Suy niệm Tin Mừng Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời

Chủ nhật - 14/08/2022 06:07
Suy niệm Tin Mừng Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời



MỤC LỤC
1. Cảm Nghiệm Ơn Chúa- Đc Ngô Quang Kiệt
2. Chuyện Hồn Với Xác, Don Bosco Trần Đức Quý
3. Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời 7
4. Ước Vọng Lên Trời – Lm Phạm Quốc Hưng Cssr
5. Linh Hồn Tôi Ngợi Khen Thiên Chúa.
6. Niềm Hy Vọng.
7. Mẹ Lên Trời Hồn Xác.
8. Đức Maria Lên Trời, Niềm Hy Vọng Của Chúng Ta.
9. Đức Maria: Địa Chỉ Trên Cao – Đgm. Vũ Duy Thống
10. Suy Niệm Lời Chúa Lm Giuse Đinh Lập Liễm.
11. “Từ Nay, Hết Mọi Đời Sẽ Khen Tôi Diễm Phúc”.
12. Mẹ Về Trời, Nỗi Vui Mừng Và Niềm Hy Vọng.
13. Đường Về.
14. Lễ Đức Mẹ Lên Trời
15. Hy Vọng Vì Có Mẹ Được Chúa Ân Thưởng Về Trời
16. Tín Điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời
17. Địa Chỉ Trên Cao.
18. Muôn Đời Sẽ Khen Rằng Tôi Có Phúc.
19. Mẹ Lên Trời Là Niềm Vinh Hạnh Cho Mọi Tín Hữu.
20. Mẹ Về Trời, Hy Vọng Và Hạnh Phúc Của Chúng Ta.
21. Thiên Chúa Chiến Thắng Con Rồng Đỏ.
22. Thăm Viếng Và Bài Ca Ngợi Khen.
23. Mẹ Lên Trời
24. Chú Giải Các Bài Đọc.
25. Trận Chiến Chống Lại Sự Dữ.
26. Thông Phần Vào Vinh Quang Của Con Mẹ.
27. Đức Maria Đồng Trinh, Hồn Xác Lên Trời
28. Sum Họp Trên Trời
29. Phận Hèn Cao Trọng.
30. Vầng Trăng Tuyệt Vời!
31. “Tôi Nhập Hồn Tôi Trong Khúc Hát, “Để Nhờ Không Khí Đẩy Lên Trăng.”
32. Tình Mẹ Còn Mãi
33. Phúc Đức Tại Mẫu.
34. Maria, Thầy Dạy Đức Tin.
35. Hướng Lòng Về Trời Với Mẹ.
36. Theo Gót Mẹ.
37. Niềm Vui Phục Vụ.
38. Thiên Chức Của Đức Trinh Nữ Maria.
39. Vầng Trăng Mẹ.
40. Để Được Cùng Mẹ Đi Theo Chúa Lên Trời
41. Vẹn Toàn Xinh Đẹp.
42. Ăn Theo Với Mẹ.
43. Để Lên Trời Cần Bắt Chước Các Nhân Đức Của Mẹ.
44. Mẹ Về Trời, Hy Vọng Và Hạnh Phúc Của Chúng Ta.
45. Lễ Vọng Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời
46. Chú giải các bài đọc.
47. Lễ Ðức Maria Hồn Xác Lên Trời
48. Để Cùng Mẹ Lên Trời
49. Lên Trời Với Mẹ.
50. Đức Maria Hồn Xác Lên Trời – Sưu tầm.
51. Đức Mẹ Lên Trời § Lm Nguyễn Hồng Giáo, OFM.
52. Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
53. Lễ Ðức Maria Hồn Xác Lên Trời Gm Giuse Vũ Văn Thiên.
54. Lễ Ðức Maria Hồn Xác Lên Trời – NguoiTinHuu.
55. Lễ Ðức Maria Hồn Xác Lên Trời
56. Lễ Ðức Maria Hồn Xác Lên Trời – Giuse Nguyễn Văn Lộc.















1. Cảm Nghiệm Ơn Chúa- Đc Ngô Quang Kiệt



Nếu có ai hỏi: Làm thế nào để tiến bộ trên đường đạo đức, thay đổi nếp sống cũ, biết dấn thân mến Chúa yêu người hơn? Tôi xin thưa: điều quan trọng nhất khởi đầu cho một nếp sống mới là: cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa trong đời mình. Khi đã nhận biết mình được Thiên Chúa yêu thương, ta sẽ không thể làm điều gì khác hơn là mong muốn đáp lại tình yêu ấy.
Tình yêu kêu gọi tình yêu. Tình yêu đáp trả tình yêu. Chúa Thánh Thần, nguồn tình yêu của Thiên Chúa, sẽ giúp ta nhận biết tình yêu Thiên Chúa và soi sáng thúc giục ta đáp lại tình yêu ấy.
Sau khi Đức Mẹ ngoan ngoãn nói lên lời “xin vâng”, Chúa Thánh Thần xuống tràn đầy tâm hồn Đức Mẹ. Đức Mẹ mở rộng tâm hồn đón nhận và để mặc Người hướng dẫn cuộc đời mình. Từ đây, cuộc đời Đức Mẹ hoàn toàn biến đổi. Đức Mẹ trở nên một dụng cụ ngoan ngoãn trong tay Chúa Thánh Thần, hiến dâng trọn vẹn tâm hồn và thân xác để đáp lại tình yêu vô biên của Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy những tác động của Chúa Thánh Thần trên Đức Mẹ:
Tác động thứ nhất: sự vội vã. Vội vã đây không phải là sự vội vàng hấp tấp. Cũng không phải là nôn nóng lo âu. Sự vội vã ở đây có nghĩa là sự nhiệt tình hăng hái. Cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa trong tâm hồn, Đức Mẹ mau mắn, tha thiết muốn đáp trả. Nếp sống của cô thôn nữ Maria đã thay đổi. Từ một thôn nữ dịu dàng, sống êm đềm trong cuộc đời bình dị, Đức Mẹ giờ đây trở nên linh hoạt, nhanh nhẹn, hăng hái đền đáp lại Tình Chúa Yêu Thương. Từ một thôn nữ vui với công việc nội trợ, khép mình trong làng xóm, Đức Mẹ đã mở cửa ra đi. Sự mở cửa ra đi làm ta nhớ tới tác động của Chúa Thánh Thần trên các Tông đồ.
Tác động thứ hai: tâm tình tạ ơn. Cảm nghiệm được tình Chúa thương yêu, lòng Đức Mẹ tràn đầy niềm cảm mến biết ơn. Niềm tri ân cảm tạ đầy ứ trong lòng chỉ chờ dịp tuôn ra thành lời. Cảm nghiệm về ơn lành vô biên của Thiên Chúa cũng là cảm nghiệm về sự thấp hèn bất xứng của mình. Hai cảm nghiệm song song đó càng nâng cao, càng đào sâu niềm tri ân cảm tạ. Cảm nghiệm ấy đã biến đổi Đức Mẹ, từ một cô gái kín đáo, âm thầm trở nên một thi sĩ, một ca sĩ lớn tiếng ca tụng Tình Yêu Thiên Chúa đối với kẻ nghèo hèn. Chúa Thánh Thần đã biến Đức Mẹ thành ngòi bút thi sĩ như lời Thánh vịnh: Tim tôi dâng ý thơ tuyệt diệu. Dệt bài ca cung tiến Đức Vua. Lưỡi tôi tựa bút rung vạn điệu. Trong tay những thi nhân anh tài. Khi nghe bà Isave chào, Đức Mẹ đã xuất khẩu tán tụng Chúa bằng bài kinh ca ngợi tuyệt diệu.
Tác động thứ ba: thái độ chia sẻ. Tình yêu Thiên Chúa bao la đã đổ vào tâm hồn Đức Mẹ tràn đầy niềm vui. Niềm vui thánh thiện và lớn lao đã thúc đẩy Đức Mẹ mau mắn lên đường đi thăm bà Isave. Đức mẹ không đến để khoe khoang, nhưng để chia sẻ. Nhờ Đức Mẹ đến mà bà Isave và thánh Gioan Baotixita được chúc phúc. Đức Mẹ cũng đến để chúc mừng bà chị họ đã được Chúa đoái thương. Tâm hồn được Chúa chiếm hữu đã khiến Đức Mẹ trở nên quảng đại và hiệp thông, sẵn sàng chia vui sẻ buồn với những người chung quanh.
Tác động thứ bốn: dấn thân phục vụ. Niềm tri ân cảm tạ, niềm vui thánh thiện thực sự sẽ không dừng lại ở những bài ca trên môi miệng. Cảm nghiệm về Tình Yêu Thiên Chúa trong trái tim sẽ mau chóng chuyển sang đôi tay. Niềm tri ân cảm tạ sâu xa sẽ nhanh chóng biến thành hành động. Sự đền đáp tình yêu sẽ thúc đẩy người được yêu dấn thân phục vụ trong những việc làm cụ thể. Chính vì thế Đức Mẹ đã không ngần ngại ở lại phục vụ bà chị họ trong ba tháng.
Mừng lễ Đức Mẹ lên Trời một cách có ý nghĩa nhất, đó là ta hãy noi gương Đức Mẹ: xin Chúa Thánh Thần đến tràn ngập tâm hồn ta như Người đã đến trong lòng Đức Mẹ, giúp ta cảm nghiệm được những ơn lành Chúa ban và giúp ta mau mắn đáp lại tình yêu thương đó.
Xin Đức Mẹ giúp chúng con biết ngoan ngoãn vâng theo ơn Chúa Thánh Thần soi sáng: để vội vã ra đi, để hân hoan tạ ơn, để quảng đại chia sẻ và để dấn thân phục vụ anh em. Amen.















2. Chuyện Hồn Với Xác, Don Bosco Trần Đức Quý



Đã từng có một thời, người ta xôn xao về chuyện Nhị Nguyên, phân tách Hồn – Xác, đến mức tranh cãi và xung đột nhau gay gắt, để lại nhiều vết thương đau đớn trong Giáo Hội.
Có lẽ hôm nay, nhân đại lễ Đức Mẹ Hồn Xác về Trời, chúng ta không cần lạm bàn triết học hay thần học dài dòng thêm về thuyết Nhị Nguyên này, nhưng hay hơn và cần thiết hơn, chính là thành tâm cúi đầu thú nhận rằng: ít hay nhiều, cuộc sống Đạo của chúng ta, cho đến bây giờ, vẫn cứ còn lấn cấn chập choạng thế nào ấy, giữa Đạo với Đời, giữa cái diễn đạt nghi thức ở bên trong Nhà Thờ và cách thế nghiệm sinh ở bên ngoài Nhà Thờ, giữa chuyện của linh hồn và thân xác, cứ như thể hai đằng chẳng có gì hỗ tương hòa nhập làm một, cứ như thể có đến hai cái Tôi, một cái dành cho Nước trên Trời, và một cái dành cho Nước dưới Đất.
Nghĩ mà khổ! Giá cứ thẳng tuồn tuột một đường lo cho cái ăn, cái mặc, chuyện vợ chồng, chuyện con cái, làm việc và vui thú hưởng thụ như một người vô thần vô tín ngưỡng, đàng này lại chúng ta lại đã trót… làm người có Đạo, lại là Đạo độc thần nữa cơ chứ!
Cũng trong cái nhãn quan bị cận thị mù mờ ấy mà chúng ta dễ nhìn Đức Mẹ một cách lệch lạc khiếm khuyết: Mẹ là Mẹ Thiên Chúa cơ mà, chuyện Hồn Xác được rước vào Nước Trời là đương nhiên, miễn bàn! Từ tâm não ấy, người ta cảm thấy an tâm hài lòng, chỉ cần tung hô ngợi khen Mẹ bằng những bài Thánh Ca bay bổng tuyệt vời, chỉ cần suy tôn Mẹ như một bà Hoàng rất Thánh, đại Thánh, vô cùng Thánh, ở trên chín tầng mây cao thẳm, thi thoảng làm như vẫn ghé mắt rủ lòng, nhìn xuống đoàn con dân khốn khổ dưới cõi trần bi ai mà… “phát chẩn” những ơn này ơn kia. Cái não trạng này, của đáng tội, tuy hơi quá lời, không khác gì người đời hàng năm cứ đến mùa lễ hội, lại nườm nượp chạy hết đền này phủ nọ để tôn sùng, cầu cạnh xin xỏ và vay nợ bà Chúa Xứ, bà Chúa Kho, bà Chúa Liễu Hạnh…
Chắc chắn không phải là như vậy đâu nhỉ? Tín điều của Giáo Hội tuyên xưng Đức Mẹ cả Hồn lẫn Xác về Trời đâu có phải là chuyện trẻ con, mê tín dị đoan tầm phào như thế! Hồn và Xác của Mẹ đã là một, là duy nhất trong cách thế Mẹ hiện diện trọn vẹn trước Thiên Chúa và trong Thiên Chúa, đến mức được tôn vinh là Hòm Bia của Thiên Chúa, là Đền Thờ Thiên Chúa ngự, là Cửa Thiên Đàng…
Mà thôi, chúng ta chỉ cần nương dựa thật chắc vào Kinh Thánh để nhận ra nơi Mẹ có hai nhịp sống, hai mà là một: nhận đón và trao ban Tin Mừng của Thiên Chúa.
Khi nhận đón Tin Mừng, Mẹ đã nhận đón bằng cả Hồn lẫn Xác, nhờ xúc tác kỳ diệu của Chúa Thánh Thần, để Ngôi Lời được nên xương nên thịt trong dạ Mẹ kể từ ngày được truyền tin, và cứ thế mà Mẹ không ngừng thai nghén cưu mang Đức Giê-su cho Giáo Hội, cho từng người trong chúng ta, âm thầm cho cả những người chưa chịu “khẩu phục tâm phục” Đức Giê-su, cho cả những người cứng đầu cứng cổ, vẫn đang tìm cách đẩy Đức Giê-su ra khỏi đời mình!
Rồi khi trao ban Tin Mừng, Mẹ cũng đã trao ban bằng cả Xác lẫn Hồn, cũng luôn nhờ vào tác động sâu xa của Chúa Thánh Thần, để Ngôi Lời được thành Lời kêu to lên, công bố lớn tiếng lên trên thế giới, truyền đi cho đến tận cùng cõi Đất, để Tin Mừng được toàn cầu hóa (hay là toàn cầu hóa Tin Mừng?), để rồi sẽ không còn có ai trên đời này mà lại không được cơ duyên một lần nào đó nghe nói về Đức Giê-su, gặp được Đức Giê-su và được Đức Giê-su chạm đến mà chữa lành.
Hai nhịp mà là một, hòa quyện, lồng vào nhau, chan cho nhau, đổ đầy lẫn nhau như một chiếc bình thông nhau. Bởi vì nhận đón cũng chính là trao ban, nhận đón để trao ban và trao ban thì cùng lúc vẫn phải không ngừng nhận đón, để không bị vơi, không bị cạn. Mẹ là thế!
Dòng Chúa Cứu Thế được Giáo Hội chính thức ủy thác cho việc cổ súy lòng sùng mộ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp (Notre Mère du Perpétuel Secours – Our Mother of Perpetual Help). Hằng cứu giúp chứ không phải lâu lâu mới cứu giúp, hay cứu giúp theo định mức chỉ tiêu, cũng chẳng đợi con người ta xin cứu thì mới giúp, hoặc lâm vào nghịch cảnh nguy tai cần giúp mới cứu. Cứu giúp ở đây mang ý nghĩa nhận đón và trao ban. Mẹ nhận đón lấy Giê-su, nhận đón lấy Tin Mừng cũng là một trật, trao ban Tin Mừng, Tin Vui, Tin Lành, trao ban Giê-su của yêu thương, của sự sống, của hy vọng cho mọi người trong một bối cảnh thế giới luôn luôn từ khước vị tha xả kỷ và dẫy đầy những Tin Buồn, Tin Xấu, Tin Chết.
Một khi cuộc sống chúng ta, thế giới chúng ta vẫn còn đó những khủng bố, tạt acid, phá thai, những hà hiếp bóc lột bất công, những bạo hành ngược đãi đối với phụ nữ và trẻ thơ, những hất hủi đối với người tật nguyền, những người phong cùi, những người nhiễm AIDS… thì dẫu Hồn Xác Mẹ đã được lên Trời, nhưng Mẹ vẫn sẽ chẳng chịu “nghỉ hưu” mà an hưởng gia nghiệp Nước Trời vinh quang. Ngược lại, Mẹ vẫn mãi cả Xác lẫn Hồn lặn lội tất tả trên mọi nẻo đường dương thế để cứu giúp con cái của Mẹ bằng chính liệu pháp Giê-su, bằng chính thuốc “trụ sinh” Tin Mừng (“Christomycine”, “Gospelcycline” theo cách nói của cha Tiến Lộc trong trại cải tạo cách đây 20 năm).
Thế nhưng, Mẹ còn muốn gì nơi lòng chúng ta? Ở Ca-na, Mẹ bảo các người giúp việc trong tiệc cưới: “Người có bảo sao, các anh cứ làm y như thế!” Chắc là Mẹ không muốn phát chẩn cho chúng ta bằng những phép lạ mang tính biểu diễn, cũng không muốn chúng ta cứ mãi ngửa tay xin bố thí từng ân huệ, nhưng là hiệp sức cộng tác với Mẹ trong khả năng và ơn gọi của mình.
Trong xúc tác của Chúa Thánh Thần, Tin Mừng Giê-su, một khi đã được đón nhận thì có sức tỏa sáng, lan tỏa rất nhanh, rất mạnh, rất sâu, rất rộng, có sức chinh phục âm thầm mà sâu xa như trong một phản ứng hạt nhân dây chuyền. Bất cứ ai, tôi và các bạn, mỗi người và mọi người, một khi đã chịu lấy, đã nhận đón Tin Mừng thì không còn có thể khoanh tay ngồi yên, có giả điếc làm ngơ, vờ ngủ mê thì Mẹ cũng lay tỉnh và thúc giục chúng ta phải mở lòng ra mà trao ban, mà chuyển giao Tin Mừng cho những người khác nữa đang ngong ngóng chờ đợi khát khao, dù họ có ý thức điều đó hay không. Để rồi ai cũng có thể thốt lên: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả” (Lc 1,49). Gaudium et Spes, Vui Mừng và Hy Vọng là như thế đó…
Hôm Chúa Nhật 12.8, trước khi đến dâng Thánh Lễ tại nguyện đường Sainte Marie ở Hà Nội, tôi nhận được một E-Mail từ trong Nam chuyển ra, nội dung là lời cầu cứu của một gia đình nghèo ở tỉnh Đồng Nai có cháu bé bị Tim bẩm sinh đã đến hồi nguy kịch. Tiện tay tôi cầm lá thư kẹp vào trong quyển sổ soạn bài giảng. Và tôi đã mạnh dạn đọc to lá thư ấy cho cộng đoàn. Khi tan Lễ, mọi người quây lại khen tôi giảng hay quá. Bản tính tự nhiên con người khiến tôi thấy len lén một thoáng tự hãnh kiêu ngạo, nhưng ngay sau đó, tôi hiểu rằng mình đã được Chúa Thánh Thần “mượn tạm”, đã được Mẹ Hằng Cứu Giúp trưng dụng, sung công để nhận và chuyển ngay Tin Mừng của ngày hôm ấy đến cho mọi người, đích xác là cho những anh chị em đã có mặt trong Thánh Lễ ngày hôm ấy. Ngày 16.8, ngay sau khi cử hành Lễ Đức Mẹ Hồn Xác về Trời, tôi vào lại Sài-gòn, không chỉ mang theo số tiền 3.050.000 đồng mà còn là cả tấm lòng yêu thương san sẻ của những người bạn Hà Nội cho một em bé, cho một gia đình ở tít tận miền Nam. Không ai biết mặt ai, không ai đã từng quen biết ai, nhưng cũng không ai còn xa lạ nhau trong Tin Mừng Giê-su kỳ diệu.
Vậy đó, chuyện Hồn với Xác đâu có gì là tách bạch, chuyện Đạo với Đời đâu có gì là chia cách biệt phân. Mẹ về Trời nhưng không ở trên Trời xa xôi, Mẹ vẫn đang lang thang lữ hành trên cõi Đất này, vẫn đang chọn dừng chân lưu ngụ nơi mỗi tâm hồn những con cái đáng thương của Mẹ để gửi gắm và làm nở hoa Tin Mừng. Mà như vậy, đâu phải đợi đến ngày “xác phàm sẽ sống lại” để cùng với linh hồn để bay về Trời mà hạnh ngộ với Thiên Chúa và Mẹ, nhưng ngay hôm nay, đang giữa đường trần ngược xuôi tất tả, cả hồn lẫn xác chúng ta cũng đã được nếm lấy hương vị bữa tiệc Nước Trời, đã được “tạm ứng” nỗi Mừng Vui kín ẩn mà thấm thía của Tình Yêu…
Tôi tin, trong những ngày đang diễn ra Đại Hội La Vang lần này, Hồn và Xác Mẹ cũng đang chạm đến hồn và xác của nhiều con người, như đã từng chạm đến tôi, đến những anh chị em ở Sainte Marie, đến những em bé như em bé bị Tim bẩm sinh ở Đồng Nai, đến cả bạn nữa đấy.
Lm. LÊ QUANG UY, DCCT















3. Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời



Câu hỏi gợi ý:
Mẹ Ma-ri-a trở nên cao cả có phải vì Mẹ mong muốn được như thế không? Mẹ có mong muốn trở nên một nhân vật vĩ đại như Mẹ đang là hiện nay không: 15/8-11
1. Mẹ Ma-ri-a trở nên cao cả có phải vì Mẹ mong muốn được như thế không? Mẹ có mong muốn trở nên một nhân vật vĩ đại như Mẹ đang là hiện nay không? Chúng ta có thể rút ra bài học gì cho chính chúng ta?
2. Tại sao nhiều người Ki-tô hữu lại từ bỏ những điều mà người đời phấn đấu cho bằng được để có? Ai khôn ngoan hơn ai? Chiếu theo quan điểm đức tin, sự từ bỏ ấy có thật sự đáng gọi là hy sinh không?
Suy tư gợi ý:
1. Đời của Đức Ma-ri-a có nhiều đặc biệt Cuộc đời của Đức Ma-ri-a có nhiều nét đặc biệt và nghịch lý. Đặc biệt chẳng hạn như là người nữ duy nhất trên trần gian được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Ngôi Hai Nhập Thể, sinh con không phải do kết hợp với người nam mà bởi quyền năng Thánh Thần, sinh con mà vẫn còn đồng trinh, làm con trẻ Gio-an, con bà Ê-li-sa-bét, nhảy mừng khi Mẹ đến thăm, v.v… Nghịch lý là vì Mẹ sống rất đơn sơ, khiêm nhường, không mong muốn gì cao sang hay đặc biệt hơn người, mà lại trở nên cao sang và đặc biệt hơn bất cứ người nào trên trần gian này.
Nghịch lý ấy là nghịch lý đối với người đời, vì họ quan niệm rằng muốn đạt được những địa vị cao sang thì phải có lý tưởng thật cao vời, nghĩa là phải nhắm những địa vị cao, những mục tiêu lớn, phải quyết tâm trở nên những nhân vật vĩ đại, rồi còn phải bon chen phấn đấu với mọi người, nhất là với những đối thủ cạnh tranh với mình. Những nghịch lý ấy lại là thuận lý theo cách suy nghĩ của Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa suy nghĩ và hành động khác hẳn với người đời. Trong bài Ngợi Khen, Đức Ma-ri-a đã nêu lên cách hành động của Ngài: Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đóai thương nhìn tới, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
2. Hai cách suy nghĩ
Thực ra đó là hai cách nghĩ và hành động khác nhau, cả hai cách đều có lý, đều đúng, nhưng có lý và đúng trong hai lĩnh vực khác nhau, trong hai không gian khác nhau, và trong hai loại thời gian khác nhau. Cách của người đời – không dựa vào đức tin – thì đúng trong phạm vi nhỏ hẹp của xã hội, trong đời sống vật chất, tầm thường của đời người, và trong một khoảng ngắn thời gian, chẳng hạn vài chục năm của đời người. Còn cách những người sống theo đức tin thì đúng trong phạm vi rộng lớn hơn, trong đời sống tâm linh, siêu việt, và trong thời gian rất dài, trong vĩnh cửu, có thể xuyên qua đời sống của con người, vượt qua cái chết. Cách nào cũng đúng, cũng có lý, nên cách nào cũng có những người thông minh và khôn ngoan vào bậc nhất thế giới ủng hộ, cổ vũ.
Vấn đề của chúng ta là chọn cách suy nghĩ nào, cho cách nào là khôn ngoan nhất. Nếu nhắm cái lợi trước mắt và ngắn ngủi thì chúng ta nên suy nghĩ theo kiểu thế gian, không dựa trên đức tin. Còn nếu nhắm cái lợi lâu dài và hết sức to lớn – chỉ có điều bất lợi là khó thấy và không đến ngay – thì chúng ta nên suy nghĩ theo kiểu đức tin. Khi chúng ta đã suy nghĩ và chọn lựa dứt khoát thì chúng ta phải chấp nhận bỏ cái này để được cái kia: hoặc là bỏ cái nhỏ để lấy cái lớn, bỏ cái ngắn để lấy cái dài, hoặc là ngược lại, bỏ cái lớn để lấy cái nhỏ, bỏ cái dài để lấy cái ngắn. Cách suy nghĩ nào cũng đều đòi hỏi phải từ bỏ. Suy nghĩ như thế, ta cảm thấy thoải mái hơn.
Giả sử ta lựa chọn bỏ cái nhỏ để lấy cái lớn, bỏ cái ngắn để lấy cái dài, thì ta sẽ không cảm thấy việc từ bỏ ấy là một sự hy sinh. Cho rằng sự từ bỏ khôn ngoan ấy là một hy sinh thì có thể làm tâm lý chúng ta bị dồn nén, đau khổ, gây trạng thái mất quân bình về tâm lý. Xét cho cùng, sự dồn nén này quả là một dồn nén phi lý, thiếu suy nghĩ. Nếu có dùng chữ hy sinh thì đúng ra chữ đó phải dành cho những ai lựa chọn bỏ cái lớn để lấy cái nhỏ, bỏ cái dài để lấy cái ngắn, như thế thì hợp lý hơn. Chẳng hạn có ai đó cho hai người nọ hai món đồ: một món quý giá và một món rẻ tiền. Thật là phi lý khi bảo người chọn món quý giá và để lại món rẻ tiền cho người kia là đã hy sinh cái nhỏ để lấy cái lớn. Nếu nói đó là một hy sinh thì người chọn cái nhỏ và bỏ lại cái lớn không phải là đã hy sinh nhiều hơn sao?
3. Ai hy sinh hơn ai?
Có vị bề trên một tu viện nổi tiếng thánh thiện và hạnh phúc. Một tu sinh dưới quyền ngài, khi biết được sự từ bỏ ít người làm được, và thấy đời sống hết sức thánh thiện của ngài, bèn thốt lên:
– “Thưa Cha, đời sống Cha thật là tuyệt vời, Cha đã từ bỏ mọi sự giàu sang sung sướng để tìm Thiên Chúa, và để dạy cho chúng con sự khôn ngoan của Ngài”.
– “Con đã nói phản lại sự thật rồi! – Vị bề trên trả lời – Cha chỉ bỏ có vài cuộn giấy bạc và những thú vui trần tục để chinh phục một niềm phúc lạc vô biên. So với cái kho tàng tâm linh quý báu này thì đó có thật là một sự hy sinh chăng? Trái hẳn lại, chính những người thế gian đã từ bỏ và hy sinh những kho tàng tâm linh vô giá trên đường Đạo để chạy theo những của cải vật chất giả tạm vô thường. Những vị khổ tu tuy áo quần đơn sơ thô thiển, trong người không giữ riêng một đồng bạc, lại trở thành những phú ông về tâm linh. Còn những người tỷ phú kiêu hãnh lại là những kẻ đáng thương về tâm linh mà không hay biết. Đó chính là điều mâu thuẫn về sự dứt bỏ và hy sinh".
4. Vấn đề là tin hay không tin, và ai khôn ngoan hơn ai
Vì thế, trong đời sống Ki-tô hữu hiện nay, chúng ta cần xác định một lần cho rõ ràng và dứt khoát mục đích cuộc đời ta là gì, ta chọn cái lợi lớn hay cái lợi nhỏ, loại hạnh phúc ta mong muốn là loại nào: ngắn hạn hay dài hạn, đích thực hay giả tạm, tùy thuộc hoàn cảnh bên ngoài hay độc lập với mọi hoàn cảnh, v.v& Một khi đã xác định rồi thì ta chỉ cần sống theo sự lựa chọn nền tảng đó. Lúc đó ta không còn nghĩ là mình phải hy sinh cái này hay cái kia, nghĩ như thế là chỉ nghĩ đến cái ta bị mất mà không nghĩ đến cái ta sẽ được. Thánh Phao-lô nói: Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta (Rm 8,18). Nếu cái được lớn hơn cái mất thì làm sao gọi là hy sinh được? Còn nếu cái mất lớn hơn cái được thì mới đáng gọi là hy sinh, và nếu lựa chọn như thế thì thật là ngu xuẩn!
5. Chọn lựa của Mẹ Ma-ri-a
Sự khôn ngoan như thế thật đáng khâm phục, nhưng nó vẫn phảng phất mùi vị kỷ: lo cho hạnh phúc của mình, cho dù là hạnh phúc vĩnh cửu. Sự thánh thiện của Mẹ Ma-ri-a không dừng lại ở sự vị kỷ cao cả đó, mà vượt lên cao nữa, vượt khỏi những gì là vị kỷ của mình. Theo niềm tin Công giáo, Mẹ đã được Thiên Chúa giữ gìn khỏi mọi tội lỗi và khỏi vòng kiềm tỏa của tội lỗi. Vì thế, nhờ ơn Chúa và nỗ lực bản thân, Mẹ đã thắng vượt mọi hình thức ích kỷ cho dù vi tế nhất. Điều đó không có nghĩa là Mẹ không bị cám dỗ về tính vị kỷ, nhưng Mẹ luôn luôn chiến thắng. Động lực khiến Mẹ luôn luôn chiến thắng chính là tình yêu mạnh mẽ đối với Thiên Chúa và tha nhân. Mẹ yêu Thiên Chúa vì Thiên Chúa, yêu tha nhân vì tha nhân, chứ không phải vì mình. Chính vì thế, Mẹ không còn đặt nặng hạnh phúc – cho dù là vĩnh cửu – của mình, mà đặt nặng vinh quang và thánh ý của Thiên Chúa. Chính vì thế, Mẹ trở nên người đạt được hạnh phúc vĩnh cửu ở mức độ cao nhất, trọn vẹn nhất. Đúng như lời Đức Giê-su nói: Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấyữ (Mt 16,25; x. Mc 8,35; Lc 9,24; Ga 12,25). Mẹ đã sống tinh thần câu Tin Mừng này một cách trọn hảo nhất.
Mẹ đã được Thiên Chúa thưởng vì sự chọn lựa đầy khôn ngoan và sáng suốt đó. Mẹ đã đạt được hạnh phúc đích thật và vĩnh cửu vì Mẹ đã sống phù hợp với sự chọn lựa đó suốt cả cuộc đời, trong tất cả mọi hoàn cảnh. Việc Mẹ là người duy nhất trên trần gian được về thiên đàng cả hồn lẫn xác cùng với Đức Giê-su là một ơn xứng đáng với sự lựa chọn căn bản rất tuyệt vời của Mẹ. Chúng ta hãy bắt chước Mẹ trong cách chọn lựa căn bản của chúng ta.
Cầu nguyện
Lạy Mẹ Ma-ri-a, xin cho con bắt chước Mẹ trong việc chọn lựa căn bản nhất của đời con. Xin cho con biết chọn Chúa hơn chọn bản thân con, biết chọn ý Chúa hơn ý riêng, chọn vinh quang của Chúa hơn cả hạnh phúc của con, và biết quan tâm phục vụ tha nhân vì Chúa hơn quan tâm đến chính bản thân con. Xin giúp con trở nên giống Mẹ trong sự lựa chọn ấy. Amen.
JKN















4. Ước Vọng Lên Trời – Lm Phạm Quốc Hưng Cssr



Trong buổi lễ tại Tòa Bạch Ốc ngày 30/7/1994, Tổng thống Hoa Kỳ Willam Clinton đã tôn vinh cuộc đổ bộ lên mặt trăng tròn 25 năm (20/7/1969). Ông gọi biến cố ấy là “bước nhảy vĩ đại của nhân loại”. Các phi hành gia của phi thuyền Apollo 11 là Neil Armstrong, Edwin Aldrin và Michael Collins, những người đầu tiên đặt chân lên mặt trăng, đã được ngưỡng mộ như những người hùng của nhân loại.
Sau chuyến bay lịch sử ấy, nhiều người đã nghĩ đến việc sẽ có những cuộc du hành thường xuyên lên mặt trăng để tất cả những ai thích đều có thể mua vé lên nguyệt cầu. Nhưng dịch vụ du ngoạn nguyệt cầu đến nay vẫn chưa được thực hiện. Việc bỏ ra một món tiền lớn để đặt chân lên một vệ tinh không có sự sống và dưỡng khí rồi trở về địa cầu với ít đất đá vô hồn xem ra không đáng làm.
Dù sao, việc con người vượt ra khỏi sự hạn hẹp của địa cầu để đặt chân lên một thiên thể khác vẫn là một thành quả đáng khâm phục. Vì điều này đã nói lên một cách hùng hồn khả năng chinh phục vụ trụ của con người. Nhưng dù có vượt ra khỏi sự hạn hẹp của địa cầu khi đặt chân lên nguyệt cầu, con người vẫn chưa được thỏa mãn hoàn toàn. Vì mặt trăng hay bất cứ thiên thể nào trong thế giới vật chất này vẫn không phải là quê thật và chung cánh của loài người. Chỉ có Thiên Đàng hay Quê Trời mới là nơi mà mọi khao khát và trống vắng của lòng người mới được thỏa mãn và khỏa lấp hoàn toàn.
Ước mơ Thiên Đàng không phải là ước mơ hão huyền.
Việc phi thuyền Apollo 11 đổ bộ nguyệt cầu đã cho thấy ước mơ lên thăm Chị Hằng của nhân loại từ ngàn xưa đã được thực hiện. Cũng vậy, việc Đức Mẹ được Thiên Chúa đưa lên trời cả hồn xác mà Giáo Hội long trọng mừng kính vào ngày 15/08 hàng năm đã nói lên một cách hùng hồn rằng ước mơ lên trời, ước mơ Thiên Đàng, là ước mơ chính Thiên Chúa đã gieo vào nơi sâu thẳm nhất của lòng người. Ước mơ đó đã được thực hiện cách trọn vẹn nơi Mẹ Maria và cũng sẽ được thực hiện nơi mỗi người chúng ta trong ngày chung thẩm, khi thân xác chúng ta được Chúa cho sống lại như thân xác vinh hiển của Chúa Giêsu Phục Sinh.
Không như nguyệt cầu là nơi vắng bóng sự sống và dưỡng khí, Quê Trời là nơi đong đầy sự sống và tình yêu. Mẹ Maria được “lên trời” không có nghĩa là Mẹ được Chúa cất ra khỏi trái đất này để đem đến một khoảng không gian xa xôi nào đó trong vũ trụ vật thể này. Vì nếu việc Mẹ lên trời được hiểu như thế, việc “lên trời” của Mẹ chẳng đáng ta ước mong, như lời của một bản tình ca nào đó:
 “Lên trời hai đứa hai nơi
Thôi em chỉ muốn làm người trần gian”
Thực ra, đặc ân Đức Mẹ được “lên trời” có nghĩa là Mẹ đã được Thiên Chúa cho tham dự vào chính sự sống của Chúa Ba Ngôi cách trọn vẹn, cả hồn cả xác. Mẹ đã được Thiên Chúa đưa ra khỏi thế giới tự nhiên hữu hạn này để đi vào thế giới siêu nhiên vô hạn, thế giới thần linh của chính Chúa. Trong thế giới đó, Mẹ được hiệp nhất với Chúa Ba Ngôi và tất cả tạo vật đẹp lòng Chúa trong Tình Yêu và Hạnh Phúc viên mãn của chính Chúa.
Tại sai Mẹ được phúc trọng như thế? Tin Mừng theo thánh Luca trong phụng vụ hôm nay cho ta biết Mẹ được phúc trọng vì Mẹ đã tin, tin tất cả những gì Chúa phán cùng Mẹ. Mẹ đã tin với tất cả xác hồn của Mẹ, với tất cả sự sống và tình yêu của Mẹ, Mẹ đã tin trọn vẹn nên Mẹ đã được phúc trọn vẹn.
Chúng ta cũng được Chúa mời gọi bước vào cuộc hành trình đức tin như Mẹ. Chúng ta tin rằng Chúa yêu thương ta từ đời đời. Người dựng nên ta theo giống hình ảnh Người. Người đã ban cho chúng ta chính Con Một Người là Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã sinh ra làm người để chia sẻ thân phận chúng ta, đã chết và sống lại để chuộc lại cho chúng ta địa vị làm nghĩa tử của Chúa, và đã lên trời vinh hiển để cho chúng ta hy vọng sẽ được lên trời chia sẻ vinh quang với Người.
Việc Mẹ Maria được lên trời cả hồn cả xác cho thấy Mẹ là người đầu tiên trong nhân loại đã được tận hưởng cách trọn vẹn và hoàn hảo ơn cứu độ do công nghiệp của Chúa Kitô. Đó còn là một mạc khải cho ta thấy trước phần phúc chung cánh Thiên Chúa dành sẵn cho mỗi người chúng ta.
Thực tại đức tin của ta đẹp như thế đấy!
Ta có dám tin và sống trọn vẹn với niềm tin đó không?
Có lẽ sẽ chẳng bao giờ chúng ta có cơ hội đặt chân lên mặt trăng như các phi hành gia của phi thuyền Apollo 11. Nhưng nếu chúng ta tin như Mẹ đã tin và sống như Mẹ đã sống, chắc chắn chúng ta sẽ được phúc lên trời như Mẹ đã được.
Lạy Mẹ Maria là Mẹ đầy ơn phúc của chúng con. Cùng với Mẹ chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho Mẹ ơn được lên trời cả hồn cả xác. Trong sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa của Tình Yêu, Mẹ không ở xa chúng con nhưng lại càng gần chúng con và yêu thương chúng con hơn. Vậy xin Mẹ hãy giúp chúng con nhận biết sự hiện diện thật thân thiết của Mẹ trong cuộc đời chúng con, để chúng con hằng sống gắn bó với Mẹ trong cuộc hành trình đức tin nơi dương thế. Nhờ vậy, chúng con sẽ luôn tìm được ý nghĩa đích thực và bình an trong cuộc sống hiện tại và đầy tràn hy vọng sẽ được hưởng phúc Thiên Đàng cùng Mẹ trong cuộc sống đời đời. Amen.
Lm. Phạm Quốc Hưng CSsR















5. Linh Hồn Tôi Ngợi Khen Thiên Chúa



Mừng Kính Đức Maria hồn xác lên trời hôm nay chúng ta hãy nhìn lại cuộc đời của mình, tại sao không là cuộc đời ngợi khen Thiên Chúa?
Đặt ra câu hỏi này cho tôi, để tôi cần được thấy những điều trọng đại mà Thiên Chúa đã thực hiện cho tôi qua lịch sử dân tộc và lịch sử đời thường cá nhân của tôi.
“Chúa độ trì Israel, tôi tớ của Người”. (Lc 11,54).
Hoàn cảnh của lịch sử một dân tộc.
Với cách nhìn lịch sử của Đức Maria, cuộc đời dân tộc của Mẹ đã trở thành lời ca tụng Thiên Chúa. Đây là điều quan trọng trong cuộc sống, bởi vì cuộc sống này dù thế nào chăng nữa vẫn là một cuộc sống được thừa hưởng, thừa hưởng gia sản quý báu mà cha ông để lại, là một dân tộc được hiến thánh. Một dân tộc nhỏ bé giữa triều đại Đế quốc Roma rộng lớn, cường thịnh. Một dân tộc được hiến thánh cho Thiên Chúa giữa muôn dân được tuyển chọn từ một cụ già gần đất xa trời là Abraham mà vẫn chưa có một đứa con nối dõi tông đường. Thiên Chúa đã khởi đi từ những gì là mong manh ấy để chuẩn bị cho cho một dân riêng để thờ phượng Thiên Chúa. Giữa muôn ngàn nghịch cảnh của lịch sử, Thiên Chúa đã cho dân tộc Israel được thấy, họ là “con số còn sót lại” để thờ kính Thiên Chúa. Thiên Chúa, Người thích đi con đường nhỏ.
Tại sao một lịch sử nhỏ bé của một dân tộc Việt Nam lại không đọc thấy con đường nhỏ này. Một quốc gia nhỏ bé giữa vùng Châu Á. Một quốc gia biết tôn trọng sự sống được biểu lộ ra bằng hình thức “cầu tự” trong truyền thống dân gian. Một dân tộc đã trải qua một ngàn năm chịu đô hộ giặc Tàu, một trăm năm dưới ách giặc Tây và nhiều năm trong những thử thách của chiến tranh, mà vẫn mang trong mình gióng máu Việt. Từ lòng Âu Cơ, Thiên Chúa đã chuẩn bị cho dân tộc Việt Nam một dân được hiến thánh cho Thiên Chúa. Từ một con người rất bình thường của một gia đình nông thôn nghèo khó, Thiên Chúa đã biểu lộ quyền năng của Người nơi gia đình bà Annê Lê Thị Thành, một phụ nữ Việt Nam. Từ một lịch sử đức tin của đời thường ấy Thiên Chúa đã làm bao điều cao trọng. Máu bà đã đổ cũng như máu các Thánh Tử Đạo đã đổ, các vị là một “con số nhỏ” mà Thiên Chúa đã thực hiện Lịch sử Cứu độ của Người cho dân tộc Việt Nam. Giống như từ cung lòng héo hắt của bà Sara, Thiên Chúa đã gầy dựng một dân. Đức tin của dân tộc Việt ấy đã mọc lên từ máu Tử Đạo, kết trái đơm hoa bằng những con người tử đạo, trong đó có máu tử đạo của một người nữ. Trong giai đoạn lịch sử tử đạo này, tôi thích đọc lại hình ảnh của nhà văn H.Sienkievich trong tác phẩm “Quo vadis”, diễn tả khi Phêrô trốn ra khỏi thành Roma trở về và nhận ra: “Hoàng đế cùng tất cả các đạo quân của y cũng không thể thắng được chân lý đầy sức sống kia, cả nước mắt lẫn máu tươi đều không thể nhận chìm nổi chân lý đó, giờ đây mới là lúc chân lý bắt đầu chiến thắng. ông cũng hiểu được tại sao ông được gọi quay trở lại giữa đường trốn chạy: Chính cái thành phố của xa hoa, tội ác, truỵ lạc và bạo tàn này đã biến thành thành phố của ông, trở thành thủ đô hai lần thủ đô, từ thủ đô ấy sẽ trào tuôn ra thế giới sự ngự trị của thể xác lẫn linh hồn”. Suy nghĩ này dẫn dắt tôi đến với lịch sử dân tộc tôi hôm nay: “Cho dù có cả triệu thai nhi bị giết chết trong một năm, nơi đây vẫn còn từ những cung lòng của bao bà mẹ khác vẫn không ngừng đón nhận con cái là hồng ân Chúa ban, để sinh ra những người con cho trần thế và cho Nước Trời”. Thiên Chúa đã làm những điều kỳ diệu trong lịch sử và còn tiếp tục thực hiện trong lịch sử của nhân loại.
Với một góc nhìn ấy về sự kiện của ngày Đại Hội giới Trẻ lần thứ 17 tại Toronto, tôi tin rằng Thiên Chúa vẫn đang bày tỏ uy quyền của Người qua những con số nhỏ dám chấp nhận đang lội ngược dòng thế gian này và hình ảnh Giáo Hoàng giữa các bạn trẻ tại Toronto, giống như môn đệ Phêrô, qua dáng người bước ra pháp trường của ngày hôm ấy mà tác phẩm “Quo Vadis” diễn tả: “Vị lão ngư thường ngày vẫn nhẫn nhục còng lưng, lúc này bước thẳng người , tầm vóc hơn đám binh lính, đầy vẻ trang trọng. chưa bao giờ người ta thấy ở ông ấy ngần ấy vẻ uy nghi ngỡ như đó là một vị quốc vương đang đi giữa dân chúng và binh lính”.
Tôi tin rằng những con người đang bênh vực cho chân lý của sự sống vẫn mang một dáng người như thế giữa ngàn trùng sự dữ, đang bước đi hiên ngang đi về phía trước.
Trong một nhãn quan lịch sử như thế, tôi đang được thừa hưởng sự sống, tôi không thể nào mà không thấy được trong mọi hoàn cảnh của ngày hôm nay lời tán tụng Thiên Chúa, mang nỗi lòng mừng vui của Đức Maria: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa…” khi lịch sử cứu độ còn đang vận hành trong những người mẹ đón nhận những đứa con là hồng ân Thiên Chúa.
“Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đã đoái thương nhìn tới”.
Ơ xứ Palestine thời Chúa Giêsu người nữ không có thế giá, thế giới của họ là gia đình và những việc nội trợ. Họ không được đi học cả việc đạo cũng như đời. Họ không được mời làm chứng tại toà án cũng như không được lên tiếng trong nghi thức phụng tự.
Đức Maria là một thiếu nữ nông thôn, mộc mạc, chất phác và nghèo như các thôn nữ miền quê khác. Cái nghèo không thể khuất phục được một tâm hồn chất đầy lời tạ ơn Thiên Chúa. Có cả ngàn lý do để tạ ơn Chúa trong cuộc đời của Đức Maria, và trong kho tàng ân sủng ấy Đức Maria đã trở thành Lời Ngợi Khen Thiên Chúa.
Hoàn cảnh của Đức Maria từ sau tiếng “Xin Vâng”, cũng không dễ dàng gì khi để cho Thiên Chúa bày tỏ quyền năng của Người. Bất lợi và nhiều đau khổ nhưng vẫn không làm người cúi đầu. Điều đặc biệt trong tư thế đón nhận mà Đức Maria đã đón nhận “tất cả là hồng ân”. Thấy được Hồng Ân mới thấy được quyền năng của Thiên Chúa và từ ấy nhận ra cuộc đời đầy ân phúc của mình.
Đã là người, ai cũng là những người nghèo khó, nghèo khó đủ mặt trong cuộc sống, nhưng được vươn cao đến vô hạn nhờ lòng yêu thương của Thiên Chúa. Tại sao không thấy được điều Đức Maria đã thấy: “Người đoái thương nhìn tới; từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”. Đây có lẽ phải là hình ảnh của người nữ mẫu gương cho mọi người nữ đang đấu tranh cho phẩm giá của mình.
Tại sao lại có thể tự ty mặc cảm trước hồng ân của Thiên Chúa? bởi vì nhìn mà không thấy, nghe mà không hiểu, lòng trí đã trở nên lu mờ theo những tính toán ích kỷ. Đức Maria nhận ra mình là nữ tỳ của Thiên Chúa, nhưng đây là một nữ tỳ chỉ một phận nhỏ được Thiên Chúa đoái thương. Người nhận ra được Thiên Chúa đoái thương là người ngẩng cao đầu cất tiếng ngợi khen: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa” thay cho mặc cảm, tự ty. Lời tán dương ấy, tại sao lại không cất lên được trong cuộc sống đời thường của tôi? Bởi vì, tôi đã không dành thời gian để nhìn lại những ân sủng mà Thiên Chúa đã ban cho tôi. Nếu nhìn thấy cánh tay uy quyền của Thiên Chúa thực hiện trong thân phận đầy giới hạn và nghèo túng của tôi thì với nhãn quan ấy tôi đã khám phá ra cuộc đời “Đầy ơn phúc” của tôi.
Những lời tạ ơn trong cuộc sống vẫn cứ như chìm mất trong thái độ cầu xin, phạt tạ, đền tội của tôi. Tại sao lại cúi mặt trước Thiên Chúa? Tại sao tôi không sống đúng với tư thế của người con mà cứ sống thái độ ăn xin nơi ân phúc của Cha?
Tại sao tôi chỉ có biết xin mà chưa biết dùng ân huệ của Người trong cuộc sống của tôi? Một điều đơn giản tôi khám phá ra vì thiếu lời tạ ơn. Thiếu lời tạ ơn, cho nên, dù tôi có nhận được ân sủng từ nơi Thiên Chúa tôi vẫn là những con người chôn giấu những nén bạc. Ân sủng được trao ban là để sinh hoa kết trái và từ hoa trái ấy nên lời tạ ơn trong cuộc sống. Thiếu lời tạ ơn nên cuộc sống vẫn đầy những u mê và tính toán, ích kỷ và kiêu căng, tội ác và bóng tối. Thiếu lời tạ ơn nên cuộc sống của tôi vẫn là cuộc sống người ăn xin trong nhà Cha. Lời tạ ơn làm nên thái độ sống xứng đáng của con người. Thiên Chúa được vinh Danh nơi những con người sống và biết sống xứng đáng là một con người.
Lời tạ ơn làm nên sức năng động: Đức Maria, trong lời tán dương, tôi đã thấy Mẹ là người năng động và rất năng động trong ân sủng của Thiên Chúa. Mẹ là người không chịu khuất phục dưới những đè nặng của khó khăn: Khi biết người chị em của mình đã mang thai, Đức maria đã vội vã lên đường đi tới vùng sơn cước. Khi trở về Nazareth hai ông bà nhận ra thiếu người con là Giêsu, hai ông bà đã vội vã trở lại Giêrusalem. Khi bàn tiệc cưới hết rượu, Đức Maria đã nói với Đức Giêsu “Họ hết rượu rồi” và nói với những người giúp việc “Ngài bảo gì, cứ làm theo”. Khi nghe người ta nói về con mình mất trí, Đức Maria vội đi tìm kiếm con để rồi thấy rằng sự mất trí ấy cũng giống như Mẹ là để cuộc đời này thực hành theo Ý muốn của Chúa Cha. Khi đứng dưới chân Thập Giá, Đức Maria đã biết rằng “mọi sự đã hoàn tất”. Cuộc đời đâu thiếu những sóng gió, nhưng những sóng gió đấy lại bình an trong lời tạ ơn, như Đức Maria đã đắm chìm trong Lời tạ ơn của những ngày Phục Sinh.
Cuộc đời tôi tất nhiên là không tránh khỏi những lúc đen tối, thử thách, gian nan, nhưng điều quan trọng, tôi hãy học cùng với Đức Maria sống cuộc sống này là cuộc đời “Đầy ân Phúc” mà Đức Maria đã sống trong Lời tạ ơn: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa…”.
Biến cuộc đời này thành lời tạ ơn, tôi nhận thấy rằng: Ngay cả những lúc thống hối nhất, giữa những lúc mây đen bao phủ dữ dằn nhất, vẫn là những lúc để Vinh Danh Thiên Chúa được hiển trị nhất trong tâm hồn con người biết tạ ơn.
Hãy tạ ơn và hãy làm cho cuộc đời này trở thành “Đầy ân Phúc” nhất, tôi tin rằng cuộc sống con người sẽ trở thành bất tử ngay cả khi còn dưới thế và Lời Xin cho Danh Cha được hiển trị thành sự thật.
Và cuối cùng tôi vẫn tin rằng: Cả hồn và xác Mẹ lên trời là bảo đảm cho cuộc đời nỗ lực làm cho cuộc sống đầy ân sủng này sinh hoa kết trái và trở thành Lời tạ ơn Thiên Chúa trong cuộc sống của tôi.
LM Giuse Hoàng Kim Toan















6. Niềm Hy Vọng



Lễ Mẹ hồn xác lên trời không phải chỉ đem đến cho chúng ta niềm an ủi, mà còn thắp lên trong chúng ta niềm hy vọng tuyệt vời. Đó chính là điều Đức thánh cha Piô XII đã nhắn nhủ khi công bố tín điều này.
Anh em Tin lành có một bài hát với những lời lẽ như sau:
– Tôi chỉ muốn xây dựng sự lên trời của tôi dựa vào Đức Kitô mà thôi.
Là người Công giáo, chúng ta hoàn toàn đồng ý với những anh em Tin lành:
– Niềm hy vọng về trời của chúng ta phải được đặt nền tảng nơi Đức Kitô.
Thế nhưng, trước mặt chúng ta sự lên trời của Mẹ Maria hôm nay đã thắp lên một ánh lửa dạt dào hy vọng. Với biến cố này, một tia sáng đã chiếu tỏa trên vùng đất tăm tối của sự chết.
Mục đích cuộc hành trình dương thế của chúng ta đã được bảo đảm nơi Mẹ Maria, bởi vì Mẹ là tạo vật đầu tiên đã được bước vào chốn vinh quang.
Án phạt của tội lỗi là sự chết. Thế nhưng với sự phục sinh của Đức Kitô và sự lên trời của Mẹ Maria, chúng ta có thể nói lên như thánh Phaolô:
– Hỡi thần chết, sự chiến thắng của ngươi ở đâu và nọc độc của ngươi ở đâu?
Kể từ nay, cái chết không còn quyền hành gì nữa đối với chúng ta. Là người Kitô hữu, chúng ta lo lắng nhưng không sợ hãi trước cái chết. Thánh Benoit đã chết trong khi còn đang tay cầu nguyện. Thánh Phanxicô thành Assie đã gọi cái chết là người chị yêu dấu. Còn thánh Louis de Gonzague đã nói:
– Chúng ta vui mừng cất bước ra đi…
Người ta kể lại rằng: có một ông bố, đặt khẩu súng đã lên đạn của mình ở đầu giường trong lúc hấp hối và nói với các con của mình rằng:
– Các con hãy yên tâm ra đồng gặt lúa. Bao giờ các con nghe thấy một tiếng súng nổ thì các con biết rằng ba các con đã chết.
Hay như một cụ già khác đã gọi con cháu đến bên giường bệnh và giảng giải cho con cháu biết về sự quan trọng của cái chết.
Cái chết và sự lên trời của Mẹ Maria đã đem đến cho chúng ta niềm hy vọng, bởi vì dù chúng ta sẽ chết cách nào, điều đó không quan trọng, chúng ta sẽ hấp hối làm sao, điều đó cũng không quan trọng. Điều quan trọng đích thực, đó là chúng ta phải chiến thắng trong giờ sau hết.
Với ngày lễ hôm nay, chúng ta không phải chỉ nhìn về dĩ vãng bằng cách cảm tạ những hồng ân Chúa đã ban cho Mẹ, mà còn hướng tới tương lai bằng cách xác định con đường chúng ta sẽ phải đi qua.
Khi lần hạt và suy gẫm về sự ân thưởng và vinh thăng của Mẹ, một chân trời mới đầy hy vọng đã mở ra trước mắt chúng ta, bởi vì cái chết không còn làm cho chúng ta sợ hãi, trái lại nhờ nó mà chúng ta sẽ được Chúa đón nhận vào quê hương Nước trời, nhờ nó mà chúng ta được trở về nhà Cha, nhờ nó mà chúng ta được sinh ra cho cuộc sống vĩnh cửu.
Vì thế, từ chốn khổ đau này chúng ta luôn cầu khẩn Mẹ giúp chúng ta trong cuộc chiến cam go ấy.
Bên Thụy sĩ, cứ năm năm người ta lại trình diễn vở kịch “Sân khấu thế giới” ngay trước mặt nhà thờ Đức Bà. Đời sống mỗi người là một cảnh tượng diễn ra trước mặt Thiên Chúa là Đấng thấu suốt tất cả. Mỗi người phải thủ một vai trò nào đó, nhưng sau cùng đều phải xuất hiện trước ngai tòa Thiên Chúa để được xét xử về vai trò mình đã đóng có được trọn vẹn hay không. Giữa lúc mọi người lo lắng thì Đức Maria xuất hiện. Mẹ tiến đến trước mặt Thiên Chúa, bầu cử cho họ và mời họ vào dự tiệc vĩnh cửu. Và rồi tất cả cùng hát vang:
– Xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Mẹ mà chẳng được nhận lời.
Với tình thương của người mẹ, Đức Maria sẵn sàng trợ giúp chúng ta với uy quyền của một bậc Nữ Vương ngài có thể thực hiện những gì chúng ta muốn.
Bởi đó, trong ngày hôm nay chúng ta hãy thân thưa với Mẹ:
– Lạy Nữ Vương trời đất, xin bầu cử chúng con trước ngai tòa Chúa.















7. Mẹ Lên Trời Hồn Xác



Bài Giảng của Đức Tổng Giám Mục Huế trong Thánh Lễ Hành Hương kính Đức Mẹ Lên Trời Hồn Xác tại Trung Tâm Thánh Mẫu Toàn Quốc La Vang (15.8.2003)
Kính thưa Cộng Đoàn Phụng Vụ,
Anh Chị Em hành hương thân mến,
Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, trong niềm hiếu thảo và tri ân sâu xa, chúng ta hân hoan cử hành Thánh Lễ mừng Mẹ Lên Trời Hồn Xác tại Đất Mẹ La Vang yêu dấu. Chúng ta nô nức chạy đến cùng Mẹ vì chúng ta tin rằng giờ đây Mẹ đã lên trời và đã trở thành “Đấng Cầu Bầu Toàn Năng” bên ngai toà Đức Giêsu Kitô, Con của Mẹ. Chắc hẳn đến với Mẹ, mỗi người chúng ta có nhiều điều để nói cùng Mẹ và chia sẻ với nhau, tuy nhiên, trong năm 2003 này, năm mà Giáo Hội Việt Nam muốn cho con cái mình ý thức mãnh liệt hơn về các giá trị của đời sống gia đình nhằm bảo vệ và thăng tiến tình yêu hôn nhân, tôi muốn cùng anh chị em nhìn lại con đường đã dẫn Mẹ lên trời: đó chính là con đường chu toàn thiên chức làm mẹ. Thiên chức làm mẹ là bảo vệ và phục vụ sự sống
Anh Chị Em thân mến,
Trước hết, thiên chức làm mẹ là vô cùng cao cả vì đó chính là sứ mạng phục vụ và bảo vệ sự sống ngay từ khi mới được tượng thai trong lòng mẹ. Việc có con cái, dĩ nhiên, là việc chung của cả cha lẫn mẹ, nhưng chính người mẹ là người phải trực tiếp trả giá cho việc sinh con, trong đó, người mẹ đã tiêu hao rất nhiều năng lực thể xác và tinh thần để mang nặng đẻ đau và dưỡng dục con cái nên người. Ngày nay, những khám phá khoa học đã chứng minh cho thấy khi trao cho người phụ nữ trọng trách làm mẹ, Đấng Tạo Hoá đã chuẩn bị cho họ hết sức chu đáo về mọi mặt: từ thể lý, tâm lý đến tâm linh. Đặc biệt, nhờ có một trực giác riêng, tất cả mọi người mẹ đều “hiểu” được điều gì đang diễn ra nơi bản thân mình, đón nhận và yêu thương đứa con mình đang cưu mang như một ngôi vị. Cảm nghiệm làm mẹ kỳ diệu này đã được ghi lại ngay trong những trang đầu của Sách Sáng Thế: “Nhờ Đức Chúa, tôi đã sinh được một người” (St 4,1). Tiếng reo mừng đó của Bà Eva, mẹ chúng sinh, đã được tiếp tục vang vọng lên mãi mỗi lần có tiếng khóc của một trẻ thơ vừa mở mắt chào đời trên thế gian. Tiếng reo mừng đó diễn tả niềm vui của người phụ nữ khi chợt ý thức rằng, qua thiên chức làm mẹ, họ được tham dự vào quyền năng sáng tạo của chính Thiên Chúa (x. Tông Thư về Phẩm Giá Của Người Phụ Nữ, ĐTC Gioan-Phaolô II, số 18).
Tin Mừng không viết nhiều về Mẹ Maria, nhưng những gì Tin Mừng ghi lại cũng đủ giúp chúng ta nhận ra nơi Mẹ tấm gương ngời sáng trong sứ mạng phục vụ và bảo vệ sự sống. Thực vậy, ngay từ tiếng Xin Vâng của Mẹ ngày Truyền Tin, Mẹ đã vui mừng đón nhận sự sống mới, vì Mẹ tin rắng sự sống đó đến từ Thiên Chúa và đứa con mà Mẹ đang cưu mang, chính là Con Đấng Tối Cao (x. Lc 1,26-38). Và để bảo vệ sự sống của người con yêu dấu vừa tượng thai trong cung lòng Mẹ, Mẹ đã sẵn sàng trả mọi giá: Mẹ đã không bị xáo động trước vẻ lúng túng khó xử của Thánh Giuse (x. Mt 1,18-25), đã không chùn bước trước thử thách của cảnh khó nghèo ở Bêlem (x. Lc 2,1-21) và ở Nadarét (x. Lc,39-40), đã không ngần ngại gian khổ khi phải tỵ nạn qua Ai Cập (x. Mt 2,13-18). Trong biến cố Lên Đền để dâng con đầu lòng, Mẹ đã sẵn sàng tiếp nhận lời tiên báo đầy thách đố của Ông Ximêon về “một lưỡi gươm sẽ đâm thâu lòng Bà” (x. Lc 2,33-35). Và qua biến cố trẻ Giêsu ở lại trong Đền Thờ lúc lên 12 tuổi (x. Lc 2,41-50), chúng ta cũng thấy được phần nào công lao khó nhọc của một người Mẹ luôn kiên trì trong trách nhiệm nuôi dưỡng, dạy dỗ, chăm sóc con mình, can đảm đồng hành với Con cho tới tận chân thập giá, để rồi, từ chính dưới thập giá của Con mình, Mẹ đã lãnh nhận thiên chức làm Mẹ của một nhân loại mới: “Thưa Bà, này là con Bà!” (Ga 19,26).Thiên chức làm mẹ là bảo vệ hạnh phúc gia đình
Anh Chị Em thân mến,
Đặc biệt, qua tiệc cưới Cana được ghi lại trong Tin Mừng Thánh Gioan (x. Ga 2,1-12), chúng ta còn có thể khám phá thấy nơi Đức Maria hình ảnh một người mẹ biết đánh giá cao hạnh phúc của tình yêu lứa đôi. Chính Mẹ đã cầu bầu cho tiệc cưới có đủ rượu ngon và bảo đảm cho gia đình đôi tân hôn có được niềm vui trọn vẹn. Ngay sự hiện diện thánh thiện của Chúa Giêsu, của Mẹ Maria và của các Tông Đồ tại bàn tiệc Cana, cũng đã cho thấy ý định muốn thánh hoá và thăng hoa hạnh phúc của tình yêu lứa đôi, muốn nâng hôn nhân lên bí tích thánh, nhằm bảo đảm ơn thiêng giúp cho hạnh phúc gia đình được vững bền.
Tại Cana, Mẹ đã tỏ ra cảm thông với niềm hạnh phúc mong manh của đôi bạn trẻ, phải chăng là vì Mẹ cũng đã nếm trải những cay đắng của một cuộc hôn nhân bất trắc. Và trong đêm tối đức tin, từng ngày sống của Mẹ chắc hẳn cũng đã chất chứa nhiều âu lo và băn khoăn cho hạnh phúc của gia đình Mẹ: Mẹ đã đau niềm đau sinh con nơi hang lừa máng cỏ, Mẹ đã phải sớm bồng con chạy loạn tha phương cầu thực nơi đất khách quê người, Mẹ đã đầu tắt mặt tối suốt 30 năm sống khó nghèo giữa những anh chị em nghèo khó tại Nadarét, Mẹ cũng đã phải sống những ngày tháng phập phồng lo sợ cho tính mạng của đứa con yêu dấu trong những năm rao giảng công khai, và phải chăng Mẹ đã khóc niềm đau làm mẹ khi phải chứng kiến cơn hấp hối kéo dài của đứa con bị án tử đóng đinh trên thập giá?
Nhưng trong tất cả mọi nỗi đau thương đó, Mẹ đã luôn bảo vệ được hạnh phúc gia đình bằng tâm hồn của một người mẹ biết yêu thương và biết sống đức tin cách sâu xa. Tiếp theo hai tiếng Xin Vâng, Tin Mừng đã tóm tắt thái độ sống đức tin căn bản ấy của Mẹ: “Riêng Mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc 2,51).Noi gương Mẹ và nhờ Mẹ, hãy biết phục vụ sự sống và bảo vệ hạnh phúc gia đình
Anh Chị Em thân mến, Khi tạo dựng con người là nam là nữ theo hình ảnh mình, Thiên Chúa muốn mời gọi họ dự phần đặc biệt vào tình yêu cũng như quyền năng của Ngài là Đấng Tạo Hoá và là Cha, cho họ được cộng tác cách tự do và có trách nhiệm để lưu truyền hồng ân sự sống con người. Chính vì thế, mục tiêu căn bản của gia đình là phục vụ sự sống (x. Tông huấn về Gia Đình, ĐTC Gioan-Phaolô II, số 28). Ơn sự sống mà Thiên Chúa đã trao ban cho con người, đòi hỏi con người phải ý thức về giá trị vô song của nó và phải biết lãnh nhận trách nhiệm.
Và lãnh nhận trách nhiệm về sự sống, chính là phục vụ, bảo vệ và thăng tiến sự sống xứng với phẩm giá và ơn gọi toàn diện của con người (x. Huấn Thị “Hồng Ân Sự Sống”, Bộ Giáo Lý Đức Tin, ngày 22.02.1987).
Giáo Hội tin tưởng mạnh mẽ rằng sự sống con người, dù có yếu ớt và đầy đau khổ, vẫn luôn là một hồng ân tuyệt vời của Thiên Chúa tốt lành. Đối nghịch với não trạng chống lại sự sống của nền văn minh sự chết đang tràn ngập, có nguy cơ nhấn chìm thế giới hôm nay trong bầu khí ảm đạm, Giáo Hội muốn cổ súy một nền văn minh tình thương và sự sống nhằm bênh vực con người và các gia đình chống lại những kẻ đe doạ sự sống và làm hại sự sống (x. Tông huấn về Gia Đình, ĐTC Gioan-Phaolô II, số 30).
Vấn đề gia đình hôm nay không còn là một vấn đề của riêng ai, mà là vấn đề của xã hội, của thế giới. Muốn bảo đảm được quyền lợi và hạnh phúc đích thực của gia đình, cần phải có một sự cộng tác chặt chẽ giữa cá nhân, gia đình, xã hội và tôn giáo. Hôn nhân và gia đình là những định chế có liên quan mật thiết đến sự sống con người, nên luôn mang chiều kích tôn giáo và cần được tôn trọng và bảo vệ cách xứng hợp (x. Tông huấn về Gia Đình, ĐTC Gioan-Phaolô II, số 45).
Anh Chị Em thân mến,
Ngày 04.04.1995, Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đã phong Chân Phước cho hai người mẹ ở Ý và ca ngợi họ là “mẫu mực cho sự hoàn hảo của Thiên Chúa”.
Bà Gianna Berretta Molla, một bác sĩ khoa nhi, chết vì bị ung thư năm 1962 vì đã chọn mang thai đứa con thứ tư cho đến lúc chào đời để cứu sống con, chứ không chấp nhận nạo phá thai.
Người kia là bà Elisabeth Mora, vẫn trung thành chung thủy với chồng, dù ông ta xử sự vũ phu và bỏ rơi vợ con.
Đức Thánh Cha đã ghi nhận “lòng trung thành hoàn toàn đối với lời thề hôn nhân giữa vô số những khó khăn của đời sống vợ chồng”. Phải chăng Vị Cha Chung của Giáo Hội đã muốn dành tặng những lời tôn vinh cao cả này cho tất cả những người làm mẹ, bởi vì người mẹ luôn đóng một vai trò quan trọng, quyết định trong việc xây đắp hạnh phúc gia đình và tương lai con cái. Người ta nói: “Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm”. Người mẹ trao cho con sự sống và vốn sống từ trái tim mình.
Lạy Mẹ La Vang, hôm nay chúng con hành hương về bên Mẹ với tất cả tấm lòng yêu mến cậy trông.
Xin Mẹ cho chúng con hăng hái tiếp tục học hỏi để tái khám phá những giá trị cao cả của hôn nhân và gia đình.
Xin Mẹ thương giúp các bậc làm cha làm mẹ hôm nay đang đến với Mẹ tại Thánh Địa La Vang này, trên vai trĩu nặng gánh gia đình con cái.
Xin Mẹ giúp các bà mẹ chu toàn thiên chức làm mẹ, vì đó chính là con đường đã dẫn đưa Mẹ về trời. Xin thương giúp chúng con noi gương Mẹ và nhờ Mẹ, quyết tâm đón nhận tất cả, trả giá tất cả để phục vụ sự sống con người và bảo vệ hạnh phúc gia đình chúng con. Amen.
La Vang, 15.8.2003 Lễ Đức Mẹ Lên Trời Hồn Xác
+ Têphanô Nguyễn Như Thể, Tổng Giám Mục Huế















8. Đức Maria Lên Trời, Niềm Hy Vọng Của Chúng Ta



Hôm nay, toàn thể Giáo hội long trọng mừng Lễ Đức Maria vinh hiển hồn xác về trời. Từ sau tín điều Đức Maria hồn xác lên trời được Đức giáo hoàng Piô XII định tín ngày 1.11.1950, niềm vui mừng và hy vọng hướng về tương lai, hướng về cuộc sống mai sau của tất cả chúng ta lại có thêm cơ sở để tin tưởng và phó thác trong tình yêu Thiên Chúa. Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta khám phá vì sao Đức Maria lại được Thiên Chúa ưu tuyển và ban muôn đặc ân tuyệt vời như thế.
Bước chân vội vã lên đường của Đức Maria đến miền sơn cước Giêrusalem – có lẽ là miền Ain Carim hiện nay, cách Giêrusalem khoảng 6 km về phía tây- thăm người chị họ không chỉ nhằm loan báo mầu nhiệm Nhập thể của Con Thiên Chúa hay chỉ hát lên bài ca cảm tạ tri ân Thiên Chúa (bài ca Magnificat), nhưng đó còn là hình ảnh gợi nhớ điều mà Ngôn sứ Isaia loan báo ngày xưa về Đấng Thiên Sai sẽ đến. Thật vậy, trong bối cảnh thời đại Isaia, lúc Batư tiến đánh Babylon, Ngôn sứ Isaia cũng như nhiều người Dothái lưu đày khác đang ở Babylon. Chính trong hoàn cảnh ấy, ông ước mơ làm sao có thể chạy về Giêrusalem để báo tin rằng Thiên Chúa sắp giải phóng dân Người. Ông đã nhảy lên vui sướng và reo vang: “Đẹp thay trên đồi núi, bước chân người loan báo Tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ” (Is 52,7). Như thế, hình ảnh Đức Maria với sự hiện diện của Ngôi Hai Thiên Chúa mà Mẹ đang cưu mang, băng ngàn để loan báo tin vui cũng chính là hình ảnh mà khi xưa Isaia đã loan báo. Hơn thế nữa, đó còn là hình ảnh của Giáo hội “ra khơi” (Duc in altum) mang Chúa đến cho muôn dân.
Nhìn từ bên ngoài, chúng ta chỉ thấy được sự kiện hai bà mẹ gặp nhau, vui vẻ hàn huyên; thế nhưng, thực chất lại là sự gặp gỡ của hai hài nhi. Bằng chứng là với lời chào thăm của Đức Maria, hài nhi Gioan – mà đúng theo nguyên ngữ Hylạp- là đã “nhảy cẫng lên”, “nhảy tung lên” vui sướng. Như thế, hài nhi Gioan ngay từ khi còn trong lòng mẹ đã tiên báo về Đấng Cứu thế – Đấng mà mình sẽ là tiền hô sau này. Có điều chúng ta thấy, điều tiên báo đó không thực hiện bằng lời nói mà bằng ngôn ngữ của thân xác.
Bà Elisabét – qua Thánh Thần- đọc được ý nghĩa mà người con trong lòng bà “nhảy cẫng” lên cũng như ý nghĩa của cuộc gặp gỡ với Mẹ Thiên Chúa, bà đã thốt lên lời tụng ca ca ngợi Mẹ Maria như là người phụ nữ có phúc hơn hết mọi phụ nữ. Chúng ta thấy, lời tụng ca của bà Elisabét trước hết chịu ảnh hưởng của ca vịnh Debora trong Cựu ước. Đây là ca vịnh dùng để tụng ca bà Giaên, vợ ông Kheve người Kêni. Chúng ta biết, khi thủ lãnh Canaan là Xixơra chạy trốn vì thua trận, ông chạy vào lều bà Giaên. Bà đã dùng cọc để đóng vào tai Xixơra giết chết kẻ thù. Nhờ đó, bà được ca ngợi là người phụ nữ trổi vượt hơn muôn ngàn phụ nữ (x. Tl 5,24).
Mười thế kỷ sau, dân Thiên Chúa cũng hát bài ca đó để ca ngợi bà Giuđitha. Đứng trước tình cảnh bi đát mà dân Thiên Chúa sắp phải chịu là trao tất cả dân chúng và thành thánh vào tay quân Atsua, bà Giuđitha – một phụ nữ đạo đức và kính sợ Thiên Chúa- đã sẵn sàng ra đi vào hang ổ của kẻ thù. Với nhan sắc tuyệt mỹ, bà đã lọt vào doanh trại của quân Atsua và sau đó được gặp tướng Atsua là Hôlôphécnê để rồi dùng mưu chặt đầu tướng giặc mang vinh quang cho dân Israel. Bởi đó, Giuđitha cũng được ngợi ca là người phụ nữ được Thiên Chúa chúc phúc hơn mọi người phụ nữ (x. Gđt 8-13)
Như thế, khi bà Elisabét ca ngợi Đức Maria là người “được chúc phúc hơn hết mọi người phụ nữ”, thánh Luca muốn ám chỉ việc Thiên Chúa thực hiện công trình cứu chuộc của Người nơi Mẹ. Nơi Mẹ, không chỉ thay thế bà Giaên, bà Giuđitha mà Mẹ còn vượt xa họ về mọi phương diện, đặc biệt là vì dòng dõi Mẹ sẽ là dòng dõi “đạp nát đầu con rắn” vốn được xem là kẻ thù của dân Thiên Chúa (x. St 3,15).
Việc bà Elisabét được Thánh Thần soi sáng để nhận ra Đức Maria là “thân mẫu Thiên Chúa” không chỉ là nền tảng kinh thánh để đi đến tín điều Mẹ Thiên Chúa (Theolokos) vốn được công đồng Ephêxô tuyên tín vào ngày 22.6.431, mà theo Luca, đó còn là mối liên hệ giữa Đức Maria với Hòm bia Thiên Chúa. Thật vậy, nhìn vào trình thuật Truyền tin và Thăm viếng, chúng ta thấy có một sự tương đồng cách nào đó giữa Mẹ với Hòm bia Giao ước thời Vua Đavít. Nếu như trước kia, Hòm bia Giao ước luôn được đám mây che phủ thì nay Đức Maria được “Thánh Thần rợp bóng” khi cưu mang Con Thiên Chúa; ngày xưa Vua Đavít nhảy mừng khi gặp Hòm bia thì nay, chính Gioan cũng nhảy lên vui sướng khi gặp Mẹ viếng thăm; Hòm bia Giao ước được rước lên Giêsusalem để muôn dân chiêm ngưỡng và thờ lạy thì nay Đức Maria cũng băng rừng vượt suối để lên miền núi Giêrusalem để gia đình Dacaria tán tụng Thiên Chúa; và cuối cùng, ngày xưa, Hòm bia Giáo ước đã ở lại nhà của ông Ôvết Êđôm 3 tháng thì nay, Đức Maria cũng đã ở lại nhà ông Dacaria 3 tháng để phục vụ cho bà Elisabét (x. 2Sm 6,9-11).
Đức Maria là niềm tin và là mẫu gương cho hết mọi người chúng ta. Hành trình đức tin của Mẹ cũng chính là hành trình đức tin của chúng ta. Chúng ta học hỏi nơi Mẹ để có thể trở nên người có niềm tin vững vàng. Qua Mẹ, chúng ta sẽ tìm gặp được Thiên Chúa, sẽ được thấy Chúa Giêsu – người con yêu dấu của Mẹ. Nói như thánh Grignon de Monfort: “Nếu chúng ta kêu đến danh thánh Maria, thì tiếng vọng trả lời chúng ta sẽ là Đức Giêsu”. Thánh Don Bosco còn mạnh bạo hơn khi quả quyết với con cái của người về niềm tin tưởng phó thác trong tình yêu của Mẹ: “Hãy đến với Đức Maria, các con sẽ thấy phép lạ là gì”.
Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb















9. Đức Maria: Địa Chỉ Trên Cao – ĐGM. Vũ Duy Thống



Cách đây ít lâu, khi đọc báo hằng ngày, tình cờ tôi ghi nhận được một mẩu tin là lạ. Đó là mẩu bố cáo đăng ký địa chỉ trên cung trăng. Ai muốn đứng tên chủ quyền một thửa đất trên gương mặt chị hằng bảo đảm có bằng khoán giấy tờ công chứng đường hoàng, hãy mau mau đăng ký, chọn vị trí trên bản đồ và nộp tiền đầy đủ. Bảo đảm, chỉ vài ngày sau là được trao tận tay sổ hồng sổ đỏ, để cứ mỗi đêm trăng sáng là có quyền vác kính viễn vọng ra ngắm nghía chỉ trỏ giới thiệu với bạn bè về dự án tương lai địa chỉ trên cao của mình.
Thấy mẩu tin ngồ ngộ, tôi ghi nhận, và hôm nay lễ Đức Maria Mông Triệu, nghe vẳng bên tai bài hát “Như một vầng trăng tuyệt vời, muôn ngàn tia sáng lung linh chốn thiên cung” ca ngợi Đức Maria, bỗng dưng nhớ lại và liên tưởng: mỗi tín hữu cũng có một địa chỉ trên cao, địa chỉ ấy mang tên Maria.
1. Đức Maria: một địa chỉ thiết định cho lòng tin.
Đây không phải là điều huyền hoặc do trí tưởng tượng con người bịa ra trong một giờ cao hứng, đây cũng không phải là sản phẩm mang nặng cảm tính do lòng đạo đức của giới lớp bình dân, đây càng không phải là do nhất trí đồng ý giơ tay tán thành theo kiểu vào hùa mà không cần biết đến có tự do hay không.
Không phải thế, mà là kết quả suy tư lâu dài tìm kiếm của đời sống Giáo Hội. Trước năm 1950, người ta có quyền bán tín bán nghi, tin hay không tin cũng chẳng hề hấn gì, như thánh Tôma tiến sĩ; nhưng kể từ ngày lễ Các Thánh năm 1950, khi Đức Giáo Hoàng công bố sự kiện Đức Maria Mông Triệu như một tín điều, người ta không còn có thể dửng dưng được nữa, mà nhất thiết phải reo lên vui mừng, vì đã sáng tỏ: trên cao, Đức Maria chính là địa chỉ của lòng tin Công Giáo.
Thật vậy, Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, nên không thể chịu hậu quả của Tội nguyên tổ là phải chết. Mẹ trọn đời Đồng Trinh nên cứ lý cũng trọn đời trinh nguyên tồn tại. Mẹ cung cấp chất liệu xác thân cho Ngôi Hai Thiên Chúa bước xuống đồng hành với con người trong kiếp phận loài người, thì khi Phục Sinh về trời vinh quang, Thiên Chúa cũng giữ gìn cho Mẹ mình thoát khỏi cảnh hư nát thân xác. Mẹ là Đấng đầy ơn phúc, nếu đã được Thiên Chúa yêu thương gìn giữ từ thuở đời đời bằng đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, thì cũng được Thiên Chúa giữ gìn cho đến muôn đời bằng đặc ân Mông Triệu tuyệt diệu hơn mọi người trần.
Cách khác, Mẹ Hồn Xác Lên Trời là một ngôn ngữ mang tính dấu chỉ dễ đọc của một địa chỉ trên cao, vốn đã có sẵn trong mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Kitô.
2. Đức Maria: một địa chỉ thiết thân của đời tín hữu.
Ngày nay có thể có người nghĩ rằng: Đức Mari Mông Triệu chỉ là một tín điều, nghĩa là một điều được Giáo Hội xác lập như đối tượng phải tin; lại nữa, cũng chỉ được định tín cách nay chưa lâu, mới từ năm 1950, có chi mà quan trọng?
Giữa cộng đoàn, xin được cùng với Giáo Hội nhắc lại rằng: đây không phải là chuyện thuần tuý quy ước, mà đúng là chuyện thiết thân với mọi con người. Khi gọi một chiếc xe là “xe máy” thì nó là “xe máy” dù chẳng có chút máy móc nào mà chỉ là “xe đạp”. Đó là quy ước. Thế nhưng, khi tín điều thiết định thì khác, vì ở đó cả vận mệnh đời sống của những kẻ tin cũng được định hình theo.
Đức Maria về trời, nhưng không về với đôi tay trắng, mà là nặng trĩu vận mệnh của cả Giáo Hội, Đức Kitô là Đầu, mà vinh quang của Đầu tiến đến đâu thì vinh quang của Thân Mình cũng tỏ hiện đến đó, nhưng qua việc Đức Maria về trời, tín hữu nhận thấy rõ hơn vận mệnh đời mình.
Mẹ là người đi đầu cho ta được tiếp bước. Mẹ được đưa về trời là tiền đề cho lòng tin người tín hữu: nếu sống như Mẹ, họ cũng sẽ được về trời với Mẹ. Mẹ như người đi trước cho ta được theo sau. Mẹ được đưa về trời là tiền đề cho lòng tin người tín hữu: nếu sống như Mẹ, họ cũng sẽ được về trời với Mẹ. Mẹ như người đi trước cho ta được theo sau. Mẹ được đưa về trời là khuôn mẫu cho niềm hy vọng: bên kia địa chỉ trần thế này là một địa chỉ trên cao của cuộc sống phong phú đời đời. Mẹ là người đi mau cho ta được níu kéo dắt dìu. Mẹ về trời xác lập một hướng đi cho lòng yêu mến: yêu trung thành hôm nay sẽ được dẫn tới bến bờ yêu thương tinh ròng vĩnh phúc. Thế đó, Đức Maria địa chỉ trên cao thiết thân cho mệnh đời tín hữu.
3. Đức Maria: một địa chỉ thiết thực cho mỗi cảnh đời.
Vấn đề được đặt ra ở đây không chỉ là chuyện hiểu biết và tin tưởng, nghĩa là dừng lại trong nhận thức, cho dẫu đó là bước đầu không thể thiếu được, nhưng quan trọng hơn, là hỏi xem địa chỉ trên cao kia có để lại âm hưởng gì trong đời sống hằng ngày? Có một bài hát “Kinh Tin Kính” kết thúc bằng câu quyết tâm “Tin những gì Hội Thánh dạy con”. Tốt lắm, nhưng nghe sao vẫn cứ ngờ ngợ, tin tất cả mà không lo chuyển hoá niềm tin vào cuộc sống thiết thực, thì tự nó đã hàm chứa một nguy cơ của sự cả tin. Giống như một cha sở cử hành Bí tích Xức Dầu cho một nữ bệnh nhân tân tòng trọng tuổi, với những công thức tuyên tín dài dòng, bệnh nhân ấy trong cơn đau đớn đã thốt lên: “Cha nói thánh tướng nào con cũng tin cả”. Thành thử, hôm nay, khi tuyên xưng Đức Maria hồn xác về trời chính là lúc ta phải nỗ lực tổ chức xây dựng đời sống nơi địa chỉ trần thế sao cho phù hợp tương thích với địa chỉ trên cao mà ta tin yêu hy vọng.
Làm sao có thể về trời thanh nhàn khi cuộc đời này chưa thanh sạch tâm hồn, chưa thanh bạch nếp sống, chưa thanh luyện ý chí, chưa thanh thoát tư duy, chưa thanh cao tình cảm, chưa thanh thản nỗi đau đời và chưa thanh thoả nhiệm vụ người người với nhau? Làm sao có thể về trời thênh thang khi cuộc sống hôm nay vẫn còn bận bịu bỏ neo nơi những khuynh hướng đam mê sùng bái, như là dục vọng buông lơi lòng tham không đáy hay quyền bính vô độ? Và làm sao có thể về trời với Mẹ khi ta hằng ngày vẫn còn gặp mình trên những lo toan tính toán làm ăn không chỉ dừng lại ở mức “lương thực hằng ngày” “cầu vừa đủ xài” của Kinh Lạy Cha, mà còn mong có mọi sự nhiều thêm nữa, trừ một sự là có điểm dừng?
Muốn có địa chỉ trên cao, hãy tích cực đăng ký xây dựng ngay từ địa chỉ trần thế này.
Qua một bài báo về kỹ thuật hàng không, được biết rằng người ta đang tính tới chuyện bay cao bay xa và bay nhanh hơn. Điều này đòi hỏi phải giải quyết ba thông số kỹ thuật: giảm nhẹ thân tàu, tăng cường sức đẩy động cơ và trang bị bộ phận định hướng tốt. Bất giác tôi nghĩ đến chuyến bay đời người về địa chỉ trên cao, cũng cần trút nhẹ lo toan, gia tăng ơn thánh, và nỗ lực định hướng theo gương Đức Mẹ. Như vậy, chuyến bay ấy chắc chắn sẽ cao xa nhanh an toàn.
Chúc mọi người luôn biết dâng cao tin yêu hy vọng, để làm quen với địa chỉ trên cao ngay từ cuộc sống xem ra còn nhiều lũng thấp hôm nay.
Đức Maria địa chỉ trên cao, dạy cho con biết qua bao tháng ngày, biết đường sống thánh từ nay, ngày mai sẽ được thẳng bay về trời.















10. Suy Niệm Lời Chúa Lm Giuse Đinh Lập Liễm



Các sách Phúc âm không nói gì đến việc Đức Mẹ lên trời, Hội thánh dựa theo Thánh truyền và lòng sùng kính của giáo dân qua bao thế kỷ mà xác tín về điều đó. Theo Thánh truyền, sau khi Chúa Giêsu về trời, Đức Mẹ còn ở lại yên ủi và giúp đỡ các Tông đồ. Sau lễ Hiện xuống, tuy đã chia tay nhau đến các nơi giảng đạo, song các Tông đồ cũng thường có liên lạc với Đức Mẹ, và Đức Mẹ chia vui sẻ buồn với các ông, nhất là hằng cầu nguyện cho.
Lúc Đức Mẹ lên 64 tuổi (có người cho là 72 tuổi), Đức Mẹ được Chúa cho biết ngày hội ngộ với Con trên thiên đàng đã gần đến, thì Ngài đã cho thánh Gioan biết và nhắn cho các Tông đồ trở về. Nhận được tin, các Tông đồ vội vàng trở về Giêrusalem, và được gặp Đức Mẹ trước khi thở hơi cuối cùng, duy chỉ có ông Tôma chậm chạp không về kịp.
Tắt hơi đoạn, phòng để xác Đức Mẹ liền sáng và có mùi thơm tho lạ. Sau ba ngày kính viếng, các Tông đồ và bổn đạo Giêrusalem tẩm liệm và đưa táng trong một phần mộ khoét trong đá ở trong vườn Cây dầu.
Ông Tôma về muộn, muốn xem mặt Đức Mẹ lần cuối cùng, nể ông, các Tông đồ và giáo hữu đi ra phần mộ. Đến nơi, chỉ ngửi thấy phảng phất mùi hoa huệ thơm tho. Và khi mở hòn đá che huyệt ra thì không thấy xác Đức Mẹ đâu cả.
Giáo hội tin rằng Đức Mẹ đã được Thiên Chúa rước về Thiên đàng cả hồn cả xác. Nên từ thế kỷ thứ 6 Giáo hội đã mừng lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời ngày 15 tháng 8 hàng năm và còn giữ mãi đến ngày nay. Trong suốt 20 thế kỷ, vấn đề Đức Mẹ hồn xác lên trời đã bỏ ngỏ cho các nhà thần học tranh luận. Đến ngày 1.11.1950 Đức Giáo hoàng Piô XII với tông huấn Munificentissimus Deus mới định tín việc Đức Mẹ hồn xác lên trời: “Sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế, Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa, vô nhiễm và trọn đời đồng trinh, đã được đưa lên hưởng vinh quang Thiên đàng cả hồn lẫn xác”.
1. MỘT HỒNG ÂN CAO QÚY TUYỆT VỜI.
Được lên trời là một hồng ân Chúa ban cho chúng ta vì ta không có quyền đòi hỏi. Được lên trời cả hồn cả xác như Đức Maria thì cả là một hồng ân vô tiền khoáng hậu. Là loài người, chúng ta làm gì thường cũng có đủ lý do, phương chi là Thiên Chúa. Chúng ta chỉ có thể tìm hiểu để suy nghĩ về lý do mà Chúa ban cho Đức Mẹ được hồng ân cao qúi tuyệt vời này, nhưng không bao giờ chúng ta có thể hiểu thấu được lý do hành động của Chúa. Chúng ta chỉ có thể nói rằng Chúa ban cho ai là do lòng thương xót của Chúa.
Trong kinh “Ngợi khen” Đức Maria đã nói lên tâm tình đó: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, vì Chúa đã đoái nhìn phận hèn tớ nữ… vì Đấng toàn năng đã làm cho tôi những điều trọng đại”.
Theo Đức Giáo hoàng Piô XII, một số các thánh và các nhà thần học cho rằng nguyên do chính của việc Đức Mẹ được đặc ân hồn xác lên trời là do thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa và Đức đồng trinh trọn đời của Mẹ. Mẹ được lãnh nhận những hồng ân thật trọng đại từ nơi Chúa, nhưng Mẹ không ngừng ở đó. Mẹ đã dùng cả cuộc đời dương thế của Mẹ sống sao cho phù hợp với những đặc ân Mẹ được lãnh nhận.
Theo Thánh Kinh ai cũng phải công nhận rằng: Đức Mẹ đã sinh ra Chúa Giêsu là Chúa Cứu thế (Lc 2,6,11) Chúa Cứu thế là chính Con Thiên Chúa và cũng là chính Thiên Chúa (Lc 1,35). Vậy để chọn Đức Maria làm Mẹ sinh ra mình, Thiên Chúa đã phải làm một phép lạ cho đến nay phải kể là duy nhất, là làm cho Đức Mẹ thụ thai sinh Con mà còn đồng trinh, thì tại sao Thiên Chúa lại không đưa linh hồn và xác Đức Mẹ lên trời để một đàng xứng hợp với tình mẫu tử, đàng khác thưởng công cho Đấng đã sinh ra mình, mà điều răn thứ 4 chính Thiên Chúa đã ban hành là phải thảo kính cha mẹ (Đnl 5,16; Mt 19,19).
Thánh Gioan Damascenô hạch hỏi một mình: “Đức Mẹ đồng trinh không vướng vít chút chi bụi trần dưới đất, cớ sao lại trả Người về đất?” Thánh nhân còn quả quyết: “Đức Mẹ chẳng chết như người thế gian, nhưng đã chết vì áp lực tình yêu – chết để về gặp gỡ Con cực thánh Người đang mong đợi”. Vậy nếu Đức Mẹ không lên trời, thì cuộc mong đợi ấy còn có nghĩa lý gì?
(Lm Nguyễn duy Tôn Phụ trương Lời Chúa,t 1,tr 59-60)
Ngoài ra Đức Maria còn có nhiều nhân đức khác làm cho Thiên Chúa được vui lòng:
1. Nhân đức Khiêm nhường:
Mẹ Maria luôn coi mình là con người nhỏ bé trước mặt Chúa, không dám nhận những đặc ân của Thiên Chúa ban. Khi sứ thần báo tin cho biết là Thiên Chúa muốn chọn Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu thế, Mẹ đã từ chối không dám nhận. Nhưng sau khi hiểu biết được thánh ý của Thiên Chúa thì Mẹ đã thưa:” Này tôi là tớ nữ của Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền”. Tuy biết mình đã là Mẹ Đức Giêsu, Mẹ Thiên Chúa, một chức vị lớn lao tuyệt vời, mà Ngài luôn kín đáo, không hé mở cho ai biết điều đó để cho mình được đón rước, cung phụng, chiều chuộng, kính nể… mà cứ âm thầm và đành để cho mình và Chúa Giêsu phải thiếu thốn, khinh dể, bị gạt ra ngoài.
2. Tin tưởng phó thác cho Chúa.
Ngài còn là người biết tin tưởng phó thác cho Chúa một cách trọn vẹn. Một cô gái đẹp chưa về nhà chồng mà đã có bầu, tự nhiên người chồng tương lai phát chán, và tụi thanh niên làm sao chẳng chế nhạo và có thể bị ném đá nữa. Song Đức Mẹ chẳng nói ra, cũng không làm gì để ngăn ngừa sự dữ và tiếng tăm, cứ bình tĩnh, thản nhiên, phó thác mọi sự cho Chúa. Ở trong hoàn cảnh thế này mới biết Đức Mẹ nhân đức dường nào.
3. Hiền lành nhịn nhục.
Ngài cũng rất hiền lành và nhịn nhục. Khi Chúa Giêsu Con Mẹ bị người ta khinh bỉ, hành hạ, Ngài không có nói gì hay là có thái độ nào như trách móc người thành Bêlem không cho trọ, chửi vua Hêrôđê toan giết Con, trách móc và nguyền rủa bọn quân dữ đánh đòn, đội mũ gai và đóng đinh Chúa. Chắc chắn Ngài đau buồn khôn xiết kể, nhưng không có một cử chỉ nào nóng nảy, giận dữ hay nói năng quá lời như người ta bình thường.
Bài đọc 1 trong thánh lễ hôm nay, thánh Gioan tông đồ đã nhìn thấy cảnh huy hoàng của một phụ nữ mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, trên đầu có 12 ngôi sao sáng.Người phụ nữ ấy là ai? Theo các thánh Giáo phụ và lòng tin của Giáo hội, người đó chính là Đức Maria được Chúa đưa về trời.
Thánh Phaolô trong bài đọc 2 lại nói lên cho chúng ta một lý do nữa: Chúa Giêsu đã từ cõi chết sống lại là hoa quả đầu mùa. Đức Mẹ là người đầu tiên và xứng đáng nhất để được ơn cứu rỗi, thì Đức Mẹ cũng là người đầu tiên được hưởng sự vinh quang sống lại ấy.
III. ƯỚC MƠ CỦA CHÚNG TA.
Con người có khuynh hướng luôn vươn lên, vươn lên mãi, vươn tới chân, thiện, mỹ vì con người chưa bao giờ được thỏa mãn với những ước vọng đó.
Trước đây văn sĩ Jules Verne đã tưởng tượng ra những chiếc tàu bay trong vũ trụ đến những hành tinh xa lạ, làm cho trẻ con thích thú vô cùng. Với khoa học tân tiến ngày nay, những cảnh tưởng tượng như xa thực tế của Jules Verne đã được thực hiện. Ngày 20.07.1969 phi thuyền Apollo 11 với phi hành gia Neil Armstrong, Edwin Aldrin và Michael Collins đã đặt chân lên mặt trăng. Một bước nhảy vọt trong chương trình thám hiểm vũ trụ.
Sau chuyến bay lịch sử ấy, nhiều người đã nghĩ đến việc có những cuộc du hành thường xuyên lên mặt trăng. Nhưng dịch vụ du ngoạn nguyệt cầu đến nay vẫn chưa được thực hiện. Việc bỏ ra một món tiền lớn để được đặt chân lên một vệ tinh không có sự sống và dưỡng khí rồi trở về địa cầu với ít đất đá vô hồn xem ra không đáng làm.
Nếu sau này người ta có thể thực hiện được những chuyến du ngoạn nguyệt cầu thường xuyên đi nữa, con người vẫn chưa được thỏa mãn hoàn toàn. Vì mặt trăng hay bất cứ thiên thể nào trong thế giới vật chất này vẫn không phải là quê thật và chung cục của loài người. Chỉ có Thiên đàng hay Quê Trời mới là nơi mà mọi khát vọng và trống vắng của lòng người mới được thỏa mãn hoàn toàn.
Khát vọng của con người là muốn vươn lên tới Chân Thiện Mỹ tuyệt đối, hay nói theo kiểu chúng ta là Hạnh phúc Thiên đàng. Nhưng có Thiên đàng thật không và ước mơ thiên đàng là chân thực hay chỉ là ước mơ hão huyền? Thưa, việc Đức Mẹ được Thiên Chúa đưa lên trời cả hồn xác mà Giáo hội long trọng mừng vào ngày 15 tháng 8 hàng năm đã nói lên một cách hùng hồn rằng ước mơ lên trời, ước mơ thiên đàng, là ước mơ chính Thiên Chúa đã gieo vào nơi thâm sâu nhất của lòng người. Ước mơ đó đã được thực hiện cách trọn vẹn nơi Đức Maria và cũng sẽ được thực hiện nơi mỗi người chúng ta trong ngày chung thẩm, khi thân xác chúng ta được Chúa cho sống lại như thân xác vinh hiển của Chúa Giêsu phục sinh.
Chúng ta chỉ biết là có Thiên đàng, nơi quê hương vĩnh phúc của chúng ta: “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau” (Kinh Tin kính), nhưng chúng ta không biết hạnh phúc thiên đàng thế nào, đến ngay việc thánh Phaolô đã được nâng đến tầng trời thứ chín mà cũng không có thể tả được.
Không như nguyệt cầu là nơi vắng bóng sự sống, Quê Trời là nơi đong đầy sự sống và tình yêu. Mẹ Maria được “lên trời” không có nghĩa là Mẹ được Chúa cất ra cho khỏi trái đất này để đem đến một khoảng không gian xa xôi nào đó trong vũ trụ vật thể này. Vì nếu việc Đức Mẹ lên trời được hiểu như thế thì việc lên trời của Đức Mẹ chẳng đáng ta ước mong, như lời của một bài tình ca nào đó:
Lên trời hai đứa hai nơi
Thôi em chỉ muốn làm người trần gian.
 Có người hiểu thiên đàng hoàn toàn theo nghĩa vật chất, họ sẵn sàng ôm bom tự sát để rồi được lên thiên đàng, vì theo họ, thiên đàng là nơi có nhà cao cửa rộng, có vợ đẹp con khôn, có nhiều mỹ nữ kiều diễm và có đủ mọi thứ làm cho mình được sung sướng. Nhưng chúng ta phải có cái nhìn cao hơn: đặc ân Đức Mẹ được “lên trời” có nghĩa là Mẹ đã được Thiên Chúa cho tham dự vào chính sự sống của Chúa Ba Ngôi cách trọn vẹn, cả hồn cả xác. Mẹ được Thiên Chúa đưa ra khỏi thế gian tự nhiên hữu hạn này để đi vào thế giới siêu nhiên vô hạn, thế giới thần linh của chính Chúa. Trong thế giới đó Mẹ được hiệp nhất với Chúa Ba Ngôi và tất cả tạo vật đẹp lòng Chúa trong Tình yêu và Hạnh phúc viên mãn của chính Chúa.
(Viết theo LM Phạm Quốc Hưng)
Mẹ chúng ta đã được Thiên Chúa đưa về trời cả hồn cả xác, đó là niềm hy vọng của chúng ta. Nếu ngày xưa Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Thầy đi dọn chỗ cho các con và sẽ trở lại đón nhận các con, để Thầy ở đâu các con cũng ở đó với Thầy” (Ga 14,2). Đó là lời Chúa phán với các môn đệ khi Ngài về trời, thì nay cũng là lời Đức Mẹ hứa với mỗi người chúng ta khi Ngài về trời.
Muốn được về trời cùng Mẹ, chúng ta cũng phải học đòi bắt chước Mẹ mà sống một đời lành thánh, trong sạch xác hồn để sau này cũng có cái chết tốt đẹp như Ngài. Ta có thể ví đời người như một câu văn mà cái chết là dấu chấm hết tròn đầy:
Có cái chết như một dấu phẩy (‘) tức tưởi không trọn vẹn.
Có cái chết như một dấu chấm than (!) buồn hiu hắt.
Có cái chết như một dấu chấm hỏi (?) băn khoăn ray rứt.
Có cái chết như dấu 3 chấm (…) còn bỏ ngỏ.
Và có cái chết như dấu chấm tròn (.) thật đầy đủ, trọn vẹn, tuyệt mỹ.
cái chết của Đức Mẹ chính là dấu chấm tròn. Còn cái chết của chúng ta sẽ là gì?
(Lm Carôlô, Lễ trọng và lễ đặc biệt, tr 89)
KẾT LUẬN
Hôm nay chúng ta họp nhau mừng lễ để cảm tạ Chúa vì đã cho Mẹ chúng ta được hồn xác về trời, một hồng ân lớn lao chưa từng có và sẽ không bao giờ có. Đức Mẹ linh hồn và xác lên trời là một niềm hân hoan, một nguồn hy vọng cho chúng ta. Mẹ lên trời, một ngày kia chúng ta cũng về trời. Chúng ta phải ăn ở làm sao để một ngày kia cũng được như Mẹ. Mẹ ở đâu, con ở đó, Mẹ nơi nào, con ở nơi ấy. Cuộc sống trần gian phải là con đường đưa con người chúng ta về Thiên đàng.
Vì thế, trên ngôi mộ của Đức Mẹ ở Giêrusalem ngày nay du khách còn đọc được mấy dòng thi văn do một văn sĩ và điêu khắc thời Trung cổ để lại như sau:
Đây là thung lũng Josaphat,
Nơi con đường về Thiên cung xuất phát
Maria trong sạch được chôn cất nơi đây,
Nhưng cũng từ đây được đưa về trời.
Mẹ là nguồn hy vọng kẻ tù đày,
Là đường hướng dẫn kẻ lòng ngay,
Là Ánh sáng, là Mẹ chúng con. Amen.
Ngày nay Đức Mẹ lên trời,
Ngày mai đến lượt mỗi người chúng ta.
Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát















11. “Từ Nay, Hết Mọi Đời Sẽ Khen Tôi Diễm Phúc”



Trong dịp hành hương Đất Thánh Palestina, chúng tôi có đến Nhà Thờ Thăm Viếng, nơi có tượng Đức Mẹ Ngủ. Từ Nhà Thờ kính Thánh Gioan Tẩy Giả tại En Kerem, đi bộ một đoạn đường khá xa, lên một dốc cao rồi bước thêm đúng 66 bậc thang mới đến Nhà Thờ. Từ trên ngọn đồi nhìn xuống thung lũng xa xa, quê hương Thánh Gioan Tiền Hô đẹp như một bức tranh mờ trong sương sớm.
Nhà Thờ dâng kính cuộc thăm viếng của Mẹ Maria. Khi nghe tin bà Êlisabét mang thai, Mẹ đã vượt đường xa đến thăm và giúp đỡ. Từ Nagiarét về tới En Kerem đường xa lắm, chừng 90 km và rất nhiều trắc trở hiểm nguy. Mẹ đã thể hiện tình yêu thương và sự quan tâm đặc biệt đến người chị họ. Nơi đây bài Magnificat đã được viết trên tường bằng nhiều thứ tiếng, trong đó có cả tiếng Việt Nam.
Sau kinh cầu nguyện trong Nhà Thờ Thăm Viếng, chúng tôi đi xuống tầng hầm, mỗi người thành kính quỳ gối lần hạt trước tượng Đức Mẹ Ngủ. Nhìn Mẹ Maria thánh thiện ngủ giấc bình an, ai cũng cảm động nguyện cầu khấn xin. Nhiều người thổn thức bên Mẹ.
Theo truyền thống xa xưa, Mẹ Maria không chết mà chỉ ngủ một giấc, rồi Chúa đưa Mẹ lên Trời cả hồn lẫn xác. Phụng Vụ đã cử hành ngày qua đời của Mẹ dưới nhiều tên gọi: Dormitio (an giấc), Deposotio (an táng), Transitus (qua đời), Natalis (ngày sinh vào Nước Chúa). Tất cả những danh từ đó được dùng để nói tới chuyến đi xa cuối cùng của Mẹ.
Tiếng “Assumptio” (bởi động từ assumere; sumere, nghĩa là cất lấy, và ad nghĩa là kết hợp, đoàn tụ), lúc đầu ám chỉ việc linh hồn Mẹ được đưa vào vinh quang của Chúa (giống như các Thánh); về sau từ ngữ này được dùng để chỉ việc Mẹ được cất về Trời. Hội Thánh phân biệt hai từ ngữ “ascensio” áp dụng cho Chúa Giêsu vì Ngài lên Trời do quyền năng riêng, còn “assumptio” áp dụng cho Mẹ để nói rằng Mẹ được Chúa đưa về Trời.
Tín điều Đức Maria Hồn Xác Lên Trời được Đức Giáo Hoàng Piô XII công bố vào ngày 1.11.1950: “Sau khi đã mãn cuộc đời dưới đất, Đức Maria được đem về Trời cả xác hồn”. Vào thế kỷ XIX, có một luồng Thần Học chủ trương rằng Mẹ Maria không phải chết và xin Đức Thánh Cha hãy định tín như vậy. Họ cho rằng Mẹ không mắc tội nguyên tổ nên không phải chết, bởi vì sự chết là hình phạt của tội nguyên tổ. Tuy nhiên đa số các nhà Thần Học cho rằng Mẹ đã chết và sau đó được sống lại. Đức Piô XII không bàn tới vấn đề này, không nói rằng Mẹ không phải chết, cũng chẳng nói Mẹ đã chết và đã sống lại; nhưng chỉ nói rằng: sau khi chấm dứt cuộc đời dương thế, Mẹ được cất về Trời cả xác và hồn.
Nhìn Đức Mẹ Ngủ, tôi thấy sáng lên vẻ đẹp thánh thiện cao quý. Mẹ tuyệt đẹp vì Mẹ đầy ơn Chúa. Mẹ đẹp thánh thiện vì ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội. Mẹ đẹp cao quý vì làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Mẹ tuyệt mỹ vì niềm tin đơn sơ và cuộc sống khiêm nhường. Nét đẹp ấy thoang thoảng như một hương thơm hảo hạng toả ra lôi cuốn. Nét đẹp ấy mặn mà như thứ muối thiêng liêng. Nét đẹp ấy lung linh như ánh sáng dịu mát. Nét đẹp ấy huyền diệu như âm nhạc dịu êm mời gọi con người nâng tâm hồn lên tới Chúa.
Hôm nay, Hội Thánh mừng kính Đức Maria được khải hoàn bước vào quê hương Nước Trời. Bầu khí Phụng Vụ đượm sắc thái vui tươi với những lời ngợi khen và chúc tụng Đức Trinh Nữ lên Trời hiển vinh. Từ đây Mẹ nắm giữ vai trò quan trọng nhất là Nữ Vương trời đất. Từ nay, Mẹ đảm nhận một địa vị cao cả nhất và cũng thật gần bên Thiên Chúa. Kể từ nay, Mẹ trổi vượt trên mọi thọ tạo với địa vị làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ của Hội Thánh và Mẹ của nhân loại.
Quyền năng và tình yêu Chúa tràn đầy trên Mẹ làm cho Mẹ được khỏi tội tổ tông và được đầy ân sủng ngay từ trong lòng mẹ. Quyền năng và tình yêu Chúa bao phủ suốt cả đời Mẹ trên từng ý nghĩ, từng tình cảm, trong từng hành động và mỗi bước đi… khiến cho tâm hồn Mẹ luôn hướng về Chúa mà tạ ơn và ngợi khen liên lỉ.
Quyền năng và tình yêu Chúa đong đầy trọn vẹn nhất trong khoảnh khắc lịch sử, Mẹ lên Trời cả hồn cả xác. Đặc ân cao trọng này chính là triều thiên sáng chói bao phủ lên Mẹ, vốn đã được “Thánh Thần ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao rợp bóng trên bà” (Lc 1,35).
Hội Thánh hiệp ý chung lời với Mẹ ngợi khen tạ ơn Thiên Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới, từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”.
Đó là những lời tán tụng ngợi ca Thiên Chúa phát xuất từ sâu thẳm lòng Mẹ trong ngày thăm viếng người chị họ Êlisabét. Magnificat là lời kinh thấm đẫm chất thơ. Thánh Vịnh là thi ca cầu nguyện của dân tộc Do Thái. Hàng ngày Mẹ đã cầu nguyện với Thánh Vịnh.
Những lời ngợi ca Magnificat nói lên tất cả tâm hồn của Mẹ. Đó là trọn vẹn cuộc đời Mẹ, cả chương trình sống của Mẹ, là con đường tu đức Mẹ dõi theo: mãi mãi là người nữ tỳ khiêm tốn, luôn phó thác hoàn toàn trong tay Chúa toàn năng và nhân hậu, hằng dâng lời ngợi khen tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh cuộc sống.
Những lời ca ngợi Magnificat nói lên hết diệu cảm và tâm tình của Mẹ đối với Thiên Chúa toàn năng và yêu thương. Mẹ cảm thấy thân phận tôi tớ hèn mọn này lại được cất nhắc cao trọng trong giây phút lên Trời: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới, từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”. Mẹ cảm nghiệm được quyền năng và tình yêu vô biên của Chúa trong giây phút Chúa hiển dương Mẹ về Trời: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả… Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người”.
Đức Maria được lên Trời hồn xác là do đặc ân Chúa ban cho Mẹ và đồng thời cũng là do cuộc sống thánh thiện của Mẹ hằng luôn cộng tác với ơn Chúa. Hồn xác lên Trời là một hồng ân cao cả mà Thiên Chúa ban cho Mẹ. Mẹ là người diễm phúc nhất trong mọi người nữ. Mẹ có tên gọi đẹp nhất là ”Đấng-đầy-ân-phúc” vì “Thiên-Chúa-ở-cùng-bà”. Mẹ được hết mọi đời khen là diễm phúc chính vì “Đấng toàn năng đã làm cho Mẹ biết bao điều cao cả”.
Điều cao cả nhất là được làm Mẹ Chúa Cứu Thế. Mẹ là cây sinh quả phúc và nhờ quả phúc ấy mà Mẹ được biết đến và được ca tụng. Mẹ là cây trường sinh mang quả đầu mùa mà Thiên Chúa đã trồng trong Vườn Địa Đàng mới, hầu đem lại Sự Sống đời đời cho mọi thế hệ loài người. Chính vì thế mà Thiên Chúa muốn cho cây mang quả trường sinh ấy được nhân lên trong Vườn Địa Đàng mà Người muốn mở rộng diện tích tới tận cùng trái đất.
“Đức Mẹ lên Trời sau khi đã đi qua hết mọi nẻo đường đời của một người bình thường nghèo khó: nẻo đường không nơi trú ngụ; phải sinh con trong máng cỏ Bêlem; nẻo đường lánh cư sang Ai Cập đầy tiếng khóc than của các bà mẹ mà những đứa con thơ vô tội bị vua Hêrôđê sát hại; đường vào tiệc cưới Cana có tiếng vui cười của thực khách và đôi tân hôn; đường lên núi Calvariô, có tiếng nguyền rủa, tiếng búa đóng đinh của các lý hình; đường loan Tin Mừng Chúa Phục Sinh và đường thẳng lên Trời hồn xác trong tiếng reo vui của đất trời, của thần thánh, của loài người. Đức Mẹ đã sống thánh giữa đời, đã nên Thánh qua những chặng đường Vui, đường Sáng, đường Thương, đường Mừng” (x. bài giảng tại Thánh Địa La Vang ngày 15.8.2007, Đức Tổng Giám Mục Stêphanô Nguyễn Như Thể).
Trong cuộc sống hôm nay, chúng ta cũng đang đi lại những chặng đường của Đức Mẹ: có cả vui, sáng, thương, mừng. Chúng ta lần hạt, tràng chuỗi nơi tay, miệng thầm thì, lòng kết hiệp với các mầu nhiệm vui mừng và đau thương của Đức Mẹ. Chúng ta cũng lần hạt một cách thiết thực nữa trong cuộc sống hằng ngày, mà tràng chuỗi và những hạt chuỗi giờ đây chính là những hạt mồ hôi, những giọt nước mắt, những khổ đau, những oan ức…, và cũng chính là những tiếng vui cười, những tia hy vọng, những niềm hân hoan… Đó là tràng chuỗi sống, đi đôi với việc đọc kinh lần hạt suy niệm của chúng ta.
Đức Mẹ được vinh hiển hồn xác trên Trời là hình ảnh và là khởi đầu bảo đảm cho tương lai của chúng ta sau này cũng sẽ được như vậy, miễn là bây giờ chúng ta biết noi gương Mẹ mà sống Thánh giữa đời, qua những chặng đường vui, sáng, thương, mừng của cuộc sống (x. LG 68).
Lm. Giuse NGUYỄN HUAN, Giáo Phận Phan Thiết















12. Mẹ Về Trời, Nỗi Vui Mừng Và Niềm Hy Vọng



Tháng Tám thường trở về cùng với lễ Vu Lan, mùa báo hiếu, mùa dành để cho những người con nhớ về tình thương cao cả, mênh mông, dạt dào như biển rộng, sông dài, sâu thẳm như núi rừng trùng điệp ngút ngàn của các bậc sinh thành.
Tháng Tám cũng lại là tháng của những cuộc hành hương tràn ngập niềm tưng bừng, rộn rã. Tháng của những người con muốn tỏ bầy lòng thảo hiếu với người Mẹ dịu hiền, nhân hậu. Từng đoàn người cứ lũ lượt lên đường ra đi trong niềm vui phấn chấn đến với những vùng đất linh thiêng, huyền diệu. Ở những nơi ấy có bóng dáng của người Mẹ hiền vẫn ngong ngóng chờ trông đoàn con lữ thứ trở về từ cuộc lữ hành trần gian còn nhiều gập ghềnh, trôi nổi.
Đến với Mẹ Tà Pao thật bình dị mà cũng thật thân tình để rồi bao gánh nặng chất chồng của cuộc sống bỗng nhẹ tênh, thanh thản.
Đến với Mẹ Trà Kiệu để cảm thấy niềm tin tưởng bừng lên mạnh mẽ vì Mẹ vẫn còn đó, dáng oai hùng như đạo binh xông vào chiến trận che chở đoàn con khỏi mọi cơn nguy biến hiểm nghèo giữa cuộc đời hung hãn.
Đến với La Vang, linh địa của tấm lòng từ mẫu, nhân hậu, bao dung. Nơi đó, mẹ đã từng ôm ấp bao nỗi khốn khổ của đoàn con nghèo nàn, thiếu thốn. Mẹ đã lau sạch biết bao nhiêu dòng lệ sầu thương của những cõi lòng héo úa, rã rời. Cũng nơi ấy mẹ đã từng xoa dịu bao nhiêu vết thương đau nhói, xót xa. Mẹ đã chữa lành biết bao thương tích mà không một phương dược trần gian nào còn hiệu nghiệm nữa. Và đoàn lũ những con người nhỏ bé ấy gác lại mọi nỗi lo toan chằng chịt của cuộc sống để tìm về mảnh đất có khi chưa lần nào đặt chân đến bỗng dưng lại trở nên quen thuộc, gần gũi chỉ vì có bóng dáng của người mẹ vô cùng thân ái. Họ đã lên đường với niềm hy vọng tràn trề để rồi trở về với niềm vui chan chứa, tràn đầy niềm hạnh phúc.
Điều kỳ diệu đã trở thành hiện thực vì Đức Trinh Nữ Maria rất Thánh đã lên Trời vinh hiển. Mẹ đã trở nên nguồn cậy trông không bao giờ vơi cạn và niềm hy vọng không bao giờ phai nhạt và những ngày tháng Tám bỗng trở nên rực rỡ lung linh vì có một ngày trọng đại: ngày lễ Mẹ Lên Trời.
MẸ ĐÃ HOÀN TẤT HÀNH TRÌNH TRẦN THẾ CÁCH TRỌN HẢO
Cuộc sống dù tốt đẹp đến đâu cũng có những ngày tháng u buồn hay nặng trĩu. Những nỗi ưu phiền hay buồn chán có thể đến từ bên ngoài hay từ ngay trong tâm hồn. Người ta có thể cảm thấy bất hạnh giữa lúc đang có tất cả mọi thứ có thể làm nên hạnh phúc mà vô số người hằng mơ ước. Vì thế mà nhiều khi người ta phải tìm đến với những thú vui hay những thứ ồn ào mong phủ lấp đi nỗi chán chường hiện tại.
Tuy nhiên, có một lối đi mà nhiều người vẫn có thể thực hiện để vượt ra khỏi những cái tầm thường của cuộc sống đó là thả hồn mình vào những giấc mơ, những giấc mơ khơi lên niềm cảm hứng mênh mang. Những giấc mơ làm vơi đi nỗi thất vọng trước cái phũ phàng của cuộc đời. Người ta mơ được sống trong một cảnh vực thiên thai, một cõi thần tiên nào đó để cho cuộc sống thoát khỏi những gánh nặng đeo bám như một món nợ dai dẳng, triền miên.
Câu chuyện Từ Thức lạc vào cõi tiên như minh hoạ ước vọng rũ bỏ cõi trần để bước vào cõi thiên thai đầy thơ mộng. Chỉ còn những thú chơi tao nhã, thảnh thơi. Không vướng bận cõi hồng trần ô trọc.
Từ Thức, nhân đi chơi hội đã cởi áo gấm giúp một cô gái xinh đẹp gặp tình huống éo le. Thời gian sau chàng từ quan, tìm thú vui nhàn tản. Một lần Từ Thức đi qua núi và thấy một chiếc động, bước vào trong thì được tiếp đón như thượng khách và lấy nàng Giáng Hương, chính là người chàng đã cứu thuở nào. Sống với nhau được một năm, dù thuận hoà, êm ấm, Từ Thức chợt nhớ nhà, xin được về thăm.
Cảm thông nỗi niềm của chồng, Giáng Hương sắm xe và gài sẵn phong thư kín nói lời ly biệt. Khi đến quê, tất cả đều đổi thay, Từ Thức hỏi một cụ già râu tóc bạc phơ thì mới biết đó là cháu nội của mình. Chàng đã đi quá lâu. Từ Thức muốn trở lại cõi tiên với vợ, nhưng chẳng còn dịp may… trước cửa động Từ Thức, dây leo chằng chịt đan kết thành những chiếc võng.
Từ Thức đã vào cõi tiên rồi đấy! Thế mà có quên được cõi trần gian đâu! Có tình yêu, có gia đình êm ấm thuận hoà, có vật chất đầy đủ vậy mà vẫn nhớ nhà, nhớ người, nhớ cảnh xưa. Điều sâu kín chưa nói ra được ở đây đó là Từ Thức chưa đi trọn đường trần. Có một cái gì đó còn thiếu nơi thân phận làm người để thấy rằng cõi tiên không phải là cõi thực và chỉ cần một khoảng thời gian ngắn đủ làm cho Từ Thức phải nhớ nhung, phải mong mỏi được trở lại trần gian. Éo le thay, Từ Thức cũng không còn gặp được cảnh cũ người xưa nữa. Mọi sự đã đổi thay và chàng trai họ Từ trở nên hoàn toàn xa lạ, lạc lõng giữa cuộc đời và chàng đã không còn cơ hội trở lại nữa.
Về với thân phận con người, giấc mơ vẫn chỉ là một vẻ đẹp thoáng qua giúp ta giải toả bớt những căng thẳng của cuộc sống quá khắt khe, nghiệt ngã chứ không thể nào là nơi lẩn trốn hay thay thế cho thực tại trần gian hôm nay. Mỗi người đều phải hoàn tất hành trình làm người của mình. Mẹ Maria đã sống kiếp người của mình cách trọn hảo. Cuộc đời mẹ không chỉ được đan dệt bằng những sợi chỉ hồng tươi thắm mà còn có những chặng đường gian nan, cay đắng và có cả những đau đớn xé lòng, tan nát tâm can. Thế nhưng mẹ đã đi trọn con đường trần thế của chính mình và đã hoàn thành cách vô cùng tuyệt diệu.
Có những điều tưởng chừng rất bình thường hay thậm chí tầm thường Mẹ đã làm cho nó thành cao cả, phi thường. Một lời chào có gì là vĩ đại đâu! Thế mà mẹ đã làm cho lòng người được chan chứa niềm vui, tưng bừng, hân hoan trong ngày thăm viếng. Một lời nói ở tiệc cưới Cana có gì là huyền bí đâu! Thế mà làm cho sự thiếu rượu giữa tiệc cưới không biến thành nỗi tủi nhục. Những điều bình dị vẫn diễn ra hằng ngày có gì là mới lạ đâu ? Thế mà Mẹ đã sắp xếp, đâu kết lại thành một chuỗi những điều đáng ghi nhớ để suy đi nghĩ lại.
Những giờ phút vinh quang của Con, không thấy Mẹ kề cận và giờ phút nhục nhã ê chề, thất bại thảm thương thì Mẹ lại đứng đó nhẫn nhục, anh hùng. Mẹ đã làm cho cuộc sống hôm nay bừng lên niềm hy vọng rực rỡ. Không có chỗ cho than van, kêu trách. Không có lối đi cho sợ hãi, trốn chạy, không có nơi ẩn nấp của sự hận thù, oán ghét. Mẹ đã đi qua tất cả mọi ngõ ngách quanh co của thế gian điên đảo và mẹ đã làm cho tất cả được đưa ra ánh sáng của ngày mới ló dạng.
Con đường trần đã đi qua không có gì phải nuối tiếc vì Mẹ đã sống trọn vẹn nỗi vui và sống tận cùng với nỗi đau của con người, của chính mình và của mọi người. Mẹ về trời vì con đường trần thế đã xong. Mẹ không chạy trốn trần gian để tìm nương ẩn nơi cõi trời mà mẹ đã hoàn tất sứ mạng của mình là làm cho thực tại trần gian được toả sáng niềm vui ơn cứu độ của Đức Giêsu Con Mẹ.
MẸ LÀ NIỀM HY VỌNG CHO TRẦN THẾ HÔM NAY
Mẹ về Trời rồi nhưng những gì Mẹ đã sống không ngừng được nhìn ngắm, được chiêm ngưỡng, được trân trọng giữ gìn. Âm vang từ cuộc đời của mẹ đã làm rung lên những âm điệu thánh thót của biết bao tâm hồn thánh thiện. Đường Mẹ từng đi qua nay lại có nhiều tâm hồn men theo lối cũ mà bước tới bằng nhịp bước thanh thản, nhẹ nhàng. Lời ca Magnificat của Mẹ gợi hứng cho biết bao nhiêu lời ngợi khen thể hiện nơi những tâm hồn quảng đại hiến dâng.
Nói tóm lại, đời sống cuả Mẹ được tiếp tục nơi những người con không bao giờ ngơi yêu mến và quý trọng Mẹ. Mẹ về Trời mà Mẹ vẫn sống qua muôn thế hệ vì gương sống của Mẹ không nhạt nhoà theo thời gian, không lỗi nhịp với thế hệ đương đại vì một con tim yêu thương có bao giờ lại ở bên ngoài Tình Yêu.
Lòng tin của Mẹ đã làm cho cuộc sống không còn bị thả trôi theo dòng đời vô định. Mẹ đã tin và Mẹ đã neo thuyền đời vào sự trung tín không lay chuyển của Thiên Chúa. Ngài trung tín ngay cả khi con người phản bội và chính mẹ, Mẹ cũng đã trung kiên đến cùng dù mọi người đã chao đảo lung lay. Lòng cậy trông trong những lúc nguy biến, hãi hùng đủ xiết chặt lại đoàn ngũ những người muốn buông xuôi, tuyệt vọng khi hành trình không thuận lợi. Lòng mến của Mẹ thì bao la, hải hà. Một lòng mến đủ để Mẹ sẵn sàng chấp nhận từ bỏ tất cả để yêu mến một mình Thiên Chúa và để lòng mến bao phủ mọi tình huống tồi tệ nhất.
Lời xin vâng của mẹ, lời xin vâng tích cực không chỉ sẵn lòng để Thiên Chúa toàn quyền trên mọi ý định và ước muốn của mình mà còn xin Thiên Chúa thực thi ý Ngài trên đời mình “Xin Chúa cứ làm cho tôi…” Lời xin vâng ấy như vang vọng sự tuân phục của Chúa Giêsu Con Mẹ khi bước vào trần gian: “Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài”. Tất cả những ai noi theo mẫu tuân phục ấy đều khám phá ra rằng gánh nặng của cuộc đời trần thế bỗng trở nên sự êm ái, nhẹ nhàng vì có một nguồn sức mạnh diệu kỳ nâng ta dậy và một bàn tay dịu dàng của người Mẹ dẫn ta bước tới trong an vui và tin tướng.
Sống như một người bé mọn trước Đấng Tối Cao xem ra không phải là điều mới mẻ nhưng nhận ra lòng thương xót Chúa đoái thương thân phận thấp hèn và thấy mình diễm phúc vì được tràn đầy ơn huệ của Đấng Toàn Năng mà ơn huệ ấy cứ trải dài cho đến muôn muôn thế hệ lại là một khám phá mang chiều kích tràn đầy hy vọng. Từ nay, người ta có quyền hy vọng dù thân phận bất toàn, hèn kém, dù nghèo khổ, thua thiệt hay đang bị chèn ép, khinh khi. Lòng kính sợ Thiên Chúa luôn lôi kéo lòng thương xót Chúa xuống trên đời mình. Mẹ đã sống như thế, Mẹ đã ca ngợi một tình thương như thế và Mẹ đã làm chứng hùng hồn cho những điều ấy hôm nay, khi Mẹ được lên trời cả hồn lẫn xác.
Không còn nghi ngờ gì nữa, mẫu gương sống trọn vẹn cuộc sống trần gian của Mẹ là bước chuẩn bị cho một cuộc sống vinh quang và hạnh phúc trời cao. Mẹ đã thành công và là niềm hy vọng cho những ai muốn được như vậy. Con đường Mẹ đã bước đi để tiến đến vinh quang ngày lên trời hồn xác cũng sẽ là con đường cho mỗi người chúng ta theo ơn gọi riêng của mình.
Nhìn vào thực trạng của thế giới hôm nay và của chính đời mình, chúng ta không còn phải trốn chạy vào những giấc mơ huyền hoặc nữa mà cứ sống tận cùng thân phận con người và làm rực lên ánh sáng của niềm hy vọng từ những điều nhỏ bé trong cuộc đời đến những việc trọng đại. Mẹ đã sống và Mẹ đã toả chiếu niềm tin yêu hy vọng chói ngời để hôm nay hướng nhìn lên Mẹ ánh sáng đời Mẹ lại rọi xuống đời ta để ta cứ mạnh dạn tiến tới trong niềm cậy trông.
MẸ LÊN TRỜI MÀ MẸ VẪN ĐANG Ở VỚI TA
Mẹ được lên trời như một đặc ân do lòng quảng đại của Thiên Chúa nhưng về trời không làm cho Mẹ phải từ bỏ cõi trần để thuộc về một thế giới khác, không vướng bận với những điều tầm thường của trần gian. Như là một chi thể của Hội Thánh thì đặc ân Hồn Xác Lên Trời của Mẹ là hồng ân cho toàn thể Hội Thánh. Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân (LG 62) còn mạnh mẽ khẳng định: “Sau khi về Trời, vai trò của Mẹ trong công trình cứu độ không chấm dứt… Với tình từ mẫu, Ngài chăm sóc những anh em của Con Ngài đang lữ hành trên dương thế”.
Mẹ tiếp tục làm mẹ cách tuyệt vời hơn nữa. Về Trời nghĩa là không con bị lệ thuộc bởi không gian và thời gian. Mẹ có thể đến với con cái mình bất cứ lúc nào và bất cứ nơi đâu. Về Trời nghĩa là tình thương từ mẫu có thể trải rộng đến vô tận trên mọi hạn hẹp của tình cảm, của những mối tương quan thường tình. Mẹ có thể yêu thương hết mọi người bằng mọi cách thế hoàn toàn mới mẻ.
Ta có thể cảm nhận được tình thương ấy mỗi khi đến với Mẹ trong cầu nguyện. Mỗi lời kinh vang lên là ta lại thấy lòng mình lắng xuống những lo âu, bồn chồn, phiền muộn. Mỗi khi ngỏ lời với Mẹ ta lại thấy như được lắng nghe, được an ủi, được nâng đỡ. Mỗi lần tỏ lòng yêu mến Mẹ là mỗi lần ta được Mẹ đáp lại bằng những cử chỉ yêu thương tràn đầy hơn, thấm thía hơn và ngọt ngào hơn.
Mẹ vẫn có đó mỗi khi kêu cầu Mẹ. Gian nan, thử thách, khó khăn, hoạn nạn ư? Đừng sợ, Mẹ luôn có đó để che chở đoàn con khỏi những hiểm nguy khốc liệt nhất.
Ngay tại Trà Kiệu còn lưu lại chứng từ sự bảo vệ huyền diệu của một Bà đứng trên nóc Nhà Thờ vẫy tay làm lệch hướng của những đường đạn từ các khẩu thần công. Hãy nhớ lại những lần bàn tay mẹ đã từng xua đi bao áng mây u ám trên bầu trời bình an mà thêm niềm tin cậy. Bất cứ nơi nào có ảnh tượng Mẹ, dù cũ kỹ hay hoang tàn đổ nát cũng không làm mờ nhạt đi tấm lòng thương xót hải hà của Mẹ.
Tại Kon Plông, một huyện miền cao cách thị xã Kon Tum 52 km hướng Đông Bắc, có một tượng Đức Mẹ xấu xí với hai bàn tay cụt đã tỏ hiện sự linh thiêng khi số lượng ngày càng tăng của những tấm bia tạ ơn và nhiều đoàn ngừơi từ rất xa tấp nập kéo đến một nơi xa xôi hẻo lánh khiến nơi này đang dần dần trở thành một địa điểm hành hương với cái tên Đức Mẹ Măng Đen. Tại đây, nhiều người đã nhận được những ơn lành từ Mẹ.
Tượng Đức Mẹ tuy không đẹp vì đầu của Đức Mẹ đã bị rơi xuống và được đắp lại bằng xi măng còn đôi bàn tay được ráp thay vào thì không dính được nhưng Đức Mẹ Măng Đen Cụt Tay lại như là biểu tượng của tình mẫu tử vô bờ đối với những người khuỵết tật, những nạn nhân của bạo lực, chiến tranh, của phá thai, của sự độc ác vô nhân… Nơi đây đã từng bị lãng quên nhiều năm tưởng chừng thành hoang phế thì nay Đức Mẹ lại linh hiển ban ơn cho nhiều tầng lớp người cả lương lẫn giáo, cả kinh lẫn thượng, cả người lành mạnh lẫn yếu đau… Mẹ vẫn đứng đấy để chờ đợi đoàn con từ muôn nẻo đường quy tụ về mà lãnh nhận ơn lành.
Mẹ còn đồng hành với ta trên bước đường theo Chúa Kitô trong sứ mạng loan báo Tin Vui. Những anh chị em nào đã từng làm việc Tông Đồ thì sẽ có được những cảm nghiệm thiết thân về sự trợ giúp đầy quyền năng yêu thương của Đức Mẹ. Mẹ như đi trước chuẩn bị các tâm hồn hay tạo ra những hoàn cảnh thuận lợi để giúp ta hoàn thành sứ mạng. Có những lúc ta tưởng chừng như đành phải bó tay, bất lực thì với sự trợ giúp của Mẹ mọi sự trở nên dễ dàng, đơn giản.
Một lần kia tôi được mời đến xức dầu bệnh nhân cho một người trong bệnh viện. Tôi được biết hoàn cảnh khá tồi tệ của anh vì bị mọi người trong gia đình bỏ rơi chỉ còn một người bạn giúp anh trên giường bệnh. Đến nơi, tôi ngỏ ý muốn gặp người bệnh để ban các Bí Tích thì người bạn của anh quyết liệt từ chối vì hiện anh ta đã đỡ và không muốn anh bị ảnh hưởng tâm lý nếu chịu Bí Tích Xức Dầu. Tôi đề nghị xin cho tôi gặp để giúp anh xưng tội nếu anh muốn. Người bạn vào lại Bệnh Viện…
Trong lúc đó tôi ngồi ngoài chờ đợi và tôi chợt nhớ là khi đi mình chưa cầu nguyện cho bệnh nhân. Tôi lấy xâu chuỗi ra cầu nguyện với Đức Mẹ. Một lúc sau anh bạn trở ra và cho biết người bệnh muốn gặp tôi. Tôi thấy anh tỉnh táo và khá linh hoạt chứ không như được người thân mô tả. Sau một lúc nói chuyện, tôi đề nghị giúp anh xưng tôi vì anh đã bỏ giữ đạo đã lâu. Anh đồng ý và tôi cũng đã ban bí tích Xức Dầu cho anh.
Ngày hôm sau, người nhà báo tin anh đã qua đời hồi đêm trong bệnh viện. Tôi tin rằng chính Đức Mẹ đã cứu anh.
Mẹ đã lên Trời nhưng Mẹ vẫn thật gần và thật thắm thiết tình thương yêu dạt dào. Mẹ sẽ tỏ bày bằng muôn vàn cách thế diệu kỳ để ta có thể hướng nhìn lên Mẹ mà hy vọng, mà tin tưởng, mà vui mừng vì Mẹ vẫn bên ta trong mọi nỗi gian nan, trong muôn vạn nẻo đường đời xuôi ngược. Mẹ vẫn yêu thương ta dù ta lầm đường, lạc lối. Đối với tấm lòng yêu thương vô bờ thì không bao giờ có gì là quá trễ để trở về.
Cùng với những anh chị em trong những cuộc hành hương về La Vang mừng Đại Lễ Mẹ Lên Trời, chúng ta cũng muốn gửi gắm những tâm tình tạ ơn tha thiết. Mẹ đã tỏ cho ta thấy trái tim vô cùng nhân hậu khi chúng ta nhìn thấy một rừng người canh thức suốt đêm để cầu nguyện với Mẹ trước ngày Đại Lễ. Những lời cầu kinh râm ran như kéo dài đến vô tận vừa cho ta thấy được tình yêu mến của những người con Việt Nam yêu Mẹ cách hồn nhiên, chân thành và cũng vô cùng sâu đậm lại vừa cho ta hiểu được rằng ơn huệ của Mẹ đã trải dài trên quê hương Việt Nam và đã để lại nơi lòng những người con Việt Nam yêu dấu của Mẹ biết bao nhiêu dấu ấn dịu dàng của tình từ mẫu đến nỗi cả dân tộc Việt Nam cứ muốn tỏ bày lòng mến thương thật sâu đậm dành cho Mẹ.
Cùng hướng về La Vang để hát vang lời chúc tụng Chúa và ca ngợi Mẹ đầy ơn phúc đến vô tận. Cùng cầu nguyện với Đức Mẹ La Vang cho mỗi người chúng ta đi trọn con đường trần thế để khi đến cuối hành trình chính Mẹ đón đưa chúng ta về nhà và để ngay từ hôm nay niềm vui được thắp lên ngay giữa lòng cuộc sống vì Mẹ đã về Trời và vì Mẹ đã làm người cách tuyệt vời.
Lm. Giuse NGUYỄN NGỌC BÍCH, DCCT















13. Đường Về



Mười lăm tháng tám mừng vui
Chúa cho Đức Mẹ về trời vinh quang
Niềm hy vọng thật rõ ràng
Chúng nhân sẽ được hưởng chung Nước Trời
Đức Mẹ là một thụ tạo nhưng được Thiên Chúa cho về Trời cả hồn và xác mà không phải đi qua ngưỡng cái chết, gọi là “Mông Triệu” (*). Đó là một đặc ân vì Mẹ vô nhiễm nguyên tội, hoàn hảo các nhân đức, và mau mắn xin vâng Thánh ý Chúa Cha. Đức Mẹ về Trời là ấn tín bảo đảm cho những người tin vào Đức Kitô cũng sẽ được sống lại và lên trời sau khi hoàn tất chuyến lữ hành trần gian. Lên trời là về Quê Hương Vĩnh Hằng, mục đích của mỗi Kitô hữu là như vậy.
Thánh Gioan kể lại thị kiến, y như một đoạn phim dài đầy kịch tính và nhiều tình tiết: “Đền thờ Thiên Chúa trên Trời đã mở ra. Rồi có điềm lớn xuất hiện trên trời: một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao. Bà có thai, đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con. Lại có điềm khác xuất hiện trên trời: đó là một Con Mãng Xà, đỏ như lửa, có bảy đầu và mười sừng, trên bảy đầu đều có vương miện. Đuôi nó quét hết một phần ba các ngôi sao trên trời mà quăng xuống đất. Rồi Con Mãng Xà đứng chực sẵn trước mặt người Phụ Nữ sắp sinh con, để khi bà sinh xong là nó nuốt ngay con bà. Bà đã sinh được một người con, một người con trai, người con này sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt muôn dân. Con bà được đưa ngay lên Thiên Chúa, lên tận ngai của Người. Còn người Phụ Nữ thì trốn vào sa mạc; tại đó Thiên Chúa đã dọn sẵn cho bà một chỗ ở, để bà được nuôi dưỡng ở đó, trong vòng một ngàn hai trăm sáu mươi ngày” (Kh 11,19a,12,1-6).
Thị kiến kỳ lạ ấy ám chỉ Đức Mẹ. Thánh Gioan cho biết thêm: “Tôi nghe có tiếng hô to trên trời: Thiên Chúa chúng ta thờ giờ đây ban ơn cứu độ, giờ đây biểu dương uy lực với vương quyền, và Đức Kitô của Người giờ đây cũng biểu dương quyền bính, vì kẻ tố cáo anh em của ta, ngày đêm tố cáo họ trước toà Thiên Chúa, nay bị tống ra ngoài” (Kh 12,10). Thị kiến này cũng khiến chúng ta phải cẩn trọng hơn về đức ái, nhất là trong cách đối xử với tha nhân hằng ngày.
Ngay cả Hồi Giáo cũng tôn trọng Đức Mẹ, coi Đức Mẹ là phụ nữ cao cả nhất trong Kinh Koran (Kinh Thánh của Hồi Giáo). Công giáo có nhiều danh xưng dành cho Đức Mẹ: Nữ Vương Hòa Bình, Đức Maria Trinh Vương, Đức Mẹ Phù Hộ các Giáo Hữu, Đức Mẹ Ban Ơn Lành, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Đức Mẹ Mai Khôi, Đức Mẹ Thương Xót, Đức Mẹ Vô Nhiễm, Đức Mẹ Hoa Hồng,… và Đức Mẹ còn gắn liền với các địa danh trên khắp thế giới, riêng Việt Nam cũng có Đức Mẹ La Vang, Đức Mẹ Giang Sơn, Đức Mẹ Mằng Lăng, Đức Mẹ Sao Biển, Đức Mẹ Trà Kiệu, Đức Mẹ La Mã Bến Tre…
Tác giả Thánh Vịnh đã từng ca tụng: “Hàng cung nữ, có những vì công chúa, bên hữu ngài, hoàng hậu sánh vai, trang điểm vàng Ôphia lộng lẫy. Tôn nương hỡi, xin hãy nghe nào, đưa mắt nhìn và hãy lắng tai, quên dân tộc, quên đi nhà thân phụ. Sắc nước hương trời, Quân Vương sủng ái, hãy vào phục lạy: Người là Chúa của bà” (Tv 45,10-12). Chắc hẳn phàm ngôn không thể đủ để diễn tả về Đức Mẹ cho xứng đáng, chúng ta chỉ biết dùng những ngôn từ nào cao trọng nhất để tôn xưng Đức Mẹ mà thôi.
Tất cả phàm nhân đều phải bước qua ngưỡng-cửa-sự-chết theo quy luật sinh-tử, vì ai trong chúng ta cũng từng phạm tội nhiều. Nhưng chết không là hết, mà là biến đổi, như Thánh Phanxicô Assisi xác định: “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”. Chết đi để được sống lại. Chính Đức Kitô cũng đã chết và phục sinh để bảo đảm về chuyện đời sau. Chết là trực tiếp gặp Thiên Chúa, gặp Đức Kitô, và cũng gặp Đức Mẹ nữa.
Niềm hy vọng của Kitô hữu thật lớn lao và tuyệt vời, nhưng Thánh Phaolô nói: “Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người” (1Cr 15,19). Niềm hy vọng của chúng ta không hề như vậy. Thánh Phaolô giải thích: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu. Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. Quả thế, như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống” (1Cr 15,20-22).
Ai cũng lần lượt ra đi, kẻ trước người sau, như lá rụng về cội, dù lá xanh hay lá vàng, như Thánh Phaolô giải thích thêm: “Mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người. Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha” (1Cr 15,23-24). Tất cả đều xảy ra đúng theo trật tự Thiên Chúa đã ấn định, như chúng ta thường nói là Thiên Chúa an bài. Chúng ta không thể hiểu thấu, nhưng sự thật là vậy: “Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết” (1Cr 15,25-26).
Đức Kitô dùng thập giá để chiến thắng tất cả, và cũng chính trên thập giá, Ngài đã tiêu diệt sự thù ghét (x. Ep 2:16) để minh chứng tình yêu vô biên và sâu thẳm của Thiên Chúa, tức là Lòng Chúa Thương Xót, điều mà không ai trong chúng ta khả dĩ hiểu thấu.
Thánh sử Luca kể…
Hồi ấy, cô em Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. Cô vào nhà ông anh Dacaria và chào hỏi bà chị Êlisabét. Chị Êlisabét vừa nghe tiếng dì Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà chị Êlisabét được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,42-45).
Đây là cuộc gặp lịch sử. Một người là Mẹ Thiên Chúa, còn một người là Mẹ của vị Tiền Hô Gioan. Thấy cô em họ Maria đến, chị Êlisabét vui mừng thốt lên những lời đầy Thần Khí. Sau đó, cô Maria cũng quá đỗi vui mừng và dâng lời Kinh Ngợi Khen (Magnificat, Lc 1,46 – 55), y như một bài thơ vậy:
Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
Thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới;
Từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.
Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả,
Danh Người thật chí thánh chí tôn!
Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
Dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
Người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
Chúa độ trì Ítraen, tôi tớ của Người,
Như đã hứa cùng cha ông chúng ta,
Vì Người nhớ lại lòng thương xót
Dành cho tổ phụ Ápraham và cho con cháu đến muôn đời.
Kinh Thánh cho biết rằng Đức Maria ở lại với bà chị Êlisabét độ ba tháng, rồi mới trở về nhà. Mẹ đã chứng tỏ lòng yêu thương với tha nhân khi vội vã đi thăm bà chị Êlisabét, đồng thời lại muốn chứng tỏ tình yêu thương đó qua việc ở lại giúp đỡ người chị đang mang thai trong ba tháng đầu của thai kỳ.
Trong Mầu Nhiệm Mai Khôi mùa Mừng, mầu nhiệm thứ tư: Đức Chúa Trời cho Đức Mẹ lên Trời. Xin cho con được chết lành trong tay Đức Mẹ. Mầu nhiệm thứ năm: Đức Chúa Trời thưởng Đức Mẹ trên trời. Xin cho con được thưởng cùng Đức Mẹ trên Nước Thiên Đàng. Hai mầu nhiệm này không chỉ nhắc nhở chúng ta cầu nguyện với Đức Mẹ, mà còn hy vọng được trường sinh để cùng Đức Mẹ mãi mãi chúc tụng Thiên Chúa. Đường về dù xa hay gần, đường đi có thể gập ghềnh nhiều nỗi, nhưng có Đức Mẹ đồng hành thì chúng ta cứ an tâm tiến bước.
Lạy Thiên Chúa, xin cho chúng con biết “ái mộ những sự trên Trời”, quyết tâm hành động vì Nước Trời, dám khước từ trần gian để ưu tiên mọi sự vì Nước Trời, nhờ đó mà chúng con xứng đáng trở thành công dân Nước Trời vĩnh hằng. Lạy Mẹ, xin đồng hành và nâng đỡ chúng con luôn. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
(*) “Mông triệu” có gốc từ chữ Hán, được rút gọn từ 4 chữ “mông chủ (chúa) sủng triệu”, những từ ngữ thường được nghe trong các phim lịch sử của Trung Hoa. “Mông” là “chịu” hoặc “được”, “triệu” là “gọi” (triệu tập, hiệu triệu). “Mông triệu” có nghĩa là “được sủng ái” (yêu mến) nên được Chủ (Chúa) gọi (về trời), Anh ngữ dùng thuật ngữ “dormition” nghĩa là “ngủ”, tức là “chết mà như ngủ”.















14. Lễ Đức Mẹ Lên Trời



Lễ Đức Mẹ Lên Trời (hay còn gọi là Lễ Đức Mẹ Mông Triệu) là một ngày lễ quan trọng của các Kitô hữu thuộc Giáo hội Công giáo Rôma, Chính Thống giáo Đông phương, Cộng đồng Anh giáo, vì họ tin rằng khi qua đời thì linh hồn và thể xác của Đức Maria đã được đưa về thiên đàng.
Giáo hội Công giáo Rôma định sự kiện này là một “tín điều” (điều phải tin) do Giáo hoàng Piô XII ban hành vào ngày 1 tháng 11 năm 1950 qua Hiến chế “Munificentissimus Deus” (Thiên Chúa vô cùng vinh hiển). Trong hiến chế này, Giáo hoàng Piô XII tuyên bố[1]: “Sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế, Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa vừa vô nhiễm vừa mãi mãi đồng trinh, đã được đưa vào vinh quang thiên quốc cả hồn lẫn xác” bởi những lý do: Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa; thân các Đức Giêsu sinh ra từ thân xác Đức Maria (“caro Jesu est caro Mariae”); thân xác Đức Maria không hề sa sút nhưng vẫn trinh khiết vẹn toàn và bởi đó thật xứng đáng nếu thân xác ấy không bị hư nát sau khi chết; và vì đã liên kết chặt chẽ với Đức Ki-tô trong sứ mạng cứu độ của Người ở trần gian, nên Đức Maria cũng thật xứng đáng được chia sẻ tình trạng vinh quang của thân xác.
Trong thánh kinh không có bằng chứng trực tiếp nào về việc Đức Maria lên trời. Hội thánh Công giáo rút ra kết luận đó từ cách gọi Đức Maria đầy ân sủng được ghi trong Tin mừng Luca (Lc 1,28). Vì đầy ân sủng nên Mẹ được gìn giữ khỏi phải chịu hậu quả của tội lỗi, tức là thân xác không phải hư nát sau khi chết và thân xác được hạnh phúc trên trời ngay cả khi ngày tận thế chưa đến. Khi đặt niềm tin vào việc Đức Maria lên trời, Hội thánh không dựa vào Kinh Thánh mà dựa vào truyền thống được kể lại. Đây chắc chắn là giáo lý đã được mạc khải, bởi vì các giám mục Công giáo trên toàn thế giới đã nhất trí tin rằng đó là một phần trong mạc khải của Thiên Chúa [2].
Ngoài ra, niềm tin về Đức Mẹ Lên Trời cũng được biết đến như là nền Thần học Thánh Mẫu trong Giáo hội Chính Thống Đông phương.
Đức Mẹ Lên Trời là một ngày lễ lớn, thường được tổ chức vào ngày 15 tháng 8. Ở một số quốc gia, bao gồm: Áo, Bỉ, Chile, Ecuador, Pháp, Hy Lạp, Liban, Ý, Malta, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Senegal và Tây Ban Nha[3]. Các giáo hội Chính Thống giáo Đông phương theo lịch Julian nên ngày lễ này vào ngày 28 tháng 8, và là một ngày nghỉ lễ ở Cộng hòa Macedonia. Thành phố thủ đô của Paraguay được đặt tên là Asunción để tôn vinh sự kiện Đức Mẹ Lên Trời.













15. Hy Vọng Vì Có Mẹ Được Chúa Ân Thưởng Về Trời



Con rồng trong sách Khải Huyền được mô tả như là mầm mống của sự chết chóc vì nó đứng “rình người nữ sắp sinh con để nuối lấy đứa trẻ” (Kh 12,4). Với từ ngữ và hình ảnh tượng trưng, sách Khải Huyền còn gợi lên cuộc chiến lâu dài giữa sự sống và sự chết, giữa Satan với Đức Kitô và Giáo Hội của Người. Người sẽ toàn thắng.
Chúng ta biết, cuộc chiến giữa sự sống và sự chết, giữa sự thiện và sự ác là không cùng. Con người dù tiến bộ đến đâu đi chăng nữa, vẫn luôn mang trong mình sự mỏng giòn.
1. Sự mỏng dòn của con người
Vốn mỏng dòn yếu đuối, cộng thêm lo âu, phiền muộn về sức khỏe, việc làm, về công việc gia đình phải gánh vác, những mập mờ vô định ngày mai của cuộc đời, lo con còn trẻ, cha mẹ khi đã về già, ốm đau bệnh tật, khủng hoảng về luân lý… tất cả đè nặng lên lòng trí con người. Làm sao không khỏi ngạc nhiên khi thấy thời đại chúng ta đang tụt hậu trước những biến cố của cuộc đời?
Trước những bất hạnh của thế giới, có người buông xuôi không làm gì hết, để mặc cho số phận. Có người cấp tiến hơn, quyết định từ bỏ một phần và tự sát. Có người từ chối truyền lại sự sống mà họ đã lãnh nhận và không chịu nhận cái khả năng có thể cho tương lai của chính họ và xã hội. Dần dần những nhà trẻ sẽ thay thế nhà hưu dưỡng!
Giữa cảnh đời lữ thứ, người Kitô hữu sống ra sao? Đức Tin của chúng ta thế nào khi đối diện với các thực tại như thế? Lễ Đức Maria hồn xác về Trời mang lại cho họ hy vọng gì trong cuộc sống?
2. Cuộc chiến thắng!
Chúng ta long trọng cử hành lễ Đức Maria hồn xác về trời với lòng sùng kính, giúp chúng ta trả lời những vấn nạn trên. Trước hết niềm tin của Giáo Hội đối với tín điều Đức Piô XII đã xác quyết năm 1950. Chúng ta tin Đức Maria, đã được đặc ân cả hồn lẫn xác về Trời. Điều đó muốn nói rằng sự chiến thắng con rồng trong sách Khải Huyền hoàn tất nơi Mẹ, Mẹ về ngự bên hữu Chúa để chuẩn bị chỗ cho chúng ta như Thiên Chúa đã dành cho Mẹ.
Chúng ta tự hỏi, Đức Maria đã được rước lên Trời cả hồn lẫn xác có làm chúng ta thay đổi không? Thánh Phaolô cho chúng ta câu trả lời: “Đức Kitô đã từ cõi chết sống lại, là hoa quả đầu mùa của những kẻ yên giấc” (1Cr 15,20). Đức Giêsu sống lại, có người tin, người không tin. Nhưng, Đức Kitô, Con Thiên Chúa đã sống lại thật, đó là niềm hy vọng của chúng ta.
Việc Đức Maria hồn xác lên Trời là một thực tại khác: Đức Maria không phải là Thiên Chúa; Mẹ là nữ tử Israel, là một trong những thụ tạo như chúng ta, là người nữ giữa muôn vàn người nữ trên trần gian. Mẹ đã được tôn vinh, vinh quang của Mẹ liên quan đến chúng ta. Những đặc ân của Mẹ là kết quả cụ thể của ơn cứu độ mà Đức Kitô mang đến cho Mẹ và nhân loại (x. 1Cr 15,20-26). Mẹ được vinh hiển là nhờ công nghiệp của Chúa Kitô, Con của Mẹ. Việc Đức trinh Nữ được lên Trời hồn xác là sự thông phần cá biệt vào cuộc phục sinh của Con Mẹ, và tiên báo cuộc phục sinh của các tín hữu (GLCG số 966).
Đức Tin không nói cho chúng ta biết điều gì về cái chết của Đức Maria. Có người cho rằng Đức Maria không chết, nhưng Đức Tin nói với chúng ta rằng sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế, Đức Maria được Thiên Chúa tôn vinh.
Nơi Mẹ, cũng như Đức Giêsu Con Mẹ, cái chết không phải là hết, sự chết đã bị đập tan. Trái đất không còn là nơi giam hãm con người trong số phận đau thương, các tầng trời mở ra để loan báo một tương lai sáng ngời cho nhân loại. Sự chết đã bị tiêu diệt bởi sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa. Đó là niềm hy vọng lớn lao cho chúng ta!
3. Sống trong hy vọng
Kinh Tạ Ơn của Đức Maria nêu rõ: “Chúa đã ra oai cánh tay thần lực, dẹp tan những ai lòng trí kiêu căng, Chúa lật đổ những người quyền thế, và nâng dậy những kẻ khiêm nhường. Phận đói nghèo Chúa ban của đầy dư… Vì Người nhớ lại lòng thương xót” (x. Lc 1,39-56). Chắc chắn Thiên Chúa không thể để chúng ta bị nghèo đói đè bẹp, khi chúng ta tin vào lời Chúa hứa.
Mừng kính Đức Trinh Nữ Maria hồn xác về trời, chúng ta không chỉ mừng vì Thiên Chúa đã làm cho Mẹ những điều trọng đại, mà còn mừng vì sự hiện hữu của nhân loại. Thánh Phaolô nói: “Anh em khỏi phải phiền sầu như những người khác, những kẻ không có hy vọng” (1Tx 4,13). Chúng ta cố gắng hiểu để sống sao cho xứng danh là người hy vọng.
Người trẻ sống hy vọng, khi họ hướng đến một tương lai khác và muốn sống quảng đại như Chúa muốn. Những người ở bậc gia đình sống niềm hy vọng, bằng cách hiệp nhất cùng nhau, thủy chung trong đời sống vợ chồng để yêu thương, trao ban hạnh phúc và sự sống cho con cái. Những người nam sống niềm hy vọng khi mau mắn đáp lại tiếng gọi Chúa để trở nên những Linh Mục, Phó Tế trong Giáo Hội, và lấy làm hạnh phúc vì được cộng tác vào sứ mạng cao cả của Đức Kitô Mục Tử! Chúng ta thật bất hạnh nếu chúng ta không có niềm hy vọng!
Người sống hy vọng còn là người dấn thân cải thiện đời sống xã hội và làm việc công ích, lương thiện với mọi người, chăm sóc những người ốm đau, bệnh tật, già nua để trao ban cho họ niềm tin và giá trị về sự hiện hữu của chính mình. Những người sống hy vọng cũng còn là người tránh xa bom đạn, bạo lực chiến tranh, không ham báo thù.
Vậy mỗi người chúng ta hãy sống hy vọng, hãy làm ngày lại ngày, không buông tay, mặc cho những ngang trái của cuộc đời. Phúc cho chúng ta, nếu chúng ta can đảm chiến đấu mỗi sáng khi thức dậy cho cuộc sống đáng sống của mọi người trên trái đất, thì thật phúc cho chúng ta, như Mẹ Maria khiêm nhường phục vụ Chúa: “Này từ nay muôn thế hệ sẽ khen tôi có phước!” (Lc 1,48).
Nếu như khi xưa Mẹ Thiên Chúa đã đến với bà Êlisabét, thì ngày hôm nay Mẹ vẫn đến với chúng ta. Mẹ mở rộng vòng tay nói với chúng ta rằng: hỡi con, hãy tin tưởng và hy vọng, Chúa đã dọn chỗ cho con. Amen!
Lm. Antôn NGUYỄN VĂN ĐỘ















16. Tín Điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời



I. TIẾN TRÌNH TÍN ĐIỀU MẸ LÊN TRỜI
Theo hai cha Pohle và Scheeben, mấy thế kỷ đầu không có dấu tích gì về lòng tin Đức Mẹ Maria: 15/8-56
Theo hai cha Pohle và Scheeben, mấy thế kỷ đầu không có dấu tích gì về lòng tin Đức Mẹ Maria lên trời. Nhưng một cái quách (sarcophagus) đầu thế kỷ IV, hiện ở nền nhà thờ Santa Engracia thành Saragossa (Tây Ban Nha), có bức chạm trổ hình Đức Mẹ lên trời. Và chứng tích của Thánh Epiphanô cho biết niềm tin Mẹ Maria bất tử và thân xác Mẹ vinh quang đã được truyền bá sâu rộng trong một ít giáo đoàn như Antiokia.
Do xác tín và ngợi khen “Chức phẩm Thiên Mẫu” và “Đức Đồng Trinh” của Mẹ là hai căn nguyên bước vinh quang của Người, Thánh Epiphanô mở đường cho lòng tin và sự xác quyết của các Thánh Giáo phụ, các Đức Giáo hoàng, các Giám mục, các nhà thần học và toàn thể Giáo hội.
1. Các Thánh Giáo phụ
Các Thánh Giáo phụ trong những thế kỷ đầu, như các Thánh Môđestô, Basiliô, Giêrônimô, Augustinô, Germanô, Đamascenô, và Thêôđôrê Studium, đồng thanh tung hô bước vinh quang của Mẹ Maria do chức phẩm Thiên Mẫu và đức Đồng Trinh của Mẹ .
Riêng Thánh Đamascênô nói: “Cần thiết rằng Con Thiên Chúa, khi sinh ra, đã gìn giữ vẹn tuyền đức Trinh của Mẹ, thì phải gìn giữ Mẹ khi chết, khỏi hư hoại. Đấng đã cưu mang Đấng Tạo Hoá cần được ở trong cung điện của Thiên Chúa. Mẹ Thiên Chúa cần phải có tất cả mọi điều thuộc về Con của Mẹ và cần được mọi thụ tạo tôn vinh”.
2. Các Đức Giáo hoàng
– Đức Adrianô I và Đức Pascalê I có những đồ thờ trang trí bằng hình ảnh Mẹ lên trời.
– Đức Alexanđrô III nói: “Mẹ Maria thụ thai không bị xấu hổ, sinh con không bị đau đớn, từ trần không bị hư hoại trong mồ, vì theo lời Thiên thần, Mẹ đã được đầy ơn”.
– Đức Thánh Giáo Hoàng Piô V sửa đổi lại kinh Phụng vụ với bài đọc lễ Mẹ Lên Trời.
– Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XIV: Về ngày lễ Đức Mẹ Lên Trời, Giáo hội đọc các bài giảng của thánh Đamascenô và thánh Bênađô, thấy rõ ràng Rất Thánh Trinh Nữ lên trời cả hồn và xác. Đó là một dấu chỉ và một bằng chứng niềm tin của Giáo hội.
– Đức Giáo Hoàng Piô XII nối tiếp các Đức Giáo Hoàng tiền nhiệm về niềm tin đó. Trong Thông điệp “Corporis Mystici” ngày 29-6-1943, Ngài viết: “Chúng ta hãy nài xin Mẹ rất thánh của mọi phần tử của Chúa Kitô mà Ta đã tín thác hiến dâng loài người cho Trái Tim Mẹ. Ngày nay ở trên trời, thân xác và linh hồn Mẹ toả sáng trong vinh quang, hiển trị cùng với Con của Mẹ”.
3. Các Đức Giám mục và toàn thể Giáo Hội
Ngày 23-2-1870, 200 Giám mục của Công đồng Vatican I làm đơn thỉnh nguyện Đức Thánh Cha định tín Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời.
Năm 1920, 260 Giám mục từ nhiều nước, cũng hợp ý tâu xin, đầu tiên là các Giám mục nước Ý, nước Pháp, trong khi các Hội Đồng Giám Mục nước Đức, Áo, Anh, và Thụy Sĩ còn im lặng.
Năm 1934, sau năm năm chiến dịch “Forge Italiane” ráo riết vận động, 600 Tổng Giám mục và Giám mục đã chấp thuận cuộc trưng cầu dân ý khắp thế giới, tâu xin Toà thánh định tín.
Tại Pháp và Ý năm 1929, một hội cầu nguyện được thành lập để xin Chúa cho việc định tín được thành tựu.
Đại Hội Thánh Mẫu tại Nantes năm 1924 cũng bày tỏ nguyện vọng đó.
4. Các nhà thần học
Nối tiếp các Thánh Giáo phụ và Thẩm quyền của Giáo hội, các nhà thần học qua các thế kỷ, cũng tích cực đồng tâm nhất trí về tín lý Mẹ Maria Hồn Xác Lên Trời:
Thế kỷ XII và XIII có các Thánh Albertô, Bônaventura, Tôma, Fullertô và các nhà thần học Hugh St. Victor, Sicard Cremona, Durand Mende.
Thế kỷ XV có Thánh Antôniô và nhà thần học Gabriel Biel. Thế kỷ XVI có các Thánh Canisiô, Bellarminô, các nhà thần học Suarez, Soto, Đức Hồng y De Berulle và cả trường phái Pháp.
Thế kỷ XVII có các nhà thần học Billuart, Theophile Raynaud.
Thế kỷ XVIII có Thánh Anphong, Đức Hồng y Lambertini (sau này là Đức Giáo hoàng Beneđictô XIV), các nhà thần học Sedlmayr, Trombelli.
Thế kỷ XIX và XX có các nhà thần học Scheeben, Lannerz, Janssens, Lagrange, Jugie, Roschini, Balic, Bittremieux và Đức Hồng y Lépicier.
Theo cha Deneffe, từ cha Scheeben, có ít là 18 nhà thần học xác quyết rằng tín lý Mẹ hồn xác lên trời có thể định tín.
Nhà thần học Sertillanges viết một câu rất dí dỏm về sự phục sinh của Mẹ: “Chúng tôi tin rằng đường lối mọi xác phàm phải ngoắt quay đi khi nói về Đức Trinh Nữ. Anh hùng ca của sâu bọ phải im bặt để chúng ta ca lên trên ngôi mộ này Hoan khúc Magnificat thay vì Ai khúc De profundis”.
Như vậy, toàn thể Giáo Hội, cùng với các Thánh Giáo phụ, các Đức Giáo Hoàng và các nhà thần học, đều cùng một niềm tin Mẹ Maria lên trời cả hồn và xác. Do đó, cùng với nhà thần học Bainvel, Dân Chúa tin tưởng tín lý Mẹ Hồn Xác Lên Trời mau chóng được định tín.
5. Chuẩn bị định tín
Ngày 1-5-1946, với Thông điệp “Deiparae Virginis” gửi các Giám mục khắp Giáo Hội, Đức Giáo Hoàng Piô XII cho biết từ năm 1840 đến năm 1940, những đơn thỉnh nguyện tâu xin Toà Thánh định tín Mẹ Maria Hồn Xác Lên Trời, đã đóng thành hai cuốn sách. Những đơn thỉnh nguyện này do các Đức Hồng Y, các Thượng Phụ Giáo Chủ, các Giám Mục, đặc biệt 200 Nghị Phụ Công đồng Vatican I, các linh mục, tu sĩ nam nữ, các trường Đại học, các đoàn thể và đông đảo giáo dân.
Đức Thánh Cha xin các Đức Giám Mục cho ngài biết lòng sùng kính Đức Mẹ lên trời của hàng giáo sĩ, giáo dân của giáo phận các ngài và xin các ngài theo sự khôn ngoan, xét đoán thế nào về việc tuyên tín.
Ngày 30-10-1950, Đức Thánh Cha gửi tông thư cho Cơ Mật Viện, loan báo vào ngày mồng 1 tháng 11 năm 1950, một biến cố sẽ là niềm vui lớn lao cho toàn thế giới Công giáo. Đó là nhờ ơn soi động và sự trợ lực của Thiên Chúa, ngài sẽ tuyên tín Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời.
Một tia sáng mới sẽ bừng sáng trên vầng trán của Mẹ mà từ xa xưa, qua các thời đại, Giáo Hội cùng với các Giáo phụ, tiến sĩ và các nhà thần học vẫn tin tưởng mộ mến và sùng kính Mẹ lên trời cả hồn xác.
Đức Thánh Cha cũng hỏi ý kiến Cơ Mật Viện về việc ngài sẽ long trọng tuyên tín Mẹ Hồn Xác Lên Trời như một chân lý đã được Thiên Chúa mặc khải.
Sau khi đã biết ý kiến tích cực đồng thuận, Đức Thánh Cha tỏ lòng hoan hỉ được các Hồng Y, Giám Mục đồng tâm nhất trí với ngài để chứng minh điều Giáo Hội vẫn tin tưởng, mộ mến và giảng dạy.
6. Ban hành Thông điệp “Munificentissimus Deus”
Ngày mồng 1 tháng 11 năm 1950, Đức Giáo Hoàng Piô XII ban hành Thông điệp “Munificentissimus Deus”, long trọng định tín Mẹ Maria linh hồn và xác lên trời là một tín điều buộc mọi người phải tin.
Đại lược thông điệp bất hủ này là:
Sau khi chúc tụng lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa đã yêu thương quan phòng làm êm dịu những khổ đau, đem lại niềm an vui cho các dân tộc, Đức Thánh Cha nêu cao sự kiện ơn Chúa thương, dù giữa thời buổi nhiều người sai lạc chân lý và nhân đức, vẫn có nhiều cách biểu lộ đức tin, lòng sùng mến Mẹ Maria và những con cái Mẹ vẫn được khuyến khích chiêm niệm những đặc ân của Mẹ. Thật vậy, từ muôn đời, Thiên Chúa đã đặc biệt yêu thương Mẹ và rồi ban cho Mẹ dạt dào những đặc ân mà Giáo hội nhận biết và khám phá ra. Nhưng thời đại của chúng ta đã được dành riêng để chiêm ngưỡng đặc ân Mẹ hồn xác lên trời.
Sau đó, Đức Thánh Cha lược qua tiến trình tín lý này qua đức tin của Giáo Hội, qua Phụng vụ, các Giáo phụ, các nhà thần học hằng tin tưởng Mẹ thụ thai, hạ sinh và nuôi dưỡng Chúa Kitô, thì sau cuộc đời này, Mẹ cũng được kết hợp với Chúa cả hồn và xác. Và Mẹ đã cùng với Chúa Kitô chiến thắng địch thù hoả ngục, thì Mẹ cũng được cùng với Chúa, khải hoàn vinh quang.
Đức Thánh Cha cũng kể qua cuộc chuẩn bị của ngài. Và ngài hy vọng rằng việc ngài định tín sẽ đem lại lợi ích lớn lao cho thế giới quay về với Thiên Chúa Ba Ngôi, cho giáo dân thêm lòng sùng mến Mẹ hơn, hiểu biết giá trị đời sống con người và mục đích cao siêu của linh hồn và xác. Sau hết, đức tin vào Mẹ hồn xác lên trời sẽ làm thêm vững mạnh đức tin của chúng ta vào vinh phúc mai sau.
7. Định Tín
Tín điều Mẹ Maria đầu thai vô nhiễm do Đức Piô IX tuyên tín năm 1854, đã là một viên bích ngọc rực sáng trên triều thiên của Mẹ, và là một luồng sáng rọi chiếu vào tín lý Mẹ lên trời cả hồn xác đã loé sáng lên qua bao thế kỷ, để ngày nay, bừng sáng lên thành tín điều, thêm một viên hoàng ngọc trên triều thiên vinh quang của Mẹ.
Do đó, Lễ Các Thánh ngày mồng 1 tháng 11 năm 1950, tại Quảng Trường Thánh Phêrô, Rôma, trước 40 Hồng y, 500 Tổng Giám mục và Giám mục, hàng trăm đại diện chính quyền các quốc gia, hàng ngàn linh mục tu sĩ nam nữ và hơn 700,000 dân chúng, dưới bầu trời tươi sáng, Đức Thánh Cha Piô XII sốt sắng cất tiếng trong máy vi âm, ngân vang khắp Quảng Trường Thánh Phêrô, vọng vang vào Đền Thờ chật ních hơn 80,000 dân chúng, vang xa khắp hoàn cầu, vang lên tới cung trời cao thẳm, những lời trịnh trọng tuyên tín:
“Do uy quyền của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, của hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, và với thẩm quyền của Ta, Ta phán quyết, tuyên ngôn, và định tín là tín điều đã được mạc khải rằng: Đức Maria, Mẹ Vô Nhiễm của Thiên Chúa trọn đời đồng trinh, sau cuộc sống trần gian này, đã được phúc vinh quang Thiên đàng cả hồn và xác. Nếu ai cả dám tự tình chối bỏ hay nghi ngờ điều Ta đã định tín, thì họ phải biết rằng họ hoàn toàn phản bội đức tin Công giáo của Thiên Chúa”.
Đức Thánh Cha vừa dứt lời, thánh ca Te Deum do tất cả mọi người trong Quảng Trường Thánh Phêrô ca lên hùng tráng hoà nhịp với những tiếng chuông trầm hùng của Đền Thánh Phêrô và của 400 đền thờ khắp thành Rôma, như cùng với toàn thể thần thánh trên trời, hân hoan reo mừng chúc tụng ngợi khen Mẹ vinh quang của Thiên Chúa, của Giáo Hội và của toàn thể loài người.
II. LỊCH SỬ PHỤNG VỤ
Đầu tiên, Giáo Hội Đông Phương thành lập lễ tôn vinh Mẹ Thiên Chúa tại Giêrusalem sau Công đồng Êphêsô năm 431, và gọi là “Ngày của Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa”.
Năm 380, giáo đoàn Antiôkia, và đầu thế kỷ VI, Giáo hội Đông Phương gọi là “Lễ Mẹ ly trần”.
Năm 600, hoàng đế Maurice ra sắc lệnh mừng lễ này khắp nước Byzantine.
Khi quân Ba tư xâm chiếm Trung đông, các đan sĩ chạy sang Rôma năm 650, đem theo lễ này sang và đổi là “Lễ Mẹ Lên Trời” và mừng vào ngày 15 tháng 8.
Rồi từ Rôma, lễ này được lan đến Milan và Tây Ban Nha.
Đức Thánh Cha Sergiô I tổ chức một cuộc rước long trọng sùng kính Mẹ lên trời.
Thế kỷ VIII, lễ này lan sang Anh và Đức như Hội Đồng Giám Mục Áo tại Salzburg xác nhận, và sang Pháp do Hội Đồng Giám Mục Pháp tại Mayenne.
Dần dần, lễ này được lan tới tất cả các nước khắp thế giới.
Đức Giáo Hoàng Lêô IV quy định lễ Mẹ Lên Trời có tuần tám ngày, và Đức Giáo Hoàng Nicolas I cho biết từ lâu, lễ Mẹ Lên Trời có lễ Vọng ngày áp.
Thế kỷ thứ XIII, lễ Mẹ Lên Trời còn có ngày chay trước lễ và là lễ long trọng nhất các lễ Đức Mẹ.
Thế kỷ XVI, theo nhà thần học Suarez, lễ này đặc biệt hơn mọi lễ Đức Mẹ, vì bày tỏ cho chúng ta thấy vinh quang, phần thưởng và sự khải hoàn của Rất Thánh Trinh Nữ.
Thời Trung Cổ, lễ Mẹ Lên Trời là ngày làm phép mùa màng và các hoa trái đầu mùa.
Năm 1950, lễ Mẹ Lên Trời có tầm quan trọng trong khắp Giáo hội do Đức Giáo Hoàng Piô XII định tín “Mẹ Maria lên trời cả hồn và xác” và quy định thành Lễ Trọng đặc biệt trong khắp Giáo hội với luật buộc mọi người tham dự Thánh lễ.
Năm 1970, Phụng vụ quy định lễ Mẹ lên trời là một lễ Đức Mẹ duy nhất có lễ Vọng vào chiều ngày 14, trước chính ngày lễ 15 tháng 8.
III. Ý NGHĨA PHỤNG VỤ
1. Mẹ Maria hồn xác lên trời là biến cố sau cùng trong mầu nhiệm đời sống Đồng công Cứu chuộc của Mẹ đặc biệt liên đới với mầu nhiệm Nhập Thể Cứu thế của Chúa Giêsu, Con Mẹ.
2. Vì Mẹ đã chịu thai và hạ sinh Chúa Giêsu, thì sau khi về trời vinh quang, Chúa Giêsu cũng đưa Mẹ vào phúc vinh quang cùng với Người.
3. Mẹ đã cho thân xác Chúa sự sống nhân loại, thì đáp lại, Chúa cũng cho thân xác Mẹ sự sống trường sinh vinh quang.
4. Do đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, thân xác trinh trong của Mẹ được thoát án lệ của tội Nguyên Tổ, mà được sống lại và lên trời cùng với linh hồn trong sáng của Mẹ.
5. Biến cố Mẹ lên trời hồn xác hoàn thành sự thánh thiện và huân nghiệp của Mẹ, là niềm ủi an và hy vọng tràn trề của chúng ta, là khởi đầu và là hình ảnh Hội Thánh sẽ được thành toàn trên Nước Trời.
6. Hồn Xác Mẹ lên trời vinh quang, được Chúa Ba Ngôi tôn phong làm Nữ Vương trời đất và làm Đấng Trung Gian ban phát mọi ơn lành cho chúng ta.
7. Đặc ân Mẹ Lên Trời vinh quang chung quy mọi đặc ân của Mẹ và là cùng đích trót cuộc sống, sứ mạng và huân công của Mẹ. Lễ Mẹ Lên Trời vinh quang chung kết mọi lễ tôn vinh Mẹ, nên là một lễ trọng thể và là lễ luật buộc.
Đặc ân Mẹ lên trời gồm nhiều điều kỳ diệu:
– Mẹ chết êm ái, không chút đớn đau,
– Mẹ phục sinh, không bị hư thối,
– Mẹ lên trời hiển vinh.
Ý NGHĨA LỜI CHÚA TRONG THÁNH LỄ
Bài đọc I: Khải huyền 11:19; 12:1-6,10
Tác giả sách Khải huyền mô tả cuộc tranh hùng giữa thiện và ác, giữa dòng dõi con Rồng hoả ngục và dòng dõi người nữ là Mẹ Maria.
Mẹ được hình dung là một mỹ nữ mặc áo mặt trời như kiểu Thiên Chúa thường cho người phụ nữ ăn mặc (xem Kn 3:21; Mt 6:30) nghĩa là Thiên Chúa cho Mẹ mặc áo vinh quang tức là ánh sáng rực rỡ nhất là mặt trời.
Mẹ chân đạp mặt trăng. Mặt trăng khi tròn khi khuyết, tượng trưng sự đổi thay mà Mẹ không bị biến đổi theo thời gian, theo tứ thời bát tiết vì Mẹ làm chủ như đạp trên tất cả.
Đầu Mẹ đội một triều thiên mười hai ngôi sao. Các ngôi sao ở trên trời cao (xem G 22:12) tức là Mẹ làm Nữ Vương số đông dân chúng đầy đủ như mười hai chi tộc Israel. Triều thiên tượng trưng sự vinh thắng của Mẹ.
Tất cả điều lạ, là hình ảnh Khám giao ước mà Thiên Chúa dùng để ở cùng dân Người, và Người ở trong đó như ở trong Đức Trinh Nữ Maria.
Mỹ nữ đang mang thai và đã sinh một con trai. Con trai đây là Đức Kitô, là Đấng Thiên Sai mà Thánh vương Đavit đã tiên báo trong Thánh vịnh 2 và 110.
Con Rồng lớn màu đỏ là sức mạnh của thần dữ, không thể tiêu diệt Con Trai đó. Giáo Hội đã trải qua biết bao thời kỳ đẫm máu, nhưng quỷ hỏa ngục cũng không phá nổi (x. Mt 16:18).
Thiên Chúa sắp sẵn cho mỹ nữ một nơi trong sa mạc, nghĩa là Chúa đưa Giáo Hội vào nơi gian nan thử thách (x. Đnl 8:2). Giáo Hội gặp nhiều thử thách, nhưng Giáo Hội vẫn đứng vững.
Con trẻ được cất bổng lên ngai Thiên Chúa, nghĩa là Chúa Kitô sẽ được phục sinh.
Sau hết, là bài ca chiến thắng: ơn Cứu độ, quyền năng và vương tước của Thiên Chúa đã toàn thắng và mọi uy quyền đều thuộc về Chúa Kitô.
Bài đọc II: 1 Côrintô 15:20-26
Cuộc chiến thắng thần dữ trong bài đọc này, trở thành một chiến thắng thần chết.
Sự sống lại của Chúa Kitô là mầm móng sự sống lại của chúng ta và là chân lý căn bản. Thiếu chân lý này, đức tin của chúng ta sẽ trở nên hão huyền (16-19).
Chúa Kitô là hoa quả đầu mùa của mọi người đều phải chết. Hoa trái đầu mùa hiến dâng Thiên Chúa tượng trưng sự hiến thánh mùa màng cho Người (x. Đnl 26:1-11). Hoa trái đầu mùa còn là dấu hiệu bảo đảm mùa màng đầy đủ, tức là sự phục sinh của chúng ta trong vinh quang.
Sức mạnh thần dữ trong thế giới sẽ bị bại hoại và địch thù cuối cùng bị hủy diệt là thần chết.
Cuộc chiến thắng thần chết, chính là sự chiến thắng của Chúa Kitô phục sinh mà chúng ta sẽ được sống lại để cùng với Mẹ chia sẻ sự phục sinh của Người.
Phúc âm: Luca 1:39-56
Thánh truyện Mẹ Maria thăm viếng bà Elizabeth có nhiều điểm rất ý nghĩa cho lễ Đức Mẹ Lên Trời.
Bà Elizabeth ca ngợi Mẹ Maria là diễm phúc hơn hết mọi phụ nữ, là vì bà nhận biết Mẹ là kẻ đã tin mọi điều Chúa truyền phán cho Mẹ sẽ thành hiện.
Lời ca ngợi của bà Elizabeth cũng giống như lời ca khen của một phụ nữ: “Phúc cho lòng dạ cưu mang Ngài và vú Ngài đã bú” (Lc 11:27-28) mà Giáo Hội trích đọc trong Lễ Vọng Mẹ Lên Trời.
Đáp lại lời ngợi khen, chúc phúc của bà Elizabeth, Mẹ Maria tuyên tụng Chúa Toàn Năng đã làm cho Mẹ những điều cao cả, là vì Chúa đoái nhìn đến phận hèn của nữ tỳ của Người. Do đó, Mẹ nhận biết từ đây mọi thế hệ sẽ khen Mẹ có phúc.
Những điều cao cả nhất Chúa đã làm cho Mẹ, là một điều chứng tỏ sự quan phòng của Người:
– Hiền ái đối với những kẻ kính sợ Người,
– Cho no phỉ những người nghèo đói,
– Làm tang tóc bè lũ trí lòng kiêu căng,
– Trung thành lời hứa với các tổ phụ.
Trong dịp thăm viếng bà Elizabeth, Đấng toàn năng đã làm nhiều điều trọng đại cho Mẹ.
Phêrô, CMC
(http://dongcong.net)















17. Địa Chỉ Trên Cao



Bước vào tháng tám, Hội Thánh hướng về Đức Maria – Mẹ diễm phúc được đặc ân Hồn Xác Lên Trời. Mẹ Maria đã được Thiên Chúa tuyển chọn và trang điểm cho muôn vẻ đẹp và ơn phước.
Mẹ là “Ðấng đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Mẹ!” (Lc 1,28). “Ðấng đầy ơn phước” là tên gọi đẹp nhất của Mẹ Maria. Tên gọi tuyệt đẹp Thiên Chúa đã ban cho Đức Mẹ, để chỉ cho biết rằng từ muôn thuở và cho đến muôn đời, Đức Mẹ luôn được yêu thương.Thiên Chúa còn ban tặng hồng ân cao cả. Mẹ về Trời, sống trong hạnh phúc vĩnh cửu mà Thiên Chúa dành để tặng ban cho tất cả những ai thuộc về Chúa nhờ cả một đời sống thánh thiện nơi gian trần.
Trong cuộc hành hương nội tâm hay lữ hành nơi dương thế, người tín hữu tin rằng, có Mẹ Maria luôn cầu bầu che chở.
Thánh Kinh ca tụng Mẹ: “Kìa bà nào xuất hiện như rạng đông, diễm kiều như vầng nguyệt, lộng lẫy tựa thái dương, oai hùng như đạo binh chỉnh tề hàng ngũ” (Dc 6,10); “Có một điềm lớn xuất hiện trên trời: một Phụ nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp vầng trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12,1)… Trong niềm hy vọng sẽ được về Trời với Mẹ, người tín hữu nhìn lên Mẹ “Như một vầng trăng tuyệt vời, muôn ngàn tia sáng lung linh chốn thiên cung”.
Mẹ Maria đã được khải hoàn và bước vào quê hương Thiên Quốc. Mỗi tín hữu hướng về Đức Maria là địa chỉ trên cao.
1. Địa chỉ thiết định cho lòng tin
Ngày 1.11.1950, đúng vào dịp lễ Các Thánh Nam Nữ, Đức Thánh Cha Piô XII long trọng tuyên bố tín điều Đức Maria Hồn Xác Lên Trời: “Thánh Mẫu Thiên Chúa là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Maria Trọn Đời Đồng Trinh, sau khi sống trọn cuộc đời trần thế, đã được triệu hồi cả hồn và xác vào trong vinh quang thiên quốc”. Kể từ lời tuyên bố trong thánh lễ tuyên tín long trọng hôm ấy, mầu nhiệm Đức Maria được Thiên Chúa đưa về trời cả hồn và xác, trở thành chân lý đức tin cho toàn thể Giáo Hội.
Chỉ trong một lời tuyên tín ngắn gọn và quan trọng để tuyên bố một tín điều, Đức Thánh Cha Piô XII đã liệt kê cùng lúc đầy đủ bốn đặc ân vô cùng cao cả, ngoài Đức Maria không ai có được. Đó cũng là bốn chân lý tuyệt đối của lòng tin thuộc về đời sống và nhân đức của Đức Maria mà mỗi người Kitô hữu phải tin:
– Đức Maria làm Mẹ Thiên Chúa.
– Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ không hề mắc tội tổ tông truyền từ ngay khi thành thai trong lòng mẹ.
– Đức Maria Đồng Trinh Trọn Đời, dù mang thai và sinh con, Mẹ vẫn trinh khiết vẹn toàn.
– Đức Maria Hồn Xác Lên Trời, Mẹ được Chúa triệu hồi cả hồn và xác vào trong vinh quang thiên quốc, sống trong hạnh phúc vĩnh cửu.
Toàn thể Dân Chúa reo lên vui mừng: trên cao, Đức Maria chính là địa chỉ của lòng tin Công Giáo.
Thật vậy, Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, nên không thể chịu hậu quả của tội nguyên tổ là phải chết. Mẹ trọn đời Đồng Trinh nên cứ lý cũng trọn đời trinh nguyên tồn tại. Mẹ cung cấp chất liệu xác thân cho Ngôi Hai Thiên Chúa bước xuống đồng hành với con người trong kiếp phận loài người, thì khi Phục Sinh về trời vinh quang, Thiên Chúa cũng giữ gìn cho Mẹ mình thoát khỏi cảnh hư nát thân xác. Mẹ là Đấng Đầy Ơn Phúc, nếu đã được Thiên Chúa yêu thương gìn giữ từ thuở đời đời bằng đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, thì cũng được Thiên Chúa giữ gìn cho đến muôn đời bằng đặc ân Mông Triệu tuyệt diệu hơn mọi người trần.
Mẹ Hồn Xác Lên Trời là một ngôn ngữ mang tính dấu chỉ dễ đọc của một địa chỉ trên cao, vốn đã có sẵn trong mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Kitô.
2. Địa chỉ thiết thân của đời tín hữu
Đức Maria về trời, nhưng Mẹ không về với đôi tay trắng, mà là nặng trĩu vận mệnh của cả Giáo Hội. Đức Kitô là Đầu, mà vinh quang của Đầu tiến đến đâu thì vinh quang của Thân Mình cũng tỏ hiện đến đó, nhưng qua việc Đức Maria về trời, tín hữu nhận thấy rõ hơn vận mệnh đời mình.
Mẹ là người đi đầu cho ta được tiếp bước. Mẹ được đưa về trời là tiền đề cho lòng tin người tín hữu: nếu sống như Mẹ, họ cũng sẽ được về trời với Mẹ. Mẹ như người đi trước cho ta được theo sau. Mẹ được đưa về trời là tiền đề cho lòng tin người tín hữu: nếu sống như Mẹ, họ cũng sẽ được về trời với Mẹ. Mẹ như người đi trước cho ta được theo sau. Mẹ được đưa về trời là khuôn mẫu cho niềm hy vọng: bên kia địa chỉ trần thế này là một địa chỉ trên cao của cuộc sống phong phú đời đời. Mẹ là người đi mau cho ta được níu kéo dắt dìu. Mẹ về trời xác lập một hướng đi cho lòng yêu mến: yêu trung thành hôm nay sẽ được dẫn tới bến bờ yêu thương tinh ròng vĩnh phúc. Thế đó, Đức Maria địa chỉ trên cao thiết thân cho mệnh đời tín hữu.
3. Địa chỉ thiết thực cho mỗi cảnh đời
Mẹ được Lên Trời Hồn Xác là do đặc ân Chúa ban cho Mẹ và đồng thời cũng là do cuộc sống thánh thiện của Mẹ hằng luôn hợp tác với ơn Chúa. Mẹ là người diễm phúc nhất trong mọi người nữ. Mẹ có tên gọi đẹp nhất là “Đấng đầy ơn phúc” vì “Thiên Chúa ở cùng bà”. Mẹ được hết mọi đời khen là diễm phúc chính vì “Đấng toàn năng đã làm cho Mẹ biết bao điều cao cả”. Điều cao cả nhất là làm Mẹ Chúa Cứu Thế. Mẹ là cây sinh quả phúc và nhờ quả phúc ấy mà Mẹ được biết đến và được ca tụng. Mẹ là cây trường sinh mang quả đầu mùa mà Thiên Chúa đã trồng trong vườn địa đàng mới hầu đem lại sự sống đời đời cho mọi thế hệ loài người. Chính vì thế mà Thiên Chúa muốn cho cây mang quả trường sinh ấy được nhân lên trong vườn địa đàng mà Người muốn mở rộng diện tích tới tận cùng trái đất.
Khi tuyên xưng Đức Maria hồn xác về Trời chính là lúc chúng ta phải nỗ lực tổ chức xây dựng đời sống nơi địa chỉ trần thế sao cho phù hợp tương thích với địa chỉ trên cao mà ta tin yêu hy vọng.
“Làm sao có thể về trời thanh nhàn khi cuộc đời này chưa thanh sạch tâm hồn, chưa thanh bạch nếp sống, chưa thanh luyện ý chí, chưa thanh thoát tư duy, chưa thanh cao tình cảm, chưa thanh thản nỗi đau đời và chưa thanh thoả nhiệm vụ người người với nhau? Làm sao có thể về trời thênh thang khi cuộc sống hôm nay vẫn còn bận bịu bỏ neo nơi những khuynh hướng đam mê sùng bái, như là dục vọng buông lơi, lòng tham không đáy hay quyền bính vô độ? Và làm sao có thể về trời với Mẹ khi ta hằng ngày vẫn còn gặp mình trên những lo toan tính toán làm ăn không chỉ dừng lại ở mức “lương thực hằng ngày”, “cầu vừa đủ xài” của Kinh Lạy Cha, mà còn mong có mọi sự nhiều thêm nữa, trừ một sự là có điểm dừng? Muốn có địa chỉ trên cao, hãy tích cực đăng ký xây dựng ngay từ địa chỉ trần thế này” (Gm. Giuse Vũ Duy Thống).
Đức Trinh Nữ lên Trời hiển vinh. Từ đây Đức Mẹ nắm giữ vai trò quan trọng nhất là Nữ Vương trời đất. Từ nay, Đức Mẹ đảm nhận một địa vị cao cả nhất và cũng thật gần bên Thiên Chúa. Kể từ nay, Đức Mẹ trổi vượt trên mọi tạo vật với địa vị làm Mẹ Thiên Chúa và làm Mẹ nhân loại. Đức Maria trở thành địa chỉ trên cao, chúng ta hãy nhìn lên Mẹ. Mẹ dẫn chúng ta tới niềm hy vọng, dẫn tới tương lai tràn ngập niềm vui; Mẹ dạy chúng ta cách thế để thực hiện điều ấy bằng cách đón nhận Con của Ngài là Chúa Giêsu vào trong cuộc sống của chúng ta với lòng tin, bằng cách để lời của Ngài hướng dẫn chúng ta và bằng cách bước theo Ngài mỗi ngày.
Mẹ Lên Trời trong hạnh phúc tuyệt vời, Mẹ trở nên gần gũi với mọi thành viên trong gia đình nhân loại. “Trong Hội Thánh, Đức Trinh Nữ diễm phúc được kêu cầu bằng các tước hiệu là Trạng Sư, Đấng Cứu Giúp, Đấng Phù Hộ, Đấng Trung Gian” (GLCG số 969). Trong cuộc hành hương nội tâm hay lữ hành nơi dương thế, chúng ta tin rằng, có Mẹ Maria luôn cầu bầu che chở; với niềm hy vọng sẽ được về trời với Mẹ, chúng ta nhìn lên Mẹ như địa chỉ của lòng cậy trông, tin yêu phó thác vào tình thương Thiên Chúa.
Lm. Giuse NGUYỄN HỮU AN















18. Muôn Đời Sẽ Khen Rằng Tôi Có Phúc



Vào dịp lễ Đức Mẹ Hồn Xác lên trời, nhiều kitô hữu và khách hành hương đến các nhà thờ hoặc những nơi thánh cung hiến cho Đức Mẹ, ví dụ:
– Ở Pháp, người ta đến Lộ Đức.
– Tại Bồ Đào Nha, người ta đến Fatima.
– Và tại Việt Nam chúng ta, người ta đến trung tâm Thánh Mẫu, Đức Mẹ La Vang.
Người ta đến đây để làm gì? Họ đến đây với mục đích chính là để ngợi khen và tung hô Mẹ Maria của chúng ta. Mẹ Maria của chúng ta là người mẹ mà Sách Khải Huyền mô tả là: “Người phụ nữ mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên 12 ngôi sao”.
Tuy nhiên, “người mẹ này cũng đang mang thai, kêu la chuyển bụng và đau đớn sinh con” và đang phải đương đầu với một con rồng khổng lồ, có bảy đầu, mười sừng, chờ đợi “nuốt lấy đứa trẻ” khi người mẹ này sinh con. Người mẹ và con rồng có một ý nghĩa: Người mẹ ám chỉ Giáo Hội. Con rồng ám chỉ quyền lực đàn áp và bách hại.
Thực vậy, khi Thánh Gioan Tông đồ viết đoạn sách Khải Huyền này, chính là lúc nhiều tín hữu phải chết vì dám tuyên xưng công khai đức tin của mình và kết hợp mật thiết với Chúa Kitô. Tác giả Khải Huyền còn khẳng định rằng chiến thắng chung cuộc là chiến thắng của CON CHIÊN. Cái nhìn này của sách Khải Huyền thâu tóm toàn bộ lịch sử nhân loại và người con gái khiêm nhường Nagiaret được đặt vào trung tâm điểm của lịch sử.
Còn đối với Thánh Phaolô trong bài đọc II, không nói trực tiếp về Đức Maria. Ngài chúc tụng sự sống lại của Chúa Kitô: “Đức Kitô đã từ cõi chết sống lại, là hoa quả đầu mùa của những kẻ yên giấc… Cũng như mọi người đều phải chết nơi Adam thế nào, thì mọi người cũng sẽ được tái sinh như vậy”. Tất cả mọi quyền lực của sự dữ đều bị tiêu diệt. Tất nhiên, Đức Maria là người đầu tiên được hưởng lợi hoa quả đầu mùa sự sống lại của Chúa Kitô. Có nghĩa là Đức Maria là người đầu tiên của nhân loại được cùng Chúa Kitô sống lại và lên trời cả hồn lẫn xác.
Bài Tin mừng hôm nay để lại cho chúng ta câu chuyện Đức Mẹ thăm viếng và lời ngợi khen Magnificat của ngài. Đức Mẹ đến nhà chị họ ngài là Elisabeth đang mang thai Gioan Tẩy Giả. Tất nhiên là Đức Mẹ đến để giúp đỡ chị nhưng cũng là để chia sẻ niềm hồng phúc của Mẹ là mang thai Chúa Giêsu. Và Mẹ đã hát lên tâm tình ngợi khen:
Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
Thần trí tôi hớn hở vui mừng
Vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi
Phận nữ tỳ hèn mọn
Ngài đoái thương nhìn tới
Từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc
Đấng toàn năng đã làm cho tôi
Biết bao điều cao cả
Danh người thật chí thánh chí tôn
Đời nọ tới đời kia
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người…
Mẹ Maria thật diễm phúc. Nếu chúng ta kêu cầu Mẹ, Mẹ sẽ đến giúp chúng ta. Chúa Giêsu luôn luôn ở trong Mẹ và bên cạnh chúng ta.
Tất nhiên, chúng ta không phải là Elisabeth, và Đức Maria không phải là người họ hàng của chúng ta theo kiểu dòng tộc nhân loại. Nhưng Đức Mẹ còn hơn thế, vì Ngài là Mẹ của chúng ta. Chúa Giêsu muốn mẹ như vậy khi mẹ đứng dưới chân thập giá. Chúa đã nói với Gioan: “Này là Mẹ con”. Và Chúa cũng nói với Đức Mẹ: “Này là con Mẹ”. Từ giờ phút đó, tông đồ Gioan đã đón nhận Mẹ Maria về nhà mình. Thánh Gioan đại diện cho toàn thể nhân loại chúng ta đón nhận Đức Maria làm mẹ. Chúng ta có thể luôn luôn cậy dựa vào Đức Mẹ.
– Hôm nay chúng ta tạ ơn Thiên Chúa vì món quà vô giá mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta đó là Đức Maria làm mẹ chúng ta.
– Hôm nay chúng ta biểu dương Đức Maria là người đầu tiên của những người tin đón nhận LỜI CHÚA. Mẹ mở ra cho chúng ta con đường nối kết cuộc sống của chúng ta với cuộc sống của Chúa Giêsu.
– Ngày lễ hôm nay mời gọi chúng ta cũng trở nên thánh. Nếu chúng ta muốn lên trời chúng ta cũng phải trở nên thánh, vì ở trên trời chỉ có những người thánh.
Vì Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở nên thánh thiện như Ngài: “Anh em hãy thánh thiện như Cha anh em ở trên trời là Đấng trọn lành”. Nên thánh chẳng có gì là quá cao vời và không thể. Nên nhớ rằng nên thánh không phải là do sức mạnh cá nhân và nhân đức của chúng ta. Nên thánh trước hết phải cậy dựa vào lòng từ bi nhân hậu và sự tha thứ của Thiên Chúa. Muốn trở nên thánh thiện, không có con đường nào khác hơn là đón nhận tình yêu của Thiên Chúa và để cho Ngài biến đổi.
Lm. Gioan Đặng Văn Nghĩa















19. Mẹ Lên Trời Là Niềm Vinh Hạnh Cho Mọi Tín Hữu



Hôm nay toàn thể Giáo Hội hân hoan, long trọng mừng lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Đây là một trong những lễ quan trọng về Mẹ Maria.
Lễ này được chính thức bắt đầu mừng kính cách công khai rộng rãi trên toàn thể Giáo Hội qua tín điều Đức Maria hồn xác lên trời vào ngày 1-11-1950 của Đức Thánh Cha Piô XII. Điểm chính yếu trong Tín điều nêu rõ: “Thánh Mẫu Thiên Chúa là Đức Maria Vô nhiễm trọn đời đồng trinh, sau khi đã đi trọn cuộc đời trần thế, được triệu vời cả hồn lẫn xác trong vinh quang thiên quốc”.
Giờ đây, một lần nữa, chúng ta cùng nhau đào sâu về ý nghĩa này cách đặc biệt, để thêm niềm xác tín, yêu mến và nhất là qua thánh lễ này, mỗi người hãy ái mộ những sự trên trời.
1. Kinh Thánh tiên trưng về biến cố đặc biệt này
Sự kiện Đức Maria về trời là một điều vĩ đại. Biến cố này cho thấy Thiên Chúa đã ân thưởng Mẹ cách trọn vẹn trong vinh quang Thiên Quốc. Nó đánh dấu một bước ngoặc mới trong công trình cứu chuộc của Thiên Chúa.
Khi cất nhắc cả hồn xác Mẹ về trời trong vinh quang, Thiên Chúa muốn đề cao vai trò của Mẹ như là ưu phẩm có một không hai trong thế giới loài người. Cũng từ đó, khơi gợi lên lòng kính yêu của con cái trần gian về Mẹ mình như một kiệt tác tuyệt vời trong chương trình và kế hoạch của Thiên Chúa.
Chính vì lẽ đó, Kinh Thánh đã nhiều lần tiên trưng về biến cố vĩ đại này:
Trong sách Sáng Thế, ngay sau khi Evà phạm tội bất tuân Thiên Chúa, Thiên Chúa đã hứa ban Đấng Cứu Thế được sinh ra bởi Người Nữ Đầy Ơn Phúc (x. St 3,15). Lời xác tín này được lập lại khi sứ thần Gabriel đến truyền tin và kính chào Mẹ bằng ngôn từ hết sức kính trọng và suy tôn: kính chào Bà đầy ơn phúc (x. Lc 1,28).
Rõ nét hơn cả, đó là sách Khải Huyền, thánh Gioan viết: “Còn Người Phụ Nữ thì trốn vào sa mạc, tại đó Thiên Chúa đã dọn sẵn cho Bà một chỗ… Bà được ban cho đôi cánh Đại Bàng, để bay vào sa mạc, lên Ngai của Ngài… Bà đã tiến vào sa mạc, ở đó đã sẵn một chỗ Thiên Chúa dọn sẵn cho bà” (x. Kh 12,5-14).
Trên đây là một số hình ảnh minh họa về Mẹ Maria như là một Đấng Đầy Ơn Phúc đã được Thiên Chúa yêu thương cách đặc biệt.
Còn trong truyền thống Giáo Hội, các thánh đã ca ngợi Mẹ và rất vui mừng, hãnh diện khi Thiên Chúa trọng thưởng Mẹ một cách đặc biệt.
2. Các Giáo Phụ nói về biến cố trọng đại này
Nơi các thánh Giáo Phụ, việc tin nhận Mẹ Maria vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác được các ngài tuyên tín như là một điều đương nhiên, bởi vì: “Mẹ đồng trinh vẹn tuyền. Mẹ đã cưu mang Con Thiên Chúa chí thánh bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, nên thân xác Mẹ không thể bị hư nát như hậu quả của cái chết thân xác mang tội Tổ Tông và tội riêng”.
Thánh Gioan Đamscênô thì quả quyết: “Người đã gìn giữ nguyên vẹn được sự Đồng Trinh sau khi sinh thì nhất định giữ được sự nguyên vẹn Thân Xác sau khi chết. Người đã cưu mang trong lòng Đấng Tạo Hóa, Con mình, thì cũng phải ở bên tòa Con Mẹ. Thiên Chúa Cha đã đính hôn Mẹ là Hiền Thê thì nhất định phải được ở phòng loan trên Trời. Mẹ ngắm nhìn Con Mẹ sinh ra và trên Thánh Giá, thì phải được chiêm ngắm Con Mẹ trên Trời”.
Còn thánh Giêmanô Constantinô thì nói: “Nếu thân xác Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, không bị hư hoại và được đưa về Trời, thì điều đó không những xứng hợp với thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa, mà còn xứng hợp với thân xác đồng trinh rất thánh của Mẹ nữa… Theo Kinh Thánh, Mẹ kiều diễm; thân xác đồng trinh của Mẹ hoàn toàn thánh thiện, hoàn toàn thanh khiết và đích thực là nơi Thiên Chúa ngự trị. Cũng vì thế, thân xác ấy không thể tan thành bụi đất”.
Với thánh Germanô thì cảm nghiệm sâu xa khi tuyên tín: “Thân xác Mẹ diễm phúc chí thánh trong trắng đến nỗi không thể trở về bụi đất được nữa”.
Ngoài ra, việc Mẹ Maria được rước lên trời cả hồn lẫn xác, chúng ta cũng nhận thấy đây là điều hiển nhiên, vì Mẹ đã cùng chịu đau khổ với Đức Giêsu con của Mẹ, thì không có lý do gì Mẹ lại không được vinh quang với con của Mẹ trên Thiên Quốc, và thân xác của Mẹ không thể bị hủy hoại khi chính thân xác này đã cưu mang và sinh hạ cũng như nuôi dưỡng Đấng Hằng Sống.
Vì thế, chúng ta không lạ gì khi thánh Tôma Aquinô lý luận rằng: “Yêu ai là muốn sự lành cho kẻ ấy. Thiên Chúa yêu thương Đức Mẹ hơn mọi tạo vật, không lẽ Ngài từ chối việc Mông Triệu đáng công thưởng cho kẻ Ngài yêu sao?” (Thomas III, 17,2).
Với tất cả những lý chứng trên, chúng ta có thể quả quyết rằng: “Với tư cách là Mẹ Thiên Chúa, là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, là hoa quả tốt nhất của Ơn Cứu Độ, là thành quả vĩ đại nhất của Ơn Thánh, là kì công tuyệt vời của Thiên Chúa, hẳn Mẹ phải xứng đáng được hưởng ơn hồn xác lên trời xưa Mẹ đã cứu giúp gia chủ trong tiệc cưới tại Canan.”
Thiết nghĩ, nhờ gương sáng của Mẹ Maria trong việc sống đức tin, cậy, mến… sẽ là điểm cuốn hút đời sống nội tâm mỗi người, để mai ngày, chúng ta cũng được chung hưởng phúc vinh quang trên Nước Trời.
Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con người Mẹ tuyệt vời là Đức Maria. Xin cho chúng con biết noi gương Mẹ, sống trung thành với Lời Chúa dạy, để sau cuộc đời tại thế này, chúng con được về vui sống bên Mẹ trong vinh quang của Thiên Chúa. Amen.
Jos. Vinc. Ngọc Biển















20. Mẹ Về Trời, Hy Vọng Và Hạnh Phúc Của Chúng Ta



“Kính chào trinh nữ đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng trinh nữ!” (Lc 1,28). Lời chào trên đây của Sứ Thần Gabriel được chúng ta không ngớt dâng lên Đức Mẹ nhiều lần trong ngày. Hôm nay, chúng ta lặp lại với niềm vui khôn tả và chứa chan niềm hy vọng trong ngày lễ Đức Maria hồn xác về Trời, một tương lai tuyệt vời không ngừng thu hút người tín hữu nói riêng và nhân loại nói chung. “Ðấng đầy ơn phúc” là tên mà Thiên Chúa qua miệng Sứ Thần muốn gọi Đức Trinh Nữ Maria.
“Ðầy ơn phúc” là phúc lành thiêng liêng Thiên Chúa gửi cho Mẹ! Mẹ được chúc phúc hơn các người phụ nữ (x. Lc 1:42)! Chúa Cha đã chọn Mẹ trong Đức Giêsu Kitô từ trước khi tạo thành vũ trụ, ngõ hầu Mẹ trở nên thánh thiện và tinh tuyền trước nhan thánh Chúa.
Chúa Giêsu Kitô là chồi non mọc lên để đạp dập đầu con rắn xưa, theo sách Sáng Thế (x. St 3,15); là Con Chiên không tì vết (x. Xh 12,5; 1P 1,19) tự hiến tế để cứu chuộc con người. Sau khi hạ mình xuống trong cuộc thương khó, Người đã sống lại vinh quang lên Trời ngự bên hữu Thiên Chúa đến muốn đời.
Theo lời thánh Lêo Cả, khi Vị Thủ Lãnh của chúng ta bước vào thiên đàng và ở trên đó, “vinh quang của Đầu” đã trở thành “niềm hy vọng cho thân xác” (x. Sermo Ascensione Domini). Chúa Giêsu đã vĩnh viễn bước vào thiên đàng, “Người là Đầu và là Trưởng Tử giữa đàn em đông đúc” (Rm 8, 29). Vì bản tính của chúng ta là ở trong Thiên Chúa và ở trong Đức Giêsu Kitô, nên vì loài người chúng ta (thân xác), Chúa Giêsu là (Đầu) hằng sống đến muôn thủơ muôn đời hằng cầu thay nguyện giúp cho chúng ta trước mặt Chúa Cha (x. Dt 7,25).
Đức Giêsu, Vị Thủ Lãnh của chúng ta đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, hiển vinh về Trời, Người cũng rước Đức Maria Mẹ yêu dấu của Người về Trời cả hồn lẫn xác. Từ trên cao vinh hiển, Người gửi cho Giáo hội một sứ điệp hy vọng và mời gọi hướng đến sự thánh thiện trên Trời nơi Người đang ngự bên hữu Thiên Chúa cùng với Mẹ Người được ân thưởng. Trong chiến thắng của Adam mới, đó cũng là của Evà mới, mẹ của những người đã được cứu chuộc. Do đó Đức Maria được ân thưởng về Trời là một dấu chỉ niềm hy vọng cho tất cả chúng sinh, những người đã chiến thắng Sa-tan nhờ máu của Con Chiên (x. Kh 12,11).
Hôm nay cùng với toàn thể Giáo hội, chúng ta long trọng mừng Lễ Đức Maria về Trời trong niềm tin và hy vọng chứa chan như thánh Bernarđô nói: “Đức Maria Nữ Trinh vinh hiển về Trời đã gia tăng hạnh phúc và niềm hy vọng nơi chúng ta”. Ngài thêm: “Đức Maria, Phần Tử ưu tú trên địa cầu chúng ta đang sống được đưa từ đất về trời, là một món quà vô cùng cao quý, sự vinh thăng ấy là cuộc trao đổi kỳ diệu giữa đất với trời, giữa con người trần thế với thế giới thần linh. Mẹ là hoa quả tuyệt vời của trái đất đã được đưa lên cao, để từ trên nơi cao xanh ấy ơn sủng lại tuôn đổ chan hòa xuống trên mặt đất, nghĩa là chính từ nơi Đức Maria diễm phúc được rước lên đó, đến lượt mình, Mẹ lôi kéo muôn vàn ân sủng xuống cho nhân loại”.
Ân sủng Mẹ chuyển xuống chính là Lời, Lời mà Mẹ đã đón nhận và cẩn thận ghi nhớ cũng như cưu mang trong lòng. Khi cưu mang Lời trong lòng, Mẹ cũng cưu mang Sự Sống của chúng ta: “Đức Maria vội vã lên đường, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Êlisabét” (Lc 1,39-40). Sự hiện diện của Mẹ Maria làm cho thế giới vui mừng như bà Êlisabét nói: “Vì khi vừa nghe tiếng em chào, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng tôi” (Lc 1,44).
Mẹ vui mừng, Mẹ cũng làm cho thế giới mừng vui, niềm vui của Mẹ trở thành bài thánh ca muôn thủa: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa Đấng Cứu Độ tôi!” (Lc 1,46-47). Thật là một quả phúc tuyệt vời trên cõi trời cao ban xuống cho nhân loại. Bài Ca Tạ Ơn của Đức Maria đã trở thành Lời Thiên Chúa. Trong bài ca ấy, chúng ta tìm ra con đường để hiểu biết con người và Thiên Chúa như thế nào, và trần thế cũng như thiên đàng ra làm sao. Tất cả hợp nhất cùng nhau để có thể hành động như Mẹ, trở nên món quà Thiên Chúa tặng ban cho người khác.
Mừng kính Đức Trinh Nữ Maria hồn xác về trời, chúng ta không chỉ mừng vì Thiên Chúa đã làm cho Mẹ những điều trọng đại, mà còn mừng vì tương lai của mỗi chúng ta. Thánh Phaolô nói: “Anh em khỏi phải phiền sầu như những người khác, những kẻ không có hy vọng” (1 Tx 4,13). Chúng ta cố gắng hiểu để sống sao cho xứng danh là người hy vọng.
Vậy mỗi người chúng ta hãy sống hy vọng, hãy làm ngày lại ngày, không buông tay, mặc cho những ngang trái của cuộc đời. Phúc cho chúng ta, nếu chúng ta can đảm chiến đấu mỗi sáng khi thức dậy cho cuộc sống đáng sống của mọi người trên trái đất. Nếu như khi xưa Mẹ đã đến với bà Êlisabet, làm cho cả gia đình bà vui mừng, thì ngày hôm nay Mẹ vẫn đến với chúng ta. Mẹ mở rộng vòng tay nói với chúng ta rằng: hỡi con, hãy tin tưởng và hy vọng, Chúa đã dọn chỗ cho con.
Nữ Vương linh hồn và xác lên Trời, cầu cho chúng con. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ















21. Thiên Chúa Chiến Thắng Con Rồng Đỏ
(Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)



Phụng vụ của ngày đại lễ Mẹ Lên Trời giới thiệu với chúng ta hai hình ảnh nổi bật và đối lập nhau, được Sách Khải Huyền mô tả, đó là hình ảnh “con rồng đỏ” và “người phụ nữ”. Hai hình ảnh này nói với chúng ta điều gì? Chúng ta cần khám phá ý nghĩa của chúng trong thánh lễ này.
1. Hình ảnh con rồng đỏ
Trước hết là hình ảnh con rồng đỏ. Đối với văn hóa Việt Nam, con rồng là một linh vật bậc nhất trong bốn con vật quan trọng: long, ly, quy, phượng. Rồng là biểu tượng của sức mạnh, của sự cao trọng và phú quý, đến từ thần linh. Người Việt tự coi mình là “con rồng, cháu tiên”.
Nhưng đối với Kinh Thánh, rồng là một quái vật, là sức mạnh của Ma quỷ. Sách Khải Huyền mô tả sự xuất hiện của nó như một sức mạnh khủng khiếp, ích kỷ vô cùng và bạo lực man rợ (cf. Kh 11,12.1-6a). Ở đây, thánh Gioan muốn ám chỉ tới những quyền lực thuộc hoàng đế La mã, từ Nêron (37-68) đến Đômitianô (81-96) trong những thế kỷ đầu. Đó là những thế lực chống Kitô giáo và bách hại Giáo Hội với một sức mạnh vô tận. Đối diện với thế lực đó, Đức Tin và Giáo Hội được ví như một người phụ nữ “chân yếu tay mềm”, không vũ khí, và xem ra không có khả năng để sống sót, lại càng không có khả năng để chiến thắng.
Thế nhưng, tác giả sách Khải Huyền cho biết số phận cuối cùng của con rồng đỏ là thất bại và bị tiêu vong. “Người phụ nữ yếu ớt” đó đã chiến thắng, không bằng sức mạnh của quyền lực, của quân sự, của súng đạn, của ích kỷ và thù hận, nhưng bằng tình yêu, sức mạnh và quyền năng Thiên Chúa. Quả thế, đế quốc La Mã “trở lại” và đón nhận Đức Tin Kitô giáo. Nói như nhà văn Henryk Sienkiewicz trong cuốn tiểu thuyết lừng danh Quo vadis: Các hoàng đế Rôma lần lượt ngã xuống và bị quên lãng, còn Phêrô và Giáo hội đứng lên và tồn tại mãi với thế giới.
Theo một giải thích khác, “con rồng đỏ” cũng là hình ảnh của các thể chế độc độc tài duy vật chất, phi nhân bản và duy quyền lực trong các thế hệ loài người. Chẳng hạn như chế độc tài Đức quốc xã và chế độ độc tài cộng sản Stalin ở Nga, Trung Quốc và Việt nam. Một thời, các thể chế này có trong tay tất cả mọi quyền lực, khí giới và sức mạnh. Chúng xâm nhập khắp mọi nơi, đến tận hang cùng ngõ hẻm. Sống dưới sự thống trị của các thể chế đó, thật là khó khăn để nghĩ tới Thiên Chúa và giữ các giới răn của Người. Nhưng lịch sử Châu Âu chứng kiến chủ nghĩa cộng sản tan rã, bức tường Bá linh sụp đổ, “nước Nga trở lại và Trái Tim Mẹ toàn thắng”. Thiên Chúa chiến thắng sự ác. Tình yêu và sự thật mạnh hơn hận thù, bạo lực và ích kỷ của con người!
2. Hình ảnh người phụ nữ
Hình ảnh thứ hai lôi kéo sự chú ý của chúng ta đó là hình ảnh của “người phụ nữ mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 11,19a). Hình ảnh này có nhiều ý nghĩa khác nhau.
Theo các nhà chú giải kinh thánh, trước hết đó là hình ảnh về Đức Maria, Mẹ mặc áo mặt trời, có nghĩa là Mẹ mặc áo của Thiên Chúa, hoàn toàn của Thiên Chúa. Mẹ sống trong Thiên Chúa, hoàn toàn được bao phủ và thấm nhuần bởi ánh sáng Thiên Chúa. “Đầu đội triều thiên 12 ngôi sao” có nghĩa là Mẹ được bao quanh bởi mười hai chi tộc Israel, bởi tất cả Dân Thiên Chúa, bởi tất cả sự hiệp thông của các thánh. Và “chân đạp mặt trăng”, “trăng” thuộc về đêm tối, hình ảnh của sự chết và sự diệt vong, diễn tả Mẹ đã chiến thắng sự chết và sự diệt vong. Như thế, Mẹ hoàn toàn được mặc áo sự sống, được lên trời cả hồn cả xác trong vinh quang của Thiên Chúa. Đây là một tín điều được định tín bởi Đức Giáo Hoàng Piô XII năm 1950.
Ý nghĩa thứ hai của hình ảnh “người phụ nữ” đó là biểu tượng Giáo Hội, một Giáo Hội đang lữ hành trên trần thế, một Giáo Hội có sứ mạng như người phụ nữ, một lần nữa, cưu mang và sinh hạ Chúa Kitô cho thế giới trong sự chuyển dạ và đau đớn, một Giáo Hội đau khổ và luôn luôn bị bách hại bởi con rồng đỏ. Nhưng Giáo Hội đó được nuôi dưỡng và sống nhờ Thiên Chúa qua Bí Tích Thánh Thể, nhờ sức mạnh của lời cầu nguyện và hiệp thông với nhau. Sự hiện diện của Thiên Chúa và lời cầu bầu của Đức Maria là bảo chứng để chống lại mọi thứ độc tài, hận thù và ích kỷ của con người.
Như thế, lễ Mẹ Lên Trời đưa chúng ta tới chân trời hy vọng và mời gọi chúng ta can đảm, đừng sợ và tin tưởng vào tương lai vì cuối cùng Thiên Chúa sẽ chiến thắng con rồng đỏ. Ơn cứu độ sẽ được thực hiện. Đức tin là sức mạnh của thế giới! Chúng ta hãy xác tín như Mẹ: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả. Danh Người thật chí thánh chí tôn! Đời nọ tới đời kia Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường”. Chúng ta hãy bắt chước Mẹ, sống hoàn toàn cho Thiên Chúa và cho tha nhân, bằng sự từ bỏ và quên mình phục vụ anh em. Đó là con đường đưa chúng ta tới hưởng hạnh phúc đích thực với Mẹ trên trời. Và cùng với Bà Êlisabet, chúng ta hãy dâng lời tung hô: Mẹ được chúc phúc giữa những người phụ nữ. Lạy Mẹ Maria, xin cầu cho chúng con là kẻ có tội khi này và trong giờ lâm tử, Amen!















22. Thăm Viếng Và Bài Ca Ngợi Khen



VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Cuộc gặp gỡ giữa hai phụ nữ
Trong câu chuyện Truyền tin, Thánh Luca vừa trình bày Đức Maria như một Kitô hữu tiên khởi khi nhiệt thành đáp trả lời Thiên Chúa, giờ đây, ông lại cho chúng ta thấy Maria chỗi dậy lên đường, hình ảnh của Giáo Hội ra đi đem Tin Mừng Đức Giêsu Kitô cho mọi người.
Sứ thần Chúa kết luận: “Kìa Êlisabét, chị họ của bà, tuy già rồi mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm muộn…”. Biết được tin này, Maria “vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa”, cũng như chẳng bao lâu sau, các mục đồng vội vã đi xem chuyện gì đã xảy ra theo như lời sứ thần đã báo. Theo cách diễn tả rất gợi hình của L.Legrand, chúng ta đi từ “người tín hữu nhận lãnh Lời (TC) đến người “nữ tỳ” hành động hay đúng hơn qua người nữ tỳ đó, Lời (TC) hành động” (“Truyền tin cho Maria”, Cerf, 1981, Lectio divina số 106,tr-222). Trong Maria Lời (TC) đã bắt đầu lên đường, và cuộc hành trình này sẽ dẫn Ngài tới mọi bờ cõi trái đất.
Tại sao Maria đến nhà chị họ của mình? có lẽ là vì bác ái: để giúp Êlisabét? Thánh Luca không thoả mãn tính tò mò của chúng ta vì khi kể chuyện này, điều ngài quan tâm không phải là một giai thoại, nhưng là sự mặc khải nhân dịp hai người mẹ tương lai gặp nhau. Về điều này L.Legrand đã nhận xét rất đúng: “Khi đọc chính bản văn hình như chúng ta có thể tin rằng Maria chỉ đến đó để nhận lời chào của Êlisabét và hát bài ca ngợi khen” (Sđd, tr.219).
2. Và cuộc gặp gỡ giữa hai đứa con họ đang cưu mang
Khi vào nhà Giacaria, Maria truyền đến cho chị họ mình lời chào bà đã nhận từ sứ thần. Lời chào của maria là dấu nối cho tiến trình. Khi lời chào này vang lên bên tai Êlisabét, con trẻ trong lòng bà nhảy mừng ngay trước khi bà mở miệng; theo tiếng Hylạp, từ “nhảy mừng” có nghĩa là: “Nhảy bật lên”, “nhảy lên”, “nhảy múa”.
Như thiên thần đã báo tin cho Giacaria, Gioan được “đầy Thánh thần ngay trước khi sinh” (1,15) nên Gioan nhận ra thời buổi mới đã ló dạng và thấy trước sứ mạng của mình. Bởi đó, ông đã nói tiên tri về sự xuất hiện của Đấng muôn người trông đợi, không phải bằng lời nói mà bằng cách nhảy mừng.
Được “đầy Thánh Thần” nên Êlisabét hiểu ý nghĩa của việc con bà nhảy mừng trong lòng và cả ý nghĩa của cuộc gặp gỡ mà bà đang trải qua.
Khi cất tiếng thán phục, Êlisabét nhìn nhận Maria và “đứa con trong lòng” được Thiên Chúa chúc phúc.
Rồi, Êlisabét tuyên xưng đức tin khi công bố đứa con của cô em họ chính là Đấng Thánh Tv109,1 đã loan báo: là Đức Kitô, và bà chào Maria tước hiệu “Mẹ Chúa tôi”.
Cuối cùng sau khi đã biểu dương chức vị là Mẹ, bà ca tụng lòng tin của Maria bằng công thức chúc phúc: “Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”; đây là mối phúc đầu tiên của Tin Mừng, mối phúc Thanh Luca dành cho một tên khác của Maria: “Người đã tin” (Cahiers- Evangile, số 77,tr.45).
3. Cuộc gặp gỡ để Maria ca tụng Thiên Chúa thực hiện những lời đã hứa
Bài ca “Ngợi khen” là một suy niệm chứa chan tình cảm của Maria về tất cả những gì Thiên Chúa vừa thực hiện nơi Mẹ. Nó thực sự đánh dấu: “theo lối văn kể chuyện… một câu hỏi khiến ai đang hành động cũng dừng lại trong giây lát, nó giống như đoạn hát sôlô trong một vở nhạc kịch opéra, hoặc đoạn ca đoàn hát xen vào trong một vở bi kịch cổ điển. Từ thời xưa, người ta đã lưu ý rằng câu chuyện sẽ gắn bó hợp lý hơn nếu đọc thẳng từ câu 45 qua câu 56. Rất có thể bài ca này có nguồn gốc riêng không có trong câu chuyện nguyên thuỷ, nhưng đã được thêm vào sau này. Khi đặt bài ca trên miệng của Maria, Lu ca cho chúng ta thấy rằng hình ảnh đẹp về Mẹ”. (“Cahiers- Evangile”, số 77,tr.45).
Các câu 45 và 47 chi phối tất cả phần còn lại của bài ca: đó là một bài ca tạ ơn.
Liền sau đó là lý do tạ ơn:
a/ Trước hết, vì những ký công Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ: Thiên Chúa đã can thiệp làm cho Mẹ trở nên “Mẹ Chúa”. Ở đây Luca diễn tả văn bản đầy cảm hứng này qua sự đối lập đầy lòng khiêm tốn của người “nữ tỳ” và sự cao cả của Đấng “quyền uy” đã thực hiện những điều kỳ diệu.
b/ Nhưng cũng vì những kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện nơi dân nghèo. Và ở đây, bài ca nhẹ nhàng tự nhiên chuyển từ cá nhân (Maria) tới tập thể (Israel); từ sự nghèo khó của Maria (1,48) tới dân nghèo (1,52); từ người nữ tỳ (1,48) tới Israel tôi tớ (1,54) (“Cahiers- Evangile”, số 77,tr.47).
Những kì công này là gì? Đó là sự sáng tạo, là phép lạ của cuộc xuất hành, là Lề luật, nhưng trên hết đó là kỳ công của đã hoàn tất nơi Maria: sự Giáng Sinh của Con Thiên Chúa, nơi Người Con này Thiên Chúa hoàn tất mọi lời đã hứa.
Đón nhận Chúa Cứu Thế đến với lòng tin tưởng không phải là một giáo thuyết, nhưng là một sức mạch chuyển lay nhằm thay đổi và cứu độ thế giới. Ở đây, Maria xuất hiện như: “người phát ngôn về sự đảo ngược tình thế. Sự đảo ngược này là một phần trọng yếu của Tin Mừng”. (Cahiers- Evangile, số 77,tr.48).















23. Mẹ Lên Trời



Ngày 1.11.1950 Đức Thánh cha Piô XII đã long trọng công bố tín điều Đức Mẹ hồn xác lên trời như sau: “Thánh Mẫu Thiên Chúa là Đức Maria Vô nhiêm trọn đời đồng trinh, sau khi đã đi trọn cuộc đời trần thế, được triệu vời cả hồn lẫn xác trong vinh quang thiên quốc”. Đặc ân hồn xác lên trời vừa như hoa trái vinh quang của trọn vẹn cuộc đời hoàn toàn thuộc về Chúa, vừa là kết thúc và bao gồm mọi đặc ân Thiên Chúa đã ban cho Mẹ Maria. Khi tuyên dương công trạng đầy tràn của Mẹ Maria bằng việc triệu vời Mẹ về trời, Thiên Chúa đã biểu dương chính hồng ân Chúa ban cho Mẹ. Và như vậy Thiên Chúa muốn đề cao Mẹ Maria như thành quả tuyệt vời có một không hai của ân sủng, để mọi người ở mọi thời ngợi khen Mẹ diễm phúc, và nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng chí thánh chí tôn đã làm cho Mẹ biết bao điều cao cả.
1. “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?”
Bà Êlisabét được đầy tràn Thánh Thần đã lớn tiếng tuyên xưng thiên chức Thánh Mẫu của Mẹ Maria. Thiên chức Thánh Mẫu cao cả giờ đây đang bày tỏ ra nơi chính con người thiếu nữ Maria bằng xương bằng thịt, bình thường, giản dị và khiêm nhường thẳm sâu. Chỉ bằng việc có mặt khi đến thăm và chỉ bằng một lời chào đơn sơ của Đức Maria, bà Êlisabét lại nhận ra thiên chức Thánh Mẫu của Mẹ. Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa bằng cả hồn cả xác của mình.
1.1 Mẹ Thiên Chúa bằng tâm hồn
Trong khi Chúa Giêsu đang giảng thì có một người phụ nữ đã lên tiếng nói với Chúa: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm” (Lc 11,27). Thuộc giới phụ nữ và trong tư cách làm mẹ. người phụ nữ ở đây cảm phục và yêu mến Chúa Giêsu bao nhiêu, thì lại muốn đề cao và hết lòng ca ngợi hồng phúc của người mẹ đã sinh ra Chúa bấy nhiêu. Đó là cái nhìn thường tình. Nhưng Chúa Giêsu cho thấy cần phải vượt lên trên quan niệm tự nhiên mới có thể đánh giá được hồng phúc làm Mẹ của Đức Maria, và hồng phúc đó trước hết và cốt yếu là ở trong tâm hồn: “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa”.
Một lần kia Mẹ Maria và anh em họ hàng đến thăm Chúa Giêsu và khi nghe biết thế, Chúa Giêsu đã đề cao Mẹ Maria trong chiều sâu thẳm của thiên chức Thánh Mẫu: “Mẹ tôi và anh em tôi, chinh là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8,2) Như vậy căn bản thiên chức Thánh Mẫu của Đức Maria, không chỉ do ngài được làm Mẹ Đức Giêsu – Thiên Chúa làm người – tại tâm hồn của Mẹ đã hoàn toàn mở ra cho lời Chúa, và lời Chúa thành sự sống và lẽ sống của Mẹ. Mẹ Maria đã cưu mang lời Chúa trong tâm hồn trước khi cưu mang Lời trong thân xác. Thánh Augustinô còn nhận định tư cách môn đệ nơi Đức Maria (Mẹ trong tâm hồn) trổi vượt hơn tư cách làm mẹ nơi Đức Maria (Mẹ trong thân xác).
1.2. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa
Khi Lời Thiên Chúa đã đi vào và thấm nhuần trọn vẹn tâm hồn Đức Maria tới mức sung mãn, thì Lời Thiên Chúa đi vào trong thân xác vô nhiễm của Đức Maria. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa theo một nghĩa trọn vẹn (cả hồn xác.). “Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria, và đã làm người” Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa bằng con người toàn diện, cả hồn lẫn xác. Có nghĩa là hồn xác Mẹ vốn đã thuộc về Chúa, dành riêng cho một mình Chúa. Và như vậy thân xác Mẹ không phải hư nát là dấu thuộc về trần gian cát bụi. Mẹ xứng đáng lên trời cả hồn xác. Đó là điều đã được tiền định do ý định khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa khi tuyển chọn Mẹ làm Mẹ của Ngôi Lời Nhập Thể.
2. “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới”
Trong ngày Truyền tin, Đức Maria đã thưa lời xin vâng với Thiên Chúa, một lời xin vâng toàn vẹn và tuyệt hảo, bao gồm cả quả khứ hiện tại và tương lai. Mẹ đã không ngừng “xin vâng” với mọi lời Thiên Chúa đến với Mẹ từ trước đến nay. Và giờ đây tiếng xin vâng thét ra ngoài miệng là âm vang và kết quả của tâm hồn Mẹ đã hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa. “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa” là một lời xác định rằng: từ trước đến nay và mãi mãi sau này, tôi là nữ tỳ của Chúa, hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa. Hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa cả hồn xác trong mọi lúc, là một cách giải thích đặc ân Vô nhiễm nguyên tội và trọn đời đồng trinh của Mẹ Maria.
2.1 Mẹ Maria Vô Nhiễm nguyên tội
Vô nhiễm nguyên tội là không mắc tội nguyên tổ. Có nghĩa là ngay từ giây phút đầu tiên thụ thai trong lòng thân mẫu, con người (hồn xác) của Mẹ hoàn toàn đóng kín, không một kẻ hở nào cho tội lỗi và cho tất cả những gì thuộc trần gian đã bị tội lỗi làm hư thối. Mẹ cũng hoàn toàn đóng kín với chính bản thân của mình, cái “tôi” của mình. Đóng kín với tất cả, để Mẹ có thể trọn vẹn mở ra cho Thiên Chúa và chỉ một mình Thiên Chúa mà thôi. Đó là đặc ân Vô Nhiễm của Mẹ Maria. Với đặc ân này, Mẹ Maria dù vẫn sống cuộc đời trần thế của một con người, Mẹ có thể quy hướng tất cả và trọn vẹn từng chi tiết của bản thân và từng giây phút của đời sống về cho Chúa. Nói cách khác, đặc ân Vô Nhiễm ban cho Mẹ Maria có khả năng không ngừng thuộc về Chúa cả hồn lẫn xác. Mẹ xứng đáng lên trời cả hồn xác để mãi mãi thuộc về Chúa.
2.2 Mẹ Maria trọn đời đồng trinh
Hội Thánh tuyên xưng Mẹ Maria trọn đời đồng trinh trước khi, đang khi và sau khi sinh Chúa Giêsu. Và Phụng Vụ đã giải thích như sau: “Khi Người giáng sinh, đức đồng trinh của Thánh Mẫu đã không vì thế mà bị tổn thương, nhưng đã được thánh hiến” (Lời nguyện tiến lễ, lễ chung Đức Mẹ). Đức đồng trinh của Mẹ rất thánh không thể được nhìn theo thường tình mà phải được nhìn theo đức tin, nghĩa là như ý định nhiệm mầu và khôn ngoan của Thiên Chúa. Thiên Chúa ban cho Mẹ ơn đồng trinh trọn đời có mục đích là để con người toàn vẹn của Mẹ, cả hồn cả xác, hoàn toàn thuộc về Chúa, không sứt mẻ, không biến chất, trái tại luôn luôn nguyên tuyền và mãi mãi toàn vẹn. Do đó khi Con Một Thiên Chúa được thụ thai và được sinh ra bởi Mẹ, thì không những không làm tổn thương hồn xác nguyên tuyền của Mẹ, mà trái tại còn làm cho hồn xác thuộc về Chúa hơn nữa. Thuộc về Chúa trọn vẹn hồn xác nguyên tuyền và suốt cả cuộc đời từng giây từng phút như vậy, nên việc Mẹ được Chúa đưa lên trời cả hồn cả xác là kết quả đương nhiên và hợp tình hợp lý.
Kết luận
Con đường Thánh Mẫu Maria Vô Nhiễm trọn đời đồng trinh đã đi để được lên trời cả hồn cả xác, là con đường Tin Mừng đã ghi tại: “Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng” và “Riêng Mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc 2,9-5). Mẹ hằng đón nhận Lời Chúa, ghi nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng, cho tới khi Lời Chúa thành máu thịt, thành hơi thở, thành sự sống cho mình. Và lúc đó hồn xác Mẹ được thánh hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa, thuộc về Chúa từ trong ra ngoài, từ đầu đến chân.
Con đường đưa lên trời cả hồn cả xác của Mẹ Maria được mở ra cho mọi người như Tin Mừng đã ghi tại. Tất cả mọi tín hữu đều được mời gọi đi con đường Mẹ Maria đã đi, để đến nơi Mẹ đã đến.













24. Chú Giải Các Bài Đọc



Bài đọc 1:
Sách Khải Huyền mô tả trận chiến cuối cùng giữa Thiên Chúa và sự dữ, hình ảnh tượng trưng là 15/8-64
Bài đọc 1: Sách Khải Huyền mô tả trận chiến cuối cùng giữa Thiên Chúa và sự dữ, hình ảnh tượng trưng là con mãng xà (con rắn của sách Sáng Thế). Người nữ tượng trưng cho Giáo Hội, và con trẻ tượng trưng cho Đức Kitô (Đấng Mêsia). Như người nữ trong thị kiến, Giáo Hội phải trải qua đau khổ và bách hại. Những vần thơ cuối trong bài đọc một, ca ngợi chiến thắng của Thiên Chúa và Đức Kitô.
Là Mẹ của Đấng Cứu Thế, Đức Maria là trung tâm của trận chiến giữa Thiên Chúa và những quyền lực sự dữ, mà bài đọc trích sách Khải Huyền nói đến. Cho nên, thật hoàn toàn phù hợp khi Mẹ cùng được thông phần vinh quang chiến thắng (qua biến cố Mẹ lên trời).
Bài đọc trích sách Khải Huyền rất có ý nghĩa trong việc khích lệ các Kitô hữu tiên khởi, những người đang trải qua đau khổ và bị bách hại lúc bấy giờ. Bài đọc cũng khẳng định chắc chắn rằng cuối cùng Thiên Chúa sẽ chiến thắng. Điều này cũng sẽ khích lệ chúng ta. Thiên Chúa dành cho Mẹ Maria một sự quan tâm đặc biệt. Người cũng sẽ quan tâm, chăm sóc chúng ta. Người không tránh cho ta khỏi phải chạm trán với sự dữ, nhưng Người sẽ giúp chúng ta vượt thắng được chúng.
Bài đọc 2: Chúa Giêsu là Adam mới, Đấng mà qua sự vâng phục của Người, đã phục hồi cho chúng ta những ân sủng đã bị lấy đi bởi sự bất tuân phục của Adam thứ nhất. Giáo Hội nhìn thấy nơi Đức Maria như Evà mới, Đấng mà qua sự vâng phục của Mẹ trước Thiên Chúa, đã xóa bỏ những thiệt hại đã gây nên bởi sự bất tuân phục của Eva thứ nhất.
Trong ngày Truyền tin, Mẹ đã nói: “Việc ấy xảy ra cách nào (…). Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,34a.38). Mẹ đã đón nhận công việc mà Chúa giao phó cho Mẹ. Ngay cả khi Mẹ không thể nào thấu hiểu hết những ẩn ý trong đó, Mẹ vẫn cứ tin rằng Thiên Chúa sẽ ban cho những sự trợ giúp cần thiết.
Ngày hôm nay, biết bao người đang tìm kiếm sự thành toàn và hạnh phúc qua việc “thực hiện chính mình”. Họ tin rằng hạnh phúc hệ tại ở chỗ không bị ràng buộc, cam kết, không phải chịu trách nhiệm về điều gì cả. Đức Maria là một mẫu gương tuyệt hảo cho chúng ta, bởi vì cuộc sống áp đặt trên ta hàng loạt những bổn phận, bổn phận với chính mình, với người khác và với Thiên Chúa. Những ai biết đón nhận bổn phận như Đức Maria đã làm, có thể sẽ không tìm thấy hạnh phúc và sự thành toàn trong cái nhìn trần thế, nhưng trong cái nhìn của Thiên Chúa thì họ thực sự đã đạt được.
Bài Tin Mừng: Sau biến cố Truyền Tin, Mẹ có quyền nghỉ ngơi và tập trung lo cho chính mình. Thế mà thay vào đó, Mẹ đã vội vã lên đường thăm bà chị họ mình là Elizabeth, người cũng đang chờ đợi sự chào đời của đứa con. Cuộc viếng thăm của Mẹ là một nghĩa cử quý báu đối với Elizabeth. Nhưng Mẹ cũng nhận lại được lợi ích từ cuộc viếng thăm này. Đây cũng là điều thường tình trong mọi cuộc viếng thăm. Khi chúng ta đến thăm ai, chúng ta cho rằng bản thân mình đã làm một việc tốt cho người đó. Điều đó đúng. Nhưng chính chúng ta cũng được lợi, ít là chúng ta học được nơi người khác cách thức đối phó với những tình huống khó khăn như thế nào.
Elizabeth dùng những từ ngữ tốt đẹp để khẳng định với Maria: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45). Đề tài những ai tin được chúc lành là đề tài trung tâm của Tin Mừng.
Tuy nhiên, vấn đề không đơn giản chỉ là tin mà thôi, nhưng là phải tin và sống theo niềm tin ấy. Đức Maria được chúc phúc, không đơn giản vì Mẹ đã tin, nhưng vì Mẹ đã hành động theo đức tin. Niềm tin tôn giáo nơi Mẹ không phải chỉ là vấn đề tình cảm. Đó là điều đã được biến đổi để trở thành hành động.
Đức tin không luôn luôn đưa đến những sự dễ dãi. Thường thì ngược lại. Đức tin buộc chúng ta phải chiến đấu, mà không bảo đảm rằng có kết quả hạnh phúc. Một người sống đức tin sẽ không bao giờ thoái lui.
Đức Maria là môn đệ đầu tiên và hoàn hảo nhất của Chúa Giêsu. Điều này giải thích tại sao Giáo Hội đề cử Mẹ như mẫu gương cho mọi người chúng ta và tại sao chúng ta lại tôn vinh Mẹ trong thánh lễ hôm nay. Chúng ta cũng sẽ được chúc phúc như Đức Maria, nếu chúng ta lắng nghe Lời Chúa và thực hành lời Người.















25. Trận Chiến Chống Lại Sự Dữ



Ngày Sách Khải Huyền mô tả trận chiến cuối cùng giữa Thiên Chúa và sự dữ. Hình ảnh con mãng xà tượng trưng cho quyền lực của sự dữ (con rắn trong sách Sáng Thế). Người nữ tượng trưng cho Giáo Hội, và con trẻ tượng trưng cho Đức Kitô (Đấng Mêsia).
Người phụ nữ đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con, hình ảnh thông thường của quá trình hình thành một thế hệ mới. Con mãng xà tiến đến người phụ nữ với ý định nuốt ngay con của bà. Nhưng con bà được đưa ngay lên cho Thiên Chúa, ám chỉ sự lên trời của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đánh bại con mãng xà và đã ngự trị bên hữu Thiên Chúa. Trong khi đó, người phụ nữ (Giáo Hội) trốn vào trong sa mạc, nơi đó Thiên Chúa đã dọn sẵn cho bà một chỗ ở, để bà được nuôi dưỡng ở đó, giống như dân Israel thuở xưa. Những vần thơ cuối là lời ca ngợi chiến thắng của Thiên Chúa và của Đức Kitô.
Khi thị kiến này được viết ra, như người phụ nữ trong thị kiến, Giáo Hội đang trải qua đau khổ và bị bách hại, và phải đi vào trong hoang mạc để trốn thoát. Bài đọc có ý nghĩa khích lệ các Kitô hữu tiên khởi bằng lời xác quyết rằng Thiên Chúa cuối cùng sẽ chiến thắng. Điều đó cũng khích lệ chúng ta ngày hôm nay.
Mặc dù “người phụ nữ” chủ yếu tượng trưng cho Giáo Hội, nhưng luôn được liên kết với Đức Maria. Là Mẹ của Đấng Mêsia, Mẹ là trung tâm của cuộc chiến giữa Thiên Chúa và quyền lực của sự dữ. Bởi thế, thật hoàn toàn thích hợp khi Mẹ thông phần trong chiến thắng của Con Mẹ (qua biến cố Mẹ lên trời).
Hình ảnh chứa đựng trong sách Khải Huyền không phải là một hình ảnh xinh đẹp. Thật sự, ý tưởng con mãng xà mười sừng bảy đầu đang chực sẵn trước người phụ nữ, để khi bà sinh con xong, nó sẽ nuốt lấy đứa trẻ, cũng thật khủng khiếp. Chúng ta phải nhớ rằng cảnh tượng mô tả ở đây mang tính biểu tượng cao. Nó diễn tả điềm báo trước đầy kịch tính trong sách Sáng Thế, mối thù được đặt giữa con rắn và người phụ nữ. Người phụ nữ đã bị lôi cuốn vào cuộc chiến với những quyền lực sự dữ, biểu tượng là con mãng xà. Nhưng với sức mạnh của Thiên Chúa, người phụ nữ đã chiến thắng.
Hầu hết các bức tượng chân dung về Đức Maria đều diễn tả hình ảnh Mẹ Maria như một nữ sinh xinh xắn dịu dàng, Đấng dường như không hề động đến thế lực của sự dữ trần gian; tiếng kêu la từ xa thẳm phát ra nơi người phụ nữ đang đối đầu với con mãng xà và đã chiến thắng. Dù sao hình ảnh thứ hai mới miêu tả được sự thật quan trọng nơi Đức Maria. Đức Maria phải đối đầu với con mãng xà. Mẹ đã phải trải qua cơn đau đớn của người phụ nữ sinh con. Chẳng bao lâu sau khi sinh con, Mẹ phải lẩn trốn sang Ai cập bởi vì bạo chúa Hêrôđê muốn tìm giết Con Mẹ. Tâm hồn Mẹ như bị lưỡi đòng đâm thâu với những đau khổ trên đồi Canvê khi chứng kiến sự sống Con Mẹ đang bị lấy đi. Đây là câu chuyện về Đức Maria được thuật lại trong Tin Mừng.
Như Đức Kitô là Adam thứ hai, thì Đức Mẹ cũng được xem là Eva thứ hai. Nhưng không như Eva thứ nhất, Mẹ đã hằng vâng phục Thiên Chúa. Bởi thế, Mẹ là ngọn hải đăng hy vọng cho chúng ta, bởi vì Mẹ thoát khỏi nanh vuốt của mãng xà và đã được đưa về trời. Vai trò trung gian của Mẹ cho chúng ta niềm tin tưởng. Gương mẫu của Mẹ mang đến cho chúng ta can đảm và sức mạnh để tiếp tục chiến đấu.
Có rất nhiều nỗi đau, thống khổ và bạo lực trên thế giới. Tất cả chúng ta đều bị tổn thương bởi chúng. Và chúng ta cũng phải chiến đấu chống lại tội lỗi. Và rồi sự dữ lớn nhất cuối cùng mà chúng ta phải đánh bại đó là sự chết.
Như Chúa Giêsu, Đức Maria thu phục những bạo lực, biến đổi nó, để chuyển đổi thành tình yêu và tha thứ. Đây là chiến thắng của tình yêu vượt trên mọi quyền lực huỷ diệt. Không có gì ngoài tình yêu nơi Mẹ Maria. Hãy sống tràn đầy tình yêu khi chúng ta đang trải qua những giai đoạn khó khăn.















26. Thông Phần Vào Vinh Quang Của Con Mẹ



Trong ngày lễ hôm nay, chúng ta kính nhớ việc Đức Maria hồn xác lên trời, nơi đó, Mẹ được thông phần trọn vẹn vào vinh quang của Chúa Giêsu Con Mẹ, Đấng đang ngự bên hữu Chúa Cha. Tất cả hồng ân nơi Mẹ đều đến từ mối tương quan của Mẹ với Chúa Giêsu. Chúng ta không thể hiểu được về Mẹ hoặc nhận định đúng về vai trò của Mẹ trong Giáo Hội, nếu không đặt nền tảng này trong tâm trí ta.
Có một câu chuyện kể về một người phụ nữ rất thích tranh vẽ, tên bà là Adrienne. Ngày nọ, trong một cửa hàng đồ cổ nhỏ bé nơi thôn dã, bà tiến đến một bức tranh nhỏ mà bà tin rằng đó là bức chân dung tự hoạ của một bậc thầy hoạ sĩ vĩ đại. Tự nhiên, bà cảm thấy vui sướng vì phát hiện này của mình. Ngay tức khắc, bà biết rằng rồi sẽ có nhiều rắc rối đến với bà.
Mang bức tranh về đến nhà, bà quét sạch những lớp bụi bám vào. Trong khi làm việc này, bà càng tin chắc rằng đó đích thật là bức tranh nguyên bản, mặc dù tự nhiên bà cũng có thoáng chút hoài nghi.
Nghĩ rằng bảo tàng viện quốc gia sẽ rất chú ý đến phát hiện này của bà, bà gửi những tấm ảnh chụp bức tranh đến các tác giả kiệt xuất về nghệ thuật trong nước. Thật quá đỗi ngạc nhiên đối với bà vì họ chẳng hề quan tâm, hầu hết các nhà chuyên môn chẳng chút bận tâm để đến xem bức tranh khi nó được triển lãm tại một phòng trưng bày công cộng. Giám đốc phòng triển lãm quốc gia tuyên bố chắc nịch rằng bức tranh đó không phải là nguyên bản.
Nhưng Adrienne không đầu hàng. Bà hết sức cố gắng có thể. Bà đem bức tranh đi kiểm chứng bằng tia X quang tại phòng thí nghiệm của cảnh sát, và dưới sự phân tích của tia X quang, tên viết tắt của bậc thầy hội hoạ hiện dần lên trên những lớp màu. Bà lập tức gửi ngay kết quả kiểm định cho một trong những nhà chuyên môn. Ông lịch sự bày tỏ sự quan tâm nhưng vẫn trung thành với nhận định trước đây: bức tranh này không phải là nguyên bản.
Bà tiếp tục nghiên cứu và đào sâu lịch sử, và đã phát hiện được những chứng cớ giúp xoá đi tất cả những nghi ngờ để khẳng định được là bà đúng. Cuối cùng, một buổi lễ long trọng đã diễn ra tại Viện hàn lâm nghệ thuật để ca ngợi bà. Nếu không có những nỗ lực, bền chí và lòng kiên định của bà, bức tranh sẽ không bao giờ được đưa ra ánh sáng.
Chúa Giêsu là chân dung tự hoạ của Thiên Chúa. Nhưng nhờ Đức Maria mà Người đã được hạ sinh giữa loài người chúng ta. Đức Maria đã chăm sóc nuôi nấng Người trong suốt những năm Người sống ẩn dật, không ai biết đến, và chẳng ai nhận ra được Người. Và cuối cùng, khi Người bước ra từ trong bóng mờ, để bắt đầu cuộc sống hoạt động công khai, Người cũng chẳng được toàn thể mọi người hoan hô đón nhận. Thực vậy, giới lãnh đạo tôn giáo từ chối tin vào Người. Nhưng Mẹ Maria vẫn hằng tin tưởng vào Người, giữ vững quan điểm về Người cho đến cùng.
Thiên Chúa đã cho Đức Giêsu chỗi dậy từ cõi chết, phục hồi vinh quang cho Người, “Thiên Chúa siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2,9). Chúa Giêsu ngự bên hữu Thiên Chúa Cha. Thế nên, Đức Maria chẳng lẽ lại không thông phần với chiến thắng vinh quang của Con Mẹ sao. Thật chính đáng, điều mà chúng ta cử hành hôm nay, tán dương Mẹ Maria, cô thôn nữ khiêm nhường làng Nazareth.
Mỗi người chúng ta được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa. Như trong tiệc cưới Cana, Đức Maria vẫn tiếp tục cầu thay nguyện giúp cho chúng ta. Mẹ vẫn giúp chúng ta trong cuộc chiến đấu giữa bản năng con người với phẩm giá thần linh, và để sống một cuộc đời phù hợp với phẩm giá cao cả ấy. Với sự trợ giúp của Mẹ, và với ân sủng của Thiên Chúa, chúng ta hy vọng được cùng thông phần vinh quang với Mẹ và với Con Mẹ trên Nước Trời.















27. Đức Maria Đồng Trinh, Hồn Xác Lên Trời



Kinh Thánh im lặng về những ngày sau hết của cuộc đời Mẹ Chúa. Sau lời trối Chúa Giêsu trao Mẹ cho Gioan thì “từ giờ đó, môn đệ này đã lãnh nhận Mẹ Chúa về nhà mình” (Ga 19,27). Sách Công vụ nói đến việc “Maria, Mẹ Chúa Giêsu cùng với các môn đệ đồng tâm nhất trí cầu nguyện” (Cv 1,11) để nhận lãnh Chúa Thánh Thần.
“Chúa Giêsu về trời, Mẹ cũng rút vào âm thầm cầu nguyện và suy niệm những kỷ niệm đã ghi trong lòng” (Lc 2,51). Mẹ không còn xuất hiện, để các tông đồ lãnh nhận sứ mệnh của mình trước mặt thế gian như Chúa đã truyền: “Các con sẽ chịu lấy quyền năng của Chúa Thánh Thần rồi sẽ đi làm chứng cho Thầy” (Cv 1,8). Nhưng Mẹ vẫn hiện diện giữa cộng đoàn tông đồ để khích lệ tinh thần và đồng thời cũng giúp lời cầu nguyện cho các Ngài, vì Mẹ bao giờ cũng coi mình như là “nữ tỳ Thiên Chúa”.
Mẹ về sống ở Ephesô với thánh Gioan, sau khi thánh Giacôbê bị vua Hêrôdê giết vào năm 42 vì Giêrusalem không còn là nơi an toàn nữa. Theo lời truyền khẩu, Ngài đã qua đời vào khoảng năm 54, hưởng thọ 72 tuổi. Cái chết của Mẹ Chúa là cuộc vượt qua để về với Chúa. “Đức Trinh Nữ Maria được đưa lên hưởng vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác và được Thiên Chúa tôn làm nữ vương vũ trụ để nên giống Con Ngài trọn vẹn hơn” (GH 59).
Niềm tin Đức Trinh Nữ Maria hồn xác lên trời đã có từ lâu đời. Từ thế kỷ VI, người ta đã mừng lễ này với danh hiệu lễ Đức Mẹ ngủ. Đến ngày 1 tháng 11 năm 1950, Đức Piô XII đã long trọng tuyên bố tín điều Đức Maria Đồng Trinh hồn xác về trời. Diễn biến sự kiện này như sau:
Khoảng từ năm 1849 đến năm 1940, Tòa Thánh đã nhận được 1505 thỉnh nguyện tự phát xin định tín việc Mẹ hồn xác lên trời. Ngay trong Công đồng Vaticanô I, gần 200 nghị phụ cũng xin định tín. Sau thế chiến thứ II, từ năm 1945 đến năm 1950, do lần nữa 852 thỉnh nguyện được gửi tới Đức Thánh Cha do các giám mục, các bề trên dòng, các đại học Công giáo. Các nhà thần học của 30 quốc gia cũng đã gửi các thỉnh nguyện tập thể. Ngày 1 tháng 5 năm 1946, Đức Piô XV đã gửi cho mọi giám mục một lá thư, xin các ngài trả lời cho câu hỏi sau đây:
“Theo sự khôn ngoan chín chắn của Đức Cha, Đức Cha có ý kiến gì cho việc Đức Maria hồn xác lên trời được đề ra và xác quyết như một tín điều hay không? Đức Cha với hàng giáo sĩ và dân chúng có muốn điều đó hay không?”
Đã có 1191 thư trả lời, trong đó 1169 thư ưng thuận, 16 thư nghi ngại về tính cách hợp thời của việc tuyên bố tín điều, 6 thư đưa những vấn nạn ngược lại. Tất cả giám mục của 17 Giáo Hội Đông phương hợp nhất với Tòa Thánh Roma trả lời ưng thuận. Ngày 30 tháng 10 năm 1950, đã có một hội nghị công khai với 700 vị trong hàng giáo phẩm tham dự. Đức Thánh Cha Piô XII lại hỏi ý kiến. Tất cả mọi vị đều trả lời ưng thuận. Như thế là đã có một sự đồng ý theo luận lý của mọi giám mục. Sự đồng ý này là một bày tỏ rõ ràng của giáo huấn thông thường. Do sự đồng ý này của quyền giáo huấn hợp với tín điều Công giáo.
Ngày 1 tháng 11 năm 1950, Đức Piô XII trong sắc lệnh công bố tín điều, đã nhắc lại những sự kiện trên. Chúng ta chung một niềm tin với Giáo Hội vì:
– Đã có một liên hệ mật thiết giữa hồn xác lên trời với sự thụ thai vô nhiễm và muôn đời đồng trinh của Đức Maria. Vậy Mẹ đã toàn thắng tội lỗi và đáng được lên trời hồn xác.
– Việc lên trời hồn xác của Mẹ cũng liên hệ với chức vụ làm Mẹ Thiên Chúa. Mẹ đã không bao giờ làm hư hại sự toàn vẹn xác thể nên xác thân mẹ không thể hư hoại.
– Sau nữa, Mẹ đã được cứu chuộc hoàn toàn, nên hiệu qủa của ơn cứu rỗi là sự tôn vinh của con Mẹ cũng được hưởng (Rm 8,29-30; 2Cr 5,2-5) .
“Lễ Mông Triệu, ngày 15 tháng, ngày Maria đầy ơn Chúa, đầy hạnh phúc, hồn vô nhiễm và xác trinh trong của Mẹ được vinh hiển, ngày Mẹ được giống Chúa phục sinh cách hoàn toàn nhất. Lễ này làm cho Giáo Hội và nhân loại thấy được hình ảnh của hy vọng cuối cùng của chúng ta, là tất cả những ai được Chúa Kitô, một anh em Người thông phần máu thịt với Người sẽ được hoàn toàn vinh quang” (Dt 2,14) (Marialis Cultus).















28. Sum Họp Trên Trời



Trong một vài thành phố nhỏ quanh thủ đô Roma, nước Ý, vào ngày lễ Đức Mẹ Hồn xác lên trời, người ta có một tục lệ rất quyến rũ. Tục lệ đó được gọi là Incinata, nghĩa là cuộc rước đón chào. Dân làng kiệu tượng Đức Mẹ theo đường phố chính – Đức Mẹ đang trên đường về trời. Từ hướng đối diện, đoàn rước khác kiệu tượng Chúa Giêsu – Ngài đang tiến gần đến tượng Đức Mẹ. Hai đoàn rước gặp nhau dưới một khung vòm đầy cành lá và hoa rực rỡ. Hai tượng sắp đặt để cúi chào nhau ba lần. Rồi người ta kiệu hai tượng đi song song vào nhà thờ giáo xứ – Chúa chúng ta dẫn mẹ Ngài lên ngai trên trời.
Nghi thức đơn giản, ngây thơ này là một phương cách gây ấn tượng sâu sắc để diễn tả chân lý cao cả và vinh quang mà chúng ta cử hành hôm nay, tức là sự kiện Đức Maria, sau khi qua đời được đưa lên trời cả hồn lẫn xác.
Trở lại năm 457, Đức Giám mục của Giêrusalem đã bày tỏ niềm tin được truyền tụng từ các tông đồ: “Đức Maria qua đời có các tông đồ vây quanh, nhưng về sau khi mộ Ngài được mở ra thì hoàn tòan trống rỗng, và các tông đồ kết luận rằng xác Ngài đã được đưa lên trời”.
Chúa Giêsu không muốn Mẹ Ngài chịu một giây phút nào dưới quyền lực satan, nên Ngài đã ban cho Mẹ đặc ân vô nhiễm nguyên tội. Ngài đã không muốn thân xác tinh tuyền của Mẹ phải chịu mục nát, nên Ngài ban cho Mẹ đặc ân lên trời cả hồn và xác.
Chúa Giêsu vui mừng biết bao khi đón Mẹ Ngài vào nhà Ngài trên trời. Còn Đức Mẹ vui mừng biết bao, khi gặp lại Con trong thể xác; các thiên thần và các thánh trên trời vui mừng biết bao khi đón chào Nữ Vương, Mẹ mình. Chúa Cha trên trời vui mừng biết bao khi đón nhận người con sủng ái. Chúa Thánh Thần vui mừng biết bao khi gặp lại người Phụ nữ được tuyển chọn cộng tác vào việc đem con Thiên Chúa xuống trần gian. Thánh Giuse vui mừng biết bao khi có người bạn đời ở trần gian cùng ở trên trời.
Niềm hạnh phúc này của những người thân yêu gặp lại nhau là điều tất cả chúng ta có thể trông đợi. Trong ngày lễ Mông Triệu này, chúng ta có thể nhìn vào ngày chúng ta sẽ được lên trời, nơi chúng ta sẽ gặp những người thân yêu đã ra đi trước chúng ta. Chúng ta không thể suy tư về điều này cho đủ được.
Chúng ta có nhiều điều để suy nghĩ về sự chết. Vậy hãy suy nghĩ về chân lý vui mừng và hy vọng là một ngày kia chúng ta sẽ gặp lại. Chúng ta cần nắm giữ tư tưởng này trong ngày lễ vui mừng hôm nay.
Bạn hãy cầu nguyện hôm nay với nghĩa đặc biệt theo những lời của Kinh nguyện Thánh Thể II, “Xin cho chúng con được đồng hưởng sự sống đời đời cùng với Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa… và toàn thể các Thánh”. Bạn hãy đọc kinh Kính Mừng và chú ý đặc biệt lời: “Cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử”.
Tất cả chúng ta hãy chia sẻ niềm vui của Đức Mẹ được đón nhận vào Nhà Thiên Chúa với các bạn hữu của Thiên Chúa.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.















29. Phận Hèn Cao Trọng
(Trầm Thiên Thu)



Lên trời là niềm hy vọng lớn nhất và là hoài bão cuối cùng của những người tin vào Đức Giêsu Kitô. Lên trời không là chuyện viễn vong như chú Cuội lên cung trăng, cũng không chỉ là “tham quan” mặt trăng, là “khám phá” sao Hỏa, một hành tinh nào đó, hoặc khám phá “lỗ đen” trong vũ trụ. Lên trời là để sống đời trường sinh và đồng hưởng thiên phúc với Thiên Chúa, sau khi thân xác chúng ta được sống lại.
Mừng lễ Đức Mẹ lên trời cả hồn và xác là nhắc nhớ chúng ta về niềm xác tín: “Tôi tin xác loài người ta sẽ sống lại” (Kinh Tin Kính). Niềm tin này được củng cố bằng tín điều Đức Mẹ mông triệu. Ngày 1-11-1950, ĐGH Piô XII ban hành Thông điệp “Munificentissimus Deus” (Thiên Chúa Quảng Đại), long trọng định tín Mẹ Maria linh hồn và xác lên trời là một tín điều buộc mọi người phải tin.
Đại lược thông điệp bất hủ này là: “Sau khi chúc tụng lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa đã yêu thương quan phòng làm êm dịu những khổ đau, đem lại niềm an vui cho các dân tộc, Đức Thánh Cha nêu cao sự kiện ơn Chúa thương, dù giữa thời buổi nhiều người sai lạc chân lý và nhân đức, vẫn có nhiều cách biểu lộ đức tin, lòng sùng mến Mẹ Maria và những con cái Mẹ vẫn được khuyến khích chiêm niệm những đặc ân của Mẹ. Thật vậy, từ muôn đời, Thiên Chúa đã đặc biệt yêu thương Mẹ và rồi ban cho Mẹ dạt dào những đặc ân mà Giáo hội nhận biết và khám phá ra. Nhưng thời đại của chúng ta đã được dành riêng để chiêm ngưỡng đặc ân Đức Mẹ hồn xác lên trời”.
Nói đến việc “lên trời” là ngụ ý sự chết, liên quan Ngày Cánh Chung. Có chết rồi mới sống lại và lên trời. Mà muốn làm công dân Nước Trời thì phải sống trọn vẹn các Giới Răn của Thiên Chúa một cách ngoan cường và anh dũng. Đó là điều chắc chắn!
MẶC KHẢI
Đền Thờ Thiên Chúa ở trên trời mở ra, và rồi có điềm lớn xuất hiện trên trời: “Một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12,1). Thật uy nghi và vinh hiển, nhưng cũng đầy gian khổ: “Bà có thai, đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con” (Kh 12,2). Đó là điều chắc chắn, vì không có vinh quang nào lại không có đau khổ. Chính Đức Kitô cũng đã chịu đau khổ tột cùng rồi mới phục sinh vinh thắng.
Lại có điềm khác xuất hiện trên trời: “Một Con Mãng Xà đỏ như lửa, có bảy đầu và mười sừng, trên bảy đầu đều có vương miện. Đuôi nó quét hết một phần ba các ngôi sao trên trời mà quăng xuống đất. Rồi Con Mãng Xà đứng chực sẵn trước mặt người Phụ Nữ sắp sinh con, để khi bà sinh xong là nó nuốt ngay con bà” (Kh 12,3-4). Nhưng “người con trai này sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt muôn dân” (Kh 12,5a). Sau đó, “Con bà được đưa ngay lên Thiên Chúa, lên tận ngai của Người” (Kh 12,5b), còn “người Phụ Nữ thì trốn vào sa mạc”, nơi mà “Thiên Chúa đã dọn sẵn cho bà một chỗ ở, để bà được nuôi dưỡng ở đó, trong vòng một ngàn hai trăm sáu mươi ngày” (Kh 12,6). Khi đó, Thánh Gioan nghe có tiếng hô to trên trời: “Thiên Chúa chúng ta thờ giờ đây ban ơn cứu độ, giờ đây biểu dương uy lực với vương quyền, và Đức Kitô của Người giờ đây cũng biểu dương quyền bính, vì kẻ tố cáo anh em của ta, ngày đêm tố cáo họ trước toà Thiên Chúa, nay bị tống ra ngoài” (Kh 12,10). Đó chính là Giờ Cứu Độ, là khoảnh khắc cuối cùng, là buổi cánh chung, là ngày tận thế, là lúc Chúa Giêsu giáng lâm.
Cựu ước cũng đã tiên tri về Đức Mẹ: “Hoàng hậu đứng bên hữu Đức Vua, mặc đồ trang điểm vàng ròng lộng lẫy” [Tv 44 (45),10]. Có lời ca vang: “Tôn nương hỡi, xin hãy nghe nào, đưa mắt nhìn và hãy lắng tai, quên dân tộc, quên đi nhà thân phụ” [Tv 44 (45),11]. Một khi đã có Thiên Chúa rồi, được diện kiến Thánh Nhan, thì người ta vô cùng hạnh phúc, thế nên không còn cần gì khác nữa: “Người là Chúa của bà” [Tv 44 (45),12]. Và người đó thể hiện niềm hạnh phúc tuyệt vời cùng những người khác: “Lòng hoan hỷ, đoàn người tiến bước, vẻ tưng bừng, vào tận hoàng cung” [Tv 44 (45),16].
ỨNG NGHIỆM
Thiên Chúa của người sống chứ không phải của người chết. Thánh Phaolô xác định: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu” (1 Cr 15,20). Tại sao? Vì “nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại” (1 Cr 15,21). Thánh Phaolô giải thích: “Như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống. Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người. Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha” (1 Cr 15,22-24). Thật vậy, Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người: Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết (1 Cr 15,25), nghĩa là Thiên Chúa đã đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô. Theo Thánh Phaolô, khi nói muôn loài thì dĩ nhiên không kể Đấng đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô. Vì “lúc muôn loài đã quy phục Đức Kitô, thì chính Người, vì là Con, cũng sẽ quy phục Đấng bắt muôn loài phải quy phục Người; và như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1 Cr 15,28). Lý luận của Hiền triết Phaolô thật là mạch lạc và tuyệt vời!
Thánh sử Luca kể: Hồi ấy, cô Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa, vào nhà ông Dacaria và chào hỏi chị Êlisabét. Chị Êlisabét vừa nghe tiếng cô em Maria chào thì đứa con trong bụng nhảy lên, và chị Êlisabét được đầy tràn Thánh Thần, liền nói: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1,42). Rồi chị Êlisabét nói tiếp: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,43-45).
Vấn đề là đức tin, mà phải tin vững vàng chứ không thể mơ hồ. Đức Mẹ diễm phúc nhờ đức tin kiên vững. Điều này nhắc chúng ta phải xem lại đức tin của chính mình!
Nghe chị Êlisabét “khen” vậy, Đức Maria hân hoan dâng lời ca ngợi Chúa mà y như thơ vậy (Lc 1,46-55):
Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới;
Từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.
Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!
Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
Chúa độ trì Ítraen, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta,
Vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Ápraham và cho con cháu đến muôn đời.
Những lời Đức Mẹ nói chứa đầy sự khiêm nhường, lòng tín thác và lòng yêu thương. Đó cũng là lời kinh Magnificat mà Giáo hội vẫn dùng để cầu nguyện hằng ngày, đặc biệt trong giờ kinh Thần vụ (kinh Nhật tụng).
Thánh sử Luca kể: “Đức Maria ở lại với bà Êlisabét độ ba tháng, rồi trở về nhà” (Lc 1,56). Đức Mẹ không chỉ đi thăm chị họ theo phép xã giao mà còn là để “báo tin mừng”, nhất là để phục vụ bà chị đang mang thai bé Gioan Tẩy giả. Đức Mẹ là một nữ-tu-không-áo-dòng, không đi tu ngày nào, cũng chưa một lần tiên khấn, đơn khấn hoặc vĩnh khấn, nhưng Đức Mẹ đã anh dũng và kiên cường sống trọn vẹn ba lời khấn: Thanh tuân, thanh bần, và thanh khiết. Trên cả tuyệt vời. Một tấm gương chói ngời mà mọi người đều phải “soi” vào.
Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Ngài đã ban cho chúng con một người Mẹ Thánh tuyệt vời. Xin thương giúp chúng con biết khiêm nhường phục vụ và “xin vâng” như Mẹ trong mọi hoàn cảnh, để chúng con chắc chắn được cùng Mẹ vui hưởng phúc trường sinh. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Con Yêu Dấu của Mẹ, Sư Phụ và Đại Huynh Trưởng của chúng con. Amen.















30. Vầng Trăng Tuyệt Vời!



Ngày 1-11-1950, đúng vào dịp lễ Các Thánh Nam Nữ, Đức Thánh Cha Piô XII long trọng tuyên bố tín điều Đức Maria Hồn Xác Lên Trời: “Thánh Mẫu Thiên Chúa là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Maria Trọn Đời Đồng Trinh, sau khi sống trọn cuộc đời trần thế, đã được triệu hồi cả hồn và xác vào trong vinh quang thiên quốc”. Kể từ lời tuyên bố trong thánh lễ tuyên tín long trọng hôm ấy, mầu nhiệm Đức Maria được Thiên Chúa đưa về trời cả hồn và xác, trở thành chân lý đức tin cho toàn thể Giáo hội.
Chỉ trong một lời tuyên tín ngắn gọn và quan trọng để tuyên bố một tín điều, Đức Thánh Cha Piô XII đã liệt kê cùng lúc đầy đủ bốn đặc ân vô cùng cao cả, ngoài Đức Maria không ai có được. Đó cũng là bốn chân lý tuyệt đối của lòng tin thuộc về đời sống và nhân đức của Đức Maria mà mỗi người Kitô hữu phải tin:
1. Đức Maria làm Mẹ Thiên Chúa.
2. Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ không hề mắc tội tổ tông truyền từ ngay khi thành thai trong lòng mẹ.
3. Đức Maria Đồng Trinh Trọn Đời, dù mang thai và sinh con, Mẹ vẫn trinh khiết vẹn toàn.
4. Đức Maria Hồn Xác Lên Trời, Mẹ được Chúa triệu hồi cả hồn và xác vào trong vinh quang thiên quốc, sống trong hạnh phúc vĩnh cửu.
Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo từ số 963- 975, kể ra 5 lý chứng rất mạnh mẽ và xác thực minh chứng việc Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời:
1. Vì Đức Maria là Mẹ Chúa Kitô: Thánh Kinh diễn tả rõ ràng Đức Maria hiệp thông chặt chẽ với Chúa Giêsu trong nhiệm cuộc cứu chuộc, và luôn chia sẻ số phận với Con. Vậy xét theo thiên chức làm Mẹ, đương nhiên đòi hỏi phải có việc Mẹ và Con hòa hợp sum vầy với nhau, vì cả hai đã yêu mến nhau tha thiết, cho nên chắc chắn Chúa Kitô vì lòng hiếu thảo, đã ban cho Mẹ mình được hồn xác về Trời sau khi ly trần, là điều hợp tình hợp lý.
2. Vì Đức Maria Trọn Đời Trinh Khiết: Thiên Chúa đã làm cho Đức Maria chịu thai, sinh con mà vẫn trinh nguyên, thì sau khi Mẹ qua đời, Ngài đã gìn giữ thân xác Đức Mẹ khỏi hư nát, và sau khi đem Mẹ về Trời, Ngài đã làm cho xác Mẹ nên vinh hiển. Nên thánh Đamascênô tiến sĩ quả quyết: Vì Đức Mẹ đã được sinh con mà vẫn trinh nguyên, thì cần thiết là sau khi qua đời, xác Đức Mẹ cũng phải được bảo tồn nguyên vẹn.
3. Vì Đức Mẹ luôn hợp tác với Chúa Kitô: ngay từ thế kỷ II, các Giáo Phụ đã trình bày Đức Mẹ như là một Evà Mới hợp tác chặt chẽ với Adam Mới là Chúa Kitô để chiến thắng satan. Vì thế, cũng như Chúa Kitô sống lại vinh hiển là việc thiết yếu và là dấu chiến thắng cuối cùng, thì Đức Mẹ đã cùng Con chiến đấu cũng phải được cùng Con chiến thắng, nghĩa là Thân Xác Đồng Trinh của Đức Mẹ cũng phải được Lên Trời Vinh Hiển.
4. Vì Đức Mẹ Đầy Ơn Phúc: các thánh tiến sĩ đã coi việc Đức Mẹ Hồn Xác về Trời như là bổ túc cho việc Đức Mẹ được Đầy Ơn Phúc. Như lời cha Ađômêô quả quyết: Thân xác Đức Mẹ không hề bị hư nát vì đã kết hợp với linh hồn và đã được đầy ơn.
5. Vì Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội: theo lời xác quyết của Đức Thánh Cha Piô XII: Thân xác con người bị chết và bị tan rã ra tro đất là do hậu quả tội Nguyên Tổ. Đức Maria không hề mắc tội Nguyên Tổ, cũng không hề có tội riêng, cho nên đương nhiên và rất hợp lý là Đức Maria được Hồn Xác Về Trời.
Mẹ đầy ơn phúc, được Thiên Chúa yêu thương gìn giữ từ thuở đời đời bằng đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội. Mẹ được Thiên Chúa giữ gìn cho đến muôn đời bằng đặc ân Mông Triệu tuyệt diệu hơn mọi người trần.
Quyền năng và tình yêu Chúa tràn đầy trên Mẹ làm cho Mẹ được khỏi tội tổ tông và được đầy ơn ơn sủng ngay từ trong lòng mẹ. Quyền năng và tình yêu Chúa bao phủ suốt cả đời Mẹ trên từng ý nghĩ, từng tình cảm, từng mỗi hành động, từng mỗi bước đi… khiến cho tâm hồn Mẹ luôn hướng về Chúa mà tạ ơn và ngợi khen liên lỉ. Quyền năng và tình yêu Chúa đong đầy trọn vẹn nhất trong khoảnh khắc lịch sử, Mẹ lên trời cả hồn cả xác. Đặc ân cao trọng này chính là triều thiên sáng chói bao phủ lên Mẹ, vốn đã được “Thánh Thần ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao rợp bóng trên bà” (Lc 1,35).
Ngày lễ hôm nay với sắc thái vui tươi với những lời ngợi khen và chúc tụng Đức Trinh Nữ lên trời hiển vinh. Từ đây Đức Mẹ nắm giữ vai trò quan trọng nhất là Nữ Vương trời đất. Từ nay, Đức Mẹ đảm nhận một địa vị cao cả nhất và cũng thật gần bên Thiên Chúa. Kể từ nay, Đức Mẹ trổi vượt trên mọi tạo vật với địa vị làm Mẹ Thiên Chúa và làm Mẹ nhân loại.
Mẹ được Lên Trời Hồn Xác là do đặc ân Chúa ban cho Mẹ và đồng thời cũng là do cuộc sống thánh thiện của Mẹ hằng luôn hợp tác với ơn Chúa. Mẹ là người diễm phúc nhất trong mọi người nữ. Mẹ có tên gọi đẹp nhất là “Đấng đầy ơn phúc” vì “Thiên Chúa ở cùng bà”. Mẹ được hết mọi đời khen là diễm phúc chính vì “Đấng toàn năng đã làm cho Mẹ biết bao điều cao cả”. Điều cao cả nhất là làm Mẹ Chúa Cứu Thế. Mẹ là cây sinh quả phúc và nhờ quả phúc ấy mà Mẹ được biết đến và được ca tụng. Mẹ là cây trường sinh mang quả đầu mùa mà Thiên Chúa đã trồng trong vườn địa đàng mới hầu đem lại sự sống đời đời cho mọi thế hệ loài người. Chính vì thế mà Thiên Chúa muốn cho cây mang quả trường sinh ấy được nhân lên trong vườn địa đàng mà Người muốn mở rộng diện tích tới tận cùng trái đất.
Giáo hội cùng hiệp ý chung lời với Mẹ ngợi khen tạ ơn Thiên Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới, từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”.
Đó là những lời tán tụng ngợi ca Thiên Chúa phát xuất từ sâu thẳm lòng Mẹ trong ngày thăm viếng người chị họ Isave.
Những lời ngợi ca đó nói lên tất cả tâm hồn của Mẹ. Đó là toát lược cả cuộc đời Mẹ, cả chương trình sống của Mẹ, là con đường tu đức của Mẹ: mãi mãi là người nữ tỳ khiêm tốn, luôn phó thác hoàn toàn trong tay Chúa toàn năng và nhân hậu, hằng dâng lời ngợi khen tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh cuộc sống.
Những lời ca ngợi Magnificat nói lên hết ý nghĩa và tâm tình của Mẹ đối với Thiên Chúa toàn năng và yêu thương.
Mẹ cảm thấy thân phận tôi tớ hèn mọn này lại được cất nhắc cao trọng trong giây phút lên trời: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới, từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”.
Mẹ cảm nghiệm được quyền năng và tình yêu vô biên của Chúa trong giây phút Chúa hiển dương Mẹ về trời: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả… Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người”.
Ngày lễ hôm nay, Giáo hội mừng kính một tạo vật đầu tiên, Mẹ Maria đã được khải hoàn và bước vào quê hương thiên quốc. Thánh Kinh ca tụng Mẹ: “Kìa bà nào xuất hiện như rạng đông, diễm kiều như vầng nguyệt, lộng lẫy tựa thái dương, oai hùng như đạo binh chỉnh tề hàng ngũ” (Dc 6,10); “Có một điềm lớn xuất hiện trên trời: một Phụ nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp vầng trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12,1)…
Mẹ “Như một vầng trăng tuyệt vời, muôn ngàn tia sáng lung linh chốn thiên cung”. Mẹ là người đi đầu cho ta được tiếp bước. Mẹ như người đi trước cho ta được theo sau. Mẹ là người đi mau cho ta được níu kéo dắt dìu.Mẹ được đưa về trời là tiền đề cho lòng tin người tín hữu: nếu sống như Mẹ, họ cũng sẽ được về trời với Mẹ. Mẹ được đưa về trời là khuôn mẫu cho niềm hy vọng: yêu trung thành hôm nay sẽ được dẫn tới bến bờ yêu thương tinh ròng vĩnh phúc. “Mẹ Lên Trời là hình ảnh và khởi thủy của Giáo hội về ơn cứu chuộc của Thiên Chúa cho mọi người chúng ta. Mẹ chiếu sáng như dấu chỉ lòng trông cậy vững vàng và niềm an ủi cho dân Chúa đang lữ hành” (LG số 69).
“Cuộc Lên Trời của Đức Trinh Nữ rất thánh là sự tham dự độc nhất vô nhị vào sự Phục sinh của Con mình và là việc thể hiện trước sự phục sinh của các Kitô hữu khác” (GLCG,số 966). Mẹ Lên Trời, trong hạnh phúc tuyệt vời, Mẹ trở nên gần gũi với mọi thành viên trong gia đình nhân loại. “Trong Hội Thánh, Đức Trinh Nữ diễm phúc được kêu cầu bằng các tước hiệu là Trạng Sư, Đấng Cứu Giúp, Đấng Phù Hộ, Đấng Trung Gian” (GLCG số 969).Trong cuộc hành hương nội tâm hay lữ hành nơi dương thế, chúng ta tin rằng, có Mẹ Maria luôn cầu bầu che chở; với niềm hy vọng sẽ được về trời với Mẹ, chúng ta nhìn lên Mẹ như mẫu gương của lòng cậy trông, tin yêu phó thác nơi lòng thương xót Chúa.
Hôm nay mừng Mẹ Lên Trời.
Ngày mai đến lượt mỗi người chúng ta.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An















31. “Tôi Nhập Hồn Tôi Trong Khúc Hát, “Để Nhờ Không Khí Đẩy Lên Trăng.”
(dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)



Nhập hồn trong khúc hát, để nhờ không khí cố đẩy lên. Đó, là tâm trạng của nhà thơ này ngẫu hứng. Nhập hồn với lời ca, để có tình tự Mẹ diễn tả lúc về Trời.
Trình thuật, nay thánh Luca cũng diễn tả tâm tình ngày Mẹ về Trời với Chúa, hầu chỉ dẫn dân con mọi người theo về chốn phúc hạnh, mà thăng tiến. Tâm tình này, đặc biệt hơn khi người chỉ dẫn lại là “Nữ phụ” đặc biệt, Mẹ Hiền của Chúa. Sống với thế giới và Giáo hội trong đó nam-nhân bao giờ cũng lấn lướt/vượt trội mọi nữ lưu, để bảo vệ/chăm sóc phụ nữ hơn chính mình. Nhưng ngược lại, mới đúng.
Thật ra thì, ở nam-nhân lẫn nữ-phụ, phẩm chất nam/nữ mỗi người một cách, rất khác biệt. Phẩm chất là chất-phẩm, gồm: sự tử tế, tính dịu dàng, độ-lượng, lòng xót thương, cả trực-giác, lẫn nét hiền lành toả sáng nhiều lúc cũng kín đáo, thâm trầm. Nhất nhất, là đặc trưng về “nhân” phẩm Chúa tặng mọi người, nam lẫn nữ.
Nhưng, quà tặng thiết thực ở hai phái tính, là quà Chúa tặng ban làm cơ sở cho thực chất cao cả hơn, tức: mở lòng ra với Chúa để vinh thăng tính siêu-việt; nếu không có tính này, chẳng ai đích thực là bản vị hết. Bởi, ta được tạo dựng là được Chúa mời gọi đi vào hiện hữu trong phần sâu thẳm của chính mình, với Chúa và cho Chúa, để rồi cứ thế cảm tạ Ngài. Quả thật, ta được gọi mời là để khám phá ra mà vui huởng ý nghĩa trọn vẹn của nhân vị quyết mở lòng ra với Chúa. Ta được gọi làm tạo vật hoàn-thành ý nghĩa xuất từ Chúa trong luồng ánh sáng rất tráng lệ.
Nhưng lịch sử đã làm suy giảm ánh chói loà của quà tặng nơi ta. Ngày nay, con người cũng được gọi mời theo cung cách tương tự, nhưng đa phần đều ra như không biết. Đa phần chất giọng thời hiện đại, đều hợp lòng bảo ta đừng lắng nghe tiếng gọi này để ta có yêu cầu độc-lập, tách rời Chúa và mọi người.
Phải công nhận, ánh sáng tắt lịm theo cung cách đặc biệt, nay xảy đến với nam nhân, khác hẳn nữ giới. Điều này, là do lịch sử lâu nay phát triển theo kiểu đó. Nam nhân vẫn thấy khó mà khám phá ra Thiên Chúa đích thực. Lịch sử và hoàn cảnh diễn tiến trong đó vẫn làm cho họ ra như thế. Điều này, từng được thánh Phaolô tỏ bày với dân thành Rôma, rất cứng lòng. Theo thánh-nhân, thì nam nhân, nếu không được trợ giúp, hầu như không có khả năng mở rộng lòng mình cách tích cực và vui vẻ với Chúa. Xem ra, Chúa được nam-nhân quan niệm như kình-địch chứ không như Đấng Cứu độ, khiến cần có sự trợ-giúp của nữ phụ, nam-nhân mới hiểu thế nào là ân-huệ.
Nữ-giới ngày nay thường muốn tham gia thế giới của nam-nhân, hầu có được vài đặc tính/đặc điểm của nam nhân, và có thể làm được những việc mà nam-nhân từng làm, cũng như có được tự do và toàn quyền chọn nghề nghiệp như nam nhân. Gần cận Chúa, nam nhân cũng cần sự trợ giúp của nữ-giới. Tuy thế, nữ-giới vẫn bị hạn chế trong nhiều sự việc; vẫn bị khai thác, bóc lột rồi còn bị nam-nhân vùi dập, nhận chìm trong tối tăm. Đặc biệt hơn, nữ-giới vẫn bị trở ngại vì chính mình, cách thực thụ.
Nơi nữ giới, chứ không phải nam-nhân, vẫn có thói quen giữ vững các giá-trị căn-bản của con người trong hiểu biết Chúa. Chính vì thế, Chúa đã phó thác nam-nhân cho nữ giới và yêu cầu nữ giới chỉ cho nam-nhân cách thức gần-cận Chúa. Nữ-giới trổi vượt hơn nam-nhân về chuyện này là nhờ lòng đạo đức cùng sức mạnh thiêng liêng khiến nữ giới biết rõ sự thể Chúa là trọng-tâm của cuộc sống. Tự bản chất, đích thực Chúa ủy-thác mọi sự về con người cho mỗi người và mọi người. Nhưng nữ-giới lại quan tâm nhiều hơn nam-nhân về chuyện ấy. Chuyện ấy, là do bản-chất của nữ-giới, vẫn như thế.
Thật ra thì, Chúa nhận ra là nữ-giới mạnh-mẽ hơn nam-nhân về đạo đức và về nguồn mạch linh-đạo. Chúa giao cho nữ-giới trọng-trách chăm lo cho nam-nhân. Chính vì thế, nữ giới có ơn gọi bảo-vệ sự sống con người, bảo vệ sự sáng-tạo, chăm nom mọi sự về con người, và nữ-giới làm thế rất đắc lực do nữ-tính của mình.
Về với Đức Nữ-Trinh Maria. Mẹ là đấng được chúc phúc hơn mọi người nữ. Sứ-vụ của Mẹ được các nữ phụ chuẩn-bị và vẫn được nhiều nữ-phụ thực–thi; nhưng theo truyền thống Kitô-giáo, Mẹ là ví-dụ điển hình của sự hiền dịu, thương yêu hơn tất cả. Đặc-ân của Mẹ là đưa Chúa đi vào với thế giới của con người; và từ đó, đưa con người vào với thế-giới của Thiên Chúa. Con người được cưu-mang đến với Chúa là nhờ nữ-tính của Đức Trinh Nữ Maria. Ngang qua Mẹ, mọi nam-nhân được Đức Chúa, Con của Mẹ vui vẻ đón nhận.
Chỉ mình Mẹ, chứ không phải mọi người nữ nói chung, được chúc-phúc do bởi nơi Mẹ, là biến cố độc-nhất trong đời con người xảy đến, mới diễn tả sự đầy-tràn của thời gian, diễn tả cả tính chất nhân-bản và ơn cứu-độ. Nhập-thể diễn ra nơi Mẹ và do Mẹ. Nơi Mẹ, toàn thể “nhân loại” nơi phụ nữ đã đổi thay. Mẹ là Người-Nữ-của-Ơn-huệ-cứu-độ Chúa ban cho con người và cuối cùng đã hoàn-tất. Một lần nữa, Mẹ đã biến thành hiện-thực tính hiền-dịu xưa/cũ bị quên lãng của người nữ và của Chúa. Nữ-tính nơi Mẹ không chỉ là trường hợp “có thêm” về nữ-tính hiền-dịu rất vĩnh cửu, hoặc bản-năng làm Mẹ Hiền của nhân loại. Nơi Mẹ, bản năng và đức tính ấy đã trở thành của Đức Maria, về Maria, cho ta.
Đó là lý do tại sao ta muốn nhận biết Mẹ, không chỉ là Me của ta và của Chúa, hoặc là môn đệ Đức Giêsu hoặc “Nữ vương” thiên đàng mà thôi, nhưng trong mẹ và cho chính Mẹ, là nữ phụ nữa. Thật ra, Chúa làm nhiều điều kỳ-diệu cho Mẹ và Mẹ cũng đáp-ứng bằng cách chạm-khắc chúng vào nữ-tính thẳm sâu nơi Mẹ, để cứu rỗi mọi người. Người nữ khác, ắt sẽ phải ghen tị về Mẹ, nhưng họ cũng sẽ thấy nơi Mẹ những điều tốt đẹp nhờ Mẹ và do Mẹ mà có.
Giả như tất cả các đặc tính vượt trội ấy, là chính Mẹ và Mẹ hiện hữu là vì ta, để cho ta, thì ta có thể bắt đầu cảm kích biết rằng: sự chết không thể bắt chụp được Mẹ. Mẹ sống không có nghĩa là “chết cho chủ nhân” là nam nhân của Mẹ. Mẹ sống là cho sự sống. Mẹ có đó, khi nam-nhân lẫn nữ-giới đi vào cõi chết, nhưng Mẹ không sống để rồi sẽ phải chết, và Mẹ sẽ chứng-tỏ cho mọi người thấy: chỉ mình Mẹ mới được thế. Ta cũng có thể nói thế, với mọi nữ-phụ; nhưng ta sẽ thấy rõ điều đó khi nhìn mọi phụ-nữ qua tầm-nhìn của Đức Mẹ. Mẹ là Trăng Tròn giữa tinh tú.
Theo cách nào đó, ta có thể nói một cách đầy tin-tưởng rằng: Mẹ Về Trời cả hồn lẫn xác, theo nghĩa: toàn bộ căn-tính con người của Mẹ, đã đi vào vũ-trụ thiên-đường của Chúa, có Chúa. Chính nữ-tính của Mẹ và lòng muốn yêu thương mọi người chúng ta, được Mẹ mang theo “về trời” với Chúa. Và, lòng muốn ấy, được Mẹ dùng để tỏ cho ta biết, nhưng không phải để biết thế nào là thiên đường, mà là đưa ta vào cõi thiên đường, có Chúa. Quả thật, Mẹ đã mang toàn thể nhân loại cùng với Mẹ, qua động thái về “trời của Chúa”, có Chúa.
Thành ra, tất cả chúng ta –nam-nhân hay nữ-giới- đều được Mẹ “đem về trời” cùng với Mẹ và do bởi Mẹ. Chính đó, là ý nghĩa của lễ hội “Mẹ Về Trời”, và cũng là hội lễ của chúng ta nữa. Không có Mẹ, chắc chắn không ai được như thế. Như thế, là như thể: đã có Chúa, ở Nước Trời, về trời.
Trong tâm tình cảm nghiệm, hãy cùng Mẹ và cùng nhau hát lên câu thơ đời đầy ý nghĩa, rằng:
“Tôi nhập hồn tôi trong khúc hát,
Để nhờ không khí đẩy lên trăng.
Để nghe tiếng nhạc Nghê Thường trổi.
Để hớp tinh-anh của nguyệt cầu.
Và để thoát lý ngoài thế giới,
Để cười, để trửng, để yêu nhau.”
(Hàn Mặc Tử – Chơi Lên Trăng)
Hớp “tinh-anh nguyệt-cầu”, là hớp “hồn” người có Mẹ cùng hớp, để người người yêu nhau, thoát ly ngoài thế giới mà về với Chúa, với Mẹ rất “Về Trời” cả xác lẫn hồn, rất Nghê thường.
Lm Kevin O’Shea CSsR
Mai Tá lược dịch















32. Tình Mẹ Còn Mãi



Có một bài hát dân ca về mẹ mà có lẽ trong chúng ta chẳng mấy ai không biết đến:
“Vườn rau, vườn rau xanh ngắt một màu,
“Có đàn, có đàn gà con nương náu,
“Mẹ quê, mẹ quê vất vả sớm chiều,
“Nuôi đàn, nuôi một đàn con chắt chiu…” (nhạc Phạm Duy)
Bài hát diễn tả hình ảnh người Mẹ nơi những vùng thôn quê trên khắp mọi miền đất nước. Nơi thôn quê, bà mẹ ngoài công việc đồng ruộng, có khi còn chịu khó kiếm thêm thu nhập bằng buôn gánh bán bưng. Có bà chiều chiều gióng gánh trên vai đi dạo từ đầu làng đến cuối xóm, để mua lại buồng chuối, dăm trái mãng cầu, vài trái mít… sáng mai ra chợ bán kiếm ít đồng lời. Có bà cũng gióng gánh đi mua lúa, mua gạo để bán lại làm “hàng xáo”!
Trên ruộng đồng, có lúc rau trái dư thừa như ngọn bầu, rau lang, cà pháo, cà dừa, ớt cay…bà Mẹ cũng chịu khó thu gom đem ra chợ bán, mặc dù biết chẳng được bao nhiêu.
Tất cả những điều đó như thể hiện tấm lòng người mẹ. Một người mẹ luôn hy sinh cho con, luôn lo cho con, ngay cả khi con cái đã lớn khôn tung cánh vào đời, mẹ vẫn mong được chăm sóc cho con:
Biết chiều nay con về thứ bảy
Gánh rau xanh mẹ hái nhiều hơn
Chợ huyện cách xa, ngày đông tê tái
Bước chân gầy vẫn bám chặt đường hơn.
Với mẹ, không đứa con nào là lớn cả, dù có làm đến ông này bà nọ, vẫn luôn cần đến những lời an ủi chia sẻ hay đơn thuần chỉ là bóng dáng còm cõi theo năm tháng của mẹ hiền. Mẹ luôn bênh vực che chở cho con. Tình thương của mẹ dành cho con luôn bất tử, mãi mãi theo con, cho dù:
“Nếu ngày mai trên đường đời vấp ngã
Con hãy gọi 2 tiếng MẸ YÊU!
Mẹ đi xa, nhưng mẹ vẫn bên cạnh.
Linh hồn này, mẹ vẫn mãi theo con”.
Cuộc đời người tín hữu chúng ta cũng có một người mẹ yêu thương, chăm sóc chúng ta. Một người mẹ luôn theo chúng ta suốt đời. Mẹ đi bên cạnh cuộc đời chúng ta không chỉ là linh hồn mà còn cả thân xác Mẹ, đó chính là Đức Trinh Nữ Maria.
Mẹ Maria đã được Chúa đưa cả hồn và xác về trời. Mẹ Maria không chết. Tình Mẹ vẫn mãi mãi thiên thu ở bên đoàn con suốt cuộc đời. Thế nhưng, niềm vui và hạnh phúc chỉ ngập tràn trong cuộc đời chúng ta nếu chúng ta ý thức Mẹ vẫn đang sống bên cạnh chúng ta. Chúng ta đang từng phút giây tận hưởng tình thương và sự chăm sóc vỗ về của Mẹ, nhưng thật bất hạnh nếu chúng ta chỉ sống như người mồ côi, thì có lẽ chúng ta cũng chỉ ngậm ngùi như người Phật Tử nhận lấy bông hồng trắng trong ngày của mẹ với lời ai oán: “Mất mẹ là mất cả bầu trời” thương yêu.
Thế nhưng, biết bao người Công giáo đã sống như những người mồ côi Mẹ. Vì rất nhiều người đã không cầu nguyện cùng Mẹ. Rất nhiều người đã đẩy mẹ ra khỏi cuộc đời mình. Chỉ cần một câu kính mừng, chúng ta ca tụng mẹ là Đấng đầy ân phước để rồi từ đó chúng ta xin Mẹ gìn giữ chúng ta khỏi mọi hiểm nguy trong cuộc đời. Nhiều người cho rằng không có giờ cầu nguyện, nhưng họ quên rằng, tâm lý của các bà mẹ chỉ cần con còn cần đến mẹ thì bà sẵn sàng làm tất cả cho con.
Hôm nay lễ mẹ hồn xác lên trời, thiết tưởng đây là niềm vui cho cuộc đời chúng ta, vì chúng ta có một người Mẹ bất tử, một người Mẹ ở trên thiên quốc luôn sẵn lòng ban ơn cho con cái khi chúng kêu xin. Một người Mẹ đã đi qua biết bao thăng trầm của dòng đời để có thể hiểu hết những khó khăn của con người. Mẹ đã hiểu và chắc chắn Mẹ sẽ chia sẻ với những khó khăn trong cuộc đời chúng ta. Vì thế, với lòng hân hoan chúng ta cùng mượn tâm tình của bài hát “Bông Hồng Cài Áo” của Phạm Thế Mỹ để thưa với Mẹ:
Rồi một chiều nào đó con về nhìn Mẹ yêu, nhìn thật lâu
Rồi nói, nói với Mẹ rằng “Mẹ ơi, Mẹ ơi, Mẹ có biết hay không?”
– Biết gì? “Biết là, biết là con thương Mẹ không?”
Nguyện xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho mỗi người chúng ta luôn được hồn an xác mạnh, ơn thánh dư đầy để phụng sự Chúa trong mọi người như Mẹ. Amen
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền















33. Phúc Đức Tại Mẫu
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền



Văn hóa Việt Nam rất coi trọng tình mẹ. Tình mẹ luôn cao quý. Tình mẹ luôn là động lực cho con cái lớn khôn làm người. Thế nên, người mẹ luôn được tôn vinh ở mọi nơi mọi chốn. Người ta thường dùng chữ mẹ để tôn vinh những nơi chốn, những gì là thiêng liêng cao cả. Thí dụ: đất mẹ, quê mẹ hay tiếng nói mẹ đẻ.
Người mẹ còn là một gia sản quý báu cho con cái. Gia sản ấy không phải là tiền bạc, tài sản mà là phúc đức cho con. Đó là lý do người ta nói: “Phúc đức tại mẫu”. Vì người xưa cho rằng người mẹ nếu ăn ở tốt sẽ để lại những điều tốt lành cho con. Suy rộng ra là việc một người mẹ, người bà có thể để lại phúc đức cho con cháu hay không đều phụ thuộc vào cách sống, cách đối nhân xử thế của người đó.
Có một người mẹ tuy không được học chữ, vậy mà khi con học xa nhà, bà đã cố gắng viết cho con mấy dòng ngắn ngủi, nét chữ run rẩy và to như trẻ con học mẫu giáo tập viết. Bà viết: “Mẹ ít học hơn con nên mẹ tin con hiểu đời nhiều hơn mẹ. Mẹ chỉ muốn dặn con một điều rằng con đi xa hãy nhớ: Ăn một miếng của người con tạc ân vào dạ; Học một chữ ở đời con xem nặng nhẹ bao nhiêu”. Lời dặn thật mộc mạc nhưng ẩn chứa biết bao triết lý cho cuộc sống. Chính những lời dạy đơn sơ ấy đã uốn nắn con thành người. Thật phúc đức cho những ai có người mẹ thấu tình đạt lý như thế!
“Phúc Đức tại mẫu”, như còn muốn nói người mẹ, người vợ không chỉ mang phúc đức cho con, mà còn là mối giây liên kết cho nhiều thành viên trong một đại gia đình. Trong gia đình họ tộc có những mối quan hệ không trói buộc bằng tiền bạc. Con ghi ơn cha mẹ. Anh chị em gắn bó với nhau. Họ hàng qua lại với nhau đều không phải vì tiền bạc mà tất cả các mối quan hệ ấy chỉ có thể tồn tại được nếu có tình cảm với nhau. Và trên hết, người phụ nữ chính là sợi dây tình cảm nối liền cha với con, nối anh chị em lại với nhau, nối các bậc thông gia cho gần gũi. Người mẹ, người vợ được xem là người có khả năng và thiên chức điều hòa mọi thành viên một cách hữu hiệu nhất. Câu “Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm” không chỉ đúng cho thời xưa mà cả mọi thời đại.
Đó là lý do Con Một Thiên Chúa Nhập Thể Làm Người cũng đã nhận lấy con đường bình thường mà trân quý ấy. Maria, người nữ Sion đã vâng phục ngay từ ngày đầu khi thiên sứ truyền tin, nhận lấy những nhọc nhằn vất vả của vai trò làm Mẹ. Mẹ đã đảm nhận trọn vẹn thiên chức cao quý nhưng không thiếu khổ đau như bất cứ người mẹ nào trong nhân loại. Trong lòng tin, người mẹ ấy đã âm thầm vâng phục, đón nhận, lắng nghe và bước theo Con của mình trong hành trình cứu độ. Mẹ đã xin vâng không chỉ một lần trong ngày sứ thần truyền tin, mà Mẹ đã xin vâng trong suốt dọc dài cuộc sống khi để cho thánh ý Chúa thực thi nơi Mẹ. Lời xin vâng của mẹ đạt tới đỉnh cao trong hành trình thương khó mà Mẹ đã cất bước cùng con của Mẹ lên đồi Canve. Cuối cùng, Mẹ đã được Thiên Chúa đoái thương cất nhắc về Trời cả hồn lẫn xác, một trong bốn đặc ân cao cả Thiên Chúa đã ban cho Mẹ. Đây là một phần thưởng mà Thiên Chúa đã dành cho một người mẹ vĩ đại của Con Thiên Chúa.
Ngày hôm nay, Mẹ Maria vẫn tiếp tục lãnh lấy vai trò làm mẹ chúng sinh. Mẹ vẫn ân cần chăm sóc nhân loại. Có lẽ chúng ta cũng sống nhờ “phúc đức tại mẫu” nơi Mẹ Maria. Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta. Thiên Chúa vẫn tha thứ và bao dung với chúng ta nhờ lời cầu khẩn rất đẹp lòng Thiên Chúa của Mẹ Maria. Và chắc chắn, Mẹ Maria cũng là mối dây liên kết chúng ta trong một đại gia đình của Mẹ. Nơi Mẹ Maria còn là máng thông ơn Chúa đến cho con cái của Mẹ. Biết bao nhiêu người con đã chạy đến kêu cầu Mẹ để nhờ Mẹ và qua Mẹ ơn Chúa đến với họ. Biết bao người đã tìm được bình yên khi nép mình bên tà áo từ bi của Mẹ.
Quả là rất đúng khi người xưa nói rằng”:
Lạ gì con có giống ai,
Phúc đức tại mẫu là lời thế gian.
Xin cho chúng ta luôn biết trân quý mối dây thân tình với Mẹ. Xin cho chúng ta cũng biết học để noi gương bắt chước Mẹ khi biết sống xin vâng theo thánh ý Chúa. Xin đừng để những đam mê dục vọng, những thói đời lôi cuốn vào đường xấu mà biết bám vào tà áo Mẹ để Mẹ chở che chúng ta trước những dòng chảy đầy tội lỗi lôi cuốn. Ước gì chúng ta luôn biết sống nhờ phúc đức của Mẹ mà tiến bước trên con đường nhân đức, con đường về trời trong ân phúc của Chúa. Amen.















34. Maria, Thầy Dạy Đức Tin
Lm. G.B. Trần Văn Hào



Trong một đan viện nọ, có hai tu sĩ ngồi đàm đạo để cùng giúp nhau thăng tiến về đời sống thiêng liêng. Họ mở Kinh Thánh ra và cùng nhau chia sẻ. Đoạn Kinh Thánh được đọc lên, trích trong Tin mừng Luca chương 15, nói về dụ ngôn đứa con hoang đàng. Câu chuyện khá dài với nhiều tình tiết. Gấp sách lại, cả hai thinh lặng cầu nguyện và trao đổi. Một đan sĩ lên tiếng “Tôi không hiểu tại sao thằng bé này lại bỏ nhà đi hoang. Nó có một gia đình khá đầy đủ về vật chất. Hơn nữa, nó còn có một ông bố yêu thương nó hết lòng. Vậy tại sao nó lại thoát ly gia đình?”. Suy nghĩ một lát, vị đan sĩ kia lên tiếng “Đứa bé này bỏ nhà đi bụi, vì trong ngôi nhà ấy vẫn vắng bóng một người mẹ”.
May mắn, chúng ta có một người Mẹ tuyệt vời là chính Đức Maria. Người vừa là hiền mẫu, vừa là Thầy dạy đức tin và cũng là đấng phù trợ chúng ta trong cuộc lữ hành đức tin trần thế. Mừng lễ Mẹ lên trời hôm nay, Giáo hội cũng nhắc nhớ chúng ta hướng về người mẹ thiêng liêng và tuyệt diệu này. Đồng thời, chúng ta cũng nhìn về Đức Maria như là khuôn mẫu đức tin để noi theo.
Ý nghĩa mầu nhiệm Mẹ lên trời hồn xác.
Năm 1950, Đức Thánh Cha Piô XII đã công bố tín điều này. Đây là tín lý thuộc đức tin mang tính thần khải và Công giáo. Giáo hội xác tín chân lý ấy dựa vào nhiều lý chứng.
Trước hết, bởi vì Mẹ là thụ tạo vượt trội, đã được Chúa giữ gìn khỏi lây nhiễm tội lỗi. Tội tổ tông không để lại âm hưởng gì nơi Mẹ, đồng thời Thiên Chúa cũng gìn giữ mẹ luôn mãi vẹn tuyền. Ngay từ ban đầu, Thiên Chúa đã chọn Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế, nên Ngài phó trao cho Mẹ những đặc sủng tương thích với sứ vụ cao cả này. Thân xác Mẹ cho dù có phải nếm trải sự chết giống như Đức Giêsu, nhưng thân xác vẹn tuyền đó không thể bị hủy hoại. Vì vậy Giáo hội xác tín rằng sau khi chết, Mẹ đã được đưa về trời cả hồn lẫn xác.
Thứ đến, cuộc đời của Mẹ đã gắn kết chặt chẽ với Đức Giêsu. Đức Giêsu đã phục sinh và lên trời. Mẹ cũng vậy. Phần thưởng nước trời dành cho Mẹ như một hệ quả tất yếu của sự hiệp thông vẹn tròn với Đức Giêsu.
Đọc lại Kinh Thánh, chúng ta sẽ thấy ngay từ những trang đầu tiên, Kinh Thánh đã nói đến sự chiến thắng của người nữ trên con rắn. Người nữ đạp dập đầu con rắn và con rắn rình cắn gót chân bà. Người phụ nữ này là hình tượng chỉ về Hội thánh, về Đức Maria, về những con người sống hiệp thông chặt chẽ với Đức Giêsu trong nhiệm cục cứu độ. Cũng tương tự, người nữ trong sách Khải Huyền đã chiến thắng con rồng đỏ, cũng ám thị về Đức Maria và về toàn thể Giáo hội.
Giáo hội công bố tín điều này để mời gọi chúng ta hướng về Mẹ như khuôn mẫu đức tin. Mẹ chính là Thầy dạy Đức tin cho chúng ta.
Thầy dạy đức tin.
Sau khi Chúa về trời, Kinh Thánh nói rất ít về Mẹ. Tin mừng Gioan chỉ tóm gọn trong một câu ngắn: “Từ lúc ấy, môn đệ đem Mẹ về nhà mình” (Ga 19,27). Sách Tông đồ Công vụ chỉ duy nhất một lần nói về sự hiện diện của Đức Maria giữa các tông đồ khi cầu nguyện tại Giêrusalem trong dịp lễ Ngũ Tuần. Sau đó, Chúa Thánh Thần đậu xuống trên các tông đồ và trên Đức Mẹ. (Cv 1,12). Như vậy, sau biến cố Phục sinh, Mẹ đã hoàn toàn rút vào trong thinh lặng để suy niệm và cầu nguyện. Thái độ đức tin này cũng được Thánh Luca tóm kết bằng một câu đơn giản: “ Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong long” (Lc 2,19). Vì vậy, qua phụng vụ hôm nay, Giáo hội cũng mời gọi chúng ta hướng về Mẹ như là Thầy dạy đức tin của mọi tín hữu.
“Phúc cho bà là kẻ đã tin” (Lc 1,45). Đây là lời được mặc khải qua miệng bà Elizabeth. Trước khi chúng ta chiêm ngắm các nhân đức và những đặc phúc nơi Mẹ, chúng ta hãy nhìn về Mẹ như là Thầy dạy đức tin của chúng ta.
Cuộc hành trình đức tin của Mẹ được dàn trải trong suốt cả cuộc sống, từ biến cố truyền tin đến cao điểm là phút giây hiệp thông trọn vẹn với Đức Giêsu dưới chân Thập giá. Thái độ đức tin đó được thể hiện bằng cách Mẹ luôn tìm kiếm và quy thuận thánh ý Thiên Chúa. Có lần, khi Chúa Giêsu đang giảng giữa đám đông, Đức Maria chợt đến. Người ta báo cho Chúa biết là ‘bà cố’ đang đến. Người trả lời:“Ai là mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Mc 3,31-35). Đức Giêsu gián tiếp đề cao thái độ đức tin nơi Mẹ. Tính cách làm Mẹ của Ngài hệ tại ở việc biết nghe lời Thiên Chúa và đem ra thi hành.
Mẹ được đem về trời cả hồn lẫn xác là dấu chứng của một cuộc vinh thắng, và đó chính là cuộc chiến thắng trong đức tin. Trong thư Rôma, thánh Phaolô so sánh Ađam với Đức Kitô (xem chương 5). Ađam gieo sự tội vào trần gian vì bất tuân, còn Đức Kitô đưa sự giải án tuyên công đến cho con người qua vâng phục. Cũng như Evà đã liên đới với Ađam trong tội nguyên tổ, thì Đức Maria được sánh ví như Evà mới, đã hiệp thông trọn vẹn với Đức Giêsu để đem ơn cứu độ đến cho con người. Nhiều thần học gia còn gọi Mẹ là Đấng ‘Đồng công Cứu chuộc’ (Corredemptorist). Sách Giáo lý Công giáo cũng mời gọi chúng ta hướng nhìn về Mẹ như là Biểu tượng Cánh chung (Eschatological Icon) cho toàn Giáo hội trong cuộc lữ hành trần thế (Giáo lý Công giáo số 972). Những điều này nói về Mẹ như là khuôn mẫu và Thầy dạy đức tin cho chúng ta.
Kết luận
Ở Đức, trong một vở kịch diễn lại Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu, diễn viên trình diễn cảnh Giuđa sau khi phản bội đã ra đi tự vẫn. Trước khi chết, anh ta thét lên: “Khốn thân tôi, tôi biết chạy đến với ai bây giờ?”. Nghe như vậy, một đứa trẻ ở gần đó nói với mẹ: “Mẹ ơi, sao anh ta không chạy đến với Mẹ Maria”.
“Trên đời này, không có một kỳ quan nào cao cả và vĩ đại cho bằng trái tim của người mẹ”. Cũng vậy, chúng ta có Đức Maria là Hiền Mẫu, là Thầy dạy đức tin và cũng là nơi nương náu an toàn nhất trong cuộc lữ hành trần thế hôm nay.















35. Hướng Lòng Về Trời Với Mẹ
Huệ Minh



Vào thế kỷ 19, có một luồng thần học chủ trương rằng Đức Maria không phải chết và luồng thần học đó xin Đức Thánh Cha hãy định tín như vậy. Với lý luận cũng như lập trường của họ, họ cho rằng Đức Maria không mắc tội nguyên tổ, nên không phải chết bởi vì sự chết là hình phạt của tội nguyên tổ.
Tuy nhiên đa số các nhà thần học cho rằng Đức Maria đã chết và sau đó được sống lại. Đức Piô XII không bàn tới vấn đề này, không nói rằng Mẹ không phải chết, cũng chẳng nói Mẹ đã chết và đã sống lại; nhưng chỉ nói rằng: sau khi chấm dứt cuộc đời dương thế, Mẹ được cất về trời cả xác và hồn. Nhìn Đức Mẹ ngủ, tôi thấy sáng lên vẻ đẹp thánh thiện cao quý. Mẹ tuyệt đẹp vì Mẹ đầy ơn Chúa. Mẹ đẹp thánh thiện vì ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội. Mẹ đẹp cao quý vì làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Mẹ tuyệt mỹ vì niềm tin đơn sơ và cuộc sống khiêm nhường. Nét đẹp ấy thoang thoảng như như một hương thơm hảo hạng toả ra lôi cuốn. Nét đẹp ấy mặn mà như thứ muối thiêng liêng. Nét đẹp ấy lung linh như ánh sáng dịu mát. Nét đẹp ấy huyền diệu như âm nhạc dịu êm mời gọi con người nâng tâm hồn lên tới Chúa.
Ngày 1-11-1950, đúng vào dịp lễ Các Thánh Nam Nữ, Đức Thánh Cha Piô XII long trọng tuyên bố tín điều Đức Maria Hồn Xác Lên Trời: “Thánh Mẫu Thiên Chúa là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Maria Trọn Đời Đồng Trinh, sau khi sống trọn cuộc đời trần thế, đã được triệu hồi cả hồn và xác vào trong vinh quang thiên quốc”.
Và khởi đi từ lời tuyên bố trong Thánh Lễ tuyên tín long trọng hôm ấy, mầu nhiệm Đức Maria được Thiên Chúa đưa về trời cả hồn và xác, trở thành chân lý đức tin cho toàn thể Giáo hội.
Mở ra những trang Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo từ số 963- 975, ta thấy 5 lý chứng rất mạnh mẽ và xác thực minh chứng việc Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời:
Vì Đức Maria là Mẹ Chúa Kitô: Thánh Kinh diễn tả rõ ràng Đức Maria hiệp thông chặt chẽ với Chúa Giêsu trong nhiệm cuộc cứu chuộc, và luôn chia sẻ số phận với Con. Vậy xét theo thiên chức làm Mẹ, đương nhiên đòi hỏi phải có việc Mẹ và Con hòa hợp sum vầy với nhau, vì cả hai đã yêu mến nhau tha thiết, cho nên chắc chắn Chúa Kitô vì lòng hiếu thảo, đã ban cho Mẹ mình được hồn xác về Trời sau khi ly trần, là điều hợp tình hợp lý.
Vì Đức Maria Trọn Đời Trinh Khiết: Thiên Chúa đã làm cho Đức Maria chịu thai, sinh con mà vẫn trinh nguyên, thì sau khi Mẹ qua đời, Ngài đã gìn giữ thân xác Đức Mẹ khỏi hư nát, và sau khi đem Mẹ về Trời, Ngài đã làm cho xác Mẹ nên vinh hiển. Nên thánh Đamascênô tiến sĩ quả quyết: Vì Đức Mẹ đã được sinh con mà vẫn trinh nguyên, thì cần thiết là sau khi qua đời, xác Đức Mẹ cũng phải được bảo tồn nguyên vẹn.
Vì Đức Mẹ luôn hợp tác với Chúa Kitô: ngay từ thế kỷ II, các Giáo Phụ đã trình bày Đức Mẹ như là một Evà Mới hợp tác chặt chẽ với Adam Mới là Chúa Kitô để chiến thắng satan. Vì thế, cũng như Chúa Kitô sống lại vinh hiển là việc thiết yếu và là dấu chiến thắng cuối cùng, thì Đức Mẹ đã cùng Con chiến đấu cũng phải được cùng Con chiến thắng, nghĩa là Thân Xác Đồng Trinh của Đức Mẹ cũng phải được Lên Trời Vinh Hiển.
Vì Đức Mẹ Đầy Ơn Phúc: các thánh tiến sĩ đã coi việc Đức Mẹ Hồn Xác về Trời như là bổ túc cho việc Đức Mẹ được Đầy Ơn Phúc. Như lời cha Ađômêô quả quyết: Thân xác Đức Mẹ không hề bị hư nát vì đã kết hợp với linh hồn và đã được đầy ơn.
Vì Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội: theo lời xác quyết của Đức Thánh Cha Piô XII: “Thân xác con người bị chết và bị tan rã ra tro đất là do hậu quả tội Nguyên Tổ. Đức Maria không hề mắc tội Nguyên Tổ, cũng không hề có tội riêng, cho nên đương nhiên và rất hợp lý là Đức Maria được Hồn Xác Về Trời”.
Mẹ về trời có nghĩa là mẹ đang sống. Sự sống của Mẹ không phải chỉ giới hạn trong cuộc đời, nhưng bao trùm cả lịch sử: Lịch sử của cả loài người lẫn lịch sử của mỗi người chúng ta.
Đức Mẹ là một thụ tạo nhưng được Thiên Chúa cho về trời cả hồn và xác mà không phải đi qua ngưỡng cái chết, gọi là “mông triệu”. Đó là một đặc ân vì Mẹ vô nhiễm nguyên tội, hoàn hảo các nhân đức, và mau mắn xin vâng Thánh ý Chúa Cha. Đức Mẹ về trời là ấn tín bảo đảm cho những người tin vào Đức Kitô cũng sẽ được sống lại và lên trời sau khi hoàn tất chuyến lữ hành trần gian. Lên trời là về Quê Hương Vĩnh Hằng, mục đích của mỗi Kitô hữu là như vậy.
Thị kiến kỳ lạ mà Gioan đã thấy và đã ám chỉ Đức Mẹ. Thánh Gioan cho biết thêm: “Tôi nghe có tiếng hô to trên trời: Thiên Chúa chúng ta thờ giờ đây ban ơn cứu độ, giờ đây biểu dương uy lực với vương quyền, và Đức Kitô của Người giờ đây cũng biểu dương quyền bính, vì kẻ tố cáo anh em của ta, ngày đêm tố cáo họ trước toà Thiên Chúa, nay bị tống ra ngoài” (Kh 12,10). Thị kiến này cũng khiến chúng ta phải cẩn trọng hơn về đức ái, nhất là trong cách đối xử với tha nhân hằng ngày.
Ngay cả Hồi giáo cũng tôn trọng Đức Mẹ, coi Đức Mẹ là phụ nữ cao cả nhất trong Kinh Koran (Kinh thánh của Hồi giáo). Công giáo có nhiều danh xưng dành cho Đức Mẹ: Nữ vương Hòa bình, Đức Maria Trinh Vương, Đức Mẹ Phù hộ các Giáo hữu, Đức Mẹ Ban Ơn Lành, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Đức Mẹ Mân Côi, Đức Mẹ Thương Xót, Đức Mẹ Vô Nhiễm, Đức Mẹ Hoa Hồng,… và Đức Mẹ còn gắn liền với các địa danh trên khắp thế giới, riêng Việt nam cũng có Đức Mẹ La Vang, Đức Mẹ Giang Sơn, Đức Mẹ Mằng Lăng, Đức Mẹ Sao Biển, Đức Mẹ Trà Kiệu,…
Tác giả Thánh vịnh đã từng ca tụng: “Hàng cung nữ, có những vì công chúa, bên hữu ngài, hoàng hậu sánh vai, trang điểm vàng Ô-phia lộng lẫy. Tôn nương hỡi, xin hãy nghe nào, đưa mắt nhìn và hãy lắng tai, quên dân tộc, quên đi nhà thân phụ. Sắc nước hương trời, Quân Vương sủng ái, hãy vào phục lạy: Người là Chúa của bà” (Tv 45,10-12)
Quyền năng và tình yêu Chúa tràn đầy trên Mẹ làm cho Mẹ được khỏi tội tổ tông và được đầy ơn ơn sủng ngay từ trong lòng mẹ. Quyền năng và tình yêu Chúa bao phủ suốt cả đời Mẹ trên từng ý nghĩ, từng tình cảm, từng mỗi hành động, từng mỗi bước đi… khiến cho tâm hồn Mẹ luôn hướng về Chúa mà tạ ơn và ngợi khen liên lỉ. Quyền năng và tình yêu Chúa đong đầy trọn vẹn nhất trong khoảnh khắc lịch sử, Mẹ lên trời cả hồn cả xác. Đặc ân cao trọng này, chính là triều thiên sáng chói bao phủ lên Mẹ, vốn đã được “Thánh Thần ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao rợp bóng trên bà” (Lc 1,35).
Với lời Xin Vâng và bằng lời Xin Vâng trót cả tâm tình phó thác, Mẹ để cho Thiên Chúa hoàn toàn làm chủ cuộc đời của mình để làm những việc Thiên Chúa muốn làm trong chương trình cứu rỗi loài người chúng ta.
Ngày Chúa Giêsu Đấng Cứu thế ra đời, khởi đầu công việc cứu thế, Mẹ có mặt ở đó để chứng kiến giây phút trọng đại này.
Lúc Chúa khởi sự cuộc đời công khai, tại tiệc cưới Cana, Mẹ có mặt ở đó như một người mẹ luôn lo lắng cho con cái của mình.
Lúc Chúa rao giảng: Mẹ có mặt xa xa; nhưng khi Chúa bị treo trên Thánh Giá: Mẹ đứng thật gần. “Mẹ đứng sát cạnh Chúa Giêsu… như một trợ lực cho người con để Ngài làm xong những công việc cần phải làm cho mọi sự được hoàn tất.”
Và vào ngày đầu tiên đánh dấu sự ra đời của Giáo hội, Mẹ có mặt ở đó với tất cả lòng yêu thương để khích lệ các tông đồ can đảm dấn thân vào cuộc sống mới: Cuộc sống làm chứng cho Chúa Giêsu Phục sinh.
Và rồi Mẹ cũng tiếp tục có mặt, có mặt như một nhắc nhở để những người con của mẹ nơi trần thế chớ có vì cuộc sống tạm bợ mà quên mất trời cao.
Trong Mầu nhiệm Mân Côi mùa Mừng, mầu nhiệm thứ tư: Đức Chúa Trời cho Đức Mẹ lên trời. Xin cho con được chết lành trong tay Đức Mẹ. Mầu nhiệm thứ năm: Đức Chúa Trời thưởng Đức Mẹ trên trời. Xin cho con được thưởng cùng Đức Mẹ trên Nước Thiên Đàng. Hai mầu nhiệm này không chỉ nhắc nhở chúng ta cầu nguyện với Đức Mẹ, mà còn hy vọng được trường sinh để cùng Đức Mẹ mãi mãi chúc tụng Thiên Chúa. Đường về dù xa hay gần, đường đi có thể gập ghềnh nhiều nỗi, nhưng có Đức Mẹ đồng hành thì chúng ta cứ an tâm tiến bước.
Mẹ Maria đã được Chúa đưa cả hồn và xác về trời. Mẹ Maria không chết. Tình Mẹ vẫn mãi mãi thiên thu ở bên đoàn con suốt cuộc đời. Thế nhưng, niềm vui và hạnh phúc chỉ ngập tràn trong cuộc đời chúng ta nếu chúng ta ý thức Mẹ vẫn đang sống bên cạnh chúng ta. Chúng ta đang từng phút giây tận hưởng tình thương và sự chăm sóc vỗ về của Mẹ, nhưng thật bất hạnh nếu chúng ta chỉ sống như người mồ côi, thì có lẽ chúng ta cũng chỉ ngậm ngùi như người Phật Tử nhận lấy bông hồng trắng trong ngày của mẹ với lời ai oán: “Mất mẹ là mất cả bầu trời” thương yêu.
Mừng lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời là chúng ta xác tín lại niềm tin của chúng ta vào Chúa Giê-su: Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại.
Xin Đức Mẹ Maria luôn cầu bầu cho mỗi người chúng ta khi còn ở đời này, biết yêu mến những sự trên trời và để sống như đang sống với Mẹ ở trên trời.















36. Theo Gót Mẹ
Trầm Thiên Thu



Người ta thường nói: “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Một cách ví von đơn giản mà thâm thúy.
Trong cuộc sống đời thường, người mẹ có mức ảnh hưởng sâu đậm tới con cái – hầu như về mọi lĩnh vực. Mẹ đi đâu, con thường khóc đòi theo. Ở bên mẹ vừa an toàn vừa vui sướng. Đặc biệt hơn, chúng ta có một Người Mẹ của các người mẹ là Đức Maria, Thánh Mẫu Thiên Chúa. Chắc chắn chúng ta không thể không ảnh hưởng – nhất là về tâm linh.
Thật vậy, Thánh Ðamianô xác định: “Ðược sống dưới sự che chở của Đức Mẹ là một hạnh phúc lớn lao”. Còn Thánh François de Sales khuyên: “Hãy chạy đến với Đức Maria, ngã vào vòng tay Mẹ với lòng tin tưởng hoàn toàn”.
Theo nghĩa bình thường, lên trời là niềm mơ ước của nhiều người, nhưng chỉ ít người đạt được, số ít đó là các phi hành gia. Họ đã lên đó và “gặp” Hằng Nga, điều ma xưa kia là điều không tưởng. Theo nghĩa bình thường như vậy, và mang tính khôi hài một chút, phải nói rằng Chú Cuội là người lên Cung Trăng đầu tiên.
Lên trời như vậy chỉ là “tham quan” mặt trăng, hoặc “khám phá” một hành tinh nào đó, hoặc tìm hiểu các “lỗ đen” trong vũ trụ. Với các Kitô hữu, “lên trời” như vậy chỉ là… “chuyện nhỏ”, “về trời” mới đáng nói, vì đó là Quê Hương Đích Thực, về trời để vĩnh cư chứ không ở chơi ít lâu rồi thôi. Đặc biệt là nơi có Đức Kitô và Đức Maria đang chờ chúng ta. Vâng, về trời là niềm hy vọng lớn nhất và là hoài bão cuối cùng của những người tin vào Đức Giêsu Kitô Tử Nạn và Phục Sinh.
Nhưng muốn theo Đức Mẹ về trời thì phải noi gương sống của Đức Mẹ, nghe lời dạy của Đức Mẹ là “tuân phục Ý Chúa” – tức là “xin vâng” (Lc 1:38), và nhiệt thành làm “chứng nhân của Chúa cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:8), và quan trọng là can đảm cùng Đức Mẹ đứng dưới chân Thánh Giá để nhận lời trăn trối của Chúa Giêsu (Ga 19:25-27).
Đức Mẹ đã về trời cả hồn và xác – cũng gọi là Đức Mẹ mông triệu (*). Đó là một minh chứng hùng hồn và cụ thể bảo đảm cho niềm tin của chúng ta. Tín điều này được ĐGH Piô XII công bố ngày 1-11-1950, qua Thông điệp “Munificentissimus Deus” (Thiên Chúa Quảng Đại).
Nói tới chuyện “lên trời” có liên quan chuyện “hồn ra khỏi xác”, tức là chết. Có chết rồi mới sống lại và lên trời. Chết là “cửa ngõ” vào sự sống vĩnh hằng. Ai muốn làm công dân Thiên Quốc, chắc chắn người đó phải sống Luật Chúa một cách ngoan cường và anh dũng.
TỪ THỊ KIẾN…
Thánh Gioan kể lại thị kiến về Đền Thờ Thiên Chúa ở trên trời mở ra, với điềm lớn xuất hiện: “Một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12:1). Thật là vinh quang, nhưng không thiếu gian khó là sự công bằng tất yếu: “Bà có thai, đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con” (Kh 12:2). Quả thật, không có vinh quang nào lại không có đau khổ. Chính Đức Kitô đã phải qua “cửa tử” rồi mới tới “cửa sống” và chiến thắng khải hoàn. Đau khổ có giá trị cao lắm!
Thánh Gioan cho biết thêm: “Một Con Mãng Xà đỏ như lửa, có bảy đầu và mười sừng, trên bảy đầu đều có vương miện. Đuôi nó quét hết một phần ba các ngôi sao trên trời mà quăng xuống đất. Rồi Con Mãng Xà đứng chực sẵn trước mặt người Phụ Nữ sắp sinh con, để khi bà sinh xong là nó nuốt ngay con bà” (Kh 12:3-4). Đây là người-con-đặc-biệt, chính “người con trai này sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt muôn dân”, rồi sau đó, “Con bà được đưa ngay lên Thiên Chúa, lên tận ngai của Người” (Kh 12:5), còn “người Phụ Nữ thì trốn vào sa mạc, nơi Thiên Chúa đã dọn sẵn cho bà một chỗ ở, để bà được nuôi dưỡng ở đó, trong vòng một ngàn hai trăm sáu mươi ngày” (Kh 12:6).
Khi thấy thị kiến này, Thánh Gioan nghe có tiếng hô vang trên trời cao: “Thiên Chúa chúng ta thờ giờ đây ban ơn cứu độ, giờ đây biểu dương uy lực với vương quyền, và Đức Kitô của Người giờ đây cũng biểu dương quyền bính, vì kẻ tố cáo anh em của ta, ngày đêm tố cáo họ trước toà Thiên Chúa, nay bị tống ra ngoài” (Kh 12:10). Lúc đó là thời điểm gì? Đó là Giờ Cứu Độ, là thời điểm cuối cùng, là buổi cánh chung, là ngày tận thế, là lúc Chúa Giêsu giáng lâm để xét xử nhân loại, là Giờ Công Lý, không còn Giờ Thương Xót nữa.
Thánh Vịnh diễn tả về Đức Mẹ là “Hoàng Hậu đứng bên hữu Đức Vua, mặc đồ trang điểm vàng ròng lộng lẫy” [Tv 44 (45):10]. Cả triều thần hát vang lời chúc tụng: “Tôn nương hỡi, xin hãy nghe nào, đưa mắt nhìn và hãy lắng tai, quên dân tộc, quên đi nhà thân phụ” [Tv 44 (45):11]. Một khi được trực diện Thánh Nhan, gặp chính Thiên Chúa, người ta không còn cần bất kỳ thứ gì khác, vì niềm hạnh phúc quá lớn lao.
Và chính Hoàng Hậu cũng vậy, vì “Người là Chúa của bà” [Tv 44 (45):12]. Người-được-gặp-Chúa không thể trì hoãn bày tỏ niềm hạnh phúc tuyệt vời, dù chỉ trong khoảnh khắc: “Lòng hoan hỷ, đoàn người tiến bước, vẻ tưng bừng, vào tận hoàng cung” [Tv 44 (45):16]. Trên Núi Tabor, ba Tông đồ (Phêrô, Giacôbê và Gioan) cũng đã từng được tận hưởng niềm hạnh phúc lâng lâng khôn tả, và các ông chẳng còn cần gì nữa (Mt 17:1-9; Mc 9:2-8; Lc 9:28-36).
…TỚI HIỆN THỰC
Đức Kitô là Thiên Chúa Ngôi Hai, đã bị giết chết nhưng cũng đã thực sự sống lại. Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của người sống chứ không phải của người chết. Thánh Phaolô xác định: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu” (1 Cr 15:20). Tại sao vậy chứ? Thánh Phaolô giải thích: “Nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. Như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống. Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người. Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha” (1 Cr 15:21-24). Rất rạch ròi, rõ ràng!
Quả thật là thế, Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người: Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết (1 Cr 15:25), đó là “kẻ độc ác nhất”, và Thiên Chúa đã đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô. Theo Thánh Phaolô, khi nói muôn loài thì dĩ nhiên không kể Đấng đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô. Bởi vì, theo Thánh Phaolô, “lúc muôn loài đã quy phục Đức Kitô, thì chính Người, vì là Con, cũng sẽ quy phục Đấng bắt muôn loài phải quy phục Người; và như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1 Cr 15:28). Lý luận cao kiến của Nhà Tư Tưởng vĩ đại Phaolô rất mạch lạc, tuyệt vời, và dễ hiểu!
Thánh sử Luca kể ngắn gọn nhưng đầy đủ: Hồi ấy, cô Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa, vào nhà Anh Dacaria và chào hỏi Chị Êlisabét. Chị Êlisabét vừa nghe tiếng Em Maria chào, đứa con trong bụng nhảy lên, Chị Êlisabét được đầy tràn Thánh Thần và nói: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1:42). Không thể chờ đợi lâu hơn, Chị Êlisabét liền reo vui: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1:43-45).
Đức Mẹ trở thành người diễm phúc nhờ đức tin kiên vững. Vấn đề là chỗ đó, nhưng đức tin phải vững vàng chứ không thể tin cho có, tin cho vui, tin cho… giống người ta, tin để khỏi “lạc bầy”. Điều này nhắc chúng ta phải tự chấn chỉnh và chăm sóc đức tin của chính mình!
Niềm vui có sức lan tỏa, có khả năng nối kết. Vừa nghe Bà Chị Êlisabét “khen nức” như vậy, Đức Maria không thể kiềm chế niềm vui thánh đức, liền cất tiếng ca ngợi Thiên Chúa bằng Bài Thánh Ca Magnificat (Lc 1:46-55):
Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
Thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới;
Từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.
Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả,
Danh Người thật chí thánh chí tôn!
Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
Chúa độ trì Ítraen, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta,
Vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Ápraham và cho con cháu đến muôn đời.
Những lời vàng ngọc của Đức Mẹ chứa đầy sự khiêm nhường, niềm tín thác và lòng yêu thương. Đó cũng là lời kinh mà Giáo hội vẫn dùng để cầu nguyện hằng ngày trong giờ kinh Nhật Tụng.
Sau đó, “Đức Maria ở lại với Chị Êlisabét độ ba tháng, rồi trở về nhà” (Lc 1:56). Đức Mẹ đi thăm người chị họ theo phép xã giao, thể hiện yêu thương, nhưng vấn đề chính là để “báo tin mừng”, muốn phục vụ bà chị đang thai nghén bé Gioan Tẩy Giả. Đức Mẹ không đi tu ngày nào, chẳng hề tiên khấn, đơn khấn hoặc vĩnh khấn, nhưng Đức Mẹ đã anh dũng và kiên cường sống trọn vẹn ba lời khấn: Thanh tuân, thanh bần, và thanh khiết. Một tấm gương chói ngời mà ai ai cũng phải “soi” vào – nhất là các giáo sĩ và tu sĩ.
Đức Maria tự nhận mình là “phận nữ tỳ hèn mọn”, nhưng Thiên Chúa đã biến Đức Mẹ thành một Phụ nữ cao trọng bậc nhất trong các loài thụ tạo. Khiêm nhường là nền móng vững chắc của Tòa Nhà Đức Tin.
Lạy Thiên Chúa, chúng con tạ ơn Ngài đã ban cho chúng con một Thánh Mẫu hơn cả sự tuyệt vời. Xin thương giúp chúng con biết phục vụ trong sự khiêm nhường và tình yêu thương. Lạy Hiền Mẫu của chúng con, xin dẫn chúng con theo Mẹ về trời bằng cách biết “xin vâng” như Mẹ trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Con Yêu Dấu của Mẹ, Sư Phụ và Đại Huynh Trưởng của chúng con. Amen.
——-
(*) “Mông triệu” có gốc từ chữ Hán, được rút gọn từ 4 chữ “mông chủ (chúa) sủng triệu”, những từ ngữ thường được nghe trong các phim lịch sử của Trung Hoa. “Mông” là “chịu” hoặc “được”, “triệu” là “gọi” (triệu tập, hiệu triệu). “Mông triệu” có nghĩa là “được sủng ái” (yêu mến) nên được Chủ (Chúa) gọi (về trời), Anh ngữ dùng thuật ngữ “dormition” nghĩa là “ngủ”, tức là “chết mà như ngủ”.















37. Niềm Vui Phục Vụ
Lm. Jos. DĐH



Khi vui thì cười, lúc buồn lại khóc, gặp đau khổ phải thở than, gặp may mắn thành công, thì hạnh phúc, hệ quả ấy là điều tự nhiên đối với chúng ta, những con người mang trái tim bằng thịt. Thiên hạ bá nhân bá tính, có người vui vì được ăn ngon mặc đẹp, có người vui vì vừa “trúng mánh” trong làm ăn, có người vui vì được nổi tiếng… Nhiều câu hỏi và thắc mắc rất cần được lý giải, chia sẻ, nhất là những ai đang khao khát hoàn thiện mình, vì ý thức cùng đích hạnh phúc của con người không hoàn toàn ở trần gian này.
Hôm nay mừng Mẹ lên trời, Giáo Hội không diễn tả trên trời thế nào, thay vào những ưu tư đó, chúng ta được dẫn đến “niềm vui phục vụ”, nơi một hiền mẫu mang tên Maria. Đức Maria vui vì có dịp lên đường thăm người chị họ, vui vì được phục vụ trong tình nghĩa chị em. Đức Maria vui vì biết rằng Thiên Chúa đoái thương nhân loại, thực hiện lời hứa cứu độ nơi những tâm hồn bé nhỏ, và tiếp tục làm sống động nơi hai con trẻ Gioan và Giêsu. Niềm vui và hy vọng không dừng lại nơi hai tâm hồn thánh đức, khiêm tốn, nhưng vui vì Thánh Thần tác động làm vang lên lời “kinh Magnificat”.
Tục ngữ có câu: cha mẹ ngoảnh đi, con dại; cha mẹ ngoảnh lại, con khôn. Bầu khí thân thương gia đình, không hệ tại cá nhân nào, gia đình hạnh phúc là do các thành viên cùng nỗ lực vun đắp. Kinh nghiệm ở đời cho chúng ta thấy: con cái khôn ngoan, vẻ vang cha mẹ. Đức Maria và người chị họ, hẳn chưa dám nghĩ gì đến chuyện khác ngoài niềm vui vì Thiên Chúa đoái thương tới “phận nữ tỳ hèn mọn”, cần phải chu toàn bổn phận đối với tình Chúa yêu thương. Đức Maria hôm nay ở Thiên quốc, tuy không hiện diện để trực tiếp nói với chúng ta, nhưng Mẹ cũng rất vui vì được phục vụ các linh hồn, được hiệp thông cầu nguyện cho chúng ta là con cái của Mẹ.
Cổ nhân nói rằng: người tình nguyện giúp đỡ người khác, không phải vì nợ người đó cái gì, mà vì người ta xem người đó là bạn. Tinh thần phục vụ của Đức Maria là tự nguyện, là vui mừng nhìn nhận người chị họ, là công khai tự nhận mình trong thân phận mọn hèn được Chúa yêu thương. Vui để làm việc, vui để phục vụ, vui để biết sống yêu thương, đặc biệt vui để biết cảm tạ tri ân, đem tình Chúa vào sâu trong tình người. Thiên Chúa không mắc nợ con người, nhưng Ngài luôn mơ ước ban phát và thông chia hạnh phúc cho từng tâm hồn chúng ta.
Hôm nay đây mừng Mẹ Lên Trời, thánh sử Luca cho thấy nét đẹp của Đức Maria không phải là giàu sang phú quý, không phải vì thông thái hơn người, nhưng chính là nét đẹp của tâm hồn đơn sơ thánh thiện, luôn khiêm tốn để ý Chúa được thực hiện. Hôm nay đây, Chúa đang mỉm cười vì chúng ta bất kể giàu hay nghèo, Chúa vui vì chúng ta biết sống tinh thần khiêm tốn như Mẹ Maria, tinh thần của người môn đệ theo Chúa Kitô. Hôm nay đây, niềm vui phục vụ vẫn được xã hội, được mọi đối tượng kính nể, vì trong phục vụ anh chị em mà thiếu đi niềm vui chỉ là một sự đánh đổi mà thôi.
Trong Thúy Kiều của Nguyễn Du có câu: đoạn trường ai có qua cầu mới hay. Như lời nhắc nhớ, chỉ những ai đã từng đau khổ, đã từng sống trong vui buồn sướng khổ, họ sẽ đủ kinh nghiệm để chia sẻ, để trợ giúp chúng ta đến thành công. Đức Maria đã sống ơn gọi làm con Thiên Chúa, đã sống niềm vui phục vụ trong ba tháng bên người chị họ, đã theo Đức Giêsu 33 năm tại trần thế…. Hôm nay đây, chính niềm tin đã cho chúng ta biết Đức Maria vẫn đang vui vì được phục vụ Giáo Hội, vui vì được hiệp thông trọn vẹn với Chúa Giêsu nơi tâm hồn thế nhân. Vui vì sẽ có chúng ta đạt được hạnh phúc Nước Trời. Amen















38. Thiên Chức Của Đức Trinh Nữ Maria
P.Trần Đình Phan Tiến



Vâng, kính thưa quý vị, thưa các bạn Đoạn Tin Mừng (Lc 1,39 -56) hôm nay được Giáo Hội chọn đọc trong Lễ trọng thể mừng kính Đức Maria Hồn Xác về Trời, là một Đoạn tin Mừng không xa lạ với người Kitô hữu. Bởi vì, Đọan Tin Mừng hôm nay là Đoạn Tin Mừng gắn liền với sự kiện “Trọng Đại” của Đức Mẹ.
Như chúng ta biết, đây là Đoạn Tin Mừng gắn liền sau biến cố “Truyền Tin”, từ biến cố Truyền Tin, Đức Mẹ đã trở nên “Gương Mẫu” cho mọi dân tộc, đầu tiên là dân tộc Israel của Mẹ, sau đó là toàn thể nhân loại.
Vâng, Đoạn Tin Mừng (Lc 1,39-56) hôm nay sẽ xác quyết điều ấy. Theo đó, Đoạn Tin Mừng hôm nay có hai phần rõ ràng:
Thứ nhất: Đức Maria đi thăm viếng người chị họ Ê-li-sa-bét (c 39 – 45)
Thứ Hai: Đức Maria ngợi khen chúc tụng Thiên Chúa.
Như chúng ta biết, sau khi sứ thần Truyền Tin, Mẹ “đáp lời” xin vâng, đồng thời, Mẹ nhận được tin “mừng” của người chị họ Ê-li-sa-bét. Thần trí Mẹ vui mừng hoan hỷ, cùng với Thánh Sùng trong cung lòng của Mẹ là Đấng Cứu Thế, Tức ơn Cứu Độ đã tỏ hiện, đã có “hiệu nghiệm” nơi một Nữ Tỳ hèn mọn của Thiên Chúa. Vâng, sự hèn mọn nơi Mẹ là sự khiêm cung, sự vâng lời Thiên Chúa tuyệt đối nơi Mẹ, sự khiêm nhường thẳm sâu của một thụ tạo trước Đấng Tạo Thành, để cộng tác vào Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa. Hèn mọn của một thụ tạo trước Đấng vô biên, Mẹ luôn xác tín điều ấy.
Một tâm trạng hoan hỷ của một vị vừa được nhận lời “Truyền Tin”, Lời mà sứ thần loan báo, và một sự kiện lạ lùng, mà chính Mẹ cảm thấy “bối rối” lúng túng “lo âu”. Một đặc ân, mà muôn vật nín thở đợi chờ, đó là “giây phút” Truyền Tin. Giây phút, mà mọi thụ tạo muôn đời ngóng trông, nhưng, chỉ một “người phụ nữ” diễm phúc “nhận lãnh”. Đó là Đức Trinh Nữ Maria đời đời diễm phúc. Và, quả thật là như vậy.
Từ đó, ân sủng diệu kỳ không dành cho một mình Mẹ, nhưng, từ ân sủng “trọng đại” ấy, Mẹ đã được diễm phúc đứng đầu cả một thế hệ của “lòng tin”, vâng, và như vậy, Mẹ được chúc phúc để đứng đầu nhân loại mới, tức một thế hệ được tái sinh trong mầu nhiệm cứu độ…
Vì vậy, khi Mẹ gặp gỡ người chị họ, sau khi tất tả vượt một đoạn đường dài để đến nơi, sự gặp gỡ chân tình, và lời chào của Mẹ, thì thai nhi trong lòng bà Ê-li-sa-bét cũng nhảy mừng.Một tín hiệu kỳ diệu, mà chính bà Ê-li-sa-bét phải cất lên lời: “Bởi đâu, tôi được Mẹ (Thân Mẫu) Chúa tôi, viếng thăm tôi thế này, vì tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì hài nhi trong dạ nhảy mừng. Em thật có phúc vì em đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (c 43-45) Chúng ta thấy, lời chúc tụng, đồng thới xác tín mầu nhiệm cứu độ mà Mẹ đang mang đến cho gia đình bà Ê-li-sa-bét. Như vậy, ơn Cứu Độ đầu tiên được đến với gia đình bà Ê-li-sa-bét, là thân mẫu thánh Gioan Tiền Hô.
Một sự khen ngợi không phải đầu môi, chót lưỡi, mà là từ trong tâm trí, trong cung lòng của một con người cũng được Thiên Chúa đoái thương. Vâng, khi nhận được, hay là được sống trong tâm trạng như thánh Ê-li-sa-bét, chúng ta có cảm nhận và trân quý tình Thiên Chúa như gia đình thánh nữ Ê-li-sa-bét khi được Đức Maria đem đến không?
Phần thứ hai: Bài ca Magnificat
Qua lời chúc ngợi chân thành, tức nói lên sự thật của bà Ê-li-sa-bét, Đức Maria đã cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa.
Phần ngợi khen của Đức Maria là lời cảm tạ chân thành, tri ân sâu thẳm của một thụ tạo đang đón nhận một công trình Cứu Độ vĩ đại của Thiên Chúa. Vì từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa , Đấng Cứu Độ tôi.” (c 47)
Vâng, Mẹ đã xác tín ơn Cứu Độ là do bởi Thiên Chúa, sự xác tín ấy trước tiên là cho chính bản thân Mẹ. Toàn thân cả hồn và xác Mẹ xác quyết điều ấy.
Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. (c 48)
Mẹ tuyên tín vào tình thương của Thiên Chúa, một người tín hữu trung kiên xác quyết niềm tin tuyệt đối vào Đấng toàn năng. Một đặc ân, mà chính Mẹ cảm nhận được qua ơn cứu độ, mà ơn cứu độ ấy không phải dành cho một ai, mà hết thảy mọi đời sẽ khen Mẹ diễm phúc. Như vậy, điều này, và từ đây “Mẹ sẽ là Mẹ của một dân tộc được đón nhận ơn cứu độ”, và dân tộc ấy trường cửu, trường tồn. Như vậy, mẹ được gọi là “Eva mới”, hay là “Mẹ chúng sinh”, “Mẹ nhân loại mới”.
Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, Danh Người thật chí thánh, chí tôn! (c 49).
Lời chúc tụng chân thành của một thụ tạo trước Đấng Tạo Thành thật là phải lẽ. Song, nơi Mẹ, còn là một sự xác quyết tuyệt đối, không đấu môi, chót lưỡi.
Vì Mẹ xác quyết rằng: Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người (c 50).
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. (c 51).
Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.(c 52)
Vâng, chính là Thiên Chúa, và chỉ có Thiên Chúa mới làm được như vậy. lời ca tụng bởi sự xác quyết và lời xác quyết bởi chân lý. Nói lên, đặc tính duy nhất nơi Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng. Sự Toàn Năng, tức sự vô biên, đứng trên sự hữu hạn của thụ tạo. Đức Maria đã được soi sáng cảm nhận, xác tín, đặc tính duy nhất tuyệt đối, nhưng do bởi “Lòng Xót Thương”, có nghĩa là vô vị lợi nơi Thiên Chúa dành cho nhân loại và người đứng đầu là Mẹ. Một đặc sủng vô tiền khoáng hậu, mà Thiên Chúa ban cho Mẹ.
Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng. (c 53)
Sự công bằng tuyệt đối, sự an ủi cao vời Chúa dành cho người nghèo khó. Nghèo khó ở đây không hẳn nhiên là vật chất, mà là tâm linh, vì người nghèo vật chất, đôi khi chưa hẳn là người tốt, do lười biếng, hay ích kỷ. Nếu do bệnh tật, do thiếu thốn điều kiện, hay do thiếu tài năng. Ý nói ở đây là, giữa những người Israel có học thức, giới kinh sĩ, biệt phái. Sự giàu có theo nghĩa Tin Mừng có nghĩa là chấp nhận đánh đổi cuộc sống vất chất trần thế để đổi lấy Nước Trời.
Nghèo khó của cải vất chất là không gian tham, không mưu mô hãm hại tha nhân để chiếm đoạt bất công, vì mọi thứ đều có sở hữu. Sở hữu chủ của vật chất là công sức tạo ra trong đó có ân ban bởi Thiên Chúa.
“Chúa độ trì Israel, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Ap-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời.” (c 54 -55)
Như vậy, Đức Mẹ thật am tường Thánh Kinh, cuộc đời của Đức Mẹ đến tuổi thiếu nữ này, nhưng Mẹ hiểu lịch sử Lời hứa ban ơn Cứu Độ của Thiên chúa, đồng thời, Thánh Thai Chúa Cứu Thế đang ngự trong cung lòng Mẹ, mặc nhiên ân sủng Thần Linh đang tác động đến thần trí Mẹ.
Như vậy, khởi đi từ bài đọc I, sách Khải Huyền (Kh 11,19a;12,1-6a;10ab) hôm nay mặc khải mầu nhiệm Hồn Xác về Trời của Đức Maria. Một chân lý hiển nhiên, vì nơi Mẹ không vướng tỳ vết nguyên tổ và tội riêng, một đặc ân hữu lý, mà Thiên Chúa dành cho Mẹ.
Cũng như Chúa Giêsu là Đầu Hội Thánh, là Trưởng Tử, thì Đức Maria là Mẹ nhân loại mới, Mẹ cưu mang, sinh hạ một Tân Kỷ Nguyên Cứu Độ, mà Ngôi Lời là Giêsu, mặc nhiên, thân xác hữu hình của Mẹ không vướng mắc điều gì, và để minh định tín điều xác loài người sẽ sống lại, mặc nhiên, thân xác hữu hình của Mẹ cũng được sống lại cùng với Linh hồn vẹn sạch của Mẹ. Và, điều này đối với Mẹ chỉ là thời gian mà thôi. Sự bắt đầu từ một thụ tạo tinh tuyền được sống lại cả hồn và xác ở trên thiên đình, chính là đích điểm, đồng thời là dẫn đầu trong mầu nhiệm xác thân của loài người là một niềm tin bất tử, bất diệt như linh hồn. Chỉ chết thật khi ở ngoài Thiên Chúa. Vì vậy, Thiên Chức của Đức Mẹ chính là Mẹ nhân loại.
Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng, Cha đã ban cho loài người một Hiền Mẫu là Đức Trinh Nữ Maria, một thụ tạo kiều diễm trong ân sủng, MỘT NỮ TỲ KHIÊM ÁI, để cộng tác vào ơn Cứu Độ loài người bởi Cha. Người đã sinh hạ Đấng Cứu Thế mà hoàn toàn trinh khiết vẹn tuyền, nhờ quyền năng Thánh Thần, Người đã được diễm phúc làm Mẹ Đấng Cứu Chuộc. Vì vậy, đến hồi viên mãn, Người được Cha ban cho đặc ân về Trời cả hồn và xác., hầu minh định xác loài người cũng bất tử như linh hồn. Vì vậy, Người đã dẫn đầu một đoàn con cái đông số và được gọi là Mẹ Nhân Loại./. Amen
LẠY NỮ VƯƠNG HỒN XÁC VỀ TRỜI, CẦU CHO CHÚNG CON.















39. Vầng Trăng Mẹ
Trầm Thiên Thu



THÁNH MẪU VINH QUANG LÊN CAO ĐỈNH PHÚC
PHÀM NHÂN ƯỚC VỌNG ĐƯỢC ĐẾN MIỀN SINH
Vầng trăng rằm tháng Tám là trăng tròn nhất và sáng nhất trong năm, thời gian đã vào giữa mùa Thu, cũng đồng nghĩa là giữa năm – âm lịch gọi là Rằm Trung Thu. Vầng trăng rằm thiên nhiên gợi nhớ Đức Maria, Vầng Trăng Thánh của Thiên Chúa, và có điều thật thú vị là lễ Đức Mẹ Lên Trời cũng vào ngày rằm – rằm tháng Tám dương lịch. Trăng luôn có gì đó kỳ lạ, và Mẹ luôn có điều kỳ diệu – dù chỉ là người mẹ trần gian cũng vậy.
Có điều khác lạ nữa là Giáo Hội dành Tháng Tám để biệt kính Mẫu Tâm Đức Maria. Tôn sùng Mẫu Tâm cũng là một trong ba mệnh lệnh Đức Mẹ đã ban truyền khi hiện ra với ba em nhỏ tại làng Fatima tại Bồ Đào Nha năm 1917.
Là một thụ tạo nhưng Đức Mẹ vô nhiễm Nguyên Tội và không chịu hệ lụy của tội, đã được Thiên Chúa cho về trời cả hồn và xác mà không phải đi qua ngưỡng cái chết – gọi là “mông triệu”. Theo Hán ngữ, “mông triệu” được rút gọn từ câu “mông chủ sủng triệu” (mông chủ nghĩa là “chúa”), những từ ngữ thường được nghe trong các phim lịch sử của Trung Hoa. “Mông” là “chịu” hoặc “được”, “triệu” là “gọi” (triệu tập, hiệu triệu). “Mông triệu” có nghĩa là “được sủng ái” (yêu mến) nên được Chủ (Chúa) gọi về trời, Anh ngữ dùng thuật ngữ “dormition” nghĩa là “ngủ” – tức là “chết mà như ngủ”.
Lên trời là niềm hy vọng lớn nhất và là hoài bão cuối cùng của những người tin vào Đức Giêsu Kitô, nói cho sát nghĩa phải nói là “về trời”. Thế gian chỉ là nơi tạm trú, Trời (Thiên Đàng) mới là nơi vĩnh cư. Động từ “về” chỉ hành động “tới nơi mình ở”, người ta nói “về nhà” chứ không nói về nơi không là chỗ của mình. “Lên trời” ở đây mang nghĩa “về trời” chứ không là chuyện viễn vong như chú Cuội lên cung trăng, cũng không chỉ là “tham quan” mặt trăng, là “khám phá” sao Hỏa, một hành tinh nào đó, hoặc “lỗ đen” trong vũ trụ. Về trời là để sống đời trường sinh và đồng hưởng thiên phúc với Thiên Chúa, sau khi chúng ta chết trong ơn nghĩa của Chúa và được Ngài cho sống lại.
Việc kính mừng đại lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời là lời nhắc nhớ chúng ta về niềm xác tín được đề cập trong Kinh Tin Kính: “Tôi tin xác loài người ta sẽ sống lại”. Niềm tin này được củng cố bằng tín điều Đức Mẹ mông triệu, được ĐGH Piô XII ban hành Tông hiến “Munificentissimus Deus” (Thiên Chúa Quảng Đại) ngày 1-11-1950. Với Quyền Tông Tòa, ngài đã long trọng công bố tín điều Đức Maria lên trời cả hồn và xác. Tín điều nghĩa là điều buộc mọi Kitô hữu phải tin.
Đại lược Tông hiến quan trọng này: “Sau khi chúc tụng lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa đã yêu thương quan phòng làm êm dịu những khổ đau, đem lại niềm an vui cho các dân tộc, Đức Thánh Cha nêu cao sự kiện ơn Chúa thương, dù giữa thời buổi nhiều người sai lạc chân lý và nhân đức, vẫn có nhiều cách biểu lộ đức tin, lòng sùng mến Mẹ Maria và những con cái Mẹ vẫn được khuyến khích chiêm niệm những đặc ân của Mẹ. Thật vậy, từ muôn đời, Thiên Chúa đã đặc biệt yêu thương Mẹ và rồi ban cho Mẹ dạt dào những đặc ân mà Giáo hội nhận biết và khám phá ra. Nhưng thời đại của chúng ta đã được dành riêng để chiêm ngưỡng đặc ân Đức Mẹ hồn xác lên trời”.
Khi đề cập tình trạng “lên trời” cũng ngụ ý sự chết, liên quan Ngày Cánh Chung. Bởi vì có chết rồi mới sống lại và lên trời, chứ phàm hèn chúng ta không thể “lên trời” như ngôn sứ Êlia (2 V 2:11). Tuy nhiên, muốn trở thành công dân Nước Trời thì phải sống trọn vẹn các Giới Răn của Thiên Chúa một cách ngoan cường và anh dũng. Như vậy mới khả dĩ cầm được “tấm visa” chắc chắn trong tay!
ĐƯỢC MẶC KHẢI
Thánh Gioan cho biết rằng Đền Thờ Thiên Chúa ở trên trời mở ra, và rồi có điềm lớn xuất hiện trên trời: “Một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12:1). Thật là uy nghi và vinh hiển, nhưng cũng đầy gian nan khổ cực: “Bà có thai, đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con” (Kh 12:2). Đó là điều chắc chắn, bởi vì không có vinh quang nào lại vắng bóng đau khổ – dù nhiều hay ít. Thật vậy, chính Đức Kitô cũng đã chịu đau khổ tột cùng rồi mới phục sinh vinh thắng.
Theo sách Khải Huyền, lại có thêm một điềm khác xuất hiện trên bầu trời: “Một Con Mãng Xà đỏ như lửa, có bảy đầu và mười sừng, trên bảy đầu đều có vương miện. Đuôi nó quét hết một phần ba các ngôi sao trên trời mà quăng xuống đất. Rồi Con Mãng Xà đứng chực sẵn trước mặt người Phụ Nữ sắp sinh con, để khi bà sinh xong là nó nuốt ngay con bà” (Kh 12:3-4). Nhưng “người con trai này sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt muôn dân” (Kh 12:5a). Sau đó, “Con bà được đưa ngay lên Thiên Chúa, lên tận ngai của Người” (Kh 12:5b), còn “người Phụ Nữ thì trốn vào sa mạc”, nơi mà “Thiên Chúa đã dọn sẵn cho bà một chỗ ở, để bà được nuôi dưỡng ở đó, trong vòng một ngàn hai trăm sáu mươi ngày” (Kh 12:6).
Và ngay lúc đó, Thánh Gioan nghe có tiếng hô to trên trời: “Thiên Chúa chúng ta thờ giờ đây ban ơn cứu độ, giờ đây biểu dương uy lực với vương quyền, và Đức Kitô của Người giờ đây cũng biểu dương quyền bính, vì kẻ tố cáo anh em của ta, ngày đêm tố cáo họ trước toà Thiên Chúa, nay bị tống ra ngoài” (Kh 12:10). Đó chính là Giờ Cứu Độ, là khoảnh khắc cuối cùng, là buổi cánh chung, là ngày tận thế, là lúc Chúa Giêsu giáng lâm.
Trong Cựu Ước cũng đã có lời tiên tri về Đức Mẹ: “Hoàng hậu đứng bên hữu Đức Vua, mặc đồ trang điểm vàng ròng lộng lẫy” [Tv 44 (45):10]. Và có lời hiệu triệu: “Tôn nương hỡi, xin hãy nghe nào, đưa mắt nhìn và hãy lắng tai, quên dân tộc, quên đi nhà thân phụ” [Tv 44 (45):11]. Một khi đã có Thiên Chúa rồi, được diện kiến Thánh Nhan rồi, chắc chắn người ta vô cùng hạnh phúc, vì thế mà người ta chẳng còn cần gì nữa và xác định: “Người là Chúa của bà” [Tv 44 (45):12]. Và người đó thể hiện niềm hạnh phúc tuyệt vời cùng những người khác: “Lòng hoan hỷ, đoàn người tiến bước, vẻ tưng bừng, vào tận hoàng cung” [Tv 44 (45):16]. Ôi, hạnh phúc biết bao!
ĐƯỢC ỨNG NGHIỆM
Ứng nghiệm là trở nên hiện thực một cách kỳ lạ. Chúng ta khả dĩ biết rằng Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ là Thiên Chúa của người sống chứ không phải của người chết. Thánh Phaolô xác định: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu” (1 Cr 15:20). Tại sao? Vì “nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại” (1 Cr 15:21). Thánh Phaolô giải thích: “Như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống. Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người. Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha” (1 Cr 15:22-24).
Đúng như vậy, chính Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người: Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết (1 Cr 15:25), nghĩa là Thiên Chúa đã đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô – Vua của muôn vua và Chúa của các chúa. Theo Thánh Phaolô, khi nói muôn loài thì dĩ nhiên không kể Đấng đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô. Vì “lúc muôn loài đã quy phục Đức Kitô, thì chính Người, vì là Con, cũng sẽ quy phục Đấng bắt muôn loài phải quy phục Người; và như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1 Cr 15:28). Lý luận của Hiền triết Phaolô thật là mạch lạc, thú vị và tuyệt vời!
Thánh sử Luca tường thuật rạch ròi và chi tiết: Hồi ấy, cô Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa, vào nhà Anh Dacaria và chào hỏi Chị Êlisabét. Chị Êlisabét vừa nghe tiếng Em Maria chào thì đứa con trong bụng nhảy lên, và Chị Êlisabét được đầy tràn Thánh Thần, liền nói: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1:42). Rồi Chị Êlisabét thể hiện niềm vui sướng của mình: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1:43-45).
Vấn đề quan trọng là tin hay không tin, mà tin rồi thì phải tin vững vàng chứ không thể mơ hồ, “chắc chắn” chứ không “có lẽ” – gọi là xác tín và thâm tín. Đức Mẹ là người diễm phúc vì Đức Mẹ có đức tin kiên vững. Điều này “nhắc khéo” chúng ta rằng mỗi tín nhân phải tự xem lại đức tin của chính mình. Thật vậy, đôi khi chúng ta tưởng mình có niềm tin kiên vững, nhưng rồi chúng ta lại chao đảo khi “không như ý”. Thật tồi tệ!
Khi Chị Em hàn huyên tâm sự, và rồi nghe Chị Êlidabét lên tiếng “khen” như vậy, Cô Em Maria liền hân hoan dâng lời chúc tụng Thiên Chúa qua bài MAGNIFICAT – Bài Ca Ngợi Khen (Lc 1:46-55):
Hồn tôi ca ngợi Chúa Trời
Trí tôi hớn hở mừng vui vô cùng
Vì Thiên Chúa, Đấng muôn trùng
Đã thương nhìn tới phận thường nữ nhi
Mọi đời mãi mãi ngợi ca
Rằng tôi diễm phúc, người ta chẳng bằng
Bao điều cao cả vô song
Đều do chính Đấng Toàn Năng đã làm
Danh Người chí thánh chí tôn
Lòng thương xót Chúa trải muôn muôn đời
Tay Người sức mạnh tuyệt vời
Dẹp hết những người lòng trí kiêu căng
Người quyền thế hết đường ngông
Còn kẻ khiêm nhường được Chúa nâng cao
Những người nghèo Chúa thưởng nhiều
Còn những người giàu chịu trắng tay luôn
Chúa phù hộ Ít-ra-en
Những người tôi tớ vẫn luôn tín thành
Như lời Chúa hứa rành rành
Lòng thương xót Chúa vẫn dành tôi trung
Áp-ra-ham Tổ phụ chung
Muôn đời con cháu được đồng hưởng ơn
Ngôn từ của Đức Mẹ chất chứa đầy sự khiêm nhường, lòng tín thác và tình yêu thương. Đó cũng là lời kinh mà Giáo Hội sử dụng hằng ngày khi cầu nguyện, đặc biệt trong giờ kinh Nhật tụng (Thần vụ).
Thánh sử Luca cho biết: “Đức Maria ở lại với bà Êlisabét độ ba tháng, rồi trở về nhà” (Lc 1:56). Đức Mẹ không chỉ đi thăm chị họ theo phép xã giao mà còn là để “báo tin mừng”, đặc biệt là để phục vụ Bà Chị đang mang thai bé Gioan Tẩy giả.
Thật lạ lùng, Đức Mẹ không đi tu ngày nào, cũng chưa một lần tiên khấn, đơn khấn hoặc vĩnh khấn, nhưng Đức Mẹ đã anh dũng và kiên cường sống trọn vẹn ba lời khấn: Thanh tuân, thanh bần, và thanh khiết. Đúng là trên cả tuyệt vời. Đức Mẹ là một tu sĩ đặc biệt: Nữ-Tu-Không-Tu-Phục. Một tấm gương chói ngời mà mọi người đều phải “soi” vào, không riêng gì giáo sĩ và tu sĩ.
Kính mừng Thánh Mẫu mông triệu là dịp tốt để mỗi chúng ta tái xác nhận điều chúng ta vẫn cầu nguyện: Xin được ơn chết lành trong vòng tay của Đức Mẹ, và xin được thưởng cùng Đức Mẹ trên Thiên Đàng. Thánh GM Fulgentius (462-527) nói: “Mẹ là chiếc thang bắc lên Trời. Nhờ Mẹ mà Thiên Chúa đã từ Trời xuống thế gian, và cũng nhờ Mẹ mà loài người từ đất lên tới Trời”. Còn Thánh TS Bonaventura (1221-1274) xác định: “Đức Mẹ là phần rỗi của mọi người kêu cầu Người. Ai bền lòng phụng sự Mẹ thì không thể hư mất. Những ai tin tưởng xin Mẹ cầu bầu đều được cứu rỗi”. Được cứu rỗi nghĩa là được về trời. Ôi, Mẹ thật kỳ diệu, và cũng rất hạnh phúc cho phàm nhân chúng ta!
Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Ngài đã thương ban một Người Mẹ Thánh tuyệt vời cho Giáo Hội. Xin thương giúp con biết khiêm nhường phục vụ, luôn biết “xin vâng” trong mọi hoàn cảnh – dù vui hay buồn, để con chắc chắn sẽ được cùng Thánh Mẫu vui hưởng phúc trường sinh. Xin Vầng Trăng Mẹ luôn chiếu sáng trong “đêm đời” của mọi người. Con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Con Yêu Dấu của Mẹ, Sư Phụ và Đại Huynh Trưởng của mọi người, và là Đấng cứu độ nhân loại. Amen.















40. Để Được Cùng Mẹ Đi Theo Chúa Lên Trời
Lm. Đan Vinh



HỌC LỜI CHÚA
TIN MỪNG: Lc 1,39-56
(39) Hồi ấy, bà Ma-ri-a lên đường vội vã, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. (40) Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét. (41) Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được tràn đầy Thánh Thần, (42) liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. (43) Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? (44) Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. (45) Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”.(46) Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, (47) thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi (48) Phận tỳ nữ hèn mọn Người đoái thương nhìn tới. Từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. (49) Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn! (50). Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. (51) Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. (52) Chúa hạ bệ những ai quyền thế. Ngươi nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. (53) Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư. Người giàu có, lại đuổi về tay trắng. (54) Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người, (55) như đã hứa cùng cha ông chúng ta. Vì Người nhớ lại lòng thương xót, dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời”. (56) Bà Ma-ri-a ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà.
Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng có thể được chia thành ba phần như sau: – Phần I (39-40): Sau khi trở thành Mẹ 15/8-81
Bài Tin Mừng có thể được chia thành ba phần như sau:
– Phần I (39-40): Sau khi trở thành Mẹ Đấng Cứu Thế do lời thưa “xin vâng”, Đức Ma-ri-a vội vã lên đường thăm viếng bà chị họ Ê-li-sa-bét, đã có thai được 6 tháng, như lời sứ thần cho biết. Hai bà mẹ đều được chúc phúc vì đã quảng đại đáp lời mời gọi, cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
– Phần II (41-46a): Thần Khí tác sinh và hoan lạc đã bao trùm Đức Trinh Nữ, cũng làm cho con trẻ Gio-an đang ở trong dạ mẹ nhảy mừng, chào đón Đấng Thiên sai trong lòng Đức Ma-ri-a. Thần Khí ấy cũng tác động làm cho bà Ê-li-sa-bét nhận biết cô em họ Ma-ri-a đây, chính là Mẹ của Đấng Thiên Sai, đã đến viếng thăm mình. Cũng chính Thần Khí ấy làm cho niềm vui của Đức Ma-ri-a bộc phát thành bài ca “Ngợi khen” (Magnificat).
– Phần III (46b-56): Bài ca tóm lại lịch sử của dân Chúa trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Cách riêng Chúa đã làm cho Ma-ri-a những điều trọng đại, cũng như đã từng làm trong lịch sử dân It-ra-en: Người hạ những kẻ quyền thế kiêu căng xuống và nâng những người hèn mọn khiêm nhường lên; ban cho kẻ nghèo khó được no đầy ơn phúc và để người giàu có bị đuổi về tay không. Người luôn phù trì cho dân tộc Ít-ra-en, đúng như lời Người đã hứa với tổ phụ Áp-ra-ham, rằng sẽ thương xót ông và con cháu đến muôn đời.
CHÚ THÍCH:
– C 39: + Lên đường vội vã: Chỉ một thời gian ngắn sau biến cố Truyền tin, Đức Ma-ri-a đã vội vã lên đường đến thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét (hay cũng gọi là I-sa-ve), mà sứ thần đã cho biết bà mới có thai được 6 tháng. Bà này đã chịu tủi hổ trước mặt người đời, vì bị son sẻ không con. + Đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa: Có lẽ thành mà Đức Ma-ri-a định tới là một trong mười một địa hạt miền Giu-đê. Nhiếu người nghĩ đó là A-in Ka-rim, cách thủ đô Giê-ru-sa-lem 6 cây số về phía Tây. Con đừong từ Na-da-rét đến A-in Ka-rim dài 150 cây số.
– C 40-41: + bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét: Cuộc gặp gỡ giữa hai bà mẹ thật ra là cơ hội để thai nhi Giê-su gặp gỡ thai nhi Gio-an là vị tiền hô của Người. + Đứa con trong bụng nhảy lên: Gio-an Tẩy Giả bắt đầu sứ mệnh ngôn sứ bằng động tác nhảy lên trước Đấng Thiên Sai (Mêsia) đang ẩn mình trong dạ mẹ, giống như vua Đa-vít xưa đã nhảy mừng khi ra đón rước Hòm Bia Giao Ước. Truyền thống coi sự kiện này là dấu hiệu Gio-an Tẩy Giả được khỏi tội tổ tông truyền. + Bà được đầy ơn Chúa Thánh Thần: Thánh Thần đã tác động khiến bà Ê-li-sa-bét cảm nhận được Mẹ Đấng Mê-si-a mang Người đến viếng thăm nhà mình.
– C 42-44: + Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc: Bà Ê-li-sa-bét ca tụng cô em họ Ma-ri-a thực là diễm phúc hơn mọi phụ nữ, vì thai nhi trong lòng Ma-ri-a là Đấng được chúc phúc. + Bởi đâu tôi được thân mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?: “Chúa tôi” ở đây là danh xưng của Đấng Mê-si-a. Nhờ được Thần Khí tác động mà bà Ê-li-sa-bét đã nhận ra Chúa của mình là Thai nhi mà cô em Ma-ri-a đang cưu mang. Danh xưng Đức Giê-su là “Chúa” được Tin Mừng Lu-ca sử dụng đến 40 lần. + Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng: Ê-li-sa-bét chia sẻ cho Ma-ri-a sự lạ mà bà cảm nghiệm vừa xảy ra nơi bản thân. Đó cũng chính là lý do khiến bà nhận biết Đức Ma-ri-a đang cưu mang Thai Nhi Cứu Thế.
– C 45: + Em thật có phúc, vì đã tin: Ma-ri-a đã tin vào những lời Chúa phán với mình khi sứ thần truyền tin sẽ được thực hiện, và trở thành người tín hữu đầu tiên của thời Tân Ước. Ngược lại với ông Da-ca-ri-a chồng bà vì không tin và đòi thấy dấu lạ, nên đã bị câm cho đến ngày các điều đó xảy ra (x. Lc 1,20).
– C 46-50: +Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa: Sau khi nghe bà Ê-li-sa-bét khen là có phúc, Ma-ri-a đã quy hướng lời ca khen đó về cho Thiên Chúa trong bài kinh “Ngợi khen Thiên Chúa” (Magnificat). Bài này mô phỏng theo bài ca mà bà An-na là mẹ của ngôn sứ Sa-mu-en, sau khi được Đức Chúa cho sinh con trai và mang đứa trẻ lên Đền Thờ tại Si-lô thời Tư tế Ê-li, để thánh hiến dâng cho Đức Chúa (x. 1 Sm 2,1-10). Kinh này nhấn mạnh hai đìều: Một là người nghèo hèn bé mọn được Chúa bênh vực (x. Xp 2,3; Mt 5,3); Hai là dân Ít-ra-en được Chúa tuyển chọn và yêu thương (x. Đnl 7,6). Đức Ma-ri-a đã hát lên để bày tỏ lòng tri ân của mình (cc 46-49) và của toàn dân It-ra-en (cc 50-55), vì nay đến lúc lời hứa cứu độ của Đức Chúa đã được thực hiện.
– C 51-55: + Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh: Chúa dùng quyền năng để can thiệp và bênh vực người hèn yếu (x. Tv 118,15-16). + Vì Người nhớ lại lòng thương xót: Cựu Ước thường ghi là “Thiên Chúa nhớ lại” để diễn tả việc Người luôn trung thành với lời hứa và thi hành những lời Ngừơi đã phán qua các ngôn sứ (x. St 8,1; 9,15; Xh 2,24). Lu-ca cũng không quên ghi lại lời chúc tụng tương tự trong bài ca của Da-ca-ri-a: “Người nhớ lại lời xưa giao ước” (Lc 1,72).
– C 56: + Ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng: Ở lại để phục vụ và giúp đỡ cho bà chị Ê-li-sa-bét, làm các việc nhà giúp đỡ bà, trong thời kỳ cuối trước khi sinh con, khi bà không thể lao động bình thường được. Nhưng Đức Ma-ri-a chỉ phục vụ đúng mức mà thôi. + rồi trở về nhà: Một tuần sau ngày bà Ê-li-sa-bét sinh nở, sau khi con trẻ được đặt tên và được chịu phép Cắt Bì để được gia nhập vào dân Ít-ra-en, thì Đức Ma-ri-a đã trở về nhà tại thành Na-da-rét.
CÂU HỎI: 1) Lý do nào khiến Đức Ma-ri-a phải vội vã lên đường viếng thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét? 2) Truyền thống Công Giáo khẳng định Gio-an Tẩy Giả được khỏi tội tổ tông truyền từ lúc nào? 3) Bà Ê-li-sa-bét được đầy Thánh Thần đã gọi Đức Ma-ri-a bằng tước hiệu nào? 4) Tại sao bà Ê-li-sa-bét khen Đức Ma-ri-a diễm phúc, trái với ông Gia-ca-ri-a là chồng bà? 5) Bài kinh “Ngợi khen Thiên Chúa” (Magnificat) có nguồn gốc thế nào trong Cựu Ước và nội dung nhấn mạnh những tư tưởng nào? 6) Đức Ma-ri-a ở lại nhà bà Ê-li-sa-bét trong bao lâu và nhằm mục đích gì?
SỐNG LỜI CHÚA:
LỜI CHÚA: Bà Ê-li-sa-bét được tràn đầy Thánh Thần đã ca tụng Đức Ma-ri-a rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ” (41-42a), và: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (45). Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (46).
LỊCH SỬ NGÀY ĐẠI LỄ VÀ CÂU CHUYỆN:
1) LỊCH SỬ TÍN ĐIỀU ĐỨC MẸ HỒN XÁC LÊN TRỜI:
+ Từ thuở ban đầu, các giáo đoàn tiên khởi đều tôn kính Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Từ những đoạn Thánh Kinh Tân Ước, đến các giáo phụ, rồi Công đồng chung Ê-phê-sô năm 431 đã tuyên bố “Đức Ma-ri-a là Mẹ Thiên Chúa”. Đã có những lễ nói đến lúc chấm dứt cuộc đời của Đức Ma-ri-a như: Lễ Đức Mẹ An Giấc (dormitio), Lễ Đức Mẹ Chuyển Biến (Transitus), Lễ Đức Mẹ Sinh Ra Trên Trời (Natalis), Lễ Đức Mẹ được Nâng Lên Trời (Assumptio).
+ Riêng Lễ Đức Mẹ An Giấc (Dormitio) đã được long trọng cử hành đó đây trong Giáo Hội Đông Phương. Nhất là từ sau Công đồng chung Ê-phê-sô năm 431, nhưng mãi đến thế kỷ thứ 7, lễ này mới được du nhập vào Giáo Hội Tây Phương.
Từ đó về sau nhiều thư thỉnh nguyện của các giám mục, các dòng tu, các nhà thần học được gửi đến Đức Giáo Hoàng để xin Ngài định tín về việc Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Trong Công đồng Vaticăng I, nhiều nghị phụ cũng yêu cầu Đức Thánh Cha quyết định điều đó, vì theo các ngài thì việc Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời có liên quan mật thiết với đức đồng trinh và chức vụ làm mẹ Đấng Cứu Thế của Ngài. Hơn nữa, vì Mẹ đã được cứu chuộc hoàn toàn, nên cũng phải được tôn vinh toàn diện như lời thánh Phao-lô: “Chúng ta biết rằng: Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến người, tức là cho những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc” (Rm 8,28-29). Dựa theo các thỉnh nguyện thư đó, năm 1946, Đức Pi-ô 12 đã gửi đến mỗi giám mục một lá thư và yêu cầu trả lời như sau: “Đức cha và hàng giáo sĩ, giáo dân trong giáo phận của Đức cha, có xác tín và có muốn công bố việc Đức Ma-ri-a hồn xác lên trời như một tín điều hay không?” Hầu hết các thư trả lời đều đồng ý và thỉnh nguyện như vậy. Thế là vào ngày 1.11.1950, Đức Pi-ô 12 đã long trọng tuyên bố tín điều Đức Ma-ri-a Hồn Xác Lên Trời cho toàn thể Giáo Hội tin kính và mừng chung vào ngày 15 tháng 8 hằng năm.
+ Đức Thánh Cha đã xác quyết: “Thế nên Đức Thánh Mẫu cao cả, ngay từ đời đời và do cùng một quyết định tiền định, đã được kết hợp với Đức Giê-su Ki-tô một cách huyền nhiệm, vô nhiễm khi đầu thai, đồng trinh vẹn sạch khi làm Mẹ, cộng tác quảng đại với Đấng Cứu Thế, Đấng đã chiến thắng hoàn toàn sự tội và các hiệu quả của nó, thì cuối cùng để kết thúc mọi đặc ân ngài đã được, Đức Trinh Nữ cũng đã gìn giữ khỏi bị hư nát ở trong mồ, để nên giống Con Mình. Sau khi chiến thắng sự chết, ngài cũng được tôn vinh trên trời cả hồn lẫn xác, nơi Ngài được sáng láng làm Nữ Vương ngự bên hữu Con mình là Vua bất tử của mọi thời” (trích CGKPV trang 334).
2) MẸ MA-RI-A HẰNG CỨU GIÚP NHỮNG AI CHẠY ĐẾN KÊU CẦU NGƯỜI:
ĐU-LỚT HAI-ĐƠ (Douglas Hyde) vốn là một người vô tín và thù ghét đạo Công giáo. Ông là chủ bút một tờ báo lớn ở nước Anh. Với tư cách là chủ bút, ông nghiên cứu về Giáo hội để viết những bài phê bình chống đối gay gắt. Tuy nhiên một điều lạ lùng đã xảy ra, là ông càng nghiên cứu về giáo lý của Giáo Hội, thì tâm trí ông lại càng thêm tin tưởng vào các chân lý ấy. Tuy vậy ông vẫn chưa quyết định dứt khóat theo đạo ngay.
Một hôm, trên đường từ nhà đến tòa soạn ở trung tâm thủ đô Luân Đôn, lúc xe lửa đến trạm dừng, Đu-Lớt thấy tấm biển ghi “Nhà thờ Công giáo” ở bên đường, ông liền thử vào bên trong nhà thờ xem sao. Ông ngồi vào hàng ghế ở cuối nhà thờ và rồi thắc mắc tại sao mình lại có mặt ở đây? Bấy giờ ông thấy một cô gái bước vào nhà thờ, nét mặt âu lo buồn khổ. Cô ta đi thẳng đến trước tòa Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp bên trái của cung thánh nhà thờ và quỳ dưới hình Đức Mẹ một hồi lâu. Sau đó, cô đứng dậy đi xuống cuối và ra khỏi nhà thờ. Khi cô đi ngang, Đu-lớt nhận thấy nét mặt của cô ta đã bình thản trở lại chứ không còn lo âu sầu não như khi mới bước vào nhà thờ.
Ngay lúc đó Đu-lớt quyết định thử làm theo cô ta là cũng đến quỳ trước ảnh Đức Mẹ. Sau này ông đã viết trong cuốn “tôi tin” (I believed) như sau: “Tôi không biết người ta đã cầu nguyện với Đức Mẹ thế nào? Cuối cùng tôi nghe thấy chính mình sắp nói ra một điều gì đó thích hợp. Tuy nhiên
khi bắt đầu thốt ra thì tôi lại thấy lời đó có vẻ kỳ cục làm sao! Nhưng điều này không quan trọng gì. Tôi biết rõ là sự tìm kiếm bấy lâu nay của tôi đã đạt tới mục đích… Lúc ra khỏi nhà thờ, tôi cố gắng hồi tưởng lại những gì tôi nói và hầu như tôi bật cười lên khi nhớ lại những lời ấy. Chúng giống hệt những lời ngân lên trong một điệu khiêu vũ!” Cuối cùng Đu-lớt đã đạt tới đức tin vào Chúa Giê-su qua lời cầu bầu của Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp.
3) ĐƯỢC CHÚA BAN ƠN CỨU ĐỘ NHỜ CÓ LÒNG YÊU MẾN ĐỨC MẸ:
Một hôm trong đám những người hành hương đến Arc có một người đàn bà mang đại tang. Bà vào giữa nhà thờ đứng như trời trồng ở giữa mọi người. Bà có vẻ rất đau khổ. Lý do là chồng bà, một người đã bỏ đạo từ lâu cách đây mấy bữa đã nhảy xuống sông tự tử… đã chết mà không được lãnh nhận những bí tích cuối cùng. Cha Gioan Maria Vianey đi qua… Bà chưa kịp nói gì thì Cha ghé vào tai bảo bà:
– Ông nhà đã được cứu rỗi rồi.
Thấy người đàn bà có vẻ quá ngạc nhiên, cha nói lại một lần nữa:
– Tôi đã bảo ông nhà đã được cứu rỗi rồi mà.
Bà thắc mắc hỏi lại với một giọng đầy hoài nghi, cha nhấn mạnh từng tiếng:
– Tôi bảo bà là ông nhà đã được cứu rỗi rồi. Ông hiện đang ở trong Luyện ngục. Phải cầu nguyện nhiều cho ông ta. Giữa nhịp cầu và dòng nước ông đã có được một thời gian để ăn năn thống hối. Bà còn nhớ là trong tháng Đức Mẹ, bà đã cho làm một bàn thờ trong phòng của bà không? Thỉnh thoảng, chồng của bà, mặc dầu đã bỏ đạo cũng đến hợp lời cầu nguyện với bà. Thái độ đó đã đem lại cho ông ta ơn thống hối và tha tội vào phút cuối cùng của cuộc đời.
SUY NIỆM:
1) ĐỨC MA-RI-A LÀ MẸ ĐỨC GIÊ-SU: Mẹ đã thụ thai và hạ sinh Đức Giê-su: Tin Mừng Lu-ca thuật lại việc Đức Trinh Nữ Ma-ri-a đã được Thiên Chúa tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế nhờ có Chúa ở cùng, và luôn kết hiệp mật thiết với Người. Sau lời thưa “xin vâng”, Ma-ri-a đã đuợc thụ thai mà vẫn bảo toàn đức trinh khiết nhờ quyền năng Thánh Thần (x. Lc 1,28-38). Sau đó Ma-ri-a theo “Ông Giu-se từ thành Na-da-rét miền Ga-li-lê lên thành Bê-lem, miền Giu-đê là thành vua Đa-vít, vì ông thuộc về nhà và gia tộc vua Đa-vít. Ông lên đó khai tên cùng với người đã đính hôn với ông là bà Ma-ri-a, lúc ấy đang có thai. Khi hai người đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ” (Lc 2,4-7).
2) KÍNH MỪNG MA-RI-A ĐẦY ƠN PHÚC: Ma-ri-a đã được dư đầy ơn phúc và luôn được Thiên Chúa ở cùng như lời chào của sứ thần truyền tin (x. Lc 1,28).
+ Mẹ đầy ơn phúc vì tâm hồn Mẹ trong sạch và luôn kết hiệp với Chúa.
+ Mẹ có phúc vì đã tin Lời Chúa: Bà Ê-li-sa-bét đã ca tụng Đức Ma-ri-a: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng: Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45).
+ Mẹ có phúc vì cưu mang Chúa Giê-su là Lời Thiên Chúa làm người: Nên Mẹ đã được ví giống như Hòm Bia Giao Ước Mới của Thiên Chúa (x. Ga 1,14; Mt 1,23).
+ Nhưng nhất là Mẹ có phúc vì đã nghe và thực hành Lời Chúa: Đức Giê-su đã bổ túc lời khen của một phụ nữ ca khen công cưu mang nuôi dưỡng Chúa của Mẹ như sau: “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11,27-28). Do đó, Đức Giáo Hòang Phao-lô VI đã gọi Đức Ma-ri-a là “người môn đệ tiên khởi và tuyệt hảo nhất của Đức Ki-tô”.
3) ĐỨC MA-RI-A LÀ MẸ HỘI THÁNH:
+ Chính Chúa Giê-su đã đặt Đức Ma-ri-a làm Mẹ Hội Thánh khi trao Mẹ cho môn đệ Gio-an đại diện Hội Thánh, để ông thay Người phụng dưỡng Mẹ sau khi Người lên trời, như Tin Mừng Gio-an thuật lại: “Đứng gần thập giá Đức Giê-su có Thân Mẫu Người, chị của thân mẫu là bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát, cùng với bà Ma-ri-a Mác-đa-la. Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giê-su nói với mẹ rằng: “Thưa bà, đây là con của Bà”. Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là mẹ anh”. Kể từ giờ đó, người môn đệ rước Bà về nhà mình” (Ga 19,25-27).
+ Đức Ma-ri-a là Mẹ của Hội Thánh vì là mẹ của Đức Giê-su là Đầu, nên cũng là Mẹ của Hội Thánh là thân thể Người, trong đó có các tín hữu chúng ta, như thánh Phao-lô dạy: “Thiên Chúa đặt Người làm Đầu toàn thể Hội Thánh. Mà Hội Thánh là thân thể Đức Ki-tô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (x. Ep 1,22b-23); “Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh” (Cl 1,18).
+ Đức Ma-ri-a nêu gương các nhân đức cho các tín hữu học tập như sau:
Nêu gương tin cậy mến qua việc lắng nghe Lời Chúa, tìm hiểu ý Chúa và mau mắn xin vâng (x. Lc 1,30-36);
Nêu gương bác ái chủ động đến thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét để chia sẻ niềm vui ơn cứu độ, và cho thai nhi Gio-an “nhảy mừng” trong dạ mẹ vì được khỏi tội tổ tông truyền. Đức bác ái nơi Mẹ còn thể hiện qua việc Mẹ sẵn sàng ở lại ba tháng để phục vụ bà Ê-li-sa-bét cho tới khi bà sinh con, rồi mới trở về nhà (x. Lc 1,39-56).
Mẹ cũng nêu gương cầu nguyện tín thác khi chỉ cầu xin Đức Giê-su giúp đỡ đôi tân hôn và để Người toàn quyền quyết định phải làm gì, làm khi nào và làm như thế nào. Dù chưa tới “Giờ” hành động, nhưng Đức Giê-su đã làm phép lạ đầu tiên, là biến nước lã thành rượu ngon để giúp đôi tân hôn như lời Mẹ cầu bầu (x. Ga 2,1-11).
4) ĐỨC MA-RI-A ĐƯỢC CHÚA BAN THƯỞNG HỒN XÁC LÊN TRỜI:
Ngoài truyền thống hay Thánh Truyền là ký ức tông truyền, Giáo Hội còn dựa trên một số đoạn Thánh Kinh cho thấy Mẹ Thiên Chúa liên kết mật thiết với Đức Giê-su Đấng Cứu Độ như sau:
+ “Dòng giống người nữ sẽ đánh vào đầu mi” (St 3,14-15): Câu này có ba cách hiểu: Một là “Sự chiến thắng của dòng giống người đàn bà trên dòng giống con rắn” (Bản văn tiếng Do Thái). Hai là “Người đàn bà sẽ đạp lên đầu mi” (Bản văn tiếng La Tinh), khẳng định vai trò của Mẹ Đấng Mê-si-a trên con rắn hỏa ngục là ma quỷ (x. Kh 12,13.17). Ba là “Người đó sẽ đánh vào đầu mi” (Bản văn Bảy mươi tiếng Hy Lạp), hiểu về Đức Giê-su là Đấng sẽ chiến thắng con rắn ma quỷ.
+ “Đấng đầy ân sủng, luôn được Thiên Chúa ở cùng” (x. Lc 1,28): Đầy ơn phúc và luôn có Chúa là hoàn toàn trong sạch thánh thiện, nên Mẹ không phải chết như loài người chúng ta. “Bà sẽ thụ thai, sinh một con trai và đặt tên là Giê-su” (Lc 1,31): Đức Ma-ri-a được chọn làm Mẹ Đấng Thiên Sai, Đấng sẽ thay vua Đa-vít để cai trị Ít-ra-en, và triều đại Người sẽ luôn vững bền.
+ Đức Ma-ri-a là E-và Mới: Đã cộng tác với Đức Giê-su là A-Đam mới, để vâng phục Chúa Cha (x. Rm 5,12-19; PI 2,6-11). Mẹ đã tích cực cộng tác với Đức Giê-su trong cuộc khổ nạn (x. Ga 19,25), thì cũng được dự phần vào sự phục sinh vinh quang với Người. Đức Giê-su A-đam Mới đã qua đau khổ thập giá để phục sinh và lên trời, thì tiếp theo Chúa là Đức Ma-ri-a E-và Mới cũng được Thiên Chúa triệu hồi về trời hồn xác.
5) ĐỂ CÓ THỂ CÙNG MẸ THEO CHÚA LÊN TRỜI:
+ Việc Hội Thánh tuyên bố tín điều “Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời” dạy các tín hữu chúng ta ý thức rằng: “Quê hương chúng ta ở trên trời. Nơi đó chúng ta sẽ gặp Đấng Cứu Chuộc là Đức Giê-su Ki-tô Chúa chúng ta” (Pl 3,20). Tuy nhiên chúng ta chỉ được lên trời nếu biết tin yêu Chúa, phải bỏ ý riêng và tội lỗi của mình, vác thập giá mình hằng ngày mà đi theo Chúa noi gương Mẹ xưa.
+ Ngày nay tuy Mẹ Ma-ri-a đã lên Trời, nhưng Mẹ vẫn luôn cầu bầu cùng Chúa Giê-su cho chúng ta là con cái Mẹ đang còn ở trần gian. Chúng ta hãy xin Mẹ giúp chúng ta được chết lành trong tay Đức Mẹ.
+ “Đến với Chúa Giê-su nhờ Mẹ Ma-ri-a” (Ad Jesum per Mariam): Hãy năng cầu nguyện kết hiệp với Mẹ Ma-ri-a, noi gương Hội Thánh thời sơ khai (x. Cv 1,14). Hãy hiệp cùng Mẹ cầu xin Chúa Giê-su giúp vượt qua mọi khó khăn như đôi tân hôn tại tiệc cưới Ca-na xưa (x. Ga 2,3).
+ Sống đức Tin, Cậy, Mến noi gương Đức Mẹ: Hãy năng nghe Lời Chúa phán, suy đi nghĩ lại để tìm hiểu ý Chúa muốn và sẵn sàng xin vâng ý Chúa, chấp nhận mọi may rủi xảy đến với lòng tín thác vào Chúa như Mẹ đã làm và được Tin Mừng thuật lại: “Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19.51).
THẢO LUẬN:
1) Trời hay Thiên Đàng ở đâu? Phải chăng ở trên không trung hay trên một hành tinh nào đó trong vũ trụ? 2) So sánh giữa việc lên trời của Đức Mẹ hôm nay giống và khác với việc thăng thiên của Chúa Giê-su thế nào? 3) Thân xác Chúa Giê-su và thân xác Đức Mẹ hiện nay ở đâu? 4) Theo giáo lý Công giáo thì đến ngày tận thế, xác loài người ta sẽ sống lại và chịu phán xét. Vậy những thân xác đã bị hóa thành tro bụi hay bị thú dữ ăn thịt thì làm sao sống lại được? 5) Những kẻ khi còn sống mà bị mù què câm điếc, mặt mũi xấu xí, thì khi sống lại có bị như vậy nữa không? 6) Ngay từ bây giờ chúng ta phải làm gì để sau này cũng được Chúa ban hạnh phúc Thiên Đàng cùng Mẹ?
NGUYỆN CẦU:
1) LẠY CHÚA BA NGÔI CỰC THÁNH. Hôm nay con cảm tạ Chúa vì Chúa đã thực hiện việc lớn lao nơi Đức trinh Nữ Ma-ri-a, là người con thân yêu và là nữ tỳ hèn mọn của Chúa. Chúa đã thương cho Mẹ trở nên giống Con mình là Chúa Giê-su: Nhờ giữ đức trinh khiết vẹn toàn, tâm hồn không vương chút bùn nhơ tội lỗi; Nhờ biết đặt trọn niềm tin vào lời Chúa phán sẽ được thực hiện; Nhờ luôn xin vâng ý Chúa làm Mẹ Đấng Thiên Sai; Nhờ biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa; Nhờ tham phần vào sự đau khổ của Chúa Giê-su trên đường thánh giá… mà Mẹ Ma-ri-a đã được Chúa ban thưởng bội hậu là được lên trời cả hồn lẫn xác. Xin cho chúng con luôn yêu mến và kết hiệp cùng Mẹ trên bước đường theo Chúa, để sẽ cùng được lên trời với Chúa và với Mẹ sau này.
2) LẠY MẸ MA-RI-A LÀ MẸ RẤT NHÂN TỪ. “Xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ, xin bầu chữa cứu giúp, mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhậm lời”.
LẠY MẸ. Hôm nay cùng với Hội thánh hoàn cầu, chúng con long trọng mừng lễ Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Xin cho chúng con biết chạy đến với Mẹ mỗi khi gặp gian nan thử thách như bị thất bại trong việc làm ăn; Những lúc con không biết phải làm gì để vượt qua hoàn cảnh khó khăn nan giải… Trong những giờ phút đau thương ấy, xin cho chúng con biết chạy đến nép mình dưới tà áo Mẹ, để được Mẹ ủi an che chở, để được Mẹ cầu cùng Chúa Giê-su ban cho chúng con các ơn lành hồn xác. Nhất là xin Mẹ đừng để khi nào chúng con sa vào con đường lầm lạc. Xin dạy chúng con luôn lắng nghe Lời Chúa Giê-su con yêu của Mẹ, như Mẹ đã dạy các người giúp việc tại Ca-na xưa.
1. X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.















41. Vẹn Toàn Xinh Đẹp
Lm. Jos. DĐH.



Tại nhà ga Tân Sơn Nhất, một cô gái, thi thoảng lại mở khẩu trang lấy tăm bông lau lau những giọt máu chảy từ sống mũi rơi xuống, thật đáng thương. Một phụ nữ cất tiếng thì thào, sau đó là vài chị em khác nói to hơn như có ý để mọi người cùng nghe: làm đẹp làm chi cho khổ, thẩm mỹ viện làm chi để phải đau đớn nguy hiểm như thế, không chừng tiền mất, tật mang nữa! Cô gái “đi thẩm mỹ viện” kia thì im lặng, chẳng biết người thân, gia đình bạn bè cô gái có ai đi cùng không, nhưng rồi từ từ mọi người như “hối hận” vì lời nói cử chỉ thiếu thiện cảm đó.
Muốn được “mũi cao”, muốn có khuôn mặt khả ái hơn, cô gái trẻ đã mất nhiều tốn phí, phải đến thẩm mỹ viện, qua phẫu thuật đã đau đớn, rồi phải chịu phán xét của dư luận… Để có tâm hồn xinh đẹp, để trở nên người toàn diện, ngoài việc kiên nhẫn đầu tư, người ta phải có một sức mạnh rất thiêng liêng hỗ trợ, dù đó là quan niệm ông bà hay ông trời phù hộ. Ở đời, sắc diện, nết na, làm thay đổi lòng người; danh lợi thú, có thể làm đảo lộn tình cảm gia đình. Nhưng tình yêu và lòng quảng đại sẽ hoà giải tất cả, như câu ca dao tiền nhân chúng ta sánh ví: ở hiền rồi lại gặp lành, áo rách tan tành trời vá lại cho.
Sau khi Sứ thần truyền tin cho Đức Maria, Trinh nữ không đi “thẩm mỹ viện” để được xinh đẹp xứng tầm với vị trí làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Thiếu nữ ấy đã đến thăm người chị họ Elisabeth. Đến cùng người chị, cũng không hẳn chỉ vì tình bác ái gia đình xã hội thông thường, đúng hơn, Trinh nữ luôn biết lắng nghe và thực thi ý Chúa. Quan niệm bình dân cho thấy, vầng trăng chỉ sáng đẹp vào những đêm rằm, trời không mưa bão; tiền nhân chúng ta thì nói: người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân. Đức Giêsu trong “bài giảng trên núi” Ngài nhắc tới nét đẹp rất rõ ràng: “phúc cho những ai có tâm hồn thanh sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa”. Tâm tình mà Giáo Hội chúng ta tuyên xưng đặc ân “Hồn Xác Lên Trời”, nhất định không phải do Đức Maria chỉ xinh đẹp với hình thức bên ngoài.
Người xưa nói rằng: học khôn học đến chết, học nết học đến già. Khôn ngoan và nết na, người thời nào cũng ưa thích, hiền lành đức độ đi đâu cũng được mộ mến, nhưng để có được những đức tính cao đẹp đó, ai cũng phải tập luyện, và cùng với ơn Chúa trợ giúp. Đẹp người đẹp nết, sẽ hấp dẫn được thế gian, đẹp tâm hồn mới là trọng tâm để đạt tới ơn cứu độ, đến với Đức Maria, Mẹ có đủ kinh nghiệm để giúp chúng ta hiểu đâu là vẻ đẹp mà Chúa ưa thích. Hôm nay đây, mừng Mẹ Lên Trời, không phải chỉ là dịp để ta chiêm ngắm nét đẹp nơi Đức Maria vinh hiển, nhưng mỗi người sẽ được mời gọi theo Mẹ Maria cùng thực thi ý Chúa, cùng sống cùng chia sẻ ơn ban ta đang có cho anh chị em mình.
Người xưa nói rằng: nhân vô thập toàn, đại ý là không toàn thiện thì đừng tự mãn với ai, nhưng đừng tự ti mà buông xuôi không tập luyện, đầu tư. Nho giáo cũng quan niệm: không có cái hại nào lớn cho bằng không chịu sửa mình, tức là vì bất toàn nên cần hướng tới việc tu thân tích đức. Kitô giáo chúng ta tuyên xưng chỉ một mình Thiên Chúa mới hoàn toàn, ngoài Thiên Chúa nhân lành vẹn toàn, hôm nay Giáo Hội công bố Đức Maria Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội đã Lên Trời cả hồn lẫn xác. Niềm tin Đức Maria xinh đẹp vẹn toàn sẽ không mâu thuẫn với đạo làm người, nhưng mở ra một hy vọng, tất cả những ai biết lắng nghe và thực thi ý Chúa đều đang trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô nhờ công ơn cứu chuộc của Con Chúa. Xin Mẹ Maria Hồn xác lên trời, sẽ mãi là niềm vui toả chiếu nhân đức trên con cái nhân loại chúng con cũng sớm được như Mẹ vẹn toàn xinh đẹp. Amen.















42. Ăn Theo Với Mẹ
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền



Giáo lý viên. Khi xe vừa tới La Vang đã nghe có tiếng xì xầm: Oh, La Vang sao vắng thế! La Vang sao ít hàng quán? Và có em còn nói: sao người dân ở đây vẫn nghèo so với Tà pao?
Quả thực, nếu quan sát các điểm hành hương về với Mẹ từ Lộ Đức ở Pháp, Fatima ở Bồ Đào Nha, Tà-Pao tại Phan Thiết dường như người dân ở những điểm hành hương này họ đều ăn theo với Mẹ. Dọc đường của Fatima hay Lộ Đức cả mấy cây số đều là nhà nghỉ, khách sạn, buôn bán tranh ảnh kỷ niệm. Nhờ vậy mà kinh tế người dân cũng phất lên. Ngày tại Tà-Pao chỉ từ năm 1999 khi mới bắt đầu được biết đến Mẹ trên sườn núi Tà Pao thì ai cũng công nhận người dân ở đây đều rất nghèo khó. Nhà cửa chỉ là tranh vách lá sơ xài, mộc mạc, nhưng từ ngày có Mẹ nơi đây đã nhiều đổi thay mà mọi người đều nói là ăn theo với Mẹ nên “thay da đổi thịt”.
Oh, ăn theo với Mẹ đâu có gì là tội mà là phúc. Bởi nhờ Mẹ mà con cái được khấm khá hơn, được hạnh phúc hơn. Và có lẽ Mẹ cũng rất vui khi con cái bám lấy Mẹ mà làm ăn thịnh vượng hơn.
Ngày xưa khi còn nhỏ mỗi lần mẹ đi ăn đám cưới hay đám giỗ, mẹ của tôi thường mang về một ít xôi với giò. Hình ảnh thân thương ấy mãi theo tôi trong suốt cuộc đời. Và dường như các bà mẹ của chúng ta đều vậy. Đều nghĩ đến con. Đều để dành phần cho con. Và như vậy, con cái luôn được ăn theo với mẹ. Với một điều kiện là phải làm tốt công việc ở nhà mà mẹ đã trao.
Hôm nay, chúng ta mừng Mẹ Maria được Chúa đưa hồn xác về trời. Chúng ta cũng mong muốn được lên trời cùng Mẹ. Hay có thể nói là được “ăn theo với Mẹ” để bay lên trời cùng Mẹ. Mẹ Maria đã nhận chúng ta là con của Mẹ qua lời trăn trối của Chúa Giê-su. Chắc Mẹ sẽ không bao giờ bỏ quên chúng ta. Mẹ sẽ canh cánh bên lòng luôn lo lắng cho chúng ta được hồn an xác mạnh, và nhất là được cùng Mẹ hưởng vinh phúc quê trời.
Lẽ dĩ nhiên, muốn được “ăn theo với Mẹ” thì phải vâng nghe lời Mẹ. Khi vâng theo lời Mẹ thì điều gì Mẹ cũng cho, khó khăn nào Mẹ cũng giúp, trở ngại nào Mẹ cũng chở che. Tại tiệc cưới Ca-na, Mẹ đã căn dặn các gia nhân: “Chúa bảo gì thì cứ làm như vậy”, còn những việc khác Mẹ sẽ lo. Phép lạ hóa nước thành rượu là bằng chứng cho những điều Mẹ đã hứa với con của Mẹ. Chỉ cần vâng theo lời Mẹ thì con cái sẽ được Mẹ phù hộ chở che.
Có người hỏi tôi: “sao con xin cùng Mẹ mãi mà chẳng được?”. Tôi hỏi rằng: Vậy đã làm theo lời Mẹ dặn chưa? Lời Mẹ dặn là sống theo lời Chúa, là sống đẹp lòng Chúa? Xem ra người ấy chỉ nghĩ đến xin ơn mà không nghĩ đến việc dọn dẹp tâm hồn cho xứng đáng để nhận ơn. Ơn Chúa khó mà đến với ai đang còn bị trói buộc bởi đam mê tội lỗi, bởi đua chen danh vọng.
Ước gì chúng ta luôn biết lắng nghe và thực thi lời Chúa để được theo gót chân Mẹ mà về trời. Ước gì chúng ta luôn làm theo lời Mẹ dặn để Mẹ luôn chúc phúc cho cuộc đời chúng ta. Amen















43. Để Lên Trời Cần Bắt Chước Các Nhân Đức Của Mẹ
Lm. Anthony Trung Thành



Sống trên đời ai cũng có một người mẹ. Người mẹ đó không chỉ sinh ra chúng ta mà còn yêu thương và nuôi dạy chúng ta lớn lên thành người. Vì vậy, qua mọi thời, con người không ngớt lời ca ngợi công ơn sinh thành dưỡng dục của người mẹ. Con dân Nước Việt cũng có nhiều câu ca dao tục ngữ, để nói lên tình yêu vô bờ bến của người mẹ:
Đôi vai mẹ một gánh đầy huyền thoại,
tình yêu thương hào phóng đến khôn cùng;
Mênh mông bát ngát đại dương,
Cũng không sánh được tình thương mẹ hiền.
Nhưng cho dầu có dùng hết ngôn ngữ trần gian để ca tụng tình mẹ, thì cũng không thể nào diễn tả hết:
Ngôn ngữ trần gian khờ dại quá,
Đựng sao đầy hai tiếng: Mẹ ơi!
Trong đức tin Công giáo, mỗi người kitô hữu chúng ta có chung một người Mẹ, đó là Đức Maria. Công ơn của Mẹ Maria đối với mọi người không những không thua kém người mẹ trần thế mà còn gấp ngàn lần. Mẹ là Mẹ Đức Giêsu, Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Hội Thánh và là Mẹ của mỗi người chúng ta. Nhờ Mẹ, chúng ta có Đức Giêsu là Đấng Cứu Chuộc loài người. Nhờ Mẹ chúng ta có tất cả trong đức tin: Được làm người Công giáo, được lãnh nhận các Bí tích, được có nhiều cơ hội để lo phần rỗi hầu ngày sau được về Thiên đàng.
Mẹ được Thiên Chúa ban cho 4 đặc ân cao cả: Đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, đặc ân Đồng trinh trọn đời, đặc ân làm Mẹ Thiên Chúa và đặc ân Hồn Lẫn Xác Lên Trời. Đối với đặc ân Hồn Xác Lên Trời đã được truyền thống Giáo hội và các kitô hữu tôn kính từ xa xưa, nhưng mãi tới ngày 01 tháng 11 năm 1950, Đức Giáo hoàng Piô XII mới tuyên bố thành tín điều. Mặc dầu trong Kinh Thánh không có chỗ nào nói rõ về đặc ân này, nhưng nếu chúng ta để ý thì chúng ta vẫn thấy đặc ân Mẹ Lên Trời cả hồn lẫn xác ẩn chứa trong nhiều đoạn Kinh Thánh. Chẳng hạn, lời thiên thần chào Mẹ “Kính chào Bà đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng bà, bà có phúc lạ hơn mọi người phụ nữ.” Hay lời ca tụng của bà Êlizabét: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1,42). Rồi, lời ca tụng Thiên Chúa của Đức Mẹ trong bài Magnificat: “Từ nay muôn đời sẽ khen rằng tôi có phúc, bởi Đấng toàn năng đã làm cho tôi những điều cao cả.” (x. Lc 1,48-49).
Mặt khác, bình thường chúng ta cũng có thể dễ chấp nhận đặc ân này. Bởi vì, thân xác chết là do tội lỗi. Nhưng Đức Maria không hề mắc tội Tổ tông truyền và tội riêng. Do đó, thân xác Mẹ không bị hủy hoại tiêu tan.
Hơn nữa, các thánh và nhiều bậc thông thái trong Giáo hội cũng đã từng quả quyết về việc Đức Mẹ được đặc ân lên trời cả hồn lẫn xác. Thánh Đamascênô tiến sĩ quả quyết: “Vì Đức Mẹ đã được sinh con mà vẫn trinh nguyên, thì cần thiết là sau khi qua đời, xác Đức Mẹ cũng phải được bảo tồn nguyên vẹn.” Cha Ađômêô thì nói rằng: “Thân xác Đức Mẹ không hề bị hư nát vì đã kết hợp với linh hồn và đã được đầy ơn.”
Ngày lễ hôm nay, cùng với Giáo hội, chúng ta tuyên xưng niềm tin hồn xác lên trời của Mẹ. Đồng thời, chúng ta cùng cảm tạ Thiên Chúa vì đã thưởng công Mẹ hồn xác lên trời. Mặt khác, đây là dịp nhắc nhở chúng ta rằng, quê hương chúng ta ở trên trời. Mẹ đã lên trời, đó là niềm hy vọng để mỗi người chúng ta tiếp bước theo sau. Nhưng để được lên trời với Mẹ chúng ta phải cố gắng sống như Mẹ, đi con đường Mẹ đã đi. Sống như Mẹ, đi con đường Mẹ đã đi đó chính là noi gương bắt chước các nhân đức của Mẹ:
Thứ nhất, chúng ta bắt chước nhân đức khiêm nhường của Mẹ: Sau lời sứ thần truyền tin, Đức Mẹ đã khiêm tốn thưa với Thiên thần rằng: “Này tôi là tớ tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền.” (Lc 1,38). Từ đó, Mẹ sống tinh thần khiêm nhường thẳm sâu trước mặt Chúa và mọi người: Khi Bà Êlizabét ca ngợi Mẹ, Mẹ đã quy hướng tất cả những gì mình có là do tình thương và sự quan phòng của Thiên Chúa: “Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn” (Lc 1,49). Mẹ sống âm thầm trong vai trò làm vợ và làm mẹ tại mái ấm gia đình Nagiarét đến nỗi không ai biết Mẹ là Mẹ của Thiên Chúa; Khi Đức Giêsu được nổi danh do lời giảng dạy và các phép lạ Ngài làm, Đức Mẹ vẫn sống âm thầm và ẩn danh… Tất cả điều đó cho chúng ta thấy nhân đức khiêm nhường của Mẹ. Đó là mẫu gương cho tất cả mỗi người chúng ta noi theo.
Thứ hai, chúng ta bắt chước Mẹ sống tin tưởng và phó thác vào Chúa: Sau khi thưa xin vâng, Mẹ trở thành Mẹ của Chúa Giêsu. Bào thai trong cung lòng của Mẹ ngày càng lớn lên. Nhưng không ai hiểu về nguyên nhân, kể cả Thánh Giuse. Bằng chứng là Thánh Giuse định tâm bỏ Mẹ mà trốn đi. Rồi, người thân và làng xóm láng giềng, chắc chắn không thiếu những lời đàm tiếu, thị phi. Vậy mà Mẹ vẫn tin tưởng phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Đúng như lời bà Thánh Êlizabét ca tụng Mẹ: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45). Sự tin tưởng và phó thác vào Chúa của Mẹ là mẫu gương cho tất cả mỗi người chúng ta noi theo.
Thứ ba, chúng ta bắt chước Mẹ để sống hiền lành và nhịn nhục: Từ khi cưu mang Đức Giêsu cho đến khi Con Mẹ chịu chết treo trên thập giá, Đức Mẹ phải đối diện với biết bao đau khổ: Đau khổ khi nghe ông Simêon nói tiên tri về Mẹ và Hài Nhi; Đau khổ khi đưa Hài Nhi trốn sang Ai Cập khỏi tay Hêrôđê lùng bắt; Đau khổ khi lạc mất Con ở Jêsusalem trong ba ngày; Đau khổ khi gặp Đức Giêsu vác Thập giá trên đường đến Núi Sọ; Đau khổ khi thấy Đức Giêsu bị đóng đinh; Đau khổ khi chứng kiến việc tháo xác Đức Giêsu xuống khỏi thập giá; Đau khổ khi phải chứng kiến việc chôn xác Đức Giêsu trong mồ. Nhưng trong khi chịu đựng những đau khổ đó, Đức Mẹ không hề trách móc kêu la một lời nào. Sự hiền lành và nhịn nhục của Mẹ là mẫu gương cho tất cả mọi người chúng ta noi theo.
Thứ tư, chúng ta bắt chước Mẹ để hết lòng yêu mến Chúa: Lòng yêu mến Chúa của Mẹ được thể hiện qua như việc tiêu biểu như: Ba tuổi Mẹ đã dâng mình trong đền thờ; Khi Thiên thần đến truyền tin cũng là lúc Mẹ đang đắm chìm trong lời kinh nguyện; Mẹ thưa “Xin Vâng” để cộng tác với chương trình cứu độ của Thiên Chúa; Hơn ba mươi năm Mẹ nuôi nấng chăm sóc Đức Giêsu; Mẹ chạy đôn đáo tìm cho bằng được khi Đức Giêsu đi lạc trong đền thờ… Tất cả những thái độ trên đều thể hiện một lòng yêu mến Chúa hết lòng hết sức trên hết mọi sự của Mẹ. Đó là mẫu gương cho tất cả mỗi người chúng ta noi theo.
Thứ năm, chúng ta bắt chước Mẹ để sống yêu thương hết mọi người: Vì yêu thương nhân loại nên Mẹ đã chấp nhận làm Mẹ Thiên Chúa, nhờ đó nhân loại được cứu chuộc. Vì yêu thương nên Mẹ đã vội vã lên đường thăm bà Êlizabét để chia sẻ niềm vui có Chúa và để giúp đỡ bà chị họ trong những ngày thai nghén sinh nở. Vì yêu thương nên Mẹ đã cầu bầu cùng Đức Giêsu làm phép lạ biến nước thành rượu ngon để cứu gia chủ khi họ hết rượu. Vì yêu thương nên khi đã về trời Mẹ vẫn hiện ra đây đó trên thế giới để ủi an nâng đỡ con cái loài người… Đó là mẫu gương yêu người cho tất cả mỗi người chúng ta noi theo.
Như vậy, Đức Mẹ được lên trời cả hồn lẫn xác không chỉ nhờ những đặc ân Thiên Chúa ban mà còn nhờ những nhân đức mà Mẹ ra sức rèn luyện. Chúng ta muốn được lên Thiên đàng phải đi con đường Mẹ đã đi, phải sống như Mẹ đã sống, đó là biết noi gương bắt chước các nhân đức của Mẹ.
Lạy Thiên Chúa là nguồn Tình Yêu, Chúa đã cho Mẹ hồn xác lên trời. Nhờ lời chuyển cầu của Mẹ, xin giúp chúng con biết sống làm sao để một ngày kia cũng được hưởng hạnh phúc trên Trời với Mẹ. Amen.















44. Mẹ Về Trời, Hy Vọng Và Hạnh Phúc Của Chúng Ta
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ



“Kính chào trinh nữ đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng trinh nữ! ” (Lc 1,28).
Lời chào trên đây của Sứ Thần Gabriel được chúng ta không ngớt dâng lên Đức Mẹ nhiều lần trong ngày. Hôm nay, chúng ta lặp lại với niềm vui khôn tả và chứa chan niềm hy vọng trong ngày lễ Đức Maria hồn xác về Trời, một tương lai tuyệt vời không ngừng thu hút người tín hữu nói riêng và nhân loại nói chung. “Ðấng đầy ơn phúc” là tên mà Thiên Chúa qua miệng Sứ Thần muốn gọi Đức Trinh Nữ Maria.
“Ðầy ơn phúc” là phúc lành thiêng liêng Thiên Chúa gửi cho Mẹ! Mẹ được chúc phúc hơn các người phụ nữ (x. Lc 1:42)! Chúa Cha đã chọn Mẹ trong Đức Giêsu Kitô từ trước khi tạo thành vũ trụ, ngõ hầu Mẹ trở nên thánh thiện và tinh tuyền trước nhan thánh Chúa.
Chúa Giêsu Kitô là chồi non mọc lên để đạp dập đầu con rắn xưa, theo sách Sáng Thế (x. St 3,15); là Con Chiên không tì vết (x. Xh 12,5; 1P 1,19) tự hiến tế để cứu chuộc con người. Sau khi hạ mình xuống trong cuộc thương khó, Người đã sống lại vinh quang lên Trời ngự bên hữu Thiên Chúa đến muốn đời.
Theo lời thánh Lêo Cả, khi Vị Thủ Lãnh của chúng ta bước vào thiên đàng và ở trên đó, “vinh quang của Đầu” đã trở thành “niềm hy vọng cho thân xác” (x. Sermo Ascensione Domini). Chúa Giêsu đã vĩnh viễn bước vào thiên đàng, “Người là Đầu và là Trưởng Tử giữa đàn em đông đúc” (Rm 8,29). Vì bản tính của chúng ta là ở trong Thiên Chúa và ở trong Đức Giêsu Kitô, nên vì loài người chúng ta (thân xác), Chúa Giêsu là (Đầu) hằng sống đến muôn thuở muôn đời hằng cầu thay nguyện giúp cho chúng ta trước mặt Chúa Cha (x. Dt 7,25).
Đức Giêsu, Vị Thủ Lãnh của chúng ta đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, hiển vinh về Trời, Người cũng rước Đức Maria Mẹ yêu dấu của Người về Trời cả hồn lẫn xác. Từ trên cao vinh hiển, Người gửi cho Giáo hội một sứ điệp hy vọng và mời gọi hướng đến sự thánh thiện trên Trời nơi Người đang ngự bên hữu Thiên Chúa cùng với Mẹ Người được ân thưởng. Trong chiến thắng của Adam mới, đó cũng là của Evà mới, mẹ của những người đã được cứu chuộc. Do đó Đức Maria được ân thưởng về Trời là một dấu chỉ niềm hy vọng cho tất cả chúng sinh, những người đã chiến thắng Sa-tan nhờ máu của Con Chiên (x. Kh 12,11).
Hôm nay cùng với toàn thể Giáo hội, chúng ta long trọng mừng Lễ Đức Maria về Trời trong niềm tin và hy vọng chứa chan như thánh Bernarđô nói: “Đức Maria Nữ Trinh vinh hiển về Trời đã gia tăng hạnh phúc và niềm hy vọng nơi chúng ta”. Ngài thêm: “Đức Maria, Phần Tử ưu tú trên địa cầu chúng ta đang sống được đưa từ đất về trời, là một món quà vô cùng cao quý, sự vinh thăng ấy là cuộc trao đổi kỳ diệu giữa đất với trời, giữa con người trần thế với thế giới thần linh. Mẹ là hoa quả tuyệt vời của trái đất đã được đưa lên cao, để từ trên nơi cao xanh ấy ơn sủng lại tuôn đổ chan hòa xuống trên mặt đất, nghĩa là chính từ nơi Đức Maria diễm phúc được rước lên đó, đến lượt mình, Mẹ lôi kéo muôn vàn ân sủng xuống cho nhân loại”.
Ân sủng Mẹ chuyển xuống chính là Lời, Lời mà Mẹ đã đón nhận và cẩn thận ghi nhớ cũng như cưu mang trong lòng. Khi cưu mang Lời trong lòng, Mẹ cũng cưu mang Sự Sống của chúng ta: “Đức Maria vội vã lên đường, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Êlisabét” (Lc 1,39-40). Sự hiện diện của Mẹ Maria làm cho thế giới vui mừng như bà Êlisabét nói: “Vì khi vừa nghe tiếng em chào, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng tôi” (Lc 1,44).
Mẹ vui mừng, Mẹ cũng làm cho thế giới mừng vui, niềm vui của Mẹ trở thành bài thánh ca muôn thủa: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa Đấng Cứu Độ tôi!” (Lc 1,46-47). Thật là một quả phúc tuyệt vời trên cõi trời cao ban xuống cho nhân loại. Bài Ca Tạ Ơn của Đức Maria đã trở thành Lời Thiên Chúa. Trong bài ca ấy, chúng ta tìm ra con đường để hiểu biết con người và Thiên Chúa như thế nào, và trần thế cũng như thiên đàng ra làm sao. Tất cả hợp nhất cùng nhau để có thể hành động như Mẹ, trở nên món quà Thiên Chúa tặng ban cho người khác.
Mừng kính Đức Trinh Nữ Maria hồn xác về trời, chúng ta không chỉ mừng vì Thiên Chúa đã làm cho Mẹ những điều trọng đại, mà còn mừng vì tương lai của mỗi chúng ta. Thánh Phaolô nói: “Anh em khỏi phải phiền sầu như những người khác, những kẻ không có hy vọng” (1 Tx 4,13). Chúng ta cố gắng hiểu để sống sao cho xứng danh là người hy vọng.
Vậy mỗi người chúng ta hãy sống hy vọng, hãy làm ngày lại ngày, không buông tay, mặc cho những ngang trái của cuộc đời. Phúc cho chúng ta, nếu chúng ta can đảm chiến đấu mỗi sáng khi thức dậy cho cuộc sống đáng sống của mọi người trên trái đất. Nếu như khi xưa Mẹ đã đến với bà Êlisabet, làm cho cả gia đình bà vui mừng, thì ngày hôm nay Mẹ vẫn đến với chúng ta. Mẹ mở rộng vòng tay nói với chúng ta rằng: hỡi con, hãy tin tưởng và hy vọng, Chúa đã dọn chỗ cho con.
Nữ Vương linh hồn và xác lên Trời, cầu cho chúng con. Amen.















45. Lễ Vọng Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời
Lời Chúa: Lc 11, 27-28



Đang lúc Chúa Giêsu đang nói thì một người phụ nữ lên tiếng nói với Người: “Phúc thay lòng dạ đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú”. Đây là một lời ca tụng người mẹ đã sinh được một đứa con tài giỏi thông minh như Thầy. Nhưng cũng là một lời ca tụng người con làm rạng danh cho mẹ mình. Người phụ nữ này có nghĩ rằng Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai hay không, điều này thánh Luca không thấy nói đến, nhưng khi suy nghĩ về cách nói này của người phụ nữ thì có thể nàng đã công nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, vì trong dân Do thái, vào thời bấy giờ, các thiếu nữ Do thái đều ước mong được làm mẹ Đấng Cứu Thế. Và chỉ có người nào được vinh dự đó mới đáng ngợi khen và có phúc.
Nhưng Chúa Giêsu lại cho thấy có một thứ hạnh phúc lớn hơn là làm mẹ của Ngài, đó là lắng nghe và tuân giữ lời Chúa. Lời Chúa mới là con đường dẫn đến hạnh phúc và một hạnh phúc cao cả hơn. Nói như thế không phải là Ngài phủ nhận hạnh phúc làm mẹ Ngài theo phần xác, nhưng Ngài muốn cho thấy, có một hạnh phúc cần thiết hơn cần phải chú tâm theo đuổi. “Con người không chỉ sống bằng cơm bánh, nhưng sống bằng lời từ miệng Thiên Chúa phán ra”.
Mẹ Maria đã được hạnh phúc làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ cũng được hạnh phúc lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa. Ai có thể hơn Mẹ trong việc lắng nghe và thực thi lời Chúa? Thánh Luca đã nhấn mạnh đến điều này khi các những người chăn chiên đến hang Bêlem thờ lạy Chúa mới sinh: “Maria hằng ghi nhớ những kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng”. Khi tìm gặp Chúa trong Đền Thờ, ngồi giữa các tiến sĩ… Riêng Mẹ Người hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng.
Chúng ta có thấy được hạnh phúc của chúng ta không? Hạnh phúc được nghe lời Chúa và đem ra thực hành? Phúc cho mắt anh em vì được thấy. Phúc cho tai anh em vì được nghe. Vì Lời Chúa là sự sống.
Hãy để cho những người khác lo kiếm tiền và lợi lộc trần gian, chúng ta chỉ cần lắng nghe lời Chúa và sống lời Chúa. Hãy nhìn vào các thánh để thấy rằng các ngài đã tin, và hạnh phúc của các ngài thật lớn lao.
Mẹ Maria chỉ sống cho Chúa Giêsu, khiêm tốn và tinh tuyền, chính Mẹ trở thành Lời. Mẹ đã cưu mang Ngôi Lời Thiên Chúa và đã ban cho trần gian kho tàng vô giá là Con Mẹ. Mẹ chính là Hòm Bia, nơi Thiên chúa ngự trị giữa dân Ngài.
Hôm nay Hội Thánh cũng nhắc đến Hòm Bia mà vua Đavít đã long trọng cung nghinh và rước về Giêrusalem trong hân hoan.
Trong Cựu Ước, Hòm Bia tượng trưng cho sự có mặt của Thiên Chúa giữa dân Ngài. Chính Thiên Chúa trở thành sức mạnh của đoàn dân trong sa mạc, đã cho họ chiến thắng tất cả những dân tộc khác. Sau khi định cư tại Đất Hứa, Hòm Bia vẫn được tôn kính như nơi Thiên Chúa ngự trị và chúc phúc cho toàn dân. Mẹ Maria được xem là Hòm Bia Thiên Chúa vì Mẹ là nơi Chúa Giêsu cư ngụ khi xuống trần gian. Mẹ cưu mang Chúa Giêsu và mang Chúa đến cho nhân loại, vì Ngôi Lời đã trở nên người phàm và ngự giữa chúng ta. Như xưa, Hòm Bia luôn được bao phủ bởi một áng mây và áng mây đó là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa, thì hôm nay, Mẹ được đầy tràn Thánh Thần như lời thiên thần đã nói khi truyền tin: Thánh Thần Chúa sẽ phủ bóng trên Bà và Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Vì thế Mẹ được gọi là Đấng đầy ơn phước… và Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả… Từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Mặc dù được Thiên Chúa ưu ái như thế, Mẹ vẫn là nữ tỳ của Thiên Chúa thôi. Mẹ vẫn khiêm nhượng nhìn nhận sự thấp hèn của mình và chỉ tin vào Chúa mà thôi.
Chúng ta hãy theo vết chân Mẹ, luôn phó thác trong tay Chúa. Cuộc đời chúng ta luôn gặp thử thách, gian nan, nhưng chúng ta biết rằng bên kia những thử thách vẫn còn niềm hy vọng là tình yêu Chúa luôn đón nhận chúng ta. Theo vết chân Mẹ, Mẹ sẽ dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu, Con Mẹ và chính Ngài là nguồn phúc vô biên của chúng ta. Mẹ được vinh quang trên thiên quốc nhưng Mẹ luôn chăm sóc đoàn con của Mẹ. Học với Mẹ lắng nghe lời Chúa, khắc ghi lời Chúa và mang ra thực hành, chúng ta sẽ không bao giờ thất vọng.
Mẹ được Chúa cho hồn xác lên trời là một hồng ân cho Mẹ, nhưng cũng cho chúng ta, vì Mẹ luôn ban cho chúng ta được thông phần hạnh phúc của Mẹ, nếu chúng ta luôn tin vào Mẹ, từng bước theo Mẹ trên con đường yêu mến Chúa Giêsu.
Trong hiến tế trên bàn thờ, Chúa Giêsu muốn đến với chúng ta bằng một tấm bánh cũng như xưa Chúa đến với Mẹ qua việc nhập thể. Ngài chọn Mẹ như Hòm Bia để đến với chúng ta thì hôm nay Ngài chọn thân xác chúng ta để nhập thể một cách mầu nhiệm vào thế giới , vào cuộc sống chúng ta. Hãy dọn cho Ngài một cung điện rực rỡ niềm hân hoan và tình yêu khiêm hạ. Hãy để cho Ngài làm chủ tất cả cuộc sống và con người chúng ta để Ngài ở giữa thế gian qua con người nhỏ bé của chúng ta. Ăn lấy Chúa, chúng ta là những Hòm Bia chứa đựng vinh quang Thiên Chúa. Chúa sẽ cho chúng ta toàn thắng mọi gian nan thử thách và đạt đến nguồn sống bất diệt là Chúa Giêsu, Con Mẹ.
Lm Trầm Phúc
Gp. Mỹ Tho















46. Chú giải các bài đọc



Bài đọc 1: Sách Khải Huyền mô tả trận chiến cuối cùng giữa Thiên Chúa và sự dữ, hình ảnh tượng trưng là con mãng xà (con rắn của sách Sáng Thế). Người nữ tượng trưng cho Giáo Hội, và con trẻ tượng trưng cho Đức Kitô (Đấng Mêsia). Như người nữ trong thị kiến, Giáo Hội phải trải qua đau khổ và bách hại. Những vần thơ cuối trong bài đọc một, ca ngợi chiến thắng của Thiên Chúa và Đức Kitô.
Là Mẹ của Đấng Cứu Thế, Đức Maria là trung tâm của trận chiến giữa Thiên Chúa và những quyền lực sự dữ, mà bài đọc trích sách Khải Huyền nói đến. Cho nên, thật hoàn toàn phù hợp khi Mẹ cùng được thông phần vinh quang chiến thắng (qua biến cố Mẹ lên trời).
Bài đọc trích sách Khải Huyền rất có ý nghĩa trong việc khích lệ các Kitô hữu tiên khởi, những người đang trải qua đau khổ và bị bách hại lúc bấy giờ. Bài đọc cũng khẳng định chắc chắn rằng cuối cùng Thiên Chúa sẽ chiến thắng. Điều này cũng sẽ khích lệ chúng ta. Thiên Chúa dành cho Mẹ Maria một sự quan tâm đặc biệt. Người cũng sẽ quan tâm, chăm sóc chúng ta. Người không tránh cho ta khỏi phải chạm trán với sự dữ, nhưng Người sẽ giúp chúng ta vượt thắng được chúng.
Bài đọc 2: Chúa Giêsu là Adam mới, Đấng mà qua sự vâng phục của Người, đã phục hồi cho chúng ta những ân sủng đã bị lấy đi bởi sự bất tuân phục của Adam thứ nhất. Giáo Hội nhìn thấy nơi Đức Maria như Evà mới, Đấng mà qua sự vâng phục của Mẹ trước Thiên Chúa, đã xóa bỏ những thiệt hại đã gây nên bởi sự bất tuân phục của Eva thứ nhất.
Trong ngày Truyền tin, Mẹ đã nói: “Việc ấy xảy ra cách nào (…). Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,34a.38). Mẹ đã đón nhận công việc mà Chúa giao phó cho Mẹ. Ngay cả khi Mẹ không thể nào thấu hiểu hết những ẩn ý trong đó, Mẹ vẫn cứ tin rằng Thiên Chúa sẽ ban cho những sự trợ giúp cần thiết.
Ngày hôm nay, biết bao người đang tìm kiếm sự thành toàn và hạnh phúc qua việc “thực hiện chính mình”. Họ tin rằng hạnh phúc hệ tại ở chỗ không bị ràng buộc, cam kết, không phải chịu trách nhiệm về điều gì cả. Đức Maria là một mẫu gương tuyệt hảo cho chúng ta, bởi vì cuộc sống áp đặt trên ta hàng loạt những bổn phận, bổn phận với chính mình, với người khác và với Thiên Chúa. Những ai biết đón nhận bổn phận như Đức Maria đã làm, có thể sẽ không tìm thấy hạnh phúc và sự thành toàn trong cái nhìn trần thế, nhưng trong cái nhìn của Thiên Chúa thì họ thực sự đã đạt được.
Bài Tin Mừng: Sau biến cố Truyền Tin, Mẹ có quyền nghỉ ngơi và tập trung lo cho chính mình. Thế mà thay vào đó, Mẹ đã vội vã lên đường thăm bà chị họ mình là Elizabeth, người cũng đang chờ đợi sự chào đời của đứa con. Cuộc viếng thăm của Mẹ là một nghĩa cử quý báu đối với Elizabeth. Nhưng Mẹ cũng nhận lại được lợi ích từ cuộc viếng thăm này. Đây cũng là điều thường tình trong mọi cuộc viếng thăm. Khi chúng ta đến thăm ai, chúng ta cho rằng bản thân mình đã làm một việc tốt cho người đó. Điều đó đúng. Nhưng chính chúng ta cũng được lợi, ít là chúng ta học được nơi người khác cách thức đối phó với những tình huống khó khăn như thế nào.
Elizabeth dùng những từ ngữ tốt đẹp để khẳng định với Maria: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45). Đề tài những ai tin được chúc lành là đề tài trung tâm của Tin Mừng.
Tuy nhiên, vấn đề không đơn giản chỉ là tin mà thôi, nhưng là phải tin và sống theo niềm tin ấy. Đức Maria được chúc phúc, không đơn giản vì Mẹ đã tin, nhưng vì Mẹ đã hành động theo đức tin. Niềm tin tôn giáo nơi Mẹ không phải chỉ là vấn đề tình cảm. Đó là điều đã được biến đổi để trở thành hành động.
Đức tin không luôn luôn đưa đến những sự dễ dãi. Thường thì ngược lại. Đức tin buộc chúng ta phải chiến đấu, mà không bảo đảm rằng có kết quả hạnh phúc. Một người sống đức tin sẽ không bao giờ thoái lui.
Đức Maria là môn đệ đầu tiên và hoàn hảo nhất của Chúa Giêsu. Điều này giải thích tại sao Giáo Hội đề cử Mẹ như mẫu gương cho mọi người chúng ta và tại sao chúng ta lại tôn vinh Mẹ trong thánh lễ hôm nay. Chúng ta cũng sẽ được chúc phúc như Đức Maria, nếu chúng ta lắng nghe Lời Chúa và thực hành lời Người.















47. Lễ Ðức Maria Hồn Xác Lên Trời
Lm. Giuse Đinh Tất Quý



Hôm nay chúng ta mừng kính một trong bốn hồng ân trọng đại mà Thiên Chúa đã ban cho Đức Maria Mẹ của chúng ta, đó là đặc ân hồn xác lên trời.
Mẹ về trời có nghĩa là mẹ đang sống. Sự sống của Mẹ không phải chỉ giới hạn trong cuộc đời, nhưng bao trùm cả lịch sử: Lịch sử của cả loài người lẫn lịch sử của mỗi người chúng ta.
Vâng ngay từ thuở đời đời Thiên Chúa đã muốn cho người mẹ đó luôn ở với chúng ta.
1. Ngay từ những ngày tháng đầu tiên khi con người vừa có mặt trên trái đất này, Mẹ đã có mặt ở đó:
“Ta sẽ đặt giữa ngươi và người phụ nữ
Giữa dòng dõi ngươi và dòng dõi người nữ một mối thù địch
Người phụ nữ đó sẽ đạp dập đầu mi.” (St 3,15)
2. Rồi khi đến thời đến buổi, lúc Thiên Chúa muốn thực hiện lời hứa của Người, Mẹ Maria đã có mặt ở đó. Bằng lời Xin Vâng với tất cả tâm tình phó thác, Mẹ để cho Thiên Chúa hoàn toàn làm chủ cuộc đời của mình để làm những việc Thiên Chúa muốn làm trong chương trình cứu rỗi loài người chúng ta.- Ngày Chúa Giêsu Đấng Cứu thế ra đời, khởi đầu công việc cứu thế, Mẹ có mặt ở đó để chứng kiến giây phút trọng đại này.
- Lúc Chúa khởi sự cuộc đời công khai, tại tiệc cưới Cana, Mẹ có mặt ở đó như một người mẹ luôn lo lắng cho con cái của mình.
- Lúc Chúa rao giảng: Mẹ có mặt xa xa; nhưng khi Chúa bị treo trên Thánh Giá: Mẹ đứng thật gần. “Mẹ đứng sát cạnh Chúa Giêsu… như một trợ lực cho người con để Ngài làm xong những công việc cần phải làm cho mọi sự được hoàn tất.”
- Rồi ngày đầu tiên đánh dấu sự ra đời của Giáo hội, Mẹ có mặt ở đó với tất cả lòng yêu thương để khích lệ các tông đồ can đảm dấn thân vào cuộc sống mới: Cuộc sống làm chứng cho Chúa Giêsu Phục sinh.
Chưa hết, sau khi Chúa về trời, Mẹ cũng tiếp tục có mặt, có mặt như một nhắc nhở để những người con của mẹ nơi trần thế chớ có vì cuộc sống tạm bợ mà quên mất trời cao.- Mẹ đã hiện ra với nữ tu Catharina Labouré tại khu phố Dubac ở Thủ đô nước Pháp năm 1830
- Năm 1846 tại La Salette, Mẹ hiện ra với hai trẻ mục đồng: Mélaine (10 tuổi) và Maximin (15 tuổi)
- Tại Lộ Đức năm 1858 với cô bé chăn cừu Bernadette
- Tại Pontmain 1871 với Cha Barbedette và cậu Eugène
- Tại Pellevoisin 1876 với Estelle Faguette (12 tuổi)
- Tại Fatima 1917 với ba trẻ: Giaxinta (7 tuổi)- Phanxicô (9 tuổi) – Và Lucia 10 tuổi)
- Tại Beauring Bỉ với Albert (11 tuổi) – Fernande Versin (15 tuổi) Gilberte Degeimbre (9 tuổi) và André Degeimbre (14 tuổi)
- Và sau đó tại Banneux cũng ở tại nước Bỉ với Mariette (12 tuổi)
- Tại Hang Ba suối ở Roma với 1 người đàn ông và ba em nhỏ: Ông Bruno Cornachiola và ba em là: Isala (10 tuổi) – Carlô (7 tuổi) và Gioanfraco (4 tuổi)
- Cuối cùng chúng ta cũng không quên Mẹ đã hiện ra nhiều lần cách đây 200 năm tại La Vang.
Tất cả những lần hiện ra như thế dường như chỉ để chứng minh có một điều: Mẹ vẫn có mặt, có mặt thường xuyên và gần gũi với con cái loài người chúng ta, giúp cho con cái loài người hãy biết sống để chiếm hữu được trời cao như Mẹ.
Vâng chúng ta hãy biết nghe lời Mẹ.
Một hôm trong đám những người hành hương đến Arc có một người đàn bà mang đại tang. Bà vào giữa nhà thờ đứng như trời trồng ở giữa mọi người. Bà có vẻ rất đau khổ. Lý do là chồng bà, một người đã bỏ đạo từ lâu cách đây mấy bữa đã nhảy xuống sông tự tử… đã chết mà không được lãnh nhận những bí tích cuối cùng. Cha Gioan Maria Vianey đi qua… Bà chưa kịp nói gì thì Cha ghé vào tai bảo bà:
– Ông nhà đã được cứu rỗi rồi.
Thấy người đàn bà có vẻ quá ngạc nhiên, cha nói lại một lần nữa:
– Tôi đã bảo ông nhà đã được cứu rỗi rồi mà.
Bà thắc mắc hỏi lại với một giọng đầy hoài nghi, cha nhấn mạnh từng tiếng:
– Tôi bảo bà là ông nhà đã được cứu rỗi rồi. Ông hiện đang ở trong Luyện ngục. Phải cầu nguyện nhiều cho ông ta. Giữa nhịp cầu và dòng nước ông đã có được một thời gian để ăn năn thống hối. Bà còn nhớ là trong tháng Đức Mẹ, bà đã cho làm một bàn thờ trong phòng của bà không? Thỉnh thoảng, chồng của bà, mặc dầu đã bỏ đạo cũng đến hợp lời cầu nguyện với bà. Thái độ đó đã đem lại cho ông ta ơn thống hối và tha tội vào phút cuối cùng của cuộc đời.
Lạy Mẹ Maria
Đã một lần Mẹ nhận nhân loại chúng con làm con của mẹ
Và từ dạo ấy
Mẹ đã yêu nhân loại với tất cả tấm lòng từ mẫu
Chúng con là những người trong khối nhân loại ấy
Và như thế chúng con đã đương nhiên là con của Mẹ
Và đương nhiên là Mẹ thương chúng con.
Xin dạy chúng con
biết chiêm ngắm Chúa Kitô
và suy đi nghĩ lại những Lời của Người
trong tâm tình yêu mến như Mẹ.
Xin dẫn lối cho chúng con
trên bước đường theo Chúa
cũng như đem Chúa đến cho mọi người.
Xin dạy chúng con biết luôn bước đi trên con đường tình yêu
Với tâm tình phó thác.
Xin dẫn chúng con
đến sự sống muôn đời
bằng cách đặt bàn tay chúng con
vào bàn tay của Chúa Kitô
Đấng đã có lần nói với mọi người
Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Amen















48. Để Cùng Mẹ Lên Trời
Linh mục Trịnh Ngọc Danh



Giáo Hội đã phong tặng cho Mẹ nhiều tước hiệu: Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Giáo Hội, Mẹ loài người, Mẹ Đồng Trinh, Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội,… và qua sự can thiệp của Mẹ đối với con cái trần gian, Mẹ đã được khen tặng qua nhiều danh hiệu khác: Nữ Vương Hoà Bình, Nữ Vương Ban sự Bình An…
Giáo Hội mừng lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời là để tôn vinh Mẹ là nữ tỳ đã được Thiên Chúa ưu ái ban cho một trong những ân huệ cao vời. Mẹ đã được cả hồn lẫn xác lên trời, đang hiện diện bên cạnh Ngôi Hai Thiên Chúa là Con Mẹ; đó là một tín điều.
Vai trò của Mẹ bên Thiên Chúa là gì đối với chúng ta? Và chúng ta noi gương Mẹ sống đức tin như thế nào?
Các nhà thần học đã chú giải cuộc hành trình đức tin của Mẹ Maria từ biến cố truyền tin cho đến giây phút cuối cùng trên Núi Sọ, đồi Canvê.
Chúng ta không đi theo thứ tự ấy để nói về cuộc hành trình đức tin của Mẹ, nhưng chúng ta đi ngược dòng thời gian của cuộc đời Mẹ, qua những biến cố nổi bật: từ những giây phút chết lặng bên xác con trên đồi Canvê trở về biến cố truyền tin, và qua những lời Mẹ đã nói để áp dụng vào cuộc sống đức tin của chúng ta.
Trong suốt cuộc đời của Mẹ bên Giêsu Con Mẹ, Phúc Âm chỉ ghi lại được sáu lời nói của Mẹ từ lúc sứ thần Chúa báo tin vui cho Mẹ cho đến lúc ẵm xác Con dưới chân Thánh Giá: Ba lời nói có tính cách riêng tư liên quan đến việc truyền tin cho Mẹ làm Mẹ Thiên Chúa; hai lời nói với Thiên Chúa, Con Mẹ: một, khi tìm lại được con trong Đền Thờ và một,trong tiệc cưới Cana, và cũng trong tiệc cưới ấy, chỉ một câu nói duy nhất đối với con người: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”; ngoài ra, Mẹ còn có những lời ngợi khen Thiên Chúa được đặt tên là bài ca Ngợi Khen (Magnificat). Áp dụng những lời nói của Mẹ vào cuộc sống đức tin của mình, chúng ta cũng gián tiếp học được gương sống đức tin của Mẹ khi so chiếu với cuộc sống đức tin của chúng ta.
– Trên đồi Canvê, trước lúc trút hơi thở cuối cùng, Chúa Giêsu đã trối lại cho Mẹ những gì?
Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Chúa Giêsu nói với thân mẫu rằng: “Thưa Bà, đây là con bà.” Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là mẹ anh.” Kể từ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình. (Ga 19:26-27).
Lời trối trăn ấy cũng là di chúc cho Giáo Hội trong tương lai. Mẹ Maria đã trở thành Mẹ Giáo Hội và Mẹ chúng ta từ đây. Mẹ đã trở thành một người Mẹ phổ quát.
– Tại tiệc cưới Cana, thấy hoàn cảnh khó xử của chủ tiệc cưới, mẹ đã động lòng trắc ẩn; Mẹ đã can thiệp với Con mình, người mà mẹ biết rõ là ai; Mẹ đã làm đổi ngược chương trình hành động của Con Mẹ trong chương trình cứu chuộc con người:
Khi thấy thiếu rượu, Thân mẫu Đức Giêsu nói với Ngài: “Họ hết rượu rồi!” Đức Giêsu đáp: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và con? Giờ của con chưa đến.” Nghe nói thế, nhưng mẹ vẫn tin là con mẹ sẽ không từ chối lời xin của Mẹ và Mẹ đã bảo với gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2:1-8)
Trong cuộc sống của mỗi người, có những lúc chúng ta gặp phải cảnh “hết rượu” khi đời sống đức tin của chúng ta đến lúc cạn kiệt, khi niềm tin vào Thiên Chúa bị vẩn đục bằng những khát vọng đam mê trần thế. Đó là những giây phút chúng ta “hết rượu rồi”. Sao chúng ta quên đi một Đấng có thể làm cho bình rượu chúng ta lại đầy tràn? Hãy chạy đến cùng Mẹ, chắc chắn Mẹ sẽ cũng nói với chúng ta như đã nói với các gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”. Hãy lắng nghe, thực hành những gì Ngài bảo. Đó là “làm theo” Tin Mừng.
Chúng ta biết rằng Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ của mỗi người chúng ta. Chúng ta hãy xin Mẹ cầu bầu và can thiệp với Thiên Chúa cho tất cả chúng ta. Mẹ đã can thiệp với Con Mẹ và chính Con Mẹ lại can thiệp với Chúa Cha để chúng ta đi hết con đường dương thế này.
– Lạc mất con: Xong Kỳ lễ Vượt Qua, hai ông bà trở về nhà, còn cậu bé Giêsu thì ở lại Giêrusalem mà cha mẹ không hay biết. Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giêrusalem để tìm con. Sau ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy con trong Đền Thờ. Khi thấy con, Mẹ Ngài nói với Ngài: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” Đó là lời tâm tình của Mẹ nói với Con mình, nhưng cũng là lời tâm tình Mẹ nói với chúng ta một khi chúng ta để lạc mất Thiên Chúa.
Sau Truyền tin, Mẹ đã phải tiếp tục cuộc hành trình đức tin của mình mỗi ngày trong im lặng của Thiên Chúa và qua những biến cố đôi khi làm cho Mẹ lạc hướng. Chúng ta hãy noi gương Mẹ. Mẹ sẽ giúp chúng ta sống đức tin qua những biến cố hằng ngày của cuộc sống, những khó khăn trong gia đình, nơi làm việc, ở khu phố và qua tất cả những vấn đề của thế giới hôm nay.
Như người chăn chiên đi tìm con chiên lạc, như người cha mong mỏi đứa con hoang trở về, Thiên Chúa và Mẹ vẫn mong mỏi chúng ta trở về mỗi khi chúng ta đánh mất niềm tin vào Thiên Chúa. Lời trách yêu của Mẹ là lời nhắn nhủ chúng ta tìm về lòng thương xót và nhân hậu của Thiên Chúa.
– Truyền tin: Thiên Chúa sai sứ thần Gabrien đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc nhà Đavít. Trinh nữ ấy tên là Maria.
Sứ thần liền nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà”. Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào ấy có ý nghiã gì.
Sứ thần liền nói: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa…”
Bà Maria thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến chuyện vợ chồng!”
Với Mẹ, câu hỏi ấy được nêu lên chỉ để muốn sứ thần giải thích về lời loan báo, chứ không phải để hoài nghi, không tin vào lời sứ thần loan báo, thế nhưng đối với chúng ta, đã rất nhiều lần chúng ta cũng thắc mắc như thế, nhưng không phải để củng cố niềm tin, nhưng là để hoài nghi về Thiên Chúa, về sự hiện diện của Ngài nơi trần thế với con người. Trong cuộc sống, có những lúc chúng ta nghi ngờ về sự hiện diện của Thiên Chúa, băn khoăn thắc mắc về những gì Thiên Chúa mặc khải, và đánh mất niềm tin vào Ngài, và đã hoài nghi: “Việc ấy sẽ xảy ra thế nào?”, vì khoa học không thể chứng minh, vì những gì Thiên Chúa truyền dạy không thể giải thích được với suy luận của con người.
Sau khi nghe sứ thần giải thích, bà Maria đã thưa: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1: 26-38)
Con người có khuynh hướng trốn chạy Thiên Chúa, khi Ngài đến gõ cửa nhà mình, khi phải thực hành Tin Mừng Ngài đã truyền dạy.
Tin Mừng cứu độ cũng là những lời truyền tin mà Thiên Chúa muốn gửi đến cho con người. Như Mẹ đã sẵn sàng đón nhận sứ mệnh mà Thiên Chúa giao phó trong đức tin và khiêm nhường, chúng ta cũng học lấy cách nói tiếng “xin vâng” của Mẹ để thực thi thánh ý của Thiên Chúa: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần đã nói.”
“Một người nữ mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12:1). Đó là điềm lạ về Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Giáo Hội và Mẹ chúng ta!
Những đặc ân mà Thiên Chúa ban cho Mẹ: sự viên mãn về ân sủng, sự thánh thiện trọn hảo đã có ngay từ giây phút ban đầu, sự thụ thai đồng trinh với tư cách làm Mẹ Thiên Chúa, sự cộng tác của Mẹ vào toàn bộ công cuộc cứu chuộc và vào sự hy sinh trên thập giá, mầu nhiệm hồn xác lên trời với việc thực hiện tư cách làm Mẹ phổ quát trong sự phát triển đời sống của Giáo Hội, không tách biệt Mẹ với cuộc sống của chúng ta, nhưng ngược lại, là một tấm gương về đời sống đức tin.
Những lúc rượu đức tin cạn kiệt, hãy chạy đến với Mẹ và nhớ lại lời Mẹ đã bảo: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”.
Những lúc chúng ta xa rời Thiên Chúa, đánh mất Ngài trong cuộc sống, hãy cùng Mẹ lên Giêrusalem để tìm gặp Chúa.
Và những lúc đam mê dục vọng cuốn hút, những lúc kiêu căng tự mãn làm cho chúng ta chối từ Thiên Chúa, thì hãy khiêm tốn nhận ra lời giải thích của Thiên Chúa qua vũ trụ để cùng Mẹ: xin vâng và cùng Mẹ hát bài ca Ngợi Khen:
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng,
Vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi…
Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả,
Danh Người thật chí thánh, chí tôn!…
Từ đời nọ đến đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.”















49. Lên Trời Với Mẹ
Cao Huy Hoàng
Nguồn: xuanbichvietnam.wordpress.com



Chúa không muốn Mẹ Maria chịu cảnh hư nát trong mồ, vì Mẹ đã sinh hạ Con Cha yêu quý là Đấng ban sự sống cho mọi loài. Mẹ Maria được Chúa đưa về trời.
Mẹ Maria được Chúa đưa về trời cả hồn lẫn xác minh quyết rằng Mẹ Maria Vô Nhiễm Tội Truyền. Thân xác Mẹ đúng là thân xác của Evà mới, Evà của kỷ nguyên mới, của trời mới, đất mới, của bà Mẹ tinh tuyền, bà Mẹ hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa. Thân xác Mẹ xứng đáng là thân xác Ái Nữ của Thiên Chúa Cha, thân xác Hiền Mẫu Ngôi Chúa Con, và mãi xứng đáng là cung ngà điện ngọc của Chúa Thánh Thần. Nơi Mẹ, Ba Ngôi Thiên Chúa cùng ngự trị.
Quả thật, ý định do lòng thương xót của Thiên Chúa Cha được thực hiện bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, và Ngôi Chúa Con đã nhập thể trong cung lòng Maria trinh nữ và ra đời làm người. Mẹ Maria đã cưu mang và sinh ra Đấng Cứu Thế cho nhân loại, và qua Chúa Giêsu Cứu Thế, con người được ơn phục hồi quyền làm nghĩa tử của Thiên Chúa. Việc ấy, đồng nghĩa với việc Mẹ Maria cũng đã sinh ra cho Thiên Chúa muôn ngàn con cái mới của Thiên Chúa trong triều đại Con của Mẹ, trong đó có mỗi chúng ta.
Tưởng cũng nên nhắc lại rằng thân xác của người Mẹ đã thai con trong tội là Evà của chương trình sáng tạo ban đầu, người đã bằng lòng làm nô lệ cho ma quỷ, chịu sự khống chế của nó để cả loài người đều phải sống trong thân xác hay hư nát, trong đó cũng lại có mỗi chúng ta. Hơn thế nữa, tâm trí chúng ta cũng bị ảnh hưởng tồi tệ đến nỗi luôn nghiêng chiều về những thực tại hay hư nát mà quên rằng chúng ta đã được cứu thoát nhờ Con Thiên Chúa, qua Mẹ Maria, Mẹ của Người.
Vì vậy, để được thoát khỏi cảnh hư nát trong mồ và xác loài người chúng ta được sống lại trong Nước Thiên Chúa, hẳn chúng ta phải biết chiến thắng những dục vọng hư hèn và luôn sống trong ơn nghĩa tử của Thiên Chúa, qua Đức Giêsu Ki-tô bằng cách noi gương các nhân đức của Mẹ và nhờ ơn Mẹ cầu bầu.
Mẹ lên trời cho chúng ta hình ảnh tương lai một Giáo Hội Chúa Kitô viên mãn trong Nước Thiên Chúa.
Nơi Mẹ về, không phải là một địa chỉ không gian cụ thể hay mơ hồ theo trí tưởng tượng của mỗi chúng ta, nhưng là một sự đoàn viên hoàn hảo trong gia đình của Thiên Chúa. Nơi gia đình ấy, có sự sống vĩnh cửu, có tình yêu tinh tuyền và hạnh phúc bất diệt. Mẹ là thụ tạo đầu tiên của Thiên Chúa đưa về nơi ấy cả hồn lẫn xác để củng cố cho mỗi tín hữu về một địa chỉ thường hằng của Thiên Chúa mà cũng là địa chỉ của mỗi người tin Chúa Kitô, con Mẹ.
Tín điều xác loài người sẽ sống lại mà chịu phán xét, kẻ lành lên Thiên đàng, kẻ dữ xuống hỏa ngục… cho ta biết thân xác của chúng ta sẽ được sống lại để chịu phán xét; và có được sống lại đời đời trong Nước Thiên Chúa không là tùy vào việc lành việc dữ mà ta đã thực hiện trên đường lữ hành dương thế.
Mẹ Maria lên trời cả hồn lẫn xác là hình ảnh tương lai của những kẻ lành trong Hội Thánh Chúa. Cuộc sống con người chỉ được viên mãn thực sự khi được sống trong sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa. Cuộc sống ấy đã bắt đầu ngay ở trần gian này. Cuộc sống trần gian của Mẹ Maria trở nên mẫu gương của mỗi chúng ta để chúng ta có được cuộc sống Thiên Quốc.
Để được về trời cùng Mẹ
Chúa cho Mẹ về trời, đồng nghĩa với việc Chúa cho chúng ta một cơ hội suy gẫm và bắt chước các nhân đức của Mẹ, để chúng ta cũng được về trời như Mẹ.
Cũng là loài thụ tạo, Mẹ luôn gần gũi với thân phận loài người chúng ta. Và chúng ta có quyền tin tưởng Mẹ Maria luôn cảm thông với chúng ta và luôn là niềm an ủi, niềm hy vọng cho chúng ta trên cuộc lữ hành trần thế.
Noi gương sống của Mẹ và sống với Mẹ Maria, mỗi người nên tâm đắc một nhân đức của Mẹ. Và khi tâm đắc, hãy noi gương Mẹ sống với nhân đức ấy, ắt sẽ đạt được các nhân đức khác cách lạ lùng, nhất là những người nữ, những người đã chọn Mẹ Maria làm bổn mạng.
Có nhiều người đã tâm đắc lời “xin vâng” của Mẹ Maria và họ quyết tâm noi gương Đức Mẹ mà xây dựng đức khiêm nhường trong lòng. Và khi học được đức khiêm nhường của mẹ, họ cũng tỏa ngát hương thơm của đức khiết tịnh, rồi đức yêu người… Họ đang âm thầm làm việc với tư cách là Mẹ trong các gia đình công giáo. Tưởng là không đáng kể, nhưng thật ra, họ đang làm đảo lộn cả thế giới bằng chính cuộc sống xin vâng khiêm nhường và yêu người của họ, bắt đầu từ chính gia đình họ. Mẹ Maria cũng đang âm thầm giúp đỡ họ chu toàn vai trò của người sinh ra cho Thiên Chúa những con người và sinh ra cho Thiên Chúa những tín hữu đạo đức. Họ là những bà mẹ công giáo đạo đức theo khuôn mẫu của Mẹ Thánh Maria.
Tôi muốn đề cập đến chi tiết này, vì lễ Mẹ Maria Hồn Xác Lên Trời, có thể nói là lễ bổn mạng của hầu hết các chị em phụ nữ trên thế giới. Tuy nhiên, cũng không thiếu những người nam thành tâm chạy đến với Mẹ ở Tàpao, ở Lavang, Trà Kiệu… hay ít là với Mẹ ở ngay giáo xứ mình. Họ xin Mẹ điều gì, nếu trước tiên không phải là xin noi gương sống của Mẹ để đẹp lòng Mẹ trước, và Mẹ sẽ nghe lời họ khấn xin mà chuyển cầu lên Thiên Chúa. Nhiều người vẫn được Mẹ ban ơn cách này cách khác, nhưng qua các ơn đã được, thiết tưởng phải nghiệm cho ra một ơn trọng là ơn bắt chước các nhân đức của Mẹ mà về trời với Mẹ.
Lạy Mẹ Maria, Chúa không muốn Mẹ chịu cảnh hư nát trong mồ, vì Mẹ đã sinh hạ Con Cha yêu quý là Đấng ban sự sống cho mọi loài. Vì thế Mẹ được Thiên Chúa đưa về trời, là khởi đầu, là hình ảnh của Hội Thánh viên mãn, là niềm an ủi và hy vọng tràn trề cho dân thánh trong cuộc lữ hành trần thế. Xin cho chúng con biết noi gương các nhân đức Mẹ mà sống với Chúa Giêsu con Mẹ, sống với Giáo Hội của Ngài, với niềm hy vọng sẽ được về trời hưởng tình yêu và hạnh phúc bất diệt trong Nước Thiên Chúa.
Đức Maria Hồn Xác Lên Trời – Sưu tầm
1. Đức khiêm nhường của Đức Maria.
Hôm đó đã diễn ra một cuộc gặp gỡ đơn giản, bình thường giữa hai con người. Lịch sử không có 15/8-91
Hôm đó đã diễn ra một cuộc gặp gỡ đơn giản, bình thường giữa hai con người. Lịch sử không có một ghi nhận nào. Hai người phụ nữ, hãi người mẹ tương lai. Hai người đàn bà hạnh phúc được cưu mang đứa con trong mình. Những đứa con họ không hy vọng có được…
Đức Maria là trung tâm của cầu nguyện. Người chị họ Êlisabét vui mừng đón tiếp em mình. Bà chào Maria, chúc phúc cho Mẹ theo truyền thống dân tộc. Bà công bố Mẹ và đứa con trong lòng được Thiên Chúa chúc phúc.
Chẳng mấy chốc, câu chuyện trao đổi hướng tới cầu nguyện. Thiên Chúa là trung tâm của lời cầu nguyện ấy. Cuộc nói chuyện của cả hai biến thành lời ca ngợi Thiên Chúa cứu độ. Lời Maria thốt lên là những lời tạ ơn.
Lạy Chúa, Ngài là Đấng kỳ diệu vượt xa hẳn những điều kỳ diệu trên thế giới này. Chúa đã thực hiện điều lạ lùng nơi tôi, một thiếu nữ yếu đuối. Lạy Chúa, toàn năng và là Đức Chúa, Ngài đã kêu gọi nữ tỳ của Ngài dù tôi chỉ là một thiếu nữ, chỉ là một phụ nữ.
Cuộc trao đổi lời chào giữa Maria và Êlisabét diễn tả một cuộc trao đổi khác giửa Thiên Chúa và một phụ nữ, thay mặt cho nhân loại. Maria nhìn thấy vinh quang và thánh thiện của Thiên Chúa tỏ lộ trong giao ước lạ thường này.
Cũng trong chiều hướng ấy, lời cầu nguyện của Maria là lời ca ngợi những ai nhận biết và sẽ nhận biết sự can thiệp quá đỗi lạ lùng, rất khó tin của Thiên Chúa.
Lời cầu nguyện của Mẹ vừa dựa trên những nhận định đầy khôn ngoan về Thiên Chúa, vừa dựa trên những lý luận về bản tính hay hành động của Người. Nhờ đó, tâm hồn Mẹ luôn sẵn sàng vâng theo ý Chúa. Lời cầu nguyện của Mẹ nối kết với Thiên Chúa trên những con đường đầy bất ngờ, trong sự khiêm tốn nhận biết rằng chúng ta hành động là do Thiên Chúa thúc đẩy.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ khiêm tốn loan báo những việc kỳ diệu Thiên Chúa thực hiện nơi Mẹ bởi vì những việc ấy không những là các dấu chỉ về hoạt động của Người mà còn nói lên vẻ huy hoàng và sự thánh thiện của Người nữa.
Lạy Mẹ Maria, sự khiêm tốn của Mẹ đã không huỷ diệt gì khi loan báo sự hiện hữu của Thiên Chúa làm người và Đấng vĩnh cửu đi vào lịch sử nhân loại.
Lạy Mẹ Maria, sự khiêm tốn của Mẹ là nét đơn sơ trong tâm hồn khi Mẹ đón nhận chương trình của Thiên Chúa về Mẹ và nhân loại một lần cho mãi mãi, dù về phương diện nhân loại, chương trình ấy khó có thể tưởng tượng nổi.
Lạy Chúa Maria, sự khiêm tốn của Mẹ đã giúp Mẹ có mặt ngay trung tâm ơn cứu độ nhân loại do Thiên Chúa thực hiện và giúp Mẹ nhất trí với lời hứa của Thiên Chúa từ ngàn xưa khi đồng ý trao ban một thân hình cho con Thiên Chúa.
Lạy Mẹ Maria, sự khiếm tốn của Mẹ mở cửa cho sứ thần hoá lạ lùng chưa từng có Mẹ lên trời ngự bên Thiên Chúa.
2. Hình ảnh cuộc biến đổi của chúng ta.
Sự sùng kính Đức Maria đích thực không hệ tại việc gia tăng và phát triển khai những lời ca ngợi và ngưỡng mộ đối với những đặc ân Mẹ đã nhận, nhưng là học ở Mẹ để trở nên và để là một người tin. Có thể nói thêm được rằng chúng ta chỉ có thể đề cập đến Đức Maria trong đức tin, “nghĩa là qua Mẹ, chúng ta tìm kiếm chính Thiên Chúa, hoặc nói rõ hơn chính Đức Giêsu con Mẹ”. Chính Grignon de Monfort, một người rất nổi tiếng về lòng sùng kính Đức Maria viết rằng: “Nếu chúng ta gọi tên Maria, tiếng vọng trả lời sẽ là Giêsu”.
Maria đã học trong cùng một ngôi trường khắc nghiệt như con mình. Nhiều trang Tin Mừng cho chúng ta thấy những đổ vỡ Mẹ gánh chịu để theo bước con mình trong đức tin. Maria đã sống đức tin cách sâu xa. Chính Êlisabét đã đề cao điều ấy một cách tuyệt diệu khi chúc mừng Mẹ “phúc cho em vì đã tin…” Đức cha Garron tự hỏi, Hội Thánh, Công đồng Vaticanô II và Phụng vụ điều đi ngược lại với khuynh hướng tự nhiên thúc đẩy chúng ta “tô vẽ thái quá cho Đức Maria khi gán cho Mẹ những vinh quang kỳ diệu. Với thái độ như vậy, chúng ta sẽ tiến tới tận đâu đây!”.
Lộ trình thiêng liêng của Đức Maria có thể là lộ trình của chúng ta. Tiến bước theo Mẹ, chúng ta đến gần Đức Giêsu. Mặc lấy cái nhìn đức tin của Mẹ, chúng ta học theo Mẹ để nhìn ngắm Đức Giêsu như chính Mẹ đã chiêm niệm và từ từ khám phá. Như Mẹ, chúng ta có thể tiến triển qua niềm vui và nỗi khổ, phát hiện và sự ngạc nhiên, và thường ngay cả nỗi đau khổ và sự không hiểu, như trường hợp Đức Maria và thánh Giuse ở đền thờ (Lc 2,50). Đức cha Garron giải thích, cái nhìn của Maria về con mình rất tương hợp với những giai đoạn kế tiếp nhau của sự lớn lên mà thánh Luca đã nói rõ: Maria đã thấy Đức Giêsu “ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan và hằng được ân nghĩa cùng Chúa…” (Lc 2,52). Do đó, chúng ta sẽ tôn trọng chân lý của mọi sự và tư tưởng của chính Đức Maria khi cùng với Mẹ làm lại cuộc hành trình mà trước kia Mẹ đã không ngừng rảo bước.
Chính trong viễn ảnh này, chúng ta có thể đặt biến cố Mông Triệu như một kết luận. Biến cố ấy nói cho chúng ta biết cuộc phiêu lưu của đức tin sẽ kết thúc thế nào. Đức Maria, Hòm Bia của giao ước mới, bước vào vinh quang của Chúa Cha. Đức Trinh Nữ được Thiên Chúa cho hưởng phúc vinh quang, chính là hình ảnh cho tương lai của chúng ta. Bài đọc thứ nhất so sánh Maria với Hòm Bia đích thực, nghĩa là nơi Thiên Chúa ngự, là lều tạm nơi để Lời Chúa và Bánh Thánh. Biến cố Mông Triệu giống như sự đảo ngược tình thế. Giờ đây, chính Đức Maria được đón tiếp trong Thiên Chúa, từ nay Mẹ ở trong Người. Chúng ta không còn ở phạm vi ưu đãi, nhưng bước sang ơn gọi chung, vì đạt đến Đất Hứa sau cuộc phiêu lưu trên sa mạc là lời Thiên Chúa hứa cho mỗi người trong chúng ta.















50. Đức Mẹ Lên Trời
Lm Nguyễn Hồng Giáo, OFM



Trong ngày kính mừng Đức Maria, người phụ nữ khiêm tốn thành Nagiaret được rước lên trời cả hồn lẫn xác, Giáo Hội mượn lời thánh Gioan trong sách Khải Huyền để ca ngợi Mẹ: “Có điềm lớn xuất hiện trên trời: một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng và đầu đội triều thiên 12 ngôi sao” (12,1).
Có lẽ chúng ta hơi bị choáng ngợp trước vẻ uy nghi cao cả của người phụ nữ ấy. Trong vinh quang của người có vẻ như Đức Mẹ rất xa cách, rất khác với chúng ta. Thế nhưng, chúng ta hãy nhìn lại cuộc sống của người ở trần gian, chúng ta sẽ thấy rằng người cũng giống chúng ta, gần gủi và quen thuộc với chúng ta biết bao! Và chúng ta sẽ hiểu rằng hạnh phúc mà người đang hưởng cũng được cũng chính là hạnh phúc Thiên Chúa hứa ban cho chúng ta ngày sau.
1. Một cuộc đời khó nghèo.
Điều thứ nhất đập vào mắt chúng ta khi nhìn lại cuộc đời của Đức Mẹ, đó là Đức Mẹ đã sống nghèo khó, khiêm nhường. Đức Giêsu Kitô, thuộc dòng dõi Đavit, đã không muốn ra đời trong một lâu đài giữa những bậc giàu sang quyền thế. Mẹ đã sinh Người ra trong một hang lừa giữa đồng quê vắng vẻ.
Khi dâng con vào đền thờ, Mẹ đã không có tiền để mua một con chiên, mà chỉ mua được một đôi chim bồ câu làm của lễ.
Gia đình của Thánh Giuse và Đức Mẹ ở Nagiaret là một gia đình thợ thủ công bình thường, không cùng khốn nhưng cũng không có gì dư giả. Lúc di cư sang Ai Cập, Thánh Gia Thất lại chịu sự bấp bênh của một cuộc sống nơi xa lạ quê người. Có lẽ Giuse đã phải đổi nghề, phải chạy đôn chạy đáo tìm cho được một mái nhà, phải bắt đầu tạo ra những quan hệ bạn bè mới và kiếm một việc làm độ nhật.
Cuối cùng, sau khi đã hồi hương, là cuộc sống ẩn dật, âm thầm, khiêm tốn và đơn điệu, hoàn toàn không có gì nổi bật.
2. Một cuộc đời lao động cần cù.
Điều thứ hai chúng ta nhìn thấy trong cụôc đời Đức Mẹ, đó là cuộc đời lao động cần cù.
Trong lúc Giuse đổ mồ hôi hành nghề thợ mộc, Mẹ Maria đã phải làm tất cả mọi công việc của một người mẹ và nội trợ trong gia đình: may vá, quét dọn, đi gánh nước, đi chợ, xay bột, nấu nướng, tính toán việc chi tiêu… Khi trẻ Giêsu đến tuổi đi học, hẳn là Mẹ đã phải theo dõi việc học hành của con. Maria là một bà mẹ hiền trong gia đình. Về một người mẹ gia đình, người ta không có gì nhiều để nói. Người ta biết quá rồi; về một người mẹ gia đình, người ta không nói bà làm việc nhưng người ta nói bà có quá nhiều việc tất bật phải làm. Làm gì có chuyện ngồi chơi xơi nước, đi vô đi ra, hoặc giết thời giờ bằng việc đánh bài đánh bạc, hay tụm ba tụm bảy nói chuyện dông dài.
3. Một cuộc đời đau khổ.
Cuộc đời người nghèo, cuộc đời người lao động thường đầy những chiến đấu, thử thách. Đó cũng là điều chúng ta thấy nơi Đức Mẹ. Thử tưởng tượng Đức Mẹ đã sợ hãi biết bao khi biết rằng vua Hêrôđê đang tìm giết con mình; Người đã lo lắng biết chừng nào khi mất con trong mấy ngày liền ở Giêrusalem! Rồi làm sao lòng Mẹ không đau thắt lại khi thấy, ngay trong đám người đồng hương, những khuôn mặt hằn học chống đối Chúa Giêsu. Đức Mẹ linh cảm cái chết bi thảm đang chờ đợi con mình. Hơn nữa, chính Chúa Giêsu cũng nói rõ cho các người thân của mình biết. “Này chúng ta lên Giêrusalem và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ kết án tử hình Người và sẽ nộp người cho dân ngoại hành xử. Họ sẽ nhạo báng Người, nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn và treo Người trên thập giá” (Mc 10,33-34)
Như thế Đức Mẹ chuẩn bị tinh thần để đón nhận cuộc tử nạn của Con mình. Như Chúa Giêsu, Mẹ không nguyền rủa bọn thù địch, Mẹ chịu đau khổ trong thinh lặng, thưa vâng với Thánh Ý của Thiên Chúa cho tới cùng. Dưới chân thập giá, Mẹ đã mở rộng trái tim ôm ấp cả nhân loại khi trở nên mẹ của Tông đồ Gioan và qua Gioan, Mẹ của tất cả mọi người.
Trong mọi nỗi gian truân thử thách, Mẹ đã luôn luôn giữ được miền tin tưởng phó thác và sự bình an sâu thẳm trong tâm hồn. Mẹ đã cảm nghiệm được Tám Mối Phúc Thật mà Chúa Giêsu công bố:
Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó,
Phúc thay ai hiền hoà,
Phúc thay ai lo phiền sầu khổ,
Phúc thay ai bị ngược đãi vì chính đạo
Phúc thay cho anh em khi vì Thầy mà bị người ta nhục mạ và vu khống, anh em hãy vui mừng và hớn hở vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời rất lớn lao.
4. Một cuộc đời sống đức tin.
Đừng ai nói rằng: Đức Maria được Chúa ban nhiều đặc ân phi thường cho nên mọi sự đã trở nên dễ dàng cho mẹ. Không đâu! Ngay chính Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, cũng đã phải khóc lóc rơi lệ và phấn đấu để học cho biết tuân phục thánh ý của Đức Chúa Cha (x. Hipri 5,7), huống hồ là Đức Maria!
Quả thực Mẹ cũng đã phải bước đi trong đức tin. Mà tin là chưa nhìn thấy tỏ tường, là còn phải lần mò trong bóng tối, là chưa thấy rõ được 100% ý nghĩa của các biến cố xảy ra cho mình. Kinh thánh cho ta thấy điều đó.
Khi thiên sứ đến truyền tin cho Người biết Người sẽ làm mẹ Chúa Cứu Thế, Maria đã tự hỏi một cách rất tự nhiên: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào vì tôi không biết đến việc vợ chồng?” (Lc 1,34). Sau khi lạc mất con ở Giêrusalem, rồi tìm lại được con trong Đền thờ, cậu bé Giêsu đã nói: “Tại sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” Phúc âm ghi tiếp: “Ông bà không hiểu lời Chúa Giêsu vừa nói” (Lc 2,50). Nhưng Phúc âm cũng chép rằng Đức Mẹ hằng nghi nhớ các kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng. Nhờ sự suy nghĩ lặng lẽ đó mà ý nghĩa nhiệm mầu của cuộc đời Mẹ gắn liền với cuộc đời Chúa Giêsu dần dần được sáng ra, mặc dù vẫn còn mây mù che phủ. Sau khi Chúa Giêsu phục sinh và lên trời, Mẹ tiếp tục sống với Giáo Hội mới khai sinh, trong lòng tin. Người Con yêu dấu của Mẹ, Mẹ không còn nhìn thấy nữa, không còn đụng chạm tới nữa, nhưng Mẹ biết rằng Người đang sống với Mẹ và với các môn đệ yêu dấu của người. Mẹ khao khát chờ đợi ngày thực hiện lời con Mẹ đã hứa: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em và Thầy sẽ trở lại đem anh em đi theo, để Thầy ở đâu thì anh em cũng ở đó” (Ga 14,3)
Sự cao cả của Đức Mẹ chính là đã tin và sống theo lòng tin, như bà Isave đã nói: “Em thật là diễm phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói cho em biết” (Lc 1,45)
5. Đức Mẹ và chúng ta.
Cuộc đời của Đức Mẹ ở trần gian, chẳng có gì là hiển hách, trổi trang, và so với vinh quang chói lọi mà Thiên Chúa dành cho Mẹ trên trời, nó chẳng có gì đáng kể và có vẻ như không có gì dính dáng tới. Song kỳ thực cuộc đời bình thường ấy đã chuẩn bị cho vinh quang trên trời. Hơn nữa cuộc sống vĩnh cửu đã bắt đầu trong cuộc sống trần gian tạm gởi ấy rồi. Vì cuộc đời sống hằng ngày của Mẹ với những vui buồn, sướng khổ, nhưng bổn phận, những lo âu và hy vọng, Mẹ đã sống nó trong lòng tin yêu và trung tín, luôn luôn làm thánh ý của Đức Chúa Cha, thưa vâng với Chúa trong mọi sự và kết hiệp trọn vẹn với Chúa Giêsu. Chính lòng yêu mến, trung thành và tuân phục của Mẹ đối với Chúa đã mang lại giá trị cao cả và vĩnh cửu cho mọi tình tiết và cảnh ngộ tầm thường của cuộc đời Mẹ.
Chúa Giêsu đã dạy: “Phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi” (Ga 12,50)
Là thành phần của gia đình Thiên Chúa, chúng ta hãy ý thức về niềm hạnh phúc đang chờ chúng ta sau cuộc hành trình ở trần gian. Thánh Gioan viết: “Chúng ta là con cái Thiên Chúa, nhưng chúng ta sẽ như thế nào điều ấy chưa được tỏ hiện. Chúng ta biết rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người vì Người thế nào chúng ta sẽ được thấy Người như vậy” (1 Ga 3,2). Còn thánh Phaolô cũng động viên chúng ta: “Những đau khổ ở đời này không sao sánh nổi với niềm vinh quang được dành cho chúng ta” (Rm 8,18)
Cuộc đời bình thường của ta sẽ nên cao cả nếu như chúng ta biết noi gương Đức Mẹ sống trung thành với đức Chúa Cha và để cho Chúa Giêsu luôn hiện diện với ta, trong cuộc sống gia đình, cuộc sống lao động, khi vui, khi buồn, cho tới hơi thở cuối cùng. Chúng ta hãy cầu xin Đức Mẹ hồn xác lên trời củng cố lòng tin và lòng trông cậy của chúng ta.















51. Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi



Bài Tin Mừng Lu-ca 1:39-56 cho ta một hình ảnh sống động về hiệu quả ơn cứu chuộc, tiếp nối biến cố Truyền Tin vừa được thánh sử kể lại trước đó. Mỗi người trong câu truyện biểu lộ tâm tình của mình đối với công việc của Thiên Chúa theo cách của mình. Thai nhi Gio-an chưa nói được thì “nhảy lên vui sướng.” Bà mẹ Ê-li-sa-bét được tràn đầy Thánh Thần thì cảm nhận ân phúc của Thiên Chúa ban cho mình qua người thân: “Bởi đâu tôi được phúc này là Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi như vậy?” Nhưng quan trọng nhất vẫn là tâm tình tạ ơn và ngợi khen của Mẹ Ma-ri-a, Đấng “có phúc” và “đã tin”. Lời lẽ trong bài ca Ngợi khen (Magnificat) phản ảnh một tâm hồn luôn mở rộng đón nhận ân sủng Thiên Chúa cũng như sự thánh thiện và khiêm nhường của Mẹ. Những yếu tố như phản ứng của mẹ con bà Ê-li-sa-bét, ân sủng của Thiên Chúa và sự thánh thiện của Mẹ Ma-ri-a, tất cả đều được nêu cao để giúp ta hiểu tột đỉnh của ân sủng Thiên Chúa ban cho Mẹ, đó là sự kiện Hồn Xác Lên Trời.
a) Mẹ Ma-ri-a đầy ân phúc và đức tin
Ân phúc là quà tặng Chúa ban và đức tin là đáp lại ân sủng của Thiên Chúa. Hiểu như thế, ta sẽ nhận ra tất cả cuộc sống của Mẹ Ma-ri-a là một mối quan hệ sống động giữa Mẹ và Đấng Tạo Dựng, từ khởi đầu với đặc ân không hề mắc tội tổ tông truyền cho tới khi được đưa về trời cả xác lẫn linh hồn.
Trong biến cố Truyền Tin, sứ thần Gáp-ri-en đã kính chào Mẹ là “Đấng đầy ân sủng.” Có nghĩa là Mẹ được Thiên Chúa yêu thương đặc biệt và trang điểm cho Mẹ với tất cả những gì quý giá nhất. Không có đặc ân nào cao trọng hơn ơn Vô nhiễm nguyên tội. Ngoài Chúa Giê-su ra, không ai trong loài người đã được gìn giữ cách đặc biệt để ngay từ giây phút đầu tiên được thụ thai trong lòng mẹ đã không bị một chút ảnh hưởng nào do hậu quả tội A-đam. Có lẽ chỉ có Gio-an Tiền hô là được khỏi tội nguyên tổ khi Chúa Cứu Thế trong lòng Mẹ Ma-ri-a đến thăm, nhưng ít ra ông cũng đã sống trong ảnh hưởng của tội ấy sáu tháng trời.
Đầy ân phúc cũng có nghĩa là được đẹp lòng Thiên Chúa, theo như sứ thần đã khẳng định. Thêm vào đó, lời giải thích của sứ thần cho ta thấy một chiều kích khác của tình trạng đầy ân phúc: Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà. Khi ta có Thiên Chúa đầy tràn trong tâm hồn tức là ta được đầy tràn ân phúc. Cho nên Mẹ Ma-ri-a quả thực là đầy ân phúc, trước hết vì Mẹ được đầy tràn Thánh Thần, hoặc nếu diễn tả theo hình ảnh của Chúa Giê-su, Đức Mẹ cũng được “Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng như chim bồ câu” (Lc 3:22), hoặc “được đầy Thánh Thần” (Lc 4:1) hay “được quyền năng Thần Khí thúc đẩy” (Lc 4:14). Mẹ cũng đầy ân phúc vì quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Mẹ. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã ở lại với dân Người dưới hình thức một đám mây che phủ Nhà Tạm và Lều Chứng Ước, dẫn dắt họ ban ngày và che chở họ ban đêm (Ds 9:18-22; 10:24). Giờ đây, sự hiện diện quyền năng của Thiên Chúa cũng ở nơi Mẹ Ma-ri-a qua thân xác con người của Thiên Chúa nơi Chúa Giê-su, ân sủng được nhập thể của Thiên Chúa.
Đó là những gì Thiên Chúa đã ban cho Mẹ Ma-ri-a. Đáp lại, Đức Mẹ đã tiếp nhận Ân Sủng với tất cả lòng tin. Đức tin của Mẹ là nền tảng để Mẹ nhận ra Thiên Chúa là Đấng nào và Người đã làm gì cho ta. Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ đích thực, là Đấng Toàn Năng. Danh của Người thật cao cả và Người luôn hành động để bênh vực kẻ nghèo hèn. Người độ trì Ít-ra-en và Người trung thành giữ lời hứa. Đức tin của Mẹ đã tóm tắt lại tất cả những gì Kinh Thánh nói cho ta biết về Thiên Chúa và Mẹ đã dệt thành một bài ca Ngợi khen. Phải đi từ nền tảng đức tin sâu xa ấy của Mẹ, ta mới có thể hiểu được bài ca đã được sống qua từng biến cố cuộc đời Mẹ. Không là bài ca hời hợt với mỹ từ, nhưng là bài ca sống động mới chỉ diễn tả được một phần thực tại cuộc sống của Mẹ.
b) Linh hồn và xác Đức Mẹ lên trời là hoa trái của tình trạng đầy ân phúc và đức tin
Để nắm bắt được chân lý này, ta cần nhờ thánh Phao-lô soi sáng cho ta hiểu. Ngài trình bày sự sống lại của Chúa Ki-tô như nền tảng cho sự sống lại của mọi người. Sự Phục sinh của Chúa Ki-tô và sự kiện Linh hồn và xác Đức Mẹ lên trời không phải là hai sự kiện tách biệt nơi hai vị, nhưng được đan kết với nhau vì Thiên Chúa đã tuyển chọn Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Mẹ tham dự vào kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa một cách đặc biệt và cũng lãnh nhận hiệu quả ơn cứu rỗi một cách đặc biệt qua và trong Đấng Mẹ đã cưu mang. Do đó, ta chỉ có thể thấy ý nghĩa của việc Linh hồn và xác lên trời của Mẹ nếu ta nắm vững được ý nghĩa của sự Phục sinh của Chúa Ki-tô. Trong thư 1 Cô-rin-tô, thánh Phao-lô khẳng định: được chỗi dậy từ cõi chết, Chúa Giê-su là “hoa quả đầu mùa.” Tiếp đến, thánh Phao-lô trình bày: “Quả thế, như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Ki-tô, cũng được Thiên Chúa cho sống. Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Ki-tô, rồi khi Đức Ki-tô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người” (1 Cr 15:22-23). Thử hỏi có ai “liên đới với Đức Ki-tô” khắng khít hơn là chính Thân mẫu Người? Có ai “theo thứ tự của mình” sát với Đức Ki-tô cho bằng chính Mẹ Ma-ri-a? Như vậy, đặc ân Hồn Xác lên trời Thiên Chúa dành cho Mẹ Đấng Cứu Thế trước ngày quang lâm của Chúa Giê-su hẳn không có gì là quá đáng, nhưng rất xứng hợp với vai trò của Mẹ trong kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa.
c) Suy nghĩ và cầu nguyện
Cũng như Mẹ Ma-ri-a, tôi có là người mang những ân phúc của Thiên Chúa không? Những ân phúc đó là gì? Tôi đã đáp lại tình thương của Người như thế nào?
Để chuẩn bị cho ngày được sống lại, được lên trời với Chúa Giê-su, tôi có liên đới với Chúa Ki-tô như Mẹ Ma-ri-a đã liên đới với Con Mẹ không? Tôi phải diễn tả sự liên đới ấy như thế nào?
Tôi có mang ân sủng của Thiên Chúa đến cho anh chị em chung quanh không?
Ý tưởng nào trong bài ca Ngợi khen của Đức Mẹ hợp với hoàn cảnh của tôi nhất?
Cầu nguyện:
“Lạy Mẹ Ma-ri-a,
khi đọc Phúc Âm,
lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giê-su,
Mẹ đưa Con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ.
Mẹ tìm Con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana.
Mẹ đi thăm Đức Giê-su khi Ngài đang rao giảng.
Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi
âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong,
từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giê-su
trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa.
Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con
đừng sợ lên đường mỗi ngày,
đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa
dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu
để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ
đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.”
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 51)















52. Lễ Ðức Maria Hồn Xác Lên Trời Gm Giuse Vũ Văn Thiên



Tên gọi của ngày lễ hôm nay nói lên một ân huệ rất đặc biệt mà Thiên Chúa dành cho Đức Maria. Đức Mẹ được về trời, không chỉ có phần linh hồn, nhưng cả thân xác nhân loại của Mẹ cũng được về trời. Điều đó có nghĩa là một con người trọn vẹn được cứu chuộc và tôn vinh. Ơn cứu chuộc nhờ công nghiệp của Đức Giêsu là ơn cứu chuộc dành cho con người toàn diện. Chúng ta hãy đọc lại tín điều được Đức Giáo Hoàng Pi-ô XII tuyên bố ngày 01-11-1950: “Chúng Tôi công bố, tuyên xưng và định tín giáo lý đã được Thiên Chúa mạc khải này: Đức Maria trọn đời đồng trinh, Mẹ vô nhiễm của Thiên Chúa, sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế, đã được đưa lên trời hiển vinh cả hồn lẫn xác”. Thiên Chúa muốn cứu với con người cả hồn và xác. Đạo Chúa không chỉ chú ý tới phần hồn mà quên phần xác; không chỉ chú trọng tới tương lai mà quên hiện tại; không chỉ nhấn mạnh tới sự sống linh thiêng mà quên cuộc sống trần gian.
Ơn cứu độ cũng không chỉ dành riêng cho con người, mà còn dành cho cả vũ trụ. Hình ảnh người phụ nữ được diễn tả trong sách Khải Huyền cho thấy Đức Maria là một người phụ nữ vũ trụ. Tác giả say sưa chiêm ngắm một người Phụ nữ kỳ lạ“mình mặc mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao”. Giáo Hội Công giáo đã nhận ra chính là hình ảnh của Đức Maria, người Phụ nữ đã cộng tác với Thiên Chúa để sáng tạo một dân tộc mới trong Đức Giêsu Kitô. 12 ngôi sao tượng trưng cho 12 chi tộc của Israel mới, được tái tạo nhờ sự chết và sự phục sinh của Đức Giêsu. Như thế, cùng với Mẹ, cả một vũ trụ được canh tân tỏa sáng, đem lại niềm hân hoan cho những ai thuộc về Đức Giêsu. Mẹ Maria, một tín hữu suốt đời khiêm cung và tuân phục thánh ý Chúa, thì nay chính Chúa đã dùng cả vũ trụ mà trang điểm cho Mẹ. Mặt trời, mặt trăng, các vì tinh tú… đó là những vị thần linh đối với một số tín ngưỡng bình dân, nhờ sự can thiệp của Thiên Chúa, những gì mà nhiều người coi là thần linh nay chỉ là đồ trang sức của Mẹ.
Đức Mẹ đã làm gì để có thể được tôn vinh như vậy? thưa, Mẹ đã cộng tác với công trình cứu chuộc của Chúa; Mẹ đã miệt mài loan báo tình thương của Ngài. Thánh Luca kể với chúng ta về một cuộc “lên đường” của Mẹ. Mẹ lên đường sau khi nhận lãnh sứ điệp từ trời. Mẹ lên đường cách vội vã để kể lại cho gia đình người chị họ là Bà Isave biết những điều kỳ diệu Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ. Có thể nói, suốt cuộc đời của Mẹ là một cuộc “lên đường”, luôn sẵn sàng và chu đáo, không so đo tính toán. Bài ca tôn vinh mà Mẹ cảm hứng cất lên tại nhà Bà Isave chính là điều Mẹ vẫn tâm niệm. Mẹ đã hòa cuộc đời mình vào niềm mong đợi của Israel. Mẹ đã cùng với cả dân tộc vui mừng trước biến cố Ngôi Lời nhập thể. Đây không còn là một biến cố chỉ dành riêng cho Mẹ, nhưng dành cho cả nhân loại, vì ơn cứu độ của Thiên Chúa được gửi đến cho mọi người và mọi tạo vật. Chính từ thái độ sẵn sàng lên đường của Đức Mẹ, mà hôm nay, Thiên Chúa đã dùng quyền năng của Ngài mà mời Mẹ tham dự một cuộc “lên đường” khác: Mẹ tiến vào thiên quốc trong tiếng reo vui của các thiên thần, cùng với cả nhân loại tung hô, với cả vũ trụ làm đồ trang sức.
Tuy vậy, cuộc đời của Mẹ không phải lúc nào cũng được êm ả an bình. Hình ảnh người Phụ nữ trong sách Khải Huyền bị Con Mãng Xà đe dọa và khủng bố cho ta thấy một Đức Maria phải đối diện với những thử thách, nhưng Mẹ luôn kiên vững và phó thác, ngay cả giờ phút thương đau dưới chân thập giá. Vâng, đó cũng là hình ảnh cuộc đời mỗi tín hữu chúng ta, cần phải noi gương Mẹ mà vươn lên mỗi ngày để trung tín với Chúa trong ơn gọi nên thánh.
Lễ Đức Mẹ linh hồn và xác lên trời đem lại cho chúng ta niềm vui và hy vọng. Bởi lẽ Đức Mẹ là thành phần nhân loại. Mẹ là một con người, mang nơi mình một thân xác như chúng ta, sống giữa cuộc đời trần thế như chúng ta, mà Mẹ đã được thưởng công và tôn vinh. Nếu chúng ta cố gắng sống như Mẹ, yêu mến và vâng phục như Mẹ, chúng ta cũng được về trời để cùng với Mẹ, với các thánh và toàn thể tạo vật tôn vinh Thiên Chúa.
Ngày lễ này cũng mời gọi chúng ta hãy yêu mến Giáo Hội vì mỗi chúng ta là thành phần, yêu mến cuộc sống hôm nay cùng với vũ trụ thiên nhiên xinh đẹp, vì muôn tạo vật sẽ được cứu thoát cùng với chúng ta, trong bài ca ngợi bất tận để tôn vinh Thiên Chúa trong hạnh phúc vĩnh cửu.















53. Lễ Ðức Maria Hồn Xác Lên Trời
NguoiTinHuu



Vào ngày 1 tháng Mười Một 1950, Ðức Giáo Hoàng Piô XII xác định sự Thăng Thiên của Ðức Maria là một tín điều: “Chúng tôi tuyên bố, bày tỏ và xác định đó là một tín điều được Thiên Chúa mặc khải, là đức vô nhiễm nguyên tội Mẹ Thiên Chúa, Ðức Trinh Nữ Maria, sau khi hoàn tất chu trình cuộc đời trần thế, đã được lên trời cả hồn và xác để hưởng vinh phúc trên thiên đàng.” Ðức giáo hoàng tuyên bố tín điều này sau khi hội ý các giám mục, các thần học gia cũng như giáo dân. Rất ít người chống đối. Ðiều mà đức giáo hoàng long trọng tuyên bố thì đã có từ lâu trong lịch sử Giáo Hội Công Giáo.
Ngay từ thế kỷ thứ sáu, đã có các bài giảng về sự Thăng Thiên của Ðức Maria. Trong các thế kỷ tiếp đó, các Giáo Hội Ðông Phương kiên trì tin tưởng vào học thuyết này, trong khi một số học giả Tây Phương vẫn còn do dự. Tuy nhiên, vào thế kỷ 13 sự tin tưởng này đã trở thành phổ quát.
Kinh Thánh không nói gì về sự Thăng Thiên của Ðức Maria. Tuy nhiên, trong Khải Huyền chương 12, có nói về một người nữ bị vây hãm trong cuộc chiến giữa sự thiện và sự dữ. Nhiều người coi phụ nữ này tượng trưng cho dân Chúa. Vì Ðức Maria là hiện thân của cộng đồng Dân Chúa vừa trong Cựu Ước và Tân Ước, sự Thăng Thiên của ngài có thể coi như một thí dụ điển hình cho sự chiến thắng của người nữ. Ngoài ra, trong thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông Ðồ gửi tín hữu Côrintô 15:20, ngài nói về sự phục sinh của Ðức Kitô như hoa quả đầu mùa của những kẻ còn mê ngủ. Vì Ðức Maria liên hệ rất mật thiết với các mầu nhiệm cuộc đời Ðức Giêsu, nên không ngạc nhiên khi thấy Chúa Thánh Thần đã hướng dẫn Giáo Hội để tin tưởng rằng Ðức Maria cũng được chia sẻ sự vinh hiển với Chúa Giêsu. Ở trần thế, Ðức Maria được gần gũi với Chúa Giêsu như thế nào thì ở trên trời ngài cũng phải được ở với Chúa cả hồn lẫn xác.
Lời Bàn
Trong ý nghĩa ngày lễ Ðức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, chúng ta dễ nhận ra một ý nghĩa mới trong kinh Magnificat. Trong sự vinh hiển, ngài tuyên xưng sự cao cả của Thiên Chúa và tìm thấy niềm vui trong Ðấng Cứu Chuộc của ngài. Thiên Chúa đã làm những điều trọng đại cho Ðức Maria và ngài giúp người khác nhận biết sự thánh thiện của Thiên Chúa. Ngài là nữ tì hèn mọn rất mực tôn kính Thiên Chúa và đã được tôn vinh lên bậc cao cả. Từ vị thế uy quyền của Ðức Maria, ngài sẽ giúp những người hèn mọn và nghèo khổ tìm thấy sự công chính nơi trần thế, và ngài khuyên bảo những người giàu có và quyền thế đừng coi tiền của và thế lực như nguồn hạnh phúc.















54. Lễ Ðức Maria Hồn Xác Lên Trời



Khiêm nhường làm theo thánh ý Thiên Chúa để phục vụ tha nhân.
Thiên Chúa luôn yêu thương, chúc lành, và mong muốn mọi sự tốt lành cho con người; ngược lại, ma quỷ luôn ghen tuông, phá hủy, và mong muốn con người làm nô lệ cho chúng. Để thực hiện điều này, chúng luôn tìm mọi cách để đề cao sự tự do và tính kiêu hãnh nơi con người. Trong Vườn Địa Đàng, chúng đã cám dỗ cặp vợ chồng đầu tiên, ông Adong và bà Evà, dùng tự do để bất tuân lệnh Thiên Chúa. Hậu quả của sự bất tuân làm con người xa cách Thiên Chúa và phải chết. Để chuộc tội cho con người, Mẹ Maria và Đức Kitô là Adam và Eve mới, đã chọn một phương cách hoàn toàn ngược lại: tuyệt đối khiêm nhường và vâng lời làm theo mọi ý định của Thiên Chúa.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong những gì Mẹ Maria và Đức Kitô đã vâng lời làm theo thánh ý Thiên Chúa, để mang lại sự sống mà con người đã đánh mất. Trong Bài Đọc I, Sách Khải Huyền nói về cuộc tranh chấp giữa Người Phụ Nữ và Con Mãng Xà: Con thú dữ đứng chực sẵn trước mặt người Phụ Nữ sắp sinh con, để khi bà sinh xong là nó nuốt ngay con bà. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô so sánh và mặc khải Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa: “Nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. Quả thế, như mọi người vì liên đới với Adong mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống.” Trong Phúc Âm, khi được chị họ khen ngợi là người có phúc hơn mọi phụ nữ, Mẹ Maria đã khiêm nhường tuyên xưng: tất cả những gì Mẹ có được đều do bởi Thiên Chúa. Mẹ chỉ là người nữ tỳ hèn hạ được Đấng Tối Cao cho cộng tác vào chương trình cứu độ của Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Kẻ ngày đêm tố cáo anh em của ta trước toà Thiên Chúa, nay bị tống ra ngoài.
1.1/ Cuộc giao chiến giữa Thiên Chúa và ma quỷ: Tác-giả Sách Khải Huyền tường thuật thị kiến ông thấy xảy ra trên không trung: Hai nhân vật chính ông thấy xuất hiện là người Phụ Nữ đang mang thai và con Mãng Xà đang chực sẵn trước mặt người Phụ Nữ, để khi bà sinh xong là nó nuốt ngay con bà.
Hầu như mọi người đều cho con Mãng Xà này là hiện thân của Satan vì những đặc tính mà tác giả đã đề cập tới: “đỏ như lửa, có bảy đầu và mười sừng, trên bảy đầu đều có vương miện. Đuôi nó quét hết một phần ba các ngôi sao trên trời mà quăng xuống đất.” Nhưng ai là người Phụ Nữ mà tác giả mô tả ở đây? Có hai ý kiến khác nhau:
(1) Người Phụ Nữ là Đức Mẹ và Người Con sắp sinh là Chúa Giêsu: Ý kiến này rất phổ thông trong thời Trung Cổ, đặt căn bản trên sự kiện sau: Trước hết, tác giả đề cập đến sự hiện diện của Thiên Chúa trong Hòm Bia của Cựu Ước để so sánh với Hòm Bia của Tân Ước là cung lòng Mẹ Maria khi cưu mang Đức Kitô, Người Con của Thiên Chúa. Thứ đến, tác giả mô tả vinh quang tuyệt đỉnh của Đức Mẹ: “mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao.” Ngoài Đức Mẹ, không một ai được mô tả có vinh quang tuyệt đỉnh như thế. Sau cùng, tác giả cũng đề cập đến sứ vụ và uy quyền của người con: “người con trai này sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt muôn dân.”
(2) Giáo Hội và các tín hữu: Ý kiến này có từ thời sơ khai của Giáo Hội, cho người Phụ Nữ là Mẹ Giáo Hội và người con là mỗi tín hữu. Con Mãng Xà tượng trưng cho đế quốc Rôma, vì luôn tìm dịp để bách hại đạo thánh Chúa. Người theo ý kiến này trưng dẫn các lý do thần học: Đức Mẹ có thể bị đau đớn và quằn quại khi sinh con như câu số 12:2 mô tả không? Đức Mẹ có phải trốn vào sa mạc trong thời hạn 1,260 ngày như câu 12:6 mô tả không? Sau cùng, phải cắt nghĩa câu 12:17 thế nào khi con Mãng Xà “đi giao chiến với những người còn lại trong giòng dõi của Bà, những người giữ lời chứng của Đức Giêsu!” Ngoài ra, hình ảnh người Phụ Nữ rất phổ thông trong văn chương cổ điển của Đông Phương và Kinh Thánh (Isaiah 50:1, Jeremiah 50:12), được dùng để chỉ một dân tộc, một quốc gia, hay một thành phố.
Ý kiến thứ nhất được nhiều người đồng ý hơn; tuy nhiên, ý kiến này không hoàn toàn đối nghịch với ý kiến thứ hai, mà còn bao hàm nó, vì Đức Mẹ là hiện thân của Giáo Hội; các tín hữu là môn đệ của Đức Kitô và cũng là con cái của Mẹ. Ma quỷ không những muốn nuốt chửng Đức Kitô mà còn tất cả những ai tin vào Ngài. Tác giả có thể có hai hình ảnh khi mô tả thị kiến: cá nhân như Mẹ Maria và Đức Kitô, tập thể như Giáo Hội và các tín hữu.
1.2/ Quyền lực Thiên Chúa chiến thắng quyền lực của ma quỉ: “Còn người Phụ Nữ thì trốn vào sa mạc; tại đó Thiên Chúa đã dọn sẵn cho bà một chỗ ở, để bà được nuôi dưỡng ở đó, trong vòng một ngàn hai trăm sáu mươi ngày.” Sa mạc là chỗ ẩn phổ thông cho các tín hữu khi bị bách hại. Hình ảnh con cái Israel trong sa mạc dường như được nhấn mạnh ở đây. Con số hay được dùng trong Kinh Thánh: 1,260 ngày tương đương với 42 tháng hay 3 năm rưỡi, để chỉ một thời gian khá lâu, nhưng không vĩnh cửu.
Tác giả nghe có tiếng hô to trên trời: “Thiên Chúa chúng ta thờ, giờ đây ban ơn cứu độ, giờ đây biểu dương uy lực với vương quyền, và Đức Kitô của Người giờ đây cũng biểu dương quyền bính, vì kẻ tố cáo anh em của ta, ngày đêm tố cáo họ trước toà Thiên Chúa, nay bị tống ra ngoài.” Đây là lời báo trước kết quả của cuộc giao chiến: Thiên Chúa và Đức Kitô sẽ toàn thắng quyền lực của ma quỷ. Satan và các đồng bọn của chúng sẽ bị trừng trị và tiêu diệt.
2/ Bài đọc II: Nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại.
2.1/ Đức Kitô cứu nhân loại khỏi nọc độc của sự chết: Thánh Phaolô so sánh hai sự kiện lịch sử quan trọng: sự sa ngã của ông Adong trong Vườn Địa Đàng và sự phục sinh vinh hiển của Đức Kitô trong mồ thánh để nói lên hậu quả xảy ra cho con người. Vì ông Adong đã bất tuân Thiên Chúa và phạm tội, nên nọc độc của tội di truyền đến mọi người, và hậu quả của tội là sự chết. Hậu quả này được đảo ngược bởi Đức Kitô, vì Ngài đã vâng lời Thiên Chúa gánh lấy hậu quả tội lỗi cho con người; và vì Ngài đã sống lại vinh hiển nên con người không còn phải chết nữa.
2.2/ Đức Kitô sẽ trao lại vương quốc cho Cha Ngài: “Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha.” Thoạt đọc, một người có thể cho Đức Kitô không ngang hàng với Thiên Chúa Cha; nhưng sự thực không phải như thế.
Chúng ta có thể dùng một hình ảnh để suy luận điều thánh Phaolô muốn diễn tả ở đây: như một vị tướng lãnh nhận sứ vụ từ nhà vua để chinh phục quân thù, Đức Kitô cũng lãnh nhận sứ vụ từ Chúa Cha để thi hành. Khi Ngài đã hoàn tất sứ vụ tiêu diệt thù địch cuối cùng là sự chết,
Ngài trao lại con người đã được cứu chuộc cho Thiên Chúa; giống như vị tướng trao lại lãnh thổ đã bị xâm lấn cho vua mình.
3/ Phúc Âm: Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới.
3.1/ Làm theo thánh ý Thiên Chúa là lý do được Thiên Chúa chúc phúc.
(1) Chị họ Elisabeth nhận ra sự cao trọng của Mẹ Maria: Khi Mẹ Maria vào nhà ông Zachariah và chào hỏi bà Elisabeth, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà Elisabeth được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng.” Người con bà Elisabeth đang cưu mang trong lòng là Gioan Tẩy Giả, hai thai nhi đã nhận ra nhau do Thánh Thần tác động; và Bà Elisabeth cũng nhận ra diễm phúc được làm Mẹ Thiên Chúa của Maria, người em họ mình.
(2) Lý do của sự cao trọng và được chúc phúc: Bà Elisabeth nhận ra lý do Maria được chúc phúc, và nói: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.” Con người được chúc phúc là vì niềm tin vững mạnh nơi Thiên Chúa, chứ không vì bất cứ việc gì con người làm. Mẹ Maria tin vững mạnh nơi Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, và Mẹ đã thưa lời “Xin Vâng” với sứ thần Gabriel.
3.2/ Khiêm nhường phục vụ Thiên Chúa và phục vụ tha nhân: Theo sự quan phòng của Thiên Chúa, người tín hữu cao trọng là người biết khiêm nhường phục vụ tha nhân.
(1) Khiêm nhường phục vụ Thiên Chúa: Mẹ Maria biết nguồn gốc của sự cao trọng của Mẹ là nơi Thiên Chúa; Mẹ chỉ là nữ tỳ hèn hạ của Ngài. Vì thế, Mẹ Maria đáp trả lời khen ngợi của chị họ Elisabeth như sau: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!”
Ngược lại với cách đáp trả của Đức Mẹ, là cách con người kiêu hãnh nhận những gì Thiên Chúa và tha nhân đã làm cho, là của mình. Họ nghĩ vì họ có tài đức, hay có vận may, hay nhờ những cố gắng riêng, mà họ được như hiện tại. Bài kinh Magnificat là một thức tỉnh cho loại người này, họ phải biết khôn ngoan nhận ra và cư xử thích đáng trước khi quá muộn: “Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng. Chúa độ trì Israel, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Abraham và cho con cháu đến muôn đời.”
(2) Khiêm nhường phục vụ tha nhân: Lòng yêu mến Thiên Chúa phải được bày tỏ qua những việc làm cụ thể cho tha nhân. Mẹ Maria đã chọn đi thăm viếng và ở lại phục vụ người chị họ mình ba tháng, vì Mẹ biết chị họ đã cao niên và son sẻ, dù Mẹ có thể chọn ở nhà để dưỡng thai. Người kiêu hãnh có thể nghĩ: chị họ phải đi thăm và phục vụ mình, vì mình là Mẹ của Thiên Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG: Chúng ta cần sáng suốt để nhận định:
– Thiên Chúa là Đấng uy quyền và khôn ngoan: Ngài phác họa và điều khiển toàn bộ Kế Hoạch Cứu Độ cho con người qua sự vâng lời và khiêm nhường thực hiện của Đức Kitô.
– Mẹ Maria đã khôn ngoan nhận ra Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, và khiêm nhường cộng tác để cung cấp cho Đức Kitô một thân xác, cần thiết cho Kế Hoạch Cứu Độ.
– Noi gương Mẹ, chúng ta cầu xin để chúng ta cũng nhận ra thánh ý Thiên Chúa, và khiêm nhường cộng tác để mưu cầu phần rỗi cho chúng ta và cho tha nhân. Đừng bao giờ rơi vào bẫy kiêu hãnh của ma quỉ để đánh cắp những ơn lành của Thiên Chúa và lạc xa đường cứu độ.
1. Đức khiêm nhường của Đức Maria.
Hôm đó đã diễn ra một cuộc gặp gỡ đơn giản, bình thường giữa hai con người. Lịch sử không có một ghi nhận nào. Hai người phụ nữ, hãi người mẹ tương lai. Hai người đàn bà hạnh phúc được cưu mang đứa con trong mình. Những đứa con họ không hy vọng có được…
Đức Maria là trung tâm của cầu nguyện. Người chị họ Êlisabét vui mừng đón tiếp em mình. Bà chào Maria, chúc phúc cho Mẹ theo truyền thống dân tộc. Bà công bố Mẹ và đứa con trong lòng được Thiên Chúa chúc phúc.
Chẳng mấy chốc, câu chuyện trao đổi hướng tới cầu nguyện. Thiên Chúa là trung tâm của lời cầu nguyện ấy. Cuộc nói chuyện của cả hai biến thành lời ca ngợi Thiên Chúa cứu độ. Lời Maria thốt lên là những lời tạ ơn.
Lạy Chúa, Ngài là Đấng kỳ diệu vượt xa hẳn những điều kỳ diệu trên thế giới này. Chúa đã thực hiện điều lạ lùng nơi tôi, một thiếu nữ yếu đuối. Lạy Chúa, toàn năng và là Đức Chúa, Ngài đã kêu gọi nữ tỳ của Ngài dù tôi chỉ là một thiếu nữ, chỉ là một phụ nữ.
Cuộc trao đổi lời chào giữa Maria và Êlisabét diễn tả một cuộc trao đổi khác giữa Thiên Chúa và một phụ nữ, thay mặt cho nhân loại. Maria nhìn thấy vinh quang và thánh thiện của Thiên Chúa tỏ lộ trong giao ước lạ thường này.
Cũng trong chiều hướng ấy, lời cầu nguyện của Maria là lời ca ngợi những ai nhận biết và sẽ nhận biết sự can thiệp quá đỗi lạ lùng, rất khó tin của Thiên Chúa.
Lời cầu nguyện của Mẹ vừa dựa trên những nhận định đầy khôn ngoan về Thiên Chúa, vừa dựa trên những lý luận về bản tính hay hành động của Người. Nhờ đó, tâm hồn Mẹ luôn sẵn sàng vâng theo ý Chúa. Lời cầu nguyện của Mẹ nối kết với Thiên Chúa trên những con đường đầy bất ngờ, trong sự khiêm tốn nhận biết rằng chúng ta hành động là do Thiên Chúa thúc đẩy.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ khiêm tốn loan báo những việc kỳ diệu Thiên Chúa thực hiện nơi Mẹ bởi vì những việc ấy không những là các dấu chỉ về hoạt động của Người mà còn nói lên vẻ huy hoàng và sự thánh thiện của Người nữa.
Lạy Mẹ Maria, sự khiêm tốn của Mẹ đã không huỷ diệt gì khi loan báo sự hiện hữu của Thiên Chúa làm người và Đấng vĩnh cửu đi vào lịch sử nhân loại.
Lạy Mẹ Maria, sự khiêm tốn của Mẹ là nét đơn sơ trong tâm hồn khi Mẹ đón nhận chương trình của Thiên Chúa về Mẹ và nhân loại một lần cho mãi mãi, dù về phương diện nhân loại, chương trình ấy khó có thể tưởng tượng nổi.
Lạy Chúa Maria, sự khiêm tốn của Mẹ đã giúp Mẹ có mặt ngay trung tâm ơn cứu độ nhân loại do Thiên Chúa thực hiện và giúp Mẹ nhất trí với lời hứa của Thiên Chúa từ ngàn xưa khi đồng ý trao ban một thân hình cho con Thiên Chúa.
Lạy Mẹ Maria, sự khiếm tốn của Mẹ mở cửa cho sứ thần hoá lạ lùng chưa từng có Mẹ lên trời ngự bên Thiên Chúa.
2. Hình ảnh cuộc biến đổi của chúng ta.
Sự sùng kính Đức Maria đích thực không hệ tại việc gia tăng và phát triển khai những lời ca ngợi và ngưỡng mộ đối với những đặc ân Mẹ đã nhận, nhưng là học ở Mẹ để trở nên và để là một người tin. Có thể nói thêm được rằng chúng ta chỉ có thể đề cập đến Đức Maria trong đức tin, “nghĩa là qua Mẹ, chúng ta tìm kiếm chính Thiên Chúa, hoặc nói rõ hơn chính Đức Giêsu con Mẹ”. Chính Grignon de Monfort, một người rất nổi tiếng về lòng sùng kính Đức Maria viết rằng: “Nếu chúng ta gọi tên Maria, tiếng vọng trả lời sẽ là Giêsu”.
Maria đã học trong cùng một ngôi trường khắc nghiệt như con mình. Nhiều trang Tin Mừng cho chúng ta thấy những đổ vỡ Mẹ gánh chịu để theo bước con mình trong đức tin. Maria đã sống đức tin cách sâu xa. Chính Êlisabét đã đề cao điều ấy một cách tuyệt diệu khi chúc mừng Mẹ “phúc cho em vì đã tin…” Đức cha Garron tự hỏi, Hội Thánh, Công đồng Vaticanô II và Phụng vụ điều đi ngược lại với khuynh hướng tự nhiên thúc đẩy chúng ta “tô vẽ thái quá cho Đức Maria khi gán cho Mẹ những vinh quang kỳ diệu. Với thái độ như vậy, chúng ta sẽ tiến tới tận đâu đây!”.
Lộ trình thiêng liêng của Đức Maria có thể là lộ trình của chúng ta. Tiến bước theo Mẹ, chúng ta đến gần Đức Giêsu. Mặc lấy cái nhìn đức tin của Mẹ, chúng ta học theo Mẹ để nhìn ngắm Đức Giêsu như chính Mẹ đã chiêm niệm và từ từ khám phá. Như Mẹ, chúng ta có thể tiến trienể qua niềm vui và nỗi khổ, phát hiện và sự ngạc nhiên, và thường ngay cả nỗi đau khổ và sự không hiểu, như trường hợp Đức Maria và thánh Giuse ở đền thờ (Lc 2,50). Đức cha Garron giải thích, cái nhìn của Maria về con mình rất tương hợp với những giai đoạn kế tiếp nhau của sự lớn lên mà thánh Luca đã nói rõ: Maria đã thấy Đức Giêsu “ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan và hằng được ân nghĩa cùng Chúa…” (Lc 2,52). Do đó, chúng ta sẽ tôn trọng chân lý của mọi sự và tư tưởng của chính Đức Maria khi cùng với Mẹ làm lại cuộc hành trình mà trước kia Mẹ đã không ngừng rảo bước.
Chính trong viễn ảnh này, chúng ta có thể đặt biến cố Mông Triệu như một kết luận. Biến cố ấy nói cho chúng ta biết cuộc phiêu lưu của đức tin sẽ kết thúc thế nào. Đức Maria, Hòm Bia của giao ước mới, bước vào vinh quang của Chúa Cha. Đức Trinh Nữ được Thiên Chúa cho hưởng phúc vinh quang, chính là hình ảnh cho tương lai của chúng ta. Bài đọc thứ nhất so sánh Maria với Hòm Bia đích thực, nghĩa là nơi Thiên Chúa ngự, là lều tạm nơi để Lời Chúa và Bánh Thánh. Biến cố Mông Triệu giống như sự đảo ngược tình thế. Giờ đây, chính Đức Maria được đón tiếp trong Thiên Chúa, từ nay Mẹ ở trong Người. Chúng ta không còn ở phạm vi ưu đãi, nhưng bước sang ơn gọi chung, vì đạt đến Đất Hứa sau cuộc phiêu lưu trên sa mạc là lời Thiên Chúa hứa cho mỗi người trong chúng ta.















55. Lễ Ðức Maria Hồn Xác Lên Trời – Giuse Nguyễn Văn Lộc



Trong Thánh Lễ Trọng hôm nay, chúng ta được mời gọi ra khỏi mình, ra khỏi những bận tâm, đôi khi rất nặng nề của cuộc sống, để chiêm ngưỡng và ca mừng Đức Maria, Mẹ của chúng ta, được Thiên Chúa ban đặc ân Hồn Xác Lên Trời.
Thật ra, chúng ta vẫn ca mừng Đức Mẹ, khi đọc kinh Kính Mừng. “Kính Mừng” có nghĩa là chúng ta ca mừng Đức Mẹ một cách kính cẩn: “Kinh Mừng Maria, đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng bà, bà có phúc lạ hơn mọi người nữ, và Giê-su con lòng bà gồm phúc lạ”. Trong kinh Kính Mừng, chúng ta ca mừng Đức Mẹ trước, rồi sau đó mới xin ơn: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con…”. Chính thái độ ca mừng Đức Mẹ sẽ chuẩn bị cho chúng ta đón nhận những ơn huệ mà Mẹ sẽ chia sẻ cho chúng ta, và cũng chính thái độ ca mừng này sẽ giải thoát chúng ta khỏi thái độ ngược lại là ghen tị gây chết chóc, đó là không vui khi thấy người khác may mắn hơn mình, được hưởng nhiều ơn hơn mình.
Chúng ta cùng cầu nguyện đặc biệt cho mọi người mang tên thánh là Maria, nhất là những người nhận lễ Đức Mẹ Lên Trời làm ngày lễ Bổn Mạng.
———–
Thánh Lễ Vọng
 14/8/2011
Bn 15,3-4.15-16; 16,1-2; 1Cr 15,54b-57;
Lc 11,27-28
1. “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm”
Như chúng ta vừa nghe trong bài Tin Mừng, khi Đức Giê-su đang giảng dạy, thì giữa đám đông có một người phụ nữ lên tiếng thưa với Người: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm”. Trong cuộc sống, chúng ta vẫn thường nghe được những lời khen tặng bố mẹ tương tự, khi thấy một người con vừa ngoan vừa giỏi. Tất cả chúng ta đều sinh ra từ bố mẹ, ước gì cách sống của chúng ta khiến người khác phải khen tặng bố mẹ của chúng ta. Và cách sống tốt nhất là cách sống phát xuất từ lòng biết ơn, giống như cách sống của chính ĐGS: cả cuộc đời của Ngài là lời tạ ơn Chúa Cha; vì thế Bí tích Thánh Thể mà Ngài đã thiết lập và chúng ta cử hành mỗi ngày, còn được gọi là Bí tích Tạ Ơn.
– Lời khen tặng rất đỗi đời thường của người phụ nữ, nhưng lại chất chứa cả một mầu nhiệm lớn lao. Đó là qua ơn huệ được cưu mang ĐGS và cho Ngài bú mớm, Đức Mẹ sẽ mãi mãi gắn bó với ĐGS, cả ở dưới đất lẫn ở trên trời. Giáo Hội xác tín rằng, nếu ĐGS đã phục sinh và lên trời, thì Đức Maria cũng lên trời cùng với ĐGS, con của Mẹ.
– Sự hiệp thông ân sủng giữa Mẹ và Con, và giữa Con và Mẹ, làm cho chúng ta được an ủi và hi vọng rất nhiều. Chúng ta hãy nhớ lại trong TM có trường hợp, vì thương người Mẹ mà Chúa cứu người con; và hôm nay khi Chúa cho Đức Maria hồn xác lên trời, chúng ta cũng xác tín rằng, vì thương người con, Chúa cũng sẽ cứu người mẹ. Như thế, Chúa cũng yêu thương, những người chúng ta thương yêu. Chính vì vậy mà chúng ta được mời gọi luôn cầu nguyện cho nhau, cho những người còn sống, cũng như cho những người đã qua đời. Và, vì tất cả chúng ta đều có Đức Maria là Mẹ, chúng ta xác tín rằng, Mẹ Maria thương và chia sẻ ân phúc của Mẹ cho chúng ta. Và quả thực, như kinh nghiệm đức tin cho thấy, Mẹ vẫn luôn gần gũi và chia sẻ ân huệ cho chúng ta.
2. Tín Điều Đức Mẹ Hồn Xác lên trời
– Và chính sự hiệp thông ân sủng giữa ĐGS và Mẹ Maria đã làm cho GH nhận biết và tuyên xưng ơn huệ hồn xác lên trời của Đức Mẹ. Thật vậy, vào năm 1950, được cổ vũ bởi rất nhiều thỉnh nguyện, Đức GH Piô XII tuyên bố trong tông hiến Thiên Chúa Vô Cùng Đại Lượng (Munificentissimus Deus) rằng: “Kết thúc cuộc đời dương thế, Mẹ Thiên Chúa Vô Nhiễm Nguyên Tội, là Đức Maria Đồng Trinh, đã được nâng lên hưởng vinh quang thiên quốc cả hồn lẫn xác.”
– Để đi đến một kết luận long trọng như vậy, Đức Piô XII đã dựa vào truyền thống cổ xưa của Giáo Hội, có ít nhất từ thế kỷ V, về ngày lễ “An Giấc” (Dormitio) hoặc “Được Nâng Lên” (Assumptio) của Đức Mẹ. Cũng theo Tông Hiến của Đức Piô XII, tất cả những suy tư của các Giáo Phụ về niềm tin “Đức Mẹ An Giấc” hoặc “Đức Mẹ Được Nâng Lên” đều lấy ngôi vị của Đức Giê-su, Con TC làm nền tảng. Chúng ta hãy nghe lại câu nói này của Đức GH Pi-ô XII: Mẹ hết sức gắn bó với Con mình, người con mang thần tính, và Mẹ luôn thông phần vào vận mệnh của Con Người Ấy.
– Qua Tông Hiến của Đức Piô XII, chúng ta có thể nhận ra rằng toàn bộ hành trình của Đức Mẹ, và đặc biệt là hành trình “Lên Trời” mà chúng ta cử hành trọng thể hôm nay, đều đặt nền tảng tối hậu trên sự kết hợp với hành trình của Đức Giêsu-Kitô (x. 1Cr 15,20-26). Thực vậy, thân xác đã cưu mang Đức Kitô thì không thể bị bỏ mặc cho bị hư nát; và Đấng đã liên kết rất mật thiết với Đức Kitô không thể bị lìa xa khỏi Ngài trong chiến thắng sau cùng. Có một kết luận rất quan trọng cho chúng ta, đó là, sự kết hợp huyền nhiệm và bất khả phân của Đức Mẹ với Đức Giêsu-Kitô cũng phải là tiêu chuẩn cho lòng sùng kính của chúng ta đối với Đức Mẹ.
3. “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời TC”
–“Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm”. Nhưng khi nghe mối phúc này, ĐGS đáp lại: Đúng hơn phải nói rằng: “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời TC”. Những người lắng nghe và tuân giữ lời TC một cách hoàn hảo, lại cũng chính là Đức Maria, Mẹ của chúng ta. Như vậy, Mẹ Maria có tới hai mối phúc: Phúc, vì Mẹ đã cưu mang ĐGS; và phúc, vì Mẹ đã luôn lắng nghe và tuân giữ Lời TC.
– Nếu mối phúc thứ nhất Mẹ là người duy nhất được hưởng, và Mẹ không thể chia sẻ cho chúng ta, Mẹ chỉ chia sẻ hoa trái là ĐKT, “Con lòng Mẹ được chúc phúc”, thì mối phúc thứ hai của Mẹ, đó là phúc cho những ai lắng nghe và tuân giữ lời TC, Mẹ có thể chia sẻ cho chúng ta cách trọn vẹn. Quả thực, nếu chúng ta cũng lắng nghe và tuân giữ Lời TC, chúng ta sẽ trở thành người thân của ĐGS, người con của Mẹ, và do đó, chúng ta trở thành người thân của nhau không phân biệt gia đình hay dân tộc, như chính ĐGS đã nói: “Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8,21)
———————-
Thánh Lễ Chính Ngày
Lc 1,39-56
Đức Maria, trong lời tán tụng TC “Magnificat” bất hủ, mà GH mời gọi chúng ta nhận làm của mình mỗi ngày trong Giờ Kinh Chiều, đã tuyên xưng: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả”. Trong năm Phụng Vụ, chúng ta mừng kính nhiều “điều cao cả” mà Thiên Chúa đã thực hiện cho Đức Mẹ, và chắc chắn ơn huệ“Lên Trời”, mà chúng ta tôn vinh trong ngày lễ hôm nay, là điều cao cả nhất và cũng là điều nhiệm mầu nhất, mà TC đã ban cho Đức Mẹ.
Tuy nhiên, bài TM của ngày lễ hôm nay lại mời gọi chúng ta chiêm ngắm ơn huệ cao cả Lên Trời của Mẹ, Mẹ của chúng ta, như là một cuộc hành trình về với TC, ngang qua con đường đi đến với người khác. Nếu cách thức Mẹ đi đến với TC, ngang qua ơn huệ Lên Trời là duy nhất, thì con đường Mẹ đã đi qua và được kể lại trong bài TM thì thật là nhân tính, thật là gần gũi với chúng ta.
Chúng ta hãy xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa, đồng hành và dạy dỗ chúng ta, để chúng ta:
Biết đón nhận Lời Chúa vào cung lòng và vào cuộc đời chúng ta; và đem Lời Chúa đến, không phải cho ai xa xôi, nhưng đến với người chị em của mình.
Biết chào hỏi và gặp gỡ người chị em, theo cách của Mẹ, nghĩa là làm cho người chị em vui mừng và thốt lên lời ca tụng Chúa, như bàElizabeth.
Và sau cùng, xin cho chúng ta có cùng một kinh nghiệm sâu đậm về TC như Đức Mẹ, như mẹ tuyên xưng trong lời ca tụng bất hủ Magnificat:
Đấng toàn năng đã làm cho tôi
Biết bao điều cao cả
Danh Người thật chí thánh chí tôn
1. Nhìn ngắm Mẹ Elizabet và Mẹ Maria, diện đối diện (c. 39-45)
Kinh nghiệm sống của chúng ta, sẽ giúp chúng ta hình dung khung cảnh của cuộc gặp gỡ giữa hai chị em. Nghe biết chị Elizabeth, vừa hiếm muộn vừa đã có tuổi, nhưng lại có thai, Đức Maria liền vội vã lên đường đi thăm hỏi và giúp đỡ bà chị của mình. Em đi giúp chị sắp sinh con là điều vẫn còn xẩy ra trong đời thường của chúng ta, nhất là với những cuộc sinh ra đặc biệt. Và chính trong sự việc rất nhỏ bé của đời thường này mà Ân Huệ và Lòng Thương Xót của Thiên Chúa được nhìn nhận và tuyên xưng.
Tư thế diện đối diện, có thể làm chúng ta nghĩ đến cách sắp xếp vị trí của các đan sĩ khi hát kinh, đó chính là trung tâm mà từ đó lời ca tụng được khai sinh. Hay như chính nhóm tĩnh tâm của chúng ta. Bởi lẽ, lời ca tụng là một sự hiệp thông. Chúng ta không thể ca tụng Chúa, nếu không hiệp thông với nhau.
Cuộc gặp gỡ có nhiều người hơn chúng ta tưởng (lời của bà Elizabethsẽ nói rõ cho chúng ta trong cuộc gặp này thực sự có bao nhiêu người), vì Bà Elizabeth vừa nghe Đức Maria chào hỏi, đứa con trong bụng bà nhảy lên! Như thế, cùng với mẹ, em bé cũng đã nghe được (điều này y học ngày nay đã chứng thực), nhưng nghe được tiếng của ai? Tiếng chào của “Dì Maria”. Nhưng với ơn gọi đang chờ đợi mình là “Người đi trước mặt Chúa” (1,17), em bé Gioan như đã nghe được tiếng của em bé Giêsu (nói theo tương quan họ hàng là em Giêsu của mình) ngang qua tiếng của “Dì Maria”. Vì khi còn trong bụng mẹ, một cách nào đó, tiếng của mẹ là tiếng của con. Và đó chính là trường hợp của bé Gioan: em đã nhảy lên trong bụng mẹ, chắc chắn là vì Mẹ của em cũng đã rạo rực trong lòng khi nghe tiếng chào của Mẹ Maria. Bằng chứng là, Mẹ Elizabeth được tràn đầy Thánh Thần và kêu lớn tiếng.
Như thế, ở bên trong cuộc gặp gỡ giữa hai người mẹ, ẩn dấu một cuộc gặp gỡ khác nhiệm mầu và vô hình, nhưng rất hiện thực và sống động (vì Gioan hẳn đã làm mẹ nhói đau, nhưng là cái đau của hạnh phúc!) giữa hai người con; và cả hai đều là ơn huệ tuyệt đối của Thiên Chúa. Sau này, theo các Tin Mừng kể lại, họ sẽ gặp nhau công khai tại sông Giođan, nhưng họ đã gặp nhau từ trước rất lâu qua cuộc gặp gỡ rất đỗi bình thường của hai người mẹ.
Trong cuộc sống, những cuộc gặp gỡ của chúng ta với người khác ban đầu tưởng chừng như tình cờ hay vô nghĩa, nhưng lại ẩn chứa một hay thậm chí nhiều cuộc gặp gỡ “nhiệm mầu” khác, và mang lại những hoa trái làm nên cuộc đời chúng ta, mà sau này chúng ta mới biết. Khi “về quê”, nhất là vào những dịp đặc biệt, chúng ta sẽ nhớ lại một cách tự nhiên những kỉ niệm xưa, những “cố nhân”, những cuộc gặp gỡ làm nên con người chúng ta hôm nay. Vì thế, chúng ta có thể tin rằng những cuộc gặp gỡ đang chờ chúng ta ở phía trước cũng sẽ chất chứa biết bao hoa trái trong kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa, mà chúng ta không sao lường được.
2. Lắng nghe Mẹ Elizabeth
Lời của Mẹ Elizabeth mở đầu và kết thúc đều bằng lời tuyên xưng ân phúc của Mẹ Maria: phúc được Thiên Chúa ban nhưng không cho cả hai Mẹ Con; phúc vì Mẹ Maria đáp lại bằng lòng tin vào Lời Thiên Chúa. Lời này làm chúng ta nhớ lại biến cố Truyền Tin, ở đó chúng ta nhận ra rằng lòng tin của Mẹ Maria thật là tuyệt đối, bởi vì Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ một hành động tuyệt đối; lòng tin của Mẹ là tuyệt đối, còn là vì Mẹ đã đón nhận trước cách triệt để cả một hành trình dài đằng đẵng và đầy bất trắc phía trước.
Ở giữa câu nói, Mẹ Elizabeth nói về mình: “Bởi đâu tôi được…; này tai tôi…”, nhưng hoàn toàn như người đón nhận: đón nhận với sự khiêm tốn cuộc viếng thăm của “em Maria”, đón nhận với tất cả “tấm lòng” lời chào hẳn là rất đỗi bình thường và đơn sơ của cô em, và sau cùng là đón nhận hiệu quả của lời chào (vì mẹ đâu có làm chủ được chuyện con nó giãy trong bụng). Chúng ta có thể tự hỏi, làm sao lời chào của Mẹ Maria mang lại hiệu quả kì diệu như thế, lại “đánh động” người nghe sâu xa như thế? Hằng ngày và nhất là trong dịp lễ lớn, chúng ta cũng sẽ chào hỏi rất nhiều và cũng nhận được rất nhiều lời chào hỏi. Làm sao để lời chào của chúng ta đánh động người nghe, như lời chào của Đức Mẹ?
Như thế, lời của Mẹ Elizabeth hoàn toàn hướng về em của mình và Ân Huệ Chúa ban nhưng không cho em. Tương tự như chính Mẹ Maria, Mẹ đã hoàn toàn hướng về chịElizabethtrong cuộc hành trình “thăm viếng” (thực tế là hơn cả thăm viếng!). Ra khỏi mình để nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban cho người khác, đó chính là hiệp thông và ca tụng , vốn là ơn gọi của con người. Thái độ ngược lại là đóng kín và ghen tị.
Lời của Mẹ Elizabeth thật là đẹp, đẹp cả về hình thức lẫn nội dung, chính vì thế mà lời này trở thành một phần lời “Kính Mừng” vang lên liên lỉ và bất tận của chúng ta; và nhất là với “Sự Vui Thứ Hai”, chúng ta được mời gọi thực hiện cùng một hành trình của Đức Mẹ, đó là ra khỏi mình để hướng về Ân Huệ tuyệt đỉnh Thiên Chúa ban cho Mẹ cách nhưng không, hướng về ân huệ Thiên Chúa ban cho anh chị em, bà con của mình. Cảm nhận như thế khi đọc lời kinh “Kính Mừng”, chính là cách tốt nhất để chuẩn bị mình đón nhận sự chia sẻ cùng một Ân Huệ của Mẹ, Ân Huệ Giêsu Kitô.
3. Thiên Chúa Đấng Cứu Độ Tôi
Mẹ Elizabet ca tụng Mẹ Maria bằng lời chúc mừng: Phúc cho người phụ nữ đã tin! (Lc 1,45) Đức Maria dâng lời tạ ơn và ca tụng cùng với tất cả những người sẽ thụ hưởng điều Mẹ đã lãnh nhận. Trong trình thuật này của Luca, chúng ta chứng kiến biến cố khai sinh của bài ca tán tụng bất hủ Magnificat. Bài ca diễn tả cả một kinh nghiệm vừa sâu vừa rộng về Thiên Chúa của Đức Mẹ. Và mỗi khi chúng ta đặt mình vào chủ thể “Tôi” của bài ca, chúng ta được mời gọi thực hiện cùng một kinh nghiệm về Thiên Chúa như Mẹ.
Kinh nghiệm Thiên Chúa của Đức Mẹ, trước hết, đó là kinh nghiệm: Thiên Chúa là Đấng cứu độ, và tiên vàn không phải Thiên Chúa, Đấng cứu độ loài người, nhưng là Thiên Chúa, “Đấng cứu độ của tôi”. Kinh nghiệm này làm cho con tim của Đức Mẹ thực sự “bừng cháy” và thốt lên lời ngợi khen Thiên Chúa, là Đức Chúa của mình.
Tính từ sở hữu “của tôi”, hay “của con” thật nhỏ bé và đơn sơ nhưng dấu ẩn cả một bí mật, một tương quan rất thiết thân. “Của tôi”, “của con”, “của bố”, “của mẹ”, “của anh”, “của chị”, “của em”… Khi nghe hay nói những từ này, lòng chúng ta hẳn đã xao động, bởi vì đó là ngôn ngữ của tình yêu. Thánh Lc, trong các bản văn, khi nói tới Đức Kitô hay Thiên Chúa, ngài luôn thêm tính từ sở hữu “của chúng ta” (x. Linh Thao 23;158).
Ngoài ra, tĩnh từ sở hữu “của con” còn mang một vẻ nổi bật đặc biệt trong bối cảnh Kinh Thánh, bởi vì nó thuộc về ngôn ngữ của giao ước: Ta sẽ là Thiên Chúa của các ngươi và các ngươi sẽ là dân của ta. Qua lời giao ước, hai bên cam kết sẽ thuộc về nhau mãi mãi. Và tương quan thuộc về này của giao ước hoàn toàn không xa lạ với chúng ta. Thực vậy, qua phép rửa, “Thiên Chúa trở thành Thiên Chúa của con; và con, con trở thành con của Thiên Chúa”. Tương quan giao ước này là nền tảng cho mọi tương quan giao ước khác, được diễn tả qua lời cam kết hôn nhân, lời cam kết chức thánh, lời tuyên khấn, lời tuyên hứa…
“Thiên Chúa là Đấng cứu độ”, lời tuyên xưng này, đối với chúng ta trong thực tế, có thể đã trở thành một chân lí khách quan, thậm chí một công thức, vì thế không thực sự liên quan đến cuộc đời cụ thể và như nó là của mỗi người chúng ta, không diễn tả một kinh nghiệm thiết thân, không mang lại niềm vui ca tụng; “Thiên Chúa là Đấng cứu độ”, nhưng Ngài chưa thực sự là “Đấng cứu độ của con”. Kinh nghiệm của Đức Mẹ về những gì Thiên Chúa đã làm cho mình, sẽ giúp chúng ta vượt qua khó khăn này để đi vào tương quan “thuộc về nhau” với Thiên Chúa.
4. “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi…” (c.48-49)
Trong tương quan thiết thân với Thiên Chúa, Mẹ Maria tự nhận mình là “nữ tì hèn mọn”, và chắc chắn Mẹ luôn nhận mình là như thế, bởi lẽ trước đó trong biến cố Truyền Tin, Mẹ đã nói về mình: “Tôi đây là nữ tì của Đức Chúa” (Lc 1,38). Vì thế, chúng ta nên từ bỏ não trạng thời Trung Cổ là thích gom góp mọi thứ tước hiệu mô tả sự vĩ đại và vẻ đẹp của Mẹ. Chúng ta hãy tôn trọng tước hiệu mà Mẹ tự nhận cho mình. Như thế, không còn là những đặc ân “ngoại thường” lôi kéo sự chú ý của chúng ta nữa, nhưng là Đức Trinh Nữ của Israel, “nữ tì hèn mọn của Đức Chúa”, đại diện cho những người nghèo của Đức Chúa, đã sống một cuộc đời bình thường và đã tự xóa mình đi trước sứ mạng của Con Mình, để rồi lại xuất hiện trong giờ thử thách của Thập Giá. Chúng ta được mời gọi dõi theo một Đức Maria như thế.
Khởi từ thân phận “nữ tì hèn mọn”, Đức Maria tuyên xưng: “Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả”. Mẹ hèn mọn nhưng lại được Chúa làm những điều lớn lao. Như thế, sự lớn lao của Mẹ hoàn toàn đến từ Thiên Chúa. Lời tuyên xưng này là tâm điểm của bài ca Magnificat, bởi vì những gì Mẹ nói ở đầu chính là để dẫn đến kinh nghiệm thiết thân này, và từ kinh nghiệm thiết thân này, Mẹ nhận ra hành động của Thiên Chúa nơi nhân loại và nơi dân tộc của Mẹ.
Những gì Thiên Chúa đã làm cho Mẹ, không trừu tượng chút nào, vì “Lời Chúa” đụng chạm đến thân xác, tâm hồn và cả cuộc đời của Mẹ. “Lời Chúa” chạm đến con người của Mẹ, hình thành nơi cung lòng của Mẹ, sinh ra và lớn lên trong cuộc đời của Mẹ, đồng hành với Mẹ cho đến tận cùng, và cuối cùng mãi mãi trở nên một với Mẹ. Nơi Mẹ, “Lời Chúa là hạt giống nhỏ, hứa hẹn cả mùa gặt bao la”[1]; nơi Mẹ, Lời Chúa trở nên hiện hữu ở mức độ cô đọng nhất, nghĩa là ở mức độ “Ngôi Lời Thiên Chúa”.
Ngay lúc này Đức Mẹ đã cảm nhận được lời chúc khen của mọi thế hệ dành cho Mẹ, trong đó có lời chúc khen của thế hệ chúng ta hôm nay. Về phần Mẹ, luôn với cung cách của một “nữ tì”, Mẹ chúc khen Thiên Chúa: “Danh Người thật chí thánh chí tôn”, bởi vì tất cả tất cả những gì Thiên Chúa làm cho Mẹ là do lòng đoái thương hoàn toàn nhưng không.
5. “Chúa hằng thương xót” (c. 50-56)
Khởi đi từ kinh nghiệm bản thân, về những gì Thiên Chúa làm cho mình, Đức Mẹ trong bài ca Magnificat khám phá ra cách hoạt động của Thiên Chúa trong lịch sử con người và nhất là trong dân tộc mình: như Thiên Chúa đã đoái nhìn đến phận nữ tì của Mẹ, Thiên Chúa cũng bày tỏ lòng thương xót với
những ai kính sợ Người,
những người khiêm nhường,
những người đói nghèo.
Và Đức Mẹ cảm nhận Thiên Chúa tỏ bày lòng thương xót một cách duy nhất và đặc biệt với Israel, tôi tớ đau khổ của Thiên Chúa, không phải vì Israel “đạo đức thánh thiện” nên Chúa trả công, nhưng bởi vì Ngài nhớ lại lời hứa thủy chung đến muôn đời của Ngài ngay từ buổi khởi đầu. Tuy nhiên, lời của Mẹ cũng thật mạnh mẽ, nếu không muốn nói là dữ dội, khi diễn tả cung cách của Thiên Chúa đối với
phường lòng trí kiêu căng,
những ai quyền thế,
những người giàu có.
Vì đó là những lựa chọn ngẫu tượng, nghĩa là lựa chọn hư vô: ngẫu tượng dann vọng, ngẫu tượng quyền bính, ngẫu tượng vật chất. Những Lời này của Mẹ hôm nay, một ngày kia sẽ trở thành lời của chính Đức Giêsu, Con của Mẹ, trở thành chính cung cách hành xử của Ngài ngang qua Thập Giá, để giải phóng con người khỏi mọi thứ ngẫu tượng bằng cách bắt chúng phải lộ diện, và đồng thời bày tỏ khuôn mặt đích thật của Thiên Chúa cho con người.
* * *
Mỗi khi đọc hay hát bài ca Magnificat của Mẹ Maria, chúng ta được mời gọi nhận lời của Mẹ làm của mình, nếu không lời của chúng sẽ chỉ là giả tạo. Nhận lời của Mẹ làm của mình, điều này có nghĩa là kinh nghiệm Thiên Chúa thực sự là “Đấng cứu độ của tôi”, bằng cách nhận ra những gì Thiên Chúa đã làm cho mình. Đúng là chúng ta không được ban những ơn cao cả như Đức Mẹ, nhưng chúng ta được thụ hưởng, được chia sẻ những gì Mẹ đã lãnh nhận từ Thiên Chúa. Và chỉ khởi đi từ kinh nghiệm thiết thân về Thiên Chúa, mà chúng ta mới có thể nhận ra lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho người khác, trong cộng đoàn, gia đình, lối xóm, giáo xứ, công sở,… và dân tộc Việt Nam.
Cuối cùng, chính khi chúng ta có cùng một kinh nghiệm về Thiên Chúa, cả cuộc đời của chúng ta sẽ trở thành bài ca Magnificat, tán tụng Thiên Chúa, như cuộc đời của Mẹ Maria, (Nữ Tì Hèn Mọn) của Đức Chúa.
Giuse Nguyễn Văn Lộc
———————
[1] Bài hát về Lời Chúa “Comme un souffle fragile” (Như Hơi Thở Mong Manh), của Pierre Jacob.



 

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây