Các Bài Suy niệm Chúa Nhật 20 Thường Niên – C
Thứ sáu - 12/08/2022 03:41
Các Bài Suy niệm Chúa Nhật 20 Thường Niên – C
Lời Chúa: Gr 38,4-6.8-10; Dt 12,1-4; Lc 12,49-53
MỤC LỤC
1. Lửa trên mặt đất
2. Phải chi lửa ấy đã bùng lên.
3. Đức Kitô là lửa tình yêu – ViKiNi
4. Lửa.
5. Gây chia rẽ.
6. Lửa.
7. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
8. “Phải chi lửa ấy đã bùng lên!”
9. Giữ lửa yêu thương.
10. Hoàng tử bình an đến mang sự chia rẽ.
11. Lửa Tin Mừng Chúa Kitô.
12. Bình An, Niềm Vui, Ơn Cứu Độ – An Phong.
13. Suy niệm của André Sève.
14. Ước mong lửa yêu thương bùng lên.
15. “Ta muốn lửa ấy cháy lên” – Veritas.
16. Hãy cương quyết xông pha.
17. Sứ mệnh – Lm. Giuse Trần Việt Hùng.
18. Người giữ ngọn lửa.
19. Khủng hoảng niềm tin – Như Hạ, OP.
20. Phải chi lửa ấy đã bùng lên!.
21. “Ai ở gần Ta, là ở gần lửa’ – Achille Degeest
22. Phong trào Thánh Thần trong thời đại của chúng ta.
23. Lửa tình yêu.
24. Bước theo Đức Kitô trên đường Thập Giá.
25. Ngôn sứ và những hệ lụy.
26. Thế nào là hòa bình của thế gian?
27. Ngọn lửa tình yêu – Lm Giuse Nguyễn Hữu An.
28. Chúa Nhật 20 Thường Niên.
29. Ném lửa trên mặt đất.
30. Người giữ ngọn lửa.
31. Lửa – Phép rửa.
32. Lửa trên mặt đất – McCarthy.
33. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên.
34. Đem gươm giáo tới.
35. Lửa của tình yêu.
36. Ngọn lửa tình yêu – Thiên Phúc.
37. Hai cách hiểu câu khó hiểu.
38. Lửa.
39. Lửa tình yêu – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm.
40. Sống đòi phải chọn lựa.
41. Không hòa bình nhưng chia rẽ.
42. Lửa an bình – Lm. Bùi Quang Tuấn.
43. Suy niệm của Lm. Vũ Mộng Thơ.
44. Suy niệm của JKN.
45. Suy niệm của Lm. Cao Tấn Tĩnh.
46. Sống Lời Chúa – Phân rẽ.
47. Tình yêu.
48. Dấu chỉ
49. Ném lửa.
50. Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng.
51. Suy niệm của Lm. Nguyễn Hưng Lợi.
52. Suy niệm của Nguyễn Văn Nội.
53. Suy niệm của Lm Augustine. 200
54. Sứ mạng của Đức Giêsu – Lm FX Vũ Phan Long.
55. Lc 18,49-53 – Gp Vĩnh Long.
56. Khủng hoảng niềm tin – Lm. Giuse Đỗ Vân Lực.
57. Lửa và Bình An – Lm. Jos Nguyễn Cao Luật.
58. Đời sống của người môn đệ Chúa Kitô.
59. Ơn phúc.
60. Sự quấy rối cần thiết – Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái.
61. Ngọn lửa tình yêu.
62. Làm bùng cháy ngọn lửa tin yêu – Lm Đan Vinh.
63. Bình an chỉ có khi sự thật lên ngôi.
64. Khi vui muốn khóc – Đỗ Lực, OP.
1. Lửa trên mặt đất
(Trích dẫn từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Tin Mừng hôm nay là lời tâm sự của Đức Giêsu, Ngài khẳng định mục đích của đời mình là ném lửa trên mặt đất và Ngài mong muốn phải chi lửa ấy đã bùng lên.
Lửa Đức Giêsu mang lại là lửa nào?
Phải chăng là thứ lửa trời đã thiêu hủy Sôđôma, hay thứ lửa mà Giacôbê và Gioan định sai xuống để thiêu hủy một ngôi làng Samari? (Lc 9,55)
Phải chăng là thứ lửa mà cây không trái (Mt 3,10), hay những cành nho khô héo bị quăng vào (Ga 15,6)?
Lửa này có phải là lửa kinh khủng của ngày phán xét?
Trong cái nhìn của thánh Luca, lửa mà Đức Giêsu muốn làm bùng lên trên toàn cầu, chắc là thứ lửa của Phép Rửa trong Thánh Thần (Cv 1,5). Lửa này đã ngự xuống từng người vào lễ Ngũ Tuần (Cv 2,3).
Lễ Ngũ Tuần quả là Phép Rửa trong lửa, nhưng đó mới chỉ là một khai mở ban đầu. Còn cần vô số những lễ Ngũ Tuần khác trên thế giới.
Trái đất này càng lúc càng nóng lên. Nhưng lòng con người lại nguội lạnh như hai môn đệ Emmau. Chúng ta cần cảm thấy chút lửa ấm (Lc 24,32) của người đồng hành xa lạ, nói cho ta về Lời Chúa.
Chúng ta cần cảm thấy ngọn lửa trong tim như Giêrêmia, thúc bách ông phải nói Lời Chúa dạy (x. Gr 20,9).
Đức Giêsu đã bắt đầu nhóm lửa trên địa cầu. Đừng làm tắt đi ngọn lửa ấy, nhưng hãy để nó lan ra.
Lửa thiêu hủy những cằn cỗi. Lửa thanh lọc những ô nhơ. Lửa làm ấm lại cõi lòng băng giá. Lửa sáng soi trên bước đường kiếm tìm sự thật.
Chúng ta cần làm cho mong muốn của Đức Giêsu thành tựu.
Nhưng trước hết chúng ta phải là người mang trong tim ngọn lửa của Thánh Thần tình yêu.
Đức Giêsu chia sẻ cho ta điều đang đè nặng trên Ngài. Ngài linh cảm về thử thách lớn lao Ngài sắp chịu. Đúng là Ngài đang lên đường đi gặp nó. Ngài gọi đó là Phép Rửa mà Ngài phải chịu.
Đức Giêsu can đảm đón nhận Phép Rửa đáng sợ này. Ngài thấy mình sẽ bị nhận chìm thật sâu trong đó.
Đức Giêsu tiếp tục nói điều phải nói, làm điều phải làm. Ngài dám trả giá cho sự trung tín của mình. Nỗi khổ đau và cả cái chết là điều không thể tránh khỏi, nhưng điều đó chẳng làm Ngài chùn bước.
“Các anh có thể chịu Phép Rửa mà Thầy sẽ phải chịu không?”
Ngài đã hỏi các con ông Dêbêđê như thế (Mc 10,38), và Ngài cũng hỏi từng người chúng ta như thế.
Chẳng có Phép Rửa nào khác ngoài Phép Rửa Ngài đã chịu. Chẳng có con đường nào khác ngoài con đường Ngài đã đi.
Tin Mừng Đức Kitô dành cho người hiền hòa, chứ không nhu nhược.
Chúng ta phải có cùng một mong muốn và khắc khoải như Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Thế giới hôm nay đầy đau khổ do con người gây ra cho nhau chỉ vì trái tim đóng băng lạnh giá. Theo ý bạn, làm sao để làm nóng lại trái tim con người?
Sống là chấp nhận trăn trở, khắc khoải. Bạn thấy mình hay trăn trở về điều gì? Bạn có trăn trở về Hội Thánh?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho chúng con ngọn lửa trong Trái Tim Chúa, ngọn lửa của tình yêu Cha và nhân loại.
Xin làm tim con ấm lại mỗi ngày, nhờ được nghe Chúa nói như hai môn đệ về Emmau, và được Chúa nuôi bằng bánh ban sự sống.
Xin soi sáng chúng con bằng ngọn lửa rực rỡ mỗi khi chúng con cầu nguyện hay quyết định.
Xin thanh luyện chúng con bằng ngọn lửa hồng của những thất bại đắng cay trên đường đời.
Ước gì chúng con luôn có lửa nhiệt thành để hết lòng phụng sự Nước Chúa, lửa tình yêu để vượt qua những hận thù đố kỵ.
Lạy Chúa Giêsu, thế giới hôm nay vẫn bị tối tăm, lạnh lẽo đe dọa.
Xin ban cho chúng con những lưỡi lửa để chúng con đi khắp địa cầu loan báo về Tình Yêu và gieo rắc Tình Yêu khắp nơi. Amen.
2. Phải chi lửa ấy đã bùng lên
(Trích dẫn từ ‘Manna’ của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)
Suy Niệm
Nhiệt độ của trái đất có chiều hướng nóng dần lên. Đó là một điều đáng sợ. Nhưng điều đáng sợ hơn lại là sự lạnh lùng giữa người với người.
Con người cần cơm bánh và giải trí, nhưng con người còn cần sự nâng đỡ cảm thông.
Nhân loại sống được là nhờ tình thương ấm áp. Vậy mà băng giá của lạnh đạm dửng dưng vẫn tồn tại khắp nơi trên mặt đất. Băng giá nằm ngay nơi lòng con người.
Đức Giêsu đã khẳng định sứ mạng của Ngài: Ngài đến để ném lửa trên mặt đất, và Ngài ước mong, phải chi lửa ấy đã bùng lên.
Ngọn lửa Đức Giêsu muốn nhóm lên không phải là ngọn lửa của án phạt và hủy diệt, không phải là thứ lửa từ trời mà Gioan và Giacôbê định xin đổ xuống trên một làng của xứ Samari. Đây là ngọn lửa vẫn bừng cháy trong tim Ngài, lửa của Thánh Thần, lửa của yêu thương, lửa hâm nóng hai môn đệ Emmau đang tuyệt vọng.
Chúng ta cần được ngọn lửa của Đức Giêsu chạm đến, cần được Ngài làm bừng sáng lên những sức mạnh tiềm ẩn nơi ta, để chúng ta trở thành ánh lửa cho thế giới.
“Phải chi lửa ấy đã bùng lên!”
Chúng ta được mời gọi để thực hiện niềm ước mong mà Đức Giêsu đã suốt đời ôm ấp, đó là làm cho thế giới nên ấm áp hơn vì con người biết sống cho Thiên Chúa và cho nhau.
Gieo rắc ngọn lửa và ánh sáng là chấp nhận bị từ khước và đe dọa. Đức Giêsu linh cảm những gì sẽ xảy ra cho đời mình. Ngài sẽ phải chịu một phép rửa kinh khủng, sẽ phải dìm mình thật sâu trong nỗi khổ đau.
Hôm nay, Ngài mời chúng ta ném lửa trên mặt đất và chấp nhận đối đầu với sức mạnh của bóng tối.
Khi Đức Giêsu bị treo trên thập tự, khi Ngài bị giam trong mồ tối, bóng tối tưởng như đã nuốt chửng được Ngài. Nhưng ngọn lửa phục sinh đã bừng lên giữa đêm đen.
Đó là niềm hy vọng của chúng ta, những người vẫn còn phải hăng say chiến đấu để đẩy lui bóng tối ra khỏi mọi nơi, mọi chỗ, bóng tối của bất công, sa đọa và tuyệt vọng, bóng tối của hận thù, của nạn mù chữ, bóng tối của nghèo nàn lạc hậu… Bóng tối do khép lại cánh cửa của lòng mình. Bóng tối ở ngay trong lòng tôi.
Có lúc chúng ta sợ hãi bóng tối dày đặc, mà ngọn lửa của mình lại yếu ớt.
Nếu một tỷ Kitô hữu đều là những ngọn lửa thì bóng tối sẽ bị đẩy lùi khỏi mặt đất.
Gợi Ý Chia Sẻ
Thế giới hôm nay vẫn còn nhiều bóng tối. Theo ý bạn, đâu là những bóng tối đáng được chúng ta quan tâm hơn (những bóng tối nơi gia đình, ngoài xã hội và trong Giáo Hội)?
Bạn có kinh nghiệm gì khi phải đương đầu với bóng tối của sự dữ, ở ngoài bạn và ở trong bạn? Có khi nào bạn thắng được bóng tối không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu thương mến,
Xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.
Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa,
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được
Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa.
(Mẹ Têrêxa Calcutta)
3. Đức Kitô là lửa tình yêu – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Ngày khai mạc Olympic năm 1988 ở Đại Hàn đã trình diễn rất nhiều màn ngoạn mục đầy ấn tượng. Một trong những màn đó là rước lửa thiêng Olympic từ Hy Lạp tới và một lực sĩ đã dùng cung tên bắn ngọn lửa từ dưới đất bay lên vút trời nhào xuống ngọn đuốc cao bùng cháy sáng rực, soi sáng cho các cuộc tranh tài thể thao suốt ba tuần lễ.
“Đức Giêsu đã đến ném lửa vào trái đất” cho trái đất bùng cháy lên soi sáng cho chúng ta biết thi đua nhau trình diễn những màn ngoạn mục tuyệt đẹp về cuộc đời của mình. Người mong muốn lửa tình yêu của Người được bùng lên trong đời sống chúng ta, đến nỗi Người nói: “Thầy sẽ phải chịu một phép rửa và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc ấy hoàn tất”.
Giêrêmia đã phải chịu phép rửa ấy dưới hố giếng sâu đầy bùn sình ghê tởm, đầy những hạng độc ác, đầy bọn hiếu chiến chỉ lo liên kết với Ai Cập chống Babylon. Họ không nghe lời can gián của Giêrêmia, họ muốn xử tử ông và đẩy dân tộc đến chỗ diệt vong bởi tay ngoại bang Babylon. Còn Giêrêmia và những ai trông cậy Chúa sớm muộn gì cũng được Chúa cứu thoát.
Đức Giêsu cũng mong muốn chịu một phép rửa kinh khủng gấp bội Giêrêmia. Phép rửa Đức Giêsu chịu bắt đầu ngay từ ngày sinh ra trong hang bò lừa tối tăm buốt giá. Đó là hình ảnh hố giếng sâu trần gian đen tối đầy bùn nhơ, đã được người đem ánh sáng vinh danh Thiên Chúa đến chiếu soi cho trái đất rực rỡ vinh quang.
Thứ đến, Đức Giêsu đã đến sông Gioc-đan chịu phép rửa của Thánh Thần, nơi bao nhiêu tội nhân đang mong chờ Người đem lửa Thánh Thần đến thanh tẩy họ.
Tột đỉnh của phép rửa Người chịu là phép rửa bằng máu chảy ra từ trái tim của Người khi bị treo trên thập giá để tẩy xóa tội lỗi trần gian, thay cho máu chiên bò hy tế đầy hôi tanh.
Nếu người ta lấy máu ngón tay viết huyết thư để tỏ nỗi tâm huyết của mình, thì Đức Giêsu chẳng những lấy hết máu trong trái tim, mà còn lấy cả mạng sống mình, viết lên bức thư tâm huyết bày tỏ cho muôn dân thấy tình yêu Thiên Chúa thương yêu họ biết chừng nào!
Tình yêu Thiên Chúa đã bốc lửa cháy lên trong bụi gai giữa đồng hoang, cho Môsê thấy lòng Thiên Chúa thương yêu dân Israel đang bị nô lệ Ai Cập, và truyền cho Môsê đến gặp vua Pharaon phải cho dân về quê hương Đất Hứa.
Tình yêu Thiên Chúa đã cháy lên thành ngọn đuốc soi đường dẫn lối cho dân đi trong đêm tối giữa rừng núi hoang vu.
Tình yêu Thiên Chúa tỏa sáng khắp núi Sinai để ban mười giới luật cho dân sống trong ánh sáng thánh thiện của Thiên Chúa.
Tình yêu Thiên Chúa rực rỡ như than hồng đốt tất cả mọi bợn nhơ bám vào miệng lưỡi ngôn sứ Isaia, để ông rao giảng Tin Mừng về Đấng Cứu thế. Chính lửa trời này đã xuống thiêu đốt của lễ của Êlia, làm cho dân nhận biết chỉ có Thiên Chúa của Êlia là Thiên Chúa thật để họ bỏ tà thần Baal, trở về thờ phượng Thiên Chúa. Lửa đó đã hóa ra chiếc xe hỏa chở Êlia lên trời.
Lửa bởi trời đó nay được chính Đức Giêsu đích thân ném xuống thế gian cho đến ngày tận thế, cho đến ngày hoàn tất công cuộc cứu độ muôn dân. Chính lửa đó làm cho muôn dân được sáng lên trong ánh sáng phục sinh.
Chính lửa ấy Đức Giêsu và Thần linh của Người đã đốt lên trong lòng các thánh tông đồ trở nên những lực sĩ vô địch chạy đua bao quanh khắp thế giới để cho lửa tình yêu của Thiên Chúa bùng lên khắp mặt đất.
Bây giờ đến lượt chúng ta, chúng ta đã được chịu phép rửa trong máu Trái tim Chúa, đã được đốt lên trong lửa Chúa Thánh Thần thêm sức, chúng ta phải cháy lên, nóng lên, phải cố gắng hằng ngày đi nung nấu mình trong ánh sáng của Phúc âm, rèn luyện mình trong lò lửa cầu nguyện, để trở thành đuốc thiêng soi sáng vận động trường thế giới sáng lên, nếu không, ta sẽ bị vứt bỏ ra ngoài như đồ bị mửa ra vì “nóng không nóng hẳn, dở dở hâm hâm sẽ bị mửa ra”.
Tất cả các môn đệ chân chính của Đức Kitô, đều phải trở nên chứng nhân như cột lửa sáng dẫn lối chỉ đàng cho muôn dân thoát cảnh tăm tối. Tất cả mọi Kitô hữu đích danh phải kiên cường như những lực sĩ, phải chạy đua tận lực, phải siết ga để đoạt cúp, phải kiên trì tập luyện trừ khử mọi trở lực tính mê tội lỗi. Phải “mắt hướng về Đức Giêsu là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin. Chính Người đã khước từ niềm vui dành cho mình, mà cam chịu khổ hình thập giá, chẳng nề chịu ô nhục, và nay đang ngự bên hữu ngai Thiên Chúa” (Bài II). Vậy tất cả anh em là đèn sáng thế gian, đặt trên giá đèn, sưởi ấm cho gia đình, đốt nóng xóm làng, soi sáng khắp phố phường cho mọi người nhận biết Chúa, nhận được lửa tình yêu cứu độ.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết thao thức, khắc khoải đón nhận lửa tình yêu của Đức Kitô để trở nên những lực sĩ, những vận động viên chạy đi khắp nơi thắp sáng các gia đình trong xứ đạo, trong làng nước và cả thế giới này.
4. Lửa
Thầy đem lửa xuống trần gian.
Sách có chữ: Đạo bất viễn nhân. Đạo không bao giờ xa người, vì thế ngày nào có người thì ngày ấy phải có đạo, bằng không thì người chẳng còn là người nữa. Tuy nhiên theo thời gian, đạo chia làm hai giai đoạn, đó là đạo cũ và đạo mới. Đạo cũ cũng gọi là đạo lề luật có từ khởi thuỷ cho đến Chúa Giêsu sinh ra. Còn đạo mới được gọi là đạo tình thương xuất hiện kể từ Chúa Giêsu cho đến ngày tận thế. Đạo cũ dựa trên lề luật cho nên nó nặng nề. Các ngươi đã nghe người xưa dạy rằng: Mắt đền mắt, răng thế răng. Đồng thời nó cũng thẳng thắn và phân minh: Tội phạm ở đâu thì hình phạt ở đó. Đời ông Noe vì phạm tội cho nên loài người đã bị trừng phạt bằng trận đại hồng thuỷ. Đời ông Abraham vì tội lỗi mà hai thành Sôđôma và Gômôra đã bị thiêu huỷ. Đời ông Maisen, vì tội thờ bò vàng ma dân Do Thái đã nhiều phen bị khốn đốn.
Thế nhưng, khi Chúa Giêsu giáng trần, Ngài ban hành đạo mới tức là đạo tình thương. Đạo tình thương không giẫm chân lên đạo lề luật, nhưng bổ túc và tăng cường làm cho đạo lề luật trở nên hoàn hảo hơn. Đạo lề luật đặt nền móng trên hình phạt trong khi đạo tình thương xây dựng trên sự tha thứ: Hãy yêu thương kẻ thù, hãy tha thứ cho nhau mãi mãi. Chính vì thế Chúa Giêsu có lý khi quả quyết: Gánh Ta thì nhẹ nhàng và ách Ta thì êm ái.
Sáng lập ra đạo tình thương mà thôi chưa đủ, Chúa Giêsu còn biểu lộ tình thương ấy cho mọi người nhận biết. Để đạt mục đích ấy, Chúa Giêsu đã dùng việc làm và lời nói như sách Tông đồ Công vụ đã bảo: Chúa Giêsu làm trước và nói sau. Vậy thì Ngài đã làm gì? Tôi xin thưa: Ngài đã xuống thế để ở cùng chúng ta để yêu thương chúng ta và để chết vì chúng ta như lời Ngài đã phán: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu. Suốt cuộc đời đã không ngừng yêu thương từ người lành như các môn đệ đến những kẻ tội lỗi như bọn thu thuế và đĩ điếm, từ người đau yếu đến kẻ đã chết, từ người quê mùa đến kẻ thông biết, Ngài đã thực hiện đúng như thánh Phaolô đã diễn tả: Ta đã trở nên tôi tớ mọi người để sinh ích cho mọi người. Đức Kitô nhận Ngài là Thiên Chúa, đã hạ mình xuống trở thành con người để nhờ đó con người trở thành Thiên Chúa. Ngoài việc làm, Chúa còn dùng lời nói, vậy Chúa đã nói những gì? Ngài bảo kẻ không yêu thì ở trong sự chết. Ngài còn nói gì nữa? Ngài bảo kẻ nào yêu Ta thì Cha Ta sẽ yêu lại nó và chúng ta sẽ đến cư ngụ tại nhà nó. Rồi Ngài lại còn nói gì nữa? Ngài bảo những kẻ đã được Cha Ta trao phó cho Ta thì Ta không để một ai bị hư mất. Ngài chính là người cha mòn mỏi trông chờ đứa con hoang đàng trở về. Vậy chúng ta phải làm gì? Thánh Augustinô trả lời: Tình yêu kêu gọi tình yêu. Chúa đã yêu thương chúng ta cho nên chúng ta cũng phải lấy tình thương mà đáp trả. Yêu Chúa là đi một đường với Chúa: Kẻ không đi với Ta là kẻ phản bội Ta. Mà con đường của Chúa gồm trong hai điểm: mến Chúa và yêu người: Hãy kính mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương anh em như chính mình. Chúa Giêsu đã đem lửa xuống trần gian và mong cho lửa ấy bừng cháy. Vậy trước hết xin cho lửa ấy bừng cháy trong con tim trong cõi lòng của chúng ta, để nhờ đó sẽ bừng cháy trong xã hội chúng ta đang sống.
5. Gây chia rẽ
Đức Kitô đến để ban bình an hay để chia rẽ? Cứ nhìn vào cục diện của Giáo Hội, vào bộ mặt của thế giới ngày nay, thì khách quan mà nói: Đức Kitô đúng là đã gây chia rẽ. Ngài chia rẽ những kẻ tin và không tin. Rồi ngay giữa những kẻ tin thì cũng còn có chuyện Công giáo, Chính Thống, Tin Lành và Anh giáo. Rồi giữa người công giáo với nhau, hiện nay cũng có phe nọ phe kia, và phe nào thì cũng lấy Chúa ra để biện minh cho lập trường của mình. Người ta đã chẳng chia rẽ nhau vì Chúa đó ư? Quả thật đúng như lời ông già Simêon đã nói: Trẻ nhỏ này sẽ nên cớ cho nhiều người vấp ngã.
Thực ra vấn đề không phải là Đức Kitô đã gây chia rẽ bằng cách xúi giục người ta ghen ghét hận thù nhau, hay là khích bên này chống lại bên kia. Chúa đến thực sự để đem lại sự bình an, để xây dựng một thế giới có công lý và tình thương, nền tảng của hoà bình. Nhưng hoà bình đó, đúng như Ngài đã nói, không phải là loại hoà bình kiểu thế gian, nghĩa là hòa bình của một sự thỏa hiệp vì hèn nhát hay vì áp lực. Bình an của Ngài là bình an nhờ giá máu thập giá, nghĩa là bình an được xây dựng trên công lý, một công lý mà người ta phải đấu tranh, phải hy sinh, phải liều mạng mới có thể đạt được.
Hoà bình phải là thành quả của công lý, nhưng có được công lý, hay nói đúng hơn thực hiện được công lý, không phải là chuyện dễ. Người ta có thể dễ dàng kết bầu kết bạn với nhau để ăn nhậu, để chơi bời, nhưng tìm người hợp tác làm ăn thì không phải bao giờ cũng dễ. Ăn cho đều, kêu cho sòng, là nguyên tắc không phải bao giờ cũng thực hiện được, bởi vì khi làm thì ai cũng muốn phần ít, nhưng khi hưởng lợi thì lại muốn phần nhiều. Như thế, ngồi nhà mát, mà được ăn bát vàng, phải chăng đã là cái thói thường của người đời.
Thế nhưng Chúa Giêsu đã lên án thứ công lý ăn gian ấy, Ngài đấu tranh cho người nghèo, đem công lý đến cho những kẻ tội lỗi, bởi vì họ mới chính là những người đáng thương. Công lý của Chúa là bớt chỗ dư, bù chỗ thiếu. Là hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao những kẻ khiêm nhu, là kẻ khó nghèo Chúa ban của đầy dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng. Chính vì lý do ấy mà Ngài đã gây chia rẽ bất đồng. Nói khác đi, những ai theo đúng đường lối của Chúa, thì sẽ không thể nào đứng chung hàng ngũ với những người chà đạp và bóc lột những kẻ nghèo túng và thấp cổ bé miệng.
Vì thế, những ai đứng về phe Chúa thì cũng phải đứng về phía những người nghèo hèn khốn khổ. Chính Ngài đã đến với họ, sống với họ, chết như họ và cho họ. Tuy nhiên liệu chúng ta có can đảm đứng về phía Ngài và cùng bước đi với Ngài hay không.
6. Lửa
Ta đem lửa xuống trần gian và chỉ mong cho lửa ấy bừng cháy lên.
Nhìn vào một ngọn lửa, chúng ta ghi nhận được những gì? Có thể là chúng ta đã ghi nhận được nhiều thứ lắm, nhưng tôi chỉ xin giữ lại nơi đây hai điểm đó là ánh sáng và sức nóng.
Ánh sáng được dùng để làm gì, nếu không phải là soi chiếu mà phá tan tăm tối. Sức nóng được dùng để làm gì, nếu không phải là để sưởi ấm những người lạnh giá và đốt cháy những gì nhơ nhớp.
Chúa Giêsu đem lửa xuống trần gian và lửa ấy chính là bản thân Ngài và Phúc Âm của Ngài. Ngài đã rao giảng Tin Mừng để soi chiếu cho những người còn ngồi trong bóng tối sự chết, để sưởi ấm cho những tâm hồn giá băng cũng như để thiêu huỷ mọi tội lỗi của nhân loại.
Tuy nhiên Ngài cũng đã mời gọi mỗi người chúng ta hãy tiếp tay với Ngài để cho sứ mạng của Ngài được chóng hoàn tất. Chính vì thế mỗi người chúng ta cũng phải là một ngọn lửa truyền nóng và chiếu sáng cho những người chung quanh bằng một đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương.
Thực vậy, đời sống của chúng ta phải nóng bằng cách có sự thánh thiện, có ơn Chúa ở trong mình, đồng thời đời sống chúng ta cũng phải sáng bằng những gương mẫu gây ảnh hưởng tốt cho người chung quanh. Chúng ta đừng bao giờ để cho ngọn lửa ấy phụt tắt trong tâm hồn và trong cuộc đời. Đó là điều Chúa Giêsu luôn mong mỏi nơi mỗi người. Chúng ta có thể gọi thánh Phaolô, thánh Phanxicô là những tâm hồn lửa. Tại sao thế? Vì các ngài đã thực sự có Chúa trong tâm hồn và hăng say đem Chúa đến cho những người chung quanh.
Để kết luận, tôi xin kể lại câu chuyện của một tâm hồn đầy lửa, đó là Ozanam, vị sáng lập hội Bác ái Vinh Sơn, mới 17 tuổi mà đã trở thành một tông đồ nhiệt thành bênh vực cho Chúa.
Vào năm 1843, thành phố Paris bị xáo trộn bởi những cuộc cách mạng. Đạo Công giáo bị đe doạ, các cơ sở bị cướp phá. Năm ấy Ozanam đang học luật. Dầu còn thanh niên, cậu đã dùng ngòi bút và việc làm để phản công. Cậu siêng năng đọc Phúc Âm và rước lễ. Cậu được thụ huấn với một giáo sư nổi tiếng đó là Ampère về mặt học thức cũng như về mặt đạo đức. Cậu mạnh mẽ bênh vực Giáo Hội. Cùng với Ozanam, các sinh viên trước kia rụt rè lo sợ bao nhiêu thì nay lại nhiệt thành và hăng say bấy nhiêu. Các giáo sư cũng phải kiêng nể. Cậu tổ chức những buổi diễn thuyết, những cuộc nói chuyện làm sống lại một bầu khí đạo đức. Về phía dân chúng, cậu đã cùng 6 anh em khác lập hội Bác ái Vinh sơn để giúp đỡ những người nghèo túng. Năm 18 tuổi, cậu đã thề hứa: Nhất quyết hy sinh đến hiến mạng sống mình vì dân nghèo. Ozanam đã trở nên một ngọn lửa của Đức Kitô. Giáo Hội hôm nay cũng cần nhiều tâm hồn tông đồ hăng say như Ozanam.
Hãy trở nên một ngọn lửa sưởi ấm bằng đời sống thánh thiện và đạo đức. Hãy trở nên một ngọn lửa chiếu sáng bằng những hành động bác ái và yêu thương.
7. ÁNH SÁNG VÀ BÓNG TỐI
Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Một đạo sĩ Ấn Độ hỏi các đệ tử: “Này các con, các con có biết khi nào đêm tàn và ngày xuất hiện không?”. Các môn đệ thi nhau trả lời. Có người hỏi: “Thưa Thầy, có phải đêm tàn và ngày xuất hiện là khi mà nhìn một đoàn vật từ xa người ta có thể phân biệt được con nào là con bò, con nào là con trâu không?”. Thầy lắc đầu: “Không phải”. Một đệ tử khác lại hỏi: “Thưa Thầy, có phải đêm tàn và ngày xuất hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui, là khi từ xa nhìn vào vườn cây người ta có thể phân biệt cây nào là cây xoài, cây nào là cây mít không?”. Thầy vẫn lắc đầu. Không đệ tử nào trả lời được câu hỏi. Lúc đó, đạo sĩ mới từ từ nói: “Đêm tàn và ngày xuất hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui là khi nhìn vào mặt nhau, người ta nhận ra nhau là anh em”.
Thật kỳ lạ. Chúng ta đã biết nhiều loại ánh sáng như ánh sáng mặt trời, mặt trăng, ánh sáng đèn điện, đèn pin, ánh sáng đèn dầu, đèn cầy. Cả những ánh sáng tinh vi như tia hồng ngoại, tia X. Tất cả chỉ soi sáng cho thấy sự vật như nó là. Không có ánh sáng nào soi vào mặt một người xa lạ có thể biến người đó thành anh em mình cả. Thứ ánh sáng ấy ở đâu?
Mẹ Têrêsa có thể trả lời câu hỏi này. Một hôm, Mẹ ghé thăm một người đàn ông tội nghiệp. Ông sống trong một túp lều tồi tàn, lụp xụp. Bên trong lều là cả một bãi rác mênh mông. Mùng mền, chăn chiếu, quần áo hỗn độn, rách nát và hôi hám. Nhà cửa, đồ đạc phủ một lớp bụi dày. Thế mà ông lão tự giam mình trong đống rác ấy. Ông ghét bỏ mọi người nên không lui tới với ai. Ông sống cô độc. Mẹ Têrêsa và các chị vào chào ông. Ông làm thinh không đáp. Thấy căn lều hỗn độn, bụi bặm, các chị xin phép ông dọn dẹp, ông không trả lời. Mặc kệ! Các chị cứ bắt tay vào dọn dẹp, xếp đặt, lau chùi. Thấy trong góc lều có một cây đèn, mẹ Têrêxa lấy ra lau chùi. Chùi sạch lớp bụi, mẹ kêu lên: “Ồ, cây đèn đẹp quá!”. Ông lão bỗng lên tiếng: “Đó là cây đèn tôi tặng vợ tôi nhân dịp đám cưới”. – Ông không thắp đèn lên sao?”. – Không, từ khi vợ tôi qua đời, tôi không bao giờ thắp đèn”. – Thế ông có muốn chúng tôi tới thăm ông mỗi ngày và thắp đèn cho ông không?”. Thấy các nữ tu tử tế, ông đồng ý. Từ đó, mỗi chiều các chị đều ghé thăm, truyện trò và thắp đèn cho ông. Dần dà, ông trở nên vui vẻ yêu đời. Ông nói chuyện cởi mở với các nữ tu. Ông đi lại thăm viếng hàng xóm. Mọi người đến với ông. Căn lều hiu quạnh trở lại ấm áp. Trước kia, căn lều tăm tối không phải vì ông không thắp đèn, nhưng vì ngọn lửa trong trái tim ông lịm tắt. Nay căn lều sáng lên niềm vui không phải vì ánh sáng ngọn đèn dầu, nhưng vì ánh sáng trong trái tim ông bừng lên. Trước kia ông thù oán, xa lánh mọi người vì ánh lửa trong trái tim tàn lụi. Nay nhờ các nữ tu nhen nhúm, ngọn lửa trong trái tim ông bừng lên và ông cảm thấy tha thiết yêu mến mọi người và mọi người cũng tha thiết yêu mến ông.
Thứ ánh sáng kỳ diệu ấy phát xuất từ trái tim. Ánh sáng ấy ta thấy thấp thoáng khắp các trang sách Tin Mừng. Khi người xứ Samari nhân hậu cúi xuống băng bó vết thương cho người bị nạn, ánh sáng bừng lên. Hai người xa lạ nhìn vào mặt nhau và nhận ra nhau là anh em.
Chúa Giêsu mang ánh sáng này xuống trần gian. Và Người ước mong cho ngọn lửa yêu thương cháy bừng lên soi sáng cho thế giới: “Thầy đã đến ném lửa vào trái đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!”. Lời ước mong thật tha thiết nhưng có pha lẫn ngậm ngùi. Phải chi lửa ấy đã bùng lên có nghĩa là lửa ấy chưa bùng lên cao, chưa lan ra xa.
Thật vậy, nhìn vào tình hình thế giới, chiến tranh không lúc nào ngơi. Thế kỷ 20 đã biết đến hai cuộc thế chiến với biết bao thiệt hại về người về của và nhất là về tình đoàn kết. Trong thập niên 80, chiến tranh lạnh giữa hai khối Đông-Tây chấm dứt, người ta tưởng rằng giấc mơ hoà bình thế là đã thành sự thật. Nhưng không, chiến tranh vẫn tiếp diễn ở Rwanda, Kosovo, ở Trung Đông… ánh sáng vẫn chưa soi tới những vùng chiến tranh. Bóng tối hận thù vẫn còn vây phủ. Những người anh em vẫn còn chém giết nhau.
Nhìn vào bản thân mình, ta thấy trong ta cũng còn nhiều vùng mà ánh sáng Tin Mừng chưa soi rọi tới. Trong lòng ta vẫn còn những ngõ ngách chứa đầy bóng tối ghen ghét, hận thù. Nên ta nhìn ra chung quanh mà ít gặp được anh em mình.
Lời Chúa hôm nay tha thiết kêu gọi ta. Hãy khơi cho ngọn lửa yêu thương bừng sáng lên. Hãy đẩy lùi bóng tối chiến tranh, chia rẽ, hận thù. Hãy mở rộng tâm hồn đón nhận và ban phát yêu thương, xoá đi những nhỏ nhen, ích kỷ. Để mọi người nhìn nhau là anh em thực sự. Bấy giờ đêm mới tàn và ngày mới bắt đầu. Bóng tối nhường chỗ cho ánh sáng, ánh sáng rực rỡ phát xuất từ những trái tim chan hòa yêu thương.
Lạy Chúa, xin hãy nhóm lên trong trái tim con ngọn lửa yêu thương của Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Bạn đang sống trong ánh sáng hay bóng tối?
2) Bạn có muốn góp phần đem ánh sáng của Chúa đi gieo rắc khắp nơi không?
3) Bạn bắt đầu chiếu sáng bằng cách nào?
8. “Phải chi lửa ấy đã bùng lên!”
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Báo Tuổi Trẻ trong bài “Một cái chết bắt đầu cho sự sống” đã viết về anh Nguyễn Đức Minh như sau:
“…Vật vã với cơn đau ngày càng tăng, từ đầu năm anh tìm đến khoa giải phẫu của Trường Đại Học Y Dược rồi về nhà lập tờ di chúc, trong đó chỉ có 3 điều ước mong: hiến xác, đề nghị gia đình không làm đám tang lớn để lấy tiền giúp người khốn khó và dành những vật dụng riêng gồm máy đánh chữ, cassette, ampli, dụng cụ học tập của Câu lạc bộ Bừng Sáng. Chị hai của Đức Minh cho biết: “Em tôi lo gia đình không thực hiện lời hứa nên đã bắt cha mẹ ký xác nhận cho xác em mới chịu lên bàn mổ. Trước khi mổ, em còn dặn bác sĩ viện trưởng có gì thì đưa xác em đi ngay để gia đình khỏi đổi ý…”
Mong ước của anh Minh giúp chúng ta phần nào nhận ra được những khao khát của Chúa Giêsu trước khi bước vào cuộc Thương Khó: “Thầy ước mong phải chi lửa ấy cháy bùng lên!” Chính Đức Giêsu đã khẳng định sứ mạng của Ngài: Ngài đến để ném lửa trên mặt đất, và Ngài ước mong phải chi Lửa ấy đã bùng lên. Ngọn lửa Đức Giêsu muốn nhóm lên không phải là ngọn lửa của án phạt và huỷ diệt, không phải là thứ lửa từ trời mà Gioan và Giacôbê định xin đổ xuống trên một làng của xứ Samari. Đây là ngọn lửa vẫn bừng cháy trong tim Ngài, lửa Thánh Thần, lửa của yêu thương, lửa hâm nóng hai môn đệ trên đường Emmau đang tuyệt vọng.
Ngọn lửa ấy, có lẽ rất cần chạm đến cuộc đời chúng ta. Vì cuộc đời quanh ta vẫn còn đó những bóng tối của đọa đầy, của bất công. Vì cuộc đời quanh ta vẫn còn đó những người đang thất vọng chán chường. Phải chi ngọn lửa của Đức Kitô luôn được thắp sáng nhờ những người môn đệ của Chúa. Những con người luôn làm cho ngọn lửa ấy mãi bừng cháy lên trong thế giới quanh ta.
Vâng, sự trăn trở và ước mong cho ngọn lửa ấy bừng lên dường như vẫn đang là lời mời gọi thiết tha mà Chúa muốn nơi chúng ta: “Phải chi lửa ấy đã bừng lên!” Chúa vẫn mời gọi chúng ta thực hiện niềm ước mong mà Chúa đã suốt đời ôm ấp, đó là làm cho thế giới trở nên ấm áp hơn, cho con người biết sống cho nhau và vì nhau. Cho con người biết lấy lưỡi gươm mà rèn nên lưỡi cày. Cho công lý ngự trị và hoa bác ái nở rộ tràn lan trên mặt đất.
Nhưng, để có thể gieo rắc ngọn lửa và ánh sáng, là phải chấp nhận bị khước từ và đe doạ. Chính Chúa khi còn tại thế đã linh cảm những gì xảy ra cho đời mình. Chúa sẽ phải chịu một phép rửa kinh khủng, sẽ phải dìm mình thật sâu trong nỗi khổ đau của cô đơn phản bội.
Hôm nay, Chúa lại mời gọi chúng ta ném lửa trên mặt đất và chấp nhận đối đầu với sức mạnh của bóng tối:
Bóng tối của bất công, sa đọa và tuyệt vọng.
Bóng tối của hận thù, cục bộ và chia rẽ.
Bóng tối của nghèo nàn và lạc hậu.
Bóng tối ở ngay trong lòng mình.
Đôi khi bóng tối quá dày đặc mà ngọn lửa của chúng ta lại quá yếu ớt, khiến chúng ta cảm thấy sợ hãi. Nhưng sau đêm dài là ánh bình minh. Sau gian khó hy sinh là những ngày gặt hái tươi vui. Như Chúa khi bị treo trên thập tự giá. Khi bị giam trong mồ. Bóng tối tưởng như đã nuốt chửng được Chúa, nhưng ngọn lửa Phục sinh đã bừng lên giữa đêm đen.
Xin Chúa giúp chúng ta luôn can đảm thắp sáng ngọn lửa yêu thương giữa đêm đen của ích kỷ hận thù hôm nay. Xin cho ánh lửa tình yêu của chúng ta mãi lan tỏa đến tận cùng trái đất. Amen.
9. Giữ lửa yêu thương
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một bài hát thật phũ phàng về tình yêu mà sao vẫn được nhiều người hát: “tình yêu đến em không mong đợi gì, tình yêu đi em không hề nuối tiếc”. Phải chăng con người ngày nay hay thay đổi và muốn thay đổi? Phải chăng con người ngày nay không còn khả năng giữ ngọn lửa tình yêu để rồi nó vội cháy, vội tàn? Và có thật với lòng mình tình yêu đến và đi không hề nuối tiếc?
Thực ra tình yêu khởi phát từ con tim, tình yêu sẽ xoáy vào tim qua thời gian thì làm sao khi mất nó lại không làm ta đau lòng? Yêu và mất chắc chắn sẽ là nỗi quặn đau trong trái tim con người. Điều quan trọng là hãy biết giữ lửa yêu thương. Hãy biết chăm chút cho tình yêu từng ngày qua từng nghĩa tử quan tâm, chăm sóc vỗ về lẫn nhau. Nhưng đáng tiếc, người ta thích nhóm lửa tình yêu mà lại không đủ kiên nhẫn để gìn giữ nên dễ tàn lụi theo thời gian.
Người ta nói rằng, nhìn một đôi trả tiền trong quán ăn, có thể biết quan hệ của họ. Nếu người đàn ông trả tiền, thì họ là tình nhân. Còn ngược lại, khi đàn bà trả tiền – đó là vợ chồng. Khi còn yêu nhau, họ quấn quýt hết giờ hết buổi, mà vẫn thấy thời gian trôi nhanh như chớp mắt. Cưới nhau, thời gian là vô tận, nhưng có những ngày chẳng ai nói với nhau câu nào, thậm chí cả câu chào cũng không!
Nguyên nhân chình là ngọn lửa tình thiếu chăm sóc nên cũng nguội dần theo thời gian. Ngọn lửa ấy phải được thắp sáng mãi mới có thể mang lại mái ấm gia đình ngập tràn hạnh phúc hân hoan. Nếu tình yêu không được hun nóng từng ngày thì gia đình sẽ lạnh vắng cô đơn.
Chúa Giêsu khi vào trần gian Ngài cũng ném ngọn lửa yêu thương vào cuộc đời. Ngọn lửa ấy Ngài đã thắp lên trên cây thập tự là biểu tượng cho mọi tình yêu bất diệt trên thế gian. Ngọn lửa Đức Giêsu muốn nhóm lên không phải là ngọn lửa của án phạt và hủy diệt, không phải là thứ lửa từ trời mà Gioan và Giacôbê định xin đổ xuống trên một làng của xứ Samari. Đây là ngọn lửa vẫn bừng cháy trong tim Ngài, lửa Thánh Thần, lửa của yêu thương, lửa hâm nóng hai môn đệ trên đường Emmau đang tuyệt vọng. Lửa dẫn lối cho những ai đang lạc lối và hun nóng cho những mảnh đời lạnh giá của cô đơn, thất vọng.
Ngọn lửa yêu thương của Chúa ném vào thế gian vẫn mong được bừng cháy trong thế giới hôm nay. Lửa yêu thương cần phải luôn thắp sáng trong mỗi gia đình. Ngọn lửa ấy cần được lan tỏa trong mọi môi trường của cuộc sống. Vì nếu con người cần cơm bánh để sống còn, thì họ cũng cần tình thương để tồn tại. Nếu con người cần áo quần để che thân, thì họ cũng cần tình thương để sưởi ấm. Nếu lòng hai môn đệ Em mau đã bừng cháy lên khi nghe Lời Chúa, thì nhân loại hôm nay cũng cần nghe lời yêu thương cảm thông để thoát khỏi những u sầu, tuyệt vọng trong cuộc sống.
Thế nên, người Kitô hữu cần phải giữ ngọn lửa yêu thương trong trái tim mình. Đừng để sự ích kỷ, dối gian dập tắt ngọn lửa yêu thương trong tim mình. Hãy thắp sáng ngọn lửa yêu thương trong lòng mình. Đừng dập tắt ngọn lửa ấy bằng đam mê lười biếng, bằng ích kỷ tham lam. Đừng dập tắt hy vọng, niềm tin nơi tha nhân khi chúng ta đối xử thiếu tình yêu.
Ước mong nơi các gia đình hãy theo lời Chúa mà giữ mãi ngọn lửa yêu thương. Ước mong các gia đình hãy để cho ngọn lửa tình yêu Chúa chiếm hữu để nhờ đó gìn giữ gia đình luôn rộn ràng niềm vui và hân hoan. Amen.
10. Hoàng tử bình an đến mang sự chia rẽ
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ trong Tin Mừng hôm nay xem ra thật nghịch lý: “Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ. Vì từ nay năm người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba người chống lại hai, và hai người chống lại ba: cha chống đối con trai, và con trai chống đối cha; mẹ chống đối con gái, con gái chống đối mẹ; mẹ chồng chống đối nàng dâu, nàng dâu chống đối mẹ chồng” (Lc 12,51-53).
Vậy chúng ta nghĩ sao đây khi Đức Giêsu được Isaia loan báo là Thái Tử Hòa Bình, và ngày sinh nhật của Người được các thiên thiên chào đón với những lời ca tiếng hát: “Bình an dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 2,14). Khi đi rao giảng, Người đã từng công bố: “Phúc cho những ai xây dựng hoà bình” (Mt 5,9). Chính Đức Giêsu, khi bị bắt, đã truyền cho Phêrô “Hãy xỏ gươm vào bao!” (Mt 26,52). Nay lại tuyên bố: “Thầy đến để đem sự chia rẽ” (Lc 12,51). Chúng ta lý giải sao cho sự mâu thuẫn này?
Trước hết, chúng ta cần phải phân biệt xem đâu là sự bình an và hiệp nhất mà Đức Giêsu mang đến, và đâu là sự bình an và sự hiệp nhất Người muốn tẩy chay. Người đến ban bình an và hiệp nhất cho người lành, bình an dẫn tới sự sống đời đời, và Người tẩy chay sự bình an và hiệp nhất giả tạo, chỉ ru ngủ lương tâm và dẫn tới sự đồi bại.
Không phải Đức Giêsu có ý đến để đem sự chia rẽ và chiến tranh, nhưng điều Người mang đến, không thể tránh được sự chia rẽ và sự chống đối bởi vì Người đặt dân chúng trước một sự lựa chọn. Và khi đối mặt với sự cần thiết phải lựa chọn, chúng ta biết rằng sự tự do con người sẽ phản ứng nhiều cách khác nhau. Lời và con người Đức Giêsu sẽ phát hiện những điều gì giấu kín nhất trong chốn sâu thẳm lòng người. Cụ già Simeon đã tiên báo điều này, khi bồng Hài Nhi Giêsu trên tay mình và nói: “Đây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà, để tâm tư của nhiều tâm hồn được biểu lộ” (Lc 2,35).
Phải chăng “lưỡi gươm” mà Đức Giêsu đã mang xuống trái đất, chính Người là nạn nhân đầu tiên cho sự chống đối này? Đúng thế, Chính Đức Giêsu sẽ là nạn nhân thứ nhất, Người sẽ thí mạng sống Người vì nó. Tiếp theo, người trực tiếp hơn hết dính líu trong thảm cảnh này là Đức Maria Mẹ Người, như cụ già Simeon đã nói về Mẹ: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà” (Lc 2,35).
Chính Đức Giêsu cũng đã phân biệt hai kiểu bình an khi nói với các môn đệ mình rằng: “Thầy để lại bình an cho các con; Thầy ban bình an của Thầy cho các con; Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng. Lòng các các con đừng xao xuyến” (Ga 14,27). Sau khi phá hủy sự bình an và tình liên đới giả tạo của loài người trong sự dữ và sự tội nhờ sự chết của Người, Đức Giêsu đã hoàn tất sự bình an và hiệp nhất mới là hoa quả của Chúa Thánh Thần. Đó là sự bình an Người cống hiến cho các môn đệ trong đêm Phục Sinh, khí nói “Bình an cho anh em!”
Đức Giêsu nói rằng sự “chia rẽ’ này cũng có thể xảy ra trong gia đình: giữa cha và con trai, mẹ và con gái, anh em và chị em, nàng dâu và mẹ chồng. Và vô phúc thay, chúng ta biết điều này thỉnh thoảng gây đau đớn thật sự. Người nào đã gặp được Chúa và muốn nghiêm chỉnh theo Chúa, thường thấy mình ở trong tình huống khó khăn phải lựa chọn: Hoặc làm cho những người tại nhà được hạnh phúc và lơ là Thiên Chúa và việc thực hành đạo đức, hoặc là theo những cái sau và đặt mình xung đột với những người của mình, những kẻ mang lại rắc rối cho mình vì mọi sự nhỏ mọn mình làm cho Thiên Chúa và vì lòng sốt sắng.
Nhưng sự chống đối thâm nhập còn sâu hơn, trong chính con người, và trở thành một trận chiến giữa xác thịt và tinh thần, giữa tiếng mời gọi đi tới ích kỷ và sự hưởng thụ quá đáng, và tiếng gọi lương tâm. Sự chia rẽ và xung đột bắt đầu bên trong chúng ta. Thánh Phaolô đã minh họa điều này cách rất kỳ lạ: “Vì tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt; đôi bên kình địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn” (Ga l5,17).
Thánh Công Đồng Vaticanô II dạy: ” Bản chất của hòa bình không hẳn là vắng bóng chiến tranh, cũng không chỉ được giản lược vào sự quân bình hóa giữa các lực lượng đối phương, cũng không phát xuất do một nền cai trị độc tài, nhưng theo đúng định nghĩa thì hòa bình là “công trình của công bằng” (Is 32,7). Hòa bình là kết quả của một trật tự đã được chính Thiên Chúa, Ðấng Sáng Lập, ghi khắc vào xã hội loài người và phải nhờ những người luôn luôn khao khát một nền công bằng hoàn hảo hơn thể hiện ra trong hành động… Do đó, hòa bình không bao giờ đạt được một lần là xong, nhưng phải xây dựng mãi mãi. Vì ý chí của con người yếu đuối và bị tội lỗi làm tổn thương, do đó muốn có hòa bình mỗi người phải luôn luôn kiềm chế dục vọng của mình và chính quyền phải canh phòng cẩn thận.
Phát sinh từ tình yêu tha nhân, hòa bình trần gian là hình ảnh và là kết quả của hòa bình Chúa Kitô, hòa bình do Ðức Chúa Cha mà đến. Vì chính Chúa Con Nhập Thể là thái tử hòa bình đã dùng thập giá Người để hòa giải mọi người với Thiên Chúa; Người đã tái lập sự hiệp nhất mọi người thành một dân tộc và một thân thể. Người đã hủy diệt hận thù trong chính xác thể Người, và sau khi đã khải hoàn phục sinh, Người đã đổ tràn Thánh Thần tình yêu đầy lòng con người.
Nhờ kết hiệp trong bác ái, con người thắng vượt tội lỗi và cũng thắng vượt bạo động cho tới khi lời sau đây được hoàn tất: “Họ sẽ rèn gươm thành lưỡi cày và giáo thành lưỡi liềm. Các dân tộc sẽ không rút gươm đâm chém nhau và sẽ không còn tập luyện để chiến đấu” (Is 2,4). (Trích Hiến chế “Gaudium et spes”, số 78).
Xin cho thế giới được hưởng nền hòa bình do Đức Kitô mang lại cho chúng ta. Nữ Vương Bình An cầu cho chúng con. Amen.
11. Lửa Tin Mừng Chúa Kitô
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Chúa Giêsu hôm nay nói với các môn đệ và chúng ta về sứ mạng của Ngài là: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy cháy bùng lên!”. Lửa ấy là gì? Theo các nhà chú giải Thánh kinh, lửa ấy chính là: Tin Mừng, là Chúa Kitô, là Chân lý và là Thần Khí. Chúa Giêsu muốn cho “lửa” đó được bùng lên, nghĩa là muốn cho mọi người trên khắp thế giới được nhận biết Chúa Kitô và Tin Mừng tình yêu cứu độ của Ngài đồng thời Tin Mừng của Chúa cháy lan ra khắp mọi người qua việc sống kết hiệp với Chúa và Tin Mừng của Ngài trong đời sống của chúng ta.
Khởi đầu sứ vụ, trong bài giảng trên núi, Chúa Giêsu đã tuyên bố rõ ràng về lửa được Ngài ném vào thế gian. Đó là lửa của những mối phúc và ai sống các mối phúc thì họ sẽ được Nước Thiên Chúa làm gia nghiệp (Mt 5,3-12). Qủa thế, trước khi Chúa ném lửa là Tin Mừng và chính thân mình Ngài vào trần gian, Chúa Giêsu đã làm cháy ngọn lửa ấy rõ ràng nơi toàn bộ cuộc sống của Ngài. Chẳng hạn, Ngài đã yêu thương, đồng hành, sẻ chia, nâng đỡ, an ủi, giúp đỡ, hy sinh, tha thứ đối với các tội nhân, với những người nghèo, những người bị đẩy ra bên lề, các bệnh nhân và những người đau khổ… Rồi, khi Chúa Giê-su thấy nhiều người đi theo Ngài đang bị mệt mỏi và kiệt sức, bị bỏ rơi và như đoàn chiên không có chủ chăn, Ngài đã chạnh lòng thương họ với nỗi cảm thông sâu xa trong con tim của Ngài và Ngài đã chăm sóc họ bằng cách hóa bánh và cá ra nhiều để cho họ ăn. Rồi khi Ngài gặp bà góa thành Na-im, người đang tiễn đứa con duy nhất của mình tới mộ, Ngài đã cảm thấy có một sự đồng cảm mạnh mẽ với sự đau đớn khôn cùng này của một người mẹ đang than khóc đứa con của mình, đến độ Ngài đã làm cho người con ấy được sống lại và trao người con này lại cho bà (xc. Lc 7,15). Tiếp nữa, Ngài đã trừ quỷ cho những người bị quỷ ám. Và cuối cùng, Chúa Giêsu đã chịu nạn, chịu chết, phục sinh để cứu độ mọi người sống thánh thiện và khỏi chết muôn đời.
Tin Mừng tình yêu cứu độ của Chúa được thể hiện trên cây thập giá, trong cuộc khổ nạn đau thương, đó chính là phép rửa mà Chúa Giêsu phải chịu, để ném lửa yêu thương vào trần gian để rồi Chúa Giêsu đã đẩy lui bóng tối tử thần tội lỗi bằng ánh sáng Phục sinh thánh thiện và sai các môn đệ đi loan báo ánh lửa phục sinh, lửa Tin Mừng cứu độ vào trần gian và làm cho Lửa ấy bừng cháy lên nơi chính mỗi người và mọi người nơi trần gian này. Cụ thể, trong ngày chúng ta chịu Phép Rửa Tội, sau khi đổ nước Rửa Tội, Linh mục trao chúng ta cây nến được thắp lên từ ngọn lửa của cây nến Phục sinh và nói: “Con đã trở nên ánh sáng Chúa Kitô. Con hãy luôn luôn sống như con cái sự sáng và bền vững trong đức tin, để khi Chúa đến, con xứng đáng ra nghinh đón Người với toàn thể các thánh trên trời”. Như vậy, sau khi Rửa tội, Chúa đã ném lửa vào cuộc đời và tâm hồn chúng ta, chúng ta phải giữ lửa Chúa Kitô phục sinh cháy mãi cho đến khi Chúa đến, đừng để nói tắt lịm kẻo lúc ấy chúng ta sống trong bóng tối tội lỗi thì khốn khổ biết bao. Cho nên, Lời Chúa trong Thư Do thái hôm nay nói rằng: “Chúng ta hãy cởi bỏ mọi gánh nặng và tội lỗi đang trói buộc mình, và hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta, mắt hướng về Đức Giê-su là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin”.
Vì thế, Chúa Giêsu hôm nay những ước mong Lửa của Giêsu bùng lên trên thế gian, có nghĩa rằng Ngài mời gọi chúng ta hãy xua tan bóng tối của bất công, hận thù, tội lỗi bằng lửa tình yêu, thánh thiện, bao dung và công bằng. Vâng, Chúa Thánh Thần tiếp nối sứ mạng của Đức Giêsu, trong ngày lễ Hiện Xuống, trong ngày chịu Phép Thêm Sức, Ngài ban lửa Thánh Thần làm các tông đồ xưa và chúng ta hôm nay can đảm đáp trả tiếng Chúa mời gọi, sẵn sàng sống chết Chúa Kitô và Lửa Tin Mừng cứu độ của Ngài.
Trong hành trình sống đức tin, chúng ta gặp không thiếu những gai góc và gian nan vất vả, những tội lỗi nhưng với ngọn lửa Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô đã ném vào đời người Kitô hữu, chúng ta hôm nay hãy mạnh dạn tiếp nối sứ mạng của Đức Giêsu, nỗ lực làm bừng cháy lên ngọn lửa ấy bằng đức tin, đức cậy và đức mến nồng nàn của ta đối với Chúa đồng thời sống thánh và thiện mỗi ngày để Lửa Tin Mừng Chúa Kitô bùng cháy lên nơi mỗi người, gia đình và giáo xứ chúng ta bằng các công việc từ bi bác ái, hy sinh đồng hành với các gia đình đang gặp khó khăn và thử thách.
Giờ đây tôi xin mời cộng đoàn cùng đứng lên hát bài Thánh Ca: Hãy thắp sáng lên như một lời cầu nguyện và xin quyết tâm với Chúa Giêsu rằng:
1. Này bạn hỡi hãy thắp sáng lên. Thắp sáng lên con tim nồng nàn. Này bạn hỡi hãy thắp sáng lên ngọn lửa yêu thương. Cuộc đời bao tăm tối quanh tôi. Ta cần đến ánh sáng chiếu soi. Này bạn hỡi xin chớ lãng quên. Ánh nến trái tim cho đời đẹp thêm.
ĐK: Hãy thắp lên đời ta. Hãy thắp cho trần gian. Thắp sáng lên tình yêu, sáng lên niềm tin, niềm tin GIÊSU. Hãy thắp lên đời ta. Hãy thắp cho trần gian. Đốt cháy tan niềm đau, xoá bóng đêm từ lâu vây kín quanh đời.
2. Này bạn hỡi hãy thắp sáng lên. Thắp sáng lên tươi vui đầy tràn. Này bạn hỡi hãy thắp sáng lên, ngọn lửa hân hoan. Đời hạnh phúc khi sống trao ban. Đem tình CHÚA toả sáng thế gian. Này bạn hỡi xin chớ hững hờ, xin chớ ơ hờ CHÚA đang đợi chờ.
12. Bình An, Niềm Vui, Ơn Cứu Độ – An Phong.
Tin mừng chúa nhật 20 thường niên C thuật lại những lời của Đức Giêsu nói với các môn đệ trong hoàn cảnh bị bách hại. Những lời này gợi lên một viễn cảnh bi thảm cho sứ vụ của Người trên trần gian: đó là cuộc Thương khó trong tương lai, những đấu tranh làm phân rẽ con người với nhau.
Khi vào trần gian, Đức Giêsu đã đưa lửa vào, và Người ước mong lửa đó bùng lên. Theo Kinh thánh, Lửa là biểu tượng hình phạt của Thiên Chúa, nhất là vào lúc tận cùng thời gian. Lửa còn là biểu tượng cho sự thanh tẩy và làm đổi mới. Chúa Giêsu sẽ thực hiện cuộc thanh tẩy tâm linh nhờ Chúa Thánh Thần.
Đức Giêsu cũng nói đến phép Rửa mà Người sẽ phải chịu. Đây là biểu tượng của việc dìm vào đau khổ – cuộc Thương khó. Người sẽ phải “cam chịu để cho những người tội lỗi chống đối mình” (Dt 12,4).
“Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban bình an cho trái đất sao?… Không phải thế đâu, nhưng đúng hơn là để gây chia rẽ”. “Sự chia rẽ là đối cực của sự bình an. Nhưng đây là sự chia rẽ vì Chúa, một sự chia rẽ đi vào quy luật của thập giá: Khi mất đi là khi tìm thấy, khi chết đi là khi được sống muôn đời. Hơn nữa, Đức Giêsu đã hứa: Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Bởi thế Đức Giêsu không đến trần gian để gieo sự bất hòa, nhưng là đem đến sự hiện diện của Thiên Chúa, đồng nghĩa với sự bình an. Sự bình an Đức Giêsu mang đến là sự bình an phải chiến đấu trong chân lý, phải được xây dựng trong khó nhọc, trước hết ở trong chính bản thân ta rồi lan tỏa chung quanh ta: đó là dám chấp nhận những mệt nhọc, đói khát, thua lỗ, nhường nhịn vì những điều lành, biết tách mình ra khỏi những đố kị và muôn vàn những cái vừa vụn vặt vừa tầm thường của cuộc sống. Lương thực của sự bình an luôn là một thách thức” (Văn Hòe).
Trong lịch sử nhân loại, Đức Giêsu Kitô quả thực là một nghịch lý. Người đã nên dấu chỉ cho người ta chống đối. Người đã đóng ấn chứng từ của mình bằng việc tự nguyện hy sinh bản thân trên thập giá. Cuộc sống và cái chết của Người đã trở thành dấu chỉ của tình yêu, hy vọng và sự sống.
Trong một thế giới thiếu vắng hơi ấm tình người, thiếu vắng một niềm hy vọng đích thực và tình yêu, Đức Giêsu đã mang đến lửa tình yêu của Người. Ngọn lửa đó sưởi ấm cõi lòng con người, thắp sáng niềm hy vọng. Đó là ngọn lửa Tình Yêu Cứu Độ, nơi đó tất cả chúng ta được thanh tẩy.
Người kitô hữu là người được “vầng đông từ chốn cao vời tỏa xuống hào quang sáng chói, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an” (Lc 1,78-79). Thiên Chúa chiếu soi chúng ta, để chúng ta được bình an. Khi cuộc sống có những lo âu, buồn chán, tuyệt vọng, chúng ta hãy tìm đến với ơn Chúa; “ơn Chúa sẽ lôi cuốn bạn, cho tới khi bạn tìm lại được nguồn vui” (thánh Bênađô). Người kitô hữu đích thực là người sống trong niềm vui, bình an và ơn cứu độ của Chúa. Người Kitô hữu đích thực thắp lên ngọn lửa tình yêu của Thánh Thần trong lòng mình và nơi người khác.
Phải chăng chúng ta đang sống trong bình an, niềm vui và ơn cứu độ của Thiên Chúa?
Phải chăng chúng ta đang thắp lên ngọn lửa tình yêu, hy vọng và cứu độ để sưởi ấm trần gian?
Lạy Chúa,
Xin đừng để chúng con thất vọng
khi đứng trước khổ đau thử thách.
Xin giúp chúng con nhận ra
giữa những tăm tối vẫn còn ánh sáng,
giữa những đau buồn chóng qua luôn có niềm vui đích thực,
và nhất là giữa những thăng trầm biến đổi
luôn có những hồng ân và sự hiện diện đầy yêu thương.
13. Suy niệm của André Sève
(Trích dẫn từ ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)
DỆT NÊN HÒA BÌNH BẰNG NHỮNG SỢI LEN CHIẾN TRANH
Chúng ta yêu hòa bình biết bao, bằng bất cứ giá nào! Cho đến độ vì thế mà trở thành những kẻ yếu hèn. Nhưng nếu chúng ta mơ ước có tâm lòng thanh thản, cuộc sống hòa bình, môi trường sống an lành (gia đình, cộng đoàn, công việc, làng xóm hay khu phố, cho đến đất nước và thậm chí thế giới), bài suy niệm hôm nay sẽ nói với chúng ta rằng chúng ta không tìm thấy những điều đó nơi Chúa Giêsu: “Ta không ban hòa bình cho các con như thế gian cho” (Ga 14,27)
– Thầy đến mang lửa xuống, nhưng trước hết Thầy phải chịu phép rửa bằng lửa. Các con đừng tưởng Thầy đến để thiết lập sự bình an trên trái đất, mà là đem sự chia rẽ.
Nếu lời này đụng chạm đến chúng ta và thậm chí làm chúng ta phẫn nộ, chúng ta phải tự kiểm tra: nỗi lo sợ chia rẽ của chúng ta có lành mạnh, cao cả, hoặc chỉ là một ước muốn an thân khá tầm thường? Mác đã nói: một dân tộc khốn khổ tạo ra, cùng với tôn giáo, một loại thuốc phiện. Có bao giờ chúng ta rút ra từ Tin Mừng đôi chút thuốc an thần nào chưa? Và đây là thuốc an thần hiệu quả nhất dưới mắt chúng ta: “Các ngươi hãy thương yêu nhau”, các ngươi hãy làm dịu tất cả các xung đột của các ngươi.
Dĩ nhiên, điều đó không xuôi chảy. Vì lý do là việc muốn yêu thương như Chúa Giêsu (chúng ta thường quên xác định) dẫn chúng ta đi đến chỗ làm chia rẽ, giống như Ngài. Và dẫn đến việc chính chúng ta bị chia rẽ. Chúng ta thường kinh nghiệm điều này. Chính ngày mà chúng ta chọn thực sự để yêu thì những xung đột gay gắt nhất nổi lên. Tại văn phòng của chúng ta, để tỏ ra huynh đệ với đồng nghiệp, chúng ta phải tố cáo bất công của cấp trên. Để yêu thương người Palestine chúng ta quay lưng lại gia đình của chúng ta. Để giúp đỡ những người hàng xóm nghèo nàn, chúng ta xung đột với vợ và mẹ vợ: “Ông bố làm thế là hy sinh các con của mình!”. Để lãnh đạo một cuộc đấu tranh nghiệp đoàn, một trong những người bạn của tôi đã thất bại trong việc tiến thân và các cô con gái của ông ta đối xử với ông ta là… ông già thảm hại. Trong khi chia sẻ số phận với những người bị áp bức tại một nước nọ ở Châu Mỹ La tinh, một linh mục xung khắc với Giám mục bảo thủ của mình và linh mục đó tự hỏi ai là người có lý. Trong một cộng đoàn người ta biết rằng trở lại một vấn đề công bằng, nghèo nàn hoặc ý nghĩa của Tin Mừng là sẽ châm ngòi lại những xung đột. Người ta im lặng nhưng trong những con tim bị xem là nhát đảm, sự an bình đã bị phá vỡ.
Do lời này phải đi vào tận thâm tâm của chúng ta. Chúa Giêsu sẽ luôn luôn là sự chia rẽ bởi vì tấm lòng của chúng ta xấu xa. Khi chúng ta muốn yêu thương và đấu tranh cho tình yêu, chúng ta chỉ làm điều đó do sự vụng về, sự hăng hái hoặc sự sợ hãi của chúng ta. Trước mặt chúng ta những người Kitô hữu tốt nhất, trong đó có các thánh, cũng yêu thương chúng ta theo khả năng của họ, cũng với con người tội lỗi của họ.
Những người như chúng ta, chúng ta không ngừng có nguy cơ tạo ra những hòa bình pha tạp: hòa bình của người cai trị làm im lặng cả thế giới và thiết lập sự yên tĩnh một cách gượng gạo; hòa bình của những người bị ám ảnh do tình thương yêu huynh đệ tránh sự xung đột nhỏ nhặt nhất bằng cách để các hoàn cảnh trở nên tệ hại; hòa bình của những người đấu tranh đơn thuần vì công bằng là người xếp loại người ta và bình thản tiến bước giữa những người tốt và những người xấu. Chúa Giêsu đâm lưỡi gươm chia rẽ vào trong các hòa bình sai lạc này.
Hòa bình nào đây? Một nền hòa bình hay đặt vấn đề, nóng bỏng và yêu thương xen vào giữa các xung đột và ở lại đó. Hòa bình đó không tìm kiếm những cái hồ yên tĩnh, mà là muốn làm cho có thể sống được trong các phong ba bão táp.
Đối với một người con của Tin Mừng, không có sự an bình nếu không nói là ở nghĩa trang mới có một công việc kiến tạo hòa bình kiên trì và thông minh có thể có ở khắp nơi; trong tâm lòng bị xuyên qua của chúng ta, trong nhóm của chúng ta nơi đó nổ ra một cuộc đấu tranh cần thiết, trong Giáo Hội nơi đó luôn luôn sẽ có những người duy trì trật tự và những người suy nghĩ ra cái mới.
Chính ở giữa chúng ta là những người bất toàn và tội lỗi phải làm lại những hòa bình tạm bợ của chúng ta, các hòa bình này sẽ bị phá hủy khi thì do những kiêu ngạo của chúng ta, khi thì do lưỡi gươm Tin Mừng. Sẽ phải can đảm bắt đầu lại mà không nghĩ đến những kết thúc hoàn toàn của cuộc chiến đấu. Người ta chỉ có thể trở thành một người thợ xây dựng hòa bình bằng cách dệt nên hòa bình bằng những sợi len chiến tranh.
14. Ước mong lửa yêu thương bùng lên
(Suy niệm của Dã Quỳ)
Khi nói về lửa, chúng ta liên tưởng đến tình yêu, sự nồng nhiệt và nóng ấm. Thật vậy, lửa là biểu tượng của Tình yêu. Trong ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần-Ngôi Ba Tình Yêu đã ngự xuống trên các Tông đồ dưới hình lưỡi lửa (x. Cv 2,3). Nhưng lửa cũng nói về sự hiện diện của Thiên Chúa như nơi bụi gai cháy mà Môsê đã gặp gỡ và đối thoại với Ngài (x. Xh 3,2-6). Lửa cũng là biểu tượng của sự thanh lọc trong ngày Cánh Chung qua cuộc xét xử (x. Mt 13,40)
Chúa Giêsu đã đến “Ném lửa vào mặt đất.” Đó là ngọn lửa tình yêu từ trong trái tim của Người. Chính tình yêu đã thúc đẩy Chúa đến với nhân loại, ở cùng và yêu nhân loại với trọn cả tấm lòng. Vì thế, Chúa mong lửa tình yêu của Người bừng cháy trong mỗi tâm hồn Kitô hữu-những người được Chúa yêu thương cứu độ. Chúa cũng mong ước lửa của Người nơi chúng ta được bùng lên, lan tỏa ra bằng đời sống nhiệt thành với sứ mệnh làm chứng nhân cho tình yêu Chúa trong cuộc sống đời thường, sưởi ấm thế giới giá băng lạnh lẽo, thiếu vắng tình yêu và hy vọng.
Chúa muốn làm mới lại thế giới này bằng lửa tình yêu của Người và bằng sự thanh tẩy. Chúa cũng ước mong xua tan đi bao tăm tối, bao đau thương, chiến tranh hận thù của gian trần. Vì thế, “phép rửa” Chúa phải chịu chính là để dìm thế giới vào trong tình yêu hiến tế của Người. Nhờ những đau đớn và cái chết của Chúa mà nhân loại được cứu. Chúa đã trả giá đắt để cứu độ chúng ta, Người chỉ mong cho chúng ta được sống, được yêu thương và bình an, một bình an đích thực mà nhân loại chúng ta đang thiếu.
Bình an là một trong những ân huệ lớn lao mà chúng ta ước mong. Không có hòa bình, chúng ta sẽ sống trong bất an. sợ hãi. Người Do thái xưa đã chờ đợi Đấng Mêsia và Ngài được gọi là Hoàng Tử Hòa Bình (x. Is 9,5). Vậy khi Chúa Giêsu- Đấng Mêsia đến trần gian, ngay đêm Người giáng sinh, các thiên thần đã hát vang “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2,14). Trong những lần Chúa rao giảng và chữa lành, Người thường nói với các tội nhân hay bệnh nhân: “Con hãy đi bình an” (Lc 8,48;7,50). Và khi sai các môn đệ đi rao giảng, lời nhắn nhủ của Người là cần phải chào chúc bình an cho những nhà mà các ông vào (x. Lc 10,5). Thánh Phaolô cũng khẳng định “Chính Người là bình an của chúng ta: Người đã liên kết đôi bên dân Do thái và dân ngoại thành một.” (Ep 2,14)
Như thế, lời Chúa Giêsu nói “Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hòa bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ” (Lc 12,51). có làm cho chúng ta lo âu và sợ hãi chăng? Chúa Giêsu không đem hòa bình đến thế gian, nhưng chính Người là Hòa Bình, là sự Bình An đích thực. Sự Hòa Bình mới này đến làm đảo lộn và thay đổi hòa bình của thế gian. Bởi vì, đó không phải là một hòa bình của dễ dãi, không có rắc rối khó chịu. Nhưng là hòa bình được xây dựng trong sự khó khăn, chiến đấu. Bình an mới này cần phải vượt qua chính mình, dám từ bỏ những gì là trái với tinh thần của Chúa Kitô và không theo Tin Mừng. Vậy từ đó, những chia rẽ là hệ lụy sẽ xảy ra.
Chúng ta nhìn thấy hằng ngày trong các gia đình, đầy dẫy những thách đố mà chính Chúa đã loan báo. Sẽ có một ngày chúng ta cần phải quyết định theo Chúa hay khước từ Chúa, và điều này diễn ra trong một mái nhà thì ắt sẽ có sự chia rẽ hình thành, sẽ có đau đớn. Đó là lúc mà ngọn lửa tình yêu Chúa thanh luyện lòng chúng ta và đem cho chúng ta một bình an đích thực.
Khi chúng ta chọn theo Chúa, dám chấp nhận những hệ lụy theo sau, ta sẽ đạt được bình an chân thật là chính Chúa. Chúng ta cũng sẽ gặp những thách đố khi chọn sống sự thật, công bằng, bác ái, yêu thương và tha thứ… Chắc chắn đời sống của Kitô hữu luôn là một cuộc chiến đấu với chính bản thân, với môi trường, hoàn cảnh, công việc và những người xung quanh…, để thực thi Tin Mừng và giữ vững đức tin. Có Chúa Kitô trợ giúp, chúng ta hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta mà không sờn lòng nản chí, vì chính Chúa đã là mẫu gương cam chịu để cho người tội lỗi chống đối. Còn chúng ta, chúng ta chưa chống trả đến mức đổ máu đâu. (x. Dt 12,1-4)
Ước gì mỗi Kitô hữu cũng có được can trường và bền chí như thánh Phaolô “Tôi đã chiến đấu trong cuộc chiến chính nghĩa, đã chạy hết chặng đường và đã giữ vững đức tin” (2Tm 4,7). Hạnh phúc cho chúng ta nếu cuối hành trình trần gian, ta có thể công bố những lời này. Xin cho chúng ta luôn biết kín múc nguồn Tình yêu nơi Thánh Thể Chúa, và thắp lên ngọn lửa tin yêu trong chính tâm hồn ta, trong cuộc sống và chiếu sáng cho mọi người thân trong gia đình, nơi lối xóm, giáo xứ, công xưởng… và bất cứ ai ta gặp gỡ hằng ngày. Để khi nhìn vào đời sống của Kitô hữu, người ta có thể nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa Tình Yêu. Và rồi ngọn lửa yêu thương của Chúa sẽ được bùng lên trên mặt đất này như lòng Chúa mong ước.
Lạy Chúa Giêsu, xin đốt lên trong trái tim chúng con ngọn lửa tình yêu của Chúa và xin cho chúng con lòng nhiệt thành làm chứng nhân cho tình yêu. Amen.
15. “Ta muốn lửa ấy cháy lên” – Veritas
(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’)
Bài Phúc âm Chúa nhật hôm nay là một trong những đoạn khó nhất, vì Chúa Giêsu đã sử dụng những từ ngữ mà xem ra có một ý nghĩa khác với ý nghĩa chúng ta thường hiểu. Lửa, Phép Rửa, sự chia rẽ và Chúa xác nhận đây là sứ mạng không thể bỏ qua được của Ngài khi xuống trần gian: “Thầy đến để mang lửa xuống thế gian và Thầy thật ao ước biết chừng nào cho lửa ấy cháy lên. Thầy còn một Phép Rửa phải chịu, anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hòa bình, không phải thế đâu nhưng là đến đem sự chia rẽ”.
Thật là những quả quyết khó hiểu nếu không phải do chính chúa nói ra, và nếu chúng ta có quyền thay đổi Lời Chúa thì có lẽ chúng ta đành bỏ đi những lời khó hiểu này rồi. Chúa Giêsu nói đến lửa nào đây? Ngài nhắc đến phép rửa sắp phải chịu, Phép rửa nào đây? Con người khao khát hòa bình, nhưng Chúa lại nói sứ mạng của Ngài mang đến sự chia rẽ, vậy sự chia rẽ nào đây?
Trong vài phút chia sẻ này chúng ta không thể thực hiện một công việc bác họ chú giải, nhưng chỉ cố gắng nhìn tổng quát những Lời Chúa muốn nói với chúng ta. Lửa trong ngôn ngữ Kinh Thánh Cựu ước chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Môsê được Thiên Chúa Toàn Năng hiện ra nơi bụi gai dưới hình thức lửa bốc cháy. Lửa này có sức mạnh biến đổi, thanh luyện con người để hình ảnh của Thiên Chúa được chiếu sáng rõ ràng hơn nơi chính mình.
Sức mạnh cứu rỗi của Chúa Giêsu trên trần gian này không khác gì hơn là làm cho Thiên Chúa được hiện diện trong cuộc sống con người, là biến đổi và thanh tẩy con người khỏi vết nhơ tội lỗi, để con người được tỏa chiếu sáng hơn hình ảnh của Thiên Chúa: “Thầy đến để mang lửa” hay đúng hơn “để gieo lửa”. Hành động gieo lửa nổi lên một sự tích cực nhiều hơn là từ ngữ “mang”. Chúa Giêsu không chỉ mang xuống mà Ngài còn ra sức tận dụng hết sức mình, tận dụng hết khả năng của Ngài để gieo rắc lửa đó xuống trần gian giữa những gian nan thử thách, chống đối không tin của con người. Sứ mạng này Chúa phải chu toàn, không thể nào tránh né được.
Chúng ta còn nhớ vào khởi đầu sứ mạng rao giảng Tin Mừng, ma quỷ đã đến cám dỗ Chúa hãy quỳ xuống tôn thờ ma quỷ để rồi mọi vinh quang, mọi vương quốc trên trần gian này được trao cho Chúa. Nhưng Chúa Giêsu đã mạnh mẽ không để cho ma quỷ làm Ngài lạc hướng, vì mục đích đời Ngài chỉ làm cho con người tôn thờ một mình Thiên Chúa mà thôi. Sứ mạng của Chúa lúc nào cũng phải là làm cho Thiên Chúa được nhìn nhận, được tôn thờ và được tôn vinh nơi con người, dù phải trả giá thật đắt là phải hy sinh chính mạng sống mình trên thập giá.
Cái chết của Chúa, cuộc thương khó của Ngài, đó là Phép Rửa mà Chúa Giêsu muốn nói đến trong đoạn Tin Mừng hôm nay: “Thầy còn một Phép Rửa phải chịu”. Chúng ta nhớ trên đường lên Giêrusalem để thực hiện cuộc vượt qua trong đau thương, hai môn đệ Giacôbê và Gioan nhờ mẹ mình đến xin Chúa Giêsu cho được ngồi bên tả, bên hữu Chúa và Chúa Giêsu đã có phản ứng như sau: “Các ngươi không biết điều các ngươi xin. Các ngươi có uống nổi chén Thầy sắp uống hay chịu được Phép Rửa Thầy sắp chịu hay không? Chén Thầy uống các con cũng sẽ uống và Phép Rửa Thầy chịu các con cũng sẽ chịu”.
Rõ ràng, Chúa Giêsu nói đến cuộc thương khó của Người qua từ ngữ “Phép Rửa”. Chúa Giêsu phải đi vào cuộc thương khó, phải thực hiện cuộc hy sinh trên thập giá để có thể gieo lửa tình yêu Thiên Chúa xuống trần gian, nhất là gieo tình yêu đó vào trong tâm hồn con người. Đây không phải là sứ mạng dễ dàng, một sứ mạng đòi hỏi nhiều hy sinh, một sứ mạng đòi Chúa phải hy sinh chính mạng sống mình và đổ máu mình ra trên thập giá và Ngài mời gọi các môn đệ hãy đi qua, đi ngang con đường này.
Trong một ngôn ngữ dễ hiểu hơn, Ngài đã mời gọi: “Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình vác lấy thập giá mình hằng ngày mà theo Ta. Ai không vác lấy thập giá mà theo Ta thì không xứng đáng làm môn đệ Ta”. Thật là những lời vừa mời gọi, vừa cảnh tỉnh mà chúng ta không thể nào lơ là bỏ qua được.
Cuộc đời theo Chúa, đón nhận lửa Chúa gieo xuống và lãnh nhận Phép Rửa Chúa chịu. Cuộc đời theo Chúa này là một cuộc đời đầy hy sinh từ bỏ, chấp nhận tách rời ra khỏi những gì cản trở ta trở nên giống Chúa và đây là sự chia rẽ mà Chúa Giêsu muốn nói đến trong đoạn Tin Mừng hôm nay. Theo Chúa, sống trung thành với Lời Chúa, lãnh nhận lửa tình yêu của Chúa trong tâm hồn và chấp nhận hy sinh như Chúa đã hy sinh trên thập giá, chấp nhận chịu Phép Rửa của Chúa. Theo Chúa như vậy, chắc chắn chúng ta sẽ được bình an thật Chúa ban cho, nhưng đồng thời chúng ta cũng bị chia rẽ, bị tách rời ra khỏi kẻ khác, nhất là khi những kẻ khác đó a dua hoạt động cho ma quỷ chống lại chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa.
Người đồ đệ của Chúa không thể nào đi con đường khác con đường mà Chúa đã đi qua, và sứ mạng mà Chúa muốn cho mọi người đồ đệ thực hiện cũng là sứ mạng gieo lửa xuống trần gian qua cuộc đời chịu đóng đinh với Chúa, chịu Phép Rửa của Chúa. Thử hỏi chúng ta có sẵn sàng chưa? Chúng ta có đủ can đảm chưa? Và chúng ta muốn theo Chúa, chúng ta xin được theo Chúa trọn đời nhưng chúng ta có biết rõ điều chúng ta xin hay không?
Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được trưởng thành trong đức tin, đức cậy và đức mến, cho mỗi người chúng ta được sẵn sàng hơn để đón nhận lửa Thiên Chúa đến trong tâm hồn và để cho lửa đó đốt cháy những tật xấu nơi con người chúng ta. Xin Chúa cho mỗi ngày chúng ta được trở nên giống Chúa hơn, cho chúng ta được sẵn sàng chịu phép rửa của Chúa, chấp nhận hy sinh, chấp nhận từ bỏ, chấp nhận chia rẽ, tách rời khỏi những gì cản trở ta theo Chúa. Xin Chúa gìn giữ chúng ta trong đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua Kinh Tin Kính.
16. Hãy cương quyết xông pha
(Trích dẫn từ tập sách ‘Giải Nghĩa Lời Chúa’của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
“Thầy không đến để đem bình an, nhưng đem sự chia rẽ”.
Nhiều lời Tin Mừng chúng ta vừa nghe, có vẻ khác lạ, nếu chưa muốn bảo là chói tai. Thường chúng ta vẫn có những quan niệm rất bình an và dịu dàng về Con Người Ðức Giêsu Kitô và nhất là về giáo lý bác ái của Người. Các Thiên Thần đã không hát khúc ca hòa bình trong ngày Người giáng sinh sao? Và trọng tâm giáo lý của Người chính là tình thương. Người đã đến để thi hành sứ vụ hòa giải, giữa Thiên Chúa với loài người, và giữa Do Thái với dân ngoại. Thế mà hôm nay, trong đoạn văn vắn tắt của Luca, chúng ta thấy Người nói đến Lửa và Nước, chia rẽ và chống đối, và ngay tại gia đình thường được gọi là tổ ấm.
Chúng ta sẽ phải hiểu Lời Chúa thế nào đây? Chú giải cẩn thận một đoạn Kinh Thánh là phận vụ của một khoa học đặc biệt. Còn trong một buổi phụng vụ, chúng ta chỉ nên tựa vào Lời Chúa vừa công bố để tìm ra giáo lý của Hội Thánh cho đời sống hiện tại của chúng ta. Và giáo lý này khởi sự ngay từ bài học Cựu Ước.
1. Vì Lời Chúa, bị bắt bớ
Cuộc đời của Giêrêmia rất đỗi éo le. Nói đúng hơn, từ ngày Thiên Chúa đặt lời của Người trong miệng ông để ông làm tiên tri, tuyên bố các phán quyết của Người thay cho chính Người, Giêrêmia đã trở thành tường đồng cự lại cả xứ, cự lại các vua Giuđa và hàng khanh tướng. Ngay hàng tư tế cũng tuyên chiến với ông (x. chương 1). Chẳng phải tại ông bướng bỉnh. Ngược lại, ông luôn cảm thấy mình chỉ là một đứa trẻ. Nhưng Lời Chúa đã ập xuống trên ông, bắt ông đứng dậy tuyên sấm cho dân phản loạn. Họ đã chối bỏ mạch nước hằng sống để đào cho mình bể rò không chứa được nước (2,13).
Ðoạn văn hôm nay nói đến giai đoạn thật gay cấn. Vua xứ Giuđa bấy giờ đã tuyên thệ phục tùng vua Babylon trước mặt Thiên Chúa. Nhà tiên tri coi lời thề đó như thánh ước vì đã lấy Danh Ðức Giavê mà thề. Do đó, khi vua Giuđa và hàng khanh tướng có ý đồ bội ước, phản lại vua Babylon và cầu cạnh vua Ai Cập, thì nhà tiên tri phải lên tiếng. Ông tố cáo sự lật lọng của nhà Giuđa đối với Thiên Chúa là Ðấng luôn trung thành. Và dĩ nhiên ông đã lợi dụng cơ hội này để kể hết các bội phản của dân thất ước. Ông bực mình nhất vì thái độ giả hình của họ. Họ cứ vỗ ngực xưng mình là dân của Chúa đang khi không ngớt vứt bỏ lệnh truyền của Người. Họ căn cứ vào việc Chúa đã chọn họ làm dân ưu tuyển, để luôn cư xử bất công với mọi dân khác, coi dân ngoại chỉ như bàn đạp cho họ tiến lên. Giêrêmia chống đối thái độ giả đạo đức và tự phụ khinh người ấy. Ông luôn nhắc nhở phải trở về với Thiên Chúa và biết rằng Người coi trọng các dân tộc. Nhưng những lời ông nói đều bị bỏ ngoài tai. Vua Giuđa tiến hành ý đồ phản lại Babylon. Nước này đem quân xuống đánh, vây chặt thủ đô Giêrusalem. Giêrêmia cũng bị nằm trong vòng vây.
Nhưng vì Ai Cập khiêu khích để yểm trợ cho Giuđa. Vua Babylon tạm thời nới lỏng vòng vây Giêrusalem để đánh phá Ai Cập trước. Lợi dụng lúc một phần quân Babylon rút đi, Giêrêmia muốn lẻn về thăm quê ở Anatốt, chỉ xa Giêrusalem chừng một giờ đường bộ thôi. Nhưng ông bị lính Giuđa bắt giữ, cho rằng ông muốn đi theo quân Babylon. Thế là kẻ thù của ông ra mắt vua xứ Giuđa, xin nhà vua xử lý một tên phản quốc, với những lời lẽ mà chúng ta đã nghe đọc bài sách hôm nay. Cuối cùng họ đã quăng ông xuống một giếng bùn, để ông lún xuống dần dần mà chết đi.
May có một người dân ngoại làm hoạn quan trong hoàng cung nghe biết. Ông đến xin nhà vua cho kéo Giêrêmia lên khỏi giếng. Nhà tiên tri thoát chết trong lần này. Nhưng rồi chẳng bao lâu, quân Babylon trở lại. Giêrusalem thất thủ. Nhà tiên tri bị người Do Thái kéo sang Ai Cập và dường như ông đã chết ở đây, giữa những kẻ suốt đời vẫn thù ghét ông, vì ông luôn luôn nói Lời Chúa cho dân ngỗ nghịch.
Do đó Giêrêmia đã trở thành nhà tiên tri đặc biệt của Ðức Giêsu Kitô chịu đóng đinh. Cuộc đời của ông báo trước cuộc Tử nạn của Người. Ông là một trong đoàn thể chứng nhân đông đảo bao quanh chúng ta, trong cuộc đời đầy phấn đấu hiện nay. Chính tư tưởng phấn đấu này là chủ đề của tất cả Lời Chúa hôm nay và là trọng tâm của bài Tin Mừng mà bây giờ chúng ta muốn tìm hiểu.
2. Vì Tin Mừng, bị chống đối
Như lúc đầu đã nói, nhiều lời trong bài Tin Mừng hôm nay không ngọt tai tí nào. Chúng ta thích hơn nếu Ðức Giêsu Kitô nói Người đem hòa bình đến. Vì chúng ta quen quan niệm Người có lòng nhân từ và công cuộc của Người là cứu thế. Tôi sẽ không làm dịu bớt tính cách “chát chúa” của những lời Người tuyên bố hôm nay để phục vụ khuynh hướng tự nhiên của chúng ta quen quan niệm đạo là bác ái và vì thế đạo nên tránh nói những lời thẳng nhặt. Tuy nhiên trước hết chúng ta cần hiểu đúng ý Chúa trong các lời tuyên bố này.
Người ta có thể nghĩ ngay đến chung thẩm, tức là phán xét chung trong ngày sau hết, khi nghe Chúa Giêsu khẳng định: Người đến đem lửa xuống thế gian và Người mong biết bao cho lửa ấy cháy lên. Quả thật trong Kinh Thánh có rất nhiều đoạn nói đến lửa để ám chỉ việc phán xét. Và thánh Gioan Tẩy giả đã giới thiệu Ðức Giêsu như “Ðấng sẽ đến để thanh tẩy trong Thánh Thần và trong lửa”. Hơn nữa, Người còn nói: “Lưỡi rìu đã sẵn gốc cây: cây nào không sinh quả lành sẽ bị chặt và quăng vào lửa” (Mt 3,10).
Tuy nhiên mặc dầu có những ý kiến như thế, chúng ta vẫn có quyền tự hỏi: Không biết đoạn văn này có nhất thiết phải được hiểu như vậy không? Có điều chắc chắn, Ðức Giêsu không khi nào khẳng định việc chung thẩm, như chúng ta hiểu, sẽ xảy đến trong lúc Người đang ở giữa xã hội loài người. Thời gian phán xét là bí mật của Chúa Cha. Ngài sẽ trao quyền xét xử ấy cho Ðức Kitô sau này. Thế nên khi Ðức Giêsu đến theo lời giới thiệu của Gioan, thật ra chưa có việc phán xét; nhưng mới chỉ có sự phân biệt “để ý nghĩ của nhiều tâm hồn phải bày ra”, như lời Luca nói; nghĩa là để các tâm hồn phải lựa chọn thái độ: hoặc đón nhận hoặc khước từ ơn cứu độ của Thiên Chúa đến trong thế gian nơi Ðức Giêsu Kitô.
Thế nên “lửa” mà Người nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay đúng hơn nên hiểu về “Thánh Thần”. Người đến để cho những kẻ tin Người được Thần Khí của Thiên Chúa. Người mong muốn, đến nỗi nôn nóng thấy việc đó chóng xảy đến để loài người chóng nhận được Thánh Thần khiến họ có thể kêu lên “Abba! Lạy Cha”. Một cách cụ thể, có thể nói, trong suốt cuộc đời trần gian, Ðức Giêsu hằng mong mỏi ngày lửa Thánh Thần sẽ xuống trên các môn đệ, vì đó là mục đích cuộc giáng sinh cứu thế của Người, để tất cả loài người trở thành con cái Thiên Chúa.
Thế mà, như chúng ta biết, Thánh Thần không thể được ban xuống cho các môn đệ, bao lâu Ðức Kitô chưa bị treo lên cây Thập giá. Do đó tiếp theo câu nói Người mong muốn biết bao cho lửa cháy lên, Chúa Giêsu đã khẳng định luôn: “Người phải chịu một phép rửa và lòng Người khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất”. Câu nói này, ai cũng hiểu là để ám chỉ cuộc Tử nạn của Người.
Như vậy chúng ta có thể tóm tắt như sau: trong bài Tin Mừng hôm nay trước hết Chúa Giêsu bộc lộ ý chí cứu thế của Người. Người mong mỏi cho loài người được lãnh nhận Thánh Thần yêu mến và vì thế Người muốn đến ngày chịu tử nạn, lấy máu rửa sạch tội lỗi loài người để họ nhận được Nước sinh sống của Thánh Thần.
Nhưng mầu nhiệm Thánh giá là điên rồ đối với lương dân và là ô nhục đối với người Do Thái. Tính tự nhiên của xác thịt con người lập tức muốn phản kháng. Thái độ của Phêrô khi nghe nói lần đầu tiên, ai cũng biết. Ông kéo Ðức Giêsu ra nơi kín và xin Người đừng nghĩ như thế. Nhưng chính Ðức Giêsu không những lại khẳng định: Người sẽ đi vào con đường thập giá; Người còn nói thêm: ai muốn theo Người cũng phải làm như vậy. Và mầu nhiệm thánh giá là trọng tâm, nếu không phải là toàn bộ sứ điệp của Chúa Giêsu mang đến cho loài người. Do đó phải coi là phản Tin Mừng khi trong Ðạo Chúa không muốn nói đến phấn đấu và hy sinh. Lòng từ nhân, sự hòa giải và bình an của Thiên Chúa đem đến cho loài người, phải đi qua đường hẹp. Người có sức mạnh và kiên cường mới đón nhận được. Không những họ phải phấn đấu chống lại các khuynh hướng xác thịt và tội lỗi; nhưng vì sức mạnh của Satan còn nằm trong cả thế gian nữa, nên thường khi họ còn phải đương đầu với sức ép của các xã hội xấu. Dĩ chí, ngay nơi tổ ấm gia đình cũng có thể gặp những trở ngại cho đời sống đức tin và đạo đức. Hôm nay trong bài Tin Mừng Chúa Giêsu đã báo trước như thế và lịch sử cùng kinh nghiệm đều hùng hồn làm chứng đó là những điều rất thật.
Như vậy chẳng còn gì khác lạ, chói tai như lúc đầu chúng ta có thể nghĩ nữa. Chúa Giêsu chỉ nói những sự thật hiển nhiên đầy ơn cứu độ. Ðó là những lời Tin Mừng: Chúa Giêsu muốn chúng ta được tràn đầy Thánh Thần để chúng ta được thần linh hóa. Và cho được như vậy, chính Người phải đi vào con đường thánh giá. Và hết thảy chúng ta cũng phải vác lấy thập giá hằng ngày của mình. Hiểu như vậy, tác giả thư Hipri có lời khuyên chúng ta như sau.
3. Chúng ta hãy cương quyết xông pha
Thật ra, sau những lời tin mừng chúng ta vừa trình bày và thấy gương sáng của Giêrêmia, chúng ta đã có thể tự mình đem ra những quyết tâm cho cuộc sống hằng ngày. Lời thư Hípri chỉ muốn hỗ trợ ý chí của chúng ta thôi. Có ba ý tưởng đáng ghi nhớ. Trước hết tác giả cho chúng ta thấy mình đang ở giữa một đoàn thể chứng nhân đông đảo. Ðó là các thánh trong Cựu Ước. Và ngày nay chúng ta phải kể thêm sự hiện diện đông đảo của các thánh thời Tân Ước. Những thế hệ anh hùng ấy đã gian truân khổ sở hơn chúng ta. Nhớ mình đang được nâng đỡ như vậy, chúng ta phải thêm tinh thần xông pha chiến trận đang chờ đợi chúng ta để đi tới vinh quang hạnh phúc mà các người đang được dự.
Hơn nữa không phải chúng ta chỉ có những chứng nhân bao quanh để khích lệ và cổ vũ; trước mắt chúng ta còn có một lãnh tụ dẫn đầu và lôi cuốn. Ðó là Ðức Giêsu Kitô. Chính Người không những khơi nguồn mà còn viên thành niềm tin. Người đưa dẫn chúng ta từ đầu chí cuối. Người là đường đi, là sự sống, là sự thật của chúng ta. Nhờ vậy sự kiên quyết, kiên cường phấn đấu của người tín hữu không bao giờ là một sự bướng bỉnh, cố chấp, đi ngược lại quyền lợi và hạnh phúc của người khác; nhưng là sự bền chí, kiên tâm, trong con đường cứu độ.
Hơn nữa chính hình thức của sự phấn đấu kiên quyết này còn lấy cuộc đời của Ðức Kitô làm mẫu mực. Người đã khước từ vui sướng cho mình, kiên chịu thẹn thuồng xấu hổ và khổ hình thập giá vì loài người tội lỗi. Người không dạy chúng ta chịu đau khổ vì đau khổ, nhưng vì phần rỗi và hạnh phúc của mọi người. Người lấy phục vụ làm cứu cánh và chấp nhận phấn đấu như điều kiện. Chúng ta có đăm nhìn lên Người như vậy, cuộc đời phấn đấu của chúng ta mới có ý nghĩa cao quý, vì nói muốn góp phần xây dựng hạnh phúc chung cho nhân loại.
Ðối với một lý tưởng như thế, những thử thách của chúng ta đã là gì? Ðó là ý tưởng thứ ba của bài thư Hipri. Cuộc đời của chúng ta có gian khổ vẫn chưa là gì sánh với đời sống đầy thử thách của Giêrêmia và biết bao chứng nhân khác. Nó không nghĩa lý gì sánh với các đau khổ tình nguyện của Ðức Giêsu Kitô. Nhất là nó chẳng đáng sánh với mục đích xây dựng hạnh phúc của toàn thể xã hội.
Chúng ta sẽ cương quyết xông pha hơn. Nhưng như lời thư Hipri nói: chúng ta hãy đắm nhìn lên Ðấng khơi nguồn và viên thành đức tin. Người có lôi cuốn, hướng dẫn, chúng ta mới biết đi vào và hoàn tất cuộc hành trình trần gian. Người luôn hiện diện trước mặt chúng ta trong kho tàng Lời Chúa và đặc biệt trong các mầu nhiệm bàn thờ. Ðến với Người ở đây chúng ta còn được chính Người đi vào con người và đời sống chúng ta để giúp chúng ta biết sống như Người và với Người, nghĩa là hiện diện trước mặt chúng ta trong kho tàng Lời Chúa và đặc biệt trong các mầu nhiệm bàn thờ.
Ðến với Người ở đây chúng ta còn được chính Người đi vào con người và đời sống chúng ta để giúp chúng ta biết sống như Người và với Người, nghĩa là sống phấn đấu không ngừng cho phần rỗi và hạnh phúc của mọi người. Ðó là điều chúng ta tin tưởng và cử hành giờ đây nơi bàn thờ. Xin mọi người hãy hết mình tham gia.
17. Sứ mệnh – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Tiên tri Giêrêmia hoạt động tại Giêrusalem khoảng năm 627 tới sau năm 587 trước Công Nguyên. Tiên tri đã cảnh báo thần dân, vì tội lỗi mà họ đã phạm đến Chúa. Dân thành sẽ bị phá hủy bởi vua Nebuchadrezzar, người Babylon. Khi nghe cảnh cáo, nhiều nhà chức trách đạo đời cảm thấy khó chịu và muốn diệt trừ tiên tri Giêrêmia: “Chúng tôi xin bệ hạ cho lệnh giết người này, vì nó cố ý nói những lời làm lũng đoạn tinh thần chiến sĩ còn sống sót trong thành này và toàn dân. Thực sự tên này không tìm hoà bình cho dân, mà chỉ tìm tai hoạ” (Gr 38, 4). Tuy nhiên, trong số đó có những người trung thành và biết lắng nghe lời sự thật. Thay vì bỏ mặc tiên tri để chết trong giếng cạn, vua đã truyền cứu ngài ra khỏi giếng: Vậy vua truyền dạy Abimelech người Ethiopiai rằng: “Hãy đem ba mươi người ở đây theo ngươi, và kéo tiên tri Giêrêmia ra khỏi giếng trước khi ông chết” (Gr 38,10). Sống ở đời luôn có kẻ ưa người ghét là thế!
Trong cuộc sống, chúng ta luôn phải đối diện với hai chọn lựa: Tốt xấu, phải trái, lành dữ,đúng sai, yêu ghét và tội phúc… Dù tốt hay xấu, phía nào cũng có người phò theo. Phe lành và phe dữ song hành trong cuộc sống như bóng tối và ánh sáng. Làm sao chúng ta có thể rút ra những nhận định đúng đắn trong xã hội vàng thau lẫn lộn? Vì mỗi bên, mỗi phía đều có chia sẻ ít nhiều sự tốt lành và xấu dữ. Đâu là chân lý? Mỗi xã hội con người có những chủ trương riêng biệt. Văn hóa này có thể thích hợp ở đây, nhưng không thể thực hành nơi khác. Tất cả những nền văn hóa do con người kết cấu thành đều là tương đối. Các luật lệ do con người đặt ra cũng rất tương đối. Sự phán đoán về sự đúng sai của con người xã hội cũng bị ảnh hưởng bởi quan niệm sống mỗi vùng, nên dân luật hay tục lệ có thể thay đổi.
Cảm giác về tội lỗi phai nhạt dần. Chủ nghĩa cá nhân được đề cao. Con người xã hội tìm kiếm và thỏa mãn những gì mình ưa thích. Nhiều người chủ trương sống hưởng thụ và đáp ứng mọi nhu cầu cảm xúc thể xác. Những nét đẹp của Công Dung Ngôn Hạnh từ từ biến mất. Chúng ta không thể ngồi ung dung tự tại mặc cho con tạo xoay vần. Là các bậc phụ huynh, những người giáo dục và thầy dậy, chúng ta cố gắng khơi lên ngọn lửa cháy sáng soi đường. Hai ngàn năm trước, Chúa Giêsu đã đem lửa xuống thế gian và ước mong lửa bừng cháy: Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên (Lc 12,49). Lửa của tình yêu và lửa của sự thật. Chúa là tình yêu. Chúa là sự thật và là sự sống.
Chúa Giêsu không dấu diếm sứ mệnh, Ngài nói: Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ (Lc 12,51). Sự chia rẽ giữa sự thánh thiện và tội ác. Sự chia rẽ giữa người công chính và kẻ gian ác tội lỗi. Nhưng Chúa Giêsu không bỏ rơi một ai. Ngài hiện diện đó không phải để kêu gọi người công chính mà là kẻ tội lỗi. Hỡi những ai gồng gánh nặng nề, hãy đến, Chúa sẽ nâng đỡ bổ sức cho. Chúa Giêsu là mục tử nhân lành, Ngài đến để đoàn chiên được sống và sống dồi dào.
Đối diện với cuộc sống đa dạng, đa văn hóa và đa tôn giáo của thời đại hôm nay, chúng ta cần học hỏi và nhận định rõ ràng hơn. Rất nhiều chính thể chủ trương triết thuyết tương đối. Họ cho rằng không có gì tuyệt đối là đúng hay sai và tốt hay xấu hoàn toàn. Theo họ, đúng hay sai, dựa vào sự quyết định của đa số áp đặt. Trước tiên, sự tốt xấu và lành dữ được đánh giá qua vấn đề lợi nhuận kinh tế. Chúng ta đang va chạm với những chủ trương cởi mở và quá cấp tiến. Những điều đang xảy ra hằng ngày về vấn đề đạo đức luân lý. Thí dụ: Một số Tiểu Bang ở Hoa Kỳ, các nhà Lập Pháp đã bỏ phiếu đa số đồng thuận về hôn nhân đồng tính, về sự ngừa thai, phá thai không giới hạn, về án tử và trợ tử…
Về sự sống con người: Phe phò phá thai (pro-abortion) chủ trương bảo vệ tự do và quyền bình đẳng của phụ nữ, trong khi hủy diệt sự sống của thai nhi. Tuy nhiên, Phong trào phò sinh (pro-life) vẫn tiếp tục đấu tranh cho quyền tự do lương tâm và tự do tôn giáo. Chúng ta căn cứ vào lương tâm và lời Mạc Khải để tìm đến sự thật. Sự thật có thể áp dụng chung cho mọi người, mọi dân và mọi nước. Chúng ta gọi là luật tự nhiên hay luật lương tâm đã được in ghi tận đáy tâm hồn.
Càng ngày càng có nhiều tệ nạn xảy ra trong xã hội con người. Các học viên được huấn luyện trở thành bác sĩ để cứu chữa con người, nhưng một số lại tìm cách hủy diệt mạng sống con người. Các công ty dược phẩm chế tạo thuốc để chữa lành, nhưng đồng thời cũng chế tạo các loại thuốc giết người. Các tòa án Tối Cao Pháp Viện, phải là nơi công lý được thể hiện, nhưng cũng lại đưa ra những chỉ thị và phán quyết độc hại hủy phá sự sống con người. Biết tin vào ai? Đâu là điều tốt hay điều xấu và điều lành hay điều dữ. Mỗi quan tòa đều có những lý luận sắc bén để biện luận và đôi khi ngụy biện để dấu diếm sự thật. Nhiều chính phủ dùng quyền lực của luật pháp để áp chế người dân đi ngược dòng đạo đức luân lý. Dù với quyền lực, họ cũng không thể giết đi tiếng nói của lương tâm. Sự thật vẫn luôn là sự thật.
Thánh Phaolô khuyên dạy: Chúng ta hãy nhìn thẳng vào Đức Giêsu, Đấng khơi nguồn đức tin và làm cho nó nên hoàn tất; vì trông mong niềm vui đang chờ đón mình, Người đã chịu khổ giá, bất chấp sự hổ thẹn và rồi lên ngự bên hữu ngai Thiên Chúa (Dt 12,2). Chúng ta tìm về nguồn chân thiện mỹ. Đức Kitô là Đấng trung gian giữa đất trời. Ngài là Lời của Thiên Chúa. Ngài mạc khải cho chúng ta về con đường cứu độ qua thập giá. Ngài đã chấp nhận cái chết đau thương trên khổ giá để minh chứng cho lời rao giảng và sự thật Nước Trời. Muốn đạt được quê trời, chúng ta cũng phải phấn đấu một cách kiên vững và gian khổ. Bước qua cửa hẹp. Từ bỏ mình và vác thập giá theo Chúa. Muốn bước theo Chúa, chúng ta không thể bắt cá hai tay. Cần có sự chọn lựa dứt khoát.Tránh kiểu sống nửa vời tương đối vô thưởng vô phạt.
Nhắm hướng nhìn lên. Suy gẫm sự khổ đau của Chúa Kitô trên thập giá để tìm hướng đi. Chúng ta có thể hỏi rằng tại sao Chúa phải chịu khổ nhục như thế? Chúa có thể chọn cách khác nhẹ nhàng hơn chứ! Không, Chúa Kitô đã ước ao hoàn tất chén đắng mà Cha đã trao đề kéo lôi chúng ta ra khỏi vực sâu của tội lỗi và sự chết: Anh em hãy tưởng nghĩ đến Đấng đã liều thân chịu cuộc tấn công dữ dội của những người tội lỗi vào chính con người của Ngài, ngõ hầu anh em khỏi mỏi mệt mà thất vọng (Dt 12,3). Mầu nhiệm Chúa Kitô chịu chết và sống lại là một chân lý. Chân lý của sự giải thoát. Để tìm câu trả lời cho sự lành sự dữ, sự tốt sự xấu, tội hay phúc, chúng ta hãy tìm câu trả lời nơi Chúa Kitô chịu đóng đinh.
Các nhà làm luật phán đoán và quyết định những điều đối nghịch với đạo đức luân lý nhưng họ đâu có chịu trách nhiệm. Sự dữ, sư xấu và sự sai trái đổ trên đầu người dân thấp cổ bé miệng. Các nhà lập pháp đâu có cảm thông và hiểu thấu những sầu khổ oan khiên trong thâm tâm của mỗi người. Các quan tòa vui mừng mở rượu vang chúc mừng nhau, khi thành công bỏ phiếu thành luật về một vấn đề luân lý nghịch đạo. Họ đâu có lường được những hệ lụy khổ đau kéo theo từ dòng dõi này qua dòng dõi khác. Biết bao tâm hồn bị tổn thương và rơi vào cô đơn giá lạnh. Chỉ có một Người cảm thông nỗi đớn đau tuyệt vọng và có uy quyền chữa lành tâm hồn là chính Chúa Kitô trên thập giá.
Lạy Chúa, Chúa đang giang tay chờ đón chúng con. Chúa nói với chúng con rằng ai yêu nhiều sẽ được tha nhiều. Chúng con chạy đến với Chúa, xin Chúa dủ lòng thương xót chúng con.
18. Người giữ ngọn lửa
(Suy niệm của Lm. Phanxicô Xaviê Lê Văn Nhạc)
Tin mừng Lc 12:49-53: Mỗi kitô hữu chúng ta đều đã được Chúa Kitô châm ngọn lửa tình yêu của Ngài vào lòng. Ngọn lửa tình yêu ấy cần phải được chăm sóc, giữ gìn và làm cho cháy sáng hơn mãi.
Cách đây ít lâu, tờ Los Angeles Times có đăng một câu truyện của phóng viên Dane Smith, về một kitô hữu tên là Charlie Deleo.
Sau khi từ Việt Nam trở về, Charlie kiếm được chân giữ tượng Nữ Thần Tự Do. Anh kể cho phóng viên rằng, một phần công việc của anh là lo chăm sóc ngọn đuốc trong tay bức tượng Nữ Thần Tự Do và cái mũ triều thiên trên đầu bức tượng. Anh phải lo làm sao cho các tia hơi nước có chất natri luôn hoạt động, đồng thời 200 cửa sổ bằng kính nơi ngọn đuốc và mũ triều thiên lúc nào cũng phải sạch sẽ.
Chỉ vào ngọn đuốc trong tay bức tượng Nữ Thần, CHarlie hãnh diện nói:
“Đó là nguyện đường của tôi. Tôi dâng hiến nó cho Thiên Chúa và thường lên đó suy niệm vào lúc rảnh rỗi nghỉ ngơi”. Ngoài ra, Charlie còn làm cho Chúa những điều khác nữa. Anh đã nhận được bằng khen của Hội Chữ Thập Đỏ từ sau khi anh hiến nữa lít máu lần thứ 65. Và sau khi nghe biết công việc của Mẹ Têrêsa ở Ấn Độ, anh đã gởi tặng Mẹ trên 12 ngàn đô la.
Charlie kể rằng, khi Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II nói chuyện tại công viên Battery cách bức tượng Nữ Thần Tự Do hơn hai cây số, thì anh đứng trên lối đi nhỏ viền quanh ngọn đuốc và lắng nghe bài nói chuyện của Đức Thánh Cha. Tại lối đi nhỏ ấy, anh cũng sốt sắng cầu nguyện cho chuyến viếng thăm mục vụ của Ngài được thành công.
Charlie vẫn sống độc thân và sau khi kiếm được việc làm, anh đã bảo trợ cho 6 trẻ mồ côi thông qua các tổ chức xã hội, không giữ lại đồng làm của riêng. Cuối cùng, Charlie kể cho phóng viên rằng, anh thường tự cho mình là “người giữ ngọn lửa” của tượng Nữ Thần Tự Do. Mọi người đều biết Charlie là con người đặc biệt. Lúc đầu nghe anh tự cho mình tước hiệu đó, ai nấy chỉ mỉm cười, nhưng giờ đây mọi người đều nhìn nhận điều ấy một cách nghiêm chỉnh: “Ông ta đích thực xứng đáng và danh hiệu “Người giữ ngọn lửa”.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu đã đem ngọn lửa xuống trần gian. Ngọn lửa tình yêu vĩnh cửu bốc cháy trong trái tim Ngài. Khi hiến mạng sống cho con người chỉ vì quá yêu thương con người, Ngài đã châm ngọn lửa yêu thương vào lòng con người. Và Ngài thốt lên với tất cả nỗi lòng khắc khoải: “Thầy đã đến đem lửa xuống trần gian. Nào Thầy có mong muốn gì hơn là mong cho lửa ấy cháy bùng lên”. Cháy bùng lên, không phải để rồi tắt ngấm. Nhưng cháy lên để tiếp tục cháy mãi.
Mỗi Kitô hữu chúng ta đều đã được Chúa Kitô châm ngọn lửa tình yêu của Ngài vào lòng. Ngọn lửa tình yêu ấy cần phải được chăm sóc, giữ gìn và làm cho cháy sáng hơn mãi.
Anh Charlie trong câu chuyện trên thật là một mẫu gương sáng ngời cho chúng ta. Anh đã biết giữ ngọn lửa tình yêu, tình yêu Thiên Chúa, tình yêu tha nhân, luôn cháy sáng như chính ngọn lửa của ngọn đuốc trong tay bức tượng Nữ Thần Tự Do mà ngày đêm anh có bổn phận canh giữ. Cách sống của anh cũng mời gọi chúng ta hãy là những người giữ lửa. Giữ cho ngọn lửa tình yêu trong lòng mình luôn cháy sáng trước nhan Thiên Chúa và giải tỏa hơi nóng sưởi ấm con tim anh chị em chúng ta, nhất là những người đau khổ và bất hạnh.
Tuy nhiên, ngọn lửa tình yêu Chúa Giêsu đem xuống trần gian chỉ bùng cháy và lan rộng cùng khắp khi có máu đổ ra trên Thập giá. Máu đổ ra là dấu hiệu tình yêu của Thiên Chúa đổ xuống trên chúng ta. Thiên Chúa đã cứu độ chúng ta, đã thanh tẩy chúng ta sạch mọi tội lỗi bằng ngọn lửa và Máu của Ngài: “Thầy sẽ phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc ấy hoàn tất”. Phép rửa nầy là phép rửa nào? Phải chăng là phép rửa bằng máu của cuộc tử nạn thập giá? Như lửa thử vàng, lửa phải thấm vào bên trong làm cho cả khối kim loại “đỏ như lửa”, trở nên tinh tuyền hơn, chất lượng cao hơn.
Đứng trước tình yêu và cái chết thập giá của Chúa Giêsu, chúng ta phải tỏ thái độ dứt khoát, thưa anh chị em. Hoặc theo Chúa hoặc chối bỏ hay chống đối Ngài. Không thể có thái độ lưng chừng hay trung lập được: “Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hòa bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết, không phải thế đâu, nhưng đúng là để gây chia rẽ”. Bởi vì Lời Chúa luôn chất vấn, hạch sách chúng ta, đòi hỏi chúng ta phải thay đổi não trạng, cách suy nghĩ, lối sống. Và mỗi lần thay đổi, đều phải có sự xáo trộn, sự bất đồng ý kiến, chia rẽ nội bộ.
Nhiều khi chúng ta sợ gây xáo trộn, sợ mất lòng nhau, sợ bất hòa nên đã tránh né đặt lại vấn đề một cách chính xác, sửa đổi một thái độ, một lối sống sai trái của mình hay của anh em. Cần phải tranh đấu nội bộ giữa cá nhân, giữa tập thể để sửa đổi những lỗi lầm, sai trái, mặc dù biết rằng phải qua những bất hòa, xáo trộn, nhưng rồi sẽ đi đến chỗ đổi mới tốt đẹp hơn, phù hợp với ý muốn của Chúa hơn.
Nhiều khi chúng ta nhân danh sự hòa thuận, sự hiệp nhất trong cộng đoàn, trong giáo xứ, trong Giáo Hội, hoặc viện cớ không muốn gây hoang mang, chia rẽ, để duy trì một lối cử hành phụng vụ thụ động, nhàm chán, một lối sống đạo vụ lợi, hình thức, một quan niệm lệch lạc về đạo. Người ta cũng đã từng nhân danh sự hiệp nhất để phủ nhận những nỗ lực đấu tranh cho công bằng, đấu tranh giải phóng những kẻ bị áp bức. Sự hiệp nhất đó chỉ là sự đồng lõa, hiệp nhất trong tội lỗi…
Những ai theo Chúa Giêsu phải quý trọng công bình, quý trọng tình thương yêu đích thực, coi trọng con người và chấp nhận đấu tranh cho những giá trị cao quý đó, dù có phải vì đó mà phải chống lại những người trong gia đình của mình, chống lại bạn bè và cả những người đồng đạo với mình.
Anh chị em thân mến,
Chúa Kitô đã đem lửa tình yêu để thiêu đốt, thanh luyện những thứ bình an, hiệp nhất giả tạo che đậy những bóng tối tội lỗi, Ngài là con người gây xáo trộn, gây chia rẽ; bởi vì Ngài luôn luôn là ánh sáng chiếu soi vào trong bóng tối. Ngài muốn cho trong lòng mọi người đều bùng cháy lên ngọn lửa tình yêu nhiệt thành của Ngài để đổi mới, để sống cho cái mới mà Ngài gọi là Nước Trời. Phải đấu tranh mãi để thế giới luôn tốt hơn, con người luôn hạnh phúc hơn. Người kitô hữu không bao giờ được phép bằng lòng với nguyên trạng, cho dù trong đạo hay ngoài đời, bởi vì tất cả đều phải tiến đến Trời Mới Đất Mới.
19. Khủng hoảng niềm tin – Như Hạ, OP
Lửa đang bùng lên khắp nơi. Từ những vụ ôm bom tự sát tại Trung Ðông tới những cuộc đặt bom phá hoại các nhà thờ tại Nam Dương, lửa đã thiêu sống bao sinh mạng và sản nghiệp. Lửa cũng được đề cập trong Tin Mừng hôm nay như mạc khải về sứ mạng Ðức Giêsu nơi trần gian.
BẬP BÙNG
Ngày Chúa sinh ra, thiên thần ca hát: “Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2:14) Ðức Giêsu chính là sự bình an Chúa Cha ban tặng cho nhân loại. Người từng nói “Thầy để lại bình an cho các con” (Ga 14:25) Người vẫn được tôn xưng là “Thái Tử hòa bình.” Vậy tại sao hôm nay Chúa quả quyết ngược lại (Lc 12: 51)? Lời quả quyết đó làm nhiều người ngạc nhiên và nghi ngờ về sứ mệnh của Chúa trên trần gian. Nếu Người đến “đem sự chia rẽ” đến mối tương quan sâu xa nhất giữa các phần tử trong gia đình, làm sao tránh khỏi chiến tranh ngoài xã hội, quốc gia và quốc tế?
Tự bản chất sứ mệnh Ðức Giêsu là sứ mệnh hòa bình. “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy.” (Ga 14:27) Sứ mệnh đó đã được thực hiện nhờ cuộc hòa giải giữa Thiên Chúa và con người trên thập giá. Thực tế không thiếu người ngộ nhận hay khước từ công cuộc cứu độ của Chúa. Như thế, họ tự tách lìa khỏi đoàn người đón nhận ơn cứu độ. Không đón nhận ơn cứu độ tức là còn sống trong thế đối nghịch với Thiên Chúa. Chính vì thế mới thấy tự do như một định mệnh. Thiên Chúa tôn trọng tự do con người. Lời Chúa như một tặng phẩm, chứ không như một gông cùm xiềng xích nhân loại.
Nhưng nếu chấp nhận sứ mệnh cứu độ của Chúa, đương nhiên con người phải có một quyết định dứt khoát và cam kết sống chết với Ðức Kitô. Chính ý chí cương quyết này sẽ làm cho môn đệ Chúa khác với mọi người. Sở dĩ có thể quyết định và cam kết như thế, vì lòng người môn đệ nung nấu ngọn lửa do Thầy đã ném vào mặt đất (Lc 12:49). “Lửa ấy đã cháy bùng lên!” (Lc 12:49) Lửa đã lan khắp mặt đất. Ðó là “lửa thanh tẩy của Chúa Thánh Linh đã đến với các môn đệ trong Tông Ðồ Công Vụ, chứ không phải lửa thiêu hủy trong ngày phán xét.” (NIB 1995:266) Trong sách Ngụy Phúc âm cũng nói đến lửa sứ mệnh Ðức Giêsu: “Ai gần Tôi là gần lửa; ai xa Tôi là xa Nước Chúa.” (Tin Mừng Thomas 82) Khi Thánh Linh xuất hiện, một dân mới đã được tách ra khỏi thế gian.
Nhưng trước khi ngọn lửa Thánh Linh lan khắp thế gian, chính Ðức Giêsu cũng đã bị ngọn lửa đó thiêu đốt, đến nỗi “lòng Thầy khắc khoải biết bao.” (Lc 12:50) Ngọn lửa đã thiêu Thầy tới chết mà Thầy gọi là “phép rửa Thầy phải chịu.” (Lc 12:50) Tâm hồn Thầy bị giằng co và chìm ngập trong buồn sầu ứa lệ. Toàn thân Thầy rúng động “cho đến khi việc này hoàn tất.” (Lc 12:50) Thầy đã trải qua một cơn xao động tột độ khi đến gần Giêrusalem. Sự giằng co đó đánh dấu một chuyển mình lớn lao đưa Ðức Giêsu vào một khúc ngoặt quan trọng. Quả thực, chính Người cũng phải làm một quyết định rất lớn trước khi thực hiện sứ mệnh Chúa Cha trao cho Người. Sứ mệnh đó khởi đầu bằng việc rao giảng Tin Mừng và kết thúc nơi cái chết thê thảm trên thập giá. Ðó là đường lối Người đã chọn. Vì quyết định và lựa chọn đó, Người đã trở thành nạn nhân đầu tiên của sự chia rẽ giữa những người tin và không tin (NIB 1995:266). Ðúng như lời ông Simêon đã nói tiên tri từ thuở xa xưa (Lc 2:34-35). Người đã từng bị cả đối phương lẫn người thân chống đối (Ga 1:11; Lc 4:28-30) Kết quả Người đã bị dồn vào chân tường, bị kẹt cứng giữa hai lằn đạn. Người đã chết để lộ ra những nét kinh hoàng trong cuộc đối đầu đó, đồng thời mạc khải trọn vẹn Nước Thiên Chúa.
Nước Thiên Chúa đã tạo thành một lằn ranh giữa những người tin và không tin. Nghĩa là Ðức Giêsu đến để “đem sự chia rẽ” (Lc 12:51) và chống đối. Ngay từ xa xưa tiên tri Giêrêmia cũng đã từng đóng vai trò tương tự. Ông đã tuyên sấm ngược với lòng mong đợi của mọi người. Bởi vậy ông đã bị kết án: “Con người ấy chẳng mưu hòa bình cho dân này, mà chỉ gây tai họa.” (Gr 38:4) Biết làm sao được?! Ngôn sứ chỉ nói sự thật. Sự thật mất lòng. Căng thẳng. Căng thẳng đến độ ngôn sứ Giêrêmia suýt chết đói “trong hầm không có nước, mà chỉ có bùn.” (Gr 38:7) Còn Ðức Giêsu thì chết khát thực sự trên thập giá. Ðúng là “sứ điệp?bình an dưới thế? bao giờ cũng phải kèm theo sự đối kháng man dại (2:14; 12:51; 19:42; 24:36). Thật là ngược đời, trong khi hòa giải là công tác của vị tiền hô thiên sai (Ml 4:5-6; Lc 1:17), thì đặc điểm của cuộc khủng hoảng cánh chung là sự chia rẽ bi thảm.” (NIB 1995:267)
Cái gì cũng có mặt trái, kể cả mạc khải của Thiên Chúa. Quả thế, nếu không dám nhìn thẳng vào sự thật, không bao giờ Ðức Giêsu nói những lời chói tai hôm nay. Nói khác, Lời Chúa “phơi bày mặt trái của mạc khải, lời cam kết, và những giá trị Nước Trời.” (NIB 1995:267) Lời Chúa đã can thiệp sâu vào những tương quan rất thân mật giữa các phần tử trong gia đình. Không phải chỉ phân rẽ những mối tương quan đó, nhưng Lời Chúa còn “xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy.” (Dt 4:12) Nghĩa là một cuộc chiến xảy ra ngay trong bản thân mỗi người khi quyết định nghe theo Tin Mừng Bình an của Chúa.
Bình an nào cũng phải trả giá. “Bất cứ nơi đâu Lời Chúa được đón nghe, sự chia rẽ cũng xảy ra giữa những người lắng nghe Lời Chúa (xc Ga:43; 9:16; 10:19).” (NIB 1995:267) Không thể không có mâu thuẫn và xung đột trong chính cá nhân và cộng đoàn. Có thế mới thấy Nước Chúa không dựa trên sức mạnh con người. Chúa có thể lợi dụng cả những đối kháng đó để mưu ích cho Nước Chúa. Vấn đề còn lại là con người có dám quyết định bước theo tiếng Chúa mời gọi hay không. Thực tế, “lời mời gọi con người đi tới quyết định là lời mời gọi?phân rẽ.?” (E.Earle Ellis 1966:182) Ðó là một bi kịch. Nhưng đó cũng là sự thật cho những ai sống theo tiếng mời gọi liên tục của Thiên Chúa.
Lời mời gọi đó nhắm tới việc tạo lập “bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.” (Lc 2:14) Nhưng không thể chiếm sự bình an đó một cách dễ dãi. Phải có một cuộc phấn đấu cam go mới có thể cam kết sống với Chúa và khước từ những tiêu chuẩn trần thế. Từ đó, “thái độ chúng ta đối với của cải vật chất cũng phải thay đổi và những trách nhiệm tinh thần phải được quan niệm một cách nghiêm chỉnh hơn.” (NIB 1995:267) Chính vì thế, theo Ðức Giêsu có nghĩa là thay đổi não trạng và nếp sống cho phù hợp với những tiêu chuẩn Nước Trời. Nghĩa là, mọi sự phải được đánh giá theo thánh ý Chúa. Từ nay, “những ai cam kết sống theo Ðức Giêsu đều thấy mối tương quan với tha nhân, kể cả với những người thân thương nhất, đều bị sự cam kết đó chi phối.” (NIB 1995:267) Ðức Giêsu đã cống hiến cho các môn đệ một tiêu chuẩn sống: “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa.” (Lc 11:28) Nói khác, không còn con đường hạnh phúc nào ngoài việc theo sát lời Chúa. Chính Ðức Giêsu đã tìm được sức mạnh nơi thánh ý Chúa Cha để đem lại hạnh phúc cho chính mình và toàn thể nhân loại.
Nếu Ðức Giêsu đã không sống theo Lời Thiên Chúa, chắc chắn Người đã không thể thành công khi ném lửa xuống trái đất. Ngày nay, muốn tiếp tay với Chúa thiêu đốt cả trần gian, chúng ta phải để lời Chúa xâm chiếm trọn con tim và cuộc đời mình. Từ đó, “chúng ta sẽ thay đổi nếp sống cũ, dựa trên những giá trị, thứ bậc ưu tiên, mục đích và hành vi thành hình từ sự cam kết sống với Chúa Kitô. Những thay đổi này sẽ nhanh chóng tạo nên những khủng hoảng trong những mối tương liên quan trọng.” (NIB 1995:267) Mọi suy nghĩ sẽ đảo ngược. Mọi vấn đề sẽ phải đặt lại. Cuộc đời thánh Phaolô là một điển hình. Sau khi trở lại, thánh nhân đã chứng kiến một thay đổi ngoạn mục trong tâm hồn và nếp sống: “Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Ðức Kitô Giêsu, Chúa của tôi, vì Người tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Ðức Kitô.” (Pl 3:8)
HAI CUỘC KHỦNG HOẢNG.
Kinh nghiệm của thánh Phaolô cũng là kinh nghiệm của tất cả những ai đang nung nấu ngọn lửa Thánh Linh trong tâm hồn. Ngọn lửa lan tới đâu, tất cả đều biến đổi tới đó. Tất cả đều bứt tung trong lửa. Trong ngọn lửa đó, “chúng ta hãy cởi bỏ mọi gánh nặng và tội lỗi đang trói buộc mình.” (Dt 12:1) Ngọn lửa đó cũng soi sáng để “mắt hướng về Ðức Giêsu là Ðấng khai mở và kiện toàn lòng tin.” (Dt 12:2) Từ đó, chúng ta mới thấy tất cả đổi mới. Chính niềm tin là ánh sáng hắt ra từ ngọn lửa Thánh Linh sẽ cho ta thấy hết mọi sự, từ những giới hạn, thiếu sót và tội lỗi chúng ta đến hồng ân Thiên Chúa tuyệt vời trong vũ trụ và con người.
Chính vì thiếu vắng niềm tin đó, nhân loại hôm nay vẫn chưa tìm được lối thoát. Cơn khủng hoảng hôm nay bắt nguồn từ việc chối từ Thiên Chúa trong cuộc sống. Bởi vậy, muốn có hòa bình, phải tin tưởng tuyệt đối vào tình yêu Thiên Chúa nơi Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Muốn đạt tới niềm tin đó, con người sẽ trải qua một cuộc khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng này khác hẳn cuộc khủng hoảng vô thần. Một bên báo hiệu sự trưởng thành. Một bên dẫn tới tiêu vong. Những khủng hoảng đó dẫn tới những đối kháng khác nhau về mức độ và bản chất.
Hôm nay, Kitô hữu đang trải qua những khủng hoảng và gặp những đối kháng khắp nơi trên thế giới. Từ những cuộc bắt bớ, chém giết tại những nước không tôn trọng nhân quyền đến những giới hạn về nhiều mặt đối với những tín hữu đang tranh đấu cho sự sống. Ngay trên đất nước tôn trọng tự do và nhân quyền như Hoa kỳ, Kitô hữu cũng có thể bị bách hại. Chẳng hạn, hiện nay “Hội Ðồng Thành Phố New York đang cứu xét một đề nghị cấm phổ biến truyền đơn, lên tiếng phản đối, cố vấn, hay đến gần các phụ nữ nằm trong bệnh viện phá thai. Biểu tình phản đối phá thai có thể là một hành vi phi pháp và những người phạm pháp có thể lãnh sáu tháng tù.” (CW News 16/8/2001) Phong trào ủng hộ phá thai phải mạnh tới mức nào mới ảnh hưởng tới cơ quan lập pháp như thế! Nhưng ÐGM Thomas Daily đã công khai phê bình: dự luật đó “trực tiếp tấn công những quyền tự do của người dân New York và đặc biệt nó giới hạn việc thực thi quyền tự do ngôn luận và tôn giáo không thể chấp nhận được.” (CW News 16/8/2001)
Cuộc đối kháng giữa những người phò và chống sự sống con người đang tạo nên khủng hoảng khắp nơi. Những người ủng hộ phá thai hay những kẻ sát nhân đang bách hại con người một cách có hệ thống và tổ chức trên cấp độ quốc gia cũng như quốc tế. Chẳng hạn, Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế, Ngân hàng Thế giới, và Ngân hàng Phát triển Liên Mỹ Châu chỉ chi viện nếu các nước Châu Mỹ La tinh tham dự vào những chương trình kế hoạch hóa gia đình của Liên hiệp quốc. Bằng chứng, sau cơn động đất tàn hại vừa qua, El Salvador đã được Quĩ Tài trợ Dân số của Liên Hiệp Quốc viện trợ cả những viên thuốc và dụng cụ phá thai (CW News 16/8/2001)
Rõ ràng niềm tin đang mất dần ảnh hưởng trên lương tâm con người. Cuộc khủng hoảng vào tận gia đình và lan tới phạm vi quốc tế. Cuộc khủng hoảng đó bắt nguồn từ niềm tin nơi Thiên Chúa. Ðức tin cũng là ngọn lửa Ðức Giêsu ném vào mặt đất. Ngọn lửa ấy đang bùng lên từ trong tâm hồn đến cộng đoàn, mặc dù đang gặp trở ngại từ nhiều phía. Nhưng cuối cùng ngọn lửa sẽ lan ra khắp vũ trụ, vì Ðức Giêsu đã quả quyết: “Thầy đã chiến thắng thế gian!” (Ga 16:33)
20. Phải chi lửa ấy đã bùng lên!
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng)
1. Nguội lạnh
Một thân xác nguội lạnh – là một thân xác đã chết. Đó là một thây ma.
Một trái tim nguội lạnh – là một trái tim vô cảm. Đó là một trái tim chai đá.
Một tâm hồn nguội lạnh – là một tâm hồn đen tối. Đó là một tâm hồn không tìm thấy được Lẽ Sống.
Một linh hồn nguội lạnh – là một linh hồn hấp hối. Đó là một linh hồn đã đánh mất Niềm Tin.
Khi thân xác, tâm hồn kiệt quệ, mòn mỏi, rã rời… Đó là lúc con người “hết lửa”!
Tất cả trở nên buốt giá, tê liệt, không còn sức sống!
Phàm, đã là con người, ai cũng hơn một lần đau khổ. Thế giới đông người nhưng có lúc ta vẫn thấy mình rất cô đơn. Có những giọt lệ âm thầm chỉ một mình ta, không hề có ai chia sẻ.
“Mà đêm nghe tiếng khóc ở đáy lòng.
Ở trong phổi, trong tim, trong hồn nữa..” (HMT).
Hết “lửa” là hết còn độ “nóng”. Hết còn “nhiệt”!
Hết còn “nhiệt thành”, hết còn “nhiệt tâm”, hết còn “nhiệt tình”, hết còn “nhiệt huyết”…
Tất cả trở nên giá lạnh, ủ rũ, thân tàn ma dại, đờ đẫn như kẻ mất hồn…
Bức tranh về cuộc đời trở nên ảm đạm, buông xuôi, còn sống nhưng coi như đã chết, sống còn đau khổ hơn cả cái chết.
“Một khối tình nức nở giữa âm u,
Một hồn đau rã lần theo hương khói,
Một bài thơ cháy tan trong nắng dọi,
Một lời run hoi hóp giữa không trung,
Cả niềm yêu, ý nhớ, cả một vùng,
Hoá thành vũng máu đào trong ác lặn” (HMT)
2. Lửa thế gian…
Thế nên, “lửa” là sức sống.
Khi thân xác hồi sinh thì nồng ấm dần lên.
Khi tình người được cải thiện thì nồng ấm dần lên…
Khi con tim biết yêu thương thì nồng cháy bùng lên…
Nhưng, ngọn lửa thế gian dễ dàng lịm tắt.
Ngọn lửa thế gian không đủ mạnh để bùng cháy trước giông tố cuộc đời.
Ngọn lửa thế gian không đem lại sự sống và hạnh phúc đời đời.
Ngọn lửa thế gian không đủ mạnh để cuộc đời thôi giá lạnh.
Ngọn lửa thế gian bị dập tắt trong cơn phong ba tham vọng, bạc tiền…
Và con tim nhân loại lại giá lạnh và dửng dưng,
Thế giới lại giá băng và tình đời đen bạc…
Một thế giới nguội lạnh là một thế giới chết.
3. Lửa ấy… Lửa Thánh Thần…
“Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!” (Lc 12,49).
“Lửa ấy” đến từ Thiên Chúa. “Lửa ấy” là Lời Chúa, là Lời Tình Yêu, là Giới Luật Yêu Thương.
“Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1,9).
“Lửa ấy” được “ném vào thế gian”, và “Lửa ấy” được Thánh Thần làm cho bùng cháy lên trong mọi con tim biết đón nhận Lời Chúa.
“Nhưng Đấng bảo trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng ấy sẽ dạy cho anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em”. (Ga 14,26).
“Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến” (Ga 15,13).
Thánh Thần ban sức mạnh để Lời Chúa biến thành hành động, Lời Chúa được rao giảng, thực thi với lòng nhiệt thành, can đảm và khôn ngoan. “Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho. (Cv 2,3).
“Lửa ấy” bùng cháy lên tình yêu dành cho Thiên Chúa và tha nhân. Một tình yêu chan hòa trên thế giới, nơi đó mọi người là anh em và Thiên Chúa là Cha.
“Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến, cho tâm hồn tín hữu được nhuần thấm muôn ơn, và cháy lửa yêu mến Ngài” (Tung hô Tin Mừng lễ Hiện Xuống).
4. Phải chi lửa ấy đã bùng lên…
Nỗi lòng của Chúa Giêsu yêu thương con người thật tha thiết. Ngài muốn con người nhận ra được sự thật về Tình Yêu của Thiên Chúa dành cho con người và mọi người đều là con cái Chúa nên phải yêu thương nhau. Chúa Giêsu đã ném ngọn lửa Tình Yêu Thiên Chúa vào mặt đất. Ngài muốn Lời Yêu Thương – Tin Mừng – được bùng cháy khắp nơi. “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!” (Lc 12,49).
Ngọn lửa Tình Yêu ấy bùng cháy không chỉ bằng lời, mà bằng hiến tế của chính Chúa Giêsu trên Thập Giá.
Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất! (Lc 12,50).
Nhưng, lửa ấy chưa bùng cháy lên trong hết mọi con tim như lòng Chúa mong ước! Lửa ấy chưa bùng cháy lên trên cõi trần gian này. Nên trần gian còn tăm tối. Thế gian còn giá lạnh. Thế giới còn hận thù, chiến tranh, chia rẽ…
Bởi chuyến tàu dục vọng của cuộc đời luôn luôn hấp dẫn. Danh vọng, bạc tiền, chức quyền, địa vị… đâu dễ hy sinh. Chấp nhận sự thật nhiều khi cũng không dễ dàng gì, dù biết chắc chắn không thể sai lầm.
Sự thật là Giêsu vô tội, nhưng để bảo vệ một Giêsu vô tội, người có quyền lực lại lo ngại trước cái giá phải trả sau này.
“Các ngươi cứ đem ông này đi mà đóng đinh vào thập giá, vì phần ta, ta không tìm thấy lý do để kết tội ông ấy”. (Ga 19,6).
Chúa Giêsu Ngài hiểu rõ sự yếu đuối của con người. Con người chỉ có thể hiệp nhất một trong chân lý. Thế nhưng, như Phi-la-tô hỏi Chúa Giêsu “Sự thật là gì?” (Ga 18,38), rồi cũng không muốn tìm hiểu xa hơn, vì xét thấy chẳng có lợi gì mà còn có thể mang họa. Thế nên, trong cuộc đời, có biết bao nhiêu ngã rẽ, và cũng có nghĩa là đối diện với bất hòa, chia rẽ.
“Vì từ nay, năm người trong cùng một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba chống lại hai, hai chống lại ba…” (Lc 12,52).
Vì thế, mang tâm tình của Chúa Giêsu, những môn đệ Chúa, những Kitô hữu, chúng ta, luôn khát khao và không ngừng cố gắng thực hiện niềm khao khát ấy: “Phải chi…”
Phải chi Thế Giới cùng chung lời ca tụng Chúa…
Phải chi Đất Nước cùng một lòng ca ngợi Thiên Chúa…
Phải chi mọi người trong Gia đình đều thờ phượng chúa…
Phải chi những người tin Chúa yêu thương đoàn kết nhau… Phải chi… Phải chi… và rất nhiều cái “phải chi…”.
Đó là tâm tình, là ước mong của Chúa Giêsu, và ta tiến bước theo Ngài với tâm tình đó: “Phải chi lửa ấy đã bùng lên…” (Lc 12,49).
Lạy Chúa,
Phải chi con là Vua,
Con sẽ bắt mọi người theo đạo.
Phải chi con có nhiều bạc tiền, cơm gạo,
Con sẽ bố thí cho những người nghèo.
Phải chi con có đủ sức vượt núi băng đèo,
Con sẽ đến những miền xa xăm rao truyền Lời Chúa.
Phải chi đời con đừng chóng già nua tàn úa,
Con sẽ phục vụ Chúa dài lâu…
Và… Phải chi… Phải chi… nhiều lắm…
Con không kể hết đâu…
Con tính toán đủ điều vì danh Cha cả sáng…
Nhưng, dù những gì con mơ đạt được hàng trăm hàng vạn…
Lại thiếu con tim bừng cháy lửa tình yêu…
Cơn gió lốc cuộc đời sẽ cuốn hết mọi điều…
Khi Lửa Tình Yêu trong cõi lòng đã tắt…
Rồi tất cả ảo ảnh đời biến mất
Khi Lửa Tình Yêu Chúa không còn bùng cháy trong tim…
Lạy Thánh Thần, nguồn sức mạnh vô biên:
“Cho lửa ấy bùng lên trong cuộc sống”! Amen.
21. ‘Ai ở gần Ta, là ở gần lửa’ – Achille Degeest
(Trích dẫn từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Lửa trong Cựu Ước tượng trưng cho quyền năng tối thượng, tác động thanh luyện và sự hiện diện đáng sợ của Thiên Chúa. Tiến xa hơn, Tân Ước nhìn thấy trong lửa biểu tượng của tình yêu vô biên và làm biến đổi của Thiên Chúa đối với loài người. Nói về lửa Người mang đến thế gian, Chúa nghĩ nhiều nhất đến sứ mạng của Người giữa nhân loại. Chúa đem đến một sự hiện diện mới mẻ của Đấng Tối Cao. Thiên Chúa không chỉ là Đấng tạo nên khởi nguyên đầu tiên, Người là Toàn thể Tình yêu đến biến đổi con người bằng một sáng tạo mới. Origênê, một tác giả thời đầu Giáo hội, gán cho Đức Giêsu dụ ngôn này: Ai ở gần Ta là ở gần lửa. Làm sao có thể khác được? Trong các ngôn ngữ khắp địa cầu, tình yêu bao giờ cũng chọn lửa làm phương cách diễn tả huống hồ là Tình yêu nóng cháy vô cùng của Thiên Chúa so sánh với một lò lửa đỏ rực. Đức Kitô là sự măc khải về Tình yêu ấy. Không thể đến gần Đức Kitô mà không thấm được ánh sáng và sức nóng. Khi Chúa phán thêm rằng Người phải nhận lãnh một sự thanh tẩy (Chúa ám chỉ sự thanh tẩy do Thương khó và Phục sinh), Đức Giêsu vạch rõ sự thể Người đến tạo ra một khởi nguyên mới. Thực tại trước kia nay biến đổi nhờ được ghép thêm một thực tại cao quý hơn, con người được nâng lên hầu tham gia sự Tuyệt Đối. Theo hướng suy niệm ấy, chúng ta chú ý đến hai việc:
1) Ngọn lửa bên trong Đức Giêsu Kitô không chỉ là sự thanh khiết tuyệt đỉnh trong tâm hồn và sự tự do thiêng liêng thượng đẳng. Loài người hằng cố gắng đạt tới cao độ thanh khiết và tự do ấy, chúng ta thấy trong lịch sử hoặc xung quanh chúng ta có những cố gắng biểu lộ một tấm lòng thật sự cao quý. Nhưng điều mà Chúa mang đến không phải là thành quả nỗ lực nhân loại. Đây là một điều gì từ cõi cửu trùng ban xuống, thấm đượm con người. Bài tường thuật về sáng tạo cũ bắt đầu bằng câu: Lúc khởi nguyên. Lịch sử cuộc đời Đức Kitô mở đầu bằng một câu tương tự: Lúc khởi nguyên đã có Đức Giêsu Kitô. Điều này đúng cho toàn bộ lịch sử nhân loại do Đức Kitô đảm nhiệm, và phảỉ đúng cho mỗi Kitô hữu. Cuộc đời mỗi Kitô hữu đều có một khởi điểm là Đức Giêsu Kitô. Chúng ta nói thêm, nếu Chúa có ở lúc bắt đầu, tất phải có ở lúc giữa và lúc kết thúc.
2) Ngọn lửa bên trong Đức Giêsu Kitô phải thấm đượm điều gì tốt nhất trong chúng ta, khiến nó thành vững chắc, lâu bền, trong sạch. Chúng ta biết, trong Chúa chúng ta tiến lên đời sống siêu nhiên, – do đó chúng ta rút ra những hệ luận thực tiễn. Yêu thương anh em, ra sức hoạt động cải thiện thế giới, vẫn chưa đủ – xả thân cho hạnh phúc nhân loại, vẫn còn thiếu, vì chung cục có gì là chắc? Chỉ còn lại cái Bước đầu như trên là cần, nhưng phải tiến xa hơn nữa. Phải yêu mến Đức Kitô, sống Đức Kitô. Theo mức độ ân huệ nhận được, Kitô hữu có trách nhiệm làm cho tình yêu của Đức Kitô hiện diện trong thế giới. Kitô hữu phải tin chắc điều này: Thế giới cần được ơn trên soi sáng để hiểu rõ tại sao có mình, hơn là cứ mỗi thế kỷ lại nêu ra không biết bao tham vọng mỗi lần dưới một bộ mặt đổi khác, muốn tự tổ chức thành thiên đường hạ giới, mơ tưởng xây dựng một thiên đường tình yêu. Kitô hữu phải đóng góp vào những nỗ lực cải thiện thế giới, có trách nhiệm lái những nỗ lực ấy theo phương hướng Chúa muốn.
22. Phong trào Thánh Thần trong thời đại của chúng ta
(Trích dẫn từ ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)
Ngày hôm nay “căng thẳng” là một từ vựng rất quen thuộc với nhiều người. Chúng ta nhận biết rằng, căng thẳng ở nơi công việc, căng thẳng trong hôn nhân, căng thẳng trong lần gặp gỡ nhau cuối cùng. Sự căng thẳng xảy ra khi sức mạnh chuyển đến những hướng đối nghịch. Một thí dụ đơn giản là một sợi dây cao su. Khi kéo sợi dây theo hướng đối nghịch bạn cảm thấy căng thẳng. Nếu sự căng thẳng tiếp tục tăng lên sợi dây sẽ đứt, Chúa Giêsu cảnh báo rằng giáo lý của Ngài sẽ mang đến những sự căng thẳng và sẽ tận cùng bằng chia rẽ ngay cả những người trong gia đình.
Trong gia đình Giáo Hội có sự căng thẳng, đặc biệt là trong nhiều nơi đối với phụng vụ. Chúng ta phải trở thành sống động giống như một gia đình hạnh phúc, luôn hợp nhất và bình an, nhưng những lực kéo đang kéo tới hướng đối nghịch, một số ước vọng hướng tới việc phục hồi Công đồng Vatican II, còn những người khác lại muốn trở lại thần học và những thực hành thuở ban đầu.
Đây là một cuộc nói chuyện thẳng thắn. Sự chuyển động trở lại phía sau thì không đúng hướng. Nhiều người muốn tin rằng Đức Giáo Hoàng thì bảo thủ cực đoan và hối hận vì Công đồng Vatican II đã dẫn Giáo Hội đến không phải chỉ những ước muốn vô vọng; và là một sỉ nhục cho Chúa Thánh Thần. Đực Giáo Hoàng có vẻ như đã bác bỏ những tiếng nói mạnh mẽ phàn nàn chống lại Công đồng, ngài không đồng ý với ý hướng của họ.
Tại một cuộc gặp gỡ quan trọng của các Hồng Y trên thế giới vào mùa hè năm 1994, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tuyên bố: “Phụng vụ không nghi ngờ gì là trung tâm của đời sống Giáo Hội. Tiến trình canh tân phụng vụ trong tinh thần của Công đồng Vatican II vẫn luôn tiếp tục dưới sự hướng dẫn và giám sát của thánh bộ phụng tự và kỷ luật của các bí tích”.
Đức Giáo Hoàng đã hành động theo lời tuyên bố trang trọng trong Hiến chế về phụng vụ của Công đồng. Một tuyên bố sẽ linh hứng cho mọi người trong Giáo Hội và phải hướng dẫn mỗi Giám mục, linh mục:
“Nhiệt thành trong việc đề xướng và canh tân phụng vụ phải được xem như một dấu chỉ sự xếp đặt quan phòng của Thiên Chúa trong thời đại của chúng ta, như là một chuyển động của Thánh Thần trong Giáo Hội của Người. Sự kiện này còn là một đặc điểm nổi bật của đời sống Giáo Hội cũng như mọi cách thế suy tư và hoạt động đầy tinh thần đạo giáo của thời đại chúng ta” (số 43).
Các bạn đã chia sẻ những đau buồn khi đọc những bài viết tấn công của những người Công Giáo về Công đồng Vatican II: “Công đồng Vatican II đã mở cửa cho những sự dữ bước vào Giáo Hội, bởi vì Công đồng đã làm một cuộc cách mạng tầm cỡ thế giới chống lại trật tự của Thiên Chúa”. Nếu các bạn đã tham dự vào điều đó, cám ơn Chúa vì sự nhiệt thành này. Nếu các bạn có buông thả bởi bất cứ sự thay đổi nào, hãy loại bỏ chúng như là một sự dữ. Theo lời khuyên của thư Do Thái: “Hãy để chúng ta luôn nhìn ngắm vào Chúa Giêsu, Đấng luôn luôn linh hứng và hoàn hảo đức tin của chúng ta”.
Dĩ nhiên có những lạm dụng chống lại phụng vụ nhưng không thể thứ lỗi cho việc tấn công vào chính việc phục hồi phụng vụ. Chúng ta không thể loại bỏ hệ thống tòa án của xứ sở chúng ta bởi vì những quan tòa và bồi thẩm đều thất bại khi hành động theo sự công chính. Sự lạm dụng không phải là hệ thống mà là một sự đối nghịch lại với hệ thống. Đừng chấm dứt nơi mặt sai chống lại Thiên Chúa như đã làm bởi những hoàng tử làm với tiên tri Giêrêmia, vị tiên tri của Thiên Chúa là đưa ông tới sự chết. Sự thúc đẩy và phục hồi phụng vụ thánh là công việc của Thiên Chúa qua Thánh Thần. Đừng trở nên nguyên nhân gây ra sự căng thẳng trong Giáo Hội. Hãy bảo đảm là các bạn đang cố gắng trong cùng một hướng với Chúa Thánh Thần.
23. Lửa tình yêu
(Suy niệm của Huệ Minh)
Chúa Giêsu đem lửa xuống trần gian và lửa ấy chính là bản thân Ngài và Phúc Âm của Ngài. Ngài đã rao giảng Tin Mừng để soi chiếu cho những người còn ngồi trong bóng tối sự chết, để sưởi ấm cho những tâm hồn giá băng cũng như để thiêu huỷ mọi tội lỗi của nhân loại.
Nói đến lửa, ai cũng biết tầm quan trọng và công dụng của nó là sáng, nóng, sưởi ấm, đốt cháy, thiêu hủy. Ai trong chúng ta cũng cần lửa. Lửa rất có ích lợi, nhưng cũng rất nguy hiểm. Nó dùng để nấu nướng thức ăn và chế biến nhiều thứ khác, nhưng nó cũng có thể đốt cháy nhà cửa và thiêu rụi tài sản của chúng ta. Vì thế, đâu đâu cũng có sở cứu hỏa, sở chữa cháy, và nhắc nhở chúng ta đề cao cảnh giác: phòng cháy, chữa cháy, đừng đùa giỡn với lửa.
Trong cái nhìn của thánh Luca, lửa mà Chúa Giêsu muốn làm bùng lên trên toàn cầu, chắc là thứ lửa của Phép Rửa trong Thánh Thần (Cv 1,5). Lửa này đã ngự xuống từng người vào lễ Ngũ Tuần (Cv 2,3).
Lễ Ngũ Tuần quả là Phép Rửa trong lửa, nhưng đó mới chỉ là một khai mở ban đầu. Còn cần vô số những lễ Ngũ Tuần khác trên thế giới.
Ngọn lửa Chúa Giêsu muốn nhóm lên không phải là ngọn lửa của án phạt và hủy diệt, không phải là thứ lửa từ trời mà Gioan và Giacôbê định xin đổ xuống trên một làng của xứ Samari. Đây là ngọn lửa vẫn bừng cháy trong tim Ngài, lửa của Thánh Thần, lửa của yêu thương, lửa hâm nóng hai môn đệ Emmau đang tuyệt vọng.
Chúa Giêsu đem lửa xuống trần gian và lửa ấy chính là bản thân Ngài và Phúc Âm của Ngài. Ngài đã rao giảng Tin Mừng để soi chiếu cho những người còn ngồi trong bóng tối sự chết, để sưởi ấm cho những tâm hồn giá băng cũng như để thiêu huỷ mọi tội lỗi của nhân loại.
Chúa Giêsu mang ánh sáng này xuống trần gian. Và Người ước mong cho ngọn lửa yêu thương cháy bừng lên soi sáng cho thế giới: “Thầy đã đến ném lửa vào trái đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!”. Lời ước mong thật tha thiết nhưng có pha lẫn ngậm ngùi. Phải chi lửa ấy đã bùng lên có nghĩa là lửa ấy chưa bùng lên cao, chưa lan ra xa.
Thật vậy, nhìn vào tình hình thế giới, chiến tranh không lúc nào ngơi. Thế kỷ 20 đã biết đến hai cuộc thế chiến với biết bao thiệt hại về người về của và nhất là về tình đoàn kết. Trong thập niên 80, chiến tranh lạnh giữa hai khối Đông-Tây chấm dứt, người ta tưởng rằng giấc mơ hoà bình thế là đã thành sự thật. Nhưng không, chiến tranh vẫn tiếp diễn ở Rwanda, Kosovo, ở Trung Đông… ánh sáng vẫn chưa soi tới những vùng chiến tranh. Bóng tối hận thù vẫn còn vây phủ. Những người anh em vẫn còn chém giết nhau.
Ngọn lửa bên trong Chúa Giêsu không chỉ là sự thanh khiết tuyệt đỉnh trong tâm hồn và sự tự do thiêng liêng thượng đẳng. Loài người hằng cố gắng đạt tới cao độ thanh khiết và tự do ấy, chúng ta thấy trong lịch sử hoặc xung quanh chúng ta có những cố gắng biểu lộ một tấm lòng thật sự cao quý. Nhưng điều mà Chúa mang đến không phải là thành quả nỗ lực nhân loại. Đây là một điều gì từ cõi cửu trùng ban xuống, thấm đượm con người. Bài tường thuật về sáng tạo cũ bắt đầu bằng câu: Lúc khởi nguyên. Lịch sử cuộc đời Đức Kitô mở đầu bằng một câu tương tự: Lúc khởi nguyên đã có Đức Giêsu Kitô. Điều này đúng cho toàn bộ lịch sử nhân loại do Đức Kitô đảm nhiệm, và phải đúng cho mỗi Kitô hữu. Cuộc đời mỗi Kitô hữu đều có một khởi điểm là Đức Giêsu Kitô. Chúng ta nói thêm, nếu Chúa có ở lúc bắt đầu, tất phải có ở lúc giữa và lúc kết thúc.
Ngọn lửa bên trong Chúa Giêsu phải thấm đượm điều gì tốt nhất trong chúng ta, khiến nó thành vững chắc, lâu bền, trong sạch. Chúng ta biết, trong Chúa chúng ta tiến lên đời sống siêu nhiên, – do đó chúng ta rút ra những hệ luận thực tiễn. Yêu thương anh em, ra sức hoạt động cải thiện thế giới, vẫn chưa đủ – xả thân cho hạnh phúc nhân loại, vẫn còn thiếu, vì chung cục có gì là chắc? Chỉ còn lại cái Bước đầu như trên là cần, nhưng phải tiến xa hơn nữa. Phải yêu mến Đức Kitô, sống Đức Kitô. Theo mức độ ân huệ nhận được, Kitô hữu có trách nhiệm làm cho tình yêu của Đức Kitô hiện diện trong thế giới. Kitô hữu phải tin chắc điều này: Thế giới cần được ơn trên soi sáng để hiểu rõ tại sao có mình, hơn là cứ mỗi thế kỷ lại nêu ra không biết bao tham vọng mỗi lần dưới một bộ mặt đổi khác, muốn tự tổ chức thành thiên đường hạ giới, mơ tưởng xây dựng một thiên đường tình yêu. Kitô hữu phải đóng góp vào những nỗ lực cải thiện thế giới, có trách nhiệm lái những nỗ lực ấy theo phương hướng Chúa muốn.
Chúa Giêsu đem ngọn lửa xuống trần gian. Ngọn lửa tình yêu vĩnh cửu bốc cháy trong trái tim Ngài. Khi hiến mạng sống cho con người chỉ vì quá yêu thương con người, Ngài đã châm ngọn lửa yêu thương vào lòng con người. Và Ngài thốt lên với tất cả nỗi lòng khắc khoải: “Thầy đã đến đem lửa xuống trần gian. Nào Thầy có mong muốn gì hơn là mong cho lửa ấy cháy bùng lên”. Cháy bùng lên, không phải để rồi tắt ngấm. Nhưng cháy lên để tiếp tục cháy mãi.
Chúa Giêsu đem lửa yêu thương đến trần gian và Ngài mong muốn ngọn lửa ấy bùng cháy lên. Đó là tâm nguyện của Chúa và cũng là trách nhiệm của mỗi người chúng ta. Nếu con người cần cơm bánh để sống, thì họ cũng cần tình yêu để tồn tại. Nếu con người cần áo quần để che thân, thì họ cũng cần tình thương để sưởi ấm. Nếu con người muốn được bình an để vui sống, thì chỉ có tình thương mới đáp ứng được ước muốn đó. Đó là bổn phận của chúng ta.
Và rồi chúng ta hãy nhớ: “Không ai có thể cho người khác cái mình không có”, nghĩa là chỉ khi nào ngọn lửa yêu thương thực sự sáng lên nơi mỗi người chúng ta, trong gia đình chúng ta, trong cộng đoàn chúng ta, trong Hội thánh chúng ta thì chúng ta mới có thể loan báo và đem tình yêu thương đến cho những người khác.
Mỗi Kitô hữu chúng ta đều đã được Chúa Kitô châm ngọn lửa tình yêu của Ngài vào lòng. Ngọn lửa tình yêu ấy cần phải được chăm sóc, giữ gìn và làm cho cháy sáng hơn mãi.
Chúa Kitô đã đem lửa tình yêu để thiêu đốt, thanh luyện những thứ bình an, hiệp nhất giả tạo che đậy những bogn1 tối tội lỗi, Ngài là con người gây xáo trộn, gây chia rẽ; bởi vì Ngài luôn luôn là ánh sáng chiếu soi vào trong bóng tối. Ngài muốn cho trong lòng mọi người đều bùng cháy lên ngọn lửa tình yêu nhiệt thành của Ngài để đổi mới, để sống cho cái mới mà Ngài gọi là Nước Trời. Phải đấu tranh mãi để thế giới luôn tốt hơn, con người luôn hạnh phúc hơn. Người Kitô hữu không bao giờ được phép bằng lòng với nguyên trạng, cho dù trong đạo hay ngoài đời, bởi vì tất cả đều phải tiến đến Trời Mới Đất Mới.
Ta xin Chúa khơi cho ngọn lửa yêu thương bừng sáng lên. Hãy đẩy lùi bóng tối chiến tranh, chia rẽ, hận thù. Hãy mở rộng tâm hồn đón nhận và ban phát yêu thương, xoá đi những nhỏ nhen, ích kỷ. Để mọi người nhìn nhau là anh em thực sự. Bấy giờ đêm mới tàn và ngày mới bắt đầu. Bóng tối nhường chỗ cho ánh sáng, ánh sáng rực rỡ phát xuất từ những trái tim chan hòa yêu thương.
24. Bước theo Đức Kitô trên đường Thập Giá
(Suy niệm của Huệ Minh)
Trang sách Giêrêmia mà ta vừa nghe thật gay cấn.
Vua xứ Giuđa bấy giờ đã tuyên thệ phục tùng vua Babylon trước mặt Thiên Chúa. Nhà tiên tri coi lời thề đó như thánh ước vì đã lấy Danh Ðức Giavê mà thề. Do đó, khi vua Giuđa và hàng khanh tướng có ý đồ bội ước, phản lại vua Babylon và cầu cạnh vua Ai Cập, thì nhà tiên tri phải lên tiếng. Ông tố cáo sự lật lọng của nhà Giuđa đối với Thiên Chúa là Ðấng luôn trung thành.
Lẽ dĩ nhiên ông đã lợi dụng cơ hội này để kể hết các bội phản của dân thất ước. Ông bực mình nhất vì thái độ giả hình của họ. Họ cứ vỗ ngực xưng mình là dân của Chúa đang khi không ngớt vứt bỏ lệnh truyền của Người. Họ căn cứ vào việc Chúa đã chọn họ làm dân ưu tuyển, để luôn cư xử bất công với mọi dân khác, coi dân ngoại chỉ như bàn đạp cho họ tiến lên.
Giêrêmia chống đối thái độ giả đạo đức và tự phụ khinh người ấy. Ông luôn nhắc nhở phải trở về với Thiên Chúa và biết rằng Người coi trọng các dân tộc. Nhưng những lời ông nói đều bị bỏ ngoài tai. Vua Giuđa tiến hành ý đồ phản lại Babylon. Nước này đem quân xuống đánh, vây chặt thủ đô Giêrusalem. Giêrêmia cũng bị nằm trong vòng vây.
Và như vậy, Giêrêmia đã trở thành ngôn sứ đặc biệt của Ðức Giêsu Kitô chịu đóng đinh. Cuộc đời của ông báo trước cuộc Tử nạn của Người. Ông là một trong đoàn thể chứng nhân đông đảo bao quanh chúng ta, trong cuộc đời đầy phấn đấu hiện nay.
Cuộc đời của Giêrêmia rất đỗi éo le. Nói đúng hơn, từ ngày Thiên Chúa đặt lời của Người trong miệng ông để ông làm ngôn sứ, tuyên bố các phán quyết của Người thay cho chính Người, Giêrêmia đã trở thành tường đồng cự lại cả xứ, cự lại các vua Giuđa và hàng khanh tướng. Ngay hàng tư tế cũng tuyên chiến với ông (x. chương 1). Chẳng phải tại ông bướng bỉnh. Ngược lại, ông luôn cảm thấy mình chỉ là một đứa trẻ. Nhưng Lời Chúa đã ập xuống trên ông, bắt ông đứng dậy tuyên sấm cho dân phản loạn. Họ đã chối bỏ mạch nước hằng sống để đào cho mình bể rò không chứa được nước (2,13).
Thân phận của Giêrêmia là như vậy. Thân phận của Chúa Giêsu chắc có lẽ cũng giống thân phận đau khổ của Giêrêmia.
Sau khi đã nói về sứ mạng của Mình, Đức Giêsu muốn đi xa hơn để tiên báo về những hệ lụy sẽ xảy đến cho cuộc đời của những người tin và theo Ngài, Ngài nói: “Các con tưởng rằng Thầy đến đem hòa bình cho trần gian? Thầy bảo cho các con biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ” (Lc 12,49.51).
Chúa Giêsu đang tiến về Giêrusalem để đi vào cuộc Thương Khó; tâm hồn Người khắc khoải. Chỉ qua cuộc Khổ Nạn–Phục Sinh, ơn cứu độ mới được ban cho loài người. Nhận ra được điều này, chúng ta được mời gọi bỏ đi những phương tiện dễ dãi, những phương tiện to lớn chúng ta đang dùng để bảo đảm mọi phương diện cuộc sống chúng ta. Ngoài ra, nếu muốn đốt lên trên trái đất một ngọn lửa như Đức Giêsu đã nhen lên, chúng ta không thể tránh né “phép rửa” Đức Giêsu đã chịu, tức phải chấp nhận đi qua con đường tự hiến, thất bại, chấp nhận hiến tặng cuộc sống chúng ta.
Thập giá chỉ là một phát minh độc ác của con người để hủy hoại nhau; mãi mãi thập giá vẫn là biểu tượng sự độc ác của con người. Nếu Chúa Giêsu đã ôm trọn Thập giá, thì không phải vì Ngài yêu sự độc ác, tự đày đọa mình, nhưng chính là để thể hiện tình yêu tột độ của Thiên Chúa. Dù con người có độc ác, xấu xa đến đâu, Thiên Chúa vẫn yêu thương, tha thứ cho họ. Chiến thắng của Chúa Kitô chính là chiến thắng của tình yêu trên hận thù, của ân sủng trên tội lỗi, của niềm tin trên thất vọng.
Cái chết của Chúa, cuộc thương khó của Ngài, đó là Phép Rửa mà Chúa Giêsu muốn nói đến trong đoạn Tin Mừng hôm nay: “Thầy còn một Phép Rửa phải chịu”. Chúng ta nhớ trên đường lên Giêrusalem để thực hiện cuộc vượt qua trong đau thương, hai môn đệ Giacôbê và Gioan nhờ mẹ mình đến xin Chúa Giêsu cho được ngồi bên tả, bên hữu Chúa và Chúa Giêsu đã có phản ứng như sau: “Các ngươi không biết điều các ngươi xin. Các ngươi có uống nổi chén Thầy sắp uống hay chịu được Phép Rửa Thầy sắp chịu hay không? Chén Thầy uống các con cũng sẽ uống và Phép Rửa Thầy chịu các con cũng sẽ chịu”.
Chúa Kitô cũng được gọi là Vua, vai trò của Ngài chính là võ trang và chuẩn bị chiến đấu, nhưng khí giới Ngài trang bị cho mình là cái chết trên Thập giá. Chính khi bị treo trên Thập giá, Ngài đã được tôn phong là Vua Do thái. Chúa Giêsu cũng là Vua, vì Ngài đã đánh bại Satan, tội lỗi. Con đường vương giả Ngài đã vạch ra cũng chính là con đường Thập giá. Chúng ta không thể làm môn đệ Ngài, không thể đi theo Ngài, không thể tham dự cuộc chiến của Ngài, mà lại khước từ Thập giá.
Ta đang trên đường lên Giêrusalem, nơi Đức Giêsu sẽ được đưa lên cao. Sau khi mời gọi phải tỉnh thức, được minh họa bằng dụ ngôn người quản lý khôn ngoan trong Tin Mừng Chúa nhật tuần trước, giờ đây Đức Giêsu nói với những ai theo Người ba lời về thử thách, có ý nói đến những nguy hiểm của cuộc phiêu lưu theo Người: Số phận của người môn đệ sẽ không khác gì Thầy mình.
Ta tiếp tục đi theo con đường của Chúa Kitô; chúng ta tiếp tục đau khổ vì tin rằng bên kia những thất bại, khổ đau, tình yêu Thiên Chúa vẫn còn mang lại ý nghĩa cho cuộc sống. Chúng ta đón nhận mọi bách hại, thù ghét, thua thiệt, vì tin rằng chỉ có tình yêu mới có thể thắng vượt được ích kỷ, hận thù trong lòng con người.
Xin Chúa Kitô ban sức mạnh để chúng ta bước theo con đường Thập giá dẫn đến vinh quang.
25. Ngôn sứ và những hệ lụy
(Suy niệm của Lm. Thiện Duy)
Thông tấn xã Công Giáo Fides của Bộ Truyền Giảng Tin Mừng Cho Các Dân Tộc thống kê: Trong năm 2012, 12 vị thừa sai đã thiệt mạng trên những bước đường truyền giáo. 10 vị là các linh mục, hai vị còn lại là một nữ tu và một giáo dân. Trong 4 năm liên tiếp, Mỹ Châu là vùng đất nơi máu các nhà truyền giáo đổ ra nhiều nhất. Trong năm qua đã có 6 linh mục bị giết tại đây. Tại Phi Châu, 3 linh mục và một nữ tu bị giết. Tại Á Châu, một linh mục và một giáo dân bị giết. Thống kê này không kể đến số các nhà truyền giáo trong đó có cả các Giám Mục bị đánh đập đến mang thương tích, bị giam cầm, khủng bố, hăm dọa, mạ lỵ công khai tại một số quốc gia.
Trong bối cảnh đau thương như vậy, phụng vụ lời Chúa hôm nay vang lên như thể củng cố thêm đức tin cho những chiến sĩ đức tin của Chúa, rằng đó là thân phận của những ngôn sứ.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
2. Bài Đọc I: Gr 38, 4-6. 8-10
Bài đọc I cho chúng ta thấy thân phận ngôn sứ của Giêrêmia. Ông được kêu gọi khi còn rất trẻ, vào năm 19 tuổi, tức khoảng năm 626 TCN, vào lúc đất nước ông đang ở trong thời kỳ khủng hoảng cả về chính trị lẫn niềm tin. Ông được sai đi để kêu gọi dân của mình sám hối, ăn năn quay trở về. Nhưng thay vì họ ăn năn sám hối quay về với Chúa, thì họ vẫn tiếp tục phạm tội. Đặc biệt hơn là họ còn muốn giết chết cả tiên tri Giêrêmia, người thay Thiên Chúa đến nhắc nhở họ; để họ khỏi phải áy náy về hành động sai lầm của mình. Cám ơn Chúa, còn có những người thấy được tội ác đó nên đã giải cứu cho Giêrêmia.
2. Đáp ca: Tv. 39
Đây là lời kêu xin rất phù hợp với tâm tình của tiên tri Giêrêmia: “Tôi đã trông cậy ở Chúa, và Ngài đã nghiêng mình về bên tôi”. Chúa nghiêng mình về phía những người cầu khẩn Ngài chi vậy? Thưa để “Kéo tôi ra khỏi hố diệt vong”, giống hoàn cảnh của tiên tri Giêrêmia; và để “làm cho chân tôi vững bước”. Sau khi kéo ra khỏi chỗ chết, Chúa sợ tiên tri của Chúa nản lòng, nên Ngài còn củng cố thêm sức mạnh để họ tiếp tục thực hiện sứ mạng ngôn sứ của mình.
3. Bài Đọc II: Dt 12, 1-4
Tác giả thư Do Thái mời gọi họ hãy “kiên trì trong đức tin”, vì Đức Giêsu Kitô đã cam chịu để cho những người tội lỗi chống đối mình”, nên “đã được ngự bên hữu ngai Thiên Chúa”. Người môn đệ Chúa nếu biết kiên trì cam chịu những chống đối trong đời sống đức tin giống như các ngôn sứ, thì chắc chắn cũng sẽ được phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ.
4. Tin Mừng: Lc 12, 49- 53
Đang trên đường lên Giêrusalem, nghĩa là sẽ đi đến cái chết, nên CG đã chia sẻ với các môn đệ về sứ mạng của Ngài và những hệ lụy khi phải chấp nhận sứ mạng đó.
Ngài đã nói: “Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất”. Ngài là Đấng cứu thế. Ngài thực hiện sứ mạng của mình không bằng quyền lực, sức mạnh, nhưng bằng sự yếu nhược và cái chết. Có phải là Ngài thất thế, Ngài đành bó tay trước sức mạnh của kẻ khác không? Thưa không, mà đó là sự khôn ngoan của Thiên Chúa, vì con người chúng ta còn biết rõ một sự thật: “Lấy oán báo oán, oán chồng chất. Lấy ân báo oán, oán tiêu tan”. Thì huống hồ chi Thiên Chúa là Tình Yêu, Ngài muốn dùng con đường tình yêu để cứu độ chúng ta chứ không phải con đường của quyền lực, sức mạnh. Chính vì vậy “phép rửa” mà Ngài muốn nói đến ở đây chính là con đường thập giá mà Ngài sắp bước vào. Đó là sứ mạng ngôn sứ của Ngài.
Tiếp theo, Ngài nói đến những hệ lụy của thân phận ngôn sứ đó. Ngài nói: “Anh em tưởng Thầy đến để ban hòa bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết, không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ”. Mới nghe điều đó chúng ta giật mình, vì Thiên Chúa mà lại đem đến sự chia rẽ cho người ta sao? Hơn nữa Ngài đã từng chúc phúc cho những ai biết xây dựng hòa bình, chẳng lẽ Ngài lại tự chúc dữ khi là người đem đến sự chia rẽ? Chúng ta phải hiểu Ngài đích thực là Vua Hòa Bình, chính Hòa Bình Ngài đem đến sẽ khiến cho những ai không đón nhận bị chia rẽ. Những ai không đón nhận chân lý của Ngài sẽ tự mình chia rẽ. Hơn thế nữa họ còn quay lại chống đối với những người đón nhận chân lý đó. Thậm chí ngay trong một gia đình, sẽ có người đón nhận và có người từ chối, hậu quả là sự chia rẽ. Đó là hệ lụy của thân phận ngôn sứ, sẽ bị những người từ chối chân lý chống đối, và muốn giết chết.
II. THÂN PHẬN NGÔN SỨ VÀ NHỮNG HỆ LỤY
1. Tấm gương của Môsê
Trong suốt những tuần qua, các bài đọc ngày thường của năm lẽ kể lại cho chúng ta thân phận ngôn sứ của ông Môsê. Thiên Chúa trao cho ông sứ mạng mà ông không muốn và không có khả năng. Nhưng vì nghe lời Thiên Chúa và thương mến dân tộc của ông mà ông đã chấp nhận thân phận ngôn sứ, chấp nhận lãnh đạo một đoàn dân cứng cổ cứng đầu. Đến nỗi có những lúc ông tuyệt vọng, ông than trách với Chúa: “Chúa coi, con không cưu mang, không sinh ra dân này, mà Chúa bảo con hãy bồng nó vào lòng mà đem đến miền đất ta đã thề hứa với cha ông chúng. Một mình con không thể gánh cả dân này được nữa, vì nó nặng quá sức với con. Nếu Ngài xử với con như vậy, thì thà giết con đi còn hơn. Tuy nhiên, giận thì giận mà thương thì vẫn thương. Chính ông là người đã đứng ra van xin Chúa tha thứ cho dân nhiều điều, đã đứng ra nhận lỗi về phần mình, đã xin Chúa có phạt thì phạt ông chứ đừng phạt dân mà tội nghiệp! Và cũng chính vì dân chúng mà Môsê đã không vào được vùng đất Chúa hứa, nhưng phải chết ở bên ngoài vùng đất đó. Đó là tấm gương của một ngôn sứ và những hệ lụy khi chấp nhận thân phận ngôn sứ. Tất cả vì sứ mạng mình đã lãnh nhận, không nghĩ gì đến bản thân mình.
2. Một lần ý thức
Chúng ta đã lãnh Bí tích Rửa tội, nhưng nhiều khi chúng ta không biết hoặc quên sứ mạng ngôn sứ của mình. Chính vì vậy hôm nay là dịp để một lần chúng ta ý thức mình đã là ngôn sứ, vì vậy phải chấp nhận thân phận của một ngôn sứ và những hệ lụy của thân phận ngôn sứ.
III. CHẤP NHẬN THÂN PHẬN NGÔN SỨ VÀ NHỮNG HỆ LỤY
1. Thân phận ngôn sứ
Thiên Chúa đã nói với Giêrêmia: “Ta đặt Lời của Ta vào miệng ngươi”. Chính vì vậy ngôn sứ là sứ giả và là người phát ngôn của Thiên Chúa. Các ngôn sứ ý thức nguồn gốc thần linh những sứ điệp của mình, nên họ nói: “Đức Chúa phán”, hoặc “Đó là lời Chúa”, chứ không phải lời của họ.
Kitô hữu là người nói thay lời của Thiên Chúa. Chính vì vậy họ phải thường xuyên nối kết với Thiên Chúa để có thể biết, hiểu và trình bày lại cho người khác những giáo huấn tinh tuyền của Ngài. Cần phải lưu ý là “những giáo huấn tinh tuyền”. Ngày hôm nay có quá nhiều “sứ điệp từ trời”, “sứ điệp của Đức Maria”, “sứ điệp mang danh của Đức Giáo Hoàng này, Đức Giáo Hoàng nọ”… Kitô hữu cần phải khôn ngoan để phân biệt đâu là sứ điệp mà Thiên Chúa muốn gửi đến chúng ta. Chúng ta đừng tìm đâu xa, sứ điệp đích thực của Thiên Chúa nằm trong Thánh Kinh và Giáo lý cũng như những lời giảng dạy chính thức của Hội Thánh. Họ hãy thông truyền bằng cách sống theo Lời Chúa và Luân Lý của Giáo Hội, cũng như tiếng nói của lương tâm ngay lành.
Mấy ngày nay người ta xôn xao câu chuyện bác sĩ Nguyệt đã làm đơn tố cáo bệnh viện Đa Khoa Hoài Đức ở Hà Nội “nhân bản kết quả xét nghiệm”. Việc này làm cho những bệnh nhân bàng hoàng vì kết quả xét nghiệm của mình được lấy từ những mẫu có sẵn. Việc làm này của chị có thể nói là hành động của một ngôn sứ vì chị đã dám nói lên sự thật, dám nói lên công lý, dù biết mình sẽ gặp rất nhiều nguy hiểm.
Còn chúng ta, chúng ta đã dám sống theo lời Chúa dạy, đã dám sống theo luân lý Kitô giáo và tiếng nói lương tâm ngay lành chưa?
2. Hệ lụy của ngôn sứ
Tuy nhiên khi chấp nhận thân phận của một ngôn sứ thì chúng ta cũng phải đón nhận những hệ lụy của nó. Ông Môsê, tiên tri Giêrêmia, Gioan Tẩy Giả và tất cả các tiên tri đều phải chấp nhận việc bị người ta ghét bỏ, thậm chí là giết chết. Đức Giêsu cũng đã đi trên con đường thập giá. Chúng ta là những ngôn sứ, cũng phải chấp nhận những chống đối, những hiểu lầm, những ghen ghét, những loại trừ… nói chung là những bách hại để sống sứ mạng của ngôn sứ.
Những bách hại đó đôi khi trong chính gia đình chúng ta. Chồng kêu vợ đi lễ, cô ta trả lời: “Ông ráng đi đi, mai mốt thành ông cha luôn!” Nếu người chồng không chấp nhận thân phận ngôn sứ sẽ bỏ luôn vai trò ngôn sứ.
Những bách hại đó đôi khi trong chính khu xóm của chúng ta. Tháng Mân Côi, khu trưởng lại bàn về việc rước Đức Mẹ về nhà đọc kinh, thay vì được nhận lời, còn bị chửi nữa. Nếu không chấp nhận thân phận ngôn sứ chúng ta sẽ dễ chán nản.
Những bách hại đó đôi khi trong chính đoàn thể của chúng ta. Ai làm gì cho mình giận là mình không thèm tham gia nữa, làm như thể mình phục vụ những con người trong hội đoàn đó chứ không phải phục vụ Chúa và Giáo Hội vậy?
Những bách hại đó dành cho mọi ngôn sứ, nhưng thường dành cho những người đứng đầu nhiều hơn.
Khi giết được cha Phanxicô Trương Bửu Diệp, người ta đã thả cho giáo dân của cha về.
Các Linh mục làm việc bác ái, người được thì hớn hở, người không được thì giận hờn, thậm chí bỏ đạo luôn.
Giáo dân trong họ đạo bắt cha sở phải làm theo ý của họ với luận điệu họ đạo này là của chúng con, cha phải làm theo những gì chúng con đề ra…
Đức nguyên Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã viết trong Tự Sắc Cửa Đức Tin:“Giáo Hội tiếp tục cuộc lữ hành giữa những cuộc bách hại của trần thế và những an ủi của Thiên Chúa, loan báo cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa cho đến khi Ngài đến”. Như thế, người tín hữu vẫn luôn phải trải qua những gian nan cho niềm tin của mình. Nhưng họ có Chúa nâng đỡ và phù trì. Sự gian nan ấy không làm nghẹt đức tin và lòng trông cậy nơi họ, nhưng trái lại, như lửa thử vàng, gian nan thử thách, chính sự gian nan là bằng chứng cho một tình mến nồng nàn đối với “Đấng đã yêu thương và phó mình vì tôi”.
26. Thế nào là hòa bình của thế gian?
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thuỵ)
Đức Giêsu nói: “các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an đến thế gian ư? Không phải thế đâu, Thầy đến để đem sự chia rẽ”
Chúng ta cần phải hiểu cho đúng hai chữ hòa bình và chia rẽ mà Chúa Giêsu muốn nói ở đây. Nhiều người nghĩ rằng Đấng Mêsia là Đấng mang hòa bình đến (x. Is 9,5), Đức Giêsu xác nhận là đúng thực, sứ mạng của Ngài là một sứ mạng mang hòa bình (Is 9,tt; Dcr 9,10; Lc 2,14; Ep 2,14-15). Nhưng Ngài thấy cần giải thích thêm: chữ “hòa bình” có nhiều nghĩa: hòa bình kiểu thế gian và hòa bình của Thiên Chúa.
Đức Giêsu nói rằng Ngài đến thế gian không phải để đem hòa bình kiểu thế gian, mà là thứ hòa bình của Thiên Chúa. Vâng, Đức Giêsu chính là người mang lại hoà bình. Nhưng không phải là thứ hoà bình dễ dãi. “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng”. Hoà bình đích thực chỉ có thể đạt được khi chúng ta lựa chọn theo Đức Giêsu. Tuy nhiên lựa chọn theo Đức Giêsu là bao hàm cả thập giá, chính là sự chia rẽ trong một cộng đoàn sống chung thân thiết nhất là gia đình huyết tộc.
Trong cuộc đời của chúng ta, sự hiện diện của Đức Giêsu và Lời của Ngài không phải là một sự hiện diện trung lập, vô thưởng vô phạt. Không. Tin Mừng của Đức Giêsu là một loại thuốc nổ, một loại thuốc nổ bắt chúng ta phải thay đổi, biến chúng ta trở thành chứng nhân của Tin Mừng. Nhưng con đường của lòng tin, con đường theo Chúa và cách sống Tin Mừng triệt để, đòi chúng ta phải can đảm và kiên trì như con đường cô Mai Tâm đã trải qua:
– Mai Tâm là một Phật Tử, nhưng được gửi học ở trường Công Giáo
“…vì là con gái đầu lòng trong một gia đình Việt Nam có 9 người con, tôi phải hy sinh rất nhiều cho các em tôi, bố mẹ tôi lại được giáo dục theo nhân sinh quan truyền thống Khổng – Phật. Để chúng tôi có được một nền giáo dục và tư cách tốt, cha mẹ chúng tôi đã gửi chúng tôi vào học các trường Công Giáo: trường thánh Maria ở Hà Nội và sau này trường Thánh Phaolô ở Sài Gòn. Một môn giáo lý đã lôi cuốn tôi. Cuộc đời Đức Giêsu Nadarét, gương sáng và những giáo huấn của Ngài cho quần chúng làm tôi thích thú.
Chúa Giêsu đã chết vì yêu thương chúng ta trên thập giá. Tôi bị đánh động bởi những lời của Người: “hãy yêu thương người khác như chính mình” (Mc 12,31).
– Muốn được Rửa Tội khi lên 8, nhưng phải đợi đến năm 21 tuổi
Lên 8 tuổi, tôi xin cha mẹ cho phép tôi được Rửa Tội nhưng cha mẹ tôi đã từ chối bởi các ngài không hiểu nhiều về giáo lý của đạo Công Giáo. Đối với các ngài, đạo Công Giáo hình như là một sản phẩm nhập cảng từ Phương Tây. Song tôi vẫn đợi. Tôi vẫn học Kinh Thánh và 12 năm sau tôi trở thành sinh viên phân khoa giáo dục. Rồi tôi lại được một học bổng của UNESCO cho đi học về phát triển cộng đồng ở Mêxicô. Thật đúng là Thiên Chúa đã hoạt động trong đời tôi. Tôi có cơ hội vắng nhà hai năm. Tôi giải thích hoàn cảnh của tôi cho một linh mục ở Mêhicô và bày tỏ ước nguyện muốn trở thành Kitô hữu.
Tôi đã 21 tuổi, tuổi trưởng thành để quyết định mà không cần phải có sự ưng thuận của bố mẹ. Vì vậy, ước mơ của tôi đã thành hiện thực. Tôi đã được Rửa Tội. Xin cảm tạ Chúa! tại Mêxicô tôi đi dự lễ mỗi Chúa Nhật và sống đời Kitô Hữu.
– Trở về Việt Nam, bị cha mẹ làm khó dễ
Nhưng rồi hai năm trôi qua nhanh chóng, tôi trở lại Việt Nam sống với bố mẹ. Chúa Nhật nào các ngài cũng thấy tôi vắng nhà. Mẹ tôi đâm ra lúng túng. Mẹ tôi đã yêu cầu tôi bỏ đạo. Tôi lại bắt đầu đau khổ nhiều hơn và ban đêm tôi cảm thấy như bị Satan quấy phá qua lời nói của mẹ tôi. Một hôm bố tôi thấy tôi đeo Thánh Giá ở cổ, ông giật lấy và yêu cầu tôi phải bỏ đạo. Tôi thưa lại là tôi có thể làm mọi việc trừ việc bỏ đức tin. Thế là ba năm liền bố tôi không hề trò chuyện với tôi. Tôi kiên nhẫn chịu đựng đau khổ này.
– Xin đi phục vụ chương trình Phát Triển tại Á Châu
Tôi bày tỏ tình yêu và lòng biết ơn Thiên Chúa bằng cách suốt nhiều năm tôi làm việc cho các đồng bào nghèo của tôi trong những giai đoạn chiến cuộc khó khăn. Tôi đã đi nhiều nơi giữa nguy hiểm và muôn vàn khó khăn. Với sự giúp đỡ của các cha dòng Tên, tôi được các ngài giới thiệu về Phong Trào Đoàn Kết Tin Tưởng tại Việt Nam (the Credit Union Movement) và tôi trở thành người giáo dân đầu tiên gia nhập tổ chuyên môn của dòng Tên chuyên về Đời Sống Phát Triển Kinh Tế Xã Hội tại Á Châu (Socio-Economic Development Life in Asia, gọi tắt là SELA). Trong tư cách là một nhân viên xã hội tôi cũng cố gắng đẩy mạnh sự phát triển cộng đồng và các hợp tác xã nông nghiệp.
Đã 20 năm tôi đấu tranh để sống đức tin của mình giữa một xã hội không phải là Kitô Giáo. Lúc đó, Việt Nam chỉ có 10% dân số là người Công Giáo. Dù vậy, tôi vẫn tìm thấy một ý nghĩa mới cho cuộc đời. Giáo Lý Công Giáo giúp người ta trở nên lạc quan. Hy vọng, tình yêu, bình an, phục vụ cho công bằng và đem lại bình an cho thế giới.
27. Ngọn lửa tình yêu – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Chúa Giêsu nói với các môn đệ về sứ mạng của Ngài là: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy cháy bùng lên!”.
Lửa ấy là gì?
Trong Kinh Thánh, từ “lửa” được đề cập 480 lần. Lửa mang nghĩa biểu tượng thánh thiêng chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Thiên Chúa tỏ mình ra cho ông Môsê giữa bụi gai cháy rực cháy (x. Xh 3,2). Thiên Chúa lập giao ước dưới chân núi Sinai (x. Đnl 1,33; 4,11-12.36; 5,4.22). Lửa là hình ảnh Thiên Chúa hướng dẫn dân Do thái trong sa mạc (x. Xh 13,21).
Trong Tân Ước, lửa là hình ảnh của Chúa Thánh Thần khi Người ngự xuống trên các Tông đồ dưới dạng hình lưỡi lửa vào ngày Lễ Ngũ Tuần (x. Cv 3,2). Lửa là sức mạnh của Thánh Linh, khi các Tông đồ nhận được Chúa Thánh Thần, các ông đã trở nên con người hoàn toàn mới: Can đảm ra đi rao giảng Tin Mừng (x. Cv 1,8), làm chứng, hy sinh vì Tin Mừng và vì tình yêu của Đức Kitô Phục Sinh. Lửa chính là tình yêu nồng cháy của Đức Giêsu (x. Lc 12,49).
Lửa còn tượng trưng cho sự thanh luyện, thiêu huỷ và phán xét. Đó là ngọn lửa từ trời xuống thiêu huỷ thành Sôđôma và Gômôra (x. St 19,24), mưa lửa từ trời xuống như một phần của sự phán xét trong ngày tận cùng của thế giới (x. Lc 17,29); hay là lửa soi sáng trong Ngày của Thiên Chúa (x. 1 Cr 3,13; Mt 3,11-12).
Theo các nhà chú giải Kinh thánh, lửa ấy chính là: Chân lý, là Tin Mừng, là Thần Khí và là Tình yêu của Thiên Chúa. Chúa Giêsu muốn cho “lửa” đó được bùng lên, nghĩa là muốn cho mọi người trên khắp thế giới được nhận biết Chân lý và Tình yêu của Thiên Chúa.
Dùng hình ảnh lửa, Chúa Giêsu có ý nói đến nội dung và đặc điểm sứ mạng của mình. Lửa bừng cháy và tỏa sức nóng, lửa đem lại ánh sáng xua tan bóng tối, thiêu đốt thành tro, nung nấu tan chảy và làm cho biến đổi.
Bằng ẩn dụ lửa, Chúa Giêsu gợi lên nội dung sứ mạng của mình là mang ánh sáng chân lý từ trời cao ném vào mặt đất, để soi sáng con đường cứu nhân loại thoát khỏi bóng tối nô lệ tội lỗi, đồng thời thiêu hủy sự dữ và thanh luyện con người nên tinh tuyền.
Khởi đầu sứ vụ, trong bài giảng trên núi, Chúa Giêsu đã tuyên bố rõ ràng về lửa được Ngài ném vào thế gian. Đó là lửa của những mối phúc (x.Mt 5,3-12; Lc 6,20-26), đặc biệt lửa của những phép lạ, lòng khoan dung tha thứ tội lỗi và của trái tim nhân từ cảm hóa kẻ lầm lạc.
Người môn đệ cũng phải tiếp tục mang lửa của Chúa Giêsu vào trần gian bằng cách loan báo và làm chứng từ chính cuộc sống bừng lửa của mình. Lửa của những mối phúc thật. Lửa của sự sống phục sinh. Lửa đã tỏa sáng và thanh luyện những người bước theo Chúa Giêsu.
“Thầy ước mong ngọn lửa ấy bùng lên!”. Đó là tâm nguyện của Chúa Giêsu và cũng là trách nhiệm của mỗi người tín hữu chúng ta.
Tại một khu phố cổ Ấn Độ, trên đường cũng như trong nhà thường không có đèn. Giữa những khu phố như thế, thỉnh thoảng người ta thấy mọc lên một ngôi đền An giáo. Dĩ nhiên, trong những ngôi đền như thế, ánh sáng cũng không được đốt lên thường xuyên. Từ trên nóc đền thờ cũng như dọc theo bốn bức tường, họ treo những chiếc lồng đèn. Khoảng trống trong những chiếc lồng đèn ấy vừa vặn để cho vào một chiếc đèn dầu.
Bình thường ngôi đền thờ vắng lạnh vì tăm tối. Nhưng cứ mỗi sáng sớm, khi các tín hữu dùng đèn dầu soi đường để đi qua các khu phố đến đền thờ cầu nguyện, họ cũng mang chính những ngọn đèn ấy và đặt vào trong những chiếc lồng đèn trong nhà thờ. Thành ra, khi mỗi tín hữu đặt ngọn đèn của mình vào trong các lồng đèn, ngôi đền thờ bỗng sáng rực lên một cách lạ kỳ.
Thế giới này được ví như một ngôi đền thờ rộng lớn, mỗi tín hữu phải đặt vào đó ngọn lửa tình yêu, để thế giới này bừng sáng lên tình anh em một nhà.
Chúa Giêsu đã đem ngọn lửa tình yêu thắp sáng trong tâm hồn chúng ta.Trách nhiệm mỗi người là thắp sáng ngọn lửa ấy bằng đời sống chứng nhân.
Mahatma Gandhi, vị thánh của Ấn Độ đã nhận định rất sâu sắc về ngọn lửa tình yêu này như sau: “Một vật cứng rắn đến đâu, cũng sẽ tan chảy trong lửa tình yêu. Nếu vật ấy không tan chảy, chính vì ngọn lửa không đủ mạnh”.
Thông điệp mới của Đức Giáo Hoàng Phanxicô với tựa đề “Ánh sáng đức tin” muốn nói truyền thống của Hội thánh, cho thấy hồng ân lớn lao do Chúa Giêsu mang đến, được trình bày trong Tin mừng thánh Gioan: “Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi thì không ở lại trong bóng tối” (Ga 12,46). Cả thánh Phaolô cũng diễn tả tương tự như sau: “Xưa Thiên Chúa đã phán: ‘Ánh sáng hãy bừng lên từ nơi tối tăm’, Ngài cũng làm cho ánh sáng chiếu soi lòng trí chúng tôi” (2Cr 4,6).
“Ai tin, sẽ thấy” vì ánh sáng đức tin xuất phát từ Thiên Chúa và vì nó có khả năng chiếu rọi mọi khía cạnh trong cuộc hiện sinh của con người, nên nó diễn tiến không những từ quá khứ, từ ký ức về cuộc đời Chúa Giêsu, mà còn từ tương lai khi nó mở ra nhiều chân trời rộng lớn.
Một vài trích dẫn sau đây từ Thông điệp “Ánh sáng đức tin” cho thấy Chúa Giêsu là nguồn ánh sáng, ai tin vào Người sẽ sống trong ánh sáng của Sự Thật và Tình Yêu.
“Ánh sáng đức tin có một đặc tính khác thường, vì có thể soi sáng toàn thể hiện hữu của nhân sinh. Bởi có một năng lực như thế, nguồn cội của ánh sáng đức tin không thể phát xuất từ chính chúng ta, mà phải đến từ một Nguồn nguyên thủy nhất, xét cho cùng, là đến từ chính Thiên Chúa. Đức tin nảy sinh trong cuộc gặp gỡ Thiên Chúa hằng sống, Đấng kêu gọi chúng ta và mạc khải Tình yêu của Ngài cho chúng ta, một tình yêu đi bước trước chúng ta và làm nền tảng cho ta đứng vững và xây dựng cuộc sống mình”.
“Các tác giả Phúc âm đã đặt giờ Chúa chịu treo trên Thánh Giá như là chóp đỉnh của cái nhìn đức tin, vì trong giờ ấy chiếu tỏa rực rỡ chiều cao và chiều rộng của Tình yêu Thiên Chúa. Thánh Gioan đưa ra lời chứng long trọng của ngài khi ngài cùng với Đức Mẹ, Mẹ của Đức Giêsu chiêm ngắm Đấng Bị Đâm Thâu (x. Ga 19,37): “Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin” (Ga 19,35). Chính khi chiêm ngắm Đức Giêsu chịu chết mà đức tin của chúng ta được củng cố và có được một ánh sáng chói lọi, chính khi nó mạc khải cho chúng ta như một niềm tin vào Tình yêu không lay chuyển của Người dành cho chúng ta, một tình yêu có thể đi vào cái chết để cứu độ chúng ta. Tình yêu này, vốn không tự miễn chước sự chết để bộc lộ Người yêu thương ta dường nào, là một tình yêu có thể tin được. Tình yêu ấy bộc lộ ra trong toàn thể thắng vượt mọi nghi ngờ và cho phép ta đặt hoàn toàn tin cậy vào Đức Kitô.
“Nếu như tình yêu cần đến sự thật, thì sự thật cũng cần đến tình yêu. Tình yêu và sự thật không thể tách biệt nhau. Không có tình yêu, sự thật trở thành lạnh lùng, phi ngã vị, áp bức trên đời sống cụ thể của con người. Sự thật mà chúng ta tìm kiếm, sự thật đem lại ý nghĩa cho những bước đường ta đi, sự thật ấy sẽ soi chiếu chúng ta khi ta được tình yêu chạm đến. Ai yêu thương sẽ hiểu rằng tình yêu là kinh nghiệm sự thật, rằng chính tình yêu mở mắt chúng ta ra để nhìn thấy toàn thể thực tại một cách mới mẻ, trong khi kết hiệp với người mình yêu”.
“Đức Chân phước Gioan Phaolô II, trong thông điệp Fides et Ratio, đã cho thấy đức tin và lý trí củng cố cho nhau như thế nào. Khi ta có ánh sáng viên mãn của tình yêu của Đức Giêsu, chúng ta khám phá ra rằng trong mỗi tình yêu của ta đã có mặt một tia của ánh sáng ấy rồi và chúng ta hiểu đâu là cùng đích của nó”.
“Ánh sáng của đức tin vào Chúa Giêsu cũng soi sáng hành trình của tất cả những ai tìm kiếm Thiên Chúa, và góp phần mình cho Kitô giáo trong cuộc đối thoại với các tín đồ của các tôn giáo khác”.
“Người tin thì hoàn toàn dấn thân sống đức tin mình tuyên xưng. Đức Maria nhờ kết hợp với Chúa Giêsu, sống sát với những gì mà chúng ta tin”. Đức Giáo Hoàng Phanxicô mời gọi chúng ta nhìn lên Đức Maria, “mẫu mực hoàn hảo” của Đức Tin, Đấng, vì là Mẹ Chúa Giêsu, đã tượng thai “đức tin và niềm vui”.
Lạy Chúa Giêsu, xin đốt lên trong chúng con ngọn lửa từ trái tim yêu thương của Chúa, để chúng con soi sáng những ai còn ngồi trong tăm tối, sưởi ấm những ai đang lạnh lùng, thanh luyện những cõi lòng chai đá, để khắp nơi trên trái đất này tràn đầy ánh lửa tình yêu Chúa. Amen.
28. Chúa Nhật 20 Thường Niên
(Suy niệm chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XX Thường Niên năm C mời gọi các Kitô hữu phải kiên vững đức tin trong sứ mạng của mình dù gặp phải những chống đối, thù nghịch.
Gr 38: 4-6,8-10
Vì trung thành với sứ mạng của mình, ngôn sứ Giê-rê-mi-a bị mọi người thù ghét và bách hại. Các Kitô hữu coi vị ngôn sứ này là hình bóng của Đức Ki-tô.
Dt 12:1-4
Tác giả khuyên những Kitô hữu gốc Do thái của ông phải kiên trì đức tin trong mọi gian nan thử thách bằng cách noi gương các bậc tiền nhân, nhất là mẫu gương tuyệt hảo của Đức Ki-tô.
Lc 12: 49-53
Giáo huấn của Chúa Giê-su dành cho các môn đệ đạt đến tuyệt đỉnh khi Ngài báo trước sứ mạng của các môn đệ sẽ đồng nhất với sứ mạng của Ngài trong cùng một tình yêu tận mức dành cho con người.
BÀI ĐỌC I (Gr 38: 4-6, 8-10)
1. Hoàn cảnh bi thương của ngôn sứ Giê-rê-mi-a:
Đây là một trong những bài trình thuật kể về những đau khổ mà ngôn sứ Giê-rê-mi-a phải chịu vì trung thành với sứ mạng của mình. Ngôn sứ đã tuyên sấm rằng thành đô Giê-su-sa-lem sẽ bị điêu tàn nếu dân chúng vẫn cứ bất trung với Thiên Chúa của mình. Dĩ nhiên, đối với các thủ lãnh, lời tuyên sấm này phản ảnh tinh thần chủ bại và phản quốc, vì thế họ tìm cách bịt miệng ngôn sứ Giê-rê-mi-a bằng cách thả ông xuống “hầm không có nước mà chỉ có bùn”. Nhưng ngôn sứ được cứu nhờ viên thái giám người Cút là ông E-vét Me-léc.
2. Một cuộc đời trung thành chuyển giao lời Thiên Chúa:
Để có thể hiểu những nỗi đau giằng xé trong tâm khảm của vị ngôn sứ, chúng ta đừng bỏ qua những lời tâm sự đến xé lòng của ông theo hình thức cầu nguyện như:
“Con vô phúc quá, mẹ ơi, mẹ sinh con ra làm gì,
để cho người ta chống đối, cho cả nước gây gỗ với con?
Con chẳng cho ai vay, cũng không mượn của người,
thế mà vẫn cứ bị nguyền rủa.
Quả vậy, lạy Đức Chúa,
con đã chẳng đem thiện chí phục vụ Ngài hay sao?
Nào con đã chẳng cầu khẩn với Ngài cho thù địch
khi nó gặp hoạn nạn, lúc nó phải gian truân?” (Gr 15: 10-11),
nhất là:
“Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con
và con đã để cho Ngài quyến rũ.
Ngài mạnh hơn con, và Ngài đã thắng.
Suốt ngày con đã nên trò cười cho thiên hạ, để họ nhạo báng con.
Mỗi lần nói năng là con phải la lớn,
phải kêu lên: ‘Bạo tàn! Phá hủy!’
Vì lời Đức Chúa mà con đây bị sỉ nhục và chế giễu suốt ngày.
Có lần con tự nhủ: ‘Tôi sẽ không nghĩ đến Người,
cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa”.
Nhưng lời Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim,
ầm ỉ trong xương cốt.
Con nén chịu đến phải hao mòn, nhưng làm sao nén được!” (Gr 20: 7-9).
Thật ra, ngôn sứ Giê-rê-mi-a vốn là một con người hiền lành, không muốn làm mất lòng bất kỳ một ai. Trung thành chuyển giao lời Thiên Chúa mà ông trở nên kẻ thù địch của mọi người, vì những thông điệp của ông đi ngược lại những mong ước của mọi người. Vì thế, đoạn trích dẫn hôm nay không nên nhấn mạnh sự giải thoát cho bằng sứ mạng trung thành chuyển giao lời của Đức Chúa mà ông bị loại trừ và chịu đau khổ. Quả thật, sự đau khổ của Giê-rê-mi-a tiên trưng sự đau khổ của Đức Giê-su, được phác họa trong Tin Mừng hôm nay.
BÀI ĐỌC II (Dt 12: 1-4)
1. Noi gương các bậc tiền nhân:
Vào Chúa Nhật hôm nay, chúng ta tiếp tục đọc Thư gửi tín hữu Do thái mà chúng ta đã khởi sự đọc vào Chúa Nhật trước. Trong đoạn trích hôm nay, chúng ta đọc lời khuyến dụ kết thúc danh sách các bậc anh hùng Cựu Ước. Các ngài là những “chứng nhân” về niềm tin sắc son kiên vững trong mọi gian nan thử thách. Tác giả Thư gửi tín hữu Do thái mời gọi chúng ta noi gương các bậc tiền nhân kiên trì giữ vững đức tin trong mọi gian nan thử thách. Như một vận động viên, để có thể đạt được vòng nguyệt quế chúng ta phải chấp nhận cởi bỏ khỏi bản thân mình bất kỳ thứ gì làm vướng víu cuộc chạy đua của mình.
2. Đức Giê-su là mẫu gương tuyệt hảo của người Kitô hữu:
Đối với người Kitô hữu, Đức Giê-su còn vĩ đại hơn gấp vạn lần các bậc anh hùng Cựu Ước. Khi sống tại thế, Ngài đã không chỉ “khai mở” con đường đức tin nhưng còn “kiện toàn” lòng tin bằng cách “cam chịu khổ hình thập giá, chẳng nề chi ô nhục, và nay đang ngự bên hữu ngai Thiên Chúa”. Chính nhờ hướng về Ngài, người Kitô hữu sẽ thành toàn cuộc đời mình qua những gian nan thử thách của cuộc đời này.
TIN MỪNG (Lc 12: 49-53)
Giáo huấn của Chúa Giê-su dành cho các môn đệ đạt tới cao điểm khi Ngài mặc khải rằng việc họ thuộc về các môn đệ Ngài sẽ đặt họ vào những cảnh ngộ không yên thân thoải mái đâu. Thực vậy, ý nghĩa sứ vụ của Chúa Giê-su được đề cập ở 12: 49-50 có những phản hồi trực tiếp đến các môn đệ ở 12: 51-53. Tin Mừng hôm nay có hai ý được gợi lên qua hai cặp hình ảnh: “lửa và phép rửa” (12: 49-50), “hòa bình và chia rẽ” (12: 51-53).
1. “Lửa và phép rửa” (12: 49-50)
Bằng cặp hình ảnh “lửa” và “phép rửa”, Chúa Giê-su nói đến sứ mạng sắp đến của Ngài. Trước hết, “Thầy đã ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên”: Trong Kinh Thánh, hình ảnh “lửa” thường mô tả tình yêu nồng cháy của Thiên Chúa cho con người (x. Đnl 4: 24; Xh 13: 22; vân vân). Thiên Chúa đã bày tỏ tình yêu của Người tận mức ở nơi biến cố Nhập Thể của Con Ngài (Ga 3: 16). Qua hình ảnh “lửa”, Đức Giê-su tự nguyện hiến dâng mạng sống mình vì chúng ta: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15: 13). Vì thế, Chúa Giê-su những ước cùng mong đến giờ thực hiện tình yêu tận mức của Ngài đối với con người được bừng cháy trên Thập Giá.
Tiếp đó, Đức Giê-su mô tả cuộc Tử Nạn và Phục Sinh sắp đến của Ngài qua hình ảnh phép rửa: “Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất!”, nghĩa là Ngài sẽ dìm mình vào trong cái chết, nhưng từ cái chết Ngài sẽ sống lại trong vinh quang để không bao giờ chết nữa. Qua hình ảnh “phép rửa”, Đức Giê-su tha thiết ước mong được hiến dâng mạng sống mình vì yêu thương chúng ta. Cũng thế, chúng ta chịu phép rửa, nghĩa là chúng ta dìm mình vào trong cuộc Tử Nạn của Đức Ki tô, tức là chết cho tội lỗi mình, và được tái sinh vào một đời sống mới chan chứa muôn vàn ân phúc: “Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6: 4).
Qua cuộc sống mới này, chúng ta, những người Kitô hữu, phải bừng cháy lên ngọn lửa tình yêu theo cùng cách thức như Đức Giê-su đã châm ngọn lửa ở nơi các môn đệ Ngài, như lời của thánh Phao-lô: “Những gian nan thử thách Đức Ki-tô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” (Cl 1: 24).
2. “Hòa bình và chia rẽ” (12: 51-53)
Con Thiên Chúa đã giáng trần với một sứ điệp hòa bình: “Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2: 14) và hòa giải: “Nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, Đấng nay đã hòa giải chúng ta với Thiên Chúa” (Rm 5: 11). Các ngôn sứ cũng đã loan báo sứ mạng của Đấng Ki-tô là sứ mạng hòa bình (x. I s 9: 5tt; Dcr 9: 10) và thánh Phao-lô cũng xác quyết chính Đức Giê-su “là bình an của chúng ta” (Ep 2: 14-15). Tuy nhiên, vì cưỡng kháng lại công trình cứu độ của Đức Kitô do tội, con người trở thành những đối thủ của Ngài: “Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hòa bình cho trái đất sao?”. Bất công và lầm lạc dẫn đến chia rẽ và chiến tranh: “Bao lâu con người còn là những kẻ tội lỗi, hiểm họa chiến tranh còn đe dọa và vẫn sẽ còn đe dọa cho tới khi Chúa Kitô đến. Tuy nhiên, nhờ kết hiệp trong bác ái, con người vượt thắng tội lỗi và cũng vượt thắng bạo động cho tới khi lời sau đây được hoàn tất: ‘Họ sẽ rèn gươm thành lưỡi cày và giáo thánh lưỡi liềm. Các dân tộc sẽ không rút gươm đâm chém nhau và sẽ không tập luyện để chiến đấu’ (Is 2: 4)” (Vatican II, Gaudium et spes, 78).
Vì thế, chẳng có gì phải ngạc nhiên, dù rằng “Người đã đến loan Tin Mừng bình an” cho hết mọi người (Ep 2: 17-18), tuy nhiên, suốt cuộc đời tại thế, Đức Giê-su đã là dấu chỉ của sự mâu thuẫn (x. Lc 2: 34). Chúa Giê-su báo trước cho các môn đệ biết rằng sự bất đồng và chia rẽ đồng hành với công việc truyền bá Tin Mừng (x. Lc 6: 20-23; Mt 10: 24). Ngay cả trong gia đình vốn là nơi yêu thương và đùm bọc nhau, đôi khi vì niềm tin vào Ngài và vào Tin Mừng của Ngài lại trở thành cuộc bách hại ngay trong gia đình mình. Vì thế, Chúa Giê-su nói rằng Ngài đến thế gian không phải để đem hòa bình theo kiểu thế gian, nghĩa là không có chiến tranh, bách hại, mà là hòa bình của Thiên Chúa, một thứ hòa bình ngự trị trong cõi thâm sâu của lòng người, đó là hòa bình mà thế gian không thể nào ban cho được.
“Lời Chúa Giê-su nói về sứ mạng của Người cũng là một lời khuyến cáo các môn đệ Người: Sự kiện Nước Thiên Chúa đến không phải để các môn đệ hưởng thụ một cuộc sống bình an một cách thụ động. Họ sẽ hưởng bình an đấy, nhưng là một thứ bình an mà phải cố gắng chiến đấu mới đạt được, chiến đấu trong gian truân thử thách, chiến đấu với cả những người thân không cùng niềm tin với mình. Thánh Phao-lô và thánh Ba-na-ba đã hiểu như thế, nên đã khuyên các tín hữu rằng: ‘Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa’ (Cv 14: 22). Hòa bình Chúa ban là kết quả của những cố gắng để giải quyết tình trạng ‘chia rẽ’: a) Nơi bản thân mỗi người, chỉ có hòa bình thật khi không còn xung đột giữa cái tôi hướng thiện với cái tôi hướng ác; b) Nơi gia đình, nơi xã hội và bất cứ nơi nào cũng thế, chỉ có hòa bình thật khi mọi người đều một lòng một ý với nhau” (“Hạt Giống Nẩy Mầm”).
29. Ném lửa trên mặt đất
(Suy niệm của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Đoạn 12, 49-53 và đoạn trước liên hệ với nhau qua chủ đề “Chúa đến” (12:49.51; 12:36.37.38.39.40.43.45). Tuy nhiên, đoạn trước quy chiếu về ngày Chúa Giêsu đến trong quang lâm; còn ở đây, sứ mạng của Người trên trần gian. Đối với đoạn tiếp sau (12:54-59), Luca đề cập đến những người không biết nhận ra chính Người và sứ mạng của Người qua những việc Người đang thực hiện. Ý tưởng và bố cục của đoạn này có thể phân chia như sau: – Sứ mạng qua hình ảnh lửa và nước (12:49-50); – Những phân rẽ do chọn lựa (12:51-53).
Hai câu 49-50 nói đến sứ mạng của Chúa Giêsu trên trần gian. Động từ “đến” (c. 49) một đàng xác định sứ mạng của Chúa Giêsu khi Người đến (x. 5:32; 7:34; 12:49.51; 19:10); đàng khác chỉ chính Người là “Đấng Đang Đến”, erchomenos. Thể aorist của động từ “đến” chỉ sự kiện đã xảy ra là Chúa Giêsu đã đến trên trần gian này. Những động từ khác “muốn”, “có” thanh tẩy, “bồn chồn” (c. 50) đều ở thì hiện tại. Chúng nói đến tình trạng hiện đang xảy ra nơi Chúa Giêsu: Người ước ao mọi sự được hoàn tất. Sứ mạng của Người được trình bày qua hai hình ảnh ẩn dụ là “lửa” (c. 49) và “nước (c. 50).
“Tôi đã đến ném lửa trên trần gian” (c. 49)
Luca thường dùng cách nói “ném vào lửa”. Hành động “ném lửa trên mặt đất” khác với “mang lửa xuống từ trời”. Gioan và Giacôbê muốn đem lửa từ trời xuống để trừng phạt dân làng Samaria, vì họ đã không tiếp đón họ và Chúa Giêsu (9:54). Cũng thế, “ném vào lửa” (3:9; 12:28) chỉ việc thiêu hủy và tiêu diệt. Theo hướng này, “lửa” chỉ sự phán xét, nhất là sự phán xét cuối cùng và dứt khoát (x. 17:29.31-35). Mặt khác, Luca cũng dùng “lửa” để chỉ Thánh Thần (3:16; Cv 2:3). Cả hai ý nghĩa này khó áp dụng ở đây, vì ước muốn của Chúa Giêsu là lửa ấy cháy lên “từ nay trở đi” (c. 52). Chưa đến lúc của sự phán xét và án phạt dứt khoát, cũng như chưa đến lúc Thánh Thần được ban xuống, khi Chúa Giêsu đang còn thi hành sứ mạng trên trần gian nầy. Như thế, có thể hiểu là lửa chỉ sứ mạng của Người. Người không đến để chỉ phán xét và ban Thánh Thần. Người còn làm nhiều điều hơn thế. Cụm từ “trên trần gian” chỉ một nơi chốn, và hướng về chiều ngang: dài và rộng. Sứ mạng của Người được loan báo ra khắp nơi và cho mọi người. “Lửa” có tính cách quyết định: hoặc sinh trái tốt hoặc bị thiêu đốt, được soi sáng khỏi tối tăm và rạng rỡ vinh quang (x. 2:32), được đốt cháy lên (x. 24:32). Vậy, Chúa Giêsu đến, ban sự sống và đặt con người vào một sự chọn lựa dứt khoát. Ai từ chối Người, sẽ bị lửa thiêu hủy (3:9.17). Còn ai nhận biết Người, sẽ được ban Thánh Thần (x. 3:16).
“Có một thanh tẩy Tôi phải chịu” (c. 50)
Theo ý tưởng của văn mạch, lửa Chúa Giêsu mang đến liên hệ với thanh tẩy (c. 50), đồng thời cả sự chia rẽ giữa những quan hệ thân thiết nhất trên trên gian này (c. 51-53). Trong đoạn song song với Luca, Marcô đặt “chén” bên cạnh thanh tẩy (Mc 10:38) để chỉ cuộc khổ nạn Chúa Giêsu sẽ chịu. Điều này soi sáng cho việc hiểu “thanh tẩy” ở đây. Nó cũng ám chỉ cuộc khổ nạn Người sẽ chịu. Lửa chỉ sứ mạng trải dài; trong khi “chịu thanh tẩy” là lúc sứ mạng ấy kết thúc. Chúa Giêsu không rơi vào định mệnh đã sắp sẵn. Ngược lại, Người đã tiên báo điều này (9:22; 18:31), và Người “bồn chồn” mong sớm thực hiện thanh tẩy ấy.
Những phân rẽ do chọn lựa (cc. 51-53)
Luca dùng cách diễn tả “Các ông nghĩ…. Không! Tôi nói với các ông…”, tìm thấy lại trong 13:2-3.4-5, để kéo chú ý vào điều được nói ở vế sau. Ở đây là sự chia rẽ, đối nghịch với bình an như người ta thường nghĩ (c. 51). Dẫn chứng là sự chia rẽ trong gia đình (cc. 52-53). Chúa đến làm cho con người phải chọn một thái độ. Không thể có thái độ trung lập. Đem đến bình an là mục đích của sứ mạng thiên sai của Chúa Giêsu (x. 1:79; 2:14; 10:5-6; 19:38). Ai đón nhận Người, được hưởng bình an. Bình an nơi con người là tình trạng thông hiệp hoàn toàn với Thiên Chúa (x. 7:50), là trật tự tự nhiên hoàn hảo như ý Thiên Chúa muốn (x. 8:48). Đối lại bình an là chia rẽ, chống đối, chiến tranh, gươm giáo (c. 51b). Trong đoạn song song Matthêu nói đến “lưỡi gươm” (Mt 10:34). “Chia rẽ”, diamerismatos, bởi động từ dia-merizō, có nghĩa là “chia làm hai” (x. 11:17; 12:51.53). “Chia rẽ” gợi lên nhiều khía cạnh khác với “gươm”. Chia rẽ là sự bất đồng ý kiến, khác biệt quan điểm, đặc biệt giữa các thành phần trong cùng một đơn vị, tổ chức. Trong sự chia rẽ, mỗi bên đều chịu trách nhiệm về sự việc này.
Chúa đến, không phải ai cũng đón tiếp Người. Nhiều lần Người nói đến sự từ chối, chống đối, và cả thù ghét Người nữa. Thái độ của họ tỏ ra bên ngoài là không tìm hiểu những “dấu hiệu” để nhận ra Người (cc. 54-56). Bởi đó, do việc chọn lựa đi theo Người hay từ chối Người, sự phân chia không thể tránh khỏi hình thành. Sự phân rẽ nầy Simon đã báo trước (2:34).
Sự phân rẽ này vào tận quan hệ mật thiết nhất của gia đình (c. 53). Gia đình gồm năm người và chia thành hai nhóm: nhóm 2 người là cha và mẹ, cũng là mẹ chồng; nhóm ba người là con trai, con gái và dâu. Sự xung đột giữa họ có tính cách hỗ tương; bên này chống đối bên kia. Điều này khác với việc thế hệ trẻ nổi lên chống đối thế hệ già trong Matthêô (x. 10:35; Micah 7:6). Sự chống đối này bắt đầu ngay “từ nay trở đi”. Cụm từ này chỉ thời gian từ khi Chúa Giêsu bắt đầu sứ mạng. Mọi sự nên hiệu lực từ lúc Người nói ra (x. 5:10; 12:52; 22:18; 22:69).
Sứ mạng của Chúa Giêsu là cứu chuộc, ban bình an, và quy tụ mọi người nên một trong Người. Tuy nhiên Người trở nên cớ cho con người phân rẽ với nhau, tùy theo sự chọn lựa của họ.
30. Người giữ ngọn lửa.
(Trích dẫn từ ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Cách đây ít lâu, tờ Los Angeles Times có đăng một câu chuyện của phóng viên Dane Smith, về một Kitô hữu tên là Charlie Deleo.
Sau khi từ Việt Nam trở về Charlie kiếm được chân giữ tượng Nữ Thần Tự Do. Anh kể cho phóng viên rằng, một phần công việc của anh là lo chăm sóc ngọn đuốc trong tay bức tượng Nữ Thần Tự Do và cái mũ triều thiên trên đầu bức tượng. Anh phải lo làm sao cho các tia hơi nước có chất natri luôn hoạt động, đồng thời 200 cửa sổ bằng kính nơi ngọn đuốc và mũ triều thiên lúc nào cũng phải sạch sẽ.
Chỉ vào ngọn đuốc trong tay bức tượng Nữ Thần Charlie hãnh diện nói:
“Đó là nguyện đường của tôi. Tôi dâng hiến nó cho Thiên Chúa và thường lên đó suy niệm vào lúc rảnh rỗi nghỉ ngơi”. Ngoài ra, Charlie còn làm cho Chúa những điều khác nữa. Anh đã nhận được bằng khen của Hội Chữ Thập Đỏ từ sau khi anh hiến nửa lít máu lần thứ 65. và sau khi nghe biết công việc của Mẹ Têrêsa ở Ấn Độ, anh đã gởi tặng Mẹ trên 12 ngàn đô la.
Charlie kể rằng, khi Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II nói chuyện tại công viên Battery cách bức tượng Nữ Thần Tự Do hơn hai cây số, thì anh đứng trên lối đi nhỏ viền quanh ngọn đuốc và lắng nghe bài nói chuyện của Đức Thánh Cha. Tại lối đi nhỏ ấy, anh cũng sốt sắng cầu nguyện cho chuyến viếng thăm mục vụ của Ngài được thành công.
Charlie vẫn sống độc thân và sau khi kiếm được việc làm, anh đã bảo trở cho 6 trẻ mồ côi thông qua các tổ chức xã hội, không giữ lại đồng làm của riêng. Cuối cùng, Charlie kể cho phóng viên rằng, anh thường tự cho mình là “người giữ ngọn lửa”.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu đã đem ngọn lửa xuống trần gian. Ngọn lửa tình yêu vĩnh cửu bốc cháy trong trái tim Ngài. Khi hiến mạng sống cho con người chỉ vì quá yêu thương con người, Ngài đã châm ngọn lửa yêu thương vào lòng con người. Và Ngài thốt lên với tất cả nỗi lòng khắc khoải: “Thầy đã đến đem lửa xuống trần gian. Nào Thầy có mong muốn gì hơn là mong cho lửa ấy cháy bùng lên”. Cháy bùng lên, không phải để rồi tắt ngấm. Nhưng cháy lên để tiếp tục cháy mãi.
Mỗi Kitô hữu chúng ta đều đã được Chúa Kitô châm ngọn lửa tình yêu của Ngài vào lòng. Ngọn lửa tình yêu ấy cần phải được chăm sóc, giữ gìn và làm cho cháy sáng hơn mãi.
Anh Charlie trong câu chuyện trên thật là một mẫu gương sáng ngời cho chúng ta. Anh đã biết giữ ngọn lửa tình yêu, tình yêu Thiên Chúa, tình yêu tha nhân, luôn cháy sáng như chính ngọn lửa của ngọn đuối trong tay bức tượng Nữ Thần Tự Do mà ngày đêm anh có bổn phận canh giữ. Cách sống của anh cũng mời gọi cho chúng ta hãy là những người giữ lửa. Giữ cho ngọn lửa tình yêu trong lòng mình luôn cháy sáng trước nhan Thiên Chúa và giãi tỏa hơi nóng sưởi ấm con tim anh chị em chúng ta, nhất là những người đau khổ và bất hạnh.
Tuy nhiên, ngọn lửa tình yêu Chúa Giêsu đem xuống trần gian chỉ bùng cháy và lan rộng cùng khắp khi có máu đổ ra trên Thập giá. Máu đổ ra là dấu hiệu của tình yêu của Thiên Chúa đổ xuống trên chúng ta. Thiên Chúa đã cứu độ chúng ta, đã thanh tẩy chúng ta sạch mọi tội lỗi bằng ngọn lửa và Máu của Ngài: “Thầy sẽ phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc ấy hoàn tất”. Phép rửa nầy là phép rửa nào? Phải chăng là phép rửa bằng máu của cuộc tử nạn thập giá? Như lửa thử vàng, lửa phải thấm vào bên trong làm cho cả khối kim loại “đỏ như lửa”, trở nên tinh tuyền hơn, chất lượng cao hơn.
Đứng trước tình yêu và cái chết thập giá của Chúa Giêsu, chúng ta phải tỏ thái độ dứt khoát, thưa anh chị em. Hoặc theo Chúa hoặc chối bỏ hay chống đối Ngài. Không thể có thái độ lưng chừng hay trung lập được: “Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hòa bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết, không phải thế đâu, nhưng đúng là để gây chia rẽ”. Bởi vì Lời Chúa luôn chất vấn, hạch sách chúng ta, đòi hỏi chúng ta phải thay đổi não trạng, cách suy nghĩ, lối sống. Và mỗi lần thay đổi, chúng ta đều phải chấp nhận có sự xáo trộn, sự bất đồng ý kiến, chia rẽ nội bộ.
Nhiều khi chúng ta sợ gây xáo trộn, sợ mất lòng nhau, sợ bất hòa nên đã tránh né đặt lại vấn đề một cách chính xác, sửa đổi một thái độ, một lối sống sai trái của mình hay của anh em. Cần phải tranh đấu nội bộ giữa cá nhân, giữa tập thể để sửa đổi những lỗi lầm, sai trái, mặc dù biết rằng phải qua những bất hòa, xáo trộn, nhưng rồi sẽ đi đến chỗ đổi mới tốt đẹp hơn, phù hợp với ý muốn của Chúa hơn.
Nhiều khi chúng ta nhân danh sự hòa thuận, sự hiệp nhất trong cộng đoàn, trong giáo xứ, trong Giáo Hội, hoặc viện cớ không muốn gây hoang mang, chia rẽ, để duy trì một lối cử hành phụng thụ động, nhàm chán, một lối sống đạo vụ lợi, hình thức, một quan niệm lệch lạc về đạo. Người ta cũng đã từng nhân danh sự hiệp nhất để phủ nhận những nỗ lực đấu tranh cho công bằng, đấu tranh giải phóng những kẻ bị áp bức. Sự hiệp nhất đó chỉ là sự đồng lõa, hiệp nhất trong tội lỗi…
Những ai theo Chúa Giêsu phải quý trọng công bình, quý trọng tình thương yêu đích thực, coi trọng con người và chấp nhận đấu tranh cho những giá trị cao quý đó, dù có phải vì đó mà phải chống lại những người trong gia đình của mình, chống lại bạn bè và cả những người đồng đạo với mình.
Anh chị em thân mến,
Chúa Kitô đã đem lửa tình yêu để thiêu đốt, thanh luyện những thứ bình an, hiệp nhất giả tạo che đậy những bóng tối tội lỗi, Ngài là con người gây xáo trộn, gây chia rẽ; bởi vì Ngài luôn luôn là ánh sáng chiếu soi vào trong bóng tối. Ngài muốn cho trong lòng mọi người đều bùng cháy lên ngọn lửa tình yêu nhiệt thành của Ngài để đổi mới, để sống cho cái mới mà Ngài gọi là Nước Trời. Phải đấu tranh mãi để thế giới luôn tốt hơn, con người luôn hạnh phúc hơn. Người Kitô hữu không bao giờ được phép bằng lòng với nguyên trạng, cho dù trong đạo hay ngoài đời, bởi vì tất cả đều phải tiến đến Trời Mới Đất Mới.
31. Lửa – Phép rửa
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Bài Tin Mừng hôm nay chúng ta thấy Chúa Giêsu nói đến lửa và phép rửa: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy ước mong lửa ấy bùng lên. Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất”. Lửa Chúa nói là gì? Tại sao Chúa lại ném lửa vào mặt đất? Phép rửa Chúa nói là gì? Chúa đã chịu phép rửa của Gioan Tẩy Giả ở sông Giođan, tại sao Chúa còn phải chịu một phép rửa nữa. Đó là những điều chúng ta cần tìm hiểu.
Trước hết, về lửa. Trong Kinh Thánh, chúng ta thấy nhiều lần đề cập đến lửa: ông Mô-sê thấy lửa cháy trong bụi gai, đây là hình ảnh sự hiện diện của Thiên Chúa khi ông Mô-sê gặp gỡ Ngài. Dân Do Thái thấy cột lửa đi trước hướng dẫn họ trong sa mạc. Ngọn lửa từ trời thiêu hủy hai thành Sôđôma và Gômôra tội lỗi. Lời Chúa mạnh mẽ như lửa nơi miệng ngôn sứ Giêrêmia. Ngọn lửa ngôn sứ I-sa-i-a nhìn thấy trong đền thờ đã thanh tẩy môi miệng ông trở nên thanh sạch để loan báo sứ điệp cho dân. Ngôn sứ Ê-li-a được ví như ngọn lửa, và lời giảng dạy của ông như đuốc cháy, và ông được đưa về trời trên một chiếc xe bằng lửa. Hai môn đệ Giacôbê và Gioan xin Chúa cho phép các ông xin lửa từ trời xuống thiêu hủy dân làng Samari từ chối không đón tiếp Chúa. Mưa lửa từ trời xuống như là một phần của sự phán xét trong ngày tận cùng của thế giới. Lưỡi lửa của Chúa Thánh Thần đậu trên các tông đồ vào ngày lễ Ngũ Tuần. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói Ngài đã đến ném lửa vào mặt đất.
Như vậy, Kinh Thánh nói đến lửa, để chấp nhận các của lễ, để thanh lọc, thánh hóa cũng như để luận phạt, hủy diệt những kẻ tội lỗi, những dân thành sống vô luân, đồi trụy. Nhưng cao cả hơn, lửa để biểu lộ sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa nhân loại, cũng như lửa là biểu tượng tình yêu trọn vẹn của Thiên Chúa đối với con người. Lửa được Chúa Giêsu đề cập đến trong bài Tin Mừng hôm nay mang ý nghĩa sau cùng này.
Bởi lẽ với sự nhập thể của Ngài, Chúa Giêsu đã đem sự hiện diện của Thiên Chúa đến giữa nhân loại, Chúa đã đem ngọn lửa của tình yêu Thiên Chúa đến giữa cuộc sống con người. Chúa còn nói: “Thầy còn mong cho lửa ấy bùng lên”. Có nghĩa là Chúa mong cho nhiều người đem ngọn lửa của đời mình vào tình yêu của Thiên Chúa do Ngài mang đến để thế gian được thắp sáng trong tình Chúa cũng như trong tình người. Nhưng trước đó, Chúa phải làm cho ngọn lửa tình yêu bùng cháy thật to để mọi người trải qua mọi thời đại và sinh sống khắp nơi được thấy. Đó là hành động chết trên thập giá để đổ máu cho tình yêu thương cuối cùng mà trong bài Tin Mừng Chúa gọi là “phép rửa”.
Thực vậy, cái chết của Chúa, cuộc thương khó của Ngài, đó là phép rửa mà Chúa muốn nói đến trong Tin Mừng hôm nay. Một lần khác, trên đường lên Giêrusalem, hai môn đệ Giacôbê và Gioan đến xin Chúa cho hai ông được ngồi bên hữu bên tả Chúa khi Chúa được vinh quang, Chúa đã trả lời: “Các anh không biết các anh xin gì. Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?”. Cả hai lần, rõ ràng Chúa muốn nói đến cuộc thương khó của Ngài qua tiếng phép rửa. Chúa phải đi vào cuộc thương khó, phải thực hiện sự hy sinh trên thập giá để có thể gieo lửa tình yêu Thiên Chúa xuống trần gian, nhất là gieo tình yêu đó vào trong tâm hồn con người.
Càng mong lửa tình yêu lan rộng, Chúa càng nóng lòng chờ đợi cuộc thương khó và cái chết đau thương trên thập giá của Ngài. Phần chúng ta, để nhập cuộc vào con đường phát huy tình yêu thương này của Thiên Chúa, Chúa đòi chúng ta phải đặt lại bậc thang giá trị: Thiên Chúa phải chiếm chỗ nhất trong con tim chúng ta, trong cuộc sống và mọi hoạt động của chúng ta, sau đó mới đến những người thân yêu. Khi có sự mâu thuẫn giữa hai bổn phận hay giữa hai ý định khác nhau, chúng ta phải chu toàn phận sự về Thiên Chúa trước. Khi phải chọn lựa giữa hai đối tượng tương phản, chúng ta phải chọn lựa Thiên Chúa.
32. Lửa trên mặt đất – McCarthy
(Trích dẫn từ ‘Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’)
Suy Niệm 1. NGÔN SỨ LÀ “NGƯỜI GÂY RỐI LOẠN”
Đức Giêsu rõ ràng là một con người tinh tuyền lành thánh, cho nên chúng ta vẫn mong rằng Người phải được mọi người yêu mến. Tuy nhiên Người đã gây “rối loạn” đến nỗi bị ghét bỏ và sau cùng bị đóng đinh. Làm thế nào mà điều ấy đã xảy ra? Bởi vì Đức Giêsu là một ngôn sứ, một ngôn sứ tôn giáo, và một ngôn sứ luôn luôn là một Persona non grata đối với quyền lực hiện hành. Phần lớn các ngôn sứ đều bị bách hại và một số bị giết chết.
Giêrêmia là một ví dụ. Ông được kêu gọi để trở thành ngôn sứ từ khi còn nhỏ tuổi. Ông sống ơn gọi của mình một thời kỳ đầy biến động. Người ta chứng kiến sự thất bại của Israel và sự tàn phá Giêrusalem và Đền Thờ. Ông là lương tâm của đất nước ông. Ông yêu thương tha thiết dân tộc ông và không bao giờ đánh mất niềm tin và quyền năng của Thiên Chúa cứu chuộc dân Người. Tuy nhiên ông bị kết án là một kẻ làm loạn và ông sống trong sự đe doạ thường xuyên đối với mạng sống mình.
Các ngôn sứ là “những người gây rối loạn” theo nghĩa tốt nhất của từ ấy. Không có kẻ quấy rối sự bình an nào lớn hơn người rao giảng công lý và sự thật. Hãy lấy trường hợp của Martin Luther King ở Mỹ. Ông là một con người của hoà bình. Tuy nhiên, khi đứng lên kêu gọi chấm dứt nạn kỳ thị chủng tộc đối với người da đen, ông đã gây ra nhiều biến động hơn bất cứ người nào khác cùng một thế hệ với ông ở Hoa Kỳ. Hãy lấy trường hợp nhà bác học Nga Andrei Sakharov, ông cũng bị chính quyền cộng sản gán cho nhãn hiệu “kẻ gây rối” khi ông kêu gọi chấm dứt sự đàn áp những người không có cùng quan điểm và sự phát triển các vũ khí hạt nhân.
Một đôi khi điều chúng ta gọi là hoà bình thực ra không phải là hoà bình. Bất cứ hoà bình nào không xây dựng trên nền tảng công lý đều là một hoà bình giả hiệu. Cố Tổng Giám Mục Helder Camara ở Braxin đã mô tả nó như thứ ánh sáng giống ánh sáng mặt trăng trên đầm lầy. Đức Giêsu đã đến để đem lại hoà bình nhưng không phải loại hoà bình ấy. Giống như hoà bình giả hiệu, cũng có sự hiệp nhất giả hiệu trong đó người ta bao che cho sự phân biệt, kỳ thị và bất công.
Khi nhà văn Nam Phi Laurens Van der Post được phóng thích từ một trại giam các tù nhân chiến tranh ở Nhật Bản, ông hầu như phẫn nộ bởi những tàn bạo của thời bình mà ông đang sống không khác gì ông đã phẫn nộ trước những tàn bạo của chiến tranh. Còn Solzhenitsyn nói rằng khi những người lính trở về đời sông dân sự, họ kinh hoàng bởi cách mà người ta đối xử nhau tàn nhẫn nhất trong con người họ khi đem lại cho họ cơ hội phục vụ một chính nghĩa cao cả hơn bất kỳ sự theo đuổi nào của lợi ích bản thân.
Những sự việc như thế được chấp nhận là bình thường thì quả là bất thường. Ví dụ như những bất công trong xã hội, khoảng cách giữa cái nghèo không được giúp đỡ và cái giàu xấc xược. Chúng ta đã quá quen với điều đó nên không còn cảm thấy phẫn nộ. Chúng ta cần có người lay động chúng ta ra khỏi giấc hôn mê và sự thờ ơ đó.
Đức Giêsu nói Người đến để đốt lửa trên mặt đất này. Đây chỉ là một hình ảnh, một ẩn dụ, nhưng là một ẩn dụ mạnh mẽ. Lửa không phải là một vật mà người ta có thể thờ ơ với nó. Nó không phải là một vật yếu đuối, nhợt nhạt, không sức sống. Lửa sưởi ấm và an ủi. Nhưng nó cũng đốt bỏ những gì vô dụng và thanh lọc những gì ô uế.
Sứ điệp của Tin Mừng là lửa, nó là men của thế gian Chúng ta, những môn đệ của Đức Giêsu phải là những người giữ gìn ngọn lửa ấy.
Suy Niệm 2. CHẠY ĐUA
Vào thời đại hôm nay, chúng ta chứng kiến một hiện tượng lạ lùng nhưng kích động. Đó là hiện tượng chạy đua. Chúng ta thường thấy mười hoặc có khi hai chục ngàn người tham gia vào các cuộc chạy Marathon trong thành phố và trên khắp thế giới. Một vấn đề đặt ra: chạy Marathon một mình hay chạy với người khác, trường hợp nào cho là dễ hơn. Câu thành ngữ: “Người chạy đường dài cô độc” nói lên tất cả.
Một vận động viên chạy một mình trước một khán đài chật ních các cổ động viên reo hò cổ vũ, người ấy lấy hết nghị lực và mọi sức lực để chạy vượt quá khả năng thông thường của người ấy.
Chúng ta lấy hết sức lực để chạy khi thấy xung quanh mình cũng có những người khác đang chạy. Điều này đặc biệt đúng như chúng ta không quan tâm đến việc được xếp vào số những người về đích trước tiên mà chỉ quan tâm đến việc hoàn thành cuộc chạy. Lúc đó, chúng ta coi những người cùng chạy như bạn hơn là những đối thủ. Chúng ta coi họ như những người nâng đỡ. Điều này làm chúng ta có thể rút ra sức mạnh gương sáng của họ. Họ tạo thành một dòng người đưa chúng ta đi như trong một dòng chảy mạnh mẽ.
Điều gì trở ngại cho một vận động viên khi chạy? Bất cứ điều gì làm hỏng hoặc sự yếu đuối nào. Nhưng cũng do thiếu động lực. Khi người ta có động lực cao, họ muốn thực hiện những hy sinh to lớn bằng cách cống hiến thời gian, ăn kiêng, nỗ lực v.v…
Chạy Marathon không phải là để chiến thắng. Cuộc chạy mới đáng kể. Chạy Marathon tự nó là một biến cố. Mọi người đều chiến thắng. Điều quan trọng là sự tham dự và dấn thân. Và qua việc tham dự, chúng ta giúp đỡ những người khác bằng gương sáng của chúng ta: chúng ta có đóng góp một phần nhỏ.
Không phải chỉ khi chạy đua người ta mới rút ra được sức mạnh của tình đồng đội. Tác giả sách Do Thái khích lệ các độc giả của ông phải kiên trì trong đức tin bất chấp cái giá phải trả. Ông nói họ phải rút ra sức mạnh của “đám mây vô số nhân chứng” đã đi trước họ. Ông đã dẫn chứng các thánh nhân trong Cựu Ước là những người đã chạy đua trước họ.
Các Kitô hữu ý thức mình là một phần của một chuỗi các nhân chứng thánh thiện kéo dài từ các thánh Tông đồ. Trong cuộc chiến đấu để giữ lòng trung tín, họ luôn luôn tìm lại những gương sáng đầy cảm hứng của các ngôn sứ, nhân chứng và thánh nhân. Chúng ta rút ra niềm hy vọng và lòng can đảm từ những “anh hùng của đức tin”, các ngài duy trì lòng trung tín bất chấp việc các ngài chưa được nhìn thấy lời hứa hoàn thành trong đời sống các ngài. Và khi chúng ta cảm nghiệm sự mệt mỏi cùng cảm giác thất bại và không hiệu quả, các ngài nói với chúng ta: “Chúng tôi ở với các bạn. Đừng bỏ cuộc”.
Như một phi công tiền phong đã nói: “Một đôi khi bão tố và sương mù chụp xuống bạn. Nhưng bạn hãy nghĩ đến tất cả những người đã băng qua sương mù, bão tố trước các bạn, và bạn chỉ cần tự nhủ: “Họ đã làm được điều đó, nên điều đó có thể được thực hiện lại”.
Nhưng đặc biệt chúng ta phải hướng mắt nhìn về Đức Giêsu. Lòng trung tín của Người đã dẫn đưa Người đến thập giá và sau thập giá đến vinh quang. Người là một gương sáng cao cả toàn thể đám mây các gương sáng trong Cựu Ước.
Sứ điệp ấy thật rõ ràng! Giống như Thầy chúng ta, các Kitô hữu chúng ta phải sẵn sàng chiến đấu vượt qua mọi vật trở ngại trên con đường dẫn đến Thiên Chúa. Đây không phải là cuộc chiến đấu đơn độc, nhưng là một cuộc chiến đấu mà chúng ta cùng nhau thực hiện. Chúng ta cùng nhau chạy trong một cuộc đua cao cả nhất dành cho tất cả mọi người.
33. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên
Trong xu hướng toàn cầu hóa thì định luật cạnh tranh càng trở nên khắt khe: đó là điều làm cho nhiều người lo lắng, và cách đặc biệt các nước thuộc thế giới thứ ba sẽ không còn khả năng tự bảo vệ nền kinh tế vốn quá yếu kém của mình. Nói được rằng ý niệm cạnh tranh giờ đây bao hàm luôn một thuộc tính đáng sợ “không khoan nhượng”.
Thực ra sự cạnh tranh trên bình diện cuộc sống thường ngày chỉ là một phản ảnh tất yếu của một cuộc cạnh tranh nằm ngay trong sâu thẳm bản thân một con người. Lời Chúa hôm nay muốn phơi bày thực tại ấy, một thực tại mà con người ở mọi thời dường như luôn tránh né và không muốn đối diện.
Giêrêmia hôm nay bị các vương công ném xuống giếng bùn không phải vì Giêrêmia tranh giành địa vị hay tiền bạc với họ, nhưng chỉ vì Giêrêmia tố cáo sự bội tín của họ đối với các huấn lệnh của Thiên Chúa. Các vương công đang biến Dân Chúa trở thành dân của những tham vọng chính trị trần thế, rời bỏ Giao Ước họ đã ký kết với Thiên Chúa theo đó “Họ là dân riêng của Chúa, và Chúa là Thiên Chúa của họ”. Các vương công thì muốn chạy theo thế lực của Ai Cập, một Đế Quốc mới. Họ muốn dân quy phục Ai Cập, phục vụ quyền lợi của Đế Quốc này.
Vào thời Đức Giêsu, những nhà lãnh đạo của Israel đạo cũng như đời đã biến Đền Thờ Giêrusalem thành một trung tâm quyền lực phục vụ cho những quyền lợi của phe nhóm và đảng phái chính trị: họ muốn một sự ổn định trong mối tương giao với Đế Quốc Rôma để giữ được quyền lợi của bản thân họ. Với quyền lực ấy họ phế bỏ những lề luật của Giao Ước không trực tiếp phục vụ cho tham vọng của họ: tạo nên một xã hội mà Đức Giêsu gọi là “thế hệ gian tà”. Thậm chí họ biến Đền Thờ thành nơi buôn thần bán thánh, thành hang trộm cướp, “để nuốt chửng đồng xu cuối cùng của các bà góa”. Trong bối cảnh như thế, tất yếu con người như Đức Giêsu “đã đến ném lửa vào trái đất” lại còn “những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên”, những con người như vậy tất yếu bị loại trừ theo định luật “cạnh tranh không khoan nhượng”.
Vào thời hoạt động của Phaolô, thời cực thịnh của Đế Quốc Roma, khi mà trong toàn đế quốc sự phồn vinh và hưởng thụ trở thành nếp văn hóa tiêu biểu, thì những lời rao giảng về “một Đức Giêsu chịu đóng đinh” đúng là sự điên rồ, và trở thành tư tưởng phá hoại sự ổn định xã hội. Vì vậy người ta nghĩ là phải cưỡng bách dập tắt. Người tín hữu bị ruồng bắt khắp nơi.
Trong xã hội ngày nay, để có cơm ăn áo mặc, và để có một cuộc sống có thể đối diện với mọi người, con người bị ném vào một guồng máy lao động không thể cưỡng chế. Những giá trị luân lý và đạo đức không cho người ta công ăn việc làm, không cho người ta leo lên những nấc thang xã hội, đều trở thành những giá trị nghiệt ngã phải chối bỏ. Vì thế người ta rời xa Giáo Hội, rời xa cuộc sống Đức Tin để đáp ứng những nhu cầu không thể thiếu của đời sống thường ngày.
Xem như thế, vào bất cứ thời điểm nào Lời Chúa luôn đặt trước mắt con người phải làm một cuộc lựa chọn. Sự lựa chọn nào cũng có những đòi hỏi tất yếu phải thanh tẩy những điều không tương xứng và không tương hợp. Và điều ấy tạo nên những đối kháng, những đấu tranh. Những con người như Giêrêmia, như Phaolô giống như chính Đức Giêsu đã phải dùng chính cái chết của mình để khẳng định sự bình an đích thật là sự bình an mà Giao Ước của Thiên Chúa trao ban. Sự bình an ấy đòi hỏi phải thanh tẩy tội lỗi khỏi cuộc sống. Sự thanh tẩy ở đây không phải là những cưỡng chế từ bên ngoài, không phải là những vu khống, bắt bớ, cho dù nó vẫn thường diễn ra như thế. Nhiều người đã nhân danh niềm tin để đòi cho được thứ tự do trong cơ chế, trong tổ chức, trong cơ cấu xã hội. Nhưng Tin Mừng lại chỉ mời gọi con người hãy dấn thân cho một cuộc đua tâm linh: nơi con người chỉ đối diện với chính mình.
Thánh Phaolô thật chí lý khi nhận định về mọi nỗi khổ cực và cả sự chết của Đức Giêsu. Đây không phải là cơ chế, tổ chức, cơ cấu xã hội là nguyên nhân cái chết ô nhục của Người, nhưng “Chính Người đã khước từ niềm vui dành cho mình, mà cam chịu khổ hình thập giá…”, đúng như chính Người đã minh xác “Thầy sẽ phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc ấy hoàn tất”. Sự đấu tranh kiên cường phải có là sự đấu tranh với chính mình, với lựa chọn phải có trong cuộc sống, để luôn luôn biết “mở miệng hát bài ca mới. Bài tán dương Thượng Đế chúng ta”.
34. Đem gươm giáo tới
Chúa Giêsu đã cảnh cáo dân chúng về hiểm hoạ của đời sống hưởng thụ – qua dụ ngôn phú nông ngu dại. Rồi Ngài lại khuyên những kẻ theo Ngài – qua dụ ngôn ông chủ về và kẻ trộm đến. Nhưng Ngài không muốn cho họ lầm lạc mà cho rằng nước ấy sẽ thiết lập ngay mà không cần phải tranh đấu và chờ đợi. Thời hiện đại là thời của tranh giành chia rẽ, mà nguyên nhân chia rẽ ấy lại là chính Chúa. Một ngày kia Ngài sẽ trở lại đem lại sự công bình, an lạc đến chỗ toàn thắng và lúc ấy Ngài sẽ là Vua của Hoà Bình. Còn bây giờ Ngài đến thế gian quẳng lên nó một đốm lửa chia rẽ, xung đột. Đó là điều không thể tránh được, nên Chúa Giêsu không ân hận gì khi thấy lửa bén cháy, nhưng cho đến khi Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thập giá lửa ấy mới bùng lên thành hỏa hoạn. Ngài cảm thấy bồn chồn mong cho xong cái kỳ hạn khủng khiếp ấy, Ngài sẽ là cây đuốc châm vào thế gian, ngọn lửa hừng của xung đột và chia rẽ. Sự chia rẽ sẽ xảy ra dầu ngay trong hàng ngũ những người thân yêu nhất.
1. Trong tư tưởng của người Do thái, lửa là biểu tượng của phán xét.
Vì thế Chúa Giêsu nói Nước Ngài đến như một thời kỳ phán xét. Người Do thái tin chắc rằng Thiên Chúa sẽ phán xét các dân tộc thế gian theo một tiêu chuẩn và phán xét, họ theo một tiêu chuẩn khác. Và sự kiện họ là người Do thái cũng đủ cho họ thoát khỏi sự phán xét của Ngài. Đối với những người đang nhìn biết Chúa Giêsu là Đấng Mêsia, Đấng Xức Dầu của Thiên Chúa, thì những lời này khiến họ phải ngỡ ngàng, sững sờ. Họ đã coi Đấng Mêsia là Đấng Chiến Thắng, là Vua, và thời đại của Đấng Mêsia là hoàng kim thời đại… Mặc dầu tư tưởng chúng ta cũng muốn loại bỏ yếu tố phán xét ra khỏi sứ điệp của Chúa Giêsu nhưng nó vẫn tồn tại một cách bất di bất dịch.
2. “Có một phép rửa mà Ta phải chịu”
Động từ Hi-lạp baptizein có nghĩa là dìm xuống nước. Trong thể thụ động nó có nghĩa là chịu dìm xuống nước. Thường thường từ ngữ đó được dùng theo nghĩa bóng. Chẳng hạn dùng để chỉ về một chiếc tàu bị sóng biển vùi dập và chìm xuống. Cũng có thể dùng chỉ một người “uống rượu như hũ chìm” và say đến chết. Cũng có thể dùng để chỉ một thí sinh bị tấn công bởi các câu hỏi dồn dập của các giáo sư khảo hạch. Nhưng đặc biệt nó được dùng để chỉ về một người nhận chìm trong một kinh nghiệm rùng rợn, khủng khiếp, đến nỗi có thể nói “các đợt sóng ba đào bao phủ lên tôi”. Nó có nghĩa của từ mà Chúa Giêsu dùng ở đây. Ngài muốn nói “Ta có một kinh nghiệm khủng khiếp mà Ta phải trải qua và đời sống đầy căng thẳng cho đến khi Ta qua khỏi nó và xuất hiện cách toàn thắng”. Thập giá hằng ở trước mặt Ngài luôn. Ý tưởng đó thật khác xa với ý tưởng của người Do thái về vị Vua của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đến, không phải với những đạo binh báo thù và những ngọn cờ phấp phới, nhưng Ngài đến để phó mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.
3. Sự đến của Ngài chắc chắn mang lại sự chia cách.
Thực tế điều đó đã xảy ra. Đó là lý do khiến người La-mã ghét Kitô giáo, bởi vì nó khiến gia đình phân rẽ. Perpetua thuộc gia đình quý tộc, bị bắt vì đạo. Cha của nàng vẫn là dân ngoại, thuyết phục nàng bỏ đạo. Chỉ vào chiếc bình nàng lễ phép nói với cha: “Thưa cha, người ta có thể gọi vật này bằng một cái tên nào khác hơn là cái bình không? Đối với con cũng thế, con không thể cho mình một cái tên nào khác ngoài danh hiệu là Kitô hữu”. Tức quá, ông đánh đập nàng tàn nhẫn, rồi bỏ đi nhiều ngày không tới. Perpetua có một đứa con còn đang bú, rất khổ vì phải xa con. Đứa bé kiệt sức nên người ta đưa lại cho mẹ nó, và nàng quên hết đau khổ vì có con bên cạnh.
Vì biết con gái mình sắp bị án tử, người cha lại đến với những lời thảm thiết: Con ơi, hãy thương đến mái tóc bạc của cha, hãy nhớ đến đôi tay cha đã dưỡng nuôi con. Hãy nhớ tới mẹ con, anh em con và đến con nhỏ của con nữa, nó sống làm sao nếu không có con. Con hãy bỏ đạo, bỏ đi điều đã làm cho chúng ta mất tất cả.
Tuy rất cảm động và đau khổ, Perpetua chỉ nghẹn ngào trả lời: Thưa cha, tại tòa án sẽ xảy ra điều Chúa muốn, bởi vì chúng ta không thuộc về mình. Người cha còn cho đem đứa trẻ đến năn nỉ: con hãy thương đến đứa con nhỏ của con.
Ngay cả trong gia đình tin Chúa cũng xảy ra chia rẽ. Cha của Phanxicô muốn chàng theo nghề buôn bán để được giàu sang, còn chàng lại quyết tâm theo tiếng Chúa gọi sống nghèo khó tận cùng, thế là bố con chia rẽ nhau.
Mỗi người tin Chúa phải quyết định hoặc yêu mến gia đình hơn hoặc yêu Chúa Giêsu hơn. Bản chất của Kitô giáo là phải đặt sự trung thành với Chúa Giêsu lên trên tất cả các sự trung thành khác của thế gian. Người ta phải sẵn sàng coi mọi sự như thua lỗ vì cớ cao trọng tuyệt đối của Chúa Giêsu.
35. Lửa của tình yêu
“Thầy không muốn đến để đem bình an…”
Sách Xuất Hành kể rằng Môsê dẫn đàn cừu đi vào sa mạc, đến núi của Thiên Chúa là Khoreb. Thần sứ của Giavê hiện ra cho ông trong ngọn lửa giữa bụi gai, bụi gai bốc cháy nhưng không bị thiêu huỷ. Chúa phán cùng Môsê: “Chớ lại gần. Cởi dép khỏi chân đi vì đây là thánh địa”.
Lửa biểu tượng sức mạnh của Thiên Chúa. Trong bài Phúc Âm, Chúa Giêsu tuyên bố: “Thầy đến để đem lửa xuống trần gian và mong muốn cho lửa cháy lên”. Lửa ấy là gì? Là sức mạnh, vừa soi sáng vừa đốt cháy của tình yêu Thiên Chúa. Là Chúa Thánh Linh đã đến trong ngày Hiện xuống để làm bừng sáng trí khôn, để nung nấu tâm hồn các tông đồ, đã làm cho các ông lãnh nhận phép rửa mà Gioan tiền hô đã loan báo: “Ngài sẽ đến, làm phép rửa anh em trong Thánh Thần và lửa” (Mt 3,11).
Vậy muốn trở nên đồ đệ chân thật của Chúa, chúng ta hãy đón nhận lửa tình yêu mà Chúa mang đến. Tâm hồn ta phải đầy lửa. Có lửa mới có thể đem chia sẻ cho người khác. Đó là điều kiện tiên quyết của những ai làm tông đồ của Chúa, nhưng ai có phận sự “làm cho lửa cháy lên” trong các linh hồn.
Lễ Hiện xuống năm 1544, trong khi Thánh Philipphê Nêri đang cầu xin Chúa Thánh Thần thì như có một bầu lửa xâm nhập vào tâm hồn, khiến người cảm thấy đầy lửa yêu mến. Phải chăng đây là triệu chứng một cơn bệnh mà Người mang theo suốt đời? Bệnh thể xác hay bệnh tâm linh, không ai dám quả quyết. Chỉ biết chắc một điều là sau khi Thánh nhân qua đời, các bác sĩ đã mổ khám tử thi, nhận thấy phía trên trái tim của Người, có hai chiếc xương sườn bị gẫy và cong uốn lên như để dành đủ chỗ cho trái tim. Philiphê Nêri là một vị tông đồ đầy lửa của thành phố La Mã.
Điều kiện thứ hai của vị tông đồ là sẵn sàng xả kỷ và hy sinh. Chúa phán: “Thầy đến để đem sự chia rẽ”. Thật là trái ngược! Ngài “hiền lành và khiêm tốn trong lòng”, nhưng “lại đến để đem sự chia rẽ”, cha mẹ chống đối con cái, người trong nhà chia rẽ nhau!
Vì tình yêu chân chính đòi hỏi sự chọn lựa và hy sinh. “Ai yêu cha mẹ hơn Ta thì không đáng làm môn đệ Ta”. Lịch sử Giáo Hội nhan nhản những gương hy sinh của các vị Tông Đồ của Chúa. Thân mẫu của Thánh Nữ Catarina Siena kêu lên ngày con ra đi sống đời tận hiến: “Ôi sức mạnh nào đã chiếm đoạt con tôi?” Đó là sức mạnh của Đấng đã chết trên cây thập giá cách đây XIX thế kỷ, nhưng vẫn còn lôi cuốn “tuổi trẻ, sắc đẹp và tình yêu” (Montalembert).
Chúa Giêsu thật là Đấng đã đem đến cho thế giới máu và lửa. Lửa của Tình Yêu. Máu của Hy Sinh để cứu chuộc nhân loại như trong một phép rửa. “Thầy phải chịu một phép rửa và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất”.
Yêu mến, tận hiến và hy sinh cùng là ba đức tính của người tông đồ của Chúa.
Tôi khốn khổ cơ bần, nhưng có Chúa ân cần chăm nom. Người là Đấng phù trợ giải thoát.
Ôi, Lạy Chúa, xin Ngài đừng chậm trễ (Tv 39).
36. Ngọn lửa tình yêu – Thiên Phúc
(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Tại một khu phố cổ Ấn Độ, trên đường cũng như trong nhà thường không có đèn. Giữa những khu phố như thế, thỉnh thoảng người ta thấy mọc lên một ngôi đền An giáo. Dĩ nhiên, trong những ngôi đền như thế, ánh sáng cũng không được đốt lên thường xuyên. Từ trên nóc đền thờ cũng như dọc theo bốn bức tường, họ treo những chiếc lồng đèn. Khoảng trống trong những chiếc lồng đèn ấy vừa vặn để cho vào một chiếc đèn dầu.
Bình thường ngôi đền thờ vắng lạnh vì tăm tối. Nhưng cứ mỗi sáng sớm, khi các tín hữu dùng đèn dầu soi đường để đi qua các khu phố đến đền thờ cầu nguyện, họ cũng mang chính những ngọn đèn ấy và đặt vào trong những chiếc lồng đèn trong nhà thờ. Thành ra, khi mỗi tín hữu đặt ngọn đèn của mình vào trong các lồng đèn, thì ngôi đền thờ bỗng sáng rực lên một cách lạ kỳ.
“Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên”. Đó là tâm nguyện của Chúa Giêsu và cũng là trách nhiệm của mỗi người tín hữu chúng ta: Thế giới này là một ngôi đền thờ rộng lớn mà mỗi tín hữu phải đặt vào đó ngọn lửa tình yêu, để thế giới này bừng sáng lên tình anh em một nhà.
Ngọn lửa mà Chúa Giêsu đã ném vào thế giới này, chính là ngọn lửa tình yêu vẫn bừng cháy trong trái tim Người; là ngọn lửa phục sinh đã bừng lên trong tâm hồn người tín hữu giữa đêm tăm tối, cũng là ngọn lửa Thánh Thần đã bừng sáng trí khôn các tông đồ ngày lễ Ngũ Tuần.
Nếu con người cần cơm bánh để sống còn, thì họ cũng cần tình thương để tồn tại. Nếu con người cần áo quần để che thân, thì họ cũng cần tình thương để sưởi ấm.
Nếu lòng hai môn đệ Emmau đã bừng cháy lên khi nghe lời Chúa, thì nhân loại sao chẳng rực sáng lên khi nghe lời yêu thương của Người?
Lời yêu thương đã được viết lên trên cây thập giá, trong cuộc khổ nạn đau thương, đó chính là phép rửa mà Chúa Giêsu phải chịu, để ném lửa yêu thương vào trần gian.
Như Thiên Chúa Giavê đã hiện ra với Môsê nơi bụi gai cháy sáng và kêu gọi ông đi chu toàn sứ mạng, nay Người cũng sai chúng ta đi loan báo sứ điệp yêu thương cho trần thế.
Như Chúa Giêsu đã đẩy lui bóng tối tử thần bằng ánh sáng Phục sinh và sai các môn đệ đi loan báo tin vui, nay Người cũng mời gọi chúng ta hãy xua tan bóng tối của bất công, hận thù, nghèo đói với ánh sáng của tình thương cứu độ.
Như Thánh Thần đã ngự xuống trên các tông đồ dưới hình lưỡi lửa để biến họ thành chứng nhân Nước Trời, nay Người cũng muốn chúng ta mang ngọn lửa tình yêu, thanh luyện và sưởi ấm các tâm hồn.
Mahatma Gandhi, vị thánh của Ấn Độ đã nhận định rất sâu sắc về ngọn lửa tình yêu này như sau: “Một vật cứng rắn đến đâu, cũng sẽ tan chảy trong lửa tình yêu. Nếu vật ấy không tan chảy, chính vì ngọn lửa không đủ mạnh”.
Lạy Chúa, xin đốt lên trong chúng con ngọn lửa từ trái tim yêu thương của Chúa, để chúng con soi sáng những ai còn ngồi trong tăm tối, sưởi ấm những kẻ đang lạnh lùng, thanh luyện những cõi lòng chai đá, để khắp nơi trên trái đất này tràn đầy ánh lửa tình yêu Chúa. Amen.
37. Hai cách hiểu câu khó hiểu
(Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm)
Quen tai với những lời dịu dàng của Chúa, nào là “Hãy học cùng tôi vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng;” nào là “Phúc cho ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp…” mà hôm nay nghe từ miệng Chúa những câu ghê người: “Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hoà bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ. Vì từ nay, năm người trong cùng một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba chống lại hai, hai chống lại ba. Họ sẽ chia rẽ nhau: cha chống lại con trai, con trai chống lại cha; mẹ chống lại con gái, con gái chống lại mẹ; mẹ chồng chống lại nàng dâu, nàng dâu chống lại mẹ chồng.”
Ta phải hiểu thế nào đây? Có 2 cách hiểu:
1. Chính Giêsu là Đấng Thiên Sai
– Gioan Tẩy Giả khi bị tù đã nghi ngờ không biết ông Giêsu em họ mình có phải là Đức Kitô, là Đấng Chúa sai đến không. Và ông Giêsu đó đã ngầm bảo cho Gioan là chính mình là Đấng Thiên Sai, vì khi Đấng ấy đến thì “kẻ què được đi, điếc được nghe, mù được thấy, người chết sống lại…”
– Kinh Thánh và Do thái giáo chắc chắn biết rõ chủ đề chia rẽ trong gia đình vào thời buổi cuối cùng trước khi Đấng Thiên sai đến.
Sách Talmud, sách giảng giải bậc nhất của Do Thái giáo đã viết: “Thế hệ lúc con vua Đavít (tức Đấng Thiên Sai) đến là thế hệ mà con gái chống đối mẹ mình, nàng dâu chống đối mẹ chồng…”
Còn sách Tiên tri Mikel (7,6) nói về thời buổi cuối cùng khi Đức Kitô đến như sau: “Quả thật, con trai khinh thường cha, con gái đứng lên chống lại mẹ, nàng dâu chống mẹ chồng, người trong nhà lại hoá ra thù địch.”
Vậy, thay vì nói chính tôi là Đấng Thiên Sai, Đấng phải đến, thì Đức Giêsu nói “tôi đến gây chia rẽ mẹ chồng nàng dâu, con trai với cha, con gái với mẹ…” vì đó là những lời sấm, những hình ảnh Thánh Kinh dùng để chỉ ngày Chúa đến.
Ví như cô kia thách cậu nọ:
Bao giờ rau diếp làm cột đình,
gỗ lim thái ghém thì mình lấy ta.
Rồi bất ngờ có ngày anh lấy cô thật, anh Bất lấy chị Ngờ thật, thì thay vì nói hôm nay hai người lấy nhau, thiên hạ nói: hôm nay rau diếp làm cột đình, hôm nay gỗ lim thái ghém.
Thành ra chưa chắc Chúa có chia rẽ hay không, nhưng vì Kinh Thánh và sách Talmud nói, khi Đức Kitô đến, ngài sẽ chia rẽ nàng dâu mẹ chồng… thì Giêsu, thay vì nói chính mình là Đấng Kitô Thiên Sai, sẽ nói bóng gió: ta đến gây chia rẽ.
Mà có khi Ngài chia rẽ thật, vì Ngài đến đâu chia rẽ đó. Và đó là cách hiểu thứ hai.
2. Ngài đến gây chia rẽ
Không phải Ngài đến có mục đích gây chia rẽ, mà là Ngài đến, kẻ yêu Ngài và kẻ ghét Ngài trở nên xa nhau, chia rẽ. Vợ chồng trẻ đang thương nhau, có kẻ thứ ba xuất hiện là một cô gái, chồng mến cô gái này, còn vợ thì ghét cay ghét đắng, thế là vợ chồng chia rẽ nhau vì người thứ ba đến. Ngài đến gây chia rẽ.
– Khi bế trẻ Giêsu trên tay, cụ Simeon nói: đứa trẻ này sẽ nên cớ cho nhiều người vấp phạm, chia rẽ
– Trong dân chúng, có những người nghe các lời Đức Giêsu giảng thì nói: “Ông này thật là vị ngôn sứ.” Kẻ khác rằng: “Ông này là Đấng Kitô.” Nhưng có kẻ lại nói: “Đấng Kitô mà lại xuất thân từ Ga-li-lê sao? Nào Kinh Thánh đã chẳng nói: Đấng Kitô xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít và từ Bê-lem, làng của vua Đa-vít sao?” Vậy, vì Người mà dân chúng đâm ra chia rẽ.
– Trong nhóm Pha-ri-sêu, người thì nói: “Ông ta không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày sa-bát”; kẻ thì bảo: “Một người tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy?” Thế là họ đâm ra chia rẽ. (Giống y hệt vụ việc cha Long lòng Chúa Thương Xót hôm nay!)
– Các tông đồ, môn đệ cũng chia rẽ nhau vì một lời quá chói tai của Đức Kitô Giêsu: Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống.
– Chia rẽ để phân biệt trắng đen, trúng sai, trung kiên hay bất tín. Thực tế chia rẽ đã xảy ra. Đó là lý do khiến người La-mã ghét Ki-tô giáo, bởi vì nó khiến gia đình phân tách.
Perpetua thuộc gia đình quý tộc, bị bắt vì Đạo. Cha của nàng vẫn là dân ngoại, thuyết phục nàng bỏ đạo. Chỉ vào chiếc bình nàng lễ phép nói với cha: “Thưa cha, người ta có thể gọi vật này bằng một cái tên nào khác hơn là cái bình không? Đối với con cũng thế, con không thể cho mình một cái tên nào khác ngoài danh hiệu là Kitô hữu.” Tức quá, ông đánh đập nàng tàn nhẫn, rồi bỏ đi nhiều ngày không tới.
Perpetua có một đứa con còn đang bú và nàng rất khổ vì phải xa con. Đứa bé kiệt sức nên người ta đưa lại cho mẹ nó, và nàng quên hết đau khổ vì có con bên cạnh.
Vì biết Perpetua con gái mình sắp bị án tử, người cha lại đến với những lời thảm thiết: “Con ơi, hãy thương đến mái tóc bạc của cha, hãy nhớ đến đôi tay cha đã dưỡng nuôi con. Hãy nhớ tới mẹ con, anh em con và đến con nhỏ của con nữa, nó sống làm sao nếu không có con. Con hãy bỏ Đạo, bỏ đi điều đã làm cho chúng ta mất tất cả.
Tuy rất cảm động và đau khổ, Perpetua chỉ nghẹn ngào trả lời: “Thưa cha, tại tòa án sẽ biết được đâu là điều Chúa muốn, bởi vì chúng ta không thuộc về mình.”
Người cha còn cho đem đứa trẻ đến năn nỉ: “Con hãy thương đến đứa con nhỏ của con.”
Tuy nhiên trước tòa án, cùng với các bạn khác, Perpetua đã công khai tuyên bố trung thành với Chúa và bằng lòng hi sinh tất cả.
Ngay cả trong gia đình tin Chúa cũng xảy ra chia rẽ. Cha của Phan-xi-cô muốn chàng theo nghề buôn bán để được giàu sang, còn chàng lại quyết tâm theo tiếng Chúa gọi sống nghèo khó tận cùng, thế là bố con chia rẽ nhau.
Sẽ không có chia rẽ giữa mẹ chồng nàng dâu, giữa con trai với cha, giữa con gái với mẹ, khi… ai nấy sống đúng với danh hiệu Kitô hữu, tức là bằng hữu, là fan, là cùng phe với Chúa Giêsu Kitô. Amen.
38. Lửa
Có một cô gái, mặc dù được sinh ra trong một gia đình đạo đức, thế nhưng vì hoàn cảnh, đã sống một cuộc đời bê tha tội lỗi. Số là vào năm mười tám tuổi, ba của cô thì bị mất việc làm, còn má của cô thì đau yếu triền miên. Và thế là hằng đêm, cô phải la cà vào các hàng quán để mồi chài khách khứa.
Sau một thời gian, cuộc sống thác loạn này đã gieo vào lòng cô một nỗi chán chường, khiến cho cô chỉ muốn nghĩ đến cái chết. Thế rồi, trong một bài giảng, cô được nghe nói về tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta. Tình yêu ấy dạt dào đến độ Ngài tha thứ tất cả với điều kiện là chúng ta phải hoàn toàn phó thác trong vòng tay của Ngài.
Bài giảng được minh họa bằng những sự kiện cụ thể, qua đó, Chúa đã tha thứ cho người đàn bà Samaria, cho Mađalêna, cho người thiếu phụ ngoại tình, cho Phêrô và cho tên trộm lành vào những giây phút cuối cùng trên thập giá.
Bài giảng này đã tác động mạnh mẽ trong tâm hồn cô gái, khiến cô rưng rưng như muốn khóc. Sau đó cô gái đã dọn mình lãnh nhận bí tích giải tội và quyết tâm làm lại cuộc đời. Giờ đây cô như một em nhỏ, đặt mình vào bàn tay Chúa và để Ngài dẫn dắt. Bởi vì Chúa luôn yêu thương những kẻ bé mọn và yếu đuối. Ngài yêu thương chúng ta với tất cả những khổ đau và vấp ngã của chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta phải biết chạy đến với Ngài vì Ngài là tình yêu.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay với lời xác quyết của Chúa:
– Ta mang lửa đến trần gian và chỉ mong sao cho lửa ấy bừng cháy lên.
Theo các thánh giáo phụ thì ngọn lửa Chúa Giêsu đem vào thế gian là ngọn lửa của Chúa Thánh Thần, đã bừng lên trong ngày lễ Hiện xuống… Chính ngọn lửa này đã làm phát sinh ra Giáo hội, là dụng cụ mà Ngài dùng để thanh lọc và thánh hóa nhân loại.
Thế nhưng chúng ta cũng có thể hiểu ngọn lửa nói đây là ngọn lửa tình yêu mà Ngài đã thắp lên trong cõi lòng mỗi người.
Chính ngọn lửa này đã bùng cháy trong tâm hồn hai môn đệ đi Emmaus trong ngày Phục sinh, để các ông nhận biết Chúa. Và cũng ngọn lửa ấy đã bùng cháy lên trong tâm hồn cô gái tội lỗi, khi cô được nghe biết về tình thương của Chúa, để rồi dứt khoát với dĩ vãng tăm tối của mình.
Với chúng ta cũng vậy, Chúa cũng đã đặt để trong cõi lòng chúng ta ngọn lửa tình yêu của Ngài giống như ngọn nến chúng ta lãnh nhận ngày chịu phép rửa tội. Thế nhưng ngày hôm nay, ngọn lửa đó đã tắt ngấm hay chỉ còn leo lét như một ngọn đèn thiếu dầu?
Chính vì thế chúng ta hãy cầu xin Chúa gia tăng sức mạnh, để ngọn lửa tình yêu của Ngài được bùng cháy trong tâm hồn, nhờ đó mà bản thân chúng ta được sưởi ấm và cuộc đời chúng ta tìm thấy đường nẻo phải đi.
39. Lửa tình yêu – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Thầy mang lửa xuống trần gian, thầy mong ước gì, nếu không phải là muốn lửa ấy cháy lên”. Nhóm lên, và làm ngọn lửa tình yêu bừng cháy, là sứ mạng của Đức Giêsu và của mỗi người môn đệ Ngài.
Phải chọn lựa giữa Đức Giêsu và thế gian
Đừng tưởng thầy tới mang hòa bình, nhưng ngược lại, thầy tới mang chia rẽ. Chia rẽ ở đây hiểu theo nghĩa, người ta phải chọn lựa giữa Chúa Giêsu và giá trị trần gian. Những ai theo trần gian, có thể có ngày họ phản bội và làm hại thậm chí cả anh em hay cha mẹ mình; còn những ai theo Đức Giêsu, phải sống theo luật tình yêu. Qua Đức Giêsu, con người phải chọn lựa, phải có thái độ dứt khoát. Theo nghĩa này, Đức Giêsu mang chia rẽ.
Ở một chỗ khác Đức Giêsu nói: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban bình an cho anh em. Bình an Thầy ban cho anh em, không như thế gian ban tặng”. Bình an của Đức Giêsu, không có nghĩa là không có chuyện gì xảy ra; đúng hơn, bình an là thái độ sống mà không gì có thể làm mất được. Bình an do xác tín rằng Thiên Chúa yêu thương mình, và Ngài làm những điều tốt nhất cho mình, Ngài biến cả những điều xấu người khác làm cho mình trở thành ích lợi cho mình.
Bình an Đức Giêsu ban tặng, người ta tìm thấy nơi các tông đồ. Dù bị bách hại nhưng các ngài vẫn kiên vững loan truyền Tin Mừng cứu độ “Thiên Chúa yêu thương con người”. Bình an này các thánh tử đạo là những người cảm nghiệm và làm chứng bằng chính cuộc sống của các ngài.
Lửa tình yêu đã thiêu đốt Giêrêmia
Giêrêmia đã nhân danh Chúa nói với dân chúng những điều mà những người lãnh đạo cùng chính dân chúng không ưa thích. Và điều này đã làm cho tiên tri bị ghét, và người ta tìm cách hãm hại tiên tri.
Đã có lúc tiên tri bỏ cuộc, không muốn nói nhân danh Chúa nữa, những lúc đó lòng tiên tri bừng bừng như lửa thiêu đốt, và cuối cùng tiên tri đã trở lại với Chúa, để tiếp tục sứ mạng Ngài trao phó. “Vì nhiệt thành với luật Chúa, mà con phải thiệt thân”. Thiên Chúa ban lửa tình yêu cách đặc biệt nơi một số người, để họ thành chứng nhân của Chúa, để họ trở thành dụng cụ làm bùng cháy ngọn lửa tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với con người nơi nhiều tâm hồn.
Lửa tình yêu với Thiên Chúa trong lòng Giêrêmia, lửa tình yêu đối với con người nơi người đến xin vua Zedekiah giải cứu Giêrêmia, và ngọn lửa tình yêu nơi tâm hồn vua, đã làm tất cả những người này hành động theo tình yêu, theo lương tâm, theo Lời Chúa. Giêrêmia sống theo lửa tình yêu thúc đẩy, và chính Giêrêmia cũng được cứu bởi lửa tình yêu.
Lửa Thánh Thần tình yêu
Thánh Thần là lửa tình yêu. Thánh Thần tiếp nối sứ mạng của Đức Giêsu, làm nhiều người can đảm đáp trả tiếng Chúa mời gọi, sẵn sàng sống chết cho tình yêu Thiên Chúa và tình yêu con người. Trên đường trần không thiếu những gai góc và gian nan vất vả, nhưng với tình yêu của Thánh Thần, biết bao người đang tiếp nối sứ mạng của Đức Giêsu, đang nỗ lực làm bừng cháy lên ngọn lửa tình yêu. Nhìn lên Đức Giêsu như người mẫu và lý tưởng, Kitô hữu hiên ngang sống giữa đời, đem tình yêu đến với mọi người bằng sống yêu thương, ngay cả với những người thù ghét mình.
Tình yêu chiến thắng hận thù. Yêu thương làm cuộc đời đẹp hơn, tươi hơn, thoải mái và hạnh phúc hơn. Lửa tình yêu Đức Giêsu mang xuống trần đã bùng cháy trong tim mỗi người, và mỗi người được gọi để làm ngọn lửa tình yêu lan rộng mãi.