Người yêu mến họ đến cùng: Caritas et Amor
Chủ nhật - 28/06/2020 02:43
Người yêu mến họ đến cùng: Caritas et Amor
Người yêu mến họ đến cùng: Caritas et Amor
Nha Trang, ngày 24 tháng 6 năm 2020
+ Giuse Võ Đức Minh, Giám mục Nha Trang
WGPNT (24.6.2020) - Tôi nhớ mãi lời chỉ dạy của Đức cha Simon-Hòa Nguyễn Văn Hiền, Giám mục Giáo phận Đalat, trong một lần ở bên ngài, sau khi ngài vừa truyền chức linh mục cho tôi tại Fribourg, Thụy sỹ (24 tháng 4 năm 1971), ngài đã nói: “Chúa chọn con làm linh mục; con cũng phải chọn Chúa làm lẽ sống của mình. Con cố gắng học cho xong Thần học ở Đại học Fribourg; cha sẽ gửi con sang học chuyên về Kinh thánh ở Học viện Kinh thánh Roma; con hãy noi gương vị Chủ chăn tuyệt vời: một nhà thừa sai, một vị tông đồ, người mục tử mẫu mực trong Giáo phận chúng ta là Đức cha Gioan Baotixita Cassaigne. Cha kế vị ngài ở Saigon, từ năm 1955 đến 1960; bây giờ ngài ở Giáo phận Đalat, nơi cha đang là Giám mục. Chính cha đã học nơi ngài nhiều điều hữu ích cho đời sống tông đồ của mình. Đức cha Cassaigne là ông tổ mở ra công cuộc truyền giáo ở Giáo phận Đalat chúng ta”. Lời chỉ dạy nầy in đậm trong tâm trí của tôi. Đối với tôi lúc bấy giờ, một linh mục trẻ, tôi xem Đức cha Simon-Hòa như người cha và Đức cha Gioan Baotixita như ông tổ, mà tôi cần phải tìm hiểu, học hỏi, để noi gương các ngài hầu có thể sống hạnh phúc trong đời linh mục của mình.
Sau khi tốt nghiệp ở Học viện Kinh thánh Roma, ngày 30 tháng 5 năm 1974, tôi trở về Đalat. Trải qua dòng thời gian, tôi làm giáo sư Kinh thánh tại các Đại chủng viện và Học viện từ năm 1974; làm thư ký Đức giám mục Đalat từ năm 1975 đến 1991; làm quản xứ Chánh tòa Đalat từ năm 1991 đến 2005; làm giám mục phó Nha trang từ 2005 đến 2009 và làm giám mục Nha trang từ 2009 đến hôm nay. Bước vào năm thứ 50 của đời Linh mục và 15 năm trong sứ vụ giám mục, nhìn về nguồn cội của mình, tôi cám ơn người cha thiêng liêng là Đức cha Simon-Hòa và vô cùng hạnh phúc khi nhìn vào Đức cha Gioan Baotixita Cassaigne như vị Tổ của mình. Tôi thấm thía câu Lời Chúa trong Sách Cách Ngôn: “Corona senum filii filiorum, Gloria filiorum Patres eorum “ – “ Mũ triều thiên của bậc cao niên là đàn con cháu; Niềm tự hào của đàn con cháu là bậc cha ông“ (Cn. 17,6).
Tôi xin ghi lại 3 tư cách này mà tôi nhận ra và làm chứng nơi ông tổ Gioan Cassaigne của tôi:
1. Người môn đệ của Chúa Giêsu, vị Thừa sai luôn sẵn sàng và nhiệt thành;
2. Người Tông đồ trung tín và khôn ngoan luôn theo hướng dẫn của Thánh Thần;
3. Người mục tử kiên trì: từ Yêu thương (Amor=Philia ) đến Bác ái (Caritas=Agape).
1. Người môn đệ của Chúa Giêsu, vị Thừa sai luôn sẵn sàng và nhiệt thành.
Điều trước tiên tôi học được nơi Đức cha Gioan Cassaigne chính là tư cách “người môn đệ của Chúa Giêsu, vị Thừa sai luôn sẵn sàng và nhiệt thành“. Ngài đã chọn Chúa làm Thầy của mình, đón nhận lệnh truyền của Chúa thông qua thư bổ nhiệm của Đức giám mục, để sẵn sàng đi đến nơi ngài chưa biết, sống giữa những người ngài chưa một chút thân quen. Ngài có niềm tin: mình chọn Chúa và vâng phục lệnh truyền của Hội thánh.
Trong Bản tường trình năm 1920, Đức Cha Victor Quinton, Giám mục Đại diện Tông Tòa ở Saigon để lại cho chúng ta một cơ sở hết sức quý giá trong sứ mạng của Hội thánh là Loan báo Tin mừng cho những người nghèo khổ ở Cao nguyên Langbiang này. Ngài viết: “Khoảng một tháng sau khi từ Pháp trở lại Saigon, Cha Céleste Nicolas lại đau gan, căn bệnh đã khiến người trở về Pháp hai lần để điều trị. Bác sĩ đã nói rõ người không thể làm việc ở Nam Bộ do điều kiện khí hậu nóng bức; cần phải tìm cho người một nơi khí hậu ôn hòa mát mẻ. Do đó, tôi nghĩ là phải lẽ khi quyết định gửi Cha Nicolas lên Đàlạt để sống cho có bạn với Cha Sidot mà tôi mới đặt làm Cha sở ở đó từ tháng 5 vừa qua. Như vậy, may ra người có thể thử đem Tin Mừng của Chúa đến cho các Bộ lạc Thượng ở vùng Cao nguyên Langbiang. Cuộc thử nghiệm này có đem lại kết quả gì không? Tôi chưa biết. Nhưng dầu sao, chúng ta sẽ hết sức mãn nguyện khi có thể cống hiến cho những người Thượng nghèo khổ này một phương thế đón nhận ơn cứu rỗi. Cuộc thử nghiệm này đến đúng lúc vì ở ngay giữa những bộ lạc này đã hình thành trạm nghỉ dưỡng (installation sanitaire) chúng ta không có gì phải lo lắng cho vấn đề sức khỏe của các Thừa sai dấn thân vào công cuộc truyền bá Phúc Âm”. Đó là quyết định, ý hướng của Đức Cha Quinton vào năm 1920.
Trong bản Phúc trình năm 1927, Đức Cha Isidore Dumortier, Đại diện Tông Tòa ở Saigon, người đã có dịp tháp tùng Đức giám mục Lucien Mossard vào khoảng năm 1917 lên Cao nguyên Lang Biang, lúc bấy giờ trong tư cách là thư ký của Đức cha Lucien. Cha Isidore đã thấy những người sắc tộc ở vùng đất này và trong lòng có ước mong chớ gì mình được trở nên vị Thừa sai đến phục vụ những người nghèo khổ tại miền đất này. Nhưng rồi, ý Chúa lại muốn ngài làm giám mục đại diện Tông Tòa ở Saigon. Trái tim thừa sai của ngài luôn nhắc nhở về sứ mạng đó. Chính ngài đã viết như sau: “Năm nay, tôi có một niềm vui hết sức to lớn là có thể đặt một Thừa sai ở ngay trung tâm vùng người Thượng trên Cao nguyên. Tôi vừa nhận trách nhiệm đại diện Tông Tòa, nên chưa dám nghĩ tới việc thực hiện ước nguyện đã ấp ủ từ lâu trong tâm hồn tôi đối với những người Thượng trong cánh đồng truyền giáo của chúng ta. Nhưng Chúa quan phòng đã lo liệu tất cả và tôi chỉ có việc làm theo những chỉ dẫn của Ngài. Vào ngày 2 tháng 6 năm 1926, Cha Bề trên cả của Hội Dòng chuyển cho tôi lá thư của một số người Pháp đang sống ở Paris cho biết họ được phép khai thác đồn điền ở Cao nguyên Djiring và ước mong Hội Dòng mở điểm truyền giáo ở đó, để chăm sóc cho những lao công người Việt, đồng thời cũng lo cho những người Thượng ở đây. Cha Bề trên cả thấy đề nghị của họ thật hấp dẫn, đáng được lưu tâm. Phần tôi, tôi trả lời cho ngài là tôi thấy cơ hội Chúa quan phòng để khởi sự công cuộc loan báo Tin mừng cho người Thượng ở Cao nguyên. Tháng 9 vừa qua, sau khi tôi được diễm phúc truyền chức Linh mục cho 3 Phó tế và truyền chức Phụ Phó tế cho 4 Thầy Giúp lễ, tôi đã cùng với Cha De Coopman đi đến Djiring. Cha De Coopman đã có dịp lên Djiring và để ý nơi đó có sẵn một căn nhà người ta muốn bán, có thể thích hợp cho một Thừa sai. Cao nguyên Djiring ở độ cao 1.000 mét, là trung tâm của Tỉnh Đồng Nai Thượng, hiện có khoảng 40.000 người Thượng sống rải rác trên các sườn núi… Chúa Quan phòng đã sắp đặt cho tôi một vị tông đồ như ý để khởi sự công cuộc truyền giáo này: Đó là một Thừa sai trẻ, Cha JEAN BAPTISTE CASSAIGNE người vừa tới Saigon, ngày mồng 5 tháng 5... Tôi thấy Cha Cassaigne được chuẩn bị tốt để chịu được gian khổ, thiếu thốn. Vừa khi biết chương trình truyền giáo của tôi, Cha Cassaigne đã tình nguyện và bày tỏ niềm vui khôn tả khi nghe tôi công bố việc bổ nhiệm Ngài vào công cuộc này.
Với lệnh truyền gói ghém trong văn thư bổ nhiệm của Giám mục của mình, cha Cassaigne như những người môn đệ của Chúa Giêsu năm xưa, từ bỏ mọi sự, ngay cả ý riêng của mình: không chọn lựa nhiệm sở, chưa biết một chút nào vùng đất mình được sai tới, tương tự như Tổ phụ Abraham đón nhận và tin tưởng ở Lời Chúa, mau mắn lên đường; cha Cassaigne ra đi trong đức tin, với tâm trạng của người môn đệ, người thừa sai luôn sẵn sàng và nhiệt tình; ngài lên đường từ Saigon qua ngả Phan Thiết để hướng tới Di Linh ngày thứ tư 20 tháng 10 năm 1926. Tới ga Ma Lâm, gặp trời mưa giông dữ dội do cơn bão to đang càn quét vùng Cao nguyên, những cơn lũ cuốn sập cầu sông Quao trên đường lên đèo Gia Bắc, nên phải quay trở về Sài Gòn chờ đợi. Thời gian này, ngài trở về Cái Mơn học tiếng Việt cho đến đầu năm 1927. Sau đó, ngài lên Đàlạt với cha Nicolas. Ngày 24 tháng 1 năm 1927, phái đoàn đưa Cha Cassaigne đến Di Linh gồm có: cha Nicolas, cha sở Đàlạt, Cha Barré và Cha Thomaret cha sở Phan Thiết và Cha De Coopman, quản lý Giáo phận, thay mặt Đức Cha Isidore Dumortier. Cha Nicolas cũng không quên tìm cho ngài một người bếp tên là ông Mười điếc, ngài dẫn theo chú giúp lễ 12 tuổi tên là Nhân đã theo ngài từ Cái Mơn. Cha Cassaigne với người bếp và chú giúp lễ cùng 2 giáo dân ở trước tại Di Linh làm thành “cộng đoàn” 5 người tín hữu của Chúa Kitô ở giữa vùng đồi núi hoang vu và ở giữa khoảng trên 40.000 cư dân chưa biết Chúa. Sứ mạng của Cha Cassaigne rõ ràng là hiện diện giữa những người Thượng nghèo khổ ở vùng Cao nguyên, để nói về Chúa với họ, giúp họ nhận ra và tin vào Chúa.
2. Người Tông đồ trung tín và khôn ngoan theo hướng dẫn của Thánh Thần.
Là người Tông đồ, ngài sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Chính Thánh Thần là Đấng soi sáng và hướng dẫn chương trình mục vụ, hoạt động tông đồ và ngay cả cách ứng xử của ngài với mọi người, mục đích là làm cho mọi người nhận biết khuôn mặt và sứ vụ cứu độ của Chúa Giêsu, chứ không phải là con người Gioan Cassaigne !
● Gặp gỡ người phong cùi;
● Lắng nghe, học hỏi với người bản địa và khai sáng chữ viết cho người K’ Ho;
● Rảo bước trên mọi nẻo đường vùng đất Cao nguyên và thiết lập các giáo điểm truyền giáo góp phần hình thành gia sản của gia đình Giáo phận Đalat ngày nay.
Bước đường truyền giáo của Cha Cassaigne thật lạ lùng. Chính trong bối cảnh, thời gian đó, sức khoẻ của ngài bị thử thách nghiêm trọng ; thời gian đầu, hầu như sốt rét kinh niên, hầu như không làm gì được. Ngài không nản lòng, ngay cả khi chỉ dâng Thánh lễ một mình, vì cậu bé giúp lễ cũng bị sốt rét. Chính lúc đó, ngài nhìn vào Chúa Giêsu Thánh Thể và tin rằng các Thiên thần đang hiện diện để tham dự Thánh lễ, các Thiên thần giúp lễ cho ngài! Cuộc sống của ngài tập trung ở lời cầu nguyện, sự thánh thiện, lòng bác ái khiến cho người ta nhận ra nơi ngài là hình ảnh của Chúa Kitô.
Thật vậy, ngài nói tiếng Pháp, biết một chút tiếng Việt mà ngài đã học ở Cái Mơn. Nhưng người sắc tộc ở vùng Cao nguyên này không nói tiếng Pháp, cũng không nói tiếng Việt. Họ nói tiếng của sắc tộc họ mà sau này ngài nhận ra là tiếng K’ Ho. Vì thế, nhịp cầu thông cảm giữa ngài với những người chung quanh chính là đời sống của ngài: ngài sống ơn gọi không những của người môn đệ của Chúa mà còn là ơn gọi của người tông đồ của Chúa. Đương nhiên chúng ta không thể nào nói tới Cha Cassaigne mà không nhắc tới cuộc gặp gỡ hết sức cảm động và đầy tinh thần Phúc âm của Ngài với những người phong cùi. Một ngày cuối Thu năm 1928, (lúc bấy giờ ngài còn rất trẻ ), trong chuyến đi thăm một làng Thượng xa, đang băng qua rừng vắng thì bỗng có tiếng chân nhiều người dồn dập từ trong vùng tối âm u, nhiều giọng la ú ớ kêu Ngài dừng lại. Những bóng dáng quái dị xuất hiện như một đoàn ma đói. Thân hình xác xơ, kẻ mất tay, người sứt mũi, miệng chảy nước lòng thòng và tất cả hầu như què quặt. Họ mặc dù có người khập khiễng, có người vừa bò vừa lết, và đói, cố đuổi theo và bao vây lấy ngài và tất cả đồng gào lên thảm thiết:
“Ơ cau dơng! Ơ cau dơng! Dăn nđàc sơngit bol hi!”
Ới ông lớn! Ới ông lớn! Xin thương xót chúng tôi!
Rồi tất cả sụp lạy ngài và khóc rống. Cha Cassaingne vừa sợ hãi, vừa mủi lòng. Vượt qua cơn sợ hãi ngài bình tĩnh trở lại: câu chuyện năm xưa trong Phúc âm trở nên sống động đối với ngài: Đức Giêsu gặp những người phong cùi ( Luca 17, 11-19 ). Lời van xin của những người phong cùi hôm nay sao mà giống như lời van xin của những người phong cùi năm xưa đã thưa với Chúa: “ Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi “.Thì ra đây là nhóm người cùi bị xóm làng kinh tởm đuổi đi, họ tụ tập từng nhóm ngoài rừng xa, sống lây lất qua ngày để chờ chết. Có lẽ họ đã nghe lời đồn đãi về “ông lớn” làm thuốc và hay thương giúp người phong cùi này. Họ chờ ngài trên khúc đường vắng để nhờ ngài giúp đỡ. Cuộc gặp gỡ đó như để lại trong tâm khảm của ngài: “mình phải là hình ảnh sống động, đầy nhân từ của Chúa Giêsu ở giữa những người cùng khổ”. Ngài đã mạnh dạn trả lời: “Hãy theo cha. Cha thương chúng con “. Vài ngày sau đó, việc lập làng cùi Di Linh được xúc tiến ngay. Trong bài thuyết trình của Cha Cassaigne tại Sài Gòn năm 1943 về bệnh cùi khủng khiếp như thế nào, Ngài viết:
“Ở xứ Thượng cũng như hầu hết các xứ vùng nhiệt đới, nơi mà sự ăn ở sạch sẽ và phương pháp vệ sinh ít được lưu ý, thì con số người mắc bệnh cùi khá cao. Khi mà có thể còn làm việc được thì người mắc bệnh cùi vẫn còn được sống chung với gia đình. Nhưng đến khi thân tàn ma dại không làm gì được nữa, nhất là khi các vết ung thối bắt đầu phá miệng lở loét ra, mủ máu vấy đầy khiến những người chung quanh nhờm gớm kinh tởm không chịu được, thì dân làng đưa họ vào rừng, cất cho họ một túp lều tranh để người cùi ở lại đó một mình sống chết sao mặc kệ! Rồi yếu liệt cô đơn trong túp lều hiu quạnh, người cùi không còn sức làm gì nữa để kiếm ăn vì tay chân cụt mất rồi! Họ sẽ chết dần chết mòn một cách thảm khốc, sẽ gục ngã ở một xó kẹt nào đó rồi chết đi vì đói lạnh, mà chẳng có ai hay biết…” Trước khi mắc bệnh, mỗi lần thuyết trình đến đây, cha Cassaigne không sao cầm được nước mắt, phần thì thấy thương những người xấu số, phần thì chắc Ngài cảm thấy lo âu sợ sệt như linh cảm thấy trước định mệnh sẽ đến, Ngài run sợ như chính mình đang mắc chứng bệnh nan y này.
Các việc làm nhân đức của Cha Jean Cassaigne đã đưa Ngài từ một căn lều tranh để phục vụ người hủi tới tận tai Tòa Thánh La Mã. Ngài được bổ nhiệm chức Giám Mục và Ngài phải tuân lệnh Toà Thánh về làm việc tại Ðiạ Phận Sài Gòn. Trong hơn 14 năm giữ chức vụ này Ðức Giám Mục Cassaigne đã đôn đốc thực hiện công cuộc bác ái, cứu trợ vật chất, ủy lạo tinh thần cho những người gặp cảnh bất trắc nghèo khó, di cư tị nạn, không phân biệt địa phương hay tôn giáo. Vì nhớ đám dân cùi, Ngài xin từ nhiệm chức Giám Mục Sài Gòn để trở về băng bó vết thương tinh thần và vật chất cho những đứa con cùi hủi của Ngài tại làng cùi Di Linh.
Vì sống một đời sống quá khắc khổ trong rừng nên Ðức Cha đã mang nhiều bịnh nặng. Từ năm 1929, Ngài đã mắc bịnh sốt rét rừng. Năm 1943, bịnh cùi đã đến với Ngài vì sống gần gũi với người bịnh; từ năm 1957, bịnh lao xương không thuốc chữa làm Ngài đau đớn, và năm 1964, bịnh lao phổi trở lại hành hạ thân Ngài. Ðức Cha đau đớn tột cùng với những cực hình thể xác, nhưng luôn luôn vững lòng chấp nhận để xin Chúa thương mà giảm bớt cái đau của những người hủi tại Việt Nam. Những ai may mắn sống gần Ðức Cha thường được nghe Người nói:
– “Ðời tôi chỉ có ba ước nguyện: được chịu đựng, chịu đau, và chịu chết ở đây, giữa những người Thượng của tôi”. (Je ne demande que trois choses: tenir, souffrir, et mourir ici, au milieu de mes Montagnards); để qua đó, sau này khi được đặt làm Giám mục, Đại diện Tông Tòa ở Saigon, trái tim nhân hậu của Ngài vẫn không rời xa những người con cùng khổ về tinh thần cũng như vật chất. Ngài sống trọn vẹn khẩu hiệu Giám mục của mình: “Caritas et Amor” (Bác ái và Yêu thương). Ngay trong ngày được tấn phong Giám mục ở Saigon, giữa biết bao nhân vật vị vọng về đạo cũng như về đời, khi trông thấy những người Thượng từ Di Linh - Đàlạt về dự lễ, Ngài đã rẽ đám đông, tiến đến với họ trong sự xúc động hòa lẫn nước mắt. Đáp lại câu hỏi: “Cha chỉ thương người Thượng thôi à ?” Đức Cha Cassaigne đáp: “Người con nào mình cũng thương. Nhưng những người con khổ cực, thiệt thòi, thì mình thương nhiều hơn!”. Ngài vẫn sung sướng nhắc lại lần mà ngài rửa tội cho một người Thượng đầu tiên tại vùng truyền giáo Cao nguyên, vào ngày 7 tháng 12 năm 1927, đó là một người mẹ cùi; chính ngài đã xác tín đây là một ơn mà Chúa ban cho công cuộc truyền giáo; người đó đã nói với tôi: “khi con về Thiên Đàng, con sẽ nhớ tới Cha”, và Đức Cha Cassaigne nói: “người đó đã giữ lời hứa, đã nhớ đến tôi trên con đường truyền giáo!”.
Thật vậy, Chúa Thánh Thần đã soi sáng và hướng dẫn bước đường truyền giáo của ngài, cho đến độ, sau này khi nhìn lại, chúng ta sẽ không ngần ngại xem ngài như hình ảnh của Thánh Phaolô trên bước đường đến với muôn dân. Chính cha Cassaigne đã mở ra cánh đồng truyền giáo trên vùng cao nguyên Đàlạt, Đức Trọng, Di Linh, Bảo Lộc. Chúng ta thật ngỡ ngàng khi thấy một con người như thế được sai đến vùng đất mà hầu như chưa ai biết Tin mừng của Chúa; để rồi sau đó, mở mang đạo thánh Chúa không những ở vùng Di Linh, Ka la, mà còn lan rộng đến Bắc Hội ở vùng Fimnom, lên tới Xuân Trường, nay là Giáo xứ Cầu Đất (Đàlạt), trải dài đến Công Hinh, tức vùng đất rộng lớn và phong phú Bảo Lộc ngày nay. Ngài đúng là “Ông Tổ các vị Thừa sai truyền giáo Thượng đầu tiên Đàlạt”, là ông tổ mở ra công cuộc truyền giáo ở vùng đất nay là Giáo phận Đalat như lời của Đức Cha Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền, Giám mục Giáo phận Đalat.
3. Người mục tử kiên trì: từ Yêu thương (Amor=Philia ) đến Bác ái (Caritas=Agape).
Trong ngôn ngữ của “tình yêu “, có 4 từ chuyên môn diễn tả các đặc điểm:
● Eros = Yêu thương bằng xúc cảm, nhằm chiếm hữu người mình yêu;
● Storgê = Yêu thương, âu yếm những ai cùng huyết thống, gia đình, dòng tộc với mình;
● Philia = Yêu thương với mối tình lý tưởng, cùng khuynh hướng, nghề nghiệp;
● Agape = Yêu thương theo gương của Chúa Giêsu Kitô là đồng hành, phục vụ ngay cả chấp nhận chết đi cho người mình yêu thương.
Là người môn đệ, cha Cassaigne vô cùng thấm thía lệnh truyền của Chúa đã nói năm xưa: “Ai muốn đi theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo “ ( Mt. 16, 24 ). Do đó, thứ “tình yêu“ theo kiểu “Eros“ hay “Storgê“ là những tình cảm ở đời mà người môn đệ của Chúa phải luôn chiến đấu để dứt khoát, từ bỏ trong cuộc đời của mình.
Sống xác tín bản chất của người môn đệ, người tông đồ, vị mục tử nhân lành theo gương Chúa Giêsu, cha Cassaigne đã trải nghiệm trong cuộc đời của mình những dấu ấn của tình yêu lý tưởng, thanh cao và trung tín của Philia (Amor), để hoàn toàn với sự soi sáng của Thánh Thần, sống chan hòa trong nguồn ân sủng của Thiên Chúa, ngài đạt tới “đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu Kitô, vị Mục tử nhân lành“, sống và thực hành triệt để lệnh truyền của Chúa: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là hãy yêu mến nhau; như Thầy đã yêu mến anh em, anh em hãy yêu mến nhau. Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy: là anh em có lòng yêu mến nhau“ (Ga. 13, 34-35); “Chính Tôi là người mục tử tốt. Người mục tử tốt hy sinh mạng sống mình vì chiên “ (Ga. 10, 11); bởi lẽ: “không ai có tình yêu cao cả hơn người hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình“ (Ga. 15, 13).
Đức cha Gioan Cassaigne đã yêu thương theo gương của Chúa là đồng hành, phục vụ ngay cả chấp nhận chết đi cho người mình yêu thương. Ngài sống viên mãn tình yêu Agape (Caritas)
Nguồn: giaophannhatrang.org