THỦ TỤC TỐ TỤNG HÔN NHÂN NGẮN GỌN HƠN TRƯỚC GIÁM MỤC (Đ. 1683 -1687)
Lm. JB. Lê Ngọc Dũng
Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong Tự Sắc Mitis Iudex Dominus Iesus (Chúa Giêsu Thẩm Phán Nhân Từ), ban hành ngày 15-8-2015, ấn định thêm một loại thủ tục mới gọi là Tố tụng hôn nhân ngắn gọn hơn trước Giám Mục (processo breviore davanti al Vescovo), có hiệu lực từ ngày 8-12-2015.
1. Ý nghĩa
Gọi là “ngắn gọn hơn” (breviore) là so với loại thủ tục thông thường vẫn đang áp dụng. Thủ tục ngắn gọn hơn thì giản lược về hai mặt:
- Nhân sự tòa án: thay vì phải có hiệp đoàn ba thẩm phán để xét xử, chỉ cần một thẩm phán duy nhất, nhưng phải là Giám Mục giáo phận.
- Thủ tục: một số giai đoạn trong tiến trình sẽ được giản lược hay bỏ qua. Thời gian xử án sẽ được rút gọn.
Trong thủ tục ngắn gọn, phần quyết định tuyên án được thực hiện bởi chính thẩm phán Giám Mục. Ngài tuyên án, sau khi đã xem xét hồ sơ vụ án, cứu xét bản ý kiến của bảo hệ viên (bảo vệ dây hôn phối) và tham khảo ý kiến thẩm cứu viên và hội thẩm.
2. Mục đích của thủ tục xử ngắn gọn hơn
Vụ án được giải quyết trong thời gian ngắn, giúp cho người đệ đơn xin công bố hôn nhân vô hiệu được giải đáp vấn đề của mình kịp thời để có thể tái hôn hoặc thành sự hóa hôn nhân đang rối ngay sau đó, đồng thời cũng giúp tòa án tiết kiệm được công sức và thời gian. Nhờ đó, tòa án giải quyết được nhiều vụ án hơn, nhất là ở những nơi hoặc thiếu chuyên viên tòa án hoặc số lượng các vụ án quá nhiều.
3. Vì sao phải được xử án bởi Giám Mục giáo phận?
Điều mới của Tự sắc Mitis Iudex không hệ tại ở việc ban cho Giám Mục thẩm quyền xét xử tòa án, vì tự ngài đã có quyền này. Giám Mục trong Giáo Hội, theo hình ảnh của Đức Kitô, vừa là người cha, vừa là thẩm phán, có quyền xét xử tư pháp trọn vẹn. Ngài tự mình thực hiện quyền đó hoặc nhờ qua vị Đại Diện Tư pháp hay các thẩm phán giáo phận. Giám mục có quyền dành riêng cho mình thẩm quyền xét xử một số vụ án (đ. 1420). Vì vậy việc Đức Giám Mục có thẩm quyền hay đứng ra làm thẩm phán một vụ án hôn phối là bình thường theo luật hiện hành.
Tuy nhiên, Giám mục cũng phải tuân thủ những luật về thủ tục tố tụng để việc xử án có hiệu lực. Nếu không, việc xử án sẽ vô hiệu. Vì vậy, Giám mục thông thường phải nhờ vị Đại Diện tư pháp và các thẩm phán khác xử án.
Sự canh tân thủ tục mạnh dạn đưa Giám Mục vào xử án tư pháp để giúp một số trường hợp cần giải quyết sớm với thủ tục ngắn gọn. Đại Diện tư pháp sẽ phải đứng ra thụ lý hồ sơ và giúp Giám Mục.
Sao Giáo luật không trao cho Đại Diện tư pháp xử luôn vụ án này, như trường hợp cho phép xử với một thẩm phán duy nhất? Thưa là vì nếu thủ tục được rút gọn, thì dễ có nguy cơ sơ sót hay buông lỏng pháp lý. Trong trường hợp này cần có Giám Mục đứng ra làm thẩm phán để lãnh trách nhiệm, bảo đảm việc xử án được nghiêm túc, tránh sự lơi lỏng pháp lý của vị Đại Diện tư pháp.
4. Đại Diện Tư Pháp quyết định xử theo thủ tục ngắn gọn
Vị Đại Diện tư pháp được Giám Mục trao phó trách nhiệm xem xét hồ sơ đơn xin để quyết định là vụ án sẽ được xử theo thủ tục thông thường hay thủ tục ngắn gọn hơn. Việc quyết định này cần phải dựa theo những quy tắc luật định về thủ tục và theo những tiêu chuẩn mục vụ của Giám Mục đề ra.
Trong trường hợp không có Đại Diện tư pháp, Giám Mục có thể chọn một người có khả năng (linh mục và cũng có thể là giáo dân có chức vụ và kinh nghiệm) để giúp quyết định xử theo thủ tục nào, thông thường hoặc ngắn gọn hơn. Trong trường hợp này, đơn thỉnh cầu và xin xử ngắn gọn phải gởi lên thẩm phán Giám Mục để xét xử vụ án.
Trong trường hợp không có người có khả năng hay khôn ngoan giúp đảm nhiệm, Giám Mục có thể nhờ một linh mục có chức vụ ở giáo phận khác giúp. Trong trường hợp này, đơn thỉnh cầu và xin xử ngắn gọn cũng phải gởi trực tiếp lên Giám Mục.
Trong trường hợp quá khó khăn, không thể tìm được người trong hay ngoài giáo phận có khả năng giúp cho vụ án xử theo thủ tục ngắn gọn. Giám mục có thể ủy thác vụ án cho tòa án giáo phận gần bên để đảm nhận việc thẩm cứu vụ án (l’istruttoria). Sau khi đã thực hiện xong việc thẩm cứu, hồ sơ vụ án được gởi về cho Giám Mục để ngài xem xét và quyết định về sự vô hiệu của hôn nhân. Trong trường hợp này, đơn thỉnh cầu và xin xử ngắn gọn phải gởi lên Giám Mục để ngài xem xét. Ngài xem là có thể chấp nhận được xử theo thủ tục ngắn gọn theo những tiêu chuẩn giả định trước (sussistenza dei presupposti) mà luật đã đề ra không. Nếu thấy không thể, ngài đề nghị họ đệ đơn lên tòa án có thẩm quyền để xử theo thủ tục thông thường.
5. Những tiêu chuẩn giả định trước để xử theo thủ tục ngắn gọn hơn
Điều 1683 quy định
Chính Giám Mục giáo phận có thẩm quyền xét xử những vụ án hôn nhân bất thành với thủ tục ngắn gọn hơn mỗi khi:
1° Có đơn thỉnh cầu được cả hai người phối ngẫu đệ trình hay do một trong hai bên, với sự đồng ý của bên kia;
2° Những sự kiện về người và về sự việc, phải được xác thực bởi các chứng cứ hoặc tài liệu mà không cần phải điều tra hay thẩm cứu kỹ lưỡng hơn, và chúng phải làm cho sự bất thành được sáng tỏ.
Có hai điều kiện để xử ngắn gọn hơn:
1- Cả hai đều đồng ý xin tiêu hôn
2- Các chứng cứ tương đối đã khá đầy đủ chứng tỏ sự vô hiệu của hôn nhân.
6- Quy tắc hướng dẫn của THĐGM số 14§1
Trong số những sự kiện về người hay sự việc có thể cho phép tiến hành vụ án tuyên bố hôn nhân bất thành qua tố tụng ngắn gọn theo các điều 1683-1687, được kể ví dụ như là: thiếu đức tin khiến phát sinh sự giả hình (simulatio) trong ưng thuận hoặc sự lầm lẫn chi phối vào ý chí, cuộc chung sống vợ chồng quá ngắn ngủi, thực hiện phá thai cốt để ngăn cản việc sinh con, thường xuyên ngoan cố trong mối liên hệ ngoài hôn nhân vào thời gian kết hôn hay một thời gian tiếp theo ngay sau đó, gian ý giấu giếm vô sinh hay mắc một bệnh truyền nhiễm nghiêm trọng hay đã có con từ một quan hệ trước hay tù tội, nguyên nhân kết hôn hoàn toàn xa lạ với đời sống vợ chồng hay chủ yếu do người phụ nữ đã lỡ mang thai, bạo lực thể lý buộc bên kia phải ưng thuận kết hôn, thiếu sử dụng trí khôn có giấy chứng nhận của bác sĩ, v.v…
Những ví dụ về sự kiện mà có thể xử theo thủ tục ngắn gọn mà THĐGM nêu trên khá gây ngạc nhiên cho nhiều người. Một số người hiểu lầm đây là những luật mới quy định về sự vô hiệu của hôn nhân. Nghĩa là, tưởng rằng thiếu đức tin, phá thai … theo luật mới là có thể làm cho hôn nhân vô hiệu. Một số người khác lại nghĩ rằng đây là những hoàn cảnh được quy định để xử theo thủ tục ngắn gọn.
Tòa Thượng thẩm Roma, trong tập "Sussidio Applicativo del Motu pr. Mitis Iudex Dominus Iesus” xuất bản tháng 1 năm 2016, xác định những sự kiện về người và sự việc mà Nguyên tắc số 14§1 nêu ra không phải là những luật mới về tiêu hôn, nhưng chúng là những yếu tố liên quan mật thiết đến sự ưng thuận hôn nhân, mà có thể chứng tỏ cách dễ dàng từ những chứng cứ hay tài liệu.
a- Thiếu đức tin khiến phát sinh sự giả hình (simulatio) trong ưng thuận hoặc sự lầm lẫn chi phối vào ý chí;
Sự thiếu đức tin có làm cho bí tích hôn nhân vô hiệu không? Đã có nhiều lần trong Giáo Hội, người ta đã từng nêu lên vấn đề này. Người ta lý luận: khi cử hành một Bí Tích mà không có đức tin thì Bí Tích đó không hữu hiệu. Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong diễn văn hằng năm trước các thẩm phán của tòa Thượng Thẩm Roma, ngày 22-1-2016 vừa qua đã tái khẳng định: “Phải xác định rõ ràng là phẩm chất đức tin không là một điều kiện cốt yếu cho sự ưng thuận hôn nhân”. Sự ưng thuận hôn nhân “theo giáo thuyết lâu đời, bị hà tỳ chỉ trong phạm vi tự nhiên”.
Tuy nhiên, sự thiếu đức tin lại được chú trọng trong các vụ án vô hiệu hôn nhân. Lý do là sự "thiếu đức tin" có thể là nguồn phát sinh sự "giả hình" trong kết ước hôn nhân hoặc sự lầm lẫn chi phối vào ý chí.
Kết hôn Simulatio (giả hình) là khái niệm thường được đề cập đến trong án lệ hôn nhân. Nó hệ tại bởi sự có ý không muốn tuân giữ theo đúng những điều chính yếu của kết ước hôn nhân. Chẳng hạn như khi kết ước thì thề chung thủy một vợ một chồng suốt đời bất khả phân ly mà lại có ý giữ lại cho mình quyền hay khả thể sẽ có thể quan hệ xác thịt với người thứ hai hoặc khả thể sẽ ly dị. Hoặc như kết hôn mà lại có ý không sinh con gì cả; hoặc thề yêu thương nhau và tôn trọng nhau suốt đời mà lại chỉ có ý lợi dụng tiền bạc. Một sự ưng thuận kết hôn "giả hình" như vậy làm cho sự ưng thuận thành vô hiệu. Giáo Luật điều 1101§2 quy định:
"Nếu một bên hay cả hai bên bằng một hành vi tích cực của ý chí, loại trừ chính hôn nhân, hoặc một yếu tố chính yếu nào, hoặc một đặc tính chính yếu nào của hôn nhân thì họ kết hôn với nhau bất thành”.
Yếu tố chính yếu, hoặc đặc tính chính yếu của hôn nhân, có thể kể như: sự sinh sản giáo dục con cái (bonum prolis), sự đơn nhất chung thủy (bonum fidei), sự bất khả phân ly, sự hiệp thông trao ban cho nhau trong cuộc sống hay thiện ích của hôn nhân (bonum coniugum). Khi kết hôn mà đã có ý tích cực loại trừ hay không tôn trọng những yếu tố này thì kết hôn vô hiệu.
Các nhà Giáo luật đều đã lưu ý rằng một người đã sống trong một nền văn hóa, tôn giáo mà chủ trương cho ly dị tái hôn, đa thê, thì người đó khó có thể chấp nhận lề luật của Công Giáo, và vì vậy họ dễ kết hôn giả hình. Đối với người Công Giáo có đức tin thì dễ suy đoán rằng họ tôn trọng Giáo Luật và ít khi kết hôn giả hình, nhưng đối với người không có đức tin thì sự giả hình dễ xảy ra hơn.
Mặt khác, có những trường hợp thiếu đức tin lại bao gồm sự thiếu hiểu biết về chính hôn nhân. Sự thiếu hiểu biết này, theo luật không nhất thiết loại trừ ưng sự thuận (đ. 1100), nhưng nếu nó chi phối vào ý chí thì ưng thuận có thể bị hà tỳ và làm cho hôn nhân vô hiệu (đ. 1099). Tòa Thượng thẩm Roma đã chiếu theo giáo huấn của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, giải thích thêm về điều này như sau:
Sự bỏ hay mất đức tin Kitô giáo (scristianizzazione) của xã hội ngày nay dẫn đến một sự thiếu hiểu biết trầm trọng về chính hôn nhân, đến nỗi chi phối vào ý chí. Sự khủng hoảng hôn nhân, vì vậy, trong từ căn gốc, không gì khác hơn là khủng hoảng sự hiểu biết được khai sáng bởi đức tin. Sự đào tạo con người và văn hóa nhân bản chịu một ảnh hưởng mạnh mẽ đôi khi nhất định của não trạng thế gian; của một niềm tin đóng kín trong thuyết chủ thể, đóng kín trong nội tại của lý lẽ và cảm giác, biểu lộ sự khiếm khuyết là không thể có được sự hiểu biết đúng đắn về thiết chế hôn nhân và những bổn phận thiết yếu của nó.
Điều này cũng thường được gắn thêm một hạ tầng của sự yếu đuối mỏng manh về tâm lý và luân lý của người kết hôn. Cách riêng, một số người trẻ hoặc thiếu trưởng thành có thể đi xuống chỗ nhận biết hôn nhân thuần túy là một ân huệ tình yêu. Nó thúc đẩy người kết ước hôn nhân tới một sự giả hình (simulatio) trong ưng thuận, nghĩa là tới sự duy trì một não trạng riêng về sự kết hợp vĩnh viễn đó, hoặc sự loại trừ nó.
b- Cuộc chung sống vợ chồng quá ngắn ngủi
Cuộc chung sống vợ chồng quá ngắn ngủi là một sự kiện rất quan trọng biểu hiện cho nhiều lý do tiêu hôn khác nhau. Nó có thể là:
- Bị ép buộc, sợ hãi nên đành kết hôn. Hôn nhân vô hiệu theo quy tắc của điều 1103 về sợ hãi. Vì miễn cưỡng kết hôn, không có tình yêu, cuộc sống trở nên nặng nề, có nhiều xung đột nên dễ dàng chia tay sau thời gian ngắn.
- Loại trừ chính hôn nhân. Một người có thể đã không muốn kết hôn, nhưng đã kết hôn để đạt được một lợi ích khác, xa lạ với đời sống hôn nhân, ví dụ như kết hôn chỉ để được đi nước ngoài và sau đó thì ly dị. Hôn nhân vô hiệu theo quy tắc của điều 1101§2 về sự loại trừ chính hôn nhân hay kết hôn “giả hình” (simulatio).
- Thiếu phán đoán hoặc bản chất tâm lý không thể chu toàn nghĩa vụ hôn nhân. Hôn nhân trong trường hợp này là vô hiệu theo quy tắc của điều 1095. Đời sống hôn nhân bền vững nhờ có sự hiệp thông với nhau và chu toàn nghĩa vụ trao ban cho nhau. Khi không thể thực hiện nghĩa vụ đối với nhau do thiếu khả năng, như người có bệnh đồng tính, rối loạn tình dục, tâm lý bất thường … thì hôn nhân cũng dễ dàng tan vỡ sau thời gian ngắn.
- Kết hôn do lầm lẫn hay lừa gạt… cũng dễ dẫn tới sự chia tay rất sớm sau kết hôn.
c- Thực hiện phá thai để ngăn ngừa việc sinh con
Việc phá thai tự nó không làm cho hôn nhân vô hiệu. Tuy nhiên nếu sự phá thai được thấy như một sự cố ý loại trừ sự sinh sản, hay thiện ích con cái. Đây là một loại kết hôn giả hình theo quy tắc của điều 1101§2. Ngoài ra, việc duy trì ngừa thai liên tục cố ý loại trừ sự sinh con vĩnh viễn với người vợ hay chồng đang chung sống cũng làm cho kết ước hôn nhân vô hiệu.
Phá thai là một tội rất nặng trong luân lý Kitô giáo. Nó có thể biểu lộ một sự thiếu đức tin nơi phạm nhân. Như đã nói trên, sự thiếu đức tin lại có thể là nguồn phát sinh sự kết hôn giả hình.
d- Thường xuyên ngoan cố trong mối liên hệ ngoài hôn nhân vào thời gian kết hôn hay một thời gian tiếp theo ngay sau đó
Một người vẫn còn tiếp tục liên hệ với người tình cũ ngay cả sau khi kết hôn với người khác thì người đó đã loại trừ sự chung thủy hay đơn nhất một vợ một chồng của hôn nhân. Nếu kết ước hôn nhân chính thức với một người làm vợ nhưng đồng thời vẫn quan hệ với một người tình như một vợ thứ hai trong bóng tối, thì sự kiện đó biểu hiện cho sự kết ước không thật lòng, có ý loại trừ sự đơn nhất chung thủy. Hôn nhân, vì vậy, vô hiệu chiếu theo quy tắc của điều 1101§2.
e- Gian ý (dolus) dấu diếm vô sinh hay mắc một bệnh truyền nhiễm nghiêm trọng hay đã có con từ một quan hệ trước hay tù tội
Đây là một trường hợp kết hôn vô hiệu bởi lầm lẫn do lừa gạt, chiếu theo quy tắc của điều 1098:
Người kết hôn do bị lừa gạt về một tư cách nào đó của phía bên kia, với chủ ý để mình ưng thuận và nếu tư cách ấy tự bản chất có thể làm xáo trộn nghiêm trọng sự hiệp thông vợ chồng, thì hôn nhân bất thành.
Sự lầm lẫn do bên kia dấu diếm một điều mà có thể gây xáo trộn đời sống vợ chồng như: vô sinh, có con riêng, bệnh truyền nhiễm, tù tội, nợ nần nghiêm trọng … được coi là có gian ý hay lừa dối khi kết hôn. Theo giáo thuyết Công Giáo, khi kết hôn, đôi bạn sống hiệp thông với nhau trọn đời. Họ chung chia cả vận mệnh vui buồn, hiện sinh của đời sống. Bởi vậy khi có những trở ngại cho sự hiệp thông này, người kết hôn có bổn phận phải nói cho bên kia biết trước khi kết hôn. Nếu không cho người bạn sắp kết hôn biết, thì được coi là gian ý hay lừa gạt để được ưng nhận kết hôn và sự ưng thuận của bên lầm lẫn là bị hà tỳ. Vì vậy, kết hôn vô hiệu do sự lầm lẫn theo quy tắc của điều 1098.
g- Nguyên nhân kết hôn hoàn toàn xa lạ với đời sống vợ chồng
Hôn nhân tự bản chất là cuộc sống hiệp thông hướng đến thiện ích của đôi bạn và sinh sản giáo dục con cái. Mục đích hôn nhân phải đi theo đúng hướng này. Nếu kết hôn vì mục đích hoàn toàn xa lạ như để lợi dụng xác thịt, tiền bạc, danh lợi… thì kết hôn vô hiệu, chiếu theo quy tắc của điều 1101§2 về giả hình hoặc điều 1095,20 về sự thiếu phán đoán.
h- Chủ yếu do người phụ nữ đã lỡ mang thai
Lỡ mang thai nên người nữ có thể đành phải kết hôn với người mình không muốn kết hôn; hoặc có thể là người nam vì trách nhiệm, không muốn bỏ rơi đứa con mình cho người mẹ ngoại đạo nên miễn cưỡng kết hôn. Những trường hợp này có thể biểu hiện một sự hà tỳ trong tự do ưng thuận kết hôn do sợ hãi theo quy tắc của điều 1103.
i- Bạo lực thể lý buộc bên kia phải ưng thuận kết hôn
Trường hợp này khá rõ là kết hôn vô hiệu, chiếu theo điều 1103 về bạo lực và sợ hãi. Bạo lực thể lý cũng có thể được chứng tỏ qua các tài liệu, như giấy chứng thương y khoa, biên bản của an ninh.
k- Thiếu sử dụng trí khôn có giấy chứng nhận của bác sĩ
Trường hợp này khá rõ là kết hôn vô hiệu, chiếu theo quy tắc của điều 1095 về thiếu khả năng kết hôn. Trong trường hợp có bệnh hay bất thường về tâm trí, thông thường phải nhờ đến các chuyên gia giám định và được xử theo thủ tục thông thường. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nghiêm trọng, nếu có các tài liệu chứng minh (giấy của viện tâm thần, của trại giam, toa thuốc) cùng với những chỉ dẫn khác mà không có hồ nghi tích cực nào về sự vô hiệu hôn nhân thì có thể được xử theo thủ tục ngắn gọn.
Ghi chú
Các trường hợp nói trên được bản Quy Tắc nêu ra như những ví dụ cho việc chấp nhận xử theo thủ tục ngắn gọn trước Giám Mục. Tuy nhiên, chúng cũng là những trường hợp mà bình thường vẫn được xử theo lối thông thường. Điểm khác biệt chính yếu là khi nhận xử ngắn gọn, những chứng cứ hay tài liệu xác thực cho đối tượng xử án tương đối đầy đủ mà không cần phải điều tra kỹ lưỡng thêm. Về mặt án lý, tức là những lý thuyết giúp xác nhận sự vô hiệu thì không có gì khác nhau giữa lối xử ngắn gọn và lối xử thông thường.
7- Đơn thỉnh cầu được xét xử theo thủ tục ngắn gọn hơn
Điều 1684 quy định:
Ngoài những yêu cầu thông thường của một đơn xin xử án, được liệt kê ở điều 1504, đơn thỉnh cầu được xét xử theo thủ tục ngắn gọn hơn phải:
1° trình bày vắn tắt, đầy đủ và rõ ràng những sự kiện làm nền tảng cho sự thỉnh cầu;
2° nêu ra các chứng cứ mà thẩm phán có thể thu thập được ngay;
3° đính kèm những tài liệu làm căn cứ cho thỉnh cầu.
Thông thường, trong thực tế cụ thể, để được xử ngắn gọn, nguyên đơn cần phải gặp gỡ trao đổi với Đại Diện Tư Pháp trước để nói lên lý do cần thiết phải xử ngắn gọn. Sau đó, theo sự hướng dẫn của ngài, nguyên đơn sẽ làm một bản tường trình hay bản khai, trong đó có nêu ra các chứng cứ hay tài liệu mà thẩm phán có thể thu thập được ngay.
8- Nhân sự tòa án
Vụ án có thể được tiến hành với tối thiểu 4 vị:
a- Đại Diện tư pháp: hoặc một vị nào khác được chỉ định, giữ nhiệm vụ thẩm cứu viên, thẩm cứu vụ án.
b- Bảo hệ viên: có nhiệm vụ trình bày ý kiến chống lại sự vô hiệu của hôn nhân.
c- Lục sự hay Công chứng viên: có vai trò như thư ký tòa án, với nhiệm vụ công chứng lời khai, tài liệu và soạn thảo văn bản.
d- Giám Mục Thẩm Phán: xem xét vụ án và quyết định phần kết luận của vụ án thông qua phán quyết hay bản án.
Nếu có thể, Giám mục bổ nhiệm thêm một vài hội thẩm (assessor) để giúp thẩm cứu vụ án hoặc giúp ý kiến.
9- Ấn định thể thức nghi vấn và triệu tập
Sau khi nhận đơn, thấy hợp với những tiêu chuẩn của Giám Mục, vị Đại diện tư pháp, trong bằng cùng một sắc lệnh thực hiện các việc:
- Ấn định thể thức nghi vấn. Đại Diện Tư Pháp có thể ấn định ngay thể thức nghi vấn mà không cần phải triệu tập bị đơn, vì những sự kiện làm nền tảng cho sự thỉnh cầu đã được trình bày vắn tắt, đầy đủ và rõ ràng, và vì cũng đã có sự đồng ý của bên bị đơn.
- Chỉ định thẩm cứu viên và hội thẩm. Thẩm cứu viên (istructor) tức là người phụ trách tiến hành vụ án, thu thập các chứng cứ (như một dự thẩm, auditor) và sau đó chuyển chúng lên cho thẩm phán. Vị Đại diện tư pháp có thể tự chỉ định mình làm thẩm cứu viên. Hội thẩm (assessor) có thể được chỉ định để giúp những công việc của thẩm cứu viên hoặc được thẩm phán tham khảo ý kiến.
- Triệu tập tất cả những ai tham dự vào một giai đoạn phải được tiến hành theo nguyên tắc điều 1686, gồm hai việc: 1- thu thập chứng cứ; 2- ý kiến can thiệp của bảo hệ viên và luật sư nếu có.
Những người được triệu tập tức là những người được thông báo để tham gia vụ án. Người phải được triệu tập là thẩm cứu viên, bảo hệ viên, các bên, các nhân chứng. Cần thiết nhất là phải triệu tập bảo hệ viên, vì nếu không, bản án sẽ vô hiệu (đ. 1433). Ngoài ra, nếu có, triệu tập thêm: hội thẩm, luật sư. Đại Diện tư pháp có thể tự đặt mình làm thẩm cứu viên, tuy nhiên nếu là tòa án liên giáo phận, hết sức có thể chỉ định thẩm cứu viên ở tại giáo phận gốc của vụ án.
Thẩm cứu viên có thể được chọn là giáo sĩ hoặc giáo dân nổi bật về hạnh kiểm tốt, về khôn ngoan và đạo lý (đ. 1428§2).
Các hội thẩm phải được Giám Mục chuẩn nhận đảm nhận nhiệm vụ này, có thể là giáo sỹ hay giáo dân có đời sống liêm khiết (đ. 1424).
Luật ấn định thời hạn tối đa là 30 ngày, kể từ lúc ra sắc lệnh, phải tiến hành giai đoạn thu thập chứng cứ theo nguyên tắc điều 1686. Quy tắc hướng dẫn khoản 17 quy định: Khi ra lệnh triệu tập, các bên phải được thông báo để, ít là ba ngày trước khi bắt đầu giai đoạn thẩm vấn, có thể đệ trình những lý chứng mà dựa vào đó các các bên hay các nhân chứng được thẩm vấn, trừ khi những điểm này đã được đính kèm vào thỉnh nguyện đơn.
Việc thẩm vấn được thực hiện riêng từng người một, và chỉ có hội thẩm, bảo hệ viên, công tố viên, luật sư … mới có quyền tham dự thẩm vấn (đ. 1677). Tuy nhiên, trong thủ tục ngắn gọn, các bên được phép tham dự cuộc thẩm vấn bên kia và các nhân chứng, trừ khi vì những hoàn cảnh nào đó, thẩm cứu viên xét phải tiến hành cách khác.
Thẩm cứu viên phải tiến hành cách khác, nghĩa là không cho bên này được phép tham dự cuộc thẩm vấn bên kia hoặc các nhân chứng. Vì nếu ngược lại, cho họ tham dự thì dễ xảy ra sự bất đồng ý kiến hoặc kình cải lẫn nhau khi họ nghe nêu ra các khuyết điểm của mình (bạo lực, cờ bạc, rượu chè, thiếu phán đoán, tâm lý bất thường, gian dối …). Hoặc, nếu như trường hợp họ đồng thuận với nhau để khai gian dối thì thẩm phán khó có thể kiểm chứng được. Vì vậy, việc cho phép một bên nghe lời khai của bên kia hay nhân chứng cần được hạn chế.
Các câu trả lời của các bên và của các nhân chứng phải được công chứng viên ghi lại bằng văn bản, nhưng một cách tóm tắt và chỉ ghi lại những gì liên quan chủ yếu đến chính vấn đề hôn nhân đang bàn cãi.
Vì thủ tục ngắn gọn có mục đích tự nó là nhanh gọn, và các chứng cứ cũng đã sẵn sàng, không cần điều tra kỹ lưỡng thêm, nên các cuộc thẩm vấn cần được thực hiện không nhiều, không kéo dài.
10- Trình bản các ý kiến bảo vệ dây hôn phối và bản biện hộ của các bên
Sau khi đã thu thập chứng cứ đầy đủ trong thời gian ngắn, thẩm cứu viên phải để cho bảo hệ viên và các người bảo hộ hay luật sư xem xét hồ sơ vụ án để họ có thể đưa ra ý kiến. Phải ấn định thời hạn mười lăm ngày để họ trình bản các bản ý kiến bảo vệ dây hôn phối và bản biện hộ của các bên, nếu có (đ. 1686). Nếu các ý kiến đã được đệ trình sớm hơn thời hạn thì có thể tiến qua giai đoạn kế tiếp là trình hồ sơ lên Giám Mục.
11- Giám Mục Thẩm phán quyết định vụ án
Sau khi Đại Diện tư Pháp hoặc vị phụ trách thẩm cứu vụ án đã nhận được các bản ý kiến thì có thể trình các án từ, tức là hồ sơ vụ án, lên cho Giám Mục thẩm phán.
Giám Mục xem xét hồ sơ vụ án, tham khảo ý kiến của thẩm cứu viên và hội thẩm, cân nhắc các ý kiến của bảo hệ viên cũng như những biện hộ nếu có của các bên, và nếu thấy đạt đến sự chắc chắn luân lý về sự bất thành của hôn nhân, thì ngài tuyên bố bản án, “xác nhận” (affirmative) hôn nhân vô hiệu. Nếu thấy không đủ chắc chắc luân lý thì ngài không tuyên án “phủ nhận” (negative) sự vô hiệu hôn nhân nhưng đưa vụ án về lại xử theo thủ tục thông thường (đ. 1687§1).
12- Công bố bản án
Điều 1687§2 quy định, toàn bộ bản án với các lý do phải được thông báo sớm hết sức cho các bên. Đây là quy định dành riêng cho thủ tục ngắn gọn. Trong thủ tục xử thông thường không có quy định là phải thông báo toàn bộ bản án. Tuy nhiên, Giám Mục giáo phận ấn định cách thức tuyên bố bản án tùy theo sự khôn ngoan của mình. Ví dụ như Giám Mục có thể thông báo phần quan trọng nhất của bản án hay bản tóm tắt bản án hoặc cho họ nghe một cách chính thức.
Bản án, được ký bởi Giám Mục với xác nhận của công chứng viên, phải trình bày vắn tắt và mạch lạc những lý do dẫn đến quyết định, và thường phải được thông báo cho các bên trong thời hạn một tháng kể từ ngày ra quyết định.
13- Kháng án
Điều 1687 quy định:
§3. Để chống lại bản án của Giám Mục thì được kháng án lên tòa án của Tổng Giám mục giáo tỉnh hay lên Tòa Thượng Thẩm Roma; nếu bản án do Tổng Giám mục giáo tỉnh ban hành, thì được kháng án lên tòa án của Giám Mục cao niên hơn trong giáo tỉnh; và chống lại bản án của một Giám Mục mà không có bề trên nào dưới Đức Giáo Hoàng Roma, thì được kháng án tòa án của Giám Mục đã được ngài chỉ định cách cố định.
§4. Nếu rõ ràng chỉ là kháng án trì hoãn, Tổng Giám Mục giáo tỉnh hay Giám Mục nói ở §3, hoặc Niên Trưởng tòa Thượng Thẩm Roma, phải ra sắc lệnh khước từ ngay từ đầu; ngược lại, nếu kháng án được chấp nhận, thì gửi trả vụ án về xử ở cấp hai theo thủ tục thông thường.
14. Thời gian xử thủ tục ngắn gọn mất bao lâu?
Thời gian cho một vụ án xử theo thủ tục gắn gọn hơn, có thể tính được trong ba giai đoạn như sau:
a- Khởi sự vụ án: Luật định tối đa 30 ngày cho việc: nhận đơn, triệu tập các bên, xác định nghi vấn (đ. 1685). Luật không quy định thời gian tối thiểu, vì vậy, có thể tiến hành tối thiểu khoảng vài giờ hay thông thường trong vài ngày.
b- Thẩm cứu vụ án: Luật không chỉ định thời gian cho việc thu thập chứng cứ. Vì đây là xử ngắn gọn và điều kiện của nó là chứng cứ, tài liệu đầy đủ, có thể thu thập được ngay nên không cần nhiều thời gian để thẩm vấn, điều tra. Chỉ cần vài giờ để thẩm vấn hoặc thông thường là một vài ngày cũng đủ.
Quy tắc hướng dẫn khoản 17 có quy định: Khi ra lệnh triệu tập, các bên phải được thông báo để, ít là ba ngày trước khi bắt đầu giai đoạn thẩm vấn, có thể đệ trình những lý chứng mà dựa vào đó các các bên hay các nhân chứng được thẩm vấn, trừ khi những điểm này đã được đính kèm vào thỉnh nguyện đơn. Sự báo trước ba ngày này là điều không bắt buộc trong mọi trường hợp. Nó chỉ cần thiết khi những lý chứng đã không được ghi vào thỉnh nguyện đơn. Vì vậy khi mọi sự đều đã được chuẩn bị, việc thu thập chứng cứ được thực hiện trong thời gian ngắn.
c- Công bố án từ và trình ý kiến: Sau khi kết thúc thẩm cứu, tòa án sẽ cho phép bảo hệ viên và luật sư các bên xem xét hồ sơ vụ án để họ có thể trình bày ý kiến. Luật ra thời hạn 15 ngày để cho bảo hệ viên trình bày các ý kiến và lời biện hộ của các các bên, nếu có (đ. 1686). Luật không hạn định thời gian tối thiếu cho việc này. Vì vậy, nếu bảo hệ viên trình bày ngay ý kiến sau khi đã hoàn tất giai đoạn thu thập chứng cứ và các bên không đưa ra lời biện hộ thì giai đoạn này có thể được hoàn tất trong vòng vài giờ.
d- Tuyên án: Các án từ (hồ sơ vụ án) được đệ trình lên Giám Mục thẩm phán. Ngài xem xét, hỏi ý kiến và ra phán quyết. Nếu ngài kết luận “xác nhận” (affirmative) hôn nhân vô hiệu thì Đại Diện tư pháp soạn thảo bản án và đệ trình cho ngài ấn ký.
Tổng kết thời gian: Nếu vì lý do đặt biệt gấp rút và các yêu cầu đã được chuẩn bị sẵn sàng, mỗi giai đoạn trên đều được thực hiện trong vài giờ thì vụ án có thể hoàn tất trong vòng một ngày. Tuy nhiên, thông thường có thể hoàn tất trong một tuần lễ, hay kéo dài tối đa khoảng hai tháng (Khởi đầu 30 ngày + thẩm tra … ngày + ý kiến 15 ngày).
15. Tóm tắc thủ tục xử ngắn gọn
1) Khởi sự vụ án:
Đơn thỉnh cầu
- Do cả hai bên ký hoặc một bên ký với sự đồng ý của bên kia;
- Cần đáp ứng yêu cầu giả định trước: sự kiện về người và sự việc, được các chứng cớ hay tài liệu xác thực mà không cần điều tra kỹ thêm, có thể làm cho sự vô hiệu hôn nhân được sáng tỏ.
- Đơn cần phải:
1° trình bày vắn tắt, đầy đủ và rõ ràng những sự kiện làm nền tảng cho sự thỉnh cầu;
2° nêu ra các chứng cứ mà thẩm phán có thể thu thập được ngay;
3° đính kèm những tài liệu làm căn cứ cho thỉnh cầu.
2) Ra sắc lệnh: Trong cùng một sắc lệnh
- Ấn định thể thức nghi vấn. Đại Diện Tư Pháp có thể ấn định ngay thể thức nghi vấn.
- Chỉ định thẩm cứu viên (istructor) và hội thẩm (assessor) nếu có.
- Triệu tập tất cả những ai tham dự vụ án vào giai đoạn thu thập chứng cứ phải được tiến hành, tối đa là 30 ngày sau.
3) Thu thập chứng cứ
- Việc thẩm vấn được thực hiện riêng từng người một, các bên có thể được phép tham dự cuộc thẩm vấn bên kia và các nhân chứng.
- Các câu trả lời của các bên và của các nhân chứng được ghi lại một cách tóm tắt và chỉ ghi lại những gì liên quan chủ yếu đến chính vấn đề hôn nhân đang bàn cãi.
4) Trình bản các ý kiến bảo vệ dây hôn phối và bản biện hộ của các bên
Sau gian đoạn thẩm cứu, ấn định thời hạn mười lăm ngày để trình bản ý kiến của bảo hệ viên và bản biện hộ của các bên, nếu có (đ. 1686).
5) Giám Mục Thẩm phán tuyên án
Giám Mục tham khảo ý kiến của thẩm cứu viên và hội thẩm, bảo hệ viên cũng như những biện hộ nếu có của các bên, và nếu thấy đạt đến sự chắc chắn luân lý về sự bất thành của hôn nhân, thì ngài tuyên bố bản án. Nếu không, ngài đưa vụ án về lại xử theo thủ tục thông thường (đ. 1687§1).
6) Công bố bản án
Bản án thường được ủy thác cho Đại Diện Tư Pháp soạn thảo, có ghi các lý do làm cho hôn nhân vô hiệu, được Giám Mục ấn ký. Toàn bộ bản án với các lý do phải được thông báo sớm hết sức cho các bên. Đây là quy định dành riêng cho thủ tục ngắn gọn. Tuy nhiên, Giám Mục giáo phận ấn định cách thức tuyên bố bản án tùy theo sự khôn ngoan của mình.
7) Kháng án
Kháng án nếu có thì được lên tòa án của Tổng Giám mục giáo tỉnh hay lên Tòa Thượng Thẩm Roma; nếu bản án do Tổng Giám mục giáo tỉnh ban hành, thì được kháng án lên tòa án của Giám Mục cao niên hơn trong giáo tỉnh; và chống lại bản án của một Giám Mục mà không có bề trên nào dưới Đức Giáo Hoàng Roma, thì được kháng án tòa án của Giám Mục đã được ngài chỉ định cách cố định (đ.1687§3).
Cf. FRANCESCO, Esortazione Apostolica Evangelii gaudium, n. 27, in AAS 105 (2013), p. 1031.
Cf. MI, Sussidio applicativo, 12.
Cf. Ibidem.
Cf. Ibidem.
Cf. Ibidem.
MI, Regole procedurali, art. 14§1.
Cf. MI, Sussidio applicativo, 32.
Cf. FRANCESCO, Allocuzione alla Rota Romana, 23 gennaio 2015.
Cf. FRANCESCO, Esort. Ap. Evangela gaudium, n. 93.
Cf. Ibidem, n. 94.
Cf. MI, Sussidio applicativo, 33.
Cf. MI, Sussidio applicativo, 34.
Cf. MI, Sussidio applicativo, 34.
Cf. MI, Sussidio applicativo, 35.
Cf. MI, Sussidio applicativo, 35.
Cf. MI, Regole procedurali, art. 16.
Cf. MI, Sussidio applicativo, 58; MI, Regole procedurali, art. 16
Cf. MI, Sussidio applicativo, 38.
Cf. MI, Regole procedurali, art. 18§1.
Cf. MI, Regole procedurali, art. 18§2.
Cf. MI, Sussidio applicativo, 39.
Cf. MI, Sussidio applicativo, 40.
Cf. MI, Regole procedurali, art. 20§1.
Cf. MI, Sussidio applicativo, 40.
Cf. MI, Regole procedurali, art. 20§2.
Cf. MI, Regole procedurali, art. 18§1.
Cf. MI, Regole procedurali, art. 18§2.
Cf. MI, Sussidio applicativo, 40.
Cf. MI, Regole procedurali, art. 20§1.