Là bụi đường, cuốn theo chiều gió, Là vật dơ lẻn vào khắp chốn khắp nơi, Ai cũng tìm cách lau chùi cho sạch.
Tro là cái gì còn lại đó, Khi tất cả đã cháy tiêu tan,
Là đô thị hoang tàn, Vì những kẻ sát nhân đã phát điên nổi lửa;
Là mối tình bằng hữu hôm nay không còn nữa, Vì tính ích kỷ của đôi bạn cố tri;
Là tình yêu của đôi vợ chồng, Đã tan vỡ vì thói kiêu căng trong lòng anh, trong lòng chị
Là vẻ đẹp của ngày nào, Nay trở thành nắm tro tàn lạnh lẽo
Tro là cái gì còn lại đó, Khi niềm hy vọng của ta bị tiêu tan.
Là cái gì chung cuộc còn lại đó, Khi kiếp sống của ta đến hồi kết liễu.
Thế con người là gì?
Con người không thể làm được chi, Mà một ngày kia lại chẳng thành tro bụi.
Tro tàn là dấu hiệu cho thấy ta bé nhỏ, Dứt khoát không thể làm được chi, Để có cơ may tồn tại.
Đa-vít, vua Ít-ra-en, Tay anh hùng hào kiệt, Đương lúc tuổi xuân, nhận biết mình tội lỗi, Đã rắc tro lên đầu.
Vua thánh Lu-y, thấy mình sắp chết, Đã bảo gia nhân khiêng đặt nằm trên tro, Để đi nghênh đón Chúa.
Tro bám vào thân thể, Như lớp bùn dơ:
Có ai còn nhận ra đó là vua nữa! Còn đâu vàng bạc, còn đâu quyền thế! Còn gì lôi cuốn, còn gì trẻ trung!
Khi lớp sơn hào nhoáng đã rơi rồi, Thì còn lại con người thôi, Với tội lỗi và yếu đuối, Chờ Chúa đến thanh tẩy,
Gột rửa cho sạch mọi vết dơ, Và đưa vào dự tiệc.
(Còn tiếp)
Tác giả: Charles Singer
Nguyễn Ngọc Tỉnh phiên dịch.
-----------------------------------
1. Trong các tôn giáo, đặc biệt trong Ki-tô giáo, ăn chay có những ý nghĩa và tác dụng nào?
2. Ăn chay như thế nào mới đẹp lòng Thiên Chúa? Mới đem lại ích lợi đích thực cho tâm linh ta? Hình thức ăn chay và tinh thần chay tịnh, cái nào quan trọng hơn?
3. Tại sao nên ăn chay và cầu nguyện một cách kín đáo?
Suy tư gợi ý:
1. Ăn chay trong đời sống tâm linh và tôn giáo
Bất kỳ tôn giáo nào cũng đề cao việc ăn chay và cầu nguyện, vì ăn chay và cầu nguyện có nhiều tác dụng tốt đẹp về mặt tâm linh.
a. Trước hết, ăn chay - thường đi đôi với hãm mình - là để tỏ lòng thống hối và đền tội, làm hòa với Thiên Chúa, quyết tâm trở về với đường ngay nẻo chính, với công lý và tình thương. Câu chuyện thành Ni-ni-vê là một điển hình (x. Gn 3,1-10). Đây là một thành phố tội lỗi, Thiên Chúa dự định trừng phạt bằng cách phá hủy thành. Dân thành biết vậy nên đồng lòng ăn chay và quyết tâm thống hối. Vì thế, Thiên Chúa đã hủy bỏ dự định phá hủy thành ấy.
b. Ăn chay - phối hợp với những việc thực thi công bình và bác ái - là một cách thể hiện lòng yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, muốn chia sẻ những nỗi thống khổ mà Đức Giê-su hay người nghèo, người bị áp bức phải chịu. Đây là một việc làm rất đẹp lòng Thiên Chúa. Người ăn chay nên dùng tiền tiết kiệm được do việc ăn chay để thực hành đức ái: giúp đỡ người nghèo túng, ủng hộ những việc làm từ thiện, những công trình cải thiện xã hội hoặc Giáo Hội…
c. Ăn chay - phối hợp với cầu nguyện, tĩnh tâm, chiêm niệm - để có một sức mạnh tâm linh. Khi ăn chay, ta phải chống lại sự đòi hỏi của bản năng thèm ăn, nhờ đó sự tự chủ lên cao, sức mạnh tâm linh cũng tăng lên. Ăn chay cũng lôi kéo ơn Chúa và sức mạnh thần linh xuống trên ta. Nhờ đó ta có thể thực hiện những việc làm hay những tiến bộ về tâm linh. Điều đó được Đức Giê-su đề cập đến qua câu nói: "Giống quỷ này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện" (Mt 17,21). Vì để trừ quỉ, cần có một sức mạnh tâm linh rất cao, tức sự thánh thiện, và để đạt được sức mạnh ấy, ăn chay cầu nguyện là một phương cách hữu hiệu.
Chính Đức Giê-su đã ăn chay 40 đêm ngày trước khi bắt đầu cuộc đời công khai của mình. Đó là một mẫu gương cho ta: khi bắt đầu thực hiện hay quyết định một việc gì quan trọng về tâm linh, ta nên ăn chay và cầu nguyện để được nhiều ơn Chúa hầu quyết định sáng suốt và thực hiện công việc có hiệu quả.
2. Tinh thần chay tịnh
Cốt yếu của việc ăn chay không nằm trong việc nhịn ăn, kiêng ăn hay ăn ít đi, mà nằm trong tinh thần mà việc ăn chay muốn biểu lộ. Ăn chay chỉ là một hình thức cụ thể để biểu lộ tâm tình bên trong: thống hối, muốn đền tội, quyết tâm trở về với Thiên Chúa, hay muốn thể hiện tinh thần bác ái, thông cảm với những người đau khổ, hay muốn tăng cường sức mạnh tâm linh… Nếu không có những tâm tình bên trong ấy làm nội dung, thì việc ăn chay chỉ là một hình thức trống rỗng, không có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a cho biết Thiên Chúa không đoái hoài đến việc ăn chay theo kiểu thuần hình thức ấy: "Chúng có ăn chay, cầu khẩn, Ta cũng chẳng thèm nghe tiếng; có dâng lễ toàn thiêu và lễ phẩm, Ta cũng chẳng tỏ lòng xót thương" (Gr 14,12).
Như vậy ăn chay cốt yếu là một việc làm trong nội tâm, không ai thấy được hơn là việc thể hiện ra bên ngoài ai cũng thấy được. Ngôn sứ Giô-en trong bài đọc 1 hôm nay cũng nhấn mạnh đến cái cốt tủy bên trong của việc chay tịnh: "Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em" (Ge 2,13). Điều quan trọng là trở về với Thiên Chúa hơn là ăn chay bên ngoài.
Ngôn sứ I-sa-i-a lại nhấn mạnh đến cốt lõi của việc ăn chay là tinh thần yêu thương và tôn trọng công lý, chứ không phải là hình thức khổ chế bên ngoài: "Này, ngày ăn chay, các ngươi vẫn lo kiếm lợi, vẫn áp bức mọi kẻ làm công cho mình. Này, các ngươi ăn chay để mà đôi co cãi vã, để nắm tay đánh đấm thật bạo tàn. Chính ngày các ngươi muốn ăn chay để tiếng các ngươi kêu thấu trời cao thẳm, thì các ngươi lại ăn chay không đúng cách. Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Đức Chúa? Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục?" (Is 58,3-7). Như vậy, ăn chay bằng những việc làm bác ái, bằng việc lên tiếng cho công lý, để đập tan những bất công, để bênh vực kẻ nghèo khổ, sống ngoài lề xã hội, những kẻ bị áp bức, thì thực tế và đẹp lòng Thiên Chúa hơn là việc nhịn ăn một cách hình thức.
Nói như thế không có nghĩa là không cần ăn chay mà chỉ cần đối xử với nhau cho có tình nghĩa, hay chỉ cần thực hiện công lý và bác ái thôi. Thiên Chúa muốn rằng "các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ" (Mt 23,23). Vì hình thức và nội dung phải đi đôi với nhau: hình thức đòi buộc phải có nội dung, nhưng nội dung cũng đòi hỏi phải có hình thức. Vì thế, khi ăn chay, chúng ta vừa nhịn ăn hoặc ăn ít để thực hiện mặt hình thức, mà vừa phải có những tâm tình thâm sâu bên trong, được thể hiện cụ thể bằng việc thực thi công bằng và bác ái để thực hiện mặt nội dung.
3. Ăn chay và cầu nguyện một mình với Thiên Chúa
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su nhấn mạnh đến sự kín đáo khi ăn chay và cầu nguyện. Ăn chay và cầu nguyện là những hành vi đối thoại với Thiên Chúa, vì thế, nó cần được thực hiện một cách riêng tư, trong thầm lặng với Ngài. Nó củng cố tình thân hay sự thân mật giữa ta với Thiên Chúa. Thật ngược đời và quái dị nếu sự thân mật riêng tư giữa vợ chồng hay bạn bè với nhau lại được phơi bày ra trước mặt mọi người. Cũng vậy, sự thân mật riêng tư giữa ta với Thiên Chúa thì chỉ nên giữa Thiên Chúa với ta biết với nhau, không nên cố ý thực hiện trước công chúng để ai cũng biết. Cố ý ăn chay và cầu nguyện trước mặt mọi người thì đó không còn là sự đối thoại thật sự với Thiên Chúa nữa, mà nó đã bị biến chất thành một hành vi đóng kịch. Như thế có khác gì hai người hôn nhau để người khác chụp hình.
Càng muốn cho mọi người thấy tình yêu riêng tư của mình thì tình yêu ấy chỉ là "tình yêu biểu diễn", "có vẻ yêu thương", mang nặng tính hình thức và giả dối, chứ không phải tình yêu đích thực. Chỉ những người đạo đức giả mới thích biểu diễn việc ăn chay và cầu nguyện của mình trước mặt người khác. Trái với tinh thần giả hình ấy, Đức Giê-su khuyên ta nên cố ý dấu không cho người khác biết mình ăn chay, thậm chí nên đánh lạc hướng để người khác không thể đoán ra hay nghi ngờ mình ăn chay: "Khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo".
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, hôm nay là ngày mở đầu mùa Chay, Cha muốn con ăn chay trong mùa này như thế nào? Suy gẫm lời của ngôn sứ I-sa-i-a, con biết rằng lối ăn chay mà Cha thích nhất nơi con, đó là con biết quan tâm đến hạnh phúc và đau khổ của tha nhân, đến những vấn đề xã hội, đến những người nghèo khổ, người bị áp bức chung quanh con. Cha muốn con ăn chay bằng cách làm một điều gì đó thật cụ thể và thực tế để những người đang đau khổ ấy được hạnh phúc hơn, giảm được phần nào đau khổ của mình. Cha muốn con ăn chay bằng cách nỗ lực làm cho xã hội trở nên công bằng và tốt đẹp hơn, bằng sự lên tiếng, can thiệp, hỗ trợ… trong khả năng của mình. Xin cho con quảng đại và can đảm thực thi tinh thần ăn chay ấy trong mùa chay này, để chuẩn bị đón mừng mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giê-su, Con Cha trong những tháng sắp tới. Amen.
-----------------------------------
- Sr Jean B. Minh Nguyệt- Mt 6:1-6,16-18
Trình thuật Tin mừng hôm nay vạch rõ khuôn vàng thước ngọc cho ta ba việc lành phước đức chính yếu của tín hữu Công giáo, đặc biệt trong Mùa Chay Thánh. Đó là: bố thí, cầu nguyện và ăn chay. Mỗi khi làm bất cứ việc lành nào, phải làm sao để "tay trái không biết việc tay phải làm!"
Đừng để tay trái biết việc tay phải làm. Lời khuyên thoạt nghe có vẻ đơn giản, nhưng lại không dễ thực hành! Bởi lẽ, ai ai cũng muốn mình được xem là trung tâm vũ trụ, đỉnh cao trí tuệ của loài người! Ai ai cũng muốn mình được danh thơm tiếng tốt, được chúc tụng ngợi khen. Đặc biệt, khi thi hành được dăm ba công việc đạo đức nào đó như: dâng cúng tiền của xây cất thánh đường, chuyên cần đi lễ hằng ngày hằng tuần, hoặc giữ chay mọi ngày thứ Sáu suốt trong mùa Chay Thánh.
Tính tự nhiên của con người là thế. Nhưng Chúa Giêsu khuyên dạy người tín hữu phải sống siêu nhiên, ưa chuộng lối sống khiêm tốn, chọn lựa những việc làm ẩn kín: Đừng để tay trái biết việc tay phải làm.
Xin đan cử mẫu gương của bà góa nghèo, trong trình thuật Tin mừng theo thánh Mác-cô: Đức Giêsu ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền thờ. Người quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao. Có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền. Cũng có một bà góa nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng bạc La Mã. Đức Giêsu liền gọi các môn đệ lại và nói: Thầy bảo thật anh em: Bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà góa này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống (Mc 12: 41-44).
Hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng bạc La Mã. Nhưng nếu tính ra Mỹ kim hoặc bất cứ một đồng bạc nào khác, thì hai đồng tiền kẽm này cũng cho thấy một số tiền thật nhỏ nhoi, quá nhỏ nhoi, gần như vô dụng, vô nghĩa! Thế nhưng, trước mắt Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn thì hai đồng tiền kẽm của bà góa nghèo lại có một giá trị vô cùng to lớn! Bởi lẽ, hai đồng tiền kẽm này là tất cả tài sản của bà.
Xin đan cử một thí dụ khác. Trong tập sách nhỏ tựa đề Những người quá cố - Căn nhà của mọi người, Cha Giuseppe Tomaselli, người Ý, dòng Don Bosco, viết:
Một linh mục nói với tôi: "Tôi đã già và đã từng đi khắp các đại lục Âu, Á và Phi châu. Tôi gặp gỡ và quen biết nhiều linh mục cùng Giám mục. Nhưng vị thánh thiện nhất mà tôi đã được hân hạnh tiếp xúc, có lẽ là Đức Cha Marengo, Giám mục Giáo phận Carrara, miền Bắc nước Ý. Cũng có thể vì quá quảng đại xả thân phục vụ tha nhân nên ngài sớm từ giã cõi đời, khi tuổi chưa cao. Ngài qua đời ngày 22-10-1921. Ngài ra đi để lại niềm thương tiếc cho các tín hữu. Họ thường âu yếm nhắc đến ngài như một vị thánh".
Bảy năm dài trôi qua, người ta bắt đầu quên và không còn nhắc đến tên Đức Cha Marengo nữa. Thế rồi, vào một buổi chiều chạng vạng tối, nơi tu viện các nữ tu Salésiennes, hay cũng còn gọi là các Nữ Tử Đức Bà Phù Hộ, ở Nice, miền Nam nước Pháp, nữ tu coi cổng bắt đầu đóng tất cả các cửa ra vào. Chị đang đứng nơi hành lang tu viện. Bỗng chị kinh ngạc nhận ra bóng dáng một giáo sĩ đang đi bách bộ gần nơi cỗng ra vào. Đầu vị giáo sĩ hơi cúi xuống, trong tư thế của một người vừa đi vừa suy gẫm.
Nữ tu canh cổng thắc mắc tự hỏi: Ai vậy kia? Và làm sao vào tu viện được, khi tất cả các cổng và cửa ra vào đều đã đóng kín? Chị liền từ từ đến gần vị khách lạ. Khi đến nơi, chị kinh ngạc nhận ra vị giáo sĩ không ai khác mà là Đức cha Marengo! Chị cuống quít hỏi dồn dập: "Thưa Đức Cha, sao Đức Cha lại ở đây? Không phải Đức Cha đã chết rồi sao"? Đức Cha Marengo liền trả lời: "Chị em và mọi người đã bỏ quên tôi nơi Luyện ngục! Tôi đã làm việc giúp đỡ cho tu viện này rất nhiều, vậy mà không ai còn nhớ cầu nguyện cho tôi nữa"? Chị nữ tu ngạc nhiên hỏi lại: "Ngài còn ở Luyện ngục sao? Một Giám mục thánh thiện như ngài mà vẫn còn ở luyện ngục hay sao?" Đức cha Marengo buồn bã trả lời: "Chỉ thánh thiên trước mặt người đời thôi chưa đủ, còn phải thánh thiện thật trước mặt Thiên Chúa nữa! Xin chị em nhớ cầu nguyện cho tôi." Nói xong câu nầy, Đức cha Marengo biến mất.
Chỉ thánh thiện trước mặt người đời thôi chưa đủ, còn phải thánh thiện thật trước mặt Thiên Chúa nữa. Lời quả quyết của vị Giám mục quá cố được mọi người ca tụng là thánh thiện một lần nữa minh chứng rằng: phán đoán của loài người không phải là phán đoán của Thiên Chúa: Đấng thấu suốt mọi bí ẩn. Và chỉ duy nhất một mình Thiên Chúa mới thưởng công tương xứng với từng việc lành phước đức con người làm.
Vậy thì, mỗi năm khi làm bất cứ việc lành nào như bố thí, cầu nguyện và ăn chay, đừng bao giờ tìm kiếm lời khen của người đời, nhưng phải làm sao để tay trái không biết việc tay phải làm!
-----------------------------------
Lịch sử và ý nghĩa thần học phụng vụ
Ngày Thứ Tư Lễ Tro, chúng ta nghe văng vẳng lời thánh ca từ Sách Sáng thế: Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro. Lời Kinh thánh này nhắc nhở chúng ta ý thức về thân phận con người qua biểu hiệu "bụi tro" được dùng trong Kinh thánh và trong nghi lễ ngày Thứ Tư đầu Mùa Chay. Trong bài viết này tôi sẽ nói qua về lịch sử và ý nghĩa thần học phụng vụ của Ngày Thứ Tư Lễ Tro.
1. Lịch sử Thứ Tư Lễ Tro
Những Quy luật tổng quát của Năm phụng vụ nói về ngày Thứ Tư Lễ Tro như sau: "Mùa Chay bắt đầu từ Thư Tư Lễ Tro và kết thúc ngay truớc Thánh lễ Tiệc Ly. Ngày Thứ Tư đầu Mùa Chay có xức tro; ngày đó khắp nơi ăn chay" (số 28 và 29). Lời chỉ dẫn này cho chúng ta biết ý nghĩa của Ngày Thứ Tư Lễ Tro trong Năm phụng vụ, cũng như trong suốt Mùa Chay thánh. Với Thứ Tư Lễ Tro, Giáo hội bắt đầu Mùa Chay. Ngoài ra trong cơ cấu phụng vụ của ngày này, Giáo hội cử hành lễ nghi làm phép tro và xức tro.
Trong truyền thống phụng vụ từ thế kỷ thứ 7, Ngày Thứ Tư Lễ Tro là một ngày quan trọng, và không một lễ nào có thề vượt lên trên. Người ta cũng gọi ngày này là "Đầu Mùa Chay" (Caput ieiunii), hay " Đầu Mùa ăn chay 40 ngày" (Caput Quadragesimalis). Việc ăn chay trong Mùa này đã có từ thời Đức Giáo Hoàng Gregoriô Cả (590-604).
Về nghi thức làm phép tro và xức tro, qua thời gian lễ nghi này đã có sự biến đổi từ một nghi thức nghi thức thống hối trong định chế về tập tục thống hối công cộng thời xưa. Lịch sử phụng vụ về việc thành hình Nghi thức cử hành bí tích thống hối và hòa giải, cũng như định chế Giáo hội về một số sinh hoạt đặc biệt, đã có tục lệ bỏ tro cho hối nhân công cộng đã phạm một số tội nặng cách công khai, mà mọi nguời đều biết, như chối bỏ đức tin, giết người, ngoại tình . . . Những người này bị loại ra khỏi cộng đoàn tín hữu. Để được nhận lại trong cộng đoàn, họ phải làm việc thống hối công cộng theo định chế Giáo hội đưa ra. Vào ngày thứ tư trước Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay, những hối nhân công cộng này sẽ tụ tập lại tại nhà thờ chính tòa, và sau khi xưng thú tội của mình, họ sẽ được Đức Giám mục trao cho chiếc áo nhậm mang trên mình, rồi lãnh nhận tro trên đầu và trên mình. Sau đó họ bị đưổi ra khỏi nhà thờ và được chỉ định đi tới một tu viện để ở đó và thi hành một số việc thống hối đã ra cho họ.
Vào sáng thứ năm Tuần thánh, các hối nhân này tụ tập lại tại nhà thờ chính tòa, được Đức Giám mục xem xét việc thực hành thống hối của họ trong Mùa Chay, sau đó ngài đọc lời xá giải tội lỗi của họ để giao hòa với cộng đoàn. Từ đây họ được quyền tham dự các buổi cử hành bí tích. Tại Rôma, vào thế kỷ thứ 7, các hối nhân công cộng tập họp tại một số nhà thờ tước hiệu (tituli) của thành phố, cũng như tại 4 Đại Vương cung thánh đường thánh Phêrô, thánh Phaolô ngoại thành, thánh Gioan Lateranô và Đức Bà Cả, để cử hành nghi lễ như vừa nói trên đây.
Về sau định chế thống hối công cộng không còn nữa, tuy nhiên lễ nghi bỏ tro vẫn còn giữ lại trong ngày Thứ Tư Lễ Tro. Đầu tiên chỉ có các tín hữu lãnh nhận tro trên mình. Về sau các Đức Giáo hoàng và tín hữu đều lãnh tro, để tỏ lòng thống hối. Sang thế kỷ thứ 10, thì có việc làm phép tro và một lời nguyện kèm theo bắt chước cơ cấu thánh lễ, nghĩa là có lời nguyện giống như Kinh nguyện thánh thể, và việc lãnh nhận tro như khi cử hành việc rước lễ.
Vào thế kỷ thứ 11, cũng tại Rôma, Đức Giáo hoàng tập họp các giáo sỹ, giáo dân tại nhà thờ thánh Anastasia. Ngài làm phép tro, bỏ tro cho mọi người, sau đó tất cả đi kiệu về nhà thờ thánh nữ Sabina ở đồi Aventino. Trong khi đ kiệu, Đức Giáo hoàng và cộng đoàn hát kinh cầu các thánh. Tất cả đều mặc áo nhậm, đi chân không, để tỏ lòng thống hối ăn năn. Khi đoàn kiệu đến nhà thờ thánh Sabina, Đức Giáo hoàng đọc lời xá giải và cộng đoàn cùng hát bài "Chúng ta hãy thay đổi đời sống, Xức tro và ăn chay hãm mình, khóc than vì lỗi lầm đã phạm. Hãy khẩn cầu Thiên Chúa chúng ta. Vì Người rất từ bi nhân hậu sẵng sàng tha thứ mọi tội khiên" (Immutemur, xc. Ge 2, 13). Sau đó ngài cử hành thánh lễ. Đó là trạm đầu tiên (statio) của Mùa Chay. Ngày nay vào Thứ Tư Lễ Tro, Đức Giáo hoàng cũng đến làm phép tro và bỏ tro tại nhà thờ thánh nữ Sabina theo truyền thống xưa. Trước đó có cuộc rước kiệu từ nhà thờ thánh Anselmô cũng trên dồi Aventino. Tại nhà thờ thánh nữ Sabina, ngài công bố sứ điệp Mùa Chay cho toàn thể Giáo hội (Sứ điệp Mùa Chay năm 2002 mang tựa đề: Anh em đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho đi nhưng không [Mt 10,8]).
Vào năm 1091, Công đồng Benevento (Nam Italia) đã truyền cử hành nghi lễ bỏ tro cho tất cả các nơi trong Giáo hội. Trong khi bỏ tro, vị linh mục đọc lời: "Ta là thân cát bụi sẽ trỏ về cát bụi" (St 3, 19). Tro này lấy từ những cành lá đã được làm phép trong ngày Chúa nhật Lễ Lá năm trước để lại. Trước công cuộc canh tân phụng vụ của Công đồng chung Vaticanô II, lễ nghi làm phép tro và bỏ tro được cử hành trước thánh lễ. Vào năm 1970, khi công bố Sách Lễ Rôma được tu chính, thì lễ nghi này được cử hành sau phần phụng vụ lời Chúa. Ngoài câu trích từ Sách Sáng thế, còn có thêm một công thức dùng khi bỏ tro, lấy từ Phúc âm: "Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng" (Mc 1,15). Với công thức mới này được thêm vào, thì biểu hiệu "tro" đã mang thêm một ý nghĩa mới nữa đó là việc canh tân đời sống trong suốt Mùa Chay thánh. Sau đây là một trong hai lời nguyện làm phép tro: "Lạy Chúa, Chúa nhân từ đối với ai khiêm tốn, và tha thứ cho kẻ biết ăn năn. Xin nghe lời chúng con khẩn nguyện và rộng tay giáng phúc cho hết thảy chúng con sắp nhận lấy tro này, để chúng con kiên trì giữ bốn mươi ngày chay thánh, và nhờ đó được nên tinh tuyền, xứng đáng cử hành mầu nhiệm Vượt qua của Đức Kitô, Con Một Chúa, Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời" (còn có một lời kinh khác trong Sách Lễ Rôma).
2. Ý nghĩa việc bỏ tro và ngày Thứ Tư Lễ Tro
Trong Cựu Ước, việc xức tro và mặc áo nhậm được dùng để thực hành và biểu lộ lòng thống hối cá nhân hay toàn thể cộng đoàn dân Israel. Tro chỉ thân xác chúng ta là bụi tro, sẽ phải chết (xc. St 3,18.27; Giob 34, 17; Gr 6, 26; 25, 34; Est 4,13; Is 58, 5; Dn 9,3; Giona 3,6; Giudith 4,16; 9,1).
Trong truyền thống các đan sĩ và tụ viện, tro được dùng để nói lên mối liên hệ với sự chết và sự khiêm nhường thống hối trước mặt Chúa. Vì thế, các tu sĩ, các đan sĩ có tục lệ tại một số nơi, muốn nằm trên đống tro với chiếc áo nhặm để chết. Thánh Martino thành Tours bên Pháp đã nói: "Không gì xứng hợp hơn cho một tu sĩ là việc nằm chết trên đống tro bụi". Các vị này lấy tro đã được làm phép trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, rồi vẽ hình thánh giá trên đất, trên đó còn trải thêm áo nhặm và rồi các vị nằm trên đó khi hấp hối và khi chết. Các tu sĩ cũng có thói quen trộn tro vào bánh như của ăn. Đó là một hình thức hãm mình nhiệm nhặt mà các tu sĩ phải giữ.
Từ đây chúng ta nhận ra, trước tiên Giáo hội đã đặt nền tảng cho việc thống hối, đó là nhìn nhận lại tình trạng nguyên tuyền của ơn thánh đã bị mất do tội nguyên tồ, và hậu quả là con người xa Thiên Chúa, ttốn tránh Thiên Chúa. Con người sẽ phải chết như là một hậu quả của tội lỗi. Vì thế cần phải "quay trở lại" một cách tận căn, như ý nghĩa diễn tả qua từ "canh tân" trong ngôn ngữ Do thái, là quay ngược lại với 360 độ. Đàng khác suy tư về bụi tro, để cho thấy sự yếu hèn của mình và tính cách tùy thuộc vào Thiên Chúa vì con người được Ngài tạo dựng. Nhưng Thiên Chúa đoái thương và ban ơn cứu rỗi. Phụng vụ đã diễn tả nền tảng này qua các biểu hiệu và các lời kinh của ngày Thư Tư Lễ Tro.
Cùng với một số biểu hiệu khác được Giáo hội dùng trong Mùa Chay, như mầu áo lễ tím, không đọc Kinh Vinh Danh, không trưng bông hoa trên bàn thờ, không dùng đàn trong thánh lễ, bụi tro cũng được dùng để cho thấy tính cách thống hối của Mùa Chay và thân phận của con người hay chết.
Nói tóm lại, lễ nghi làm phép tro và bỏ tro trong ngày Thứ Tư Lễ Tro gợi ra cho tín hữu về một thời điểm quan trọng đang bắt đầu liên hệ tới ơn cứu rỗi của họ, đó là Mùa Chay. Đồng thời, lễ nghi khởi đầu này cũng đề ra cho tín hữu một hành trình phải đi theo trong thời gian suốt Mùa Chay.
Hành trình đó là thực hành các việc làm biểu lộ sự thống hối, sống bác ái; đàng khác, tín hữu cũng phải đi sâu vào tâm tình thống hối, khi suy tư về thân phận con người, về lỗi lầm của mình và nhu cầu khẩn thiết phải trở về, phải canh tân cuộc sống. Tuy nhiên, tín hữu không làm những việc này trong ý thức khổ hạnh cá nhân, nhưng là để hướng về ơn cứu rỗi Chúa Kitô đã thực hiện và Giáo hội đang chuẩn bị mừng trong đại lễ Phục sinh. Ngày nay các biểu hiệu bên ngoài, như thống hối công cộng, như mặc áo nhậm, như đi chân không trong cuộc hành hương, vv. không còn được thực hiện như xưa, vì hoành cảnh xả hội đổi thay, nhưng thái độ và ý chí thống hối, canh tân trở về vẫn phải in khắc sâu đậm trong thâm tâm mỗi người. Mỗi người sẽ tự đưa ra cho mình một số những thực hành thống hối trong cuộc sống cụ thể để biểu lộ ý nghĩa và tinh thần của lễ nghi xức tro.
-----------------------------------
Năm nào cũng thế, Giáo hội dành cả một mùa chay dài để mời gọi chúng ta ý thức thân phận nhỏ nhoi mỏng dòn nơi bản tính con người của mình, vốn dễ bị tội lỗi thống trị. Nghi thức xức tro chính là nghi thức khai mạc mùa chay. Nó là hành động hữu hiệu và cụ thể nhất nhắc nhỡ ta về thân phận và kiếp người nhỏ nhoi mỏng dòn ấy. Để khi cúi đầu nhận lãnh một chút tro từ tay thừa tác viên, bạn và tôi hiểu rằng: Thân phận này chỉ là bụi tro, Bởi thế, nghi thức xức tro là một nghi thức sám hối ý nghĩa nhất.
Nếu ta xức tro bằng một ý hướng ngay lành, bằng một tâm hồn thành thật, nghi thức này sẽ cho ta sự khiêm tốn cần thiết để đón nhận bài học của một sự thật rất quí giá: xuất phát từ tro bụi, thân phận được hoàn trả cho bụi tro. Chỉ cầm một lần xuôi tay nhắm mắt là đủ để tất cả tan biến.
Đồng thời mùa chay còn giúp ta có đủ thời gian chuẩn bị tâm hồn đón mừng mầu nhiệm Phục Sinh, đón mừng vị thủ lãnh của ta vượt qua sự chết, sự đau khổ đưa ta vào nguồn sống thật . Dẫu chỉ là tro bụi, nhưng nhờ Chúa Kitô, thân phận bụi tro không mất đi, không tan biến đời đời, nhưng lại được mặc lấy sự sống vĩnh cửu, sự sống phục sinh huy hoàng của chính Chúa Kitô.
Với hai tâm tình chính của mùa chay: ý thức thân phận của bản thân và chuẩn bị tâm hồn đón mừng mầu nhiệm Phục sinh như thế, Giáo Hội mời gọi ta ăn năn sám hối, mời gọi ta trở về với Chúa bằng nỗ lực nên thánh của mình. Bài học của sự trở về và nên thánh của các thánh sẽ là bài học cụ thể cho ta noi gương bắt chước. Tôi muốn nói với bạn về cuộc trở lại của thánh Phaolô tông đồ.
Sách Công vụ tông đồ cho biết, thánh Phaolô là một thanh niên Do-thái nhiệt thành và rất sùng đạo. Phaolô không thể chấp nhận giáo thuyết quá mới mẽ của ông Giêsu, một thứ giáo thuyết dường như đi ngược lại mọi lề luật, mọi truyền thống của cha ông. Chính bản thân ông Giêsu đã bị các bậc lãnh đạo trong đạo Do-thái và chính quyền đế quốc giết chết nhục nhã và thảm hại trên thật giá. Cuộc đời Giêsu đã chấm hết từ đó, vậy mà những người tự xưng là môn đệ của Giêsu lại rao giảng ở khắp nơi rằng Giêsu đã sống lại, không những vẫn sống cho đến nay, mà sẽ sống đời đời. Đám môn đệ khờ dại ngu ngốc còn cho rằng: Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu thế mà trần gian này chỉ có một. Mỉa mai thay! Làm sao một người đạo đức như Phaolô, rất mực tôn thờ Chúa như Phaolô lại có thể chấp nhận những điều ấy. Phạm thượng đến thế là cùng!
Chưa hết, đám môn đệ đáng thương đó còn hăng say gieo rắc cái lý thuyết đầy tội lỗi ấy khắp nơi. Bây giờ lũ người mê muội ấy càng lúc càng đông. Phải chặng đứng. Phải tiêu diệt. Phải bảo vệ tôn giáo và truyền thống của cha ông.
Và cuộc tử đạo đầu tiên bắt đầu. Một người thanh niên cũng ngoan đạo không kém gì Phaolô: Stêphanô. Khác một điều, Stêpanô lại trung thành với Giêsu quá mức, sẵn sàng chết để tuyên xưng niềm tin vào Giêsu. Tội của Stêphanô đáng chết lắm. Ngày tử hình Stêphanô, Phaolô đã làm chứng nhân cho cuộc hành huyết này. Từ đó chàng trai Phaolô càng hăng say bảo vệ Do-thái giáo. Anh đã lên Giêrusalem, xin các bậc lãnh đạo chứng minh thư để đi Damas bắt hết bọn người ngu ngốc tin tưởng vào Giêsu, đem về Giêrusalem mà xử tội.
Phaolô lầm to. Các môn đệ của Chúa Giêsu không hề ngu ngốc, chỉ có Phaolô là không hiểu biết gì. Phaolô không hề là đối tượng thù ghét của Giêsu. Chỉ có Phaolô là thù ghét Giêsu và bắt bớ môn đệ Ngài mà thôi. Phaolô đâu có ngờ rằng, chính khi ra sức bảo vệ đạo giáo, bảo vệ truyền thống của cha ông, Phaolô đã kịch liệt chống đối Thiên Chúa, phạm thượng đến mức quá sức tưởng tượng và tàn nhẫn vô song khi đổ máu các môn đệ.
Chính Giêsu chẳng những không thù ghét mà còn muốn Phaolô trở lại làm môn đệ cho Ngài. Buổi trưa hôm ấy, tiếng của Chúa Giêsu uy hùng trong ánh sáng huyền diệu siêu phàm: "Saolô, Saolô sao người bắt bớ Ta?", đã xô Phaolô ngã ngựa trong cơn khiếp sợ kinh hoàng. Từ đó Phaolô đã đổi đời. Chàng trai Saolô ngày nào hăng say chống phá đạo mới của thủ lãnh Giêsu bao nhiêu, giờ đây trở nên thánh Phaolô hăng say gìn giữ và bảo vệ giáo huấn của Giêsu bấy nhiêu. Chúa Giêsu đã không lầm khi chọn một kẻ thù nghịch với mình làm môn đệ. Bởi kẻ thù nghịch ấy bây giờ đã trở thành một trong những môn đệ hàng đầu trong số các môn đệ. Phaolô nguyện suốt đời tôn thờ Chúa Giêsu, suốt đời trung thành với giáo huấn của Ngài. Thánh Phaolô đã nên giống Thầy Giêsu cho đến mức, cuối đời, sau những năm tháng dài vất vả bôn ba khắp nơi để rao giảng giáo huấn của Thầy, đã hiến dâng dòng máu, hiến dâng mạng sống của mình làm chứng tá cho giáo huấn đó.
Thánh Phaolô là tấm gương cho sự quyết tâm trở về và trung thành với Chúa của Chúng ta. Cuộc trở về của ngài là bài học của sự dứt khoát từ bỏ quá khứ mà ta cần học lấy cho chính mình, để dù có tội lỗi đến đâu, có bất xứng cách mấy, ta vẫn có thể nhìn vào đó mà đứng lên, làm một cuộc đổi đời như thánh Phaolô.
Không chỉ là tấm gương tuyệt hảo cho ta, trong bài đọc hai của lễ Tro hôm nay, bài trích thư gửi giáo dân thành Côrintô, thánh Phaolô còn mời gọi: "Nhân danh Chúa Kitô, tôi năn nỉ anh em hãy làm hòa cùng Thiên Chúa". "Tôi năn nỉ anh em"! Lời mời gọi sao mà tha thiết quá, đáng yêu quá. Từ một con người quá xa lạ với đạo Chúa, xa lạ đến mức như là tội ác, vậy mà giờ đây lại có những lời chân thành thấm thía đến thế. Con người đó rất đáng để bạn và tôi khâm phục. Cả con người và lời "năn nỉ" đó rất đáng cho ta học lấy và nghe theo để cả đời ta cũng sẽ tốt lành thánh thiện như ngài.
Có ai ngờ một kẻ chống đạo lại trở thành thánh nhân. Thánh Phaolô, một bầu trời hy vọng cho ta. Ngay cả một lần chối Chúa cũng chưa từng, và sẽ không bao giờ dám có một ý nghĩ nào manh nha như thế, đừng nói chi đến chống đối Thiên Chúa, chúng ta tin tưởng điều mà thánh Phaolô đã đạt được hôm nay, nhờ tình yêu của Chúa, ta cũng sẽ đạt được trọn vẹn như thế.
Mùa chay, rắc một chút tro tàn lên đầu để mỗi ngày ý thức thân phận bé nhỏ của mình mà cảm nhận lòng thương xót của Chúa, mà nỗ lực cộng tác với ơn Chúa. Nhờ đó ta dám hy vọng chính bản thân ta có thể bước ra từ thân phận tội nhân để trở thành thánh nhân.
-----------------------------------
A. Hạt giống...
Trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu dạy về 3 việc đạo đức tiêu biểu mà người Do Thái thường làm, đó là bố thí, cầu nguyện và ăn chay. Qua 3 việc tiêu biểu này, chúng ta có thể hiểu về tất cả những việc đạo đức khác. - Khi làm, đừng quá chú trọng đến vẻ bề ngoài của những việc đó ("khua chiêng đánh trống", "trong hội đường hay ở ngã ba đường", "làm cho ra vẻ thiểu não")
- Đừng làm để được người ta khen ("cốt để người ta khen", "cho người ta thấy", "để thiên hạ thấy là chúng ăn chay")
- Mà hãy làm cách kín đáo (kín đáo: không có nghĩa là giấu diếm người ta, mà là không có ý khoe khoang) nhưng và chỉ cốt làm vui lòng Cha trên trời.
B.... nẩy mầm.
1. Trong Mùa Chay, chẳng những ta gia tăng những việc đạo đức (phương diện lượng) mà còn phải lưu ý làm những việc đó với tâm tình sốt sắng hơn (phương diện phẩm).
2. Một việc đạo đức đang đi vào quên lãng, đó là Bố Thí. Giá trị của việc bố thí: a/ "Đồng tiền liền khúc ruột", do đó bố thí có giá trị hy sinh lớn; b/ Bố thí giúp ta bớt dính bén tiền bạc; c/ Bố thí còn là một cách đền tội: Sách Tôbia nói "Việc bố thí thanh tẩy khỏi mọi tội lỗi" (Tb 12,8-9).
3. Rượu chè:
Khi ông Nôe trồng nho, Satan lấy làm lạ nên tiến lại gần hỏi:
- Ông đang trồng cây gì thế?
- Cây nho.
- Nó có lợi gì không?
- Có chứ. Trái nó vừa đẹp mắt, vừa ngon miệng. Từ trái nho ta còn có thể làm ra rượu giúp lòng người hưng phấn nữa.
- Vậy thì để tôi giúp ông.
Satan mới giết một con chiên, một con sư tử, một con lừa và một con heo. Lấy máu của chúng tưới gốc cây nho. Thế là cây nho lớn nhanh. Noe lấy trái nho làm rượu.
Từ đó trở đi khi người ta uống một chút rượu vào thì sẽ vui vẻ dễ thương như con chiên; uống thêm chút nữa thì mạnh bạo như sư tử; nếu chưa ngưng mà còn uống thêm thì sẽ ngu như lừa; nếu lại uống nữa thì... hoàn toàn như con heo vậy. (Truyện cổ Nước Pháp).
4. Chỗ ở của chuột:
Có một con chuột sống trong một ngôi nhà thờ cũ kỹ ở miền quê. Một hôm nó đi lang thang dạo mát bỗng gặp một con chuột khác cũng đang đi chơi. Nó liền được dịp tâm sự: "Tôi sống chui rúc dưới gầm một tòa giải tội. Nhưng chẳng được yên thân vì hầu như lúc nào cũng có người xưng tội, phá giấc ngủ của tôi." Nghe thế, con chuột kia nói: "Vậy bạn hãy dọn đến chỗ ở của tôi. Chỗ ấy ấm áp sạch sẽ mà chẳng mấy khi có người quấy rầy, yên tĩnh lắm. "Ô thế bạn ở đâu vậy?" - "Tôi ở trong thùng tiền cứu giúp người nghèo." (Trích "Món quà giáng sinh")
-----------------------------------
Kính thưa anh chị em,
Hôm nay là thứ Tư Lễ Tro, là ngày bắt đầu vào Mùa Chay.
Giáo Hội mời gọi chúng ta ngày hôm nay thực hành hai việc: Ăn chay và sám hối.
Về vấn đề ăn chay và sám hối, thì chủ nhật tuần qua tôi đã nói rõ ràng và cụ thể, tuy nhiên, hôm nay tôi cũng nhắc lại vài điểm chính để cho mỗi người thấy rõ việc ăn chay và sám hối là quan trong như thế nào đối với linh hồn của chúng ta.
Tiên tri Gioen đã nói: “Hãy xé lòng chứ đừng xé áo” (Ge 2, 13)
“Xé lòng” tức là hi sinh, là bỏ đi ý riêng của mình cho phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa, như thánh vịnh đã nói: “Ngày hôm nay các ngươi hãy nghe tiếng Chúa và đừng cứng lòng nữa (Tv 94, 8)”. Bởi vì trong cuộc sống, chúng ta đã nghe tiếng Chúa quá nhiều, nhưng chưa lần nào chúng ta thực hành ý Chúa trong cuộc sống đời thường của mình, do đó, mùa chay là dịp và là cơ hội để mỗi người trong chúng ta thực hành ý muốn của Thiên Chúa: sám hối ăn năn.
Trong ngục tù không một tội nhân nào được đối xử ngang hàng bình đẳng như những người ở ngoài nhà tù, tức là những người tự do, trong nhà tù họ ăn cơm đạm bạc, thiếu thốn mọi bề... Chúng ta cũng là những tội nhân của lòng thương xót của Thiên Chúa, chúng ta không được như những người tự do -lành thánh- xứng đáng đón nhận từ ân huệ này đến ân huệ khác của Thiên Chúa, chúng ta chỉ có một việc phải làm, đó là sám hối tội lỗi của mình bằng chay tịnh hãm mình dẹp xác, bởi vì -xét cho cùng- chính thân xác là đầu mối nguyên cớ khiến cho tâm hồn chúng ta phạm tội.
Ăn chay tức là tiết chế sự ăn uống để thân xác phục tùng ý chí.
Thân xác phục tùng ý chí tức là làm những việc mà thân xác “không thích” làm, như thức dậy sớm để đi dâng lễ, như làm một vài việc bác ái hi sinh mà thân xác “rất sợ” làm...
Kính thưa anh chị em,
Ngày hôm nay ma quỷ ra sức cám dổ chúng ta, bởi vì mùa chay là mùa mà con người nhìn nhận ra những tội lỗi của mình khi suy đến sự đau khổ và sự chết của Chúa Giêsu đã chịu vì tội lỗi của chúng ta.
Chúng ta từ bỏ cái gì thì ma quỷ dùng những thứ ấy để cám dổ chúng ta: ngày hôm nay chúng ta ăn chay, ma quỷ đem việc ăn uống lại cám dổ chúng ta, nào là thích ăn những thứ mà ngày thường chúng ta không thèm ăn, hôm nay tự nhiên chúng ta thèm uống một li cà phê, thèm ăn miếng thịt bò, tự nhiên hôm nay cảm thấy rất mau đói mà thường ngày có thể nhịn ăn.v.v...
Chúng ta không thể chống trả nổi với cơn cám dổ nếu không có ơn Chúa giúp, do đó, trong ngày hôm nay, cũng như trong suốt mùa chay và cả cuộc đời, chúng ta luôn trông cậy vào lòng nhân từ của Chúa qua bí tích Giải Tội và bí tích Thánh Thể, để chúng ta mạnh dạn chống trả với cơn cám dổ xảy đến cho chúng ta...
Cầu xin Mẹ Maria luôn gìn giữ chúng ta trong an bình cũng như trong thử thách.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho tất cả chúng ta.
Bài giảng ngày Thứ Tư Lễ Tro tại nhà thờ Chúa Thánh Thần - Taiwan. - Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
-----------------------------------
Mt 6, 1-6.16-18
Mùa chay đã bắt đầu, hướng con người và lịch sử cứu độ về cuộc khổ nạn, phục sinh của Ịức Giêsu Kitô. Thời gian 40 mươi ngày chay, giúp người Kitô hữu đi theo Ịức Kitô, bước theo con Người đã hy sinh mạng sống vì đoàn chiên. Bốn mươi ngày chay cũng đưa con người đi vào con đường hy sinh, từ bỏ và con đường vác thập giá theo Chúa Kitô. Con đường như thánh Phaolô nói là đồng hóa với Ịức Kitô để cùng chết và sống lại với người. Mùa chay mời gọi người Kitô hữu và toàn Giáo Hội ăn năn sám hối. Bắt đầu lễ tro, Hội Thánh kêu con dân Chúa đổi mới tâm hồn.
Ăn chay theo quan niệm Kitô Giáo
Chúa Giêsu bắt đầu sứ mạng công khai của mình đã loan báo rằng: " Anh em hãy sám hối vì nước trời đã gần kề "( Mt 4, 17 ) hoặc " Thời buổi đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần, hãy hối cải và tin vào Tin Mừng"( Mc 1, 14-15 ). Chúa Giêsu mời gọi con người hối cải, vì sám hối là điều kiện tiên quyết để vào nước trời. Nhưng Giáo Hội muốn con người có những phương thế để sống điều mình dốc lòng vì thế, ăn chay là một trong những phương thế hữu hiệu giúp con người góp phần tích cực vào sự hoán cải. Xưa kia theo sách Joel trong bài đọc I hôm nay, mỗi khi gặp một tai ương thử thách nào đó, từ vua chí dân đều phải mặc áo nhặm, ngồi trên tro mà khóc lóc, trong đền thờ các tư tế la to, khóc to, dân bắt chước khóc theo.
Quan niệm ấy ngày nay không còn vì mỗi năm Hội Thánh bỏ ra thời gian 40 ngày để dân Chúa có cơ hội đổi mới nội tâm, hoán cải tâm hồn mà bước theo Chúa Kitô, mà theo Chúa Kitô nghĩa là tự đồng hóa với Chúa vì Chúa đến để đưa con người ra khỏi tội lỗi, thánh hóa con người, làm đẹp con người. Hình thức bề ngoài, diễn tả sâu sắc bề trong là mỗi người khi nhận tro để bắt đầu đi vào 40 ngày kết hợp với Chúa: con người thú nhận mình có tội, mình là bụi tro, sẽ trở về với tro bụi. Con người sẽ trở về với Ịấng tác thành nên mình là Thiên Chúa. và như thế họ nhớ lại lời của Gioan Tẩy Giả khi thấy Chúa Giêsu hòa mình với dòng người tội lỗi bên bờ sông Giorđan xin Gioan làm phép thanh tẩy, đã chỉ cho mọi người cho nhân loại:" Ịây là chiên Thiên Chúa đến gánh tội thiên hạ". Chúa Giêsu đã đi vào sa mạc 40 ngày đêm để ăn chay, cầu nguyện với Thiên Chúa Cha.
Tinh thần tu đức cần phải có trong Mùa Chay
Chúa Giêsu đã đi vào sa mạc 40 đêm ngày: ăn chay, cầu nguyện. Dân Chúa cũng đi vào sa mạc với Chúa 40 đêm ngày để ăn chay, cầu nguyện và bố thí. Theo luật Môsê bố thí, cầu nguyện và ăn chay là những phương thế tối hảo để dân Chúa kết hợp với Chúa Giêsu. Tuy nhiên, Giáo Hội khuyên nhủ dân Chúa đừng phô trương công đức. An chay hãy vui lên, đừng ủ dột như người đau khổ, sầu não, tang thương. Hãy xức nước thơm lên đầu. Chúa Giêsu muốn dân Chúa phải có chiều sâu, phải có trái tim nhạy cảm, phải đổi mới tâm hồn, cải hóa nội tâm và sống chân thành. Ịừng sống bề ngoài, sống hình thức và sống hời hợt nhưng mọi việc phải làm vì tình yêu, vì đạo, vì Tin Mừng. Chúa cũng nhắc nhở dân Chúa đừng sống đạo vụ hình thức: hãy xé tâm hồn, đừng xé áo. Mọi hình thức đều có giá trị cho bản thân con người, nhưng phải làm với ý ngay lành, đừng làm vì khoe khoang. Chúa nói: " Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta". Thập giá xem ra nặng nề, khổ cực, Chúa đã đi con đường ấy. Dân Chúa sẽ bình an, tâm hồn thoải mái thơ thới nếu họ đi ào con đường thập giá của Chúa Kitô với đức tin chân thật và ý ngay lành. Chúa đã chết, nhưng đã phục sinh. Ta hãy tin tưởng đi vào con đường của Chúa và hân hoan đi vào mùa chay thánh với đức tin mạnh mẽ, đức cậy, đức mến dạt dào.
Mùa chay như thế sẽ giúp dân Chúa hiểu rõ hơn mầu nhiệm chết và sống lại của Chúa Giêsu. Và những việc đạo đức ta làm như bố thí, cầu nguyện, ăn chay, nhận tro là những nấc thang giúp ta mau mắn bước vào nước trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đi vào con đường thập giá của Chúa với đức tin và tâm hồn mở rộng.
GỢI Ý CHIA SẺ
1. Bạn hiểu gì về tro ngày thứ tư lễ tro ?
2. An chay, bố thí, cầu nguyện có cần thiết không ?
3. Bạn đã sẵn sàng đi vào mùa chay ?
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
-----------------------------------
Mở đầu sứ điệp Mùa Chay năm 2003 này (SĐMC2003), Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã: Lễ_tro-9
Mở đầu sứ điệp Mùa Chay năm 2003 này (SĐMC2003), Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã viết: "Mùa Chay là mùa hăng say cầu nguyện, ăn chay và quan tâm đến những người thiếu thốn. Mùa Chay cống hiến cho mọi Kitô hữu cơ hội chuẩn bị Mùa Phục sinh bằng cách nghiêm chỉnh kiểm điểm đời sống, đặc biệt chú ý đến Lời Chúa, Lời soi sáng cuộc hành trình mỗi ngày của những kẻ tin. Năm nay, như một hướng dẫn suy niệm trong Mùa Chay, tôi muốn đề xuất một câu trích từ Sách Công vụ các Tông đồ: 'CHO THÌ CÓ PHÚC HƠN LÀ NHẬN' "(Cv 20,35). Chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa cùng với lời của đấng kế vị Tông đồ Trưởng Phêrô, để thực hiện hai sứ điệp cùng một trật (hai mà là một), trong ngày hôm nay và trong suốt Mùa Chay này.
I. Lắng nghe Lời Chúa
1. Bài đọc 1: Ge 2,12-18. 2. Bài đọc 2: 2 Cr 5,20-6,2. 3. Bài Tin Mừng: Mt 6,1-6.16-18.
II. Tìm hiểu Lời Chúa
2.1 Bài đọc 1: Ge 2,12-18: Sấm ngôn của Đức Chúa: "Nhưng ngay cả lúc này, các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta, hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van. Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, bởi vì Người từ bi và nhân hậu, chậm giận và giầu tình thương, Người hối tiếc vì đã giáng họa."
2.2 Bài đọc 2: 2 Cr 5,20-6,2: Là sứ giả thay mặt Đức Kitô và nhân danh Người, Phaolô khuyên dạy các tín hữu Côrintô và nài xin họ hãy làm hòa với Thiên Chúa. Vì theo Phaolô, Thiên Chúa đã biến Đức Giêsu Kitô là Đấng chẳng hề biết tội là gì, thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người.
2.3 Bài Tin Mừng: Mt 6,1-6.16-18: Đức Giêsu căn dặn các môn đệ phải làm thế nào "khi làm việc lành phúc đức, cầu nguyện và ăn chay". Làm việc lành phúc đức hay bố thí là nhằm giúp đỡ tha nhân trong cảnh túng thiếu. Cầu nguyện là để thờ phượng, chúc tụng, ngợi khen Thiên Chúa và xin ơn phần hồn phần xác cho mình và cho người khác. Còn ăn chay là để làm chủ thân xác bằng cách ép nó phải hy sinh, khổ chế để trở nên tinh tuyền hơn. Cả ba việc trên, tự bản chất, đều là những việc rất tốt. Cả ba việc ấy đều khớp với lời Thánh Kinh trong Cv 20, 35: "Cho thì có phúc hơn là nhận". Nhưng cả ba việc ấy chỉ tốt khi chúng được thực hiện bằng một tinh thần khiêm tốn, vô vị lợi và thật tình sám hối tức tinh thần siêu nhiên theo ngôn ngữ ưa dùng của nhà đạo. Tinh thần siêu nhiên là tinh thần của Thiên Chúa nên thiếu tinh thần siêu nhiên ấy, việc bố thí, cầu nguyện và ăn chay có thể trở thành những việc khoe khoang, đề cao cá nhân, đạo đức giả hình, chẳng đem lại ơn
ích gì cho người thực hiện. Trong bối cảnh Do Thái giáo đang suy tàn thời đầu Công Nguyên, Đức Giêsu đã dạy: người tín hữu phải bố thí và ăn chay cách kín đáo, phải cầu nguyện nơi kín đáo để tránh hư danh.
2.4 Một vài suy nghĩ cho Mùa Chay năm nay
(1) Suy nghĩ thứ nhất: Từ bố thí cho người nghèo đến đấu tranh chống nghèo đói, bất công. Trong xã hội Do Thái vào thời Đức Giêsu cũng đã có hố ngăn cách giữa người giầu và người nghèo và cũng đã có nhiều bất công xã hội. Nhưng không thể so sánh với thế giới ngày nay, vì hố ngăn cách giầu nghèo và bất công xã hội là một "điểm đen" lớn nhất của thời đại hiện nay. Chúng ta không có gì phải ngạc nhiên khi thấy Giáo hội triển khai giáo huấn Lời Chúa mà nhấn mạnh rất nhiều đến trách nhiệm biến đổi xã hội và thay đổi cơ chế bất công. Vào những năm 30 thời Công nguyên, bố thí tiền của cho người nghèo đói, túng thiếu là một hành vi bác ái được chính Đức Giêsu giảng dạy. Cũng giáo huấn về bố thí ấy, ngày nay Giáo hội dạy chúng ta không chỉ giúp cơm ăn áo mặc cho người nghèo, mà chúng ta phải đứng về phía người nghèo, chống lại nạn nghèo đói, bóc lột, bất công đang làm mất phẩm giá làm người của bao nhiêu con người trong các nước, các dân.
(2) Suy nghĩ thứ hai: Từ cầu nguyện mang tính cá nhân đến cầu nguyện mang tính toàn cầu. Vào thời Đức Giêsu khi nói đến cầu nguyện người ta nghĩ đến lời cầu nguyện cá nhân hay cộng đoàn kẻ tin. Ngày nay lời cầu nguyện của Kitô hữu phải mang chiều tính toàn cầu. Vì lời cầu nguyện của chúng ta phải chứa đựng tâm tư, khát vọng, số phận của hằng triệu hàng tỷ con người cơm không đủ ăn, nước không đủ uống. Lời cầu nguyện của chúng ta ngày nay không chỉ dừng lại ở ý chỉ và lời cầu xin, mà còn phải bao hàm cả hành động đấu tranh cho người nghèo và bị gạt ra ngoài lề xã hội, cho hố ngăn cách giữa giầu nghèo ngắn lại, cho thế giới có công lý và hòa bình, cho phẩm giá con người được tôn trọng.
(3) Suy nghĩ thứ ba: Từ ăn chay là nhịn ăn nhịn uống đến tự ý từ khước địa vị, quyền bính, danh vọng, lạc thú và nhất là của cải. Trong lãnh vực ăn chay, nếu so sánh hai thời điểm thập niên 30 của thế kỷ thứ nhất với những năm đầu thế kỷ 21 này cũng có một bước tiến rất dài. Ngày xưa ăn chay chủ yếu là nhịn ăn nhịn uống một hai ngày hoặc dài lắm là 40 ngày của Mùa Chay và là hãm mình ép xác chút đỉnh. Còn ngày nay ăn chay thật sự là dám tự ý khước từ địa vị, quyền bính, danh vọng, lạc thú và nhất là của cải. Vì , như lời Thánh Phaolô gởi cho Timôthê mà Đức Gioan Phaolô II đã lấy lại: "Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn ấy, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé (1 Tm 6,10). Bóc lột người khác, thờ ơ trước đau khổ của anh chị em mình, và vi phạm những luật luân lý cơ bản, đó chỉ là vài hậu quả của lòng ham muốn tìm kiếm lợi lộc" (SĐMC 2003, 2).
Vì thế mà ngôn sứ Giôen mới kêu gọi sám hối bằng lời bất hủ này: "Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng" Xé áo là việc tương đối dễ, nhưng xé lòng mới là việc khó, mới là điều cơ bản. Xé lòng là thay đổi tư duy, thay đổi cách nghĩ và cách làm, là tự nguyện chối bỏ những thực tại có giá trị nhưng nguy hiểm cho phần hồn như giầu sang, danh vọng, quyền bính. Sống sứ điệp Lời Chúa hôm nay (SĐLCHN) và SĐMC2003 của Đức Gioan Phaolô II thì trước hết chúng ta phải đi ngược lại với
xu hướng tự nhiên của con người, nhất là của người thời nay: đó là xu hướng thích nhận hơn là thích cho, thích thu gom hơn là chia sẻ. Xu hướng tự nhiên này, nếu không được kiểm soát và kiềm chế, sẽ đưa con người đến chỗ thờ ơ với đau khổ của anh chị em mình, vi phạm những luật luân lý cơ bản và bóc lột người khác. Kế đến, sống SĐLCHN và SĐMC2003 của Đức Gioan Phaolô II là chúng ta sống theo tiếng nói nội tâm tận đáy lòng thôi thúc mỗi người chúng ta thiết lập mối tương quan yêu thương với tha nhân và sẵn sàng trao ban chính mình cho kẻ khác để chúng ta được nên hoàn thiện. Sau cùng, sống SĐLCHN và SĐMC2003 của Đức Gioan Phaolô II là chúng ta đáp lại tiếng mời gọi thiết tha của Thiên Chúa và của Đức Giêsu Kitô là Đấng đã trao ban tất cả cho chúng ta, kể cả chính Mình Người và Con Một yêu dấu của Người vì yêu thương chúng ta.
(4) Suy nghĩ thứ tư: Tình yêu của Đức Kitô là nguồn sức mạnh và là gương mẫu. Đức Gioan Phaolô II khẳng định: "Nỗ lực cổ võ công bình của Kitô hữu, sự dấn thân của họ trong việc bênh vực những người cô thế cô thân, những công việc nhân đạo trong việc cung cấp bánh ăn cho người đói khát và việc chăm sóc cho người bệnh tật khi đáp lại mọi cơn cùng khốn và nhu cầu, tìm được sức mạnh trong kho tàng duy nhất và vô hạn của Tình yêu là sự dâng hiến trọn vẹn của Đức Giêsu cho Chúa Cha. Người tín hữu được mời gọi bước theo dấu chân của Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa thật và người thật, Đấng, khi hoàn toàn vâng phục ý muốn của Chúa Cha, đã tự hủy (x. Pl 2,6tt), và khiêm tốn ban tặng chính mình cho chúng ta trong một tình yêu xả kỷ và trọn vẹn, cho đến chết trên thập giá. Núi Canvê loan báo cách hùng hồn sứ điệp về Tình yêu của Ba Ngôi đối với con người thuộc mọi thời đại và dân nước" (SĐMC2003, 3).
III. Sống Lời Chúa
Để đón nhận và sống sứ điệp Lời Chúa hôm nay và sứ điệp Mùa Chay 2003 của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, tôi và cộng đoàn tôi quyết tâm thực hiện việc này: ...........(nói rõ việc ấy).
IV.Cầu nguyện
Lạy Thiên Chúa là Tình Yêu, chúng con biết rằng Chúa muốn chúng con đáp lại Tình Yêu của Chúa bằng sự thay đổi lòng trí và cách sống của chúng con.
Nhưng Chúa biết chúng con yêu thích chức quyền danh vọng, ham muốn của cải lợi lộc, bám víu vào cách sống ích kỷ của chúng con như thế nào!
Chúng con tha thiết nài xin Chúa ban cho chúng con Sức Mạnh Vô Biên là Tình Yêu Xả Kỷ của Chúa Giêsu Kitô, Con Chúa, Chúa chúng con, để chúng con có thể "xé lòng" chứ không chỉ "xé áo" trong Mùa Chay 2003 này, mà dấn thân phục vụ và bênh vực những người bị thiệt thòi trong xã hội Việt Nam hôm nay, chống lại cảnh nghèo đói, thay đổi cơ chế bất công và tính ích kỷ của những người trong gia đình và xung quanh chúng con.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
-----------------------------------
Mt 6.1-6,16-18
Tín hữu cầu nguyện cùng Thiên Chúa với trọn con người của mình: bằng môi miệng, bằng lao công và nhất là với trọn con tim. Con người liên hệ với Thiên Chúa trước hết trong tâm tình con thảo vì Thiên Chúa là Cha, "Đấng ngự trên trời”. Nhưng con người cũng không bao giờ quên mình là thụ tạo, được Thiên Chúa dựng nên. Ngài là Đấng Tạo Hoá. Từ đó, con người luôn luôn giữ mình trong tư thế kính cẩn, tôn thờ. Con người luôn sống trước sự hiện diện của Thiên Chúa: khi cầu nguyện cũng như lúc làm việc, khi đi đường cũng như lúc nghỉ ngơi, khi nhận lãnh đồng lương cũng như lúc bố thí. Con người làm tất cả mọi việc với con tim trong trắng và ngay thẳng. Tất cả tùy thuộc nơi con tim. Con tim thế nào thì tư tưởng, lời nói, cài nhìn và hành động của con người sẽ như thế. “Cây mà tốt thì quả cũng tốt; cây mà xấu thì quả cũng xấu, vì xem quả thì biết cây. Loài rắn độc kia, xấu như các ngươi, thì làm sao nói điều tốt được? Vì lòng có đầy thì miệng mới nói ra. Người tốt thì rút cái tốt từ kho tàng tốt của mình; kẻ xấu thì rút cái xấu từ kho tàng xấu của mình” (Mt 12. 33-35).
Người công chính kín múc việc thiện từ con tim: càng kín múc thì việc thiện càng trở nên dồi dào. Cũng giống như máu lưu thông trong cơ thể. Xuất phát từ tim, dòng máu ra đi nuôi dưỡng cơ thể, đồng thời rút tỉa chất bổ từ cơ thể và chuyển về tim.Cứ thế, con tim không ngừng nuôi dưỡng thân xác con người.
Tín hữu được mời gọi tạo cho mình một con tim khiêm tốn trong sạch, tin tưởng và ngay thẳng. Hãy yêu mến Thiên Chúa bằng tình yêu trong trắng của một trinh nữ dành cho đức lang quân của mình. Mỗi một linh hồn là một trinh nữ kết hôn với Thiên Chúa, Đấng là “Người Tình Vĩnh Cửu”. Trần gian này là thời gian đính hôn. Phụ rễ là Thiên Thần Bản Mệnh. (Thiên Thần Bản Mệnh giữ chức vụ của “paranymphe”, tức người đưa công chúa các triều vua xưa ở Pháp về nhà chồng). Mỗi giây phút qua đi, mỗi việc thiện thi hành là những nữ tì giúp cô dâu chuẩn bị của hồi môn đem về nhà chồng. Giờ chết là giờ diễn ra cuộc hôn lễ giữa linh hồn và Thiên Chúa.
Trong khi chờ đợi, tín hữu sống thời gian đính hôn với Thiên Chúa. Vì thế khi cầu nguyện, tức là lúc con người tỏ bày tâm tình với Thiên Chúa, hãy vào phòng và đóng kín cửa lại. Hãy rút lui khỏi đôi mắt tò mò dòm ngó của người khác để tạo một bầu khí kín đáo, thinh lặng và an bình, thuận lợi cho cuộc trò chuyện giữa lòng với lòng. Nhưng nhất là, con người được khuyên nhủ vút vào nội tâm sâu thẳm, nơi kín ẩn của con tim, để thổ lộ tâm tình với Người Yêu là Thiên Chúa. Trong cuộc trò chuyện với Đức Lang Quân, Vị Vua Tối Cao của muôn loài, có nhân chứng là Thiên Thần Bản Mệnh. Hãy cầu nguyện với Thiên Chúa là Cha trong nơi kín ẩn của con tim và trong nơi sâu thẳm của nội tâm. Hãy khép cửa phòng, hãy đóng kín con tim và để lại bên ngoài tất cả những gì thuộc về thế gian: ưóc muốn được người khác để ý, ca tụng và khen thưởng. Từ đó, chỉ còn lại con người đối diện Thiên Chúa với trọn tình thương con thảo và tình yêu say đắm của hôn thê trong trắng dành cho Đức Lang Quân của lòng mình.
Tuy nhiên, lời cầu nguyện chân chính đi đôi với hành vi yêu thương. Tín hữu có thể trọn lòng yêu mến Thiên Chúa khi bận rộn nấu nướng cũng như lúc quỳ yên chắp tay cầu nguyện; khi chăm sóc một bệnh nhân cũng như lúc ngồi im suy gẫm; khi chu toàn công việc hàng ngày cũng như lúc hành hương đến các Đền Thánh. Điều quan trọng là tín hữu làm mọi việc với lòng yêu mến. Lòng yêu mến giúp con người không sợ hãu, nhưng tin tưởng và phó thác. Thiên Chúa, “Cha chúng con ngự trên trời” là “Đấng thấu suốt mọi bí ẩn”, Ngài biết chúng ta cần gì. Ngài ban cho chúng ta các ân huệ tuỳ thời tùy lúc và tùy theo lòng Nhân hậu Quang Phòng vô biên của Ngài. Chúng ta chỉ khiêm tốn cầu xin với trọn lòng tín thác. “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ được mở cho... Có người nào trong anh em, khi con mình xin bánh mà lại cho nó hòn đá? Hoặc nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn? Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của cải tốt lành, phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời, Người sẽ ban những của tốt lành cho những kẻ xin người” (Mt 7,7-11). Như thế, là những người con Thiên Chúa chúng ta, đừng sợ hãi khi xin bất cứ điều gì với Thiên Chúa, cũng đừng lo sợ là sẽ không được Thiên Chúa nhậm lời! Nếu Thiên Chúa không ban ân huệ chúng ta kêu xin với Người thì chúng ta hiểu rằng: điều chúng ta xin không có ích lợi cho chúng ta! Và chắn chắn Người sẽ ban cho ơn khác hữu ích hơn cho chúng ta.
NS Trái Tim Đức Mẹ Sr. Minh Nguyệt
-----------------------------------
Thứ Tư Lễ Tro là khởi đầu Mùa Chay. Mùa Chay tới, nhiều người nghĩ phải cố gắng từ bỏ điều gì Lễ_tro-11 Web
Thứ Tư Lễ Tro là khởi đầu Mùa Chay. Mùa Chay tới, nhiều người nghĩ phải cố gắng từ bỏ điều gì đó để bước theo Đức Kitô. Tuy nhiên, những điều này lại thường ít ảnh hưởng đến cuộc sống, chúng ta “khôn lỏi” lắm !
Dưới đây là 40 thứ có thể từ bỏ để sống Mùa Chay. Không phải là những thứ liên quan việc ăn uống, nhưng chúng thực sự cần từ bỏ. Mùa Chay kéo dài 40 ngày, mỗi ngày cố gắng từ bỏ 1 điều. Trong 40 điều này, có những điều không chỉ từ bỏ trong Mùa Chay mà phải từ bỏ suốt cả đời.
1. SỢ THẤT BẠI
– Bạn không thành công nếu chưa trải qua thất bại. Đúng như tục ngữ Việt Nam nói: “Thất bại là mẹ thành công”.
2. VÙNG AN TOÀN
– Đó là “vùng thoải mái”, sợ khó. Dám ra ngoài “vùng” này thì chúng ta mới có thể khám phá những điều mới lạ.
3. CẢM THẤY HOÀI NGHI
– Có lúc chúng ta nghi ngờ rằng không biết Tạo Hóa có tạo dựng nên mình hay không. Hãy xác định như tác giả Thánh Vịnh: “Tạng phủ con, chính Ngài đã cấu tạo, dệt tấm hình hài trong dạ mẫu thân con. Tạ ơn Chúa đã dựng nên con cách lạ lùng, công trình Ngài xiết bao kỳ diệu! Hồn con đây biết rõ mười mươi. Xương cốt con, Ngài không lạ lẫm gì, khi con được thành hình trong nơi bí ẩn, được thêu dệt trong lòng đất thẳm sâu. Con mới là bào thai, mắt Ngài đã thấy; mọi ngày đời được dành sẵn cho con đều thấy ghi trong sổ sách Ngài, trước khi ngày đầu của đời con khởi sự” ( Tv 139, 13-16 ).
4. THIẾU KIÊN NHẪN
– Thời giờ của Thiên Chúa là thời giờ hoàn hảo. Mọi thứ đều đúng hẹn, đúng kỳ theo ý Ngài tiền định và quan phòng.
5. SỐNG ẨN DẬT
– Còn hít thở, chúng ta còn sống với người khác và tương tác với họ vì Đức Kitô. Công việc của chúng ta luôn ảnh hưởng người khác.
6. LÀM VUI LÒNG NGƯỜI KHÁC
– Không ai có thể làm vừa lòng mọi người, nhưng chúng ta phải luôn cố gắng làm vui lòng người khác, còn họ có vừa lòng hay không là phần của họ.
7. SO SÁNH – Một là cảm thấy mình kém cỏi hơn người khác, hai là cảm thấy mình “ngon lành” hơn người khác. Dạng nào cũng không được.
8. TRÁCH CỨ
– Chúng ta có xu hướng không dám nhận lỗi, và luôn muốn đổ lỗi cho người khác.
9. PHẠM TỘI
– Nhân vô thập toàn. Mặc dù chúng ta là tội nhân, Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta, và Chúa Giêsu đã chết vì chúng ta. Hôm nay là ngày mới, hôm qua đã không còn.
10. MẤT TỰ CHỦ
– Do đó chúng ta khó có thể hoàn tất công việc và làm tốt hơn.
11. THIẾU DỰ ĐỊNH
– Các quyết định khôn ngoan hiếm khi trở thành vô ích.
12. KHÔNG MINH BẠCH
– Một là không minh bạch về điều này hoặc điều nọ ( khuất tất ), hai là không trong sạch ( nhân đức ).
13. TỰ QUYỀN
– Thiên Chúa không mắc nợ chúng ta điều gì, thế giới cũng chẳng mắc nợ chúng ta điều gì. Hãy cố gắng sống trong ân sủng và khiêm nhường.
14. LÃNH ĐẠM
– Cuộc đời có bao nhiêu mà hững hờ. Không quý mến nhau thì cũng đừng kèn cựa nhau. Tranh chấp nhau, giành giật nhau, hơn thua nhau làm gì ?
15. GHEN GHÉT
– Hãy cảnh giác kẻo mắc lừa ma quỷ, bởi vì chúng rất ranh mãnh. Kinh Thánh căn dặn: “Đừng để cho sự ác thắng được mình, nhưng hãy lấy thiện mà thắng ác” ( Rm 12, 21 ).
16. TIÊU CỰC
– Hãy cố gắng quan hệ hòa nhã với mọi người. Tránh né người khác là tiêu cực, mà cũng chỉ vì chúng ta không coi trọng người khác nên mới tránh né họ.
17. MÊ VẬT CHẤT
– Hãy nhớ rằng có Thiên Chúa là có tất cả, mất Thiên Chúa là mất tất cả: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì” ( Tv 23, 1 ).
18. SỐNG MÁY MÓC
– Càng đầu tư nhiều thì càng có lợi nhiều. Về tinh thần và tâm linh cũng vậy.
19. THAN PHIỀN
– Đừng cằn nhằn, khó tính, than thân trách phận hoặc trách móc người khác, hãy cố gắng xử lý và giải quyết vấn đề cho thấu đáo.
20. BẤT CẦN
– Thiên Chúa muốn chúng ta hạnh phúc cả đời này và đời sau. Đó là niềm vui sống. Đừng buông xuôi, bất cần đời !
21. GAY GẮT
– Đó là tự làm khổ mình, và tất nhiên cũng làm khổ người khác. Tâm bất an thì không thể nào sống vui và sống khỏe, bệnh tật phát sinh từ đó.
22. CHIA TRÍ
– Cuộc sống có nhiều thứ khiến chúng ta chia trí, vì thế cần phải tập trung vào mục đích của mình.
23. MẶC CẢM
– Thiên Chúa không bao giờ từ bỏ chúng ta, dù chúng ta xấu xa và tội lỗi: “Dầu cha mẹ có bỏ con đi nữa thì hãy còn có Chúa đón nhận con” ( Tv 27, 10 ).
24. TẦM THƯỜNG
– Cuộc đời chúng ta có thể không ai biết đến, không có gì khác thường, sống rất bình thường, nhưng tuyệt đối đừng sống tầm thường.
25. GÂY CHIA RẼ
– Chia rẽ là chết, đoàn kết mới sống. Khuyến khích nhau là điều cần thiết, mọi nơi và mọi lúc: “Phải khuyến khích nhau, nhất là khi anh em thấy Ngày Chúa đến đã gần” ( Dt 10, 25 ).
26. BẬN RỘN
– Đó là “huy hiệu danh dự” của người mê công việc mà bỏ bê những thứ cần thiết khác.
27. CÔ ĐỘC
– Có Chúa Giêsu, chúng ta sẽ không cô độc. Ngài luôn hiện diện và đồng hành với chúng ta.
28. BẤT HÒA
– Xung đột là mối nguy cho cuộc sống, cả đời thường và tâm linh. Xung đột xảy ra thì không thể hợp tác. Sự cộng tác và đồng tâm nhất trí rất cần: “Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho” ( Mt 18, 19 ).
29. VỘI VÀNG
– Dục tốc bất đạt. Dù to hay nhỏ, cái gì cũng cần có thời gian, không thể một sớm một chiều.
30. LO LẮNG
– Thiên Chúa kiểm soát mọi sự, chúng ta có lo lắng cũng chẳng thay đổi được gì: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho. Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” ( Mt 6, 33-34 ).
31. THẦN TƯỢNG HÓA
– Đừng thần tượng hóa bất cứ ai, bắt chước là ngu xuẩn, hãy cứ là chính mình ! Chỉ có Thiên Chúa là Đấng hoàn hảo mà thôi.
32. CỐ CHẤP
– Cuộc sống luôn phải thay đổi để thích nghi mọi thứ. Cố chấp là ích kỷ, là hèn nhát.
33. KIÊU NGẠO
– Thiên Chúa hạ bệ kẻ kiêu ngạo, nhưng nâng cao người khiêm nhường ( Lc 1, 51-52 ).
34. NÔNG CẠN – Đừng nói rằng vấn đề khó quá, chính vấn đề khó đó cho chúng ta biết Thiên Chúa vĩ đại.
35. ĐỐ KỴ – Người Pháp có câu nói chí lý: “Đừng vì kính mến Chúa mà chống đối người khác”. Mọi người đều là anh em và là con một Cha trên Trời.
36. VÔ ƠN BẠC NGHĨA
– Cuộc sống là những ngày tháng chúng ta mắc nợ Thiên Chúa mọi, chúng ta cũng mắc nợ tha nhân và xã hội nhiều thứ. Do đó, chúng ta không thể không biết ơn Thiên Chúa và cuộc đời.
37. THAM LAM
– Thiên Chúa có kế hoạch riêng dành cho mỗi người: “Ta đã gọi ngươi đích danh, đã ban cho ngươi một tước hiệu, dù ngươi không biết Ta” ( Is 45, 4 ). Hãy cố gắng làm trọn công việc Ngài giao phó.
38. TỰ MÃN
– Chúa Giêsu là sức mạnh của chúng ta: “Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết” ( Pl 4, 13 ). Có Ngài thì chúng ta mới làm được công kia việc nọ, không có Ngài thì chúng ta chẳng làm nên trò trống gì đâu: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” ( Ga 15, 5 ).
39. ƯU SẦU
– Buồn thì cứ khóc, xong rồi thôi. Đừng giam mình trong vòng ưu sầu. Mọi sự sẽ qua, cứ tín thác vào Thiên Chúa: “Hỡi những kẻ tín trung, hãy đàn ca mừng Chúa, cảm tạ thánh danh Người” ( Tv 30, 5b ).
40. CUỘC ĐỜI
– Thế gian là cõi tạm, rồi sẽ qua đi. Đừng coi nặng vật chất, kể cả cuộc sống của chúng ta, tất cả chỉ là bụi tro mà thôi. Chúa Giêsu đã nói: “Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” ( Ga 12, 25 ).
TRẦM THIÊN THU
theo Greater Things Today, Mùa Chay 2017
-----------------------------------
Giáo hội bước vào Mùa Chay thánh. Vậy Mùa Chay là gì?
Trong tiếng Latinh, Mùa Chay thánh được gọi là "Quadragesima" (ngày thứ 40), tức là thời kỳ gồm 40 ngày, (thực sự là 46 ngày, nếu tính từ Thứ tư lễ Tro cho đến Chúa nhật Phục sinh), nhưng theo nghĩa hẹp, Mùa Chay tính từ Chúa nhật thứ nhất đến chiều Thứ Năm Tuần Thánh, nghĩa là cho tới lúc cử thành thánh lễ Tiệc Ly vào ban chiều "in Caena Domini", trong đó Chúa lập Bí tích Thánh Thể, rửa chân cho 12 môn đệ và truyền lại Giới răn mới.
Mùa Chay kéo dài 40 ngày, trước hết để nhớ lại 40 ngày Chúa Giêsu ăn chay và cầu nguyện trên Núi. Núi này cao 500 thước, ở mạn bắc cánh đồng Gerico, cách thành phố này 4 cây số. Theo truyền thống từ lâu, Núi nầy được coi là nơi Chúa Giêsu ăn chay và cầu nguyện trong 40 đêm ngày và sau đó bị Satan cám dỗ (Mt 4,1-11; Lc 4,1-15). Hiện nay, trên đỉnh núi có một nhà nguyện được xây cất tại chính nơi Satan cho Chúa nhìn thấy "tất cả các nước trên thế giới và sự huy hoàng của các nước này (Mt 4,8).
Thời gian 40 ngày cũng để nhớ lại 40 đêm ngày Maisen cầu nguyện trên Núi Sinai và được Chúa trao cho 10 Giới răn. Rồi 40 ngày còn để nhớ lại cuộc hành trình 40 ngày trong sa mạc của Tiên tri Elia, lúc ông trốn khỏi cơn thịnh nộ của Hoàng hậu Gezabele, để tiến về Núi Oreb (cũng là núi Sinai, kế Biển Đỏ và Kênh đào Suez), nơi đây Chúa mạc khải và trao cho ông sứ vụ mới (1 Vua 19).
Mùa Chay của Giáo hội Công giáo là thời kỳ chuẩn bị trong cầu nguyện, trong sám hối, trong suy tư , trong thanh vắng và bằng những hy sinh, những công việc bác ái, cách riêng đối với các anh chị em nghèo khổ, để có thể được tái sinh thiêng liêng trong ngày Chúa Phục sinh.
Việc ăn chay và kiêng thịt ngày nay được giảm bớt rất nhiều, chỉ còn buộc có hai ngày: Thứ tư Lễ Tro, bắt đầu Mùa Chay và Thứ Sáu Tuần Thánh, ngày kính nhớ Cuộc Tử nạn của Chúa trên Thánh giá. Dù sao cũng nên kiêng thịt các ngày thứ sáu Mùa Chay. Trong Mùa Chay thánh, các tín hữu nên nhớ lại ba mệnh lệnh: ăn chay, sám hối và cầu nguyện. Việc ăn chay đẹp lòng Chúa hệ tại giải thoát mình khỏi tính ích kỷ và ở tại việc an ủi và giúp đỡ tha nhân, cách riêng những người sống trong cảnh cùng cực. Giáo hội giảm bớt rất nhiều việc ăn chay bên ngoài, có mục đích thúc giục con cái mình dấn thân nhiều hơn trong việc giúp đỡ các người đau khổ, cùng cực. Mùa Chay là thời giờ khám phá ra những nhu cầu của anh chị em mình và nhắc nhở hết thảy chúng ta tìm mọi cách để đến gặp gỡ các người đau khổ tinh thần và thể xác, bằng việc từ bỏ chính bản thân và những gì có thể ngăn trở việc tiến về Chúa. Việc ăn chay được thực hiện với lòng yêu mến Chúa và với tình yêu đối với tha nhân là dấu chỉ của ý chí thành thực muốn trở về với Thiên Chúa, muốn thay đổi cuộc đời. Theo ý nghĩa sâu xa này, việc ăn chay vẫn giữ toàn vẹn giá trị của nó.
Phụng vụ Mùa Chay rất giúp ích cho việc suy gẫm Lời Chúa. Mỗi ngày trong Mùa Chay đều có những bài Sách thánh riêng, giúp chúng ta thực hiện giáo huấn của Chúa: "Con người không phải chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng những lời phát xuất bởi miệng Chúa nữa". Trong Mùa này, các tín hữu được mời gọi tham dự thánh lễ hằng ngày, nếu có thể và các vị chủ chăn được mời gọi giải thích Lời Chúa cho cộng đồng tham dự thánh lễ.
Phụng vụ Lời Chúa trong Mùa Chay còn giúp các anh chị em tân tòng chuẩn bị trực tiếp, để lãnh Bí tích Rửa tội và giúp những ai đã được rửa tội rồi, củng cố đức tin để tiến mạnh trên con đường thánh thiện. Trong Đêm Vọng Phục sinh, anh chị em tân tòng và các tín hữu sẽ cùng nhau, cầm nến sáng trong tay, tuyên xưng lại lời hứa Phép rửa tội. Trong lễ nghi rửa tội, các tín hữu đã thề từ bỏ ma quỉ và các việc của chúng, cam đoan tin kính Chúa Ba Ngôi và trung thành với Giáo hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền. Vì thế, càng gần lễ Phục sinh, các tín hữu càng được mời gọi suy ngắm cuộc Tử nạn và Phục sinh của Chúa, để cùng với cuộc Tử nạn, các tín hữu chôn vùi tội lỗi trong mồ và sau đó cùng sống lại trong vinh quang phục sinh với Chúa Kitô.
Tiếp liền sau Mùa Chay, là TAM NHẬT THÁNH, bắt đầu từ Thánh lễ Tiệc Ly (in Caena Domini) và được kết thúc với giờ Kinh chiều Chúa nhật Phục sinh. Trong ba ngày Thánh này, Giáo hội suy ngắm cách riêng Cuộc Tử nạn của Chúa và chờ đợi ngày Phục sinh của Người, với những nghi thức phụng vụ rất ý nghĩa cảm động.
Mùa Chay là lúc trở về với nguồn gốc đức tin, bởi vì, trong khi suy ngắm về ơn thánh vô cùng lớn lao của Mầu nhiệm cứu chuộc, chúng ta không thể không ý thức được rằng: tất cả những gì đã ban cho chúng ta là do sáng kiến yêu thương của Thiên Chúa. Mùa Chay, trong khi đặt gương Chúa Kitô hy sinh trên Đồi Calvario, giúp chúng ta cách riêng hiểu rằng: sự sống đã được chuộc lại nơi Người. Qua trung gian Chúa Thánh Thần, Người canh tân cuộc sống chúng ta và làm cho chúng ta thông phần vào chính sự sống Thiên Chúa; sự sống này dẫn đưa chúng ta vào trong sự thân mật của Thiên Chúa Ba Ngôi và làm cho chúng ta cảm nghiệm tình yêu thương của Người đối với chúng ta. Đây là một ơn cao cả, mọi tín hữu chỉ biết tuyên xưng ơn này và cảm tạ Chúa với niềm hân hoan mà thôi.
-----------------------------------
Lễ_tro-13. ĂN CHAY CÁCH NÀO MỚI ĐẸP LÒNG THIÊN CHÚA ?
1. ĂN CHAY TRONG ĐỜI SỐNG TÂM LINH VÀ TÔN GIÁO
Bất kỳ tôn giáo nào cũng đề cao việc ăn chay và cầu nguyện, vì ăn chay và cầu nguyện có nhiều tác dụng tốt đẹp về mặt tâm linh.
a. Trước hết, ăn chay – thường đi đôi với hãm mình – là để tỏ lòng thống hối và đền tội, làm hòa với Thiên Chúa, quyết tâm trở về với đường ngay nẻo chính, với công lý và tình thương. Câu chuyện thành Ni-ni-vê là một điển hình ( x. Ge 3, 1 – 10 ). Đây là một thành phố tội lỗi, Thiên Chúa dự định trừng phạt bằng cách phá hủy thành. Dân thành biết vậy nên đồng lòng ăn chay và quyết tâm thống hối. Vì thế, Thiên Chúa đã từ bỏ dự định phá hủy thành ấy.
b. Ăn chay phối hợp với những việc thực thi công bình và bác ái – là một cách thể hiện lòng yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, muốn chia sẻ những nỗi thống khổ mà Đức Giê-su hay người nghèo, người bị áp bức phải chịu. Đây là một việc làm rất đẹp lòng Thiên Chúa. Người ăn chay nên dùng tiền tiết kiệm được do việc ăn chay để thực hành đức ái: giúp đỡ người nghèo túng, ủng hộ những việc làm từ thiện, những công trình cải thiện xã hội hoặc Giáo Hội...
c. Ăn chay phối hợp với cầu nguyện, tĩnh tâm, chiêm niệm – để có một sức mạnh tâm linh. Khi ăn chay, ta phải chống lại sự đòi hỏi của bản năng thèm ăn, nhờ đó sự tự chủ lên cao, sức mạnh tâm linh cũng tăng lên. Ăn chay cũng lôi kéo ơn Chúa và sức mạnh thần linh xuống trên ta. Nhờ đó ta có thể thực hiện những việc làm hay những tiến bộ về tâm linh. Điều đó được Đức Giê-su đề cập đến qua câu nói: “Giống quỷ này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện” ( Mt 17, 21 ). Vì để trừ quỉ, cần có một sức mạnh tâm linh rất cao, tức sự thánh thiện, và để đạt được sức mạnh ấy, ăn chay cầu nguyện là một phương cách hữu hiệu.
Chính Đức Giê-su đã ăn chay 40 đêm ngày trước khi bắt đầu cuộc đời công khai của mình. Đó là một mẫu gương cho ta: khi bắt đầu thực hiện hay quyết định một việc gì quan trọng về tâm linh, ta nên ăn chay và cầu nguyện để được nhiều ơn Chúa hầu quyết định sáng suốt và thực hiện công việc có hiệu quả.
2. TINH THẦN CHAY TỊNH
Cốt yếu của việc ăn chay không hệ tại việc nhịn ăn, kiêng ăn hay ăn ít đi, mà hệ tại tinh thần mà việc ăn chay muốn biểu lộ. Ăn chay chỉ là một hình thức cụ thể để biểu lộ tâm tình bên trong: thống hối, muốn đền tội, quyết tâm trở về với Thiên Chúa, hay muốn thể hiện tinh thần bác ái, thông cảm với những người đau khổ, hay muốn tăng cường sức mạnh tâm linh... Nếu không có những tâm tình bên trong ấy làm nội dung, thì việc ăn chay chỉ là một hình thức trống rỗng, không có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Ngôn sứ Giêrêmia cho biết Thiên Chúa không đoái hoài đến việc ăn chay theo kiểu thuần hình thức ấy: “Chúng có ăn chay, cầu khẩn, Ta cũng chẳng thèm nghe tiếng; có dâng lễ toàn thiêu và lễ phẩm, Ta cũng chẳng tỏ lòng xót thương” ( Gr 14, 12 ).
Như vậy ăn chay cốt yếu là một việc làm trong nội tâm, không ai thấy được hơn là việc thể hiện ra bên ngoài ai cũng thấy được. Điều này phù hợp với lời khuyên của Đức Giê-su trong bài Tin Mừng hôm nay: “Khi ăn chay, hãy rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh”. Ngôn Sứ Giô-en trong bài đọc 1 hôm nay cũng nhấn mạnh cái cốt tủy bên trong của việc chay tịnh: “Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em” ( Ge 2, 13 ). Điều quan trọng là trở về với Thiên Chúa hơn là ăn chay bên ngoài.
Ngôn Sứ I-sai-a lại nhấn mạnh đến cốt lõi của việc ăn chay là tinh thần yêu thương và tôn trọng công lý, chứ không phải là hình thức khổ chế bên ngoài:
“Này, ngày ăn chay, các ngươi vẫn lo kiếm lợi, vẫn áp bức mọi kẻ làm công cho mình. Này, các ngươi ăn chay để mà đôi co cãi vã, để nắm tay đánh đấm thật bạo tàn. Chính ngày các ngươi muốn ăn chay để tiếng các ngươi kêu thấu trời cao thẳm, thì các ngươi lại ăn chay không đúng cách. Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế ? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Đức Chúa ? Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm ? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục ?” ( Is 58, 3 – 7 ).
Như vậy, ăn chay bằng những việc làm bác ái, bằng việc lên tiếng cho công lý, để đập tan những bất công, để bênh vực kẻ nghèo khổ, sống ngoài lề xã hội, những kẻ bị áp bức, thì thực tế và đẹp lòng Thiên Chúa hơn là việc nhịn ăn một cách hình thức.
Nói như thế không có nghĩa là không cần ăn chay mà chỉ cần đối xử với nhau cho có tình nghĩa, hay chỉ cần thực hiện công lý và bác ái thôi. Thiên Chúa muốn rằng “các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ” ( Mt 23, 23 ).
Vì hình thức và nội dung phải đi đôi với nhau: hình thức đòi buộc phải có nội dung, nhưng nội dung cũng đòi hỏi phải có hình thức. Vì thế, khi ăn chay, chúng ta vừa nhịn ăn hoặc ăn ít để thực hiện mặt hình thức, mà vừa phải có những tâm tình thâm sâu bên trong, được thể hiện cụ thể bằng việc thực thi công bằng và bác ái để thực hiện mặt nội dung. Tuy nhiên, ta cần biết là tâm tình thâm sâu bên trong làm cho hình thức thể hiện bên ngoài có giá trị. Nếu chỉ có hình thức bên ngoài, thì hình thức đó hoàn toàn vô giá trị.
3. ĂN CHAY VÀ CẦU NGUYỆN MỘT MÌNH VỚI THIÊN CHÚA
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su nhấn mạnh đến sự kín đáo khi ăn chay và cầu nguyện. Ăn chay và cầu nguyện là những hành vi đối thoại với Thiên Chúa, vì thế, nó cần được thực hiện một cách riêng tư, trong thầm lặng với Ngài. Nó củng cố tình thân hay sự thân mật giữa ta với Thiên Chúa. Thật ngược đời và quái dị nếu sự thân mật riêng tư giữa vợ chồng hay bạn bè với nhau lại được phơi bày ra trước mặt mọi người.
Cũng vậy, sự thân mật riêng tư giữa ta với Thiên Chúa thì chỉ nên giữa Thiên Chúa với ta biết với nhau, không nên cố ý thực hiện trước công chúng để ai cũng biết. Cố ý ăn chay và cầu nguyện trước mặt mọi người thì đó không còn là sự đối thoại thật sự với Thiên Chúa nữa, mà nó đã bị biến chất thành một hành vi đóng kịch. Như thế có khác gì hai người hôn nhau để người khác chụp hình.
Càng muốn cho mọi người thấy tình yêu riêng tư của mình thì tình yêu ấy chỉ là tình yêu biểu diễn, có vẻ yêu thương, mang nặng tính hình thức và giả dối, chứ không phải tình yêu đích thực. Chỉ những người đạo đức giả mới thích biểu diễn việc ăn chay và cầu nguyện của mình trước mặt người khác. Trái với tinh thần giả hình ấy, Đức Giê-su khuyên ta nên cố ý dấu không cho người khác biết mình ăn chay, thậm chí nên đánh lạc hướng để người khác không thể đoán ra hay nghi ngờ mình ăn chay: “Khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo”.
Lạy Cha, hôm nay là ngày mở đầu Mùa Chay, Cha muốn con ăn chay trong mùa này như thế nào ? Suy gẫm lời của Ngôn Sứ I-sai-a, con biết rằng lối ăn chay mà Cha thích nhất nơi con, đó là con biết quan tâm đến hạnh phúc và đau khổ của tha nhân, đến những vấn đề xã hội, đến những người nghèo khổ, người bị áp bức chung quanh con. Cha muốn con ăn chay bằng cách làm một điều gì đó thật cụ thể và thực tế để những người đang đau khổ ấy được hạnh phúc hơn, giảm được phần nào đau khổ của mình. Cha muốn con ăn chay bằng cách nỗ lực làm cho xã hội trở nên công bằng và tốt đẹp hơn, bằng sự lên tiếng, can thiệp, hỗ trợ... trong khả năng của mình. Xin cho con quảng đại và can đảm thực thi tinh thần ăn chay ấy trong Mùa Chay này, để chuẩn bị đón mừng mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giê-su, Con Cha trong những tháng sắp tới. Amen.
Gs. NGUYỄN CHÍNH KẾT
-----------------------------------
Mùa Chay là thời gian nhắc nhở đặc biệt đến ơn cứu độ.
Hầu như ngày nào Phụng vụ cũng có lời giục giã. Thí dụ:
Hãy khát khao tìm ơn cứu độ,
Hãy sốt sắng cầu xin ơn cứu độ,
Hãy khiêm tốn đón nhận ơn cứu độ,
Hãy tích cực cộng tác vào công trình cứu độ,
Hãy cảm tạ Chúa vì ơn cứu độ,
Hãy xin Chúa thương ban ơn cứu độ cho thế giới vv…
Tất cả chứng tỏ ơn cứu độ là hết sức quan trọng.
Vậy ơn cứu độ là gì?
Tôi không đưa ra một định nghĩa thần học. Chỉ xin nêu lên một số yếu tố gần gũi, vừa rút ra từ Kinh Thánh, vừa sát với kinh nghiệm cuộc đời.
Yếu tố thứ nhất là con người cần được cứu khỏi tình trạng tội lỗi.
Tội lỗi bám vào con người. Tội lỗi đeo đẳng cuộc đời. Tội lỗi tước đoạt tự do con người.
Đây là một kinh nghiệm bản thân, mà mỗi người đều có thể nói lên cách này hay cách khác. Riêng thánh Phaolô dám viết ra kinh nghiệm của mình một cách khiêm nhường và xác thực. Thiết nghĩ đây là một sự thực mà mỗi người nên coi là của chính mình. Ngài viết: “Vẫn biết rằng Lề Luật là bởi Thần Khí, nhưng tôi thì lại mang tính xác thịt, bị bán làm tôi cho tội lỗi. Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: Vì điều tôi muốn, thì tôi không làm. Nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì tức là tôi đồng ý với Lề Luật và nhận rằng Lề Luật là tốt. Vậy thật ra không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi. Tôi biết rằng sự thiện không ở trong tôi, nghĩa là trong xác thịt tôi. Thật vậy, muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm. Nhưng sự ác tôi không muốn, thì tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi.
Bởi đó, tôi khám phá ra luật này: Khi tôi muốn làm sự thiện, thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay. Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì luật của Thiên Chúa. Nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: Luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí và giam hãm tôi trong luật của tội là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể tôi.
Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 7,14-25).
Nói lên được sự thực bi đát đó như thánh Phaolô là điều đáng mừng. Phải nhận sự thực này một cách khiêm nhường mới hiểu được sự cần thiết đi tìm ơn cứu độ.
Hiện nay, ý thức về tội đã và đang suy giảm một cách mau lẹ và rất đáng lo ngại. Có người mất hẳn ý thức về tội. Vì thế mà tình hình đạo đức xuống dốc rõ ràng. Nguy cơ đe doạ phần rỗi là rất trầm trọng.
Do đó, Mùa Chay nói về ơn cứu độ, mà nếu quên nhắc đến xiềng xích tội lỗi, thì sẽ là một thiếu sót lớn. Đối với những ai có trách nhiệm loan báo ơn cứu độ, sự thiếu sót đó sẽ là một bất trung đối với Đấng Cứu độ, làm lạc đi ý nghĩa mùa chay.
Yếu tố thứ hai là con người cần được cứu khỏi nguy cơ làm tôi ma quỉ.
Quyền lực ma quỉ trên thế gian này là rất lớn, rất rộng.
Có trường hợp con người vâng phục ma quỉ một cách ngoan ngoãn và tự nhiên như thể họ là con cái đối với ma quỉ là cha mẹ họ. Chúa Giêsu có lần đã nói rõ về một đám đông: “Cha các ông là ma quỉ, và các ông muốn làm những gì cha các ông ham thích. Ngay từ đầu, nó đã là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thực, vì sự thực không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó nói theo bản tính của nó, bởi vì nó là kẻ nói dối, và là cha sự gian dối” (Ga 8,44).
Có trường hợp con người phải vâng phục ma quỉ một cách miễn cưỡng như kẻ bị xiềng xích dưới quyền bạo lực.
Thánh Luca thuật lại hình ảnh kẻ bị quỉ ám tại Ghêraxa như một người bị cả một cơ binh hành hạ khống chế một cách ác độc. “Chúa Giêsu hỏi: “Tên anh là gì? Anh thưa: Đạo binh. Vì rất nhiều quỉ nhập vào anh” (Lc 8,30-31).
Có trường hợp con người đi theo sự dụ dỗ của ma quỉ, như một người liên minh thân thích vốn cùng chung mưu tìm sự tội. Kinh Thánh nói: Khi Giuđa vừa ăn xong tấm bánh Chúa Giêsu trao cho, “Satan liền nhập vào y” (Ga 13,27).
Sự ma quỉ luôn mưu tìm cách lôi kéo con người vào đường tội lỗi là điều chắc chắc. Chúa Giêsu phán: “Simon, Simon, kìa Satan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo” (Lc 22,31).
Chính thánh Phêrô sau này cũng đã trải qua kinh nghiệm đó, nên đã khuyên bảo giáo đoàn mình: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỉ là thù địch anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé anh em” (1 Pr 5,8).
Trước một nguy cơ đáng sợ như thế đang xảy ra xung quanh chúng ta, chúng ta rất cần đến Đấng cứu độ. Phúc Âm cho thấy Đức Giêsu đã nhiều lần trừ quỉ, và ma quỉ rất sợ Ngài. Chính Ngài là Đấng cứu độ con người khỏi quyền lực ma quỉ.
Yếu tố thứ ba là con người cần được hiệp thông với Thiên Chúa.
Hai yếu tố trên chỉ là mặt tiêu cực. Mặt tích cực của ơn cứu độ là được hiệp thông với Thiên Chúa Cha, qua Đức Kitô. Thiên Chúa thường được trình bày như nguồn sự sống. Chúa Giêsu phán: “Quả thực, Chúa Cha có sự sống nơi mình thể nào, thì cũng ban cho người con được sự sống nơi mình như vậy” (Ga 5,26). Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu cầu nguyện: “Xin Cha tôn vinh Con Cha, để Con Cha tôn vinh Cha, theo quyền năng đã ban cho Người trên mọi phàm nhân, để Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người” (Ga 17,2).
Tham dự vào sự sống đời đời của Chúa được hiểu là được cứu độ. Vì thế, Chúa Giêsu hay nói về sự tham dự này nơi chính Ngài: “Ta là đường, là sự thực và là sự sống” (Ga 14,6). “Ta đến để họ được sống và sự sống dồi dào” (Ga 10,10).
Theo chính Chúa Giêsu giải thích, thì tham dự sự sống của Chúa là nhận biết Thiên Chúa. Trong bữa tiệc ly Ngài nói với Chúa Cha: “Sự sống đời đời, đó là nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến là Giêsu Kitô” (Ga 17,3).
Theo Kinh Thánh, nhận biết Chúa thường mang một ý nghĩa riêng biệt, đó là tiếp xúc trực tiếp với Ngài, đón nhận Ngài, dấn thân theo Ngài, chọn Ngài một cách dứt khoát như chọn sự sống.
Như thế nhận biết Chúa cũng là một cách xin vâng trọn vẹn ơn gọi Chúa gởi đến cùng với mọi trách nhiệm đi kèm ơn gọi đó.
Nhận biết Chúa là chọn điều Chúa chọn, nghĩ điều Chúa nghĩ, muốn điều Chúa muốn, cảm điều Chúa cảm.
Nhận biết Chúa như thế là một cách cảm nghiệm được sự Chúa ở bên mình, ở trong mình, ở với mình. Ngài sống động như một tình yêu tác tạo và cứu độ, an ủi và đỡ nâng.
***
Ba yếu tố tôi vừa nêu lên chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Nhưng tôi hy vọng, với ơn Chúa, những người thiện chí sẽ có thể dùng như một gợi ý đơn sơ dễ hiểu, để đi vào Mùa Chay theo phương hướng rõ ràng. Họ sẽ cầu nguyện, sám hối, hãm mình, sửa tính theo ý Chúa một cách có ý thức hơn.
Tôi cầu mong: Những tâm hồn bé nhỏ, con cái Đức Mẹ, trong Năm Mân Côi này, sẽ đáp ứng lời kêu gọi của Đức Giáo Hoàng, biến Mùa Chay này thành khí cụ bình an, mang ơn cứu độ đến cho một mảng lớn nhân loại, đầy những xung khắc, đầy những sợ hãi, đầy những bất ổn, đầy những ảo tưởng đang chuẩn bị cho những chết chóc tang thương và những hận thù sâu sắc lâu dài.
-----------------------------------
Bài đọc 1: Joel 2:12-18; Bài đọc 2: 2 Cor 5:20-6:2; Tin Mừng: Mt 6:1-6, 16-18
Hôm nay bắt đầu Mùa Chay, mùa sám hối và hòa giải. Các bài đọc của Lễ Tro nhấn mạnh trước hết đến việc trở về, sám hối và tha thứ. Trong phần phụng vụ sám hối hôm nay, Chúa nói với ta qua lời ngôn sứ Gioen: “Các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta…Đừng xé áo nhưng hãy xé lòng.” Trong bài tin Mừng Đức Giêsu kêu mời chúng ta hãy bỏ những việc bề ngoài và hãy thực hành cầu nguyện, ăn chay và bố thí trong sâu thẳm tâm hồn. Thánh Phaolô nói về tình yêu vĩnh cữu của Đức Kitô, Đấng trở thành tội nhân để cứu chuộc chúng ta để giao hòa chúng ta với Thiên Chúa và với anh em. Đó là điều Đức Kitô đòi hỏi chúng ta trong Tin Mừng hôm nay. Nhưng chỉ thông hiệp thân tình một mình ta với Đức Kitô thì chưa đủ, cần phải chia sẻ tình hiệp thông này với các anh chị em khác nữa. Ta cần loan truyền cho các anh em ta sứ điệp hoán cải và cứu độ của Đức Kitô. Tuy nhiên, cách thức chúng ta chống lại tội không nhất thiết buộc chúng ta đi đến quá khích hoặc chống đối những kẻ không chia sẻ cùng niềm tin và luân lý như ta. Ta cần tìm hiểu họ, phó thác họ cho Chúa, và làm chứng nhân bằng đời sống kitô hữu để mong trở thành nẻo đường dẫn họ đi theo Chúa.
Thần Khí của tự do.
Mỗi kitô hữu khi sử dụng sự tự do của mình một cách đúng đắn, luôn hành động dưới sự thúc đẩy của Thánh Thần. Dưới tác động của Thánh Thần, sự sáng suốt và sự tuân phục giúp người kitô hữu sử dụng sự tự do một cách hoàn hảo. Ngài giúp ta lựa chọn điều tốt nhất. Tâm hồn mềm mại biết nghe theo tiếng nói của Chúa trong tâm hồn họ và không nghe theo vui thú của trần đời. Họ tự do khỏi mọi ràng buộc để đạt đến sự hoàn hảo trong tình yêu Chúa Cha, như Đức Kitô kêu mời chúng ta.
Sứ Điệp Niềm tin
Sự cao cả hoặc sự chật hẹp của tấm lòng là thước đo của một con người. Một con người được đánh giá bằng chính tâm hồn, trong những suy tư xấu hoặc tốt, trong những quyết định xấu hoặc tốt, trong cách sống đúng đắn hay không đúng đắn, trong những lời nói chân thật hay dối trá. Đức Giêsu Kitô đã đến trong thế gian để đổi mới nhân loại từ bên trong, để những việc làm của Ngài diễn tả tâm hồn của Ngài. Đứng trước cách xử thế của những người đương thời thích phô trương, khoe khoang, Đức Giêsu chọn một thái độ hoàn hảo phù hợp với cung cách và lời dạy của Ngài. Những việc Đức Giêsu nhắc đến là việc thiện hảo và đạo đức. Nhưng, bất cứ hình thức phô trương nào cũng đều bị lên án. Vì họ làm không phải cho Chúa mà là nhằm để được người khác khen.
Bố thí là việc tốt khi được thực hiện vì tình yêu đối với Chúa và đối với anh em. Nhưng một khi bố thí được thực hiện để thu hút sự chú ý của kẻ khác và để được khen tặng là quảng đại, thì nó không còn mang tính kitô nữa. “Đừng để tay trái biết việc tay phải làm”, Đức Giêsu cảnh báo ta. Hãy làm tốt vì tình yêu đối với Chúa Cha, hãy nhận khuôn mặt của Ngài nơi người nghèo cần giúp đỡ bằng những phương tiện mưu sinh và tình thương huynh đệ. Cầu Nguyện và Ăn chay là hai việc lớn, nếu được thực hiện với ý ngay lành. Bằng những việc làm như thế, người kitô hữu làm đẹp lòng Chúa Cha và phục vụ anh em. Sự trở về không nằm trong hành động ăn chay, cầu nguyện, bố thí, nhưng khi làm những việc ấy với tâm lòng đổi mới, ta được giải thoát khỏi ích kỷ và vụ lợi.
Đức Kitô là Đấng làm trọn các lời sứ ngôn trong Cựu Ước, đưa việc thực hành sám hối đến đỉnh cao hơn. Cac hối nhân của thời đó, họ xé áo mình ra để chỉ dấu hối tiếc và sám hối. Ngôn sứ Gioen nói với họ cần phải xé lòng, hối hận vì lỗi phạm của mình. Cũng như Thánh Phaolô đã chỉ trong bài đọc 2, Hội Thánh tiên khởi làm theo cung cách và lời dạy của Đức Giêsu Kitô. Thánh nhân khuyên nhủ: “Tôi khuyên anh em đừng nhận lãnh ơn Chúa cách vô ích.” Trở nên tạo vật mới, từ dòng nước rửa tội, người kitô hữu giao hòa với Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô. Họ phải trung thành với lời mời ngày lãnh nhận bí tích rửa tội. Các Tông đồ, tiếp tục công việc của Đức Kitô, trong tư cách những thừa tác viên của việc giao hòa.
-----------------------------------
Hôm nay, khi bỏ tro trên đầu chúng ta, vị linh mục chủ sự đọc:
- Hời người, hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về bụi tro.
Cũng một lời ấy được lặp lại cho mọi người, không phân biệt nam nữ, tuổi tác và địa vị.
Trong ngày đăng quang, trước đông đảo quần chúng từ khắp nơi kéo về công trường thánh Phêrô, vị Hồng Y niên trưởng tiến tới trước mặt Đức Tân Giáo Hoàng, tay cằm một miếng vải mỏng, vừa đốt vừa nói:
- Thưa Đức Thánh Cha, mọi chức sang quyền trọng cũng sẽ qua đi như thế.
Đó là một sự thật, mà không ai có quyền chối cãi.
Ngoài nghĩa địa có biết bao nhiêu ngôi mộ, cái thì to, cái thì nhỏ, cái thì đơn sơ một nắm đất, cái thì được xây cất lộng lẫy như một biệt thự, nhưng bên trong cũng chỉ là xương khô và tro bụi.
Người đi trước thế nào, thì chúng ta những kẻ đi sau cũng thế, một ngày kia chúng ta sẽ phải cúi đầu vâng theo định luật chung ấy mà thôi:
- Danh vọng là mây khói và con người là bụi tro.
Bởi đó chúng ta phải nhìn rõ con người bởi đâu mà đến và rồi sẽ đi về đâu ? Mục đích của cuộc đời chúng ta là gì ?
Đức tin trả lời cho chúng ta rằng: cuộc đời là một chuyến đi tìm về cùng Thiên Chúa, mục đích cuối cùng của chúng ta phải là chính Thiên Chúa. Và để chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ định mệnh này, Giáo Hội trong mùa chay luôn kêu gọi chúng ta hãy hy sinh hãm mình và làm việc lành phúc đức, đó là những cái chúng ta có thể đem theo trong cuộc hành trình cô đơn là cái chết.
Tuy nhiên, trong khi chấp nhận hy sinh hãm mình và làm việc lành phúc đức, chúng ta cần phải tránh đi thói kiêu căng và háo danh. Có nghĩa là chúng ta phải âm thầm và kín đáo, để chỉ mình Chúa biết và Ngài sẽ ân thưởng bội hậu cho chúng ta mà thôi.
Jacopone là một luật sư nổi tiếng, trong cuộc chạy đua vào thượng viện, ông trúng ghế nghị sĩ. Vào ngày ăn khao, đang lúc xem trình diễn văn nghệ thì rạp hát bị sụp đổ, khiến bà Jacopone bị vùi dưới đống gạch vụn. Người ta phải đào bới mãi mới kéo được bà lên. Khi ấy bà đã bị thương nặng và đang thoi thóp gần chết. Lúc bấy giờ người ta mới khám phá ra, bên trong chiếc áo dạ hội, bà mặc một chiếc áo nhặm, kết bằng lông ngựa cứng.
Ông Jacopone phàn nàn trách bà là đã đày đọa thân xác, nhưng bà trả lời:
- Tôi khuyên răn mà ông không nghe. Ông vẫn cứ sống bê tha. Vì thế, tôi mặc áo này, để hy sinh và cầu nguyện cho ông.
Bà đã hy sinh hãm mình một cách âm thầm lặng lẽ để cầunguyện cho ông và chỉ có một mình Chúa hay biết mà thôi.
Việc bỏ tro trên đầu nhắc cho chúng ta nhớ rằng mình chỉ là tro bụi, nhưng đừng trở về bụi tro với hai bàn tay trắng.
Bởi đó, ngay từ giây phút này chúng ta hãy lo thực thi tình bác ai yêu thương, nhờ đó chúng ta sẽ được Chúa đón nhận vào quê hương nước trời. Bởi vì, đứng trước cái chết thì: Những gì chúng ta ta có hôm nay, ngày mai sẽ thuộc về người khác. Những gì chúng ta mua sắm hôm nay, ngày mai người khác sẽ hưởng dùng. Chỉ những gì chúng ta cho đi mới mãi mãi thuộc về chúng ta mà thôi.
-----------------------------------
Trong Cựu ước, việc xức tro và mặc áo nhậm được dùng để thực hành và biểu lộ lòng thống hối cá nhân hay toàn thể cộng đoàn dân Israel. Tro chỉ thân xác chúng ta là bụi tro, sẽ phải chết.
Trong truyền thống các đan sĩ và tu viện, tro được dùng để nói lên mối liên hệ với sự chết và sự khiêm nhường thống hối trước mặt Chúa. Vì thế, các tu sĩ, các đan sĩ có tục lệ tại một số nơi, muốn nằm trên đống tro với chiếc áo nhặm để chết. Thánh Martino thành Tours bên Pháp đã nói: “Không gì xứng hợp hơn cho một tu sĩ là việc nằm chết trên đống tro”. Các vị này lấy tro đã được làm phép trong ngày thứ tư lễ tro, rồi vẽ hình thánh giá trên đất, trên đó còn trải thêm áo nhặm và rồi các vị nằm trên đó khi hấp hối và khi chết. Các tu sĩ cũng có thói quen trộn tro vào bánh như của ăn. Đó là một hình thức hãm mình nhiệm nhặt mà các tu sĩ phải giữ.
Từ đây chúng ta nhận ra, trước tiên Giáo Hội đã đặt nền tảng cho việc thống hối, đó là nhìn nhận lại tình trạng nguyên tuyền của ơn thánh đã bị mất do tội nguyên tổ, và hậu quả là con người xa Thiên Chúa, trốn tránh Thiên Chúa. Con người sẽ phải chết như là một hậu quả của tội lỗi. Vì thế cần phải “quay trở lại” một cách tận căn, như ý nghĩa diễn tả qua từ “canh tân” trong ngôn ngữ Do thái, là quay ngược lại với 360 độ. Đàng khác suy tư về bụi tro, để cho thấy sự yếu hèn của mình và tính cách tùy thuộc vào Thiên Chúa vì con người được Ngài tạo dựng. Nhưng Thiên Chúa đoái thương và ban ơn cứu rỗi. Phụng vụ đã diễn tả nền tảng này qua các biểu hiệu và các lời kinh của ngày thứ tư lễ tro.
Cùng với một số biểu hiệu khác được Giáo Hội dùng trong mùa chay, như mầu áo lễ tím, không đọc kinh Vinh Danh, không trưng bông hoa trên bàn thờ, không dùng đàn trong thánh lễ, bụi tro cũng được dùng để cho thấy tính cách thống hối của mùa chay và thân phận của con người hay chết.
Nói tóm lại, lễ nghi làm phép tro và bỏ tro trong ngày thứ tư lễ tro gợi ra cho tín hữu về một thời điểm quan trọng đang bắt đầu liên hệ tới ơn cứu rỗi của họ, đó là mùa chay. Đồng thời, lễ nghi khởi đầu này cũng đề ra cho tín hữu một hành trình phải đi theo trong thời gian suốt mùa chay.
Hành trình đó là thực hành các việc làm biểu lộ sự thống hối, sống bác ái ; đàng khác, tín hữu cũng phải đi sâu vào tâm tình thống hối, khi suy tư về thân phận con người, về lỗi lầm của mình và nhu cầu khẩn thiết phải trở về, phải canh tân cuộc sống. Tuy nhiên, tín hữu không làm những việc này trong ý thức khổ hạnh cá nhân, nhưng là để hướng về ơn cứu rỗi Chúa Kitô đã thực hiện và Giáo Hội đang chuẩn bị mừng trong đại lễ Phục sinh. Ngày nay các biểu hiệu bên ngoài, như thống hối công cộng, như mặc áo nhậm, như đi chân không trong cuộc hành hương v.v… không còn được thực hiện như xưa, vì hoàn cảnh xã hội đổi thay, nhưng thái độ và ý chí thống hối, canh tân trở về vẫn phải in khắc sâu đậm trong thâm tâm mỗi người. Mỗi người sẽ tự đưa ra cho mình một số những thực hành thống hối trong cuộc sống cụ thể để biểu lộ ý nghĩa và tinh thần của lễ nghi xức tro.
-----------------------------------
Có hai anh em ruột kia rất thương nhau, thông cảm nhau, và cùng có một mơ ước cao đẹp là sẽ sống một cuộc đời hết sức thánh thiện.
Lớn lên, người anh cưới vợ, sinh con, chăm chỉ làm ăn và cũng không quên những bổn phận đạo đức hàng ngày. Còn người em thì đi tu, thành một thày dòng ngày ngày đi khắp nơi giảng đạo và giúp đỡ những người nghèo.
Rồi một ngày kia người em làm thày dòng trở về quê thăm lại anh mình. Hai anh em nói chuyện với nhau thật nhiều về cuộc sống và tâm tư của mình. Người anh khám phá ra rằng ngày xưa hai anh em tâm đầu ý hiệp như thế, mà sao bây giờ lại khác nhau quá xa: người em thì vẫn thích thánh thiện như xưa và còn thánh thiện hơn xưa nữa, còn mình thì sao quá tầm thường không còn chút mơ ước nào về lý tưởng thánh thiện ngày xưa nữa.
Người anh tìm đến một vị ẩn sĩ để hỏi cho biết nguyên do sự khác biệt ấy. Vị ẩn sĩ không trả lời thẳng mà dùng những hình ảnh thiên nhiên để giải thích cho anh:
. Trước tiên là đám mây trên trời: thường thường bầu trời ngày nào cũng có những đám mây, nhưng không có đám mây ngày nào giống đám mây ngày trước. Cũng là mây, nhưng mây ngày nay khác mây ngày hôm qua.
. Kế đến là một cái cây xanh: nó vẫn luôn luôn là cây thông xanh rì, nhưng năm trước nó nhỏ hơn, năm nay nó đã lớn hơn và cao hơn một tí, năm sau nó sẽ lớn và cao hơn tí nữa. Có nhiều cái lá của năm trước mà năm nay không còn, và có nhiều chiếc lá của năm nay sẽ rụng vào năm tới để thay bằng những chiếc lá khác.
. Và sau cùng chính là thân xác con người: các tế bào trong thân xác con người luôn luôn thay đổi: có cái chết đi và có cái sinh ra thêm. Khoa học tính rằng cứ sau 7 năm thì thân xác ta hoàn toàn đổi mới không còn một tế bào nào của 7 năm trước đây nữa: sợi tóc, móng tay, làn da của ta năm nay hoàn toàn không chứa một tế bào nào của sợi tóc, móng tay và làn da của 7 năm trước.
Và tới lúc đó vị ẩn sĩ mới kết luận: tâm hồn con người cũng thế: muốn lớn lên, muốn tươi trẻ mãi, muốn hăng say sinh động thì mỗi ngày cũng phải bỏ những yếu tố xấu và đồng thời thu vào những yếu tố tốt. Không đào thải đi và không thu nhận vào thì nó sẽ chết khô như một thân cây chết cứng chứ không còn là một thân cây sống động vươn lên nữa. Cái diễn trình đào thải và tiếp nhận ấy chính là cuộc hoán cải, cần phải hoán cải liên tục. Sở dĩ người anh cảm thấy mình tầm thường, khô cằn vì anh ta bấy lâu nay đã tự mãn với những cái mình đang có, không muốn bỏ đi cái nào và cũng không mong thu thêm cái nào nữa.
Câu chuyện tới đây kể ra cũng đủ kết thúc. Nhưng người anh còn muốn tìm hiểu rõ ràng hơn nên hỏi tiếp:
. Làm thế nào để loại bỏ những cái xấu trong tôi ? Nó nhiều quá và nó đã bám quá chặt vào con người tôi ? Vị ẩn sĩ trả lời: quan hệ nhất là đức tin và tư tưởng: tuy đời mình có nhiều tội lỗi, nhưng ta đừng quá chú ý tới nó, đừng để mình bị nó ám ảnh, đừng nghĩ nhiều tới nó. Nếu lỡ phạm tội hãy sám hối, tin tưởng vào sự tha thứ của Chúa, rồi bỏ quên nó đi, phải coi thường nó. Đầu óc mình sẽ được thanh thản khỏi những điều xấu.
. Còn làm thế nào để thu nhận những điều tốt, người anh hỏi tiếp ? Vị ẩn sĩ cũng trả lời: cũng quan trọng ở đức tin và tư tưởng: phải quí chuộng những điều tốt, phải luôn nghĩ tới nó, phải để cho nó ám ảnh tâm trí mình và phải mơ ước thực hiện cho kỳ được những điều tốt, và tin rằng Thiên Chúa sẽ giúp mình thực hiện được.
Người anh trong câu chuyện trên phản ảnh tâm trạng của chúng ta:
. Cuộc sống của chúng ta có thể nói là cứ mãi mãi ở thế bình bình: chúng ta không đến nỗi xấu lắm mà cũng không được tốt lắm. Cái thế lình bình đó khiến chúng ta giống như một thân cây bị chai: không chết khô mà cũng không có sức sống vươn lên.
. Tại vì mỗi ngày chúng ta không biết cố gắng loại bớt khỏi ta những gì là xấu, là khuyết điểm, là tội lỗi và đồng thời cũng không cố gắng đón nhận những gì là tốt, là cao, là lý tưởng hơn. Nghĩa là vì chúng ta không chú ý thực hiện sự hoán cải hằng ngày cho nên hết ngày này sang ngày khác cuộc đời của chúng ta vẫn cứ chai lì, tầm thường, vô vị.
. Muốn cho cuộc sống có đà vươn lên thì phải thực hiện sự hoán cải ấy:
Mỗi ngày loại dần những cái xấu bằng cách đừng nghĩ tới nó, đừng tiếp xúc với nó, đừng mơ tưởng tới nó.
Mỗi ngày đón nhận thêm những điều tốt bằng cách đi tìm nó, chú trọng tới nó, mơ ước nó và cố gắng chiếm đoạt nó.
Bấy nhiêu thôi xét ra cũng đủ là một chương trình dài hạn cho chúng ta chẳng những trong mùa chay này mà còn trong suốt cả cuộc đời chúng ta.
-----------------------------------
- Lm. Jude Siciliano
Tác giả Walter Brueggman có ý kiến như sau: Không nên nhìn công thức “Con là bụi tro, con sẽ trở về với bụi tro”, như một lời tuyên án hoặc nguyền rủa, hay việc rắc tro lên đầu chỉ nguyên liên hệ với tội luỵ. Ông muốn suy tư nó trong ánh sáng các câu châm ngôn đầy khôn ngoan. Nó khích lệ chúng ta nhìn lại số phận hay chết của nhân loại. Có bốn điều luôn phải ghi nhớ:
1- Về căn bản và gốc gác, loài người là một tạo vật phát xuất từ bùn đất, lệ thuộc chặt chẽ vào thực tại và giới hạn của vật chất.
2- Nó chia sẻ với đất mẹ và các thụ tạo khác bởi đất mà ra những phẩm chất giống nhau của đời sống thực vật.
3- Đất chẳng thể tự khởi động. Nắm thân tro bụi của con người cũng vậy. Tự thân nó bất động và không có sự sống. “Tro bụi” đâu có tính nhân loại?
4- Vậy thì tính “sống động” của mỗi cá nhân hoàn toàn lệ thuộc vào “hơi thở” của Thượng Đế. Hơi thở này được Thiên Chúa ban cho một cách nhưng không, tuỳ vào lượng hải hà của Ngài, chẳng cần một lý do nào cả. Tuy nhiên con người không bao giờ có thể chiếm đoạt làm tài sản riêng. Nó là của Thiên Chúa.
Do đó, nhân loại là những chủ thể lệ thuộc, dễ bị thương tổn, từng giây từng phút phụ thuộc vào “hơi thở” của Thiên Chúa mà sống. Nói cách khác, khả năng “sống còn” của loài người đến từ Thượng Đế. Chúng ta không có quyền lựa chọn tình trạng này, nhưng cũng không phải là hình phạt có liên hệ với tội lỗi. Đây là ý nghĩa cơ bản của từ “nhân loại”. Chúng ta sống từng giây từng phút bằng lượng hải hà của Đức Chúa Trời. Hai ông bà Nguyên tổ trong Vườn địa đàng đã muốn thoát ra khỏi số phận này để trở nên giống Tạo hoá. Lễ tro kêu gọi chúng ta nhớ lại tính chất “thụ tạo” của mình mà chúng ta thường xuyên lãng quên. Chúng ta phải luôn hồi tâm xác định lại căn tính, tôn trọng những giới hạn tự nhiên, không ngang ngược vượt qua để trở thành Thượng Đế!
Lễ tro cũng là ngày để chúng ta suy ngẫm về Thiên Chúa. Thánh vịnh 103, 14 phát biểu như sau: “Người quá biết ta được nhồi nắn bằng gì, hẳn Người nhớ ta chỉ là cát bụi”. Hành động rắc tro lên đầu thể hiện nội dung trên. Thiên Chúa vẫn thấu rõ từ thuở ban đầu, chúng ta được Ngài tạo lên từ cát bụi. Ngài nhớ rõ và chúng ta cũng được bảo cho biết như vậy. Bởi đó Ngài trung tín với ý định của mình, không từ bỏ chúng ta, dù rằng chúng ta đã phạm tội. Một khi tội lỗi được nhận ra như mối nguy hiểm gây chết chóc, luôn đe doạ loài người thì Ngài đã phát minh ra phương thế xoá bỏ. Cho nên điều quan trọng hiện thời trong ngày lễ hôm nay là hành động tha thứ vô biên của lòng Thiên Chúa trung tín và xót thương. Chúng ta là cát bụi và sẽ chết trong tọi luỵ của mình là điều làm cho Ngài quan tâm hơn cả. Các câu thơ Thánh vịnh 103 chung quanh câu 14 đều nói lên cùng tư tưởng đó. Ví dụ: “Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm, tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta” (103, 12).
Cho nên công thức xức tro kêu gọi chúng ta tin cậy vào lòng thương xót của Thiên Chúa, Đấng thấu rõ nhu cầu thiêng liêng mỗi người và định vị rõ ràng số phận loài người trước tôn nhan Ngài. Nhân loại thường mắc thứ bệnh tai hại là mất trí nhớ. Thế giới tiêu thụ hiện thời có khuynh hướng làm cho căn bệnh thêm nạng hơn. Chúng ta mau quên quá khứ và không nhớ ơn gọi của tương lai. Quên tính chất thụ tạo căn bản. Quên hình hài mỏng manh của mình. Tưởng mình quyền năng hơn thực tại, có thể thu quén cho mình mọi thứ, bởi trên đầu không có ai lo liệu cho. Tưởng mình tránh lé được tử thần bằng sức riêng. Tưởng mình đã chiến thắng sự chết. Chúng ta mắc bệnh quên lãng nặng nề, đã lạc xa ơn kêu gọi nguyên thuỷ của mình, tức phục vụ. Vườn địa đàng, các thú vật và cây cối được trao phó cho loài người trông nom.
Hơn nữa, chúng ta còn hay quên rằng Thiên Chúa vẫn nhớ. Ngài liên tục tạo dựng, liên tục săn sóc, liên tục thở hơi để chúng ta được sống. Ngài luôn luôn kêu mời, bảo vệ và nuôi sống muôn loài. Thực tế, hàng ngày chúng ta được tình yêu dịu ngọt của Thiên Chúa bao bọc, Đấng mong muốn điều lành cho chúng ta hơn lòng chúng ta khao khát. Chủ đề của lễ tro là “hãy nhớ” về cả hiện tại, quá khứ và tương lại. Đây không phải là mệnh lệnh nhẹ ký mà là rất nghiêm chỉnh, không phải để gây thoải mái, dễ chịu mà để chúng ta đổi mới cuộc đời.
Hôm nay, một cuộc chiến không khoan nhượng đã khởi sự, ngõ hầu xác định lại căn cước mỗi người. Căn cước hay bị bỏ bê hoặc lãng quên. Một cuộc chiến tranh giữa não trạng hối cải với não trạng tiêu thụ, tinh thần thần phục gặp rắn già kiêu ngạo, lòng trung thành gặp nết xấu phản bội. Với tro bụi trên đầu, chúng ta được lôi kéo về những điều căn bản, ấp ủ những lý tưởng cao thượng, bỏ đi những ích kỷ nhỏ nhen. Tro bụi trên đầu sẽ ghi khắc nội dung Tin mừng vào da thịt, sức mạnh thiêng liêng trong yếu đuối, vinh quang trong thân phận thấp hèn. Amen.
-----------------------------------
Thứ Tư Lễ Tro ! Nghe sao mà hắc ám quá ! Tro rắc trên đầu trong khi tai được nghe những lời buồn thảm:”Hãy nhớ rằng con là bụi tro và con sẽ trở về bụi tro !” hoặc một lời khác: “ Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng”. Tôi muốn trung thành với Tin Mừng. Nhưng tôi lại thích chỉ nghe thoáng qua câu mở đầu: “Hãy ăn năn sám hối”. Câu này nhắc tôi thống hối lỗi lầm! Lại phải nghe lần nữa lời khuyên đau xót! Nói thế nào thì nói chứ sự thực vẫn là: “Ngươi là bụi đất, người phải ăn năn !” chạy quanh quẩn cũng chẳng sao thoát khỏi các lễ nghi mùa chay! Trước thứ Tư Lễ Tro là ngày thứ ba béo, bởi vì ai cũng sợ mùa chay ảm đạm. Vậy thì hãy no lòng hả dạ lần cuối trước khi chui vào đường hầm tối tăm của mùa chay hãm mình ! Đó là quan niệm phổ thông về mùa chay ! Nhưng gỉa dụ mùa chay chẳng phải là mùa khốn khổ như thế có hợp lý không ? Gỉa dụ như nó là mùa vui mừng và phấn khởi có được không ? Nói cách khác nó là thời khắc để cộng đoàn chúng ta canh tân lại sứ vụ rao giảng tin mừng bằng lời nói và việc làm. Hơn nữa, gỉa dụ đó là một lời mời gọi sống cộng đoàn hòa giải như chúng ta vẫn khăng khăng tự nhận. Phải chăng mùa chay là một thông điệp mạnh mẽ kêu mời thiên hạ chung sống hạnh phúc với chúng ta?
Thực ra, chúng ta chẳng cần đến thứ Tư Lễ Tro để nhắc nhớ rằng chúng ta là bụi đất. Bụi đất luôn luôn đầy dẫy chung quanh chúng ta. Đất là cái gì chúng ta sẽ phải trở về sau cái chết! Nhưng rất lâu trước khi chết,chính cuộc sống này đã cho chúng ta thấy mọi sự rồi sẽ có ngày tan rã ! Đa phần những gì mà chúng ta đặt lòng tín nhiệm hằng trăm năm rồi cũng đổ vỡ, cũng rữã nát tơi bời. Mới ư ? Bóng lộn ư ? Lấp lánh ư ? Chẳng bền vững được bao lâu ! Tử thần có mặt khắp mọi nơi ! Cả đến những kho tàng qúi báu nhất của loài người cũng có mặt. Người thân chết,bệnh tật quật ngã, tuổi tác làm khô cạn mọi nghị lực, mọi cố gắng rồi cũng sẽ đến ngày mệt mỏi. Có chi bền vững đâu? Nghi thức phụng vụ của ngày hôm nay rắc tro trên đầu chúng ta, bụi đất trước mắt chúng ta. Nhưng tro và đất chỉ là những điều nhắc nhớ, chính cuộc sống mới thường xuyên cho chúng ta thấy cuộc đời là gì: “như gió thổi, như mây nổi,như chiêm bao!” Nó dí tro vào trán chúng ta và nói: “Này ngươi là bụi tro!” Thật là dễ sợ khi tỉnh mộng nhận ra rằng chúng ta dễ quên và dễ chạy trốn cái thực tại phũ phàng của cuộc đời ! Thiên hạ trầm trồ khen ngợi, đánh gía cao về căn tính của chúng ta,về những gì chúng ta đã thành tựu, chúng ta đang chiếm hữu. Nhưng nghi thức thánh lễ hôm nay chỉ nói ngắn gọn: “Hãy nhớ rằng,những thứ đó chỉ là bụi đất!”
Sau khi đã nhắc nhớ chúng ta ăn năn, nghi thức kêu mời chúng ta trung thành với Tin mừng. Chúng ta là những tín hữu đã lãnh nhận bí tích thanh tẩy, được kêu gọi vào sống trong thế gian này một cách đặc biệt. Thế giới sa đọa được hướng dẫn bằng các tiêu chuẩn khác nhau, những luật lệ luân lý khác nhau. Vậy tro và đất của ngày hôm nay còn nhắc nhớ rằng lối sống cũ của chúng ta phải chết, phải trở về cát bụi. Chúng ta chẳng còn thuộc về thế giới cũ nữa,vì vậy chúng ta phải ngưng sống theo lối cũ. Chúng ta đã được sinh lại vào sự sống mới. Và cuộc đời chúng ta trong cộng đoàn tín hữu phải phản ảnh được lối sống mới này, và trợ giúp thiên hạ nghe được sứ điệp ngày hôm nay:”Tất cả mọi sự khác đều là bụi đất”. Theo như Thánh Phaolô: “Cuộc đời các tín hữu là một lời mời gọi mọi người hòa giải với Thiên Chúa. Bởi vì chúng ta cũng là những “đại sứ của Chúa Kitô”.
Walter Brueggeman, khi nhắc lại đoạn văn nói về bụi đất trong St.2,7đã viết: “Thiên Chúa dựng nên một người từ bụi đất và thở hơi vào mũi nó và nó trở nên một tạo vật sống động”, có ý kiến sau: “Công thức xức tro của ngày hôm nay nhắc nhớ mọi tín hữu rằng về căn bản loài người có nguồn gốc là vật chất, gánh chịu mọi thực tại của “đất”, tan rã như đất, bất động như đất, vô tri như đất, thối như đất. Đất chẳng thể tự khởi động, cho nên loài người phải hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa để có sự sống. Sự tồn tại của chúng ta hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa từng giây từng phút. Điều này không phải là lời nguyền rủa, chúc dữ. Nhưng đơn giản nó có nghĩa nhân loại là như thế đó: “Bởi đất”.
Vì thế, hôm nay chúng ta được nhắc nhớ là bụi tro, thì cũng ngụ ý chúng ta hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa. Chúng ta như thầm nói rằng: Lạy Chúa, xin nhớ đến nguồn gốc của chúng con. Chúng con chỉ là bụi đất nếu như không có Ngài. Mọi sự chúng con làm chỉ là bụi đất nếu như chúng con không làm trong danh Chúa ! Từng giây từng phút xin nâng đỡ chúng con và qua cái chết của Con Chúa xin giải thoát chúng con khỏi vòng tội lỗi ! Loài người là cái gì ? Là tạo vật được Chúa ban ơn từng giây từng phút. Điều đó chẳng phải là hành trang xấu, hành trang yếm thế để bước vào mùa chay !
Bài đọc trích từ thư thứ 2 Th. Phaolô gởi giáo đoàn Cô-rin-tô tập trung vào sự canh tân trong sứ vụ. Lá thư của Ngài tỏ lộ rằng cộng đoàn Cô-rin-tô cũng có những yếu kém, khuyết điểm như các cộng đoàn ngày nay.( Điều đầu tiên chúng ta đọc trong thánh lễ hôm nay là: Xin Chúa thương xót chúng con, xin Chúa Kitô thương xót chúng con,xin Chúa thương xót chúng con). Chúng ta thường có khuynh hướng lý tưỡng hóa cộng đoàn các tín hữu tiên khởi. Đúng thế, chúng ta coi họ như những gương mẫu hoàn hảo và chúng ta kém xa họ. Nhưng thực sự mà nói, họ cũng như chúng ta,luôn luôn có những thiếu sót, luôn luôn cần đến việc hòa giải. Th.Phaolô nhân danh Chúa đề cập thẳng đến sự hòa giải với chúng ta. Vì thế, hòa giải là điều khẩn thiết trong lúc này: “Đây là thời thuận tiện”. Sự việc có lẽ cũng rối bời ở trong giáo đoàn Cô-rin-tô. Chúng ta thường hay chống lại Thiên Chúa và không chịu từ bỏ đường lối cũ của mình,”hãy tránh xa tội lỗi và trung thành với Tin mừng”. Nhưng một lần nữa Thiên Chúa lại đi bước trước hòa giải chúng ta với Ngài.
Suốt 7 chương đầu của thư này,Thánh Phaolô tập chú thông điệp hòa giải Tin mừng vào bản tính sứ vụ Tin mừng. Giáo đoàn Cô-rin-tô đã chia năm sẻ bảy, chống đối nhau. Có lẽ Thánh Phaolô đã hơi cọc cằn khi chỉ trích họ. Chúa Giêsu đã chết để giao hòa chúng ta với Chúa Cha. Từ chối sống hòa thuận là từ chối Tin mừng và thất bại không cùng với Th.Phaolô làm đại sứ của Chúa Kitô trên thế giới. Mùa chay kêu gọi chúng ta trở về với Chúa, với anh em trong cộng đoàn. Sứ điệp mà chúng ta rao giảng là sứ điệp của toàn thể cộng đoàn khi cùng nhau sống hoan hỉ, bởi ý thức được những gì Thiên Chúa đã thực hiện cho chúng ta. Amen.
-----------------------------------
- Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn
Hôm nay, toàn thể Giáo hội bước vào Mùa Chay Thánh. Chúa Giêsu trình bày cho các môn đệ giáo huấn về nền đạo đức mới của người môn đệ được diễn tả trong ba trụ cột chính, đó là Chia sẻ, Cầu nguyện và Chay tịnh.
1. Chia sẻ: Chúa Giêsu mời gọi mỗi người thực thi công việc bác ái. Chúng ta biết, ngày xưa trong xã hội Dothái, bố thí hay chia sẻ là một cơ chế quan trọng giống như dịch vụ từ thiện xã hội ngày nay, nhằm tỏ rõ tình huynh đệ do Giao ước đòi buộc. Vì họ cho rằng mỗi khi cứu giúp người nghèo khổ, điều đó sẽ có sức xóa sạch tội lỗi (x. Tb 12,9). Chúa Giêsu không “tẩy chay” tinh thần tu đức này, nhưng Ngài cảnh báo cách làm mày móc, phô trương. Bởi việc chia sẻ không phải để vinh vang, đề cao chính mình cho người ta thấy, mà là công việc thực hiện trong nơi kín đáo, và để hoàn toàn một mình Thiên Chúa đánh giá nghĩa cử đó:“Cha anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh”.
Điều mà chúng ta chia sẻ, không giữ lại cho mình, thì chính Thiên Chúa sẽ đón nhận. Cả đến lòng quảng đại cũng vậy. Cử chỉ chia sẻ được đầy đủ ý nghĩa khi vì yêu mà chúng ta tặng cách nhưng không. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể “ghi sổ Tình yêu”, bởi như Thánh Bênađô: “Giới hạn của Tình yêu là yêu không giới hạn”.
2. Cầu nguyện: Chúa Giêsu dạy các môn đệ ngay cả việc cầu nguyện cũng không làm như bọn đạo đức giả, nghĩa là thi hành việc cầu nguyện cốt để “biểu diễn” để “tỏ cho người ta thấy”. Đối với Chúa Giêsu, cầu nguyện chính là thời gian thích hợp để tâm tình với Chúa Cha, thổ lộ, tâm sự với Người về bất cứ điều gì mình thấy cần phải sẻ chia. Vì nhờ đó, hiệu quả của việc tâm tình này sẽ được Chúa Cha đón nhận, sẽ được “Đấng thấu suốt những gì kín đáo sẽ trả công cho”.
“Đức Giêsu đã không ngừng mời gọi người ta sống chân thành với lương tâm, sống hướng nội. Cần phải chủ động để tìm mọi cách để đừng làm quấy rầy cuộc gặp gỡ thân mật, cá nhân với Cha… Cầu nguyện cốt cho người ta thấy, thay vì cầu nguyện với Cha trên trời, tức là bôi nhọ việc cầu nguyện, là nhắm sai mục đích, là một dạng thờ ngẫu tượng, vì nó hướng lời cầu nguyện thay vì vào Đấng mà lời cầu nguyện nhắm tới, thì hướng tới lợi lộc của người giả bộ cầu nguyện” (L’Evangle de Matthieu, Centurion, 1991, tr. 66)
3. Chay tịnh: Còn về việc Chay tịnh, chúng ta biết, đối với người Do thái, ăn chay có nhiều ý nghĩa:
- Ăn chay là dấu hiệu để tang, thương nhớ người quá cố. Thường người ta ăn chay 7 ngày khi có tang. Điển hình là dân thành Giavết, miền Galaát khi nghe tin vua Saolê tử trận, họ đã ăn chay 7 ngày sau khi đã hỏa táng xác ông (x. 1 Sm 31, 11-13)
- Ăn chay còn là dịp để chuẩn bị gặp gỡ Thiên Chúa như ngôn sứ Đaniel ăn chay 3 tuần lễ để chuẩn bị gặp Thiên Chúa, như đoàn quân sắp giao chiến, họ phải ăn chay để “gặp Thiên Chúa giao chiến thay cho mình”.
- Ăn chay còn mang ý nghĩa sám hối, đền tội và luyện tập nhân đức.
Luật Do thái chỉ dạy ăn chay trong ngày lễ Đền tội (x. Lv 23, 27) và ăn chay để hãm mình và không làm việc (x. Lv 16, 29), thế nhưng những người đạo đức Do thái thường ăn chay một tuần hai ngày, thứ hai và thứ năm. Thời Chúa Giêsu, người Do thái rất đề cao việc ăn chay, và họ ăn chay nhiều lần. Chính Gioan Tẩy giả đã tự buộc mình trong chay trường, chỉ ăn châu chấu và mật ong và có lẽ Ngài cũng dạy các môn đệ mình giữ chay cách nghiêm nhặt (x. Mt 11, 18).
Chay tịnh, tự thân là một dấu hiệu của tang chế. Chúng ta biết, để kỷ niệm ngày đền thờ bị phá hủy, người ta ăn chay. Thế nhưng, lớn hơn cả việc phá hủy đền thờ, những người Dothái tuân giữ Lề luật Thiên Chúa cách ngay thẳng, chính trực còn biết đến một nguyên nhân khác để họ thực thi việc chay tịnh, đó là tội lỗi, là sự chết thật sự đối với mối liên hệ sống động với Thiên Chúa. Chính vì thế, trong xã hội Dothái có những nhóm thích gia tăng việc ăn chay đền tội. Nhóm Pharisêu ăn chay một tuần hai lần vào ngày thứ 2 và thứ 5. Chưa hết, họ còn thêm vào những dấu hiệu của sự tang chế cho thích hợp như không tắm rửa, không xức dầu thơm,…
Như thế, Chay tịnh chân thật “xô” chúng ta rời bỏ lỗi bản thân, lột trần chúng ta trước Thiên Chúa. Không phải là một cuộc biểu diễn tâm linh nhưng là một phương thế giúp chúng ta sống nghèo trước Thiên Chúa, là một của lễ hiến dâng bản thân nhờ sức mạnh của khổ chế, trong ân huệ mà Thiên Chúa sẽ ban cho ta nếu ta biết phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa.
Mùa Chay Thánh chỉ thực sự ý nghĩa nếu mỗi người trong chúng ta biết quay về với Thiên Chúa trong chia sẻ, cầu nguyện và Chay tịnh. Ước mong mỗi người chúng ta biết tận dụng mùa hồng ân này để từ trong cầu nguyện, chúng ta đến sống với Chúa Cha trong tình thân; từ trong chay tịnh, chúng ta ra khỏi “con người cũ” với những lầm lỗi thiếu sót của mình, để mặc lấy con người mới trong Đức Kytô; và từ trong sẻ chia, chúng ta đến với tha nhân để mang đến cho họ hơi ấm và tình yêu của Thánh Thần Thiên Chúa.
-----------------------------------
“Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro, một mai mình sẽ trở về bụi tro”, lời ca ấy cứ cất lên mỗi lần đi vào mùa chay, đặc biệt ngày thứ tư lễ tro. Nhớ mình là cát bụi, là đất vì con người được tác tạo nên theo hình ảnh của Thiên Chúa như những trang đầu của sách Khởi Nguyên thuật lại. Con người một lúc nào đó sẽ nhắm mắt lìa đời, thân cát bụi sẽ trở về với bụi đất. Đi vào mùa chay, con người hãy mặc lấy tâm tình của Chúa Kitô, hãy khởi sự bằng những việc tốt. Nhận lấy tro trên đầu là sống tâm tình Con Chiên Thiên Chúa gánh tội trần gian và tuyên xưng niềm tin vào Chúa Kitô, Đấng mang ơn cứu độ, thú nhận tội lỗi yếu hèn của mình để đi vào mùa sám hối, đổi mới.
NGUỒN GỐC CỦA VIỆC SÁM HỐI:
Mọi tôn giáo đều coi tro bụi là hình ảnh của sự hư nát, mau qua, hoa nở sớm tàn, hư vô, sự chết. Tro bụi cũng còn là dấu chỉ của sự u buồn và sự ăn năn, cải hóa nội tâm. Đọc ngôn sứ Yôna 3, 5-9 và sách 2Sam 12, 16-17,ta thấy rất rõ điều đó. Thánh Matthêu1, 21 cũng diễn tả việc mặc bao bị, rắc tro trên đầu để chỉ sự ăn năn sám hối. Thánh vịnh 102, 5 cũng viết:” Tro là bánh tôi ăn, của uống tôi, hòa với lệ”. Tất cả những đoạn văn trên đều nói lên dấu chỉ u buồn, sầu não, tang chế và là dấu chỉ của việc sám hối ăn năn. Từ thế kỷ 7, Giáo Hội xem nghi thức xức tro là nghi thức khai mở mùa ăn chay, sám hối, đặc biệt cho những người thú tội và đền tội công khai. Các hối nhân phải đi chân đất, sau đó họ phải ra khỏi nhà thờ và cửa nhà thờ đóng lại từ ngày họ bị đuổi ra khỏi đền thờ cho tới ngày thứ năm tuần thánh, họ không được tham dự thánh lễ và phải kiêng chay nghiêm nhặt để đền những tội công khai như lăng loàn, giết người, ngoại tình và lạc đạo”. Dần dần việc đền tội công khai mất đi cả ý nghĩa và cả hình thức thì việc rắc tro trên đầu trong ngày khai mạc mùa chay vẫn được giữ lại vì đây là hình thức tỏ vẻ khiêm nhượng hối cải, ăn năn. Do đó, Đức Giáo Hoàng Urban II vào năm 1091 đã công bố tại công đồng Benevent:” Xem việc xức tro như là bổn phận của mỗi tín hữu phải lãnh nhận ở đầu mùa chay “.
HÃY SÁM HỐI VÀ TIN VÀO TIN MỪNG:
Lời kêu gọi của Chúa Giêsu khi khai mạc sứ vụ công khai của Ngài là hãy quay trở về với Thiên Chúa. Ở đây ta thấy có sự khác biệt rõ ràng giữa lời kêu gọi sám hối của các ngôn sứ, của Gioan Tẩy Giả và của Chúa Giêsu. Lời kêu gọi sám hối của Cựu Ước và lời kêu gọi của Gioan Tẩy Giả là lời kêu gọi từ bỏ đàng tội lỗi, để biết đâu Thiên chúa thương sẽ cho Đấng cứu độ tới. Đây là lời kêu gọi chuẩn bị dọn đường cho Đấng Messia.Sám hối của Tân ước phải mang tính chất của Nước Trời, có một đích điểm là Chúa Giêsu. Sám hối của Tân ước mang lấy tinh thần khó nghèo của Chúa Giêsu vì thế từ Métanoia có nghĩa là quay trở về với Thiên Chúa. Mặc lấy Đức Kitô và sống tinh thần nghèo khó của Ngài. Khó nghèo mà Chúa Giêsu kêu gọi chính là nhận thức thân phận tạo vật của con người trước mặt Thiên Chúa. Tất cả mọi sự đều là quà tặng, là ân ban của Thiên Chúa. Con người phải trở nên quà tặng cho người khác vì mình là tạo vật, là ân huệ của Thiên Chúa ban cho. Nhận ra mình là không, là yếu hèn trước mặt Thiên Chúa, con người mới lãnh hội ra Tin Mừng, được công chính hóa trong Chúa Giêsu để rồi hoàn toàn mặc lấy Đức Kitô sống hoàn toàn cho tình yêu thương của Ngài.
SỐNG TINH THẦN TÁM MỐI PHÚC:
Người Kitô hữu không thể tự thánh hóa mình bằng những nỗ lực riêng tư, nhưng cần sự công chính hóa của Chúa từ Thiên Chúa Cha bằng một tinh thần khiêm tốn như Mẹ Maria và đón nhận với cung cách khiêm nhượng như tinh thần hiến chương nước trời. Người Kitô hữu muốn làm đẹp lòng Chúa phải tuân theo thánh ý Chúa và làm theo ý Chúa. Không phải nói ngoài môi miệng:” Lạy Chúa, lạy Chúa là được vào nước Thiên Chúa”, nhưng phải làm theo ý Cha và sống tình con thảo đối với Cha. Để đạt được nước trời, người Kitô hữu phải loại trừ quỉ ra khỏi con người mình, ra khỏi thế gian: quỉ theo nghĩa Tân ước là biểu trưng cho sự xấu, cho sự đi ngược lại với ý muốn của Thiên Chúa. Nước Trời là ý muốn của Thiên Chúa. Muốn vào Nước Trời phải loại bỏ quỉ, phải trừ khử tội lỗi ra khỏi con người mình và mặc lấy chính Đức Kitô. Mọi hình thức ăn chay, cầu nguyện, hối cải, bố thí là cần thiết, nhưng phải làm với tinh thần khiêm tốn và tỏa sáng để mọi người nhìn thấy việc mình làm, nhận ra Thiên chúa và tới với Ngài. Mọi hình thức giả hình, phô trương, xưng hùng xưng bá( triumphalisme ) đều bị Chúa kết án. Những phương thế chay tịnh, bố thí, cầu nguyện, hãm mình đều là những nấc thang giá trị giúp người Kitô hữu lột xác để cải hóa nội, phấn đấu đạt cho được Nước Trời và sống cho Chúa Giêsu. Sống tinh thần tám mối phúc thật là nẻo đường dẫn tới Nước Thiên Chúa.
GỢI Ý CHIA SẺ:
1. Tại sao lại phải sám hối ?
2. Métanoia theo Tân ước là gì ?
3. Các hình thức ăn chay, cầu nguyện, bố thí có cần không ? tại sao ?
-----------------------------------
VietCatholic (Thứ Tư Lễ Tro)
VÀO ĐỀ
Chúng ta thường nghe nói: “MÙA CHAY LÀ MÙA ĂN CHAY, CẦU NGUYỆN & BỐ THÍ!” Đúng quá còn nói gì hơn được! Thật ra là ăn chay, cầu nguyện và bố thí là những hành động mang tính tôn giáo vừa bình dân lại vừa siêu việt của tất cả các tôn giáo, nhất là trong các tôn giáo lớn như Kitô giáo, Phật giáo và Hồi giáo. Vì thế đối với Kitô hữu, không chỉ Mùa Chay mới là mùa ăn chay, cầu nguyện và bố thí, mà suốt đời, người tín hữu phải biết ăn chay, cầu nguyện và bố thí. Nếu chúng ta lật lại các trang của bốn Sách Phúc Am, chúng ta sẽ thấy Chúa Giêsu đã nhiều lần nói đến ăn chay, cầu nguyện và bố thí. Hơn nữa, chủ đề “từ bỏ” là chủ đề trung tâm của Giáo lý Phúc Am cũng như con đường thập gía chiếm một tỷ lệ quan trọng trong các sách Phúc Âm.
An chay, cầu nguyện và bố thí tự nó đã có đầy đủ ý nghĩa nhân bản và Kitô giáo. Nhưng mỗi thời, mỗi nơi việc ăn chay, cầu nguyện và bố thí lại có thêm ý nghĩa, mầu sắc, động lực mới. Mùa Chay phải là thời gian cao điểm của ăn chay, cầu nguyện và bố thí của các môn đệ muốn theo chân Đức Kitô Giêsu. Vậy thử tìm hiểu xem trong Giáo hội, người thời trước và người thời nay ăn chay cầu nguyện và bố thí như thế nào?
I. ĂN CHAY XƯA & NAY TRONG GIÁO HỘI
1.1 Ăn chay thời xưa:
Nếu chúng ta nhìn lại cách sống Mùa Chay của người Kitô hữu: linh mục, tu sĩ và giáo dân, nhất là tu sĩ các Dòng khổ tu, từ thời Trung Cổ trở về trước, thì ăn chay chủ yếu là nhịn ăn, nhịn uống, nhịn mặc. Vì thế mà trong Mùa Chay không có thịt, rượu trên bàn ăn (thịt rượu là những thứ rất quan trọng đối với người Phương Tây và trong các xứ lạnh). Người ta cũng mặc không đủ ấm để được chịu lạnh, thậm chí người ta còn mặc những chiếc áo có kim, có gai bên trong, để mỗi lần di chuyển hay cử động, các kim, gai ấy đâm vào da thịt làm cho người mang áo phải đau đớn khó chịu. Ngoài ra còn có cách thực hành gọi là “đánh tội” là lấy giây da có cột những cục sắt hay chì nhỏ ở các đầu giây quất vào thân thể mình hay thân thể người cùng đánh tội với mình, cho đến khi máu chảy, thịt mềm mới thôi. Vì thế mà “ăn chay đánh tội” thường được gắn liền với nhau. Đó là cách hãm mình ép xác của người thời xưa. Người ta quan niệm rằng: đối với thân xác, càng cưng chiều nó bao nhiêu thì càng làm hư nó bấy nhiêu, hay đúng hơn là càng để nó làm hư mình bấy nhiêu, vì thân xác là một tên nội công nguy hiểm, sẵn sàng liên minh với ma quỉ và hùa theo thế gian để giết hại đời sống tâm linh của con người. Đó là động cơ thứ nhất của việc ăn chay hãm mình. Còn động cơ thứ hai là người ta tìm mọi cách để được nên giống Chúa Kitô Giêsu trong Mùa Thương Khó, nên một đàng chấp nhận mọi nỗi khổ đau, một đàng tự sáng tạo ra những hình thức gây đau khổ cho bản thân mình. Nói tóm lại, cách ăn chay của người thời xưa có ý nghĩa rất thánh thiện và cao vời, tuy cách thực hiện xem ra không còn mấy phù hợp với người thời nay nữa.
1.2 Ăn chay thời nay:
Nếu hôm nay chúng ta gợi ý cho giáo dân, nhất là cho giới trẻ, ăn chay, hãm mình, ép xác, đánh tội theo cách mà cha ông chúng ta đã thực hành trước đây thì e rằng chẳng mấy người nghe theo chúng ta. Vậy chúng ta phải đề nghị với họ điều gì? Tuy ngày nay giá trị của thân xác con người được tôn trọng và đề cao hơn thời xưa, nhưng quan niệm của người thời xưa - là càng cưng chiều thân xác bao nhiêu càng dễ trở thành nô lệ cho thân xác bấy nhiêu - vẫn còn nguyên gía trị nhân bản và tu đức. Ngày nay trong đời sống tâm linh, người ta cũng vẫn nhấn mạnh đến việc nên giống Chúa Kitô, nhưng không chỉ trong việc chịu đau khổ (nặng tính thụ động) mà trong cả suy nghĩ, tâm tình và hành động yêu thương đối với con người. Vì thế mà người Kitô hữu dấn thân chống tội ác, bảo vệ công lý, bênh vực người nghèo hèn, bị áp bức, bóc lột, loại trừ dưới mọi hình thức.
Vậy ăn chay thời nay cũng vẫn là việc bớt ăn, bớt uống và bớt mặc. Nhưng không chỉ có thế. Vì cuộc sống con người ngày nay trải rộng trong nhiều lãnh vực nhất là trong hai lãnh vực chính là lao động và giải trí. Nên ăn chay thời nay có thể là hy sinh không xem một trận đá bóng trên truyền hình; không xem một phim trong rạp hay tại nhà, vì đó là phim bạo lực, là phim sex; không tò mò mở những website bạo lực hay sex để giải trí. Thay vào việc tiêu phí thời gian vào những chuyện vô bổ hay độc hại ấy, người tín hữu tìm đọc sách báo lành mạnh hay đạo đức để nâng cao đời sống văn hóa và tâm linh.
Còn một khác biệt nữa là khoản tiền tiết giảm do bớt ăn, bớt uống, bớt mặc ấy không phải để chủ nó chi dùng cho việc khác hay lúc khác mà là để dành cho các chương trình phục vụ con người: như xoá đói giảm nghèo, chia sẻ với các cháu mồ côi, khuyết tật, người già neo đơn, nạn nhân HIV-AIDS trong các trại nuôi dưỡng hay trong các gia đình. Vì thế mà trong giáo phận Sàigòn, từ ngày Đức Cha Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn được bổ nhiệm làm Tổng Giám mục lãnh đạo giáo phận đến nay, năm nào mỗi gia đình cũng nhận được của Đức Tổng Giám mục và nay Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn một lá thư mục vụ, trong đó có phần kêu gọi giáo dân bớt chi tiêu trong Mùa Chay, dành khoản tiền tiết giảm giúp cho các chương trình bác ái của giáo phận như trả chi phí mổ mắt cho người mù được sáng, xây nhà tình thương cho người nghèo, hỗ trợ các lớp học tình thương của các cháu con nhà nghèo không đủ khả năng đến trường, ở Thành phố hay ở các địa phương khác.
Bớt ăn, bớt uống, bớt mặc ngày nay cũng mang một dáng dấp mới. Báo Phụ Nữ Chủ nhật của Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Thành phố số mới đây (số 6, ngày 15-2-2004) đã lấy một chuyên đề rất thời sự: “TỆ NẠN ĂN NHẬU” Các bài đăng trong số báo này muốn cho mọi người thấy tệ nạn ăn nhậu tàn phá khủng khiếp như thế nào về mặt đạo đức & nhân cách con người, đặc biệt của những người có chức, có quyền và có tiền trong xã hội Việt Nam hiện nay. Sau tệ nạn ăn nhậu của một số ít người thì thói ham tiệc tùng của số đông người hơn cũng đáng chúng ta quan tâm. Nói chung từ mấy năm nay đời sống kinh tế được cải thiện, người ta càng muốn thể hiện hoàn cảnh và khả năng mới về kinh tế của mình bằng những bữa tiệc linh đình và hoang phí: mừng sinh nhật, mừng ngày thành hôn, mừng bổn mạng, kỷ niệm ngày mở công ty, kỷ niệm ngày nhậm chức…. Tự nó, tiệc tùng là rất tốt vì đó là cơ hội quí báu để họ hàng bà con và bạn bè kết thân hơn với nhau. Nhưng tiệc tùng một cách chừng mực, một cách tiết kiệm cũng là điều nên thực hiện. Hoang phí quá là có lỗi với bao nhiêu người còn không đủ ăn, đủ mặc chung quanh ta, trong xã hội ta. Vậy thì đối với một số người, một số gia đình việc bớt ăn, bớt uống, bớt nhậu, bớt tiệc tùng… là việc cần làm, vừa dành tiền làm phúc, vừa bớt thói huênh hoang, tự mãn, đua đòi theo thế gian. Còn đối với một số người khác, nhất là với các bà các cô, thì ăn chay hãm mình có lẽ sẽ là bớt shopping, bớt chạy theo thời trang, hàng hiệu, bớt những lần đến tiệm để chăm sóc mái tóc, hàm răng, nước da chăng?
II. CẦU NGUYỆN XƯA & NAY TRONG GIÁO HỘI
2.1 Cầu nguyện thời xưa:
Nếu chúng ta nhìn lại cách sống Mùa Chay của người Kitô hữu: linh mục, tu sĩ và giáo dân, nhất là tu sĩ các Dòng khổ tu, từ Thời Trung Cổ trở về trước, thì việc cầu nguyện chủ yếu là đọc kinh, đi chặng đàng thánh giá, đọc sách GƯƠNG CHÚA GIÊSU. Đọc kinh thì chủ yếu là lần chuỗi Mân Côi (150 kinh) hoặc đọc Thánh Vịnh (cũng 150 Thánh Vịnh). Những thực hành trên xem ra không còn thu hút người có đạo thời nay bao nhiêu. Một phần vì người ta không có nhiều thời giờ như người xưa, một phần vì người ta thấy nhàm chán do những cách ấy không có tính cá vị, riêng tư (per-sonnal). Phải đề nghị cái gì mới?
2.2 Cầu nguyện thời nay:
Con người ngày nay, nhất là người trẻ, ưa chuộng những điều mới lạ, trân trọng những điều họ tự khám phá hay sáng tạo ra, gắn bó với những điều có liên quan trực tiếp và thiết thân với họ. Ap dụng vào lãnh vực cầu nguyện, có lẽ đại đa số giáo dân ngày nay, nhất là người trẻ, cần được các linh mục, tu sĩ và huynh trưởng giúp đỡ, để họ biết cách cầu nguyện cá nhân (personnal), tự phát (spontaneus) biết cách đọc, suy niệm Lời Chúa và cầu nguyện (lectio divina), biết cách tự khám phá (một mình hay trong nhóm nhỏ) ý nghĩa và sứ điệp của từng đoạn Lời Chúa và nhất là biết cách cá nhân hóa (personnalization) hay hiện tại hóa (actualization) sứ điệp ấy trong cuộc sống của họ. Có như thế thì họ mới cảm nghiệm được niềm vui khám phá (Joy of discovery in Bible study).
Một khía cạnh khác rất quan trọng trong cầu nguyện của người thời nay là sự thinh lặng hay trầm lắng nội tâm mà người giáo dân, nhất là người trẻ rất cần. Chân phước Têrêxa thành phố Calcutta đã viết về sự thinh lặng này như sau:
“Tôi luôn bắt đầu việc cầu nguyện bằng sự thinh lặng. Thiên Chúa nói trong sự thinh lặng của trái tim. Chúng ta cần lắng nghe, vì điều quan trọng không phải là điều chúng ta nói, mà là điều Thiên Chúa nói với chúng ta và qua chúng ta”
Thường thì người giáo dân Việt Nam không được hướng dẫn đến nơi đến chốn để biết sống những giây phút thinh lặng với Chúa, với bản thân mình. Thinh lặng thay vì là những phút giây “đầy ắp” đối với người có đời sống nội tâm thâm sâu, thì lại là những khoảnh khắc “trống rỗng”, “vô vị” đối với đại đa số người giáo dân.
Một yếu tố đáng lưu ý khác nữa là lời cầu nguyện của chúng ta ngày nay vừa phải gắn kết và tiếp nối những lời cầu xin của Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa làm người, vừa phải mang tính chất thời sự (actual) nghĩa là lời cầu nguyện của chúng ta phải phản ánh cuộc sống chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa của chúng ta và của những người có liên quan với chúng ta. Nói cách vắn gọn, lời cầu nguyện ấy phải là lời cầu nguyện của địa phương này, của ngày hôm nay (hic et nunc) chứ không phải là lời cầu trống trống chung chung, chẳng gắn gì với mặt đất mà chúng ta đang đặt chân. Vì thế, nếu có đọc kinh thì không nên tham lam đọc cho nhiều. Người ta đã nói một cách khôi hài là người giáo dân Việt Nam rất giỏi xay kinh, xay hết kinh này đến kinh khác. Phải miệng đọc, lòng suy và có thêm hành động dấn thân sau đó, chứ chỉ đọc không thì không ích lợi bao nhiêu và không đủ sức biến đổi cuộc đời mình và cuộc sống chung quanh.
Một yếu tố khác mà người giáo dân Việt Nam cần được hướng dẫn về cầu nguyện là phải biết rằng: cầu nguyện không chỉ là xin ơn, mà còn là chúc tụng, ngợi khen, cảm tạ Thiên Chúa về những hồng ân mà Thiên Chúa đã ban chung, ban riêng cho chúng ta. Cầu nguyện còn là sám hối, quyết tâm và dấn thân hành động. Nguyên trong việc xin ơn, người tín hữu cũng không chỉ xin các ơn thiêng liêng hay vật chất cho mình và gia đình mình, mà còn phải biết xin cho Danh Thánh Cha được hiển vinh, Triều Đại hay Nước Cha được mở rộng trong các tâm hồn, Ý Cha được thực hiện khắp nơi nơi. Ít người giáo dân Việt Nam hiểu thấu đáo lý do tại sao trong Kinh Lạy Cha, Đức Giêsu đã đặt 3 ý cầu ấy trước các ý cầu cho các nhu cầu (vật chất, tinh thần) của con người (Mt 6,9-15).
III. BỐ THÍ XƯA & NAY TRONG GIÁO HỘI
3.1 Bố thí thời xưa:
Nếu chúng ta nhìn lại cách sống Mùa Chay của người Kitô hữu: linh mục, tu sĩ và giáo dân, nhất là của tu sĩ các Dòng khổ tu, từ Thời Trung Cổ trở về trước, thì việc làm phúc bố thí luôn là một việc làm không thể thiếu. Nhà Dòng, nhà xứ, nhà giáo dân đạo đức nào cũng có sẵn một thùng gạo để giúp đỡ những người qua đường hay những người nghèo đói túng thiếu trong vùng, trong xóm. Tinh thần Bác Ai tuyệt vời ấy thời nào cũng đáng biểu dương. Có điều ngày nay người ta cảm thấy không được thoải mái khi phải nói/nghe đến hai chữ bố thí, vì nói như vậy sẽ bị coi là khinh thường, thậm chí là xúc phạm đến phẩm gía con người.
3.2 Làm việc Từ Thiện, Bác Ai thời nay:
Vì thế chúng ta nên giữ lại tinh thần là cốt lõi của thực hành mà chỉ cần thay đổi từ ngữ là ổn. Vậy ta sẽ không gọi là việc bố thí nữa mà sẽ gọi là việc từ thiện, bác ái cho dễ nghe và dễ chấp nhận hơn. Thật vậy giúp “cho kẻ đói, ăn”, “cho kẻ khát, uống”, “cho kẻ rách rưới, ăn mặc”… chính là những cách thương người mà cha ông ta đã tóm gọn trong kinh “thương người có mười bốn mối, thương xác bẩy mối, thương linh hồn bẩy mối.”
Ngày nay xã hội công nghiệp hóa, nên người ta không cần phải để dành một thùng gạo cho người nghèo trong góc nhà, mà người ta có thể “lập trình” (make plan) một khoản tiền dành cho người nghèo. Chúng ta có nên trích 2%, 5% hay 10% thu nhập hàng tháng, lợi nhuận hàng năm như những người anh em Tin Lành để đóng góp vào quĩ Từ Thiện Bác Ai của giáo xứ, giáo phận không? Vào thời Việt Nam mới mở cửa, tôi đã nghe nói có một số giáo dân người Á Châu đã dâng cúng cho Giáo hội Việt Nam tháng lương đầu tiên mà họ đã lãnh được từ công việc làm ở Việt Nam. Thiển nghĩ các nhà kinh doanh, dịch vụ, sản xuất, các bác sĩ, kỹ sư, giáo viên công giáo Việt Nam cũng có thể làm như thế. Trong một số nhà thờ ở Hoa Kỳ tôi thường thấy ở các hàng ghế có sẵn những bao thư và mảnh giấy để giáo dân ghi khoản tiền mình dâng cúng cho nhà thờ và tôi đã tận tai nghe một linh mục chánh xứ người Mỹ đề nghị với giáo dân là nên dùng bao thư và tờ giấy ấy chứ không nên bỏ tiền mặt (cash) vào giỏ xin tiền trong thánh lễ. Cái lợi có ý nghĩa nhất là giáo xứ biết được sự đóng góp của từng người, từng gia đình công giáo cho giáo xứ; đồng thời mỗi người giáo dân cũng ý thức hơn về bổn phận của mình phải đóng góp vào việc duy trì và phát triển giáo xứ hoặc vào các công việc từ thiện, bác ái của giáo xứ, giáo phận.
Ngoài ra cách giúp người nghèo ngày nay cũng mang một sắc thái mới, sâu sắc và “tận căn” hơn. Người ta nói ví von: “Giúp cần câu có giá trị hơn cho con cá” Cho con cá cũng là tốt trong khi người ta đang đói, đang khổ, đang thiếu. Nhưng sau khi ăn hết con cá ấy thì người nghèo vẫn nghèo, người thiếu ruộng vẫn thiếu ruộng, người thất nghiệp vẫn thất nghiệp. Vì thế cách giúp người hiệu quả hơn là giúp cần câu, tức giúp phương tiện, giúp vốn, tay nghề…. để người nghèo tự mình thoát ra khỏi cảnh nghèo, cảnh khổ bấy lâu nay giam hãm, khống chế họ.
IV. SỨ ĐIỆP MÙA CHAY NĂM 2004 CỦA ĐỨC THÁNH CHA GIOAN PHAOLÔ II
Riêng trong Mùa Chay 2004 này thì chúng ta không thể không nhắc đến Sứ điệp Mùa Chay của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Sứ điệp này đã được Đức Hồng Y Paul Josef Cordes, Chủ tịch Hội đồng “Đồng Tâm” (Cor Unum) của Toà Thánh giới thiệu trong cuộc họp báo tại Phòng Báo Chí Tòa Thánh lúc 11 giờ 30 ngày 29 tháng 1 năm 2004 vừa qua. Chủ đề của Sứ điệp ấy là:
”Ai đón tiếp một trong những trẻ nhỏ này nhân danh Thày, là đón tiếp Thày” (Mt 18,5).
Trong truyền thống ngàn đời của Giáo hội, trẻ nhỏ vẫn được hiểu là các trẻ em và cũng được hiểu là những người nghèo hèn nhất trong xã hội. Chúa Giêsu đã yêu thương hai hạng người này cách đặc biệt và đã mời gọi các môn đệ Người hãy làm y như vậy. Vì thế mà trong Sứ điệp Mùa Chay năm nay, Đức Gioan Phaolô II trình bày khá đậm né về trẻ nhỏ và về người nghèo:
* Về các trẻ nhỏ, Đức Thánh Cha nói lên những đau khổ mà các em phải chịu: “đau khổ vì xung đột và bạo lực, vì thiếu lương thực và nước uống, vì bị bắt buộc phải bỏ xứ ra đi, và vì biết bao hình thức bất công khác hiện có trên thế giới …. Có những trẻ nhỏ bị thương tích sâu xa vì bạo lực của người lớn: những lạm dụng phái tính, những bắt buộc trẻ mãi dâm, việc dính vào nạn buôn bán và dùng thuốc phiện; những trẻ nhỏ bị bắt buộc lao động hoặc bị bắt đi lính để đánh trận; những trẻ vô tội phải luôn chịu ảnh hưởng tiêu cực do bởi gia đình tan rã; những trẻ nhỏ bị dẫn dụ vào việc buôn bán xấu xa những cơ phận và buôn bán người. Và phải nói gì hơn nữa về thảm kịch của bệnh liệt kháng với những hậu quả tàn phá tại Phi Châu? Người ta nói đến con số hàng triệu người bị lây nhiễm tai ương này và biết bao trẻ đã bị lây bệnh ngay từ lúc mới sinh ra. Nhân loại không thể nhắm mắt trước thảm kịch đáng lo ngại ấy” (số 3).
* Về người nghèo, Đức Gioan Phaolô II viết: “Bên cạnh những trẻ nhỏ, Chúa Giêsu đặt “những anh chị em thấp hèn nhất”; đó là những kẻ khốn cùng, những người nghèo, những kẻ đói khát, những người ngoại kiều, những kẻ không áo mặc, những bệnh nhân, những anh chị em bị giam tù. Khi tiếp đón và yêu thương họ, hoặc ngược lại khi đối xử lãnh đạm và từ chối họ, chúng ta nói lên thái độ của mình đối với Chúa, bởi vì Chúa hiện diện đặc biệt nơi những con người đó” (số 1)
Ở cuối sứ điệp, Đức Thánh Cha kêu gọi: “Anh chị em thân mến, chúng ta hãy bắt đầu cuộc hành trình Mùa Chay, được nâng đỡ bởi lời cầu nguyện sốt sáng, bởi việc đền tội và chú tâm trợ giúp những anh chị em túng thiếu. Một cách đặc biệt ước chi Mùa Chay trở nên dịp thuận tiện để dấn thân nhiều hơn vào việc chăm sóc cho những nhu cầu của trẻ nhỏ, trong chính gia đình chúng ta và trong xa hội nói chung, bởi vì các trẻ nhỏ là tương lai của nhân loại” (số 4).
KẾT LUẬN
Ăn chay, cầu nguyện và làm việc từ thiện bác ái là những việc chúng ta phải thực hành suốt cả đời và nhất là trong Mùa Chay. Các việc ấy đều phải được bắt nguồn từ Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, Đấng vì yêu thương, đã xuống thế làm người để cứu độ nhân loại. Các việc ấy đều xuất phát từ động cơ cao cả là noi gương bắt chước Chúa Giêsu và thực thi giáo huấn và chỉ thị của Người.
Ước mong bài chia sẻ này giúp quí anh chị bước vào Mùa Chay 2004 một cách ý thức và dấn thân hơn.
Sàigòn ngày Thứ Tư, 18 tháng 02 năm 2004
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
-----------------------------------
VietCatholic News (24/02/2004 )
25-2-2004: Thứ tư lễ tro, lễ trọng
"Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy"
(Mt 6,1)
Hôm nay là ngày Thứ Tư Lễ Tro. Chúng ta đang bước vào mùa chay cùng với toàn thể Hội Thánh Chúa. Mùa ăn năn sám hối. Không phải tới ngày này chúng ta mới bắt đầu ăn năn sám hối và trong suốt cả năm cứ phạm tội. Nhưng đây là cơ hội để nhắc nhở lại cho chúng ta thân phận yếu hèn làm người của mình và cần được Chúa thương xót thứ tha. Tưởng cũng nên nhắc lại, ngày hôm nay và Thứ Sáu Tuần Thánh là hai ngày trong năm Hội Thánh buộc chúng ta ăn chay và kiêng thịt. Còn tất cả các ngày thứ sáu khác, Giáo Hội khuyên chúng ta ăn chay kiêng thịt nếu có thể được hoặc làm những việc lành phúc đức. Đừng kiêng ăn thịt heo thịt bò để đói quá mà phải ăn thịt người là điều cấm kỵ. Tôi muốn nói nếu chúng ta không có đức ái đối với tha nhân thì ăn chay kiêng thịt nào được ích gì.
Ăn chay và kiêng thịt, chịu tro chỉ là hình thức bên ngoài mà thôi. Hình thức nội tâm vẫn là trọng tâm của mùa chay này. Kiêng bớt các tội là điều mà Thiên Chúa mong muốn. Sửa đổi tính nết để trở thành người tốt hơn, đạo đức hơn, thánh thiện hơn. Bớt nói hành, nói xấu, lười biếng việc đạo đức là điều phải thực hành.
Ba việc được nhắc nhở rất nhiều trong mùa chay là: Bố thí, ăn chay và cầu nguyện. Đây là ba vũ khí tuyệt hảo để chống lại sự tấn công của ma quỷ và đền bù tội lỗi mình. Những việc lành phúc đức này, khi được thi hành thì hãy làm với tất cả tấm lòng của mình; không làm để khoe khoang. Chỉ cần Thiên Chúa thấu hiểu và biết cho chúng ta là đã đủ rồi. Đừng làm để được người đời khen và vì thế mà chúng ta mất đi lời khen tặng của Thiên Chúa.
Cầu nguyện
Lạy Cha đầy lòng yêu thương! Con cảm tạ Cha đã luôn thương yêu con mà cho con luôn có những cơ hội để trở về với Cha. Xin ban Thánh Thần của Cha để giúp con có đủ nghị lực và can đảm để trở về với Cha trong mùa chay thánh này. Dám từ bỏ những vũng lầy êm ái của tội lỗi để ôm lấy tình yêu vô biên của Cha. Con xin trao phó cuộc đời con cho Cha. Xin Cha làm những gì nơi con mà Cha muốn trong mùa chay này. Amen.
-----------------------------------
VietCatholic (Thứ Tư Lễ Tro)
Thứ Tư Lễ Tro
ĐỌC LỜI CHÚA
* Ge 2,12-18: (13) Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, bởi vì Người từ bi và nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, Người hối tiếc vì đã giáng hoạ.
* 2Cr 5,20-6,2: (20) Nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hoà với Thiên Chúa. (21) Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người.
* TIN MỪNG: Mt 6,1-6.16-18 Bố thí cách kín đáo
(1) Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng. (2) Vậy khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. (3) Còn anh, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, (4) để việc anh bố thí được kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh.
Cầu nguyện nơi kín đáo
(5) Và khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy. Thầy bảo thật anh em: chúng đã được phần thưởng rồi. (6) Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh.
Ăn chay cách kín đáo
(16) Còn khi ăn chay, anh em chớ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả: chúng làm cho ra vẻ thiểu não, để thiên hạ thấy là chúng ăn chay. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. (17) Còn anh, khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, (18) để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh.
CHIA SẺ
Câu hỏi gợi ý:
1. Trong các tôn giáo, đặc biệt trong Kitô giáo, ăn chay có những ý nghĩa và tác dụng nào?
2. Ăn chay như thế nào mới đẹp lòng Thiên Chúa? Mới đem lại ích lợi đích thực cho tâm linh ta? Hình thức ăn chay và tinh thần chay tịnh, cái nào quan trọng hơn?
3. Tại sao nên ăn chay và cầu nguyện một cách kín đáo?
Suy tư gợi ý:
1. Ăn chay trong đời sống tâm linh và tôn giáo
Bất kỳ tôn giáo nào cũng đề cao việc ăn chay và cầu nguyện, vì ăn chay và cầu nguyện có nhiều tác dụng tốt đẹp về mặt tâm linh.
a. Trước hết, ăn chay - thường đi đôi với hãm mình - là để tỏ lòng thống hối và đền tội, làm hòa với Thiên Chúa, quyết tâm trở về với đường ngay nẻo chính, với công lý và tình thương. Câu chuyện thành Ninivê là một điển hình (x. Gn 3,1-10). Đây là một thành phố tội lỗi, Thiên Chúa dự định trừng phạt bằng cách phá hủy thành. Dân thành biết vậy nên đồng lòng ăn chay và quyết tâm thống hối. Vì thế, Thiên Chúa đã từ bỏ dự định phá hủy thành ấy.
b. Ăn chay - phối hợp với những việc thực thi công bình và bác ái - là một cách thể hiện lòng yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, muốn chia sẻ những nỗi thống khổ mà Đức Giêsu hay người nghèo, người bị áp bức phải chịu. Đây là một việc làm rất đẹp lòng Thiên Chúa. Người ăn chay nên dùng tiền tiết kiệm được do việc ăn chay để thực hành đức ái: giúp đỡ người nghèo túng, ủng hộ những việc làm từ thiện, những công trình cải thiện xã hội hoặc Giáo Hội…
c. Ăn chay - phối hợp với cầu nguyện, tĩnh tâm, chiêm niệm - để có một sức mạnh tâm linh. Khi ăn chay, ta phải chống lại sự đòi hỏi của bản năng thèm ăn, nhờ đó sự tự chủ lên cao, sức mạnh tâm linh cũng tăng lên. Ăn chay cũng lôi kéo ơn Chúa và sức mạnh thần linh xuống trên ta. Nhờ đó ta có thể thực hiện những việc làm hay những tiến bộ về tâm linh. Điều đó được Đức Giêsu đề cập đến qua câu nói: «Giống quỷ này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện» (Mt 17,21). Vì để trừ quỉ, cần có một sức mạnh tâm linh rất cao, tức sự thánh thiện, và để đạt được sức mạnh ấy, ăn chay cầu nguyện là một phương cách hữu hiệu.
Chính Đức Giêsu đã ăn chay 40 đêm ngày trước khi bắt đầu cuộc đời công khai của mình. Đó là một mẫu gương cho ta: khi bắt đầu thực hiện hay quyết định một việc gì quan trọng về tâm linh, ta nên ăn chay và cầu nguyện để được nhiều ơn Chúa hầu quyết định sáng suốt và thực hiện công việc có hiệu quả.
2. Tinh thần chay tịnh
Cốt yếu của việc ăn chay không hệ tại việc nhịn ăn, kiêng ăn hay ăn ít đi, mà hệ tại tinh thần mà việc ăn chay muốn biểu lộ. Ăn chay chỉ là một hình thức cụ thể để biểu lộ tâm tình bên trong: thống hối, muốn đền tội, quyết tâm trở về với Thiên Chúa, hay muốn thể hiện tinh thần bác ái, thông cảm với những người đau khổ, hay muốn tăng cường sức mạnh tâm linh… Nếu không có những tâm tình bên trong ấy làm nội dung, thì việc ăn chay chỉ là một hình thức trống rỗng, không có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Ngôn sứ Giêrêmia cho biết Thiên Chúa không đoái hoài đến việc ăn chay theo kiểu thuần hình thức ấy: «Chúng có ăn chay, cầu khẩn, Ta cũng chẳng thèm nghe tiếng; có dâng lễ toàn thiêu và lễ phẩm, Ta cũng chẳng tỏ lòng xót thương» (Gr 14,12).
Như vậy ăn chay cốt yếu là một việc làm trong nội tâm, không ai thấy được hơn là việc thể hiện ra bên ngoài ai cũng thấy được. Điều này phù hợp với lời khuyên của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: «Khi ăn chay, hãy rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh». Ngôn sứ Giôen trong bài đọc 1 hôm nay cũng nhấn mạnh cái cốt tủy bên trong của việc chay tịnh: «Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em» (Ge 2,13). Điều quan trọng là trở về với Thiên Chúa hơn là ăn chay bên ngoài.
Ngôn sứ Isaia lại nhấn mạnh đến cốt lõi của việc ăn chay là tinh thần yêu thương và tôn trọng công lý, chứ không phải là hình thức khổ chế bên ngoài: «Này, ngày ăn chay, các ngươi vẫn lo kiếm lợi, vẫn áp bức mọi kẻ làm công cho mình. Này, các ngươi ăn chay để mà đôi co cãi vã, để nắm tay đánh đấm thật bạo tàn. Chính ngày các ngươi muốn ăn chay để tiếng các ngươi kêu thấu trời cao thẳm, thì các ngươi lại ăn chay không đúng cách. Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Đức Chúa? Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục?» (Is 58,3-7). Như vậy, ăn chay bằng những việc làm bác ái, bằng việc lên tiếng cho công lý, để đập tan những bất công, để bênh vực kẻ nghèo khổ, sống ngoài lề xã hội, những kẻ bị áp bức, thì thực tế và đẹp lòng Thiên Chúa hơn là việc nhịn ăn một cách hình thức.
Nói như thế không có nghĩa là không cần ăn chay mà chỉ cần đối xử với nhau cho có tình nghĩa, hay chỉ cần thực hiện công lý và bác ái thôi. Thiên Chúa muốn rằng «các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ» (Mt 23,23). Vì hình thức và nội dung phải đi đôi với nhau: hình thức đòi buộc phải có nội dung, nhưng nội dung cũng đòi hỏi phải có hình thức. Vì thế, khi ăn chay, chúng ta vừa nhịn ăn hoặc ăn ít để thực hiện mặt hình thức, mà vừa phải có những tâm tình thâm sâu bên trong, được thể hiện cụ thể bằng việc thực thi công bằng và bác ái để thực hiện mặt nội dung. Tuy nhiên, ta cần biết là tâm tình thâm sâu bên trong làm cho hình thức thể hiện bên ngoài có giá trị. Nếu chỉ có hình thức bên ngoài, thì hình thức đó hoàn toàn vô giá trị.
3. Ăn chay và cầu nguyện một mình với Thiên Chúa
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nhấn mạnh đến sự kín đáo khi ăn chay và cầu nguyện. Ăn chay và cầu nguyện là những hành vi đối thoại với Thiên Chúa, vì thế, nó cần được thực hiện một cách riêng tư, trong thầm lặng với Ngài. Nó củng cố tình thân hay sự thân mật giữa ta với Thiên Chúa. Thật ngược đời và quái dị nếu sự thân mật riêng tư giữa vợ chồng hay bạn bè với nhau lại được phơi bày ra trước mặt mọi người. Cũng vậy, sự thân mật riêng tư giữa ta với Thiên Chúa thì chỉ nên giữa Thiên Chúa với ta biết với nhau, không nên cố ý thực hiện trước công chúng để ai cũng biết. Cố ý ăn chay và cầu nguyện trước mặt mọi người thì đó không còn là sự đối thoại thật sự với Thiên Chúa nữa, mà nó đã bị biến chất thành một hành vi đóng kịch. Như thế có khác gì hai người hôn nhau để người khác chụp hình.
Càng muốn cho mọi người thấy tình yêu riêng tư của mình thì tình yêu ấy chỉ là «tình yêu biểu diễn», «có vẻ yêu thương», mang nặng tính hình thức và giả dối, chứ không phải tình yêu đích thực. Chỉ những người đạo đức giả mới thích biểu diễn việc ăn chay và cầu nguyện của mình trước mặt người khác. Trái với tinh thần giả hình ấy, Đức Giêsu khuyên ta nên cố ý dấu không cho người khác biết mình ăn chay, thậm chí nên đánh lạc hướng để người khác không thể đoán ra hay nghi ngờ mình ăn chay: «Khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo».
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, hôm nay là ngày mở đầu mùa Chay, Cha muốn con ăn chay trong mùa này như thế nào? Suy gẫm lời của ngôn sứ Isaia, con biết rằng lối ăn chay mà Cha thích nhất nơi con, đó là con biết quan tâm đến hạnh phúc và đau khổ của tha nhân, đến những vấn đề xã hội, đến những người nghèo khổ, người bị áp bức chung quanh con. Cha muốn con ăn chay bằng cách làm một điều gì đó thật cụ thể và thực tế để những người đang đau khổ ấy được hạnh phúc hơn, giảm được phần nào đau khổ của mình. Cha muốn con ăn chay bằng cách nỗ lực làm cho xã hội trở nên công bằng và tốt đẹp hơn, bằng sự lên tiếng, can thiệp, hỗ trợ… trong khả năng của mình. Xin cho con quảng đại và can đảm thực thi tinh thần ăn chay ấy trong mùa chay này, để chuẩn bị đón mừng mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giêsu, Con Cha trong những tháng sắp tới. Amen.
JKN
-----------------------------------
VietCatholic News (21/02/2004 )
THỨ TƯ LỄ TRO
Mt 6,1-6,16-18
I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1) Ý CHÍNH: Làm việc thiện cách kín đáo.
Sau khi trình bày về sự công chính mới trong việc tuân giữ các giới răn, Đức Giêsu đề cập tới một nền đạo đức mới: Phải thi hành các việc đạo đức thế nào cho hợp với tinh thần mới của Người. Những lời khuyên bao gồm ba chiều kích:
- Đối với tha nhân: Bố thí chia sẻ cơm bánh vật chất.
- Đối với Thiên Chúa: Cầu nguyện không ngừng.
- Đối với bản thân: An chay hãm mình đền tội.
Điều cốt yếu là phải trung thực trước mặt Chúa Cha, là phải thi hành theo thánh ý Chúa Cha: Tránh khua chiêng đánh trống để tìm tiếng khen nơi người đời; Tránh cầu nguyện ở nơi công cộng để cho người ta xem thấy; Tránh làm bộ mặt rầu rĩ thiểu não để cho thiên hạ biết mình đang ăn chay.
2) CHÚ THÍCH:
- Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời ban thưởng. Vậy khi bố thí, đừng có khua chiên đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí được kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh (Mt 6,1-4):
+ Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng. Chớ có phô trương cho thiên hạ thấy: Đức Giêsu đòi hỏi các môn đệ của Người phải tránh thói đạo đức giả hình của các người Pharisêu (Biệt Phái), là những kẻ “Nói mà không làm”, “Làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy” (x. Mt 23,3.5).
+ Bố thí: Thời Đức Giêsu, bố thí là việc công chính bậc nhất (x. Hc 7,10). Hình như người ta ưa làm việc bố thí công khai, nên dễ đưa tới sự phô trương bề ngoài, nhằm được người ta ca tụng.
+ Đừng có khua chiên đánh trống: Rất có thể những người Pharisêu thời bấy giờ dùng chiên trống để loan báo cho người ăn xin nghèo khó tập trung lại nhận quà. Tuy nhiên, không thấy bản văn nào nói đến việc này. Do đó, ta có thể coi đây chỉ là một ví dụ có tính phóng đại để làm nổi bật tinh thần khiêm tốn, mà Đức Giêsu muốn các môn đệ của Người phải có khi làm các việc đạo đức.
+ Chúng đã được phần thưởng rồi: Lời khen của người đời chính là phần thưởng dành cho những ai làm việc bố thí chỉ nhằm mục đích tự nhiên. Do đó, họ sẽ không được công phúc thiêng liêng trước mặt Chúa Cha.
+ Đừng “cho tay trái biết việc tay phải làm”: Là một kiểu nói có nghĩa là phải giữ kín, đừng nói cho người khác biết việc mình đang làm. Người môn đệ Đức Giêsu không những phải tránh cho mọi người biết việc bố thí của mình, mà còn phải thực hiện trong âm thầm khiêm tốn.
- Và khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: Chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư cho người ta thấy. Thầy bảo thật anh em: Chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh (Mt 6,5-6):
+ Cầu nguyện: Chính Đức Giêsu đã làm gương và dạy các môn đệ về sự cầu nguyện (x. Mt 14,23). Theo các huấn thị của Người rải rác trong các Tin Mừng thì lời cầu nguyện: Phải khiêm tốn trước mặt Thiên Chúa (x. Lc 18,10-14), và người đời (x. Mt 6,5-6);Phải cầu nguyện cách chân thành, phát xuất tự đáy lòng (x. Mt 6,7); Phải tin tưởng vào lòng nhân từ của Chúa Cha (x. Mt 6,8; 7,7-11) và kiên trì nài xin (x. Lc 11,5-8; 18,1-8). Lời cầu nguyện sẽ chỉ được nhận lời khi có lòng tin (x. Mt 21,22); Khi xin Chúa Cha nhân danh Đức Giêsu (xMt 18,19-20); Xin những điều tốt lành (x. Mt 7,11).
+ Chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư cho người ta thấy: Ở đây Đức Giêsu không đã kích việc cầu nguyện công khai và có tính cộng đồng (x.Mt 18,19-20), nhưng Người chỉ trích ý đồ muốn phô trương công đức để được ca tụng.
+ Hãy vào phòng đóng cửa lại mà cầu nguyện cùng Cha của anh: Đức Giêsu gợi lại cách thức của ngôn sứ Ê-li-sa khi ông cầu nguyện để làm cho đức bé mới chết được sống lại (x. 2 V 4,33). Cách thức cầu nguyện kín đáo này trái ngược với cách phô trương của những kẻ giả hình. Cầu nguyện là sự gặp gỡ Thiên Chúa. “Vào phòng” là sự hồi tâm, đặt mình trước sự hiện diện của Thiên Chúa nhờ đức tin. Thiếu điều này thì không thể có cầu nguyện thật sự.
- Còn ăn chay, anh em chớ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả: Chúng làm cho ra vẻ thiểu não, để thiên hạ thấy là chúng ăn chay. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay, ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh (Mt 6,16-18):
+ Ăn chay: Đã từ lâu, dân Israen có tục ăn chay mỗi khi có tang chế (x. 2 Sm 3,35), khi cầu xin Chúa một ơn đặc biệt (2 Sm 12,16). Ăn chay theo luật Môsê là nhịn ăn uống vào lúc ban ngày. Sự nhịn ăn uống này sẽ kéo dài trong một thời gian lâu hay mau tùy trường hợp. Trong thời gian ăn chay, người ta không tắm rửa, để râu tóc mọc dài, và mặc một loại quần áo vải thô đặc biệt. Thời Đức Giêsu, dân Do thái chỉ bị bắt buộc phải ăn chay trong lễ Xá Tội vào mùng mười tháng Bảy, tức khoảng cuối tháng chín dương lịch (x. Lv 16,29-31; Cv 27,9), trong ngày kỷ niệm đền thờ bị tàn phá và trong lúc gặp thiên tai. Việc ăn chay này do các vị đầu mục quyết định. Riêng người Pharisêu thì còn tự nguyện ăn chay thêm hai lần một tuần (x. Lc 18,12) và việc chay tịnh mang tính đạo đức hình thức bề ngoài (x. Mc 2,18). Nhưng Đức Giêsu không chấp nhận lối khổ chế máy móc này (x. Mc 2,19-20).
+ Còn anh, khi ăn chay…: Đức Giêsu muốn cho các môn đệ của Người phải ăn chay trong sự khiêm tốn: Thay vì rắc tro lên mặt, để râu tóc bù xù, quần áo dơ bẩn…thì phải rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm như thường lệ, để người ta không biết mình ăn chay.
II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA
1) Chủ đề 1: Mùa chay: Thời kỳ hồi tâm sám hối.
- Lời Chúa: “Hãy ăn chay, khóc lóc và thống thiết than van. Hãy xé lòng chứ đừng xé áo” (Ge 2,12b-13a):
- Câu chuyện 1: Điều gì làm Chúa hài lòng nhất ?
Trong kho tàng truyện tích Hồi Giáo có một câu chuyện như sau: Ngày kia, Đức A-la truyền cho một sứ thần xuống thế gian để tìm một điều tốt đẹp nhất mang về trời dâng cho Ngài. Sứ thần liền hạ cánh xuống một bãi chiến trường, nơi máu của các anh hùng đang chảy lai láng. Sứ thần thu nhặt một ít máu đó mang về trời trình lên A-la. Nhưng xem ra Ngài không hài lòng bao nhiêu. Ngài bảo: “Máu đổ ra cho tổ quốc và tôn giáo là một điều quí giá thật. Nhưng vẫn chưa phải là điều tốt đẹp nhất nơi trần gian”.
Sứ thần đành phải xuống thế một lần nữa. Lần này ngài gặp đám tang của một người giàu mà có lòng quảng đại. Vô số người nghèo đi theo sau quan tài. Họ vừa đi vừa khóc và xông hương quan tài để biểu lộ lòng biết ơn đối với vị ân nhân. Sứ thần liền thu nhặt hương thơm ấy mang về trời dâng lên Đức A-la. Lần này Đức A-la mỉm cười đón lấy hương thơm ngào ngạt. Nhưng xem ra Ngài vẫn chưa hài lòng. Ngài phán: “Dĩ nhiên lòng biết ơn là một trong những điều tốt đẹp và hiếm có dưới trần gian. Nhưng Ta nghĩ vẫn còn có cái gì khác tốt đẹp hơn nữa !
Một lần nữa, sứ thần vâng lệnh xuống trần gian. Sau nhiều ngày tìm kiếm khắp bốn phương, một buổi chiều nọ sứ thần dừng chân nghỉ bên vệ đường. Ngài bỗng thấy một người đàn ông đang khóc lóc thảm thiết. Sứ thần liền đến gần và hỏi lý do tại sao khóc như vậy. Người đàn ông đã giải thích như sau: “Tôi đã chiều theo cơn cám dỗ mà phạm tội. Giờ đây nước mắt chính là việc làm hằng ngày của tôi !”. Sứ thần giơ tay hứng lấy những giọt nước mắt còn nóng hổi và bay về trời dâng lên Đức A-la. Đức A-la chăm chú nhìn những giọt nước mắt rồi mỉm cười nói: “Thế là ngươi đã hoàn thành nhiệm vụ. Quả thật, dưới trần gian không có điều gì tốt đẹp và hữu ích cho bằng lòng sám hối ăn năn. Bởi vì nó có sức mạnh canh tân cuộc đời người ta. Một lòng sám hối chân thành có sức mạnh biến đổi tâm hồn con người từ tình trạng mùa đông lạnh giá trở thành mùa xuân đầy ắp tình người”.
- Câu chuyện 2: Tránh rượu chè say sưa:
Một câu chuyện cổ của Pháp cho thấy tác hại của rượu như sau:
Sau khi được cứu trong nạn lụt Đại Hồng Thủy, Noe cùng các con cái và thú vật ra khỏi tàu và bắt đầu canh tác ruộng vườn. Ngoài việc cấy lúa và rau bắp làm lương thực, Noe còn trồng thêm một vườn nho. Bấy giờ Xatan luôn theo dõi mọi việc làm của Noe. Hắn lại gần và hỏi: “Này Noe, ông đang trồng cây gì thế ? Noe trả lời: “Trồng cây nho”. Xatan hỏi tiếp: “Trồng nho thì có lợi gì hay không ?”. Noe trả lời: “Có lợi lắm chứ. Này nhé: trái của nó vừa ngon ngọt lại vừa đẹp mắt. Hơn nữa, người ta còn ép trái nho để làm rượu nữa !’. Xatan liền nói: “Vậy thì để ta giúp đỡ ông”. Xatan liền giết một con chiên, một con sư tử, một con lừa và một con heo. Hắn lấy máu của chúng hòa chung lại và tưới xuống góc cây nho. Thế là cây nho ngày một lớn lên rất nhanh. Sau khi cây nho đơm hoa kết trái, Noe lấy trái của nó ép thành rượu. Rồi ông uống rượu say và nằm trần truồng giữa lều. Các con của Noe phải lấy áo choàng, đi giật lùi mà đắp lên người ông (x. St 9,20-23).
Từ đó trở đi, rượu có sức biến đổi con người: uống ly thứ nhất người ta sẽ vui vẻ dễ thương như con chiên. Uống ly thứ hai thì sẽ trở nên táo bạo hơn, giống loài sư tử. Uống ly thứ ba thì tâm trí trở thành u mê như con lừa. Nếu tiếp tục uống thêm ly thứ năm thứ sáu nữa thì người ta bị mất tự chủ và sẽ chạy theo đam mê lạc thú bất chính giống như loài heo vậy !
- Suy niệm: Về những giọt lệ thống hối.
Không gì đẹp bằng những giọt nước mắt: Nước mắt của niềm vui hân hoan, của sự khoan dung tha thứ, của tình thương chia sẻ, của sự cảm thông với nỗi đau của đồng loại…nhưng đẹp nhất vẫn là những giọt lệ của lòng sám hối ăn năn:
** Nước mắt của tông đồ Phêrô ăn năn sám hối vì tội chối Thầy ba lần !
** Nước mắt của cô Maria Mác-đa-la sám hối tội lỗi đã phạm, sau khi khám phá ra tình thương từ bi bao dung của Chúa !
** Nước mắt sám hối của đứa con hoang đàng khi trở về nhà cha, để xin tha tội đã bỏ nhà đi hoang, và quyết tâm sống hiếu thảo với cha trong những ngày sắp tới.
** Nước mắt đau khổ của bà Mônica, chảy ra trong suốt 18 năm, để sám hối thay cho đứa con trai hư hỏng của bà là Au-gút-ti-nô sớm được ăn năn trở về với Chúa.
- Thảo luận:
1) Hãy cho biết tại sao sau nhiều lần xưng tội…mà người tín hữu chúng ta vẫn tiếp tục phạm lại nhiều tội đã ăn năn sám hối trước đó như: mê tín, bỏ lễ chúa nhật, không vâng lời, cãi lộn đánh nhau, nói xấu, chửi thề tục tĩu, dối trá lừa đảo…Tại sao không thể sửa đổi được nhiều thói hư tật xấu như: tự ái cao, ích kỷ, mê dâm dục, giận dữ, say xỉn, ganh ghét, làm biếng ?
2) Trong Mùa Chay này, tôi quyết tâm tu sửa tật xấu nào thường hay sai lỗi nhất ? Tôi sẽ dùng phương pháp nào để việc hoán cải đạt kết quả tốt ? (Cầu nguyện, làm chủ bản thân qua việc hy sinh hãm minh.
2) Chủ đề 2: Mùa chay, thời kỳ làm việc thiện.
- Lời Chúa: “Khi bố thí đừng cho tay trái biết việc tay phải làm” ( Mt 6,3).
- Câu chuyện: Nơi nào trong nhàthờ chuột ít bị quấy rầy nhất ?
Có một con chuột cống sống trong một ngôi nhà thờ cổ miền quê. Một hôm nó đi lang thang trong nhà thờ kiếm cái gì ăn cho đỡ đói. Bỗng nó gặp một con chuột khác cũng đang đi tìm thức ăn. Hai con chuột làm quen và hỏi thăm về chỗ ở của nhau. Con thứ nhất tâm sự: “Tớ đang sống chui rúc dưới gầm tòa giải tội trong nhà thờ này, nhưng chẳng mấy khi được yên thân. Vì lúc nào cũng có người đến xưng tội làm mất giấc ngủ của tớ !”. Nghe vậy, chuột thứ hai tỏ ra thông cảm với bạn nên nói: “Vậy thì bồ hãy dọn đến ở chung với tớ. Chỗ tớ đang ở vừa ấm áp sạch sẽ, lại vừa yên tĩnh và ít bị quấy rầy !” Chuột thứ nhất ngạc nhiên nói: “Có một chỗ ở như thế thật ư ? Vậy bồ hãy cho tớ biết chỗ ở đó ở đâu vậy ?”Chuột thứ hai đáp: “Đó là thùng quyên góp giúp đỡ người nghèo ở cuối nhà thờ này đấy !”
- Suy niệm:
+ Yêu thương là cho đi: Cho nhiều là dấu hiệu yêu nhiều. Thánh Phaolô đã khuyên các kỳ mục ở Ephêxô như sau: “Và phải nhớ lại lời Chúa Giêsu đã dạy: Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35). Thánh Giacôbê dạy các tín hữu phải có đức tin hành động như sau: “Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hàng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: “Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no”, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì ?’ (Gc 2,15-16).
+ Một việc đạo đức ta cần quan tâm thực hiện trong Mùa Chay là sự bố thí chia sẻ cơm bánh cho người nghèo đói. Việc bố thí này tuy khó thực hiện, nhưng mang lại sự hữu ích cho tâm hồn ta.
** Khó thực hiện vì “Đồng tiền liền khúc ruột”: Chỉ những người có lòng hy sinh và quảng đại mới có thể thực hiện được tốt việc bố thí này.
** Việc bố thí có giá trị giúp ta ý thức về giá trị tướng đối của đồng tiền: Giúp ta biết dùng đồng tiền trong những việc làm vinh danh Thiên Chúa và hữu ích cho phần rỗi tha nhân, giúp ta bớt đi lòng dính bén với của cải vật chất như Đức Giêsu đã khuyên chàng thanh niên giàu có muốn nên trọn lành như sau: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời, rồi hãy đến theo tôi” (Mc 10,21).
** Bố thí còn là một cách đền tội hữu hiệu: Sứ thần Raphaen đã khuyên bảo cha con Tôbia như sau: “Bố thí đi đôi với đời sống công chính, thì tốt hơn có của mà ăn ở bất công. Làm phúc bố thí thì đẹp hơn là tích trữ vàng bạc. Việc bố thí cứu ta khỏi chết và tẩy sạch mọi tội lỗi. Những người làm phúc bố thí sẽ được sống lâu” (Tb 12,8-9).
- Thực hành: Trong Mùa Chay, ta nên làm thêm một số việc đạo đức như: dự lễ và rước lễ hằng ngày; mỗi ngày cố gắng làm vài ba việc hãm mình, quyết tâm sửa một thói hư như: Hay chửi thề tục tĩu, ích kỷ, lười biếng làm việc lành…bằng cách làm một việc tốt đối lập với thói hư nói trên, kèm theo một lời nguyện tắt. Chẳng hạn: “Lạy Chúa, xin cho con chừa bỏ được tội nói xấu người con không ưa, bằng cách thành thật khen ngợi ưu điểm của họ với người khác,để con mỗi ngày nên giống Chúa hơn”.
III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) Lạy Chúa Giêsu, cùng với toàn thể Hội Thánh, con bước vào Mùa Chay. Con tạ ơn Chúa đã cho con thời gian thuận tiện này để duyệt xét lại cuộc đời, và chấn chỉnh những thiếu sót, lệch lạc nơi con người con. Xin chúa chiếu dọi ánh sáng của Chúa để con nhìn rõ con người của con. Nhất là xin Chúa ban ơn nâng đỡ sự yếu hèn của con. Chỉ có ơn Chúa mới có thể làm cho con trỗi dậy trở về với Chúa để đổi mới đời sống của con.
Lạy Chúa, xin giúp con biết sống tình thương của Chúa. Con thường có thái độ ích kỷ khép kín cửa lòng trước tha nhân. Đôi lúc con làm được một vài việc tốt, nhưng lại muốn cho nhiều người biết và khen ngợi. Xin chúa cho con biết khiêm tốn “Đừng cho tay trái biết việc tay phải làm”, để con xứng đáng được Chúa thương ban thưởng hạnh phúc đời sau.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2) Lạy Mẹ Maria. Xin giúp con noi gương Mẹ: làm mọi việc trong tinh thần khiêm hạ, không chút phô trương. Khi cầu nguyện, xin cho con không dừng lại ở hình thức bề ngoài như đọc kinh dự lễ, tĩnh tâm và đi hành hương…Nhưng con cần phải đi sâu vào tâm tình với Chúa và kết hiệp mật thiết với Người, noi gương Mẹ xưa.
Lạy Mẹ, trong Mùa Chay này, xin giúp con biết làm chủ bản thân con. Xin giúp con quyết tâm sửa đổi những đam mê lạc thú bất chính, những khuynh hướng vị kỷ thấp hèn. Xin dạy con biết hy sinh, từ bỏ ý riêng và tuân phục Ý Chúa, bằng cách vâng lời dạy bảo của bề trên, cha mẹ, thầy dạy…Xin cho con can đảm chấp nhận vác thập giá là những gian lao vất vả trong cuộc sống, những tai nạn rủi ro trái ý, những khó khăn trở lực gặp phải trong cuộc sống hằng ngày…mà bước theo chân Chúa Giêsu như Mẹ khi xưa. Nhờ đó, con sẽ xứng đáng trở nên môn đệ đích thực của Người.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Trích Hiệp sống Lời Chúa
Lm. Đan Vinh
-----------------------------------
VietCatholic News (21/02/2004 )
THỨ TƯ LỄ TRO NĂM 2004
Chúa nhật thứ 7 thường niên vừa mới qua, Giáo hội mời gọi ta suy niệm bài Tin Mừng về lòng khoan dung tha thứ, do chính Chúa Giêsu truyền dạy: “Các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình… Các con hãy nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ. Đừng xét đoán, thì các con sẽ khỏi bị xét đoán.; đừng kết án, thì các con khỏi bị kết án; hãy tha thứ thì các con sẽ được tha thứ…” (Lc 6, 27- 38).
Nếu mùa Chay là mùa của lòng bác ái, tha thứ, khoan dung, chia sẻ… thì nội dung của bài Tin Mừng trong Chúa nhật thứ VII vừa qua, thật là một sự chuẩn bị vô cùng thuận lợi, giúp ta lấy đó mà suy xét bản thân mình, lấy đó làm hành trang bước vào mùa Chay. Nhờ đó, lòng mình thật sự có một chất liệu cần thiết, để hôm nay, ngày đầu tiên của mùa chay, bằng việc xức tro lên đầu, ta không xức cho có, không xức tro theo kiểu hình thức, mọi người đi, tôi cũng đi. Nhưng là đường đường chính chính khai mạc mùa Chay bằng một tâm hồn đã chuẩn bị từ trước, chuẩn bị thật sự, giờ đây được thể hiện qua hình ảnh tôi chịu xức tro với một quả tim đã thấm đẫm tình yêu, chan chứa lòng khoan dung, nhân hậu và thứ tha. Cùng với việc khai mạc mùa Chay bằng nghi thức xức tro, và một tâm hồn đã được chuẩn bị như thế, tôi sẽ bước vào mùa Chay và sống mùa Chay với tất cả nỗi lòng của một người biết thống hối. Có ý thức, có dọn lòng ngay từ buổi đầu như thế, mới mong ta sống trọn vẹn ý nghĩa của mùa Chay.
Riêng tôi, được gợi hứng từ Tin Mừng của Chúa nhật thứ VII thường niên, sẽ quyết tâm sống lòng bác ái trong mùa Chay, thể hiện qua một nghĩa cử cụ thể đó là lòng tha thứ cho anh chị em của mình. Bởi tự bản thân, tôi thấy mình còn yếu kém về lòng tha thứ lắm. Đã nhiều lần cố gắng, nhưng rất nhiều lần thất bại. Được gợi hứng từ Tin Mừng, tôi đúc kết thành một lời ngắn gọn khác, làm quyết tâm cụ thể giúp bản thân sống mùa Chay năm 2004 này. Quyết tâm này chẳng phải là một điều gì xa xôi. Nó được rút ra từ ý nghĩa của Lời Chúa trong thư thứ I thánh Phaolô gởi giáo đoàn Côrintô, chương 13: “LÒNG MẾN KHÔNG OÁN GIẬN”.
Hôm nay tôi muốn cùng bạn chia sẻ quyết tâm này đi liền với một tấm gương cao cả và thánh thiện mà vị Cha già kính yêu của Giáo Hội đã từng sống: Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, con người của sự hiếu hòa, con người của lòng mến và không oán giận.
Nói đến lòng mến, thường chúng ta áp dụng cho cả hai chiều kích. Chiều kích thứ nhất: Thiên Chúa và con người. Thiên Chúa yêu con người, tha thứ cho con người. Con người sống tương quan mật thiết với Thiên Chúa: con người yêu mến Thiên Chúa. Còn ở chiều kích thứ hai: con người với nhau: lòng mến là tha thứ cho nhau, bác ái yêu thương nhau, hiền hòa, chịu đựng lẫn nhau… Nhưng ở đây tôi muốn giới hạn thêm: “lòng mến không oán giận” có nghĩa là sự tha thứ dành cho anh chị em của mình.
Tôi học được bài học tha thứ và xin tha thứ của Đức Thánh Cha. Trong cuộc đời làm giáo hoàng của mình, Đức Thánh Cha đã nhiều lần lên tiếng xin lỗi. Đặc biệt cách đây bốn năm, dịp cử hành năm Thánh 2.000, chính Đức Thánh Cha, đại diện cho cả Giáo Hội, xin lỗi thế giới, xin lỗi các giáo hội ly khai và nhiều tôn giáo khác. Đặc biệt hơn, ngài xin Thiên Chúa tha lỗi cho Giáo Hội. Sau đó, Đức Thánh Cha đã làm sổ kê khai nhiều lỗi lầm của Giáo Hội trong suốt thiên niên kỷ thứ II vừa qua.
Thực ra, trước Đức Gioan Phaolô II, Đức Phaolô VI đã có một lần xin lỗi thế giới tại Công Đồng Vatican II. Nhưng sau đó, lời xin lỗi của Đức Phaolô VI chìm vào quá khứ. Vì thế, hành động của Đức Gioan Phaolô II, được coi là một hành động can đảm, một hành động mang tầm cở lịch sử. Ngài cũng được coi là vị Giáo hoàng đầu tiên trong 264 vị Giáo hoàng của Giáo Hội từ xưa tới nay, chính thức xin thế giới, xin các tôn giáo, và xin mọi người đồng thời với việc xin Thiên Chúa tha thứ cho Giáo Hội.
Là một con người hiếu hòa, ưa thích sự hòa giải như thế, Đức Thánh Cha chắc chắn rất đau lòng khi nhìn thấy nhân loại thiếu khoang dung, chỉ nuôi lòng thù hận. Không đau lòng sao được, khi vị lãnh đạo của một tôn giáo lớn, nhìn thấy quê hương của Chúa Giêsu, người Palestine và người Israel cứ mải miết trong bạo lực, hận thù. Bức tường ngăn cách mà người Israel vừa dựng lên là bằng chứng cho thấy lòng khoan dung nơi con người đã thất bại nặng nề.
Mặt khác nguy cơ giết người trên cả thế giới nói chung và tại những điểm nóng của thế giới như: Apganixtan, Iraq…, lớn đến mức làm cho người ta phải sống trong hồi hộp từng ngày. Bởi thế lòng yêu thương con người là cần thiết, là điều kiện trên mọi điều kiện để nhân loại có hòa bình. Vì lòng yêu thương trước hết, sẽ làm cho lòng người không chấp nhất, không oán hận.
Đặc biệt, năm 1980, sau khi bị ám sát trọng thương, Đức Thánh Cha đã phải nằm viện một thời gian lâu. Nhưng ngay sau khi lành bệnh, ngài đã đến nhà tù thăm kẻ đã sát hại mình. Chính trong nhà giam ấy, vị Giáo hoàng của chúng ta như một người cha âu yếm đứa con của mình. Ngài thân thiện đến gần anh, trao cho anh tình thương và sự tha thứ. Ít lâu sau, anh đã được tha bỏng.
Vị Cha chung của Giáo Hội đã đi đầu trong vấn đề yêu thương và không oán hận, lẽ nào chúng ta không lấy đó làm gương cho mình mà sống với anh chị em xung quanh. Nhất là viễn cảnh của mùa Chay, mùa phụng vụ thích hợp nhất để sống tình yêu, lòng bác ái, lời xin lỗi và hối hận vì đã lầm lỗi.
Tôi nghĩ, việc giữ chay kiêng thịt, hy sinh hãm mình của chúng ta chỉ có kết quả thật sự khi bản thân biết xóa bỏ hận thù, oán ghét. Ăn chay mà lòng đầy căm giận thì thật là khó hiểu. Nhưng tha thứ không phải dễ. Ta phải chấp nhận nhiều sự từ bỏ lắm, chấp nhận hạ mình lắm mới mong lòng tha thứ thành công. Bởi vậy, có thể nói, lòng tha thứ chính là sự hy sinh hãm mình lớn nhất để ta sống trọn vẹn ý nghĩa của mùa Chay. Vì thế, bên cạnh nỗ lực cầu nguyện nhiều hơn, siêng năng lãnh bí tích hơn, nhất là bí tích giao hòa, ăn chay, hy sinh, hãm dẹp thói hư tật xấu, xa tránh tội lỗi, xa tránh dịp tội… lòng tha thứ không oán giận đối với anh chị em sẽ là một điểm sáng đáng để chúng ta nhân lên và cố gắng ngày một hơn.
Tuy đây chỉ là một quyết tâm riêng, nhưng cũng có thể coi là một lời đề nghị cụ thể chúng ta sống tinh thần mùa Chay. Vì việc rắc tro lên đầu là việc làm nhắc nhỡ ta tự ý thức mình hèn mọn lắm, bé nhỏ lắm, yếu đuối lắm. Từ đó ta ý thức hơn về bản thân, đừng cố chấp lỗi lầm của anh chị em. Ta rắc tro lên đầu để bày tỏ lòng thống hối, vì thế đừng mang lòng thù hận mà xin rắc tro. Nhưng hãy yêu thương và hãy tha thứ. Vì yêu thương thì không oán giận.
Lm. Vũ Xuân Hạnh
-----------------------------------
Bài suy niệm thứ Tư Lễ Tro của Đức Gioan Phaolô II
VietCatholic News (21/02/2004 )
Suy niệm Thứ tư lễ Tro - Ý nghĩa sự Cầu Nguyện và Ăn Chay
Đức Gioan Phaolô II ngày 5/3/2003
1. Hôm nay, thứ Tư Lễ Tro, qua những lời của tông đồ Phaolô phụng vụ gởi tới tất cả người tín hữu một lời kêu gọi cải thiện mãnh liệt: "Nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hòa với Thiên Chúa" (2 Cor 5: 20). Mùa Chay là thời gian thuận tiện nhất, về mặt thiêng liêng, để nhận lấy lời khuyên này, cũng như đây là một thời gian cầu nguyện mãnh liệt hơn, thời gian sám hối và lưu tâm hơn tới các nhu cầu của những người anh em.
Với nghi thức xức tro hôm nay, qua việc tỏ lòng chân thành cải thiện, chúng ta công nhận mình là những người tội lỗi cầu xin đến sự thứ tha của Chúa. Như thế chúng ta bắt đầu đi vào một cuộc hành trình khắc khổ nhiệm nhặt, cuộc hành trình này dẫn chúng ta tới ba ngày Phục sinh, trung tâm điểm của năm phụng vụ.
2. Theo truyền thống Giáo hôi, tất cả mọi tín hữu hôm nay bắt buộc kiêng thịt và ăn chay, với sự miễn trừ duy nhất cho những kẻ bị ngăn trở vì lý do sức khỏe và tuổi tác. Ăn chay có giá trị lớn cho sự sống người Kitô hữu, đó là một nhu cầu tinh thần muốn liên hệ với Chúa tốt hơn.Mặc dầu quan trọng nhưng trên thực tế, những phương diện bề ngoài của sự ăn chay, cũng không lột hết khía cạnh của sự thực hành này. Phải kết hợp với sự ăn chay một lòng muốn chân thành tinh luyện nội tâm, ý muốn vâng theo thánh ý Chúa, và tình liên đới sâu sắc với anh em, nhất là những người túng thiếu nhất.
Như vậy, có một sự liên kết chặc chẽ giữa việc ăn chay và cầu nguyện. Cầu nguyện là nghe theo tiếng Chúa và ăn chay thì giúp cởi mở tâm hồn.
3. Khi chúng ta đi vào mùa Chay, chúng ta không thể không ý thức tới bối cảnh quốc tế hiện tại, trong bối cảnh này những căng thẳng đe dọa của chiến tranh đang giao động. Điều cần là mỗi người phải ý thức nhận lấy trách nhiệm và dấn thân trong một cố gắng chung ngõ hầu tránh đi một vụ xung đột thê thảm khác cho nhân loại. Vì lẽ này, tôi muốn hôm nay, Thứ Tư lễ Tro, là một ngày cầu nguyện và ăn chay để cầu xin hòa bình cho thế giới. Trước hết, chúng ta phải xin Thiên Chúa cải thiện tâm hồn, nơi bám rễ mọi hình thưc sự dữ và tất cả động lức hướng về tội lỗi, chúng ta phải cầu xin và ăn chay cho sự sống chung hòa bình giữa các dân tộc và quốc gia.
Khi bắt đầu buổi gặp gỡ, chúng ta đã nghe những lời khuyên của ngôn sứ: "Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau, và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến" (Is 2: 4). Và lại: "Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái" (ibid.). Trên hết biến động của lịch sử là sự hiện diện tối cao của Thiên Chúa, Đấng xét xử những chọn lựa của con người. Về phía Người [Đấng] sẽ đứng làm "trọng tài giữa các quốc gia" và "phân xử cho muôn dân tôc" (Ibid.). Chúng ta hướng tâm hồn chúng ta, để xin cho được một tương lai đầy công lý và hòa bình cho tất cả mọi người. Ý nghĩa này sẽ thúc giục mỗi người trong chúng ta tiếp tục trong sự cầu nguyện liên lỉ và nỗ lực dấn thân xây dựng một thế giới trong đó tính ích kỷ nhường chỗ cho tình liên đới và tình yêu.
4. Tôi cũng muốn đề nghị lại lời mời khẩn cấp cải thiện, sám hối và liên đới trong Sứ điệp Mùa Chay, đã phổ biến cách đây vài ngày, mà chủ đề Sứ điệp đó là câu có ý nghĩa trong sách Công Vụ các Tông đồ: "Cho thì có phúc hơn là nhận" (x. 20: 35).
Trên thực tế, chỉ bằng trở về với khả năng lập luận này mới có thể xây dựng một trật tự xã hội biểu thị đặc điểm, không phải cho một sự quân bình tạm bợ đến các quyền lợi xung đột, nhưng là một sự tìm kiếm đúng đắn và lợi ích chung. Những người Kitô hữu trong mọi lãnh vực của cuộc sống, được kêu gọi sống quãng đại như chất men, như thế là dấn thân đến sự phát triển công dân và luân lý đích thực cho xả hội. Về việc này, tôi đã viết:"Cắt giảm cho mình không phải những cái dư thừa, nhưng còn cắt giảm hơn nữa để bố thí cho những người thiếu thốn, góp phần hy sinh mà không có nó thì không có sự thực hành đích thực sống đời Kitô hữu " ( No 4: [daily] L Osservatore Romano,Feb. 7, 2003,p.5).
5. Chúng ta bắt đầu mùa Chay với những ngày cầu nguyện và ăn chay xin ơn hòa bình, ước chi những ngày này trở thành những nghĩa cử hòa giải cụ thể. Từ gia đình cho tới lãnh vực quốc tế, ước gì mỗi người cảm thấy và biến mình thành người đồng-trách nhiệm trong việc xây dựng hòa bình. Và Chúa hoa bình, Đấng thấu suốt những ý nghĩ trong tâm hồn và kêu gọi những người kiến tạo hòa bình là con cái mình (x.Mt. 5: 9), họ sẽ không thiếu trong phần thưởng của Người (x. Mt 6: 4,6,18).
Chúng ta phó thác những ước muốn của chúng ta cho sự cầu bàu của Đức Trinh Nữ Maria, Nữ vương Rất Thánh Mân côi và là Mẹ Hòa bình. Xin Mẹ nắm tay chúng ta và đồng hành với chúng ta trong suốt 40 ngày tới lễ Phục sinh, để chiêm ngắm Đức Chúa Phục Sinh.
Tôi cầu chúc mỗi người hưởng một mùa Chay tốt đẹp và hữu ích!
Đức Ông Phêrô Nguyễn Quang Sách
-----------------------------------
VietCatholic News (23/02/2004 )
Sứ điệp của tro
1. Sau buổi lửa trại một đống củi được đốt thắp sáng lên lúc chiều tối, sáng hôm sau chỉ còn lại một nắm tro tàn nguội. Ngày tháng đời sống con người cũng như vậy. Những lời chân tình trao cho nhau như than hồng nồng cháy, những ước vọng nhiệt huyết hăng say làm sưởi ấm lòng người, sau cùng cũng biến thành tro tàn.
Lời kinh Thánh nhắn nhủ. Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro, một mai nguời sẽ trở về bụi tro!
2. Tro tàn còn lại sau trận hỏa hoạn
Tro tàn từ đống sách báo bị thiêu đốt hủy diệt
Tro tàn sau trận chiến chém giết nhau bên Sarajevo, bên Irak, bên Haiiti, bên Congo, bên Hiroshima, bên Viêtnam, bên Ñông Timor, bên Afghanistan...
Tro tàn gắn liền với lịch sử đời sống con người: tro tàn của tội lỗi.
Và tro tàn cũng do tội lỗi, thiếu xót của lịch sử từng cá nhân còn lưu lại: một tâm hồn tan hoang chán chường thất vọng, đổ vỡ không còn muốn nhìn về đằng trước. Vì niềm tin, niềm hy vọng đã cạn, như lời Ñức Mẹ Maria nói với Chúa Giêsu: Họ hết rượu rồi!
Lời kinh Thánh nhắn nhủ. Hỡi người hãy nhớ mình là người tội lỗi. Tội lỗi là đống tro tàn trong tâm hồn đời sống.
3. Sau mùa gặt hái, rơm rạ cây khô cỏ dại ngoài đồng ruộng được đốt cháy chỉ còn lại tro bụi. Bụi tro đó thẩm thấu xuống lòng đất và biến thành chất phân bón sức sống cho cây lúa, cho hạt giống nẩy mầm đời sống mới của mùa gieo trồng kế tiếp.
Trong lò lửa, than củi bị đốt cháy, tạo nên sức nóng cực mạnh làm nung chảy vàng bạc kim loại và từ đấy lọc tẩy ra, đúc thành khuôn mẫu hình thù mới. Ñời sống con người cũng bị thử thách trôi luyện như vậy, để trở thành một „người mới khác“.
Hỡi người hãy biết mình được tạo dựng sinh ra cho sự sống, cho tốt lành thiện hảo. Hãy về với niềm tin và đặt tin tưởng vào Thiên Chúa, Ñấng là nguồn sự sống mình!
LM Nguyễn ngọc Long
-----------------------------------
VietCatholic News (23/02/2004 )
Mặc áo bao bị và rắc tro lên người.
Từ thế kỷ thứ sáu sau lễ Chúa Gíang sinh, ngày thứ tư trước chúa nhật thứ sáu trước lễ Phục sinh bắt đầu vào mùa chay. Thời gian mùa chay chuẩn bị mừng lễ Chúa Giêsu phục sinh kéo dài 40 ngày. Theo tập tục trong Hội Thánh Công giáo, người tín hữu ăn năn sám hối trong ngày này được xức tro trên đầu.Vì thế ngày thư tư này được gọi thành thứ tư lễ tro.
Nhưng tại sao lại dùng tro?
Ngày xưa khi ai làm việc gì không chính đáng, họ thường xức tro lên đầu để tỏ dấu chỉ ăn năn hối lỗi quyết tâm làm điều lành, tránh sự xấu. Tro là dấu chỉ lòng ăn năn thống hối.Mỗi khi trông thấy tro bụi chúng ta liên tưởng ngay đến những gì đã qua. Như một cánh đồng, một căn nhà, một khu phố sau cơn hỏa hoạn chỉ còn lại đống tro tàn.
Tro là dấu chỉ của sự chết. Nhưng tro cũng dùng để tẩy rửa. Tôi còn nhớ khi còn bé, mẹ tôi thường dùng tro mỗi ngày để rửa ly cốc, chùi nồi niêu xoong chảo cho sạch. Cũng ngày xưa, khi chưa có bột giặt, xàphòng, ở thôn quê người ta cũng thường dùng nước lọc từ tro để tẩy giặt quần áo.
Tro là dấu chỉ sự tẩy rửa.Sau mùa cày cấy thu hoạch hoa qủa mùa màng người ta thường đốt những rơm rạ cỏ cây ngoài đồng, không chỉ nguyên cho ruộng đồng gọn gàng sạch sẽ, nhưng còn để lấy chất phân bón từ tro cho đất đai ruộng đồng. Tôi còn nhớ chỗ ruộng đồng nào có phèn chua lúa mạ không phát triển được, người ta thường đem tro đến rải cho hạ chất chua phèn. Sau vài lần, đất sẽ thuần thục phì nhiêu trở lại.
Tro là chất làm cho đất ruộng mầu mỡ trở lại. Tro mang lại sự sống mới.
Tro là tập tục dấu hiệu của sự chóng qua mau tàn lụi và lòng ăn năn sám hối bên vùng Trung Ñống. Theo tập tục bên Do Thái trong Kinh thánh còn ghi lại: Tro được dự trữ dùng làm nước tẩy uế (Ds 19,9). Ông Áp-ra-ham đã khiêm hạ trước mặt Thiên Chúa nhận mình là thân tro bụi (St 18,27). Rắc tro trên đầu cũng là nghi lễ sám hối trong niềm tin đạo giáo văn hóa thời xa xưa bên Do Thái ( 2 Sam 13,19 - 1 Macabe 3,47). Mặc áo vải thô và rắc tro trên đầu là dấu chỉ lòng ăn năn thống hối của con người với Thiên Chúa ( Eth 4,1, Mt 11,21).
Từ thế kỷ thứ 10. mỗi khi xức tro ngày thứ tư lễ tro thầy cả vẽ hình thánh gía trên trán hay đỉnh đầu người đến lãnh nhận tro. Tro không chỉ được dùng trong lễ nghi thống hối xức tro hằng năm ngày thứ tư lễ tro, nhưng còn được dùng trong nghi lễ nhậm chức đăng quang của đức giáo hoàng mới được bầu lên. Theo tập tục lễ nghi, trước mặt đức giáo hoàng mới được bầu, vị hồng y niên trưởng đốt những sợi chỉ ra tro, để nhắc nhớ vị tân giáo hoàng: tất cả chỉ là bụi tro mau qua chóng tàn, không là gì hết!
Cũng từ thế kỷ thứ 12. tro ngày thứ tư lễ tro được đốt từ những cành lá dừa ngày chúa nhật lễ Lá năm trước và sau đó được làm phép để xức trên trán hay đỉnh đầu.
Và khi xức tro trên đầu hay trên trán, linh mục vẽ hình thánh giá và đọc lới kinh thánh: Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro và sẽ trở về tro bụi!
Vậy hình thánh giá có ý nghĩa gì?
Hằng ngày chúng ta làm dấu thánh gía hay mang trên mình cây thánh gía. Thánh gía là dấu hiệu của ChúaGiêu. Thánh gía nhắc nhở cho ta: Chúa Giêsu chịu chết trên thánh gía vì loài người chúng ta.Không chỉ trong nhà thờ, nơi tư gia chúng ta nhìn thấy thánh gía, nhưng còn nơi nghĩa trang nữa. Đó đây trên phần mộ người đã qua đời, người ta thường cắm cây thánh gía. Thánh gía không phải là hình phạt nhưng nhắc cho ta đến sự chết.Mỗi khi vẽ hình thánh gía hay ngắm nhìn thánh gía, chúng ta thấy ngay hai chiều dọc và ngang. Chiều dọc thẳng đứng từ trên xuống dưới nối trời và đất với nhau, liên kết con người với Thiên Chúa. Chiều ngang nối liền hai bên tả và hữu nói lên cuộc sống con người trong tương quan liên đới với nhau. Chúa Giêsu chết trên thánh gía cứu chuộc con người khỏi tội lỗi, mang lại sự sống. Thánhgiá không còn là biểu tượng của hình phạt sự chết, nhưng là dấu hiệu của sự sống. Hình thánh gía bằng tro xức trên trán nhắc ta: nhờ và qua Chúa Giêsu đời sống của chúng ta vẫn còn tiếp tục sau khi chết. Vì Chúa Giêsu qua thập gía đã mang lại sự sống cho linh hồn con người. Tro xức trên trán hay trên đỉnh đầu cũng nhắc cho ta luôn phải tỉnh thức. Vì con người yếu đuối hay sao lãng sống theo ý muốn riêng tư nghiêng theo điều xấu hơn theo điều lành ngay chính.
LM Nguyễn ngọc Long
-----------------------------------
VietCatholic News (23/02/2004 )
THỨ TƯ LỄ TRO
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Với ngày Lễ Tro hôm nay, Giáo Hội bắt đầu Mùa Chay. Có lẽ hai tiếng "Mùa Chay" làm chúng ta sợ hãi vì nó khiến ta nghĩ đến một thời gian khắc khổ, buồn rầu. Đành rằng Mùa Chay là thời gian ăn năn sám hối, hy sinh hãm mình. Nhưng tất cả những việc đó đều cần thiết để có được niềm vui tái sinh với Chúa trong Lễ Phục sinh. Cũng như người nông dân phải cực nhọc gieo vãi cấy cày thì mới có được mùa thu hoạch dồi dào.
Vì vậy ngay từ đầu mùa Chay này, chúng ta hãy đáp lại lời mời gọi của Giáo Hội, Mẹ nhân lành của chúng ta, mà bước vào thời gian này với tất cả tâm hồn quảng đại và chân thành.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Thân xác chúng ta chỉ là tro bụi và sẽ trở về với bụi tro, thế mà chúng ta lại quá chìu chuộng nó đến nỗi nhiều lần phạm tội hại đến linh hồn mình.
- Biết bao lần chúng ta giả điếc làm ngơ trước những tiếng cảnh cáo của lương tâm, để buông mình theo tội lỗi.
- Ngay cả những khi làm các việc đạo đức, chúng ta cũng làm theo hình thức bề ngoài chứ không vì lòng mến Chúa yêu người thực sự.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc 1: Ge 2,12-18
Nhân dịp nạn châu chấu hoành hành gây nên nạn thất mua đói khát (Ge 2,3-9), ngôn sứ Gio-en lên tiếng kêu gọi dân Do Thái sám hối:
* Sám hối là quay trở về với Chúa.
* Sám hối phải xuất phát tự cõi lòng chân thực chứ không phải chỉ có những việc làm bề ngoài ("Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng)
* Vì Thiên Chúa là Đấng rất từ bi, chắc chắn Ngài sẽ tha thứ cho kẻ thực lòng sám hối.
2. Đáp ca: Tv 50
Tv này bày tỏ tâm tình của người tội lỗi sám hối:
* Một mặt, tội nhân ý thức rõ về những tội lỗi của mình.
* Mặt khác, tội nhân cũng quyết tâm trở về với Chúa.
* Và tội nhân tin chắc mình sẽ được Thiên Chúa thứ tha.
3. Tin Mừng: Mt 6,1-18
Chúa Giêsu cảnh giác các môn đệ về mối nguy của thói hình thức ngay khi họ thực hành những việc đạo đức như ăn chay, cầu nguyện và bố thí:
* Những việc đạo đức ấy vừa tốt vừa cần thiết.
* Nhưng điều quan trọng nhất là tâm tình khi làm những việc đó: chỉ nên làm vì lòng mến Chúa yêu người.
* Nếu chỉ làm vì mong được tiếng khen của người đời thì tất cả sẽ trở nên vô ích.
4. Thánh Thư: 2 Cr 5,20-6,2
Thánh Phaolô hiểu sám hối là "làm hòa lại với Thiên Chúa": tội lỗi đã phá huỷ những liên hệ hài hòa giữa con người với Thiên Chúa. Sám hối là tái lập những liên hệ ấy. Thời gian sám hối chính là "thời Thiên Chúa thi ân, thời Thiên Chúa cứu độ".
IV. GỢI Ý GIẢNG
1. LỊCH SỬ Ý NGHĨA THẦN HỌC CỦA THỨ TƯ LỄ TRO
Ngày Thứ Tư Lễ Tro, chúng ta nghe văng vẳng lời thánh ca từ Sách Sáng thế: Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro. Lời Kinh thánh này nhắc nhở chúng ta ý thức về thân phận con người qua biểu hiệu "bụi tro" được dùng trong Kinh thánh và trong nghi lễ ngày Thứ Tư đầu Mùa Chay. Trong bài viết này tôi sẽ nói qua về lịch sử và ý nghĩa thần học phụng vụ của Ngày Thứ Tư Lễ Tro.
a/ LỊCH SỬ THỨ TƯ LỄ TRO
Những Quy luật tổng quát của Năm phụng vụ nói về ngày Thứ Tư Lễ Tro như sau: "Mùa Chay bắt đầu từ Thư Tư Lễ Tro và kết thúc ngay trước Thánh lễ Tiệc Ly. Ngày Thứ Tư đầu Mùa Chay có xức tro; ngày đó khắp nơi ăn chay" (số 28 và 29). Lời chỉ dẫn này cho chúng ta biết ý nghĩa của Ngày Thứ Tư Lễ Tro trong Năm phụng vụ, cũng như trong suốt Mùa Chay thánh. Với Thứ Tư Lễ Tro, Giáo hội bắt đầu Mùa Chay. Ngoài ra trong cơ cấu phụng vụ của ngày này, Giáo hội cử hành lễ nghi làm phép tro và xức tro.
Trong truyền thống phụng vụ từ thế kỷ thứ 7, Ngày Thứ Tư Lễ Tro là một ngày quan trọng, và không một lễ nào có thề vượt lên trên. Người ta cũng gọi ngày này là "Đầu Mùa Chay" (Caput ieiunii), hay " Đầu Mùa ăn chay 40 ngày" (Caput Quadragesimalis). Việc ăn chay trong Mùa này đã có từ thời Đức Giáo Hoàng Gregoriô Cả (590-604).
Về nghi thức làm phép tro và xức tro, qua thời gian lễ nghi này đã có sự biến đổi từ một nghi thức nghi thức thống hối trong định chế về tập tục thống hối công cộng thời xưa. Lịch sử phụng vụ về việc thành hình Nghi thức cử hành bí tích thống hối và hòa giải, cũng như định chế Giáo hội về một số sinh hoạt đặc biệt, đã có tục lệ bỏ tro cho hối nhân công cộng đã phạm một số tội nặng cách công khai, mà mọi người đều biết, như chối bỏ đức tin, giết người, ngoại tình... Những người này bị loại ra khỏi cộng đoàn tín hữu. Để được nhận lại trong cộng đoàn, họ phải làm việc thống hối công cộng theo định chế Giáo hội đưa ra. Vào ngày thứ tư trước Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay, những hối nhân công cộng này sẽ tụ tập lại tại nhà thờ chính tòa, và sau khi xưng thú tội của mình, họ sẽ được Đức Giám mục trao cho chiếc áo nhậm mang trên mình, rồi lãnh nhận tro trên đầu và trên mình. Sau đó họ bị đuổi ra khỏi nhà thờ và được chỉ định đi tới một tu viện để ở đó và thi hành một số việc thống hối đã ra cho họ. Vào sáng thứ năm Tuần thánh, các hối nhân này tụ tập lại tại nhà thờ chính tòa, được Đức Giám mục xem xét việc thực hành thống hối của họ trong Mùa Chay, sau đó ngài đọc lời xá giải tội lỗi của họ để giao hòa với cộng đoàn. Từ đây họ được quyền tham dự các buổi cử hành bí tích. Tại Rôma, vào thế kỷ thứ 7, các hối nhân công cộng tập họp tại một số nhà thờ tước hiệu (tituli) của thành phố, cũng như tại 4 Đại Vương cung thánh đường thánh Phêrô, thánh Phaolô ngoại thành, thánh Gioan Lateranô và Đức Bà Cả, để cử hành nghi lễ như vừa nói trên đây.
Về sau định chế thống hối công cộng không còn nữa, tuy nhiên lễ nghi bỏ tro vẫn còn giữ lại trong ngày Thứ Tư Lễ Tro. Đầu tiên chỉ có các tín hữu lãnh nhận tro trên mình. Về sau các Đức Giáo hoàng và tín hữu đều lãnh tro, để tỏ lòng thống hối. Sang thế kỷ thứ 10, thì có việc làm phép tro và một lời nguyện kèm theo bắt chước cơ cấu thánh lễ, nghĩa là có lời nguyện giống như Kinh nguyện thánh thể, và việc lãnh nhận tro như khi cử hành việc rước lễ.
Vào thế kỷ thứ 11, cũng tại Rôma, Đức Giáo hoàng tập họp các giáo sĩ, giáo dân tại nhà thờ thánh Anastasia. Ngài làm phép tro, bỏ tro cho mọi người, sau đó tất cả đi kiệu về nhà thờ thánh nữ Sabina ở đồi Aventino. Trong khi đi kiệu, Đức Giáo hoàng và cộng đoàn hát kinh cầu các thánh. Tất cả đều mặc áo nhậm, đi chân không, để tỏ lòng thống hối ăn năn. Khi đoàn kiệu đến nhà thờ thánh Sabina, Đức Giáo hoàng đọc lời xá giải và cộng đoàn cùng hát bài "Chúng ta hãy thay đổi đời sống, Xức tro và ăn chay hãm mình, khóc than vì lỗi lầm đã phạm. Hãy khẩn cầu Thiên Chúa chúng ta. Vì Người rất từ bi nhân hậu sẵn sàng tha thứ mọi tội khiên" (Immutemur, xc. Ge 2, 13). Sau đó ngài cử hành thánh lễ. Đó là trạm đầu tiên (statio) của Mùa Chay. Ngày nay vào Thứ Tư Lễ Tro, Đức Giáo hoàng cũng đến làm phép tro và bỏ tro tại nhà thờ thánh nữ Sabina theo truyền thống xưa. Trước đó có cuộc rước kiệu từ nhà thờ thánh Anselmô cũng trên dồi Aventino. Tại nhà thờ thánh nữ Sabina, ngài công bố sứ điệp Mùa Chay cho toàn thể Giáo hội (Sứ điệp Mùa Chay năm 2002 mang tựa đề: Anh em đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho đi nhưng không (Mt 10,8).
Vào năm 1091, Công đồng Benevento (Nam Italia) đã truyền cử hành nghi lễ bỏ tro cho tất cả các nơi trong Giáo hội. Trong khi bỏ tro, vị linh mục đọc lời: "Ta là thân cát bụi sẽ trỏ về cát bụi" (St 3, 19). Tro này lấy từ những cành lá đã được làm phép trong ngày Chúa nhật Lễ Lá năm trước để lại. Trước công cuộc canh tân phụng vụ của Công đồng chung Vaticanô II, lễ nghi làm phép tro và bỏ tro được cử hành trước thánh lễ. Vào năm 1970, khi công bố Sách Lễ Rôma được tu chính, thì lễ nghi này được cử hành sau phần phụng vụ lời Chúa. Ngoài câu trích từ Sách Sáng thế, còn có thêm một công thức dùng khi bỏ tro, lấy từ Phúc âm: "Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng" (Mc 1,15). Với công thức mới này được thêm vào, thì biểu hiệu "tro" đã mang thêm một ý nghĩa mới nữa đó là việc canh tân đời sống trong suốt Mùa Chay thánh. Sau đây là một trong hai lời nguyện làm phép tro: "Lạy Chúa, Chúa nhân từ đối với ai khiêm tốn, và tha thứ cho kẻ biết ăn năn. Xin nghe lời chúng con khẩn nguyện và rộng tay giáng phúc cho hết thảy chúng con sắp nhận lấy tro này, để chúng con kiên trì giữ bốn mươi ngày chay thánh, và nhờ đó được nên tinh tuyền, xứng đáng cử hành mầu nhiệm Vượt qua của Đức Kitô, Con Một Chúa, Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời" (còn có một lời kinh khác trong Sách Lễ Rôma).
b/ Ý NGHĨA VIỆC BỎ TRO VÀ NGÀY THỨ TƯ LỄ TRO
Trong Cựu Ước, việc xức tro và mặc áo nhậm được dùng để thực hành và biểu lộ lòng thống hối cá nhân hay toàn thể cộng đoàn dân Israel. Tro chỉ thân xác chúng ta là bụi tro, sẽ phải chết (xc. St 3,18.27; Giob 34, 17; Gr 6, 26; 25, 34; Est 4,13; Is 58, 5; Dn 9,3; Giona 3,6; Giudith 4,16; 9,1).
Trong truyền thống các đan sĩ và tụ viện, tro được dùng để nói lên mối liên hệ với sự chết và sự khiêm nhường thống hối trước mặt Chúa. Vì thế, các tu sĩ, các đan sĩ có tục lệ tại một số nơi, muốn nằm trên đống tro với chiếc áo nhặm để chết. Thánh Martino thành Tours bên Pháp đã nói: "Không gì xứng hợp hơn cho một tu sĩ là việc nằm chết trên đống tro bụi". Các vị này lấy tro đã được làm phép trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, rồi vẽ hình thánh giá trên đất, trên đó còn trải thêm áo nhặm và rồi các vị nằm trên đó khi hấp hối và khi chết. Các tu sĩ cũng có thói quen trộn tro vào bánh như của ăn. Đó là một hình thức hãm mình nhiệm nhặt mà các tu sĩ phải giữ.
Từ đây chúng ta nhận ra, trước tiên Giáo hội đã đặt nền tảng cho việc thống hối, đó là nhìn nhận lại tình trạng nguyên tuyền của ơn thánh đã bị mất do tội nguyên tồ, và hậu quả là con người xa Thiên Chúa, trốn tránh Thiên Chúa. Con người sẽ phải chết như là một hậu quả của tội lỗi. Vì thế cần phải "quay trở lại" một cách tận căn, như ý nghĩa diễn tả qua từ "canh tân" trong ngôn ngữ Do thái, là quay ngược lại với 360 độ. Đàng khác suy tư về bụi tro, để cho thấy sự yếu hèn của mình và tính cách tùy thuộc vào Thiên Chúa vì con người được Ngài tạo dựng. Nhưng Thiên Chúa đoái thương và ban ơn cứu rỗi. Phụng vụ đã diễn tả nền tảng này qua các biểu hiệu và các lời kinh của ngày Thư Tư Lễ Tro.
Cùng với một số biểu hiệu khác được Giáo hội dùng trong Mùa Chay, như mầu áo lễ tím, không đọc Kinh Vinh Danh, không trưng bông hoa trên bàn thờ, không dùng đàn trong thánh lễ, bụi tro cũng được dùng để cho thấy tính cách thống hối của Mùa Chay và thân phận của con người hay chết.
Nói tóm lại, lễ nghi làm phép tro và bỏ tro trong ngày Thứ Tư Lễ Tro gợi ra cho tín hữu về một thời điểm quan trọng đang bắt đầu liên hệ tới ơn cứu rỗi của họ, đó là Mùa Chay. Đồng thời, lễ nghi khởi đầu này cũng đề ra cho tín hữu một hành trình phải đi theo trong thời gian suốt Mùa Chay.
Hành trình đó là thực hành các việc làm biểu lộ sự thống hối, sống bác ái; đàng khác, tín hữu cũng phải đi sâu vào tâm tình thống hối, khi suy tư về thân phận con người, về lỗi lầm của mình và nhu cầu khẩn thiết phải trở về, phải canh tân cuộc sống. Tuy nhiên, tín hữu không làm những việc này trong ý thức khổ hạnh cá nhân, nhưng là để hướng về ơn cứu rỗi Chúa Kitô đã thực hiện và Giáo hội đang chuẩn bị mừng trong đại lễ Phục sinh. Ngày nay các biểu hiệu bên ngoài, như thống hối công cộng, như mặc áo nhậm, như đi chân không trong cuộc hành hương, vv. không còn được thực hiện như xưa, vì hoành cảnh xả hội đổi thay, nhưng thái độ và ý chí thống hối, canh tân trở về vẫn phải in khắc sâu đậm trong thâm tâm mỗi người. Mỗi người sẽ tự đưa ra cho mình một số những thực hành thống hối trong cuộc sống cụ thể để biểu lộ ý nghĩa và tinh thần của lễ nghi xức tro. (Rôma ngày 9-2-2002. Lm. Phanxicô Borgia Trần Văn Khả)
2. SÁM HỐI LÀ QUAY VỀ
Các bài đọc hôm nay đều quy vào một chủ đề là quay về. Mỗi bài đọc triển khai một phương diện của sự quay về:
* Bài đọc 1: từ bề ngoài quay về bề trong: "Hãy xé lòng chứ đừng xé áo".
* Bài đọc 2: quay về với Thiên Chúa: "Hãy làm hòa với Thiên Chúa"
* Bài Tin Mừng: từ cách làm những việc đạo đức cốt cho người ta thấy quay về với cách làm chỉ cốt cho Thiên Chúa thấy.
3. CẦU NGUYỆN, ĂN CHAY, BỐ THÍ
Tại sao trong bài Tin Mừng mở đầu Mùa Chay, Chúa Giêsu nói về cầu nguyện, ăn chay và bố thí? Thưa vì 3 việc này, nếu được làm một cách đạo đức thật sự - nghĩa là làm không phải để được tiếng khen của người đời mà làm vì lòng mến Chúa yêu người chân thành - sẽ giúp chúng ta quay về chứ không còn lạc lối nữa (nghĩa chính xác của "sám hối" chính là "quay về").
* Chúng ta thường quá chìu theo ý mình, đến nỗi không biết đến ý Chúa. Cầu nguyện chân thành sẽ giúp chúng ta khám phá và làm theo ý Chúa.
* Chúng ta thường quá lo cho những nhu cầu vật chất, đến nỗi không để ý đến những nhu cầu tinh thần. Ăn chay sẽ giải thoát chúng ta khỏi quá bận tâm đến các nhu cầu vật chất, tự nhiên và sẽ thoả mãn những nhu cầu tinh thần, siêu nhiên.
* Chúng ta thường quá quan tâm đến bản thân mình đến nỗi quên để ý tới người khác. Bố thí là một cách giúp ta hy sinh bản hân để biết chia sẻ với người khác.
4. HÃY LÀM HÒA LẠI VỚI THIÊN CHÚA
Mọi người chúng ta đều có kinh nghiệm về sự đổ vỡ, bất hòa... Hai người bạn trở thành lạnh nhạt, hai người tình trở thành xa lạ, hai vợ chồng trở thành người dưng...
Đổ vỡ và bất hòa sinh ra đau khổ, tiếc nuối cho các đương sự, và còn ảnh hưởng tới một số người khác như con cái, anh em, bạn bè...
Thánh Kinh đã không ngại dùng hình ảnh loài người để mô tả Thiên Chúa: Thiên Chúa là một người tình, một người chồng hết mực yêu thương loài người. Nhưng mối tình này mang tính đơn phương nhiều hơn là song phương, và đã bao lần đổ vỡ.
Khi đổ vỡ, phía nào yêu tha thiết hơn sẽ tích cực tìm cách làm hòa hơn. Thiên Chúa chính là phía này. Ngài đã làm rất nhiều cách. Và cách cuối cùng vượt quá sức tưởng tượng của loài người: Ngài đã cho Con Một thân yếu của mình hạ mình đến với loài người, ngõ lời yêu thương với loài người, sống chung với loài người, tha thứ hết mọi tội lỗi của loài người và chết thay cho loài người.
Thiên Chúa đã đi bước trước và Ngài đã làm tất cả những gì có thể làm. Chỉ còn chờ chúng ta. Chúng ta sẽ làm gì để làm hòa lại với Ngài?
5. THẾ NÀO LÀ HOÁN CẢI
Có 2 anh em ruột kia rất thương nhau, thông cảm nhau, và cùng có một mơ ước cao đẹp là sẽ sống một cuộc đời hết sức thánh thiện.
Lớn lên, người anh cưới vợ, sinh con, chăm chỉ làm ăn và cũng không quên những bổn phận đạo đức hằng ngày. Còn người em thì đi tu, thành một thầy dòng ngày ngày đi khắp nơi giảng đạo và giúp đỡ những người nghèo.
Rồi một ngày kia người em làm thầy dòng trở về quê thăm lại anh mình. Hai anh em nói chuyện với nhau thật nhiều về cuộc sống và tâm tư của mình. Người anh khám phá ra rằng ngày xưa hai anh em tâm đầu ý hiệp như thế, mà sao bây giờ lại khác nhau quá xa: người em thì vẫn thích thánh thiện như xưa và còn thánh thiện hơn xưa nữa, còn mình thì sao quá tầm thường không còn chút mơ ước nào về lý tưởng thánh thiện ngày xưa nữa.
Người anh tìm đến một vị ẩn sĩ để hỏi cho biết nguyên do sự khác biệt ấy. Vị ẩn sĩ không trả lời thẳng mà dùng những hình ảnh thiên nhiên để giải thích cho anh:
* Trước tiên là đám mây trên trời: thường thường bầu trời ngày nào cũng có những đám mây, nhưng không có đám mây ngày nào giống đám mấy ngày trước. Cũng là mây, nhưng mây ngày nay khác mây ngày hôm qua.
* Kế đến là một cái cây xanh: nó vẫn luôn luôn là cây thông xanh rì, nhưng năm trước nó nhỏ hơn, năm nay nó đã lớn hơn và cao hơn một tí, năm sau nó sẽ lớn và cao hơn tí nữa. Có nhiều cái lá của năm trước mà năm nay không còn, và có nhiều chiếc lá của năm nay sẽ rụng vào năm tới để thay bằng những chiếc lá khác.
* Và sau cùng chính là thân xác con người: các tế bào trong thân xác con người luôn luôn thay đổi: có cái chết đi và có cái sinh ra thêm. Khoa học tính rằng cứ sau 7 năm thì thân xác ta hoàn toàn đổi mới không còn một tế bào nào của 7 năm trước đây nữa: sợi tóc, móng tay, làn da của ta năm nay hoàn toàn không chứa một tế bào nào của sợi tóc, móng tay và làn da của 7 năm trước.
Và tới lúc đó vị ẩn sĩ mới kết luận: tâm hồn con người cũng thế: muốn lớn lên, muốn tươi trẻ mãi, muốn hăng say sinh động thì mỗi ngày cũng phải bỏ những yếu tố xấu và đồng thời thu vào những yếu tố tốt. Không đào thải đi và không thu nhận vào thì nó sẽ chết khô như một thân cây chết cứng chứ không còn là một thân cây sống động vươn lên nữa. Cái diễn trình đào thải và tiếp nhận ấy chính là cuộc hoán cải, cần phải hoán cải liên tục. Sở dĩ người anh cảm thấy mình tầm thường, khô cằn vì anh ta bấy lâu nay đã tự mãn với những cái mình đang có, không muốn bỏ đi cái nào và cũng không mong thu thêm cái nào nữa.
Câu chuyện tới đây kể ra cũng đủ kết thúc. Nhưng người anh còn muốn tìm hiểu rõ ràng hơn nên hỏi tiếp:
* Làm thế nào để loại bỏ những cái xấu trong tôi? Nó nhiều quá và nó đã bám quá chặt vào con người tôi? Vị ẩn sĩ trả lời: quan hệ nhất là đức tin và tư tưởng: tuy đời mình có nhiều tội lỗi, nhưng ta đừng quá chú ý tới nó,, đừng để mình bị nó ám ảnh, đừng nghĩ nhiều tới nó. Nếu lỡ phạm tội hãy sám hối, tin tưởng vào sự tha thứ của Chúa, rồi bỏ quên nó đi, phải coi thường nó. Đầu óc mình sẽ được thanh thản khỏi những điều xấu.
* Còn làm thế nào để thu nhận những điều tốt, người anh hỏi tiếp? Vị ẩn sĩ cũng trả lời: cũng quan trọng ở đức tin và tư tưởng: Phải quý chuộng những điều tốt, phải luôn nghĩ tới nó, phải để cho nó ám ánh tâm trí mình và phải mơ ước thực hiện cho kỳ được những điều tốt, và tin rằng Thiên Chúa sẽ giúp mình thực hiện được.
Người anh trong câu chuyện trên phản ảnh tâm trạng của chúng ta:
* Cuộc sống của chúng ta có thể nói là cứ mãi ở thế bình bình: chúng ta không đến nỗi xấu lắm mà cũng không được tốt lắm. Cái thế lình bình đó khiến chúng ta giống như một thân cây bị chai: không chết khô mà cũng không có sức sống vươn lên.
* Tại vì mỗi ngày chúng ta không biết cố gắng loại bớt khỏi ta những gì là xấu, là khuyết điểm, là tội lỗi và đồng thời cũng không cố gắng đón nhận những gì là tốt, là cao, là lý tưởng hơn. Nghĩa là vì chúng ta không chú ý thực hiện sự hoán cải hằng ngày cho nên hết ngày này sang ngày khác cuộc đời của chúng ta vẫn cứ chai lì, tầm thường, vô vị.
* Muốn cho cuộc sống có đà vươn lên thì phải thực hiện sự hoán cải ấy:
Mỗi ngày loại dần những cái xấu bằng cách đừng nghĩ tới nó, đừng tiếp xúc với nó, đừng mơ tưởng tới nó.
Mỗi ngày đón nhận thêm những điều tốt bằng cách đi tìm nó, chú trọng tới nó, mơ ước nó và cố gắng chiếm đoạt nó.
Bấy nhiêu thôi xét ra cũng đủ là một chương trình dài hạn cho chúng ta chẳng những trong mùa chay này mà còn trong suốt cả cuộc đời chúng ta.
6. TRO FB
Là bụi đường, cuốn theo chiều gió, là vật dơ lẻn vào khắp chốn khắp nơi, ai cũng tìm cách lau chùi cho sạch.
Là cái gì còn lại đó, khi tất cả đã cháy tiêu tan,
Là đô thị hoang tàn, vì những kẻ sát nhân đã phát điên nổi lửa;
Là mối tình bằng hữu hôm nay không còn nữa, vì tính ích kỷ của đôi bạn cố tri;
Là tình yêu của đôi vợ chồng, đã tan vỡ vì thói kiêu căng trong lòng anh, trong lòng chị
Là vẻ đẹp của ngày nào, nay trở thành nắm tro tàn lạnh lẽo
Là cái gì còn lại đó, khi niềm hy vọng của ta bị tiêu tan.
Là cái gì chung cuộc còn lại đó, khi kiếp sống của ta đến hồi kết liễu.
Thế con người là gì?
Con người không thể làm được chi, mà một ngày kia lại chẳng thành tro bụi.
Tro tàn là dấu hiệu cho thấy ta bé nhỏ, dứt khoát không thể làm được chi, Để có cơ may tồn tại.
Đa-vít, vua Ít-ra-en, tay anh hùng hào kiệt, đương lúc tuổi xuân, nhận biết mình tội lỗi, đã rắc tro lên đầu.
Vua thánh Lu-y, thấy mình sắp chết, đã bảo gia nhân khiêng đặt nằm trên tro, để đi nghênh đón Chúa.
Tro bám vào thân thể, như lớp bùn dơ:
Có ai còn nhận ra đó là vua nữa! Còn đâu vàng bạc, còn đâu quyền thế! Còn gì lôi cuốn, còn gì trẻ trung!
Khi lớp sơn hào nhoáng đã rơi rồi, thì còn lại con người thôi, với tội lỗi và yếu đuối, chờ Chúa đến thanh tẩy,
Gột rửa cho sạch mọi vết dơ, và đưa vào dự tiệc. (Charles Singer - Nguyễn Ngọc Tỉnh phiên dịch)
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, ngôn sứ Giôen đã nói với chúng ta: Hãy trở về với Thiên Chúa là Chúa của anh em, bởi vì Người nhân hậu từ bi, nhẫn nại và giàu ân nghĩa, thường bỏ ý định giáng phạt. Tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
1. Các ngươi hãy ăn chay / khóc lóc / rên siết mà hết lòng trở về với ta / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành phần Dân Chúa / biết chân thành sám hối vì những lỗi lầm đã phạm / và quyết tâm đổi mới đời sống trong mùa Chay thánh này.
2. Giữ chay tránh xa tội lỗi / sống bác ái với những người chung quanh / góp phần giải thoát những ai đau khổ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho hết thảy mọi Kitô hữu / biết giữ chay đúng như Chúa đã dạy.
3. Ta là thân cát bụi / sẽ trở về cát bụi / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu luôn ghi nhớ chân lý này / để dừng quá bám víu vào danh vọng / địa vị / của cải trần gian / vì tất cả đều sẽ qua đi.
4. Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh / nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết tích cực sống lời Chúa / để mùa Chay thánh đang về / đem lại cho chúng ta nhiều lợi ích thiêng liêng.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy chúng con: Anh em hãy có lòng từ bi, như Cha anh em là Đấng từ bi. Xin Chúa ban Thánh thần Tình yêu để Người làm cho chúng con trở nên những sứ giả đem tình thương của Chúa đến cho hết thảy mọi người. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Trước kinh Lạy Cha: Chúa Giêsu đã dạy chúng ta cầu nguyện không phải để cho người ta thấy, mà chỉ để Thiên Chúa là Cha chúng ta thấy. Vậy chúng ta hãy hướng trọn tâm hồn lên Ngài và dâng lên Ngài lời kinh Lạy Cha sau đây.
- Trước lúc Rước Lễ: "Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng hoàn toàn vô tội, nhưng sẵn sàng hiến thân chịu chết để xoá tội trần gian. Phúc cho ai được mời".
VII. GIẢI TÁN
Mùa Chay đã bắt đầu. Anh chị em hãy bắt đầu quay về: quay về với lương tâm trong lòng mình, quay về với tình nghĩa anh chị em vả quay về với Thiên Chúa là Cha nhân lành của chúng ta.
Lm. Carolô Hồ Bạc Xái
-----------------------------------
VietCatholic News (23/02/2004 )
THỨ TƯ LỄ TRO ( Năm C )
Tin Mừng: Mt 6, 1-6. 16-18
Anh chị em thân mến,
Theo truyền thống của Giáo Hội, hôm nay Thứ Tư Lễ Tro ngày khai mạc mùa chay thánh của toàn thể Giáo Hội Công Giáo trên khắp thế giới, ngày mà trong thánh lễ mỗi người đều được rắc tro trên đầu để nói lên ý nghĩa: con người là tro bụi và một ngày kia sẽ trở về với bụi tro.
Mùa chay là cơ hội lớn để mỗi người trong chúng ta làm hòa với Thiên Chúa và với tha nhân, là mùa mà có thể nói, ân sủng của Thiên Chúa tuôn đổ dạt dào trên thế gian cho mỗi con người thành tâm thiện chí biết cải đổi con người cũ của mình để quay về với Thiên Chúa tình yêu. Do đó mà Giáo Hội cho chúng ta nghe bài Tin Mừng hôm nay với chủ đề cầu nguyện và chay tịnh hết sức rõ nét: “Khi ăn cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả... Khi ăn chay, anh em chớ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả...”(Mt 6, 5. 16).
Có nhiều lúc chúng ta cầu nguyện thật lâu trong nhà thờ sau khi thánh lễ xong mà không biết rằng ông từ đang sốt ruột đợi chúng ta ra về để đóng cửa nhà thờ, chúng ta chỉ biết mình mà không biết người, đó là lỗi đức bác ái; có những lúc chúng ta đến nhờ cha sở chỉ dạy cho cách cầu nguyện, nhưng đợi lúc cha sở chuẩn bị dâng lễ rồi mới đến nhờ, làm cha sở phải tấn thối lưỡng nan: chỉ bảo cho thì không còn giơ vì sắp dâng lễ, không chỉ bảo thì lương tâm áy náy và có khi còn bị chúng ta hiểu lầm, thế là chúng ta lỗi đức bác ái. Thiên Chúa không muốn chúng ta phải cầu nguyện lâu giờ như thế, và Ngài cũng không muốn chúng ta “học giáo lí” trong những giây phút ấy nơi cha sở...
Mùa chay là thời cơ thuận tiện để chúng ta sửa đổi con người cũ của mình, con người cũ ngày hôm qua của chúng ta là kiêu ngạo với anh chị em, ngày hôm nay nhờ ơn Chúa giúp chúng ta sẽ sống khiêm tốn hơn; con người cũ ngày hôm qua của chúng ta là thích nổi giận nếu người khác không chiều theo ý của mình, ngày hôm nay chúng ta sẽ vui vẻ nói lời hòa nhã với tha nhân nếu họ không làm theo ý của chúng ta...
Anh chị em thân mến,
Cầu nguyện và hối cải phải đi đôi với nhau trong mùa chay và trong suốt cuộc sống của người Kitô hữu, cầu nguyện mà không hối cải thì giống như người làm công đòi ông chủ trả tiền công thật nhiều mà làm biếng làm việc, cũng vậy muốn hối cải con người cũ của mình mà không chịu cầu nguyện thì không thể làm sao mà hối cải, bởi vì chỉ có cầu nguyện chúng ta mới biết ý Chúa muốn chúng ta hối cải như thế nào, bằng không thì hom nay hối cải ngày mai càng sa đà hơn trong thói hư tật xấu của mình.
Xin Thiên Chúa là Cha của chúng ta, là Đấng biết tất cả mọi sự kín nhiệm trong tâm hồn của mỗi người, chúc lành và ban ơn cho chúng ta trong mùa chay thánh này biết luôn ý thức mình là con người tội lỗi để chúng ta sống đẹp lòng Chúa và anh chị em hơn.
Bài giảng Thứ Tư Lễ Tro tại nhà thờ Phục Sinh-Taiwan.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb
-----------------------------------
Thứ Tư - Lễ Tro:
Ge 2,12-18 ; Mt 6,1-6; Mt 6:1-6
"Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng. Vậy khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí được kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh. "Và khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy. Thầy bảo thật anh em: chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh.
******
A. Hạt giống...
1. Mở đầu Mùa Chay, Hội Thánh dùng lời ngôn sứ Gio-en để chỉ cho chúng ta thấy phải sống Mùa Chay như thế nào:
- “Hãy thật lòng trở về với Ta”
- “Hãy xé tâm hồn chứ đừng xé áo”
2. Trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu dạy về 3 việc đạo đức tiêu biểu mà người do thái thường làm, đó là bố thí, cầu nguyện và ăn chay. Qua 3 việc tiêu biểu này, chúng ta có thể hiểu về tất cả những việc đạo đức khác.
- Khi làm, đừng quá chú trọng đến vẻ bề ngoài của những việc đó (“khua chiêng đánh trống”, “trong hội đường hay ở ngã ba đường”, “làm cho ra vẻ thiểu não”)
- Đừng làm để được người ta khen (“cốt để người ta khen”, “cho người ta thấy”, “để thiên hạ thấy là chúng ăn chay”)
- Mà hãy làm cách kín đáo (kín đáo: không có nghĩa là dấu diếm người ta, mà là không có ý khoe khoang) nhưng và chỉ cốt làm vui lòng Cha trên trời.
B.... nẩy mầm.
1. Trong Mùa Chay, chẳng những ta gia tăng những việc đạo đức (phương diện lượng) mà còn phải lưu ý làm những việc đó với tâm tình sốt sắng hơn (phương diện phẩm).
2. Một việc đạo đức đang đi vào quên lãng, đó là Bố Thí. Giá trị của việc bố thí: a/ “Đồng tiền liền khúc ruột”, do đó bố thí có giá trị hy sinh lớn ; b/ Bố thí giúp ta bớt dính bén tiền bạc ; c/ Bố thí còn là một cách đền tội: Sách Tôbia nói “Việc bố thí thanh tẩy khỏi mọi tội lỗi” (Tb 12,8-9).
3. Rượu chè: Khi ông Nôe trồng nho, Satan lấy làm lạ nên tiến lại gần hỏi:
- Ông đang trồng cây gì thế ?
- Cây nho.
- Nó có lợi gì không ?
- Có chứ. Trái nó vừa đẹp mắt, vừa ngon miệng. Từ trái nho ta còn có thể làm ra rượu giúp lòng người hưng phấn nữa.
- Vậy thì để tôi giúp ông.
Satan mới giết một con chiên, một con sư tử, một con lừa và một con heo. Lấy máu của chúng tưới gốc cây nho. Thế là cây nho lớn nhanh. Noe lấy trái nho làm rượu.
Từ đó trở đi khi người ta uống một chút rượu vào thì sẽ vui vẻ dễ thương như con chiên ; uống thêm chút nữa thì mạnh bạo như sư tử ; Nếu chưa ngưng mà còn uống thêm thì sẽ ngu như lừa ; nếu lại uống nữa thì... hoàn toàn như con heo vậy. (Truyện cổ Nước Pháp).
4. Chỗ ở của chuột: Có một con chuột sống trong một ngôi nhà thờ cũ kỹ ở miền quê. Một hôm nó đi lang thang dạo mát bỗng gặp một con chuột khác cũng đang đi chơi. Nó liền được dịp tâm sự: “Tôi sống chui rúc dưới gầm một toà giải tội. Nhưng chẳng được yên thân vì hầu như lúc nào cũng có người xưng tội, phá giấc ngủ của tôi.” Nghe thế, con chuột kia nói: “Vậy bạn hãy dọn đến chỗ ở của tôi. Chỗ ấy ấm áp sạch sẽ mà chẳng mấy khi có người quấy rầy, yên tĩnh lắm. “Ô thế bạn ở đâu vậy ?” - “Tôi ở trong thùng tiền cứu giúp người nghèo.” (Trích "Món quà giáng sinh")
5. (những mầm khác)
VietCatholic News (24/02/2004 )
Tro và bụi
Ngày thiên Chúa làm nên con người từ bụi đất, ngày ấy mở ra một huyền nhiệm mới của thân bụi tro. Bụi tro hoá thành người, một tro bụi linh thiêng bước vào cõi thế của ngày tinh khôi. Tro bụi ấy đến rồi đi, để rồi giữa đi và đến, tro bụi hoá kiếp linh thiêng còn mãi hồn linh buớc vào cõi sống. Loài tro bụi nhiệm mầu, loài tro bụi tội lỗi và một tro bụi ăn năn.
Tro bụi nhiệm mầu: Biết yêu thương và được yêu thương.
Huyền nhiệm của ngày sáng thế, Thiên Chúa đã làm nên mọi sự, để rồi hoàn tất công trình ấy, “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ”. Tro bụi được Thiên Chúa yêu thương để rồi không còn là tro bụi của hư không. Tình yêu đã làm tro bụi thức dậy từ bụi đất: “ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật”. Một sinh vật nhiệm màu được yêu thương và biết thương yêu: “Con người nói: "Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra.".
Tình yêu biến đổi thân phận, từ tro bụi hoá thành con người mang trái tim, một tro bụi biết ngỏ lời và sống tình yêu để thân phận bụi tro ấy từ nay hiện hữu. Tình yêu của những ngày đầu chưa hề vương tội lỗi như một tình yêu của những ngày tinh khôi, của những ngày mộng mơ, tình yêu ấy chưa có giận hờn, ghen oán.
Thiếu một chút cay, ít một chất đắng, kém một chất nồng, có lẽ tình yêu cũng thiếu nhiều hương vị. Nếu tình yêu ấy không có Eva, như tình yêu không có hương vị, mãi mãi Adam trong mối tình đơn độc, một tình yêu vị kỷ, một tình yêu héo gầy và chỉ mong mãi là tro bụi. Eva đã đến và họ bước vào đời nhau, và cũng ngày ấy, bắt đầu có những cám dỗ họ dẵm lên đời nhau. Từ ấy, trái cấm được truyền tay để đi hết vòng thân phận và để có lúc hát vào dòng đời một “cát bụi tuyệt vời”, giống như Bùi Giáng có lần đã viết: “Ngày sẽ hết, tôi sẽ không còn ở lại; tôi sẽ đi và không biết đi đâu; tôi sẽ tiếc thương trần gian này mãi mãi; bởi nơi đây tôi sống đủ vui sầu”.
Cát bụi tuyệt vời:
Con người bởi đất nhưng con người không bằng đất, con người có sinh khí, có hơi thở. Con người không chỉ là kết quả của cuộc giao hoan của các vị thần linh, sự biến dịch qua lại giữa âm và dương... Theo quan niệm trong Nho giáo: “người là cái đức của Trời Đất, sự giao hợp giữa âm dương, sự tụ hội của quỷ thần, cái khí tinh tú của ngũ hành” cho dù có cao cả trên hết vạn vật, mang cái đức của trời đất, đựợc linh tụ bởi tinh tú, sự kết hợp giữa thần linh, nhưng cũng không tương xứng độ cao thật với con người theo cách diễn tả của Thánh Kinh. Con người là hoạ ảnh và hình ảnh của Đấng dựng nên mình. Sự cao cả của con người là bắt nguồn từ chính Đấng là Sự Sống, Đấng Hằng Sống, con người là hình ảnh và hoạ ảnh của Đấng vô thuỷ vô chung, nên sự sống con người mang hình thái bất diệt, vượt xa các loài được tạo dựng. Lòng thương xót của Thiên Chúa không dựng nên con người, theo cái bên ngoài của Thiên Chúa, nhưng cho con người mang hoạ ảnh và hình ảnh của Người. Theo quan niệm của Nho Giáo, con người là sự tích tụ của tinh thần và khí chất nên con người có sự sáng suốt để hiểu các sự vật. Là hoạ ảnh và hình ảnh của Thiên Chúa, con người có một phẩm giá trổi vượt trên các loài được tạo dựng, con người một phần giống Thiên Chúa bởi quyền cai quản trên vạn vật và bởi con người có trí khôn, tự do…
Một cát bụi ngỏ lời với Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng nên mình, không những chỉ là ngỏ lới mà còn có những lần mặc cả, khi Thiên Chúa muốn ra tay tiêu diệt: "Mặc dầu con chỉ là thân tro bụi, con cũng xin mạn phép thưa với Chúa: Giả như trong số năm mươi người lành lại thiếu mất năm, vì năm người đó, Ngài sẽ phá huỷ cả thành sao? " Chúa đáp: "Không! Ta sẽ không phá huỷ, nếu Ta tìm được bốn mươi lăm người." Một cát bụi không do ngẫu nhiên của quy luật tiến hoá hình thành, cũng không do sự luân chuyển của sự phát triển âm dương, đó một cát bụi tuyệt vời được mời gọi bước chân vào sự sống, có đối thoại, có ý thức và tự do. Chính vì lẽ đó mà cát bụi có thể phân bua mặc cả với Đấng Tạo Dựng về thân phận của mình. Không cứ gì Người dựng nên nó có quyền huỷ diệt nó mà lại không tìm hiểu, trao đổi cùng nó. Tình thương sáng tạo nên cũng tình thương cứu vớt, cát bụi hoá thân, để Người “nghiêng trời ngự xuống” và cát bụi cứ hoài băn khoăn:“ Lạy CHÚA, con người có là chi, mà Chúa cần biết đến? Phàm nhân đáng là gì, mà Chúa phải lưu tâm? Ấy con người khác chi hơi thở, vùn vụt tuổi đời tựa bóng câu. Lạy CHÚA, xin nghiêng trời ngự xuống, chạm núi cao cho toả khói mịt mù”;Cát bụi tuyệt vời là thế, giống như đất sét trong tay người thợ gốm mà cũng khác với bình sành dễ vỡ, bởi tay người thợ gốm giữ gìn.
Cát bụi được Thiên Chúa viếng thăm, tìm kiếm khi thất lạc, mở đường khi bít lối, cứu thoát khi bị bủa vây, vượt xa trên những quan niệm định mệnh mà Trương Xa Tử viết trong sách Ngọc Linh Kinh “Điều lành dữ của con người ta đều tuỳ thuộc ở ngày chịu kết thai, ai cũng chịu ảnh hưởng cái tính chất của tinh tú trên trời. Người gặp được thánh tú thì thành ông thánh, gặp được hiền tú thì thành ông thánh hiền, gặp ông văn tù thì thành nhà văn, gặp được ông võ tú thì thành nhà võ, gặp được quý tú thì sang, gặp được phú tú thì giàu, gặp phải tiện tú thì hèn...” Mỗi người theo quan niệm ấy, có một ngôi sao định mệnh chiếu chỉ. Nếu hạt bụi hóa kiếp gặp ngôi sao xấu, mang theo mình cả một định mệnh xấu, cả đời lâm lũi trong đường tối tăm,hạt bụi nào dám hoá kiếp để rồi lênh đênh mười hai bến nước, bến đục, bến trong? Có định mệnh nào không khi Con Thiên Chúa lựa chọn làm người, mang một thân phận bụi đất, một thân phận trong những người nghèo? Định mệnh có chăng là một cuộc hoán đổi, Con Thiên Chúa làm người để con người trở thành con Thiên Chúa, trở thành nghèo khó để con người được giàu có trong ân sủng. Vượt quá xa quan niệm của hạt bụi hoá kiếp làm người của chúng ta. Thiên Chúa làm đổi thay những ý niệm để những hạt bụi thôi đừng xô nhau, hạt bụi hoá kiếp nào cũng mang một định mệnh được sống và sống dồi dào. Hãy tạo những môi sinh để con người được sống, đó là định mệnh chung của những hạt bụi hoá kiếp.
Tro bụi ăn năn.
Là tro bụi nhưng một tro bụi đầy những tham vọng, thân thể hữu hạn mà ước vọng không cùng. Phù vân cho những tham vọng bất chính, từ bụi tro sẽ về với bụi tro.
“Vì ngươi chồng chất tội, vì ngươi buôn bán bất lương, nên các thánh điện của ngươi đã ra ô uế. Bởi thế, từ nơi ngươi, Ta cho phát ra một ngọn lửa thiêu rụi ngươi; Ta biến ngươi thành tro bụi trên mặt đất trước mắt mọi kẻ đang nhìn ngươi”.
“Làm sao tro bụi lại dám kiêu căng, vì ngay khi còn sống, nó đã bị xổ ruột? Cơn bệnh kéo dài, giễu cợt cả thầy thuốc, kẻ nay xưng hùng xưng bá, mai đã theo tử thần. Khi chết, gia tài người ta thừa hưởng là côn trùng, sâu bọ và rắn rết. Con người bắt đầu kiêu căng khi lìa xa Đức Chúa, khi lòng nó lìa xa Đấng Tạo Thành. Vì đầu mối của kiêu căng là tội lỗi, và kẻ quen thói kiêu căng thì rắc gieo ghê tởm; vì thế Đức Chúa đã gửi đến những gian truân, và tiêu diệt chúng hoàn toàn.”
Tro bụi gục đầu ăn năn, khi nhận biết sự nhiệm màu của hạt bụi ngày nào được thương yêu, như kinh nghiệm của ông Gióp:
“Trước kia, con chỉ được biết về Ngài nhờ người ta nói lại, nhưng giờ đây, chính mắt con chứng kiến. Vì thế, điều đã nói ra, con xin rút lại, trên tro bụi, con sấp mình thống hối ăn năn.”
Trong Kinh Dịch, người xưa đi tìm kiếm bằng kinh nghiệm để “biết được đạo trời mà chỉnh ngay đạo nhân”, giống như tác giả sách Giảng viên kinh nghiệm:
“Chính tôi đã thấy rằng: điều tốt lành và thích hợp cho con người là ăn uống và hưởng những thành quả do công lao khó nhọc mình làm ra dưới ánh mặt trời trong suốt cuộc sống Thiên Chúa ban cho mình. Bấy giờ người đó không còn quá bận tâm về cuộc sống ngắn ngủi của mình nữa, vì Thiên Chúa đã làm cho tâm hồn người đó được tràn ngập niềm vui.”
Tro bụi làm người và người đừng làm tất cả trở thành tro bụi. Hãy tìm kiềm điều bền vững để thân tro bụi này trở thành bất tử và tìm thấy niềm vui của tro bụi hoá kiếp.
Lm Giuse Hoàng Kim Toan
-----------------------------------
VietCatholic News (24/02/2004 )
Thứ Tư Lễ Tro
HÃY XÉ LÒNG
(Ge 2, 12 - 18)
Mùa Chay được khởi đầu bằng nghi thức xức tro trên đầu. Nghi thức này bắt nguồn từ truyền thống xa xưa của dân Do thái. Trong Cựu ước, mỗi khi muốn tỏ lòng ăn năn hối cải, người Do thái thường xức tro trên đầu, ngồi trên đống tro và mặc áo vải thô hoặc xé áo ra.
Cựu ước nói nhiều đến tập tục này. Nhưng dễ nhớ nhất là truyện dân thành Ni-ni-vê. Ni-ni-vê là một thành phố lớn. Nhưng dân chúng ăn chơi truỵ lạc, phạm nhiều tội lỗi. Thiên chúa muốn tiêu diệt thành này. Trước khi phạt, Chúa sai ngôn sứ Gio-na đến báo động. Nghe vị ngôn sứ nói Chúa sắp trừng phạt, dân thành sợ hãi bảo nhau bỏ đàng ăn chơi tội lỗi, tha thiết ăn chay cầu nguyện, mặc áo vải thô, ngồi trên đống tro. Thấy dân chúng có lòng ăn năn sám hối, Chúa đã tha phạt cho thành.
Việc xức tro và xé áo trước hết nói lên sự buồn phiền đau đớn vì đã phạm nhiều tội lỗi. Tội nhân tự nhận mình không xứng đáng được kính trọng, chỉ xứng đáng với tro bụi nhơ bẩn, với áo rách tồi tàn, đáng bị khinh miệt, bị chà đạp như cát bụi bên đường.
Việc xức tro và xé áo cũng làm cho tội nhân ý thức thân phận con người bọt bèo, cuộc đời mau chóng tàn phai như giấc mộng. Đời người như một nắm tro bụi, chỉ một làn gió nhẹ thoảng qua đủ xoá sạch vết tích. Cuộc đời giống như manh áo, hôm qua còn mới còn đẹp, hôm nay đã cũ kỹ xấu xí, hôm qua còn lành lặn, hôm nay đã sờn rách.
Như thế, việc xức tro và xé áo có một nội dung ý nghĩa rất sâu xa. Nhưng với thời gian, do những cử hành máy móc, các việc này dần dần rơi vào thái độ hình thức bên ngoài. Người ta làm cho qua lần chiếu lệ, chẳng còn có ý thức thống hối. Chính vì thế, ngôn sứ Giô-en đã kêu gọi dân chúng: “Hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van. Hãy xé lòng chứ đừng xé áo” (Ge 2, 12b-13a).
Nghi thức phải diễn tả tâm tình thì việc cử hành mới có ích lợi. Việc xức tro sẽ vô ích nếu trong lòng ta không dâng lên tâm tình sám hối. Việc xé áo sẽ trở thành giả dối nếu tâm hồn ta không tan nát vì hối hận tội lỗi.
Xức tro trên đầu không quan trọng bằng xức tro trong tâm hồn. Hãy xức tro vào tâm hồn cho tâm hồn xót xa đau đớn vì tội lỗi. Hãy xức tro vào thói kiêu căng để nó biết hạ mình xuống trong khiêm nhường bé nhỏ. Hãy xức tro vào thói phô trương để nó biết chìm vào âm thầm nghèo hèn. Hãy xức tro vào thói hận thù ghen ghét để nó đau đớn vì đã không biết yêu thương. Hãy xức tro vào những mối chia rẽ bất hoà để tẩy sạch vết thương, hàn gắn tình hiệp nhất. Hãy xức tro vào tính ích kỷ để nó biết mở ra chia sẻ. Hãy xức tro vào thói lười biếng để nó tỉnh thức chăm lo việc đạo đức. Xức tro như thế có khác gì xát muối vào lòng, sẽ gây nên đau đớn xót xa, nhưng sẽ tẩy rửa linh hồn nên trong trắng.
Xé áo chẳng có ích lợi gì nếu ta không xé lòng ra. Lòng ta bấy lâu đã gắn bó với tội lỗi Tội lỗi ăn sâu dính chặt hầu như trở thành một phần của tâm hồn. Muốn dứt lìa tội lỗi, phải xé nó ra. Hãy xé lòng ra khỏi những đam mê dục vọng bất chính. Hãy xé lòng ra khỏi thói tham lam tiền bạc. Hãy xé lòng ra khỏi thói nô lệ danh vọng chức quyền. Hãy xé lòng ra khỏi thói ham mê ăn uống, rượu chè, cờ bạc. Hãy xé lòng ra khỏi thói tự mãn tự tôn. Biết bao thứ đã trở thành thiết thân. Những quan hệ, những tiền bạc của cải, những chức tước danh vị, những thú ăn chơi, những tự ái, những giận hờn, tất cả đã gắn chặt vào đời ta. Giờ đây phải xé nó ra. Đau đớn lắm. Vết thương sẽ nặng lắm. Máu sẽ chảy nhiều lắm. Nhưng khi đã cắt bỏ được hết những ung nhọt độc hại, linh hồn sẽ nhẹ nhàng, trong sạch và lớn mạnh vì được đầy tràn ơn phúc và tình yêu của Chúa.
Lạy Chúa, xin hãy ban thêm sức mạnh cho con, để mùa Chay năm nay con thực sự biết xức tro vào tâm hồn, biết xé tâm hồn trong đau đớn vì tội lỗi. Lạy Chúa, xin đổi mới tâm hồn con. Amen.
+GM Ngô Quang Kiệt
-----------------------------------
VietCatholic News (24/02/2004 )
25.2.2004. Lễ Tro
Mùa Ân Sủng
Hôm nay, cùng với Giáo Hội Mẹ Thánh, chúng ta bắt đầu mùa Ăn Năn-Sám Hối-Cải Thiện Đời Sống, mùa Thi Ân…
Trong các thánh lễ Khai Mạc Mùa Chay hôm nay, sẽ có nghi thức Làm Phép và Xức Tro. Linh mục hoặc Thứa Tác Viên sẽ đọc câu sau đây trước khi xức tro trên trán chúng ta:"Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro". Đây chính là lời đầu tiên Thiên Chúa đã báo cho Ađam biết khi ông vừa phạm tội, hôm nay Giáo Hội cũng sẽ lặp lại những lời ấy với mỗi người Kitô hữu chúng ta như thầm nhắc nhở hai chân lý rất nền tảng đó là: "Hư Vô và Chết" hay mời gọi chúng ta ‘Tin vào Tin Mừng và Ăn Năn Sám Hối’.
Giáo Hội đã cho phép người tín hữu trong cách thức thi hành việc an táng được dùng phương pháp hỏa táng hay hỏa thiêu thi hài giữ tro của người quá cố lại. Đây cũng là bài học cụ thể cho chúng ta về thân xác hay hư nát. Thánh vịnh 38 câu 6+7 đã được viết như sau: "Chúa ơi, khoảng đời con là hư vô trước nhan thánh Chúa. Con lo tích chứa của nhưng không bao giờ biết của đó sẽ về phần ai". Câu 8 của Thánh vịnh nầy giúp chúng ta luôn nhớ rằng: "Trong ta tất cả đều là hư vô" và "Chúa mới là tất cả, là niềm hy vọng của ta".
Không ai trong chúng ta có thể tự giải thoát mình khỏi tình trạng sa đọa hay tội lỗi, nếu không có tác động của Thiên Chúa - nói cách khác - nếu không có ơn Chúa thúc giục bên trong. Cũng thế, thành Ninivê đã không bị bỏ rơi trong sa đọa, Ninivê còn có Chúa và các tiên tri đến loan báo... và kết quả là Ninivê đã quay trở về với Chúa, nhìn nhận tội lỗi và cải thiện đời sống và Tin Mừng đã thuật lại cho chúng ta là: "Mọi người kể cả súc vật đã ăn chay, mặc áo nhặm và bỏ tro trên đầu".
Ninivê đã trở thành mẫu gương của tinh thần thống hối và cải thiện đời sống. Tinh thần nầy, ngày hôm nay, khai mạc Mùa Chay Thánh, GH nhắc nhở chúng ta. Hy vọng mỗi người trong chúng ta hãy đón nhận lời kêu mời nầy, để sửa đổi cuộc sống và với những cố gắng, bộ mặt của thế giới, của cộng đoàn, của gia đình và sau cùng là của cá nhân sẽ sáng sủa hơn.
Lời Nguyện:
Trong Mùa Chay, với Chiến Dịch Tình Thương, Giáo Hội mời gọi lòng hảo tâm, sự chia sẻ của mỗi người trong chúng con đối với tha nhân. Đôi lúc chúng con nghĩ rằng rằng: "Một hạt muối nhỏ bé của chúng con bỏ vào biển không làm cho biển mặn hơn" nhưng ít là với hạt muối nhỏ bé đó chứng tỏ tinh thần chúng con không quá nhạt nhẻo, thờ ơ với những thống khổ của Anh Chị Em đó đây. Xin Chúa giúp chúng con thể hiện cách cụ thể hạt muối ướp mặn tình người trong lộ trình Mùa Chay Thánh năm nay.
Lm Francis Lý văn Ca
-----------------------------------
“ĐỪNG XÉ ÁO, NHƯNG HÃY XÉ LÒNG” (1)
THỨ TƯ LỄ TRO NĂM B (01.03.2006)
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
“Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng” là cách nói “tượng hình” trong sấm ngôn của Đức Chúa mà ngôn sứ Giôen đã truyền lại cho Ítraen và Hội Thánh nhắc lại với mọi Kitô hữu. Ý nghĩa của sấm ngôn ấy là chúng ta hãy thay đổi thật sự, thay đổi từ gốc rễ, ngọn nguồn, thay đổi từ đáy lòng chứ không chỉ thay đổi bên ngoài, nặng hình thức và phô trương mà sau này chính Chúa Giêsu cũng nhắc nhở những người Do Thái đương thời muốn sống theo Người .
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA
1. Bài đọc 1: Ge 2,12-18: Kêu gọi sám hối.
(12) Đây là sấm ngôn của ĐỨC CHÚA: "Nhưng ngay cả lúc này, các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta, hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van." (13) Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa của anh em, bởi vì Người từ bi và nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, Người hối tiếc vì đã giáng họa. (14) Biết đâu Người chẳng nghĩ lại và hối tiếc mà để lại phúc lành, hầu anh em có lễ phẩm và lễ tưới rượu dâng lên ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa của anh em. (15) Hãy rúc tù và tại Xion, ra lệnh giữ chay thánh, công bố mở cuộc họp long trọng; (16) hãy tụ tập chúng dân, mời dự đại hội thánh, triệu tập các cụ già, tụ họp đám thiếu nhi cũng như trẻ thơ còn đang bú. Tân lang hãy ra khỏi loan phòng, tân nương hãy rời bỏ phòng khuê! (17) Giữa tiền đình và tế đàn, các tư tế phụng sự ĐỨC CHÚA hãy than khóc và nói rằng: "Lạy ĐỨC CHÚA, xin dủ lòng thương xót dân Ngài! Xin đừng để gia nghiệp của Ngài phải nhục nhã và nên trò cười cho dân ngoại! Chẳng lẽ các dân lại được cớ mà nói: Thiên Chúa của chúng ở đâu rồi?"
2. Bài đọc 2: 2 Cr 5,20-6,2: Hãy làm hòa với Thiên Chúa.
(5,20) Vì thế, chúng tôi là sứ giả thay mặt Đức Kitô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy. Vậy, nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hòa với Thiên Chúa. (21) Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người.
(6,1) Vì được cộng tác với Thiên Chúa, chúng tôi khuyên nhủ anh em: anh em đã lãnh nhận ân huệ của Thiên Chúa, thì đừng để trở nên vô hiệu. (2) Quả thế, Chúa phán rằng: Ta đã nhận lời ngươi vào thời Ta thi ân, phù trợ ngươi trong ngày Ta cứu độ. Vậy, đây là thời Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ.
3. Bài Tin Mừng: Mt 6,1-6.16-18: Bố thí và ăn chay cách kín đáo - cầu nguyện nơi kín đáo.
(1) "Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng. (2) Vậy khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. (3) Còn anh, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, (4) để việc anh bố thí được kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh.
(5) "Và khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy. Thầy bảo thật anh em: chúng đã được phần thưởng rồi. (6) Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh.
(16) "Còn khi ăn chay, anh em chớ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả: chúng làm cho ra vẻ thiểu não, để thiên hạ thấy là chúng ăn chay. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. (17) Còn anh, khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, (18) để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh.
III. Một vài suy nghĩ cho Mùa Chay 2006 nÀy
1. Suy nghĩ thứ nhất: Từ bố thí cho người nghèo đến đấu tranh chống nghèo đói, bất công.
Trong xã hội Do Thái vào thời Đức Giêsu cũng đã có hố ngăn cách giữa người giầu và người nghèo và cũng đã có nhiều bất công xã hội. Nhưng không thể so sánh với thế giới ngày nay, vì hố ngăn cách giầu nghèo và bất công xã hội là một "điểm đen" lớn nhất của thời đại hiện nay. Chúng ta không có gì phải ngạc nhiên khi thấy Giáo hội triển khai giáo huấn Lời Chúa mà nhấn mạnh rất nhiều đến trách nhiệm biến đổi xã hội và thay đổi cơ chế bất công. Vào những năm 30 thời Công nguyên, bố thí tiền của cho người nghèo đói, túng thiếu là một hành vi bác ái được chính Đức Giêsu giảng dạy. Cũng giáo huấn về bố thí ấy, ngày nay Giáo hội dạy chúng ta không chỉ giúp người nghèo có cơm ăn áo mặc mà chúng ta còn phải đứng về phía người nghèo để yêu và thương bênh vực họ, chống lại nạn nghèo đói, bóc lột, bất công đang làm họ mất phẩm giá làm người.
Báo Thanh Niên số cuối tuần ra ngày Chủ nhật 19.2.2006 có bản tin đáng suy nghĩ như sau: “Tại cuộc họp thường niên của Hiệp Hội vì sự tiến bộ khoa học Mỹ hôm 17.2, các nhà khoa học cảnh báo thế giới sẽ có thêm 100 triệu người bị đói vào năm 2015 nếu chính phủ các nước phát triển không có những hành động ngăn chặn đói nghèo kịp thời. Theo các nhà khoa học, mặc dù có nhiều tiến bộ trong việc sản xuất lương thực ở những năm 1960-1970 nhưng cứ 1 phút lại có 10 đứa trẻ trước tuổi đi học bị chết vì suy dinh dưỡng và con số này vẫn chưa thay đổi kể từ đầu thập niên 80.”
2. Suy nghĩ thứ hai: Từ cầu nguyện mang tính cá nhân đến cầu nguyện mang tính toàn cầu.
Vào thời Đức Giêsu khi nói đến cầu nguyện người ta nghĩ đến lời cầu nguyện cá nhân hay cộng đoàn kẻ tin. Ngày nay lời cầu nguyện của Kitô hữu phải mang chiều kích toàn cầu. Vì lời cầu nguyện của chúng ta phải chứa đựng tâm tư, khát vọng, số phận của hằng triệu, thận chí hàng tỷ, con người cơm không đủ ăn, nước không đủ uống. Lời cầu nguyện của chúng ta ngày nay không chỉ dừng lại ở ý chỉ và lời cầu xin, mà còn phải bao hàm cả hành động đấu tranh cho người nghèo và người bị gạt ra ngoài lề xã hội, cho hố ngăn cách giữa giầu nghèo được rút ngắn lại, cho thế giới có công lý và hòa bình, cho phẩm giá con người được tôn trọng.
3. Suy nghĩ thứ ba: Từ ăn chay là nhịn ăn nhịn uống đến tự nguyện khước từ địa vị, quyền bính, danh vọng, lạc thú và nhất là chia sẻ của cải vật chất.
Trong lãnh vực ăn chay, nếu so sánh hai thời điểm thập niên 30 của thế kỷ thứ nhất với những năm đầu thế kỷ 21 này cũng có một bước tiến rất dài. Ngày xưa ăn chay chủ yếu là nhịn ăn, nhịn uống một hai ngày hoặc dài lắm là 40 ngày của Mùa Chay và là hãm mình ép xác. Còn ngày nay ăn chay thật sự là dám tự nguyện khước từ địa vị, quyền bính, danh vọng, lạc thú và nhất là chia sẻ của cải vật chất với những người túng thiếu. Vì, như lời Thánh Phaolô gởi cho Timôthê (2) mà Đức Gioan Phaolô II đã lấy lại:
"Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn ấy, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé Bóc lột người khác, thờ ơ trước đau khổ của anh chị em mình, và vi phạm những luật luân lý cơ bản, đó chỉ là vài hậu quả của lòng ham muốn tìm kiếm lợi lộc" (3).
Vì thế mà ngôn sứ Giôen mới kêu gọi sám hối bằng lời bất hủ: "Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng." Xé áo là việc tương đối dễ, nhưng xé lòng mới là việc khó, mới là điều cơ bản. Xe áo là thay đổi bên ngoài, là thay đổi cái vỏ còn xé lòng là thay đổi bên trong tức thay đồi tư duy, cách nghĩ và cách làm, là tự nguyện từ bỏ những thực tại có giá trị nhưng nguy hiểm cho phần hồn như giầu sang, danh vọng, quyền bính.
Sống sứ điệp Lời Chúa hôm nay thì trước hết chúng ta phải đi ngược lại với xu hướng tự nhiên của con người, nhất là của người thời nay: đó là xu hướng thích nhận hơn là thích cho, thích thu gom hơn là chia sẻ. Xu hướng tự nhiên này, nếu không được kiểm soát và kiềm chế, sẽ đưa con người đến chỗ thờ ơ với đau khổ của anh chị em mình, vi phạm những luật luân lý cơ bản và bóc lột người khác.
Kế đến, sống Sứ điệp Lời Chúa hôm nay là chúng ta sống theo tiếng nói nội tâm tận đáy lòng thôi thúc mỗi người chúng ta thiết lập mối tương quan yêu thương với tha nhân và sẵn sàng trao ban chính mình cho kẻ khác để chúng ta được nên hoàn thiện.
Sau cùng, sống Sứ điệp Lời Chúa hôm nay là chúng ta đáp lại tiếng mời gọi thiết tha của Thiên Chúa và của Đức Giêsu Kitô là Đấng đã trao ban tất cả cho chúng ta, kể cả chính Mình Người và Con Một yêu dấu của Người vì yêu thương chúng ta.
4. Suy nghĩ thứ tư: Tình yêu của Đức Kitô là nguồn sức mạnh và là gương mẫu.
Đức cố Giáo hòang Gioan Phaolô II đã khẳng định: "Nỗ lực cổ võ công bình của Kitô hữu, sự dấn thân của họ trong việc bênh vực những người cô thế cô thân, những công việc nhân đạo trong việc cung cấp bánh ăn cho người đói khát và việc chăm sóc cho người bệnh tật khi đáp lại mọi cơn cùng khốn và nhu cầu, tìm được sức mạnh trong kho tàng duy nhất và vô hạn của Tình yêu là sự dâng hiến trọn vẹn của Đức Giêsu cho Chúa Cha. Người tín hữu được mời gọi bước theo dấu chân của Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa thật và người thật, Đấng, khi hoàn toàn vâng phục ý muốn của Chúa Cha, đã tự hủy (4) và khiêm tốn ban tặng chính mình cho chúng ta trong một tình yêu xả kỷ và trọn vẹn, cho đến chết trên thập giá. Núi Canvê loan báo cách hùng hồn sứ điệp về Tình yêu của Ba Ngôi đối với con người thuộc mọi thời đại và dân nước" (5).
IV. CẦU NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa là Tình Yêu, chúng con biết rằng Chúa muốn chúng con đáp lại Tình Yêu của Chúa bằng sự thay đổi lòng trí và cách sống của chúng con. Chúng con biết rằng Chúa muốn chúng con sống giống như Chúa, có nghĩa là có những tâm tình, lời nói và hành động như Chúa! Nhưng Chúa biết chúng con yêu thích chức quyền, danh vọng và ham muốn của cải, lợi lộc cũng như chúng con bám víu vào cách sống ích kỷ của chúng con như thế nào!
Chúng con tha thiết nài xin Chúa ban cho chúng con Sức Mạnh Vô Biên là Tình Yêu Xả Kỷ Vị Tha của Chúa Giêsu Kitô, Con Chúa, Chúa chúng con, để chúng con có thể "xé lòng" chứ không chỉ "xé áo" trong Mùa Chay 2006 này, mà dấn thân phục vụ và bênh vực những người bị thiệt thòi trong xã hội Việt Nam hôm nay, chống lại cảnh nghèo đói, thay đổi cơ chế bất công và tính ích kỷ của những người trong gia đình và xung quanh chúng con.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
Sàigòn ngày 16.02.2006
………….
Chú thích:
(1) Bài này đã được viết đầu Mùa Chay năm 2003. Nay có sửa và bổ sung cho tốt hơn nhằm chia sẻ với quý bạn đọc Trang Sống Lời Chúa Hôm nay.
(2) Tm 6,10.
(3) Sứ Điệp Mùa Chay 2003 của Đức Giáo hoàang Gioan Phaolô II, số 2.
(4) x. Pl 2, 6tt.
(5) Sứ Điệp Mùa Chay 2003 của Đức Giáo hoàang Gioan Phaolô II, số 3.
-----------------------------------
Hãy thổi kèn lên khắp Sion, hãy ra lệnh ăn chay, triệu tập một đại lễ, quy tụ dân chúng, ra lệnh mở đại: Lễ_tro-38
1. “Hãy thổi kèn lên khắp Sion, hãy ra lệnh ăn chay, triệu tập một đại lễ, quy tụ dân chúng, ra lệnh mở đại hội, tập họp các bô lão, quy tụ các thiếu nhi và các trẻ còn măng sữa.” (Ge 2, 15-16)
Những lời này của tiên tri Giôel nói đến chiều kích cộng đoàn của việc thống hối. Quả thật, thống hối chỉ có thể xuất phát từ con tim, mà theo nhân chủng học Kinh Thánh, đó là nơi cư ngụ những ý định sâu thẳm nhất của con người. Tuy nhiên, những hành vi thống hối đòi hỏi phải được thực thi cùng với mọi thành phần của cộng đoàn.
Đặc biệt vào những thời điểm khó khăn, sau những khó khăn hay trước một hiểm nguy, Lời Chúa, qua môi miệng các tiên tri, kêu gọi tín hữu đi vào thống hối: Mọi người đều được triệu tập, không trừ ai, từ người già đến trẻ em; mọi người đều hiệp nhất để van nài Thiên Chúa dũ thương mà tha thứ. (x. Ge 16-18).
2. Cộng đoàn Kitô hữu lắng nghe lời thống thiết mời gọi hoán cải này, lúc chuẩn bị đi vào hành trình bốn mươi ngày Mùa Chay, mà theo nghi lễ cũ, khởi sự bằng việc xức tro. Cử chỉ này, mà nhiều người nghĩ rằng đã thuộc về một thời đại xa xưa, rõ ràng là đi ngược lại với nếp suy nghĩ của con người thời nay, nhưng điều này lại thôi thúc chúng ta đào sâu ý nghĩa để khám phá ra sức mạnh và ảnh hưởng đặc biệt của cử chỉ ấy.
Khi ghi dấu tro trên trán tín hữu, người chủ tế lặp lại câu: “Hỡi người, hãy nhớ rằng mình là tro bụi, và sẽ trở về với bụi tro”. Trở về với bụi tro, ấy là vận mệnh của mọi người và mọi vật. Tuy nhiên, con người không chỉ là thân xác, mà còn là thần khí. Nếu xác thịt buộc phải trở về với cát bụi, thì thần khí mãi mãi là bất diệt. Ngoài ra, tín hữu biết rằng Chúa Kitô đã sống lại, và qua đó, xác thân Ngài đã chiến thắng tử thần. Chính Ngài cũng bước đi trong hy vọng theo viễn ảnh đó.
3. Như thế, nhận tro trên trán có nghĩa là tự nhận mình là loài thọ tạo, được dựng nên từ bùn đất và sẽ trở về bùn đất (x. St 3,19); điều này cũng có nghĩa là tự cáo mình là tội nhân, cần được Chúa thứ tha để có thể sống theo Tin Mừng (x. Mc 1,15); cuối cùng, điều ấy có nghĩa là khơi dậy niềm hy vọng vào một cuộc gặp gỡ viên mãn với Chúa Kitô trong vinh quang và trong bình an của Nước Trời.
Viễn ảnh niềm vui này thôi thúc mọi tín hữu phải nỗ lực sống trong thời buổi hiện tại một phần của cái bình an tương lai. Điều này đòi hỏi phải thanh luyện tâm hồn và khẳng định lại mối hiệp thông với Thiên Chúa và với anh chị em mình. Đấy là mục đích của việc cầu nguyện và ăn chay mà tôi mời gọi anh em thực hiện, trước những đe dọa chiến tranh đang đè nặng trên thế giới này. Qua cầu nguyện, chúng ta đặt nền hòa bình vào bàn tay Thiên Chúa, và chúng ta chờ mong hòa bình đích thực chỉ từ bàn tay của Ngài mà thôi. Qua ăn chay, chúng ta chuẩn bị tâm hồn để đón nhận bình an của Chúa, đó là hồng ân trên mọi hồng ân và đấu chỉ rằng Nước của Ngài đã đến.
4. Do đó, cầu nguyện và ăn chay cần phải đi kèm với những hoạt động công bình; việc hoán cải phải được thể hiện bằng việc đón nhận nhau và liên đới với nhau. Về điểm này, tiên tri Isaia từng kêu gào: “Cách ăn chay mà ta ưa thích nhất chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc; trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm?” (Is 58,6)
Không có hòa bình trên trần gian ngày nào các dân tộc còn bị áp bực, còn bất công trong xã hội và còn bất bình đẳng kinh tế. Nhưng muốn có được những thay đổi cơ chế, thì những sáng kiến và phát minh bên ngoài thôi vẫn chưa đủ; trước hết cần phải có một sự hoán cải tâm hồn của mọi người hướng về tình yêu.
5. “Hãy thật lòng trở về với Ta.” (Ge 2.12). Ta có thể nói rằng sứ điệp mà chúng ta cử hành hôm nay được tóm lược trong lời này, lời Thiên Chúa khẩn khoản kêu nài chúng ta hoán cải tâm hồn.
Lời mời gọi này được thánh Phaolô lặp lại trong bài đọc II: “Nhân danh Đức Kitô, chúng tôi năn nỉ anh em hãy làm hoà cùng Thiên Chúa [...] Giờ đây là cơ hội thuận tiện, giờ đây là ngày cứu thoát.” (2 Cr 5, 20; 6, 2).
Anh chị em thân mến, giờ đây là cơ hội thuận tiện để nhìn lại thái độ của chúng ta đối với Thiên Chúa và đối với anh chị em mình.
Giờ đây là ngày cứu độ, nghĩa là lúc chúng ta xét lại sâu xa những tiêu chuẩn hướng dẫn chúng ta trong nếp sống đời thường.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con thật lòng trở về với Chúa; Chúa là Đường đưa chúng con đến cứu độ, là Chân lý giải thoát chúng con, là Sự Sống không bao giờ phải chết!●
Thứ Tư Lễ Tro, ngày 5-3-2003
-----------------------------------
Trước hết, lãnh nhận việc bỏ Tro trên đầu là một cử chỉ có từ rất lâu đời. Trong Cựu Ước chúng ta thấy nhiều lần: việc bỏ tro trên đầu là dấu hiệu của tang chế, đau buồn và của sự tự hạ mình, để xin ơn tha thứ.
Trong lúc quân đội của Assyria do Tướng hùng hổ Holoferno chỉ huy tiến vào Israel, mọi người dân Giêrusalem, cả phụ nữ và trẻ em, phủ phục xuống đất trước Ñền Thánh và bỏ tro trên đầu, giang tay lên trời, khẩn cầu Thiên Chúa (Judit , 4, 11 ).
Ông Gióp, sau khi tha thiết kêu cầu Thiên Chúa cứu mình trong cơn cực khổ, hoạn nạn, bị mọi người từ bỏ, trở về với Chúa với tất cả niềm tin tưởng và thề hứa: “Lạy Chúa, con xin rút lời than phiền, trách móc, con đau đớn bỏ tro bụi trên con." (Job 42, 6).
Bị đe dọa tàn phá, sau khi nghe tiên tri Giona giảng, toàn dân thành Ninive, từ Vua đến dân thường và cả loài vật nữa, bỏ tro trên đầu, mặc áo nhặm, xin ơn tha thứ và đã được Thiên Chúa thương đến. (Jona 3, 5).
Trong khi lãnh chút tro trên đầu, chúng ta, các người lớn, nhất là các bậc làm cha mẹ, các nhà giáo dục, các linh mục, các nam nữ, hãy lo lắng giải thích ý nghĩa cho các trẻ em. Tốt hơn cả là chúng ta cùng với các em lãnh tro trên đầu, để có dịp thuận tiện giải thích ý nghĩa sâu xa của lễ nghi này.
Lễ nghi bỏ tro trên đầu nhắc nhở chúng ta nhận biết: chúng ta là hư vô trước mặt Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa không yêu thương chúng ta, nếu Người không ban sự sống cho chúng ta, nếu Người không xuống thế cứu chuộc chúng ta, thì chúng ta chỉ đáng giá như một chút bụi tro...và còn kém cả bụi tro nữa, vì chúng ta sẽ không có ở trần gian này. Lời linh mục căn dặn chúng ta trong lễ nghi bỏ tro trên đầu: “Người là bụi tro, người sẽ trở về tro bụi." Lời này nhắc cho chúng ta “sẽ phải chết và trở về đất bùn," chờ đợi ngày sống lại hợp với linh hồn bất tử, để hưởng vinh quang hay bị án phạt đời đời, tùy đời sống lành thánh hay tội lỗi của mỗi một người trong chúng ta. Ñây là một chân lý và một thực tại không thể phủ nhận được. Cần phải suy tư nhiều, cách riêng trong Mùa Chay thánh này, để chân lý và thực tại này sẽ giúp chúng ta sống lành thánh mỗi ngày mỗi thêm mãi. Chết là án phạt “Người phải chết, vì người đã không tuân giữ lề luật của Ta.” Thánh Phaolô nói rõ: "Vì tội lỗi, sự chết vào trong thế gian". Mọi người, lớn bé già trẻ, giầu sang, nghèo hèn, quyền chức hay bạch đinh, có tín ngưỡng hay vô thần... đều phải chết và chết có một lần mà thôi và không biết khi nào phải chết. Các tiến bộ khoa học, cách riêng trong lãnh vực y khoa, tìm mọi cách để kéo dài sự sống, nhưng chưa khám phá được môn thuốc nào chữa khỏi chết và sẽ không bao giờ khám phá được, vì đây là án phạt của tội lỗi: “Ngươi phải chết.”
Nhìn thẳng vào thực tại này, chúng ta, người có đức tin, không thể và không được phép buồn sầu, trái lại vui mừng. Chúng ta bởi Thiên Chúa mà đến trong thế gian này. Một ngày nào đó, chúng ta trở về với Người, chỉ vì tình yêu thương và tha thứ, chứ không vì công nghiệp nào cả của chúng ta. Nếu Người yêu thương chúng ta vô cùng, chúng ta không phải sợ hãi chi. “Nếu Chúa tôi chấp tội, thì nào ai có thể cứu rỗi được?”
Lễ nghi bỏ tro trên đầu nhắc nhở: chúng ta phải chết: “Người là bụi trọ, người sẽ trở về tro bụi.” Tại sao chúng ta cố tình quên đi chân lý và thực tại này? Chúng ta đừng sống như người cự phú Chúa nhắc trong Phúc Âm. Ông ta tính toán tích trữ của cải để hưởng cuộc đời. Nhưng Chúa phán: “Vậy hỡi người khờ dại, đêm nay Chúa gọi người về, thì ích lợi gì những tính toán của người?" Chúng ta được gọi sống cuộc sống vĩnh cửu. Cuộc sống ở trần gian chỉ là tạm bợ, với biết bao khổ cực, đau đớn, bệnh tật: “Người phải đổ mồ hôi, bới đất nhặt cỏ, mới kiếm được của ăn.” Ñây là số phận con người sống ở trần gian, đây là án phạt, sau khi ông bà nguyên tổ lỗi luật Thiên Chúa. Nghĩ đến cuộc sống vĩnh cửu, chúng ta can đảm lãnh nhận mọi vất vả, hy sinh của cuộc đời, để lập công: “Per Crucem ad Lucem.” (nhờ Thánh giá để tiến đến ánh sáng muôn đời).
Mùa Chay thánh là thời gian chuẩn bị việc cử hành Mầu nhiệm Phục sinh. Lễ nghi bỏ tro trên đầu nhắc lại cho chúng ta rằng: một ngày nào đó, xa hay gần, chúng ta cũng qua sự chết, để được phục sinh với Chúa trong vinh quang. Muốn được hưởng vinh quang, cần phải đi trên con đường Thánh giá, con đường Chúa Giêsu đã đi và đây là con đường duy nhất dẫn đưa đến cuộc sống vĩnh cửu. Ñức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đề nghị với các thanh niên “con đường duy nhất này,” trong sứ điệp ngài gửi để chuẩn bị Ngày Giới Trẻ Thế Giới lần thứ XVI , được cử hành cấp giáo phận, vào Chúa nhật Lễ Lá.
Lễ nghi bỏ tro trên đầu biểu lộ sự trở lại của mỗi một người trong chúng ta. Bỏ tro trên đầu, linh mục có thể đọc “Ngươi là tro bụi, và ngươi sẽ trở lại bụi tro," hoặc lời này: "Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng". Chính Thiên Chúa kêu gọi chúng ta trở về với Người: "Hãy tận tình trở về với Ta." ( ( Joel 2, 12 ). Tội lỗi không phải chỉ là một việc lỗi lề luật Thiên Chúa hay Giáo hội, nhưng còn là một vết thương gây hại cho mối quan hệ tình yêu giữa Thiên Chúa và con người. Trong Mùa Chay thánh, mỗi người trong chúng ta hãy công nhận mình là người con hoang đàng, bỏ nhà ra đi, sống một đời lãng mạn, nay bị túng cực, đói khổ: "Tôi đã phạm đến Trời và đến Cha tôi". Và với sự thống hối này, quyết tâm trở về nhà Cha: “Tôi sẽ trở về nhà Cha tôi, nơi có dư dật mọi sự. Tôi sẽ thú nhận với Cha tôi: con đã phạm đến Cha. Xin Cha tha thứ." ( Lc 15,14-24 ).
Sau cùng, sự nghiêm khắc của lễ nghi bỏ tro mời gọi chúng ta tiến đến niềm an vui của tha thứ, của việc trở lại nhà Cha. Chúng ta phải nhìn vào Thiên Chúa và tin vào tình yêu thương của Người, hơn là nhìn lại quá khứ của tội lỗi. Chúng ta phải nhìn vào những sự kỳ diệu của ơn thánh Chúa hoạt động và biến đổi tâm hồn chúng ta hơn là khóc lóc tội lỗi xưa kia. Chúng ta hãy nhìn vào cử chỉ âu yếm của người Cha khi thấy con phung phá trở về nhà, hơn là nghĩ đến cuộc sống hoang đàng của chúng ta trước đây.
Dó đó, lễ nghi lãnh nhận chút tro trên đầu là một bước tiến đến tình yêu và tín nhiệm. Dĩ nhiên chúng ta thú nhận tội lỗi chúng ta, nhưng chúng ta còn ca ngợi hơn nữa lòng thương xót của Chúa. Và chúng ta hãy hát lên lời Thánh vịnh sau đây: “Lạy Chúa, xin thương xót con vì tình yêu thương và lòng nhân hậu của Chúa. Xin xóa sạch mọi tội lỗi con, để linh hồn con trở nên trắng như tuyết.” ( TV 50, 1 )
-----------------------------------
Ngày xưa người Ai Cập thường ăn chay để được trẻ trung hơn; người Hy Lạp ăn chay để tinh thần được linh lợi hơn; người thổ dân Nam Mỹ ăn chay để biểu lộ lòng can đảm. Các nghệ sĩ vẽ tượng thánh người Nga thường ăn chay để vẽ cho đẹp hơn. Những sự kiện lý thú này cũng như nhiều sự kiện khác nữa được tìm thấy trong quyển sách hấp dẫn của Bác sĩ Allan Cott nhan đề: "Chay Tịnh: Phương Pháp Kiêng Cử Đích Thực" (Pasting: The Ultimate Diet.)
Tờ bìa của quyển sách được mọi người ưa thích này có ghi "Ăn chay có thể giúp chúng ta cảm thấy khoẻ mạnh hơn về mặt thể lý cũng như về mặt tâm linh. Thật thế, trái với mọi người thường lầm tưởng, đối với những người trưởng thành, việc ăn chay trong một thời gian dài cũng không làm hại cho sức khoẻ của họ. Ngược lại, ăn chay đem cho họ nhiều lợi ích. Bác Sĩ Cott kể ra hai trường hợp thú vị để minh hoạ điều ông nói: Những người lính Nhật ẩn náu trong vùng rừng núi Philippines hơn 30 năm sau thế chiến thứ 2 vì không muốn đầu hàng đồng minh, vẫn khoẻ mạnh hơn nhiều so với các chiến hữu của họ đã trở về nhà sinh sống. Và dân chúng Anh quốc trong thời kỳ thực phẩm khan hiếm suốt thế chiến thứ 2 phải ăn theo khẩu phần thế mà vẫn trông thật tráng kiện.
Khi chế độ khẩu phần chấm dứt thì tình trạng sức khoẻ trong nước bắt đầu tồi tệ và những bệnh tật hầu như không thấy xuất hiện trong thời kỳ ăn theo khẩu phần nay bắt đầu lộ diện. Bác sĩ Charler Goodrich cho rằng trở ngại chính khiến ngày hôm nay người ta không làm được gì hết. Nỗi sợ này, theo ông, nằm sâu trong mỗi người chúng ta.
**************
Ngoài việc ăn chay vì những lý do tự nhiên như để trẻ trung hơn, khỏe mạnh hơn và để biểu lộ lòng can đảm--người xưa còn ăn chay vì những lý do về tâm linh nữa. Hầu hết mọi tôn giáo trên thế giới đều tán dương việc ăn chay. Truyền thuyết kể rằng Đức Phật vì ăn chay nhịn đói nên đã gầy guộc đến nỗi khi hóp bụng lại, ngài có thể chạm vào xương sống của mình. Bắt chước Chúa Giêsu ăn chay 40 ngày trong sa mac, các Kitô hữu sơ khai cũng ăn chay để ăn năn tội và cầu xin sự trợ giúp đặc biệt của Chúa. Dân Do Thái ngày xưa cũng ăn chay vì những lý do tương tự: để ăn năn tội, để biểu lộ lòng thương tiếc kẻ chết, để chuẩn bị và hối thúc Đấng Mesia và Nước Chúa đến. Vì thế chúng ta không ngạc nhiên khi thấy người ta tranh luận sôi nổi về vấn đề ăn chay trong bài Phúc Âm hôm nay. Bài Phúc Âm không kể rõ lý do các môn đệ thánh Gioan tẩy giả ăn chay nhưng có lẽ họ làm thế là để chuẩn bị cho việc Đấng Mesia và Nước Thiên Chúa sắp đến. Thực thế, thánh Gioan tẩy giả đã báo cho các môn đệ ngài một điều vĩ đại đang xảy ra. Điều này giải thích được câu trả lời của Chúa Giêsu khi Ngài nói: “điều trọng đại đang xảy ra. Đấng Mêsia đã đến, vương quốc đang cận kề. Lý do ăn chay giờ đây không còn giá trị nữa.” Bây giờ mà vẫn ăn chay thì khác nào tiếp tục băng bó cánh tay sau khi nó đã lành hẳn rồi, khác nào tiếp tục che dù sau khi cơn mưa đã tạnh!
Điều trên đây nêu cho chúng ta một điểm quan trọng: việc sống đạo của chúng ta đôi khi giống hệt lối sống đạo của dân Do Thái ngày xưa. Họ ăn chay là để chuẩn bị chờ đón Đấng Mêsia và nước Thiên Chúa đến, thế mà khi Đấng Mêsia và Nước Chúa đến, họ vẫn cứ tiếp tục ăn chay. Có lẽ vì đã có thói quen ăn chay quá lâu, nên họ quên mất lý do đầu tiên của việc ăn chay, để rồi việc ăn chay giờ đây chỉ còn là một thói quen máy móc.
Các nhà tâm lý cảnh giác chúng ta đừng để thói quen và tập quán chế ngự một số lãnh vực trong đời sống chúng ta. Thực ra, thói quen vô cùng hữu ích cho chúng ta trong một số lãnh vực nhưng đồng thời cũng có thể gây tác hại trong một số lãnh vực khác.
Tôn giáo là một lãnh vực cần đến thói quen, chẳng hạn thói quen cầu nguyện mỗi ngày thực vô cùng ích lợi. Tuy nhiên trong một số lãnh vực khác, thói quen lại gây tác hại, chẳng hạn vịêc nhúng tay nước thánh và làm dấu thánh giá khi bước vào giáo đường có thể trở nên quá lờn, quá thường đến nỗi chúng ta có thể làm điều đó mà chẳng suy nghĩ gì. Chúng ta trở nên quá máy móc đến nỗi không còn nhớ đến ý nghĩa của việc chúng ta làm nữa.
Chúng ta có thể trở nên giống đám dân Do Thái thời Chúa Giêsu. Họ đã không nhận ra lý do khiến họ ăn chay nữa. Cũng vậy, chúng ta có thể không còn nhận ra lý do tại sao chúng ta dùng nước thánh làm dấu thánh giá khi chúng ta bước vào nhà thờ. Vì thế, thỉnh thoảng chúng ta cần hồi tâm suy nghĩ lại. Chúng ta cần nhớ lại lý do chúng ta dùng nước thánh làm dấu "Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần." Điều này nhắc ta nhớ lại ngày ta được rửa tội bằng nước với lời đọc "Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần." Vì thế dùng nước làm dấu thánh giá trên mình nhằm giúp chúng ta ý thức lại Bí tích rửa tội của chúng ta
Chúng ta biết rằng thói quen và tập quán rất hữu ích trong một số lãnh vực thuộc đời sống tôn giáo của chúng ta. Tuy nhiên nếu chúng ta không cành giác, chúng sẽ trở nên vô cùng tác hại. Chẳng hạn chúng ta có thể thực hành một số hành vi tôn giáo cách máy móc đến nỗi làm mà không nghĩ gì hết, chúng không còn ý nghĩa gì đối với chúng ta nữa hết; Khi đó chúng ta sẽ bị rơi vào tình trạng nguy hiểm giống như đám người Do Thái trong bài Phúc Âm hôm nay. Họ đã quên mất lý do ăn chay của họ. Họ đã quên mất rằng đó chỉ là dấu hiệu cho thấy lòng khao khát chuẩn bị đón chờ Đấng Mesia và nước Thiên Chúa đến.
********************
“Lạy Chúa xin đừng để chúng con cầu nguyện và thực hành các nghi thức tôn giáo một cách máy móc theo thói quen. Xin cho mọi lời nói và nghi thức tôn giáo mà chúng con thực hành được thực sự là những hành vi thờ phượng có ý thức. Chúng con nguyện xin nhờ Chúa Kitô Chúa chúng con. Amen”
-----------------------------------
THỨ TƯ LỄ TRO B
Thưa quí vị.
Hôm nay Lễ Tro, bắt đầu mùa chay thánh: Đây là lúc thuận tiện. Đây là thời hông ân. Chúng ta không tập trung vào một bài đọc riêng nào. Những vào ý tưởng của ngày lễ. Tác giả Walter Brueggman gợi ý sau đây cho những vị rao giảng và thi hành nghi lễ rắc tro.
Tác giả không suy gẫm về công thức: “Con là bụi tro, con sẽ trở về với bụi tro.” Công thức xem có vẻ là một lời kết án hay nguyền rủa. Khi rắc tro trên đầu chúng ta liên tưởng đến tội lỗi và các hệ luỵ của nó. Đó chỉ là một mặt của vấn đề. Mặt khác căn bản hơn, tức nhìn vào thân phận thụ tạo của mình. Các giới hạn tự nhiên và siêu nhiên đã được giãi bày trong luồng tư tưởng khôn ngoan của Đông cũng như Tây. Nghĩa là nó gợi tính “hay chết” của thân phận con người. Có bốn nội dung chúng ta cần suy nghĩ:
1.Căn bản là yếu tố vật chất: Con người chỉ là một tạo vật bằng cát bụi, lệ thuộc hoàn toàn vào những thực tại của trái đất với những giới hạn của vật chất. Không hề có tính siêu nhiên. Nó hoàn toàn như các sinh vật khác.
2.Bởi lẽ loài người chỉ là sản phẩm của “đất” cho nên thuộc về đất, sinh hoạt vì trái đất, chia sẻ các phẩm chất đời sống với các súc vật khác.
3.Cái khối đất này không tự thân khởi động được. Nó phải nhờ một năng lực bên ngoài. Tự mình nó chỉ là một khối đất bất động, không có năng lực, không có sự sống. Khối đất không phải là sinh vật, càng không phải là loài người. Thân xác con người chỉ là một nắm tro bụi vô hồn.
4.Sự sống hoàn toàn là quà tặng của Thiên Chúa. Chúa ban cho “hơi thở” của Ngài để ai nấy được sống động. Chúa rút “hơi thở” đi, tức khắc con người trở về tình trạng bất động ban đầu, chúng ta gọi là chết. Ơn sự sống này Chúa ban cho mỗi người “nhưng không” chẳng vì lý do công nghiệp nào cả. Tuy nhiên, nó không thuộc sở hữu của ai. Không ai chiếm đoạt nó vĩnh viễn mà nói là của mình. Nhận như vậy chứng tỏ đương sự chẳng hiểu biết gì. Từ căn nguyên, con người có tính lệ thuộc và dễ bị tổn thương. Từng giây từng phút chúng ta sống nhờ vào đại lượng của Thượng Đế, tức vào “hơi thở” của Ngài. Đây là thân phận của bất cứ ai. Không do chọn lựa của chúng ta. Cũng không phải hình phạt hay lời trù ẻo. Nó cũng chẳng liên hệ gì đến tội lỗi hay sai lầm.
Vậy thái độ kiêu căng là vô lý. Chân nhận sự thật mới là khiêm nhường. Sự thật về con người là như vậy: Một nắm đất bất động. Sinh khí là quà tặng của Đức Chúa Trời. Hai ông bà trong vườn địa đàng đã muốn thoát khỏi tình trạng này. Họ muốn trở nên những thần linh giống như Thiên Chúa. Lễ Tro nhắc nhở các tín hữu tính thụ tạo của mình, sau đó mới đến tình trạng tội lỗi và các hệ luỵ. Chúng ta có khuynh hướng quên mất nguồn gốc. Đòi hỏi những điều mình không có danh nghĩa chiếm hữu. Chúng ta phải biết rõ những giới hạn, đừng muốn vươn tới bằng Thiên Chúa. Đây cũng là ngày mỗi tín hữu suy tư rõ ràng Thánh vịnh 103 nhất là câu 14: “Người quá biết chúng ta được nhồi nắn bằng gì, hẳn Người nhớ chúng ta là cát bụi.” Thiên Chúa nhớ rằng chúng ta được thành hình bằng cát bụi. Và một trong những công thức chịu tro là: “Con hãy nhớ, con là bụi đất.” Như vậy mọi người được nhắc nhở mình chẳng là cái “chi chi” hơn bụi đất. Xin đừng kiêu căng. Trái đất muôn vật đều chỉ ra tính hư vô của con người. Chúa cũng nhớ như vậy, mọi người đều công nhận như vậy, Thánh vịnh 103 cũng ca lên như vậy: “Kiếp phù sinh, tháng ngày vắn vỏi, tươi thắm như cỏ nội hoa đồng. Một làn gió thoảng là xong, chốn xưa mình ở cũng không biết mình.” Tại sao lại kiêu căng? Rõ ràng là hơi thở của Satan và tinh thần của thế tục.
Việc Chúa nhớ thôi thúc Ngài hành động thương xót và trung tín rộng lượng. Là bụi đất không phải là nguyên do Ngài từ bỏ chúng ta. Ngược lại, trung thành với lòng thương xót của Ngài. Cho nên tội lỗi và xúc phạm được Ngài để ý và loại bỏ. Chúng được loại bỏ như nguyên nhân trực tiếp gây nên hiểm nguy và bất hạnh. Xin lưu ý về điểm này, không thể có thái độ ươn gàn trong tội lỗi, vì xúc phạm lớn đến lòng thương xót của Thượng đế. Thiên Chúa trông thấy tội lỗi chúng ta và làm ngơ không biết đến. Chẳng phải là lý do để con người tiếp tục phạm tội, nhưng để tạ ơn vì đã được tha thứ. Hành động Ngài tha thứ để chúng ta được sống, được làm bạn thân tình với Ngài. Bởi Ngài vẫn nhớ chúng ta chỉ là cát bụi. Chúng ta phải chết. Cho nên Ngài quan tâm và nâng đỡ. Việc này phát xuất từ tình yêu vô biên của Ba Ngôi Thiên Chúa. Cũng thánh vịnh 103: “Nhưng ân tình Chúa thiên thu vạn đại”. Do đó phạm tội là phản bội nặng nề tới lòng Thiên Chúa xót thương. Nhìn nhận chúng ta chỉ là cát bụi kêu gọi mọi người tín nhiệm vào Thiên Chúa toàn năng và trung tín. Đấng biết rõ các nhu cầu của mọi thụ tạo và giơ tay cứu giúp. Ý tưởng này từ Phúc âm, giúp chúng ta nhận ra căn tính thật của mình. Nhờ đó mọi người đủ khả năng phân định vị trí riêng trong tình yêu Thiên Chúa. Mập mờ vế ý nghĩa sẽ đưa đến kiêu căng và khốn cùng. Nhiều tín hữu vì quá lo lắng sự đời, cho nên không với tới được nội dung Tin mừng. Nhà rao giảng nên giúp đỡ họ.
Chúng ta bắt buộc phải “nhớ”. Bởi lẽ thường hay “quên”. Chúng ta mắc bệnh “mất trí nhớ”. Ngày nay bệnh này trở nên trầm trọng hơn bởi xã hội ngày càng ganh đua hưởng thụ. Hưởng thụ đến thừa mửa, không còn khả năng nhớ về quá khứ hoặc nhìn về tương lai. Hiện tại suông không làm nên đời người. Nó gồm cả ba quá khứ, hiện tại và tương lai. Thường khi nhiều người quên bẵng gốc gác của mình căn bản chỉ là thụ tạo. Ngài vẫn nhớ chúng ta được nhồi nắn bằng gì? Bằng bùn đất và cát bụi. Bởi vì hơi thở của Satan trong văn hoá, văn chương, khoa học, điện ảnh, xã hội trần tục. Chúng ta tưởng tượng mình quyền năng ghê ghớm, có thể đạt tới bất cứ mục tiêu nào,không hạn chế, thường xuyên đi trệch con đường định mệnh. Chúng ta mơ hồ ngăn cản được tử thần, mơ hồ thắng vượt cái chết. Cho nên rơi vào căn bệnh lãng quên nguồn gốc của mình. Thậm chí quên luôn ơn gọi chính yếu là phục vụ lẫn nhau, canh tác địa đàng, súc vật trên trái đất và muôn loài khác. Chúng ta quên luôn rằng Thiên Chúa vẫn nhớ, rằng hằng ngày, Ngài chăm sóc các sinh vật do tay Ngài dựng nên. Ngài luôn nhồi nắn và thở hơi cho mọi sinh vật được sống. Thiên Chúa không bao giờ ngừng bảo vệ, nuôi nấng và kêu gọi chúng ta trở lại với Ngài, với trí nhớ mà Ngài đã ban cho.
Vậy thì đây là lúc thuận tiện, đây là thời hồng ân, xin tỉnh dậy, nhớ lại mình đang được lòng Chúa bao bọc. Ngài muốn đổ tràn đầy ơn lành cho chúng ta hơn lòng chúng ta mong ước. Mặc dù chúng ta chẳng thích nghe chủ tế xức tro: “Con hãy nhớ”. Bởi nó là lời truyền khiến nghiêm nghị. Nhưng ý nghĩa của nó thật hữu ích. Nó kêu gọi chúng ta định nghĩa lại cuộc đời mình. Thế giới đang trong cuộc chiến tranh luân lý khốc liệt. Chúng ta phải nhận rõ căn tính và nguồn gốc của mình. Điều mà chúng ta hay quên và sao lãng.
- Một thế giới tiêu thụ chống lại vương quốc ký ức.
- Một thế giới kiêu căng chống lại vương quốc thụ tạo.
- Một thế giới vô tổ ấm chống lại vương quốc yêu thương thành tín.
Chọn đường nào? Xin hồi tâm suy nghĩ mà trở về với nguồn gốc của mình. Xin ẵm lấy những tư duy lớn thay vì thiện cận hẹp hòi, thánh thiện thay vì sa đoạ. Khi tro được rắc trên đầu tôi, là lúc lời Tin mừng được ghi khắc trong tim và trên da thịt: Sức mạnh cho kẻ yếu đuối. Cao thượng cho những tâm thần hạ tiện. Amen.
Lm. Jude Sicilianô, OP.
-----------------------------------
Lễ Tro mọi người tín hữu tiếp nhận tro xức trên trán, trên đỉnh đầu. Ñây là tập tục tôn giáo đạo đức có từ thời xa xưa trong Cựu ước.
Nhưng tro nói lên dấu chỉ ý nghĩa gì cho đời sống niềm tin đạo giáo?
1. Sau buổi lửa trại một đống củi được đốt thắp sáng lên lúc chiều tối, sáng hôm sau chỉ còn lại một nắm tro tàn nguội.
Ngày tháng đời sống con người cũng như vậy. Những lời chân tình trao cho nhau như than hồng nồng cháy, những ước vọng nhiệt huyết hăng say làm sưởi ấm lòng người, sau cùng cũng biến thành tro tàn.
Lời kinh Thánh nhắn nhủ. Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về bụi tro!
2. Tro tàn còn lại sau trận hỏa hoạn
Tro tàn từ đống sách báo bị thiêu đốt hủy diệt
Tro tàn sau trận chiến chém giết nhau bên Sarajevo, bên Irak, bên Haiiti, bên Congo, bên Hiroshima, bên Viêtnam, bên Ñông Timor, bên Afghanistan...
Tro tàn gắn liền với lịch sử đời sống con người: tro tàn của tội lỗi.
Và tro tàn cũng do tội lỗi, thiếu xót của lịch sử từng cá nhân còn lưu lại: một tâm hồn tan hoang chán chường thất vọng, đổ vỡ không còn muốn nhìn về đằng trước.
Vì niềm tin, niềm hy vọng đã cạn, như lời Ñức Mẹ Maria nói với Chúa Giêsu: Họ hết rượu rồi!
Lời kinh Thánh nhắn nhủ. Hỡi người hãy nhớ mình là người tội lỗi. Tội lỗi là đống tro tàn trong tâm hồn đời sống.
3. Sau mùa gặt hái, rơm rạ cây khô cỏ dại ngoài đồng ruộng được đốt cháy chỉ còn lại tro bụi. Bụi tro đó thẩm thấu xuống lòng đất, và biến thành chất phân bón sức sống cho cây lúa, cho hạt giống nẩy mầm đời sống mới của mùa gieo trồng kế tiếp.
Trong lò lửa, than củi bị đốt cháy, tạo nên sức nóng cực mạnh làm nung chảy vàng bạc kim loại và từ đấy lọc tẩy ra, đúc thành khuôn mẫu hình thù mới.
Ñời sống con người cũng bị thử thách trôi luyện như vậy, để trở thành một "người mới khác“.
Hỡi người hãy biết mình được tạo dựng sinh ra cho sự sống, cho tốt lành thiện hảo. Hãy trở về với niềm tin và đặt tin tưởng vào Thiên Chúa, Ñấng là nguồn sự sống đời mình!
Thứ Tư lễ Tro 2006
Lm. Nguyễn ngọc Long
-----------------------------------
Mùa Chay khởi đi với thứ Tư Lễ Tro, người người tín hữu trên khắp năm châu cúi đầu nhận hình thánh giá bằng dấu tro ghi trên trán. Mùa Chay cũng nhắc nhở người tín hữu, dưới lăng kính màu tím, thân phận tro than của con người, có đó rồi mất đó, tương tự như hoa Quỳnh Hương khuya nở sớm tàn. Nhưng nhìn dưới lăng kính màu hồng, Mùa Chay cũng gợi nhớ mối liên hệ phụ mẫu tử giữa trời cao và đất thấp, bởi vì “Chúa ơi, con chẳng là chi, chỉ là hạt bụi, mà sao Chúa lại yêu con vô cùng?”. Mùa Chay, hơn thế nữa, kêu gọi người tín hữu bóc lột miếng vỏ cũ, khoác vào tấm áo mới, một dạng thay đổi, một cuộc đổi thay để thôi không làm trứng, làm sâu, làm nhộng, nhưng vươn mình triển nở hóa ra cánh bướm tô thêm đậm đặc màu xanh thiên đàng ngay trên cõi trần gian.
Những hạt bụi tro của Mùa Chay ghi trên trán có thể được ví với những vị thuốc diệu kỳ có khả năng chữa trị những căn bệnh của nhân loại. Từ những thời kỳ đầu tiên khi trái đất oe oe khóc tiếng chào đời, kéo xuống tới ngày người ta chà đạp đá sỏi kinh thành kéo vào Vườn Cây Dầu trói chặt Đức Giêsu mang đi, cho tới thời kỳ tinh khôi của trái đất là năm 2006, đã bao nhiêu bàn chân bước đạp giẫm lên trên mặt đất đen của trái địa cầu, đã bao nhiêu linh hồn từng ghé xuống cõi trần rong chơi một khoảng, đã bao nhiêu hình hài nghiêng đổ bóng dài xuống cõi nhân gian? Ai ngồi tính toán cho ra? Cuộc sống tiếp tục xoay vần, Sinh! Bệnh! Lão! Tử! Con người nhịp nhàng xoay tròn quỹ đạo trăm năm.
Tiếp nối trăm năm vẫn chưa là gì ngoại trừ tro bụi. Trong vòng quay cuốn hút của sinh, bệnh, lão, tử, người người vẫn cứ thường thường quên đi là một ngày sẽ tới, khi đó tôi sẽ hóa ra tro bụi của hình hài nguyên thủy mà tôi đang mang trên vầng trán vào ngày thứ Tư của Mùa Chay. Khi nhớ lại thân phận con người là hữu hạn, là tro bụi, tôi sẽ bớt, thôi, không khóc lóc, hoặc là bớt, thôi, không than thở, hoặc là bớt, thôi, không khó chịu với cuộc đời, những khi phiền toái của cuộc sống đè nặng trên đôi vai nhỏ bé của tôi. Khi nhận ra cuộc sống đang được đếm từng ngày từng tháng, cho nên một giây không nên bỏ phí, một phút không nên lãng quên, tôi sẽ dễ dàng gạt bỏ đi, bớt, thôi, không dõi nhìn những lăng kiếng khá tiêu cực của thường tình nhân gian. Khi vầng trán bớt nhăn lại, tinh thần thoải mái thư giãn, mạch tim rung đập nhịp nhàng, khi đó bệnh tật không hẹn, đau ốm chẳng mời, cả hai đều tự động đứng dậy nhẹ nhàng mở cửa cất bước ra đi.
Những hạt bụi màu đen của Mùa Chay cũng nhắc nhở tôi về liên hệ phụ mẫu tử của thiên đàng và trần gian. Thiên Chúa biết tôi là hạt cát, hạt bụi, thế mà tại sao Ngài lại yêu hại cát, hat bụi là tôi đến thế nhỉ? Đã bao nhiêu lần khi tôi bước chân lên bãi cãi dài vô tận của đại dương, bao nhiêu hạt cát đã lọt qua những kẻ chân hoặc bị tôi dẵm dí, chà đạp lên trên, nhưng có hạt cát nào đủ sức mời gọi tôi dừng bước kiên nhẫn cúi nhìn tìm kiếm sắc hình? Đã bao nhiêu lần khi tôi bước dẵm đạp lên trên những hạt bụi của sàn nhà, hạt bụi nào đủ ma lực kêu mời để tôi cúi xuống phân biệt bụi này bụi đỏ, bụi kia bụi tro? Hạt bụi nào? Chẳng có hạt bụi nào cả. Thế mà thiên đàng xa thẳm vẫn cứ tiếp tục từ trên trời cao vén mây kiếm tìm hạt bụi lạc loài trên trần gian là tôi. Đã từ bao lâu nay, vĩnh hằng vĩnh cửu vẫn cứ loay hoay đi ra đi vô than ngắn thở dài bên song cửa, bởi vì Phụ Mẫu thiên đàng vẫn chưa nhìn thấy bóng dáng hạt bụi trần gian quay về nơi căn nhà xưa. Lạ nhi? Hay ghê? Nhìn tôi trong kiếng, ngắm mình trong gương, tôi vẫn thấy mình nguyên vẹn hình hài của một hạt cát, hạt bụi. “Thế mà vĩnh hằng thiên đàng ơi, con vẫn không hiểu tại sao Ngài lại yêu con đến như thế?.
Mùa Chay cũng gợi lại trong tôi nhạc phẩm, “Kià con bướm vàng, xòe đôi cánh” của một thời ấu thơ. Đã có một thời của Lớp Mẫu Giáo, Lớp Một, tôi mê nhìn những cánh bướm màu sắc rực rỡ bay lượn trên những cánh đồng. Vào một khoảng của thơ ấu, đã biết bao lần tôi mơ làm bướm vàng bay xa bay cao vào trong bầu trời rực rỡ. Thời của ngây thơ đơn giản hóa vấn đề không bao giờ đặt trong tôi câu hỏi về mối tương quan và sợi giây liên hệ giữa trái trứng lốm đốm trên mặt lá xanh với con sâu lông lá xấu ơi là xấu, với con nhộng nằm chết héo khô lặng lẽ treo trên nhánh cây, và với chú bướm vàng đẹp đẽ bay lượn trong bầu trời. Thơ ấu trôi xa vào quá khứ để lại giọng khàn vỡ đục của tuổi bắt đầu làm người lớn cho tôi lại thêm một lần nữa hiểu biết và kinh nghiệm về đổi thay của trứng bướm, của con sâu, của con nhộng, và của con bướm. Nếu không thay đổi, tôi sẽ tiếp tục nằm chết trong quả trứng bướm, một quả trứng hư, trứng ung, trứng thối. Nếu tôi đổi thay chuyển động lắc mình, mầm trứng nhúc nhích biến hình đổi dạng, khiến tôi nứt vỏ trứng, mở mắt ngỡ ngàng hé nhìn thế gian. Nhưng thay đổi từ trứng sang sâu vẫn chưa đủ, bởi nếu tôi vỡ trứng hóa ra con sâu lông lá xấu xí, khắp cùng thiên hạ đều sẽ gớm ghét, tránh xa khi họ đối diện tôi. Mà có quý chi một kiếp sâu, bởi con sâu cũng chỉ làm tôi nổi bật hóa ra mồi thơm cho chim trời bay lượn trên không dừng lại một nhịp cánh, bay xuống nuốt trôi tôi vào vực thẳm tối tăm. Là con sâu, tôi cũng chỉ tiếp tục cong người trườn bò đi dưới mặt đất. Nếu thiên hạ giơ chân đạp xuống, thế là thân phận con sâu cái kiến biến dạng trên mặt đất. Nhưng thay đổi từ sâu sang nhộng vẫn chưa đủ, bởi nếu tôi chịu nhả tơ làm kén, hóa thành nhộng, thì tôi cũng vẫn tiếp tục lặng lẽ chết đi trong kén. Nếu vậy, cuộc đời cũng chẳng có chi gọi là khá hơn. Đáng giá gì một sợi tơ tằm? Lụa nào kết nối chỉ bởi một đường tơ? Con nhộng, hình hài của thây ma xác chết, ai xót thương, ai nhỏ lệ cho một chú nhộng?
Đổi thay, thương hải biến vi tang điền, biển cả (đổi thay) biến thành ruộng dâu.
Thay đổi, hạt lúa gieo vào đất đen đổi thay nảy mầm vươn cao biến thành cây mạ xanh non.
Đổi thay, thay đổi, khi vươn vai phá rách bốn bức tường bao bọc phận kén, tôi nhẹ mình bay bổng vào cõi trời xanh trong của rực rỡ hương hoa thiên đàng.
Mùa Chay, mùa để tôi thay đổi, tôi không dự tính, lên kế hoạch, vẽ họa đồ đổi thay ai khác nhưng chính tôi, hạt bụi trần gian.
Tôi đang ngồi đếm trứng bướm trên mặt lá của cuộc đời vào những ngày đầu tiên của Mùa Chay năm 2006. Tôi thắc mắc không biết trái trứng nào cần phải chuyển mình nứt vỏ nhường lại cho tôi một đời sống mới của con bướm vàng. Nếu chưa biết, tôi sẽ hỏi, “Chúa ơi, hãy chỉ cho con biết con sẽ phải chết đi thói hư tật xấu nào trong Mùa Chay này?”
www.nguyentrungtay.com
LM Nguyễn Trung Tây, SVD
-----------------------------------
Cá thì dễ ươn, thây ma dễ thối, con người dễ hư.
Con người vốn mang xác thịt nặng nề, là mục tiêu cho ma quỷ và dục vọng tấn công và xâu xé:Lễ_tro-44
Con người vốn mang xác thịt nặng nề, là mục tiêu cho ma quỷ và dục vọng tấn công và xâu xé. Chỉ một phút yếu lòng, thiếu canh phòng là con người bị sa ngã, bị hư hỏng và ươn thối.
Vua Đa-vít vốn là một vị vua khôn ngoan, sáng suốt, tài năng đức độ được liệt vào hàng thánh vương, thế mà chỉ vì hình ảnh của một phụ nữ xinh đẹp là Bát-sê-ba lọt vào tâm trí cũng đủ làm nhà vua chao đảo, rồi nhà vua sa ngã, phạm tội cướp vợ người khác và giết luôn cả chồng bà là U-ri-gia, đang khi anh ta đang anh dũng chiến đấu ngoài chiến trường để bảo vệ ngai vàng của vua! (II S 11)
Rồi ngay cả con vua Đa-vít là Salômôn, một vị vua có tiếng là khôn ngoan vô tiền khoáng hậu, nhưng cũng quá mê đắm xác thịt, có đến bảy trăm thê thất và ba trăm hầu thiếp, xiêu lòng theo các tà thần của dân ngoại, xây đền thờ cho họ đối diện với núi thánh Giê-su-sa-lem và đã làm sự dữ trước mắt Gia-vê (I V 11, 1-13).
Nói chung, dù ở bất cứ địa vị nào, đẳng cấp nào trong xã hội và tôn giáo cũng có những con người danh giá cao trọng đã phải ngã gục thảm thương và hư thối: hư thối vì tham nhũng, hư thối vì những bê bối tình dục, hư thối vì lạm quyền, độc đoán…
Cá thì dễ ươn, thây ma thì mau thối, con người thì rất dễ hư !
Triết gia Platon diễn tả thân phận con người "như cỗ xe có hai ngựa kéo". Một con ngựa trắng kéo ta về đường lành, đang khi con ngựa đen luôn lôi kéo ta về điều dữ. Thế là con người luôn bị giằng co xâu xé bởi hai thế lực đối kháng nhau.
Ngay cả thánh Phao-lô là vị tông đồ rất nhiệt thành và thánh thiện cũng cảm thấy những dục vọng đen tối làm xáo trộn tâm hồn của ngài: "Điều lành tôi muốn, tôi lại không làm; trong khi tôi lại làm những điều tôi gớm ghét, …thật khốn thân tôi!”
Nhân loại phải mất hàng triệu năm tiến hoá mới có thể thoát ra khỏi hang động và đời sống man rợ, nhưng con người ngày nay chỉ cần vài phút yếu lòng là có thể trở về với đời sống man rợ đó.
Dường như thân phận con người cũng như những viên bi tròn được đặt trên những mặt phẳng nghiêng. Sức nặng của viên bi lôi kéo nó lăn xuống thế nào thì cũng chính sức nặng của xác thịt và bản năng hư hèn cũng thường xuyên lôi kéo chúng ta xuống bùn như thế.
Hãy cùng chiến đấu với Chúa Giê-su
Cuộc đời chúng ta cũng giống như những con thuyền bơi ngược dòng, phải luôn luôn vững tay chèo lái, phải luôn quyết tâm vươn về nguồn mà không để đời mình trôi xuôi theo dục vọng, thì mới có thể tiến về nguồn là Chúa Ki-tô.
Sống là tranh đấu. Bao lâu còn chiến đấu, con người mới có thể tồn tại như một con người. Khi ngừng chiến đấu, con người không còn giữ được phẩm chất cao đẹp của mình.
Khi làm người, Chúa Giê-su mang thân phận con người hoàn toàn y như chúng ta. Ngài cũng từng bị cám dỗ y như ta. Những cơn cám dỗ mà hôm nay chúng ta đang phải chịu thì Ngài cũng đã từng chịu, có khác là Ngài đã chiến đấu rất anh dũng, rất kiên cường, không bao giờ lùi bước trước mọi cám dỗ và thử thách. Nhờ đó Ngài luôn luôn chiến thắng và chiến thắng rất vinh quang. Thư Do-thái viết: “Ngài đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội” (Dt 4, 15).
Ý chí chúng ta vốn mềm yếu. Xác thịt thì quá nặng nề. Đam mê tội lỗi luôn thôi thúc lôi kéo chúng ta xuống vực. Những quyến rũ ở đời dễ làm chúng ta ươn thối…
Chúng ta thừa biết rằng tự sức mình, chúng ta không thể nào vượt thắng các thách thức và cám dỗ. Vậy trong mùa chay nầy, chúng ta hãy vào sa mạc tâm hồn mà chiến đấu cùng Chúa Giê-su, với Chúa Giê-su. Hãy luôn kết hiệp với Chúa Giê-su, hãy để cho lời Ngài nên khí cụ giúp ta chiến đấu. Hãy rước lấy Mình Máu thánh Ngài hằng ngày để kết hiệp gắn bó với Ngài hơn. Và một khi có Ngài ở bên chúng ta, ở trong chúng ta, cùng chiến đấu với chúng ta thì chúng ta mới có thể chiến thắng được tội lỗi và trung thành đi theo đường lối Thiên Chúa như Ngài.
LM Inhaxiô Trần Ngà
*******************
Lạy Chúa Giêsu,
bị cám dỗ là thân phận của con người,
nhưng thắng được cám dỗ là nhờ ơn của Chúa.
Cuộc sống hôm nay
cho chúng con bao cám dỗ ngọt ngào,
làm khuấy động những thèm khát nơi chúng con.
Cám dỗ chiếm đoạt và sở hữu.
Cám dỗ thống trị bằng quyền uy hay tri thức.
Cám dỗ sống buông thả theo bản năng tự nhiên.
Cám dỗ nào cũng hứa
cho chúng con ít nhiều hoan lạc,
nhưng thật ra lại làm chúng con nghèo nàn
vì tự giam mình trong cái tôi ích kỷ.
Xin cho chúng con thắng được các cơn cám dỗ
nhờ tỉnh thức và cầu nguyện,
nhờ chay tịnh và làm chủ bản thân.
Xin cho chúng con dám lội ngược dòng với thế gian,
để đi vào con đường hẹp của Chúa,
con đường nghèo khó khiêm nhu,
con đường hy sinh phục vụ.
Ước gì chúng con được lớn lên trong tình yêu Chúa,
sau những lần chiến đấu vất vả cam go.
Và ngay cả khi yếu đuối ngã sa,
xin cho chúng con can đảm đứng lên,
vững tin vào lòng Chúa tín trung tha thứ.
Amen. (Rabbouni)
-----------------------------------
VietCatholic News (01/02/2005)
Bụi tro sẽ trở về bụi tro
Mt 6:1-6,16-18
Hãy nhớ đến ý nghĩa và nguồn gốc của chính ta: "Người là tro bụi và sẽ trở về bụi tro". (Gen 3:19):Lễ_tro-45
Hãy nhớ đến ý nghĩa và nguồn gốc của chính ta: "Người là tro bụi và sẽ trở về bụi tro". (Gen 3:19) Lời đầu tiên Thiên Chúa đã báo cho Ađam khi vừa phạm tội. Hôm nay Giáo Hội cũng lặp lại những lời ấy với mỗi Kitô hữu về hai chân lý nền tảng này " Là hư vô và chết là thực hữu".
Ngày nay có rất nhiều người khi chết đã dùng phương pháp hỏa táng thi hài, lấy tro giữ lại. Đây là một bài học cụ thể cho chúng ta về thân xác hay hư nát. Bạn hay tôi với một thân xác to béo khỏe mạnh 150 pounds hoặc ốm yếu 80, 90 pounds. Sau khi nhắm mắt xuôi tay chỉ còn lại một nắm tro tàn. Tro ở đây diển tả rất đúng sự hư vô của con người. Câu Thánh vịnh 38:6 đÍ ? kêu lên: "Chúa ơi, khoảng đời con là hư vô trước nhan Chúa". Cần phải nắm chắc chân lý này: "Trong ta tất cả là hư vô". Tất cả những văn bằng, những chức tước, của cải, danh vọng có nghĩa gì đối với linh hồn của chúng ta sau khi chết? Một câu hỏi rất lớn cho bạn và tôi: "Đời của chúng ta chỉ kết thúc ở đây sao? Chết có phải là hết không?" Vậy trong nắm tro tạm gửi này, chúng ta hãy ăn năn hoán cải tâm hồn, sám hối trọn vẹn. Với lòng trong sạch ngay thẳng, ta sẽ luôn có sự bình an thật. Hãy làm mọi việc không có tà ý và với cái nhìn luôn hướng về Chúa. "Làm vinh danh Chúa".
Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa muốn nhấn mạnh với chúng ta: khi thực hành bố thí hãy thực hành theo tinh thần Bái ái, Phục vụ và Khiêm tốn. " Đừng phô trương công đፊ??c trước mặt người đời" (Mt 6:1)
Có những việc thiện chúng ta làm có lẽ chỉ là khoe khoang tự phụ trá hình dưới lớp vỏ của đức ái. Chỉ dùng hành vi thiện hảo như một nhãn hiệu. Có những cử chỉ nhân đức do lòng ích kỷ chỉ vì mục tiêu phô trương hơn là lòng săn sóc đích thực. Người thực thi bác ái không đòi hỏi phải được trả ơn, báo đền, được tuyên dương công trạng trên báo chí hay nơi công cộng, hoặc danh tiếng mình phải được mọi người biết đến. Chúng ta nên dừng lại và tự vấn: "Lý do nào đã làm tôi không tham gia vào các sinh hoạt của cộng đồng? Lý do nào đã làm tôi không tích cực cộng tác giúp đỡ những vị chủ chăn, với ban Quản Trị Hội Đồng Giáo Xứ nữa? Hoặc tôi chỉ có thể làm việc được với người này mà không làm việc đưọ ?c với người kia?"
Lời Chúa đã làm cho chúng ta phải suy nghĩ: "Đừng cho tay trái biết việc tay phải làm" (Mt 6:3). Trong Cộng đoàn, công xưởng và gia đình, nhiều người rất cần đến những sự trợ giúp, lời khuyến khích an ủi tinh thần và thái độ thông cảm của chúng ta. Khi chúng ta gạt bỏ ra ngoài tất cả những thái độ, tư tưởn ích kỷ riêng tư, những lời dèm pha thiếu xây dựng, hoặc thái độ không được ăn thì đạp đổ, hoặc những cách ăn nói thích được trọng kính nơi công cộng, được ngồi chỗ cao trong các hội đường. Như thế, chúng ta mới có thể hãnh diện được mình là những môn đệ của Chúa Kitô, sống kiếp làm người để cứu chuộc con người.
"Lạy Chúa, xin ban cho con một quả tim trong sạch và niềm vui ơn cứu độ" (TV 50:12,14)
NS Trái Tim Đức Mẹ
Sr Julianna Thư, CMR
-----------------------------------
Có một sự kiện rất phổ biến đó là ngày thứ tư lễ Tro, nhà thờ nào cũng đầy ắp những đến dự: Lễ_tro-46
Có một sự kiện rất phổ biến đó là ngày thứ tư lễ Tro, nhà thờ nào cũng đầy ắp những đến dự lễ, tuy ngày đó chẳng phải là ngày lễ buộc, đàng khác người ta đến không cốt để dự lễ, mà để được xức tro. Ai cũng cố gắng để làm sao có được một chút tro bỏ trên đầu, từ ông già bà cả đến đứa con nít. Không có tro thì như thiếu một cái gì quan trọng. Nhưng nếu hỏi tại sao lại phải bỏ tro lên đầu thì có lẽ không phải ai cũng trả lời được.
Một hiện tượng khác tương tự, đó là chuyện tàu lá trong ngày Chúa nhật lễ Lá. Mọi người phải kiếm cho được một tàu lá đem về giắt đâu đấy trong nhà. Nhưng nếu hỏi tại sao, thì cũng thật khó trả lời.
Và theo truyền thống, thì trong nhiều nhà thờ, những chiếc lá khô của năm trước được giữ lại, đốt thành tro để xử dụng trong ngày lễ tro năm sau. Thế là cái chu kỳ lễ tro và lễ lá, lể lá và lễ tro, trở thành một vòng khép kín.
Tuy nhiên có bao nhiêu người bỏ tro lên đầu màđã thực sự sám hối và có bao nhiêu người cầm lá trong tay đã thực sự đón Chúa. Đó mới là vấn đề. Đúng là cảnh xé áo chứ không xé lòng mà tiên tri Joel đã lên án. Trong khi đó, lẽ ra người ta không cần phải ưu tiên cho việc bỏ tro lên đầu nhưng phải ưu tiên cho việc sám hối, mà việc bỏ tro chỉ là biểu tượng bên ngoài.
Cũng vậy, vấn đề quan trọng không phải là kiếm cho được một tàu lá trong ngày Chúa nhật lễ Lá, ngày kỷ niệm Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, nhưng là đón Chúa Giêsu hôm nay đang đến với chúng ta trong tha nhân. Nhiều người đi lãnh tro, đi lãnh lá, nhưng cuộc sống của họ trước sau vẫn chẳng có gì thay đổi. Có thể ngay khi từ nhà thờ bước ra, họ đã kênh kiệu, lên mặt đạo đức, khinh ghét người này, hận thù kẻ khác. Có thể ngày đó họ sẽ đi bán hàng, vẫn thói tham lam lừa gạt, tìm cách bóc lột kẻ khác, kể cả những kẻ nghèo khổ. Và ngày lễ lá, sau khi cầm lá đem về, họ sẽ để lá vào trong bình đặt trên bàn thờ, hoặc giắt nó vào đâu đó, làm như bùa hộ mệnh, nhưng không hề nghĩ đến chuyện phải đón tiếp anh em trong cuộc sống hằng ngày: Ai đói cứ đói, ai khát cứ khát, ai không nhà cứ ở ngoài đường, ai trần truồng cứ việc chịu rét lạnh, ai cô đơn cứ việc cô đơn.
Điều còn khó chấp nhận hơn nữa, đó là người ta sẵn sàng ăn chay hãm mình để cầu nguyện cho những kẻ nghèo đói, làm như thể cứ ăn chay là kẻ đói sẽ no, cứ hãm mình là người nghèo trở nên giàu.
Trong khi mà đáng lẽ ra họ cần phải chia sẻ cơm ăn áo mặc cho người nghèo đói hơn là ăn chay hãm mình mà chẳng cho người nghèo đói được một chút cơm thừa canh cặn. Ấy vậy mà những kẻ ăn chay hãm mình, nhưng không chia sẻ cho người nghèo đói vẫn được tiếng là những người đạo đức. Họ giống hệt như ông Tư tế và thày Lêvi ở đền thờ về, khi trông thấy đồng bào mình bị đánh trọng thương nằm ở vệ đường, lại tránh qua bên kia mà đi, không thèm ngó tới. Đó là những kẻ giữ đạo hình thức. Cứ nhìn hiện tượng bên ngoài thì họ là những kẻ nhiệt thành, đạo đức. Họ là những người tự nghĩ mình trung thành với Chúa, bằng việc thực hành mọi nghi thức, mọi thói quen của đạo, nhưnglại không sống cái gì là chính yếu, là bản chất của đạo, đó là thực hành bác ái. Họ không hiểu rằng Thiên Chúa của chúng ta là Đấng muốn lòng nhân từ chứ không cần lễ tế, cùng với tất cả mọi nghi thức…Chính Ngài đã nói như thế qua tiên tri Isaia.
Khi nhìn vào đời sống của Đức Kitô, chúng ta thấy rõ Ngài là hiện thân của Thiên Chúa tình thương, chứ không phải là Thiên Chúa của lễ tế hay của những luật lệ và nghi thức của đền thờ. Trong ba mươi năm trước khi rao giảng Tin mừng, thì Ngài đã sống Tin mừng ấy bằng cách chia sẻ trọn vẹn đời sống bình thường hằng ngày với bà con lối xóm. Từ khi bắt đầu rao giảng Tin mừng, Ngài cũng ưu tiên dành thời gian và sức lực cho việc chữa bệnh và chăm lo cho mọi người, kể cả việc lo cho người ta ăn uống khi cần. Ngài không đặt nặng vấn đề ăn chay, hay giữ luật ngày Sabát theo tinh thần Do Thái, mà lấy con người làm cứu cánh của lề luật. Ngài chỉ dâng lễ tế có một lần và chỉ một lần là đủ, bởi vì Ngài không thể chết hai lần, nên cũng không thể dâng mình làm lễ tế lần thứ hai. Do vậy mà tất cả lệnh truyền mới của Ngài, thay thế cho lề luật cũ chỉ tóm gọn trong câu: Anh em hãy yêu thương nhau, như chính Thầy đã yêu thương anh em.
-----------------------------------
Giáo Hội đã lấy đoạn Phúc Âm Mt 6,1-6.16-18 để làm hành trang thiêng liêng cho con cái mình: Lễ_tro-47
Giáo Hội đã lấy đoạn Phúc Âm Mt 6,1-6.16-18 để làm hành trang thiêng liêng cho con cái mình, khi khai mạc Mùa Chay Tịnh. Sau khi "xé lòng", chúng ta được chính Đức Giêsu kêu mời thực hành ba việc hết sức cụ thể: bố thí, cầu nguyện và ăn chay.
Trước khi chúng ta xắn tay áo để thực thi những việc này, chúng ta hãy ghi khắc trong tâm trí mình tinh thần của Đức Giêsu: "Hãy coi chừng, đừng phô trương công đức trước mặt người ta, để hòng được thấy; chẳng vậy, các ngươi mất công nơi Cha các ngươi, Đấng ngự trên trời."
Bản tính loài người chúng ta hay khoe khoang, phô trương công đức, để hòng được thiên hạ nhìn thấy, ngõ hầu họ ca tụng, vinh danh mình. Tinh thần của Đức Giêsu là khiêm nhường. Chúng ta nên xác tín rằng không có việc thiện nào chúng ta làm một cách thầm lặng, khiêm nhường, "trong phòng kín", mà Cha trên trời lại không hay biết. Đệ nhất phu nhân Hoa Kỳ, bà Laura Bush, đã được báo chí khen ngợi là "người phụ nữ hoàn tất mọi việc trong âm thầm." Tôi nguyện lấy tấm gương này làm "nghệ thuật sống" cho đời mình.
BỐ THÍ
Đây là việc thứ nhất chúng ta làm. Từ "bố thí" đối với tôi nghe không được nhẹ nhàng, khiêm hạ mấy, nhưng chúng ta tạm dùng từ bình dân quen thuộc này. Đây là nghĩa cử chia sẻ, giúp đỡ những người thiếu thốn vật chất. Đức Giêsu đã lên án người giàu đóng lòng mình lại, nghĩa là ích kỷ không chia cơm xẻ áo với người nghèo: "Khốn cho các ngươi, những kẻ giàu có! Vì các ngươi hiện đã có phần an ủi."
Khi chúng ta "mở rộng cửa cho Chúa Kitô", mở trương mục tiết kiệm mình ký thác trong ngân hàng lớn, kéo dài bàn ăn nhà mình, cho các công tác từ thiện, chúng ta sẽ được Cha trên trời chúc phúc, và thưởng công. Tôi nhớ lời Thánh Phaolô: "Gieo sẻn thì gặt sẻn, gieo hậu thì gặt hậu." Trong thực tế, người giàu có là người đã ban tặng nhiều; kẻ ích kỷ sẽ là kẻ nghèo nàn nhất thế gian.
Một điểm rất quan trọng tôi đã học được nơi Mẹ Têrêsa Calcutta, đó là khi chúng ta giúp người nghèo, chúng ta phải kính trọng và yêu mến họ, chứ không phải khi trông thấy họ đến cửa nhà mình, chúng ta nhìn họ bằng nửa con mắt để xua đuổi họ đi, hoặc ném cho họ vài đồng tiền giấy trị giá thấp nhất, bẩn thỉu, và nhàu nát, như những của bố thí, tức những của không đáng kể gì, ta vất đi, ta "thí" đi, cho người hành khất ăn xin!
Đức Giêsu dạy chúng ta khi giúp người nghèo thì "đừng thổi loa", "tay trái đừng biết điều tay phải làm, hầu việc ngươi bố thí được giữ kín và Cha ngươi là Đấng thấu suốt kín ẩn sẽ hoàn trả lại cho ngươi."
Việc tương thân tương ái, chị ngã em nâng, một con ngựa đau cả tầu không ăn cỏ, một miếng khi đói bằng một gói khi no, chúng ta chia sẻ cho nhau phải có tính cao thượng, nghĩa là "bố thí mà không cầu đền đáp" của người thụ ân. Chúng ta cứ dấn thân cho đồng loại, Thượng Đế "sẽ hoàn trả lại" cho mình.
CẦU NGUYỆN
Việc thứ hai này chắc hẳn là thiết yếu nhất của các tín hữu chúng ta. Chúng ta hãy dùng những ngày Mùa Chay để kết hiệp làm một với Cha trên trời, nâng tâm hồn mình lên với Ngài. Chính nhờ sức mạnh của cầu nguyện mà Con Chiên Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ trần gian đã viên mãn công trình của Ngài.
Đức Giêsu cảnh giác chúng ta khi cầu nguyện thì "đừng lải nhải như người ngoại!" Họ lắm lời vì họ tôn thờ nhiều thần tượng, họ vái tứ phương, họ lạy khắp phía. Chúng ta hãy nhớ lời Đức Giêsu căn dặn mình rằng "đừng tưởng hễ nói nhiều thì sẽ được nhậm". Nói ít là nói những gì? Đức Giêsu đã dạy chúng ta một mẫu kinh cốt tủy, đó là Kinh Lạy Cha.
Mỗi ngày chúng ta hãy đọc ít nhất một lần Kinh Lạy Cha với tất cả tâm hồn mình, nghĩa là vừa đọc vừa suy niệm, chứ đừng đọc như thói quen, có khi chạy nhanh như xe hơi ngoài xa lộ liên bang!
Mẹ Têrêsa Calcutta khuyên chúng ta:
"Trong Mùa Chay, chúng ta hãy tấn triển tinh thần cầu nguyện và tĩnh tâm của mình. Hãy giải thoát trí huệ chúng ta khỏi hết thảy những gì không phải là Đức Giêsu. Nếu anh chị em thấy mình khó cầu nguyện, hãy cầu xin Ngài nhiều lần: 'Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ngự vào trái tim con, hãy cầu nguyện với con, hãy cầu nguyện trong con -- ngõ hầu con có thể học từ nơi Ngài cách thức cầu nguyện'".
"Khi đến lúc cầu nguyện mà chúng ta không thể cầu nguyện, chúng ta hãy làm một việc hết sức đơn giản, đó là hãy để cho Đức Giêsu cầu nguyện trong chúng ta lên cùng Chúa Cha trong thinh lặng của lòng mình. Nếu chúng ta chẳng thể nói ra lời, Ngài sẽ nói cho chúng ta. Nếu chúng ta chẳng thể cầu nguyện, Ngài sẽ cầu nguyện thay chúng ta. Vậy chúng ta hãy trao cho Ngài sự bất khả và sự trống không của mình."
ĂN CHAY
Việc thứ ba này cũng thật quan trọng, và nó phải được thực hành theo tinh thần của Đức Giêsu: "Khi các ngươi ăn chay thì chớ sầm mặt lại như bọn giả hình (....) Còn ngươi ăn chay thì đầu hãy xức dầu, và mặt mày hãy lau rửa...".
Việc ăn chay như vậy không phải là chuyện sầu buồn, tang chế; và người ăn chay sẽ không mang bộ mặt đưa đám vào dung nhan thật của mình!
Khi nghe từ "ăn chay" thường các tín hữu nghĩ đến việc ăn một bữa no, rồi một bữa nhẹ, theo luật chay tịnh của Giáo Hội chúng ta. Thật ra, ăn chay có một sức mạnh tâm linh lớn lao, chứ không chỉ đơn giản là việc ăn ít hơn thường ngày, như một lần kia, Đức Giêsu đã nói với các môn đồ mình: "Thứ quỉ này chỉ trừ được bằng việc ăn chay và cầu nguyện."
Ăn chay để lòng chúng ta không còn nặng nề vì "say sưa chè chén", như Tông đồ dân ngoại Phaolô đã huấn dụ những tay nhậu tục tử phàm phu! Ăn chay để lòng chúng ta vơi đi những tham lam, ghen tuông, và nóng giận của mình, và nhất là để nó được đổ vào tràn đầy hoa quả của Thánh Linh. (xem Ga 5:22) Ăn chay để con người chúng ta được nhẹ nhàng, thanh thoát, như cánh chim trời vút bay lên cao, như bông huệ ngoài đồng thỏa ngát hương thơm...
Khi ăn chay, trong thực tế, chúng ta sẽ dành được một số tiền, vậy phần ăn chay này chúng ta được kêu gọi tặng lại cho những người nghèo. Nếu chúng ta cất giữ nó vào "kho tàng dưới đất" của mình, việc ăn chay trở thành vô lý, vô nghĩa, vì bởi nhờ ăn chay mà chúng ta trở nên keo kiệt hơn, và ích kỷ hơn!
Nguyện xin Chúa Kitô ban cho chúng ta Mùa Chay Tịnh sung mãn thánh ân Ngài.
-----------------------------------
Vào năm 1220, có một nhà hiệp sĩ lên đường làm một cuộc hành hương để viếng thăm thánh: Lễ_tro-48
Vào năm 1220, có một nhà hiệp sĩ lên đường làm một cuộc hành hương để viếng thăm thánh địa. Ông ta cặm cụi đi ngày đi đêm, mong sao chóng được đặt chân đến vùng đất quê hương của Chúa Giêsu.
Sau nhiều tháng, ông đã tới được đỉnh Canvê. Tại đây, ông đã mường tượng ra cái chết thương đau của Chúa Giêsu trên thập gía và ông đã quyết tâm xa tránh tội lỗi, bởi vì chính tội lỗi là nguyên nhân khiến cho Chúa phải chịu chết một cách thương đau như vậy. Đồng thời cũng chính tại đây, ông đã sống lại giây phút vinh quang khi Chúa Giêsu phục sinh tiến ra khỏi mồ.
Sở dĩ tôi kể lại mẩu chuyện trên đây là để chúng ta cùng nhau đi vào những tâm tình chính yếu của mùa chay.
Thực vậy, mùa chay trước hết phải là thời gian thuận lợi để sám hối ăn năn.
Như ông hiệp sĩ đã chia sẻ niềm đau với Chúa Giêsu khi Ngài bị bọn lý hình đánh đòn, đội mạo gai và đóng đanh chân tay vào thập giá, chúng ta cũng hãy quì gối xuống trước thập giá Chúa Giêsu và suy gẫm về những khổ đau Ngài đã phải chịu vì chúng ta. Và chúng ta hãy thân thưa với Ngài:
- Lạy Chúa, vì yêu thương con, Chúa đã chịu chết trên thập giá.
Nhất là trong tuần thánh, chúng ta hãy dâng những hy sinh nhỏ bé của chúng ta để kết hiệp với những khổ đau của Chúa, hầu đền bù những tội lỗi chúng ta đã vấp phạm.
Tiếp đến, mùa chay còn là thời gian thuận lợi để chúng ta cùng chịu chết với Chúa Giêsu.
Thực vậy, cao điểm của mùa chay là buổi chiều ngày thứ sáu tuần thánh, khi Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng trên thập giá. Buồi chiều hôm ấy, toàn thể Giáo hội đều để tang Chúa, đều tưởng niệm cái chết của Ngài. Chính nhờ cái chết tủi nhục này mà chúng ta được ơn cứu độ, được ơn tha thứ.
Chính vì thế, chúng ta hãy chết cho tội lỗi như lời thánh Phaolô đã khuyên nhủ. Chúng ta nên nhớ rằng vui thú do tội lỗi đem lại thì chỉ kéo dài trong thoáng chốc, nhưng đau khổ mà nó gây ra lại kéo dài cho đến muôn ngàn đời.
Tại Paris, có một ông hà tiện. Suốt cả cuộc đời, ông chỉ có một nỗi băn khoăn lo lắng, đó là tìm tiền kiếm bạc. Ông làm việc cả ngày Chúa nhật và không ngần ngại dùng mọi phương thế, cho dù là bất công, cho dù là tàn bạo, miễn sao vơ vét về cho đầy túi tham của mình. Trước khi chết, ông nói với nhưng người thân rằng:
- Hãy để vào tay tôi một đồng tiền vàng. Vì nó mà tôi sống và cũng vì nó mà tôi chết.
Những người thân đã làm theo lời căn dặn. Họ đã để cả một nắm tiền vàng vào lòng bàn tay của ông, nhưng những đồng tiền vàng này cứ rơi xuống giường, bởi vì bàn tay của ông lúc đó đã cứng đơ, không còn cầm nắm được nữa.
Cũng vậy, cái chết sẽ làm tiêu tan những vui thú tội lỗi. Chính vì muốn chúng ta chết đi cho tội lỗi, mà hôm nay, khởi đầu mùa chay, Giáo hội đã xức tro trên đầu chúng ta và nhắc nhở:
- Hời người, hãy nhớ mình là tro bụi, một mai người sẽ trở về bụi tro.
Sau cùng, mùa chay còn là thời gian thuận lợi để chúng ta chuẩn bị đón mừng niềm vui Phục sinh.
Thực vậy, Chúa Giêsu đã chết, nhưng sau ba ngày Ngài đã sống lại. Sự phục sinh của Chúa chính là một phép lạ vĩ đại nhất mà Ngài đã thực hiện.
Thân xác đau khổ của Ngài đã được chiếu sáng rực rỡ như mặt trời. Đó cũng là một hình ảnh nhắc cho chúng ta nhớ rằng:
- Không phải chúng ta chỉ chết đi cho con người cũ, là con người tội lỗi, mà hơn thế nữa, chúng ta còn phải sống lại cho con người mới, con người được phục sinh, mang hình ảnh và dấu ấn của tình yêu Thiên Chúa.
Hãy cùng đau khổ với Chúa Giêsu và nhất là hãy chết đi cho con người tội lỗi, để nhờ đó chúng ta cũng sẽ được chia sẻ niềm vui Phục sinh với Ngài.
-----------------------------------
Một triết gia Ấn Độ đã nhìn lại quãng đời của mình như sau: Lúc còn trẻ, tôi là một người: Lễ_tro-49
Một triết gia Ấn Độ đã nhìn lại quãng đời của mình như sau: Lúc còn trẻ, tôi là một người có đầu óc cách mạng. Lời cầu nguyện duy nhất mà tôi dâng lên Thượng Đế là: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để thay đổi thế giới. Đến tuổi trung niên, tôi mới nhận thấy rằng một nửa đời tôi đã qua đi mà tôi chưa thay đổi được một người nào. Lúc đó, tôi mới cầu nguyện với Thượng Đế: Lạy Chúa, xin ban cho con ơn được biến cải tất cả những người con đã gặp gỡ hằng ngày, nhất là gia đình con, bạn bè con. Và như vậy là đủ cho con mãn nguyện rồi.Nhưng giờ đây, tóc đã bạc, răng đã long, ngày tháng còn lại chỉ đếm trên đầu ngón tay, tôi mới nhận thức rằng tôi đã khờ dại biết chừng nào. Giờ này, tôi chỉ còn biết cầu nguyện như sau: Lạy Chúa, xin ban cho con ơn được thay đổi chính con. Nếu tôi biết cầu nguyện như thế ngay từ lúc đầu, thì tôi đã không phí phạm quãng đời đã qua.
Người xưa đã có lý khi dạy chúng ta: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ... Theo trật tự của cuộc cạch mạng, thì cách mạng bản thân là điều tiên quyết. Một nhà cách mạng nào đó đã nói: chỉ cần 10 người như thánh Phanxicô thành Assisi thì cuộc diện thế giới sẽ thay đổi. Cuộc cách mạng đầu tiên mà bất cứ vị thánh nào cũng khởi sự đó là cách mạng bản thân. Chúa Giêsu đã chuẩn bị 3 năm sống công khai bằng 30 năm âm thầm, 40 đêm ngày ăn chay cầu nguyện... Và lời kêu gọi đầu tiên của Ngài là: hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.
Ai trong chúng ta cũng biết câu châm ngôn: Thà thắp lên một ngọn đèn hơn là ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối. Nếu mỗi người, ai cũng đốt lên ngọn đèn của mình, nếu mỗi người, ai cũng đóng góp phần ít ỏi, nhỏ mọn của mình, thì có lẽ thế giới này sẽ bớt lạnh lẽo hơn vì lòng ích kỷ... Không ai nghèo đến nỗi không có gì để cho người khác. Chúng ta hãy bắt đầu bằng món quà nhỏ mọn, có khi vô danh của chúng ta. Một giọt nước nhỏ là điều không đáng kể trong đại dương, nhưng nếu không có những giọt nước nhỏ kết tụ lại, thì đại dương kia cũng sẽ chỉ là sa mạc khô cằn.
-----------------------------------
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta về thân phận mỏng dòn của con người, đồng thời mời gọi: Lễ_tro-50
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta về thân phận mỏng dòn của con người, đồng thời mời gọi chúng ta hoán cải nội tâm trong tương quan với Thiên Chúa và tha nhân. Tiên tri Joel đã kêu gọi: “Hãy xé tâm hồn chứ đừng xé áo”, hãy phản đối lại chính tà dâm của mình. Nói khác đi, cần phải thay đổi cái nhìn, thay đổi tư tưởng và ước muốn sao cho phù hợp với giao ước tình yêu của Thiên Chúa. Sự biến cải nội tâm ấy được biểu lộ bằng những hành động cụ thể, như từ bỏ tập quán xấu, kìm hãm con người xác thịt, thực hành chay tịnh, tất cả là để tái lập thế quân bình giữa hồn và xác.
Do tội lỗi, con người đã bị cắt đứt khỏi nguồn mạch sự sống và bị dìm vào tình trạng bi thảm của sự chết. Màn tang chế đã bao trùm lên con người. Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở về với Ngài để Ngài cất khỏi chúng ta tấm màn tang chế ấy và ban cho chúng ta niềm hoan lạc giao hoà. Sự giao hoà này trước tiên phải là một lời cầu nguyện khiêm tốn: “Lạy Chúa, xin thương xót con, vì con đã xúc phạm đến Chúa”. Đó là lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa vì diễn tả tâm tình khiêm tốn tin cậy nơi lòng nhân hậu của Thiên Chúa, và chắc chắn sẽ được Thiên Chúa nhận lời.
Tuy nhiên, người ta không thể giao hoà với Thiên Chúa mà lại không hoà giải với tha nhân. Đó là điều Chúa Giêsu đã xác quyết: “Nếu ngươi dâng của lễ nơi bàn thờ và ở đó nhớ ra anh em có điều bất bình với ngươi, ngươi hãy đặt của lễ đó trước bàn thờ, đi làm hoà với anh em ngươi trước đã rồi bấy giờ hãy đến mà dâng lễ vật của ngươi”. Bởi vậy, nếu chúng ta cầu mong ơn giải hoà với Thiên Chúa, chúng ta cũng hãy tìm mọi cách xoá đi những xích mích, bất hoà hờn giận với người khác.
Không những là mùa hoà giải, mùa chay còn tưởng niệm 40 ngày Đức Kitô chay tịnh nơi sa mạc trước khi thi hành sứ mệnh cứu độ. Truyền thống Giáo Hội từ lâu vẫn giữ chay 40 ngày, nhưng vì hoàn cảnh và sự yếu đuối của con người, Giáo Hội đã giảm bớt tối đa chỉ buộc giữ chay hai ngày: thứ tư lễ tro và thứ sáu tuần thánh. Dù vậy tinh thần hãm dẹp xác thịt lúc nào cũng không thể bỏ qua được. Do đó “mỗi người hãy cố giữ đời sống hoàn toàn trong sạch, lợi dụng những ngày thánh này để gột rửa những sơ xuất trong các mùa khác, bằng cách chế ngự các thói hư, gia tăng cầu nguyện, siêng năng đọc sách, thành tâm thống hối, để tâm hồn được vui mừng mong đợi Lễ Phục Sinh”. (Tu luật Biển Đức).
Mùa chay là những ngày thánh, vì là thời thuận tiện, là ngày cứu độ. Thiên Chúa lúc nào lúc nào cũng sẵn sàng ban ơn cứu độ với điều kiện con người phải chuẩn bị tâm hồn để đón nhận. Cùng với Giáo Hội, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin ban cho chúng con bắt đầu cuộc chiến thiêng liêng này bằng ngaỳ chay tịnh hôm nay. Ước gì những kiêng khem, hãm mình của chúng con giúp chúng con nên dũng mạnh để chiến đấu với sự dữ. Amen.”
-----------------------------------