ruộng đang có 4 người làm việc, mỗi người một góc. 4 người này thấy Chúa hiện ra giữa mảnh ruộng. Họ chăm chú nhìn Ngài rồi phục mình thờ lạy.
Sau đó Thiên Chúa biến hình rồi xem sự việc sau dó diễn tiến thế nào. 4 người kia chạy vào làng và nói rằng: đúng là có Thiên Chúa vì họ đã thấy Ngài hiện ra. Từ này về sau chúng ta đừng sống vô thần nữa mà phải lo thờ phượng Chúa. Mọi người nghe đều tin là Thiên Chúa đã hiện ra thật. Nhưng một người hỏi: “Thế thì Thiên Chúa mặc áo màu gì?”
– Ngài mặc áo đỏ. Người thứ nhất trả lời.
– Không, Ngài mặc áo xanh. Người thứ hai cãi lại.
– Hai đứa bây sai cả. Ngài mặc áo màu lục. Người thứ ba nói thế.
– Tất cả đều điên hết rồi. Người thứ tư la to. Ngài mặc áo vàng.
Thế là mọi người cãi nhau chí choé, rồi ấu đả nhau. Cuối cùng bộ lạc chia thành 4 phe.
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy mọi người dân bộ lạc ấy đều sai lầm. Thực ra mỗi người chỉ thấy một thoáng về Thiên Chúa. Lẽ ra mỗi người phải biết rằng mình chỉ thấy được một phần thì họ cho rằng họ thấy toàn vẹn. Nếu như họ biết lấy cái nhìn của người khác để bổ sung cho cái nhìn của mình thì họ sẽ có một hình ảnh đầy đủ và phong phú hơn về Thiên Chúa.
Thiên Chúa lớn hơn tất cả chúng ta. Chúng ta không bao giờ hiểu biết trọn vẹn về Ngài. Để hiểu biết những sự dưới thế chúng ta còn phải cố gắng rất nhiều, thế thì làm sao chúng ta nắm bắt được những sự trên trời. Chỉ có ơn ban khôn ngoan mới giúp chúng ta hiểu được đường lối của Thiên Chúa. Con người có thể biết những chân lý đức tin, nhưng không thể hiểu biết chính Thiên Chúa.
Cần phải có một hình ảnh đúng đắn về Thiên Chúa, nếu không thì mọi sự sẽ lạc hướng cả. Làm sao chúng ta có thể thờ phượng Ngài cho phải đạo hoặc có một liên hệ đúng đắn với Ngài nếu chúng ta có một hình ảnh sai lạc về Ngài?
Muốn biết Thiên Chúa là thế nào, chúng ta hãy nhìn vào Chúa Giêsu, vì, như Thánh Phaolô nói, “Ngài là hình ảnh Thiên Chúa vô hình”. Vậy, Chúa Giêsu ra sao? Trong mọi hình ảnh Chúa Giêsu, hình ảnh đẹp nhất là Mục Tử nhân lành. Chính Chúa Giêsu đã mô tả mình bằng hình ảnh này. Chúa Giêsu là Mục tử nhân lành, hiến mạng sống mình cho đàn chiên. Trong hình ảnh Chúa Giêsu, chúng ta thấy được tình thương Thiên Chúa dành cho chúng ta.
Còn Chúa Thánh Thần thì thế nào? Chúa Thánh Thần chính là tình thương giữa Chúa Cha với Chúa Con, và giữa các Đấng với chúng ta.
Mầu nhiệm Ba Ngôi không phải là vấn đề để tranh luận, cũng không phải là vấn đề để học biết, mà là để cầu nguyện và để sống. Kitô hữu sống trong thế giới của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Thế giới này không phải là một thế giới ở đâu xa xôi, mà chính là thế giới mà ta sống hằng ngày. Như câu chuyện của Châu Phi vừa kể phía trên, thế giới ấy là thế giới mà Thiên Chúa tỏ mình ra cho chúng ta. (FM)
Chủ tế: Anh chị em thân mến, chúng ta cùng dâng lên Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh thần lời khẩn cầu cho Hội thánh là Mẹ chúng ta và cho toàn thể thế giới:
Chủ tế: Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi toàn năng hằng hữu, xin nhậm lời chúng con cầu nguyện và ban cho chúng con luôn cố gắng sống xứng đáng với tình thương hải hà của Chúa. Chúng con cầu xin
– Chủ tế chú ý nhấn mạnh tất cả những đoạn kết của các lời cầu nguyện có công thức Ba Ngôi.
– Trước kinh Lạy Cha: Lời kinh Lạy Cha sau đây, chúng ta hãy cố gắng đọc lên với cả tâm tình con thảo như Chúa Giêsu và do Chúa Thánh Thần khơi lên trong lòng chúng ta.
VII. Giải tán
Chúng ta đã dâng Thánh lễ tôn kính Thiên Chúa Ba Ngôi đầy tình yêu thương. “Xin chúc anh chị em được đầy ân sủng của Chúa Giêsu Kitô, đầy tình thương của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần”.
(Suy niệm và Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Mặc khải “Một Chúa Ba Ngôi” không thuộc về Cựu Ước. Cựu Ước quan tâm đặc biệt đến việc gìn giữ sự tinh tuyền Một Chúa vốn không ngừng bị đe dọa bởi ảnh hưởng của các tôn giáo đa thần chung quanh. Tuy vậy, Cựu Ước để cho thoáng thấy vài linh cảm về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, nhất là trong các sách Cựu Ước muộn thời: tầm quan trọng được ban cho Chúa Thánh Thần, kiểu nhân cách hóa tiệm tiến của Lời, đoạn của Đức Khôn Ngoan thần linh.
Chính Ngôi Lời làm người đã mặc khải Chúa Cha và Thánh Thần, và sự hiệp nhất của hai Ngôi Vị này với Chúa Con trong một sự hiệp thông tròn đầy tình yêu, một sự tuôn tràn liên tục, một trao đổi thường hằng, vì bản chất Thiên Chúa vốn là tận hiến cho nhau. Chính nhờ sự tận hiến này: tình yêu hiến tế của Chúa Con và sự sai phái của Chúa Thánh Thần, mà con người được dự phần vào đời sống Ba Ngôi Thiên Chúa. Như vậy mặc khải Một Chúa Ba Ngôi là một dữ kiện đặc trưng của Ki-tô Giáo biệt phân với các tôn giáo độc thần khác như Do Thái Giáo và Hồi Giáo.
Cn 8: 23-31
Trong bản văn của sách Châm Ngôn, Đức Khôn Ngoan nói về sự hiện diện của Ngài bên cạnh Chúa Cha ngay từ trước và suốt công trình sáng tạo. Đây là một trực giác về một cuộc sống trao đổi ở giữa lòng của chính Thiên Chúa.
Rm 5: 1-5
Trong thư gởi cho các tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô phác họa việc Ba Ngôi Thiên Chúa tham dự vào công trình cứu độ loài người, dưới ba viễn cảnh: đức tin, đức cậy và đức mến.
Ga 16: 12-15
Tin Mừng được trích từ Diễn Từ Cáo Biệt của Đức Giê-su theo thánh Gioan. Chúa Giê-su hứa với các môn đệ Ngài rằng Thần Khí Sự Thật sẽ được sai đến để dẫn dắt các ông tới sự thật toàn vẹn về Ngài và Cha Ngài.
BÀI ĐỌC I (Cn 8: 22-31)
Sách Châm Ngôn cùng với sách Gióp, sách Giảng Viên, sách Khôn Ngoan và sách Huấn Ca hình thành nên bộ sách minh triết Cựu Ước. Sách này được sáng tác như một bức tranh khảm được đính với những câu châm ngôn thuộc niên biểu và nguồn gốc khác nhau. Sách được đặt dưới sự bảo hộ của vua Sa-lô-mon (“Những Châm Ngôn của vua Sa-lô-mon”), một vị vua nổi tiếng là khôn ngoan và được truyền tụng là ngâm tới ba ngàn câu thơ (1V 5: 12).
Chương 8 và chương 9 của sách Châm Ngôn hình thành nên một phân đoạn được dâng hiến cho Đức Khôn Ngoan thần linh. Đức Khôn Ngoan này được nhân cách hóa lần đầu tiên và sẽ được lấy lại bởi hai tác giả thuộc trào lưu minh triết sau này, đặc biệt bởi hiền nhân Si-rác (thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên) và tác giả sách Khôn Ngoan (thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên). Kiểu nhân cách hóa này thật ra vẫn mang tính chất thi ca và văn chương, nhưng mở ra những viễn cảnh về những mối liên hệ giữa Thiên Chúa và Đức Khôn Ngoan của Ngài và vén mở một sự linh cảm về một cuộc sống nội tại ở nơi Thiên Chúa, chuẩn bị xa cho mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi Vị.
“Chúa đã dựng nên tôi như tác phẩm đầu tay, trước những công trình của Người, thời xa xưa nhất”. Như vậy, Đức Khôn Ngoan có nguồn gốc từ thuở xa xưa nhất. Tác giả thích nhấn mạnh Đức Khôn Ngoan có trước mọi công trình sáng tạo và hiện diện trong khi công cuộc tạo dựng đang diễn tiến. Dường như tác giả gợi ra rằng chính nhờ sự hiện diện của Đức Khôn Ngoan mà vũ trụ xuất đầu lộ diện từ sự hỗn mang, được tổ chức, được phân định ranh giới và được đặt nền móng vững chắc. Đức Khôn Ngoan có mặt ở đó, bên cạnh Thiên Chúa, như một “tay thợ cả”.
Đức Khôn Ngoan gặp thấy niềm vui thú của mình là ở bên cạnh Thiên Chúa và vui mừng về công trình sáng tạo; nhưng Ngài cũng vui chơi trên mặt đất và vui thích ở giữa phàm nhân.
Ở đây, thi ca xem ra lấn át tư tưởng thần học. Hài Nhi Thần Linh thật đáng yêu và vui tươi, Ngài muốn rời bỏ cuộc sống thân cận với Thiên Chúa để vui chơi giữa loài người. Tuy nhiên, sức quyến rũ của bức tranh vẫn là mang tính gợi ý: một Đấng từ Thiên Chúa mà đến, rất thân thiết với Thiên Chúa và vui thích được ở với loài người… Đó không phải là một linh cảm xa về Mầu Nhiệm Nhập Thể sao?
Chúng ta ở tận nguồn mạch Thần Học về Ba Ngôi Thiên Chúa. Những đường nét của Đức Khôn Ngoan chủ yếu được áp dụng cho Ngôi Hai, Ngôi Lời, vừa là lời vừa là khôn ngoan của Thiên Chúa. Thánh Gioan đã viết trong Tựa Ngôn như vậy: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa… Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành”.
Trong thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-lô-xê, bài thánh thi ca ngợi Đức Ki-tô, thủ lãnh hoàn vũ, được gợi hứng trực tiếp bởi những câu đầu tiên của sách Châm Ngôn: “Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo, vì trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc quyền năng thượng giới, tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Người và cho Người. Người có trước muôn loài muôn vật, tất cả đều tồn tại trong Người” (Cl 1: 15-17).
BÀI ĐỌC II (Rm 5: 1-5)
Chủ đề căn bản của thư gởi tín hữu Rô-ma là ơn cứu độ mà Đức Ki-tô đem đến cho loài người, ơn cứu độ này không là phần thưởng nhưng là ân sủng.
Đoạn văn chúng ta đọc hôm nay được trích từ chương 5, chương cấu thành bản lề giữa phần thứ nhất và phần thứ hai của bức thư. Phần thứ nhất xoay quanh đức tin, đối lập với Lề Luật, phần thứ hai nhắm đến cuộc sống Ki-tô hữu được ân sủng làm sinh động, dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Phần dẫn nhập (5: 1-5) trình bày một tổng đề nhỏ về công việc của Ba Ngôi Thiên Chúa, trong những viễn cảnh đức tin, đức cậy và đức mến.
“Chúng ta được nên công chính nhờ đức tin”. Câu mở đầu này thiết lập mối liên hệ với phần thứ nhất và tóm tắt phần thứ nhất này. Chính nhờ đức tin mà Thiên Chúa cho chúng ta được dự phần vào sự công chính của Người, nghĩa là cho chúng ta được nên thánh, chứ không nhờ công trạng của mình để mà chúng ta đừng tự cao tự đại. Nhờ đó, Người đem đến cho chúng ta sự bình an. Thánh Phao-lô luôn luôn bắt nguồn từ Chúa Cha, căn nguyên của ơn cứu độ.
Chính Chúa Con đã thay thế kỷ nguyên của Lề Luật bằng thời kỳ ân sủng và đã mở ra nguồn hy vọng: “Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Mô-sê, còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giê-su Ki-tô mà có” (Ga 1: 17). Vì thế, từ nay “chúng ta tự hào vì được trông đợi hưởng vinh quang với Thiên Chúa”. Ở đây, thánh Phao-lô dùng từ “tự hào” theo nghĩa “hãnh diện”, chứ không còn theo nghĩa “tự mãn” như trước đó.
Người Ki-tô hữu phải nuôi dưỡng niềm hy vọng lớn lao này, thậm chí càng phải kiên cường hơn nữa khi gặp gian truân. Chúng ta nhận ra biện chứng mạnh-yếu, rất tâm đắc với thánh nhân: ai càng yếu hèn, Thiên Chúa càng bày tỏ quyền năng của Người ở nơi người ấy. Từ ngữ “gian truân” thường nhất chỉ những phiền nhiễu mà người công chính phải chịu đựng vì niềm tin của mình. Tuy nhiên ở đây, từ ngữ này xem ra có nghĩa rộng hơn, những gian nan thử thách thời hiện tại, những gian truân này rèn luyện đức trung kiên và như vậy trắc nghiệm giá trị đức tin của chúng ta. Vì đức tin của chúng ta là nguồn hy vọng không hề mai một. Thư thánh Gia-cô-bê cũng diễn tả theo cùng một ý nghĩa: “Thưa anh em, anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn” (Gc 1: 2-3). Trước đó, thánh Phao-lô đã viết cho các tín hữu Cô-rin-tô: “Thật vậy, một chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng ta cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời” (2Cr 4: 17).
Bảo chứng cho niềm hy vọng của chúng ta là tác động của Chúa Thánh Thần “Đấng tuôn tràn tình yêu Thiên Chúa vào lòng chúng ta”. Bản văn này là lời khẳng định rõ nét nhất trong toàn bộ Tân Ước về mối liên hệ giữa tình yêu và Thánh Thần. Đây cốt là tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta. Vào lúc chúng ta lãnh nhận phép Rửa, tình yêu này tháp nhập chúng ta vào đời sống Thiên Chúa Ba Ngôi. Trong cuộc sống của người Ki-tô hữu, Thánh Thần tuôn đổ tình yêu Thiên Chúa vào lòng chúng ta. Động từ Hy-lạp được sử dụng ở đây gợi lên sự tràn bờ, như nước tuôn trào đến mức vật chứa không thể chứa hết được. Trong Kinh Thánh, hình ảnh “nước” là một trong những biểu tượng về Thánh Thần. Khi loan báo ân ban Thánh Thần cho người phụ nữ Sa-ma-ri, Đức Giê-su sánh ví với “một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (Ga 4: 14).
TIN MỪNG (Ga 16: 12-15)
Những lời tâm sự của Đức Giê-su dành cho những bạn hữu chí thiết của Ngài trong Diễn Từ Cáo Biệt cung cấp những ánh sáng rõ ràng nhất mà chúng ta có được về đời sống của Ba Ngôi Thiên Chúa, thậm chí ở giữa lòng mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Chắc chắn, những tác giả Cựu Ước đã có vài linh cảm về đời sống quan hệ của Thiên Chúa; tiếp đó, kinh nghiệm của Giáo Hội cho phép hiểu biết hơn chức năng của Ngôi Ba mầu nhiệm.
Chỉ một mình Đức Giê-su mới có thể vén mở đời sống thâm sâu của Thiên Chúa. Với các môn đệ, Ngài đã mặc khải Chúa Cha và Ngài đã không ngừng định vị chân tính của chính Ngài trong mối quan hệ với Chúa Cha. Ngoài ra, Đức Giê-su đã không thể mặc khải Chúa Cha mà đồng thời không mặc khải Chúa Thánh Thần, Đấng được liên kết cả với Chúa Cha lẫn Chúa Con, trong một tình yêu tận hiến cho nhau giữa Ba Ngôi Vị.
Tin Mừng Gioan trao gởi cho chúng ta một cách phong phú nhất những lời tâm sự này của Đức Giê-su, đặc biệt trong Diễn Từ Cáo Biệt. Bản văn chúng ta đọc hôm nay được trích từ diễn từ này.
“Thầy có nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ anh em không có sức chịu nổi”. Các Tông Đồ đang trong tâm trạng buồn phiền và xao xuyến. Đức Giê-su đã loan báo cho họ cái chết sắp đến của Ngài, nhưng họ không thể lường được chiều kích rộng lớn của tấn thảm kịch sắp giáng xuống trên Thầy mình và làm cho chính họ xáo động sâu xa. Đức Giê-su biết sự yếu đuối của họ, những khó khăn mà họ gặp phải để hiểu mầu nhiệm về con người và vận mệnh đau khổ của Ngài. Ngài giữ thinh lặng về những viễn cảnh này hiện nay quá sức chịu đựng của các ông. Trước đó, Ngài đã hứa với các ông một Đấng Bảo Trợ: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thánh Thần sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận” (Ga 14: 16-17); bây giờ Ngài lập lại cho họ lời hứa này.
“Khi nào Thần Khí Sự Thật đến, Ngài sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn diện”. Thánh Thần sẽ giúp các Tông Đồ hiểu biết sâu xa giáo huấn mà họ đã nhận được, sẽ giúp họ khám phá những khía cạnh của giáo huấn mà vào lúc này họ vẫn chưa có thể hiểu được. Sẽ không có mặc khải mới, nhưng Mặc Khải của Chúa Giê-su được đào sâu, được minh giải, nhờ Chúa Thánh Thần, ánh sáng nội tâm ở với họ.
“Ngài sẽ loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến”, tức là những thành quả của cuộc Thương Khó và Tử Nạn mà Đức Giê-su sắp phải chịu, cũng như sự Phục Sinh của Ngài. Thuở xưa, Thánh Thần đã nói qua các ngôn sứ, bây giờ chính Giáo Hội sẽ bảo quản những lời hứa cứu độ, phân phát những ân phúc Cứu Độ mà Giáo Hội sẽ phải loan truyền và phát triển cho đến tận thế.
“Người sẽ tôn vinh Thầy”. Thánh Thần sẽ làm cho sự thật của Đức Giê-su được sáng tỏ, sẽ phục hồi danh dự của Đấng Công Chính bị kết án cách bất công, sẽ làm cho nhận biết vinh quang mà Chúa Con đã nhận được bên cạnh Chúa Cha.
“Người không tự mình nói điều gì… Người sẽ lấy những gì của Thầy… Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy…”. Những ngôn từ này để cho thoáng thấy những mối liên hệ vừa hiệp nhất vừa khác biệt giữa Ba Ngôi Thiên Chúa.
Đoạn Tin Mừng Gioan này là một trong những đoạn văn mà việc soạn thảo thần học Ba Ngôi dựa vào. Đối mặt với các lạc giáo, Giáo Hội buộc phải xác định, phát biểu và định nghĩa niềm tin của mình vào Thiên Chúa Ba Ngôi được cô động trong Kinh Tin Kính. Chúng ta biết rằng suốt nhiều thế kỷ, những cuộc tranh cãi nổ ra giữa Tây Phương và Đông Phương về vấn đề là phải chăng Thánh Thần nhiệm xuất “duy nhất từ Chúa Cha”, hay “từ Chúa Cha qua Chúa Con”, hay “cả từ Chúa Cha lẫn từ Chúa Con”. Đây là cuộc tranh cãi nổi tiếng về “filioque”. Các Giáo Hội Đông Phương từ chối biểu thức “và từ Chúa Con” vì sợ rằng việc quy chiếu đến cả Chúa Cha lẫn Chúa Con khiến cho nghĩ rằng có hai căn nguyên trong mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa. Qua biểu thức này, Giáo Hội Tây Phương muốn diễn tả rằng không thể có được sự đổ tràn ân ban Thánh Thần nếu không có sự trung gian của Chúa Con.
Ngôn ngữ phàm nhân chỉ là một cách thức tiếp cận mầu nhiệm. Dù thế nào, Đông Phương cũng như Tây Phương đều không nghĩ đến việc đặt sự hơn kém giữa Ba Ngôi Thiên Chúa: sự duy nhất của Ba Ngôi thì hoàn toàn, và sự ngang bằng của Ba Ngôi thì tuyệt đối.
Cùng với Giáo Hội, hôm nay chúng ta hân hoan mừng lễ Chúa Ba Ngôi, là lễ trọng nhất và cao cả nhất trong đạo chúng ta. Thiên Chúa mà chúng ta tin kính thật kỳ diệu. Trong Người có Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Ba ngôi hợp nhất và làm thành một. Chúng ta sẽ không thể hiểu thấu được Thiên Chúa bằng trí khôn của con người. Sự khẳng định về Thiên Chúa Ba Ngôi là một huyền diệu và là một món quà mầu nhiệm của Thiên Chúa mà ta chỉ có thể đón nhận bằng đức tin và với một trái tim đơn sơ của con thơ.
Chúng ta tin vào Mầu nhiệm Ba Ngôi bởi vì Thiên Chúa đã nói với chúng ta. Ngài đã vén mở cho chúng ta qua trung gian của Chúa Giêsu- Con Ngài. Người đã đến nhà chúng ta, ở cùng chúng ta và giảng dạy cho chúng ta.
Chính Chúa Giêsu đã nói cho ta biết mối tương quan tình yêu giữa Ba Ngôi Thiên Chúa. Không có Đấng nào giữ gì cho riêng mình, nhưng tất cả đều được chia sẻ, hiệp thông, cho đi và đón nhận…Và tất cả được hợp nhất nên một ” Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại…Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em.”(Ga 16, 13-14) Những mạc khải của Chúa Thánh Thần cũng luôn đồng nhất với những gì Chúa Giêsu đã loan báo. Bởi vì Chúa Con và Thánh Thần đều phát xuất từ Chúa Cha và qui hướng về Chúa Cha “Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy… Thánh Thần lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em.”( Ga 16, 15)
Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi không phải là bài toán khó hiểu và tối tăm mà chúng ta không biết phải nghĩ gì, nhưng là một thực tại phong phú, rất sâu thẳm và rất sáng láng làm chúng ta thán phục. Muốn cảm nhận được cách sống động Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta phải trở về với nội tâm của mình, đón nhận trong đức tin và tình yêu. Chúng ta cần đặt hết lòng tin tưởng vào Lời Chúa và sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần.
Hạnh phúc cho chúng ta khi tin rằng Thiên Chúa là Cha của chúng ta, Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ và là Bạn của ta, Chúa Thánh Thần không ngừng thổi tình yêu và lòng thương xót của Chúa Cha và Chúa Con vào trong cuộc sống của chúng ta. Vâng, chúng ta thật hạnh phúc.
Cảm nhận mình thật hạnh phúc vì được dựng nên trong tình yêu và bằng tình yêu của Thiên Chúa bởi Người là Tình Yêu. Thiên Chúa làm ra chúng ta bằng chính bàn tay Người, được là tạo vật giống hình ảnh Người và vì thế, ta sẽ mãi ở trong tình yêu của Người khi Người khẳng định “Ta đã yêu con bằng mối tình muôn thuở.”(Gr 31,3) Thiên Chúa yêu chúng ta vì ta phát xuất từ con tim và từ tình yêu của Người, nên Thánh Gioan đã nói:”Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước.”(1Ga 4, 19b)
Chúng ta còn hạnh phúc hơn nữa vì trong kế hoạch tình yêu kỳ diệu, Chúa Cha đã ban Ngôi Hai cho chúng ta. Vì yêu chúng ta cách tột cùng nên Chúa Giêsu nhập thể làm người để cứu độ chúng ta. Nhờ Người, chúng ta được trở nên con Thiên Chúa “Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô.”(Ep 1, 5) Chính Chúa Giêsu đã nâng chúng ta lên và đưa chúng ta vào mối tình Cha con với Thiên Chúa. Chúng ta được Thiên Chúa nhận làm nghĩa tử ngay từ lúc ta lãnh nhận Phép Thanh Tẩy, nhờ muôn vàn ân sủng của Chúa Thánh Thần.
Tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa luôn theo ta suốt mọi ngày trong đời sống. Bởi vì ta là con, nên Cha yêu thương và chăm sóc chúng ta nhất là những đứa con yếu đuối bệnh tật. Chúng ta không thể sống trên trần gian này nếu không có ơn Thiên Chúa trợ giúp. Hết mọi ơn ta lãnh nhận đều đến từ tình yêu sống động của Người, như lời Thánh Giacôbê nhắn nhủ “Mọi ơn lành và mọi phúc lộc hoàn hảo đều do từ trên, đều tuôn xuống từ Cha là Đấng dựng nên muôn tinh tú.”( Gc 1,17) Vì thế ta vô cùng biết ơn Ba Ngôi Thiên Chúa, vì Chúa Cha ban mọi ơn lành cho ta qua Chúa Con là Đấng trung gian và trong Chúa Thánh Thần mà mọi Bí Tích chúng ta cử hành luôn được Người thánh hóa và chứng nhận.
Thiên Chúa là Tình yêu. Tình yêu luôn trào tràn trong Ba Ngôi và vì thế, Người thông ban nguồn tình yêu của Người cho chúng ta. Ba Ngôi Thiên Chúa luôn lo lắng cho chúng ta như người cha không bao giờ mệt mỏi. Người không chỉ quan phòng và bao bọc chúng ta nơi trần thế, nhưng Người còn chuẩn bị một gia tài ở trên trời dành cho tất cả những ai tin vào Người. (x. 1Pr 1, 3-5) Thiên Chúa dựng nên ta để đưa ta về trời với Người và hưởng vinh quang của Người. Chúng ta khởi đầu hành trình nơi trần gian bằng đức tin và ân sủng dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, nhưng rồi một ngày ta sẽ bước tới thiên đàng với tình yêu. Thiên Chúa sẽ đưa ta vào trong Người và khi ấy ta sẽ hiểu biết Người hơn.
Trong tâm tình mừng lễ, chúng ta cầu xin:”Nguyện xin ân sủng Chúa Giêsu Kitô, Tình yêu của Chúa Cha và Ơn Thông Hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng chúng ta.”( x. 2Cr 13,13) Đồng thời chúng ta xin Chúa Thánh Thần giúp ta biết sống, biểu lộ và làm vinh danh Chúa Ba Ngôi trong cuộc sống của ta. Mỗi khi làm Dấu Thánh Giá, ta tuyên xưng: Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần trên thân xác ta là đền thờ của Chúa Thánh Thần, ta cũng biết ý thức để sống xứng đáng ơn gọi là con Thiên Chúa và là chứng nhân cho Chúa giữa lòng đời bằng cuộc sống hiệp nhất với Chúa và với nhau; bằng đời sống yêu thương và chia sẻ như mẫu gương của Chúa Ba Ngôi. Và ước gì chúng ta biết nhân danh Chúa trong mọi tư tưởng, lời nói, hành động của ta và sống sâu xa nền tảng đức tin vào Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng con chúc tụng, tôn vinh và cảm tạ Chúa muôn đời: Sáng danh Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần, như đã có trước vô cùng và bây giờ và hằng có và đời đời chẳng cùng. Amen.
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Thánh Gioan ghi nhận: Đức Giêsu trong diễn từ ly biệt đã khảng định: Người muốn nói với các môn đệ nhiều điều, và toàn là những nội dung tối quan trọng, có điều các ông hoàn toàn chưa sẵn sàng đón nghe: “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ anh em chưa có sức chịu nổi.” Tôi vẫn hay thắc mắc: điều gì mà có tầm quan trọng vượt bậc đến thế, để mà Đức Kitô gọi nó là: ‘sự thật toàn vẹn’?
Giáo hội chọn bản văn Gio-an chương 16 cho lễ Chúa Ba Ngôi năm C quả là có ý nghĩa, chính vì đoạn Tin Mừng này hé mở cho thấy nội dung đích thực của cái thực tế vẫn thường được mệnh danh là mầu nhiệm ‘Chúa Ba Ngôi’. Điều này, tôi thiết nghĩ: các môn đệ cũng như các tín hữu tiên khởi chắc chắn đã nắm bắt rất rõ, trước cả khi nó được diễn đạt bằng công thức ‘Một Chúa Ba Ngôi – Sancta Trinitas ’.
Sự thật toàn vẹn Người đề cập tới trước hết bắt đầu bằng chính con người Đức Kitô Giêsu: “Người sẽ lấy những gì là của Thầy mà loan báo cho anh em”. Đức Giêsu đã lặp lại câu nói trên tới hai lần, điều này cho thấy: chỉ khi nào ta khởi đi từ Giêsu, ta mới có thể hiểu biết cách chính xác, Thiên Chúa thật sự là ai.
Trước mắt các môn đệ là: một ông Giêsu xuất thân từ làng quê Na-da-rét; ông là một bậc thầy đang rao giảng một học thuyết rất kì lạ; còn hơn thế nữa, ông đã có một đời sống và một cái chết không ai hiểu nổi. Ông khảng định rằng: đó là cuộc sống và cái chết trọn vẹn hiến dâng và trao ban, không chỉ cho người tốt mà cả cho kẻ xấu. Nhưng nếu chỉ là cá nhân ông như thế thì dầu có anh hùng và đáng khâm phục thật, nhưng cũng chỉ cá lẻ một mình ông mà thôi. Đàng này ông lại không ngừng tuyên bố rằng: con người và cuộc sống (nhất là cái chết Thập Giá) của ông là biểu lộ trung thực nhất về Thiên Chúa, Đấng mà ông không những gọi là Cha của mình, mà còn tự đồng hóa mình với Ngài. Và Đấng đó, khác với suy nghĩ thông thường của người Do Thái, kể cả các thầy tiến sĩ thông luật thời đó, cũng là Thiên Chúa – Cha đầy nhân ái của hết thảy mọi người, cách riêng những người tội lỗi nhất; sau này qua việc ông được cho chỗi dậy từ cõi chết, những lời khảng định trên của ông trở nên có sức thuyết phục không ai cưỡng lại được.
Nhận biết được điều này mới là nhận biết Giêsu cách đích thực, đồng thời cũng là nhận biết và tôn vinh Thiên Chúa: “Giờ đây Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình” (Ga 13:31-32). Tuy nhiên qua phát biểu của một số môn đệ thâm tín nhất như Tô-ma (xem Ga 14:5-7) Phi-lip-phê (xem Ga 14:8-11) Giu-đa không phải It-ca-ri-ốt (xem Ga 14:22-24)…, ta biết: điều này xem ra không dễ dàng được chấp nhận. Tin rằng ‘Thiên Chúa là Cha đầy nhân ái, yêu thương và tự hiến mình cho con người tội lỗi’ còn khó hơn cả tin ‘ba là một hay một là ba’. Điều sau này mới chỉ là một nghịch lý về mặt suy luận toán học, còn điều kia mới thực là nghịch lý làm đảo lộn mọi tương quan trời đất cố hữu. Cần phải chính Chúa Cha trong Đức Kitô gởi một nhân vật bí nhiệm là Thánh Thần – Đấng Bảo Trợ đến mới đưa nổi các tín hữu tới sự hiểu biết và tin thác vào tình yêu vĩ đại này.
Như vậy công việc chính yếu của Chúa Thánh Thần là: làm cho Kitô hữu chúng ta nhận biết Đức Giêsu Thập Giá là Lời tình yêu vô song của Chúa Cha. Thánh Thần chính là đức tin đối thần của tín hữu chúng ta, là Đấng Sáng Soi cho phép ta tiếp cận, hiểu biết và chấp nhận điều mà lẽ thường ta ‘không có sức chịu nổi’; là Đấng dẫn ta ‘tới sự thật toàn vẹn’, vì chính sự thật này mới làm cho ta được sống và sống dồi dào. Vì thế Thánh Thần chính là Hồng Ân tình yêu vĩ đại nhất mà Chúa Cha nhân ái trong Đức Giêsu Kitô có thể ban, để ta tiến vào tình yêu sinh động và phong phú nhất của Người.
Mầu nhiệm Ba Ngôi chính là khởi nguồn và cùng đích của niềm tin Kitô hữu. Mầu nhiệm đó không hệ tại ở việc, nó quá bí nhiệm tới nỗi không ai kham nỗi, nhưng chính yếu hệ tại: nó quá phong phú, quá sinh động tới độ làm thay đổi toàn diện cuộc sống con người chúng ta. Mầu nhiệm đó chính là cốt lõi của Tin Mừng. Quả thực kể từ khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội để trở thành môn đệ Đức Giêsu, mọi Kitô hữu sẽ không ngừng “nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28:19) như một tuyên tín về tình yêu nhân ái vô biên của Thiên Chúa. Và bất cứ ai ngưng tuyên xưng khối tình yêu vĩ đại này như căn nguyên và sức sống của đời mình thì sẽ lập tức không còn là Kitô hữu đích thực nữa. Chúa Ba Ngôi quả thật là mầu nhiệm của các mầu nhiệm, nhưng không phải để hiểu biết mà là để sống!
Lạy Chúa, lẽ ra con đã phải cảm tạ khôn nguôi về niềm tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi, lẽ ra mỗi lần thốt lên ‘nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần’ lòng con đã phải tràn ngập vui sướng. Nhưng tiếc thay thực tế đã không được như thế, chỉ vì con cứ ngắm nhìn Thiên Chúa như một Đấng quyền uy cao sang, nên nhiều khi con cảm thấy khó chịu về mầu nhiệm khó hiểu và khô khan này; nhiều khi con chỉ lạnh lùng thốt lên ‘nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần’ cách máy móc vội vàng, như một công thức vô bổ. Xin Thánh Thần tích cực tác động trong con, để dạy con điều con không thể kham nỗi, là nhận biết tình yêu nhân ái bao la của Thiên Chúa Cha, biểu lộ qua Thập Giá của Đức Kitô Giêsu. Xin cho con biết không ngừng ca ngợi Ba Ngôi từ ái. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Vân Lực)
Hy vọng là động lực sống. Hướng sống và niềm vui sẽ mất đi, nếu không còn niềm hy vọng. Nhưng làm cách nào nuôi niềm hy vọng trong tâm hồn? Đó là bí quyết của Thánh Linh. Chỉ niềm tin nào đem lại hy vọng, mới có giá trị và tồn tại.
NGUỒN HY VỌNG.
Cuộc sống luôn có những biến động. Niềm hy vọng luôn bị đe dọa khi gặp những khó khăn. Nhưng không phải bất cứ ai gặp khó khăn đều đánh mất niềm hy vọng. Niềm hy vọng cũng huyền nhiệm như niềm tin Kitô giáo. Đó là lý do tại sao phải tìm hiểu niềm hy vọng do Ba Ngôi Thiên Chúa đã dành cho chúng ta!
Trước hết, chỉ có Thiên Chúa mới đem lại và bảo đảm niềm hy vọng cho chúng ta. Vì niềm hy vọng bắt nguồn từ Thánh Linh. Quả thế, “chúng ta không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta.” (Rm 5:5) Tình yêu Thiên Chúa là nguồn hy vọng, vì chính trong tình yêu, Thiên Chúa đã sáng tạo và cứu độ. Không có tình yêu, chẳng có một giá trị nào hiện hữu và tồn tại. Bởi vậy, Thiên Chúa đã đặt nền tảng niềm hy vọng trên tình yêu tức là Thánh Linh. Chẳng có gì tạo nổi niềm hy vọng ngoài tình yêu Thiên Chúa! Thiên Chúa yêu thương chúng ta mãnh liệt và sâu đậm, nên niềm hy vọng của chúng ta chắc chắn phải lớn lao và bền vững hơn bất cứ thực tại nào trên trần gian.
Nhưng tình yêu chưa đủ! Thiên Chúa muốn niềm hy vọng phải đặt vào đúng chỗ. Mù quáng chỉ dẫn tới ảo tưỡng và sụp đổ. Cần phải có sự thật nữa. Bởi thế, Đức Giêsu mới hứa: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn.” (Ga 16:13) Sự thật về Thiên Chúa và sự thật về con người! Không thấy được sự thật toàn vẹn, con người không thể được giải thoát. Không được giải thoát, không có tình yêu và niềm hy vọng đích thực. Thánh Linh đưa các môn đệ vào sự thật toàn vẹn của tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa vô cùng mãnh liệt và cao cả khiến các môn đệ không thể hiểu nổi. Quả thực, nếu không có Thánh Linh soi sáng, làm sao nhận ra ơn cứu độ lớn lao nơi cái chết và phục sinh của Đức Kitô?
Thần Khí chính là sự khôn ngoan, “một sự khôn ngoan soi sáng cho thấy ý nghĩa thực tại.” (Faley 1994:387) Thánh Linh “luôn hiện diện với Thiên Chúa trong toàn thể tiến trình tạo dựng.” (Faley 1994:384) Người# luôn hoạt động để tạo dựng một vũ trụ có trật tự. Cuộc tạo dựng không chỉ xảy ra trong vũ trụ, nhưng cả trong Giáo hội nữa. Thần khí không chỉ hoạt động trong thời gian viết Thánh Kinh! Nhưng Người còn hoạt động trong Giáo hội qua dòng thời gian nữa! Muốn bảo vệ sự thật toàn vẹn, Người phải làm việc trong trật tự. Cứ nhìn vũ trụ sẽ thấy công việc Thánh Linh làm trong Giáo hội, không thể theo ngẫu hứng hay tình cảm cá nhân!
Hơn nữa, Thánh linh còn đưa các môn đệ vào sự thật toàn vẹn về con người. Mục đích cuối cùng của mạc khải là giao hòa con người với Thiên Chúa và anh em. Nhưng làm sao giao hòa với Thiên Chúa và anh em, nếu con người không biết hết sự thật về chính mình và những tương quan vô cùng phong phú của mình? Không có gì khó bằng khám phá chính mình. Nhưng Thánh Linh sẽ giúp con người nhận ra sự thật khó khăn đó. Khi biết rõ chính mình, con người sẽ khiêm tốn hơn và hạnh phúc hơn. Khi biết rõ tương quan sâu xa giữa mình và Thiên Chúa cũng như tha nhân, con người sẽ thấy mình phải cố gắng tới mức nào. Vì chính trong tương quan này, con người sẽ tìm được hạnh phúc tròn đầy. Chỉ trong tương quan với anh em, con người mới trở nên hình ảnh Thiên Chúa đích thực. Vì tự bản chất, Thiên Chúa là một tương quan. Nếu không, đã chẳng có Ba Ngôi trong một Thiên Chúa. Trong các tương quan phản ánh tình yêu Thiên Chúa nhất, chúng ta phải kể đến gia đình. Chính trong gia đình, con người cảm nghiệm được tình yêu thắm thiết của Ba Ngôi. Càng chia sẻ sâu xa tình yêu gia đình, càng đi sâu vào huyền nhiệm Thiên Chúa.
Huyền nhiệm Thiên Chúa chính là sự thật toàn vẹn, đối tượng của niềm tin. Bởi vậy, được đưa vào sự thật toàn vẹn là “được nên công chính nhờ đức tin,” tức là được tham dự vào đời sống Thiên Chúa. Đời sống Thiên Chúa chan hòa bình an! Không biết được sự thật toàn vẹn đó, cuộc sống sẽ tràn ngập đau khổ. Trái lại, nhờ Thánh Linh, mọi vấn đề sẽ được giải quyết, kể cả vấn đề đau khổ. Tín hữu không những không sợ đau khổ, nhưng nhờ ân sủng của Thiên Chúa, họ “còn tự hào khi gặp gian truân.” (Rm 5:3) Tín hữu không tìm cách diệt trừ hay phủ nhận đau khổ. Vì đau khổ dính liền với thân phận làm người. Nhưng họ quan niệm đau khổ là một thử thách cần phải vượt qua. Cuộc vượt qua thử thách đó không dựa vào sự thật bình thường, nhưng vào sự thật toàn vẹn do Thánh Linh mạc khải.
Càng đi sâu vào sự thật toàn vẹn về Thiên Chúa và con người, càng được giải thoát. Càng được giải thoát, càng vui tươi và bình an. Chính Thánh Linh cảm thấy được niềm vui đó khi từ sự thật Thiên Chúa mà đến. Người mạc khải: “Ngày ngày ta là niềm vui của Người, trước mặt Người, ta không ngớt vui chơi, vui chơi trên mặt đất, ta đùa vui với con cái loài người.” (Cn 8:30-31) Lối nhìn trần giới hoàn toàn khác hẳn. Khôn ngoan mang bộ mặt trang trọng, chứ không thể đi đôi với “vui chơi”. Nhưng chính niềm vui mới là dấu chỉ hy vọng lớn lao. Đó là lý do tại sao niềm vui tràn ngập tuổi trẻ đầy hy vọng. Hơn nữa, càng khôn ngoan càng chứng tỏ đã nắm được chân lý toàn vẹn. Càng nắm chắc chân lý toàn vẹn, càng đặt được nền tảng sâu xa cho niềm hy vọng và niềm vui. Do đó, có một tương quan sâu xa giữa niềm hy vọng và sự khôn ngoan, sự khôn ngoan bắt nguồn từ niềm tin nơi Thiên Chúa.
Đó là lý do tại sao niềm tin phát sinh hy vọng. Chính thánh Phaolô quả quyết: “Còn chúng tôi thì nhờ Thần khí và dựa vào đức tin mà vững lòng chờ đợi được nên công chính như chúng tôi hy vọng.” (Gl 5:5) Khi đặt niềm tin nơi Thiên Chúa, con người có thể tìm được niềm hy vọng vững chắc, vì Thiên Chúa hằng hữu. Thực vậy, “vì chúng ta tin, nên Đức Giêsu đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa.” (Rm 5:2) Đức tin là bảo đảm cho chúng ta đạt được niềm hy vọng ngay tự đời này dù đầy những bất trắc. Hơn nữa, đức tin còn có thể giúp con người bình an giữa cuộc đời đầy sóng gió. Thật vậy, “chúng ta còn tự hào khi gặp gian truân, vì biết rằng: ai gặp gian truân thì quen chịu đựng; ai quen chịu đựng, thì được kể là người trung kiên; ai được công nhận là người trung kiên, thì có quyền trông cậy.” (Rm 5:3-4) “Ngay cả những thử thách cũng góp phần giúp con người hy vọng đạt tới vinh quang, và sự chịu đựng sinh ra sức mạnh củng cố niềm hy vọng. Đó là niềm hy vọng có nền tảng, chứ không phải chỉ là ước vọng suông.” (Faley 1994:386) Niềm hy vọng là cao điểm qui tụ tất cả sức mạnh của người tín hữu. Không có hy vọng, không ai còn hứng khởi để vượt qua những thử thách muôn mặt. Khi đã vượt qua những thử thách đó, con người có thể hãnh diện và đầy hy vọng. Nhưng sức mạnh nào đã giúp họ vượt qua thử thách, nếu không phải là Thánh Linh? Có vượt qua thử thách của đức tin, chúng ta mới có thể theo Đức Giêsu vào chung hưởng ân sủng Thiên Chúa. Chính đức tin và hy vọng khiến Kitô hữu khác hẳn với mọi người. Bình thường ai cũng run sợ trước đau thương thử thách. Nhưng người Kitô hữu như tràn đầy hứng khởi và tự hào vì được trở nên giống Đức Kitô đau khổ trong sứ mệnh cứu độ. Quả thế, thập giá là “sức mạnh cứu độ của Thiên Chúa.” (1 Cr 1:18) Nếu không trung kiên gắn bó với thánh ý Thiên Chúa, chắc chắn Đức Giêsu đã không thể đem lại vinh quang cho Thiên Chúa. Bởi thế, ai trung kiên mới có quyền hy vọng!
Niềm hy vọng này lại trở thành mấu cứ cho niềm tin và tình yêu. Quả thực, “lòng tin và lòng mến đó phát xuất từ niềm trông cậy dành cho anh em trên trời, niềm trông cậy anh em đã được nghe loan báo khi lời chân lý là Tin Mừng đến với anh em.” (Cl 1:5) Lời chân lý gieo niềm hy vọng cứu độ vì phát xuất từ Thiên Chúa và do chính Thánh Linh loan báo. Quả thế, Thần Khí “sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến.” (Ga 16:13) Thánh Linh loan báo một tương lai vững chắc, chắc như chính “những biến cố vào giờ Chúa Giêsu vậy.” (NIB 1995:773) Không phải Thánh Linh sẽ cho người tín hữu biết trước tương lai. Thật vậy, theo Bultmann, “người tín hữu chỉ có thể đo lường được tầm quan trọng và họ mức chịu đựng khi thực sự đụng đầu với thực tế. Họ có thể đoán trước tương lai trong niềm tin, chứ không biết trước về kiến thức.” (NIB 1995:773) Nếu thế, Lời Chúa vô cùng cần thiết để củng cố lòng tin trước bất cứ thử thách bất ngờ nào. Bởi vậy, vai trò Thánh Linh vô cùng quan trọng trong việc trao Lời Chúa cho cộng đoàn niềm tin và trong tương lai (x. NIB 1995:773) Hoàn thành trọng trách đó, Thánh Linh sẽ đem lại vinh quang cho Chúa Cha và Chúa Con. Thật vậy, “Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì là của Thầy mà loan báo cho anh em.” (Ga 16:14) Loan báo Tin Mừng vừa cứu độ muôn dân vừa vinh danh Thiên Chúa.
CHIỀU HƯỚNG MỚI
Thánh Linh đã thực sự trở thành ngôi vị không thể thiếu trong công cuộc cứu độ. Điều kiện thực tế không cho phép các môn đệ hiểu tất cả những gì Chúa mạc khải trong một lúc. Cái gì cũng phải đợi thời gian mới chín mùi được! Chính Chúa đã nói rõ điều đó: “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi.” (Ga 16:12) Chúa Giêsu cũng tôn trọng trình tự thời gian. Người cũng không thể đi trước thời gian hay giẫm chân lên Chúa Thánh Thần. Tương lai thuộc về Thánh Linh. Chính Thánh Linh vừa tiếp tục công cuộc mạc khải vừa ban sức mạnh và ánh sáng để các môn đệ được nâng lên mà nắm chắc nguồn hy vọng là Lời Chúa. Không thể tiên đoán Thánh Linh đi xa tới mức nào trong tương lai Giáo hội. Công đồng Vatican II chứng tỏ Thánh Linh đã làm một cuộc “hiện xuống mới” giữa thời đại hôm nay. Cuộc hiện xuống mới bắt đầu với cánh cửa Giáo hội mở ra thế giới. Từ sau Vatican II, Giáo hội không còn tự cho mình ở trên và tách lìa trần gian. Trái lại, “Thánh Linh trong công đồng đại kết đã dẫn Giáo hội qua một tiến trình tự đánh giá sâu sắc về mình như thành phần thế giới.” (Faley 1994:388) Từ nay, Giáo hội không còn chỉ thấy Chúa hiện diện trong Thánh Kinh, truyền thống, các nghi thức phụng vụ, “nhưng cả trong các biểu tượng và nghi thức từ các văn hóa và tôn giáo khác nữa.” (Heim 1998:14) Nhờ Thánh Linh hướng dẫn, Giáo hội còn “tìm sự hiện diện Thiên Chúa trong hoàn cảnh của người nghèo và bị bách hại, trong các tôn giáo thế giới, và các giáo hội Kitô giáo khác. Có một sự khôn ngoan vô hạn trong tất cả những thực tại này, một sự khôn ngoan làm giàu cho đức tin.” (Faley 1994:388) Khi đã thoát khỏi tình trạng tự giam hãm mình trong vòng Công giáo chật hẹp, Giáo hội có nhiều ảnh hưởng và tương quan phong phú hơn. Giáo hội đã bắt gặp nhiều cách diễn tả và cảm nghiệm khác nhau về sự thật nơi các tôn giáo khác và các anh em Tin Lành. Thánh Linh đã đánh thức Giáo hội sau bao thế kỷ triền miên trong những giới hạn nhân gian.
Dĩ nhiên cuộc đối thoại với các tôn giáo và anh em Tin Lành không được xa rời nguyên tắc “trung thành với Chúa Kitô và xác tín về ơn cứu độ dành cho mọi người.” (Heim 1998:26) Phong trào đại kết đã có kinh nghiệm sâu xa về liên tôn và suy tư về “hệ thống chân lý và những khả năng hiệp nhất không dựa nhiều trền việc đồng thuận hoàn toàn về giáo lý.” (Heim 1998:13) Đó là chiều cạnh lý thuyết cần thiết cho cuộc đối thoại. Về mặt thực tế, không thể không nghĩ đến những nỗ lực của các nhà truyền giáo trong các thế kỷ qua. Kinh nghiệm Alexandre de Rhodes, Nobili, Ricci cho thấy việc hội nhập văn hóa rất cần thiết cho việc rao giảng Tin Mừng. Nói khác, “việc lột xác trong việc truyền giáo đòi phải đối thoại với các tôn giáo khác, hoặc ở mức độ thân thiện, giáo thuyết, hành động xã giao, hay kinh nghiệm tôn giáo.” (Heim 1998:14) Hơn nữa, cần phải “chú ý tới tôn giáo phổ quát, thường gồm những yếu tố giao lưu văn hóa và tôn giáo đa nguyên.” (Heim 1998:14) Chính Thánh Linh sẽ hướng dẫn Giáo hội khi mở ra chiều hướng quá sâu rộng và phong phú như thế. Thực tế, Giáo hội vẫn tin rằng “ý thức đức tin (sensus fidei) sẽ cung cấp một nền tảng luận lý để đánh giá về hình thức biểu tượng của hòa điệu đa nguyên này.” (Heim 1998:14)
Thánh Linh đang mở ra một mùa xuân tràn đầy hy vọng trong lòng Giáo hội, niềm hy vọng phát xuất tự và cũng phát sinh ra lòng tin và tình yêu. Tương quan bộ ba tin cậy mến thật là huyền nhiệm, huyền nhiệm như chính Ba Ngôi Thiên Chúa. Chính tương quan đó đã mở ra cho Giáo hội những chiều hướng mới đi vào một thế giới đang ngóng chờ Thiên Chúa thực hiện lời hứa cứu độ.
Tường thuật trong Cựu Ước về lịch sử hình thành vũ trụ, sách Sáng Thế Kí, các chương đầu tiên, ghi lại công trình Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ từ hư không và đặt loài người vào trong vũ trụ đó để loài người thay Ngài làm chủ vũ trụ. Vì là chủ nên trách nhiệm coi sóc, bảo vệ và giữ gìn; đồng thời cũng hưởng hoa trái do đất nước sinh sôi. Đất cung cấp thực phẩm nuôi thân, nước uống và cung cấp ngay cả phong cảnh tuyệt vời cho con người thưởng lãm. Nhiệm vụ chăm sóc, bảo vệ vũ trụ là nhiệm vụ chung của cả nhân loại. Thường con người chỉ lo chăm sóc những gì thuộc riêng mình như vườn rau trước ngõ, ao cá sau nhà mà lơ đi những thứ khác. Là chủ vũ trụ loài người có trách nhiệm bảo vệ môi sinh, bờ biển và rong biển; cánh rừng và thú rừng; bầu trời và chim muông; sa mạc và cây gai trong đó; băng giá và tuyết rơi, bầu khí quyển và các vì sao như thế mới làm tròn bổn phận người chủ có trách nhiệm.
Không may loài người với bản tính ích kỉ nghĩ về mình, cho mình nhiều hơn, cộng thêm nhẹ dạ, tin nghe lời manh rãnh, gian tà xúi bẩy của ma quỷ. Loài người dại dột đã làm sai ý Chúa, không làm tròn nhiệm vụ chủ nhân trái đất, trái lại tàn phá vũ trụ không thương tiếc và làm hại đến bản thân.
Mặc dù loài người lầm lỗi gây hại cho vũ trụ và tạo đau khổ cho chính thân mình như thế, Thiên Chúa yêu thương loài người, không đành tâm để mặc loài người phải hư đi, đau khổ quằn quại kéo lê cuộc sống. Chúa Cha sai con một mình, Đức Kitô xuống thế, nhận thân phận con người để cứu loài người và sửa lại những gì đã hư mất, đồng thời ban thêm ơn để loài người nhận lại tình thương đặc biệt Thiên Chúa trao ban.
Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ.'(Gn 3,17).
TÂN ƯỚC
Đức Kitô xuống thế làm người bình thường như chúng ta nên một phần nhân loại từ chối nhận Ngài là Con Thiên Chúa. Cho là Ngài quá tầm thường và từ chối lắng nghe giáo lí Ngài giảng dậy. Tìm kiếm chân lí là nhu cầu sống, vì từ chối Thiên Chúa chân thật nên con người tìm chân lí nơi loài thụ tạo, họ ca tụng, tôn vinh lẫn nhau, kẻ thờ tài, người thờ tiền, kẻ khác thờ sắc đẹp. Lối sống này nguy hại. Hoặc là dẫn đến kêu ngạo khi thành công; hai là tuyệt vọng khi vinh quang xụp đổ. Vì sao? Vì
Các ông tôn vinh lẫn nhau và không tìm kiếm vinh quang phát xuất từ Thiên Chúa duy nhất (Gn 5,44).
CON ĐƯỜNG SỐNG
Những ai thành tâm, tin nhận Đức Kitô là Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế sẽ được sống bình an, hoan lạc phát xuất từ nội tâm. Một bình an thực sự mà chính Đức Kitô xác định thế giới không có để cho. Họ tìm được tình yêu thực sự vì chính Thiên Chúa là tình yêu vì ai ở trong Thiên Chúa sẽ không bao giờ bị hư mất, nếu có chết cũng được sự sống mới. Chính Ngôi Hai Thiên Chúa xác nhận:
‘Tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sự sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết’. (Gn 6,40).
‘Con không tự mình làm bất cứ điều gì, ngoại trừ điều Người thấy Chúa Cha làm; và điều Chúa Cha làm người Con cũng làm như vậy’. (Gn 5,19).
Con đường sống là con đường liên kết với Thiên Chúa vì có sự liên kết, hợp nhất mật thiết giữa Chúa Cha và Chúa Con. Đức Kitô không tự ý làm gì (5,30; 8,28) nói gì (7,16-17; 12,49;14,10) Người không tự ý đến thế gian (7,28; 8,24) Chúa Cha cho Người thấy mọi điều mình làm nên điều gì Chúa Cha làm, Chúa Kitô cũng làm như vậy nên ai thấy Chúa Con là thấy Chúa Cha và được Chúa Thánh Thần kết hợp.
CHÚA THÁNH THẦN
Món quà Chúa Con luôn hứa ban cho nhân loại đó là Chúa Thánh Thần được sai đến thời hậu Phục Sinh chính là thời đại của chúng ta đang sống. Thánh Thần Chúa đến đổi mới và canh tân bộ mặt trái đất. Thánh Thần đến làm rõ nghĩa những gì Chúa Kitô đã rao giảng. Tạo vật mới, trời mới đất mới do Chúa Kitô tái tạo được trao cho vào tay loài người làm chủ và coi sóc. Trong Cựu Ước loài người đã thất bại; Tân Ước loài người không phải một mình coi sóc vũ trụ vì Chúa Kitô hứa gởi Đấng Bảo Trợ đến soi sáng, hướng dẫn để loài người không rơi vào vết xưa cũ của tội lỗi.
Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em (Gn 14,26).
Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn.
Người sẽ không tự mình nói điều gì nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết (Gn 16,13)
Nhân loài có Thánh Thần Chúa kề bên chỉ bảo, hướng dẫn. Người thiện tâm nhận được sự thật toàn vẹn.Thời hậu Phục Sinh là thời sung mãn nhất vì được Ngôi Ba Thiên Chúa soi sáng. Tình yêu Chúa hướng dẫn cuộc sống, tình yêu Chúa giúp sáng tạo, tình yêu Chúa giúp kết hợp gắn bó.
Ngày nay các khoa học gia la hoảng về vũ trụ bị nóng, băng đá bắc và nam cực đang tan, băng tuyết đỉnh Hymã lạpsơn rơi lã chã, mưa rơi không đều, khí hậu bất thường. Họ đâu biết là nhân loại vẫn vô tình, vô tâm và ngay cả kêu ngạo tin vào khoa học, tin vào tài sức mình, không tin Ngôi Ba nên vũ trụ rơi vào tình trạng thời Cựu Ước, bị tàn phá, hủy diệt.
Từ chối Chúa Thánh Thần loài người có trí khôn hơn cả nên sẽ chịu đau khổ nhiều hơn cả.
Chúng ta tin có một Thiên Chúa, Ngài có Ba Ngôi. Mỗi Ngôi vị mang một trọng trách riêng. Ngôi Cha sáng tạo, Ngôi Hai cứu chuộc và Ngôi Ba thánh hoá và hoàn thiện.
Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi muôn đời vẫn là một mầu nhiệm cao vời nhất. Vì Chúa Ba Ngôi không phải là kết quả của việc con người suy luận. Sở dĩ chúng ta biết được là vì Thiên Chúa đã tỏ lộ. Thiên Chúa đã mạc khải, đã nói với con người bằng chính ngôn ngữ nhân loại. Ngôn ngữ đó không đủ khả năng diễn đạt tất cả những thực tại thuộc lãnh vực thần linh. Mầu nhiệm chỉ được mạc khải theo khả năng lĩnh hội của con người trong tương quan với thời gian và không gian.
Để mạc khải về Ngôi Hai, Thiên Chúa đã chuẩn bị hằng mấy mươi thế kỷ bằng việc kén chọn cho mình một dân tộc. Qua dân tộc đó, Ngài biểu dương sức mạnh và tình thương để họ thấy rằng trên trời dưới đất, chính Ngài là Thiên Chúa, chứ không có Chúa nào khác. Chính Chúa của Israel là Thiên Chúa duy nhất, mọi người phải tôn thờ và quy phục. Không có thần linh nào vượt trổi trên Ngài. Ngài là Đấng toàn năng cao cả, mọi giới răn và huấn lệnh của Ngài đem lại sự sống và sức mạnh cho những ai tuân giữ. Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài để hướng dẫn chăm sóc bênh vực và nhất là yêu thương họ. Hình ảnh áng mây cột lửa nhà tạm… nói lên sự hiện diện của Ngài. Ngài yêu thương họ bằng tình phụ tử chiến đấu bên cạnh họ, nuôi dưỡng họ bằng mật ngọt và bằng lúa thơm.
Thiên Chúa là Đấng vô hình không ai có thể trông thấy Ngài trừ khi là Ngôi Con tự cung lòng Chúa Cha mà đến, và Người đã đến ở giữa chúng ta. Mầu nhiệm ngôi hiệp chứng tỏ con người có khả năng tuân nhận và thông hiệp với Thiên Chúa. Ngôi Hai làm người đê con người trở thành con Thiên Chúa. Chúa Cha và Chúa Con là một, Chúa Cha yêu mến Chúa Con và Chúa Con yêu mến Chúa Cha. Cả hai ở trong tình yêu và tình yêu ấy chính là Chúa Thánh Thần. Tình yêu liên kết ngôi Cha ngôi Con nên một thân thể. Đến giờ Chúa Giêsu phải về cùng Chúa Cha, nhưng Ngài không để các môn đệ mồ côi. Ngài sẽ xin Chúa Cha ban Thánh Thần cho các ông. Ta đi thì ích lợi cho các con, vì nếu Ta không đi thì Đấng yên ủi sẽ không đến cùng các con, song nếu Ta đi, thì Ta sẽ sai Người đến. Chúa Thánh Thần đã đến trong ngày lễ Hiện Xuống dưới hình lưỡi lửa. Các ông đã lấy cái chết để làm chứng cho niềm tin nơi Thiên Chúa, là Cha, Con và Thánh Thần. Chỉ có một Thiên Chúa, một đức tin, một phép rửa.
Công chúa Luise ngày kia bị một nữ tỳ trách móc. Không cầm nổi tức giận, công chúa bảo: Ngươi hãy nhớ, ta là con của đức vua. Nhưng người nữ tỳ trả lời: Còn tôi, tôi là con Thiên Chúa. Công chúa hiểu và về sau đã trở thành một vị nữ tu dòng Kín.
Qua bí tích Rửa Tội mọi người chúng ta đều được đóng ấn hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi. Thiên Chúa đến cư ngụ trong linh hồn chúng ta. Hình anh đó phải lớn lên, lớn lên mãi, để mỗi ngày chúng ta càng trở nên giống Thiên Chúa trong tình yêu và trong sự thánh thiện. Yêu Chúa là tuân giữ những điều Chúa dạy. Ai ở trong tình yêu là ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong người ấy.
Năm 1961, sau khi người cộng sản Liên-xô phóng được lên không trung phi thuyền đầu tiên có người điều khiển và trở về trái đất thì chính phủ Liên-xô đã ra một thông cáo với lời lẽ phạm thánh như thế này: Người Nga chúng tôi đã lục lọi khắp cùng thượng tầng không gian mà chúng tôi không gặp một ông già nào có tên là Đức Chúa Trời cả.
Người ta phủ nhận Thiên Chúa, nhưng việc người ta phủ nhận Thiên Chúa không làm chứng vì thế mà Thiên Chúa không có! Cũng như người ta có phủ nhận mặt trời thì mặt trời vẫn là mặt trời, vẫn chói rọi trên đầu chúng ta.
Hôm nay, trong Bài đọc I, Thánh Kinh cho chúng ta biết rằng cách đây 3 ngàn năm, có một dân Israen, đã khẳng định có Thiên Chúa, “chúng tôi đã gặp Người”. Người đã tuyển chọn dân ấy, đã đưa ra khỏi Ai Cập, làm bao nhiêu sự lạ và hôm nay, giữa chớp loè sấm vang đã ban Mười Điều Răn, khiến cho toàn dân phải kêu lên: “Trên trời dưới đất, chính Chúa là Thiên Chúa, không có Chúa nào khác”.
Thiên Chúa là một! Nhưng Chúa Giêsu ra đời, Ngài hé mở cho chúng ta một mầu nhiệm khác: Thiên Chúa là một nhưng lại có ba Ngôi. Ngài mạc khải cho chúng ta chính đời sống nội tâm của Thiên Chúa. Ngài nói cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa là Cha. Ngài và Chúa Thánh Thần là mối giây tình yêu liên kết Ngài với Cha và liên kết chúng ta với Thiên Chúa. Vậy những gì chúng ta biết về Thiên Chúa Ba Ngôi là do chính kinh nghiệm và lời giảng của Chúa Giêsu. Ngài cầu nguyện cùng Chúa Cha, Ngài nói lời của Chúa Cha cũng như Ngài hứa ban Thánh Thần. Ngài hành động với sức mạnh Thánh Thần, rồi Ngài dạy ai muốn theo Ngài phải được rửa tội nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, phải sống mầu nhiệm Ba Ngôi vì chính đó là sự sống của Thiên Chúa.
Mầu nhiệm ấy chúng ta mừng hôm nay. Vì là mầu nhiệm, trí khôn chúng ta không thể hiểu hết được. Hình như khi tạo dựng người ta “giống hình ảnh Chúa”, Thiên Chúa đã tạo nên chung quanh chúng ta và trong chúng ta những hình ảnh Chúa là một mà ba, một Chúa nhưng có ba Ngôi. Ví dụ, con người ta có một nhưng có 3 giai đoạn: trẻ, trung niên và già – ba giai đoạn nhưng một cuộc đời; linh hồn có 3 cơ năng: trí nhớ, trí hiểu và trí lý luận – ba cơ năng một linh hồn; nước là một, nhưng có 3 hình thức: mây vi vu trên trời, khối đá đông đặc, nước chảy dưới cầu, đều là nước dưới 3 hình thức. Biểu hiệu trên quốc kỳ nước Công giáo Ái-Nhĩ-Lan là một chiếc lá với 3 khía cạnh ám chỉ Thiên Chúa là một nhưng có ba Ngôi.
Thiên Chúa mạc khải cho chúng ta mầu nhiệm Ba Ngôi, vì chính đó là đời sống căn bản nội tâm của Thiên Chúa. Chúng ta được rửa tội nhân danh Chúa Ba Ngôi. Tâm hồn ta trở nên đền thờ Chúa Ba Ngôi và Chúa mời gọi ta sống đời sống của Chúa Ba Ngôi vậy.
(Suy niệm của Lm. Phanxicô Xaviê Lê Văn Nhạc)
Tin Mừng Ga 16: 12-15 Chúa Ba Ngôi như mặt trời trên bầu trời. Mặt trời là nguồn năng lượng vật lý. Chúa Ba Ngôi là nguồn sống trong chúng ta. Mặt trời chiếu tỏa ánh sáng.
Một linh mục ngồi trong phi trường đợi chuyến bay. Một người đàn ông đến ngồi bên cạnh và đề cập về tôn giáo. Ông khoe rằng:
“Tôi không chấp nhận điều gì tôi không hiểu, vấn đề “Ba Chúa trong một Chúa” hay bất cứ điều gì tương tự, không ai có thể giảng nghĩa cho tôi, nên tôi không tin”.
Chỉ vào luồng sáng qua cửa sổ, linh mục hỏi: “Bạn có tin mặt trời không?” Kẻ hoài nghi trả lời: “Dĩ nhiên có chứ”. Linh mục nói tiếp: “Được, ánh sáng bạn thấy qua cửa sổ, là từ mặt trời cách đây 150 triệu km chiếu tới, sức nóng chúng ta cảm thấy phát xuất từ mặt trời và ánh sáng.
Chúa Ba Ngôi có phần tương tự như vậy: Mặt trời là Thiên Chúa Cha. Mặt trời chiếu sáng: Ánh sáng là Thiên Chúa Con. Từ mặt trời và ánh sáng tỏa ra sức nóng: Từ Chúa Cha và Chúa Con phát xuất Chúa Thánh Thần. Bạn có thể giải thích được mặt trời, ánh sáng và sức nóng được không?” Người hoài nghi im lặng.
Anh chị em thân mến,
Khi chúng ta họp nơi đây để chúc tụng và tôn vinh Chúa Ba Ngôi, trước tiên chúng ta chấp nhận rằng: đây là một mầu nhiệm, một chân lý không ai có thể hiểu được, giảng giải được. Chúng ta biết đó là sự thật vì Chúa Giêsu đã nói với chúng ta về Thiên Chúa Ba Ngôi nhiều lần, nhất là trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúng ta đón nhận, chúng ta tin, vì Chúa Giêsu đã dạy chúng ta tôn vinh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là nguồn mọi sự thiện hảo.
Chúa Ba Ngôi như mặt trời trên bầu trời. Mặt trời là nguồn năng lượng vật lý. Chúa Ba Ngôi là nguồn sống trong chúng ta. Mặt trời chiếu tỏa ánh sáng. Chúa Ba Ngôi soi sáng lòng trí con người. Mặt trời tỏa sức nóng. Chúa Ba Ngôi tuôn đổ sức nóng thiêng liêng:
Tình yêu Thiên Chúa và tình yêu con người. Chúa Ba Ngôi không phải là bộ ba năng lượng không hồn, nhưng là những ngôi vị sống động, thông biết và yêu thương.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm của đời sống nội tại thâm sâu nhất của Thiên Chúa. Đời sống nội tại thâm sâu nhất của Thiên Chúa là yêu thương: “Thiên Chúa là Tình yêu thương”. Chúa Cha yêu thương Chúa Con, Chúa Con yêu thương Chúa Cha và mối tương quan tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con là Chúa Thánh Thần. Tình yêu hoàn toàn hiến thân, cho đi, để làm giàu người khác và làm nên một với người khác. “Thiên Chúa là Tình yêu”, Ngài không đơn độc một mình. Nếu như Ngài đơn độc một mình thì Ngài sẽ yêu một mình Ngài một cách ích kỷ vô cùng… Nhưng Ngài là ba, ba nhưng hoàn toàn hiệp nhất với nhau đến nỗi chỉ là một Thiên Chúa duy nhất. Trong Ba Ngôi, mỗi ngôi hoàn toàn là tặng phẩm hiến dâng cho nhau, hoàn toàn tương quan với nhau, hoàn toàn yêu thương nhau: Cha hoàn toàn là của Con, Con hoàn toàn là của Cha, và sự trao đổi hoàn toàn giữa Cha và Con là Thánh Thần. Vì thế, Thiên Chúa là một nhưng lại là ba ; là ba nhưng lại là một. Chúa Giêsu đã nói: “Mọi sự của Con là của Cha, và mọi sự của Cha là của Con” (Ga 17,10). “Cha Thầy và Thầy là một” (Ga 10,30). “Cha ở trong Con và Con ở trong Cha” (Ga 10,38). “Ai thấy Thầy là thấy Cha” (Ga 14,9).
Thưa anh chị em,
“Thiên Chúa là Tình Yêu” vì thế mọi hoạt động bên trong cũng như bên ngoài của Thiên Chúa đều là yêu thương: từ việc tạo dựng vũ trụ, vạn vật, loài người cho đến việc cứu chuộc loài người chúng ta, đều là hành động của tình yêu, một tình yêu không ngừng ban phát, chia sẻ, nhân lên. Thiên Chúa đã ban phát, đã chia sẻ tình yêu của Ngài cho loài người chúng ta và Ngài muốn cho tình yêu ấy tiếp tục tràn lan từ trong lòng chúng ta đến những con người khác: “Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở trong chúng ta và tình yêu của Ngài nên hoàn tất trong chúng ta” (1Ga 4,12). Bởi vậy, “ai không yêu thương anh em thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu thương” (1Ga 4,8). Còn ai đã biết Thiên Chúa thì phải yêu thương anh em như Ngài. Loài người chúng ta trở nên hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi khi trở nên một cộng đoàn huynh đệ do tình yêu từ Thiên Chúa Ba Ngôi đến nối kết chúng ta lại với nhau trong Ngài.
Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm cao xa, tuyệt vời, vì đó là chính mầu nhiệm đời sống tình yêu bên trong Thiên Chúa. Tuy nhiên, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi lại là một mầu nhiệm thiết thân nhất với chúng ta ; vì đó là chính sự sống Thiên Chúa ban cho chúng ta. Thiên Chúa đã ban Con của Ngài để Con Ngài đưa chúng ta vào trong cung lòng Chúa Cha nhờ Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần là Tình yêu luôn nối kết Chúa Cha với Chúa Con, bây giờ lại đến nối kết chúng ta với Chúa Con và Chúa Cha. Vì vậy, Thiên Chúa Ba Ngôi không phải là Thiên Chúa xa cách ngự nơi cao thẳm trên trời, nhưng Ngài đang ngự trong chúng ta và đang hoạt động trong chúng ta. Nếu chúng ta yêu mến Thiên Chúa và yêu thương anh em, Thiên Chúa Ba Ngôi sẽ đến ở trong chúng ta: “Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy ; Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và Chúng ta sẽ đến ở trong người ấy” (Ga 14,23). Chúng ta sẽ là hình ảnh sống động của Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúng ta sẽ là những Đền thờ sống động của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Như thế, thưa anh chị em, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi mới thực sự là lẽ sống cho đời chúng ta và mỗi lần đọc lên “Nhân Danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” chúng ta sẽ không còn đọc một cách vô ý thức nữa, nhưng với lòng cung kính mến yêu.
Vậy, giờ đây, chúng ta kính cẩn tuyên xưng lòng tin của chúng ta vào Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần trong Kinh Tin Kính.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa có thể nói được là “mầu nhiệm nguồn” của mọi mầu nhiệm. Và con người biết được mầu nhiệm Ba Ngôi là nhờ Chúa Giêsu mạc khải, chứ không phải do nổ lực suy lý của mình. Có điều Chúa Giêsu không bao giờ trình bày mầu nhiệm lớn lao này bằng khái niệm “kỷ thuật số”: “3 ngôi” – ngôi thứ nhất, ngôi thứ hai, ngôi thứ ba…. Ngài chỉ nói Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Mầu nhiệm một Chúa Ba ngôi là mầu nhiệm lớn lao nhưng cũng là mầu nhiệm mà chúng ta tuyên xưng mỗi ngày, qua Dấu Thánh Giá, kinh Sáng Danh, kinh Tin Kính…. Tuy nhiên, đó không phải là mầu nhiệm để tuyên xưng hay để hiểu mà thôi, nhưng còn là để sống. Nói cách khác, tuyên xưng niềm tin vào Mầu nhiệm Ba Ngôi thì phải sống niềm tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi. Vậy sống niềm tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi cụ thể là sống thế nào?
– Sống niềm tin vào Ba Ngôi Thiên Chúa trước hết là sống tâm tình cảm mến tri ân:
Cảm mến tri ân vì Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta biết mầu nhiệm quá đổi lớn lao này. Cảm mến tri ân vì Ba Ngôi mà lại chỉ một Chúa. Đây là nguyên lý của sự hiệp nhất và bền vững của thế giới tạo thành. Có người thắc mắc tại sao không hiểu Ba Ngôi là ba Chúa cho đơn giản mà lại dạy Ba Ngôi một Chúa cho phức tạp, khó hiểu, mệt cái đầu? Thiết nghĩ nếu Ba Ngôi mà ba Chúa có lẽ số phận của con người và vũ trụ này sẽ bất hạnh biết chừng nào, bởi vì cứ tưởng tượng một nhà ba chủ, một nước ba vua, một giáo hội ba giáo hoàng,.. thì sẽ ra sao chúng ta biết rồi.
– Sống niềm tin vào Ba Ngôi Thiên Chúa thứ đến là sống tinh thần hiệp nhất yêu thương:
Tự bản tính, Thiên Chúa là tình yêu, tình yêu hiệp nhất Cha Con và Thánh thần. Chỉ trong tương quan tình yêu, chúng ta mới có thể hiểu phần nào Ba Ngôi mà lại một Chúa: “Ta và Cha Ta là một, Ta ở trong Cha và Cha ở trong Ta”. Nói cách khác, chỉ có tình yêu mới khả dĩ cắt nghĩa được khía cạnh ngôi hiệp trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Bởi thế mà những người đang yêu hiểu khái niệm “ngôi hiệp” một cách dễ dàng hơn, như lời họ bộc bạch trong một bài hát: “Mình với ta tuy hai mà một, ta với mình tuy một mà hai. Tình yêu nối kết chúng ta, ta thương nhau quá nên hai hoá ra thành một”.
Tin vào Ba Ngôi Thiên Chúa luôn yêu thương hiệp nhất như là bản chất của các Ngài, thì ta cũng phải sống tinh thần hiệp nhất yêu thương như các Ngài vẫn sống. Mọi hình thức chia rẽ, hận thù, ly giáo, đoạn tuyệt… đều đi ngược với niềm tin mà ta tuyên xưng vào mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.
– Sống niềm tin vào Ba Ngôi Thiên Chúa sau nữa còn là sống tinh thần hy sinh phục vụ:
Ba Ngôi Thiên Chúa không giữ lại tình yêu cho riêng mình mà chia sẻ tình yêu ấy cho mọi thụ tạo, đặc biệt là con người qua tình yêu tạo dựng, cứu chuộc và thánh hoá. Ba Ngôi Thiên Chúa đã đi vào lịch sử con người qua mầu nhiệm nhập thể để phục vụ và hiến dâng mạng sống cho con người được sống và sống dồi dào. Do vậy không thể tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi mà lại sống ích kỷ hẹp hòi, chỉ biết đến mình, lo cho mình mà thôi.
Khi nghiên cứu vết máu trên tấm khăn liệm thành Turin, các nhà khoa học đã xác định được Chúa Giêsu thuộc nhóm máu B. Là con cái của Thiên Chúa Ba Ngôi và là anh em của Chúa Giêsu cũng có nghĩa là ta cùng huyết thống với Ngài, cùng nhóm máu với Ngài, nhóm máu B. “B” là bác ái, “B” là bao dung, “B” cũng là bình an. Bác ái với mọi người nhất là những người nghèo khổ bất hạnh. Bao dung với những người lầm lỗi, những người đã xúc phạm đến ta hay làm ta tổn thương. Có như thế thì ta mới có được sự bình an của Chúa Ba Ngôi nơi tâm hồn mình được.
Người ta kể rằng Christophe Colombus, người đã khám phá ra châu Mỹ vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ 15, có lòng sùng kính Chúa Ba Ngôi cách rất đặc biệt. Trước mọi hoạt động, ông đều kêu cầu Chúa Ba Ngôi, cũng như ông luôn khởi đầu những gì mình viết bằng dòng chữ: “Nhân danh Chúa Ba Ngôi cực thánh”. Trong cuộc khởi hành thứ 3 của ông năm 1498, Christophe Colombus đã thề hứa sẽ dâng Chúa Ba Ngôi phần đất nào ông khám phá đầu tiên. Vì thế hòn đảo ông đặt chân đến đầu tiên trong cuộc hành trình thám hiểm tân thế giới ấy cho đến nay vẫn được gọi là “Trinidad”, tức là Chúa Ba Ngôi.
Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta khi mừng lễ trọng kính Chúa Ba Ngôi, hay mỗi khi tuyên xưng mầu mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi cũng biết đưa mầu nhiệm ấy vào trong cuộc hằng ngày, bằng việc hết lòng yêu mến Chúa Ba Ngôi như Christophe Colombus đã từng yêu mến. Đồng thời biết hết tình hiệp nhất yêu thương và hết mình hy sinh phục vụ anh chị đồng loại ngay trong gia đình, gia tộc và trong cộng đoàn mà mình đang sống. Amen.
Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm lớn lao nhất của Ki tô giáo, vì mầu nhiệm này thuộc về đời sống thâm sâu của bản tính Thiên Chúa, mà trí khôn con người không thể nào hiểu thấu. Sở dĩ chúng ta tin là vì chính Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta. Tuy nhiên câu hỏi chúng ta cùng chia sẻ hôm nay, đó là Ba Ngôi Thiên Chúa nắm giữ vai trò nào trong cuộc sống của mỗi người chúng ta?
Ngôi thứ nhất là Cha của chúng ta.
Đúng thế, trong các tôn giáo không có một vị thần minh nào đã dám mạc khải mình như thế. Hẳn chúng ta phải hãnh diện vì có được một Thiên Chúa gần gũi chúng ta như một người cha. Và người cha ấy lại là một người cha toàn năng, như thánh vịnh 115 đã diễn tả: Cha chúng ta ở trên trời và Ngài làm được tất cả những gì Ngài muốn. Đồng thời, Ngài còn là một người cha đầy lòng nhân từ và hay thương xót. Ngài biết chúng ta thiếu thốn và luôn ra tay cứu giúp. Có lẽ nhiều người vẫn chưa cảm nghiệm được hết tình phụ tử này. Đa số trong chúng ta mới chỉ biết nhìn vào những hoàn cản phiến diện bên ngoài, để rồi nghi ngờ tình Chúa yêu thương: Tại sao chúng ta luôn ăn ngay ở lành mà vẫn cứ bị thiệt thòi và thất bại? Trong khi đó, kẻ ác thì trái lại, cuộc đời họ cứ lên hương như diều gặp gió? Người lành như thua chạy và chân lý như bị rút vào bóng tối?
Trước hết, chúng ta tin rằng Thiên Chúa là tình yêu. Ngài muốn biểu lộ tình yêu ấy cho mọi người, người lành cũng như kẻ dữ. Nhưng tới một lúc nào đó, sự công bằng của Ngài sẽ được thể hiện và Ngài sẽ xét xử tuỳ theo công việc chúng ta đã làm.
Đối với những thử thách đang gặp, phải chăng Chúa muốn chúng ta kiên nhẫn và vững lòng cậy trông, bởi vì kiên trì trong gian truân sẽ dẫn đưa chúng ta tời hạnh phúc. Hơn thế nữa, rất có thể Chúa đang thử thách để xem chúng ta có bằng lòng vâng phục hay không, bởi vì vâng lời thì trọng hơn của lễ. Đồng thời để xem đức tin của chúng ta đã thực sự trưởng thành hay chưa? Một đức tin trưởng thành sẽ không bao giờ nao múng trước mọi nghịch cảnh. Một người cha đích thực thì phải biết uốn nắn con cái, chứ không được muông chiều và làm cho chúng hư đi: Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi…Hẳn chúng ta còn nhớ câu chuyện ông Gióp trong Cựu Ước. Giữa những hoàn cảnh đen tối, ông không hề oán trách, nhưng một mức phó thác cho Chúa. Cách giải quyết của ông là ở mọi nơi và trong mọi lúc phải luôn tin tưởng và tình thương của Chúa. Sau khi đã được tôi luyện trong đau khổ như thế, chắc chắn chúng ta sẽ xứng đáng lãnh nhận phần thưởng Nước Trời mà Ngài đã hứa ban.
Tiếp đến, Ngôi thứ Hai là Đấng Cứu độ chúng ta.
Sau khi nguyên tổ phạm tội, thì tất cả chúng ta đều phải sống dưới ách nô lệ tội lỗi. Không ai có thể giải thoát chúng ta, bởi vì tội là sự vấp phạm đến Thiên Chúa, nên chỉ một mình Ngài mới có thể giải thoát chúng ta. Và Thiên Chúa đã thực hiện điều ấy. Đấng cứu độ duy nhất của chúng ta chính là Ngôi Hai nhập thể, như lời thánh Gioan đã xác quyết: Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại đến nỗi đã ban chính Con Một của mình cho nhân loại…Ngài đã chịu chết trên thập giá để cứu độ chúng ta và tỏ cho chúng ta thấy một tình yêu tuyệt vời, đó là tình yêu của một người dám hy sinh mạng sống vình vì bạn hữu.
Sau cùng, Ngôi thứ ba là Đấng an ủi chúng ta.
Hẳn rằng trong cuộc sống, có những lúc chúng ta chán nản, không biết phải cầu xin thế nào cho đẹp lòng Chúa. Trong hoàn cảnh như thế, chúng ta hãy nhờ Chúa Thánh Thần mà cầu nguyện. Ngài nắm giữ một vai trò quan trọng và cần thiết trong tâm hồn chúng ta. Ngài sẽ thêm sức, soi sáng và chỉ cho chúng ta cách thức cầu nguyện. Ngài nhắc nhở cho chúng ta biết những nhu cầu cân thiết để kêu xin. Chính Ngài sẽ làm cho tâm hồn chúng ta được lắng đọng và bình an, để rồi chúng ta sẵn sàng vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Ngài thấu suốt mọi tâm tư nguyện vọng và Ngài luôn ra tay nâng đỡ, để rồi chúng ta tìm lại được niềm an ủi và khích lệ, vui mừng và hạnh phúc.
Bởi đó, hãy mở rộng cõi lòng để Chúa Thánh Thần ngự đến và biến đổi tâm hồn chúng ta thành đền thờ của Chúa Ba Ngôi và đừng bao giờ làm buồn lòng các Ngài.
(Suy niệm của ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Hôm nay chúng ta mừng mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi. Gọi là mầu nhiệm vì đó là điều vượt quá trí hiểu của loài người. Tuy chúng ta không thể hiểu thấu mầu nhiệm đó. Nhưng may thay qua Chúa Giêsu, chúng ta thấy được biểu hiện của mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi chính là mầu nhiệm của tình yêu.
Đó là tình yêu hiệp thông. Ba Ngôi Thiên Chúa liên kết với nhau trong tình yêu. Tình yêu đó khiến cho Ba Ngôi trở nên một. Đây là điều Chúa Giêsu nhiều lần khẳng định: “Ta và Cha Ta là một”; “Xin cho chúng nên một như Cha ở trong Con và như Con ở trong Cha” (Ga 17,21). Nên một trong tư tưởng. Nên một trong hành động. Nên Chúa Giêsu luôn làm theo thánh ý Chúa Cha: “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người” (Ga 15,10). Và Đức Chúa Thánh Thần cũng không làm gì ngoài ý muốn của Chúa Giêsu như Chúa Giêsu khẳng định trong bài Tin Mừng hôm nay: “Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em”. Sự hiệp thông trọn vẹn đến nỗi một Ngôi chính là biểu hiện của cả Ba Ngôi như Chúa Giêsu cho biết: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9). Thật là một sự kết hiệp trọn vẹn.
Đó là tình yêu dâng hiến. Chúa Cha có gì thì ban cho Chúa Con tất cả. Như lời Chúa Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay: “Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy”. Chúa Cha ban cho Chúa Con cả chính bản thân mình nên Chúa Con là hình ảnh hoàn hảo của Chúa Cha. Đến nỗi ai thấy Chúa Con là thấy Chúa Cha (cf. Ga 14,9). Ngược lại, nhận được gì thì Chúa Con dâng lại cho Chúa Cha. Dâng cả bản thân. Dâng cả ý muốn. Dâng cả mạng sống. Khi hấp hối trong vườn Giệtsimani, Chúa Giêsu sợ hãi cái chết theo thánh ý Chúa Cha. Người đã tha thiết cầu nguyện: “Áp ba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn” (Mc 14,36). Quả thật tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa là một tình yêu dâng hiến hoàn toàn. Dâng hiến đến không còn giữ gì cho bản thân mình.
Đó là tình yêu tác sinh. Sự dâng hiến không làm cho tình yêu nghèo nàn đi. Trái lại càng làm cho tình yêu thêm sung mãn. Càng cho đi lại càng thêm phong phú. Càng nhận lãnh lại càng thêm năng lực cho đi. Tình yêu đó lan toả đến cả muôn loài muôn vật trong vũ trụ. Tình yêu tràn trề sung mãn nơi Ba Ngôi Thiên Chúa tuôn đổ xuống muôn loài, làm cho muôn loài được hiện hữu, được sống, được tham dự vào nguồn tình yêu vô biên để được hạnh phúc vĩnh cữu.
Chúng ta được tạo dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình yêu. Đời sống của chúng ta chỉ có ý nghĩa khi biết yêu thương. Chúng ta chỉ được hạnh phúc khi tham dự vào tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Nhưng tội lỗi làm cho chúng ta xa lìa tình yêu của Chúa. Sự ghen ghét hận thù làm cho khuôn mặt chúng ta lem luốc méo mó, không còn giống khuôn mặt Thiên Chúa.
Hôm nay ta hãy biết sống theo khuôn mẫu của Chúa Ba Ngôi. Biết sống hiệp nhất với nhau. Biết dâng hiến bản thân mình, biết cho đi, biết chia sẻ, biết sống chan hoà tình bác ái. Để thực hiện những điều ấy, ta phải biết bỏ ý riêng, hoàn toàn sống theo thánh ý Thiên Chúa. Khi biết bỏ mình như thế, ta sẽ nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Khi hoàn toàn quên mình để sống cho tình yêu ta sẽ được kết hiệp với tình yêu của Thiên Chúa. Đó chính là hạnh phúc thiên đàng. Đó chính là đích điểm của đời chúng ta.
Lạy Ba Ngôi Thiên Chúa, xin cho con ngày càng trở nên giống hình ảnh của Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
Sách Phương Ngôn còn gọi là Châm Ngôn (Proverb) nói về sự Khôn Ngoan. Người Do thái ví sự khôn ngoan như người phụ nữ cố gắng kiên trì dẵn dắt mọi người ra khỏi con đường gian tà và tội lỗi. Trong đoạn sách Châm Ngôn hôm nay, sự Khôn Ngoan được diễn tả như một nhân vật đã hiện diện với Thiên Chúa trước khi tạo dựng vũ trụ: “Đức Chúa đã dựng nên ta như tác phẩm đầu tay của Người, trước mọi công trình của Người từ thời xa xưa nhất.” (Cn 8,22). Sự Khôn Ngoan ở cùng Thiên Chúa qua mọi công trình sáng tạo. Tiến trình lịch sử cứu độ được hé mở một cách rất tiệm tiến. Dân Dothái tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất và độc thần. Mầu nhiệm về Ngôi Ba Thiên Chúa được mạc khải từ từ từng bước. Hình bóng Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần còn được ẩn giấu. Sự Khôn Ngoan được nhân cách hoá trong cách diễn tả: “Khi chưa có các vực thẳm, khi chưa có mạch nước tràn đầy, ta đã được sinh ra.” (Cn 8,24).
Nguồn Kinh Thánh mạc khải về Thiên Chúa Ba Ngôi. Thuở xưa, Thiên Chúa đã dùng nhiều cách phán dạy cha ông qua các ngôn sứ, nay Chúa dạy chúng ta qua chính Con Một của Người. Chúa Giêsu đã mạc khải về ngôi vị Thiên Chúa: “Tôi và Chúa Cha là một.” (Ga 10,30). Chúa Giêsu là hiện thân và là Ngôi Lời của Thiên Chúa, khi chúng ta biết Chúa Giêsu, là biết Chúa Cha: “Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người.” (Ga 14,7). Thánh Luca diễn tả hình ảnh Thiên Chúa trong ngôi vị khác nhau qua biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan: “Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con.” (Lc 3,22). Chính Chúa Giêsu đã dùng cách tuyên xưng Ba Ngôi Vị Thiên Chúa khi sai các Tông đồ ra rao giảng Tin Mừng: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.” (Mt 28,19).
Giáo Hội tin kính Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúng ta không thể hiểu thấu mầu nhiệm vì sự giới hạn của ngôn ngữ, sự hiểu biết và trí khôn con người. Qua sự tìm hiểu và kinh nghiệm, chúng ta cũng chỉ học biết một chút về cơ cấu của các sự vật hiện hữu. Chúng ta bị giới hạn mọi thứ từ thời gian, không gian, kiến thức hẹp hòi và sự hiểu biết nông cạn. Tin vào lời Chúa. Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta về Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Nếu chúng ta đòi hỏi hiểu thấu về Thiên Chúa, tôi sợ rằng đó chỉ có thể là chúa do con người nắn nên. Dựa vào lời mạc khải, Kinh Thánh không bao giờ dùng từ Chúa Ba Ngôi. Khoảng năm 115-120, thời Giáo Hội sơ khai, một triết gia tin đạo là Tertullian đã dùng từ ‘Chúa Ba Ngôi’ (Trinity) để cố gắng tìm cách đưa đức tin vào ngôn ngữ của loài người. Chúa Giêsu gọi Thiên Chúa Cha là ‘Abba’, Thánh Tôma Tông đồ khi nhận diện ra Chúa đã thưa: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của tôi.” Chúa Giêsu là Chúa và Ngài gọi Thiên Chúa là Cha.
Giáo Hội đã suy tư rất nhiều qua sự đóng góp của các Thánh Giáo phụ và các vị tiền bối như Origen, Tertullian, Arius, Thánh Basil, Thánh Gregory of Nyssa, Thánh Gregory of Nazienzen và Thánh Augustinô… Đã mất khoảng hơn 300 năm để suy tư tìm tòi, bàn cãi tranh luận và đôi khi là nguyên cớ gây tù đày, phân rẽ và hành khổ nhau. Cho tới khi các giáo phụ họp Công đồng Nicea 325 để định nghĩa về sự liên hệ giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha. Rồi chờ đợi cho tới hơn nửa thế kỷ sau, Công đồng Constantinople mới định nghĩa về Ngôi Thánh Thần. Thánh Augustinô tóm gọn ý nghĩa mầu nhiệm: Chúa Cha là Thiên Chúa. Chúa Con là Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa. Chúa Cha không phải là Chúa Con. Chúa Con không phải là Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần không phải là Chúa Cha, chỉ duy nhất có một Thiên Chúa. Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là ba ngôi riêng biệt nhưng kết hợp làm một Chúa. Thiên Chúa của tình yêu.
Chúng ta nhận biết được tình yêu của Thiên Chúa dành cho loài người qua sự hy sinh của Chúa Giêsu chết trên cây Thánh giá. Mỗi lần chúng ta ghi dấu Thánh giá trên thân mình, tuyên xưng rằng: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, chúng ta tuyên xưng mầu nhiệm Một Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúa Ba Ngôi kết hợp trong tình yêu; trao ban tình yêu và hiến mình vì tình yêu. Chúng ta không thể hiểu thấu mầu nhiệm tình yêu vì tình yêu như biển trời mênh mông có thể dung chứa mọi thứ. Chúng ta được ngụp lặn trong biển tình yêu của Thiên Chúa. Tình Chúa lan toả như khí trời. Tình Chúa bao la hơn biển cả. Mỗi tâm hồn đều được mời gọi để mở đón tình yêu, sống tình yêu và trao ban tình yêu. Tình yêu Thiên Chúa không bao giờ vơi cạn.
Chúa Giêsu trao ban Thánh Thần cho các Tông đồ: Người thổi hơi vào các ông và nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.” (Ga 20,22). Chúa Thánh Thần là nguồn mạch sự sống. Ngài tiếp tục hoạt động canh tân Giáo Hội do Chúa Giêsu thiết lập. Qua mọi thời, nguồn ơn Chúa Thánh Thần luôn tràn đổ trong tâm hồn các tín hữu. Luôn có những nhân chứng đích thực giữa dòng đời để chấn hưng, cải đổi và thắp niềm hy vọng cho mọi người trên đường lữ hành. Chúng ta đều là con cái Thiên Chúa vì được Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Thánh Phaolô dạy: “Quả vậy, phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa.” (Rm 8,14).
Qua Bí tích Rửa Tội, mỗi người chúng ta được tham dự vào sứ vụ làm nhân chứng cho Chúa Kitô phục sinh. Chúng ta trở nên con cái và được tháp nhập vào Nhiệm Thể của Chúa Kitô. Chúng ta là những người được thừa kế ân sủng cứu độ: “Vậy đã là con, thì cũng là thừa kế, mà được Thiên Chúa cho thừa kế, thì tức là đồng thừa kế với Đức Kitô; vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người.” (Rm 8,17). Mỗi người đều phải chu toàn sứ vụ Kitô hữu của mình. Chúng ta không thể sống dựa, ăn nhờ, ở bám hay tùy thuộc vào người khác. Quan sát rừng cây, chúng ta thấy có cả ngàn ngàn các loại cây chen nhau mọc trong rừng. Rừng xanh được tạo nên bởi cả rừng cây muôn loại và muôn màu sắc. Các cây cùng chen nhau mọc vươn lên trong khoảng không, nhưng mỗi cây đều phải bám rễ sâu để giữ thân mình. Mỗi cây có sự sống và có các kết cấu riêng biệt. Mỗi cây tự mình hút chất bổ để nuôi dưỡng thân mình qua những cách thế được tạo hóa phú bẩm. Cây nào không bám rễ sâu sẽ dễ bị tróc gốc khi gặp mưa to gió lớn. Chúng ta hãy bám rễ niềm tin sự sống vào Chúa Kitô Phục Sinh.
Đời sống người Kitô hữu phải gắn bó với tình yêu Chúa Kitô Thập Giá. Tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa Tình Yêu. Chúng ta đặt niềm hy vọng vào sự sống vĩnh cửu của ơn cứu độ. Hãy trông cậy vào nguồn ân sủng hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Chúng ta sẽ nhận biết ý nghĩa và cùng đích của cuộc sống này. Tất cả quy về sự thật là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng đã chịu chết và sống lại để chuộc tội cho nhân loại. Thánh Gioan viết: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến.” (Ga 16,13).
Lạy Chúa, chúng con tuyên xưng Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi mọi nơi và mọi lúc. Mỗi khi làm dấu thánh giá trên thân xác, xin cho chúng con ý thức và nhận biết tình yêu tuyệt vời Thiên Chúa đã dành cho loài người chúng con. Chúng con tôn thờ, ca ngợi và cảm tạ hồng ân Chúa đến muôn muôn ngàn đời.
Thánh Phanxicô Salesiô có một người bạn rất thân là Đức Cha Camus. Đức Cha Camus đến nghỉ hè với Thánh Nhân một thời gian khá lâu. Lúc về nhà vị Giám Mục đã phát biểu: “Trước đây, tôi nghe Đức Cha Phanxicô Salesiô hằng luôn sống trước tôn nhan Chúa, như thể Chúa luôn luôn hiện diện bên ngài, nhưng tôi vẫn chưa tin. tiện dịp, tôi xin đến nghỉ hè tại nhà ngài, để chính mình có dịp kiểm chứng. Nhờ được ở một phòng kế cận phòng ngài, ngày đêm tôi quan sát mọi thái độ, mọi cử chỉ của ngài qua một khe hở, lúc làm việc cũng như lúc ngủ nghỉ, lúc viết lách cũng như lúc cầu nguyện… Nay tôi xin xác nhận rằng: Ngài hằng luôn sống trước tôn nhan Chúa. Ngài ở một mình, nhưng có Chúa hiện diện bên ngài luôn”.
Hôm nay, chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội, sốt sắng dâng Thánh Lễ kính thờ Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi. Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm cao trọng nhất trong Kitô Giáo. Nhờ mầu nhiệm cực trọng này, Chúa ban cho chúng ta một ơn rất cao trọng là cho chúng ta được tham dự vào sự sống thần linh và được tận hưởng tình yêu thâm sâu của chính Chúa Ba Ngôi, khi chúng ta được diễm phúc trở nên con Chúa qua việc lãnh Nhiệm Tích Thánh Tẩy. Từ ngày đó, hồn xác chúng ta trở thành Đền Thờ sống động nơi Chúa Ba Ngôi ẩn ngự; hay nói cách khác, chúng ta là người chiếm hữu được Thiên Chúa, Đấng là nguồn mọi an vui hạnh phúc, là tất cả mọi sự, là gia nghiệp đời đời, là Thiên Đàng của chúng ta ngay trên trần gian này.
Chúng ta cùng nhau tìm hiểu và xin Chúa cho chúng ta cảm nghiệm và thưởng nếm được ơn rất rọng đại này.
Thánh Gioan Tông Đồ đã viết: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (I Jn 4:16). Mà bản tính tình yêu là thông ban. Vậy Ba Ngôi Thiên Chúa tự thông ban chính mình cho nhau theo bản tính, trong đời sống tự tại, thâm sâu, kỳ diệu và hoàn toàn được mãn nguyện từ đời đời. Nhưng chính nhờ tình yêu sung mãn kỳ diệu đó, Thiên Chúa cũng muốn thông ban cho các loài thụ sinh, bằng cách cho chúng được tham dự sự hiện hữu của Ngài; đặc biệt Chúa tạo dựng loài người chúng ta giống hình ảnh Ngài, như một thụ sinh siêu việt được Ngài rất mực yêu thương. Như một người Cha đầy tình phụ tử, Chúa luôn hiện diện bên cạnh chúng ta, trong lòng chúng ta, để săn sóc hướng dẫn, chỉ dạy chúng ta trong mọi chi tiết dù rất nhỏ mọn, suốt cả cuộc sống, bằng ơn quan phòng khôn ngoan đầy yêu thương của Ngài.
Chúa Ba Ngôi ngự trong tâm hồn chúng ta, bao lâu chúng ta sống trong sủng trạng, có ơn nghĩa thánh như những con ngoan thảo hằng làm đẹp lòng Chúa. Tại nơi đây cũng như trên nơi vĩnh phúc, đời sống thần linh kỳ diệu của Chúa Ba Ngôi hằng tiếp diễn một cách sống động và thâm sâu nơi chính bản thể nội tại của Người.
Ba Ngôi Thiên Chúa yêu thương thông ban chính mình cho nhau một cách tự tại và hoàn toàn sung mãn: Chúa Cha được hoàn toàn thỏa lòng nơi chính bản thể nội tại mình, nhiệm xuất Ngôi Con; Chúa Cha và Chúa Con yêu mến nhau nhiệm sinh Ngôi Ba là Thánh Linh Tình Ái.
Chúa Ba Ngôi ngự trong tâm hồn chúng ta và hằng thông ban cho chúng ta sự sống thần linh của Người bằng tất cả tình yêu thương nồng thắm.
III. NGHĨA VỤ PHẢI CÓ ĐỐI VỚI CHÚA BA NGÔI
Đức Tin dạy cho biết: Nếu chúng ta sống trong sủng trạng, có nghĩa với Chúa, chúng ta được diễm phúc có Chúa Ba Ngôi hiển ngự trong tâm hồn. Nhờ đặc ân cao trọng này, chúng ta được trở nên Đền Thờ Sống Động của Chúa, được mệnh danh là người mang Thiên Chúa trong lòng, người chiếm hữu được Thiên Chúa làm của riêng mình, Chúa là Đấng gồm tóm mọi Chân, Thiện, Mỹ, là nguồn hạnh phúc của chúng ta.
Vậy để đền đáp một trong muôn phần những hồng ân cao cả Chúa ban, chúng ta cần chu toàn ba nghĩa vụ khẩn thiết sau đây:
Để cho toàn nghĩa vụ khẩn thiết này, chúng ta hãy hiến tế bản thân và cuộc đời chúng ta, hiệp với Lễ Hiến Tế cực trọng của Chúa Cứu Thế, hằng hiến dâng nơi các bàn thờ đêm ngày trên khắp thế giới, để tôn thờ, ngợi khen, chúng tụng Chúa.
Kết Luận
Làm thế nào chúng ta có thể chu toàn được ba nghĩa vụ khẩn thiết trên đây?
* Là Kitô Hữu, nhờ lãnh nhận Nhiệm Tích Thánh Tẩy, chúng ta được trở nên con cái Chúa, là người thuộc về Chúa Kitô, người chiếm hữu được Thiên Chúa, người được mang Thiên Chúa trong tâm hồn; chúng ta hãy ý thức giá trị của ơn cao trọng này và cố gắng sống xứng đáng với danh hiệu diễm phúc đó.
* Hơn nữa, chúng ta còn là những người được tuyển chọn làm tông đồ vinh danh Chúa, qua các tác vụ khác nhau trong mỗi đoàn thể chúng ta tham dự, như những thừa tác viên chinh phục tha nhân về với Chúa; chúng ta hãy sống như những chứng nhân đích thực của Chúa; để chớ gì khi chúng ta giao tiếp với những ai, họ sẽ nhận ra Chúa hiện diện nơi chúng ta, như họ đã từng thấy Chúa nơi các Thánh.
Xin Mẹ Maria ban ơn trợ giúp, giữ gìn chúng ta luôn sống trong ơn nghĩa Chúa, để chúng ta có thể chu toàn được những nghĩa vụ phải có đối với Chúa, như những con ngoan hiền thảo hiếu được Chúa hài lòng.
(Suy niệm của Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng)
Tin Mừng Ga 16: 12-15 Thiên Chúa mạc khải cho chúng ta biết Tình yêu ở nơi Ngài và chính Ngài là Tình yêu.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là nền tảng của niềm tin Kitô giáo. Đây là mầu nhiệm không thể hiểu thấu. Chúng ta cần phải sống trong sự thân tình với chính Thiên Chúa mới có thể hiểu được. Thiên Chúa mạc khải cho chúng ta biết Tình yêu ở nơi Ngài và chính Ngài là Tình yêu ; Tình yêu giải thích tất cả công trình của Ngài. Tình yêu tuôn trào lên muôn vật, cách đặc biệt nơi con người, thụ tạo cao quí của Thiên Chúa.
Đồng thời, Thiên Chúa cũng đòi hỏi con người một sự đáp trả duy nhất, đáp trả bằng tình yêu. Một tình yêu khởi đi từ Chúa Cha, qua và trong Chúa Con, dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần. Đời sống của người Kitô hữu đích thực là đời sống của tình yêu, không thể định nghĩa khác được.
Chính Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta hiểu mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi, dẫn chúng ta đi vào trong Ngài, và giúp chúng ta sống mật thiết với Ngài.
Nhìn vào sự hiệp nhất Ba Ngôi, mỗi người chúng ta tự hỏi xem ngày nay chúng ta đã và đang sống và xây dựng sự hiệp nhất trong gia đình cũng như trong Giáo hội như thế nào? Vợ chồng, cha mẹ và con cái có sự thống nhất thuận thảo trong việc xây dựng hạnh phúc gia đình hay không? Nếu chỉ nghĩ đến cái tôi thì không bao giờ có sự hiệp nhất. Trong Giáo hội cũng thế, là thành viên của Giáo hội mỗi Kitô hữu đã sống và đi theo những giáo huấn của Giáo hội ra sao? Sự hiệp nhất giữa giáo dân và giáo sĩ để xây dựng giáo xứ, Giáo hội và loan báo Tin mừng như thế nào? Không hiếm những chuyện “trống đánh xuôi kèn thổi ngược” giữa người trên và người dưới ; giữa giáo sĩ và giáo dân. Những điều đó không thể nào tạo nên sự hiệp nhất và phát triển cũng như không thể nào làm cho người ngoài hiểu được Mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa.
Tin vào một Thiên Chúa Duy Nhất có Ba Ngôi, thì phải sống và làm thế nào để thể hiện niềm tin ấy. Có một phương thế hay nhất là xây dựng sự hiệp nhất trong chính Giáo hội mình. Tôi đã sống và xây dựng sự hiệp nhất giữa tôi và anh chị em trong Giáo hội theo gương Ba Ngôi như thế nào?
Chúa Giêsu yêu và nói về tình yêu của Người. Cho nên, chỉ có thể hiểu Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi trong nhãn giới của tình yêu mà thôi. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa Ba Ngôi. Ai yêu thương thì quả thật người ấy hiểu và có Thiên Chúa Ba Ngôi nơi mình.
III. LỜI NGUYỆN TÍN HỮU
Mở đầu: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta tình yêu thương hiệp nhất nơi Ba Ngôi Thiên Chúa. Trong tâm tình cảm phục, chúng ta cùng dâng lên Chúa những ước nguyện của chúng ta.
Lời kết: Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi, trong Chúa chỉ có tình yêu ngự trị. Xin cho mỗi người, mỗi gia đình và toàn thể cộng đoàn chúng con luôn sống dồi dào tình yêu Chúa để mỗi người biết tôn trọng, sống cho nhau và vì nhau, nhờ đó, gia đình và cộng đoàn chúng con ngày càng phát triển hơn. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Ngày 22-5-2013, Nick Vujicic, chàng trai không chân không tay tới Việt Nam. Từ ngày 22 đến 26 tháng 5, Nick sẽ có 8 buổi diễn thuyết (45 phút/buổi) với các đối tượng khác nhau. Anh sẽ trình bày trước 25.000 sinh viên tại sân vận động Mỹ Đình (Hà Nội) từ 18g30 – 21g30 và ngày 23-5 trước 15.000 người tại sân vận động Thống Nhất, Sài Gòn từ 18g – 21g ngày 25-5. Anh đến Việt Nam để truyền cảm hứng cho các bạn trẻ về niềm tin tình yêu và nghị lực.
Nick Vujicic sinh ngày 4-12-1982 tại Melbourne, Australia và hiện đang sống tại Mỹ. Không may mắn như những đứa trẻ khác, Nick đã ra đời với cơ thể không lành lặn, thiếu chân, thiếu tay. Bố mẹ Nick gần như ngất đi sau khi nhìn thấy đứa con bé bỏng đáng thương của mình chào đời. Thế nhưng, họ luôn cố gắng giúp con trai có một cuộc sống bình thường như bao đứa trẻ khác.
Bằng nghị lực phi thường cùng phương châm sống: “Tật nguyền lớn nhất trong đời là khi mất hy vọng. Hãy tin tôi đi, mất hy vọng còn tồi tệ hơn nhiều so với chỉ mất chân tay”, Nick Vujicic đã vươn lên để trở thành nhà diễn thuyết nổi tiếng thế giới. Anh là người “kỳ diệu nhất hành tinh”. Qua những bài diễn thuyết, Nick Vujicic luôn nói về niềm tin và hy vọng vào Thiên Chúa Tình Yêu đã cho anh nghị lực vươn lên để trở thành người có ích, sống vui tươi hạnh phúc.
Có người nông dân dạy con trai mới lớn: muốn cho mướp ra nhiều trái phải bấm ngọn.
Cậu bé hỏi: tại sao?
Người cha trả lời: vì nó tức nên nó đâm trái.
Có thể cậu bé không bằng lòng với câu trả lời của cha, nhưng sau này khi vào đại học nông nghiệp, cậu sẽ biết rõ lý do.
Một em bé đứng trước thi hài ông nội, hỏi mẹ: Mẹ ơi sao ông nội chết vậy hả mẹ?
Mẹ đáp: vì ông nội già rồi.
Bé lại hỏi: thế bà nội già rồi sao không chết? Chú Tư trẻ vậy sao lại chết.
Người mẹ vui mừng vì thấy con thông minh lý sự nhưng lúng túng không tìm ra câu trả lời thoả đáng. Khi lớn lên bé sẽ hiểu lý do.
Trong cuộc sống, có nhiều điều lạ lùng mà trí khôn con người vẫn không bao giờ hiểu thấu. Để diễn tả các điều khó hiểu của cuộc sống, cha ông ngày xưa mới đố nhau: Đố ai biết lúa mấy cây, Biết sông mấy khúc, biết mây mấy tầng. Đố ai quét sạch lá rừng, Để ta khuyên gió, gió đừng rung cây.
Có lẽ trong tất cả mọi điều khó hiểu của cuộc sống con người thì tình yêu là khó hiểu nhất. Chỉ nguyên định nghĩa tình yêu thôi cũng đủ để hao tổn bao công sức và giấy mực qua các thời đại mà vẫn không có được một định nghĩa diễn tả trọn vẹn ý nghĩa. Và vì không có được một định nghĩa nên người ta mới coi tình yêu như là mầu nhiệm.
Thế nhưng, mầu nhiệm tình yêu có đáng là gì so với các mầu nhiệm của Thiên Chúa. Trong các mầu nhiệm của Thiên Chúa thì mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là cao cả nhất, khó hiểu nhất. Như sách giáo lý Giáo Hội Công Giáo khẳng định: Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trọng tâm của đức tin và đời sống Kitô hữu. Bởi vì đây là mầu nhiệm về đời sống nội tại của Thiên Chúa mà cũng là mầu nhiệm của Thiên Chúa “cho chúng ta”.
Trước mầu nhiệm Ba Ngôi, một mầu nhiệm cao sâu, trí khôn nhỏ bé của con người không thể hiễu nổi.Tại sao Một Chúa mà Ba Ngôi? 1 là 3 và 3 là 1?.
Vậy phải hiểu và đón nhận mầu nhiệm quá cao siêu này như thế nào?
Ba Ngôi là một mầu nhiệm thuộc đời sống nội tại của Thiên Chúa, vượt quá mọi khả năng hiểu biết và suy luận của trí khôn hữu hạn con người. Qua bao thời đại, trí khôn con người dựa vào mạc khải để tìm hiểu huyền nhiệm sâu thẳm này.
Thánh kinh có bàn nhiều về mầu nhiệm Ba Ngôi.
– Mạc khải Cựu ước chủ yếu là mầu nhiệm Thiên Chúa duy nhất nhưng cũng có mầm móng về mầu nhiệm Ba Ngôi. Niềm tin độc thần là tín điều lớn nhất của Cựu ước (Đnl 6, 4-5). Điều này cần thiết cho bối cảnh đa thần giáo ở Trung đông thời bấy giờ.
– Mạc khải Tân ước dạy rõ ràng hơn về Thiên Chúa Ba Ngôi. Sứ thần Gabriel đến báo tin cho Đức Maria: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ che chở bà, vì thế Hài Nhi bà sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”. Những lời đó cho biết: Đấng Tối Cao là Chúa Cha cùng với Chúa Thánh Thần sẽ lo cho Hài Nhi sắp sinh ra là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Hình ảnh đặc trưng nhất là khi Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan, chim bồ câu ngự xuống đậu trên Ngài (Ga1, 32-34). Tiếng Chúa Cha tuyên phán: Con là con Ta yêu dấu (Mt 1, 11). Tiếng nói, chim câu, Chúa Giêsu, ba hình ảnh này tạo nên chân dung sống động về Ba Ngôi. Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu hứa với các tông đồ: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bàu Chữa khác, đó là Thần Khí sự thật…” Chúa Giêsu xin Chúa Cha ban Đấng Bàu Chữa là Thần Khí sự thật, nghĩa là Chúa Thánh Thần cho các môn đệ. Trong phúc âm Matthêu có câu nói nổi tiếng về Ba Ngôi “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” (Mt 28, 19). Thánh Phaolô luôn cầu chúc: Ân sủng của Đức Kitô, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng anh chị em.
Chỉ có một Thiên Chúa nhưng Thiên Chúa có Ba Ngôi và là Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa con và Chúa Thánh Thần. Mỗi ngôi vị đều là Thiên Chúa, dù vậy vẫn chỉ có một Thiên Chúa mà thôi. Mỗi ngôi vị đều bằng nhau về thần tính và ưu phẩm, nhưng không có ba Thiên Chúa ngang nhau mà chỉ có một Thiên Chúa. Mỗi ngôi vị đều có trọn vẹn sự sống thần linh trong mình dù chỉ có một sự sống thần linh duy nhất. Nói theo từ ngữ của Công đồng Vatican II: Sáng kiến cứu độ là của Chúa Cha. Chúa Cha chia sẻ và bàn bạc sáng kiến ấy với Chúa Con và Chúa Thánh Thần.Việc thực hiện sáng kiến ấy giống như một bản trường ca gồm hai phần chính. Đức Kitô thực hiện phần đầu. Ngài nhập thể, mạc khải về Chúa Cha dâng lên Cha hy lễ thập giá để cứu độ. Phần hai dựa vào công trình ấy mà nâng con người lên, đưa con người về cùng Cha, đó là phần vụ của Chúa Thánh Thần. Thánh Ignatio Loyola trong một lần cầu nguyện, bổng nhiên nhận ra Ba Ngôi dưới hình dạng ba nốt nhạc tạo nên một hợp âm duy nhất.
Thiên Chúa duy nhất nhưng không phải là Thiên Chúa đơn độc mà là cộng đồng Ba Ngôi thương yêu nhau hướng về nhau. Ba Ngôi là một gia đình. Giáo hội là một gia đình của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Cha, Đức Giêsu là Trưởng Tử, mọi người là anh chị em của nhau. Đạo lý Đông phương vốn trọng chữ trung, chữ hiếu và chữ nhân, rất gần gũi với tinh thần Kitô giáo. Trung với Chúa, hiếu thảo với tổ tiên ông bà cha mẹ, nhân ái với mọi người.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi và duy nhất là một mầu nhiệm vĩ đại thâm sâu mà trí tuệ con người không thể nào hiểu hết, chỉ có thể đón nhận bằng đức tin. Thực tại Ba ngôi không là một điều nghịch lý nhưng là nghịch thường và siêu lý. Mầu nhiệm Ba Ngôi là ánh sáng chói loà rực rỡ, ánh sáng ban sự sống cho những ai khiêm nhường đón nhận và sẽ là bóng tối dày đặc đầy mâu thuẫn đối với những kẻ kiêu căng muốn dùng lý trí làm thước đo siêu việt.
Nhìn lên cung thánh, ta thấy Thánh Giá, Nhà Tạm, Bàn Thờ. Đó là trung tâm niềm tin của người Kitô hữu.Trên Thánh Giá, Đức Kitô đã tự hiến làm hy lễ dâng lên Chúa Cha.Ngài tự nguyện chịu đau khổ, chịu chết trong tinh thần vâng phục và yêu mến đối với Cha, để thiết lập giao ước mới với Giáo hội trong máu của Ngài. Ngài đã phục sinh về với Cha nhưng vẫn luôn ở lại với Giáo hội qua Bí Tích Thánh Thể mà Nhà Tạm là nơi Ngài hiện diện thường trực. Bàn thờ tượng trưng cho Chúa Kitô.Khi linh mục cử hành thánh lễ là tưởng niệm hy lễ thập giá và cử hành mầu nhiệm phục sinh của Đức Kitô.
Ba Ngôi sống bằng một lương thực thần linh, cùng một sự sống đó là tình yêu thần linh. Chúng ta được tham dự vào sự sống của Ba Ngôi khi đi vào cử hành mầu nhiệm vượt qua trong thánh lễ. Với chúng ta sự sống ấy là sự sống của Đức Kitô, Mình và Máu Đức Kitô trao ban qua thánh thể “Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì có sự sống đời đời” (Ga 6, 34). Khi chia sẽ chén hiệp thông cuả Ba Ngôi, chúng ta được mời gọi hiệp thông với nhau để trở nên một như Ba Ngôi là một(Ga 17, 21).
Chúng ta đến Nhà thờ để tìm Chúa và gặp Chúa. Nói theo kiểu nói của Đức Hồng y Henry de Lubac: Con người tìm Chúa là một người bơi lội giữa đại dương. Mỗi lần tiến tới là đẩy lui một đợt sóng. Bơi lội giữa đại dương làm cho con người khiếp đảm lo sợ không tới bến. Nhưng Thiên Chúa vừa là bến bờ vừa là đại dương. Ai bơi lội trong đại dương là bơi lội trong Thiên Chúa. Hướng tới Chúa đã là ở trong Chúa, tìm Chúa gặp Chúa là hướng về Chúa. Không có sự tìm kiếm nào mà không phải phấn đấu, không gặp mâu thuẫn đau khổ. Nhưng chúng ta tin vào Thiên Chúa đang ở với chúng ta trong Đức Kitô và lôi kéo chúng ta với sức mạnh Chúa Thánh Thần.
Sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là sống hiệp thông và chia sẻ, là ở lại trong tình yêu. Mỗi ngày người tín hữu chúng ta làm dấu Thánh giá nhiều lần trên thân xác “Nhân danh Chúa Cha, Chúa con và Chúa Thánh thần”. Ước gì mỗi người cũng biết in dấu Chúa Ba Ngôi, hiệp thông chia sẻ trong cuộc sống hàng ngày của mình.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
“Chúc tụng Chúa Cha,
Chúa Con và Chúa Thánh Thần ,
Vì Chúa đã tỏ lòng từ bi đối với chúng ta”.
Đó là mở đầu thánh lễ mừng kính Chúa Ba Ngôi. Các bản văn phụng vụ không nhằm giải thích tại sao một Thiên Chúa duy nhất mà lại có Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần. Mạc khải trọn vẹn về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi đã được hoàn tất nơi Chúa Giêsu Kitô, nhưng cả khi mạc khải cho các môn đệ về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, Chúa Giêsu cũng đã không giải thích tại sao Thiên Chúa duy nhất mà lại có Ba Ngôi.
Chúa Giêsu đã mạc khải cho các tông đồ, nhất là trong bài diễn văn từ biệt dài trong bữa Tiệc Ly về sự hiện diện và tác động của từng ngôi: Cha, Con và Thánh Thần, và về mối tương quan hiệp nhất giữa Ba Ngôi mà không giải thích lý do tại sao. Các tông đồ lúc đó cũng đã không thắc mắc tại sao như vậy, nhưng các ngài đã yêu mến, chấp nhận và sống mầu nhiệm với hết lòng chân thành.
“Ta và Cha Ta, Chúng ta chỉ là một. Ai tuân giữ giới răn Ta truyền thì Chúng ta sẽ đến ngự trong người đó”. Trong Phúc âm thánh Gioan được dùng trong thánh lễ kính Chúa Trời Ba Ngôi là những lời của Chúa Giêsu mạc khải về mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa: Cha, Con và Thánh Thần. Chúa Giêsu đã mạc khải cho các môn đệ như sau: “Thầy còn nhiều điều phải nói với các con, nhưng bây giờ chúng con không thể lĩnh hội được. Khi Thần Chân Lý đến, Người sẽ dạy chúng con biết tất cả sự thật, vì Người không tự mình mà nói, nhưng Người nghe gì thì sẽ nói như vậy và Người sẽ dạy bảo các con biết những việc tương lai. Người sẽ làm vinh danh Thầy, vì Người đã lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con. Tất cả những gì Cha có đều là của Thầy, vì thế Thầy đã nói là Người sẽ lãnh nhận nơi Thầy mà loan truyền cho các con”.
Đó là những lời trích từ bài diễn văn dài được ghi lại nơi ba chương của Phúc âm thánh Gioan, từ chương XIV-XVI, trong đó mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi được Chúa Giêsu nhắc đến mà không giải thích cho các tông đồ. Vấn đề quan trọng nhất không phải là biết hết tất cả mọi sự về Thiên Chúa mà là sống mầu nhiệm Thiên Chúa. Sự hiểu biết của con người tuy có thể đạt được phần nào về Thiên Chúa nhưng không thể nào biết trọn được cả.
Sự việc đã xảy ra cho thánh Augustinô khi thánh nhân suy nghĩ về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi còn là một lời dạy cho chúng ta ngày nay. Trí khôn con người hữu hạn làm sao có thể hiểu hoàn toàn về Thiên Chúa vô cùng, nếu muốn hiểu thì chẳng khác nào muốn đem nước của đại dương mênh mông mà đổ vào trong một lỗ nhỏ như trò đùa của em bé mà thánh Augustinô gặp nơi bờ biển.
“Thầy con nhiều điều phải nói với chúng con, nhưng bây giờ chúng con không thể lĩnh hội được. Khi Thần Chân Lý đến, Người sẽ dạy chúng con biết tất cả sự thật, Ngài sẽ đưa các con vào trong trọn cả sự thật”. Mỗi ngày chúng ta cần lớn lên trong tương quan với Thiên Chúa, cần được Chúa Thánh Thần soi sáng, hướng dẫn chúng ta tiến sâu vào trong mầu nhiệm bao la của Thiên Chúa Ba Ngôi. Đây là một sự khám phá vô cùng và mãi không bao giờ ngừng, cả cho đến khi chúng ta được đối diện với Thiên Chúa trong cõi đời đời.
Mỗi ngày chúng ta càng được hướng dẫn hay để cho mình được hướng dẫn tiến sâu vào trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi thì chúng ta càng trưởng thành trong đức tin, đức cậy và đức mến, càng được thần thiêng hóa trở nên giống Thiên Chúa hơn và đối xử với anh chị em xung quanh như chính Thiên Chúa muốn.
Càng được thấm nhuần trong mầu nhiệm Thiên Chúa bằng đời sống cầu nguyện, kết hiệp thân tình với Thiên Chúa thì chúng ta càng có tâm hồn quảng đại, mở rộng đón nhận anh chị em xung quanh và phục vụ họ trong mọi hoàn cảnh cụ thể. Đây là kinh nghiệm sống đức tin của những vị thánh mà không chứng minh hay giải thích nào của lý trí có thể đủ sức trình bày.
Nguyện xin Thiên Chúa Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần, mà dấu thánh giá chúng ta mang lấy hy sinh mình hàng ngày trước mỗi công việc quan trọng ban cho chúng ta được mỗi ngày một tiến sâu vào trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, được ẩn mình trong Thiên Chúa, được biến đổi trong Thiên Chúa để sống trọn cuộc sống con người của mình trên trần gian này và mãi mãi trong cõi vĩnh phúc mai sau.
(Suy niệm của Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long)
Có câu chuyện vui giả tưởng trong dân gian: Một giáo sư dậy môn thần học sau khi qua đời được đưa đến trình diện Thiên Chúa. Trước ngai tòa Thiên Chúa, vị giáo sư được Thiên Chúa ca ngợi về công lao nghiên cứu giảng dậy cho sinh viên về mầu nhiệm Thiên Chúa. Sau đó Thiên Chúa tiếp: “Thưa giáo sư, nhưng đôi khi ngài giảng dậy nói về Ta, mà chính Ta cũng không biết như thế…!”
Phải, chúng ta có thể nói, diễn tả về Thiên Chúa cao sang diệu vợi bao nhiêu có thể. Nhưng người nghe có thể lĩnh hội hiểu được không? Và có giúp cho đức tin của họ thêm sâu xa vững chắc vào Chúa không, nhất là trong những khi đời sống gặp cảnh chao đảo hồ nghi?
Những nhà thần học tầm cỡ to lớn vĩ đại thông thái thường đưa ra nhận xét: Tất cả những gì chúng ta nói về Thiên Chúa, đều vừa không đúng như Ngài là, và cũng có điểm giống như Ngài là. Nhất là về mầu nhiệm Một Thiên Chúa có ba ngôi.
Vậy diễn tả đức tin về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi như thế nào cho dễ hiểu cùng nói lên được cả tâm tình đức tin từ trong tâm hồn?
Người tín hữu Chúa Kitô hằng ngày đều tuyên xưng đức tin mình vào Thiên Chúa Ba Ngôi. Họ tuyên xưng bằng lời nói qua môi miệng, và còn bằng cả cử chỉ trên ngay nơi chính thân thể mình: Dấu Thánh Giá.
Dấu Thánh Giá với người tín hữu Chúa Kitô là dấu chỉ cực thánh nhất. Dấu chỉ này biểu lộ diễn tả đức tin từ trong tâm hồn ra bên ngoài. Dấu chỉ đó là ngôn ngữ của đức tin từ trong trái tim tâm hồn người tin yêu Thiên Chúa.
Ngay từ thuở còn thơ bé sau khi mở mắt chào đời, em bé đã được Hội Thánh ghi dấu thánh giá trên trán rồi tưới gội làn nước Bí Tích rửa tội trên đỉnh đầu: Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần. Amen.
Em được rửa tội không chỉ trong làn nước thiên nhiên do Thiên Chúa tạo dựng nên, nhưng còn trong Ba Ngôi Thiên Chúa.
Rồi trong đời sống hằng ngày, người tín hữu Chúa Kitô đều làm dấu thánh giá, để nói lên lời cầu xin ơn chúc lành, phù hộ của Chúa, để nói lên tâm tình tạ ơn, và tuyên xưng đức tin vào Một Thiên Chúa có Ba ngôi
Dấu thánh giá nhắc nhớ đến Bí Tích và đức tin rửa tội ngày xưa đã lãnh nhận “một Thiên Chúa, một đức tin và một phép Rửa”.
Những dấu chỉ dấu thánh gía hình chữ thập được làm trên toàn thân thể:
– trên trán, nơi có trí não suy nghĩ điều tin
– trên môi miệng, nơi để nói loan truyền điều tin
– trên ngực, nơi có trái tim trung tâm của sự sống và tình yêu”, yêu mến điều tin
– ngang sang hai bờ vai trái và phải nói lên tâm tình: Những người bên trái bên phải con đường đời sống mà ta gặp gỡ hay có trách nhiệm với đều liên kết với nhau trong sự tin tưởng cùng lo cho nhau.
Dấu thánh giá không chỉ diễn tả đức tin của riêng một cá nhân với Chúa, nhưng còn nói lên chiều kích nền tảng của nếp sống trong xã hội con người với nhau.
Người tín hữu Chúa Kitô mỗi khi làm dấu thánh gía nói lên đức tin vào một Chúa Ba Ngôi. Và qua đó họ được củng cố thêm mạnh sức cho đức tin vào Chúa: Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Họ không sống đức tin một mình, nhưng trong Ba Ngôi Thiên Chúa.
Và dấu chỉ dấu thánh giá họ làm là ngôn ngữ diễn tả đức tin từ trong tâm hồn ra bên ngoại ngay trên chính thân thể mình.
SỐNG YÊU THƯƠNG HIỆP NHẤT THEO KHUÔN MẪU BA NGÔI
Mầu nhiệm Ba Ngôi tuy cao siêu nhưng không viển vông xa rời thực tế. Trái lại đây là một mầu nhiệm rất thiết thân, rất gắn bó với đời sống người tín hữu. Mầu Nhiệm nầy mời gọi các ki-tô hữu luôn sống yêu thương hiệp nhất theo khuôn mẫu ba Ngôi.
Gia đình Thiên Chúa” hiệp nhất trong yêu thương: Ba Ngôi nên một.
Trước hết, chúng ta hãy chiêm ngắm “Gia đình” ba Ngôi (xin tạm dùng cụm từ ‘Gia đình’ để diễn tả sự hiệp thông rất mật thiết giữa ba Ngôi Thiên Chúa). “Gia đình” nầy có ba Vị hay ba Ngôi riêng biệt (Vị / Ngôi đồng nghĩa với nhau): Vị thứ nhất là Chúa Cha, Vị thứ hai là Chúa Con, Vị thứ ba là Chúa Thánh Thần, tuy vậy ba Vị chỉ là một Thiên Chúa. (sách bổn cũ ghi: Thiên Chúa nhất Thể tam Vị).
Chính Chúa Giêsu khẳng định chân lý nầy khi Ngài phán: “Thầy với Chúa Cha là một” (Ga 10,30). Vì thế, “ai thấy Thầy là đã xem thấy Chúa Cha” và Chúa Thánh Thần bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra (kinh tin kính).
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu còn nói rõ hơn cho chúng ta biết tình hiệp thông khắng khít giữa Người với Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần: “Tất cả những gì Cha có, đều là của Thầy” (Ga 16,15).
Ngoài ra, Chúa Giêsu còn dạy cho chúng ta biết: “Chúa Cha yêu thương người Con và đã giao mọi sự trong tay Người” (Ga 3,35). Rồi “Con yêu Cha nên Con làm mọi sự đúng như Chúa Cha đã truyền dạy” (Ga 14, 31) cho dù phải “vâng lời Chúa Cha trong mọi sự cho đến chết và chết trên thập giá” (Phi 2,8).
Như thế, trong “Gia đình” nầy, tình yêu thương đậm đà thắm thiết giữa ba Ngôi đã liên kết Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần nên một với nhau, thế nên Hội Thánh dạy rằng dù có ba Ngôi, nhưng chỉ có một Chúa.
Thiên Chúa kiến tạo các gia đình nhân loại theo khuôn mẫu ba Ngôi.
Thế rồi, Thiên Chúa đã chọn “Gia đình ba Ngôi” như một khuôn mẫu lý tưởng để dựng nên gia đình Ađam- Evà. Kinh thánh cho biết: “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ” (St 1,27) và đôi vợ chồng đầu tiên nầy tuy gồm hai ngôi vị khác nhau nhưng cũng chỉ là một.
Để trình bày tính cách ‘hai mà một’ nầy, kinh thánh mô tả cách thi vị như sau: Sau khi tạo dựng Ađam, Thiên Chúa khiến cho ông ngủ say rồi rút xương sườn của ông mà dựng nên E-và rồi dẫn bà đến với ông. Bấy giờ A-đam nói: “Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi” (St 2, 23). Bởi đó, “Người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt” (St 2, 24).
Qua Tin Mừng Mat-thêu, Chúa Giêsu một lần nữa khẳng định với mọi người rằng trong hôn nhân, hai vợ chồng “không còn là hai nhưng chỉ là một xương một thịt” nên không bao giờ được chia lìa. (Mt 19,6).
Thiên Chúa kiến tạo Hội Thánh theo khuôn mẫu ba Ngôi.
Tiếp theo, Thiên Chúa cũng chọn “Gia đình” Ba Ngôi làm khuôn mẫu lý tưởng để dựng nên gia đình thứ ba, rộng lớn hơn nhiều là đại Gia đình Hội Thánh.
Để thực hiện dự án nầy, Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích thánh tẩy để tháp nhập mọi tín hữu vào thân mình Người (như những cành nho được tháp vào thân nho, như bàn tay được tháp vào cơ thể.) Thánh Phao-lô dạy:”Bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Ki-tô, đều mặc lấy Đức Ki-tô. Không còn chuyện phân biệt Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Ki-tô. (Ga 3, 27-28). Thế là cả hàng tỉ người tin Chúa và được thanh tẩy trong Đức Giêsu Ki-tô không còn là nhiều nhưng đã hiệp thông nên một: một nhiệm thể Chúa Ki-tô.
Chúa Giêsu lại còn dùng bí tích Thánh Thể để tăng cường sự hiệp thông nầy nên mật thiết hơn. Nhờ hiệp thông với Mình Máu thánh Chúa Giêsu trong thánh lễ, các tín hữu được trở nên đồng huyết nhục với Chúa Giêsu và nên một với nhau.
Chúa Giêsu muốn rằng sự hiệp thông giữa những người con cái Chúa phải bền chặt như sự hiệp thông giữa ba Ngôi. Thế nên, trước khi lìa xa các môn đệ, Ngài thành khẩn cầu xin cùng Chúa Cha: “Lạy Cha, xin cho họ nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha”.(Ga 17, 21)
* * *
Trong ngày lễ Chúa ba Ngôi hôm nay, chúng ta hãy quyết tâm chọn “Gia đình ba Ngôi Thiên Chúa” làm mô hình lý tưởng để xây dựng gia đình chúng ta, xây dựng giáo xứ chúng ta thành gia đình yêu thương và hiệp nhất bền chặt như “Gia đình Thiên Chúa ba Ngôi”, nhờ đó mỗi gia đình sẽ trở nên hình ảnh sống động về Thiên Chúa ba Ngôi như lời nhắn nhủ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam trong thư mục vụ gửi cộng đoàn dân Chúa năm 2002 (số 6):
“Chính sự hiệp thông mật thiết trong gia đình Kitô giáo là hình ảnh hiệp thông giữa ba Ngôi Thiên Chúa.”
(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
Khi tìm hiểu đạo, nhiều người tự hỏi: Tại sao chỉ có một Chúa mà lại có ba ngôi? Ngôi là gì? Tại sao có ba ngôi Thiên Chúa là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần mà chỉ là một Thiên Chúa duy nhất… và có hình ảnh nào giúp hiểu thêm về ba ngôi Thiên Chúa không?
Trước hết, ngôi là gì? Ta có thể hiểu cách đơn giản rằng từ “ngôi” đồng nghĩa với từ vị hay đấng, “ba ngôi” đồng nghĩa với ba vị hay ba đấng.
Thứ đến, ta có thể dùng hình ảnh một gia đình đầm ấm yêu thương để diễn tả về ba ngôi Thiên Chúa.
Gia đình ki-tô hữu, ba ngôi nên một
Một gia đình yêu thương đầm ấm có người cha là ngôi hay vị thứ nhất, người mẹ là ngôi thứ hai và đứa con là ngôi thứ ba. Ba người này, ba vị này hay nói theo ngôn từ giáo lý là ba ngôi này luôn yêu thương gắn bó mật thiết với nhau, một lòng một ý với nhau, lúc nào cũng xem nhau như một… Như thế, ba ngôi (người) này không còn là ba mà đã hiệp thông nên một.
Chính Chúa Giê-su xác nhận hai vợ chồng này là một khi dạy rằng: “Người nam sẽ lìa bỏ cha mẹ mà gắn bó với vợ mình và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt” (Mat-thêu 19, 5-6).
(Ở đây, Chúa Giê-su không có ý dùng từ “một” theo số học để tính số lượng, nhưng theo nghĩa hiệp nhất, nghĩa là các thành viên trong gia đình hiệp thông nên một với nhau.)
Và đứa con là ngôi (người) thứ ba trong gia đình, được sinh ra từ sự phối hợp của đôi vợ chồng đã trở nên “một xương một thịt” này cũng gắn bó mật thiết với cha với mẹ trong tình yêu thương, nên cả ba người trở nên một.
Ba người trong gia đình này luôn gắn bó hiệp nhất với nhau trong tình yêu thương là một hình ảnh về ba ngôi Thiên Chúa.
Vì thế, trong thư mục vụ gửi cộng đồng dân Chúa năm 2002, Hội đồng Giám mục Việt Nam đã dùng hình ảnh gia đình hiệp thông trong yêu thương như một hình ảnh về ba ngôi Thiên Chúa. Thư mục vụ có câu: “Chính sự hiệp thông mật thiết trong gia đình ki-tô giáo là hình ảnh hiệp thông giữa ba ngôi Thiên Chúa” (số 6).
Gia đình Thiên Chúa[1], ba Ngôi nên một
Giờ đây, chúng ta hãy chiêm ngắm “Gia đình” ba ngôi Thiên Chúa.” “Gia đình” nầy có ba vị hay ba ngôi riêng biệt: Ngôi thứ nhất là Chúa Cha, ngôi thứ hai là Chúa Con, ngôi thứ ba là Chúa Thánh Thần.
Chúa Giê-su tỏ cho chúng ta biết Ngài và Chúa Cha là một, như sau: “Thầy với Chúa Cha là một” (Ga 10,30). Vì thế, “Ai thấy Thầy là đã xem thấy Chúa Cha” (Ga 14,9).
Còn Thánh Thần là Đấng xuất phát từ Chúa Cha và Chúa Con, là một với Chúa Cha và Chúa Con.[2]
Như thế, trong “Gia đình” nầy, tình yêu thương sâu đậm giữa ba ngôi đã liên kết Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần nên một, thế nên Hội thánh dạy rằng dù có ba Ngôi, nhưng chỉ có một Chúa.
Gia đình ki-tô hữu hiệp thông nên một theo mẫu mực gia đình ba Ngôi Thiên Chúa
Như thế, mầu nhiệm ba Ngôi tuy cao siêu nhưng không viển vông xa rời thực tế. Trái lại đây là một mầu nhiệm rất thiết thân, rất gắn bó với đời sống người tín hữu. Mầu nhiệm nầy mời gọi các ki-tô hữu luôn sống yêu thương hiệp nhất theo mẫu mực ba Ngôi.
Hôm xưa, trước khi rời xa các môn đệ để bước vào cuộc khổ nạn, Chúa Giê-su tha thiết cầu nguyện với Chúa Cha cho các môn đệ Ngài được hiệp thông nên một với nhau cách mật thiết. Ngài thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin cho tất cả chúng nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha…. để họ được nên một như Chúng Ta là một…” (Ga 17, 20-23).
Và hôm nay, Chúa Giê-su hướng nhìn về mỗi thành viên trong gia đình chúng ta và cầu xin với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin cho người cha, người mẹ và đứa con nầy nên một, “như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha… để họ được nên một như Chúng Ta là một.”
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho chúng con quyết tâm chọn “Gia đình” ba ngôi làm mẫu mực lý tưởng để xây dựng gia đình chúng con, xây dựng giáo xứ chúng con thành gia đình yêu thương và hiệp nhất bền chặt như “Gia đình” ba ngôi Thiên Chúa, nhờ đó mỗi gia đình sẽ trở nên hình ảnh sống động về Thiên Chúa ba ngôi như lời nhắn nhủ của Hội đồng Giám mục Việt Nam: “Chính sự hiệp thông mật thiết trong gia đình ki-tô giáo là hình ảnh hiệp thông giữa ba ngôi Thiên Chúa.”
—————————
[1] “Gia đình Thiên Chúa” là cụm từ mà Đức Giám mục Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền phát biểu tại Công đồng Vatican II và được các nghị phụ hoan hỉ đón nhận.
[2] GLHTCG số 245
(Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
Trong thiên nhiên và vạn vật còn có biết bao nhiêu những điều kỳ thú, bí ẩn mà với trí óc hạn hẹp của con người vẫn chưa khám phá hết được những bí ẩn đang tổn tại trong thiên nhiên. Con người chỉ biết thinh lặng và kính phục trước những huyền nhiệm vẫn diễn ra trong thế giới chung quanh. Thực vậy, mỗi khi đứng trước một vấn đề nan giải, khó hiểu và vượt quá trí tưởng tượng như thế, chúng ta thường đóng khung vấn đề bằng một từ gọi là huyền nhiệm. Huyền nhiệm hay mầu nhiệm thường là vấn đề không kiểm chứng được bằng khoa học mà chỉ bằng niềm tin. Thế nên, có rất nhiều mầu nhiệm trong đạo được đóng khung bằng mầu nhiệm và đòi buộc các tín hữu phải tin, điều đó cũng đúng. Vì đức tin của chúng ta không dựa trên khoa học hay cảm tính mà dựa trên mạc khải. Chính Chúa đã mạc khải chính mình qua giòng thời gian. Qua các tổ phụ, các tiên tri và thời sau hết qua Con Một chí ái là Đức Giêsu Kytô. Chúng ta tin vì chính Chúa đã nói với chúng ta. Chúng ta tin vì Chúa là Đấng chân thật và lời Người thì không bao giờ sai lầm. Nhưng, có bao giờ chúng ta tự hỏi Chúa đã mạc khải điều đó để làm gì? Lời mạc khải của Chúa có liên hệ gì với đời sống chúng ta hay không? Đó mới là điều quan yếu mà chúng ta cần bàn hỏi để hiểu và để sống những điều Chúa muốn nơi chúng ta.
Hôm nay lễ kính Chúa Ba Ngôi. Đây là một mầu nhiệm. Một mầu nhiệm mà chắc chắn Thiên Chúa đã mạc khải không nhằm mục đích cho chúng ta đóng khung để thờ, để “kính nhi viễn chi” mà là để chúng ta sống theo mẫu gương của Ba Ngôi Thiên Chúa. Thế nên, mừng lễ Chúa Ba Ngôi không phải là dịp để chúng ta đưa ra những luận điệu, chứng cứ để chứng minh về một Thiên Chúa Ba Ngôi mà là để chúng ta chiêm ngắm về căn tính, về bản chất của Ngài để bắt chước, noi theo. Vì chứng cứ về Ba Ngôi Thiên Chúa đã được Ngôi Hai Thiên Chúa nói với chúng ta bằng cả cuộc sống, cái chết và sự phục sinh của Người.
Thánh Gioan tông đồ đã định nghĩa về Thiên Chúa thật ngắn ngọn và đầy đủ: Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu thì luôn trao ban sự sống, luôn hy sinh chính mình và luôn giúp nhau thăng tiến. Chúa Giêsu đã nói về Ba Ngôi Thiên Chúa với cách biểu lộ tình yêu như thế.
Chúa Cha trao ban sự sống cho nhân loại, qua công trình tạo dựng vạn vật và đỉnh cao là tạo dựng con người giống hình ảnh của Ngài.
Chúa Con đã hy sinh chính mình để cứu chuộc nhân loại bằng việc tự nguyện nộp mình chịu chết để đền thay tội lỗi nhân loại.
Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hoá con người nên nghĩa tử của Chúa và luôn tác động để con người hoàn thiện chính mình mỗi ngày nên tốt đẹp hơn.
Như vậy, sự tỏ bầy mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là tỏ bày tình yêu. Tình yêu tạo dựng, cứu chuộc và thánh hoá. Chính Ngài đã làm tất cả vì yêu chúng ta và cũng đòi buộc chúng ta phải noi gương Ngài mà sống để yêu thương nhau. Thiên Chúa không đòi chúng ta phải bù đắp tình yêu cho Ngài, vì Ngài đã tròn đầy. Ngài không cần chúng ta thêm gì cho Ngài. Ngài chỉ cần chúng ta mặc lấy tình yêu đó để đối xử tốt với nhau trong cuộc đời hôm nay.
Thế giới hôm nay đang thiếu vắng rất nhiều về tình yêu như thế. Ngay tại gia đình, nhiều cha mẹ đã đang tâm chối bỏ quyền sống nơi các thai nhi vô tội. Nhiều đôi vợ chồng tan vỡ vì thiếu sự hy sinh và lòng bao dung tha thứ cho nhau. Nhiều cuộc tình đã đau khổ vì thiếu sự bổ túc và tôn trọng lẫn nhau, mà chỉ tìm đến với nhau để khai thác tiền bạc và thú vui thể xác.
Ở ngoài xã hội lại càng thiếu vắng nhiều hơn. Khoa học tiến bộ nhưng nguy cơ giết người hàng loạt luôn là mối lo cho toàn thể nhân loại. Vũ khí hạt nhân và các chất hoá học độc hại luôn bị người ta dùng để kiếm tiền và củng cố quyền lực. Mới đây ở Việt Nam đã phát hiện ra hàng loạt các đồ dùng mỹ phẩm và thức ăn có chất độc hại gây ung thư như: ở trong son môi, trong kem đánh răng, trong nước tương, trong bột nêm, bát phở và trên các loại hoa quả tươi xanh. Xem ra nhân loại hôm nay chỉ cần tiền và quyền bính, còn các giá trị đạo đức nhân văn chỉ là những trang sách được mở ra ở học đường nhưng không ứng dụng ở trừơng đời. Xã hội càng văn minh con người càng thiếu hy sinh cho nhau. Thế giới quá quen với cụm từ “mac ke no”, tất cả chỉ lo cho bản thân mình, lo hửơng thụ và tìm kiếm danh lợi thú cho bản thân.
Giữa một thế giới mà các giá trị đạo đức đã bị sự gian ác và ích kỷ làm đảo lộn như thế, liệu người kytô hữu có dám lội ngược dòng để sống đúng với đòi hỏi của tình yêu hay không? Chúa đòi chúng ta yêu người yêu đời nhưng cuộc đời có quá nhiều người gian dối, bất trung và phản bội liệu rằng chúng ta có dám sống chứng nhân cho tình yêu hay không?
Chính Chúa đã sống điều đó. Cho dù con người có phản bội, bất trung Chúa vẫn trung thành với tình yêu của mình. Cho dù con người đã cố tình sống xa tình Chúa, Chúa vẫn tìm muôn nghìn cách để cứu chuộc con người. Chúa vẫn nhẫn nại, từ bi và rất mực khoan nhân. Cho dù con người có ngỗ nghịch phạm thượng chối bỏ Thiên Chúa, chống đối lại Chúa, Chúa vẫn cho mưa thuận gió hoà trên kẻ lành người dữ.
Nguyện xin Chúa là tình yêu giúp cho mỗi người chúng ta biết sống yêu như Thiên Chúa đã yêu, để cùng nhau xây dựng và bảo vệ cuộc sống, cũng như luôn quảng đại giúp nhau sống đúng phẩm giá làm người hơn. Amen.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Nhờ tác động Chúa Thánh Thần, Đức Giêsu đang sống với chúng ta. Sau khi lãnh bí tích thanh tẩy, ước vọng thầm kín sâu sắc nhất của chúng ta là vươn lên khỏi tầm cỡ mình trong Đức Giêsu Kitô. Nhưng làm thế nào để gặp Chúa? Bí tích thanh tẩy tạo ra trong chúng ta một bản thể mới, ở ngoài sự hiểu biết thông thường. Đức tin cho biết, chúng ta nhờ Thần Khí mà được kết hợp với Đức Kitô hằng sống. Chúa Thánh Thần là nguồn gốc bản thể hữu hình của Đức Giêsu. Do tác động Chúa Ngôi Ba, bản thể ấy trở nên Thiên Chúa mặc lấy tính loài người. Chúa Thánh Thần cũng là nguồn gốc bản thể siêu hình của chúng ta. Do tác động Chúa Ngôi Ba, bản thể ấy trở thành con người được tham dự vào tính Thiên Chúa. Tác động Chúa Thánh Thần hằng có, hằng diễn ra trong thế giới. Nhờ vậy, đối với chúng ta, cuộc gặp gỡ Đức Giêsu không chỉ trong một lúc một nơi để có thể nhớ lấy ngày tháng, địa điểm. Cách sâu sắc hơn, Chúa là sự hiện diện sống động hằng có, làm biến đổi bản thể bên trong chúng ta. Chúa Thánh Thần mặc khải cho chúng ta bắt đầu hiểu biết Đức Giêsu Kitô, hơn nữa cho thấy Người bắt đầu làm cho chúng ta sống. Tất cả sự thật là thế. Nhiều người cho rằng người ta đã gặp hoặc đang gặp Đức Giêsu trong chốc lát, theo họ Chúa là Thầy có lời giảng dạy sáng như bạch nhật, nắm vững một phần chân lý. Đối với Kitô hữu đã lãnh ơn Chúa Thánh Thần, Đức Giêsu là Thầy nắm vững tất cả chân lý, trong Người chúng ta không bao giờ hết khám phá điều gì là tốt lành cho tâm trí mình, với Người chúng ta luôn luôn trên đường đến với Thiên Chúa. Như vậy chúng ta không những có thể gặp Đức Giêsu trong hiện tại, hơn nữa Người đang ngự trong chúng ta. Hai câu sau đây cần được đào sâu ý nghĩa:
1) Người sẽ tôn vinh Ta.
Câu này có thể hiểu theo nghĩa Chúa Thánh Thần mở rộng tâm hồn chúng ta nghênh đón Đức Kitô hằng sống và đích thật. Theo tầm hiểu biết của nhân loại, Đức Giêsu là một sự kiện lịch sử, chung cục người ta hiểu biết rất ít về Chúa. Trong chiều sâu đức tin, chúng ta nhận biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Chúng ta nhìn nhận Chúa theo đúng tước vị Con Người, đó chính là niềm vinh hiển của Chúa, và cũng là công trình Chúa Thánh Thần tác động trong chúng ta. Một nhận xét sơ lược: Chúa Ngôi Ba dẫn chúng ta ra khỏi khuôn khổ chật hẹp của những kiến thức vật chất và tự nhiên của chúng ta, nếu không tâm trí chúng ta như bị giam hãm trong một lao tù.
2) Để thông báo cho các ngươi.
Chúng ta cần chú ý đến sự thật này, một sự thật loài người chẳng thể ý niệm: Thiên Chúa san sẻ với chúng ta. Vì tin vào Đức Giêsu Kitô, vì nghênh tiếp Con Thiên Chúa, vì tuân phục những đòi hỏi của Thần Khí, chúng ta được vinh dự Thiên Chúa san sẻ cho chúng ta. Đức Giêsu, Người-Chúa, là khởi điểm cho hoạt động thiết yếu sâu sắc nhất của chúng ta. Chúng ta được mặc khải bên trong để nhận biết mình được tham dự thần tính trong Đức Giêsu. Đó là ý nghĩa đích thật của từ nếp sống mới thánh Phaolô thường dùng. Đó không phải là một nhãn hiệu, cũng không phải là một khẩu hiệu. Nếp sống mới có thật tùy theo mức độ chúng ta nhờ nếp sống mới trở nên giống Đức Kitô nhiều hay ít.
(Suy niệm của Lm. GB. Trần Văn Hào)
‘Xin dâng lời tôn vinh chúc tụng Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần’ (Kh 1,8a)
Một đan sĩ nọ đã nói: “Nếu ngày xưa Moisen đã không bước vào chỗ tăm tối và mù mịt trên núi Sinai, ông đã không gặp thấy Chúa. Cũng vậy, nếu chúng ta không thấy mình dốt nát và mù tối khi suy hiểu về Thiên Chúa, chúng ta sẽ không bao giờ nhận biết được Ngài”. Điều này rất đúng khi chúng ta suy niệm về mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi mà Giáo hội hôm nay mừng kính. Đây là mầu nhiệm căn bản nhất của đức tin Công giáo, đồng thời cũng là chân trời vĩ đại và tối tăm nhất đối với đầu óc suy lý của con người. Mầu nhiệm Ba Ngôi rất khó hiểu và thực ra chúng ta không thể hiểu nổi. Khi đối diện trước các thực tại của Thiên Chúa, chúng ta không thể nhận thức bằng lý trí nhưng chỉ có thể trải nghiệm bằng đức tin. Thái độ cần thiết nơi chúng ta không phải là đứng lên cách ngạo nghễ để vắt óc tìm tòi, nhưng phải quỳ gối xuống cách khiêm tốn trong cung chiêm và thờ lạy.
Thực hành đức tin khi tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi.
Trước khi bắt đầu làm bất cứ công việc gì, người Công giáo chúng ta luôn bắt đầu bằng dấu Thánh giá với lời tuyên tín: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Thánh Phaolô thường gửi lời chào thăm đến các cộng đoàn với văn thức xưng tụng Thiên Chúa Ba Ngôi. Giáo hội cũng dùng lại văn thức này để khởi đầu Thánh lễ khi vị linh mục chào chúc cộng đoàn: “Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em (2 Cor 13,13; Eph 1,2). Chúng ta nhớ lại giai thoại về thánh Augustinô. Khi Ngài đi bách bộ bên bờ biển và suy tư về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, Ngài gặp một em bé đang dùng cái vỏ sò để múc nước biển đổ vào một cái lỗ nhỏ tí xíu. Em bé nhắc nhở cho thánh nhân biết rằng, việc lấy một cái vỏ sò bé tí teo đong đầy nước biển xem ra khá xuẩn ngốc, nhưng việc dùng đầu óc chật chội của con người để cố nhét vào cả bầu trời bao la của mầu nhiệm Thiên Chúa còn xuẩn ngốc hơn gấp bội. Vì vậy, đi vào thế giới của mầu nhiệm, chúng ta phải hết sức khiêm tốn và nhận ra những bất toàn nơi đầu óc mình.
Các thánh giáo phụ vay mượn ý nghĩa của 3 lời khuyên phúc âm để minh họa tình yêu đối với Thiên Chúa Ba Ngôi. Sống tinh thần khó nghèo chính là thể hiện niềm tin vào Chúa Cha, đấng quan phòng và luôn yêu thương con cái mình. Đức Khiết tịnh diễn bày tinh thần từ bỏ để sống với một tình yêu thuần khiết theo gương Chúa Giêsu. Sự Vâng phục của người tu sĩ mời gọi chúng ta mở lòng cho Chúa Thánh Thần tác động. Đó chính là ân ban của Thần Khí giúp chúng ta luôn biết tìm kiếm và quy thuận thánh ý của Thiên Chúa. Chúa Giêsu cũng đã mặc khải cho chúng ta về Chúa Cha và về Thần khí tác sinh. Khi Ngài lãnh phép rửa tại sông Giorđan, mầu nhiệm Ba Ngôi từ từ được vén mở, qua tiếng Chúa Cha từ trời vọng xuống và Thánh Thần đậu xuống trên Ngài dưới hình chim bồ câu. Ngoài những điều mà Kinh thánh mạc khải, giáo huấn của Giáo hội cũng đầy ắp những gợi mở cho chúng ta về mầu nhiệm cao cả này. Đây là giáo lý căn bản và chúng ta vẫn thường xuyên tuyên xưng mầu nhiệm ấy mỗi khi chúng ta giơ tay làm dấu Thánh giá để cầu nguyện cùng Chúa Ba Ngôi.
Phẩm tính căn bản của mầu nhiệm Ba Ngôi chính là tình yêu.
Trong lá thư thứ nhất của Thánh Gioan, vị tông đồ đã định nghĩa về Thiên Chúa qua một hạn từ rất đơn giản và cô đọng: “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,16). Đức Thánh Cha Phanxicô cũng khẳng quyết rằng, ‘Lòng thương xót’ là tên gọi thứ hai của Thiên Chúa, bởi vì thương xót là cách hiển thị rõ nét về tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người. Khi chiêm niệm về mầu nhiệm Ba Ngôi, chúng ta hãy cảm nghiệm như Thánh Phaolô đã từng diễn tả: “Thiên Chúa đã đổ đầy tình yêu của Người vào tâm hồn chúng ta, nhờ Thánh Thần Người ban cho chúng ta (Rm 5, 5b). Để mặc khải về tình yêu của Chúa Cha, Đức Giêsu đã nói với Nicôđêmô: “Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã ban chính con một của Ngài để ai tin vào người Con, sẽ được sống. (Ga 3,16). Vì thế khi chúng ta được rửa tội nhân danh Chúa Ba Ngôi, chúng ta bắt đầu sống ơn gọi làm con và khởi đầu sứ vụ thực hành tình yêu như Mẹ thánh Têrêsa Calcutta đã nói: “Mỗi người chúng ta được trao ban một sứ vụ để chu toàn, đó là sứ vụ của tình yêu”.
Kết luận
Một bữa nọ, Ông Voltaire, một triết gia vô thần đi bách bộ với một anh bạn trên con đường quê ven rừng. Giữa giao lộ có một cây Thánh giá phủ đầy tuyết. Voltaire đã công khai bỏ đạo từ lâu, và hoàn toàn không còn tin vào Thiên Chúa nữa. Ông còn ngạo nghễ chế diễu niềm tin của các Kitô hữu. Nhưng người bạn đang đi với ông lại có niềm tin rất sâu xa. Voltaire chỉ vào cây Thánh giá phủ đầy tuyết và nói với anh bạn: “Đây là hình ảnh của tôn giáo ngày nay. Thiên Chúa của các anh đã bị văn minh khoa học phủ kín mặt mày và niềm tin tôn giáo đã bị sự lạnh lùng băng giá của con người hôm nay che lấp. Vì vậy, Thiên Chúa của các anh không còn lý do để hiện hữu nữa”. Chợt lúc đó, có một cơn gió mạnh thổi đến hất tung chiếc mũ trên đầu Voltaire và quăng xuống đất, đồng thời cơn gió đã làm tan chảy lớp tuyết bao phủ cây Thánh giá. Gương mặt Chúa Giêsu từ từ hiện lộ một cách rõ nét. Người bạn của Voltaire lúc đó mới trả lời ông:”Này bạn, đây mới là hình ảnh đích thực của niềm tin tôn giáo ngày hôm nay. Cho dù con người vẫn lạnh lùng và chai cứng như lớp tuyết trắng che kín Thánh giá, nhưng sức mạnh của Thiên Chúa vẫn dư sức hất tung sự kiêu ngạo của con người và làm tan chảy sự lạnh lùng nơi con tim sỏi đá của mọi người. Ngài luôn hiện hữu cho dù con người vẫn đang ra sức loại trừ Ngài”.
Một nhà tu đức đã nói: “Chúng ta hãy kiếm tìm Thiên Chúa chứ đừng tìm nơi ở của Ngài”. Chúa ở khắp mọi nơi và đang ở trong tâm hồn mỗi người. Chúng ta hãy không ngừng đi kiếm tìm Ngài.
(Suy niệm của Lm. Antôn Hà Văn Minh)
Tin Mừng Ga 16: 12-15 Tình yêu được Thiên Chúa tỏ bày qua nhiệm cục cứu chuộc được thực hiện bởi Cha, Con và Thánh Thần.
SUY NIỆM
Hôm nay Giáo Hội long trọng mừng Lễ Chúa Ba Ngôi được gọi đây là mầy nhyệm chính yếu đối với đức tin Công giáo. Thật vậy, đức tin giúp chúng ta nhận ra tình yêu của Thiên Chúa dành để cho con người. Tình yêu được Thiên Chúa tỏ bày qua nhiệm cục cứu chuộc được thực hiện bởi Cha, Con và Thánh Thần. Không có nhiệm cục cứu chuộc này con người không thể nào có được niềm hy vọng về một đời sống vĩnh cửu.
Thật vậy sau khi con người phản bội chống lại lệnh truyền, Thiên Chúa không nỡ để con người ra hư vong, Ngài quyết dẫn đưa con người trở về với sự sống. Việc Thiên Chúa đưa ra quyết định cứu chuộc con người là một hành động xuất phát từ tình yêu của Đấng được gọi là Cha. Vâng, mặc dù con người không được sinh ra từ Thiên Chúa như Ngôi Hai, nhưng với bản chất là Cha, Thiên Chúa tạo dựng con người và đã đặt để con người trong mới tương quan mới tương quan phụ tử. Nhờ mối tương quan phụ tử này, con người đã được Thiên Chúa yêu thương cách lạ lùng đến nỗi tác giả Thánh vịnh phải thốt lên: “Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy, ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo,đặt muôn loài muôn sự dưới chân” (Tv 8, 6-7). Và khi con người phạm tội, cho dẫu khi ra hình phạt, Thiên Chúa cũng không thể nào đành lòng nhìn con người hư vong, Ngài đã ra tay tế độ bằng một hành động mà không ai có thể ngờ rằng Thiên Chúa yêu thương con người đến thế sao? Thánh Gioan đã diễn tả: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3, 16-17).
Tình thương Thiên Chúa dành cho con người là phản ảnh tình thương Ngài dành cho Ngôi Hai, người Con duy nhất. Quả thật, con người không thể cảm nghiệm tình yêu của Thiên Chúa dành để cho mình nếu Ngôi Hai Thiên Chúa không nhập thể làm người. Vì là Con hiếu thảo nên Ngôi Hai cũng mang trong mình trọn vẹn tình yêu của Cha, nên Người, trong tinh thần vâng phục, sẵn lòng dấn thân vào trong lịch sử của nhân loại qua việc nhập thể làm người, để tỏ bày cho nhân loại nhận ra Thiên Chúa yêu thương con người biết bao cho dẫu con người chẳng có công trạng gì.
Việc tỏ bày tình yêu không đơn giản chỉ là lời nói thốt ra từ môi miệng, bởi Ngôi Hai Nhập Thể làm người không chỉ là thổ lộ tâm tư của Thiên Chúa, nhưng còn là cứu chuộc con người khỏi bàn tay thần chết. Vì thế, việc tỏ bày tình yêu Thiên Chúa của Ngôi Hai Nhập Thể là một công trình được thực hiện bằng cả cuộc đời. Từ lời giảng dạy, đến hành vi, từ hơi thở đến từng nhịp đập con tim đều chất chứa lời yêu thương và cứu độ, và sau cùng là sự hiến thân trên Thập Giá thể hiện sự vâng phục trọn vẹn Thánh ý Cha trong việc cứu chuộc con người. Khi suy niệm về cái chết của Cháu Giêsu trên Thập giá, Đức Benêđictô đã thốt lên: “Trong cái chết thập tự của Chúa Giêsu, việc ‘Thiên Chúa quay lại chống đối chính mình’ đạt đến mức tuyệt đỉnh, khi Người tự hiến chính mình, để nâng con người lên và cứu độ họ – đó là tình yêu trong hình thức triệt để nhất” (Thông điẹp Thiên Chúa là Tình yêu, số 12).
Phúc âm Gioan đã trình bày: trong Chúa Con mà Chúa Cha được nhận biết, và ai nhận biết Chúa Con (và có sự thông hiệp với Người), thì kẻ ấy cũng nhận biết rằng, Cha ở trong Con và Con ở trong Cha (x. Gio 10, 38). Đó là chân lý, với nhận thức về chân lý này những kẻ tin có được sự sống: Tình yêu, đúng thế, tình yêu chính là Cha ở trong Con và Con ở trong Cha sẽ đến cư ngụ trong những ai yêu mến chân lý này (x. Gio 14, 23). Trong “lời cầu của Đấng là Linh mục Thượng phẩm”, Chúa Giêsu, cầu khẩn với Cha, cho những kẻ tin được nên một và “trong chúng ta”, như là Cha ở trong Con và Con ở trong Cha (x. Gio 17, 21); Tình yêu: Cha ở trong Con và Con ở trong Cha – đó là Chân lý – ước chi được thấm nhuần nơi các kẻ tin, để nhờ đó, với chân lý này họ có được sự sống và “thế gian cũng nhận biết rằng Cha đã sai Con và Cha cũng yêu thương họ như Cha đã yêu Con” (Gio 17, 23). Trong Chân lý này Thánh Thần sẽ xuất hiện, không thêm bớt một điều gì mà Con đã nói với nhân loại. Khi Chúa Thánh Thần đến, Người sẽ làm cho các môn đệ hiểu được rằng, “Thầy ở trong Cha, và anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em” (Gio 14, 20; x. Gio 14, 16tt). Trong Chúa Thánh Thần và chính nhờ tác động của Ngài mà những kẻ tin nhận ra rằng, Chúa Giêsu Kitô (cùng với Chúa Cha) ở trong họ (1 Gio 3, 24; 4, 13). Chúa Thánh Thần minh chứng rằng, Tình yêu Thiên Chúa được mặc khải cho con người qua người Con, thấm nhập vào các kẻ tin và đón nhận họ vào hiệp nhất với tình yêu của Con và Cha ( 1 Gio 4, 16).
Nhưng làm sao nhân loại có thể bước vào mối tương quan phụ tử với Thiên Chúa để có thể hưởng nhờ ơn cứu độ mà Đức Kitô đã mang lại? Thánh Phaolô đã đưa ra câu trả lời: “Tất cả những ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa. Vì Thần Khí mà anh em đã lãnh nhận được, đâu phải là tinh thần nô lệ, khiến anh em phải sợ sệt như xưa: nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, khiến chúng ta được kêu lên: Abba! – Cha ơi!”(Rm 8,14-15). Vâng, chính Thánh Thần Thiên Chúa, Đấng là tình yêu, là sức sống của Thiên Chúa được trao ban cho chúng ta, sẽ là động lực để chúng ta nhận ra tình yêu của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu thúc đẩy chúng ta hành động để đáp trả lại tình yêu cao trọng này. Sách Công vụ Tồng đồ đã tường thuật: Sau khi nhận lãnh Thánh Thần, Thánh Phêrô đã mạnh dạn loan báo “Thưa anh em Đức Giê-su Na-da-rét, là người đã được Thiên Chúa phái đến với anh em. Người đã bị anh em treo trên thập giá, Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại, đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Ki-tô’’ (Cvtđ 2, 22. 32. 36). Khi nghe những điều đó “họ đau đớn trong lòng, và hỏi ông Phê-rô cùng các Tông Đồ khác: Thưa các anh, vậy chúng tôi phải làm gì? Ông Phê-rô đáp: Anh em hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, để được ơn tha tội; và anh em sẽ nhận được ân huệ là Thánh Thần.” (Cvtđ, 2, 37-38). Như vậy chính Thánh Thần Thiên Chúa vừa là động lực thúc đẩy loan báo Tin Mừng, vừa là tác nhân biến đổi người được loan báo. Điều đó được thực hiện từ nguồn mạch duy nhất, đó chính là tình yêu. Quả thật, ơn cứu độ được thực hiện do bởi Thiên Chúa yêu thương, và ơn cứu độ đó cũng chỉ dành cho những ai đón nhận quà tặng yêu thương bằng một thái độ đáp trả trong mối tương quan cha-con. Có nghĩa là đón nhận với trọn vẹn tâm tình biết ơn, tín thác và mến yêu như tâm tình của người con dành cho cha.
Mừng Mầu nhiệm Ba Ngôi dể hiểu được Thiên Chúa yêu thương nhân loại là dường nào, và cách Ngài hành động để tỏ bày tình yêu thương cũng thật lạ lùng biết bao, hiểu điều đó để chúng ta tạ ơn vì tình yêu thương đó và nỗ lực sống yêu thương như lời mời gọi của Chúa Giêsu: Các con hãy yêu thương như Thầy yêu thương.
Lạy Chúa, Mầu Nhiệm Ba Ngôi là mầu nhiệm của một tình yêu lạ lùng Chúa dành cho nhân loại chúng con. Chúng con xin được ccảm tạ Chúa, nhất là Chúa đã đưa chúng con vào trong cộng đoàn Giáo Hội, một cộng đoàn yêu thương. Xin cho chúng con biết nỗ lực xây dựng cộng đoàn này bằng chính đời sống yêu thương của chúng con. Amen.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một linh mục ngồi trong phi trường đợi chuyến bay. Một người đàn ông đến ngồi bên cạnh và đề cập về tôn giáo. Ông khoe rằng: “tôi không chấp nhận điều gì tôi không hiểu, vấn đề “ba Chúa trong một Chúa” hay bất cứ điều gì tương tự, không ai có thể giảng nghĩa cho tôi, nên tôi không tin”.
Chỉ vào luồng sáng qua cửa sổ, linh mục hỏi: “bạn có tin mặt trời không?”. Kẻ hoài nghi trả lời: “dĩ nhiên có chứ”. Linh mục nói tiếp: “được, ánh sáng bạn thấy qua cửa sổ, là từ mặt trời cách đây 150 triệu km chiếu tới, sức nóng chúng ta cảm thấy phát xuất từ mặt trời và ánh sáng.
Chúa Ba Ngôi có phần tương tự như vậy: mặt trời Thiên Chúa Cha. Mặt trời chiếu sáng: ánh sáng là Thiên Chúa Con. Từ mặt trời và ánh sáng tỏa ra sức nóng: từ Chúa Cha và Chúa Con phát xuất Chúa Thánh Thần. Bạn có thể giải thích được mặt trời, ánh sáng và sức nóng được không?” người hoài nghi im lặng.
Anh chị em thân mến,
Khi chúng ta họp nơi đây để chúc tụng và tôn vinh Chúa Ba Ngôi, trước tiên chúng ta chấp nhận rằng: đây là một mầu nhiệm, một chân lý không ai có thể hiểu được, giảng giải được. Chúng ta biết đó là sự thật vì Chúa Giêsu đã nói với chúng ta về Thiên Chúa Ba Ngôi nhiều lần, nhất là trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúng ta đón nhận, chúng ta tin, vì Chúa Giêsu đã dạy chúng ta tôn vinh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là nguồn mạch mọi sự thiện hảo.
Chúa Ba Ngôi như mặt trời trên bầu trời. Mặt trời là nguồn năng lượng vật lý. Chúa Ba Ngôi là nguồn sống trong chúng ta. Mặt trời chiếu tỏa ánh sáng. Chúa Ba Ngôi soi sáng lòng trí con người. Mặt trời tỏa sức nóng. Chúa Ba Ngôi tuôn đổ sức nóng thiêng liêng: tình yêu Thiên Chúa và tình yêu con người. Chúa Ba Ngôi không phải là bộ ba năng lượng không hồn, nhưng là những ngôi vị sống động, thông biết và yêu thương.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm của đời sống nội tại thâm sâu nhất của Thiên Chúa. Đời sống nội tại thâm sâu nhất của Thiên Chúa là yêu thương: “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Chúa Cha yêu thương Chúa Con, Chúa Con yêu thương Chúa Cha và mối tương quan tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con là Chúa Thánh Thần. Tình yêu hoàn toàn thân, cho đi, để làm giàu người khác và làm nên một với người khác. “Thiên Chúa là Tình Yêu”, Ngài không đơn độc một mình. Nếu như Ngài đơn độc một mình thì Ngài sẽ yêu một mình Ngài một cách ích kỷ vô cùng… nhưng Ngài là ba, ba nhưng hoàn toàn hiệp nhất với nhau đến nỗi chỉ là một Thiên Chúa duy nhất. Trong Ba Ngôi, mỗi ngôi hoàn toàn là tặng phẩm hiến dâng cho nhau, hoàn toàn tương qua với nhau, hoàn toàn yêu thương nhau: Cha hoàn toàn là của Con, Con hoàn toàn là của Cha, và sự trao đổi hoàn toàn giữa Cha và Con là Thánh Thần. Vì thế, Thiên Chúa là một nhưng lại là ba; là ba nhưng lại là một. Chúa Giêsu đã nói: “Mọi sự của Con là Cha, và mọi sự của Cha là của Con” (Ga 17,10). “Cha Thầy và là một” (Ga 10,30). “Ai thấy Thầy là thấy Cha” (Ga, 14,9).
Thưa anh chị em,
“Thiên Chúa là Tình Yêu”, vì thế mọi hoạt động bên trong cũng như bên ngoài của Thiên Chúa đều là yêu thương: từ việc tạo dựng vũ trụ, vạn vật, loại người cho đến việc cứu chuộc loài người chúng ta đều là hành động của tình yêu, một tình yêu không ngừng ban phát, chia sẻ, nhân lên. Thiên Chúa đã ban phát, đã chia sẻ tình yêu của Ngài cho loài người chúng ta và Ngài muốn cho tình yêu ấy tiếp tục tràn lan từ trong lòng chúng ta đến những con người khác: “Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở trong chúng ta và tình yêu của Ngài nên hoàn tất trong chúng ta”(1 Ga 4,12). Bởi vậy, “Ai không yêu thương anh em thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu thương” (1Ga 4,8). Còn ai đã biết chúng ta trở nên hình ảnh của Thiên Chúa thì phải yêu thương anh em như Ngài. Loài người chúng ta trở nên hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi khi trở nên một cộng đoàn huynh đệ do tình yêu từ Thiên Chúa Ba Ngôi đến nối kết chúng ta lại với nhau trong Ngài.
Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm cao xa, tuyệt vời, vì đó là chính mầu nhiệm đời sống tình yêu bên trong Thiên Chúa. Tuy nhiên, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi lại là một mầu nhiệm thiết thân nhất với chúng ta; vì đó là chính sự sống Thiên Chúa ban cho chúng ta. Thiên Chúa đã ban Con của Ngài để Con Ngài đưa chúng ta vào trong cung lòng Chúa Cha nhờ Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần là tình yêu luôn nối kết Chúa Cha với Chúa Con, bây giờ lại đến nối kết chúng ta với Chúa Con và Chúa Cha. Vì vậy, Thiên Chúa Ba Ngôi không phải là Thiên Chúa xa cách ngự nơi cao thẳm trên trời, nhưng Ngài đang ngự trong chúng ta và đang hoạt động trong chúng ta. Nếu chúng ta yêu mến Thiên Chúa và yêu thương anh em, Thiên Chúa Ba Ngôi sẽ đến ở trong chúng ta: “Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy; Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và Chúng Ta sẽ đến ở trong người ấy” (Ga 14,23). Chúng ta sẽ là hình ảnh sống động của Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúng ta sẽ là những Đền Thờ sống động của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Như thế, thưa anh chị em, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi mới thực sự là lẽ sống cho đời chúng ta và mỗi lần đọc lên “Nhân Danh Chúa Cha , Chúa Con và Chúa Thánh Thần” chúng ta sẽ không còn đọc một cách vô ý thức nữa, nhưng với lòng cung kính mến yêu.
Vậy, giờ đây, chúng ta kính cẩn tuyên xưng lòng tin của chúng ta vào Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần trong Kinh Tin Kính.
(Trích trong ‘Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’)
Suy Niệm 1. NHỮNG HÌNH ẢNH VỀ THIÊN CHÚA
Có một câu chuyện ở Châu Phi về Thiên Chúa như sau. Một ngày nó lúc Thiên Chúa du hành qua các đại lục mênh mông, khi lên cao khi xuống thấp. Đặc biệt Thiên Chúa nhận thấy một bộ tộc đã đánh mất đức tin vào Người. Vì thế, Người hiện ra trong một cánh đồng nơi có bồn người làm việc, mỗi người một góc. Những người làm ruộng thấy Thiên Chúa đứng đó, giữa một cánh đồng, liền nhìn thật kỹ và rồi họ sấp mình thờ lạy Người.
Kế đó, Thiên Chúa biến mất nhưng vẫn theo dõi việc gì xảy ra sau đó. Bốn người nông dân chạy về ngôi làng của họ, tập họp dân làng và tuyên bố không còn nghi ngờ gì nữa: Thiên Chúa thật sự hiện hữu và chăm sóc họ khi Người ngự xuống viếng thăm họ. Vì vậy, tất cả mọi người phải bắt đầu thờ phụng Người một cách nghiêm chỉnh. Dân làng tiếp nhận tin tức với sự nồng nhiệt. Họ muốn biết những người ấy đã có thị kiến hay không. Thế nên một dân làng hỏi: “Thiên Chúa ăn mặc như thế nào?”.
“Người mặc một cái áo choàng đỏ”, người thứ nhất đáp.
“Không, Người mặc một cái áo choàng xanh lam”, người thứ hai đáp.
“Cả hai anh đều sai”, người thứ ba nói. “Đó là một áo choàng màu xanh lá cây”.
“Các anh điên rồi”, người thứ tư gào to. “Người mặc một cái áo choàng màu vàng”.
Và đến đây, họ bắt đầu cãi nhau. Hết cãi nhau lại đánh nhau. Sau cùng, họ khinh miệt nhau và thù ghét lẫn nhau, và phân chia ra thành bốn bè phái.
Với một chút suy nghĩ, họ có thể dễ dàng đạt đến sự nhất trí. Mỗi người chỉ được nhìn Thiên Chúa thoáng qua. Thay vì nhấn mạnh đến thị kiến toàn diện, họ nên thừa nhận mỗi người chỉ có được một phần thị kiến.
Nếu họ cởi mở đối với quan điểm của người khác thì cuối cùng họ có thể đạt được một hình ảnh rộng rãi hơn và phong phú hơn về Thiên Chúa.
Thiên Chúa cao cả hơn tất cả chúng ta. Chúng ta có thể không bao giờ hiểu đầy đủ về Thiên Chúa. Chúng ta đã phải vất vả để hiểu biết những sự vật trần gian. Vậy làm thế nào chúng ta có thể hiểu hết mọi việc trên trời? Chỉ có ơn khôn ngoan mới có thể giúp chúng ta biết những đường lối của Thiên Chúa. Người ta có thể biết những chân lý đức tin nhưng vẫn chưa biết Thiên Chúa.
Có một hình ảnh chính xác về Thiên Chúa là rất quan trọng. Nếu chúng ta có một hình ảnh sai lầm, mọi sự việc khác sẽ mù mờ. Làm thế nào chúng ta có thể cầu nguyện đúng đắn, hoặc có một quan hệ đúng đắn với Thiên Chúa, nếu chúng ta có một hình ảnh sai lầm hoặc không phù hợp với Người? Người Kitô hữu quan niệm đời sống là một lời đáp lại tình yêu Thiên Chúa.
Để nói Thiên Chúa giống với cái gì, tất cả chúng ta chỉ cần nhìn vào Đức Giêsu. Trong ngôn ngữ của Thánh Phaolô: “Người là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình”. Vậy Đức Giêsu giống cái gì? Trong tất cả những hình ảnh mà chúng ta có về Đức Giêsu, một hình ảnh đáng yêu nhất là người Mục Tử Nhân Từ. Chính Đức Giêsu đã dùng hình ảnh ấy. Đức Giêsu là Mục Tử Nhân Từ, đã thí mạng sống mình cho đàn chiên. Trong Đức Giêsu, chúng ta thấy tình yêu của Chúa Cha đối với chúng ta. Còn về Chúa Thánh Thần? Chúa Thánh Thần là dây liên kết yêu thương giữa Chúa Cha và Chúa Con, và giữa hai ngôi Cha và Con với chúng ta.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi không phải để bàn cãi hoặc nghiên cứu mà để cầu nguyện và để sống. Người Kitô hữu sống trong thế giới của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Thế giới ấy không phải là một nơi nào đó ở bên ngoài không gian. Nó cũng là thế giới của mỗi ngày. Như trong câu chuyện Châu Phi cho chúng ta thấy Thế giới mỗi ngày là nơi Thiên Chúa biểu lộ chính Ngài cho chúng ta.
Suy Niệm 2. Ý NGHĨA CỦA THIÊN CHÚA
Đức tin không phải là thứ tự kỷ ám thị. Đây là ân sủng của một sự gặp gỡ mầu nhiệm với một Đấng nào đó. Nó ở bên ngoài mọi lý lẽ và cảm xúc, nhưng lý lẽ và cảm xúc cũng có thể hiện diện. Chúng ta có thể hiểu Thiên Chúa bằng trí óc và bằng giác quan. Thật vậy bằng toàn bộ cong chúng ta. Chúng tôi không nói về một xác tín của trí tuệ, mà về một cảm thức về Thiên Chúa – một cảm giác. Đó là một kinh nghiệm tuyệt vời làm sao.
Nhà văn Ngài, Tolstoy kể lại câu chuyện một đêm kia, ông đang cầu nguyện Thiên Chúa trong giường ngủ của ông trước một ảnh Đức Bà Đồng Trinh của Hy Lạp. Ngọn đèn đêm đang cháy. Kế đó ông ra ngoài ban công. Đêm tối đen như mực, và bầu trời đầy sao – sao mờ, sao sáng, một đám sao hỗn độn. Có một vẻ lóng lánh trên bầu trời, và trên địa cầu có những bóng đêm và hình dáng những cây khô. Ông nói: “Đó là một đêm kỳ diệu. Làm thế nào mà người ta không tin vào linh hồn bất tử khi người ta cảm thấy sự vĩ đại vô biên như thế trong bản thân mình? Tôi có thể chết. Và tôi nghe một tiếng nói trong nội tâm nói với tôi: Người đấy, ông hãy bái quỳ Người và thinh lặng”.
Người nào có cảm giác về Thiên Chúa và về sự hiện diện của Người trong đời sống, người ấy thật hạnh phúc. Đó là tài sản duy nhất đang có. Như một người đã nói: “Tôi không cần tin Ngài. Vấn đề đức tin không còn quan trọng nữa. Tôi biết chính điều ấy”.
Khi người ta biết một điều gì, thật sự biết một cách thâm sâu trong tâm hồn họ, người ta không cần biện luận hoặc chứng minh điều đó. Họ biết đúng điều đó và như thế là đủ. Đức tin thật sự là một ơn của Thiên Chúa. Người ta tin với tâm hồn dù không biết tại sao hoặc cũng không tìm kiếm sự hiểu biết. Một sự chắc chắn thân thiết đổ đầy tâm hồn người ta cũng đủ.
Khi chúng ta có một cảm thức về sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế giới, chúng ta không còn cảm thấy lẻ loi cô độc trong thế giới. Chúng ta có thể nhìn thấy với sự thán phục và yêu thương mọi tạo vật như là công trình của một Đấng Nghệ Nhân là bạn của chúng ta.
Cảm nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế giới là một phúc lành cao cả, nhưng cảm nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa chúng ta là một phúc lành còn cao cả hơn. Suốt đời, thánh Âu Tinh đã học theo điều đó. Ngài viết:
“Ôi Đấng Toàn Mỹ từ muôn đời cho đến muôn đời, con đã yêu Chúa chậm trễ, vâng, con đã yêu Chúa chậm trễ. Chúa ở bên trong con, nhưng con ở bên ngoài, và tìm kiếm Chúa ở bên ngoài ấy. Và thật vô duyên, con đắm chìm trong những sự vật khả ái mà Chúa đã tạo dựng. Chúa ở với con mà con không ở với Chúa. Những vật thụ tạo giữ con xa cách Chúa; tuy rằng nếu chúng không ở trong Chúa thì chúng sẽ không còn hiện hữu. Tại sao con lại cầu xin Chúa đến với con khi mà nếu Chúa không ở với con, con sẽ không còn hiện hữu”.
Chúng ta gặp Thiên Chúa không phải chỉ trong thế giới bên ngoài chúng ta nhưng trong thế giới bên trong chúng ta, và thấy rằng Người gần gũi chúng ta hơn là chúng ta vẫn nghi ngờ. Người tham dự vào chúng ta như lời Thánh Phaolô đã nói: “Chính ở nơi Người mà chúng ta sống, cử động và hiện hữu” (Cv 17,28).
Thiên Chúa hiện diện ở khắp mọi nơi dù không rõ ràng ở nơi nào. Người giống như một nhà viết tiểu sử mà công việc là kể lại câu chuyện trong lúc ông vẫn đứng ở hậu cảnh.
Đối với nhiều người, sự im lặng của Thiên Chúa là một vấn đề lớn. Nhưng “Một Thiên Chúa ồn ào và hiển nhiên sẽ là một bạo chúa áp bức, không an toàn thay vì là một sự động viên không giới hạn đối với bản chất yếu đuối và hay sợ sệt của chúng ta. Câu đáp lại của Người hoà nhập vào cuộc hành trình dài, gồm những sự kiện to lớn của đời sống, sâu thành chuỗi xuyên suốt mọi vật” (John Updike).
Thiên Chúa là Đấng duy nhất mà chúng ta quy phục nhưng không bị mất chính mình.
CÂU CHUYỆN KHÁC
Isaac Newton là một nhà toán học và khoa học vĩ đại của mọi thời. Tuy nhiên về cuối đời ông, ông nói về những thành tựu của mình:
“Tôi không biết tôi xuất hiện với thế giới như thế nào, nhưng đối với tôi, tôi giống như một cậu bé chơi đàn trên bãi biển và thỉnh thoảng thích thú vì tìm thấy một viên sỏi bóng loáng hơn hoặc một vỏ sò xinh đẹp hơn thường gặp, trong khi đại dương bao la của chân lý chưa khám phá vẫn còn trải ra trước mắt tôi”.
Cả khi chúng ta nghĩ rằng chúng ta hiểu được mầu nhiệm Thiên Chúa, thì chúng ta chỉ mới bắt đầu. Chúng ta vẫn chỉ là những đứa bé chơi đùa trên bãi biển. Mầu nhiệm tăng lên thay vì giảm bớt với mỗi khám phá mới.
Một số người muốn biết mọi sự, muốn giải thích mọi sự, muốn tháo gỡ mọi sự thành những sự kiện. Nhưng sống với mầu nhiệm là một điều lý thú. Albert Einstein đã nói: “Kinh nghiệm đẹp nhất chúng ta có thể có là kinh nghiệm về điều mầu nhiệm ”. cả khi có đức tin thì mầu nhiệm, bóng tối đều không thế biết vẫn còn. Chúng ta không thể thấy toàn bộ đời sống. Như lới Van Gogh đã nói: “Trên trần gian này, chúng ta chỉ nhìn thấy một nửa bán cầu”.
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Mỗi ngày chúng ta làm dấu trên mình: “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Ước gì chúng ta cũng biết in dấu Chúa Ba Ngôi, Thiên Chúa Tình Yêu trong cuộc đời ta, để chúng ta không ngừng kính mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân.
Ai trong chúng ta cũng biết câu chuyện về Thánh Augustinô ngày kia gặp một cậu bé đang cố sức lấy một chiếc vỏ sò múc nước biển đổ vào một cái hang. Thánh nhân đã chê cười cậu bé. Nhưng cậu đã đáp lại: việc tôi làm không đáng chê cười bằng việc ngài muốn dùng trí khôn loài người để tìm hiểu mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.
Sau một đời ăn chơi trụy lạc và chạy theo tà thuyết, Augustinô đã tìm về với Kitô Giáo. Ngài được xem là điển hình của một sự khao khát và tìm kiếm không ngừng. Điều đó được thể hiện qua một giai thoại như sau:
Augustinô thuộc khuynh hướng của những người cho rằng với kiến thức và nỗ lực tìm kiếm, con người có thể múc cạn chân lý về Thiên Chúa. Một hôm, đi dọc theo bờ biển, đầu óc miên man nghĩ đến những bí nhiệm về Thiên Chúa, tình cờ ngài gặp một cậu bé đang ngồi chơi trên cát. Nó dùng một mảnh sò để đào một lỗ nhỏ trên cát, rồi dùng vỏ sò múc nước biển đổ vào đó.
Nhưng dã tràng xe cát Biển Đông, cứ đổ nước vào cái lỗ mà vẫn không bao giờ đầy. Ngạc nhiên về cử chỉ của đứa bé, thánh nhân nấn ná gợi chuyện. Ngài hỏi nó đang làm gì, đứa bé trả lời không chút do dự: thưa ông, cháu đang dùng vỏ sò này để tát cho cạn nước biển đại dương.
Thánh nhân lắc đầu bảo nó: cháu không thể làm được chuyện đó đâu.
Đứa bé ngước lên và mỉm cười nói: múc cạn nước đại dương để đổ đầy cái lỗ này còn dễ hơn múc cạn mầu nhiệm về Thiên Chúa và thánh nhân đã giật mình tỉnh ngộ.
Quả thật, mầu nhiệm Ba Ngôi là một mầu nhiệm cao cả, trí khôn chúng ta không thể hiểu thấu, nhưng mầu nhiệm Ba Ngôi lại là một mầu nhiệm rất gần gũi với đời sống chúng ta.
Chúng ta cảm nhận mầu nhiệm Ba Ngôi qua cây cối thực vật ngay bên cạnh chung quanh chúng ta. Đây là câu chuyện của tình yêu thương.
Lá cây, thân cây, cành cây và rễ cây cùng yêu thương nhau. Tình yêu của chúng tiếp diễn không ngừng, lá non đâm chồi thay thế cho lá vàng, vỏ cây yêu rễ cây, rễ cây yêu cành cây. Thân cây ôm giữ chúng lại với nhau, và lá cây xõa bóng phủ hết cả thân cây. Thân cây yêu mặt đất và yêu cả bầu trời.
Ngay từ khoảnh khắc nó đâm chồi nhú lên khỏi mặt đất, nó luôn cắm sâu vào lòng đất và vươn thẳng lên trời cao. Nó yêu lũ chim chóc xây tổ trên cành của mình, nó yêu bầy thú trú ẩn dưới gốc, nó yêu cả lũ côn trùng nương náu trong từng lớp vỏ cây. Tất cả là một gia đình.
Quả thật, cây cối cho chúng ta thấy một hình ảnh rất sống động về Chúa Ba Ngôi:
– Chúa Cha là bộ rễ cắm sâu trong lòng đất.
– Chúa Con là thân cây và tất cả chúng ta là cành.
Lá cây phải làm việc đêm ngày, ấy thế mà lá không bao giờ ganh tị với hoa khi được con người đến chiêm ngưỡng. Lá cũng không bao giờ ghen tương với những trái cây khi con người nâng niu những trái chín mọng. Thường thường con người chỉ quan tâm đến những nụ hoa và những trái cây trên cành mà hầu như chẳng bao giờ để ý đến lá cây gì cả, ấy thế mà lá vẫn cứ âm thầm làm việc. Quả thật đây là một hình ảnh rất ấn tượng để giới thiệu cho con người tình yêu thương bác ái mà Chúa Giêsu đã nhiều lần nhắc nhở chúng ta.
– Chúa Thánh Thần chính là nhựa cây lấy từ rễ cây để nuôi sống thân cây, cành cây và lá cây. Cây làm sao sống được nếu không có nhựa cây nuôi sống. Lá làm sao có thể xanh tươi được nếu không được bộ rễ chuyển nhựa cây lên. Cành cây làm sao có trái được nếu không được cung cấp đầy đủ nhựa sống. Như thế nhựa cây rất cần cho sự sống của cây, nhưng nhựa cây lại tùy thuộc vào bộ rễ là chính Chúa Cha.
– Chúa Cha là bộ rễ cắm sâu trong lòng đất. Nhờ Chúa Cha là bộ rễ cắm sâu trong lòng đất mà thân cây mới có thể đứng vững, nhờ đó mới chuyển nhựa lên để nuôi cây, nhờ đó cây mới có thể sinh hoa kết trái.
Nhìn vào rừng cây chúng ta thấy rõ điều này. Quan sát rừng cây, chúng ta thấy có cả ngàn ngàn các loại cây chen nhau mọc trong rừng. Rừng xanh được tạo nên bởi cả rừng cây muôn loại và muôn mầu sắc. Các cây cùng chen nhau mọc vươn lên trong khoảng không, nhưng mỗi cây đều phải bám rễ sâu để giữ thân mình.
Mỗi cây có sự sống và có các kết cấu riêng biệt. Mỗi cây tự mình hút chất bổ để nuôi dưỡng thân mình qua những cách thế được tạo hóa phú bẩm. Cây nào không bám rễ sâu sẽ dễ bị tróc gốc khi gặp mưa to gió lớn. Chúng ta hãy bám chắc vào Chúa Cha như thân cây bám vào bộ rễ cắm sâu trong lòng đất.
Bởi đó, ngày lễ Chúa Ba Ngôi phải là một ngày lễ giúp chúng ta tưởng nhớ đến Bí Tích Rửa Tội, vì nhờ Bí Tích Rửa Tội, chúng ta trở nên con của Chúa Cha, em của Chúa Giêsu và đền thờ của Chúa Thánh Thần. Hơn nữa, Bí Tích Rửa Tội còn nói lên mối dây liên hệ giữa chúng ta và Chúa Ba Ngôi. Đây cũng là điều mà Dấu Thánh Giá nhắc nhở cho chúng ta. Thực vậy, khi làm Dấu Thánh Giá, chúng ta hãy nhủ thầm: tôi đã được rửa tội nhân danh Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Vì thế, tôi phải chu toàn thánh ý Chúa Cha, thực hiện những lời giảng dạy của Chúa Con và thánh hóa bản thân với sự giúp đỡ của Chúa Thánh Thần.
Đồng thời, ngày lễ Chúa Ba Ngôi hôm nay, còn đem lại cho chúng ta niềm an ủi và khích lệ. Chúa Cha luôn nhìn xem chúng ta, yêu mến và giúp đỡ chúng ta. Chúa Con luôn khuyên nhủ chúng ta noi gương bắt chước Ngài, quảng đại chấp nhận những hy sinh, những gian khổ. Chúa Thánh Thần thúc đẩy chúng ta làm lành lánh dữ, trao ban cho chúng ta ánh sáng và sức mạnh.
Mỗi ngày chúng ta làm dấu trên mình: “nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Ước gì chúng ta cũng biết in dấu Chúa Ba Ngôi, Thiên Chúa Tình Yêu trong cuộc đời ta, để chúng ta không ngừng kính mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Amen.
(Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm)
Tại sao không là một mà phải là ba?
Ta sẽ trả lời làm sao, nếu có ai đó đặt cho ta một câu hỏi và cũng là câu thách đố như thế này: “Giả như Thiên Chúa chỉ có một Ngôi vị duy nhất chứ không phải ba ngôi, thì điều đó có làm cho đời sống chúng ta thay đổi gì không?” Nói rộng ra nếu khi Giáo hội truy cứu Phúc âm, tầm tra Kinh thánh mà xác định lại Thiên Chúa chỉ là một chứ không phải ba; Giêsu chỉ là con người và Thánh Thần chỉ là thiên thần bậc nhất, cả hai chỉ là thụ tạo chứ không phải ngang hàng Chúa Cha, thì điều đó có làm cho cuộc sống của ta giảm bớt cái gì không? Có buồn hơn không? Hay là vui hơn vì đỡ phải thờ lạy cả hai vị kia. Làm dấu thánh giá có khi khoẻ hơn, vì chỉ cần rờ trán, nhân danh Cha là đủ.…
Tôi có thể đoán được câu trả lời, đại loại như sau: Thiên Chúa Ba Ngôi hay Thiên Chúa một ngôi vị cũng vậy thôi, có lẽ chẳng thay đổi gì là mấy. Tôi vẫn ăn vẫn ngủ vẫn sống… để đi nhà thờ, thờ một Chúa một Ngôi hay Ba Ngôi cũng được!
Nhưng cũng một mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi này mà đặt thành một câu hỏi khác, thì có lẽ câu hỏi sau này ảnh hưởng hơn tới đời sống chúng ta. Câu hỏi như sau: “Nếu Thiên Chúa không phải là Tình yêu thương, thì cuộc sống của chúng ta ở trần gian này có mất bớt hương vị không?” Câu trả lời có thể thấy ngay: Nếu vậy cuộc sống hơi căng đó. Thiếu bóng dáng Thiên Chúa Tình Yêu thì còn lại bóng dáng của Thiên Chúa biết hết mọi sự, dò xét từng hành vi góc cạnh của con người, ghi nhận vào bộ nhớ để đến ngày phán xét mở ra hạch tội: đó là một Thiên Chúa quan toà kiêm mật thám. Nếu Thiên Chúa không phải tình yêu mà là như vậy thì cuộc sống căng thẳng quá bởi vì con người có ai mà không có lỗi. Gioan nói: “Ai nói mình không có tội là nói dối.”
Đến đây, ta đã hé thấy đề tài ta sẽ suy nghĩ: Tại sao Thiên Chúa phải là ba Ngôi Vị?
Thiên Chúa một ngôi, hai ngôi hay ba ngôi chẳng liên hệ gì tới tôi, nhưng Thiên Chúa không phải là Tình yêu thì cuộc sống của tôi đen quá. Điều này liên hệ đến tôi. Vậy ai tinh ý sẽ thấy được câu trả lời cho câu hỏi: tại sao Thiên Chúa phải là ba ngôi vị.
Nếu Thiên Chúa chỉ là một vị, đơn độc, thì không sao “yêu” được. “Đời tôi cô đơn nên yêu ai cũng cô đơn, đời tôi cô đơn nên yêu ai cũng không thành…” Là tình yêu thì ít ra phải có hai vị ngang nhau, đồng loại, hai “người” mới yêu nhau được. Còn con người đối với con chó con mèo thì quí mến, chứ không phải là yêu –hiểu đúng nghĩa. Vì thế Thiên Chúa là Tình yêu thì Thiên Chúa phải có ít là hai vị ngang hàng nhau, cùng là Thiên Chúa thật.
Nhưng nếu Tình yêu chỉ có giữa hai vị với nhau, thì tình yêu đó chưa phong phú. Tình yêu phong phú, đầy tràn phải là tình yêu sản sinh, “tình yêu phát sinh tình yêu.” Vì thế Thiên Chúa là tình yêu đầy tràn không thể co cụm giữa hai vị mà là phát sinh vị thứ ba như là hậu quả tất nhiên của một tình yêu sung mãn. Thiên Chúa là Tình Yêu thì Thiên Chúa phải là ba vị. Điều này các đôi bạn trẻ hiểu được hơn ai hết. (Không phải ba vị là mối tình tam giác, có kẻ thứ ba chen vào đâu!). Nên hai người yêu nhau, yêu nhau thật sự (chứ không chỉ lấy nhau để thoả mãn nhau) thì thường mong ước có người thứ ba, tức người con như là hiệu quả cụ thể của mối tình giữa hai người: một mối tình phong nhiêu sản sinh. Hai người lấy nhau mà không muốn có con thì chưa phải là tình yêu. Muốn mà không thể có, thì khác.
Có điều khác biệt giữa Thiên Chúa Ba Ngôi và tình yêu vợ chồng là: Thiên Chúa thiêng liêng, không có hình hài, thể xác, nên không lệ thuộc nơi chốn lẫn thời gian, vì thế nơi Ngài, Ba Ngôi vị khởi từ một lúc, có từ đời đời, chứ không phải đợi chín tháng mười ngày mới có Chúa Thánh Thần. Cha, Con yêu nhau và Thánh Thần là chính Tình yêu (hậu quả của Tình yêu) giữa Cha và Con (Người (CTT) bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra). Vậy tại sao Thiên Chúa phải là ba ngôi vị. Thưa vì Thiên Chúa là Tình yêu phong nhiêu.
Một gia đình mà tờ hộ khẩu chỉ ghi tên một người, hoặc hai người vợ và chồng thì như còn thiếu. Một gia đình là phải có cha – mẹ – con, mới là gia đình đầy đủ. (Vì thế những vợ chồng son sẻ thường được giáo hội khuyến khích nhận con nuôi).Trong gia đình Thiên Chúa ba ngôi vị, người ta đã so sánh như thế nào với gia đình nhân loại?
– Truyền thống Đông phương thường ví Cha là cha – Con là con – Thánh Thần là mẹ. Vì Thánh Thần là tình yêu bao la. Lòng mẹ bao la như biển thái bình, dạt dào. Trong ca tiếp liên lễ Chúa Thánh Thần, Giáo hội gọi Chúa Thánh Thần là niềm an ủi trong lúc lệ rơi, là nghỉ ngơi trong cảnh cơ hàn. Người mẹ trong gia đình đúng là người an ủi. Lòng mẹ chính là chỗ nghỉ ngơi khi mệt nhọc. Mẹ là Chúa Thánh Thần.
– Nhưng truyền thống Tây phương lại xem Chúa Thánh Thần Ngôi Ba là con, tức là hậu quả của mối tình giữa ngôi I và ngôi II. Hai Ngôi yêu nhau, nhiệm xuất ra ngôi thứ ba là Chúa Thánh Thần.
Bởi thế, ta không cần xét xem Thiên Chúa là một gia đình thì ai là cha, ai là mẹ, ai là con. Cho bằng Thiên Chúa khôn ngoan nhiệm mầu đã dựng nên con người giống hình ảnh Ngài, tức là một con người biết yêu thương, và sống trong gia đình.
Đức Piô 12 đã nhận xét: Trong một gia đình mà người cha quên mình đi để chỉ nghĩ đến vợ con, người mẹ quên mình đi để chỉ nghĩ đến chồng con; các con quên mình đi để nghĩ tới cha mẹ, thì gia đình ấy đúng là Thiên đàng. Gia đình là Thiên đàng. Thiên đàng có Thiên Chúa, Thiên Chúa là Tình yêu.
Người vợ đi chợ về, đưa trái cam cho chồng. “Anh ăn trái cam cho có sức đề kháng” (Vitamin C). Người chồng và cũng là người cha không ăn, nhưng lén đưa cho đứa con út, nghĩ rằng nó nhỏ nhất nhà, nó phải được chăm sóc hơn. Con út không ăn, để dành chờ anh hai đi làm về, trao cho anh: “Anh đi làm về mệt cần bổ dưỡng.” Anh cả cầm quả cam – đi xuống bếp, thấy mẹ vất vả anh đề nghị mẹ dùng quả cam này để mẹ thêm sức sống. Quả cam từ người mẹ đi một vòng trở về người mẹ.
Trong gia đình đích thực, câu chuyện quả cam trên vẫn thường diễn ra. Lúc đó hình ảnh quả cam được thay bằng món quà, cục kẹo, xấp vải, chiếc áo…, hay khái quát hơn, tình thương yêu. Tình yêu luân chuyển giữa cha mẹ con cái vợ chồng anh em càng nhiều thì càng xứng đáng là đại diện là bản sao cho Thiên Chúa Ba Ngôi là một gia đình.
Một linh mục giáo sư thần học, dạy môn Thiên Chúa Ba Ngôi cho các nữ tu. Cuối khoá, thầy hỏi: “Các sơ bây giờ đã hiểu mầu nhiệm Ba Ngôi chưa?” Gần như cả lớp đồng thanh: “Dạ hiểu rồi.” Cha bật cười: “Vậy thì các chị giỏi hơn tôi rồi!”
Những ai sống trong gia đình có cha mẹ con cái, hiểu mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi hay hơn các linh mục hì hục lý giải mầu nhiệm này. Bởi lẽ Thiên Chúa là Ba vì Ngài là một gia đình. Hãy chỉ cho chúng tôi, các linh mục, hiểu rõ hơn mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi ngay trong gia đình của anh chị. Đó là lời xin lời mời và là một thách thức các anh chị đó. Giờ thì chúng ta hãy tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi qua Kinh Tin Kính.
Là con người có nhiều giới hạn, chắc hẳn chúng ta phải công nhận là chúng ta không thể nào hiểu hết tất cả mọi sự trên thế gian này. Huống chi đối với những điều cao siêu mầu nhiệm. Hôm nay cùng với Giáo hội chúng ta mừng trọng thể một trong ba mầu nhiệm chính trong đạo Công giáo. Ðó là mầu nhiệm một Thiên Chúa duy nhất trong ba ngôi vị.
Làm sao chúng ta có thể hiểu thấu mầu nhiệm này cũng như sống mầu nhiệm này được nếu không được hướng dẫn bởi ơn trên. Trong đoạn Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Ng ười sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn ” (Ga 16, 13). Sự thật toàn vẹn ấy là chúng ta đang sống trong tình yêu của mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Ðồng thời, trong Chúa Thánh Thần chúng ta cũng được kêu mời sống mầu nhiệm ấy trong cuộc sống hằng ngày.
Chúng ta đã được học giáo lý: Chúa Cha tạo dựng, Chúa Con cứu chuộc và Chúa Thánh Thần thánh hóa. Có vẻ như Ba Ngôi làm việc riêng lẽ, nhưng nhờ mạc khải của Chúa Giêsu dưới sự soi sáng của Chúa Thánh Thần chúng ta biết được trong Cha có Con, trong Con có Cha và Thánh Thần chính là tình yêu giữa Cha và Con.
Do đó, mỗi người chúng ta đang được may mắn sống trong tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Tình yêu ấy đưa con người lên địa vị làm con trong Chúa Con. Qua Bí tích Rửa tội chúng ta được đón nhận ơn vô cùng cao quý ấy. Rồi qua Bí tích Hòa giải chúng ta lấy lại được ơn ấy do tội lỗi mà chúng ta đánh mất.
Ba Ngôi cùng một uy quyền, cùng một bản thể và cùng một mục tiêu duy nhất. Mục tiêu đó làđem tình yêu và hạnh phúc đến cho con người. Là con của Chúa chúng ta hãy hết sức hãnh diện về điều ấy.
Ðể rồi với niềm hãnh diện đó, mỗi ngày chúng ta cố gắng sống mầu nhiệm này cho thật tốt trong cuộc sống hằng ngày. Ðây là mầu nhiệm độc đáo của người con Chúa. Càng sống yêu thương nhau bao nhiêu chúng ta càng làm cho mầu nhiệm ấy được sáng tỏ bấy nhiêu.
Nguyện xin tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi luôn ở cùng chúng ta và xin Người ban thêm sức mạnh để chúng ta biết sống mầu nhiệm cao cả này cho thật tốt trong cuộc sống.
Là người Công giáo chắc hẳn ai cũng biết và thuộc nằm lòng ba mầu nhiệm chính trong đạo. Một trong ba mầu nhiệm chính đó là mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi. Mầu nhiệm mà Giáo hội cho chúng ta mừng cách trọng thể hôm nay. Đây là mầu nhiệm căn bản và nền tảng cho đức tin cho mọi tín hữu.
Chúng ta biết, mầu nhiệm là cái gì đó vượt quá trí khôn con người. Cho nên với sức tự nhiên, chúng ta không thể hiểu nổi. Dầu vậy, với mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi, chúng ta có thể hiểu được phần nào khi dựa vào những gì Chúa Giêsu đã mạc khải. Hơn nữa, dựa vào kinh nghiệm tình yêu chúng ta sẽ nhận biết mầu nhiệm này một cách dễ dàng.
Ba Ngôi tuy riêng biệt nhưng luôn hiệp nhất, yêu thương và nên một với nhau. Trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa chúng ta đã biết: Chúa Cha tạo dựng, Chúa Con cứu chuộc và Chúa Thánh Thần thánh hóa. Thông thường chúng ta nghĩ Ba Ngôi tách biệt nhau và hành động riêng lẽ. Thế nhưng dựa vào mạc khải chúng ta thấy Ba Ngôi luôn hành động cùng nhau.
Ngay từ trang đầu của Sách Sáng thế đã cho thấy: ” Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước ” (St 1, 1- 2). Như vậy, lúc sáng tạo thì Ba Ngôi đã cùng hoạt động rồi. Thiên Chúa phán: ” Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta ” (St 1, 26). Hình ảnh của Thiên Chúa chính là yêu thương nhau. Mà Chúa có một ngôi thì làm sao nói là yêu thương nhau được.
Mạc khải ấy được nên trọn vẹn hơn vào thời Tân ước. Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa thì cùng lúc ấy có tiếng Chúa Cha phán cũng như có Chúa Thánh Thần hiện diện với hình chim bồ câu (Mc 1, 9 – 11). Đặc biệt, chính Chúa Giêsu là hiện thân của Chúa Cha. Người đã trả lời cho ông Philipphê: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha? Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy” (Ga 14, 9 – 11)
Từ những điều trên, chúng ta thấy vì tình yêu Ba Ngôi đã đi đến mức tuyệt đỉnh nên không còn là Ba nhưng là Một. Chúng ta có thể lấy hình ảnh tình yêu vợ chồng để minh họa. Khi anh thanh niên yêu cô gái và ngược lại thì cả hai luôn muốn nên một với nhau về mọi phương diện. Dù là hai cá nhân riêng biệt nhưng họ không muốn là hai nữa nhưng chỉ là một. Cả hai mong ước trao hiến trọn vẹn cho nhau đến nổi không còn tha thiết giữ lại gì riêng cho mình. Trong tình yêu con người với nhau đã là vậy huống chi là với tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Bởi vì tình yêu của con người luôn là phản ảnh của tình yêu Thiên Chúa.
Mỗi người chúng ta luôn được ở trong tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Khi lãnh Bí tích Rửa tội, vị đại diện Giáo hội đã nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi đón nhận ta vào cộng đoàn Giáo hội. Rồi mỗi khi làm dấu thánh giá, Giáo hội muốn chúng ta vừa tuyên xưng vừa tự nhắc mình đang sống trong tình yêu cao đẹp ấy. Đồng thời Chúa và Giáo hội cũng muốn mỗi người chúng ta làm sao cho tình yêu ấy luôn được triển nở qua cách sống của mình. Đó là cách sống vị tha, quảng đại và hiệp nhất với nhau. Xin tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi thương chúc lành cho mỗi người chúng ta.
Thánh Tôma, một nhà thần học nổi tiếng, đã nói:
– Sống trên trần gian, chúng ta chỉ biết rằng Thiên Chúa vượt lên trên tất cả những gì trí khôn chúng ta có thể mường tượng ra.
Bất kỳ một ai suy nghĩ, đều phải công nhận Thiên Chúa là một mầu nhiệm. Mà cái nhân của mầu nhiệm này chính là Ba Ngôi. Một điều trí khôn chúng ta chẳng bao giờ có thể khám phá ra.
Trong Cựu ước, chúng ta không tìm thấy một dấu vết nào về mầu nhiệm cao siêu này. Chỉ mình Đức Kitô mới tỏ lộ cho chúng ta hay mà thôi. Thực vậy, Tân ước đã trình bày cho chúng ta thấy mối liên hệ mật thiết giữa Ba Ngôi cực thánh. Tín điều này là nền tảng, là khung cửa dẫn chúng ta vào miền đất của đức tin Kitô giáo.
Từ thưở đời đời, Thiên Chúa đã không cô độc lẻ loi, đã không khép kín, nhưng luôn ngập tràn yêu thương, mở ra và và chuyển thông sự sống. Cách riêng là đối với con người, Thiên Chúa đã dành cho chúng ta một đặc ân cao quí, đó là được tham dự vào cuộc sống của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Nhờ bí tích rửa tội, Chúa Cha ban cho chúng ta quyền được làm con Ngài, cũng như quyền được thừa kế nước trời, do công nghiệp tử nạn của Đức Kitô, người anh cả của gia đình nhân loại.
Hơn thế nữa, Chúa Cha và Chúa Con còn ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta. Ngài là sợi dây tình yêu liên kết chúng ta lại với Chúa và với nhau. Chính vì thế, bí tích rửa tội là một ơn huệ vô cùng trọng đại. Nối kết chúng ta lại với Đức Kitô và qua Đức Kitô nối kết chúng ta lại với Chúa Ba Ngôi.
Ngoài ra, bí tích rửa tội còn giúp chúng ta nhận biết bản tính đích thực của Thiên Chúa, bản tính ấy chính là tình yêu. Thánh Gioan, vị tông đồ có diễm phúc tựa đầu vào ngực Chúa trong bữa tiệc ly, không ngừng nói với chúng ta rằng:
– Thiên Chúa là tình yêu.
Thực vậy, tất cả mọi yêu thương của chúng ta chỉ là một mảnh nhỏ tách ra từ trái tim ngập tràn yêu thương của Thiên Chúa. Tất cả mọi yêu thương của chúng ta chỉ là một phản ảnh yếu ớt cho tình yêu của Ngài. Tất cả mọi yêu thương liên kết chúng ta lại trong tình bác ái, rập theo khuôn mẫu của Thiên Chúa, nguồn mạch tình yêu tuyệt vời. Đó chính là đỉnh cao của sự thánh thiện, của địa vị và phẩm giá nơi con người.
Thế nhưng, chúng ta phải thành thật thú nhận rằng: Tình yêu là một danh từ quá mung lung và chúng ta chỉ là những kẻ mò mẫm đi tìm một cách thức diễn tả. Chúng ta chỉ có thể thấy được tình yêu đích thực trong việc chiêm ngắm, thờ lạy và vâng phục thánh ý Thiên Chúa mà thôi.
Kể từ năm 1934, Đức Thánh Cha Gioan 22 đã khuyến khích và phát động việc tôn thờ Chúa Ba Ngôi, một điểm quan trọng và nền tảng cho đức tin Kitô giáo, bằng cách mặc cho ngày lễ hôm nay một vẻ long trọng khác thường, đặt nó vào ngày Chúa nhật đầu tiên sau lễ Hiện Xuống, như một kết thúc cho chương trình của Thiên Chúa: tạo dựng, cứu chuộc và thánh hóa.
Hãy dâng lên Chúa Ba Ngôi tâm tình thờ lạy và ngợi khen, dù ngôn ngữ loài người chỉ là những lời bập bẹ trước vẻ cao siêu tuyệt vời của Thiên Chúa.
Giáo hội luôn thấy ở trước mặt mình mầu nhiệm Ba Ngôi, không phải chỉ trong ngày lễ hôm nay, mà hơn thế nữa, mọi bí tích được thực hiện, mọi lời kinh chính thức được kêu cầu…tất cả đều được làm nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Rồi mỗi khi làm dấu thánh giá cũng như mỗi khi đọc kinh sáng danh, chúng ta đều tuyên xưng mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Và nhiều lúc, Giáo hội đã mượn lời thánh Phaolô để cầu chúc cho chúng ta:
– Nguyện xin ơn sủng của Đức Kitô, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần hằng ở cùng anh chị em.
Hãy đáp lại lời mời gọi của Giáo hội bằng cách dâng lên Chúa Ba Ngôi những tâm tình thờ lạy và cảm tạ, đồng thời hãy cố gắng sống xứng đáng với tình yêu thương mà Chúa Ba Ngôi đã dành cho mỗi người chúng ta.
– Đời sống của chúng ta trong sự liên kết mật thiết với Ba Ngôi Thiên Chúa: Chúa Cha tạo dựng, Chúa Con cứu chuộc và Chúa Thánh Thần thánh hoá ta, đó là giáo lý mà ai trong chúng ta cũng nằm lòng.
– Nhìn vào Chúa Ba Ngôi, chúng ta thấy mỗi Ngôi có phận vụ riêng, nhưng luôn gắn bó với nhau. Điều nầy cho chúng ta suy nghĩ nơi cộng đoàn, nơi gia đình mỗi người trong khả năng của mình cố gắng đảm nhận phần trách nhiệm riêng, nhưng trong tinh thần liên kết, nâng đỡ nhau để chu toàn bổn phận cách tốt nhất.
– “Ba Ngôi Một Chúa” cũng làm cho chúng ta suy nghĩ đến cộng đoàn mẫu về yêu thương hiệp nhất. Nơi Ba Ngôi tình yêu chia sẻ, trao ban: “Người (Chúa Thánh Thần) sẽ tôn vinh Thầy” (Ga 16,14), hay “Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy” (Ga 16,15), Ngôi nầy hướng đến Ngôi kia, cho nên tuy ba mà thành một. Nếu đời sống cộng đoàn, gia đình theo gương Ba Ngôi chắc hẳn sẽ tạo nên cộng đoàn, gia đình yêu thương hiệp nhất. Trong phạm vi rộng lớn hơn đó là thế giới nầy sẽ yêu thương nhau bớt hận thù, chiến tranh; bớt chênh lệnh kiến thức, giàu-nghèo, nếu chúng ta biết chia sẻ những giá trị tinh thần, của cải vật chất cho nhau.
– Chúng ta có sống trong tâm tình biết ơn Thiên Chúa Ba Ngôi: Đấng tạo dựng, cứu chuộc và luôn ban ơn nâng đỡ ta mọi giây phút trong cuộc sống?
– Chúng ta có theo gương Ba Ngôi để dám nhận lãnh trách nhiệm và cố gắng chu toàn bổn phận của mình cách tốt nhất đối với Giáo Hội, gia đình…?
– Chúng ta có theo gương Ba Ngôi sống yêu thương hiệp nhất? Đẩy lui hẹp hòi ích kỷ, thay vào đó biết chia sẻ những giá trị tinh thần, vật chất với nhau không? Hãy lắng nghe thánh Phaolô căn dặn: “Anh chị em hãy khuyến khích nhau, hãy đồng tâm nhất trí, và ăn ở thuận hoà. Như vậy, Thiên Chúa là nguồn yêu thương và bình an, sẽ ở cùng anh em” (2Cr 13,11).
Xin Thiên Chúa Ba Ngôi ban cho chúng ta biết sống tâm tình yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân thực sự, nhờ đó chúng ta có được sự bình an hạnh phúc đời nầy và nhất là được hưởng niềm vui mãi mãi với Ba Ngôi mai sau. Amen.
Tháng năm có ngày của Mẹ, tháng sáu có ngày của Cha. Cha Mẹ sinh con ra, qua bao tháng năm nhọc nhằn nuôi con khôn lớn. Ôi tình cha nghĩa mẹ bao là thiết tha.
Người công giáo gọi Thiên Chúa là Cha, nhưng trong bóng dáng của người cha đó, vẫn đong đầy tình mẹ chứa chan. Thiên Chúa là Phụ tử và Ngài cũng là Mẫu tử. Lễ Chúa Ba Ngôi diễn tả một cách tròn đầy một Thiên Chúa duy nhất nhưng phong phú trong đa dạng: Ngài là Cha-Con-Thánh Thần. Nơi Ngài vừa là tình yêu của một người Cha, nhưng không hề thiếu vắng tấm lòng bao la của một người Mẹ.
Như ánh mặt trời cùng lúc cho vạn vật ánh sáng, sức nóng dù nó cách chúng ta đến 150 triệu cây số. Thiên Chúa Ba Ngôi hoạt động và mang lại ân sủng cho con người. Chúa Cha tác thành vạn vật, Ngài sai Người Con nhập thể để cứu vạn chúng sinh. Chúa Thánh Thần được Chúa Giê-su sai đến để soi sáng và thánh hóa con người. Thật vậy, từ đầu lịch sử của công trình sáng tạo, Ba Ngôi Thiên Chúa đã cùng hoạt động, với nhau, cho nhau và vì nhau. Mặc dù trong cựu ước, chưa có một sự quả quyết rõ ràng về Thiên Chúa Ba Ngôi, bởi lẽ, não trạng của dân Do Thái là niềm tin độc thần. Hãy tưởng tượng người nhạc sỹ sáng tác một bản nhạc, anh ta viết ở cung đô trưởng, muốn đánh hợp âm đô trưởng cùng một lúc người ta phải kết hợp một loạt ba note: đô-mi-sol. Ba note tạo thành một hợp âm đô trưởng, khi hát lên bản nhạc nghe du dương vô cùng. Niềm tin vào Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi do chính Đức Giê-su truyền dạy. Giáo Hội qua rất nhiều công đồng đã khẳng định một cách xác tín về điều này. Các Công Đồng quan trọng nhất đã định tín về chân lý này là công đồng Ni-xê-a năm 325, Công Đồng Constantinopoli năm 381, công đồng Latran IV năm 1215, công đồng Lion II năm 1274, công đồng Floren năm 1439. Dùng lý lẽ hạn hẹp của mình để đào sâu chân lý về Thiên Chúa là điều khó khả thi, nhất là những ai có ý định đem khoa học để giải thích sự hiện diện của Thiên Chúa thì quả là một điều khó hơn “ mò kim đáy biển”. Cũng giống như một người muốn ôm hết biển cả vào lòng, nhưng khi nhảy vào đại dương và bơi vào trong biển khơi thì ngày càng mịt mù ngăn cách. Chỉ trong niềm tin và tình yêu, chúng ta mới có thể thấy Thiên Chúa không đơn độc, ở Ngài tình yêu làm phát sinh muôn điều thiện hảo, và điều thiện hảo lớn lao quá đỗi là khi Thiên Chúa đã ban chính con một mình cho chúng ta. Tình yêu có Ngôi vị của Ngài là nguồn cảm hứng dạt dào để Thiên Chúa như một họa sỹ tài ba, đã vẽ nên một bức tranh tuyệt vời là vũ trụ và con người, nó không ở thể tĩnh mà luôn động. Một khi đặt con người vào trong vũ trụ, Thiên Chúa muốn bộc bạch cho con người thấy, nơi Ngài, tình yêu chính là điểm phát xuất Mầu Nhiệm Ba Ngôi.
Tuyên xưng đức tin vào Chúa Ba Ngôi là nét đẹp của hiệp nhất trong những khác biệt. Mình với ta tuy hai mà một, ta với mình tuy một mà hai. Nhìn mầu nhiệm Ba Ngôi từ góc cạnh của đức mến, tức là nhìn từ lăng kính của tình yêu. Người tín hữu không biết đến yêu thương thì cũng hoàn toàn xa lạ với Thiên Chúa. Vì “Ai không yêu thì không biết Thiên Chúa”. Chỉ những ai dám sống và dám chết cho tình yêu, mới được ở lại trong Thiên Chúa. Chỉ những ai dám tự hiến và trao ban cho anh em mới là những chứng nhân của một Thiên Chúa Tình Yêu.
Chúng ta biết do kinh nghiệm cụ thể rằng khi một em bé chào đời trong một gia đình nào đó, thì điều trước tiên em cảm nghiệm chung quanh em là: một tình yêu, một bầu khí âu yếm lan tỏa. Chỉ từ từ em mới gọi tình yêu bao bọc quanh em là ba, là má, là anh, là chị. Tôi nghĩ chúng ta là Kito6 hữu thì cũng phải đi theo một hành trình tương tự đó vào huyền nhiệm Ba Ngôi. Ta cũng được một tình yêu được một bầu khí âu yếm bao bọc. Một tình yêu, một bầu khí lan tỏa nhưng không tên. Nhưng dần dần trong tình yêu đó ta phân biệt được những khuôn mặt để rồi ta bập bẹ gọi tên là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Đó là huyền nhiệm Ba Ngôi một tình yêu qúa phong phú đến độ ta sẽ không bao giờ biết hết được, có kinh nghiệm trọn vẹn được. Cho dù có ai nghiên cứu Kinh Thánh thì có thể khám ra trong đó những giai đoạn lớn của mặc khải về Ba Ngôi Thiên Chúa. Đây chính là cuộc khám phá lớn nhất trong mọi thời đại, mỗi thế hệ Kitô hữu theo một qúa trình thực hiện riêng. Ngày xưa người ta thích nói nhất thể tam vị. Một Thiên Chúa Ba Ngôi nghĩa là người ta muốn nói đến Thiên Chúa thoat ra ngoai định nghĩa, người vượt các định luật toán học. Thánh Augustinô , người đã viết rất nhiều về Chúa Ba Ngôi mà cuối cùng phải thốt lên rằng: Khi người ta nói về Ba Ngôi hẳn là không phải để nói một điều gì đó hơn là để khỏi phải thinh lặng.
Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, cũng như tất cả những mầu nhiệm đặc biệt Kitô giáo, không tự nhiên dễ hiểu đối với những trí tuệ thích lý luận của con người. Mới đây một đứa trẻ đã nói với cha nó rằng: “Ba mà cũng còn tin những chuyện ấy à?”. Phản ứng của đứa trẻ này minh họa rõ ràng cái não trạng vụ khoa học mà ta đã bị thấm nhiễm, và não trạng đó có khuynh hướng chủ trương cái gì có thể kiểm nghiệm được, mới được coi là có thật.
Tuy nhiên, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là một trong những mầu nhiệm đáp ứng được những ước mơ thâm sâu nhất của nhân loại. Bí mật của thế giới chúng ta không phải là cái gì trừu tượng, hoặc một sức mạnh vô danh tăm tối, nhưng là một tình thương…, có thể nói được rằng: “đó là nhịp đập của ba trái tim thương yêu nhau” hoặc nói theo ngôn ngữ truyền thống hơn, nhưng cùng một thực tại lạ lùng đó, ta nói: Thiên Chúa là ba ngôi vị, nhưng ba ngôi là một Chúa duy nhất.
Thật vậy, bạn hãy mở sách Tin Mừng bất kỳ trang nào, bạn sẽ thấy rằng Đức Giêsu không khi nào đóng vai giáo sư dạy môn tôn giáo hoặc môn triết học. Người đã không hề giảng bài về Chúa Ba Ngôi. Người cũng không bao giờ nói ra từ ngữ đó. Không! Nhưng đơn giản là Người đã sống. Người đã sống như một người Con.
Như vậy, cách sử sự và những lời của Đức Giêsu đưa ta vào làm quen với “Ba Ngôi” vừa hoàn toàn tách biệt, tuy nhiên, lại vừa hoàn toàn liên kết nên một. Vâng, Đức Giêsu là Đấng luôn “quy hướng về Đấng khác”.
Quả thật, trong suốt lịch sử của nhân loại đi tìm kiếm từ tôn giáo, Đức Giêsu và chỉ một mình Đức Giêsu là người đủ bạo dạn để dám nghĩ rằng: Thiên Chúa không phải là Đấng cô đơn, xoay tròn chung quanh mình, giam hãm mình trong một thứ ích kỷ thánh thiêng…, nhưng Thiên Chúa là Đấng khởi nguồn và làm nẩy sinh mối liên hệ yêu thương.
Lạy Chúa, xin cho con luôn xác tin về mầu nhiệm Ba Ngôi để con không nhưng tin mà còn sống và loan báo mầu nhiệm đó cho những người khác. Amen.
(Suy niệm của Lm Giacôbê Tạ Chúc)
Mỗi lần đọc kinh, hay đi tham dự thánh lễ, mỗi người Kitô hữu đều biết làm dấu Thánh Giá trên mình: “Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần, Amen”.
Cách tuyên xưng Mầu nhiệm Ba Ngôi rất đơn giản và rất hiện sinh trong đời sống bình thường khi thờ phượng một Chúa: Cha-Con-Thánh Thần, mà chúng ta đã thể hiện.
Sách Giáo lý công giáo dạy rằng: “Người Kitô hữu được rửa tội” nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19). Trước khi lãnh nhận Bí tích, họ phải trả lời ba lần “Tôi tin” để đáp lại những câu thẩm vấn về đức tin vào Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Đức tin của mọi Kitô hữu đều dựa trên mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi (số 232). Trong dòng chảy của lịch sử cứu độ, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi chỉ được tỏ tường trong những lời dạy của Đức Kitô: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9). Chúa Giêsu luôn khẳng định Ngài làm theo ý của Cha, và Ngài với Cha là một. Cuộc vượt qua của Chúa Giêsu không phải là một dấu kết của một bản nhạc mà là khởi đầu của một sáng tác mới trong Thần Khí của sự thật: “Thầy sẽ xin cùng Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi” (Ga 14, 16). Rõ ràng Chúa Giêsu là một Mạc khải trọn vẹn về một Thiên Chúa duy nhất-Ba Ngôi. Chúa Cha là tình yêu, mà tình yêu thì phải có đốii tượng để trao ban, đối tượng đó chính là Chúa Giêsu. Tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con là một tình yêu trao dâng và hướng về. Tình yêu ấy đạt trọn vẹn dưới tác động của Thần Khí, hay tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con nhiệm sinh Chúa Thánh Thần. Bức Icône “Ba Ngôi” của Rubliov đạt tới mức kỳ diệu của ảnh đạo, khi ông diễn tả một khía cạnh thâm sâu của Mầu Nhiệm Ba Ngôi: Ba Ngôi hòan tòan hướng về nhau. Như thế Thiên Chúa không cô độc trong Mầu Nhiệm Ba Ngôi. Từ tình yêu giữa các Ngôi vị, mà Thiên Chúa đã tác thành con người để chia sẻ tình yêu cho chúng ta. Ba Ngôi vị hướng về nhau trọn vẹn, kết hợp với nhau và là Một với nhau. Ba Ngôi vị có cùng Bản Thể với nhau nhưng không phải là một Bản Thể đóng kín, một Bản Thể cá vị, mà là một Bản Thể mở rộng. Nhờ thế mà con người được đưa vào trong chính cung lòng của Ba Ngôi Huyền Nhiệm.
Tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi không là một trạng thái Tĩnh, nhưng luôn ở dạng Động. Tham dự vào đời sống Ba Ngôi, đó là nền tảng của sự hiệp thông trọn vẹn vào đời sống của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Mỗi lần cử hành mầu nhiệm vượt qua, chúng ta tiến tới cuộc khổ nạn và Phục sinh vinh hiển nhờ Đức Kitô, trong Chúa Thánh Thần, tiến tới Chúa Cha (per Christum in Spiritu Sancto ad Patrem).
Các nhà thần học cổ điển đã thường tranh luận với nhau về vấn đề tương quan giữa tin và hiểu. Tin trước hiểu sau hay là hiểu trước rồi mới tin sau, đó là hai chiều kích luôn song hành với nhau. Đức tin tìm được sự hiểu biết hay là hiểu biết tìm đến đức tin. Thật ra, hiểu rồi tin hay tin rồi mới hiểu là hai chiều kích không thể thiếu được trong sinh hoạt của con người. Một con người có trí khôn để hiểu biết, nhưng lại là một trí khôn có giới hạn. Tin và hiểu, hiểu rồi tin cần bổ túc cho nhau luôn mãi trong cuộc sống nhân bản của con người cũng như trong cuộc sống Kitô.
Trước mầu nhiệm Thiên Chúa vô cùng cao cả được mạc khải cho con người hữu hạn thì yêu cầu phải hiểu rồi mới tin, có thể là một yêu cầu của con người tự phụ, tự kiêu. Nhưng ngược lại, nếu chỉ muốn tin mà không cần hiểu biết gì cả thì cũng dễ dàng rơi vào trong sự mù quáng khó tin.
Trước mầu nhiệm của mọi mầu nhiệm, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi mà chúng ta mừng lễ Chúa nhật hôm nay, nếu cứ xoay quanh vấn đề tin và hiểu thì có lẽ chúng ta sẽ không đi đến đâu cả.
Chúa Giêsu đã áp dụng phương pháp đặc biệt khác đối với các tông đồ để mạc khải cho các ngài về mầu nhiệm Thiên Chúa, đó là kinh nghiệm sống cao độ giữa Chúa Giêsu và các tông đồ mà cao điểm là kinh nghiệm Chúa Phục sinh và biến cố Chúa Thánh Thần Hiện xuống để hướng dẫn các ông tiến sâu vào trong mầu nhiệm của Thiên Chúa. Các tông đồ cần sống với kinh nghiệm sống với Chúa Giêsu và cần Chúa Thánh Thần hướng dẫn để có thể đi sâu vào trong mầu nhiệm Thiên Chúa này, và khám phá ra mầu nhiệm Thiên Chúa đó không phải một Thiên Chúa đơn độc, nhưng là một Thiên Chúa phong phú gồm cả Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần.
Khi mời theo Chúa và cả khi gần kết thúc cuộc đời theo Chúa trên trần gian, các tông đồ đã không hiểu gì cho lắm về mầu nhiệm Thiên Chúa như được Chúa Giêsu mạc khải. Các ngài còn tranh tụng với nhau về địa vị lớn nhỏ, muốn ngồi bên hữu, bên tả của Chúa. Tranh tụng với nhau về lúc nào sẽ thiết lập lại vương quốc cho dân tộc Israel và tranh tụng với nhau biết bao chuyện thường tình khác nữa của con người trần tục.
Kinh nghiệm sống của các ông với Chúa Giêsu chắc có lẽ sẽ không đi đến đâu, sẽ không phát sinh hiệu năng làm các ông trở thành chứng nhân cho Chúa, bao lâu các ông chưa hiểu mối liên hệ nào giữa cuộc đời của các ông với cuộc đời của Chúa Giêsu: Theo Chúa để làm gì? Và có ích gì cho cuộc sống?
Hành động của Chúa Giêsu Phục sinh ban Chúa Thánh Thần xuống trên các tông đồ có thể nói là hành động cuối cùng để hoàn tất công cuộc mạc khải mầu nhiệm Thiên Chúa, để đưa các tông đồ vào mầu nhiệm Thiên Chúa mỗi ngày một sâu xa hơn. Chúa Thánh Thần sẽ dẫn đưa chúng con đến vào trong mầu nhiệm Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần sẽ đến để dẫn đưa chúng con vào trong sự thật mỗi ngày một trọn vẹn hơn, sâu xa hơn.
Đó là điều mà chúng ta nghe được trong bài Phúc âm hôm nay, một đoạn trích ngắn từ bài diễn văn dài của Chúa Giêsu cho các tông đồ trong bữa Tiệc Ly. Đó là con đường tương quan sống động giữa Thiên Chúa và con người. Nếu mất đi hay không có mối tương quan này thì e rằng những đồ đệ của Chúa ngày xưa cũng như chúng ta hôm nay sẽ chỉ là những kẻ mang danh hiệu là người Kitô, người Công giáo trống rỗng, không có nội dung, không có cuộc sống thánh thiện chi cả.
Tiếp xúc hằng ngày với Chúa Giêsu, các tông đồ cảm nghiệm được rằng, mầu nhiệm Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mạc khải trước mắt các ông qua lời giảng dạy và qua những dấu lạ Chúa làm là một mầu nhiệm rất phong phú về Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần, luôn luôn hiệp nhất với nhau và luôn luôn yêu thương con người, muốn biến đổi con người để con người sống yêu thương hiệp nhất với nhau và với Thiên Chúa.
Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần có một ý định rõ ràng là mời gọi các ông, mời gọi những con người đi theo Ngài hãy cộng tác vào chương trình hành động của Thiên Chúa trong lịch sử, để tình thương Thiên Chúa được hiện diện mãi trong con người.
Mừng lễ Thiên Chúa Ba Ngôi hôm nay, chúng ta hãy vượt qua sự tò mò ý thức của trí khôn con người, một trí khôn có giới hạn nhưng lại tự kiêu, không chấp nhận giới hạn, muốn đặt vấn đề về tất cả mọi sự và thắc mắc tại sao Thiên Chúa có một mà lại có ba ngôi? Chúng ta hãy vượt qua sự tò mò ý thức này để kiểm điểm lại mối tương quan sống động giữa ta với Thiên Chúa hiện nay. Mối tương quan đó như thế nào rồi? Đang sinh sống tốt tươi hay đã héo hon. Xin Chúa giúp chúng ta thiết lập lại mối tương quan này, cảm thấy được Thiên Chúa hiện diện trong đời sống chúng ta và xác tín về tình yêu của Thiên Chúa đối với mỗi người chúng ta, và để cho tình yêu đó biến mọi người chúng ta mỗi ngày trở nên chứng nhân cho Ngài giữa anh chị em.
Lạy Ba Ngôi Thiên Chúa, Ba Ngôi Thiên Chúa của tình yêu thương, xin gìn giữ chúng con trong tình yêu mãi mãi và biến mỗi người chúng con trở nên những chứng nhân làm chứng cho tình yêu này. Xin Chúa thương gìn giữ chúng con trong đức tin mà giờ đây chúng con cùng nhau tuyên xưng qua Kinh Tin Kính.
Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm thâm sâu, cao cả nhất, vì là chính đời sống nội tại của Thiên Chúa, và đây cũng là mầu nhiệm trung tâm và nền tảng của các mầu nhiệm khác. Bởi vì các mầu nhiệm khác như Nhập Thể, Cứu Chuộc, Sống Lại, Lên Trời, Hiện Xuống đều đặt nền tảng trên mầu nhiệm này, hoặc chỉ hiểu được nhờ mầu nhiệm này. Nhìn vào lịch sử cứu chuộc, chúng ta thấy rõ ràng có Ba Ngôi hoạt động: Chúa Cha sai Con mình xuống trần cứu thế, Chúa Con sinh làm người thực hiện ý định cứu chuộc của Chúa Cha. Rồi Chúa Thánh Thần được cả Chúa Cha và Chúa Con gửi đến để trợ giúp và thánh hóa mọi người và mỗi người hoàn thành ơn cứu chuộc của mình.
Như vậy, khi dạy cho chúng ta biết công cuộc cứu chuộc của Ngài, Thiên Chúa đồng thời cũng dạy cho chúng ta biết về Ba Ngôi nơi Thiên Chúa. Chúng ta chỉ có thể biết được mầu nhiệm này nhờ Thiên Chúa trực tiếp mạc khải. Tuy nhiên, mầu nhiệm Ba Ngôi rất khó hiểu. Con số 1, 2, 3 là để đếm đo. Mà đã đếm đo thì phải là những gì hữu hình, có lượng, có chất thì mới đếm đo được. Thiên Chúa vô hình, thiêng liêng, không lệ thuộc vào không gian và thời gian như chúng ta, thì làm sao đo đếm được. Mặc dầu mầu nhiệm này đã được chính Chúa Giêsu dạy bảo qua ngôn ngữ của loài người, nhưng vẫn là chuyện khó hiểu. Tuy nhiên, khó hiểu mà không nghịch lý.
Đọc Kinh Thánh, chúng ta thấy có Ba Ngôi. Ba Ngôi thật sự phân biệt nhau, khác nhau, nhưng Ba Ngôi chỉ có một bản tính duy nhất là bản tính Thiên Chúa, nên chỉ có một Thiên Chúa thôi. Ngôi Cha và Ngôi Con là một: một bản tính, một quyền năng như Chúa Giêsu đã quả quyết: “Cha Ta và Ta là một”. “Cha Ta làm sao thì Ta làm y như vậy”, “Ai thấy Ta là thấy Chúa Cha”. Ngôi Ba và Ngôi Hai cũng là một, như Chúa Giêsu đã nói: “Chúa Thánh Thần sẽ đến từ Cha và Ta. Người chỉ nói những gì nghe biết bởi Chúa Kitô”, “Ai nói dối Chúa Thánh Thần thì cũng nói dối chính Thiên Chúa”. Những điều trên cho chúng ta biết: Ba Ngôi đồng bản tính với nhau, nếu không đồng bản tính thì không thể có sự liên hệ và lệ thuộc mật thiết giữa Ba Ngôi như vậy được.
Trong cuộc đời trần thế này, nơi chúng ta còn đang bước đi trong đức tin, chúng ta không thể hiểu được hết, được nhiều về một mầu nhiệm cao cả và thâm sâu như vậy. Chúng ta chỉ hiểu được phần nào trong giới hạn chật hẹp của trí tuệ con người và qua những hình ảnh tương đối, bất toàn, mượn nơi thế giới loài người, như hình tam giác đều, ba tài năng của con người: hiểu, nhớ và muốn. Ba giai đoạn của thời gian: quá khứ, hiện tại và tương lai. Điện có sức làm chuyển động, đốt nóng và soi sáng… Chúng ta dùng kiểu nói nào hay hình ảnh nào để diễn tả thì cũng chỉ là tương đối vậy thôi, vì ngôn ngữ loài người không thể diễn tả hết được, như có người đã nói: “Đố ai định nghĩa được tình yêu”, phương chi là nói tới Thiên Chúa Ba Ngôi.
Có một câu chuyện kể rằng: một hôm, khi suy nghĩ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, thánh Âu Tinh, trong một thị kiến, nhìn thấy mình đi bách bộ trên bãi biển. Bên bờ đại dương bao la, ngài nhìn thấy một em bé chơi một trò chơi kỳ lạ. Em đào một lỗ nhỏ giữa cát trắng, và dùng một cái vỏ sò múc nước biển đổ vào lỗ ấy. Cho đến bao giờ em mới múc được hết nước đại dương đổ vào cái lỗ nhỏ ấy? Không thể làm được. Thì ra đó là một thiên thần từ trời xuống dạy cho nhà tiến sĩ Âu Tinh một bài học về Thiên Chúa Ba Ngôi: đừng hòng dùng lý trí để mà tìm hiểu bản thân của Thiên Chúa vô hình và siêu việt, người ta chỉ có thể dùng con tim để mà tiếp xúc và hiệp thông mà thôi.
Thế nên, chúng ta hãy xin Thiên Chúa cho lòng chúng ta được khiêm tốn. Đừng bao giờ điên rồ đòi “giải quyết vấn đề Thiên Chúa”, đứng mất công bóp trán hòa hợp số 1 với số 3, vì Thiên Chúa không phải là một vấn đề hay một bài toán để chúng ta giải quyết. Nếu Thiên Chúa nằm trong sự giải quyết của con người thì không còn phải là Thiên Chúa nữa, mà chỉ là sản phẩm do trí óc chật hẹp của con người tạo ra. Nhưng đâu phải trí óc chúng ta tạo nên Thiên Chúa, chính Thiên Chúa đã tạo nên trí óc chúng ta.
Xin đề nghị một điều, hay đúng hơn là nhắc lại một điều, bởi vì điều này chúng ta đã và đang làm rồi, đó là làm dấu thánh giá. Mỗi lần làm dấu thánh giá là một lần chúng ta biểu lộ lòng tôn kính và tuyên xưng đức tin vào Chúa Ba Ngôi. Điều muốn nói ở đây là chúng ta hãy làm dấu thánh giá mỗi khi có thể và nhất là làm nghiêm trang, tôn kính, đúng vị trí từng ngôi trên trán, trên ngực và trên hai vai đàng hoàng, chứ đừng làm ẩu, vội vàng như đuổi ruồi muỗi hay vẽ bùa, vừa bất kính vừa không ích lợi gì. Ước mong từ nay, trước khi làm một việc gì, chúng ta hãy làm dấu thánh giá với tất cả ý thức và niềm tin: Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Amen.
Trong cuộc sống, có nhiều điều lạ lùng mà trí khôn con người vẫn không bao giờ hiểu thấu nổi. Để diễn tả các điều khó hiểu của cuộc sống, cha ông ngày xưa mới đố nhau:
Đố ai biết lúa mấy cây, Biết sông mấy khúc, Biết mây mấy tầng.
Đố ai quét sạch lá rừng, Để ta khuyên gió, Gió đừng rung cây.
Nhưng tất cả mọi điều khó hiểu trong cuộc sống con người có lẽ tình yêu là khó hiểu nhất. Vâng, chỉ nguyên định nghĩa tình yêu thôi cũng đủ để hao tổn bao công sức và giấy mực, qua các thời đại mà vẫn không có được một định nghĩa diễn tả trọn vẹn ý nghĩa. Và vì không có được một định nghĩa như vậy nên người ta mới coi tình yêu như là mầu nhiệm vậy.
Nhưng tình yêu ấy có đáng là gì so với các mầu nhiệm của Thiên Chúa, mà trong các mầu nhiệm của Thiên Chúa thì mầu nhiệm Một Thiên Chúa Ba Ngôi mà ngày hôm nay chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội mừng kính là mầu nhiệm cao cả nhất, khó hiểu nhất trong Giáo Hội Công giáo chúng ta. Như sách giáo lý của Giáo Hội khẳng định: “Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trọng tâm của đức tin và đời sống Kitô hữu. Bởi vì đây là mầu nhiệm về đời sống nội tại của Thiên Chúa mà cũng là mầu nhiệm của Thiên Chúa “cho chúng ta” “.
Vậy vấn đề đặt ra cho chúng ta ở đây đó là phải hiểu và đón nhận mầu nhiệm Một Thiên Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm quá cao siêu này như thế nào.
Khi nói đến mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, có người thì chấp nhận một cách thụ động, coi như một sự thật hiển nhiên không cần tìm hiểu thêm, người khác thì cố gắng dùng những hình ảnh cụ thể để so sánh chân lý cao siêu này hầu dễ được tin nhận hơn như ngọn lửa của que diêm, cả ba đặc tính: sáng, nóng và cháy xuất hiện cùng một lúc và không thể tách rời nhau, hoặc với một tam giác đều có ba cạnh, ba góc bằng nhau. Nhưng tốt hơn hết, chúng ta tuyên xưng: đây là mầu nhiệm đức tin, nghĩa là chúng ta đón nhận trọn vẹn chân lý ấy nhờ tin vào mạc khải của Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người. Bởi vì nếu không có Thiên Chúa mạc khải, thì chúng ta không biết gì về Ba Ngôi, việc nhập thể của Con Thiên Chúa hay sứ mạng của Chúa Thánh Thần. Như thánh Gioan tông đồ vào cuối đời mình, khi suy niệm về cuộc đời, cái chết và sự Phục sinh của Đức Giêsu mới định nghĩa được “Thiên Chúa là tình yêu”. Thiên Chúa là tình yêu tức là tự chính nơi Thiên Chúa là yêu thương và là nguồn gốc của mọi tình yêu.
Vâng, chính vì tình yêu mà Chúa Cha sinh ra Chúa Con; đã trao cho Chúa Con tất cả, ngay chính bản thân mình, như trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, chính Đức Giêsu khẳng định rõ ràng: “mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy”. Và Chúa Cha yêu Chúa Con đến nỗi luôn ở trong Chúa Con, hiệp thông làm một với Chúa Con. Nên khi tông đồ Philipphê tha thiết muốn được xem thấy Chúa Cha, Đức Giêsu đã trả lời ngay: “Ai thấy Thầy là thấy Cha. Anh không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy sao?” Và chính sự kết hợp giữa Chúa Cha và Chúa Con nhiệm xuất ra một tình yêu, tình yêu ấy lại là một ngôi vị, đó là Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là luồng tình yêu từ Chúa Cha đến Chúa Con và từ Chúa Con đến Chúa Cha, là sức mạnh tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con. Vì thế, trong Ba Ngôi luôn có một sự đón nhận, trao hiến và hiệp thông tình yêu vĩnh cửu trong một Thiên Chúa duy nhất.
Quả thực, tình yêu nào cũng muốn bộc lộ, muốn hiệp thông, muốn trao hiến, người yêu nào cũng muốn tỏ tình thì đối với tình yêu Thiên Chúa chúng ta còn mạnh mẽ gấp bội. Qua công trình sáng tạo Thiên Chúa muốn vũ trụ vạn vật và con người hiệp thông với Ngài để đón nhận tình yêu và sự sống. Ngay cả khi con người sa ngã, chối từ lòng thương ấy thì Thiên Chúa “vì lòng yêu thương che phủ muôn vàn tội lỗi” nên “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi ban Con Một cho thế gian”. Người Con Một ấy chính là Đức Giêsu. Qua Đức Giêsu mà chúng ta thấy được bộ mặt của Thiên Chúa, Ngài đã dạy cho chúng ta biết thế nào là yêu thương. Qua kiếp sống làm người, qua cái chết đau thương, Ngài muốn tỏ ra cho nhân loại thấy rằng Ba Ngôi Thiên Chúa rất yêu thương chúng ta. Đặc biệt qua biến cố Phục sinh của Đức Giêsu chính Chúa Thánh Thần, Đấng là tình yêu hiệp thông vừa nối kết Đức Giêsu lại với Chúa Cha, làm cho Đức Giêsu làm một với Chúa Cha vừa nối kết nhân loại với Thiên Chúa và với nhau. Và vì yêu thương cho đến cùng, nên Giáo Hội là Dân Thiên Chúa được sinh ra từ tình yêu của Chúa Cha, được Chúa Con thiết lập, được nuôi dưỡng và hoàn tất nhờ Chúa Thánh Thần để qua sự hiện diện của Giáo Hội như một dấu chứng tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại luôn mãi.
Đối với Giáo Hội, qua bao thời đại vẫn không ngừng thể hiện căn tính của mình cho nhân loại thấy mình vừa là dấu chứng tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại, vừa hiệp thông với Thiên Chúa trong tình yêu, đặc biệt qua đời sống phụng vụ, như Công đồng Vaticanô II trong Hiến chế về Giáo Hội đã trích lại câu mấu chốt của thánh Cyprianô rằng: “Giáo Hội phổ quát xuất hiện như một dân tộc hiệp nhất do sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.
Mừng lễ Thiên Chúa Ba Ngôi hôm nay, chúng ta nhận thấy nếu Thiên Chúa là tình yêu và con người đã được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa thì một cách tất yếu phẩm giá của con người đã được xây dựng trên tình yêu. Vì thế, ai chối bỏ tình yêu, gieo rắc hận thù thì người đó đã chối bỏ con người và do đó cũng chối bỏ Thiên Chúa. Trái lại “Ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy”.
Hôm nay Thiên Chúa Ba Ngôi đang dùng tiếng nói của Giáo Hội mời gọi mỗi người chúng ta hãy sống hiệp thông trong tình yêu của Ngài hơn nữa. Cụ thể là thành viên trong gia đình mỗi người chúng ta xem đã hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi để đón nhận và thể hiện tình yêu của Ngài như thế nào? Rồi, giữa vợ chồng với nhau, giữa cha mẹ với con cái và giữa anh chị em với nhau đã thực sự yêu thương nhau góp phần làm cho gia đình mình trở nên dấu chỉ và hình ảnh sống động của sự hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa tình yêu nơi trần gian hay chưa?
Nếu Thiên Chúa Ba Ngôi mà chúng ta tôn thờ là nguồn mạch tình yêu đã trao ban tình yêu qua chương trình cứu độ và sẵn sàng đón nhận mọi người hiệp thông với Ngài, thì Ngài cũng đang mong chờ thái độ đáp trả của chúng ta, một thái độ biết đón nhận, trao hiến và hiệp thông tình yêu với Ngài và với anh em đồng loại.
Trong thánh lễ này chúng ta cùng cầu xin Chúa Thánh Thần, Đấng là tình yêu hiệp thông luôn hướng dẫn đời sống mỗi người chúng ta, mỗi gia đình chúng ta, giúp chúng ta biết lắng nghe và thực hành lời của Chúa Giêsu để cùng với việc can đảm tuyên xưng niềm tin của mình vào Thiên Chúa Ba Ngôi như qua việc làm dấu thánh giá, cầu nguyện, tham dự thánh lễ, chúng ta biết sống bác ái yêu thương trong gia đình, khu xóm, cộng đoàn của mình, để xứng đáng là những nghĩa tử của Chúa Cha và luôn được sống hiệp thông trong tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa.
Cùng với Giáo Hội, hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Ba Ngôi. Dịp này cũng giúp cho chúng ta thấy rõ hơn về tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi đối với loài người. Khi chiêm ngắm Một Chúa Ba Ngôi, chúng ta có những cảm nghiệm về tình yêu của Ngài như sau.
Thứ nhất: Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm. Sách giáo lý Công giáo dạy rằng: “Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo và đời sống Kitô giáo. Đó là nguồn mạch của tất cả các mầu nhiệm khác của đức tin. Đó là giáo huấn căn bản nhât và chủ yếu nhất trong “Phẩm trật các chân lý của đức tin” (GLCG 134). Thật thế, Ngài là một thực tại giống như không khí chúng ta đang hít thở để bảo tồn sự sống. Ba Ngôi Thiên Chúa là một mầu nhiệm gống như mầu nhiệm của sự sống. Bất kỳ sự sống nào không liên kết chặt chẽ với Thiên Chúa đều vô nghĩa. Và trống rỗng. (Ga 15, 4; 1Cr 13,1-3). Do đó, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi nhắc nhở chúng ta biết rằng Thiên Chúa đang hiện hữu, điều khiển và nâng đỡ từng giây phút của mọi sinh hoạt vạn vật và nhân sinh trên vũ trụ.
Thứ hai: Thiên Chúa Ba Ngôi là một liên hệ yêu thương. Lịch sử cứu rỗi nhân loại là cuộc gặp gỡ tình yêu giữa Thiên Chúa và con người. Trong Tân Ước, các Tông Đồ mới gặp gỡ Chúa Giêsu, họ đã thấy Ngài là một Con Người tuyệt hảo, đầy thu hút. Họ đem lòng yêu mến, “un coup de foudre” bỏ mọi sự bước theo Ngài (Mc 1, 16-20; Mt 4, 18-22). Dần dần qua sự liên hệ thân mật giữa Chúa Giêsu và các Tông Đồ, Ngài cho họ biết những điều bí mật về Thiên Chúa Cha, về chính Ngài là Thiên Chúa Con, và về Đức Chúa Thánh Thần. Thiên Chúa là tình yêu (1 Ga 4, 6). Và sự liên hệ là: “Ta và Chúa Cha là một” (Ga 10, 30).
Là môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi để chia sẻ sự sống và tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Tất cả cuộc sống Kitô hữulà sự liên đới và hiệp thông với mỗi ngôi vị của Ba Ngôi, mỗi người Kitô hữu là đền thờ cho Thiên Chúa ngự trị: ” Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy, Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14, 23). Nên chúng ta cần bày tỏ sự kính trọng và yêu thương đối với mọi người chúng ta gặp gỡ. Sự kính trọng và yêu thương như những cơn mưa tưới nước xuống vườn hoa. Khi mưa rơi trên những cây hoa, nó sẽ nở bông, khi con người được cư xử với sự kính trọng và yêu thương, họ cũng sẽ nở hoa, vì có ân sủng của Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị nơi họ.
Thứ ba là Thiên Chúa Ba Ngôi chính là Sự Thật. Thiên Chúa Ba Ngôi chính là sự thật mà mỗi người phải dựa trên đó để sống có ý nghĩa và được cứu rỗi. Yêu mến Thiên Chúa là sống trong sự thật, và chỉ có sự thật mới giải thoát đuợc con người (Ga 8, 32). Chúa Giêsu đã nói: “Ta là đường, là sự thật, và là sự sống” (Ga 14, 6). Đức Chúa Cha đã sai Chúa Con đến để dẫn đưa con người về với sự thật của ơn cứu rỗi mà Ađam và Eva đã bị ma quỷ lừa dối (Rm1, 20; Ep 1, 3). Và chính Đức Chúa Giêsu đã gọi Chúa Thánh Thần là Thần Khí Sự Thật: “Khi nào Thần Khí Sự Thật đến,Ngài sẽ hướng dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn” (Ga 16, 13; 14, 17; 15, 26)
Khi chúng ta xum họp nơi đây để chúc tụng và Tôn vinh Chúa Ba Ngôi, chúng ta chấp nhận rằng đây là một mầu nhiệm, một chân lý không ai có thể hiểu được giảng giải được. Chúng ta biết đó là sự thật, vì Chúa Giêsu đã nói với chúng ta về Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúng ta đón nhận, tin, vì Chúa Giêsu đã dạy, chúng ta tôn vinh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là nguồn mọi sự thiện hảo.
Chúa Ba Ngôi là ngôi vị sống động, thông biết và yêu thương.
Thiên Chúa là tình yêu. Chúng ta là con cái của Người nên chúng ta đi trong đường lối của Người, tín thác hoàn toàn và yêu thương như Ngài đã yêu.
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi, xin giúp chúng con biết yêu thương và sống chứng nhân về tình yêu mà Ngài dành cho chúng con. Amen.
Đức tin không phải là một thứ tự kỷ ám thị. Đây là ân sủng của một sự gặp gỡ mầu nhiệm với một Đấng nào đó. Nó ở bên ngoài mọi lý lẽ và cảm xúc, nhưng lý lẽ và cảm xúc cũng có thể hiện diện. Chúng ta có thể hiểu Thiên Chúa bằng trí óc và bằng giác quan. Thật vậy bằng toàn bộ con người chúng ta. Chúng tôi không nói về một xác tín của trí tuệ, mà về một cảm thức về Thiên Chúa – một cảm giác. Đó là một kinh nghiệm tuyệt vời làm sao.
Nhà văn Nga, Tolstoy kể lại câu chuyện một đêm kia, ông đang cầu nguyện Thiên Chúa trong giường ngủ của ông trước một ảnh Đức Bà Đồng Trinh của Hy Lạp. Ngọn đèn đêm đang cháy. Kế đó ông ra ngoài ban công. Đêm tối đen như mực, và bầu trời đầy sao – sao mờ, sao sáng, một đám sao hỗn độn. Có một vẻ lóng lánh trên bầu trời, và trên địa cầu có những bóng đêm và hình dáng những cây khô. Ông nói: “Đó là một đêm kỳ diệu. Làm thế nào mà người ta không tin vào linh hồn bất tử khi người ta cảm thấy sự vĩ đại vô biên như thế trong bản thân mình? Tôi có thể chết. Và tôi nghe một tiếng trong nội tâm nói với tôi: Người đấy, ông hãy bái quì Người và thinh lặng”.
Người nào có cảm giác về Thiên Chúa và về sự hiện diện của Người trong đời sống, người ấy thật hạnh phúc. Đó là tài sản duy nhất đang có. Như một người đã nói: “Tôi không cần tin Ngài. Vấn đề đức tin không còn quan trọng nữa. Tôi biết chính điều ấy”.
Khi người ta biết một điều gì, thật sự biết một cách thâm sâu trong tâm hồn họ. Người ta không cần biện luận hoặc chứng minh điều đó. Họ biết đúng điều đó và như thế là đủ. Đức tin thật sự là một ơn của Thiên Chúa. Người ta tin với tâm hồn dù không biết tại sao hoặc cũng không tìm kiếm sự hiểu biết. Một sự chắc chắn thân thiết đổ đầy tâm hồn người ta cũng đủ.
Khi chúng ta có một cảm thức về sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế giới, chúng ta không còn cảm thấy lẻ loi cô độc trong thế giới. Chúng ta có thể nhìn thấy với sự thán phục và yêu thương mọi tạo vật như là công trình của một Đấng Nghệ Nhân là bạn của chúng ta.
Cảm nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế giới là một phúc lành cao cả, nhưng cảm nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa chúng ta là một phúc lành còn cao cả hơn. Suốt đời, thánh Âu Tinh đã học theo điều đó. Ngài viết:
“Ôi Đấng toàn mỹ từ muôn đời cho đến muôn đời, con đã yêu Chúa chậm trễ, vâng, con đã yêu Chúa chậm trễ. Chúa ở bên trong con, nhưng con ở bên ngoài, và tìm kiếm Chúa ở nơi bên ngoài ấy. Và thật vô duyên, con đắm chìm trong những sự vật khả ái mà Chúa đã tạo dựng. Chúa ở với con, mà con không ở với Chúa. Những vật thụ tạo giữ con xa cách Chúa; tuy rằng nếu chúng không ở trong Chúa thì chúng sẽ không còn hiện hữu. Tại sao con lại cầu xin Chúa đến với con khi mà nếu Chúa không ở với con, con sẽ không còn hiện hữu”.
Chúng ta gặp Thiên Chúa không phải chỉ trong thế giới bên ngoài chúng ta nhưng trong thế giới bên trong chúng ta, và thấy rằng Người gần gũi chúng ta hơn là chúng ta vẫn nghi ngờ. Người tham dự vào chúng ta như lời thánh Phaolô đã nói: “Chính ở nơi Người mà chúng ta sống, cử động và hiện hữu”.
Thiên Chúa hiện diện ở khắp mọi nơi dù không rõ ràng ở nơi nào. Người giống như một nhà viết tiểu sử mà công việc là kể lại câu chuyện trong lúc ông vẫn đứng ở hậu cảnh.
Đối với nhiều người, sự im lặng của Thiên Chúa là một vấn đề lớn. Nhưng “Một Thiên Chúa ồn ào và hiển nhiên sẽ là một bạo chúa áp bức, không an toàn thay vì là một sự động viên không giới hạn đối với bản chất yếu đuối và hay sợ sệt của chúng ta. Câu đáp lại của Người hòa nhập vào cuộc hành trình dài, gồm những sự kiện to lớn của đời sống, xâu thành chuỗi xuyên suốt mọi vật” (John Updike).
Thiên Chúa là Đấng duy nhất mà chúng ta qui phục nhưng không bị mất chính mình.
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
Trong phòng xử án Toà án nhân dân Thành phố Hồ chí Minh sáng ngày 16-8-1996, ngay ở hàng ghế đầu, suốt những giờ xét xử của Hội đồng xử án, một người đàn bà với đôi mắt ướt đẫm nước mắt, cứ nhìn đăm đăm vào chiếc lưng của bị cáo đang đứng trước vành móng ngựa. Đó là chiếc lưng của đứa con đầu lòng của bà trong chiếc áo tù, và có in ký hiệu “AB”. Cho đến khi công tố viên đọc xong lời buộc tội và đề nghị mức án “hai mươi năm tù vì tội giết người” bà bỗng nấc lên một tiếng rồi ngất xỉu. Bà ngất xỉu có lẽ vì bà chịu đựng không nổi mức án dành cho con bà: 20 năm tù vì cái tội giết người; mà người nó định giết không ai khác hơn là chính bà. Bà là mẹ của bị cáo và cũng chính là người bị hại!
Hơn một năm trước đây, vào ngày 16 tháng 7, 1995, chính nó đã cầm một thanh gỗ tròn dài nửa mét đánh vào đầu bà, rồi cầm một con dao đâm vào ngực bà. Người đầm đìa máu bà ngã xuống ngất xỉu – vì con. Hôm nay bà lại ngã xuống, ngất xỉu… cũng vì con.
Con bà – Lương Quốc Tuấn, sinh năm 1976, ở quận 11, làm thợ cửa sắt. Từ khi lên 5 tuổi, cha của Tuấn đã bỏ mẹ con Tuấn đi sống với người khác. Mẹ của Tuấn lặn lội nuôi hai đứa con thơ lớn lên. Thế mà… Sáng hôm đó, chúa nhật, Tuấn dậy trễ. Tuấn hỏi xin mẹ mấy ngàn ăn hủ tiếu. Mẹ Tuấn không cho, bảo lấy mì ăn liền nấu ăn. Tuấn khai trước toà: “Mẹ nói từ ngày quen con nhỏ đó thân ốm nhom ốm nhách, không tiền không bạc… mẹ không cho tiền còn nói nọ nói kia…” Thế là Tuấn đã làm cái điều mà có lẽ nghe đến, ai cũng phải thấy rợn cả người: đnh, giết mẹ!
Với 10 vết thương, chỉ có hai vết ở tay, còn lại toàn ở đầu và ngực nhưng khi từ bệnh viện sau sáu ngày điều trị trở về, bà lại ráng sức để xách đồ ăn vào thăm con đang bị giam trong tù! Sợ con bị đưa ra toà, bà đã viết giấy bãi nại xin xóa tội cho con. Và trước toà, bà cứ khóc nói: “Từ nhỏ đến khi lớn nó ngoan lắm. Nó không uống rượu, không hút thuốc, xin toà giảm tội!” Rồi bà nức nở tỏ ra ray rứt, ân hận, trách mình: “Tôi không nuôi nó ăn học đến nơi đến chốn. Nó phải đi làm sớm, lúc học xong lớp 8.” Hoàn toàn bà không hề nhắc gì đến cái tội tày trời mà đứa con của mình đã mắc phải.
Bên trong phòng xử án, khi bà tỉnh lại, phóng viên Hoàng Chức Nguyên đến xin hỏi chuyện bà, bà lại khóc nói: “Tôi không nói được gì đâu, đau đớn quá.” Khi có các phóng viên đến chụp ảnh con bà đang bị một tay còng vào ghế, bà van nài: “Xin đừng chụp ảnh con tôi…” Khi những người công an còng hai tay con bà giải đi, bà đã lao người với theo, bà ngã trong vòng tay của người quen. Lúc ấy phóng viên lại thấy rất rõ một vết thẹo trên trán bà. Vết thẹo do chính tay con bà cầm một thanh gỗ đập vào để lại… (theo Tuổi Trẻ 17-8-1996, trang 2).
Chắc không ai lại không bị đánh động do câu chuyện vừa kể. Một đàng là khối tình quá lớn nơi người mẹ, đàng khác là điều gì đó hơn là sự vô ơn bạc nghĩa về phía người con, có khi những con vật không xử sự với mẹ chúng cách tàn nhẫn đến như vậy! Nhưng như vậy lại càng làm nổi bật khối tình trước sau như một, vô điều kiện và cho không nơi người mẹ. Thử hỏi do đâu mà người mẹ có được thứ tình yêu cao cả đến như thế? Ta nên để ý về lời cắt nghĩa của sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo về vấn đề này liên quan tới Thiên Chúa Ba Ngôi như sau:
“Khi gọi Thiên Chúa là “Cha”, ngôn ngữ đức tin chủ yếu muốn nêu lên hai khía cạnh: Thiên Chúa là nguồn gốc đầu tiên của mọi sự và là Đấng uy quyền siêu việt, đồng thời là Đấng nhân hậu yêu thương chăm sóc mọi con cái. Nơi Thiên Chúa, tình cha con trìu mến này cũng có thể diễn tả qua tình mẫu tử. Hình ảnh này làm rõ nét hơn tính nội tại của Thiên Chúa, mối thâm tình giữa Thiên Chúa và thụ tạo. Như vậy, ngôn ngữ đức tin được hình thành từ kinh nghiệm về cha mẹ trần thế, những người dưới một khía cạnh nào đó, là đại diện đầu tiên của Thiên Chúa nơi con người. Nhưng kinh nghiệm đó cũng cho thấy là cha mẹ trần thế có thể làm sai lệch và bóp méo hình ảnh làm cha làm mẹ. Cho nên, cần phải nhắc lại là Thiên Chúa vượt trên sự phân biệt phái tính của người phàm. Người không là nam mà cũng không là nữ. Người là Thiên Chúa. Vì Người là nguồn gốc và là chuẩn mực cho chức năng làm cha làm mẹ, nên Người luôn trổi vượt trên cha mẹ trần thế: không ai là cha một cách trọn hảo như Thiên Chúa (GLGHCG,239).
Bạn có tin vui nào để nói với gia đình này?
Nhưng câu chuyện lại cho thấy một hình ảnh của một gia đình bi đát. Chồng đã bỏ vợ và hai con nhỏ, nay đứa con đầu lòng lớn lên dám đâm chém người mẹ đã sinh ra mình, để rồi lãnh 20 năm tù!
Nếu Thiên Chúa là nguồn gốc đầu tiên của mọi sự và là Đấng uy quyền siêu việt, đồng thời là Đấng nhân hậu yêu thương chăm sóc mọi con cái, Ngài có kế hoạch nào hữu hiệu để cứu vãn gia đình này chăng? Nếu bạn là người từng tìm hiểu và chia sẻ đời sống Tin Mừng của Đức Kitô, Đấng cứu độ trần gian, chính bạn có tin vui nào để nói với gia đình này, với người mẹ đáng kính, người con ngồi tù, hoặc với người bố đi hoang cần được kêu gọi trở về? Ở đây không bàn về công tác xã hội nhưng chủ yếu bàn về niềm tin, khởi đi từ niềm tin đối với Thiên Chúa Ba Ngôi.
Nhờ lý trí tự nhiên, con người có thể nhận biết Thiên Chúa cách chắc chắn, dựa vào những công trình của Người. Hãy coi người mẹ trong câu chuyện nói trên là công trình kỳ diệu biết bao về yêu thương. Nhưng còn có một loại nhận biết khác, mà con người không thể đạt tới bằng sức lực của chính mình, đó là loại nhận biết nhờ mạc khải của Thiên Chúa.
Đức Giêsu đã mạc khải cho ta biết Thiên Chúa là CHA theo một nghĩa chưa từng có: Người không chỉ là cha vì là Tạo Hoá, từ muôn thuở Người là Cha trong tương quan với Con duy nhất, Ngôi Con từ muôn thuở cũng chỉ là Con trong tương quan với Ngôi Cha: “Không ai biết Người Con trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết Chúa Cha trừ Người Con và kẻ mà Người Con muốn mạc khải cho.” (Mt 11,27) – GLGHCG, 240.
Trước lễ Vượt Qua, Đức Giêsu báo tin sẽ cử một Đấng Bào Chữa khác, đó là Chúa Thánh Thần. Người tác động từ thuở khai thiên lập địa (x. St 1,2). Người đã dùng các ngôn sứ mà phán dạy (Kinh Tin Kính Nixêa Contantinôpôli). Nay Người sẽ ở lại với và trong các môn đệ (x.Ga 14,17) để dạy bảo (Ga 14,26) và dẫn đưa họ đến sự thật trọn vẹn” (Ga 16,13). Chúa Thánh Thần được mạc khải như một Ngôi Vị Thiên Chúa, khác với Đức Giêsu và với Chúa Cha (GLGHCG, 243).
Mọi người trong gia đình phạm nhân Lương Quốc Tuấn trong câu chuyện, đều cần được vén màn cho thấy Thiên Chúa là hạnh phúc trường cửu, sự sống bất diệt, ánh sáng không tàn lụi. Thiên Chúa là tình thương tràn lan giữa Ba Ngôi vị tựa như sức nóng và ánh sáng tràn lan từ mặt trời. Thiên Chúa tự ý muốn thông chia vinh quang sự sống hạnh phúc của Người. Đó là “kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa từ thuở đời đời” (x.Ep 1,9). Người đã cưu mang kế hoạch đó từ trước khi tạo dựng vũ trụ nơi Con yêu dấu của Người là Đức Giêsu Kitô. “Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử trong Con của Người” (Ep 1,4-5). Ta được mời gọi “trở nên đồng hình đồng dạng với Con của Người” (Rm 8,29) nhờ “Thần Trí làm nên nghĩa tử” (Rm 8,15), kế hoạch này đúng là “ân sủng được trao ban từ muôn thuở” (2Tm 1, 9-10) xuất phát trực tiếp từ tình thương Ba Ngôi. Tình thương này được trải ra trong cuộc sáng tạo, trong toàn bộ lịch sử cứu độ sau khi nguyên tổ sa ngã, trong sứ mạng của Chúa Con và Chúa Thánh Thần, Thánh Thần mà sứ mạng Hội Thánh nối tiếp (Sắc lệnh Truyền Giáo AG 2-90).
Chính theo kế hoạch yêu thương của Ba Ngôi mà mọi người trong gia đình phạm nhân Lương Quốc Tuấn, kể cả chính phạm nhân, người bố của phạm nhân và người mẹ đáng mến của anh, đều được mời gọi đạt tới hạnh phúc bất diệt chính họ hằng ao ước. (Lm Augustine, sj. Vietcatholic)
Để giải thích mầu nhiệm THIÊN CHÚA BA NGÔI có người dùng đặc tính của mặt trời:
– Phát ánh sáng
– Toả sức nóng
– Xoay tròn quanh mình
Tuy nhiên, chúng ta biết, mặt trời chỉ là một trong những thụ tạo của Thiên Chúa Ba Ngôi, nên chúng ta không thể chỉ dùng mặt trời và 3 đặc tính của nó mà giải thích được về Thiên Chúa, Đấng tạo dựng muôn loài. Mặt trời chỉ là một thụ tạo của Thiên Chúa, lại khá gần gũi với cuộc sống chúng ta. Thế nhưng, chúng ta biết được gì về mặt trời? Chúng ta biết tạo sao mặt trời có khả năng chiếu sáng liên tục không? Tại sao mặt trời sưởi ấm được trái đất dù cách xa hơn 145 triệu km?
Người ta đoán rằng, trên mặt trời có năng lượng hạt nhân hay nhiên liệu chi đó đốt cháy liên tục, nhưng cũng chưa có ai lên tới đó được để nhìn tận mắt, đo đạc hẳn hoi bằng máy móc xem thực hư thế nào.
Mặt trời chỉ là một trong những thụ tạo của Chúa, loài người xem thấy hằng ngày mà cũng chưa hiểu biết về nó cho đủ, huống chi là Thiên Chúa Ba Ngôi, Đấng tạo dựng vũ trụ, là chủ của mặt trời và muôn vì tinh tú. Điều chúng ta thấy thực tế nhất là tận hưởng những tính năng của mặt trời, để phục vụ cho con người. tính năng đó là ánh sáng, là hơi ấm để chúng ta sống, làm việc. Nhờ có ánh sáng mặt trời mà cây cối mới quang hợp tạo ra dinh dưỡng, các sinh vật mới phát triển và cung cấp nguyên liệu cho con người. Thử nghĩ, nếu không có mặt trời thì thế giới này sẽ chìm vào trong tăm tối, lạnh lẽo, băng giá.
Nhớ mùa đông năm trước, ánh sáng mặt trời chỉ hơi yếu ớt một chút mà khi ra đường, tôi mặc mấy lớp áo cũng không đủ ấm. Lúc đó tôi ước gì có một ngày nắng hè thì sướng biết bao.
Tôi không biết rõ tại sao mặt trời có thể chiếu sáng và sưởi ấm suốt hàng triệu năm mà không hết năng lượng. nhưng tôi chắc một điều là tôi đang được thừa hưởng ánh sáng và sức nóng của mặt trời.
Tương tự, đối với mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, tôi không thể hiểu cho thấu đáo, tường tận. Thế nhưng, tôi biết mình đang được Chúa Ba Ngôi yêu thương quan phòng. Chúa Cha đã tạo dựng vũ trụ này, trong đó có tôi. Chúa Con yêu thương nhân loại và đã hiến mình cứu chuộc tôi, Chúa Thánh Thần tiếp tục hướng dẫn chúng ta trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Chính Chúa đã tỏ lòng yêu thương tôi và mọi loài. Ngài không thiên vị, Ngài nhân hậu từ bi, cho mưa xuống trên người liêm khiết lẫn kẻ bất lương. Ngài muốn cho tất cả mọi người được hạnh phúc.
Đáp lại tình yêu thương vô bờ đó, chúng ta hãy vâng nghe lời Ngài, vâng theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và tuân giữ lề luật Chúa ban. Chắc chắn, những gì Chúa dạy chúng ta là vì ích lợi cho phần hồn chúng ta và đem tới hạnh phúc vô cùng đời sau. Chúa không dạy chúng ta làm điều gì vượt quá sức mình, nhưng là điều chúng ta có khả năng chu toàn. Chúng ta hãy sống theo lời Ngài dạy để xứng đáng với phẩm giá là con cái Chúa Ba Ngôi, là thụ tạo hữu hình tuyệt vời nhất trên trái đất do Chúa tạo dựng.
Các thánh ký Phúc Âm đã có một cảm nghiệm về Thiên Chúa là Đấng Vô Cùng giầu sang, hoàn mỹ, và uy quyền mà không một chữ, hoặc một hình ảnh nào có thể diễn tả được. Cần phải là ba để diễn tả cách đầy đủ sự sung mãn và phong phú của Thiên Chúa, Đấng mặc khải mình cho chúng ta. Một Chúa, chứ không phải ba Chúa. Tín điều Chúa Ba Ngôi, sự cảm nhận được Ba Ngôi Thiên Chúa, hay là bất cứ cái gì đi nữa, đều qui về một Chúa. Thiên Chúa của chúng ta là Chúa duy nhất! Sự cảm nghiệm về Thiên Chúa bằng cách này đã là nguồn sức sống cho các tín hữu thời sơ khai. Do cái cảm nghiệm này đã làm cho họ có sức mạnh để nhận biết Tình yêu mà họ chưa từng có bao giờ biết từ trước. Cái cảm nghiệm này là một điều cực kỳ quan trọng trong cuộc sống của họ, và cuộc sống của chúng ta nữa.
Chuyện đã xảy ra thời Tân Ước đó là Chúa Giêsu đã đến giữa họ, và họ đã cảm nghiệm được Thiên Chúa trong một cái nhìn mới mẻ đầy sửng sốt mà không thể nào giữ trong lòng nổi. Họ phải loan truyền Tin Mừng này ra cho toàn thể thế giới. Điều họ đã nhận ra là Thiên Chúa Cha, Đấng yêu thương họ vô cùng, hiện diện trong Người Con, và Người Con đã hiện thân ở giữa họ. Thiên Chúa, trong Người Con, đã hiện diện ở giữa họ như là một thần tượng tuyệt hảo trong cuộc sống của con người.
Chúng ta tụ tập nơi đây bởi vì chúng ta muốn biết làm sao để sống một cuộc đời Kitô giáo. Đây là một mẫu gương cho chúng ta. Đây không phải là những cảm nghiệm mơ hồ về Thiên Chúa mà chúng ta không thể nào nắm được. Thiên Chúa đang hiện diện như là một người giữa chúng ta. Như các Kitô hữu thời sơ khai đã cảm nghiệm được sự mặc xác của Thiên Chúa và đã sống qua những biến cố của Quyền Năng Phục Sinh, họ nhận ra trong một cách mới mẻ Thiên Chúa yêu thương họ biết bao.
Hơn thế nữa, họ còn có thể cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa bằng một cách khác, một điều mới xảy ra. Họ diễn tả cái đó giống như là ngọn gió thổi qua. Họ nói đó là những ngọn lửa sống động, ấm áp, và linh thiêng. Họ khám phá ra cái cảm nghiệm này của sự hiện diện Thiên Chúa ở trong họ, và nó làm cho họ được sống động. Họ nhận ra rằng họ được tẩy rửa. Cái mặc cảm tội lỗi trong người của họ đã được tẩy xoá và được tăng thêm sức mạnh. Họ đã có thể đứng lên trước công chúng, vua chúa, và rao giảng Tin Mừng. Bởi Chúa Thánh Thần quá tuyệt hảo, các thánh ký đã nhắc đến Ngài hơn 350 lần bằng nhiều cách thế khác nhau. Chẳng hạn Đấng Bảo Trợ, Đấng Bào Chữa, Thần Chân Lý, Đấng Ban Phát Ơn Phúc, Ánh Sáng của Tâm Hồn, Đấng Ban Sức Mạnh, Đấng An Ủi.
Vào một buổi sáng ngày Chúa nhật, một bà mẹ đã nói với người con cả rằng, “Billy, hôm nay mẹ không thấy khỏe để đi lễ được, con đi lễ đi.” Và Billy đã đi Lễ. Lễ song, khi Billy về nhà, mẹ chàng hỏi, “Hôm nay con ngồi ở đâu?” “Thì con vẫn ngồi ở chỗ cũ,” Billy trả lời mẹ. Câu trả lời đó đã làm cho mẹ cậu nghi ngờ, bà liền tiếp, “Thế hôm nay bài Phúc Âm nói về cái gì?” Billy ngẫm nghĩ và trả lời cách ngập ngừng, “Ờ…để xem coi, hình như hôm nay có cái gì đó liên quan đến vấn đề lãnh nhận một cái mền.” Thế là xong! Mẹ cậu liền gọi cho cha xứ và hỏi cha hôm nay bài Phúc Âm nói gì, cha liền trả lời, “Hãy kiên nhẫn, các con sẽ nhận lãnh sức mạnh…”
“Các con sẽ nhận lãnh sức mạnh” Chúa Giêsu phán, “khi Thần Chân Lý đến trên các con” Đó là sức mạnh của tình yêu. Đó là sức mạnh biến đổi. Đây không phải là điều gì mới mẻ cả. Các bạn đã biết cả rồi. Tuy nhiên, có khi nào bạn để ý để mà suy nghĩ và đem ra thực hành không? Những hàng chữ chỉ là những chữ chết nếu không được đem ra thi hành.
Các thánh ký Phúc âm đã nghĩ đến việc chúng ta thành thật trước mặt Chúa về con người của chúng ta; về những cái đưa đẩy tranh chấp trong cuộc sống của mình; về những cái chống đối và địch thù khi thi hành đức ái của Chúa Giêsu trong cuộc sống; về cách thức chúng ta làm cho người khác đau khổ; về những cái khác biệt khinh thị người này người nọ; về cách thức chúng ta che đậy hoặc bào chữa những lỗi lầm của mình. Các thánh ký hằng luôn kêu gọi chúng ta hãy đối diện với hiện thực về chính con người của mình trước mặt Chúa.
Khi chúng ta thống hối, thành thật, và khi chúng ta biết phá đi những cái cản trở trong cuộc sống, thì lúc đó chúng ta sẽ bắt đầu cảm nghiệm được cuộc sống của Chúa trong chúng ta. Các bạn sẽ trở thành con người mà Thiên Chúa đã tạo dựng từ ban đầu. Một con người yêu thương. Các bạn sẽ có cái nhìn mới mẻ về những người thân trong gia đình.
Thần Khí Chân Lý đang chờ đợi bạn để dẫn dắt và cảm hóa bạn với những điều tuyệt diệu sau: Tôi đi tìm linh hồn của mình, nhưng tôi không thấy. Tôi đi tìm Chúa, mà Chúa ẩn náu ở đâu. Tôi đi tìm người anh em, và tôi gặp ở đó cả ba.
(Suy niệm của Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.)
Sau biến cố Đức Giêsu phục sinh, chắc các tông đồ đã từng hỏi nhau: “Thầy mình là ai?”. Và rồi nhờ nhớ lại những gì Đức Giêsu đã nói, với sự trợ giúp của Thánh Thần, các ngài mỗi ngày một nhận biết về Đức Giêsu hơn. Với biến cố Đức Giêsu lên trời, các tông đồ nhận biết Đức Giêsu lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa (Mc.16, 19), nghĩa là, Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa nhập thể. Vào ngày lễ ngũ tuần, các tông đồ đã nhận biết quyền năng Thánh Thần (Cv.2, 1-17). Nhờ nhớ lại những giáo huấn của Đức Giêsu, các tông đồ cũng nhận biết Thánh Thần là Đấng Trợ Giúp được Thiên Chúa Cha và Đức Giêsu Phục Sinh gởi tới với con người (Ga.14, 16; 15, 26).
Vào thời sơ khai của Giáo Hội, các Kitô hữu đã nhận biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, Thánh Thần là Đấng phát xuất từ Cha (Ga.15, 26). Tín hữu nhận ra Thiên Chúa Cha, Đức Giêsu Kitô, và Thánh Thần có một tương quan rất đặc biệt với nhau và với con người. Thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Corinthô viết “nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô, tình yêu của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Thánh Thần ở cùng anh chị em” (2Cor.13, 13). Cha, Đức Giêsu Kitô, và Thánh Thần là ba “ngôi vị” (persona, prosopon, hypotases) luôn yêu thương con người.
Nếu hiểu một Thiên Chúa Ba Ngôi là một bản tính Thiên Chúa có ba ngôi vị, như một bản tính người nhưng có ba ngôi vị người khác nhau, thì sai lầm; vì lúc đó, là ba Chúa chứ không phải là một Thiên Chúa nữa. Hiểu như vậy rất sai trái với điều đã được mặc khải nơi Cựu Ước: “Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất, ngươi phải phụng thờ Người với hết tâm hồn, hết trí khôn, hết sức lực ngươi” (Đnl.6, 4). Một số người muốn bảo vệ tính duy nhất của Thiên Chúa nên đã giải thích: chỉ có một Thiên Chúa, nên lúc thì Ngài là Cha, lúc thì Ngài là Con nhập thể, lúc thì Ngài là Thánh Thần. Hiểu như vậy cũng là sai lầm, vì Cha vẫn luôn là Cha, Con vẫn là Con, và Thánh Thần vẫn là Thánh Thần; Cha, Con, và Thánh Thần tuy là một với nhau, nhưng vẫn là từng ngôi vị phân biệt, Cha không lẫn lộn với Con hoặc Thánh Thần. Một số khác cũng muốn bảo vệ tính duy nhất của Thiên Chúa, nên giải thích: Đức Giêsu Kitô cũng là Thiên Chúa nhưng không hoàn toàn là Thiên Chúa, Ngài kém Thiên Chúa một chút. Quan niệm như vậy trái với giáo lý của Kitô Giáo, của Công Giáo.
Cha, Con, và Thánh Thần là ba ngôi vị phân biệt nhưng là một trong tất cả. Cha chỉ là Cha khi có Con; không có Con cũng chẳng có Cha; Cha sinh Con từ thuở muôn đời; Thánh Thần nhiệm xuất từ Cha và Con, cũng như tình yêu là tương quan giữa Cha và Con. Tuy dù Cha là nguồn gốc tất cả, Con sinh bởi Cha, và Thánh Thần nhiệm xuất bởi Cha qua Con, nhưng Ba Ngôi, nói theo Ba Ngôi nội tại, đều có cùng một quyền năng và là một trong tất cả trừ tương quan ngôi vị. Có người đã trích dẫn “Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đến cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy” (Ga.14, 28) và “Còn về ngày giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi” (Mc.13, 32) để khẳng định rằng Thiên Chúa Cha, xét theo bản chất, cao trọng hơn Đức Giêsu Kitô. Để hiểu đúng hai câu này, phải hiểu nó trong nhiệm cục cứu độ; vì là người trọn vẹn nên Đức Giêsu không biết tất cả; vì là người, nên Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa của Ngài, nên Chúa Cha cao trọng hơn Ngài.
Trong Cựu Ước, nơi sách Châm Ngôn, người ta đã biết Đức Khôn Ngoan đã được sinh ra trước tất cả; Đức Khôn Ngoan đã hiện diện với Thiên Chúa và là niềm vui của Thiên Chúa; Đức Khôn Ngoan đã đùa vui với con cái loài người (Cn.8, 31). Nhưng chỉ với Đức Giêsu Phục Sinh, người ta mới nhận ra Thiên Chúa Ba Ngôi và nhận biết Thiên Chúa là Đấng yêu thương con người vô cùng khi biết Ngài là Thiên Chúa nhập thể: Ngài có trước Abraham (Ga.8, 57-58), Ngài và Cha là một (Ga.10, 30.33), Ngài ngang hàng với Thiên Chúa (Mc.14, 62).
“Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy… Thánh Thần sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến” (Ga.16, 13.15). Nơi Chúa Cha, Thánh Thần, và Đức Giêsu, tất cả là chung đến độ là một trong tất cả. Tuy là một, nhưng vẫn là Cha, Con, và Thánh Thần phân biệt; Ba Ngôi không lẫn lộn với nhau. Chính nhờ nhiệm cục cứu độ, mà người ta nhận biết Thiên Chúa là Ba Ngôi Vị: Cha khởi đầu với sáng kiến, Con thực hiện, và Thánh Thần làm hoàn tất trong dòng lịch sử. Cha, Con, và Thánh Thần có thể được phân biệt nhưng không thể tách biệt khỏi nhau, không thể độc lập với nhau vì là một Thiên Chúa. Cha chỉ là Cha trong tương quan với Con, và Thánh Thần bởi Cha và Con mà ra; có thể phân biệt các ngôi vị nhưng không thể tách biệt như những thực tại độc lập, bởi vì Ba Ngôi chỉ là một Thiên Chúa.
Cha sáng tạo vũ trụ và con người qua Con trong Thánh Thần. Chính Cha đã sai Con giáng trần để cứu độ con người dưới tác động quyền năng của Thánh Thần; và một khi Con hoàn tất cuộc sống dương thế, Thánh Thần được sai tới để hoàn tất công trình cứu độ con người. Hiện tại, cả Ba Ngôi Thiên Chúa đang hiện diện với mỗi người chúng ta. “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu thương người ấy, Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở với người ấy” (Ga.14, 23). “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga.20, 22). Mỗi người đều được Thiên Chúa mời gọi để sống với Thiên Chúa, để ý thức sự hiện diện của Thiên Chúa trong cung lòng mình. Mỗi người đều được mời gọi để đi vào tương quan tình yêu với Thiên Chúa Ba Ngôi. Thiên Chúa hạnh phúc khi ở với con người. Mỗi người đều được mời gọi để sống hạnh phúc với Thiên Chúa là Cha, Đức Giêsu Phục Sinh, và Thánh Thần.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
THIÊN CHÚA BA NGÔI
Thời Cựu Ước người Do Thái nhận biết “Thiên Chúa là Đấng duy nhất” (Đnl.6, 4). Nhờ Đức Giêsu, Kitô hữu nhận biết Thiên Chúa là “Ba Ngôi Vị”.
Con người nói về Thiên Chúa
Thiên Chúa là Đấng Tuyệt Đối, ngôn từ con người không thể diễn tả hoàn toàn được. Những hình ảnh diễn tả về Thiên Chúa Cha như một “ông già” râu dài phúc hậu, hoặc “chim bồ câu” chỉ Chúa Thánh Thần, là những hình ảnh biểu trưng. Cả những từ ngữ về Thiên Chúa, như “Cha”, như “Con”, như “Thánh Thần”, cũng là những từ ngữ được dùng với nghĩa loại suy; nghĩa là, chúng chỉ diễn tả được phần nào về Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng vô hình, Ngài không có hình ảnh như con người; Thiên Chúa là Cha, nhưng không phải là cha hoàn toàn theo nghĩa con người vẫn thường dùng; Thiên Chúa là Con nhưng cũng không phải là con như con người.
Theo con người, cha luôn có trước con, nhưng không như vậy nơi Thiên Chúa Ba Ngôi; nơi Thiên Chúa, Ba Ngôi không ngôi vị nào có trước ngôi vị nào; tuy vậy Thiên Chúa vẫn là Cha, là Lời, là Thánh Thần; và cũng có thể nói Thiên Chúa là Cha, là Con, là Thánh Thần. Nơi con người, chỉ có một bản tính người nhưng có nhiều người khác nhau; nhưng không vậy nơi Thiên Chúa. Tuy một bản tính Thiên Chúa, nhưng Ba Ngôi Thiên Chúa không phải là ba Chúa, mà chỉ là một Thiên Chúa.
Trong Kinh Thánh, không có từ ngữ “ba ngôi”. Từ ngữ “ba ngôi” là từ ngữ do các nhà thần học sáng tạo để diễn tả Thiên Chúa là Đấng “nguồn” của mọi sự, Đức Giêsu như Đấng luôn kết hiệp với Thiên Chúa, đến độ đồng nhất với Thiên Chúa, và được diễn tả là “Thiên Chúa nhập thể”, Thánh Thần như Đấng từ Cha và Con. Ba Ngôi Thiên Chúa không phải là ba thực tại (nếu là ba thực tại, nghĩa là, ba Chúa), nhưng chỉ là một thực tại, và là ba ngôi vị phân biệt rõ ràng: Cha không phải là Con hoặc Thánh Thần, Con không phải là Cha hoặc Thánh Thần, Thánh Thần không phải là Cha và Con. Tuy vậy Ba Ngôi là một với nhau, là một trong mọi sự, là một trong bản tính, là một trong ý muốn, là một trong quyền năng, là một trong hiện hữu.
Thiên Chúa Đấng là nguyên uỷ mọi loài, là nguồn của tất cả, là “Cha”, là Thiên Chúa Cha. Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, là Thiên Chúa nhập thể, là “Con”, là ngôi hai Thiên Chúa, là Lời Thiên Chúa. Thánh Thần là Thiên Chúa đang hiện diện nơi cung lòng con người, hướng dẫn con người trong mọi sự, dạy dỗ con người mọi điều, là Ngôi Ba Thiên Chúa.
Thiên Chúa Đấng Siêu Việt, Đấng vượt trên tất cả, Đấng “ngự trên trời”, đang hiện diện trong cung lòng mỗi người (Ga.14, 16.23). Ngay cả từ ngữ “ngự trên trời”, cũng là cách nói để chỉ Thiên Chúa là Đấng siêu việt mà con người không thể thấu đáo được. Đức Giêsu “lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa” nhưng Ngài đang “ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Ngôn từ là phương tiện để diễn tả về Thiên Chúa, phaỉ cố gắng để hiểu, và xin ơn Thánh Thần để hiểu Thiên Chúa hơn. Nói như vậy, không phải là phủ nhận giá trị của từ ngữ. Cũng phải dựa vào từ ngữ để hiểu điều Kinh Thánh, Giáo Hội, và các nhà thần học muốn diễn tả.
Thiên Chúa Ba Ngôi yêu thương chúng ta vô cùng
Giáo Hội đọc Cựu Ước trong niềm tin Thiên Chúa Ba Ngôi, và hiểu Đức Khôn Ngoan đã hiện diện với Thiên Chúa khi Ngài tạo dựng vũ trụ. Đức Khôn Ngoan là Ngôi Lời Thiên Chúa trước khi nhập thể. Đức Khôn Ngoan trước khi nhập thể, vẫn ở nơi Thiên Chúa và đã yêu mến con người.
Thánh Thần, Đấng ở nơi Thiên Chúa và được sai tới với con người, sẽ dạy dỗ con người, sẽ dẫn con người tới sự thật trọn vẹn. “Mọi sự của Cha đều là của Thầy” nhưng Thánh Thần lại “lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em”, như vậy nơi Ba Ngôi tất cả là chung.
“Thiên Chúa đã tuôn đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta”. Thiên Chúa, Ba Ngôi Thiên Chúa, yêu chúng ta vô cùng.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
Gia đình yêu thương là hình ảnh gia đình Ba Ngôi Thiên Chúa
Trong đoạn Tông thư Thánh phaolô có lời cầu chúc: “Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô Chúa Chúng ta và tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em” là một lời mạc khải xác quyết của Ngài về gia đình đầy ân sủng của Chúa Ba Ngôi, trong đó có Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Mầu nhiệm về Thiên Chúa duy nhất đồng một bản thể nhưng có Ba Ngôi riêng biệt và hành động khác nhau đã được các thánh Tông Đồ tuyên tín ngay trong thời khơi dựng Giáo Hội qua kinh Tin kính. “Tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha toàn năng dựng nên trời đất muôn vật. Tôi tin kính Chúa Giêsu Kitô Con một Đức Chúa Cha, xuống thế làm người, chịu chết chuộc tội cho thiên hạ Tôi tin kính Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa, là Đấng ban sự sồng…”. Chúng ta cũng tin như thế vì thế giá của chính Chúa Giêsu Ngôi Hai Thiên Chúa đã nói cho chúng ta biết về Chúa Ba ngôi. Chúng ta cũng tin như thế vì thế giá của các thánh Tổ phụ và các thánh khác đã được Chúa mạc khải cho. Thánh Augustinô dạy: “Màu nhiệm Chúa Ba ngôi chỉ có thể hiểu được khi chúng ta được hợp nhất với Chúa trên thiên đng”
Thánh Augustinô là vị đại thánh Tiến sỹ của Giáo hội, ngài đã suy nghĩ và tìm hiểu để dạy cho mọi người biết về Chúa Ba ngôi thế nào khi ngài đi bách bộ trên bờ biển. Chúa đã sai một thiên thần nhỏ đến nơi ngài đang suy niệm, lấy con sò múc nước biển đổ vào lỗ con dã tràng đào trên cát. Augustinô thấy em làm việc các thích thú, nhưng có về kỳ ngộ đối với ngài, nên ngài đến hỏi em:
– Em làm việc gì mà ngộ thế?
Em trả lời:
– Cháu có ước vọng tát cạn nước biển khơi bằng cách múc nước đổ vào lỗ con dã tràng này.
– Không được đâu em, biển thì rộng bao la, nước biển thì dạt dào mà lỗ dã tràng thì nhỏ bé, làm sao tát cạn được biển.
Thiên thần nhỏ trả lời:
– Cháu nghĩ cháu có thể làm được việc này và tát cạn được nước biển cách dễ dàng hơn điều ngài đang suy luận trong lòng về Thiên Chúa Ba ngôi nữa.
Nói rồi Thiên thần biến đi và lời đó đánh thức ngài về với thực tại con người. “Tát cạn nước biển còn dễ hơn việc suy về Chúa Ba ngôi” và ngài đã kết luận “Thiên Chúa Ba Ngôi là một màu nhiệm chỉ có thể hiểu đủ khi ta được về trời”. Tuy nhiên ngài cũng dùng nhiểu thí dụ cụ thể để giải đáp những thắc mắc theo trí óc loài người. Ngài diễn tả sự DUY NHẤT của Thiên Chúa Ba Ngôi như một hình tam giác đều với đầy đủ mọi đặc tính như nhau và bằng nhau của toán học.
Ngài cũng dùng ngọn đèn cầy để diễn tả TÁC ĐỘNG RIÊNG của mỗi Ngôi: Ngọn lửa nguồn chính, là Chúa Cha phát sinh ra ánh sáng là Chúa Con để cứu người ta khỏi ngồi trong bóng tối tội lỗi. Ngọn lửa cũng đem hơi ấm là Thánh Thần để thánh hóa, sưởi ấm mọi cõi lỏng cô lạnh. Cả ba hành động khác nhau nhưng cũng do một nguồn là ngọn lữa.
Ta cũng có thể diễn tả sự NHẤT TRÍ và HÒA HỢP của Chúa Ba ngôi trong tư tưởng và hành động như người chơi dương cầm: Cây đàn là Chúa Cha hợp với năng khiếu, tài khéo của đôi tay là Chúa Con để dệt lên những cung điệu nhịp nhàng thánh thót là sự sống động của Chúa Thánh thần, làm thỏa lòng người nghe. Tuy ba hành động khác nhau nhưng cả ba đều hợp nhất trong hành động, đều hòa hợp trong việc làm. Chính sự hợp nhất vả hòa đồng ấy mà Thiên Chúa Ba Ngôi cảm thấy mình hạnh phúc không chi sánh bằng, một hạnh phúc bất tận và miên trường trong sự trường cửu của Ngài.
Thánh Phaolô đã cảm khoái được sự hợp nhất yêu thương này nơi Thiên Chúa nên ngài khuyên chúng ta: “Anh chị em hãy khuyến khích nhau, hãy đồng tâm nhất trí, hãy hòa thuận với nhau thì Thiên Chúa, nguồn sự bình an hạnh phúc sẽ ở với anh chị em” (2 Cor 13:12). Gia đình Chúa Ba Ngôi là một gương mẫu yêu thương, hòa thuận và nhất trí. Chúng ta cũng hãy gắng tạo cho gia đình chúng ta nên một gia đình nhất trí trong yêu thương và trong che chờ đùm bọc như vậy.
Một trong những năn trở dễ phá vỡ hạnh phúc gia đình, tôi muốn lưu ý anh chị em là sự khó chịu buồn bực do bạn bè, do chủ hãng, do sở làm, do nhà trường, do hoàn cảnh giao tế xã hội… tạo nên cho mình rồi khi về nhà không gạt bỏ, không để nó ở ngoài cửa, mà đem về trút đổ trên con cái, trên vợ chồng… gây khó khăn cho nhau, làm mất đi bầu khí hạnh phúc gia đình. Chớ gì khi về nhà chúng ta chỉ sống cái bầu khí của gia đình: yêu thương, chia sẻ, nâng đỡ, an ủi nhau…. Đó là hình ảng của gia đình Ba Ngôi Thiên Chúa, duy nhất, thánh thiện, nhất trí và yêu thương.
Nguyện xin Chúa Ba ngôi soi dẫn trí lòng mỗi người trong gia đình chúng con, biết sống đúng địa vị trong nhà, biết hợp lòng nhất trí với nhau trong tư tưởng và hành động để chúng con trở nên một gia đình hạnh phúc, nên hiện thân của Gia đình Ba ngôi Thiên Chúa giữa trần gian. Amen.
Khi quảng diễn về năng lực mặt trời, Denis Hayes, một nhà môi trường học, nhận xét rằng mặt trời đang chiếu sáng trái đất chúng ta. Nó cũng sưởi ấm cho trái đất chúng ta. Giờ đây nó sẵn sàng và đang chờ đợi để năng lực hóa những hoạt động của trái đất chúng ta.
Chúng ta có thể nghĩ rằng mặt trời như là một người bạn vĩ đại, quảng đại trên bầu trời, có gồm ba bộ mặt. Mỗi bộ mặt mỉm cười trên chúng ta theo mỗi phương thức khác nhau. Và mỗi nụ cười là kết quả đem lại những điều lành mạnh cho chúng ta.
Bộ mặt đầu tiên mỉm cười, và nụ cười đó đưa ra những ánh sáng chiếu rọi trái đất chúng ta. Bộ mặt thứ hai mỉm cười, và nụ cười đó đưa ra những tia sức nóng để sưởi ấm trái đất chúng ta. Bộ mặt thứ ba mỉm cười, và nụ cười đó đưa ra những tia sức mạnh để năng lực hóa trái đất chúng ta.
Chỉ có một người bạn duy nhất trên bầu trời, thế nhưng người bạn duy nhất này có ba bộ mặt khác nhau. Và khi mỗi bộ mặt mỉm cười, nó chúc phúc cho chúng ta theo một phương thức đặc biệt.
Những nhận định của Hayes về mặt trời đưa ra một cuộc giới thiệu hiệu nghiệm cho ngày Lễ mà chúng ta mừng kính hôm nay: Lễ Chúa Ba Ngôi.
Đơn giản hóa, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi nghĩa là trong Thiên Chúa có ba ngôi vị khác nhau. Thiên Chúa Cha là Thiên Chúa. Thiên Chúa Con là Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa. Thế nhưng, không phải là ba Thiên Chúa, nhưng một Thiên Chúa duy nhất.
Chúng ta có thể nghĩ về Thiên Chúa theo phương thức mà chúng ta nghĩ về mặt trời: như là có ba bộ mặt.
Trước tiên, bộ mặt của Thiên Chúa như là Thiên Chúa Cha. Khi bộ mặt Thiên Chúa là Cha mỉm cười, nó đưa đến nguồn gốc của chúng ta và nguồn gốc của tất cả mọi sự: từ hàng vạn ngôi sao lấp lánh trên bầu trời đến những con chim trời hót líu lo, rồi đến muôn vàn thứ cá trong biển cả.
Thứ đến, bộ mặt Thiên Chúa như là Thiên Chúa Con. Khi bộ mặt Thiên Chúa như là Con mỉm cười, thì xảy ra là Thiên Chúa từ trời xuống thế làm người, chia sẻ bản tính nhân loại của chúng ta, đi với chúng ta, và chỉ tỏ cho chúng ta phải sống và yêu thương như thế nào.
Sau cùng, bộ mặt Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần. Khi bộ mặt Thiên Chúa như là Thánh Thần mỉm cười, thì điều đó đưa Thiên Chúa vào nội tâm chúng ta, cư ngụ trong đó, làm cho chúng ta trở nên những đền thờ của Đấng Tối Cao – dùng hình ảnh của Thánh Phaolô: “Anh chị em không biết rằng thân thể anh chị em là đền thờ của Chúa Thánh Thần trong anh chị em hay sao?”
Và như thế, chúng ta có thể nghĩ về Thiên Chúa giống y như là chúng ta nghĩ về mặt trời: như là người bạn vĩ đại yêu mến có ba bộ mặt. Bộ mặt Thiên Chúa là Cha, là Thiên Chúa tạo dựng. Bộ mặt Thiên Chúa là Con là Thiên Chúa làm người. Bộ mặt Thiên Chúa là Thánh Thần, là Thiên Chúa thánh hóa, cho chúng ta chia sẻ Thiên tính của Thiên Chúa.
Chúng ta cùng nhau làm Dấu Thánh Giá tuyên xưng đức tin: Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần.
Câu hỏi gợi ý:
Suy tư gợi ý
Đức Giêsu đến thế gian để mạc khải cho con người biết về Thiên Chúa, nhưng đời Ngài quá ngắn ngủi (33 năm), mà trong đó Ngài chỉ dành một phần thời gian rất nhỏ (3 năm) để giảng dạy. Làm sao Ngài có thể nói hết về Thiên Chúa, Đấng vô cùng vô tận? Thế giới này là hữu hạn, thế mà con người nghiên cứu hết đời này đến đời khác, thế kỷ này đến thế kỷ khác, và đã có hàng tỷ cuốn sách viết ra về thế giới, thế mà vẫn không hết. Con người lúc nào, thời nào cũng vẫn khám phá ra cái mới về thế giới, vũ trụ. Thế giới hữu hạn mà còn vậy, Thiên Chúa là Đấng vô hạn, lẽ nào Đức Giêsu lại chỉ cần nói trong 3 năm mà hết được? Giả như Đức Giêsu có dành ra 100 hay 1000 năm để nói về Thiên Chúa, thì cũng không nói hết được, vì Ngài là Đấng vô biên và phong phú khôn lường! Vì thế, trước khi từ giã các môn đệ để về cùng Chúa Cha, Ngài nói: “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em, nhưng bây giờ anh em không có sức chịu nổi”. Nghĩa là về Thiên Chúa thì còn nhiều điều phải nói lắm, nhưng có nói thêm thì các tông đồ lúc ấy chẳng lãnh hội được!
“Không có sức chịu nổi”, vì chân lý về Thiên Chúa thì quá cao siêu, mà khả năng hiểu biết của con người thì quá hạn hẹp, nông cạn, làm sao trong một thời gian quá ngắn con người hiểu biết được. Những môn học dành cho cấp 3, thì học sinh cấp 2 không thể lãnh hội được. Cũng vậy, Đức Giêsu không thể nói cho các môn đệ những điều về Thiên Chúa vượt quá khả năng lãnh hội của họ lúc đó được, vì nói mà họ không hiểu thì vô ích. Ngài chỉ nói trong khả năng lãnh hội hạn hẹp của họ mà thôi. Phải chờ trình độ hiểu biết, suy tư và tâm linh của họ cao hơn, thì mới có thể nói những điều cao siêu, khó hiểu hơn.
Vì thế, chúng ta đừng quá ảo tưởng về những điều đã được mạc khải qua Đức Giêsu, cho đó là trọn vẹn, là gồm đầy đủ tất cả những gì có thể nói về Thiên Chúa. Chẳng lẽ Thiên Chúa của chúng ta lại quá hữu hạn như thế sao?
Con người có nhu cầu hiểu biết về Thiên Chúa. Vì thế, việc mạc khải về Thiên Chúa vẫn được tiếp tục mạc khải qua lịch sử con người bởi Thánh Thần, như Đức Giêsu đã hứa: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn”. Thánh Thần đã hiện xuống trên các tông đồ ngày lễ Ngũ Tuần, nhưng Ngài không nói gì cả. Và chắc chắn trong suốt chiều dài lịch sử con người, Ngài còn xuống trên rất nhiều người khác nữa, thuộc tất cả mọi thời đại. Cách mạc khải của Thánh Thần không phải theo kiểu của Đức Giêsu: nhập thể thành một người để nói với một số người. Mà theo kiểu ngôn sứ Giôen đã báo trước: “Thiên Chúa phán: Trong những ngày cuối cùng, Ta sẽ đổ Thần Khí Ta trên hết thảy người phàm, con trai con gái các ngươi sẽ trở thành ngôn sứ, thanh niên sẽ thấy thị kiến, bô lão sẽ được báo mộng. Trong những ngày đó, Ta cũng sẽ đổ Thần Khí Ta, cả trên tôi nam tớ nữ của Ta, và chúng sẽ trở thành ngôn sứ” (Cv 2,17-18; xem Ge 3,1-2).
Nếu tất cả những gì Đức Giêsu nói không phải là tất cả những gì có thể nói được về Thiên Chúa vô hạn, thì chắc chắn còn nhiều điều được mạc khải về Thiên Chúa là do Thánh Thần của Ngài, ngoài những gì Đức Giêsu đã nói. Theo ngôn sứ Giô-en được Phê-rô nhắc lại trong sách Công vụ tông đồ, thì trong lịch sử con người, Thần Khí đã được đổ xuống trên rất nhiều người, để họ nói lên những chân lý về Thiên Chúa, và đó chính là mạc khải của Thánh Thần. Những mạc khải ấy ở đâu? là gì? Đó là điều chúng ta cần suy nghĩ, và rất có thể nhờ đó, ta thấy được chỗ đứng của các tôn giáo trong chương trình cứu độ nhân loại của Thiên Chúa.
Vì khi Ngài là chủ tể điều khiển lịch sử, thì việc xuất hiện các tôn giáo lớn trên thế giới không thể là ngoài thánh ý của Ngài. Nhất là khi Ngài lại để cho các tôn giáo ấy xuất hiện và phát triển trước Kitô giáo. Chẳng hạn tại châu Á, đang khi các tôn gio khác xuất hiện từ những thế kỷ đầu công nguyên, thì mãi đến thế kỷ 15, Thiên Chúa mới cho Kitô giáo được truyền bá một cách có qui mô tại châu Á. Tại sao Thiên Chúa lại để Kitô giáo đến trễ như vậy? Ngài có muốn Kitô giáo cạnh tranh với các tôn giáo khác không? – Chúng ta phải nhận ra ý muốn của Ngài qua việc Ngài đã làm trong lịch sử, chứ không phải là đoán ý của Ngài qua sự mong muốn của chúng ta! Trời cao hơn đất bao nhiêu thì thánh ý Ngài cao hơn ý chúng ta như vậy! (xem Is 55,8-9)
Thiên Chúa đã tạo dựng nên muôn loài vạn vật đa hình đa dạng, và vật nào cũng đều đa diện. Vật nào cũng đều có thể có nhiều cách nhìn khác nhau, do nhiều người khác nhau nhìn từ nhiều vị trí khác nhau. Cùng một vấn đề, nhưng người nhìn thấy thế này, kẻ nhìn thế khác: một bác sĩ khó có thể có cùng một cách nhìn với một kỹ sư, và lại càng khác xa cách nhìn của một bác nông dân. Chẳng ai dám kết luận là cách nhìn này đúng, cách nhìn này sai, mà chỉ có thể kết luận rằng chúng khác nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau. Thiên Chúa vẫn luôn luôn thích có sự đa dạng trong vũ trụ. Chẳng hạn đối với loài hoa, Ngài đã dựng nên hàng vạn loại khác nhau, trong đó mỗi loại đẹp mỗi vẻ. Chắc chắn Ngài và bất kỳ ai trong chúng ta, chẳng ai muốn dẹp đi mọi loại hoa, chỉ để tồn tại một loài mà ta nghĩ là đẹp nhất mà thôi. Như thế thế giới này sẽ bớt phong phú, sẽ trở nên buồn tẻ hơn. Cũng thế, chắc hẳn Ngài cũng không thích trên thế giới này chỉ tồn tại một cách nhìn duy nhất về Ngài, một cách thờ phượng duy nhất dành cho Ngài theo kiểu một tôn giáo nào đó, vì như thế, thế giới sẽ trở nên đơn điệu, buồn tẻ. Chính vì thế, Ngài đã cho lập nên nhiều tôn giáo, nhiều ý thức hệ khác nhau, không phải để nhân loại chia rẽ nhau, mâu thuẫn nhau, mà để bổ túc cho nhau.
Thiên Chúa muốn người ta hợp tác với nhau, yêu thương nhau, chấp nhận sự khác biệt của nhau, hơn cả sự hoàn hảo cá nhân của họ. Chính vì thế, Ngài đã không dựng nên những con người hoàn hảo, có khả năng tự độc lập. Mà Ngài đã dựng nên những con người không hoàn hảo: người được mặt này mất mặt kia, kẻ được mặt kia nhưng lại mất mặt này, để con người cần lẫn nhau, nương nhau mà tồn tại, hầu nhờ đó họ cộng tác với nhau, yêu thương nhau. Cũng như người nam và người nữ nhờ khác nhau, nhờ không hoàn hảo (người được mặt này kẻ được mặt kia), mà họ yêu thương và kết hợp với nhau thành vợ chồng.
Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa Ba Ngôi: Ba Ngôi khác biệt nhau, mỗi Ngôi một vẻ. Nhờ vậy, Ba Ngôi yêu thương nhau, hợp với nhau thành một Thiên Chúa duy nhất. Ba Ngôi tuy khác biệt nhau, nhưng lại chấp nhận nhau, cần lẫn nhau, hợp tác với nhau, yêu thương nhau, sống chung hòa bình với nhau. Ba Ngôi không bao giờ muốn tiêu diệt nhau để chỉ còn một Ngôi tồn tại. Ba Ngôi đều bằng nhau, tôn trọng nhau, tôn trọng cả sự bình đẳng giữa nhau, không Ngôi nào muốn vượt trội hơn để thống trị Hai Ngôi kia.
Mọi người, mọi gia đình, mọi tập thể, mọi tôn giáo, cần bắt chước Ba Ngôi trong những khía cạnh ấy. Đừng ai mong mình vượt trội hơn những người khác, muốn thống trị những người khác, muốn chiếm địa vị độc tôn, độc quyền. Ba Ngôi của chúng ta là một Ba Ngôi hợp nhất, nhưng hợp nhất ở đây là thứ hợp nhất trong đa dạng, chứ không phải hợp nhất trong đồng nhất. Mọi tập thể, mọi gia đình, mọi tôn giáo, cần phải chống lại cơn cám dỗ muốn hợp nhất bằng cách làm mọi sự thành đồng nhất: muốn mọi người chỉ còn một cách nhìn, một cách suy nghĩ duy nhất là cách của mình. Trái lại, cần phải tôn trọng sự khác biệt và bình đẳng, thì nhân loại mới có nhiều khả năng yêu thương nhau, và sống chung hòa bình với nhau được.
Mọi chia rẽ, chiến tranh trong gia đình, trong tập thể đều phát xuất từ ý của một người nào đó muốn áp đặt ý của mình lên người khác, muốn thống trị, muốn trổi vượt, muốn độc tôn. Và cái ý ngông nghênh ấy cuối cùng chỉ là những hình thức thể hiện tính kiêu ngạo, ích kỷ, muốn tự đề cao mình.
Cầu nguyện
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi, xin cho mọi người, mọi tập thể trên trần gian, trong đó có Giáo Hội của chúng con, biết bắt chước tinh thần yêu thương hợp tác của Ba Ngôi: biết yêu thương nhau, biết chấp nhận và tôn trọng sự khác biệt của nhau, không áp đặt lẫn nhau, ép người khác trở nên giống mình, nghĩ như mình, nhưng muốn cho nhau cùng tồn tại, để cùng xây dựng một thế giới hòa bình, yêu thương và hợp nhất với nhau. Đó cũng chính là Nước Trời mà Đức Giêsu muốn xây dựng cho trần gian.
Anh chị em thân mến.
Giờ phút này đây, chúng ta đang bắt đầu một ngày mới. Ánh bình minh đã từ từ ló dạng.
Đó là một việc rất bình thường cho con người. Có khi nào lúc màn đêm buông xuống, khi lên giường chợp mắt, chúng ta chợt giật mình suy nghĩ: nếu ngày mai không có ánh mặt trời, và mãi mãi mặt trời sẽ biến mất, chúng ta không biết mình sẽ ra sao. Nhưng rất may đều đó đã không xảy ra. Sau một đêm dài nghỉ ngơi dưỡng sức, chúng ta lại được chào đón ánh bình minh tươi đẹp, với vầng mặt trời từ từ hiện đến, mang những tia nắng ấm áp cùng với ánh sáng chan hòa bao phủ trần gian. Mỗi ngày mặt trời vẫn trung thành xuất hiện, vẫn tỏa sáng và mang hơi ấm đến cho con người. Nếu người nào biết tận hưởng, thì đây là điều rất hữu ích. Còn nếu ai quá lạm dụng, thì cho dù có tầng ozone bao bọc, họ cũng không tránh khỏi hậu quả tai hại do sự lạm dụng quá đáng.
Mừng lễ Chúa Ba Ngôi hôm nay, chúng ta vừa nghe lại những Lời quý báu Chúa Giêsu nói:
“Khi Thần Chân Lý đến Người sẽ dạy các con biết tất cả sự thật” Người sẽ làm vinh danh Thầy, vì Người lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con “Tất cả những gì Cha có đều là của Thầy”.
Chúa Giêsu muốn tỏ cho loài người biết về mối tương quan của Ngài với Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Ba Ngôi cùng hợp nhất không bao giờ chia rẽ, cho đến nỗi Ba Ngôi mà chỉ có một.
Mầu nhiệm cao cả nầy, chúng ta biết từ rất lâu, nhưng hiểu không được bao nhiêu. Như một đứa trẻ, nó biết cha mẹ yêu thương, nhưng không biết được tình yêu thương đó như thế nào. Nhưng chúng ta thử lấy tâm tình của một trẻ thơ mà tìm hiểu Chúa Ba Ngôi theo những gì mình hiểu biết.
Chúng ta thử ví Thiên Chúa Cha như vầng mặt trời,
Chúa Giêsu như ánh sáng được chiếu tỏa từ mặt trời,
Chúa Thánh Thần là sức nóng từ vầng mặt trời có ánh sáng phát ra.
Mặt trời vẫn trung thành với trái đất như thế nào, Thiên Chúa cũng trung thành với loài người như thế, và còn hơn thế nữa, vì mặt trời thì dường như vô tri, còn Thiên Chúa, Ngài yêu thương loài người, tất cả những gì Ngài thực hiện đều phát xuất từ lòng yêu thương. Không thể có một khối mặt trời mà không có ánh sáng và sức nóng. Cũng thế Thiên Chúa hiện hữu trong một bản tính duy nhất nhưng Ba Ngôi Vị riêng biệt.
Thiên Chúa Ba Ngôi còn hiện hữu qua con người của chúng ta. Con người chúng ta được mang hình ảnh của Thiên Chúa. Đó là công trình tạo dựng của Thiên chúa Cha. Con người được cứu chuộc để được tỏa sáng, được trong sạch. Đó là công trình cứu chuộc của Ngôi Hai. Con người được ban cho sức mạnh để những việc làm đạt kết quả tốt đẹp. Đó là sức nóng của Chúa Thánh Thần nung đốt
Mỗi người chúng ta nhìn lại chính mình, nhìn lại hình ảnh của Chúa Ba Ngôi, một hình ảnh đã bị biến dạng. Chúng ta đã dùng những chất bẩn của tiền bạc, của lợi lộc cá nhân, những chất bẩn của sự ích kỷ, của sự tranh chấp, lừa lọc để bôi nhọ hình ảnh tuyệt vời của Thiên Chúa Ba Ngôi nơi mỗi người. Vì sự bôi nhọ đó mà ngay cả chính mình không nhận ra, thì làm sao người khác có thể nhận ra được Thiên Chúa Ba Ngôi nơi chúng ta được.
Chúng ta biết chờ đón ánh bình minh trong đêm tối. Thế mà trong những lúc thất vọng, chúng ta đã quên mất Thiên Chúa của mình. Chúng ta không còn biết có một Thiên Chúa vẫn trung thành và yêu thương luôn chờ đón mình. Vậy mỗi người đã xử dụng mặt trời như thế nào? – Chúng ta chỉ biết phiền trách vì ánh nắng chói chan, vì cơn nóng gay gắt. Hay chúng ta biết tận dụng được những gì từ ánh mặt trời ban cho.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng biết nhìn thấy được hình ảnh Chúa Ba Ngôi trong đời sống, để biết sống cho xứng đáng.
Chúa Thánh Thần là Đấng dẫn ta đến sự thật toàn vẹn. Sự thật toàn vẹn là gì? Đó chính là điều Chúa Giêsu ngụ ý trong câu đầu bài Tin Mừng hôm nay “Thầy còn nhiều điều muốn nói với chúng con, nhưng bây giờ chúng con không có sức chịu nổi”. Trong khoảng thời gian Chúa Giêsu sống cạnh các môn đệ, có nhiều điều Chúa Giêsu vừa mới nói hé một chút thì các môn đệ đã không chịu nổi nên Chúa Giêsu thôi không nói nữa. Thí dụ khi hai người con của bà Giêbêđê đến xin Chúa cho họ được ngồi hai bên tả hữu Ngài, Chúa Giêsu hỏi lại “Nhưng chúng con có uống nổi chén đắng của Thầy không?” Hai ông tuy đáp liều là nổi nhưng sau đó không dám xin nữa và Chúa Giêsu cũng không nói thêm gì nữa. Trong câu chuyện ấy, sự thật toàn vẹn mà Chúa Giêsu chưa nói rõ chính là chén đắng.
Một lần khác Chúa Giêsu vừa mở miệng báo tin Ngài sẽ bị bắt bị hành hạ và bị giết chết, thì Phêrô cũng không chịu nổi nên vội lên tiếng can ngăn. Trong chuyện này, sự thật toàn vẹn mà Chúa Giêsu chưa thể nói rõ chính là mầu nhiệm đau khổ của Thập giá.
Trong đêm thứ năm trước khi ra đi chịu chết, Chúa Giêsu quỳ trước các môn đệ và rửa chân cho họ, Phêrô lại một lần nữa không chịu nổi nên cự nự “Không đời nào con để Thầy rửa chân cho con”. Ở đây sự thật toàn vẹn mà Chúa Giêsu cũng chưa tiện nói hết là sự hạ mình của Ngài và của các môn đệ.
Tóm lại sự thật toàn vẹn là các môn đệ phải chấp nhận số phận của Thầy mình, phải tự khiêm tự hạ, phải chịu đau khổ chịu bắt bớ và có thể chịu chết giống như Thầy. Nhưng trong tất cả những lần kể trên Chúa Giêsu không nói hết ý nghĩ của mình được vì các môn đệ đã không chịu nổi.
Về sau khi Chúa Giêsu đã sống lại và lên trời, Chúa Thánh Thần đã dẫn các môn đệ đến sự thật toàn vẹn ấy, và khi đó, nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, các ông đã chịu nổi, chẳng những chịu nổi mà còn vui lòng chịu: một lần kia vì đã rao giảng về Chúa Giêsu, các tông đồ bị bắt giam trong tù hết một đêm, sau đó bị điệu ra Thượng Hội đồng, bị đánh đòn một trận rồi mới được thả ra. Sách Công vụ viết khi ấy các ông lòng đầy hân hoan vì được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Chúa Giêsu. Thánh Phaolô cũng thế, sau biết bao gian truân nguy hiểm vì loan báo Tin Mừng, ngài nói “Tôi sung sướng vì được thông phần cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu Kitô trong thân xác tôi”. Ngài còn nói “Vinh dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô”, cái thập giá mà những người trí thức hy lạp coi là điên rồ và những người Do Thái sùng đạo coi là cớ vấp phạm.
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Mùa Phục Sinh kết thúc với đại lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Giáo hội nhìn lại chương trình cứu độ được Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử nhân loại và nhận ra rằng: nguồn ơn cứu độ chính là Thiên Chúa Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần. Vì thế, chúng ta hiểu tại sao ngày Chúa nhật mùa Thường niên tiếp ngay sau lễ Hiện Xuống, luôn luôn được Giáo hội mừng kính và suy niệm về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi.
Giáo Hội là công trình của tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi. Từ Ngài, Giáo Hội sinh ra; nhờ Ngài, Giáo Hội hoạt động; và hướng tới Ngài, Giáo Hội dấn bước. Chỉ một mình Thiên Chúa mới nắn đúc nên Giáo Hội theo lòng Ngài mong ước. (Thư Chung 2011, Số 19).
Giáo hội được Chúa Cha tập hợp chung quanh Chúa Giêsu dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Là dân tộc lữ hành, Giáo hội phát xuất từ Chúa Cha, sẽ trở về với Chúa Cha, nhờ trung gian của Chúa Kitô, dưới hơi thở của Chúa Thánh Thần. Chính từ mầu nhiệm Ba Ngôi mà Giáo hội được sinh ra và cũng từ Thiên Chúa mà Giáo hội lãnh nhận sứ mạng để tất cả nhân loại làm thành một Dân Thiên Chúa, tập họp thành Thân Thể Chúa Kitô, được xây dựng thành Đền Thờ Chúa Thánh Thần. Giáo hội như là hình ảnh của mầu nhiệm hiệp thông giữa Ba Ngôi Thần Linh và Giáo hội là dấu chỉ của sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và nhân loại (x. GH1; GLCG số 772). Ba Ngôi là cội nguồn và là cùng đích của Giáo hội. Giáo hội là công trình của Ba Ngôi. Giáo hội nuôi sống con cái mình bằng thần lương Ba Ngôi ban tặng qua các bí tích.
Đây là một mầu nhiệm thâm sâu nhất, cao cả nhất mà lý trí con người, ngay cả óc tưởng tượng của con người, cũng không thể nào thấu hiểu hay hình dung được. Bởi vì Thiên Chúa Ba Ngôi không phải là một vấn đề, càng không phải là một vấn đề toán học. Mầu nhiệm không phải là vấn đề hay bài toán: 3 là 3; 1 là 1. Không tính với bài toán nào mà 1 là 3 hay 3 thành 1 được. Thiên Chúa không phải là những con số. Không thể làm trò ảo thuật hay lý luận đưa ngón tay ba đốt hay hình tam giác mà ví von được.
Vậy ai đã cho chúng ta biết mầu nhiệm này? Chính Chúa Giêsu Kitô. Nếu Chúa không dạy bảo thì loài người không thể nào biết được. Cho tới trước khi Chúa Kitô đến, loài người không có một ý niệm nào. Dân Do thái, dân riêng của Chúa, cũng không biết gì về mầu nhiệm Ba Ngôi. Cựu Ước chỉ nói tới một Thiên Chúa duy nhất, tạo dựng và làm chủ vũ trụ. Chính Chúa Giêsu, trong đời sống công khai giảng dạy đã mạc khải dần dần. Ngài đã từng bước vén lên bức màn của mầu nhiệm Ba Ngôi.
Ngài cho biết: Chúa Cha là Thiên Chúa, còn Ngài là Con Một của Chúa Cha. Ngài và Chúa Cha là một. Ngài ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Ngài, cùng bản tính với Chúa Cha. Ngài cũng là Thiên Chúa. Ngài với Chúa Cha là một Thiên Chúa.
Ngài cũng cho biết: Chúa Thánh Thần là Đấng mà Chúa Cha sai đến, cũng là Thiên Chúa. Như vậy, chỉ là một Thiên Chúa duy nhất nhưng có Ba Ngôi riêng biệt nhau chứ không phải là ba Chúa.
Tại sao Chúa Giêsu lại mạc khải cho chúng ta một mầu nhiệm quá cao siêu như thế? Chắc chắn không phải là để thử thách thiện chí của con người, hoặc để xây lên bức tường chặn đứng suy luận và óc tưởng tượng của con người. Nhưng vì Chúa muốn chúng ta hiểu biết đời sống nội tại của Thiên Chúa, đó là tình yêu. Thiên Chúa là Tình yêu. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi nói lên điều đó.
Thiên Chúa là Tình yêu. Thiên Chúa yêu thương con người. Đó là một công thức khác để nói về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Vì tình yêu thương, Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa, ban cho con người được hạnh phúc như Chúa. Nhưng con người đã phạm tội phản nghịch đánh mất hạnh phúc. Thiên Chúa không từ bỏ con người. Ngài đã quyết định ban Con Một yêu dấu để cứu chuộc. Và vì yêu thương con người, Đức Kitô đã vâng lời Chúa Cha đến trần gian thực hiện sứ mệnh yêu thương đó. Và khi hoàn tất, Ngài về trời. Chúa Thánh Thần đến để tiếp tục công việc của Ngài, công việc yêu thương. Nhờ Chúa Thánh Thần, tình yêu của Thiên Chúa tiếp tục được bày tỏ mãi cho tới chúng ta hôm nay và mãi về sau nữa.
Vì thế, khi mừng kính mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, Giáo Hội không chỉ nhắc nhở chúng ta xác tín lại tín điều quan trọng này, nhưng còn mời gọi chúng ta hãy sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, là sống yêu thương và hiệp nhất. Như tình yêu thương giữa Ba Ngôi Thiên Chúa đã trào tràn trên mọi thụ tạo, thì tình yêu thương của người Kitô hữu cũng vậy, phải mở ra cho hết mọi người. Sống yêu thương là cách diễn tả đúng và đầy đủ ý nghĩa cuộc sống làm người và làm con Chúa; đồng thời cũng diễn tả cuộc sống của Chúa Ba Ngôi: yêu thương và hiệp nhất.
Trước khi dùng cơm, phần lớn trong chúng ta đều làm dấu thánh giá và đọc nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Khi đọc kinh trong nhà thờ hay tại nhà, chúng ta đều bắt đầu bằng nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Có những người có thói quen tốt là trước khi làm bất cứ việc gì, họ đều làm dấu thánh giá. Qua đài truyền hình, thỉnh thoảng chúng ta thấy, có những cầu thủ bóng đá quốc tế làm dấu thánh giá sau khi đá lọt lưới đối phương, hoặc trước khi đá phạt đền.
Làm dấu trên trán, chúng ta tuyên xưng Chúa Cha là Đấng tạo dựng trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình. Làm dấu trên ngực, chúng ta tuyên Chúa Con là Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã từ trời xuống thế nhập thể trong lòng trinh nữ Maria và đã làm người. Làm dấu trên hai vai chúng ta tuyên xưng Chúa Thánh Thần là Chúa và Đấng ban sự sống, Người bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra, Người được phụng thờ và tôn vinh cùng với Chúa Cha và Chúa Con. Dấu chữ thập mà chúng ta làm chỉ thánh giá của Chúa Giêsu, nơi mạc khải trọn vẹn tình yêu của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần đối với nhân loại.
Dấu thánh giá là lời tuyên xưng đức tin vắn tắt nhất của người Kitô hữu, là dấu chỉ phân biệt những người môn đệ của Chúa Giêsu và những người theo đạo khác. Lời kinh nhân danh Cha và Con và Thánh Thần tóm tắt đức tin mà chúng ta đã nhận lãnh khi chịu phép rửa tội, mà nội dung là ba điều khoản lớn của đức tin công giáo, điều khoản thứ nhất tuyên xưng Chúa Cha, điều khoản thứ hai tuyên xưng Chúa Con, điều khoản thứ ba tuyên xưng Chúa Thánh Thần và Hội thánh. Như vậy cách thực tế và đơn giản nhất để tôn vinh Chúa Ba Ngôi là chúng ta hãy làm dấu thánh giá cách sốt sắng và ý thức, với tất cả lòng yêu mến và kính trọng.
Đi sâu hơn chút nữa, chúng ta càng thấy mầu nhiệm Ba Ngôi thật gần gũi và thật là cao cả. Thánh Augustinô đã nói: “Nếu bạn thấy tình yêu, bạn sẽ thấy Chúa Ba Ngôi”.
Chúng ta có thấy tình yêu không, và thấy như thế nào? Tình yêu được nhìn thấy qua những hành vi yêu thương.
Yêu thương là ban tặng: khi yêu người ta trái tim của mình cho người yêu. Yêu thương sâu đậm là cho đi điều quý báu nhất cho người mình yêu, như trường hợp của Chúa Cha mà Chúa Giêsu nói tới trong Tin mừng Gioan: ” Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình cho thế gian” (Ga 3, 16). Hay chính trường hợp của Chúa Giêsu: ” Không có tình thương nào lớn hơn tình thương của người dám thí mạng sống vì bạn hữu” (Ga 15, 13). Yêu thương là cho đi chính mình, là tự hiến chính mình. Vợ chồng yêu thương nhau, dâng hiến bản thân cho nhau, kể cả thân xác mà không chút e dè, trái lại còn hạnh phúc nữa. Cha mẹ và con cái yêu thương nhau có thể hy sinh mạng sống mình cho nhau.
Yêu thương là chia sẻ: yêu nhiều, người ta chia sẻ cho nhau nhiều, yêu nhau hết mức thì người ta chia sẻ cho nhau tất cả. Vợ chồng yêu nhau chia sẻ cho nhau tất cả, từ của cải vật chất đến gia sản tinh thần, đến cả tình gia đình. Ông bà cha mẹ của chồng trở thành ông bà cha mẹ của vợ và ngược lại. Trong Thiên Chúa cũng thế, Ba Ngôi Thiên Chúa chia sẻ cùng một sự sống thần linh. Và chính sự sống thần linh duy nhất làm cho Ba Ngôi là một. Chúa Cha đã sai Chúa Con mang sự sống thần linh ấy xuống trần gian chia sẻ cho nhân loại. Sự sống ấy là Bánh bởi trời mà chúng ta nhận lãnh trong bí tích Thánh Thể.
Yêu nhau là đón nhận nhau. Đón nhận tình yêu và ý muốn của người mình yêu, đón nhận tất cả, đón nhận chính bản thân của người yêu. Người được yêu có vị trí quan trọng trong trái tim của người yêu. Suy nghĩ về tình yêu giữa Chúa Con và Chúa Cha, chúng ta sẽ thấy ở trần gian này, không có sự đón nhận nào trọn vẹn như thế. Chúa Con đón nhận tất cả từ Chúa Cha: giáo lý, ý muốn, lời nói, hành động. Chúa Con đón nhận chính bản thân Chúa Cha làm bản thân của mình, vì vậy mà đồng bản thể với Chúa Cha.
Yêu nhau còn là gắn bó với nhau. Càng yêu nhau càng gắn bó mật thiết đến nỗi là một với nhau. Hai vợ chồng yêu nhau ở mức độ cao nhất thì trở nên một: một xương thịt, một thân mình. Bấy giờ tình yêu vợ chồng không những là dấu chỉ hữu hình của tình yêu Chúa Giêsu đối với Giáo Hội, mà còn là dấu chỉ của tình yêu Ba Ngôi. Ba Ngôi gắn bó với nhau đến nỗi là Một với nhau. Và chỉ có một Thiên Chúa mà thôi, Thiên Chúa là Tình Yêu nguồn suối, mẫu mực cho mọi tình yêu của con người (ĐGM Bùi Văn Đọc).
Hôm nay chúng ta mừng mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi. Gọi là mầu nhiệm vì đó là điều vượt quá trí hiểu của loài người. Tuy chúng ta không thể hiểu thấu mầu nhiệm đó, nhưng may thay qua Chúa Giêsu, chúng ta thấy được biểu hiện của mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi chính là mầu nhiệm của tình yêu.
Chúng ta được tạo dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình yêu. Đời sống của chúng ta chỉ có ý nghĩa khi biết yêu thương. Chúng ta chỉ được hạnh phúc khi tham dự vào tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Nhưng tội lỗi làm cho chúng ta xa lìa tình yêu của Chúa. Sự ghen ghét hận thù làm cho khuôn mặt chúng ta lem luốc méo mó, không còn giống khuôn mặt Thiên Chúa.
Hôm nay ta hãy biết sống theo khuôn mẫu của Chúa Ba Ngôi. Biết sống hiệp nhất với nhau. Biết dâng hiến bản thân mình, biết cho đi, biết chia sẻ, biết sống chan hoà tình bác ái. Để thực hiện những điều ấy, ta phải biết bỏ mình, bỏ sở thích riêng, bỏ của cải và nhất là phải biết bỏ ý riêng, hoàn toàn sống theo thánh ý Thiên Chúa. Khi biết bỏ mình như thế, ta sẽ nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Khi hoàn toàn quên mình để sống cho tình yêu ta sẽ được kết hiệp với tình yêu của Thiên Chúa. Đó chính là hạnh phúc thiên đàng. Đó chính là đích điểm của đời chúng ta.
Lạy Ba Ngôi Thiên Chúa, xin cho chúng con biết sống yêu thương để chúng con luôn thấy Chúa hầu chúng con ngày càng trở nên giống hình ảnh của Chúa. Amen.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm còn ẩn dấu rất sâu kín và rất khó hiểu, chính vì thế muốn trình bày để cho người khác hiểu, cho dù các nhà tiến sĩ lừng danh của Hội Thánh đi nữa, cũng không phải là chuyện dễ dàng. Khi học ở đại chủng viện, môn học về Chúa Ba ngôi: De Deo uno, De Trinite, là môn học khó nuốt nhất cho các thầy chủng viện nhất. Câu chuyện của Thánh Augustinô gặp thiên thần dùng vỏ nghêu định múc cả nước dưới biển để đổ vào cái vũng nhỏ mà thiên thần đào bằng tay, chính là để nhắc nhở cho chúng ta…. Dù vậy, với ơn Chúa, chúng sẽ hiểu được phần nào mầu nhiệm này. Chính Hội thánh cũng không dám tự phụ mình hiểu rõ về TC Ba Ngôi…
Người ta nói tình yêu chân thật là một thứ nam châm, có sức hút người ta gần lại với nhau, nên hai người không thể nào, và cũng không muốn rời xa nhau. Khi yêu nhau chân thật, người ta muốn ở bên nhau, muốn hiến trao cho nhau. Hai khía cạnh của Tình yêu chân chính là: bên nhau – nên một. Một hình ảnh rất mờ nhạt của Tình Yêu Thiên Chúa Ba ngôi chính là bộ ba mà TC dựng nên trên trần gian: cha – mẹ – con cái. Đúng vậy, nếu bộ ba này sống tình yêu trọn vẹn, sẽ có nhiều nét rất giống Tình Yêu của Ba Ngôi, vì thực ra chính hình ảnh này là do Thiên Chúa dựng nên kia mà… Vì thế, người ta có thể nói, Tình Yêu nơi con người bất toàn bao nhiêu, thì Tình Yêu nơi Ba Ngôi thiên Chúa lại trọn vẹn và hảo bấy nhiêu… Ba Ngôi Thiên Chúa càng yêu thương nhau, các Ngài muốn gần nhau, nên một với nhau bấy nhiêu, Ba Ngôi càng không muốn điều gì là của riêng mình nữa, mà chỉ muốn nên một mà thôi…. Như trên đã nói, điều này chỉ có nơi Thiên Chúa, nơi con người không thể đạt được mức độ thành toàn như vậy…
Mừng lễ Chúa Ba Ngôi chính là để nhắc nhở ta sống mầu nhiệm Tình Yêu Hiệp thông đó.
Chúa Giêsu đã nói: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nổi đã ban Con Một Mình…” Tình Yêu của Thiên Chúa là thế, dù yêu nhân loại là thụ tạo bất toàn, nhưng Người vẫn dành cho một tình yêu cao cả thần thánh như vậy. Còn phần thì sao? Khi hiểu được như vậy, ta có sẵn sàng đáp lại cho tình yêu của TC không? Ta có cố gắng yêu mến Chúa như ý Chúa muốn, yêu mến Chúa qua mọi người chung quanh ta, nhất là những người nghèo khổ, không ai nhìn tới, những người bị xã hội bỏ rơi, ruồng bỏ không?
Trước hôm bước vào cuộc khổ nạn và phục sinh, Đức Giêsu đã tâm sự cùng những người theo Ngài rằng sẽ có một ngày Ngài lìa xa họ để về cùng Chúa Cha. Đối với các môn đệ, đây là một tâm sự buồn. Bởi vì sau bao tháng ngày bên nhau, tình thầy trò trở nên nồng thắm tưởng chừng không thể phân ly. Ấy thế mà giờ đây Thầy lại nói đến giây phút chia lìa.
Song với tình thương bao la, muốn lắng lo chăm nom mọi sự cho đoàn chiên non yếu, Đức Giêsu đã vội trấn an các môn đệ: “Ta sẽ không bỏ các con mồ côi đâu… Nhưng Ta sẽ xin Cha, và Ngài sẽ ban cho các ngươi Đấng Bầu Chữa để ở với các ngươi luôn mãi” (Ga 14&15).
Như thế, với lời yên ủi động viên trên, Đức Giêsu đã mạc khải một mầu nhiệm vô cùng quan yếu của niềm tin Kitô giáo-Mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa. Đây là “nguồn mạch của tất cả các mầu nhiệm khác của đức tin, là ánh sáng soi chiếu các mầu nhiệm đó.” Giáo lý Công giáo đã xác định: có ba mầu nhiệm căn bản cho niềm tin, và mầu nhiệm thứ nhất, mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là điểm khởi phát của hai mầu nhiệm còn lại-mầu nhiệm Ngôi Hai Xuống Thế Làm Người và mầu nhiệm Ngôi Hai Cứu Chuộc nhân loại.
Cũng như trong nỗi sầu thương của Thánh giá có tia sáng của Phục sinh, thì trong giai điệu của biệt ly giữa thầy trò vẫn ánh lên hào quang của chân lý cứu độ. Ngay trong khúc tâm sự “buồn”, Đức Giêsu đã mạc khải về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi như căn nguyên và đích cùng của sự sống nhân thế. Ngài đã nói về Cha như Ngôi Thứ Nhất trong Ba Ngôi; Ngài nói về mình như Ngôi Thứ Hai xuất tự nơi Cha; và Thần Chân Lý là Ngôi Thứ Ba phát xuất từ Cha và Con. Mỗi Ngôi hoàn toàn tách biệt nhau, nhưng đều là một Chúa duy nhất, không Ngôi nào trỗi vượt hay kém thua Ngôi nào.
Nói cách khác, theo định nghĩa của Công đồng Tôlêđô năm 675: “Chúa Cha cũng là cái là Chúa con, Chúa Con cũng là Cái là Chúa Cha, Chúa Cha và Chúa Con cũng là cái là Chúa Thánh Thần, nghĩa là một Thiên Chúa duy nhất về bản tính.” Nhưng ba Ngôi hoàn toàn tách biệt nhau chứ không phải thông chia với nhau một thần tính duy nhất. Sự riêng biệt trong Ba Ngôi Thiên Chúa cũng có nghĩa là: “Ngôi Con không phải là Ngôi Cha; Ngôi Cha không phải là Con; và Thánh Thần không phải là Chúa Cha hoặc Chúa Con.”
Ba Ngôi tách biệt nhau nhưng lại tương quan vô cùng chặt chẽ. Điều đó có nghĩa là khi nói đến Cha tức phải có Con, không thể là Cha nếu không có Con. Rồi khi nói về Con nghĩa là đã có Đấng sinh nên mình chính là Chúa Cha. Tương quan Cha-Con và Con-Cha đã làm nên Ngôi Vị Thánh Thần.
Qua Thánh Kinh, không ít người Kitô hữu đã nhìn thấy Ngôi Cha như Đấng sáng tạo đất trời và con người, Ngôi Con là Đấng nhập thế cứu đời, và Ngôi Ba Thánh Thần là Đấng tiếp tục sứ mạng cứu độ của Ngôi Hai qua việc hiện diện, thánh hoá, và hướng dẫn Giáo hội cho đến ngày cánh chung. Nhìn như thế thì có vẻ như Ba Ngôi hoàn toàn tách rời nhau trong chương trình sáng tạo và cứu chuộc.
Đúng hơn, Ba Ngôi luôn “đồng hành” với nhau kể từ khi dựng nên vũ trụ cho đến khi viên thành mọi sự: Thiên Chúa Cha sáng tạo, nhưng luôn có Thần Khí “là là trên mặt nước” và Lời Sáng Tạo (Kn 1:1-3). Thiên Chúa Con cứu thế nhưng luôn được Chúa Cha ở cùng và được Thánh Thần hướng dẫn (Lc 3:21-22). Và trong công việc thánh hoá của Chúa Thánh Thần thì Ngài lại luôn truyền đạt cho nhân thế những gì của Đức Giêsu, mà những gì Đức Giêsu có đều là của Cha (Ga 16:15).
Trong bài Phúc âm Lễ Chúa Ba Ngôi năm nay, Chúa Thánh Thần được nhắc đến như Thần Chân Lý, Đấng sẽ nói cho các môn đệ tất cả những gì nhận được từ Đức Kitô, Đấng tự xưng mình là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Thực tế, Chúa Thánh Thần đang ban ơn trợ giúp Giáo hội khám phá và bước theo chân lý hầu được sống trong sự sống sung mãn của Chúa Ba Ngôi.
Một trong những ơn đặt biệt của Thần Chân Lý mà Thiên Chúa trao ban cho Giáo hội giữ gìn nguyên vẹn và truyền đạt trung thành các mạc khải của Đức Kitô là ơn vô ngộ hay còn gọi là ơn không thể sai lầm.
Đức Giáo hoàng được ơn vô ngộ đó, nhưng tất nhiên chỉ những khi Ngài quyết định “tự ngai toà” (ex Cathedra) với tư cách là thủ lãnh của toàn thể Giáo hội, để tuyên dạy những gì liên quan đến tín lý và luân lý. Các giám mục thông hiệp với Đức Giáo hoàng, chẳng hạn như trong các công đồng chung, để ấn định và truyền dạy những điểm giáo lý một cách vô ngộ, cũng được Chúa Thánh Thần ban cho ơn đó.
Những lần tuyên bố hay giáo huấn với tư cách vô ngộ thường là rất hiếm. Trong lịch sử Giáo hội, những vấn đề đã được xác định bằng ơn vô ngộ như: Bản tính Thiên Chúa, Thiên Chúa Ba Ngôi, Thiên thần, Ơn sủng, Sa ngã, Cứu chuộc, Nhân tính và Thiên tính của Đức Kitô, các Bí tích, Thiên đàng, Hoả ngục, Luyện tội, Đức Mẹ Vô Nhiễm. Trong thế kỷ vừa qua, năm 1950, Đức Thánh Cha Piô XII đã dùng đặc ân không thể sai lầm để tuyên bố về tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời.
Tất nhiên không phải lúc nào các Đức Giáo hoàng cũng đều sử dụng ơn vô ngộ. Trong khi giảng dạy bình thường, các ngài sẽ không hưởng ơn đó. “Tuy vậy, các giáo hữu vẫn buộc phải vâng lời các Ngài như một chiến sĩ phải vâng lệnh cấp trên mình mặc dầu cấp ấy không có ơn vô ngộ” (F. Lelotte).
Có những sắc lịnh không được phán đi “từ ngai toà”, nhưng nếu đó là những vấn đề liên quan đến tín lý, luân lý và được Giáo hội nắm giữ cùng giảng dạy từ lâu đời thì nó vẫn mang tính chất vô ngộ và buộc giáo dân đón nhận, ví dụ như việc răn dạy về tội ác của việc ngừa thai nhân tạo trong thông điệp Humanae Vitae hay việc truyền chức thánh chỉ dành cho phái nam trong thông điệp Ordinatio Sacerdotalis.
Người Kitô hữu chân chính sẽ luôn nhận thức rằng qua Giáo hội Thiên Chúa Ba Ngôi muốn truyền ban sức sống phong phú dồi dào cho con người. Chúa Thánh Thần không khi nào lại dùng Giáo hội để bóp nghẹt những gì là niềm vui, hạnh phúc, và bình an chân thật trong lòng nhân thế. Trái lại với ơn Chúa soi dẫn, Giáo hội đang là công cụ để đưa nhân loại đến với sự sống trọn vẹn trong tình yêu của Cha và Con và Thánh Thần.
Xác tín như thế, bạn và tôi hãy cùng can đảm học hỏi và vững vàng bước đi trong lối đường mà Giáo hội đã chỉ ra. Có được như vậy, chắc chắn lời đoan quyết của Chúa Giêsu, “Các điều ấy Ta đã nói với các ngươi rồi, ngõ hầu sự vui mừng của Ta có nơi các ngươi, và sự vui mừng của các ngươi được nên trọn,” sẽ viên thành trong cuộc đời của chúng ta.
Một đêm nào đó trời thanh mây tạnh, chúng ta hãy ra khỏi nhà, ngước mắt nhìn lên bầu trời. Chúng ta thấy gì? Chúng ta sẽ thấy các tinh tú hằng hà sa số, có cái sáng nhiều có cái sáng ít,có cái nằm riêng rẻ có cái ở trong một chùm sao.
Trong hằng hà sa số các tinh tú ấy, trái đất chúng ta chẳng đáng là gì cả. Một hành tinh nhỏ bé, rất nhỏ bé. Thế mà Thiên Chúa lại quan tâm đặc biệt đến hành tinh nhỏ bé này. Trong vô vàn tinh tú, chỉ có hành tinh nhỏ bé này được hai vinh dự vô cùng to lớn:
* Vinh dự to lớn thứ nhất là con người trên hành tinh nhỏ bé này được Thiên Chúa đặt làm chủ tể mọi loài trong vũ trụ rộng lớn bao la.
* Vinh dự to lớn thứ hai là không một hành tinh nào khác ngoài hành tinh này được Ngôi Hai Thiên Chúa đến cư ngụ. Chẳng những thế, Ngài còn chịu chết ở cái hành tinh nhỏ bé này nữa.
Tác giả Thánh Vịnh 8 đã ngỡ ngàng không hiểu nỗi tình yêu bao la của Thiên Chúa và hạnh phúc vô cùng của con người: “Khi tôi nhìn ngắm cõi trời, công cuộc tay Chúa tạo ra, mặt trăng và muôn tinh tú mà Chúa tôi gầy dựng, thì nhân loại là chi mà Chúa tôi nhớ đến, con người là gì mà Chúa để ý chăm nom. Chúa dựng nên con người chỉ kém thiên thần một chút. Chúa trang sức con người bằng danh dự với vinh quang. Chúa đặt con người cai trị các công trình tay Chúa tác thành. Chúa đặt muôn vật dưới chân con người.”
VÀI SUY NGHĨ VỀ THIÊN CHÚA LÀ CHA
a/ Thế nào là một người cha?
– Cha là kẻ yêu thương con mình bằng một tình yêu vô cùng quảng đại. Ngay cả trước khi đứa con sinh ra: vừa biết nó thụ thai thì đã yêu thương và nôn nóng chờ ngày nó sinh ra.
Ngay cả khi chưa biết sau này nó sẽ ra sao: chưa biết sau này nó đẹp hay xấu, thông minh hay ngu đần, khoẻ mạnh hay yếu ớt, tốt hay xấu, hiếu thảo hay ngỗ nghịch… Chỉ vì nó là con cho nên mình yêu thương nó.
– Cha là kẻ muốn cho con mình tất cả những gì mình có: Người cha nào cũng muốn đứa con khoẻ như mình, thông minh như mình, giỏi như mình, khéo như mình, có của cải địa vị như mình, hạnh phúc như mình… Thậm chí còn hơn mình… Và làm tất cả để đứa con được như thế.
– Cha là kẻ không bao giờ quên con và bỏ con: Chỉ có con quên cha và bỏ cha, chứ không hề có cha quên con và bỏ con. Dù đứa con ấy xấu xa và ngỗ nghịch đến đâu đi nữa, Cha vẫn yêu thương nó.
– Hạnh phúc và đau khổ của người Cha là do thấy con hạnh phúc hay đau khổ. Cha sung sướng khi thấy con vui, con khoẻ, con thành đạt… Cha đau buồn khi thấy con bất hạnh, khổ sở…
– Cha là kẻ lệ thuộc con: Yêu thương ai là lệ thuộc người ấy, là để cho người ấy có quyền trên mình, mình ở thế yếu đối với người ấy.
Trẻ con dù rất yếu ớt nhưng lại có quyền lực rất lớn trên cha mẹ. Do đó chúng nhõng nhẽo, đòi cái này cái nọ, giận không thèm ăn uống khi không được cho cái mà chúng đòi… Những yêu sách ấy của chúng đã làm cho cha mẹ phải “điêu đứng” khổ sở.
b/ Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu và là Cha của chúng ta
Tất cả những gì ta đã nói về người cha tự nhiên đều đúng với Thiên Chúa, và đúng một cách tuyệt đối, trọn vẹn:
– Cha là kẻ yêu thương con mình bằng một tình yêu vô cùng quảng đại: “Từ muôn đời Chúa đã yêu con”
– Cha là kẻ muốn cho con mình tất cả những gì mình có:
Sách Sáng thế nói Thiên Chúa dựng nên con người theo hình ảnh Ngài.
Tin Mừng Ga ghi lại lời Chúa Giêsu “Mọi sự của Cha là của Con” (Ga 17,10)
– Cha là kẻ không bao giờ quên con và bỏ con:
Điều này hoàn toàn và tuyệt đối đúng với Thiên Chúa: “Con người có thể sống không Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa không thể thôi làm Cha được” (Louis Evely).
Dụ ngôn người cha nhân hậu và đứa con hoang đàng minh họa điều này rất rõ.
– Hạnh phúc và đau khổ của người Cha là do thấy con hạnh phúc hay đau khổ.
“Thiên Chúa là người táo bạo nhất trong thiên hạ, bởi vì Ngài đã dám đặt tất cả hạnh phúc của mình trong hành vi yêu thương. Ngài đã để hạnh phúc mình tuỳ thuộc vào một kẻ khác” (Louis Evely)
– Cha là kẻ lệ thuộc con:
“Thiên Chúa là Cha, Cha cách trọn vẹn, hoàn toàn. Chúng ta thì khác, chúng ta chỉ là cha một ít thôi. Đồng ý rằng ta là cha của con cái chúng ta, nhưng chúng ta cũng còn lệ thuộc đủ mọi thứ khác như là công việc, nghề nghiệp, cuộc sống hôn nhân, những sở thích riêng tư, những thành công, những việc giải trí của mình, và chúng ta lại cũng còn lệ thuộc về chính mình nữa. Chúng ta không là cha cho đủ… Chỉ một mình Thiên Chúa mới là Cha mà thôi. Đối với Con của Ngài, Ngài đã hiến mình trọn vẹn. Nơi Ngài không còn có một phần nhỏ nhoi nào là quay trở về mình, là tìm “cái tôi” nữa” (Louis Evely)
* Tóm lại Thiên Chúa là Cha ở chỗ “Thiên Chúa chỉ biết yêu thương và trao ban. Ngoài ra Ngài không là cái gì khác nữa” (Louis Evely)
BA NGÔI THIÊN CHÚA, MỘT CỘNG ĐOÀN HIỆP NHẤT YÊU THƯƠNG
Người ta kể rằng: Thánh Augustin, một hôm đi bách bộ dọc bờ biển Địa Trung Hải, vừa đi vừa suy nghĩ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Bỗng nhiên Thánh nhân gặp một em nhỏ lấy vỏ sò múc nước đổ vào một cái lỗ. Đang còn ngạc nhiên về công việc luống công vô ích này, em bé đã trả lời: việc em múc hết nước biển đổ vào lỗ nhỏ, còn dễ hơn điều mà Thánh nhân suy nghĩ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Rồi em bé biến đi.
Nhớ lại lớp giáo lý xa xưa, ở đó, Chúa Ba Ngôi được ví như một hình tam giác đều, có ba góc bằng nhau. Hay chúng ta cũng được nghe so sánh Chúa Ba Ngôi với nước ở ba thể: khí, lỏng và rắn… Tuy nhiên, tất cả những lối so sánh ấy dường như quá khô khan, vì không phản ánh một cách trung thực và sống động hình ảnh thật sự của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Cách đây vài năm, vào ngày cuối của khoá học về Chúa Ba Ngôi, cha giáo sư hỏi chúng tôi:
– Bây giờ các anh chị đã hiểu mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi chưa?
Gần như cả lớp đồng thanh:
– Thưa cha hiểu.
Cha bật cười:
– Vậy thì các anh chị giỏi hơn tôi rồi!
Dĩ nhiên, con người giới hạn của chúng ta không thể hiểu thấu mầu nhiệm quá siêu vượt này, nhưng để sống, lại là điều hoàn toàn có thể. Mầu nhiệm Ba Ngôi chính là hình ảnh rất thân quen, rất gần gũi nếu nhìn Ba Ngôi dưới khía cạnh tình yêu. Vâng, Ba Ngôi Thiên Chúa chính là một cộng đoàn hiệp nhất yêu thương. Tình yêu ấy đã không giữ lại cho mình, nhưng đổ tràn vào trần gian. Một tình yêu tràn ngập vũ trụ khi Thiên Chúa Cha dựng nên con người theo hình ảnh của Ngài; là tình yêu cứu độ, thứ tha qua cái chết nhục nhằn của Chúa Con chí thánh; là tình yêu thánh hóa, đổi mới trong Thánh Thần. Thánh Gioan đã định nghĩa: Thiên Chúa là tình yêu. Một tình yêu chan hòa, chia sẻ giữa Ba Ngôi: Cha trao cho Con tất cả, Con dâng tất cả cho Cha, tình yêu khắng khít giữa Cha-Con là Thánh Thần. Tình yêu chân thực là tình yêu hiến trao, không phải chỉ là trao quà tặng hay cái gì đó ở bên ngoài mình, nhưng là trao đi điều quý nhất: “Thiên Chúa yêu thế gian, đến nỗi tặng ban cả Con Một…”
Thiết nghĩ không có hình ảnh nào diễn tả đẹp hơn mầu nhiệm Ba Ngôi cho bằng hình ảnh một gia đình: vợ chồng yêu thương nhau và con cái là kết tinh của tình yêu.” Mình với ta tuy hai mà một… Ta thương nhau quá nên hai hóa ra thành một”. Dù là hai, bốn, mười hoặc nhiều hơn đi nữa, nhưng gia đình, cộng đoàn chúng ta sẽ thực sự phản ánh sự hiện diện của Thiên Chúa Ba Ngôi, nếu chúng ta chỉ có một trái tim để yêu thương, một niềm vui để chia sẻ, một nỗi buồn để cảm thông nâng đỡ, một khát vọng nên thánh… Tiếc rằng ngày nay, nhiều gia đình, cộng đoàn đã không còn là tổ ấm, nhưng biến thành nhà trọ: khách đến rồi khách lại đi, chẳng cần biết những người thân yêu của mình đang nghĩ gì, làm gì, cần gì và sống như thế nào! Đời sống gia đình nặng nề, khó thở và tẻ nhạt, bởi vì nơi ấy đã không còn tình yêu nữa.
Chợt nhớ lại câu chuyện khá ngộ nghĩnh xảy ra tại một cộng đoàn các sư huynh ở Việt Nam. Cộng đoàn gồm ba vị, người Việt mình thường quen gọi là các “phe” (frère). Lần kia, một nhân viên của sở bưu điện đem thư đến, vừa giao thư vừa lẩm bẩm: “Nhà có ba người thì ba phe, sống chó gì được!” (chỉ là vì trên bì thư, người gởi viết: Kính gởi phe M., phe H., phe B.). Thật là một sự hiểu lầm tai hại!
Chúng ta sẽ mãi còn xa lạ với mầu nhiệm Ba Ngôi, nếu chúng ta còn xa lạ với tình yêu được bắt đầu ngay trong gia đình, cộng đoàn. Gia đình, cộng đoàn chúng ta hãy trở thành một bản nhạc du dương hòa điệu, trong đó mỗi người là một nốt nhạc đã được Thiên Chúa đặt để. Xin đừng tự ý thăng giáng, cũng đừng thay đổi vị trí, vai trò của mình. Hãy sống đúng bổn phận Chúa trao, và như thế, mọi việc chúng ta làm đều bắt nguồn và quy hướng về tình yêu, tình yêu của mầu nhiệm Ba Ngôi mà mỗi ngày chúng ta lặp lại nhiều lần khi làm dấu thánh giá: Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. (Sr Têrêsa, trích từ Vietcatholic)
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
Trong các bổn phận chính mà người Kitô hữu phải làm, việc trước tiên là tin những gì Thiên Chúa truyền và Giáo Hội thay mặt Chúa dạy. Trong những điều phải tin, quan trọng hơn cả là các sự Mầu nhiệm, trong đó có Mầu nhiệm Một Thiên Chúa Ba Ngôi mà chúng ta mừng lễ hôm nay.
Trong bài suy niệm này, xin được gởi mở mấy điểm sau đây: Mầu nhiệm là gì? Nội dung Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là gì? Chính Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta biết Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi? Ta có bổn phận nào đối với Thiên Chúa Ba Ngôi?
Mầu nhiệm, là những sự thật siêu nhiên vượt quá khả năng hiểu biết của con người. Nhìn nhận có những mầu nhiệm không phải là phủ nhận trí khôn của con người, nhưng trái lại là chấp nhận trí khôn của con người thua kém sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
Một hôm, Thánh Augustinô đi dạo trên bãi biển giữa cảnh trời đất bao la, biển rộng mênh mông suy nghĩ về Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Bỗng Ngài thấy một em bé trai đang loay hoay chạy đi chạy lại, tay cầm một cái vỏ sò chạy đi múc nước biển đổ vào một cái lỗ nhỏ trên cát.
Dừng lại quan sát em bé hồi lâu, Thánh nhân liền đến hỏi:
– Bé ơi! bé đang làm gì đó?
– Cháu muốn múc hết nước biển đổ vào cái lỗ này cho đầy.
Thánh nhân nhìn em bé mỉm cười dịu dàng nói:
– Cháu không thể làm như vậy được đâu!
– Chú bé đáp lại: Vậy mà cháu làm việc này còn dễ hơn việc ông đang nghĩ.
Nói xong, chú bé biến mất.
Lúc này thánh nhân mới bừng tỉnh và nhận ra rằng: Thiên Chúa nhắc cho biết trí khôn loài người không thể nào hiểu thấu đáo hết được Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.
Một là trong Thiên Chúa có ba ngôi khác biệt nhau. Hai là mỗi một ngôi cũng là Thiên Chúa. Ba là ba ngôi đều bằng nhau. Bốn là ba ngôi chỉ làm thành một Thiên Chúa.
Vì là mầu nhiệm nên chúng ta không thể hiểu. Tuy không hiểu, nhưng chúng ta tin, vì Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta.
Thời Cựu Ước, khi nhân loại chưa sẵn sàng đón nhận, nên Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi chưa được tỏ bày một cách rõ rệt, có chăng thì cũng chỉ tỏ bày một cách mờ nhạt. Chẳng hạn, tiên tri Isaia nghe được tiếng các Thiên thần ca tụng Thiên Chúa rằng: “Thánh, Thánh, Thánh…Chúa là Thiên Chúa các đạo binh” (x. Is 6,3). Trong sách Sáng Thế cũng tường thuật lại việc Thiên Chúa tạo dựng con người rằng: “Chúng ta hãy dựng nên con người giống hình ảnh chúng ta…” (St 1,26). Cụm từ “Chúng ta” ở số nhiều, có ý chỉ về Thiên Chúa Ba Ngôi.
Sang thời Tân Ước, khi nhận thấy con người đã sẵn sàng đón nhận, nên Chúa Giêsu đã mạc khải Mầu nhiệm này một cách rõ ràng, có khi mặc khải từng ngôi vị, có khi mạc khải hai ngôi vị, có khi mạc khải cả ba ngôi vị.
Mạc khải từng ngôi một:
Hai dẫn chứng tiêu biểu sau đây, Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta về Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Mt 11,25-26); “Lạy Cha, sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giê-su Ki-tô” (x. Ga 17,1; 3).
Chúa Giêsu cũng mạc khải cho chúng ta về Chúa Con, khi Ngài xác nhận lời tuyên xưng của Phêrô: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (x. Mt 16,13-18). Ngài còn tự nhận mình là Con Thiên Chúa và ngang bằng với Thiên Chúa (Ga 10, 22-39).
Chúa Giêsu cũng cho chúng ta biết có một Đấng Bảo Trợ khác đó là Chúa Thánh Thần (x. Ga 16,5-10), Ngài được sai đến để trợ giúp và thánh hoá chúng ta (x. Ga 16,13-15).
Mạc khải cả ba ngôi Thiên Chúa:
Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan: “Đang khi Người cầu nguyện, thì trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” (x. Lc 3,21-22).
Ngày Chúa Giêsu lên trời, Ngài dạy các Tông đồ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19).
Chúa Cha đã dựng nên chúng ta, Chúa Con đã cứu chuộc chúng ta và Chúa Thánh Thần thánh hoá chúng ta. Mỗi người Kitô hữu chúng ta đều mang ơn Thiên Chúa Ba Ngôi và luôn cần đến Ngài. Vì vậy, để tỏ lòng tôn kính, chúng ta cần phải làm những việc sau đây:
Thứ nhất, luôn giục lòng tin có Chúa Ba Ngôi ngự trong linh hồn ta, luôn cầu nguyện và kết hiệp với Ngài, sống đúng với lương tâm ngay thẳng, xa tránh các tội lỗi, làm nhiều việc lành…Để xứng đáng là đền thờ Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị.
Thứ hai, hãy năng làm dấu Thánh giá, làm một cách cung kính: Làm dấu Thánh giá trước khi đi ngủ, khi vừa mới thức dậy; Làm dấu Thánh giá trước và sau khi ăn cơm, trước và sau các giờ kinh nguyện; Đặc biệt khi gặp sự khốn khó, khi bị cám dỗ về đàng trái…Hãy làm dấu thánh giá để kêu cầu Thiên Chúa Ba Ngôi phù trợ và gìn giữ chúng ta. Thánh Antôn lần kia đang cầu nguyện thì bị cám dỗ về đàng trái, Ngài lấy lòng sốt sắng vạch hình thánh giá trên nền nhà thờ, lập tức hình thánh giá in đậm trên nền nhà thờ và ma quỷ bỏ chạy, còn Ngài được thoát khỏi cơn cám dỗ.
Thứ ba, hãy bắt chước Thiên Chúa Ba Ngôi sống hiệp nhất yêu thương. Tuy Chúa Cha là Đấng Tạo Dựng, Chúa Con là Đấng Cứu Chuộc, Chúa Thánh Thần là Đấng Thánh Hoá. Nhưng trong việc tạo dựng, cứu chuộc và thánh hoá đều có sự hiện diện của Ba Ngôi. Chúa Giêsu đã từng nói: “Thầy với Chúa Cha là một” (Ga 10,30); “Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy” (Ga 16,15); “Tất cả những gì của Con đều là của Cha, tất cả những gì của Cha đều là của Con” (Ga 17,10). Trước khi về trời, Ngài khẩn thiết cầu xin Chúa Cha cho các môn đệ và những người theo Ngài được hiệp nhất nên một với nhau (x. Ga 17, 21-23). Vậy, chúng ta hãy noi gương Thiên Chúa Ba Ngôi biết sống hiệp nhất yêu thương: Hiệp nhất nên một giữa vợ chồng; Hiệp nhất giữa các thành viên trong gia đình: “Chính sự hiệp thông mật thiết trong gia đình Kitô giáo là hình ảnh hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa” (Thư chung HĐGMVN 2002, số 6); Hiệp nhất giữa các thành viên trong cộng đoàn; Hiệp nhất giữa mọi thành phần trong Hội Thánh. Thánh Phaolô dạy: “Bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Kitô, đều mặc lấy Đức Kitô. Không còn chuyện phân biệt Dothái hay Hylạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô” (Gl 3, 27-28). Trong bài giảng sáng ngày 12-5 vừa qua, tại Nguyện đường Nhà trọ Thánh Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Sự hiệp nhất của cộng đoàn Kitô, của gia đình Kitô, là một lời chứng cho sự thật rằng Chúa Cha đã gởi Con mình đến thế gian”.
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh, xin cho chúng con luôn biết tin kính và yêu mến Chúa. Xin cho moi thành phần trong Hội Thánh luôn biết cộng tác với nhau, sống hiệp nhất yêu thương để càng ngày càng diễn tả rõ nét hình ảnh hiệp nhất của Thiên Chúa Ba Ngôi trong gia đình, trong cộng đoàn giáo xứ và Giáo Hội. Amen.
Một vị vua kia đến cuối cuộc đời cảm thấy buồn chán. Ông nói: “Suốt đời ta, ta đã cảm thụ được tất cả những gì mà một con người có thể cảm thụ được bằng các giác quan. Nhưng vẫn còn một điều ta chưa được thấy, đó là ta chưa thấy Chúa. Bây giờ nếu ta chỉ được nhìn thấy Chúa một thoáng thôi thì ta cũng sẽ mãn nguyện mà chết”. Nhà vua tham khảo ý kiến những bậc khôn ngoan, hứa cho họ đủ thứ phần thưởng nếu họ giúp ông thực hiện điều mơ ước ấy. Nhưng chẳng ai giúp được.
Thế rồi có một chàng chăn cừu nghe chuyện trên và tìm đến gặp nhà vua. Chàng nói: “Có lẽ hạ thần có thể giúp Bệ Hạ được”. Nhà vua rất sung sướng theo người chăn cừu leo lên nhiều ngọn đồi. Khi đến đỉnh một ngọn đồi nọ, người chăn cừu đưa tay chỉ mặt trời và bảo: “Hãy xem kìa”. Nhà vua ngước mắt nhìn lên nhưng liền nhắm lại ngay vì chói quá. Ông bảo: “Nhà ngươi muốn cho ta mù sao!” Người chăn cừu đáp: “Tâu Bệ Hạ, đây chỉ mới là một phần nhỏ của vinh quang Thiên Chúa mà Bệ Hạ còn nhìn không nổi. Thế thì làm sao Bệ Hạ có thể nhìn được Thiên Chúa bằng cặp mắt bất toàn của Bệ Hạ? Bệ Hạ phải tìm cách nhìn Ngài bằng cặp mắt khác”.
Nhà vua rất thích ý tưởng ấy, nói: “Ta cám ơn ngươi đã mở cắp mắt trí khôn của ta. Bây giờ hãy trả lời cho câu hỏi khác của Ta: Thiên Chúa sống ở đâu?” Người chăn cừu lại đưa tay chỉ lên trời: “Bệ Hạ hãy nhìn những con chim đang bay kia. Chúng sống trong bầu không khí bao quanh. Chúng ta cũng thế, chúng ta sống trong sự bảo bọc của Thiên Chúa. Xin Bệ Hạ đừng tìm kiếm nữa, mà hãy mở rộng mắt ra để nhìn, mở tai ra để nghe. Thế nào Bệ Hạ cũng thấy được Ngài. Thiên đàng ở ngay dưới chân chúng ta cũng như ở ngay trên đầu chúng ta”.
Nhà vua dừng bước, cố gắng nhìn, cố gắng lắng nghe. Thế là một cảm giác bình an lộ rõ trên khuôn mặt buồn thảm của ông. Người chăn cừu nói tiếp: “Tâu Bệ Hạ, còn một điều nữa”. Rồi chàng dẫn nhà vua đến một cái giếng. Nhà vua nhìn xuống mặt nước bằng phẳng, hỏi: “Ai sống dưới đó thế?” Người chăn cừu đáp: “Thiên Chúa”. “Ta có thể nhìn thấy Ngài không?” “Được chứ, Bệ Hạ chỉ cần nhìn”. Nhà vua chăm chú nhìn xuống giếng, nhưng chỉ thấy gương mặt của mình phản chiếu trên mặt nước. Ông nói: “Ta chỉ thấy mặt Ta thôi”. Người chăn cừu giải thích: “Bây giờ thì Bệ Hạ đã biết Thiên Chúa sống ở đâu rồi. Ngài sống trong Bệ Hạ đó”.
Nhà vua nhận ra rằng người chăn cừu khôn ngoan và giàu có hơn ông. Ông cám ơn chàng và trở về hoàng cung. Chẳng ai biết ông có nhìn thấy Thiên Chúa không, nhưng ai cũng nói rằng có một điều gì đó đã biến đổi trái tim ông, bởi vì từ đó trở đi ông đối xử rất nhân hậu với mọi người, kể cả người đầy tớ hèn hạ nhất của ông.
Thiên Chúa ở khắp chung quanh chúng ta. Nhưng chừng nào chúng ta chưa khám phá Ngài ở ngay trong lòng chúng ta thì Ngài như vẫn còn ở xa, vẫn như một người lạ thờ ơ vô tình. Còn khi chúng ta cảm nhận Ngài ở trong chúng ta thì không bao giờ chúng ta còn cảm thấy cô đơn nữa, và khi đó chúng ta sẽ nhìn thấy thiên nhiên là một công trình của một Đấng Nghệ Sĩ thân thiết của chúng ta.
Thiên Chúa Ba Ngôi vừa ở trong chúng ta vừa siêu vượt chúng ta. Đúng là một mầu nhiệm, nhưng là một mầu nhiệm tình yêu. (FM)
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
Người Châu Phi có một câu chuyện sau đây về Thiên Chúa: Một hôm Thiên Chúa đi thăm châu lục rộng lớn này và Ngài thấy có một bộ lạc bị mất đức tin. Thế là Ngài hiện ra giữa một mảnh ruộng đang có 4 người làm việc, mỗi người một góc. 4 người này thấy Chúa hiện ra giữa mảnh ruộng. Họ chăm chú nhìn Ngài rồi phục mình thờ lạy.
Sau đó Thiên Chúa biến hình rồi xem sự việc sau dó diễn tiến thế nào. 4 người kia chạy vào làng và nói rằng: đúng là có Thiên Chúa vì họ đã thấy Ngài hiện ra. Từ này về sau chúng ta đừng sống vô thần nữa mà phải lo thờ phượng Chúa. Mọi người nghe đều tin là Thiên Chúa đã hiện ra thật. Nhưng một người hỏi: “Thế thì Thiên Chúa mặc áo màu gì?”
– Ngài mặc áo đỏ. Người thứ nhất trả lời.
– Không, Ngài mặc áo xanh. Người thứ hai cãi lại.
– Hai đứa bây sai cả. Ngài mặc áo màu lục. Người thứ ba nói thế.
– Tất cả đều điên hết rồi. Người thứ tư la to. Ngài mặc áo vàng.
Thế là mọi người cãi nhau chí choé, rồi ấu đả nhau. Cuối cùng bộ lạc chia thành 4 phe.
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy mọi người dân bộ lạc ấy đều sai lầm. Thực ra mỗi người chỉ thấy một thoáng về Thiên Chúa. Lẽ ra mỗi người phải biết rằng mình chỉ thấy được một phần thì họ cho rằng họ thấy toàn vẹn. Nếu như họ biết lấy cái nhìn của người khác để bổ sung cho cái nhìn của mình thì họ sẽ có một hình ảnh đầy đủ và phong phú hơn về Thiên Chúa.
Thiên Chúa lớn hơn tất cả chúng ta. Chúng ta không bao giờ hiểu biết trọn vẹn về Ngài. Để hiểu biết những sự dưới thế chúng ta còn phải cố gắng rất nhiều, thế thì làm sao chúng ta nắm bắt được những sự trên trời. Chỉ có ơn ban khôn ngoan mới giúp chúng ta hiểu được đường lối của Thiên Chúa. Con người có thể biết những chân lý đức tin, nhưng không thể hiểu biết chính Thiên Chúa.
Cần phải có một hình ảnh đúng đắn về Thiên Chúa, nếu không thì mọi sự sẽ lạc hướng cả. Làm sao chúng ta có thể thờ phượng Ngài cho phải đạo hoặc có một liên hệ đúng đắn với Ngài nếu chúng ta có một hình ảnh sai lạc về Ngài?
Muốn biết Thiên Chúa là thế nào, chúng ta hãy nhìn vào Chúa Giêsu, vì, như Thánh Phaolô nói, “Ngài là hình ảnh Thiên Chúa vô hình”. Vậy, Chúa Giêsu ra sao? Trong mọi hình ảnh Chúa Giêsu, hình ảnh đẹp nhất là Mục Tử nhân lành. Chính Chúa Giêsu đã mô tả mình bằng hình ảnh này. Chúa Giêsu là Mục tử nhân lành, hiến mạng sống mình cho đàn chiên. Trong hình ảnh Chúa Giêsu, chúng ta thấy được tình thương Thiên Chúa dành cho chúng ta.
Còn Chúa Thánh Thần thì thế nào? Chúa Thánh Thần chính là tình thương giữa Chúa Cha với Chúa Con, và giữa các Đấng với chúng ta.
Mầu nhiệm Ba Ngôi không phải là vấn đề để tranh luận, cũng không phải là vấn đề để học biết, mà là để cầu nguyện và để sống. Kitô hữu sống trong thế giới của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Thế giới này không phải là một thế giới ở đâu xa xôi, mà chính là thế giới mà ta sống hằng ngày. Như câu chuyện của Châu Phi vừa kể phía trên, thế giới ấy là thế giới mà Thiên Chúa tỏ mình ra cho chúng ta. (FM)
Trong một vài phút ngắn ngủi này, chúng ta cùng nhau suy nghĩ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi.
Trước hết là Ngôi Cha.
Trong Cựu ước, dân Do Thái là một gia đình có Thiên Chúa là cha. Ngài là đấng đã tuyển chọn quan phòng và chăm sóc đến những nhu cầu của họ.
Trong Tân ước, Chúa Giêsu đã nhiều lần mạc khải cho chúng ta biết về Thiên Chúa Cha. Ngài là Cha của mọi người. Ngài yêu thương chăm sóc và ban thưởng cho những việc lành chúng ta làm. Ngài tha tội và nêu gương thánh thiện. Tương quan của mỗi người đối với Chúa là lòng hiếu thảo rập theo khuôn mẫu của Đức Kitô.
Đức Kitô đã làm việc nhân danh Chúa Cha. Giáo lý của Đức Kitô là bởi Chúa Cha. Đức Kitô vâng theo thánh ý Chúa Cha và hoàn tất mọi việc Chúa Cha trao phó.
Thiên Chúa là Cha. Trong các tôn giáo, liệu có vị thần nào dám mạc khải mình như thế không. Chúng ta có hãnh diện vì được một Thiên Chúa ở gần và yêu thương như một người Cha. Có lẽ nhiều người trong chúng ta chưa kinh nghiệm được tình phụ tử, và chúng ta tự hỏi:
– Tại sao người công chính lại gặp phải tai ương hoạn nạn, còn đứa ác nhân lại gặp nhiều may mắn.
Trước hết, chúng ta phải hiểu rằng Thiên Chúa là tình yêu, Ngài làm mưa trên người lành cũng như trên kẻ dữ. Ngài muốn tỏ ra nhân hậu với mọi người cho đến khi sự công bằng được tỏ hiện trong ngày sau hết. Còn với người lành gặp nhiều tai ương, Chúa cũng vẫn tỏ lòng từ nhân. Ngài muốn họ vững lòng cậy trông vào Ngài, đồng thời hãy can đảm và kiên trì vì kiên trì trong gian truân sẽ đưa đến hạnh phúc nước trời.
Sống trong những khó khăn thử thách chúng ta cần xét đến một lý do nữa, Thiên Chúa thử thách con cái Ngài để xem họ có bằng lòng vâng phục hay không? Vì vâng lời trọng hơn của lễ. Chúa đặt chúng ta vào trong hoàn cảnh nan giải để xem đức tin của chúng ta đã trưởng thành hay chưa?
Một người cha thật thì phải biết giáo dục và uốn nắn con cái chứ không được nuông chiều. Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi. Gương ông Giob đã chứng tỏ cho thấy một đức tin không nao núng trước nghịch cảnh. Cách giải quyết tốt đẹp nhất là tin tưởng và phó thác cho tình thương của Chúa.
Tiếp đến là Ngôi Con.
Sau khi nguyên tổ phạm tội thì nhân loại sống dưới ách tội lỗi. Con người không thể tự mình giải thoát vì tội là sự xúc phạm đến Thiên Chúa, cho nên cần phải có một Đấng cứu thế, đó là chính Ngôi Hai Thiên Chúa mới có đủ thẩm quyền cứu độ chúng ta.
Về Ngôi Hai chúng ta cần biết một vài điểm cốt yếu: Ngài vừa là Thiên Chúa vừa là con người. Ngài là Đấng vô tội đã mặc lấy thân phận tội nhân để cứu chuộc chúng ta. Ngài là đường, là sự thật, là sự sống. Ngài đã thiết lập Giáo hội và trao ban cho Giáo hội các bí tích để tiếp tục công cuộc cứu độ cho đến tận cùng thời gian.
Sau cùng là Chúa Thánh Thần.
Khi sứ mạng Chúa Giêsu hoàn tất, Ngài về trời và sai Chúa Thánh Thần đến trong ngày Hiện xuống để thánh hóa chúng ta và hướng dẫn Giáo hội.
Về những việc làm của Chúa Thánh Thần chúng ta ghi nhận: Ngài thánh hóa chúng ta, hồi sinh những tâm hồn tội lỗi. Ngài ngự trong chúng ta và trong Giáo hội. Giúp Giáo hội đào sâu chân lý và trang điểm Giáo hội bằng muôn ơn sủng để trở thành hiền thê của Đức Kitô.
Ngài nâng đỡ và ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nguy thử thách, giúp đỡ chúng ta chống lại những dục vọng sai trái. Ngài cầu nguyện thay cho chúng ta là những kẻ yếu hèn. Trong những giờ phút u tối, đừng bao giờ mất lòng cậy trông, hãy chạy đến với Chúa Thánh Thần, Ngài sẽ soi sáng và thêm sức, Ngài làm cho tâm hồn chúng ta dịu lại trước thánh ý Thiên Chúa…
Khi nói về Thiên Chúa Ba Ngôi, ta quen thuộc với những hình ảnh Chúa Cha là Đấng tạo dựng, Chúa Con là Đấng cứu chuộc và Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hóa. Quả thực Ba Ngôi gắn liền với cuộc đời và số phận của ta. Nhưng trong thần học của Tin Mừng Gio-an, Chúa Ba Ngôi thường được diễn tả qua mối liên hệ sống động với ta, đặc biệt trong việc Thiên Chúa tỏ ra những gì Người muốn ta tiếp nhận hoặc lắng nghe. Thánh sử Gio-an gọi tất cả những điều Thiên Chúa muốn cho ta biết qua Chúa Giêsu là sự thật toàn vẹn. Đoạn Tin Mừng hôm nay giúp ta suy niệm những công việc của Ba Ngôi làm để ta nhận ra được “mọi kích thước dài rộng cao sâu và nhận biết tình thương của Đức Kitô, là tình thương vượt qua sự hiểu biết” (Ep 3:18).
1) “Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Dt 1:2)
Giữa Thiên Chúa và con người có một khoảng cách vô biên, ta không thể tự sức mình biết được những gì về Thiên Chúa nếu chính Người không tỏ ra cho ta. Tuy nhiên, Chúa đã nối liền khoảng cách ấy bằng cách sử dụng một số người được tuyển chọn để nói thay cho Người. Họ là các vị ngôn sứ, chuyển đạt cho ta những điều Thiên Chúa muốn mặc khải bằng ngôn ngữ loài người. Nhưng ngôn ngữ loài người có giới hạn, nên mặc dù Thiên Chúa đã “nhiều lần nhiều cách” (Dt 1:1) nói với con người qua các vị ngôn sứ, các vị ấy vẫn không thể diễn đạt được hết những gì Thiên Chúa muốn nói. Kinh Thánh Cựu Ước là sưu tập những điều Thiên Chúa “phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ”, nói về những gì Thiên Chúa làm cho ta và những gì ta phải thực thi để sống xứng đáng là con cái Người. Thế mà kết quả của những lần “nói thay Thiên Chúa” chẳng là bao. Thiên Chúa đã thay đổi đủ kiểu đủ cách để củng cố mối quan hệ mà con người vẫn xa dần.
Chẳng lẽ Thiên Chúa phải thất bại? Không bao giờ. Thiên Chúa còn một cách cuối cùng, Người sử dụng cách ấy “vào thời sau hết này”. Đó là Người dùng chính Ngôi Lời để nói với nhân loại. Không phải nói bằng Lời uy quyền như ta thường nghe trong Cựu Ước: “Chúa phán”, nhưng bằng lời thông thường của con người dùng để nói với nhau. Không phải bằng Lời từ trời cao vọng xuống cõi trần, nhưng là Lời “đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1:14). Từ đây, Thiên Chúa nói với ta bằng toàn bộ ngôn ngữ loài người, từ tiếng nói bập bẹ của trẻ thơ tới lời lẽ của người lớn, từ những cử chỉ nhỏ nhặt cho tới tất cả lối sống, để cho con người thấy thế nào là kiếp người, thế nào là một người con Thiên Chúa. Trong ba năm rao giảng Tin Mừng, Lời đã trở thành những bài giảng đơn sơ dễ hiểu, nhưng chứa đựng những chân lý ngàn đời, bày tỏ những mầu nhiệm của Thiên Chúa. Nhưng đặc biệt nhất, ngôn ngữ của Chúa Giêsu là ngôn ngữ của yêu thương, diễn tả không chỉ bằng lời nói, nhưng bằng những nghĩa cử đầy tình yêu, yêu Thiên Chúa và yêu tha nhân đến chết trên thập giá. Đó là tột đỉnh của ngôn ngữ Thiên Chúa muốn nói với nhân loại: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một.
2) “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em”
Cả một đời Chúa Giêsu là để nói lên sự thật toàn vẹn rằng Thiên Chúa yêu thương nhân loại. Nhưng bây giờ vào lúc Người đang đàm đạo với môn đệ trước khi chịu cuộc Thương Khó, sự thật toàn vẹn vẫn chưa được tỏ lộ. Nó chỉ được tỏ lộ đầy đủ khi Chúa Giêsu chết trên thập giá để minh chứng Thiên Chúa yêu thương nhân loại đến mức độ nào.
Tất cả những giáo lý và mặc khải Thiên Chúa muốn dạy con người đã được trình bày qua lời giảng và lối sống của Chúa Giêsu. Nhưng Chúa lại nói Người còn nhiều điều phải nói với môn đệ, vậy “nhiều điều” ấy là gì? Là tất cả những gì sẽ xảy ra trong cuộc Thương Khó, cái chết, sự sống lại và vinh hiển của Người. Tóm lại là ý nghĩa của mầu nhiệm Kitô, một mầu nhiệm cần phải được thấm nhập vào ta, biến đổi ta thành “dưỡng tử” của Thiên Chúa và “đồng thừa tự” với Đức Kitô.
Mầu nhiệm Đức Kitô không chỉ là một mầu nhiệm đem ra học hỏi như một môn học thuần lý, nhưng là một mầu nhiệm thực hành để suy niệm, chiêm ngưỡng và sống, như thánh Phao-lô đã nêu gương. “Với tôi, sống là Đức Kitô”, hoặc “Tôi sống, nhưng không phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi”. Mầu nhiệm Kitô là lời Thiên Chúa muốn nói với nhân loại và nhân loại có bổn phận phải lắng nghe và đón nhận, giống như “hạt giống rơi nhằm đất tốt nên sinh hoa kết quả: hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục” (Mt 13:8).
3) “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn”
Chúa Cha nói với ta. Chúa Con là tất cả những điều Chúa Cha nói với ta. Nhưng làm sao ta hiểu được những điều Chúa Cha nói, đó là vai trò của Chúa Thánh Thần.
Chúa Cha phán dạy ba môn đệ trên núi Ta-bô-rê: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9:7). Hãy vâng nghe lời Người nghĩa là nghe Người dạy dỗ, nhưng nhất là biết nhìn nhận ra sứ mệnh cứu thế của Người và tin vào Người. Chúa Cha cũng đã nhắc nhở điều này: “Để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3;16). Các môn đệ đã đi theo Chúa Giêsu một thời gian khá dài. Vậy mà các ông vẫn không nhận rõ thân thế, sự nghiệp và sứ mệnh của Người. Các ông phải đợi tới khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, “xuất hiện những hình lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần” (Cv 2:3-4), dần dần các ông mới thấu hiểu được “nhiều điều khác” Chúa Giêsu chưa thể nói vì các ông “không có sức chịu nổi” (Ga 16:12).
Vai trò của Chúa Thánh Thần là giúp ta hiểu Lời của Thiên Chúa, tức là tất cả những điều Kinh Thánh đã được ứng nghiệm nơi con người Đức Kitô. Chúa Thánh Thần không chỉ hoạt động khi linh hứng cho các tác giả viết xuống lời Chúa, nhưng vẫn tiếp tục hoạt động nơi ta khi ta đọc và suy niệm lời Chúa. Tuy nhiên, hiểu lời Chúa không chỉ bằng trí óc, mà phải hiểu bằng đời sống của ta. “Ai đến với Thầy, và nghe những lời Thầy dạy mà đem ra thực hành, thì Thầy sẽ chỉ cho anh em biết người ấy ví được như một người khi xây nhà đặt nền móng trên đá” (Lc 6:47-48). Lời Chúa nếu không được Chúa Thánh Thần tác động thì cũng chỉ trơ trơ ra đó, không ích lợi gì cho ta. Tuy nhiên, Chúa Thánh Thần chỉ đưa ta “tới sự thật toàn vẹn” khi ta cộng tác với sự hướng dẫn của Người. Tiếp nhận trong thái độ mở lòng là công việc của ta, còn làm cho Lời sinh hoa kết quả là công việc của Chúa Thánh Thần.
Chỉ bảo dạy dỗ ta là công việc linh hoạt của Ba Ngôi Thiên Chúa, mục đích giúp ta được dần dần biến đổi thành tạo vật mới để “được sống muôn đời”. Chúa Cha nói với ta mọi giây mọi phút trong cuộc đời, Chúa Con hiện diện với ta “mọi ngày cho đến tận thế” và Chúa Thánh Thần đang trên đường dẫn ta “tới sự thật toàn vẹn”. Một cách đặc biệt, Thiên Chúa Ba Ngôi đang sống trong ta, nhưng liệu ta có “sống” mầu nhiệm Ba Ngôi hay không thì lại là vấn đề khác.
4) Suy nghĩ và cầu nguyện
Ba Ngôi Thiên Chúa là một mầu nhiệm. Vậy tôi đã tránh né không nghĩ đến vì không thể hiểu, hay vì tôi không nhận ra khía cạnh thực hành?
Tôi có xác tín mình cần “nghe” được tất cả những gì Thiên Chúa muốn “nói” với tôi qua Chúa Kitô và “hiểu/sống” những điều ấy nhờ Chúa Thánh Thần không? Toi sẽ làm gì để nghe và thực hành lời Chúa?
Cầu nguyện
“Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi là Đấng con tôn thờ,
xin giúp con quên mình hoàn toàn
để ở lại trong Chúa,
lặng lẽ và an bình
như thể hồn con đã sống trong vĩnh cửu.
lạy Đấng thường hằng bất biến,
mong sao không gì có thể khuấy động sự bình an của con, hay làm cho con ra khỏi Chúa;
nhưng ước chi mỗi phút lại đưa con
tiến xa hơn vào chiều sâu của mầu nhiệm Chúa!
Xin làm cho hồn con bình an thanh thản,
xin biến hồn con thành chốn trời cao,
thành nơi cư ngụ dấu yêu của Chúa,
nơi Chúa nghỉ ngơi.
Ước chi
con không bao giờ để Chúa ở đó một mình
nhưng con luôn có mặt, với trọn cả con người,
với thái độ nhạy bén trong đức tin,
cung kính tôn thờ
và phó mình cho Chúa sáng tạo.”
– Lời nguyện của chân phước Elisabeth de Trinité
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 31)
Năm 1961, sau khi người Cộng sản Liên Xô phóng được lên không gian phi thuyền đầu tiên có người điều khiển và trở về trái đất thì có người đã tuyên bố: Chúng tôi đã lục lọi khắp cùng thượng tầng không gian mà chúng tôi không gặp một ông già nào có tên là Đức Chúa Trời cả.
Người ta phủ nhận Thiên Chúa. Nhưng việc người ta phủ nhận Thiên Chúa không làm chứng vì thế mà Thiên Chúa không có. Cũng như người ta có phủ nhận mặt trời thì mặt trời vẫn là mặt trời, vẫn chói lọi trên đầu chúng ta.
Hôm nay, trong bài đọc I, Thánh Kinh cho chúng ta biết rằng cách đây ba ngàn năm, có một dân Israel, đã khẳng định có Thiên Chúa, “chúng tôi đã gặp Người”. Người đã tuyển chọn dân ấy, đã đưa ra khỏi Ai Cập, làm bao nhiêu sự lạ và hôm nay, giữa chớp lòe sấm vang đã ban Mười Điều Răn, khiến cho toàn dân phải kêu lên: “Trên trời dưới đất, chính Chúa là Thiên Chúa, không có Chúa nào khác”.
Thiên Chúa là một! Nhưng Chúa Giêsu xuống thế, Người hé mở cho chúng ta một mầu nhiệm: Thiên Chúa là một nhưng có Ba Ngôi. Ngài mặc khải cho chúng ta chính đời sống thần linh của Thiên Chúa. Người nói cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa là Cha. Người và Chúa Thánh Thần là mối giây tình yêu liên kết Người với Cha và liên kết chúng ta với Thiên Chúa. Vậy những gì chúng ta biết về Thiên Chúa Ba Ngôi là do chính kinh nghiệm và lời giảng của Chúa Giêsu. Người cầu nguyện cùng Chúa Cha, Người nói lời của Chúa Cha cũng như Người hứa ban Thánh Thần. Người hành động với sức mạnh Thánh Thần, rồi Người dạy ai muốn theo Người phải được rửa tội nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, phải sống mầu nhiệm Ba Ngôi vì chính đó là sự sống của Thiên Chúa.
Mầu nhiệm ấy chúng ta mừng hôm nay. Vì là mầu nhiệm, trí khôn chúng ta không thể hiểu thấu được. Hình như khi tạo dựng người ta “giống hình ảnh Chúa”, Thiên Chúa đã tạo nên chung quanh chúng ta và trong chúng ta những hình ảnh Chúa là một mà có Ba Ngôi. Ví dụ, con người ta có một nhưng trải qua ba giai đoạn: trẻ, trung niên và già -ba giai đoạn nhưng một cuộc đời. Linh hồn có các cơ năng: trí nhớ, trí hiểu và trí lý luận –ba cơ năng của một linh hồn. Nước là một, nhưng có ba hình thức: mây vi vu trên trời, khối đá đông đặc, nước chảy dưới cầu, đều là nước dưới ba hình thức. Biểu hiệu trên quốc kỳ nước Công giáo Ái Nhĩ Lan là một chiếc lá với ba khía cạnh ám chỉ Thiên Chúa là một nhưng có Ba Ngôi.
Thiên Chúa mặc khải cho chúng ta mầu nhiệm Ba Ngôi, vì chính đó là đời sống căn bản thần linh. Chúng ta được rửa tội nhân danh Chúa Ba Ngôi, tâm hồn ta trở nên đền thờ Chúa Ba Ngôi và Chúa mời gọi ta sống đời sống của Chúa Ba Ngôi.
(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)
Trong thời Cựu ước, mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi không được mạc khải cho dân được chọn. Bị bao vây bởi các dân thờ đa thần, dân Do thái được Thiên Chúa truyền dậy qua Môsê là họ phải tôn thờ một Thiên Chúa là Chúa tể duy nhất, hằng hữu, toàn năng và chân thật, ngoài ra không có chúa nào khác (Đnl 4:39). Đó là điều thiết yếu trong tôn giáo độc thần của họ. Do đó, đề cập đến mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi có thể khiến họ lầm tưởng rằng có ba chúa hay ba thần. Mà ba chúa hay ba thần là điều trái nghịch với nền tôn giáo độc thần của họ, lại còn có thể làm giảm lòng tin của họ vào một Chúa.
Thế nên Thánh kinh Cựu ước không nói gì về mầu nhiệm một Chúa Ba ngôi. Đôi khi Thánh kinh Cựu ước mới ám chỉ, chứ không nói rõ, về Ba ngôi Thiên Chúa. Chẳng hạn như trong sách Sáng thế, Thiên Chúa dùng số nhiều để nói về mình: Chúng ta hãy tạo dựng con người theo hình ảnh chúng ta (St 1:26). Đại danh từ ngôi thứ nhất số nhiều ở đây là chúng ta, ám chỉ rằng có hơn một ngôi vị nơi Thiên Chúa.
Chỉ khi Chúa Giêsu xuống thế làm người chứng tỏ Người là Con Thiên Chúa và hứa sai Chúa Thánh thần xuống để an ủi, thánh hoá và ban sức mạnh thiêng liêng cho loài người, thì tín điều Ba Ngôi Thiên Chúa mới được tỏ hiện. Khi ông Gioan tiền hô làm phép rửa cho Đức Giêsu ở sông Giođan, thì Chúa Thánh thần và Thiên Chúa Cha cũng được bày tỏ. Khi ra khỏi nước, Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. Và kìa có tiếng từ trời phán: Đây là Con yêu quí của Ta, Ta hài lòng về Người (Mt 3:16-17). Trong bữa tiệc ly, Đức Giêsu còn bầy tỏ cho các tông đồ về Chúa Thánh thần: Thầy ra đi thì có lợi cho chúng con hơn. Nếu Thầy không đi, Đấng Phù Trợ sẽ không đến với chúng con (Ga 16:7).
Như vậy trong dòng lịch sử cứu độ, Chúa Cha được bầy tỏ trước tiên, rồi đến Chúa Con, rồi đến Chúa Thánh Thần. Ba ngôi trong một Chúa là một Mầu nhiệm. Ta có thể dùng hình tam giác cân để diễn tả mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa. Trong hình tam giác cân và đều, ta thấy ba cạnh và ba góc đều nhau và bằng nhau, nhưng chỉ là một hình tam giác. Thánh Patriciô dùng một lá tam diệp thể (shamrock) để so sánh mầu nhiệm Ba Ngôi Một Chúa. Ngài hỏi dân Ái Nhĩ Lan xem họ thấy bao nhiêu lá tam diệp thể. Họ trả lời một. Rồi Ngài hỏi vậy có bao nhiêu lá. Họ nói có ba. Khi học kinh bổn thời tiền Công đồng Vaticanô II và sau đó một thời gian, ta còn nhớ học bằng cách tự hỏi, rồi tự thưa. Những người sinh trước Công đồng Vaticaanô II hẳn còn nhớ thưa thế nào cho câu hỏi: Hỏi Đức Chuá Trời có mấy ngôi? Rồi người học tự thưa theo sách, hay thưa theo những người đọc thuộc lòng: Thưa Đức Chúa Trời có Ba ngôi: Ngôi Nhất là Cha, Ngôi Hai là Con, Ngôi Ba là Thánh Thần. Rồi Sách lại hỏi thêm: Hỏi trong Ba Ngôi, có Ngôi nào trước, Ngôi nào sau, Ngôi là hơn, Ngôi nào kém chăng? Họ lại tự thưa theo sách Bổn: Thưa Ba Ngôi cũng bằng nhau. Sở dĩ trước đây giáo dân học kinh bổn thuộc lòng như vậy là vì người ta thiếu sách vở, và có những người lại không biết đọc. Việc học thuộc lòng còn có điểm lợi là ghi tạc vào tâm khảm của họ một niềm tin vững chắc như kiềng ba chân.
Một trong những điều Giáo hội muốn nhắc nhở cho ta về Chúa Ba ngôi là dấu thánh giá. Dấu thánh giá nhắc nhở cho ta về lòng tin vào hai mầu nhiệm quan trọng trong đức tin người công giáo là mầu nhiệm một Chúa Ba ngôi và mầu nhiệm cứu chuộc. Ta thấy linh mục rửa tội nhân danh Chúa Ba ngôi như lời Chúa dạy trong Phúc âm hôm nay: Hãy làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần (Mt 28:20). Các bí tích khác cũng được cử hành nhân danh Chúa Ba Ngôi. Trong phần đầu lễ, linh mục chủ tế dùng lời chúc bình an của thánh Phaolô để chào đón giáo dân tham dự thánh lễ như sau: Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em. Linh mục kêu cầu Chúa Ba Ngôi khi cử hành Bí tích Giải Tội. Linh mục sức dầu bệnh nhân, nhân danh Chúa Ba Ngôi. Đức giám mục cử hành Bí tích Thêm sức trong dấu thánh Chúa Ba Ngôi. Ta bắt đầu và kết thúc kinh đọc bằng dấu thánh giá tuyên xưng đức tin vào Chúa Ba Ngôi. Trước khi ăn, ta cũng làm dấu thánh giá, tạ ơn Chúa Ba ngôi cho ta của ăn hàng ngày.
Biết được có mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi còn làm giàu cho đời sống thiêng liêng của người tín hữu. Biết được có Chúa Cha là Đấng tạo dựng loài người, Chúa Con là Đấng cứu chuộc nhân loại, Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hoá, an ủi, ban sức mạnh thiêng liêng giúp ta dễ dàng cầu nguyện, biết phải xin với Ngôi Vị nào cho thích hợp. Xét về phương diện thần học thì khi ta cầu nguyện với một Ngôi Vị là ta cầu nguyện với Ngôi Vị kia vì Ngôi Cha, Ngôi Con, Ngôi Thánh Thần là một Chúa. Tuy nhiên xét theo tâm lý học, thì để cho ăn chắc, ta có thể cầu nguyện với cả Ba Ngôi Vị cùng lúc như: Lậy Thiên Chúa Ba Ngôi, con thờ lạy, chúc tụng và tạ ơn Ba Đấng. Con xin Ba Đấng ban cho con được thế nọ, thế kia vân vân…
Thiết tưởng hôm nay nhân ngày lễ kính Chúa Ba Ngôi ta cần trả lời vài thắc mắc sau đây: Ta có ý thức được chỗ đứng của Chúa Ba ngôi trong đời sống chưa? Dấu thánh giá ta làm có nhắc nhở cho ta về lòng tin vào Chúa Ba ngôi không? Ta có làm dấu thánh giá cách ý thức và kính cẩn, hay làm một cách cẩu thả, vô ý thức?
Lời cầu nguyện: xin cho được biết tôn thờ Chúa Ba Ngôi.
Lậy Thiên Chúa Ba Ngôi toàn năng!
Con thờ lậy, đội ơn và chúc tụng Ba ngôi Thiên Chúa.
Con cảm tạ Chúa đã tạo thành nên con.
Xin Ngôi Hai Thiên Chúa tiếp tục công việc cứu độ nơi con.
Nguyện xin Chúa Thánh Thần thánh hoá đời sống con.
Xin đến phù trợ mỗi khi con làm dấu thánh giá,
kêu cầu đến Ba Ngôi Thiên Chúa. Amen.
LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA BA NGÔI TRONG TRẦN GIAN
Hôm nay, phụng vụ Giáo Hội mừng trọng thể mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Đây là mầu nhiệm mẹ trong tất cả các mầu nhiệm.
Vì thế, mọi cử hành phụng vụ đều hướng về mầu nhiệm này như là điểm quy chiếu, mấu chốt, cốt lõi phát sinh mọi nguồn thiện hảo do lòng xót thương của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Trong lịch sử cứu độ, mọi diễn biến của vũ trụ và con người từ khi tạo dựng trời đất, muôn vật, đến thời Đức Giêsu xuống thế làm người, chịu chết, sống lại và lên trời cho đến khi Chúa Thánh Thần hiện xuống tới nay, đều có sự hợp nhất trong mọi hoạt động của cả Ba Ngôi.
Tuy nhiên, để cho dễ hiểu, Giáo Hội hướng về Chúa Cha là Đấng tạo dựng trời đất, muôn vật, muôn loài. Chúa Con cứu chuộc và Chúa Thánh Thần thánh hóa trần gian. Qua đó, chúng ta dễ dàng hiểu về sự hiệp nhất trong đa dạng của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Khởi đi từ công trình tạo dựng: Kinh Thánh diễn tả tình trạng hỗn mang trước khi được Thiên Chúa chúc lành. Sự trật tự chỉ có khi Người can dự, tác tạo cũng như phân chia vai trò và phú bẩm đặc tính cho từng loài.
Đỉnh cao của công trình tạo dựng ấy là việc sáng tạo con người giống hình ảnh Người. Người còn cho con người vinh hạnh cộng tác vào công trình tạo dựng ấy qua việc tác sinh và trông nom, canh tác “Vườn”. Đây là đặc trưng biểu lộ lòng thương xót của Thiên Chúa.
Nhưng Tổ tông đã không nghiệm được lòng thương xót ấy, nên đã kiêu ngạo, phản bội, bất trung với Thiên Chúa. Vẫn một dạ thương xót, nên Người đã không bỏ mặc. Ngược lại, ngay lập tức, Thiên Chúa hứa ban Đấng Cứu Độ sẽ đến để chuộc những gì đã mất.
Cứ thế, trong suốt dọc dài lịch sử thời Cựu Ước, Thiên Chúa luôn theo sát dân Người như hình với bóng để xót thương con người cách đặc biệt. Vì thế, Người không màng chi đến những lời than phiền, trách móc, bất trung, vô ơn, phản bội của họ.
Tình thương ấy không phải trong khái niềm trừu tượng, nhưng nó được hiện tại hóa nơi những hành vi của Người như: giải cứu dân thoát khỏi biết bao tai ương, hoạn nạn; đưa dân từ cảnh nô lệ trở về Đất Hứa trong tư cách của người tự do; nuôi sống dân bằng “Bánh Bởi Trời và Nước từ tảng đá vọt ra”. Người đã gửi nhiều vị trung gian đến để giải thoát dân khỏi đau khổ thể xác, bình an tâm hồn, đồng thời dẫn dân đi trong đường lối xót thương để được cứu độ.
Tuy nhiên, khi yêu thương như vậy, lòng dạ Thiên Chúa vẫn chưa thỏa lòng, nên vào thời sau hết, Người đã trao tặng cho nhân loại chính Con Một dấu ái của mình là Đức Giêsu, để Ngài trực tiếp mạc khải trọn vẹn về lòng xót thương của Thiên Chúa cho nhân loại.
Đến lượt Đức Giêsu, Ngài đã đến trần gian như một người nghèo. Nghèo đến độ cha mẹ Ngài không đủ tiền để thuê một phòng trọ cho đàng hoàng nơi đêm vắng hoang vu để Ngài hạ sinh. Cũng chính cái nghèo này mà Ngài phải giáng trần trong hang bò lừa hoang vu giá lạnh. Vì thế, những người biết đến để thờ lạy chẳng ai khác, họ cũng là những mục đồng nghèo và những người xa lạ như ba nhà Chiêm Tinh.
Cuộc đời ấu nhi của Đức Giêsu không được êm ả ngay từ lúc mới chào đời… nên chỉ ít hôm sau khi sinh, Ngài đã phải cùng với cha mẹ mình chạy trốn sự tàn độc của con cáo già Hêrôđê gây nên.
Trong suốt thời gian sống tại gia đình nơi làng quê Nazaretz, Đức Giêsu sống bình thường giản dị như bao người thời đó.
Hết thời gian ấy, Ngài ra đi thi hành sứ vụ. Tuy là Con Thiên Chúa, Ngài cũng không dành cho mình những đặc quyền, đặc lợi, nhưng vẫn sống tinh thần nghèo. Nghèo đến độ: “Con cáo có hang, chim trời có tổ, con người…”. Ngài cũng không tìm đến với những người mũ mão cân đai, lắm tiền nhiều bạc, quyền cao chức trọng trong dân. Ngược lại, luôn “chạnh lòng thương” đến với những người cùng đinh của xã hội. Họ là những người nghèo về tinh thần lẫn vật chất. Họ cũng là những người thấp cổ bé họng, luôn bị áp bức, bóc lột… nên khi đến, Đức Giêsu đã giải thoát họ cả về tinh thần lẫn thể xác… Vì thế, cái giá phải trả đó chính là sự phản bội của môn đệ, bị bắt bớ, mạ lỵ, vu vạ, đánh đập và giết chết như một tử tội…
Như vậy, cả cuộc đời Đức Giêsu, Ngài luôn làm lộ hiện lòng thương xót của Thiên Chúa trên nhân loại và từng người, để con người hiểu được tâm tư, lòng dạ thương xót của Thiên Chúa, và chính họ cũng biết thương xót như đã được xót thương…
Con đường ấy không kết thúc khi Ngài trở về trời, nhưng đã được chuyển trao cho Chúa Thánh Thần, để Người tiếp nối con đường thương xót của Thiên Chúa nơi các chứng nhân qua việc bảo trợ và thánh hóa.
Nói về thời của Chúa Thánh Thần, chúng ta nghĩ ngay đến vai trò thánh hóa và bảo trợ Giáo Hội.
Người thánh hóa Giáo Hội, để Giáo Hội như người mẹ, luôn trung thành với sứ mệnh xót thương nhân loại đã được Đức Giêsu ủy thác. Đồng thời, luôn trở thành những sứ giả phản chiếu sự trung thực của lòng thương xót Chúa đến với anh chị em. Ngõ hầu tâm tư của người môn đệ được quyện hòa vào thao thức của Đức Giêsu, để những người tiếp bước không bị rơi vào vòng luẩn quẩn của sự ác nhân, thất đức, cũng như những tiện nghi sang trọng không phù hợp với đường thương xót của Thiên Chúa và những giá trị Tin Mừng.
Bên cạnh đó, Chúa Thánh Thần luôn biến đổi những con người khô khan, nguội lạnh, ác độc…, trở nên những con người sốt sắng, đạo đức và nhân hậu…
Lòng thương xót ấy còn được thể hiện qua việc Người luôn bảo vệ Giáo Hội khỏi biết bao nguy khốn đang ngày đêm tấn công. Vì thế, Người luôn bào chữa, phù trợ, để giúp cho các chứng nhân khôn ngoan trước những chất vấn về niềm tin và hy vọng của con người.
Có lẽ điều quan trọng hơn cả, đó là Chúa Thánh Thần luôn thánh hóa để người muôn nước được hiệp thông với nhau trong đức tin, đức cậy, đức mến. Để dù ở đâu, trong hoàn cảnh nào, Giáo Hội vẫn là một Giáo Hội hiệp nhất trong đa dạng theo khuôn mẫu của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Như vậy, Chúa Thánh Thần luôn ở bên chúng ta như hình với bóng, như hơi thở, như ánh sáng…, để giúp chúng ta yêu mến, tôn thờ Thiên Chúa cho phải đạo. Qua đó, chúng ta được hưởng trọn vẹn lòng thương xót của Thiên Chúa.
Mừng lễ Chúa Ba Ngôi hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy yêu mến, cậy trông và tin thờ Chúa Ba Ngôi hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực. Đồng thời biết quy hướng về Người trong mọi chiều kích như là điểm khởi đầu và cùng đích của chúng ta.
Tuy nhiên, “đức tin không có việc làm là đức tin chết”, vì thế, việc yêu mến, cậy trông và tin thờ ấy không chỉ dừng lại ở việc khấn nguyện, kinh sách, lễ lạy… nhưng thiết nghĩ, trách nhiện của chúng ta là phải làm cho hình ảnh của Thiên Chúa được hiện tại hóa trong cách ăn nết ở, để người ta thấy cách sống của mình, họ nhận ra khuôn mặt và lòng dạ thương xót của Thiên Chúa.
Những biểu hiện đó có thể là: một nghĩa cử hiệp thông với những người bị áp bức, bóc lột, đối xử bất công…; một đôi tai và trái tim nhạy bén với những dấu chỉ thời đại; một đôi tay nhân ái, một đôi chân bước ra khỏi sự an toàn để đến với những trẻ em mồ côi, người tàn tật, neo đơn; một ánh mắt cảm thông với những người tội lỗi, để tìm cách đưa họ về nẻo chính đường ngay…
Khi lựa chọn những hành vi đó, ấy là chúng ta đang làm cho đường thương xót của Thiên Chúa từ trời đến với con người và làm cho con người được đi trong đường thương xót ấy để về trời.
Lạy Thiên Chúa là Cha và Con và Thánh Thần, xin xót thương và ban ơn cứu độ cho chúng con. Xin cũng ban cho chúng con được trở nên chứng nhân của lòng thương xót Chúa trong cuộc sống hằng ngày nơi xã hội hôm nay. Amen.
(Suy niệm của Jos.Vinc. Ngọc Biển)
Tin Mừng Ga 16: 12-15 Trong đời sống đức tin của chúng ta, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm căn bản, trọng tâm của các mầu nhiệm khác.
Trong đời sống đức tin của chúng ta, Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm căn bản, trọng tâm của các mầu nhiệm khác. Nói cách khác, đây chính là mầu nhiệm mẹ của các mầu nhiệm. Đã là mầu nhiệm, với sự hiểu biết của con người, chúng ta không thể biết nếu không được mặc khải. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi – Nhất Thể mà lại Tam Vị quả thật là một mầu nhiệm vượt lên trên trí hiểu của con người. Vì thế, chúng ta chỉ có thể biết được phần nào qua sự mặc khải của chính Đức Giêsu, Đấng từ trời xuống thế và hiện hữu giữa trần gian trong vai trò Thiên Chúa làm người.
Tuy nhiên, nếu muốn biết phần nào về Thiên Chúa Ba Ngôi, trước tiên, chúng ta phải biết được về căn tính của chính Đức Giêsu, bởi lẽ, Ngài là trung gian duy nhất dẫn đưa chúng ta vào mối thông hiệp của Thiên Chúa. Cũng chính vì nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài, chúng ta biết được Chúa Cha và Chúa Thánh Thần..
Khi biết Đức Giêsu là “Logos – Lời” của Thiên Chúa, đến từ Thiên Chúa, Đức Giêsu đã chứng minh cách cụ thể chân tính ấy nơi những mặc khải của Ngài ngang qua những hành động như: cho người mù được sáng mắt; kẻ què được đi; người phong hủi được sạch; người điếc được nghe cùng kẻ chết sống lại; và, người nghèo khó được nghe loan báo Tin Mừng (x. Mt 11,4-5; Lc 7,22). Đức Giêsu cũng được ví như hạt giống; là cửa sự sống; cây nho; và cửa đàn chiên… (x. Mt 7,13-14; Ga 12,24; Ga 10,7-9; 14,6; Ga 15,1-2; Ga 10,11; Lc 15,4-7).
Như vậy, Đức Giêsu chính là “Lời” của Thiên Chúa, đến từ Thiên Chúa. Ngài hiện hữu giữa trần gian là để mặc khải về Nước Thiên Chúa, về Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, hầu đưa nhân loại về với Cha trong ý định ban đầu của Người.
Không những chỉ biểu lộ chính mình, Đức Giêsu còn biểu lộ Chúa Cha là Đấng Đồng Nhất với Ngài.
Mặc khải đầu tiên được khởi đi qua biến cố Đức Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan. Sau khi Đức Giêsu chịu phép rửa bởi Gioan, các tầng trời mở ra và có Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Ngài như chim bồ câu, đồng thời có tiếng Chúa Cha tuyên phán: “Con là Con Ta yêu dấu” (Mt 1,11).
Tiếp theo, Thiên Chúa Cha được mặc khải như là tình phụ tử trong sứ điệp của Đức Giêsu. Điều mới mẻ là: không những Ngài đã giảng về lòng phụ tử của Thiên Chúa, nhưng Ngài còn gọi Thiên Chúa bằng tiếng “Abba” trong lời kinh của Ngài. Tiếng “Abba” thì chỉ một mình Marcô ghi lại (x. Mc 14,36), nhưng cách gọi Thiên Chúa là Cha thì rất nhiều: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha… vì Cha đã mặc khải cho những người bé mọn”(Mt 11,25). Hay: “Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46; x. Ga 17,1.5.11.21.25). Đức Giêsu thường xuyên gọi Thiên Chúa như thế. Sự kiện ấy nói lên tương quan đặc biệt giữa Đức Giêsu với Thiên Chúa, một kinh nghiệm thân ái độc nhất vô nhị mà chỉ mình Đức Giêsu mới có được.
Chính vì sự đặc biệt này mà Ngài đã nói: “Không ai biết được Con trừ phi có Cha, và cũng không ai biết được Cha trừ phi có Con và kẻ được Con mặc khải ra cho” (Mt 11,27). Mặc khải về Chúa Cha còn phát xuất từ kinh nghiệm, lời rao giảng của Đức Giêsu về Nước Thiên Chúa. Đức Giêsu gọi Thiên Chúa là Cha: “Lạy Cha là Chúa trời đất” (Mt 11,25), nghĩa là của toàn vũ trụ. Đức Giêsu cũng đã dạy các môn đệ đọc lời kinh “Lạy Cha” (x. Mt 6,9-13; Lc 11,2-4). Chính tương quan độc đáo ấy đã giúp cho các môn đệ sau biến cố phục sinh nhận ra Đức Giêsu là Con Một của Thiên Chúa.
Ngoài ra, chúng ta có thể hiểu được mặc khải về Chúa Cha qua hình ảnh của một vị Thiên Chúa đầy lòng nhân từ (x. Mt 5,45; x. Lc 6,35); là Đấng giàu lòng thương xót (x. Lc 15,7); là Đấng quan phòng (x. Mt 6,27). Người theo dõi đến cả số phận những con vật nhỏ bé phải “rơi xuống đất” (x. Mt 6,29).
Kế đến, Đức Giêsu đã mặc khải cho chúng ta về Chúa Thánh Thần.
Khởi đầu mầu nhiệm Nhập Thể, Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên Đức Maria (x. Lc 1,35). Tiếp theo là vai trò của Chúa Thánh Thần trên cuộc đời của Đức Giêsu: Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Đức Giêsu khi Ngài chịu phép rửa dưới hình chim bồ câu (x. Lc 3,22). Chúa Thánh Thần đã dẫn Đức Giêsu “vào hoang địa bốn mươi ngày” (x. Lc 4,1-2). Chính Đức Giêsu đã xác nhận: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó…”. Khi trừ Quỷ, Đức Giêsu đã khẳng định quyền năng của Ngài đến từ Thánh Thần (x. Mt 12,28). Ngài cũng đề cao vai trò của Chúa Thánh Thần trong việc từ chối hay đón nhận. Đón nhận thì được tha, khước từ thì bị hủy diệt (x. Mt 12,31-32).
Rồi Đức Giêsu đã hứa ban Chúa Thánh Thần trên các Tông đồ: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Ðấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Ðó là Thần Khí sự thật.” (Ga 14,15-17); “Khi Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là Thần Khí sự thật xuất phát từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy” (Ga 15,26-27; x. 16,13). Khi mọi sự đã hoàn tất trên thập giá, Đức Giêsu đã gục đầu xuống và trao Thần Khí (x. Ga 19,29-30).
Cuối cùng, sau khi phục sinh, Đức Giêsu đã trao bình an và sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho các môn đệ, đồng thời cũng trao ban Chúa Thánh Thần kèm theo quyền tha tội cho các ông (x. Ga 20,22-23).
Như vậy: “Loài người có thể đến cùng Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô, Ngôi Lời nhập thể, trong Chúa Thánh Thần, và được thông phần bản tính Thiên Chúa (x. Ep 2,18; 2 Pr 1,4).
Ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta được trở nên thụ tạo mới, được mang danh là người Kitô hữu, được trở nên hình ảnh sống động của Đức Kitô. Nói theo ngôn ngữ của Thánh Tôma Aquinô thì: nhờ Bí tích Rửa Tội, chúng ta trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô; được trở nên đền thờ của Chúa Thánh Thần; chúng ta được Thiên Chúa yêu thương: “Ta sẽ cư ngụ và đi lại giữa họ, sẽ là Thiên Chúa của họ và họ sẽ là dân riêng của Ta.” (2 Cr 6,15).
Vì vậy, qua Bí tích Rửa Tội, chúng ta được rửa tội nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Kể từ đây, trong ta có Chúa và trong Chúa có ta. Ta và Thiên Chúa chung nhau một giòng máu qua Đức Giêsu. Lời cầu nguyện của Đức Giêsu giúp ta hiểu được mầu nhiệm tình thương này: “Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con, để họ nên một như Chúng Ta” (Ga 17,11).
Mong sao, trong đời sống của chúng ta, nơi gia đình, xóm làng, Giáo xứ, hội đoàn… luôn biết yêu thương, đùm bọc nhau. Hãy noi theo hành động xuất ngoại của Thiên Chúa khi Ngôi này vì Ngôi kia và ngược lại nhưng vẫn chỉ là một Thiên Chúa duy nhất.
Lạy Thiên Chúa là Cha và Con và Thánh Thần, xin ban thêm đức tin cho chúng con, để chúng con tin vững vàng, phó thác trọn vẹn và yêu mến hết lòng nơi Thiên Chúa. Xin cũng cho chúng con biết yêu thương nhau và sống đúng vai trò của mình trong cuộc sống hằng ngày theo khuôn mẫu Thiên Chúa Ba Ngôi. Amen.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Hôm nay, chúng ta cử hành lễ Chúa Ba Ngôi, một mầu nhiệm vĩ đại, thẳm sâu và trung tâm đức tin Đạo Công giáo, trong đó Ba Ngôi phát xuất từ nhau và trở về với nhau. Ba Ngôi Cha, Con, Thánh Thần, nhưng là Một Thiên Chúa, duy nhất trong sự hiệp thông và hiệp thông trong duy nhất, đồng thời, khác biệt nhưng cùng một bản thể và ngang hàng bằng nhau.
Đúng, Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm chúng ta không thể nào diễn tả được. Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể cho ta biết được mầu nhiệm ấy khi Ngài tự mạc khải là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Việc Nhập Thể của Con Thiên Chúa mạc khải rằng Thiên Chúa là Cha từ muôn thuở, và Chúa Con là Đấng đồng bản thể với Chúa Cha, nghĩa là, Chúa Con là Thiên Chúa duy nhất trong Chúa Cha và cùng với Chúa Cha. Sứ vụ của Chúa Thánh Thần, Đấng Chúa Cha sai đến nhân danh Chúa Con, và Chúa Con sai đến “từ nơi Chúa Cha” (Ga 15,26), mạc khải rằng Chúa Thánh Thần cùng với Chúa Cha và Chúa Con là một Thiên Chúa duy nhất. “Ngài được phụng thờ và tôn vinh cùng với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con”. “Chúa Thánh Thần chủ yếu xuất phát từ Chúa Cha, mà từ đời đời Chúa Cha ban tặng cho Chúa Con, nên Chúa Thánh Thần xuất phát chung từ Hai Ngôi”. (GLHTCG số 261-262).
Theo thánh Grégoire de Nazianze (329 – 390): Ba Ngôi có cùng một bản tính, nhưng khác biệt về ngôi vị: Ngôi Cha “bất thụ sinh”, Ngôi Con “nhiệm sinh”, Ngôi Thánh Thần “nhiệm xuất”. Thánh Thần, Đấng nhiệm xuất bởi Cha, thì không phải là một thụ tạo ; hơn nữa vì Ngài không được sinh ra, nên Ngài không phải là Con ; nhưng vì Ngài ở giữa Đấng bất thụ sinh và Đấng nhiệm sinh, nên Ngài là Thiên Chúa …
Theo Grégoire de Nysse (331? – 394): Ba Ngôi chỉ là một Thiên Chúa, vì đồng bản tính, nhưng khác biệt nhau vì Ngôi Hai bởi Cha mà ra và chỉ mình Người là Con Một, còn Ngôi Ba bởi Ngôi Cha qua Ngôi Con mà có, nên gọi là Thánh Thần của Chúa Kitô. Chỗ khác ngài khẳng định Tam Vị Nhất Thể, Ngôi Cha là nguyên ủy và Hai Ngôi kia là do nguyên ủy, Ngôi Con mãi mãi là Con, còn Thánh Thần xuất bởi Ngôi Cha qua Ngôi Con.
Theo thánh Augustinô (354 – 430 ): Ba Ngôi là một sự hằng hữu duy nhất, một quyền năng duy nhất: “Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần thuộc về một bản thể duy nhất và đồng nhất, là Thiên Chúa sáng tạo, là Ba Ngôi toàn năng” (x.Giáo lý về Chúa Ba Ngôi, IV, xxi, 30). Do thuộc cùng một bản thể, Ba Ngôi ngang hàng với nhau đến nỗi “Chúa Cha không lớn hơn Chúa Con về thần tính, Chúa Cha và Chúa Con cùng với nhau cũng không lớn hơn Chúa Thánh Thần, từng Ngôi riêng biệt cũng không kém hơn chính Ba Ngôi” (x.Giáo lý về Chúa Ba Ngội, VIII ). Là ba, nhưng không phải là ba Thiên Chúa, mà chỉ là một Thiên Chúa.
Chúa Cha là Thiên Chúa, Chúa Con là Thiên Chúa, Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa. Tuy nhiên đó không phải là ba Thiên Chúa, nhưng chỉ có một Thiên Chúa duy nhất là chính Ba Ngôi (x.Giáo lý về Chúa Ba Ngôi, V, viii, 9).
Tương quan giữa Ba Ngôi phân biệt, nhưng không phân chia sự duy nhất. Chúa Cha luôn luôn là Cha và Chúa Con luôn luôn là Con. Nếu có lúc Chúa Con bắt đầu là Con thì một ngày nào đó sẽ thôi là Con. Nếu Chúa Cha có khởi đầu là Cha thì có lúc thôi là Cha. Chúa Cha chỉ được gọi là Cha do Ngài có một người Con, và Chúa Con chỉ được gọi là Con do Ngài có một người Cha. Vì vậy, cho dù có sự khác nhau giữa việc làm Cha và làm Con, bản thể lại không khác nhau, vì các Ngài không được gọi như thế xét về bản thể, nhưng là về tương quan và tương quan này không phải là một tùy thể vì nó không thay đổi” (x.Giáo lý về Chúa Ba Ngôi, V, v, 6).
Lễ Chúa Ba Ngôi là dịp tốt để người Kitô hữu ý thức được sự hiện diện của mầu nhiệm này trong đời sống chúng ta: từ ngày chịu Phép Rửa tội, chúng ta lãnh nhận nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi cho đến ngày chúng ta trước Mình Thánh Chúa, hiện tại hóa vinh quang của Chúa Cha qua Con của Ngài là Chúa Giêsu Kitô nhờ Chúa Thánh Thần. Đó là dấu chỉ để các Kitô hữu sẽ nhận Dấu Thánh Giá, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Nhiệm vụ của Chúa Giêsu Kitô, Chúa Con là mạc khải Chúa Cha, vì Người là hình ảnh hoàn hảo, và trao ban Chúa Thánh Thần, Đấng mà Người cũng đã mạc khải. Tin Mừng mà chúng ta công bố hôm nay cho thấy: Chúa Con nhận lãnh tất cả từ Chúa Cha trong sự hiệp nhất hoàn hảo: “Tất cả những gì Cha có đều là của Thầy”, và Chúa Thánh Thần, Đấng từ Chúa Cha và Chúa Con mà ra. Chúa Giêsu nói: “Vì thế Thầy đã nói: Người sẽ lãnh nhận từ nới Thầy mà loan truyền cho các con” (Ga 16,15). Và trong một đoạn văn khác, Chúa Giêsu cũng nói tương tự: “Khi Đấng Phù Trợ đến, Đấng Thầy sẽ từ nơi Cha Thầy sai đến với các con. Người là Thần Chân Lý bởi Cha mà ra, Người sẽ làm chứng về Thầy”(Ga 15, 26).
Thật là sự an ủi tuyệt vời mà chúng ta có được Thiên Chúa Ba Ngôi, cao vời và không thể tiếp cận, đến với chúng ta, ở trong chúng ta và làm cho chúng ta đối thoại được với Ngài. Và Chúa Thánh Thần, Ngài dẫn dắt chúng ta đến sự thật toàn vẹn (x. Ga 16,13). Đây là “phẩm giá vô song của người Kitô hữu”, mà thánh Lêô cả Giáo hoàng đã nói nhiều lần: chúng ta có được nơi mình mầu nhiệm Thiên Chúa, và có chỗ ở trên Trời, nơi Chúa Giêsu Vị Cứu Chúa của chúng ta đang đợi những “công dân” Nước Trời (x. Pl 3,20 ), về cư ngụ nơi cung lòng của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Xin tạ ơn Ngài, lạy Chúa, xin tạ ơn Ngài là Một Chúa Ba Ngôi chân thật và chí tôn chí thánh. Chúa Cha là nguồn tình thương, Chúa Con là mạch ân sủng, Chúa Thánh Thần là suối ơn hiệp thông. Amen.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Tiếp liền sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta long trọng cử hành lễ Chúa Ba Ngôi, giúp chúng ta nhận biết và tôn thờ Thiên Chúa trong Ba Ngôi, một trong những mầu nhiệm người tín hữu phải tin cho được rỗi linh hồn. Nhưng làm sao chúng ta có thể diễn tả hay thấu hiểu về Thiên Chúa Ba Ngôi này? Ai có thể giúp ta thấy được khuôn mặt thực của Thiên Chúa? Ai sẽ chỉ cho ta con đường để gặp gỡ Ngài? Tự sức trí khôn con người là không thể. Phải nại đến Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể, qua Ngài mầu nhiệm Thiên Chúa được vén mở, nhờ Người mà chúng ta biết có Một Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi Vị là Cha, Con và Thánh Thần.
Thánh Augustinô viết: “Thiên Chúa là một mầu nhiệm mà con người không thể nào thấu hiểu được”.
Đúng, Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm vĩ đại, sâu thẳm, chúng ta không thể nào diễn tả được. Trí tuệ và miệng lưỡi con người không tài nào giải thích được những mối tương quan giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần; tuy nhiên các giáo phụ đã tìm cách diễn tả nội dung chính yếu này và một trong những cách đó là Dấu Thánh Giá: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Dấu tôn vinh, chúc tụng và nguyện cầu
Thường ngày, chúng ta làm Dấu Thánh Giá rất nhiều lần, khởi đầu ngày mới cho đến khi đi ngủ, bước vào nhà thờ cho đến lúc nhận lãnh phép lành, trước và sau bữa ăn, khi đi ngang qua Thánh Giá, vườn thánh, trước cơn cám dỗ nguy hiểm …
Khi đặt tay lên trán chúng ta tôn vinh Chúa Cha toàn năng. Đưa tay xuống ngực chúng ta chúc tụng Chúa Con tình yêu. Đưa tay sang trái, phải vinh danh Chúa Thánh Thần, Nguồn ơn Thánh Thiêng hồng phúc của đời chúng ta. Mỗi lần làm Dấu Thánh chúng ta xin Chúa Ba Ngội ngự đến biến đổi tâm hồn chúng ta nên giống Ngài trong lời nói cũng như việc làm.
Như vậy, Dấu Thánh Giá bao trùm toàn thể xác và linh hồn; tất cả con người ta được thánh hiến nhân danh Một Chúa Ba Ngôi. Vì thế, Dấu Thánh Giá gói ghém lời tuyên xưng đức tin và nền tảng cầu nguyện của chúng ta.
Dấu kẻ có Đạo.
Hỏi: Dấu kẻ có Đạo là dấu nào? Thưa: là dấu cây Thánh Giá. Đức Giêsu đến trần gian nhằm cứu chuộc chúng ta, Người đã chết trên Thánh Giá để trao ban sự sống cho chúng ta. Chính nhờ hy tế của Người trên Thánh Giá mà chúng ta, những người “kitô hữu”, nghĩa là thuộc về Đức Kitô. Dấu Thánh Giá là dấu chỉ người kitô hữu. Chính nhờ dấu này mà chúng ta tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, đã đến thế gian để cứu chuộc chúng ta.
Trong năm Phụng vụ, có hai thời điểm giúp người kitô hữu ý thức về giá trị của Dấu Thánh Giá.
– Mùa Phục Sinh chỉ cho ra rằng chúng ta được cứu chuộc nhờ cây Thánh Giá.
– Lễ Chúa Ba Ngôi, giúp chúng ta tuyên xưng Một Chúa Ba Ngôi.
Dấu Thánh Giá là dấu của người chịu phép Rửa tội, người thuộc về Chúa. Khi chịu phép Rửa tội, chúng ta được “vẽ” và “ghi” dấu Thánh Giá. Dấu này bề ngoài không thể thấy được, nhưng in trong tâm hồn người kitô hữu. Đồng thời cũng là hành động Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến.
Hành động Đức Tin
Dấu Thánh Giá tóm lược Ba Mầu Nhiệm Cả trong Đạo Công giáo.
1 – Chúng ta vẽ Dấu Thánh Giá trên mình, vì Chúa Giêsu đã mặc lấy thân xác người phàm đến để cứu chuộc ta. Đây là mầu nhiệm Nhập Thể.
2 – Dấu Thánh Giá nhắc lại rằng Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã chết trên Thánh Giá để cứu chuộc chúng ta. Đây là mầu nhiệm Cứu Chuộc. Thánh Giá là chiến thắng của Đức Giêsu trên sự dữ và ma quỉ. Chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa nhờ hy tế của Chúa Giêsu trên Thánh.
3 – Dấu mà chúng ta vẽ trên mình kèm theo lời đọc: “Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần”. Chúng ta khẳng định mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.
Hiểu như thế sẽ giúp chúng ta làm dấu Thánh giá nghiêm túc hơn.
Hành động của Đức Cậy.
Niềm hy vọng của chúng ta là về Trời như các thánh đã ái mộ những sự trên Trời. Chính vì Đức Giêsu đã đến trần gian để cứu độ chúng ta, nên chúng ta có thể về Trời. Khi vẽ trên mình Dấu Thánh Giá, chúng ta nhớ đến cái chết của Chúa Giêsu trên Thánh Giá để cứu chúng ta, Người đã mở cửa Trời cho chúng ta.
Vậy, chúng ta khẳng định với nhau rằng, cuộc sống lữ hành của chúng ta là đi về Trời nơi chúng ta hy vọng sẽ tới sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế.
Hành động Đức Mến.
Thánh Giá gốm hai thanh gỗ ngang và dọc. Thanh dọc trình bầy tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa, thanh ngang diễn tả tình yêu của chúng ta đối với “tha nhân”.
Cần phải ghi nhận rằng khi được đưa lên khỏi đất, thanh dọc của cây Thánh Giá đỡ lấy thanh ngang: ngụ ý nói rằng tình yêu của chúng ta đối với tha nhân được “nâng đỡ” bởi tình yêu Thiên Chúa.
Nếu thanh dọc của cây Thánh Giá thiếu (tình yêu Thiên Chúa), thanh ngang bị bỏ nằm trên đất, không thể đưa lên khỏi đất. Ý muốn nói, trong hành động của đức Ái: “yêu tha nhân là yêu chính Chúa”.
Nhưng nếu có thanh dọc mà không có thanh ngang, (yêu tha nhân), hỏi rằng có còn là cây Thánh Giá nữa hay không?
Hai điều cần thiết: “là mến Chúa và yêu người”. Mỗi ngày chúng ta làm dấu trên mình nhiều lần: “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Ước gì chúng ta cũng biết in dấu Chúa Ba Ngôi, Thiên Chúa Tình Yêu trong cuộc đời ta, để chúng ta không ngừng kính mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân.
Xin dâng lời chúc tụng, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần đến muôn thủa muôn đời. Amen.
THIÊN CHÚA BA NGÔI BAO TRÙM ĐỜI SỐNG NGƯỜI TÍN HỮU
Ngày hôm nay, Phụng vụ Giáo hội mừng kính trọng thể Một Thiên Chúa Duy Nhất có Ba Ngôi là Cha và Con và Thánh Thần. Một bản thể duy nhất trong Ba Ngôi Vị. Thiên Chúa không phải là Ðấng đơn độc nhưng là Ðấng thông hiệp trọn vẹn. Nhân loại là hình ảnh của Thiên Chúa luôn tràn đầy tình yêu, là món quà thân yêu được ban tặng cho mỗi người. Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra sự hiện diện của Ba Ngôi bao trùm cả đời sống chúng ta và tôn thờ Ngài.
Bài giáo lý thuộc lòng
Thủa thiếu thời, trước khi bước vào Thánh lễ Chúa nhật, sau phần Kinh Sáng Tối, mọi người lại cùng nhau cất lên: Bổn dạy những lẽ cần cho được rỗi linh hồn. Phần thứ I… bắt gặp câu:
Hỏi. Có mấy sự mầu nhiệm rất cần phải tin cho được rỗi linh hồn?
Thưa. Có Ba Sự Mầu Nhiệm này: một là sự Đức Chúa Trời Ba Ngôi…
Lớn lên tôi mới hiểu đây là Một trong Ba Mầu Nhiệm phải tin cho được rỗi linh hồn. Thảo nào, những câu hỏi mà người học ai cũng được hỏi và buộc phải trả lời chính xác là:
Hỏi. Có nhiều Đức Chúa Trời chăng?
Thưa. Có một Đức Chúa Trời mà thôi.
Điều thứ nhất. Đoạn thứ II. Phần I Sách Bổn nói trên là một bản tóm tắt tuyệt vời đầy đủ, dễ hiểu về Thiên Chúa là thực thể duy nhất hiện hữu trong Ba Ngôi Vị. Ba Ngôi bình đẳng, đồng tồn tại vĩnh cửu, tuy riêng biệt nhưng cùng một bản thể và một uy quyền ngang nhau, nên Ba Ngôi chỉ là một Thiên Chúa mà thôi.
Một Đức Chúa Trời có Ba Ngôi
Khi bước vào khoa Thần học, tôi được dạy và đọc thấy các nhà thần học suy tư về Một Thiên Chúa có Ba Ngôi. Chúa Cha là Thiên Chúa độc nhất. Chúa Con sinh bởi Đức Chúa Cha từ trước muôn đời. Chúa Thánh Thần phát xuất từ Chúa Cha và Chúa Con tự đời đời như một Nguyên lý duy nhất, Ba Ngôi nhưng là Một Thiên Chúa hòa quyện vào nhau một cách hoàn hảo trong Tình Yêu và hành động, cùng tác động trên thế giới.
“Đức tin công giáo là thế này, chúng ta thờ kính Một Thiên Chúa trong Ba Ngôi, và Ba Ngôi trong Một Thiên Chúa, mà không lẫn lộn các Ngôi Vị, không phân chia bản thể: thật vậy, Ngôi Cha là khác, Ngôi Con là khác và Ngôi Thánh Thần là khác; nhưng thần tính, sự vinh quang ngang nhau và uy quyền vĩnh cửu của Chúa Cha, của Chúa Con và của Chúa Thánh Thần là một”.
Các Ngôi vị thần linh không thể tách rời nhau trong cùng một bản thể duy nhất, thì cũng không thể tách rời nhau trong các hoạt động của mình. Nhưng trong hoạt động thần linh duy nhất này, mỗi Ngôi vị hiện diện theo cách đặc thù của mình trong Ba Ngôi, nhất là trong các sứ vụ thần linh là việc Nhập Thể của Chúa Con và việc trao ban Chúa Thánh Thần (GLHTCG số 266-267).
Ba Ngôi trong đời sống người tín hữu
Trước khi lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, mỗi người chúng ta đều được ghi Dấu Thánh Giá nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi. Liền sau đó sẽ được thẩm vấn và đòi buộc tuyên xưng niềm tin vào Chúa Ba Ngôi. Câu hỏi sẽ là:
– Anh chị em có tin kính Thiên Chúa, là Cha Toàn Năng, Đấng Tạo Dựng nên trời đất không?
– Anh chị em có tin kính Đức Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha…?
– Anh chị em có tin kính Đức Chúa Thánh Thần…? Câu trả lời cho cả ba câu hỏi trên sẽ là, “Thưa có.”
Và cứ thế, hằng ngày, biết bao lần chúng ta tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi, từ khi thức dậy cho đến khi đi ngủ, bước vào nhà thờ cho đến lúc nhận lãnh phép lành, trước và sau khi ăn, khi đi ngang qua Thánh Giá, vườn thánh, trước cơn cám dỗ nguy hiểm … chúng ta đọc kinh Vinh Danh, kinh Sáng Danh, kinh Tin Kính… nhất là chúng ta làm Dấu Thánh Giá nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi, cho thấy toàn thể thân xác cũng như linh hồn ta, tất cả con người ta được thánh hiến nhân danh Một Chúa Ba Ngôi và Thiên Chúa Ba Ngôi bao trùm toàn bộ đời sống ta.
Vậy, nhờ ân sủng của bí tích Rửa Tội nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, chúng ta được kêu gọi để tham dự vào sự sống của Ba Ngôi Diễm Phúc, “ở trần thế này trong bóng tối của đức tin và sau khi chết trong ánh sáng vĩnh cửu” (GLHTCG số 265). Amen.
1.- Ngữ cảnh
“Sách về Giờ của Đức Giêsu” của TM Ga kéo dài từ ch. 13 đến ch. 20. “Diễn từ cáo biệt” (ch. 13–17) là phân đoạn đầu tiên của “Sách” này. Chúng ta có thể xác định bố cục của phân đoạn này như sau:
– Bữa ăn cuối cùng (13,1-30);
– Bài diễn từ (phần 1: 13,31–14,31):
– Bài diễn từ (phần 2: 15,1–16,33):
* Đơn vị 1 (16,4b-15): Đấng Bảo Trợ [cc. 5-7; 8-11; 12-15],
* Đơn vị 2 (16,16-33).
– Bài diễn từ (phần 3: 17,1-26):
Đoạn văn chúng ta đọc hôm nay nằm trong phần hai, phân đoạn 2 và đơn vị 1 của Diễn từ cáo biệt.
2.- Bố cục
Bản văn Ga 16,12-15 có thể chia thành ba phần:
1) Câu chuyển tiếp (16,12);
2) Vai trò của Thần Khí (16,13-14);
3) Tương quan giữa Thần Khí với Chúa Cha và với Đức Giêsu (16,15).
3.- Vài điểm chú giải
– không có sức chịu nổi (12): Dùng động từ Hy Lạp bastazein ở đây cũng lạ. Động từ này thường được sử dụng trong khung cảnh cuộc Thương Khó (19,17; x. Lc 11,46; 14,27; Gl 6,2.5). Bởi vì ý tưởng căn bản là các môn đệ không thể hiểu, mà bastazein lại có nghĩa là “nâng lên, mang, vác, chịu đựng”. Do đó, rất có thể câu nói muốn nói là nhờ Thánh Thần, các môn đệ hiểu biết mạc khải, nhưng cũng tham dự vào cái chết và cuộc tôn vinh của Đức Giêsu (x. 13,7.33).
– Thần Khí sự thật (13): Danh hiệu này đã xuất hiện trong đoạn văn đầu tiên nói về Đấng Bảo Trợ (14,17). Dịch sát là “Thần Khí của sự thật” (“sự thật”, alêtheia ở thuộc-cách). Trong tư tưởng Ga, thuộc-cách này chỉ đối tượng: Thần Khí truyền đạt sự thật, cho dù cũng có thể hiểu là một thuộc-cách đồng-chức-ngữ (apposition) (x. 1 Ga 5,6 [7]: “Thần Khí là sự thật”). Ở đây, câu văn không mô tả yếu tính hay hữu thể của Thần Khí.
– Người sẽ loan báo (13): Động từ anangellein, “loan báo, khai mở, tuyên bố”, xuất hiện ba lần trong các chương 13–15. Ý nghĩa chung của động từ này là “nói lại những gì đã được nói rồi” (ngoại trừ Ga 4,25), bởi vì tiếp đâu ngữ ana- có giá trị như tiếp đầu ngữ re- trong tiếng Anh (re-announce, re-proclaim). Bản LXX, đặc biệt sách Isaia, cũng dùng động từ này theo nghĩa ấy (x. Is 42,9; 44,7; 45,19; 46,10).
– tới sự thật toàn vẹn (13): Trong câu văn hodêgêsei hymas en tê alêtheia pasê, en + tặng-cách cho hiểu rằng đây không phải là đạt tới một chân lý mới, một chân lý vượt quá chân lý thuộc mạc khải của Đức Kitô. Trái lại, đây là nghĩa trọn của chân lý cũng là bản thân Đấng mạc khải.
– những điều sẽ xảy đến (13): Phải chăng sẽ có một mạc khải mới? Thật ra, dựa vào ý nghĩa của anangellein và chiều hướng cánh chung học đã thể hiện của TM IV, có thể nói rằng “loan báo những điều sẽ xảy đến” có nghĩa là giải thích cho mỗi thế hệ thấy những gì Đức Giêsu đã nói và đã làm có một ý nghĩa cho họ hôm nay.
– Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy (15): Trong thần học về Chúa Ba Ngôi, câu này đã được dùng để chứng minh rằng Chúa Con có cùng một bản tính với Chúa Cha; nhưng ở đây tác giả Ga đang nghĩ đến mạc khải được thông ban cho loài người.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Chương 16 (cũng như ch. 14 là bản văn đầu tiên nói đến Đấng Bảo Trợ) nói đến vai trò của Đấng Bảo Trợ như là thầy dạy các môn đệ.
* Câu chuyển tiếp (12)
Câu 12 chuyển sang vai trò của Đấng Bảo Trợ là giảng dạy. Đức Giêsu muốn nói gì khi tuyên bố là Người còn nhiều điều phải nói, nhưng vào lúc này, các môn đệ không có sức chịu nổi? Phải chăng Người có ý nói là sẽ có những mạc khải mới sau khi Người chết? Tuy nhiên, Ga 15,15 dường như loại trừ những mạc khải mới: “Tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy, Thầy đã cho anh em biết”. Câu 12 cũng theo một chiều hướng như vậy: chỉ sau khi Đức Giêsu sống lại, các môn đệ mới hiểu được trọn vẹn những gì đã xảy ra và đã được nói trong thời gian Đức Giêsu hoạt động (x. Ga 2,22; 12,16; 13,7). Lời hứa ban cho các môn đệ hiểu sâu hơn có thể được diễn tả bằng câu “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em”, bởi vì Đức Giêsu sẽ tác động trong và qua Đấng Bảo Trợ mà thông ban sự hiểu biết này. Khó mà có thể khẳng định rằng trong TM IV, có ý tưởng về một sự mạc khải khác nữa sau hoạt đông của Đức Giêsu, bởi vì Người chính là sự mạc khải của Chúa Cha, là Lời của Thiên Chúa (1,1.14.18).
* Vai trò của Thần Khí (13-14)
Ở đây chúng ta được giới thiệu Đấng Bảo Trợ như là vị hướng dẫn các môn đệ đến sự thật toàn vẹn. Trong Cựu Ước, đã có những ý tưởng như thế về Thần Khí (x. Tv 25,4-5 [sự thật]; 143,10 [thần khí]; Is 63,14). Đôi khi người ta nêu vấn nạn là: các bản văn Cựu Ước đó chỉ liên hệ đến việc hướng dẫn luân lý, chứ không liên hệ đến việc hiểu biết mạc khải sâu xa hơn; và như thế dung mạo Đấng Bảo Trợ do Ga phác ra hoàn toàn khác: như vậy, “thần khí”, “đường lối”, “chân lý” trong TM Ga có ý nghĩa hoàn toàn khác. Thật ra đó là bối cảnh Cựu Ước và tác giả TM IV đã đi từ bối cảnh đó để viết; nhưng chắc chắn Đấng Bảo Trợ hướng dẫn trên con đường chân lý không chỉ có nghĩa là đưa đến một hiểu biết sâu sắc hơn bằng lý trí những gì Đức Giêsu đã nói, nhưng còn hàm ý là đưa đến một cách sống phù hợp với giáo huấn của Đức Giêsu. Và như vậy, tư tưởng Ga không xa tư tưởng Cựu Ước như ta tưởng. Ta cũng có thể nghĩ đến vai trò hướng dẫn của Đức Khôn Ngoan (x. Kn 9,11; 10,10); cũng như gương mặt của Đức Giêsu theo Ga được phác ra phỏng theo Đức Khôn Ngoan thần linh được nhân cách hóa, thì dung mạo của Đấng Bảo Trợ cũng được phác ra tương tự.
Đấng Bảo Trợ sẽ hướng dẫn các môn đệ tới sự thật toàn vẹn. Ở Ga 8,31-32, Đức Giêsu đã hứa: “Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi; các ông sẽ biết sự thật”. Điều này được nên trọn trong và qua Đấng Bảo Trợ. Dẫn dắt tới sự thật toàn vẹn là dẫn đưa vào mầu nhiệm của Đức Giêsu là Sự Thật (14,6). Chi tiết xác định “sự thật toàn vẹn” (x. 14,26) và điểm nhấn rằng Đấng Bảo Trợ sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng chỉ nói những gì Người nghe, dường như cũng xác nhận rằng không có mạc khải mới. Đấng Bảo Trợ sẽ giúp cho mỗi thế hệ hiểu sâu sắc những gì Đức Giêsu muốn cho chính thời đại họ.
Câu 14 càng củng cố ấn tượng là Đấng Bảo Trợ không mang đến một mạc khải mới, bởi vì Người nhận từ Đức Giêsu những gì Người phải loan báo cho các môn đệ. Tuy nhiên, “dẫn tới sự thật toàn vẹn” không phải là việc duy nhất trong công tác “làm nhớ lại” (14,26). Bởi vì Thánh Thần cũng là “Đấng tạo hóa”, việc nhớ lại Người làm ra cũng đi đôi vối việc loan báo “những điều sẽ xảy đến (erchomena)”: việc nhớ lại không làm cho các môn đệ quay lưng lại với tương lai, nhưng giúp họ nắm lấy và giải thích tương lai.
Như Đức Giêsu đã tôn vinh Chúa Cha (17,4) bằng cách mạc khải Chúa Cha cho loài người, nay Đấng Bảo Trợ “tôn vinh” Đức Giêsu bằng cách mạc khải Người cho loài người. Vinh quang hàm ý có sự tỏ hiện ra hữu hình: Đấng Bảo Trợ sẽ làm chứng và biến người ta thành chứng nhân (15,26-27) cho Đức Giêsu Phục Sinh; như thế Người sẽ giới thiệu công khai Đức Giêsu Phục Sinh đang chia sẻ vinh quang của Chúa Cha (17,5). Và đây cũng là một yếu tố thuộc cánh chung học đã thể hiện: Đối với các TMNL, Con Người sẽ đến trong vinh quang vào Ngày Cuối Cùng (Mc 13,26), còn đối với TM IV, đã có vinh quang rồi do Đức Giêsu hiện diện trong và qua Đấng Bảo Trợ.
* Tương quan giữa Thần Khí với Chúa Cha và với Đức Giêsu (15)
Câu 15 gián tiếp nhắc đến tương quan của Đấng Bảo Trợ với Chúa Cha và với Chúa Con. Ở chương 16 này, ta thấy Đức Giêsu là Đấng sai phái Đấng Bảo Trợ (16,7); nhưng ở 14,16.26, Chúa Cha lại là Đấng sai phái. Nhưng c. 15 cho thấy rằng khi viết ch. 16, tác giả cũng biết rằng cuối cùng Đấng Bảo Trợ, cũng như Đức Giêsu, là sứ giả của Chúa Cha. Khi loan báo hoặc giải thích những gì thuộc về Đức Giêsu, Đấng Bảo Trợ thực sự giới thiệu Chúa Cha cho loài người; bởi vì Chúa Cha và Đức Giêsu có mọi sự chung với nhau. Sau này các nhà thần học Đông phương và Tây phương sẽ tranh cãi trong Thần học về Ba Ngôi xem Thánh Thần nhiệm xuất từ một mình Chúa Cha hay là từ Chúa Cha và Chúa Con. Còn trong tư tưởng Ga, không thể hiểu được chuyện Đấng Bảo Trợ có điều gì nhận lấy từ Đức Giêsu mà lại không nhận lấy từ Chúa Cha, nhưng tất cả những gì Người có để cho loài người, đều nhận lấy từ Chúa Cha và từ Đức Giêsu.
+ Kết luận
Vai trò của Thánh Thần được khẳng định rõ ràng: Người đưa các thế hệ môn đệ vào trong sự thật toàn vẹn, tức là hiểu biết sâu sắc mầu nhiệm Đức Kitô, Con Thiên Chúa Nhập Thể. Như Đức Kitô luôn quy chiếu về Chúa Cha, Đấng đã sai phái Người (x. 7,17-18; 12,49; 14,10), Thánh Thần cũng quy chiếu về Chúa Con. Người sẽ là vị “gia sư” nhắc lại cho các môn đệ tất cả mạc khải của Đức Giêsu và giúp đào sâu qua các thời đại.
5.- Gợi ý suy niệm
Kinh Thánh không công bố lần nào từ trừu tượng, “Chúa Ba Ngôi” cả. Kinh Thánh cũng không bao giờ định nghĩa như ngôn ngữ duy lý Hi Lạp sẽ làm, là có “Ba Ngôi vị trong Thiên Chúa duy nhất. Mầu nhiệm cố yếu nhất trong Thiên Chúa không được mạc khải bằng những công thức nhưng nhờ các sự kiện Cựu ước chỉ nói về Thiên Chúa Người Cha” (Đnl 32,6 – Tv 67, 6 – Is 63, 16 Gr 2, 4.1). Và các “con cái” của Thiên Chúa là dân tộc Israel (Xh 4,22 -Hs 11,1), hay hiện thân là ông Vua (2 Sm 7,14 – Tv 110,3) hơn những người công chính (Kn 2, 18 – 5,5 – 18, 13). Sau cùng, ta nhận thấy Thần Khí của Thiên Chúa xâm nhập một số người (St 41, 38 – Ti 6, 34 -Is 11,2 – Ed 39, 29 – Ge 3, 1).
Đúng vậy Cựu ước đã không mạc khải cách minh nhiên Ba Ngôi trong Thiên Chúa. Nhưng ngay các tác giả Tân ước cũng lập lại thứ ngôn ngữ Kinh Thánh trên, để diễn tả tính hoàn toàn mới lạ của “hiện tượng Giêsu”: Ngài trực diện với Chúa Cha, và loan báo việc thông ban Thần Khí. Khi cắt nghĩa những sự kiện đó, Kitô giáo còn phải dò dẫm suy tư rất lâu, trước khi xác định một kiểu diễn tả đức tin đầu tiên nhớ những quan niệm triết học HiLạp, từ Công đồng Ni-xê năm 325 đến Công đồng Kan-xê-Đoan năm 451.
Trong trang Tin Mừng hôm nay, Đức Giêau nói về Thánh Thần.
Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ anh em không có sức chịu nổi.
Đó là một kinh nghiệm mà con người chúng ta thường gặp thấy Ngay cả với những người thân yêu, chúng ta cũng khó mà “thông truyền” hết những gì mà chúng ta mang trên mình và muốn chia sẻ cho họ. Như vậy, trước khi chịu chết Đức Giêsu đã không nói hết mọi điều. Nhưng đây không chỉ là khó khăn ta quen gặp trong vấn đề diễn tả. Đây chính là mầu nhiệm đức tin mà ta chỉ dần dần bước vào. Ngay cả những bạn hữu thân thiết nhất, đã sống kề cạnh lâu ngày với Đức Giêsu, cũng không nhận thức được điều gì đã xảy ra, Người là “Ai”. Họ mang quá nhiều ý kiến có sẵn về Thiên Chúa và Đấng Mê-xi-a đã được hứa ban. Họ cần phải tự lột bỏ, thay đổi ý kiến, và lớn lên trong đức tin. Chỉ có thập giá và sự Phục sinh của Người, như một thứ va chạm điện mãnh liệt, mới phá được những xác tín của họ và bó buộc họ phải tiến triển.
Phải, đức tin là một sự “tiến triển”. Đó là một sức sống cần phải phát triển. Trong Thiên Chúa, luôn có những điều mới lạ cần phải khám phá, cũng như trong sự phát triển của một tương quan yêu thương với một người nào đó: hôn phu, người chồng, bạn hữu, đồng nghiệp… Biến cố bi đát của tông đồ, là những người hầu như không: hiểu biết gì về Đức Giêsu trước lúc Người ra đi, cảnh giác chúng ta không nên biến đức tin thành một Đức tin tĩnh, chỉ đắc thủ một lần là xong… “Tôi có đức tin rồi…” “Tôi không thể mất đức tin…”
Cũng như các tông đồ tôi mới chỉ ở bước đầu của một cuộc khám phá, một cuộc mạo hiểm. Lạy Chúa, đối với con, cũng có nhiều điều con chưa chịu nổi, Thần Khí của Chúa sẽ mạc khải cho con sau này, nếu con biết chăm chú lắng nghe. Xin giữ gìn thần trí con luôn thức tỉnh để đón nhận Thần Khí của Thiên Chúa! Chớ gì đừng bao giờ con tự mãn, coi mình là hiểu biết tất cả, vênh vang trước những mảnh vụn Đức tin tầm thường mà con đang sống.
Dĩ nhiên, con cũng nghĩ đến những người con đang chung sống. Họ cũng gặp một tình trạng như thế: Họ đang bước đi trên cùng “con đường đức tin” đó. Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói, có những chân lý, những thái độ họ chưa khám phá ra cách sống động… Giờ đây họ chưa có thể “chịu nổi”? Lạy Chúa, xin ban cho con sự kiên nhẫn của Chúa. Chớ gì con biết tiến bước nhịp nhàng với Chúa, với những mạc khải yêu thương của Chúa… cùng đồng hành với anh em con trong bước tiến riêng của họ.
Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn.
Tôi ghi nhận từ đẹp trên đây: “dẫn tới” Tôi hình dung ra một người dẫn đường lên núi cao. Đó là người biết rõ mọi lối đường là người yêu thích và thưởng ngoạn ngọn núi đó mà anh muốn làm cho người khác càng thích thú… Là người đi trước và giúp ta tiến lên. Nhưng như bạn biết, người dẫn đường không thay thế bạn được: chính bạn phải bước theo. Nếu vì quá mệt lả, bạn từ chối bước cao hơn… Anh ta không thể cưỡng chế tự do của bạn. Anh ta hiện diện ở đó, là để “hướng dẫn” bạn. Lạy Thần Linh Thiên Chúa, ánh sáng dịu dàng. Xin hướng dẫn con, để con không từ chối việc lên núi… một bước…. rồi thêm một bước nữa! để trên bước đường con đi tới, con gặp được những người dẫn đường tình nghĩa huynh đệ mà Thần Khí Chúa đang tác động.
Bởi vì, đúng vậy, đúng là một cuộc “chạy đua lên núi cao”: Đức tin là cuộc tìm kiếm mầu nhiệm Thiên Chúa! Đó là chóp đỉnh không ai có thể một mình đạt tới: cần phải có một “người nào đó” dẫn lên. Cần phải có một ông thầy, một người dẫn đường biết rõ bí mật.
Trong suốt nhiều thế kỷ, các Công đồng cố gắng tìm hiểu những lời trên đây của Gioan…và kết thúc bằng cách quả quyết rằng, thực sự’ Thần Khí là một “Đấng nào đó “…là một Ngôi vị… là Đấng hiểu biết mầu nhiệm thâm sâu của Thiên Chúa từ bên trong, để hướng dẫn con người đạt tới đó Trong bức ảnh diễn tả Chúa Ba Ngôi của Roublev, Thánh Thần là ngôi thứ ba, với khuôn mặt tuyệt đối giống hai ngôi kia, Chúa Cha và Chúa Con. Nhưng trong tư thế đầu Ngài hoàn toàn nghiêng về hai Ngôi kia cách âu yếm để hoàn thành chuyển động của “vòng tròn hoàn hảo” , thì mắt Ngài thực tế lại nhìn về phía trái đất, hướng đến con người đang cầu nguyện trước ảnh tượng, để “mở ra” và “thông truyền” cho con người chính sự chuyển động của Thiên Chúa: đó là Tình Yêu!
Thần Khí sự thật! Sự thật toàn vẹn!
Nhưng coi chừng! khi bàn về Thiên Chúa, sự thật không phải là thái độ tri thức… cũng như’ sự hiểu biết về một con người mà ta muốn yêu thương. Trước hết, không phải là học biết, quan sát, đo nghiệm, đặt dưới ống kính hiển vi… nghiên cứu cách khoa học, như thể ta nghiên cứu một “sự vật” ở đây, thuộc về một lãnh vực khác. Hiểu biết một “Người nào đó” là bước vào mối tương quan với họ.
Nói rằng mình là “tín hữu không thục hành”… thì đó là một lời thú nhận quan trọng, nếu người đó ý thức và thực sự đã suy nghĩ kỹ. Một tình yêu nếu không được “thực hành” thì sẽ là gì? Một tương quan với một người nào đó, nếu không thể sống động và thể hiện, thì sẽ ra sao? Lạy Thần Khí sự thật, xin hướng dẫn con tới sự thật “toàn vẹn”!
Ngài sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến.
Đó là hình ảnh của tiếng phản dội vào thần trí ta. Giữa Chúa Cha, Đức Giêsu và Thánh Thần, luôn có sự liên tục hoàn hảo. Đó là cùng một tiếng nói lập lại nhiều lần, với cách thức khác nhau. Thánh Thần không nói gì khác về Đức Giêsu cả! Sự thật duy nhất và xác thực về Thiên Chúa, là Đức Giêsu. Mọi sự người ta đã nói trước, và mọi điều Người ta đã nói sau… về Thiên Chúa, mà không phù hợp với những gì Đức Giêsu của Thiên Chúa tỏ lộ cho ta, thì đều sai lầm! Đó là một Thiên Chúa giả! và với sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, chúng ta cần phải điều chỉnh nhiều ý tưởng sai lầm về Thiên Chúa. “Nếu Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Môsê, thì ân sủng và sự thật nhờ Đức Giêsu Kitô mà có” (Ga 1,17) “Tôi là Đường, là Sự Thật và là Sự Sáng (Ga 14,6)
Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em.
Như chúng ta đây biết, Đức Giêsu là Người con hoàn hảo, hoàn toàn hướng về Chúa Cha. Đức Giêsu “không thể tự mình làm bất cứ điều gì, ngoại trừ điều Người thấy Chúa Cha làm, vì điều gì Chúa Cha làm, thì Người Con cũng làm như vậy. Quả thật, Chúa Cha yêu Người Con và cho Người Con thấy mọi điều mình làm” (Ga 5,19-20). Đó là mầu nhiệm thâm sâu của Chúa Ba Ngôi: Mỗi Ngôi là sự thấu suốt trọn vẹn của Ngôi khác. Ở đây, Đức Giêsu mạc khải cho thấy, Thánh Thần bước vào hoạt động thẩm chiếu trọn vẹn đó. Những tương quan yêu thương giữa Ba Ngôi Thiên Chúa không có gì là giấu ẩn, là che đậy đóng kín: Mỗi Ngôi trong Ba Ngôi không giữ cái gì làm của riêng mình”. Mọi sự đều được chia sẻ, thông ban, hiến tặng… và mọi sự đều được tiếp đón, nhận lãnh! Những lời nói trần gian của chúng ta đều trở yếu kém, để diễn tả tính chất phi thường của mối liên quan liên kết Chúa Cha, Chúa Con, và Thánh Thần. Mọi tương quan nhân loại của ta đều bắt nguồn từ mối tương quan đó! Đỉnh cao không thể vượt qua được về Thiên Chúa, đó là: mạc khải về Chúa Ba Ngôi.
Nhưng trước hết, Chúa Ba Ngôi không phải là một thứ ẩn ngữ, một thứ siêu phương trình toán học dành cho những nhà trí thức ưu hạng… Đó chỉ là một thực tại hoàn toàn giản đơn bị che giấu đối với các bậc khôn ngoan thông thái nhưng lại được mạc khải cho những người ‘bé mọn” (Mt 11,25). Bởi vì, nói về Thiên Chúa cũng là nói về con người, “được tạo dựng theo hình ảnh và hòa ảnh của Thiên Chúa”. Bé thơ, trẻ mới sinh không biết rằng nó có một gia đình. Nhưng ngay từ những tuần lễ đầu tiên, mơ hồ nó thấy mình được che chở trong một tình yêu thương… Nó cảm thấy quanh mình một tình âu yếm, luôn đáp lại mọi cơn đói khát, mọi tiếng kêu la của nó. Trước hết nó cảm nghiệm tình yêu đó như “một” cái gì lờ mờ, nhưng hoàn toàn mạnh mẽ và thích thú. Bé chỉ cần bật tiếng khóc, là “nó” có mặt ở đó…
Với thời gian, cuối cùng thì bé cảm nhận được rằng, sự hiện diện đó có nhiều dạng không hẳn chỉ là “một” tiếng cao và giọng trầm, khuôn mặt mịn như nhung và khuôn mặt lởm chớm những rầu, bàn tay mềm mại và bàn tay sắt thép… Nhiều người đang phải sống cùng một tình thương đó quanh bé, vì bé…” (Rey-mermet). Bằng cách đó, những người đơn sơ cũng khám phá ra mầu nhiệm của Gia đình Thiên Chúa: nhờ “thực tập” ngày này qua ngày khác…cho tới lúc ở trong Gia đình.
Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy , vì thế Thầy đã nói: “Người lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em”.
Một lời phát biểu gây ngạc nhiên. Trước hết chúng ta hãy để cho lời đó gây bối rối nơi ta.
Một anh thợ mộc làng Nadarét tầm thường, một con người cũng mang xương thịt thấp hèn, thế mà trước ngày bị kết án tử hình bởi những nhà cầm quyền dân sự và tôn giáo của đất nước anh, đã dám cả quyết rằng “mọi sự Thiên Chúa có đều là của anh”.’ Và không chỉ một lần trong Tin Mừng, Đức Giêsu đã gợi lên sự hiệp nhất lạ lùng như thế giữa Người và Thiên Chúa: Đức Giêsu, chính là Thiên Chúa hữu hình (ta có thể nói được như thế! bởi vì quả thực Thần Khí của Đức Giêsu, biểu lộ cách vô biên ngoài tầm mắt của ta). Và Thần Khí, chính là Đức Giêsu – tiếp tục và được lập lại mãi mãi trong tâm hồn con người. Thần Khí phản chiếu Đức Giêsu. Và Đức Giêsu phản chiếu Đức Chúa Cha vô hình. Tôi chiêm ngưỡng sự duy nhất và tính khác biệt này… Đó là sự hiệp thông các ngôi vị “nhiều mà chỉ là một”: nguyên mẫu của con người! chương trình hành động cho mọi xí nghiệp, mọi gia đình, mọi xã hội. Đó là một “chóp đỉnh” thực sự mà một phần không thể đạt thấu. Chúng ta có để cho Người “hướng dẫn” ta tới đó không? Lạy Thánh Thần xin hãy đến!
CHÚA CON ĐÃ SAI THÁNH LINH ĐỂ TIẾP TỤC CÔNG TRÌNH CỦA NGƯỜI Ở TRẦN GIAN
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
Vào, giờ Đức Giêsu sắp “phải bỏ thánh giá mà về với Chúa Cha”, ta thấy có hai giai đoạn trường bài diễn từ sau bữa Tiệc Ly.
– Thời kỳ của Đức Giêsu, thì các môn đệ không làm sao có sức chịu nổi ” những lời Người.
– Thời kỳ của Thánh Linh ” thì chính Người sẽ dẫn dắt các ông tới sự thật toàn vẹn”.
X Léon-dutour quảng giải: “Bấy giờ” của bữa tiệc ly đối tương phản với thời kỳ Đấng Bảo Trợ đến; là việc đến này tùy thuộc vào lễ vượt Qua của Chúa Con” (“Lecture de L’Evangilc de St Jean “, cuốn 3, Seuil, trg 231).
Thần Khí này, Đức Giêsu hứa với các tông đồ: “sẽ dẫn các ông đến sự thật toàn vẹn “. Việc Chúa Thánh Thần đến soi sáng vào quá khứ của Đức Giêsu, sẽ khiến cộng đoàn các môn đệ của Người hiểu sâu thêm những lời nói và việc làm của người, hiểu để áp dụng và đi vào cuộc sống. Hơn nữa, Người còn cho các môn đệ thông hiệp vào hiện tại của Đức Giêsu, người Con đã được tôn vinh nơi Thiên Chúa và đang muốn thông ban cho các môn đệ chính con người vinh quang của mình.
– Thần Khí này, Đức Giêsu phán tiếp “sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em”. Để dẫn đến sự thật, Thần Khí “sẽ nói lên” hay là “sẽ diễn tả” điều mà Người nhận từ Chúa Con… X. Léon-dufour giải thích thêm: “Nếu Đức Giêsu ngừng nói bên tai, thì việc Người nói trong tim (đồng nghĩa với “mạc khải”) vẫn còn tiếp tục nhờ trung gian của Thần Khí. Quả vậy Thần Khí không nói nhân danh quyền năng của mình, cũng giống như Đức Giêsu đã không nói tự ý mình; Thần Khí sẽ nhận từ Đức Giêsu cũng giống như Đức Giêsu nhận từ Chúa Cha (8, 26). Tiếng nói của Thần Khí chắc chắn không đập vào lỗ tai, nhưng thấm sâu tận tâm hồn. Như vậy Chúa Con tiệp tục mạc khải của mình bằng cách thế khác trước, cách thế thần linh”… Chúa Thánh Linh sẽ là người biểu lộ Đức Giêsu vậy”:
BÀI ĐỌC THÊM:
“Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em”. Vào lúc ly biệt, những lời kín đáo này phát ra từ môi miệng Đức Giêsu để kết thúc buổi hàn huyên đầy tình hiệp thông. Vấn đề không tại điều muốn nói, mà tại ý nghĩa thẳm sâu nằm ở những lời ấy. Sánh với những gì nằm sâu trong lòng biển cả bao la, thì lời nói cũng chỉ như đám bọt biển trắng xoá trên mặt mà thôi. Điều mà Thầy muốn ban cho anh em, chia sẻ với anh em là những gì tự đáy lòng Thầy, là những gì là sâu xa nhất từ nội tâm Thầy.
Không phải là Thầy không còn thời giờ, cũng chẳng phải là Thầy còn nói thêm nhiều điều khác. Thầy chỉ mong muốn lặp đi lặp lại mãi mãi điều cốt lõi. Ước chi điều cốt lõi được lặp lại hoài này, luôn có được vẻ tươi mát của buổi bình minh đang xuất hiện.
Nội tâm Thầy như mạch nước muốn vọt lên nhưng lại không vọt lên được. Điều Thầy muốn nói ra thì lại không thể diễn tả được. Và người nghe không bao giờ có thể hiểu, cũng không thể cảm nghiệm được với ánh sáng và cường độ mà Thầy mong muốn vì điều đó thuộc về Thầy một cách quá lạ thường. Cái “tôi” thẳm sâu này không sao tả xiết.
“Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em”. Nhưng lúc này, như thế là đủ rồi. Không thể nói thêm nữa, là người nghe cũng không thể tiếp thu hơn. Sự truyền đạt từ người này sang người kia kết thúc, vào lúc mối hiệp thông không còn có thể hiệp nhất thêm nữa.
“Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em”. Khi Đức Giêsu tâm sự điều này với các bạn hữu của Người, thì tình Thầy trò thân mật trước lúc chia ly rất phong phú đến nỗi không có thể nói gì hơn nữa.
Vả lại Người còn có thể mạc khải gì hơn về Người hoặc về Chúa Người chăng? Người chẳng phải là mạc khải đầy đủ về Thiên Chúa rồi đấy sao? Đây không phải một “món hàng tàng trữ” ngủ yên trong tủ sắt, hoặc được nâng niu giữ gìn trong hộp quý. Không đâu, đây là một dòng suối không hề cạn kiệt.
Thần Khí, trong khi giúp người ta hiểu biết và nhìn nhận Đức Gtêsu, sẽ khiến người ta không ngừng đói khát muốn hiểu biết hơn nữa. Thần Khí khơi dậy nơi lòng người tín hữu sự hiện diện của Đấng Phục sinh. Người giúp khám phá sự hiện diện đó là gì, có hệ quả gì trong cuộc sống thường nhật cũng như trong những giờ phút trọng đại của lịch sử.
Một sự hiện diện kín đáo và mãnh liệt.
Một sự hiện diện đầy bình an và tình thương.
Và sự hiện diện này là Sự sống. “
(N. Quesson trong “Les entretiens du dimanche. Année C”.
Roguet -Ardant. trg 101-102)
Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, cũng như tất cả những mầu nhiệm đặc biệt kitô giáo, không tự nhiên dễ hiểu đối với những trí tuệ thích lý luận của con người. Mới đây một đứa trẻ đã nói với cha nó rằng: “Ba mà cũng còn tin những chuyện ấy à? Phản ứng của đứa trẻ này minh họa rõ ràng cái não trạng vụ khoa học mà ta đã bị thấm nhiễm, và não trạng đó có khuynh hướng chủ trương cái gì có thể kiểm nghiệm được, mới được coi là có thật.
Tuy nhiên, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là một trong những mầu nhiệm đáp ứng được những ước mơ thâm sâu nhất của nhân loại. Bí mật của thế giới chúng ta không phải là cái gì trừu tượng, hoặc một sức mạnh vô danh tăm tối, nhưng là một tình thương… , có thể nói được rằng: ” đó là nhịp đập của ba trái tim thương yêu nhau ” hoặc nói theo ngôn ngữ truyền thống hơn, nhưng cùng một thực lại lạ lùng đó, ta nói: Thiên Chúa là ba ngôi vị, nhưng Ba Ngôi là một Chúa duy nhất.
Thật vậy bạn hãy mở sách Tin Mừng bất kể trang nào, bạn sẽ thấy rằng Đức Giêsu không khi nào đóng vai giáo sư dạy môn tôn giáo hoặc môn triết học. Người đã không hề giảng bài về Chúa Ba Ngôi. Người cũng không bao giờ nói ra từ ngữ đó. Không! Nhưng đơn giản là Người đã sống. Người đã sống như một Người Con. Người chỉ mang trong tim, chỉ nói ra nơi cửa miệng cái tên của lòng yêu thương, các tên của Đấng mà, các trẻ nhỏ Do Thái ngày nay vẫn còn dùng để gọi cha của chúng trên các đường phố Giêrusalem.
Chúng ta vừa mới nghe những lời rất đơn sơ của Tin Mừng: Mọi sự thuộc về Cha, do thánh Gioan kể lại (Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu phiên dịch cách hồn nhiên là: à Papa le Bon diêu”: thuộc về “Ba” Chúa Trời) những gì thuộc về Cha Thầy, là của Thầy. Rồi Người nói tiếp liền: ” Thần Khí sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em”.
Như vậy, cách sử sự và những lời của Đức Giêsu đưa ta vào làm quen với “Ba Ngôi” vừa hoàn toàn tách biệt, tuy nhiên, lại vừa hoàn toàn liên kết nên một. Vâng, Đức Giêsu là Đấng luôn “qui hướng về Đấng khác”.
Quả thật, trong suốt lịch sử của nhân loại đi tìm kiếm từ tôn giáo, Đức Giêsu và chỉ một mình Đức Giêsu là người đủ bạo dạn để dám nghĩ rằng: Thiên Chúa không phải là Đấng cô đơn, xoay tròn chung quanh mình, giam hãm mình trong một thứ ích kỷ thánh thiêng…, nhưng Thiên Chúa là Đấng khởi nguồn và làm nẩy sinh mối liên hệ yêu thương.
THẦN KHÍ SỰ THẬT
Khoa sư phạm của Thánh Thần còn có một mục đích khác; soi sáng những biến cố sẽ xảy ra. Vì thấu hiểu mạc khải của Đức Kitô sẽ không ích gì nếu không biết áp dụng vào các hoàn cảnh khác nhau của cuộc sống. Nhờ ánh sáng của Ngài, môn đệ có khả năng nhận thức họ phải cư xử thế nào cho phù hợp với các hoàn cảnh khác nhau sẽ xảy đến, để điều chỉnh lối sống của họ theo nhân sinh quan và vũ trụ quan Kitô giáo. Người Kitô hữu nhìn mọi sự khác cái nhìn của lương dân vì họ giải thích tất cả bắt nguồn từ biến cố luôn hiện thực của Đức Kitô. Sự chết, sự phục sinh và lên trời của Ngài không phải chỉ là những sự kiện quá khứ đã xong xuôi chẳng còn âm hưởng gì đến thời hiện tại. Các hành vi cứu thế của Đức Kitô vẫn kéo dài từ thời gian này qua thời gian nọ, trong công việc tầm thường hàng ngày cũng như trong những biến động của lịch sử. Gán cho lịch sữ mộ ý nghĩa Kitô giáo, giúp khám phá ra những dấu vết của chương trình Thiên Chúa trong tất cả sự kiện đó (“vì tôi đã không e ngại mà dấu giếm đi, để không loan báo cho anh em biết ý định của Thiên Chúa”)(Cv 20,27), chiếu ánh sáng sống động của mạc khải trên mọi biến cố, vào mọi thời đại: đó là sứ mệnh của Thánh thần nơi các môn đệ. Như vậy, Ngài không có tiên báo chi tiết về tương lai cũng như không tường thuật những biến cố làm đề tài của niên sử. Dưới con mắt của Ngài, điều thiết yếu không phải là chỗ đó, nhưng là chiều hướng diễn tiến của kế hoạch cứu rỗi.
Tuy nhiên, Thánh Thần sẽ biến tất cả Kitô hữu thành những ngôn sứ. Giống như các ngôn sứ CƯ, bổn phận chủ yếu của họ không phải là tiên báo, nhưng là khám phá ý định Thiên Chúa trong biến cố hiện đại, “đọc các thời triệu”, nhận biết chiều kích riêng của Thiên Chúa đằng sau những biến cố đó. Tất cả mọi biến cố của thế giới, xảy ra từ ngày Chúa Giêsu hiển vinh, đều thuộc về thời cánh chung, cho nên việc thấu hiểu trật tự mới, mà người đàn bà Samarotanô trông đợi nơi đấng Messia (4,25), chỉ có Thánh Thần thông ban mà thôi. Tác giả sách khải huyền đã thử nói tiên tri theo kiểu này.
Vì thế Thánh Thần không mang lại một mạc khải mới, nhưng chỉ liên tục giải thích mạc khải của Đức Kitô để không ngừng soi chiếu các biến cố của thời đại. Thánh Thần liên tục tham chiếu mạc khải của Đức Kitô. Ngài đón nhận tất cả từ Đức Kitô, cũng như Đức Kitô đã đón nhận mọi sự từ Cha. Có một tiếp nối hoàn hảo giũa mạc khải trong Đức Kitô và sự thông hiểu nhờ Thánh Thần. Cả hai đều bắt nguồn từ Cha.
Nhưng tất cả những cái đó không cấm giáo hội, dưới ảnh hưởng của Thánh Thần, giải thích không ngừng nội dung mạc khải do Đức Kitô mang đến, phát sinh cái mà các nhà khoa học gọi là “sự tiến triển các tín điều”. Công đồng Vaticanô II đã dạy: “Thánh truyền do các tông đồ truyền lại được tiến triển trong Giáo hội dưới sự trợ giúp của Thánh Thần. Thật vậy, các sự việc và các lời nói truyền lại được hiểu biết thấu đáo hơn nhờ sự chiêm ngắm và học hỏi của các tín hữu, những người đã ghi nhận những điều đó lòng (Lc 2,19 và 51); nhờ sự thông hiểu những điều thiêng liêng họ cảm nghiệm được, hoặc nhờ việc giảng dạy của những người lãnh nhận một đoàn sủng chắc chắn về chân lý, do việc kế vị trong chức giám mục. Nói cách khác, qua bao thế kỷ Giáo hội luôn hướng tới sự viên mãn của chân lý Thiên Chúa cho đến khi lời Chúa được hoàn tất nơi chính Giáo hội (hiến chế mạc khải của Thiên Chúa, số 8).
KẾT LUẬN
Thiên Chúa đã tỏ mình ra không như là một hữu thể trừu tượng, một kiến trúc của trí tuệ, hay còn tệ hơn nữa như một người xa lạ. Trong Đức Kitô, người trở nên một người trong chúng ta để chúng ta dễ nhận biết Ngài: “Ai thấy Ta là thấy Cha”, Chúa Giêsu đã nói với Philipphê như vậy.
Chúng ta nhớ lại là đã cùng nhau đọc và suy niệm một vài đoạn trong diễn từ sau Tiệc ly trong các Chúa nhật mùa Phục sinh; trong các đoạn đó, Chúa Giêsu thường nói về Cha và Thánh Thần; chính nơi Cha mà Con qui chiếu mọi dự định của mình và nhận lấy Lời để loan truyền. Con công chính hóa loài người, ban cho họ sự bình an và uỷ cho họ quyền hòa giải. Thánh Thần dẫn đưa những ai đón nhận Con đi đến chân lý.
Một đàng, sự phân biệt các ngôi vị cho thấy sự phân biệt tự trị trọn vẹn của mỗi ngôi. Cho nên có một sự kính trọng tuyệt đối và không có sự lệ thuộc hay thống trị lẫn nhau. Thật vậy ai mà không ước mơ được sự giải thoát khỏi uy lực của kẻ khác? Vì đó chính là điều kiện căn bản để ngôi vị được tự trị và độc lập trọn vẹn.
Đàng khác, có sự thông hiệp hoàn toàn của Ba Ngôi với nhau trong mối hiệp nhất. Các đấng không bao giờ làm việc gì mà không có nhau; các Ngài luôn cùng nhau hành động; điều gì ngôi này có thì ngôi kia cũng có; ngôi này là gì thì ngôi kia cũng vậy. Ai mà không ước mơ sự thông hiệp hoàn toàn với người khác, sự hiệp nhất khắn khít đến nỗi không còn ranh giới, đến nỗi thông giao với nhau một cách trọn vẹn, đơn sơ, chân thành. Ở đây chúng ta bắt gặp lại từ ngữ nổi tiếng của thánh Gioan, một từ ngữ mà chưa bao giờ có ai tát cạn ý nghĩa phong phú: “Thiên Chúa là tình yêu”. không phải là Thiên Chúa có tình yêu như có ánh sáng, quyền năng hay sự sống. Không! Ngài là tình yêu. Tình yêu là bản chất của Ngài.
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)
Theo Phụng Niên của Giáo Hội, Lễ Trọng Kính Thiên Chúa Ba Ngôi hôm nay được Giáo hội sắp xếp vào tuần thứ hai của Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh, ngay sau tuần Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Lễ Trọng Kính Thiên Chúa Ba Ngôi được Giáo Hội cử hành ngay sau Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống như thế thật là hợp tình hợp lý, vì biến cố Chúa Thánh Thần Hiện Xuống là biến cố cho thấy Ngôi Ba Thiên Chúa là Ngôi Vị cuối cùng trong Ba Ngôi tỏ mình ra, sau khi Ngôi Hai đã hóa thành nhục thể và ở giữa loài người vào thời của Người, “thời sau hết” (Heb 1:2), “thời viên trọn” (Gal 4:4) cũng như sau khi Ngôi Cha đã tỏ Danh Ngài ra qua Moisen cho dân Do Thái trong thời Cựu Ước (x Ex 3:14). Tuy Giáo Hội không cử hành Lễ Trọng Kính Thiên Chúa Ba Ngôi trọng thể như Đại Lễ Giáng Sinh hay Đại Lễ Phục Sinh về phương diện phụng vụ, thế nhưng, về phương diện tín lý và tu đức, Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm cao trọng nhất và siêu việt nhất. Nếu trong Cựu Ước Thiên Chúa đã tỏ mình ra là một Vị Thiên Chúa Chân Thật Duy Nhất, một thực tại chi phối toàn diện Lịch Sử Cứu Rỗi thời Cựu Ước, thì trong thời Tân Ước, Vị Thiên Chúa Chân Thật Duy Nhất này lại tỏ mình ra là một Vị Thiên Chúa Ba Ngôi. Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi tuy được mạc khải sau Mầu Nhiệm Thiên Chúa Chân Thật Duy Nhất nhưng lại là tuyệt đỉnh của tất cả Mạc Khải Thần Linh, cả Cựu Ước lẫn Tân Ước. Bởi vì, Vị Thiên Chúa Chân Thật Duy Nhất trong thời Cựu Ước ấy cũng chính là Vị Thiên Chúa Ba Ngôi của thời Tân Ước, Vị Thiên Chúa tỏ hết mình ra nơi Con của Mình là Lời Nhập Thể bằng Quyền Phép Thánh Linh. Đó là tất cả ý nghĩa của bài Phúc Âm theo Thánh Gioan Năm C hôm nay: “Tất cả những gì Cha có đều ở nơi Thày, đó là lý do Thày nói những gì Ngài truyền đạt cho các con Ngài đều lấy từ nơi Thày”. Vậy chúng ta hãy cùng nhau suy niệm câu Phúc Âm mạc khải về hoạt động ngoại tại của Chúa Ba Ngôi này.
Trước hết, “những gì Ngài thông đạt cho các con Ngài đều lấy từ nơi Thày” đây là gì, nếu không phải là “những gì Cha có”? Mà “những gì Cha có” đây là gì, nếu không phải, như Chúa Kitô khẳng định, “đều ở nơi Thày” hay “đều thuộc về Thày” hoặc “đều là của Thày”, tùy theo bản dịch. Theo tôi, cả câu Phúc Âm “Tất cả những gì Cha có đều ở nơi Thày, đó là lý do Thày nói những gì Ngài thông đạt cho các con Ngài đều lấy từ nơi Thày”, và riêng câu “tất cả những gì Cha có đều ở nơi Thày” đây là cốt lõi của tất cả mạc khải về Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Bởi vì, qua câu “tất cả những gì Cha có đều ở nơi Thày” này, Chúa Kitô muốn mạc khải cho chúng ta thấy rằng: Người chính là bản thân của Cha, đúng như Thánh Phaolô xác tín và tuyên xưng trong Thư gửi Giáo Đoàn Do Thái đoạn 1 câu 3: “Người Con này là phản ánh vinh hiển Cha, là hiện thân đích thực của hữu thể Cha”. Chính Chúa Kitô đã minh định trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 10 câu 30: “Cha và Ta là một”, đến nỗi, Người còn đoan quyết cũng trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 14 câu 9: “ai thấy Thày là thấy Cha”. Thế nhưng, dù con người có được Vị Thiên Chúa Chân Thật Duy Nhất mạc khải cho biết chính bản thân Ngài là ai và như thế nào qua Con Ngài Nhập Thể và Tử Giá, tự mình, con người vẫn không thể nào thấu hiểu được Mạc Khải Thần Linh tự bản chất vô cùng cao cả và có tính cách vô cùng lạ lùng không thể tin được này đối với tâm trí thấp hèn và hạn hẹp của con người. Do đó, Vị Thiên Chúa Chân Thật Duy Nhất đã tỏ hết mình ra nơi Con Mình như thế mới cần phải sai đến cùng con người “một Đấng Phù Trợ khác” (Jn 14:16), “Ngài là Thần Chân Lý” (Jn 16:13), “Vị Thần Linh thấu suốt mọi sự, kể cả những sự sâu nhiệm nơi Thiên Chúa”, như Thánh Phaolô xác tín trong Thư Một gửi Giáo Đoàn Côrintô đoạn 2 câu 10. Như thế, sứ vụ của Thánh Linh được sai đến là để giúp con người nhận biết Thiên Chúa như chính Ngài biết Ngài, đúng như Chúa Kitô minh xác về sứ vụ của Vị Thiên Chúa Ngôi Ba này, là để “thông đạt cho các con những gì Ngài lấy từ Thày” hay “những gì Cha có ở nơi Thày”, tức là làm cho chúng ta “nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Đức Giêsu Kitô” (Jn 17:3).
Nếu theo lời Chúa Giêsu mạc khải trong Lời Nguyện Tiệc Ly đoạn 17 câu 3, “sự sống đời đời là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Đức Giêsu Kitô”, thì một khi chúng ta nhờ Thánh Thần để có thể nhận biết Chân Lý Tối Thượng này, tức là chúng ta đã có một Kiến Thức Thần Linh như Thiên Chúa, hay nói cách khác, tức là chúng ta biết Thiên Chúa như chính Ngài biết Ngài. Mà “nhận biết” đây hay Kiến Thức Thần Linh đây là chính “sự sống”, vì “Sự sống đời đời là nhận biết”, do đó, Thánh Linh là Đấng làm cho chúng ta “nhận biết”, hay ban cho chúng ta Kiến Thức Thần Linh, tức là làm cho chúng ta được sống, Sự Sống Thần Linh của Thiên Chúa. “Tôi tin kính Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống” chính là ở chỗ này. Thật vậy, Sự Sống Thần Linh đây chính là Sự Sống nơi Thiên Chúa. Mà Sự Sống nơi Thiên Chúa đây là gì, nếu không phải là Thực Tại Thiên Chúa Nhận Biết Mình Ngài hay Thiên Chúa Ý Thức Bản Thân. Nếu Thiên Chúa không biết mình ngay từ đời đời cho đến đời đời thì Ngài không phải là Thiên Chúa, không phải là Đấng Tự Hữu, Hằng Hữu, Toàn Hữu, Hiện Hữu. Không phải hay sao, chỉ có tạo vật vô tri, mới không biết mình. Kể cả tạo vật có sự sống thể lý đi nữa, như cây cỏ thuộc loài thực vật và muông chim cầm thú thuộc loài động vật, cũng không biết mình. Trong “muôn vật hữu hình” được Thiên Chúa dựng nên trên “đất” thế gian chỉ có loài người mới có khả năng biết mình mà thôi. Khả năng đó chính là tâm linh của họ. Thế nhưng, thực tế cho thấy, dù con người có tâm linh để biết mình, song họ cũng không biết mình ngay khi vừa được thụ thai trong lòng mẹ, tức vừa hiện hữu trên đời. Trái lại, dù có thể biết được bản thân mình đi nữa, thế nhưng, cho tới chết, họ vẫn không thể nào thấu triệt được bản thân mình, tức vẫn không hoàn toàn biết hết về mình. Đó là lý do cho tới giây phút cuối cùng của cuộc đời, con người vẫn có thể lầm lỗi, vấp phạm, hay vẫn không biết mình đã lầm lỗi, vấp phạm mà ăn năn thống hối, nghĩa là, nếu không có ơn trên trợ giúp, hay nói đúng hơn, nếu không có “Đấng Phù Trợ khác” là Thánh Thần Thiên Chúa ở với, con người vĩnh viễn sẽ không nhận ra Chân Lý mà trở về với Đấng Tối Cao, tức vẫn không biết mình, hay nói cách khác, vẫn ở trong sự chết. Một tử thi vô hồn không biết gì nữa chính là hình ảnh của con người chết về tâm linh, hoàn toàn và vĩnh viễn không biết mình.
Trái lại, Thư Thứ Nhất của Thánh Gioan đoạn 1 câu 5 đã công bố: “Thiên Chúa là ánh sáng, trong Ngài không có tối tăm”. Nghĩa là Thiên Chúa là hiện hữu, trong Ngài không có sự chết, không có vô tri, đúng như Ngài đã mạc khải Danh Ngài cho Moisen trong sách Xuất Hành ở đoạn 3 câu 14 “Ta là Đấng Hiện Hữu”. Đúng thế, “Hiện Hữu” chính là Bản Tính Thần Linh của Thiên Chúa cũng là Sự Sống Thần Linh nơi Thiên Chúa. Mà Sự Sống Thần Linh nơi Thiên Chúa, như trên đã xác tín, chính là Thực Tại Thiên Chúa Nhận Biết Mình Ngài hay Thiên Chúa Ý Thức Bản Thân. Sáu chữ “Thiên Chúa Ý Thức Bản Thân” đây là câu nói có thể tạm tóm gọn Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. “Thiên Chúa” đây hiểu là Ngôi Cha, như Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo số 245 giải thích: “Giáo Hội nhìn nhận Ngôi Cha như là ‘nguồn gốc của tất cả thần tính”; “Bản Thân” đây hiểu là Ngôi Con, vì như trên đã trích lời Con tuyên bố: “Ai thấy Thày là thấy Cha”; và “Ý Thức” đây hiểu là Ngôi Ba, vì “Ngài là Thần Chân Lý” như Chúa Kitô đã mạc khải trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 14 câu 17 và đoạn 16 câu 13. Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, hay nói rõ hơn, Mầu Nhiệm Sự Sống Thần Linh nơi Thiên Chúa, cũng là Thực Tại Thiên Chúa Ý Thức Bản Thân này thật ra đã được mạc khải ngay từ đầu, khi Thiên Chúa thực hiện dự định “Chúng ta hãy dựng nên con người giống hình ảnh chúng ta và tương tự như chúng ta”, một dự định được Sách Khởi Nguyên ghi nhận ở đoạn 1 câu 26. Con người được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh Ngài đây là gì, nếu không phải là “Ngài đã dựng nên họ có nam có nữ”, một mạc khải cũng được ghi nhận trong cùng Sách Khởi Nguyên ở đoạn 1 câu 27. Và Thiên Chúa đã dựng nên con người tương tự như Ngài đây như thế nào, nếu không phải có tâm linh, tức có khả năng nhận biết. Đó là lý do, ngay sau khi tỉnh dậy từ một giấc ngủ say, Adong đã nhận ngay ra bản thân mình là Evà qua câu nói đầu tiên mở màn cho lịch sử xã hội loài người: “Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi”, như được Sách Khởi Nguyên ghi nhận ở đoạn 2 câu 23.
Vâng, theo tôi, con người chúng ta chính là dụ ngôn Thiên Chúa muốn dùng để diễn tả Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi của Ngài. Thật vậy, nếu đức tin dạy chúng ta rằng Thiên Chúa có Ba Ngôi, và Ngôi nào cũng là Thiên Chúa, song chỉ có một Thiên Chúa Duy Nhất chứ không phải là Ba Thiên Chúa, thì mầu nhiệm đức tin này đã được Thiên Chúa tỏ cho thấy một phần nào nơi Mầu Nhiệm Con Người, một thụ tạo duy nhất được dựng nên theo hình ảnh và tương tự Thiên Chúa. Đúng thế, nếu Ngôi Con được nhiệm sinh từ Ngôi Cha và cũng là Thiên Chúa thật thế nào, thì Evà cũng từ Adong mà có, và cũng là một con người thật như vậy. Rồi nếu Thánh Thần “bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra”, Ngài cũng là Thiên Chúa thế nào, thì từ Adong cũng xuất phát một ý thức nhận biết Evà rồi cả hai nên một xác thịt, một con người như thế. Tóm lại, nếu chỉ có một Thiên Chúa duy nhất thế nào thì đầu tiên cũng chỉ có một con người duy nhất như vậy; thứ đến, nếu Thiên Chúa Duy Nhất ấy là chính Ngôi Cha thì con người duy nhất đầu tiên ấy là chính Adong; rồi từ Ngôi Cha sinh ra Ngôi Con cũng là Thiên Chúa có cùng một bản tính như Ngôi Cha thế nào, thì từ Adong cũng phát sinh ra Evà cũng là con người có cùng bản tính như Adong như vậy; sau hết, bởi Chúa Cha và Chúa Con đã xuất phát Thánh Thần cũng là Thiên Chúa có cùng một bản tính như Ngôi Cha và Ngôi Con thế nào, thì Adong và Evà cũng nên một xác thịt như một con người như vậy.
Ôi, được phản ánh Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi như thế, thân phận con người nhân loại chúng ta nói chung cao cả biết bao, và ơn gọi hôn nhân của chúng ta nói riêng trọng đại biết mấy! Thế nhưng, chúng ta đã sống thân phận làm người và ơn gọi hôn nhân của chúng ta như thế nào để phản ảnh Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi?
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
Hồi ấy Anrê Phốtsa (André Foissard) là một sinh viên thuộc một gia đình vô tín ngưỡng. Thân phụ ông là người vô thần, cố tình để trên bàn học của con các sách báo có nội dung bài bác đạo Công giáo để con cũng đi heo sự vô tín của mình. Nhưng dù sống trong môi trường vô tín như thế, Phốt-sa vẫn đạt tới đức tin nhờ ơn Chúa Thánh Thần. Một hôm, anh đi vào nhà thờ Đức Bà ở Pa-ri để tìm một người bạn. Cặp mắt của anh tình cờ nhìn thấy tượng Chúa Giê su đang chịu đóng đanh trên cây thập giá. Lập tức anh đã cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa. Anh đã đứng dưới chân cây thập giá ấy một hồi lâu và những giọt nứơc mắt cứ tự nhiện lăn dài trên má. Bấy giờ anh cảm thấy mình như một đứa con đi lạc trong một thời gian dài, vừa tìm thấy người cha thân yêu. Sau này anh đã thuật lại biến cố ấy trong một tác phẩm thời danh là “Quả thật có Thiên Chúa. Chính tôi đã gặp Ngài”.
– Nhận biết có Thiên Chúa: Với trí khôn suy luận theo nguyên lý nhân quả, người ta có thể biết có Đấng Tạo Hóa. Nhưng trong nhiều trường hợp, người ta còn cảm nhận được sự hiện hữu của Người, như trong câu chuyện của ông An-rê Phốt-sa nói trên.
– Hiểu biết về Thiên Chúa: Chính nhờ Đức Giê su, loài người mới hiểu biết rõ ràng về Thiên Chúa. Chẳng hạn Thiên Chúa chỉ là Một nhưng Ngài lại có Ba Ngôi là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Chúa Cha yêu Chúa Con từ trước muôn đời và đã sai Chúa Con xuống trần gian làm người gọi là Đấng Thiên Sai. Chúa Thánh Thần là Chúa Ngôi Ba, là Tình Yêu giữa Chúa Cha và Chúa con. Như vậy Thiên Chúa không những là Đấng Độc Nhất (x. Xh 20,2-3), mà Ngài còn là Ba Ngôi. Như các thành viên trong một gia đình, Ba Ngôi luôn hiệp thông mật thiết với nhau và chia sẻ cho nhau mọi sự mình có (x Ga 16,15).
– Các bằng chứng về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi trong Tân Ước:
+ Trong cuộc Thần hiện tại sông Gio-đan: Tin mừng Mát-thêu đã thuật lại như sau: “Khi Đức Giêsu chịu phép rửa xong, vừa ở dưới nước lên, thì kìa các tầng trời mở ra. Người thấy Thần Khi Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự xuống trên Người. Và có tiếng từ trời phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người” (Mt 3,16-17).
+ Khi nói chuyên với ông Ni-cô-dê-mô: Đức Giêsu đã mặc khải về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi cho ông như sau: “Quả vậy, Đấng được Thiên Chúa sai đi, thì nói những Lời của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa ban Thần Khí cho người vô ngần vô hạn. Chúa Cha yêu thương Con và đã giao mọi sự trong tay Người. Ai tin vào Con thì được sống đời đời” (Ga 3,34-36a).
+ Khi trao sứ mệnh truyền giáo cho các môn đệ trước khi lên trời: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19).
+ Trong bài giảng của Phê-rô vào lễ Ngũ Tuần: sau khi được Chúa Thánh Thần hiện Xuống Phê-rô đã giảng như sau: “Thiên Chúa Cha đã ra tay uy quyền nâng Người lên, trao cho Người Thánh Thần đã hứa, để Người đổ xuống: Đó là điều anh em đang thấy và đang nghe” (Cv 2,33).
+ Thánh Phao lô cầu chúc cho các tín hữu trong thư Cô-rin-tô: “Cầu chúc toàn thể anh em được tràn đầy ân sủng của Chúa Giê-su Ki-tô, đầy tình thương của Thiên Chúa, và ơn hiệp thông của Thánh Thần. A-men” (2 Cr 13,13). Trong thu Ga-lát: “Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em… Trong Người, cả anh em nữa, cũng được xây dựng cùng với những người khác, làm ngôi nhà Thiên Chúa” (Ep 2,18.22).
– Sống mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi:
+ Mỗi ngày, khi làm dấu Thánh giá là chúng ta tuyên xưng đức tin về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Làm dấu Thánh giá là ta ghi dấu của Ba Ngôi trên thân thể và trên mọi hoạt động của ta. Do đó ta cần phải làm mọi việc cách nghiêm túc đẹp lòng Thiên Chúa.
+ Như “Thiên Chúa vừa là Một theo Bản Tính, vừa là Ba theo Ngôi Vị”, Hội thánh cũng phải vừa thống nhất vừa đa dạng. Hội thánh có mười hai Tông đồ, bốn sách Tin mừng, hai kinh Lạy Cha… Tuy nhiên, để sự thống nhất mà không trở nên khép kín nghèo nàn, để sự đa dạng đừng biến thành cớ gây chia rẽ, thì cần phải có sự hiệp thông sâu xa giữa mọi thành phần trong Hội thánh. Đời sống của Ba Ngôi là mẫu mực cho mọi tổ chức của loài người.
+ Mừng lễ Chúa Ba Ngôi, chúng ta ý thức sự hiện diện của Ba Ngôi nơi chúng ta như Đức Giê-su đã dạy: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ Lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23). Ngòai ra Thiên Chúa siêu việt cũng ở với chúng ta và nhắc nhở chúng ta qua tiếng lương tâm. Chúng ta chỉ cần hướng vào nội tâm là sẽ gặp Người. Chúng ta cần ý thức và tôn kính sự hiện diện ấy và để cho tình yêu của Chúa Ba Ngôi tự do hoạt động nơi chúng ta, và qua chúng ta đến với các dân tộc trên thế giới.
4.THẢO LUẬN:
1) Chúa Cha là Đấng sáng tạo, Chúa Con là Đấng cứu chuộc, Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hóa. Vậy mỗi tín hữu phải có bổn phận thế nào đối với Chúa Ba Ngôi?
2) “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Vậy bạn cần sống tinh thần hiệp thông, chia sẻ yêu thương nơi gia đình, đoàn thể và trong xứ đạo của bạn thế nào để nên giống như tình yêu giữa Ba Ngôi Thiên Chúa?
– Lạy Chúa Cha đầy tình yêu thương. Xin cho chúng con biết thực thi bác ái trong cuộc sống hằng ngày để xứng đáng trở thành con cái của Cha: Giữa một thế giới đang tôn thờ quyền lực và đề cao lợi lộc vật chất, xin dạy chúng con biết phục vụ tha nhân trong sự âm thầm vô vụ lợi. Giữa một thế giới muốn thống trị chiếm đoạt, xin dạy chúng con biết nhận ra mọi người là anh em để khiêm nhường phục vụ cho nhau.
– Lạy Chúa Ba Ngôi Cực Thánh. Chúa là mẫu mực của một tình yêu tinh tuyền. Xin cho các tín hữu chúng con trở nên dấu chỉ sự hiện diện của Chúa giữa lòng xã hội. Xin dạy chúng con biết yêu người như Chúa đã yêu con, biết sống với và sống cho tha nhân, biết quảng đại cho đi và khiêm nhường đón nhận. Lạy Ba Ngôi chí thánh. Xin cho chúng con vững tin vào sự hiện diện của Chúa đang ở trong con và ở trong những người đang đi tìm Chúa.
Gợi Ý Mục Vụ.
(Suy niệm của Huệ Minh)
Tin Mừng Ga 16: 12-15: Với mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, Thiên Chúa muốn vạch ra cho chúng ta con đường của yêu thương và hiệp nhất. Chúng ta chỉ có thể yêu thương và hiệp nhất với nhau khi mỗi người thực sự phải là mình, và chấp nhận đồng hành gắn bó với tha nhân.
Trong tất cả mọi thực tại tuyệt diệu khó hiểu của cuộc sống con người, có lẽ tình yêu là khó hiểu nhất: Đố ai cắt nghĩa được tình yêu, có nghĩa gì đâu một buổi chiều…Tình yêu của con người mà còn khó hiểu, thì tình yêu của Thiên Chúa lại càng khó hiểu hơn gấp ngàn vạn lần. Bởi vì, Thiên Chúa được gì khi tạo dựng nên chúng? Tại sao Chúa lại phải chịu chết để cứu chuộc chúng ta? Chỉ có tình yêu đích thực vô biên và vô vị lợi mới trao ban sự sống và tận hiến tất cả.
Thiên Chúa là Tình Yêu, nghĩa là Ngài không đơn độc một mình. Nếu như Ngài đơn độc một mình thì Ngài sẽ yêu một mình Ngài một cách ích kỷ vô cùng. Nhưng Ngài là 3: Cha, Con và Thánh Thần. Là ba, nhưng cả ba hoàn toàn yêu thương hiến tặng sự sống, hoàn toàn tương quan với nhau, hiệp nhất với nhau: Cha hoàn toàn là của Con, Con hoàn toàn là của Cha và mối tương quan tình yêu và sự sống này giữa Cha và Con là Chúa Thánh Thần.
Tình thương của Thiên Chúa Cha, Đấng Tạo Hóa đã an bài vũ trụ, nâng đỡ cuộc sống con người và ban cho chúng ta sự sống. Tình thương của Chúa Giêsu Kitô, Đấng mặc lấy thân phận con người đến cứu chuộc chúng ta, để làm sáng tỏ lại hình ảnh Thiên Chúa nơi chúng ta, giúp chúng ta trở về nhà Cha an toàn. Tình thương của Chúa Thánh Thần, Đấng hằng ban ơn soi sáng, nâng đỡ, an ủi, giúp chúng ta sống trọn kiếp sống trần gian.
Tình yêu Thiên Chúa không khép kín lại nơi cộng đồng Ba Ngôi mà còn lan tỏa ra bên ngoài, trên khắp vũ trụ: Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban cho thế gian quà tặng quý giá nhất của người Con Chí Ái của Ngài, nghĩa là chính sự sống của Ngài. Rồi đến lượt Người Con ấy cũng trao ban Thánh Thần, nghĩa là chính sự sống của Ngài cho thế gian. Chính nơi Người Con ấy, nơi bản thân, cuộc sống, cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu mà chúng ta nhận ra được Thiên Chúa là tình yêu và thế nào là sống như con người được tạo dựng giống hình ảnh của Thiên Chúa: “Ai không yêu thương anh em là không biết Thiên Chúa” (1Ga 4,8). Còn ai đã biết Thiên Chúa thì phải yêu thương anh em như Ngài đã yêu thương, vì Thiên Chúa là Tình Yêu.
Lễ Chúa Ba Ngôi cho ta thấy được mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa. Và theo sự diễn tả của thánh Gioan, thì từ nguyên thủy đã có tình yêu và tình yêu qui hướng về Thiên Chúa, bởi vì Thiên Chúa chính là tình yêu. Và tình yêu đã nhập thể, đến sống giữa chúng ta. Chính Chúa Giêsu đã tỏ lộ ra cho loài người, như là Con Thiên Chúa. Đồng thời, trong Ngài chúng ta nhận Thiên Chúa là Cha và Chúa Thánh Thần như là người mẹ trao ban sự sống. Tuy chỉ là một, nhưng Ngài lại có Ba Ngôi, đó là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Không ai biết được Thiên Chúa nếu Ngài không mạc khải cho. Trong thời Cựu ước, loài người chỉ được biết có sự hiện hữu của một Thiên Chúa Giavê, Ngài là Đấng hằng hữu, nhưng còn Thiên Chúa Ba Ngôi thì chính Chúa Giêsu mạc khải cho trong thời Tân ước này. Theo mạc khải đó, chúng ta biết được có sự hiện hữu của Thiên Chúa Ba Ngôi là Cha và Con và Thánh Thần. Ngài là nguồn yêu thương và bình an, là gương mẫu tuyệt hảo của sự hiệp nhất. Chúng ta hân hạnh được làm con Chúa Ba Ngôi để dám gọi Ngài là Cha: “Cha ơi”. Đáp lại vinh dự đó, chúng ta phải yêu mến Ngài hết lòng và tuyên xưng danh Ngài cho đến tận cùng thế giới.
Điều độc đáo mà mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi muốn nói lên đó là Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của sự khác biệt. Ngài yêu thích sự khác biệt. Ngài tạo ra sự khác biệt và Ngài bao hàm chính sự khác biệt đó trong bản tính của Ngài. Nhưng Ngài cũng là Thiên Chúa của sự hiệp nhất. Ngài hiệp nhất những gì khác biệt. Phải có cái khác biệt thì mới có thể nói tới hiệp nhất. Phải có Ba Ngôi mới có thể hiệp nhất thành một Thiên Chúa. chỉ khi nào chúng ta chấp nhận và tôn trọng cái khác biệt: khác biệt về hiện hữu, về chủng tộc, văn hóa, tôn giáo, địa vị, phái tính, tuổi tác v.v… và sống với những khác biệt đó, hiệp nhất những cái khác biệt đó. Chỉ khi đó, chúng ta mới đi đúng con đường mà ánh sáng của mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi soi dẫn chúng ta. Sự hiệp nhất ấy không làm cho chúng ta phong phú hơn và sống đúng bản chất là cộng đoàn của Thiên Chúa yêu thương, là hình ảnh của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Với mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, Thiên Chúa muốn vạch ra cho chúng ta con đường của yêu thương và hiệp nhất. Chúng ta chỉ có thể yêu thương và hiệp nhất với nhau khi mỗi người thực sự phải là mình, và chấp nhận đồng hành gắn bó với tha nhân, coi tha nhân là thành phần của chính hiện hữu của mình, đồng thời ý thức rằng mình chỉ có thể sống nhờ tha nhân, sống với tha nhân và sống cho tha nhân; bởi vì tự chính trong nguyên lý, sự sống không phải là một thực tại đơn độc, khép kín, mà là chia sẻ, hiệp thông: sự sống thần linh của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi cùng hoạt động trong Hội thánh và nơi từng người nói lên sự hiệp nhất bền chặt giữa Ba Ngôi Thiên Chúa. Đây là một mô hình tuyệt vời về sự hiệp nhất mà Chúa ban cho ta để ta cũng phải củng cố sự hiệp nhất trong Hội thánh và trong cộng đoàn chúng ta. Sự hiệp nhất sẽ đem lại cho chúng ta rất nhiều lợi ích trong đời sống tự nhiên và siêu nhiên.
Chúng ta biết do đức tin: Thiên Chúa là Đấng duy nhất nghĩa là chỉ có một bản thể, trong bản thể ấy lại có Ba Ngôi – Ba Ngôi đúc lại thành một Thiên Chúa duy nhất. Thiên Chúa yêu thương thế gian… cho nên đã phó Con Một Người cho thế gian, nghĩa là đã ban trót mình cho thế gian. Không những ban Chúa Con là ngôi thứ Hai mà là ban chính mình, trong đó gồm cả bản tính Thiên Chúa ở trong Ba Ngôi, cho nên ban Con Một Người tức là đã ban tất cả Thiên Chúa – tất cả mình – và chính mình cho thế gian. Và như vậy là Thiên Chúa đã THƯƠNG thế gian, và đã giữ đúng nghĩa chữ THƯƠNG là cho TẤT CẢ.
Mừng mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, Giáo Hội muốn nhắc nhớ chúng ta chân lý ấy. Tỏ mình cho chúng ta, Thiên Chúa muốn nói với chúng ta rằng Ngài là Ba Ngôi Vị, Ngài là Tình Yêu. Đó là mầu nhiệm cơ bản nhất, từ đó Giáo Hội được xuất phát và xây dựng; Giáo Hội vừa là hình ảnh vừa là thể hiện Chúa Ba Ngôi. Nhưng mầu nhiệm Ba Ngôi không chỉ là nền tảng của Giáo Hội, mà còn là ánh sáng chiếu dọi vào bí ẩn của con người. Thật thế, chỉ trong Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta mới hiểu rõ được ơn gọi và định mệnh của con người. Nếu Thiên Chúa là tình yêu và nếu con người được tạo dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, thì một cách tất yếu, con người chỉ thực sự là người khi biết yêu thương. Phẩm giá của con người được xây dựng trên chính tình yêu. Ai chối bỏ tình yêu, ai gieo rắc hận thù, người đó cũng chối bỏ con người và chối bỏ chính Thiên Chúa; trái lại ai sống trong tình yêu, người đó cũng sống trong Thiên Chúa.
Nhìn mầu nhiệm Ba Ngôi từ góc cạnh của đức mến, tức là nhìn từ lăng kính của tình yêu. Người tín hữu không biết đến yêu thương thì cũng hoàn toàn xa lạ với Thiên Chúa. Vì “Ai không yêu thì không biết Thiên Chúa”. Chỉ những ai dám sống và dám chết cho tình yêu, mới được ở lại trong Thiên Chúa. Chỉ những ai dám tự hiến và trao ban cho anh em mới là những chứng nhân của một Thiên Chúa Tình Yêu.
Mừng lễ Chúa Ba Ngôi, là dịp để chúng ta tạ ơn tình thương của Chúa vẫn luôn bao phủ trên cuộc đời chúng ta. Chúa cho chúng ta được sinh ra làm người và làm con cái Thiên Chúa. Chúa luôn quan phòng gìn giữ chở che cuộc đời chúng ta “như con ngươi trong mắt Ngài”. Chúa biết rõ từng cuộc đời chúng ta như mục tử biết từng con chiên. Chúa vẫn ngàn đời tín trung với tình yêu ban đầu, vì cho dầu “như người cha người mẹ có bỏ con cái, còn Ta cũng không bao giờ bỏ các ngươi”. Tình thương đó Chúa muốn mời gọi chúng ta đón nhận với lòng tri ân và cũng biết trao lại tình yêu đó cho tha nhân.
Vâng, có lẽ, điều Chúa muốn nơi chúng ta chính là hãy hoạ lại chân dung tình yêu của Chúa cho anh em. Vì con người là “hoạ ảnh của Chúa”, nên con người phải biết sống yêu thương. Yêu thương sẽ làm chúng ta giống Chúa hơn. Yêu thương sẽ giúp chúng ta sống hoàn thiện con người mình hơn. Chính tình yêu phục vụ tha nhân sẽ là cách chúng ta đáp đền tình yêu mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta.
(Suy niệm của Huệ Minh)
Nhớ lại vừa mới bắt đầu Thánh Lể, lời mở đầu của thánh lễ mừng kính Thiên Chúa Ba Ngôi hôm nay: “Chúc tụng Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, vì Chúa đã tỏ lòng từ bi đối với chúng ta”. Dẫu rằng mừng Lễ Ba Ngôi nhưng các bản văn phụng vụ không nhằm giải thích tại sao một Thiên Chúa duy nhất mà lại có ba ngôi: Cha, Con và Thánh Thần.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba ngôi là mầu nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo, Đây là một mầu nhiệm thâm sâu nhất, cao cả nhất mà lý trí con người, ngay cả óc tưởng tượng của con người, cũng không thể nào thấu hiểu hay hình dung được. Bởi vì Thiên Chúa Ba Ngôi không phải là một vấn đề, càng không phải là một vấn đề toán học. Mầu nhiệm không phải là vấn đề hay bài toán: 3 là 3; 1 là 1. Không tính với toán nào mà 1 là 3 hay 3 thành 1 được. Thiên Chúa không phải là những con số. Không thể làm trò ảo thuật hay lý luận đưa ngón tay ba đốt hay hình tam giác mà ví von. Thậm chí con người nói rằng; là như thế là đùa bỡn với Thiên Chúa, còn tệ hơn phủ nhận Ngài.
Kinh Thánh đã nói gì về Chúa Ba Ngôi. Có lẽ câu văn nổi tiếng nhất bàn về Chúa Ba Ngôi được tìm thấy trong Tin Mừng theo thánh Matthêu, khi Chúa Giêsu truyền dạy các môn đệ: Các con hãy đi giảng dạy muôn dân và rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Thật vậy, nhìn lại ta thấy hình ảnh đặc trưng nhất về Chúa Ba Ngôi là hình ảnh khi Chúa Giêsu chịu phép rửa. Đang khi đó, Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên Ngài, rồi từ trời có tiếng nói: Này là con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng. Tiếng nói, chim bồ câu và Chúa Giêsu, ba hình ảnh này tạo nên một chân dung sống động về Chúa Ba Ngôi.
Thánh Phaolô cũng bàn về Chúa Ba Ngôi khi viết: Ân sủng của Đức Kitô, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em.
Hẳn ta còn nhớ thánh Luca trong sách Tông đồ Công vụ, cũng như trong Tin Mừng, đã nhìn nhận lịch sử cứu độ mang chiều kích của Chúa Ba Ngôi. Thời Cựu Ước là thời của Chúa Cha. Thời điểm giảng Tin Mừng là thời điểm của Chúa Con và thời này là thời của Chúa Thánh Thần. Kinh Tín Kính chúng ta đọc trong thánh lễ cũng đã tuyên xưng: Chúa Cha là Đấng sáng tạo. Chúa Con là Đấng cứu độ và Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hoá, trao ban nguồn sống.
Thật vậy, chính Chúa Giêsu, trong Chúa Giêsu và hoàn tất nơi Chúa Giêsu, Ngài mạc khải trọn vẹn về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Nhưng cả khi mạc khải cho các môn đệ về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, Chúa Giêsu cũng không dạy tại sao Thiên Chúa duy nhất phải có ba ngôi. Chúa Giêsu đã mạc khải cho các tông đồ, nhất là trong bài diễn văn về việc hiện hình trong bữa tiệc ly vì sự hiện diện và tác động của từng ngôi Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần, và về mối tương quan hiệp nhất giữa ba ngôi mà không giải thích lý do tại sao.
Các tông đồ lúc đó cũng không thắc mắc tại sao như vậy, nhưng các ngài đã yêu mến chấp nhận và sống mầu nhiệm với hết lòng chân thành: “Ta và Cha Ta, chúng ta chỉ là một. Ai tuân giữa giới răn Ta truyền, thì chúng ta sẽ đến ngự trong người đó”. Và nơi Tin Mừng theo Thánh Gioan chương 16,12-15 được dùng trong thánh lễ kính Ðức Chúa Trời Ba Ngôi là những lời Chúa Giêsu mạc khải về mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần.
Vấn đề quan trọng nhất không phải là biết hết tất cả mọi sự về Thiên Chúa, mà là sống mầu nhiệm về Thiên Chúa. Sự hiểu biết của con người tuy có thể đạt được phần nào về Thiên Chúa, nhưng không thể nào biết trọn được cả.
Chuyện xảy đến nơi tâm tư của thánh Augustinô khi Ngài suy nghĩ về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi còn là một lời dạy cho chúng ta ngày hôm nay. Trí khôn con người hữu hạn, làm sao có thể hiểu hoàn toàn về Thiên Chúa vô cùng. Nếu muốn hiểu thì chẳng khác nào muốn đem nước của đại dương mênh mông mà đổ vào trong một lỗ nhỏ, như một trò đùa của em bé mà thánh Augustinô gặp nơi bờ biển. “Thầy còn nhiều điều phải nói với các con, nhưng bây giờ các con không thể lãnh hội được. Khi Thần Chân Lý đến, Người sẽ dạy các con biết tất cả sự thật. Người sẽ đưa các con vào trọn cả trong sự thật.”
Quả thật, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm lớn trong đạo, vượt qua cái giới hạn nhỏ bé của trí khôn con người. Sở dĩ chúng ta biết được phần nào là nhờ Chúa Giêsu đã tỏ lộ. Điểm cốt yếu không phải là bàn luận xem thế nào là 3 và thế nào là 1. Nhưng chính là tình thương của Thiên Chúa.
Đúng như vậy, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi chính là mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa. Khởi sự từ ý tưởng của Chúa Cha, được thực hiện do Chúa Con và được tiếp nối do Chúa Thánh Thần. Tình yêu ấy ngày nay vẫn còn được tiếp diễn qua từng người Kitô hữu, cũng như qua từng cộng đoàn, qua từng giáo xứ bằng những nỗ lực, những cố gắng liên kết mọi người lại trong công bình, yêu thương và hợp nhất. Cuộc sống của Chúa Ba Ngôi là tình thương. Ước chi cuộc sống của mỗi người chúng ta cũng phải ngập tràn tình thương để trở nên một phản ảnh trung thực của Chúa Ba Ngôi.
Được hiệp thông nên một trong yêu thương là một hạnh phúc tuyệt vời nên Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Người chung chia hạnh phúc ấy. Vì thế, hôm xưa trong bữa tiệc ly, Người thành khẩn cầu xin cho các môn đệ: “Lạy Cha, xin cho tất cả chúng nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha…. để họ được nên một như Chúng Ta là một. Con ở trong họ và Cha ở trong Con, để họ được hoàn toàn nên một”. (Ga 17, 20-23)
Và ta thấy Chúa Giêsu hướng nhìn về mỗi thành viên trong gia đình chúng ta và cầu xin với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin cho người cha, người mẹ và đứa con nầy nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha.”
Rồi Ngài cũng hướng về mỗi tín hữu trong Hội Thánh và tha thiết khẩn cầu: “Lạy Cha, xin cho các tín hữu được gắn bó nên một trong yêu thương như Chúng Ta là một.”.
Mỗi ngày, chúng ta cần lớn lên trong tương quan với Thiên Chúa, cần được Chúa Thánh Thần soi sáng hướng dẫn chúng ta tiến sâu vào trong mầu nhiệm Ba Ngôi của Thiên Chúa. Ðây là một sự khám phá vô cùng và mãi mãi không bao giờ ngừng cả khi chúng ta được đối diện với Thiên Chúa trong cõi đời đời
Mừng lễ Chúa Ba Ngôi, là dịp để chúng ta tạ ơn tình thương của Chúa vẫn luôn bao phủ trên cuộc đời chúng ta. Chúa cho chúng ta được sinh ra làm người và làm con cái Thiên Chúa. Chúa là người cha nhân ái, chậm bất bình và rất mực khoan nhân. Chúa có giận thì giận trong giây lát, nhưng yêu thương thì yêu thương tới cùng. Cho dù chúng ta có yếu đuối bất toàn, Chúa vẫn yêu thương. Chúa không đoán phạt chúng ta theo như chúng ta đáng tội. Chúa như người cha luôn ngong ngóng chờ đợi đứa con tội lỗi trở về để được ôm con vào lòng và lại ban muôn ân huệ dư tràn.
Xin Chúa thêm ơn cho chúng ta luôn được ơn Chúa soi sáng để chúng ta có thể có một đức tin sáng suốt và mạnh mẽ, không phải chỉ dựa vào lý trí, nhưng bằng chính đời sống thực hành đức tin hàng ngày của chúng ta qua đức Bác Ái mà Ba Ngôi Thiên Chúa mời gọi.
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn