CHÚA NHẬT 3 THƯỜNG NIÊN_C
Lời Chúa: Nkm 8,2-4a.5-6.8-10; 1Cr 12,12-30; Lc 1,1-4; 4,14-21
——-
1. Suy tôn Lời Chúa (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Hồng ân cứu độ (Lm. Thái Nguyên)
3. Tin mừng tin vui (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)
4. Lời Thiên Chúa (Jorathe Nắng Tím)
5. Trở về quê nhà (Giuse Trần Văn Ngữ, SJ)
6. Sứ mạng cá nhân (Lm. Vũ Đình Tường)
7. Sứ mạng Đấng Cứu Độ (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
8. Tin vui cho người nghèo (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
9. Chúa Thánh Thần tham gia sứ mạng của Chúa Giêsu (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
10. Tin mừng của ngày hôm nay(Thiên San, Học viện MTG.Thủ Đức)
11. Lời Chúa hôm nay (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
1. Đấng được xức dầu đang hiện diện giữa chúng ta (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Suy niệm Chúa Nhật 3 Thường niên (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. Chúa là Đấng Xót Thương (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
4. Chúa Giêsu mở ra thời đại mới cho nhân loại (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)
5. Niềm vui từ Thiên Chúa là sức mạnh của chúng ta (Lm. GB. Văn Hào, SDB)
6. Tiếp nối sứ vụ (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
7. Năm Hồng Ân (Trầm Thiên Thu)
8. Lựa chọn ưu tiên vì sứ vụ (Jos. Vinc. Ngọc Biển)
9. Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi … (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
10. Đức Giêsu – Tin mừng cho mọi người (Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ)
11. Cộng đồng (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
12. Điều gì đã được ứng nghiệm? (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
13. Chúa Nhật 3 Thường niên_C (Lm. Antôn)
14. Ban phát muôn ơn (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
15. Sứ vụ thiên sai (P. Trần Đình Phan Tiến)
16. Thi hành sứ vụ thiên sai (Lm. Đan Vinh)
17. Cùng uống Thần Khí độc nhất (AM. Trần Bình An)
18. “Công bố năm hồng ân của Chúa” (Lm. Giuse Trực)
19. Lắng nghe tiếng Thần khí (Huệ Minh)
20. Năm Hồng ân của Chúa (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Hai bài đọc trong Phụng vụ hôm nay, bài trích sách Nơ-khê-mi-a và bài Tin mừng Thánh Luca, đều nói về hai sự kiện giống nhau, đó là việc đọc Sách Thánh trong nơi thờ tự. Bối cảnh lịch sử của Bài đọc I là sau thời lưu đày. Nhờ sắc chỉ của Ky-rô, vua Ba Tư vào năm 538 trước Công nguyên, người Do Thái được trở về quê hương bản quán. Ông Ét-ra thuộc nhóm người đầu tiên trở về từ Babilon để khôi phục Đền thờ Giêrusalem và quê hương xứ sở. Sau những khó khăn gian khổ đến từ nhiều phía, việc xây Đền Thờ và tường thành Giêrusalem cũng hoàn thành. Đoạn sách được đọc hôm nay kể lại việc ông đọc sách Luật trước công chúng vào dịp hoàn tất công trình tái thiết Đền thờ, với mục đích nhắc cho dân chúng nhớ lại những điều Chúa đã dạy. Dân chúng ăn năn khóc lóc vì tội lỗi đã phạm, đồng thời nhận ra cuộc lưu đày khốn khổ chính là hậu quả của tội bất trung.
Tin Mừng Thánh Luca kể với chúng ta một lần Chúa Giêsu về thăm quê hương Nagiarét, Hôm đó là ngày Sabát, Người đã vào Hội đường để đọc Sách Thánh. Tác giả còn nói thêm: “như Người vẫn quen làm”, để cho thấy Chúa Giêsu thời thơ ấu tại quê hương luôn gắn bó với Hội đường, là sinh hoạt tôn giáo của một cộng đoàn địa phương. Khi lồng ghép bài Tin Mừng Thánh Luca với bài đọc trích sách Nơ-khê-mi-a, Phụng vụ muốn giới thiệu với chúng ta, Đức Giêsu chính là vị ngôn sứ đến để công bố thời của ân sủng, thời của ơn cứu độ, giống như tư tế Ét-ra công bố thời lưu đày đã mãn, dân trở về cố hương, Đền thờ Giêrusalem cùng với truyền thống tế tự đã được khôi phục.
Tư tế Ét-ra đọc Lời Chúa để nhắc dân chúng ôn lại quá khứ. Đó là một quá khứ thương đau. Dưới quan niệm của ông cũng như của nhiều người Do Thái, việc dân phải đi lưu đày xa quê hương xứ sở là hậu quả của lối sống lãng quên Thiên Chúa và vi phạm giới luật Ngài truyền. Ôn lại quá khứ cũng nhận ra tình thương của Chúa. Ngài luôn bao dung tha thứ, mặc dù dân nhiều lần phản nghịch. Lời Chúa tác động mạnh mẽ đến nỗi người dân khóc lóc. Đó vừa là những giọt nước mắt sám hối, cũng là những giọt nước mắt vui mừng, vì nhận ra tình thương của Chúa.
Ngày 30-9-2019, Đức Thánh Cha Phanxicô đã ấn định, Chúa nhật thứ ba của mùa Thường niên là Chúa nhật Lời Chúa. Mục đích của Đức Thánh Cha là giúp các tín hữu ý thức tầm quan trọng của việc đọc và suy niệm Lời Chúa. Đức Thánh Cha đã trích lời Thánh Giêrônimô: “Không biết Kinh Thánh là không biết Chúa Kitô”. Nhiều người tín hữu dửng dưng với việc đọc Lời Chúa. Nhân vật tư tế Ét-ra và Chúa Giêsu tại Hội đường Nagiarét nhắc nhớ chúng ta về bổn phận quan trọng này. Đọc Lời Chúa sẽ giúp chúng ta gặp Người, lắng nghe lời Ngài dạy bảo để chuyên cần thực thi thánh ý của Ngài. Đọc Lời Chúa với tâm tình suy niệm sẽ giúp chúng ta nên hoàn thiện ngay trong cuộc sống hôm nay.
Tại Hội đường Nagiarét, sau khi đọc đoạn trích sách ngôn sứ Isaia, Chúa Giêsu tuyên bố: Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe. Những người đồng hương đã sửng sốt ngạc nhiên trước lời tuyên bố này, vì Chúa Giêsu khẳng định Người là Đấng được xức dầu và được Chúa Cha sai đến trần gian để loan báo Tin Mừng, băng bó những vết thương tinh thần cũng như thể xác của con người. Những việc Chúa làm đã chứng minh lời khẳng định đó. Các tác giả Phúc âm đều kể với chúng ta, Chúa Giêsu miệt mài lên đường loan báo Nước Trời và kêu gọi mọi người sám hối. Người chứng minh: những gì các ngôn sứ đã tiên báo về Người đã và đang được thực hiện.
Nhờ Bí tích Thanh tẩy, người tin Chúa được gọi là “Kitô hữu”. Kitô hữu là người được xức dầu. Nhờ được xức dầu mà chúng ta nên giống Chúa Giêsu. Lý tưởng của cuộc sống người tín hữu là nên giống Chúa Giêsu trong tư tưởng, lời nói và việc làm. Càng nên giống Chúa Giêsu bao nhiêu, chúng ta càng thánh thiện bấy nhiêu. Nên giống Chúa Giêsu, chúng ta cũng được mời gọi cộng tác với Người để lên đường loan Tin Mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn thương đau bất hạnh, tức là xoa dịu, đồng cảm và chia sẻ với anh chị em chúng ta trong cuộc sống hằng ngày.
Xuân Nhâm Dần đang đến gần. Mỗi dịp tết, chúng ta có thói quen nhận lộc Lời Chúa. Việc rút thăm để nhận Lời Chúa không phải để thử vận may rủi như người lương dân vẫn làm vào dịp Tết. Đón nhận Lời Chúa vào ngày đầu năm để suy niệm và chuyên tâm thực hành Lời ấy trong suốt năm. Bởi lẽ “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi”. Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta một mùa xuân an bình, thánh thiện và chuyên tâm thực thi thánh ý Ngài.
Lm. Thái Nguyên
Suy niệm
Sau một thời gian rao giảng khắp miền Galilê, Ðức Giêsu trở về Nadarét, nơi Ngài sinh trưởng. Ngài vào hội đường trong ngày sabát và được mời đọc Sách Thánh. Ngài đọc sách của ngôn sứ Isaia, đoạn sách nói về ơn gọi và sứ mạng của ông (61,1-2). Ông được xức dầu để trở thành ngôn sứ cho những người Do Thái mới thoát khỏi cảnh lưu đày. Ông thông báo cho dân chúng biết thời kỳ cùng khốn đã chấm dứt, và một kỷ nguyên mới đang tới. Trong đó, người nghèo được đón nhận Tin Mừng, kẻ giam cầm được tha, kẻ mù được sáng, kẻ bị áp bức được tự do, và năm hồng ân của Chúa được khai mở.
Đọc xong đoạn Sách Thánh, Đức Giêsu nhận ra đó chính là lời tiên báo về ơn gọi và sứ mạng của mình. Ngài liền long trọng tuyên bố trước toàn thể dân chúng: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”. Với lời tuyên bố này, Đức Giêsu đã khai mạc một Năm Thánh, Năm Hồng Ân cứu độ. Đúng là một tin mừng làm nức lòng dân chúng, đem đến cả một bầu trời an vui và hy vọng cho con người.
Đoạn sách Isaia đã thực sự ứng nghiệm nơi Đức Giêsu Kitô, là Đấng đầy tràn Thánh Thần, từ lúc sinh ra, lớn lên, bắt đầu rao giảng công khai, cũng như trong toàn bộ lời nói việc làm, và ngay trong biến cố này. Đúng như lời sấm của ngôn sứ Isaia, Ngài được sai đi đem Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, kẻ bị giam cầm, kẻ mù lòa, kẻ bị áp bức. Điều này đã từng được minh chứng trước đây, khi Gioan Tiền Hô sai các môn đệ ông đến hỏi Ngài, có phải là Đấng thiên sai hay không? Chúa Giêsu thẳng thắn trả lời: “Các anh về thuật lại cho ông Gioan những gì mắt thấy tai nghe: người mù xem thấy, kẻ què đi được, người phong cùi được lành sạch, người điếc nghe được, kẻ chết sống lại, người nghèo được nghe Tin Mừng” (Mt 11,4-5).
Đức Giêsu chính là lòng thương xót của Thiên Chúa. Ngài đến để đem lại niềm vui và hạnh phúc cho con người, nhưng chính yếu là giải thoát con người khỏi ách nô lệ tội lỗi, là đầu mối của mọi đau thương bất hạnh. Hơn nữa, Ngài còn cho con người được tham dự vào thần tính của Thiên Chúa, được trở nên con cái của Chúa Cha trong Thánh Thần.
Thế giới hôm nay cũng còn đầy dẫy những người nghèo, những kẻ bị giam cầm, bị tù đày, bị áp bức, phải sống trong lầm than, cơ cực và thiếu thốn mọi điều. Không chỉ thiếu thốn cơm ăn áo mặc, mà quan trọng là thiếu tình thương, thiếu sự tôn trọng, thiếu cả những nhu cầu cơ bản để sống cho ra người. Họ là những người phải chịu nhiều đau thương bất hạnh do bất công, độc tài, phân biệt, kỳ thị… do tham lam và ích kỷ của chính con người. Tuy nhiên, vẫn có những người tự làm cho mình nghèo khổ vì buồn sầu thất vọng, không còn ý chí tiến thủ; vẫn có những người tự giam hãm mình vì hờn giận oán căm; vẫn có những người mù quáng vì cuồng tín, cao ngạo và cố chấp; vẫn có những người tự áp bức mình bởi những thành kiến và lối sống tiêu cực.
Hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục công cuộc cứu thế trong Giáo Hội và nhờ Giáo Hội. Ngài cứu thế qua các bí tích. Ngài đến với con người qua các thừa tác viên và qua tất cả các Kitô hữu. Mỗi người chúng ta là sự tiếp nối công việc của Chúa Giêsu, bằng cách chia sẻ niềm vui và ánh sáng, nâng đỡ người đau khổ thể xác và tinh thần, xua tan sợ hãi, giải thoát người bị áp bức, xoa dịu những oán hờn, an ủi kẻ cô đơn, biểu lộ sự hiện diện của Chúa bằng những hoạt động bác ái.
Dưới sự soi sáng và sức mạnh của Thánh Thần, chúng ta hãy mạnh dạn bước đi để loan truyền tình thương Chúa cho mọi người bằng sự dấn thân hy sinh và phục vụ tận tình. Và như vậy, chúng ta tiếp tục trở nên hình ảnh sống động của lòng Chúa thương xót, và trở nên Tin Mừng của Chúa Giêsu cho mọi người. Trung thành thực thi sứ vụ của người môn đệ Chúa Kitô, chúng ta góp phần làm cho lời ngôn sứ Isaia cũng được ứng nghiệm, năm hồng ân của Chúa được công bố, và Nước Thiên Chúa hiện diện giữa lòng cuộc sống hôm nay.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu!
Cuộc đời này quả thật là bể khổ,
ai cũng trông mong hồng ân cứu độ,
nhất là những kẻ túng thiếu bần cùng,
những kẻ mù lòa và sống trong tù ngục
họ khát khao tự do an bình và hạnh phúc.
Tôn giáo nào cũng chủ trương giải thoát,
bằng giáo thuyết và những giới luật vàng,
giúp con người vượt thoát kiếp lầm than,
nhưng xem ra không mấy ai thành đạt,
vì cần một sức mạnh của ân ban,
không chỉ là những nỗ lực đơn thuần.
Cũng có những phong trào làm cách mạng,
đưa ra những chủ trương thật lý tưởng,
đã vùng lên để giải phóng cho đời,
hứa hẹn một cuộc sống thật sáng ngời,
là đem lại độc lập tự do và hạnh phúc,
cho trần gian trở nên chốn thiên đàng.
Nhưng thực tế lại càng thêm khốn khổ,
thêm người nghèo và bất công đủ chỗ,
thêm tù đày và lắm nỗi đắng cay,
càng làm cho cuộc sống thêm sa lầy.
Khi xây dựng một thiên đàng không có Chúa,
chẳng khác nào là địa ngục chốn trần gian,
vì sẽ gây nên bao cuộc chiến tương tàn,
và lịch sử đã cho thấy sự kinh hoàng như thế.
Xin hướng nhân loại chúng con về với Chúa,
là Chúa duy nhất Đấng cứu độ gian trần,
để đón nhận nơi Chúa suối hồng ân,
là an vui và hạnh phúc vô ngần. Amen.
Lm. Jos DĐH.
Đẹp như tiên lo phiền cũng xấu. Tốt gỗ hơn tốt nước sơn, xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người. Hàng ngày chúng ta phải đối diện với nhiều thách thức: tốt xấu lẫn lộn, xinh đẹp bên ngoài và phẩm chất bên trong. Tuy nhiên ta vẫn có quyền mơ ước vừa đủ bình an hạnh phúc, vừa đủ niềm vui để sống đúng chuẩn, sống như ý. Có phải nhờ đấng bậc sinh thành mà ta có được khái niệm yêu thương, có phải vì đối diện với nhiều phức tạp từ môi trường xã hội mà ta thích nghe tin vui tin mừng ? Từ kinh nghiệm bản thân, người ta hiểu: yếu thì đừng ra gió, đừng trèo cao sẽ không ngã đau. Nếu không hài lòng với những gì mình đang có, người ta sẽ gọi mình là tên bất mãn kinh niên mà thôi ! Nói hay, nghe giỏi, sống đúng, sống đẹp, bao giờ cũng để lại ấn tượng tốt, tâm lý tự nhiên ai chẳng thích được khen, thích được phần thưởng, ai chẳng muốn nghe tin vui, nghe tin mừng.
Năm Tân Sửu sắp qua đi, tự nhiên ai cũng muốn quên đi những khó khăn khổ đau và muốn phấn đấu để có những niềm vui ở phía trước. Hy vọng vào những ngày tháng tốt đẹp ở năm “Nhâm Dần” này, thấy những tín hiệu vui, thao thức được nghe tin mừng là điều mà mọi người đều thích thú. Tin vui tin mừng của chúng ta hôm nay là gì ? Là đủ ăn đủ mặc, là chức tước bổng lộc, là được no thoả vật chất tinh thần, có thể một số nhỏ ước mơ như thế chăng ? Vâng, tin vui tin mừng của mọi người hôm nay là khống chế được đại dịch covid, là tình người được chia sẻ, được sống trong bình an người người nhà nhà rộn ràng niềm vui tiếng cười. Tin vui tin mừng, được thánh sử Luca ghi chép cẩn thận qua trình thuật hôm nay, chính là sự hiện diện của tình yêu Thánh Thần ở nơi chúng ta mỗi khi hội họp cầu nguyện.
Tại hội đường năm xưa, mọi người được nghe, được nhìn, và thấu hiểu tác động của tình yêu thật quan trọng. Đúng như lời quả quyết của thánh sử Luca: “được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giêsu trở về miền Galilêa, và danh tiếng Người đồn ra khắp vùng lân cận”. Bằng tình yêu Thánh Thần, Đức Giêsu nói chuẩn, đám đông thích thú nghe, lời giảng giải của Đức Giêsu hết sức thuyết phục, mọi người say sưa như mất hồn … Vì tình yêu, Đức Giêsu không muốn ai phải tưởng tượng, hay phải hình dung về điều kỳ diệu khi mọi người được nghe, được hiểu, được xác thực, về tin vui tin mừng đang sống động nơi cuộc sống này. Trở về quê hương xứ sở, Đức Giêsu không mang theo bạc vàng châu báu, tại hội đường, Đức Giêsu không trình bày về phương pháp làm giầu, không nói đến kỹ thuật làm duyên làm dáng, nhưng ai nghe cũng vui, cũng mừng, vì Ngài là tình yêu, là Đấng cứu độ.
Niềm vui của đôi trai tài gái sắc, thường được biểu lộ bằng một tinh thần lạc quan: yêu nhau trăm sự chẳng nề, một trăm chỗ lệch vẫn kê cho bằng. Niềm vui của những ai tin có Thánh Thần tác động, không phải chỉ thấy và gặp may lành, mà còn được hiểu Đức Giêsu chính là quà tặng, Thiên Chúa trao ban cho nhân loại. Cũng vì thiếu tình yêu, vì trong ứng xử chưa đủ trưởng thành, nên người ta dễ hiểu lầm, hoặc nghi ngờ nhau, Nguyễn Du xưa kia đã ngán ngẩm nói rằng: có tài mà cậy chi tài, tài tình chi lắm cho trời đất ghen. Do chưa đủ thấm nhuần giới luật yêu thương, nên xã hội có câu: biết nhiều khổ nhiều, cũng chẳng phải vô tình mà các đấng bậc lại nói: hồng nhan bạc phận. Do chưa đủ niềm tin, nên nhiều người đến hội đường, đến nhà thờ, nhưng họ không gặp, không thấy, nên cũng chẳng hiểu thế nào là nói hay là nghe giỏi !
Kinh nghiệm ở đời cho rằng: yêu thương đến mấy, cứ im lặng rồi cũng sẽ nhạt nhoà. Thánh Phaolô đã từng nói: nếu tôi nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng. (1Cr 13, 1). Tại hội đường hôm nay, nếu không có tác động của Thánh Thần, dù Đức Giêsu có chia sẻ hấp dẫn đến đâu, thì người nghe cũng chỉ như vịt nghe sấm mà thôi. Đâu là tin vui, đâu là tin mừng, có phải ở đâu có Đức Giêsu, ở đâu có hai hoặc ba người hội họp nhân danh Đức Kitô, ở đó có phép lạ, có tình yêu cứu độ. Đức Giêsu vào hội đường cầu nguyện như các luật sĩ biệt phái, Đức Giêsu tự tin nói rằng: hôm nay ứng nghiệm lời kinh thánh mà tai quý vị vừa nghe. Có Thánh Thần nơi tâm hồn, mỗi người tín hữu sẽ nghe giỏi, thực hành đúng và sống đẹp ý Chúa hơn, tâm tình đó còn tuỳ thuộc niềm tin của mỗi chúng ta.
Có tai có mắt, có tâm có tầm, chính là lợi thế mà mọi người hằng mơ tưởng, Đức Giêsu tại hội đường năm xưa, gián tiếp cho thấy vị trí của Thánh Thần mới là trọng tâm để người nghe hiểu và đạt tới hạnh phúc thật. Tại nhà thờ hôm nay hay tại hội đường hôm đó, vẫn đang được Đức Giêsu quy tụ, hướng dẫn, dưới sự tác động của tình yêu Thánh Thần, dù tin vui tin mừng tuỳ vào sự tự do mỗi người khao khát khác nhau. Đức Giêsu sẽ mãi mãi là Thầy là Thiên Chúa cứu độ, con người qua các thời đại vẫn mãi mãi là đối tượng của lòng thương xót Chúa, cho dù bạn là ai, tình yêu của Đức Kitô vẫn thu phục bạn.
Jorathe Nắng Tím
Chân lý nền tảng mà người Kitô hữu không thể không chú tâm, và ghi lòng tạc dạ, đó là Thiên Chúa của Đức Giêsu là “Thiên Chúa nói với con người”, chân lý mà thánh Phaolô đã quảng diễn trong thư gửi giáo đoàn Do Thái: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dậy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài. Người là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa. Người là Đấng dùng lời quyền năng của mình mà duy trì vạn vật” (Dt 1,1-3).
Thực vậy, Thiên Chúa không chỉ nói với con người qua công trình tạo dựng của Ngài như lời thánh vịnh: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Người làm” (Tv 19,2), mà còn nói với chúng ta bằng lời, bằng ngôn ngữ của loài người qua trung gian các ngôn sứ ở Cựu Ước, và qua chính Đức Giêsu, Ngôi Lời làm người ở giữa loài người để nói với chúng ta lời của Thiên Chúa Cha, như chính Ngài đã khẳng định với các môn đệ: “Lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy” (Ga 14,24), “Thầy không còn dùng dụ ngôn mà nói với anh em nữa, nhưng Thầy sẽ nói rõ cho anh em về Chúa Cha, không còn úp mở” (Ga 16,25), và đặc biệt trong lời cầu nguyện với Chúa Cha của Ngài cho những kẻ thuộc về Ngài trước giờ lên đường đi chịu chết: “Giờ đây họ biết rằng tất cả những gì Cha ban cho con đều do bởi Cha, vì con đã ban cho họ lời mà Cha đã ban cho con; họ đã nhận những lời ấy, họ biết thật rằng con đã từ Cha mà đến, và họ đa tin là Cha đã sai con” (Ga 17, 7-8).
Như thế, Lời chúng ta nghe trong thánh lễ, Lời chúng ta đọc trong Kinh Thánh không là lời của phàm nhân, nhưng là Lời Thiên Chúa nói với con người, đúng hơn là chính Thiên Chúa đang nói với chúng ta. Đó là lý do sau khi nghe công bố Lời Chúa trong thánh lễ, cộng đoàn phụng vụ cùng thưa “Tạ ơn Chúa”, hay “Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa”, vì chính Chúa nói với chúng ta, chứ không là sách nói, dù đó là sách thánh. Nói cách khác, khi đón nhận Lời Chúa, người Kitô hữu mở lòng đón rước Đức Giêsu, và ngợi khen Chúa Giêsu, vì chúng ta tin Lời Chúa là chính Chúa. Chính Lời Chúa duy trì sự tồn tại của vạn vật, ban ánh sáng hy vọng, ban sự sống vĩnh cửu và hạnh phúc đời đời, và cũng chính Lời Chúa tha tội, thanh tẩy, chữa lành, soi sáng, dẫn đưa nhân loại vì Lời Chúa là Lời cứu thế.
Tóm lại, để có thể cung kính Lời Chúa, như toàn thể cộng đoàn đã đứng lên, khi Sách Thánh được mở ra mà ngôn sứ Nơkhemia kể lại trong bài đọc 1, cũng như thái độ trịnh trọng, trang nghiêm của Đức Giêsu khi “Người vào hội đường … và đứng lên đọc Sách Thánh” (Lc 4, 16), chúng ta cần xác tín Lời Chúa được công bố chính là Thiên Chúa đang nói với chúng ta.
Cũng thế, để có thể yêu mến và sống Lời Chúa, người môn đệ Đức Giêsu phải mở lòng trí như Đức Giêsu đã dạt dào tình yêu Chúa Cha khi Ngài mở Sách Thánh trong hội đường và chú giải đọan nói về Ngài là Đấng Thiên Chúa sai đến và được xức dầu tấn phong trong sách ngôn sứ Isaia (x. Lc 4,17-19), bởi có mở trí khôn khắc khoải đi tìm chân lý, có mở trái tim tín thác, hy vọng vào Chúa, như hai môn đệ trên đường Emmau, chúng ta mới được như các ông thấy lòng mình rạo rực bùng cháy lên, khi nghe Đức Giêsu “nói chuyện và giải thích Kinh Thánh”, mới nhận ra Đức Giêsu phục sinh đồng hành trên hành trình Kitô hữu của chúng ta giữa một thế giới đầy những “lời có cánh” cám dỗ, dối trá, xu nịnh.
Giuse Trần Văn Ngữ
Năm hết tết đến, những ai sống xa nhà đều mong ước được trở về nhà. Chữ „nhà” gói ghém tất cả những gì là thân thương và quý giá nhất trong trái tim của một con người. Nhà hàm chứa không chỉ là gia đình và họ hàng thân thuộc, mà còn là nơi chôn nhau cắt rốn, là quê hương xứ sở nữa. Cho dù đi bất cứ đâu, người ta luôn mang theo bên mình chữ “nhà”.[1]
Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay[2], thánh sử Luca thuật lại câu chuyện Đức Giê-su trở về quê nhà ở làng Na-da-ret. „Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sa-bát và đứng lên đọc Sách Thánh” (c.16b). Ở đây thánh sử Luca tiếp tục vén mở cho người đọc thấy, Đức Giê-su thật sự bám rễ sâu vào trong truyền thống tôn giáo Do thái. Người trung thành đến hội đường, theo như luật ngày sa-bát qui định. Truyền thống tôn giáo đã tuôn chảy vào Ngài từ khi còn nhỏ. Thánh Giu-se và Đức Ma-ri-a luôn thực thi những gì luật truyền dạy. Như thực hiện lễ cắt bì cho Đức Giê-su khi đủ tám ngày (Lc 2,21); Trẩy hội lên đền thờ Giê-ru-sa-lem khi Người được mười hai tuổi (Lc 2,42)… Có thể nói nhờ được sống trong truyền thống tốt đẹp của tôn giáo nên Đức Giê-su đã thực sự trưởng thành và quân bình về mọi mặt. Những điều ấy tiếp tục nở hoa trong hành trình đi rao giảng của Ngài sau này.
Đúng như lời nhắn nhủ của Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô với các bạn trẻ Việt Nam: Trở về nhà[3] là trở về với văn hóa và phong tục đã hình thành lên lối sống cho các con. Thánh Giu-se và Đức Ma-ri-a là mẫu gương tuyệt vời để chúng ta noi theo trong việc nuôi dạy con cái. Thật tốt đẹp khi các cha mẹ chú ý đưa con cháu đến nhà thờ từ lúc các em còn nhỏ. Dẫu biết rằng, khi đem theo các em đến nhà thờ, có thể gây phiền hà cho chính mình và cho người khác, nhưng đó là việc tốt nên làm, để các em bé được sống trong bầu không khí truyền thống tôn giáo từ thuở sơ sinh. Nếu các em nhỏ được làm quen với nhà thờ và cộng đoàn tín hữu từ khi bước vào đời, thì khi trưởng thành, đức tin nơi các em có tiềm năng mạnh mẽ hơn nhiều. Đức Giê-su đã được nuôi dưỡng và trưởng thành từ trong truyền thống tôn giáo, nơi gia đình và ở quê hương, là hành trang cho Ngài bước vào đời.
Bên cạnh đó, bài Tin Mừng hôm nay còn mời gọi chúng ta hãy đóng góp để làm cho truyền thống, di sản văn hóa, tôn giáo trở nên tốt đẹp và sống động hơn. Như thế, mỗi lần trở về nhà, chúng ta không chỉ kín múc thêm những điều tốt đẹp từ truyền thống gia đình, mà còn góp phần vào sự phát triển truyền thống „uống nước nhớ nguồn” nữa. Ở đây, chúng ta không nên thu hẹp ý nghĩa truyền thống vào trong những nguyên tắc bất động, hoặc đặt thêm nhiều luật lệ khắt khe hơn; nhưng thay vào đó chúng ta được mời gọi đi vào cội nguồn của truyền thống gia đình, dòng họ của chính mình; đó là tinh thần sống động, là nơi tinh thần Tin Mừng trở nên mạnh mẽ hơn để nuôi sống từng thành viên.
Khi trở về quê nhà, Đức Giê-su loan báo: „Ngày hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4,21). Mọi người trong hội đường, ai nghe cũng đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người. Trong ý hướng này, chúng ta thấysự trở về nhà của Đức Giê-su đã mở ra một kỷ nguyên mới. Người dân làng Na-da-rét nói riêng và dân Is-ra-el nói chung, họ đang chờ đợi lời hứa của Thiên Chúa với tổ phụ Áp-ra-ham (xem St 12,1-3). Hôm nay, Đức Giê-su loan báo là lời hứa ấy được thực hiện ngay lúc này và ngay bây giờ.
Chúng ta có thể hiểu „ngày hôm nay” diễn tả ở thì hiện tại. Lời hứa năm xưa được ứng nghiệm ngay hôm nay. Từ khi xuống thế làm người, chịu khổ nạn và phục sinh, Đức Giê-su đã cho thấy Lời Kinh Thánh được ứng nghiệm thế nào; và sự ứng nghiệm ấy vẫn còn tiếp tục cho đến chúng ta qua Giáo hội. Ngày hôm nay, con người có thể cảm nếm „lời ấy đang được ứng nghiệm” trên khắp thế giới – Giáo hội tiếp tục sứ mạng của Đức Giê-su: mang tin vui đến cho người nghèo, đem ơn giải thoát cứu con người khỏi những giam cầm và công bố hồng ân của Chúa.
Lời hứa ấy được ứng nghiệm không phải theo cách thụ động, mà theo một năng động tích cực. Đức Thánh Cha Phan-xi-cô căn dặn các bạn trẻ: Các con “Hãy về nhà.” Đây là một hành trình thúc đẩy các con trở về với cội nguồn của các con và đào sâu di sản văn hoá và truyền thống của các con. Các con được mời gọi tiếp tục những công việc của Đức Giê-su, và để cho Tin Mừng của Chúa được ứng nghiệm:
Có thể nói, đây là những bài giảng ngắn nhất, nhưng nó là những lời mạnh mẽ và đem đến niềm hy vọng cho từng người chúng ta.
Đây là lời mời gọi: hãy đem hồng ân của Chúa về nhà mình trong dịp tết đến xuân về này. Điều này không có nghĩa là chúng ta phải thực hiện những phép lạ nhãn tiền và vĩ đại như ông Mô-sê đã thực hiện năm xưa để dẫn dân đi qua biển đỏ, nhưng thay vào đó, là trở nên những người đem Tin Mừng về đến với quê nhà một cách cụ thể.
Hãy thưa chuyện với Đức Giê-su và hỏi Ngài xem: Con sẽ công bố Tin Mừng của Chúa nơi quê nhà thế nào đây?
——–
[1] ĐTC Phanxicô gửi sứ điệp video cho giới trẻ Việt Nam – https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2019-11/dtc-phanxico-goi-su-diep-video-cho-gioi-tre-vietnam.html
[2] Tin Mừng Chúa Nhật 3 Thường Niên Năm C. Lời tựa (Lc 1,1-4) và Đức Giê-su bắt đầu rao giảng (Lc 4,14-21).
[3] https://www.youtube.com/watch?v=FuCbI5dmm24&t=3s
Lm Vũđình Tường
Khi lãnh nhận bí tích thanh tẩy, ta nhận cùng Thánh Thần Đức Kitô lãnh nhận sau khi Ngài nhận phép rửa từ Gioan. Khi xức dầu thánh hiến linh mục công bố ba chức vụ của Kitô hữu. Đó là trách vụ tư tế, tiên tri và vương đế.
Chính Đức Kitô xức dầu cứu rỗi cho con để sau khi nhập đoàn dân Ngài, con luôn mãi là chi thể của Đức Kitô, là tư tế, tiên tri và làm vương đế cho đến cõi trường sinh.
Đức Kitô công bố lời ngôn sứ Isaiah loan báo ứng nghiệm cho chính Ngài. Trước khi về cùng Chúa Cha, Đức Kitô trao ban sứ mạng đó cho các tông đồ. Các tông đồ trao lại cho các Kitô hữu. Như thế lời ngôn sứ loan báo cho Đức Kitô cũng ứng nghiệm cho từng Kitô hữu. Đức Kitô xuống thế trở thành một người trong chúng ta với hai mục đích. Thứ nhất, Ngài thi hành í Chúa Cha. Thứ hai, Ngài dậy chúng ta cách thi hành í Chúa Cha. Điều này thể hiện trong Kinh
Lậy Cha, Đức Kitô dậy các môn đệ.
‘Xin cho í Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời’.
Chính Đức Kitô thể hiện í Chúa Cha dưới đất cũng như trên trời. Ngài dậy Kitô hữu tiếp tục thể hiện í Chúa Cha trên trần gian. Là môn đệ Đức Kitô chúng ta nhận Thánh Thần Chúa và nhận luôn sứ mạng rao giảng Tin Mừng. Chính Thánh Thần cùng với Đức Kitô truyền bá, rao giảng Tin Mừng. Theo bước chân Đức Kitô rao giảng Tin Mừng chính là làm cho í Chúa Cha thể hiện trong cuộc sống Kitô hữu. Khi chúng ta nghĩ rao giảng Tin Mừng là công việc của tu sĩ, không phải của giáo dân. Đây là một cám dỗ lớn. Để chiến thắng cám dỗ toàn cầu này, Kitô hữu cần thay đổi lối suy nghĩ. Hãy nhớ lại trách nhiệm khi nhận xức dầu thánh hiến. Ba chức vụ: tư tế, tiên tri và vương đế cần được thể hiện trong cuộc sống, cần thực hành ba chức vụ trên với khả năng, và trong hoàn cảnh hiện tại của mỗi Kitô hữu. Nhận bí tích thanh tẩy chính là nhận thể hiện í Chúa trong cuộc sống. Kitô hữu đó thuộc về Chúa, sống trong Chúa và sống cho Chúa. Điều này có nghĩa là sống Tin Mừng và rao giảng Tin Mừng.
Tiên tri Isaiah nhắc đến người nghèo, kẻ tù đầy và năm hồng ân của Thiên Chúa, bởi lúc đó dân Chúa chọn đang sống cảnh nô lệ, lưu đầy. Mấy trăn năm lưu đầy, đền thờ Jerusalem bị phá tan tành, văn hoá, phong tực tập quán phai nhạt từ thế hệ này sang thế hệ khác. Thế hệ trẻ thường hội nhập phong tục, tập quán nơi họ đang sống để có thể hoà nhập với dân bản xứ. Tệ hại hơn cả là rất nhiều người trong họ không còn nuôi chút hy vọng trở về quê hương. Thời Đức Kitô dân Thiên Chúa vừa mới thoát cảnh nô lệ, lưu đầy. Niềm hy vọng lập quốc, xây lại thành thánh đang từ từ sống lại. Đức Kitô trở thành niềm hy vọng của toàn dân. Họ đặt hết hy vọng vào Ngài. Họ tin Ngài sẽ giúp họ hoàn thành niềm mơ ước một thời tưởng đã chết, nay đang hồi sinh.
Thời đại chúng ta, người nghèo có thể là nghèo miếng ăn, đói thức uống, cũng có thể dư của ăn, thừa của uống nhưng nghèo tình thương, nghèo tâm linh. Kẻ tù đầy có thể là tội phạm đang sống trong các nhà tù; cũng có thể là người sống hoàn toàn tự do trong xã hội nhưng là nạn nhân, nô lệ do nghiện ngập, tệ đoan xã hội. Một số tự trói buộc mình, không tin ơn tha thứ. Không tha cho chính họ, không tha cho tha nhân bởi nghi ngờ bí tích hoà giải. Họ nghĩ tội họ phạm lớn hơn lòng Chúa xót thương. Đây là một cám dỗ. Cám dỗ lòng Chúa xót thương, giới hạn tình yêu vô biên Chúa dành cho những ai thành tâm thống hối. Chính Gioan Tẩy Giả xác định đón nhận phép rửa của ông là dấu chỉ thống hối. Đức Kitô dậy các môn đệ cầu xin ‘Chúa tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con’. Nợ đây là nợ lời thống hối, hối lỗi, nợ không giữ lời hứa từ bỏ, tránh tái phạm. Không tha thứ chính là sa chước cám dỗ, cứ trói buộc.
Để hưởng ‘Năm hồng ân của Chúa’ Kitô hữu cần hai điều. Thứ nhất, tha thứ và thứ hai đi con đường Đức Kitô đã đi. Thực hiện hai điều trên sẽ nhận được ‘hồng ân Thiên Chúa’. Khi công bố Đức Kitô là Thủ Lãnh, Kitô hữu trung tín vâng nghe lời Thủ Lãnh hướng dẫn. Đức Kitô là Cha nhân từ, và thiên đàng là nhà của chúng ta.
Sống Tin Mừng đích thực là sống tin và rao giảng Tin Mừng cho tha nhân. Tin Mừng không phải của riêng ai. Tin Mừng là của chung, bởi là tài sản chung nên cần chia sẻ, ban phát. Thiếu chia sẻ, ban phát, ba sứ: tư tế, tiên tri và vương quyền yên ngủ. Tin Đức Kitô cần bước theo Đức Kitô. Đứng tại chỗ là không tiến. Muốn tiến phải dời chỗ. Bước tới để dời chỗ. Không đổi lối sống, lối suy nghĩ, niềm tin là thiếu cộng tác với hướng dẫn của Thánh Thần Chúa.
Đức Kitô tin tưởng phó thác Tin Mừng vào tay Kitô hữu. Kitô hữu xin ơn tín trung, sống tin và rao giảng Tin Mừng Phục Sinh.
Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương
Với Chúa Nhật III thường niên năm C, phụng vụ Lời Chúa giới thiệu với chúng ta về sứ mạng của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ. Sứ mạng đó được Chúa giao phó cho Giáo Hội để chuyển thông ơn cứu độ của Chúa cho mọi người qua mọi thời đại. Chúng ta lần lượt tìm hiểu ý nghĩa Lời Chúa hôm nay qua từng bài đọc.
1- Sứ mạng Đấng Cứu Độ
Trong bài Tin Mừng, chúng ta nghe thánh Luca tường thuật sự kiện Chúa Giêsu trở về quê hương. Trong ngày Sabát, như thường lệ, Người vào hội đường và đọc Sách Thánh. Người mở sách tiên tri Isaia và gặp đoạn này: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ sẽ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa. Đọc xong, Người ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà quý vị vừa nghe” (Lc 4,16-21). Những lời này có ý nghĩa gì? Chúa Giêsu muốn nói gì khi nhắc lại lời hứa của Cựu Ước?
Trước hết, chúng ta chú ý đến thành ngữ mà Chúa Giêsu dùng: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà quý vị vừa nghe” (Lc 4,21). Điều này muốn diễn tả Chúa Giêsu mang lại sự viên mãn của ơn cứu độ. Tất cả lời hứa về ơn cứu độ nay đã được thực hiện nhờ Chúa Giêsu bởi vì Người là Đấng Mêsia được chờ đợi từ lâu trong Cựu Ước, được Chúa Cha sai đến để hoàn tất lời hứa. Vì thế, thánh Luca rất thích dùng từ “hôm nay”: “Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho chúng ta” (Lc 2,11; x. 19,9).
Trong lời công bố này, Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta biết sứ mạng của Đấng Cứu Thế: Người đến để thực hiện những lời tiên tri Isaia loan báo trong Cựu Ước. Người được Chúa Cha xức dầu và được đổ tràn đầy Thánh Thần để đi loan bao Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, giải thoát những kẻ bị giam cầm, chữa lành người bị mù lòa, trả lại tự do cho người bị áp bức. Người tái lập trật tự xã hội trong đó, công lý, hòa bình và yêu thương phải ngự trị. Quả thật, qua lời nói, hành động và toàn bộ con người của mình, Đức Giêsu Nazarét thể hiện lòng thương xót của Thiên Chúa và sức mạnh cứu độ con người. Bởi thế, khi các môn đệ của Gioan Tẩy Giả đến hỏi Người có phải là Đấng Cứu Thế không, Người đã bảo họ về kể lại cho ông Gioan biết những gì Người đã làm: người mù được thấy, người què được đi, người điếc được nghe, người câm nói được v.v… đúng như lời tiên tri Isaia tiên báo (x. Lc 7,20-22).
Nhưng tại sao ngày hôm nay vẫn còn người nghèo, vẫn còn người bị áp bức, vẫn còn nhiều nhà tù, vẫn còn đó nhiều người mù lòa? Như thế, phải chăng điều Chúa công bố ngày hôm nay vẫn còn chưa được thực hiện?
Để hiểu được ý nghĩa của những lời trên, chúng ta cần phải tiếp cận theo cái nhìn tâm linh. Theo đó, Đức Giêsu loan báo về Nước Thiên Chúa đã hiện diện trên trái đất này. Nước Thiên Chúa đã đến với sự hiện diện của Người. Những ai tin vào Người thì thuộc về Nước Trời. Những ai tin vào Người thì được ơn giải thoát khỏi sự mù lòa tâm linh. Người khai sáng và ban cho họ có khả năng nhìn thấy đường đi, sự thật và sự sống. Những ai bị cầm giữ bởi tội lỗi, nô lệ cho Satan, thì được Người giải thoát nhờ Lời và các phép lạ của Người làm, đặc biệt là nhờ các bí tích mà Người thiết lập, nhất là bí tích Rửa Tội và Giải Tội, giải phóng chúng ta khỏi mọi sự nô lệ của tội lỗi. Nhờ đó chúng ta được trở thành con cái Chúa, được gia nhập Giáo Hội và được thừa hưởng hạnh phúc Nước Trời. Hiểu như thế, ngày hôm nay Chúa Kitô đang thực hiện sứ mạng cứu độ này trong thế giới qua Giáo Hội.
2- Giáo Hội, Nhiệm Thể Chúa Kitô
Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần đã thiết lập Giáo Hội để tiếp tục sứ mạng cứu độ con người trên trần gian. Giáo Hội bao gồm nhiều thành phần khác nhau, nhưng hiệp nhất nên một với nhau nhờ một Thánh Thần. Bởi vì, Giáo Hội là Nhiệm Thể Đức Kitô.
Trong bài đọc II, thánh Phaolô ví Giáo Hội như một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau. Mỗi chi thể có một vai trò khác nhau nhưng bổ túc cho nhau và phục vụ cho lợi ích chung: Như chân không thể nói với tay: “Tôi không phải là tay, nên tôi không thuộc về thân thể,” hay các bộ phận khác cũng thế. Mỗi bộ phận có sự lớn nhỏ, mạnh yếu khác nhau nhưng để giúp đỡ nhau.
Trong thân thể Giáo Hội cũng vậy, Thiên Chúa đặt người làm Tông Đồ, người làm ngôn sứ, kẻ làm thầy dạy, người được ơn làm phép lạ, người được ơn chữa bệnh để giúp kẻ khác, để quản trị, để nói tiếng lạ… Tất cả đều đến từ một Chúa Thánh Thần. Đó là những đặc sủng khác nhau nhưng đều có một mục đích chung là phục vụ lợi ích của Giáo Hội (x. 1 Cr 12,12-30).
Như trong một giáo xứ, có linh mục, có thừa tác viên, có hội đồng mục vụ, có giúp lễ, có ca đoàn, có nam nữ tu sĩ, có giáo dân… Đây là những chi thể làm nên một thân thể Giáo Hội của Chúa Kitô. Mỗi người có một vai trò, một sứ mạng riêng nhưng chúng ta đều có chung mục đích là để phục vụ Chúa và Giáo Hội.
Như một vườn hoa với đủ loại hoa màu khác nhau, mỗi loài hoa làm nên vẻ đẹp phong phú của vườn hoa, trong cộng đoàn Giáo Hội có nhiều ơn gọi và chức vụ khác nhau để làm cho Giáo Hội muôn sắc muôn màu. Hay như một dàn hợp xướng, có nhiều ca viên, người đánh đàn, người thổi sáo, người đánh trống, người kéo violon v.v… Mỗi người phải theo sự hướng dẫn của người điều khiển, và mỗi người làm tốt vai trò của mình, thì sẽ tạo ra một bản hòa tấu tuyệt diệu. Cũng thế, trong Giáo Hội, mỗi người có một vị trí khác nhau nhưng hiệp nhất với nhau và cộng tác với nhau để tạo nên một bản nhạc tuyệt vời ca ngợi và tôn vinh Thiên Chúa.
Tuy nhiên trong thực tế, chúng ta thường có cám dỗ không chấp nhận sự khác biệt của người khác và muốn bắt người khác phải giống mình. Vì thế, chúng ta được mời gọi biết tôn trọng sự khác biệt, đặc sủng và tài năng của người khác, đồng thời phải biết nhìn nhận rằng sự khác biệt là sự giàu có và mỗi đặc sủng Chúa ban là để phục vụ thiện ích chung.
3- Sứ mạng của mỗi Kitô hữu
Những gì Chúa Giêsu công bố và đã được ứng nghiệm nhờ sự hiện diện, lời nói và việc làm của Người. Đó cũng là những gì mà ngày hôm nay chúng ta được mời gọi để sống và thực hiện cho những người xung quanh. Chúa Kitô trao sứ mạng của Người cho mỗi người thực hiện.
Qua suốt chiều dài lịch sử, Giáo Hội luôn nỗ lực thực hiện sứ mạng của Chúa Kitô là loan báo Tin Mừng cho mọi người. Trên thế giới, Giáo Hội đã khai sinh biết bao nhiêu bệnh viện, trường học, các cô nhi viện, các trại cùi, trại tế bần, nhà dưỡng lão… Giáo Hội đã không ngừng dấn thân trong công tác từ thiện, bác ái, xã hội, văn hóa để thăng tiến con người và giúp cho con người sống xứng đáng với phẩm giá của mình. Đặc biệt, Giáo Hội thực thi sứ vụ cứu độ con người qua việc cử hành các bí tích do Chúa Kitô ủy thác.
Với sứ vụ này, hôm nay mỗi người Kitô hữu được mời gọi dành những nghĩa cử, lời nói, thăm hỏi người nghèo khổ, loan báo tự do cho những ai bị trói buộc bởi các hình thức nô lệ mới trong xã hội hiện đại, phục hồi ánh sáng cho những ai bị mù lòa trong sự lầm lạc của chính mình, phục hồi phẩm giá cho tất cả những ai bị mất nhân phẩm. Nếu chúng ta thực hiện được những điều này, thì lời công bố của Chúa trở thành hiện thực và ứng nghiệm nhờ chứng tá đời sống chúng ta. Ước gì những lời của thánh Phaolô hướng dẫn chúng ta: “Ai làm những việc bác ái, thì hãy làm những điều ấy trong hân hoan” (Rm 12,8).
Lạy Chúa, Chúa đến khai mở Nước Thiên Chúa giữa trần gian và thực hiện lời hứa cứu độ cho con người. Xin cho chúng con luôn ý thức và trân quý những hồng ân Chúa ban, đồng thời biết cộng tác với Chúa và với nhau trong việc cứu rỗi các linh hồn. Amen!
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Năm 2021 phải nói là một năm khắc nghiệt vì đại dịch Covid-19. Dịch bệnh đã cướp đi biết bao sinh mạng và còn phơi bày những góc khuấn của xã hội, đặc biệt là lòng tham vô nhân đạo của một số thành phần đã trục lợi trên chính đau khổ của đồng bào mình. Xem ra câu thơ của cụ Nguyễn Du ngày xưa nói vẫn đúng cho hôm nay.
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Nguyễn Du đã trông thấy những gì? Thưa đó là cả một bức tranh chân thực về xã hội đầythị phi thời phong kiến với cảnh quan to quan nhỏ là cường hào ác bá áp bức dân nghèo và cảnh nghèo khổ bị ức hiệp của người dân đen.
Đây chính là cuộc bể dâu mà nhà thơ đã trải qua. Nhân vị của một con người cũng được ngã giá bằng đồng tiền. Khi gia đình Kiều mắc oan thì:
“Có ba trăm lạng việc này mới xong”.
Có tiền là có thể giải quyết được tất cả. Kiều phải bán thân mình như một món hàng, mà kẻ mua:
“Đắn đo cân sắc, cân tà !
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn tram”.
Thế có đau xót, nhục nhã không? Con người, nhân cách và phẩm giá đánh giá bằng tiền bạc. Bốn trăm lượng để đổi lấy cả đời con gái sắc tài bậc nhất! Còn gì là đạo lí xã hội?
Đúng cuộc đời là bể dâu vì cái gì cũng có thể xảy ra. Dù là biển xanh to lớn sâu thẳm kia còn biến thành ruộng dâu, thì con người chỉ là hạt bụi nhỏ tí xíu chẳng đáng kể gì. Nên cụ Nguyễn Du lại thấy buồn cho kiếp người thật tang thương.
Lời Chúa hôm nay có thể nói là tin vui cho những người nghèo khổ, những người bất hạnh và bị bỏ rơi. Chúa Giêsu đã chọn người nghèo để dấn thân, để phục vụ. Ngài đến để giúp cho những con người nhỏ bé được nâng cao, được tôn trọng như những con người giầu có, quyền quý. Chính Ngài đã chọn sinh ra trong thân phận một người nghèo. Chính Ngài đã sống một cuộc đời nghèo khó. Nghèo khó đến nối “không có nơi gối đầu”. Mỗi bước chân của Ngài đều hướng đến những người khổ đau. Mỗi ánh mắt của Ngài đều hướng về những con người bất hạnh. Mỗi cái nhìn của Ngài đều chạnh lòng thương những ai đang đau khổ bơ vơ vì bị bỏ rơi, vì thiếu thốn tư bề. Ngài đã thực hiện trọn vẹn sứ vụ của Đấng Messia mà các tiên tri đã loan báo. “Khi Người đến mắt người mù sẽ được nhìn thấy. Tai người điếc sẽ được nghe. Người câm nói được và người què nhảy nhót như nai”. Tất cả những điều đó hôm nay đã ứng nghiệm trong con người Đức Giêsu miền Nagiaret.
Phúc âm đã kể rất nhiều trường hợp đau bệnh được ơn chữa lành. Có người đàn bà bị bệnh băng huyết cả 18 năm nay nhờ gặp Chúa được chữa lành. Có người bị bại liệt suốt mấy chục năm nhờ Chúa mà tự mình đứng dậy không cần ai nâng đỡ. Có người hấp hối nơi giường bệnh được phục hồi. Có người Chúa cho từ cõi chết sống lại như cậu con trai bà góa thành Naim và Lagiaro bạn Ngài.
Thế nên, hãy trao vào tay Chúa những gánh nặng của cuộc đời. Hãy tín thác vào lòng thương xót Chúa. Hãy để Chúa xoa dịu nỗi đau tâm hồn và thể xác mỗi khi chúng ta gặp nguy nan. Chắc chắn tình thương Chúa sẽ không để chúng ta thất vọng khi chạy đến cùng Ngài.
Cuộc sống có rất nhiều khổ đau. Khổ đau tâm hồn và khổ đau thể xác. Nỗi đau nào cũng có thể dẫn đến tuyệt vọng. Vì khi gặp khổ đau mà chẳng còn biết bám vào đâu. Trước những nan giải của cuộc sống, họ chỉ trông chờ một phép màu từ Thiên Chúa. Ngoài Thiên Chúa chẳng còn ai có thể giúp họ. Nơi Ngài chính là niềm hy vọng duy nhất cho con người khi gặp khổ đau.
Và giờ đây, khi mùa xuân đã chạm vào cánh cửa thời gian và phủ muôn sắc màu của muôn loài hoa thì Tết cũng về dưới hiên nhà. Ta hãy gác lại những lo toan bộn bề cuộc sống, những lo lắng của dịch bệnh đang hoành hành để trở về với những truyền thống dân tộc, cùng đón một cái Tết cổ truyền ý nghĩa bên những người thân yêu, cùng chào đón một năm mới với những hy vọng mới.
Và với niềm tín thác vào Lòng Thương Xót Chúa xin mời mọi người cùng sống niềm tin như thánh Phê-rô đã dạy: “Mọi âu lo hãy trút cả cho Chúa vì Người chăm sóc anh em”. Amen
CHÚA THÁNH THẦN THAM GIA SỨ MẠNG CỦA CHÚA GIÊSU
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Trong ba Ngôi Thiên Chúa, chúng ta thường được chiêm ngắm Chúa Giê-su qua hình ảnh, tranh tượng về Ngài cũng như được nghe những lời Ngài giảng dạy, xem việc Ngài làm qua các sách Tin mừng.
Ngoài ra, chúng ta cũng có thể hình dung Thiên Chúa Cha qua hình ảnh một Người Cha giàu lòng yêu thương con cái. Tuy nhiên, điều đáng tiếc là chúng ta ít được nghe nói đến Chúa Thánh Thần nên cảm thấy xa lạ với Ngài, ít cầu nguyện với Ngài và không để Ngài soi đường dẫn lối cho chúng ta. Đây là một thiếu sót hết sức tai hại.
Lược qua Tin mừng Lu-ca, chúng ta thấy Chúa Thánh Thần có một vai trò rất quan trọng trong cuộc đời tại thế của Chúa Giê-su, như sau:
Trước hết, khởi đầu công cuộc nhập thể của Ngôi Hai, Chúa Thánh Thần đã dùng quyền năng của Ngài cho Đức Maria thụ thai, cưu mang và sinh Chúa Giê-su ra đời cứu độ thế gian (Lc 1,35).
Đến khi Chúa Giê-su chịu phép Rửa ở sông Gio-đan, Chúa Thánh Thần hiện xuống trên Ngài dưới hình chim bồ câu (Lc 3, 21-22).
Rồi Chúa Thánh Thần đưa Chúa Giê-su vào hoang địa, ăn chay cầu nguyện suốt bốn mươi đêm ngày, trước khi khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin mừng cứu độ muôn dân (Lc 4, 1-2).
Sau đó, được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, Chúa Giê-su trở về miền Galilê, bắt đầu sứ mạng rao giảng và cứu độ (Lc 4, 14-15).
Đặc biệt qua bài Tin mừng hôm nay, khi trở về Na-da-rét, Chúa Giê-su vào hội đường ngày sa-bát. Người ta trao cho Ngài sách ngôn sứ Isaia. Ngài mở ra trúng đoạn chép rằng:
“Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng.”
Sau khi đọc xong, Chúa Giê-su nói cho mọi người biết đoạn sách ngôn sứ Isaia vừa đọc đã được ứng nghiệm nơi Ngài. Thế là qua đó, Chúa Giê-su tỏ cho thấy Chúa Thánh Thần có vai trò quan trọng trong sứ mạng của Ngài.
Như vậy, Chúa Thánh Thần luôn hiện diện với Chúa Giê-su, cùng hoạt động với Chúa Giê-su, gắn bó mật thiết với Chúa Giê-su như hình với bóng, như xác với hồn.
Rồi khi Chúa Giê-su chết, Thiên Chúa Cha đã dùng Thánh Thần cho Ngài sống lại. Khi Chúa Giê-su đã lên trời, đang các môn đệ co cụm trong nhà tiệc ly vì sợ người Do-thái, Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các ngài, hiện diện trong các ngài, biến các ngài từ những con người nhát đảm khiếp nhược trở nên những chiến sĩ can trường loan báo Tin mừng và làm chứng cho Đức Ki-tô (Ga 20, 19-20).
Như thế, Chúa Thánh Thần có một vai trò lớn lao trong cuộc đời Chúa Giê-su, trong sứ mạng của các tông đồ và trong hoạt động của Hội thánh.
Khi đề cập đến vai trò tối quan trọng của Chúa Thánh Thần, Thượng phụ A-thê-na-go-ras nhận định như sau: “Nếu Giáo hội vắng bóng Thánh Linh thì Thiên Chúa sẽ trở nên nghìn trùng xa cách; Chúa Giê-su chỉ còn là huyền thoại, Tin mừng của Ngài chỉ còn là một mớ chữ không hồn.”
Lạy Chúa Giê-su,
Nhờ đón nhận Thánh Thần do Chúa thông ban trong ngày lễ Ngũ tuần, các Tông đồ mới đủ can đảm và sức mạnh để rao giảng Tin mừng và xây dựng Hội thánh. Nhờ ánh sáng Chúa Thánh Thần soi sáng, muôn dân được nhận biết, yêu mến và phụng thờ Thiên Chúa Ba Ngôi.
Xin giúp chúng con mở rộng tâm hồn đón nhận Thánh Thần Chúa và luôn bước đi theo ánh sáng Ngài soi dẫn để được thêm lòng tin, cậy, yêu mến và sống đẹp lòng Chúa suốt đời. Amen.
Thiên San
Bước chân của thầy Giêsu rong ruổi khắp đó đây để đem Tin Mừng tình thương và lòng thương xót của Thiên Chúa đến cho muôn người, đặc biệt là những kẻ nghèo hèn, những người bị giam cầm, những người bị áp bức (x. Lc 4, 18). Đi đến đâu là Người thi ân giáng phúc đến đó. Tại hội đường Nadaret, sau khi đọc sách Thánh, Đức Giêsu công bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4, 21).
Quả thực, để cứu độ nhân loại, Đức Giêsu, Con Một Thiên Chúa đã không ngần ngại mặc lấy thân phận con người của chúng ta, chấp nhận những giới hạn về không gian và thời gian để sống giữa và sống cùng chúng ta, thi ân giáng phúc cho chúng ta. Nhiều người đã tìm đến với Người và được chữa lành bệnh tật, được tháo gỡ khỏi xiềng xích của ma quỷ, được tha tội. Tiếng lành đồn xa, mọi người khắp nơi tuôn đến với Người. Họ tôn vinh, ca tụng Người. Lời của Thiên Chúa phán qua miệng ngôn sứ Isaia nay được chính Con Một của Ngài công bố. Bởi đó, Lời ấy trở nên sống động hơn bao giờ hết. Sự hiện diện của Đức Giêsu là sự hiện diện tròn đầy của Thiên Chúa, vì chính Ngài cũng là Thiên Chúa. “Thần Khí Chúa ngự xuống trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho…” (Lc 4, 18).
Mỗi ngày, khi tham dự thánh lễ hoặc cử hành phụng vụ lời Chúa, chúng ta được tiếp xúc với Lời. Nhất là khi rước lễ, chúng ta được đón nhận Chúa Giêsu Thánh Thể vào lòng. Đó là một sự hiện diện đầy yêu thương mà Đức Giêsu đã thực hiện nơi cuộc đời của chúng ta. Ai trong chúng ta lại không tự hỏi, hôm nay Chúa đã đến với tôi như thế nào? Tôi đã đón rước Ngài vào cuộc đời tôi và tôi đã để cho Ngài hướng dẫn mọi ý hướng, hành vi và việc làm của tôi chưa? Hôm nay, Chúa vẫn nói với mỗi người chúng ta cùng một lời như Người đã nói với những người có mặt tại hội đường Nadaret năm nào: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4, 210. Chúng ta hãy chăm chú và đón nhận mọi lời ân sủng từ miệng Người phán ra và đem ra thực hành.
Để Tin Mừng của Chúa trở nên là Tin Mừng của hôm nay, chúng ta được mời gọi lắng nghe và đem ra thực hành mọi ngày trong đời ta. Lời Chúa không bao giờ là lời mời gọi cho một lần nhưng là luôn luôn. Tôi không chỉ yêu một lần, hai lần rồi thôi nhưng là yêu thương mãi mãi. Tôi không chỉ thực hiện một lần lời mời gọi của Ngài nhưng là mọi ngày trong đời của tôi. Là Kitô hữu, chúng ta được mời gọi cưu mang và đem lời ấy đến với mọi người ta gặp gỡ qua lối sống đượm tình yêu thương, bác ái của mình. Kitô hữu là gì nếu không phải là người có Chúa Kitô. Bước chân của Người có Chúa Kitô là bước chân thấm đẫm Tin Mừng tình thương, là sự hiện diện sống động của Thiên Chúa. Đó vừa là lời mời gọi vừa là một thách đố.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Chúa Giêsu trở về quê hương Nagiarét. “Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sabat, và Người đứng lên đọc Sách Thánh”. Về thăm quê lần này, Chúa Giêsu gặp những những người quen thân và sống với những việc quen thuộc. Trong đó có việc đến hội đường vào ngày sabat. Khi đến hội đường có ba việc quen thuộc: cầu nguyện, nghe đọc Sách Thánh và được giảng dạy hoặc đích thân giảng giải Sách Thánh.
Hôm nay, Chúa Giêsu đọc và giảng giải. Người long trọng tuyên bố đoạn Sách Thánh Isaia được ứng nghiệm: “Hôm nay đã ứng nghiệm trang Sách Thánh tai quý vị vừa nghe”. Sấm ngôn của tiên tri nay ứng nghiệm với sứ mệnh của Chúa Giêsu. Đó là sứ mệnh cứu độ nhân loại. Ơn cứu độ nhân loại mong chờ được tiên tri Isaia diễn đạt bằng những hình ảnh: người nghèo hèn được loan báo Tin Mừng, kẻ bị giam cầm được tha, người mù được sáng mắt, người bị áp bức được trả lại tự do, năm hồng ân của Thiên Chúa được công bố. Sứ vụ của Người là mở ra một kỷ nguyên hồng ân, kỷ nguyên của Tin mừng. Đây như là bản tuyên ngôn mô tả sứ mạng và chương trình hành động của Chúa Giêsu.Có lẽ đây là một bài diễn văn ngắn nhất của một nhà lãnh đạo kỳ lạ nhất. Lời công bố của Chúa Giêsu tuy ngắn nhưng lại đầy đủ, bao gồm cả một kế hoạch lớn lao của Người.
Lời Isaia hôm nay được ứng nghiệm làm cho mọi người nhớ lại lời sách Nêhêmia. Khi từ lưu đày Babilon trở về, Israel tái thiết thành thánh Giêrusalem và xây lại đền thờ. Esdra và Nêhêmia là hai vị lãnh đạo Israel có công lớn trong nỗ lực hồi sinh dân tộc vừa vật chất xây dựng nhà cửa đền đài, vừa tổ chức bộ máy chính trị vừa tái thiết cuộc sống tinh thần.
Sau bao nhiêu năm lưu đày, bon chen tất bật với cuộc sống đầy nhiễu nhương nơi đất khách quê người, cùng với bao nhiêu cám dỗ của các nhu cầu sinh sống, những thói hư tật xấu của dân ngoại…dân Do thái gần như quên lãng Lời Chúa và hiếm khi được cùng nhau cử hành và lắng nghe Lời Chúa cách long trọng. Hôm nay, trên mảnh đất của quê nhà, bên những bức tường thành Thánh Giêrusalem vừa được tái thiết, cộng đoàn hồi hương Do thái được thầy tư tế Esdra công bố Lời Chúa. Họ hết sức cảm động đến bật khóc; họ trân trọng lắng nghe với thái độ cung kính thẳm sâu “cúi mình phủ phục sát đất…”. Chính sức mạnh của Lời Chúa đã quy tụ dân, phục hồi sức mạnh và niềm tin cho dân và đã làm cho dân vượt qua mọi gian nan thử thách để luôn vươn mình đứng vững trong hiện tại và mạnh mẽ tin yêu hướng tới tương lại. Bài đọc 1 hôm nay trích sách Nêhêmia nêu bật thời đại ân phúc đó như thế này: “được thánh hoá dâng cho Chúa là Thiên Chúa chúng ta, anh chị em đừng mang tang chế, đừng than khóc…đừng buồn sầu, vì niềm vui của Chúa là đồn luỹ của anh em”. Trong bối cảnh ấy, Chúa Giêsu áp dụng lời sấm của Isaia vào con người và sứ mạng của Người. Một Tin Mừng làm nức lòng người nghe đem đến cả một bầu trời hy vọng vì thế “mọi người trong hội đường đều chăm chú nhìn Người”. Sứ mạng của Chúa Giêsu là đến để giải phóng con người một cách toàn diện, cả tâm linh lẫn thể xác, cả cá nhân đến xã hội, bao hàm cả ba lãnh vực chính yếu của Kitô giáo : chân lý, công lý và tình thương.
Chúa Giêsu xác định: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh tai quý vị vừa nghe”. Trải suốt Tin Mừng Luca, từ “Hôm nay” được nói tới 12 lần. Trong ngày Lễ Giáng Sinh, chúng ta đã nghe các thiên thần loan báo “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra” (2,11). Khi Chúa Giêsu gặp ông Giakêu, Người nói với ông “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này” (19,9). Chúa Giêsu hứa với người trộm bị đóng đinh bên phải rằng “Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (23,43). Ý nghĩa của từ “Hôm nay” mà Chúa Giêsu công bố không chỉ là “ngày hôm nay” vào lúc Người tại thế, mà còn là “ngày hôm nay” thì hiện tại của Giáo Hội nữa.
Sau hàng trăm năm, lời của tiên tri Isaia đã được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu. Trải qua thời gian hơn hai ngàn năm, lời của Chúa Giêsu đã, đang được Giáo Hội hiện tại hóa trong các hoạt động của mình. Như thế, Chúa Giêsu tiếp tục công cuộc cứu thế trong Giáo Hội và nhờ Giáo Hội.
Chúa Giêsu đã trao cho Giáo Hội tiếp nối sứ mạng của Người. Giáo Hội luôn ý thức về sứ mạng của mình trong thế giới. Giáo Hội nối dài hoạt động của Đức Kitô.
Qua dọc dài lịch sử, Giáo Hội luôn nỗ lực thực hiện sứ mạng đem Tin Mừng cho người nghèo hèn. Giáo Hội đã thiết lập các bệnh viện, các trường học, các cô nhi viện, các trại cùi, nhà dưỡng lão…Những công việc từ thiện, bác ái, xã hội, văn hóa, Giáo Hội đã làm và đang tiếp tục làm: “Giáo Hội trìu mến và ấp ủ tất cả những ai đau khổ vì sự yếu hèn của con người, nhất là nhận biết nơi những người nghèo khó và đau khổ hình ảnh Đấng Sáng Lập khó nghèo và đau khổ, ra sức giảm bớt nỗi cơ cực của họ và nhằm phụng sự Chúa Kitô trong họ” (Lumen Gentium, 8).
Thời đại hôm nay, sứ mạng của Giáo Hội còn quan trọng và thiết thực hơn nữa, liên quan đến tự do, công lý, nhân quyền, phát triển và hòa bình. Những hoạt động bác ái và y tế xã hội của Giáo Hội góp phần xoa dịu nỗi đau khổ của những người nghèo hèn.
Còn những người bị giam cầm trong các trại tù cải tạo, những người bị áp bức đến mất tự do ngoài xã hội và những người dân đang bị hạn chế tự do, đói khát nhân quyền, Giáo Hội quan tâm nhiều đến họ và trợ giúp cho họ.
Tin Mừng được rao giảng không những cho những người nghèo khó về vật chất, mà còn cho cả những người nghèo khó về tinh thần, nghèo khó về văn hóa, nghèo khó vì thiếu tình thương, nghèo khó khi phải sống trong bóng đêm lầm lạc của tội lỗi, thiếu ánh sáng thần linh soi chiếu.
Tin Mừng còn được rao giảng cho những người nghèo khó về niềm tin và hy vọng, nghèo khó về tình bạn, tình bằng hữu, tình người.
Tin Mừng cũng được rao giảng không phải chỉ cho những người đang bị giam cầm sau những song sắt nhà tù, mà còn cho những ai đang bị giam cầm trong ích kỷ, trong vòng đam mê tội lỗi, trong xiềng xích của dục vọng và lòng tham lam.
Tin Mừng cũng được rao giảng cho những kẻ đang bị áp bức một cách bất công trong xã hội, và cả những kẻ đang bị tha hoá bởi những tham vọng xấu xa của chính mình.
Tin Mừng cũng đem lại ánh sáng cho cả những người mù lòa tinh thần, sống trong bóng đêm của những mưu toan vị kỷ và sự gian dối. Tin Mừng đang chiếu tỏa ánh sáng “văn minh tình thương” cho một thế giới đang “lãnh cảm” trước những nỗi đau xót của con người.
Phương tiện của Giáo Hội luôn là Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô. Tin Mừng là “sự thật giải thoát” (Ga 8,32). “Có nhiều Kitô hữu hiến đời mình để yêu thương những người cô thế, bị gạt ra ngoài lề, bị loại trừ, coi họ là những người đầu tiên cần phải đến gặp và là những người chủ yếu phải được nâng đỡ, vì nơi họ phản chiếu gương mặt của chính Chúa Kitô. Nhờ đức tin, chúng ta có thể nhận ra gương mặt Chúa phục sinh nơi những người đang mong được chúng ta yêu thương”. (Cánh cửa đức tin, số 13).
Ngày nay, Giáo Hội tiếp nối “Năm Hồng Ân” của Chúa Giêsu, Đấng Messia được Thánh Thần xức dầu và sai đi loan báo Tin Mừng, đó là toàn thể Dân Chúa khắp nơi đang tích cực thực hiện tiến trình của Thượng Hội Đồng Giám mục thế giới lần thứ 16 vào năm 2023 bắt đầu từ cấp giáo phận, với chủ đề: “Hướng tới một Hội Thánh hiệp hành: hiệp thông-tham gia-sứ vụ”. Hai điểm quan trọng của Hiệp Hành là đi con đường Giêsu và phân định dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Lời Chúa không chỉ là Tin Mừng của ngày hôm qua, Tin Mừng cho ngày tận thế, mà còn là Tin Mừng của ngày hôm nay. Tin Mừng của Ngôi Lời Thiên Chúa ở cùng chúng ta. “Ứng nghiệm lời Kinh Thánh” là làm cho lời Kinh Thánh được trở nên hiện thực. Kinh Thánh ghi lại Lời; nhưng Lời đó không chỉ để đọc, để nghe, mà là Lời sống động, Lời ban sự sống, Lời phải được áp dụng vào đời sống, để sinh nhiều hoa trái tốt. Các Kitô hữu cũng được mời gọi tiếp nối chương trình hành động của Chúa Giêsu, để hiện thực hoá sứ điệp tin mừng cho con người trong thế giới “hôm nay”. Tất cả những việc làm để nâng đỡ người nghèo, quan tâm chăm sóc những người bệnh tật về cả thể xác lẫn tinh thần, đem lại sự ủi an cho những người cô đơn, thua thiệt trong xã hội, khoan dung với những kẻ lầm lỡ… đều là những hành động thiết thực để những “năm hồng ân” tiếp tục được lan toả cho con người “hôm nay”.
Lời ngôn sứ Isaia đã được ứng nghiệm trong đời Chúa Giêsu và lịch sử Giáo hội. Ước gì Lời Chúa cũng được ứng nghiệm trong đời chúng con, để Lời Chúa biến đổi cuộc đời giúp chúng con sống Tin Mừng của ngày hôm nay.Amen
ĐẤNG ĐƯỢC XỨC DẦU ĐANG HIỆN DIỆN GIỮA CHÚNG TA
Gm Giuse Vũ Văn Thiên
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 3 THƯỜNG NIÊN
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt
Chúa Giêsu luôn sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Tin Mừng nhiều lần đề cập đến điều này. Chẳng hạn như: được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, Người vào sa mạc ăn chay cầu nguyện. Hôm nay được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, Người đi rao giảng khắp miền Galilê. Trở về Nagiaréth, Người đọc Sách Thánh trong hội đường đúng đoạn nói về Ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Nhiều lần Tin Mừng nói Chúa Giêsu tràn đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần. Nhờ đâu được như thế? Một phần nhờ việc đọc Sách Thánh.
Chúa Giêsu thường xuyên đọc Sách Thánh. Tim hôm nay diễn tả: “Rồi Chúa Giêsu đến Nagiaréth, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sabbat, và đứng lên đọc Sách Thánh”. Yêu mến và gắn bó với hội đường, nên Chúa Giêsu thường xuyên đến sinh hoạt với mọi người trong hội đường. Yêu mến và gắn bó với Sách Thánh nên Chúa Giêsu thường xuyên đọc Sách Thánh. Còn hơn thế nữa, sau khi đọc, Người đứng ra giải nghĩa cho mọi người. Đó là nếp sinh hoạt bình thường của Người. Nếp sinh hoạt này đã thành thói quen từ khi Người còn nhỏ bé. Nên ngay từ khi lên 12 tuổi, Người đã có thể đối đáp với các bậc tiến sĩ trong Đền Thờ Giêrusalem.
Chúa Giêsu kính cẩn đọc Sách Thánh. Chúa Giêsu không đọc Sách Thánh theo thói quen. Người đọc một cách trịnh trọng kính cẩn. Ta hãy chiêm ngắm thái độ của Người theo lời diễn tả của thánh Luca: “Họ trao cho Người cuốn sách tiên tri Isaia. Người mở ra và đọc… Người cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ”. Thật là trang nghiêm kính cẩn. Thái độ của Người ảnh hưởng đến cả hội đường. Nên khi Người đọc mọi người chăm chú nhìn Người. Chúa Giêsu trân trọng việc đọc Sách Thánh vì Người luôn thao thức tìm thánh ý Chúa Cha. Người đọc Sách Thánh để tìm hướng dẫn cho cuộc đời. Người đọc Sách Thánh để mong chu toàn thánh ý Chúa Cha. Người nhận biết thánh ý Chúa Cha qua những trang Sách Thánh. Người cố đọc giữa những hàng chữ để tìm thánh ý Chúa Cha.
Chúa Giêsu nghiêm túc thực hành lời Sách Thánh. Khi nói với mọi người rằng: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”, Chúa Giêsu muốn nói đến hai điều. Điều thứ nhất: Người tìm thấy thánh ý Chúa Cha qua đoạn Sách Thánh. Với thái độ kính cẩn, với lòng khiêm tốn hiếu thảo lắng nghe, Chúa Giêsu đã đọc được thánh ý Chúa Cha qua đoạn sách tiên tri Isaia. Biết lời tiên tri Isaia ứng nghiệm vào sứ mạng của mình. Điều thứ hai: Biết được thánh ý Chúa Cha rồi, Chúa Giêsu cương quyết thực hành. Người coi đó là chương trình hành động. Người coi đó là chỉ nam hướng dẫn. Dù sứ mạng của Người vừa mới khởi đầu, Người cũng cương quyết hoàn thành. Suốt đời Người sẽ thực hành chương trình này. Vì thế đoạn sách Isaia ứng nghiệm vừa do thánh ý Chúa Cha vừa do ý chí của Chúa Giêsu quyết tâm thực hành thánh ý Chúa Cha.
Đây là mẫu gương cho ta. Đó là kết quả của Ơn Chúa Thánh Thần. Hãy thường xuyên đọc Kinh Thánh để ta luôn được tiếp xúc với Thiên Chúa. Hãy kính cẩn tìm thánh ý Chúa trong Kinh Thánh chắc chắn ta sẽ được ơn Chúa soi sáng cho biết đường đi. Nhất là hãy quyết tâm thực hành Lời Chúa mà ta đã đọc. Ta sẽ được tràn đầy Ơn Chúa Thánh Thần. Thật vậy, chẳng ai có thể say mê Kinh Thánh nếu không được Ơn Chúa Thánh Thần lôi cuốn. Chẳng ai tìm được thánh ý Thiên Chúa nếu không được Ơn Chúa Thánh Thần soi sáng. Chẳng ai có thể thực hành Lời Chúa nếu không được Ơn Chúa Thánh Thần nâng đỡ. Như một phản hồi hai chiều. Càng được Ơn Chúa Thánh Thần ta càng say mê Kinh Thánh. Càng say mê Kinh Thánh ta lại càng để Chúa Thánh Thần hướng dẫn cuộc đời. Cuộc đời sống theo Ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn sẽ hoàn toàn ứng nghiệm ý định của Thiên Chúa cho bản thân và cho tha nhân. Đó chính là cuộc đời đạt được mục đích cao quý nhất.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
4. Bạn có thấy một câu Kinh Thánh ứng nghiệm vào bạn và bạn quyết tâm thực hiện không?
.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Năm lòng thương xót đang nóng lên từng ngày. Một luồng gió của lòng Thương Xót Chúa như đang bao trùm trên đời sống tín hữu. Xem ra ai cũng kỳ vọng nơi lòng thương xót Chúa sẽ làm nhiều điều kỳ diệu cho họ. Người người suy tôn lòng thương xót Chúa. Người người tín thác vào lòng thương xót Chúa. Họ kỳ vọng Chúa sẽ mở lòng để ban nhiều hồng ân xuống cho nhân loại khổ đau.
Cuộc sống có rất nhiều khổ đau. Khổ đau tâm hồn và khổ đau thể xác. Nỗi đau nào cũng có thể dẫn đến tuyệt vọng. Vì khi gặp khổ đau mà chẳng còn biết bám vào đâu. Trước những nan giải của cuộc sống, họ chỉ trông chờ một phép màu từ Thiên Chúa. Ngoài Thiên Chúa chẳng còn ai có thể giúp họ. Nơi Ngài chính là niềm hy vọng duy nhất cho con người khi gặp khổ đau.
Có nhiều bệnh nhân nan y dường như họ chỉ còn trông chờ phép lạ từ lòng thương xót Chúa. Họ đã tìm đến thầy thuốc, thậm chí đã vái tứ phương nhưng vẫn bất lực.
Có nhiều người làm ăn chẳng gặp thời, nợ nần ngày càng chồng chất. Họ dường như bất lực không thể xoay sở gì thêm. Họ cũng đang trông chờ phép màu của lòng thương xót Chúa để cứu giúp họ.
Có những giọt nước mắt của người cha, người mẹ đang tuyệt vọng vì đứa con nghiện ngập, ăn chơi sa đọa. Họ đang trông chờ lòng thương xót Chúa giúp con họ quay đầu trở về nẻo chính đường ngay.
Có những người chồng người vợ đang thất vọng vì vợ chồng thiếu chung thủy với nhau, hay đang chìm đắm trong mê muội. Họ đang kêu xin lòng thương xót Chúa hàn gắn gia đình họ.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa. Ngài chính là một lương y tài năng như tiên tri Isaia đã nói: “Khi Người đến mắt người mù sẽ được nhìn thấy. Tai người điếc sẽ được nghe. Người câm nói được và người què nhảy nhót như nai”. Ngài có đủ quyền năng để chữa lành mọi bệnh tật tâm hồn, thân xác và Ngài lại giầu tình thương để ban phát ơn lành cho nhân thế.
Phúc âm đã kể rất nhiều trường hợp đau bệnh được ơn chữa lành. Có người đàn bà bị bệnh băng huyết cả 18 năm nay nhờ gặp Chúa được chữa lành. Có người bị bại liệt suốt mấy chục năm nhờ Chúa mà tự mình đứng dậy không cần ai nâng đỡ. Có người hấp hối nơi giường bệnh được phục hồi. Có người Chúa cho từ cõi chết sống lại như cậu con trai bà góa thành Naim và Lagiaro bạn Ngài.
Thế nên, hãy trao vào tay Chúa những gánh nặng của cuộc đời. Hãy tín thác vào lòng thương xót Chúa. Hãy để Chúa xoa dịu nỗi đau tâm hồn và thể xác mỗi khi chúng ta gặp nguy nan. Chắc chắn tình thương Chúa sẽ không để chúng ta thất vọng khi chạy đến cùng Ngài.
Đồng thời, chúng ta cũng hãy làm chứng về lòng thương xót Chúa. Làm chứng bằng cách hãy tiếp tục công việc của Chúa. Hãy là những chứng nhân cho công việc phục vụ anh em. Hãy đem tình yêu Chúa trải rộng khắp mọi nẻo đường chúng ta đi. Hãy biết chạnh lòng thương với những ai đang khốn khổ lầm than. Hãy biết chia sẻ cơm bánh cho những anh em nghèo đói. Hãy cúi mình phục vụ những ai không có gì để đền đáp lại chúng ta.
Ước gì với tinh thần sống đời kytô giáo yêu thương và phục vụ sẽ là dấu chỉ thật đẹp của người môn đệ Chúa Kytô giữa thế giới hôm nay. Amen.
.
CHÚA GIÊSU MỞ RA THỜI ĐẠI MỚI CHO NHÂN LOẠI
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Trong suốt tháng vừa qua, báo chí trong và ngoài nước cùng nhiều người hết sức chú tâm theo dõi chính trường của Việt Nam, xem sắp tới những ai sẽ trở thành lãnh đạo trong tổ chức xã hội Việt Nam. Nhiều dự đoán được đưa ra, dân chúng kỳ vọng và so sánh, dự báo, ủng hộ người này, chê người kia. Có lẽ người dân Việt Nam chờ đợi nhiều nhất không hẳn là ông A hay ông B, cũng không hẳn khuynh hướng của các vị ấy nghiêng về phía Đông hay phía Bắc, nhưng điều quan trọng là những con người đại diện cho 90 triệu dân Việt có khả năng tạo được sự thay đổi rõ rệt, có đưa đất nước bước qua một trang sử mới, đem đến một tương lai mới hay không ? Nhiều người khác tỏ ra bi quan cho rằng, dù ông nào lãnh đạo cũng không hy vọng có sự thay đổi đột phá trong những năm sắp tới. Hơn lúc nào hết, người Việt Nam hiện nay đang mong chờ một sự thay đổi, một xã hội tốt đẹp, một tương lai tươi sáng.
Bối cảnh xã hội Việt Nam giúp chúng ta hiểu bối cảnh xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu. Dân chúng lúc đó đang mong đợi một vị Mêsia lãnh đạo theo cả nghĩa chính trị và tôn giáo. Họ muốn một vị Mêsia thuộc dòng dõi vua Đavít nổi lên đánh đuổi người Rôma, canh tân đổi mới xã hội, xây dựng một vương quốc Israel phồn thịnh, độc lập. Khi Chúa Giêsu xuất hiện, Ngài đã không hứa hẹn cho họ bất cứ điều gì liên quan đến chính trị, nhưng Ngài đưa ra một phương án mới, con đường mới để canh tân đời sống xã hội và con người, vì thế, dân chúng dường như không muốn theo Ngài.
Thánh Luca ghi nhận : Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giêsu trở về Galilê, tiếng tăm Ngài đồn ra khắp vùng lân cận. Dân Galilê đã nghe đồn về các bài giảng và các việc lạ Chúa Giêsu đã làm, nên họ kỳ vọng Ngài sẽ là người quy tụ dân chúng để làm cuộc khởi nghĩa. Tuy nhiên khi vào Hội đường, người ta trao cho Ngài sách Isai, mở ra gặp đoạn chép rằng : Thần Khí Chúa ngự trên tôi, Người đã xức dầu cho tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó… Chắc chắn không phải tình cờ Chúa Giêsu đọc đoạn sách đó, nhưng đoạn sách đó được đọc vì lời tiên báo của Isai về sứ mạng của Đấng Mêsia nay được ứng nghiệm.
Đoạn sách cho thấy, Đấng Mêsia sẽ đem đến cho con người một hy vọng mới, một nếp sống mới và một thời đại mới. Đây là thời đại Tin Mừng tình thương của Thiên Chúa được loan báo cho hết mọi người, nhất là những người nghèo khó. Vị Mêsia này sẽ hoạt động dưới sức mạnh của Chúa Thánh Thần, được xức dầu để chính thức thi hành sứ vụ của Thiên Chúa. Ngài sẽ đem đến cho nhân loại một cuộc giải phóng khỏi những ràng buộc của tội lỗi và đau khổ. Ngài sẽ là Đấng đem lòng thương xót của Thiên Chúa đến cho con người, đụng chạm tiếp xúc với con người và phục vụ mọi người bằng trái tim và đôi tay của Thiên Chúa.
Điều quan trọng hơn, là với quyền năng của một vị Thiên Chúa, Chúa Giêsu sẽ thực hiện một cuộc giải phóng thực sự, giải thoát con người khỏi tình trạng tội lỗi và sự trói buộc của ma quỷ, xác thịt. Ngài sẽ mở ra cho con người một tương lai mới, một thời đại mới, tuyên bố thời thứ tha của Thiên Chúa. Những ai tin tưởng, khiêm tốn đón nhận Ngài, đi theo con đường của Ngài sẽ tìm được ơn giải thoát. Những ai sẵn sàng để cho Ngài yêu thương chăm sóc, Ngài sẽ chữa lành vết thương cả thể xác và tâm hồn, đem đến niềm vui và bình an.
Sau khi nghe lời tuyên đọc của Chúa Giêsu, thánh Luca ghi lại từng cử chỉ rất trang trọng : Ngài gấp sách lại, trao cho người giúp việc, rồi ngồi xuống ; mọi người hướng nhìn về Ngài để đón đợi sự giải thích từ nơi Ngài. Từng động tác như thế cho thấy Chúa Giêsu như một vị quân vương xuất hiện trước bàn dân thiên hạ. Những người Do Thái chờ đợi những lời hiệu triệu oai phong của Chúa Giêsu, nhưng Ngài đã không làm như thế, Ngài đã nói với họ : Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe. Với một tuyên ngôn ngắn gọn như vậy, Chúa Giêsu khẳng định “hôm nay” là mở ra một trang sử mới, quá khứ đã khép lại, tội lỗi đã được tha ; “hôm nay”, Thiên Chúa đã thực hiện những điều Ngài đã hứa qua các tổ phụ và các tiên tri ; “hôm nay”, ơn cứu độ đã được bắt đầu.
Việc làm của Chúa Giêsu tại Hội đường Nazaret được so sánh giống như việc làm của tư tế Esdra trong bài đọc một. Câu chuyện xảy ra sau khi dân Do Thái thoát cảnh lưu đầy bên Babylon, họ được trở về Giêrusalem tái thiết đền thờ, xây dựng lại quốc gia dưới sự điều khiển của Nekhemia và tư tế Esdra. Sau khi đã ổn định tình hình xã hội, tái thiết đền thờ, tư tế Esdra thực hiện một cuộc canh tân đời sống tôn giáo đã bị trì trệ suy thoái, bị ảnh hưởng bởi lối sống dân ngoại. Tư tế Esdra đã quy tụ dân chúng, ông đứng lên long trọng công bố luật Chúa cho toàn dân. Việc công bố này như một bản tuyên ngôn độc lập và như một lễ nghi tái cam kết thể hiện sự trung thành. Dân chúng than khóc về quá khứ tội lỗi, và cũng khóc vì vui mừng khi thấy Thiên Chúa vẫn một niềm thành tín yêu thương. Họ tái cam kết trung thành với Thiên Chúa và lề luật của Ngài, họ ăn mừng vì những ngày đen tối đã qua, thời đại mới đã mở ra.
Thánh Phaolô trong thư Côrintô cho thấy, Chúa Giêsu đã đến để thiết lập một thời đại mới, thời đại của tình thương và ân sủng. Qua đó, mỗi chúng ta được hưởng tình thương của Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu, được trở thành thành viên trong đại gia đình của Thiên Chúa, thành công dân trong vương quốc của Chúa, từ đây không còn kỳ thị hay phân biệt màu da, sắc tộc, tất cả được tháp nhập vào thân thể Ngài, được tham dự vào sự sống thần linh của Ngài và làm nên chi thể của Ngài.
Thưa quý OBACE, Chúa Giêsu đã dành cả cuộc đời để thực hiện sứ mạng yêu thương, xây dựng Nước Trời nơi trần gian và trong tâm hồn con người. Ngài mời gọi mọi người, mọi dân tộc gia nhập vào vương quốc của Ngài, tiếp nối sứ mạng của Ngài để đem tình thương và lòng thương xót của Chúa đến cho anh em. Ngài cũng muốn mỗi người khi tham dự vào vương quốc của Ngài phải chấp nhận một sự thay đổi triệt để từ trong tâm hồn đến cuộc sống bên ngoài, đi theo giới răn lề luật của Nước Trời.
Chúng ta tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Cứu Chuộc duy nhất, là Thiên Chúa đến ở với nhân loại, ngoài Ngài ra không có một đấng cứu chuộc nào khác. Tuy nhiên, nhiều người theo Chúa nhưng lại không chấp nhận tuân giữ lề luật của Chúa, theo Chúa nhưng lại không chấp nhận từ bỏ lối sống cũ và các tập tục của dân ngoại, họ vẫn tin kiêng cúng bái theo kiểu của dân ngoại. Thiên Chúa muốn bước đến gần con người để đồng hành và đồng lao cộng khổ với con người, nhưng dường như nhiều người từ chối, tránh né, không muốn để Ngài can thiệp vào cuộc sống của mình.
Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta nhớ rằng, mỗi người đã được thanh tẩy và được Thánh Thần xức dầu để trở nên con người mới. Vì thế, mỗi người cần phải sống và thi hành sứ mạng mà Chúa Giêsu đã thi hành, đó là đem Tin Mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, công bố thời hồng ân thương xót của Thiên Chúa. Chúng ta cần bắt đầu thi hành sứ mạng này từ trong gia đình, làm cho Tin Mừng thực sự trở nên sống động trong nhịp sống của gia đình, trở thành tiêu chuẩn cho mọi quyết định và công việc của gia đình. Hãy lấy lòng nhân từ và thương xót của Chúa để yêu thương vợ, chồng, con, cháu, qua sự quan tâm, thông cảm và nâng đỡ, tạo cho nhau cơ hội để làm mới lại cuộc đời.
Các bạn trẻ Công giáo là những người có nhiều cơ hội tiếp xúc với những người trẻ khác, chúng ta hãy trở thành cánh tay nối dài và giang rộng của Chúa để có thể đụng chạm, đón nhận những người đau khổ, nghèo khó về tinh thần và thể xác. Chúng ta cần có một đôi mắt thật sáng và một trái tim thật nhạy cảm để có thể nhìn thấy những nhu cầu của các bạn xung quanh và đừng ngần ngại để cho trái tim của mình xúc động trước nỗi đau của bạn hữu.
Nhờ được nâng đỡ bởi Bí tích Thánh Thể, được Lời Chúa hướng dẫn, xin cho mỗi người chúng ta luôn ý thức mình là công dân Nước Trời và nhiệt thành làm cho Nước Trời được lan rộng khắp nơi. Amen.
.
NIỀM VUI TỪ THIÊN CHÚA LÀ SỨC MẠNH CỦA CHÚNG TA
Lm. GB Văn Hào
Giáo hội là thân thể mầu nhiệm Chúa Giêsu. Mỗi chi thể đều quan trọng và cần thiết để cho toàn thân được khỏe mạnh. Các bài đọc Lời Chúa trong phụng vụ hôm nay gợi nhắc chúng ta điều này. Sống trong lòng Giáo hội, chúng ta cần ý thức phần vụ của mình để xây dựng nhiệm thể, đồng thời khi sự sống thần linh được lưu chuyển trong ta, chúng ta sẽ đón nhận được sức mạnh từ nơi Thiên Chúa và cảm nghiệm được niềm vui sâu xa bên trong tâm hồn
Nhiệm thể Chúa Kitô
Qua bài đọc thứ hai hôm nay, Giáo hội gợi lại tư tưởng của thánh Phaolô trích trong thơ thứ nhất gởi giáo đoàn Côrintô. Thánh Tông đồ nêu bật giáo lý căn bản về Giáo hội. Ngài viết: “Tất cả chúng ta, cho dầu là Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều chịu phép rửa trong cùng một Thần khí để trở nên một thân thể” (1Cor 12,12-13). Qua bí tích rửa tội, chúng ta chia sẻ một ơn gọi duy nhất, đó là trở nên con cái Thiên Chúa và được gắn kết nên một với nhau trong Thần Khí. Sự gắn kết này biến chúng ta thành một thân thể duy nhất, và đây là thân thể mầu nhiệm của Chúa Giêsu. Đức Kitô Kitô là đầu, còn lại mỗi người đều là chi thể trong thân xác nhiệm mầu ấy.
Vì được hút nhựa sống từ thân mình mầu nhiệm thánh thiêng của Chúa, chúng ta được nuôi sống khi ăn Mình Ngài và đón nghe Lời của Ngài. Bàn tiệc Thánh Thể và bàn tiệc Lời Chúa mà chúng ta tham dự mỗi ngày luôn mang chở chiều kích Giáo hội. Nơi cả hai bàn tiệc này, chúng ta được nuôi sống, được tăng trưởng và có được sức mạnh thần linh.
Bài đọc thứ nhất trong phụng vụ cũng thuật lại việc toàn dân tụ tập tại một quảng trường lớn để nghe ông Estra đọc sách luật (sách Torah) và giảng dạy. Người Do thái vẫn đều đặn họp nhau trong các hội đường để nghe sách thánh. Thường mỗi làng có một hội đường để họ quy tụ lại. Bất cứ người đàn ông nào trên 30 tuổi đều có thể được cắt cử để đảm nhận sứ vụ đọc sách luật và sách các tiên tri cho cả cộng đoàn.
Cũng tương tự như thế, thánh Luca trong bài Tin mừng cũng thuật lại thời gian ban đầu khi Đức Giêsu khởi sự sứ mạng rao giảng. Ngài vào một hội đường đọc một đoạn trong sách ngôn sứ Isaia và cắt nghĩa cho dân. Hình ảnh hội đường Do thái giáo trong cựu ước phác vẽ trước hình ảnh Giáo hội. Hạn từ ‘ekklesia’ mang chở cả ba chiều kích : vừa nói về các buổi tụ họp của cộng đoàn dân Chúa, vừa ám thị các nhà thờ, và đồng thời đó cũng chính là Giáo hội của Chúa Kitô (sách Giáo lý Công giáo số 751).
Cảm thức thuộc về Giáo hội (sensus ecclesiae)
Giáo hội vừa hữu hình vừa thánh thiêng. Giáo hội hữu hình có cơ cấu phẩm trật, có Đức Thánh Cha, có hàng giáo phẩm, có giáo sỹ và giáo dân như chúng ta vẫn thấy. Giáo hội hữu hình được nhìn thấy rất rõ nét qua các cộng đoàn giáo xứ với những ngôi nhà thờ khang trang và những nghi lễ sầm uất bên ngoài. Nhưng trước hết, Giáo hội tự bản chất là nhiệm thể thánh thiêng của Đức Kitô. Giáo lý Công giáo đã khẳng định ngoài Giáo hội không có ơn cứu rỗi. Bởi lẽ ơn cứu độ đến từ Đức Giêsu, và Chúa Kitô thực hiện ơn cứu rỗi ngang qua Giáo hội, vì Giáo hội là thân thể mầu nhiệm của Ngài. Các Bí tích trong Giáo hội là công cụ Đức Giêsu sử dụng để thông chuyển ơn cứu độ xuống cho nhân loại (xem sách Giáo lý Công giáo số 778-779). Chúng ta được mời gọi khơi dậy cảm thức thuộc về (sense of belonging) để góp nhần xây dựng Hội thánh, cụ thể tại mỗi cộng đoàn Giáo hội địa phương. Chúng ta không chỉ đến nhà thờ tham dự thánh lễ như hưởng nhận một ‘dịch vụ’ xã hội, nhưng cần phải chung tay xây dựng nhiệm thể Đức Kitô, cụ thể tại Giáo hội địa phương nơi chúng ta thuộc về.
Ông Voltaire là một triết gia người Pháp thuộc thế kỷ thứ 18. Ông là một người Công giáo đã được rửa tội từ nhỏ nhưng khi lớn lên đã bỏ đạo và đi theo cách mạng. Ông tự hào là một trí thức, một triết gia và ông đề ra khẩu hiệu ‘Hãy đánh đổ con quái vật này đi’ (ám chỉ Giáo Hội). Ông lập một nhóm lấy tên là Beelzebut để chuyên phá hoại Giáo hội, sát hại các tín hữu đặc biệt các linh mục. Năm 1753 ông ngạo mạn tuyên bố :“Chỉ cần 20 năm nữa khi khoa học phát triển, Giáo hội sẽ bị triệt phá hoàn toàn và Thiên Chúa có thể về hưu được rồi”. Nhưng 20 năm sau, ông lâm trọng bệnh và nằm đau đớn giẫy chết trên giường bệnh. Ông thấy Giáo hội vẫn tồn tại và Thiên Chúa vẫn chưa về hưu như ông đã tiên đoán. Trong đau đớn tột cùng, ông thốt lên: “Tôi đã phạm một sai lầm rất lớn là chống đối Giáo hội. Tôi thấy cửa hỏa ngục đang mở ra và chờ đón tôi”. Ông gào thét trong hoảng loạn và tắt thở. Một người bạn đứng bên giường bệnh khi chứng kiến giây phút kinh hoàng ấy đã nói: “Tôi chưa thấy cái chết nào ghê sợ giống như cái chết của anh bạn Voltaire của tôi.”
Chúng ta đang sống trong Giáo hội và thuộc về Giáo hội. Chúng ta đừng hỏi Giáo hội đã làm được gì cho tôi nhưng hãy hỏi ngược lại là tôi đã làm được những gì cho Giáo hội.
Chúa Giêsu, đầu của Hội thánh
Trong bài Tin mừng hôm nay, tại hội đường Do thái giáo, Chúa Giêsu đã công bố cho mọi người: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh tai quý vị vừa nghe” (Lc 4, 21). Điều mà thính giả vừa nghe đó là lời ngôn sứ Isaia nói về một kỷ nguyên mới do chính Đức Giêsu khai mở. Ngài được ‘Thần Khí Chúa đậu xuống, được xức dầu và sai đi loan báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố năm hồng ân của Chúa’. Hội đường Do thái giáo ngày xưa là hình bóng của Giáo hội ngày hôm nay. Dân Chúa quy tụ bên nhau để cử hành phụng tự hướng về Thiên Chúa. Cũng từ trong lòng Giáo hội, chúng ta được nuôi dưỡng và lớn lên trong đời sống đức tin.
Chúa Kitô là đầu của Hội Thánh. Ngài là đối tượng duy nhất của lòng trí chúng ta (châm ngôn của Đức Cha Lambert de la Motte). Cuộc sống chúng ta phải quy chiếu vào Ngài và chúng ta phải đặt Ngài vào chỗ tối thượng trong cuộc hành trình đức tin của chúng ta mỗi ngày.
Kết luận
Năm nay Giáo hội cử hành năm thánh Lòng Thương xót. Lòng thương xót đó được diễn bày nơi Đức Giêsu ngang qua Giáo hội. Lòng thương xót là tên gọi thứ hai của Thiên Chúa (tư tưởng của Đức Thánh Cha Phanxicô), song song với tên gọi ‘Tình Yêu’ mà Thánh Gioan đã nói tới trong thơ thứ nhất của Ngài. Lòng thương xót cũng được tỏ bày qua chân dung cứu thế mà Đức Giêsu nói tới trong bài Tin mừng hôm nay: “Thần Khí Chúa sai tôi đi loan báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả tự do cho người bị áp bức”. Đây là sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu năm xưa và cũng là sứ mạng của Giáo hội hôm nay. Chúng ta được mời gọi tham phần vào sứ mạng thiêng liêng ấy khi sống giữa lòng Giáo hội, đặc biệt trong năm thánh này.
.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Sau một thời gian ngược xuôi giảng dạy ở nhiều nơi, Chúa Giêsu trở về quê hương Nadarét yêu dấu thăm viếng. Vào ngày Sabát, Ngài đến hội đường, người ta mời Ngài đọc sách thánh và giảng dạy. Thời đó, tại Israel có hai nơi dành cho việc phụng tự là Đền thờ và Hội đường. Chỉ có một Đền thờ tại Giêrusalem. Hội đường rất nhiều, hầu như mỗi làng đều có một cái. Đền thờ là nơi dân Do thái dâng hy lễ cho Thiên Chúa, như chiên, cừu, bồ câu… Còn Hội đường là nơi dành cho việc giảng huấn, nơi dân chúng lắng nghe Lời Chúa và cố gắng áp dụng lời ấy vào cuộc sống của họ.
Ngày Sabát, người ta thường đọc sách Luật, các sách Ngôn sứ rồi tiếp theo là một bài giảng giải. Người Do thái trưởng thành nào cũng có quyền được lên tiếng ở đó, nhưng thường những người coi sóc hội đường hay giao cho ai thông thạo Kinh Thánh làm việc này. Hôm nay cũng vậy, người ta đưa cho Chúa Giêsu cuốn Sách Thánh. Mở sách ra, Ngài gặp ngay đoạn ngôn sứ Isaia nói về Đấng Cứu Thế sẽ đến và những việc Ngài sẽ làm.
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo khó.Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,19-19). Chúa Giêsu xác nhận lời tiên báo được thực hiện nơi chính bản thân Ngài: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”.
Nội dung của sứ điệp ngôn sứ được ứng nghiệm nói lên công việc Chúa Giêsu sẽ thi hành. Công việc gồm hai điểm chính là loan báo Tin Mừng và đi công bố những gì Thiên Chúa muốn thực hiện cho nhân loại.
Tin Mừng được loan báo là: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16). Chúa Giêsu nói rõ đối tượng ưu tiên của việc rao giảng Tin Mừng là đến với những người nghèo khó: “Người sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho những người nghèo khó”. Mọi người đều là những người nghèo : kẻ thì nghèo vật chất, người thì nghèo tinh thần. Như vậy Tin Mừng của Chúa được loan báo cho tất cả mọi người.Giáo Hội luôn phục vụ những người nghèo.Sống nghèo, tận tụy phục vụ người nghèo, đó là những nét nổi bật của Giáo Hội. Sứ vụ ấy làm nên tinh thần khó nghèo của Tám Mối Phúc.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói: “Khi tôi được bầu, tôi đã có bên cạnh người bạn của tôi là Đức Hồng y Hummes. Bởi vì chúng tôi ngồi cạnh nhau. Chính ngài đã nói với tôi một câu khiến tôi hạnh phúc: ‘Đừng quên người nghèo’. Thật là đẹp”. (x.Bài phỏng vấn Đức Thánh Cha Phanxicô dành cho Đài truyền hình Braxin Globo sau kết thúc ngày Giới Trẻ tại Rio de Janeiro).
Thực sự, “Đừng quên người nghèo” là một lời khuyên đơn sơ. Nhưng là một lời khuyên rất đạo đức, rất Phúc Âm, rất thời sự. Lời khuyên đó trong giây phút lịch sử trọng đại bầu Giáo hoàng đã và đang đánh thức lương tâm rất nhiều người. “Đừng quên người nghèo” cũng được coi là lời khuyên, chính Chúa gởi tới mọi người có trách nhiệm lo cho nhân loại hiện nay.Đức Giêsu, không những đã không quên người nghèo mà còn rất thương họ. Người thương người nghèo, trước hết bằng cách mặc lấy thân phận người nghèo. Thánh Phaolô viết:“Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2,6-7).Chúa Giêsu sinh ra ở Bêlem trong hang đá với những hoàn cảnh cực nghèo. Người sống 30 năm ở Nadarét, như một người thợ mộc, thuộc gia đình nghèo. Quê Người thuộc vùng dân nghèo. Người đi giảng trên đất những người nghèo.Những nơi mà Chúa Giêsu sinh sống và hoạt động đều không thuộc về trung tâm của Đời và Đạo. Những người mà Chúa Giêsu năng lui tới hầu hết thuộc loại bên lề xã hội và tôn giáo, như những người tàn tật, bệnh hoạn, nghèo túng, tội lỗi.
Thuộc về trung tâm tôn giáo hồi đó là các thượng tế, các luật sĩ, và các thầy Lêvi. Họ có nhiều chức, nhiều quyền, nhiều lợi. Còn Chúa Giêsu thì thuộc loại bên lề. Đặc biệt là lúc sinh ra và lúc chết.Sỡ dĩ Chúa Giêsu chọn ở bên lề như vậy, là để những người ở bên lề vốn bị khinh chê và bị loại trừ, thấy được là họ được Chúa yêu thương, được Chúa chia sẻ, được Chúa lo giải cứu.Chúa Giêsu giải cứu họ bằng sự lo chữa bệnh tật cho họ, trừ quỷ cho họ, cho họ có của ăn khi cần, bênh quyền lợi của họ, loan báo Tin Mừng cho họ, nhất là bằng việc Người hy sinh mạng sống mình. Người chết, nhưng đã sống lại, để rồi mọi kẻ tin theo Người, cho dù bị Đời và Đạo lúc đó loại trừ, cũng sẽ được sống lại hiển vinh như chính Người. Theo cung cách đó, Tin Mừng cho người nghèo và người tội lỗi chính là điều Chúa mạc khải và đã thực hiện như được kể trong Phúc Âm.Những gì xưa Chúa Giêsu đã làm cho người nghèo, vẫn được các môn đệ Chúa trong mọi thời mọi nơi tiếp tục thực hiện.
Thế nào là đừng quên người nghèo? Theo các bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô, khi còn là Hồng y, và khi đã làm Giáo hoàng, xin tóm lược ý của Ngài về đừng quên người nghèo.
Đừng quên người nghèo là cố gắng cứu giúp người nghèo một cách cụ thể tế nhị và quảng đại, tùy khả năng. Đừng quên người nghèo là hãy có một thái độ gần gũi với họ. Họ là những trẻ em nghèo, những người già yếu, bệnh tật, những người lỡ lầm, những người bị xã hội loại trừ. Đừng quên người nghèo là hãy có một đời sống giản dị, không xa cách người nghèo. Không cấm có những tiện nghi cần thiết, nhưng đừng sang trọng xa hoa. Đừng quên người nghèo là hãy đơn sơ trong việc giảng dạy, để người nghèo dễ hiểu. Đừng quên người nghèo là hãy lắng nghe những người yếu đuối nhất. Đừng quên người nghèo là hãy tìm hiểu hoàn cảnh nhiều người bỏ đạo, lấy tình thương mà giúp họ trở về. Đừng quên người nghèo là hãy biết ân cần đón nhận bất cứ dấu chỉ thiện chí nào của những người tội lỗi, nghèo túng, để nhờ đó mà có những bắt đầu dọn đường cho tình yêu thương xót Chúa, giúp họ làm lại cuộc đời. Đừng quên người nghèo là hãy khiêm tốn học nơi nhiều người nghèo những đức tính tốt. Đừng quên người nghèo là phải có tấm lòng yêu thương nồng nàn chân thật và kiên trì đối với người nghèo theo gương Chúa Giêsu.Thiết tưởng có một trái tim đầy lửa tình yêu thương xót chính là mấu chốt của “đừng quên người nghèo”. Để yêu thương, Đức Phanxicô nhắc đến thánh giá và sự từ bỏ mình. Ngài nhận đó là điều khó chịu, nhưng không phải là vô bổ trong tình yêu thương xót đối với người nghèo khổ.“Đừng quên người nghèo” đang được khơi động sâu rộng trong Hội Thánh do Đức Phanxicô. Đây là một lựa chọn vừa thần học và cũng vừa tiên tri. Có thể tính cách tiên tri vượt nổi hơn.Đạo nơi nào không quên người nghèo sẽ tồn tại và phát triển. Đạo nơi nào quên người nghèo sẽ tự biến chất và tự hủy. Đó là một lời tiên tri không nên coi thường. (x. Đừng quên người nghèo, ĐGM Bùi Tuần).
Đại Hội Đồng các Giám Mục Mỹ Châu La Tinh đã tuyên bố tại Puebca năm 1979 rằng: “Việc phục vụ con người tốt đẹp nhất là loan báo Tin Mừng. Công việc đó giúp con người phát triển như con cái Thiên Chúa, giải thoát con người khỏi những bất công và thúc đẩy công trình phát triển toàn diện con người”.
Sau khi công bố “Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho người nghèo”, Chúa Giêsu đã đưa thêm một số thí dụ để giải thích thế nào là loan báo Tin Mừng cho người nghèo :
– Công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha.
– Cho người mù biết họ được sáng mắt.
– Trả tự do cho người bị áp bức.
– Công bố một năm hồng ân của Chúa.
Như vậy, “người nghèo” là những kẻ đang ở trong tình cảnh khổ sở, thiếu thốn như bị giam cầm, bị mù, bị áp bức… và đang mong thoát khỏi cảnh ấy. Đối với những người như thế, lời công bố của Chúa Giêsu mới thực sự là Tin Mừng. Còn những ai không khổ sở thiếu thốn thì lời Chúa Giêsu như nói với ai đó chứ chẳng liên can gì tới họ, cho nên chẳng phải là Tin Mừng gì cả. Bởi vậy Chúa Giêsu cũng chẳng cần loan báo cho họ. Nhưng xét cho cùng, ai mà không khổ sở thiếu thốn ? Ai mà không “bị giam cầm” trong một thứ tù ngục nào đó ? Ai mà không “mù” một cách nào đó ? Ai mà không “bị áp bức” bởi một thế lực gian tà nào đó ? Thành thử Tin Mừng của Chúa Giêsu là Tin Mừng cho tất cả mọi người. Tuy nhiên Tin Mừng ấy chỉ có hiệu quả đối với những ai ý thức mình là người nghèo. (x. Sợi chỉ đỏ, CN 3 thường niên C).
Sứ điệp công bố là những gì Thiên Chúa muốn làm cho nhân loại khốn cùng. Chúa Giêsu đã công bố bằng lời nói và bằng việc làm. Chính nơi Chúa Giêsu, người tội lỗi nhận được ơn tha thứ, người đau khổ gặp được nguồn an ủi, người chán nản gặp được niềm vui và người thất vọng tìm lại niềm hy vọng. Biết bao người tội lỗi đã “bị giam cầm” nay được thứ tha. Ánh sáng là một báu vật cho những người đang chìm trong tăm tối. Người mù thể lý được Chúa mở mắt. Người mù thiêng liêng được mở mắt đức tin để nhìn thấy và tin vào Chúa. Tự do là quà tặng quí giá nhất mà Thiên Chúa ban cho nhân loại. Những người bị áp bức, bị vùi dập, bị đè nén, những thống khổ nay được giải thoát. Những lo lắng, bệnh tật, bất công… làm cho con người trở nên nô lệ, mất đi phẩm giá, nay được Chúa chữa lành bệnh tật, bênh vực kẻ yếu, duy trì công bình xã hội và phục hồi phẩm giá cho họ. Đó là hồng ân Chúa Giêsu công bố và thực hiện. Đây là sứ mạng giải thoát con người hoàn toàn khỏi mọi cảnh bất công xã hội, chính trị, kinh tế, văn hóa hay tôn giáo. Trong Nước Thiên Chúa mọi người đều bình đẳng trước nhan Thiên Chúa. Hình ảnh lý tưởng ấy đang hiện diện một cách huyền nhiệm trong Giáo Hội (x. Lumen Gentium, 3).
Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II viết: “Sức thuyết phục của Chúa Giêsu chỉ có thể giải thích được là tất cả lời giảng, dụ ngôn và suy luận của Người không bao giờ tách khỏi đời sống của Người. Theo nghĩa đó, tất cả cuộc đời của Người là một bài giảng liên tục…” (Catechesi tradendae số 9). Chúa Giêsu đã trao cho Giáo Hội tiếp nối sứ mạng của Ngài. Giáo Hội luôn ý thức về sứ mạng của mình trong thế giới. Giáo Hội nối dài hoạt động của Chúa Giêsu. Qua dọc dài lịch sử, Giáo Hội luôn nỗ lực thực hiện sứ mạng đem Tin Mừng cho người nghèo hèn. Giáo Hội đã thiết lập các bệnh viện, các trường học, các cô nhi viện, các trại cùi, nhà dưỡng lão…Những công việc từ thiện, bác ái, xã hội, văn hóa, Giáo Hội đã làm và đang tiếp tục làm:“Giáo Hội trìu mến và ấp ủ tất cả những ai đau khổ vì sự yếu hèn của con người, nhất là nhận biết nơi những người nghèo khó và đau khổ hình ảnh Đấng Sáng Lập khó nghèo và đau khổ, ra sức giảm bớt nỗi cơ cực của họ và nhằm phụng sự Chúa Kitô trong họ”(Lumen Gentium, 8).
Thời đại hôm nay, sứ mạng của Giáo Hội còn quan trọng và thiết thực hơn nữa, liên quan đến tự do, công lý, nhân quyền, phát triển và hòa bình.Những hoạt động bác ái và y tế xã hội chỉ xoa dịu phần nào nỗi đau khổ của những người nghèo hèn. Còn những người bị giam cầm trong các trại tù cải tạo, những người bị áp bức đến mất tự do ngoài xã hội và những người dân đang bị hạn chế tự do, đói khát nhân quyền. Giáo Hội quan tâm nhiều đến họ và trợ giúp cho họ. Phương tiện của Giáo Hội luôn là Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô. Tin Mừng là “sự thật giải thoát” (Ga 8,32). Trong Tông huấn “Niềm Vui Tin mừng”, Đức Thánh Cha Phanxicô đã kêu gọi các Kitô hữu cùng với ngài đem Tin Mừng cứu độ đến cho thế giới: “Sứ mạng của Hội Thánh là đi ra để cung cấp cho tất cả mọi người sự sống của Đức Kitô” (số 49). Giáo hội thực thi sứ vụ ấy không phải bằng uy quyền sức mạnh của trần gian, nhưng bằng ân sủng của Tin Mừng.
Mỗi Kitô hữu tiếp nối công việc của Chúa Giêsu bằng cách chia sẻ niềm vui và ánh sáng, nâng đỡ người đau khổ thể xác và tinh thần, tẩy trừ sợ hãi, giải thoát người bị áp bức, xoa dịu các oán hờn, an ủi kẻ cô đơn, biểu lộ sự hiện diện tích cực của Chúa bằng những hoạt động bác ái của mình. Trung thành thực thi sứ vụ của người môn đệ Chúa Kitô, chúng ta góp phần làm cho lời tiên tri Isaia cũng được ứng nghiệm,năm hồng ân của Chúa được công bố và Nước Thiên Chúa hiện diện giữa lòng cuộc sống hôm nay.Chúa luôn đồng hành với chúng ta. Chúa luôn luôn ở bên trong sứ vụ tình yêu của chúng ta.
.
Trầm Thiên Thu
Ngày xưa, ngôn sứ Isaia đã thông báo: “Thần khí của Đức Chúa là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của Đức Chúa, một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta; Người sai tôi đi yên ủi mọi kẻ khóc than, tặng cho những kẻ khóc than ở Sion tấm khăn đại lễ thay tro bụi, dầu thơm hoan lạc thay tang chế, áo ngày hội thay tâm thần sầu não. Người ta sẽ gọi họ là cây thánh rừng thiêng, là vườn cây Đức Chúa trồng để làm cho Người được vinh hiển” (Is 61:1-3).
Năm Hồng Ân là năm thực hiện công lý, thể hiện công bình và bác ái, và cũng là thể hiện lòng thương xót đối với mọi người – đặc biệt là đối với những người hèn mọn. Một sự trùng hợp kỳ diệu vì chúng ta đang sống trong Năm Thánh ngoại thường: Năm Thánh Lòng Thương Xót (từ 8-12-2015 tới 20-11-2016).
Đầu năm Phụng Vụ mới, người ta đề nghị ba quyết định rất tuyệt vời, đáng để chúng ta học hỏi: [1] Hành động theo ý Chúa muốn, [2] Hành động theo cách Chúa muốn, [3] Hành động vì Chúa muốn vậy. Và có thêm bốn nỗ lực khác cũng rất thú vị: [1] Mạnh mẽ hơn về thể lý, [2] Mạnh mẽ hơn về trí tuệ, [3] Mạnh mẽ hơn về cảm xúc, [4] Mạnh mẽ hơn về tâm linh.
Sách Nơ-khe-mi-a cho biết: “Ngày mồng một tháng thứ bảy, ông Ét-ra cũng là tư tế đem sách Luật ra trước mặt cộng đồng gồm đàn ông, đàn bà và tất cả các trẻ em đã tới tuổi khôn. Ông đứng ở quảng trường phía trước cửa Nước, đọc sách Luật trước mặt đàn ông, đàn bà và tất cả các trẻ em đã tới tuổi khôn. Ông đọc từ sáng sớm tới trưa, và toàn dân lắng tai nghe sách Luật. Kinh sư Ét-ra đứng trên bục gỗ đã đóng sẵn để dùng vào việc này” (Nkm 8:2-4a). Luật Chúa rất cần nghiên cứu và tuân thủ hàng ngày, giữ luật Chúa là yêu mến Ngài. Mà luật Chúa là yêu người. Thánh Gioan phân tích rạch ròi: “Ai nói rằng mình biết Người mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối, và sự thật không ở nơi người ấy. Hễ ai giữ lời Người dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo. Căn cứ vào đó, chúng ta biết được mình đang ở trong Thiên Chúa” (1 Ga 2:4-5).
Sách Nơ-khe-mi-a cho biết thêm: “Ông Ét-ra mở sách ra trước mặt toàn dân, vì ông đứng cao hơn mọi người. Khi ông mở sách ra thì mọi người đứng dậy. Bấy giờ ông Ét-ra chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa vĩ đại, và toàn dân giơ tay lên đáp rằng: ‘A-men! A-men!’. Rồi họ sấp mặt sát đất mà thờ lạy Đức Chúa” (Nkm 8:5-6). Lời Chúa được mọi người kính trọng, họ đã chứng tỏ bằng hành động cụ thể.
Ông Ét-ra và các thầy Lê-vi đọc rõ ràng và giải thích sách Luật của Thiên Chúa, nhờ thế mà toàn dân hiểu được những gì các ông đọc. Bấy giờ ông Nơ-khe-mi-a, tổng đốc, ông Ét-ra, tư tế kiêm kinh sư, cùng các thầy Lê-vi là những người đã giảng giải Luật Chúa cho dân chúng, nói với họ rằng: “Hôm nay là ngày thánh hiến cho Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, anh em đừng sầu thương khóc lóc”. Sở dĩ ông nói thế là vì toàn dân đều khóc khi nghe lời sách Luật. Ông Ét-ra còn nói với dân chúng về ăn mừng: “Anh em hãy về ăn thịt béo, uống rượu ngon và gửi phần cho những người không sẵn của ăn, vì hôm nay là ngày thánh hiến cho Chúa chúng ta. Anh em đừng buồn bã, vì niềm vui của Đức Chúa là thành trì bảo vệ anh em” (Nkm 8:8-10). Ngày thánh hiến là ngày hạnh phúc, năm hồng ân là năm vui mừng. Tại sao? Vì Thiên Chúa ban ơn thánh ban chan hòa cho những người tuân giữ Thánh Luật của Ngài.
Luật Chúa là huấn lệnh của Chúa, kỳ diệu lắm. Tác giả Thánh Vịnh cho biết chi tiết: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn. Huấn lệnh Chúa hoàn toàn ngay thẳng, làm hoan hỷ cõi lòng. Mệnh lệnh Chúa xiết bao minh bạch, cho đôi mắt rạng ngời. Lòng kính sợ Chúa luôn trong trắng, tồn tại đến muôn đời. Quyết định Chúa phù hợp chân lý, hết thảy đều công minh” (Tv 19:8-10). Biết được như vậy, chúng ta thật an tâm và hạnh phúc tuân giữ.
Tuy nhiên, phàm nhân dễ “hứa lèo” lắm, hứa đó rồi quên đó, nói hay lắm mà chẳng làm được chi. Vì thế, chúng ta phải cầu xin như một lời khấn nguyện: “Lạy Chúa là núi đá cho con trú ẩn, là Đấng cứu chuộc con, cúi xin Ngài vui nhận bấy nhiêu lời miệng lưỡi thân thưa, và bao tiếng lòng con thầm thĩ mong được thấu đến Ngài” (Tv 19:15).
Đối với Thiên Chúa, năm nào cũng là Năm Hồng Ân, lúc nào cũng là Năm Thánh. Có ngày này, tháng nọ, năm kia là để nhắc nhở chúng ta đừng quá vui, quá buồn hoặc quá lo mà quên Chúa. Ngày xưa, chính Chúa Giêsu đã nhắc nhở chúng ta qua lệnh truyền của Ngài dành cho mọi người – không trừ ai, ở mọi nơi và mọi thời, ai cũng phải loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó, đặc biệt là thực hiện công lý, hành động cụ thể đó là “loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm” (Lc 4:18-19), “sự giam cầm” có thể hiểu cả nghĩa đen và nghĩa bóng.
Mọi người đều có mối liên hệ nào đó với nhau – dù xa hay gần, trực tiếp hay gián tiếp, đặc biệt là trong mối quan hệ tâm linh, vì tất cả chúng ta đều là các chi thể trong Nhiệm Thể Đức Giêsu Kitô – Đấng cứu độ và giàu lòng thương xót.
Thật vậy, Thánh Phaolô đã so sánh: “Ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy. Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất” (1 Cr 12:12-13).
Thân thể chỉ một nhưng gồm nhiều bộ phận. Và Thánh Phaolô ví von khá chi tiết: “Giả như chân có nói: ‘Tôi không phải là tay, nên tôi không thuộc về thân thể’, thì cũng chẳng vì thế mà nó không thuộc về thân thể. Giả như tai có nói: ‘Tôi không phải là mắt, vậy tôi không thuộc về thân thể’, thì cũng chẳng vì thế mà nó không thuộc về thân thể. Giả như toàn thân chỉ là mắt, thì lấy gì mà nghe? Giả như toàn thân chỉ là tai, thì lấy gì mà ngửi? Nhưng Thiên Chúa đã đặt mỗi bộ phận vào một chỗ trong thân thể như ý Người muốn. Giả như tất cả chỉ là một thứ bộ phận, thì làm sao mà thành thân thể được? Như thế, bộ phận tuy nhiều mà thân thể chỉ có một. Vậy mắt không có thể bảo tay: ‘Tao không cần đến mày’; đầu cũng không thể bảo hai chân: ‘Tao không cần chúng mày” (1 Cr 12:12-21).
Chuyện kể rằng, răng ỷ mình cứng nên chê môi mềm nên cứ phải dựa vào nó, và chê lưỡi mềm nên cũng phải nhờ vả nó. Trời lạnh, môi và lưỡi co lại, răng dù cứng nhưng chịu buốt giá và rụng dần, còn môi và lưỡi mềm nhưng vẫn không sao. Tục ngữ nhận định chí lý: “Cười người hôm trước, người cười hôm sau”. Sông có khúc, người có lúc, nay thế này, mai thế khác, đừng ảo tưởng, chớ ỷ mình thế này hoặc thế nọ mà rồi có lúc không biết giấu mặt nơi nào. Hối không kịp. Muộn!
Thánh Phaolô cho biết cụ thể: “Hơn nữa, những bộ phận xem ra yếu đuối nhất thì lại là cần thiết nhất; và những bộ phận ta coi là tầm thường nhất thì ta lại tôn trọng hơn cả. Những bộ phận kém trang nhã thì ta lại mặc cho chúng trang nhã hơn hết. Còn những bộ phận trang nhã thì không cần gì cả. Nhưng Thiên Chúa đã khéo xếp đặt các bộ phận trong thân thể, để bộ phận nào kém thì được tôn trọng nhiều hơn. Như thế, không có chia rẽ trong thân thể, trái lại các bộ phận đều lo lắng cho nhau. Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung” (1 Cr 12:22-26). Cơ thể chúng ta có nhiều bộ phận, mỗi bộ phận là một bài học phong phú mà chúng ta phải học để sống. Thiên Chúa thật kỳ diệu!
Quả thật, đơn giản như lý do mỗi người có HAI tay, HAI chân, HAI tai, HAI mắt, HAI lỗ mũi, nhưng chỉ MỘT miệng. Tại sao vậy? Thiên Chúa muốn chúng ta làm nhiều, đi nhiều, nghe nhiều, nhìn nhiều, ngửi nhiều, nhưng NÓI ÍT hoặc KHÔNG NÓI. Tương tự, có HAI bán cầu não mà chỉ có MỘT trái tim: Suy nghĩ nhiều và yêu thương thật lòng.
Cuối cùng, Thánh Phaolô kết luận: “Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Kitô, và mỗi người là một bộ phận. Trong Hội Thánh, Thiên Chúa đã đặt một số người, thứ nhất là các Tông Đồ, thứ hai là các ngôn sứ, thứ ba là các thầy dạy, rồi đến những người được ơn làm phép lạ, được những đặc sủng để chữa bệnh, để giúp đỡ người khác, để quản trị, để nói các thứ tiếng lạ. Chẳng lẽ ai cũng là tông đồ? Chẳng lẽ ai cũng là ngôn sứ, ai cũng là thầy dạy sao? Chẳng lẽ ai cũng được ơn làm phép lạ, ai cũng được ơn chữa bệnh sao? Chẳng lẽ ai cũng nói được các tiếng lạ, ai cũng giải thích được các tiếng lạ sao?” (1 Cr 12:27-30). Chắc chắn mỗi người đều có một hoặc hai tặng phẩm riêng, mỗi người như viên gạch, ở chỗ này hoặc chỗ kia, nhưng viên nào cũng có tầm quan trọng riêng, và cùng liên kết để làm nên bức tường và tòa nhà. Biết vậy rồi, không ai có thể dám kiêu ngạo về bất cứ thứ gì hoặc với bất cứ lý do gì. Quả thật, kiêu ngạo là ngu xuẩn, là khốn nạn chắc chắn bị Thiên Chúa loại trừ (x. Lc 1:52).
Ước gì chúng ta triệt tiêu được tự ái, nhờ vậy mà triệt tiêu được thói kiêu căng, nhờ vậy mà biết thương xót và nhân hậu theo lời Chúa Giêsu căn dặn.
Đầu Phúc Âm thứ ba là lời tựa và đề tặng (Lc 1:1-4), Thánh sử Luca viết: “Thưa ngài Thê-ô-phi-lô đáng kính, có nhiều người đã ra công soạn bản tường thuật những sự việc đã được thực hiện giữa chúng ta. Họ viết theo những điều mà các người đã được chứng kiến ngay từ đầu và đã phục vụ lời Chúa truyền lại cho chúng ta. Tôi cũng vậy, sau khi đã cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự, thiết tưởng cũng nên tuần tự viết ra để kính tặng ngài, mong ngài sẽ nhận thức được rằng giáo huấn ngài đã học hỏi thật là vững chắc”.
Thánh Luca là người Hy Lạp, tân tòng, môn đệ của Thánh Phaolô, tác giả Phúc Âm thứ ba và sách Công Vụ. Ông là dân trí thức, giỏi viết văn mà cũng khéo kể chuyện. Ông đề tặng cả hai tác phẩm cho một nhân vật thế giá tên là Thê-ô-phi-lô, cũng là tân tòng. Theo Hy ngữ, Thê-ô-phi-lô có nghĩa là “người yêu mến Chúa”. Rất có thể ông là tân tòng đại diện cho nhóm độc giả mà ông Luca nhắm tới, vì muốn họ am tường về giáo huấn của đạo mới.
Phúc Âm của Thánh Luca được viết vào khoảng giữa năm 70 và 75 sau công nguyên. Thánh Luca là thầy thuốc nên quan tâm vấn đề y đức: Lương y như Từ Mẫu. Ông đề cao 3 điều: [1] Chúa Giêsu là Ðấng cứu độ mọi người, giao hoà nhân loại với Thiên Chúa; [2] Thiên Chúa là Đấng nhân từ và thương xót; [3] Tinh thần từ bỏ mình và sống nghèo khó. Quả thật, trong Phúc Âm này có ba dụ ngôn về Lòng Chúa Thương Xót: [1] Con chiên bị mất (Lc 15:4-7), [2] Đồng bạc bị mất (Lc 15:8-10); và nổi bật là [3] Người cha nhân hậu (Lc 15:11-32).
Trong đoạn Lc 4:14-21, Thánh Luca cho biết rằng, Đức Giêsu được quyền năng Thần Khí thúc đẩy nên Ngài trở về miền Galilê. Ngài giảng dạy trong các hội đường chí lý và chí tình nên được mọi người tôn vinh, do đó tiếng tăm Ngài đồn ra khắp vùng lân cận. Hữu xạ tự nhiên hương, đó là điều tất nhiên, không ai có thể chối cãi và phải tâm phục, khẩu phục.
Khi Ngài về quê hương Nadarét, nơi chôn nhau cắt rốn, Ngài vào hội đường như Ngài vẫn quen làm trong ngày sa-bát, rồi Ngài đứng lên đọc Sách Thánh. Họ trao cho Ngài cuốn sách ngôn sứ Isaia. Ngài mở ra, gặp đoạn chép rằng: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4 :18-19). Đó là đoạn Kinh Thánh mà ngôn sứ Isaia đã đề cập Năm Hồng Ân (Is 61:1-3), tức là năm đặc biệt mà chúng ta gọi là Năm Thánh.
Đọc xong, Ngài cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Ngài. Rồi Ngài bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”.
Kinh Thánh là Thánh Ngôn của Thiên Chúa, cũng là Thánh Ý của Ngài muốn đối với mỗi chúng ta. Chẳng chóng thì chày, Kinh Thánh luôn ứng nghiệm đến từng chi tiết. Thật vậy, Chúa Giêsu đã xác định rằng Ngài đến thế gian không phải là để bãi bỏ luật Cựu Ước hoặc luật Mô-sê, nhưng để kiện toàn lề luật. Mọi chi tiết đều nên trọn, vì Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành” (Mt 5:18).
Lúc nào chúng ta cũng sống trong Năm Hồng Ân, bao nhiêu tuổi là bấy nhiêu Năm Hồng Ân. Tuy nhiên, vì điều kia hoặc sự nọ mà chúng ta đã và đang có những lúc quên khuấy đi mất. Có những lúc giật mình hồi tâm, chúng ta mới thấy mình thật tệ đối với Thiên Chúa. Từ nay, đặc biệt trong Năm Thánh Lòng Thương Xót này, ước gì ai cũng tự nhủ như tác giả Thánh Vịnh thế này: “Lời Chúa hứa, lòng con ấp ủ, để chẳng bao giờ bội nghĩa bất trung” (Tv 119:11). Đồng thời cũng mong sao chúng ta can đảm bảo vệ sự sống, bảo vệ chân lý và công lý như Chúa Giêsu đã truyền dạy, để thế giới không còn tình trạng bất công, áp bức, bóc lột,… ai cũng được sống tự do đích thực đúng với nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết tận dụng thời gian còn thở để nhận biết Hồng Ân bao la Ngài ban tặng cho con vì Lòng Thương Xót của Ngài. Để nhờ vậy, con có thể thở bằng nhịp thở của Thánh Tâm Chúa Giêsu, cố gắng thở mà không than chi cả. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
.
Jos. Vinc. Ngọc Biển
Vào năm 1969, Dòng Chúa Cứu Thế có chương trình truyền giáo tại Miền Thượng của các tỉnh Cao Nguyên – Việt Nam.
Vì thế, một số linh mục đã khởi hành từ Sài Gòn, các ngài tiến về Tòa Giám Mục Kontum theo đường quốc lộ 14. Khi đến nơi, các cha chào thăm đức giám mục Paul Léon Seitz Kim và bày tỏ ước nguyện muốn dấn thân cho vùng truyền giáo nơi đây. Đức giám mục vui mừng đón nhận tâm nguyện cao quý của các cha. Sau khi trò chuyện thân tình, ngài dẫn các thừa sai đi trên một chiếc xe tới vùng truyền giáo. Đến nơi, đức cha đọc đoạn Tin Mừng theo thánh Luca 10, 1-11 nói về việc Đức Giêsu sai 72 môn đệ đi loan báo Tin Mừng. Đọc xong, ngài làm dấu 4 hướng và chỉ cho các cha thấy vùng đất rộng lớn, mênh mông, bao la và chính thức sai các ngài đi loan báo Tin Mừng cứu độ cho anh em dân tộc nơi đây (x. Thường huấn các bề trên liên Dòng mến Thánh Giá 2015).
Sau gần 20 năm, Chúa đã ân thưởng bằng việc ban cho các ngài một mùa lúa bội thu với cả ngàn người xin theo đạo.
Nhờ đời sống gương sáng, nhất là lòng thương yêu người nghèo, giúp đỡ người cô thế cô thân, bênh cực người bị áp bức… nên những anh chị em dân tộc nơi núi rừng Tây Nguyên này đã nhận ra Thiên Chúa là Tình Yêu và tin theo.
Hôm nay, thánh sử Luca trình thuật cho chúng ta biết: nhân dịp thuận tiện, Đức Giêsu trở về nơi chôn nhau cắt rốn của mình để thăm quê hương. Vì là Con Thiên Chúa, nên Đức Giêsu rất yêu mến, quý trọng Hội Đường là nơi tôn thờ Cha của mình. Bởi vậy, Ngài thường xuất hiện nơi đây vào những ngày Sabát để tham dự giờ Kinh Thánh. Tuy nhiên, lần này, Đức Giêsu trở về quê hương, Ngài vào Hội Đường trong tư cách là Đấng Mêsia và chính thức công bố chương trình hoạt động, những lựa chọn ưu tiên cũng như đối tượng mà Ngài nhắm đến trong sứ vụ loan báo Tin Mừng.
Tất cả những gì Đức Giêsu đọc thấy trong Sách Thánh hôm nay thì đã được tiên tri Isaia loan báo trong thời Cựu Ước, vì thế: “Hôm nay ứng nghiệm nơi Ngài”.
Ứng nghiệm, bởi vì: Đức Giêsu được chính Chúa Thánh Thần xức dầu tấn phong, trở thành Đấng Kitô của Thiên Chúa. Ngài là vị lãnh đạo tôn giáo, đến để giải thoát con người cách toàn diện cả tâm linh lẫn thể xác, cá nhân đến xã hội, bao hàm cả ba lãnh vực chính yếu của Kitô giáo, đó là: chân lý, công lý và tình thương (x. Mt 23,23).
Về tâm linh, Đức Giêsu đến để giải thoát con người khỏi ách thống trị của tội lỗi, đem lại cho nhân loại sự tự do trong ân sủng. Vì thế, thánh Phaolô viết: “Chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta” (Gl 5,1; x. Rm 6,18; Cl 1,13).
Về mặt thể xác, Đức Giêsu đứng về phía người nghèo để yêu thương, nâng đỡ và bảo vệ khỏi bị tấn công bởi sự bất nhân, ích kỷ của con người và loan báo cho họ biết gia tài, kho báu, niềm vui và hạnh phúc đích thực của họ ở nơi Thiên Chúa.
Về mặt xã hội, Ngài đến để thiết lập triều đại mới, triều đại của ân sủng và tình thương, của công lý và sự thật, đồng thời mời gọi mọi người hãy sáp nhập vào nước đó để được tự do và được sự sống đời đời làm gia nghiệp.
Sứ mạng ấy không chỉ dừng lại nơi Đức Giêsu, mà: “Như Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian”(Ga 17,18); và: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 15).
Thật vậy, “Truyền giáo là một ân sủng, ơn gọi xứng hợp, và là căn tính sâu xa nhất của Giáo Hội” ( Phaolô VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, số 14). Vì thế: “Giáo Hội vẫn sẽ tiếp tục là một Giáo Hội truyền giáo trong tương lai, bởi vì đặc tính truyền giáo thuộc về bản chất của Giáo Hội” (Gioan Phao lô II, Thông điệp Tertio Millennio Adveniente, năm 1994, số 57). Đây là nguồn gốc, căn nguyên và sứ mạng chính yếu của Giáo Hội. Giáo Hội không thể đứng nhìn và an tâm bởi những gì đã đạt được, nhưng Giáo Hội luôn luôn mang trong mình mọi thành phần, để cũng cùng một sứ vụ như Đức Giêsu, đó là: giải thoát con người khỏi ách thống trị của tội lỗi, đem lại cho nhân loại một nền hòa bình trong công lý và tình thương, xây dựng một xã hội mang đậm dấu ấn yêu thương, bác ái.
Bao lâu còn người nghèo, bấy lâu sứ mạng còn cấp bách; bao lâu còn gian dối lọc lừa, Giáo Hội có trách nhiệm lên tiếng và thanh tẩy để nó trong sáng hơn; bao lâu con người còn thất vọng, Giáo Hội sẽ loan báo và trả lời những chất vấn về niềm hy vọng của nhân loại hôm nay (x. 1 Pr 3, 15).
Nếu Giáo Hội không lựa chọn người nghèo, không tiến ra chỗ nước sâu mà thả lưới, không vượt ra khỏi vỏ bọc an thân để đi đến những vùng ngoại vi, thì Giáo Hội vẫn chỉ trơ trơ như một cái máy, hay như con rô bốt không hồn!
Nếu Giáo Hội không lựa chọn ưu tiên vì sứ vụ như Đức Giêsu, thì một lúc nào đó, nhân loại sẽ không cần đến Giáo Hội vì Giáo Hội chỉ là một thể chế công chức xã hội thuần túy. Và, lẽ đương nhiên, nhân loại không còn tin tưởng Giáo Hội nữa, vì đã thất trung, bội ước với Đấng sáng lập nên mình!
Thật vậy, Giáo Hội sẽ mất đi bản chất nếu không rập đời sống và hoạt động của mình theo khuôn mẫu của Thầy Giêsu. Bởi lẽ: “Nếu Giáo Hội đi với kẻ có quyền, người ta sợ; đi với người giàu có, người ta khinh bỉ; nhưng đi với người nghèo thì được cả hai đối tượng trên và được tất cả mọi sự”.
Từ sứ mạng của Đức Giêsu, rồi đến sứ mạng của Giáo Hội và tới sứ mạng của mỗi chúng ta như một mạch liền lạc không thể tách rời. Tuy nhiên, điều chúng ta đặt ra, đó là: làm tông đồ bằng cách thế nào? Đức Phaolô VI đã vạch ra cho chúng ta một tiêu chuẩn để làm chứng cho Chúa, đó là: “Người thời nay thích nghe những chứng nhân hơn thầy dạy, bởi vì thầy dạy cũng là chứng nhân”. Đúng thế, lời dạy dỗ không hấp dẫn và thuyết phục bằng chứng tá vì người ta thường nói: “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”.
Lời nhắn nhủ của đức giám mục trong thánh lễ phong chức linh mục muốn nhắc cho các mục tử về vai trò chứng tá. Tuy nhiên, lời nhắn gửi này có thể hiểu rộng cho mỗi người Kitô hữu, vì theo nghĩa phổ quát, mỗi chúng ta đều là mục tử vì được tham dự vào chức Tư Tế của Đức Giêsu ngày lãnh Bí tích Rửa Tội. Ngài khuyên: các con “hãy tin vào điều con đọc. Hãy giảng điều con tin. Và hãy thực hành điều con giảng dạy”.
Mong sao lời đó sẽ được mỗi người suy đi và nghĩ lại trong lòng, để trở nên chứng tá của tình yêu Thiên Chúa trong lòng xã hội hôm nay!
Được như thế, Thiên Đàng không chỉ tại Thiên mà đã ở giữa nhân loại ngay trong giây phút hiện tại.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con ý thức được sứ mạng của mình, đồng thời, biết noi gương Chúa để loan báo Tin Mừng cho con người cách toàn diện, ngõ hầu nhân loại này được an vui, hạnh phúc và bình an khi sđược sống trong tình yêu, công lý và sự thật. Amen.
.
NGÀI XỨC DẦU CHO TÔI, SAI TÔI ĐI…
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Tiếp tục sứ vụ công khai của mình là đi rao giảng Tin Mừng, chữa lành những người ốm đau bệnh tật, xua trừ ma quỉ, kêu gọi người ta hoán cải, hoàn tất lời các tiên tri đã loan báo: “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe” (Lc 4, 21).
Sau khi tỏ mình ra dần dần bằng các phép lạ tại Cana (x. Ga 2,1-12), Galilêa và Giêrusalem (Ga 2, 23). Chúa chọn thêm một số môn đệ, rồi cùng với các ông trở về Capharnaum, Người bắt đầu giảng dạy tại đây. Ngày Sabát đầu tiên Chúa vào hội đường Nagiarét đọc sách và giảng dạy ở đó, khiến mọi người chăm chú lắng nghe và không ngớt lời ca tụng (Lc 1, 1-4).
Được Chúa Cha xức Dầu và sai đi…
Lời của ngôn sứ Isaia được Chúa Giêsu công bố trong hội đường áp dụng vào chính bản thân mình :”Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hôn sám hối… trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng” (Lc 4, 14-18). Như thế, Chúa Giêsu loan báo thời lưu đày của dân Israel tại Babylon sẽ chấm dứt, khởi đầu một thời kỳ hoàn toàn mới, thời Đấng Cứu Thế xuất hiện, thời Đấng Messia là chính Người.
Nghe có vẻ đơn sơ, nhưng thật trang trọng, những lời tiên tri ấy áp dụng vào Chúa Giêsu một cách rất tự nhiên: “Hôm nay đã ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe” (Lc 4, 21). Chúa Giêsu chính là hiện thân lòng thương xót của Chúa Cha, được Chúa Cha xức Dầu và sai xuống trần gian để thể hiện lòng xót thương qua việc giải thoát con người khỏi ách nô lệ tội lỗi và đưa con người trở về với Chúa Cha. Sứ vụ của Chúa Giêsu nhằm mang hạnh phúc, niềm vui, sự sống và tình yêu của Thiên Chúa đến cho loài người. Sứ vụ của Chúa Giêsu là sứ vụ thần linh, thần linh hoá nhân loại, cho nhân loại được chia sẻ sự sống của Thiên Chúa, được trở nên con cái của Thiên Chúa trong Thần Khí. Người không được sai đến với những ai tự phụ, tự mãn, cho rằng mình đã đầy đủ, nhưng là đến với những người thấy mình là phận nhỏ, thiếu thốn trăm bề, cả hồn lẫn xác. Cuộc lưu đày ở Babylon, rồi được trả tự do, cho hồi hương của Dân Chúa là một dấu chỉ, một hình ảnh tượng trưng nói lên ý định lớn lao của Thiên Chúa là cứu độ và giải thoát con người khỏi ách tù đày nô lệ tội lỗi và sự chết.
Như thế, khi áp dụng những lời sấm của tiên tri Isaia vào bản thân mình, Chúa Giêsu tự mô tả về con người và sứ mạng của mình, bằng những từ ngữ đơn sơ nhưng rất uy nghi, đến nỗi dân chúng nín thở, hồi hộp, lắng nghe. Thánh Luca nói: “Mọi người trong Hội đường đều chăm chú nhìn Người“(Lc 4, 20). Cung cách dạy dỗ của người hoàn toàn khác với các thầy dạy luật mà họ đã quen bấy lâu nay. Đúng là một Tin mừng làm nức lòng họ, đem đến cả một bầu trời hy vọng và tự do.
Giáo hội đươc sai đi công bố Năm Thánh
Nếu như Chúa Giêsu được Chúa Cha xức Dầu hoan Thánh Thần, sai đi vào dòng đời để cứu vớt những kẻ cơ hàn, mang lại niềm vui và hạnh phúc cho biết bao con người, khai mở năm hồng ân để thi ân giáng phúc cho nhân loại, thì đến lượt mình, Người cũng trao lại sứ mạng đó cho Giáo hội: “Như cha đã sai Thầy, Thầy sai anh em“ (Ga 20,21). Giáo hội cũng được xức dầu như Chúa Kitô và được sai đi. Người cũng ban tràn đầy Thánh Thần cho Giáo hội: “Hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22). Chúa Thánh Thần là linh hồn của sứ mạng Giáo hội, là Chúa Giêsu nối dài, tiếp nối mầu nhiệm nhập thể và sứ vụ của Chúa Giêsu đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó.
Ngày hôm nay, chúng ta, những người đã chịu phép Rửa tội và đã được xức Dầu, đang ở trong giai đoạn đầu của Năm Thánh Lòng Thương Xót, Năm Hồng Ân đặc biệt, Năm mà chúng ta được mời gọi hãy thương xót và tha thứ như Cha trên trời. Giáo hội muốn con cái mình cảm nghiệm được lòng thương xót của Thiên Chúa, trung thành sống và thực hành giáo huần của Đấng giầu lòng thương xót. Đây là dịp tốt để mỗi người cùng với Chúa Giêsu lặp lại những lời của tiên tri Isaia được công bố trong Phúc Âm như sau: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi...” (Lc 4, 18).
Người Kitô hữu được truyền phải sống Năm Thánh
Như thế, chúng ta được xức Dầu khi chịu Phép Rửa tội và Phép Thêm Sức, được “thánh hiến” cho Thiên Chúa và được sai đi loan báo Tin Mừng. Sống đạo là bước theo Chúa Giêsu theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần trên con đường yêu thương hiếu thảo đối với Chúa Cha, con đường yêu thương tự hiến cho tha nhân, con đường trở nên hoàn hảo trong tình yêu. Rập khuôn thầy Giêsu, điều đó chúng ta không làm nổi, nhưng với khả năng Chúa ban, chúng ta đủ sức thực thi những việc tha nhân đang cần bằng tất cả đời sống.
Thế giới ngày hôm nay đang vơi cạn tình yêu, và tha thứ, khiến cho hận thù cũng như bạo lực leo thang từ phạm vi gia đình đến quốc tế làm cho người già và trẻ em bị bỏ rơi. Vì thế, Lời Chúa hôm nay rất thiết thực đối với mỗi người. Vậy:
Hãy là đôi chân cho người già yếu, giúp họ đến nhà thờ, đi thăm bà con.
Hãy là đôi tai cho những bạn trẻ đang mong bạn lắng nghe những nỗi lòng của họ.
Hãy là tin mừng cho người đang u sầu bằng những lời chia sẻ ủi an, khích lệ khôn ngoan.
Và hãy đem ánh sáng cho những ai đang lầm đường lạc lối, bằng sự hướng dẫn ân cần đầy thương yêu.
Với ước mong những kẻ nghèo hèn và những người bị áp bức được chúng ta yêu thương, nhất là liên đới với những kẻ khốn cùng và quảng đại sống đời bác ái yêu thương họ là chúng ta thi hành sứ mạng người kitô hữu của mình, những người được xức Dầu. Có thế, Năm Thánh Lòng Thương Xót mới thật ý nghĩa đối với người chúng ta. Amen.
.
ĐỨC GIÊSU – TIN MỪNG CHO MỌI NGƯỜI
Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Tin Mừng Luca cho thấy Đức Giêsu được đầy Thánh Thần, Ngài trở về Galilê, và tiếng tăm Ngài được đồn ra khắp vùng. Ngài bắt đầu giảng dạy trong các hội đường của người Do Thái, cụ thể ở hội đường làng Nadarét.
Thánh Thần Chúa ngự trên tôi
Đức Giêsu luôn sống dưới tác động của Thánh Thần. Ngài làm tất cả dưới sự thúc đẩy của Thánh Thần, cụ thể Ngài đi chịu phép rửa tại sông Yordan, Ngài vào hoang địa ăn chay cầu nguyện, và hôm này Ngài ra đi rao giảng. Dưới tác động của Thánh Thần, Đức Giêsu là người mang tin mừng cho người có tinh thần nghèo, loan báo tự do cho kẻ bị tù đầy, cho người mù được sáng, cho người áp bức được giải thoát, và năm hồng ân của Thiên Chúa cho mọi người.
Thánh Thần ở trong Hội Thánh như hồn ở trong thân xác. Trong Hội Thánh có nhiều chức vụ, nhưng tất cả đều do Thánh Thần ban tặng và tác động: người làm đầu người làm mắt người làm chân tay. Tất cả đều thuộc về Hội Thánh, và không thể thiếu một chức vụ nào, cũng như một thân xác không thể thiếu một bộ phận nào. Không một bộ phận nào trong thân thể bị thiếu mà lại không ảnh hưởng đến bộ phận khác và toàn thân thể, cũng tương tự vậy những chức vụ trong Hội Thánh.
Ước gì mỗi người đều ý thức Thánh Thần luôn gần gũi, luôn ở với, và luôn hướng dẫn mình cùng Hội Thánh trong mọi hành động.
Đức Giêsu- Tin Mừng
Thiên Chúa chúc lành cho con người, làm tất cả cho con người qua Đức Giêsu.
Có ai hiểu được những người bị tù đầy mong được ngày ra khỏi tù như thế nào? “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”: một ngày trong tù, lâu như thể ngàn năm ở ngoài. Ở đây người ta nói tới thời gian tâm lý, và qua đó diễn tả mong ước ngày được tự do đến độ nào! Đức Giêsu là người công bố ơn đại xá, được miễn án và ra khỏi tù. Nếu ai hiểu được người mù cực khổ như thế nào, và người mù mong được sáng đến độ nào, sẽ dễ dàng hiểu câu “Đức Giêsu là người làm cho người mù được sáng” có nghĩa gì với người mù. Những người bị áp bức hà hiếp, cực khổ như thế nào, mong được minh oan và được giải thoát đến độ nào! Đức Giêsu là người giải phóng họ.
Người ta có thể bị tù đày nô lệ trong không gian như bị giam cầm trong một nơi chốn nào đó, nhưng người ta cũng có thể bị giam hãm trong một cái nhìn nào đó, có thể bị nô lệ với một thành kiến mà người ta không biết. Đức Giêsu tới, cho người ta nhận ra giá trị chân thực, giúp con người biết tiêu chuẩn chân thực để phán đoán. “Chân lý” giải phóng con người khỏi nô lệ, làm người bị u mê nhận ra sự thật và nhờ đó được tự do.
Tin Mừng cho người nghèo
Tin Mừng Đức Giêsu, không phải mọi người đều nhận ra. Những người Do Thái không nhận ra, nên muốn giết Đức Giêsu. Để nhận ra Đức Giêsu là Tin Mừng, cần phải có con mắt của người nghèo, người thấy mình “còn thiếu”, người thấy mình cần được soi sáng, người sẵn sàng và luôn ngóng chờ Thiên Chúa nói với mình.
Những người tự mãn, tự cho mình đã đủ không còn thiếu gì nữa, rất khó đón nhận Tin Mừng Đức Giêsu. Những người này có thể là những người cho rằng mình đã đạo đức đủ, không nhận ra mình yếu đuối tội lỗi cần Thiên Chúa thương xót và trợ giúp. Họ cũng có thể là những người cho mình có học, không sẵn sàng đón nhận mặc khải của Thiên Chúa qua Đức Giêsu với cuộc sống “bình thường”. Cũng có thể họ là những người giầu, và Đức Giêsu không thêm gì cho họ: Ngài không làm cho họ giầu hơn hoặc danh tiếng hơn hoặc có địa vị cao hơn.
“Phúc cho người có tinh thần nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của họ” (Mt.5, 3). Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người, người giầu cũng như người nghèo. Người giầu có nhiều thứ và nhiều bận tâm, nên không còn chỗ và không sẵn sàng đón nhận Thiên Chúa, chứ không phải Thiên Chúa không yêu thương họ. “Nghèo” như thái độ, là mối phúc thật sự.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Sách của Nơkhemia diễn tả cuộc lưu đày của dân Dothái từ Babylon trở về xây lại tường thành Giêrusalem. Khi vua nước Babylon chiếm hữu thành Giêrusalem và đánh đổ nước Giuđa, đã bắt dân Dothái cư ngụ ở Palestine đi làm tôi đòi nô lệ tại Babylon. Sau khi các vua nước Medes và Persians đánh thắng dân thành Babylon vào năm 538 BC, vua Cyrus đã cho phép dân Dothái trở về quê hương. Đúng ra, có 3 nhóm trở về vào 3 thời kỳ khác nhau. Nhóm thứ nhất dưới sự hướng dẫn của Zerubbabel vào năm 536 BC. Nhóm thứ hai được dẫn dắt bởi Ezra vào năm 458 BC và nhóm sau cùng được Nehemia dẫn về quê hương vào năm 445 BC. Sách của Nehemiah được viết vào trong khoảng thời gian (465-423 BC).
Sách Nơkhemia diễn tả việc ông thư ký Ezra đã quy tụ dân chúng đến lắng nghe sách lề luật của Chúa: “Ông đứng ở quảng trường phía trước cửa Nước, đọc sách Luật trước mặt đàn ông, đàn bà và tất cả các trẻ em đã tới tuổi khôn. Ông đọc từ sáng sớm tới trưa, và toàn dân lắng tai nghe sách Luật.” (Nkm 8,3) Chúng ta biết Sách Luật đã được ghi chép trên các tấm da thuộc hoặc viết trên cuộn giấy Papyrus. Khắc ghi những lề luật và huấn lệnh được truyền tụng qua nhiều đời. Các luật lệ bắt nguồn từ Mười Điều Răn mà Chúa đã truyền cho ông Môisen trên núi Sinai. Dân chúng chăm chú lắng nghe sách Luật từ sớm tới trưa và họ đã vui mừng hân hoan: Bấy giờ ông Ezra chúc tụng Thiên Chúa là Thiên Chúa vĩ đại, và toàn dân giơ tay lên đáp rằng: “Amen! Amen! Rồi họ sấp mặt sát đất mà thờ lạy Thiên Chúa.” (Nkm 8,6). Dân Dothái là dân được tuyển chọn. Họ được Thiên Chúa dẫn dắt qua sự hướng dẫn của các tiên tri và các vị tư tế cùng các bô lão. Họ sống liên kết thành cộng đồng tin thờ Thiên Chúa duy nhất.
Từ xa xưa, dưới thời vua Salômon, dân Dothái đã xây dựng đền thánh để tôn thờ Thiên Chúa. Họ đã có tổ chức xã hội về mọi mặt. Hàng tư tế đã có những nghi thức thánh hiến và dâng lễ toàn thiêu đền tội. Đền thờ là nơi mọi người dân tụ lại làm nên một cộng đồng dân Chúa. Đền thờ là trung tâm của cuộc sống đạo và là trái tim của mọi sinh hoạt. Dân chúng xum họp tại đền thờ để lắng nghe Lời Chúa, giải thích Kinh Thánh và dâng tiến lễ vật đền tạ. Niềm tin vào Thiên Chúa độc nhất được hun đúc và phát triển qua đời sống cộng đồng. Trải qua lịch sử ngàn năm, đạo Dothái vẫn luôn trung thành với các nghi lễ, giờ cầu nguyện, giữ ngày sabát, tuân giữ các giới răn và huấn lệnh. Ngoài trung tâm đền thờ chính, nhiều nhóm tại địa phương đã xây dựng nhiều Hội đường để cùng tụ họp nghe giảng và học hỏi Kinh Thánh.
Khi ra giảng đạo, Chúa đã đi cùng khắp mọi miền. Có khi Chúa giảng ngoài bãi biển, nơi chân đồi, ngoài cánh đồng, trong tư gia, ngoài đường phố và hôm nay Chúa đã vào Hội đường: “Người giảng dạy trong các hội đường, và được mọi người tôn vinh.” (Lc 4,15) Nhiều người đi theo Chúa và chăm chú lắng nghe. Chúa giảng với uy quyền và lời Chúa có sức biến đổi tận tâm can. Khi vào Hội đường, Chúa Giêsu đã đứng lên đọc sách Tiên tri Isaia với đoạn này: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.” (Lc 4,18-19) Đây là đoạn sách quan trọng nhất nói về Đấng Thiên Sai đã được chính Chúa Giêsu xác nhận: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.” (Lc 4, 21). Trong 3 năm giảng dạy, Chúa đã hoàn thành mọi lời tiên tri đã loan báo về Ngài.
Chúa Giêsu đã lập Giáo Hội, khởi đầu với một nhóm nhỏ các tông đồ, môn đệ và các thân hữu. Giáo Hội phát triển như hạt giống được gieo vào lòng đất, nẩy mầm, lớn lên và sinh nhiều bông hạt. Giáo Hội bao gồm những người cùng lãnh nhận một phép rửa, một đức tin, đức cậy, đức mến và một niềm hy vọng vào ơn cứu độ. Chúa Giêsu đã thi hành sứ mệnh của Chúa Cha đã trao và hoàn tất qua việc hiến thân mình chịu đau khổ, chịu chết và sống lại. Các tông đồ là những vị đầu tiên ra đi làm nhân chứng cho Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ trần gian. Các nhân chứng sống động được tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần đã không ngừng rao giảng và thiết lập các giáo đoàn phụng vụ khắp nơi. Số tín hữu ngày thêm đông đảo và đa dạng. Giáo Hội mở cửa đón nhận mọi thành thành qua Bí tích Rửa Tội và lòng tin ao ước.
Giáo Hội khởi đi từ niềm tin yêu trong lòng người. Niềm tin qui tụ mọi dân, mọi nước, mọi chủng tộc, ngôn ngữ và văn hoá truyền thống. Thánh Phaolô Tông đồ đã dùng những hình ảnh rất cụ thể để diễn tả sự liên kết giữa các thành phần trong Giáo Hội: “Thật vậy, ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy.” (1 Cr 12,12) Giáo Hội là một xã hội của loài người. Cần có các tổ chức phẩm trật, vai trò nghĩa vụ, mục vụ, phục vụ và cộng đồng tin yêu. Giáo Hội cần có sự hỗ tương trong tất cả các sinh hoạt đời sống. Giáo Hội mỗi ngày thêm đông số các thành viên nên phải kết hợp và gắn bó đoàn kết trong một nguồn sức sống. Kết hợp giống như các nhành nho được liên kết với cây nho là Chúa Giêsu Kitô. Thánh Phaolô tả hình ảnh bộ phận của thân thể: “Như thế, bộ phận tuy nhiều mà thân thể chỉ có một.” (1 Cr 12,20)
Chúng ta quan sát một cộng đoàn phụng vụ trong khi cử hành thánh lễ. Mỗi thành viên có trách nhiệm riêng theo chức vụ của mình. Trong tập thể bao gồm: cộng đoàn dân Chúa, các thừa tác viên thánh thể, đọc sách, các em giúp lễ, các vị tiếp tân, ban trật tự, xin tiền, dâng của lễ, ca đoàn và linh mục chủ tế. Mỗi người có một nhiệm vụ cần được chu toàn ăn khớp với nhau. Chúng ta biết rằng những bộ phận xem ra yếu đuối và có vẻ thụ động nhưng đây lại là bộ phận cần thiết nhất, đó là mọi tín hữu tham dự phụng vụ: “Hơn nữa, những bộ phận xem ra yếu đuối nhất thì lại là cần thiết nhất.” (1 Cr 12,22) Không có cộng đoàn dân Chúa, chúng ta sẽ không có các cuộc cử hành phụng vụ cách long trọng. Mỗi thành viên đều rất quan trọng tùy theo vai trò của mình, trong đó có các cụ ông cụ bà, các trẻ em và mọi thành phần dân Chúa.
Bí tích Thánh Thể liên kết chúng ta nên một. Trong niềm tin yêu, chúng ta hỗ trợ và nâng đỡ nhau sống hoàn thiện. Chưa hẳn các linh mục chủ tế là những người đạo đức tốt lành hơn các thành viên khác. Chủ tế nên chu toàn các nghi thức và cử hành thánh lễ cách nghiêm trang và sốt sáng. Trước mặt Thiên Chúa, tất cả chúng ta chỉ là những đầy tớ vô dụng, không ai hơn ai. Điều quan trọng là trái tim yêu thương và sự gắn bó với thân thể mầu nhiệm của Chúa: “Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Kitô, và mỗi người là một bộ phận.” (1 Cr 12,27) Các bộ phận trong cơ thể tuần hoàn phát sinh sự sống khoẻ mạnh và cường tráng. Các thành viên trong cộng đồng dân Chúa phải gắn kết yêu thương, đùm bọc và nâng đỡ nhau để chu toàn sứ vụ trong sự hài hoà và thuần thiện.
Chúa Giêsu không đến để kêu gọi nhưng người công chính và thánh thiện, nhưng là những kẻ tội lỗi. Những thành phần yếu bệnh cả hồn lẫn xác cần được sự nâng đỡ chở che và chữa lành. Họ là những bộ phận cần được quan tâm nhất vì: “Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung.” (1 Cr 12,26) Chúng ta không thể lên thiên đàng một mình, cần có những anh chị em xung quanh cùng đồng hành dìu dắt và đỡ nâng. Mỗi người đều có bổn phận làm cho thân thể mầu nhiệm được triển nở và phát sinh kết quả đời này và đời sau.
Lạy Chúa, đừng để chúng con bị lạc xa đường lối Chúa. Xin cho chúng con biết lắng nghe các huấn lệnh, điều răn, chỉ thị và giáo huấn của Chúa và Giáo Hội, để chúng con tuân cứ luật pháp của Chúa đêm ngày. Ước mong tên của mỗi chúng con sẽ được ghi vào sổ hằng sống đời đời, vì: “Ai không có tên ghi trong Sổ Trường Sinh thì bị quăng vào hồ lửa.” (Kh 20,15).
.
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Đức Giê-su đã đọc trong hội đường Na-da-rét bản văn của ngôn sứ I-sai-a câu 61:1-2; vị ngôn sứ nói cho người Do Thái lưu đầy biết mình được thần khí (tức sức mạnh) của Đức Chúa tác động để công bố thời kỳ Thiên Chúa viếng thăm và giải thoát họ: “cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha”; tác giả Lu-ca nhấn mạnh thêm tư tưởng này, khi ghép thêm câu “trả lại tự do cho người bị áp bức” từ một đoạn văn khác (Is 58:6). Đức Giê-su trịnh trọng tuyên bố cho nhóm cử tọa cũng là đồng hương của Người rằng: “hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quí vị vừa nghe”. Trong khi những người Do Thái thời ngôn sứ I-sai-a hiểu: “được tha, trả tự do” có ý nghĩa gì trong bối cảnh chính trị, xã hội và quân sự thời bấy giờ, thì các thính giả đồng hương Đức Giê-su lại có vẻ khá mù mờ. Họ chỉ mong được chứng kiến hay được hưởng lợi từ những điều kỳ lạ mà họ nghe đồn đại, Người đã làm tại Ca-phác-na-um.
Còn đối với chúng ta, những con người của thời đại này, thì sao? Các Ki-tô hữu chúng ta ngày nay sẽ nghiệm ra điều gì trong hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống hàng ngày? Hơn nữa, “Đã ứng nghiệm” có nghĩa lý gì đối với bản thân mỗi người chúng ta?
Tôi thử tưởng tượng xem sao nhé! Nếu mình được sống trong một đất nước dân chủ và phát triển cao, nếu là một người tài đức, thông thái và có địa vị cao trong xã hội, nếu mình là một người thành đạt… thì sẽ phải hiểu lời công bố này sao đây? Thản hoặc, nếu là một hiền triết, một nhà tu hành đắc đạo và thuần thục của một tôn giáo cao quí nào đó… chẳng lẽ tôi sẽ lắc đầu nhún vai coi lời này chẳng có liên quan gì tới mình; tôi có bị ai áp bức đâu! tôi có cần được ai tha hay trả tự do cho đâu! Nếu quả ‘Tin Mừng’ Đức Giê-su loan báo trong Thần Khí ứng nghiệm cho hết thảy mọi người, mọi thời và mọi hoàn cảnh, thì ‘được tha, trả tự do’ này phải mang một nội dung rất phổ quát, có thể ứng dụng cho hết thảy mọi hạng người, bất luận kiếp sống làm người của họ có là thế nào đi nữa. Vậy thì: ‘ứng nghiệm’ trong thực tế hệ tại ở điều gì, đó chính là vấn nạn tôi cần tìm lời giải đáp.
Vào thời I-sai-a, cốt lõi của sứ điệp mà vị ngôn sứ muốn chuyển tải là ‘Đức Chúa trung thành’ với giao ước mà Ngài đã ký kết với dân riêng, bất chấp các thăng trầm thời cuộc. Còn Đức Giê-su, Người tới để công bố một sứ điệp khác là: ‘Thiên Chúa yêu thương’ bất chấp tất cả mọi giới hạn và bất toàn mà phàm nhân nào cũng có. Chính Người là hiện thân sống động của sứ điệp mang tính cách mạng đó; vì toàn bộ cuộc sống của Người, kể từ lúc sinh ra cho tới giây phút chết trên thập giá là để minh chứng điều đó; vì lẽ đó chỉ duy nhất mình Người có quyền công bố “hôm nay đã ứng nghiệm”. ‘Thiên Chúa yêu thương’ quả là một sứ điệp có sức ‘trả tự do’ cho hết thảy mọi người, không trừ một ai, sống trong bất kỳ hoàn cảnh hay địa vị nào; và hết thảy mọi người đều cần thứ Tin Mừng này. Có nhiều khi ‘bị áp bức’ lồ lộ và quái ác, nhưng cũng có những lúc nó âm ỉ và day dứt… Tựu chung, ta không ngừng ‘bị áp bức’ bởi nỗi lo sợ không còn được ai yêu thương mình, vì những bất toàn hay lỗi lầm mình đã phạm; mỗi người chúng ta đều có quá nhiều kinh nghiệm về điều này, trải đài trong suốt cuộc sống. Lo sợ tới từ những người lẽ ra tôi phải cảm nhận được cảm thông và tha thứ nhiều nhất, từ cha mẹ, người thân, chồng vợ hay bạn bè… các tu sĩ cùng dòng, các linh mục đồng liêu v.v… Do đó nỗi lo sợ cứ chồng chất và dai dẳng đeo bám không nguôi.
Thời I-sai-a, cứ mỗi 50 năm thì người Do Thái có một năm toàn xá: nợ nần được tha, chênh lệch xã hội được xóa bỏ, tội nhân tù đày được giảm án hay phóng thích; vì vậy mà, trong thần khí Chúa (tức là sức mạnh của Đức Chúa), vị ngôn sứ “công bố một năm hồng ân”. Còn Đức Giê-su, khi lên tiếng công bố cùng một lời loan báo đó, đã hàm ý ‘năm hồng ân’ chính là bản thân Người: ‘năm’ đây không có niên hạn nhất định, nhưng là bao lâu Người – Chú Rể còn sống, còn hiện hữu trên trần thế và trong nơi vĩnh hằng. Các Ki-tô hữu luôn miệng tuyên xưng Người đã sống lại và hằng sống, có nghĩa là ‘năm hồng ân’ này sẽ là bất tận… vì ‘Thiên Chúa yêu thương’ sẽ mãi mãi xóa bỏ mọi nợ nần và tù tội trong ơn cứu chuộc của Đức Ki-tô Giê-su.
Còn một điều này nữa; Luca ghi nhận phản ứng của các đồng hương Na-da-rét “tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người”; nhưng thử hỏi sự tán thành này có ý nghĩa gì, khi chỉ ít phút sau đó ‘mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ’, rồi rắp tâm tiêu diệt Người? Ki-tô hữu cũng giáp mặt cùng một nguy cơ đó, họ biết về ‘Thiên Chúa yêu thương và nhân ái’ và rất thường nói tới, nhưng rồi đầu óc lô-gích lại dễ dàng ép họ quay trở về với mối hãi sợ bị Thiên Chúa công thẳng luận phạt. Họ quên rằng: làm lu mờ niềm tin vào một Thiên Chúa yêu thương tha thứ chính là phản bội hay tiêu diệt Đức Ki-tô đã hiến mình trên Thập Giá. Làm như thế, họ cũng chẳng khác gì các đồng hương Na-da-rét của Đức Giê-su là mấy, họ cũng rắp tâm chối bỏ việc để cho ‘Lời Kinh Thánh được ứng nghiệm’, ít là nơi bản thân mình.
Lạy Chúa, xin cho con biết nhảy mừng vì lời Chúa công bố ‘hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh’. Như Mẹ Ma-ri-a, con xin tin vững vàng và nhảy mừng luôn mãi ‘vì Người đã đoái thương phận hèn’ của con. Xin cho con luôn mãi xác tín rằng: “Chúa yêu thương và tha thứ” vì đó chính là bản tính vĩnh cửu của Người. Xin cho đời sống con, và cả nhân loại nữa, không ngừng trở nên ‘năm hồng ân’ bất tận của lòng Chúa xót thương. Cũng xin cho phép con được san sẻ niềm vui cứu rỗi này cho nhiều người khác, những người còn chưa nhận biết lòng thương xót vô biên của Chúa. A-men.
.
Lm. Antôn
Ông bà anh chị em thân mến. Thiên Chúa tạo dựng nên loài người chúng ta giống hình ảnh của Ngài. Vì yêu thương và muốn con người chúng ta sống trong ân sủng, vì vậy, Thiên Chúa không muốn con người lầm lẫn trong tối tăm, tội lỗi của trần thế, nhưng Ngài đã ban cho loài người chúng ta Kinh Thánh, Lời của Ngài, để hướng dẫn cuộc sống, cũng như giúp chúng ta biết phương cách để giải quyết, nhất là giải thoát chúng ta ra khỏi những vấn nạn, khó khăn hay sự giam hãm trong cuộc sống. Điều quan trọng là chúng ta có thành tâm lắng nghe và can đảm sống Lời Chúa dạy hay không. Các Bài Đọc Lời Chúa hôm nay kêu gọi mọi người chúng ta tin và áp dụng Kinh Thánh, Lời Chúa vào trong cuộc đời, để Lời Chúa giúp chúng ta sống vững mạnh trong đức tin, biết sống yêu thương hiệp nhất và tự do trong ân sủng của Chúa.
Bài Đọc I cho chúng ta biết tư tế thư ký Ét-ras đọc và giải nghĩa Lời Chúa, sau đó dạy dân chúng những giáo huấn của Thiên Chúa. Và chúng ta nhận ra một điểm quan trọng là dân chúng chú ý lắng nghe Lời Chúa, và Lời Chúa đã đánh động vào tâm tư của họ một cách mạnh mẽ và sâu sắc, vì vậy, họ có những cử chỉ diễn tả sự tác động của Lời Chúa vào trong tâm hồn của họ. Dân chúng cảm thấy buồn sầu, bởi vì họ nhận thấy họ đã không sống, không đi đúng với Lời Chúa dạy. Họ thành tâm hứa từ bỏ, cố gắng sống Lời Chúa một cách chân thành hơn, và bắt đầu một cuộc sống mới theo Lời Chúa dạy. Vì vậy, tư tế Ét-ras cho họ biết “Ngày hôm nay được thánh hoá dâng cho Chúa là Thiên Chúa” và Lời Chúa sẽ mang lại cho họ sự vui mừng và hy vọng.
Trong bài đọc 2, chúng ta thấy thánh Phaolô nhắc nhở và kêu gọi mọi Ki-tô hữu phải hiệp nhất yêu thương, liên kết với nhau, giúp đỡ nhau và hy sinh phục vụ để xây dựng cộng đoàn, và sống trong ân sủng của Chúa Giê-su Ki-tô, vì tất cả cùng chịu chung một Phép rửa, nhận cùng một Thánh Thần và tin thờ cùng một Thiên Chúa. Ngài đã đưa ra một ví dụ về những chi thể liên kết trong thân thể con người, giúp chúng ta ý thức và để chúng ta áp dụng vào cuộc sống Ki-tô hữu, và để bảo trì sự hiệp nhất, thực thi đức bác ái, và cùng nhau xây dựng Nhiệm Thể của Chúa Giê-su Kitô một cách tốt đẹp và hoàn hảo hơn.
Trong bài Tin mừng của thánh Lu-ca hôm nay, chúng ta nghe Chúa Giêsu dùng lời ngôn sứ Isaiah, để nói cho chúng ta biết Ngài chính là sự ứng nghiệm của những lời tiên tri nói từ ngàn xưa. Và Chúa Giê-su muốn nhấn mạnh cho chúng ta biết, ngày hôm nay mang niềm vui của Chúa, và như chúng ta vừa nghe trong bài đọc 1, là “ngày thánh, dâng cho Chúa”, vì chính Ngài sẽ mang sứ mạng “rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng.”
Ông bà anh chị em thân mến. Hôm nay thật sự là “ngày thánh, ngày hồng ân” của mọi người chúng ta hiện diện trong thánh đường này, vì chính tai chúng ta vừa được nghe Lời Chúa khẳng định chính Chúa Giê-su đã được Chúa Cha sai mang Tin Mừng, sự giải thoát và chữa lành đến cho chúng ta. Nhưng muốn đón nhận hồng ân Chúa, thì chúng ta phải có 2 điều kiện cần thiết và quan trọng sau đây. Thứ nhất là chúng ta phải “cá nhân hóa” Lời Chúa. Có nghĩa là, chúng ta phải đón nhận Kinh Thánh, Lời Chúa nói với chính chúng ta ngay ở đây, bây giờ và hôm nay, như Chúa nói: “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe.” Tuy Kinh Thánh đã được viết ra cách đây hơn 2 ngàn năm, nhưng chúng ta phải luôn luôn nghĩ rằng Kinh Thánh nói với chúng ta hôm nay. Chúng ta phải nghĩ rằng Chúa đang nói với chính chúng ta bây giờ, ngày hôm nay, chứ không phải nói ngày hôm qua và với người khác. Nếu chúng ta không cá nhân hóa Kinh Thánh thì sẽ như chúng ta đọc những chuyện cổ tích, những chuyện xưa, không liên hệ gì với chúng ta, và chẳng có ích gì cho chúng ta. Chúng ta phải cá nhân hóa Kinh Thánh thì khi chúng ta đọc Kinh Thánh, chúng ta mới có thể tiếp nhận được ánh sáng ban ân sủng, sự giải thoát và chữa lành và sự sống.
Điều kiện quan trọng và cần thiết thứ hai là chúng ta phải “nội tâm hóa” Kinh Thánh. Có nghĩa là Chúa muốn nói với chúng ta không phải là những chuyện bên ngoài, mà là những suy nghĩ, những tâm tư trong chiều sâu tâm hồn của chúng ta. Lời Chúa nói phải là cội nguồn của những sự cảm hóa, tốt lành, thánh thiện và ân sủng của chúng ta. Chúa Giê-su nói “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng.” Nội tâm hóa Lời Chúa nói trên đây có nghĩa là Lời Chúa nói có ý nghĩa gì với chúng ta hôm nay? Nếu chúng ta không nội tâm hóa Lời Chúa thì chúng ta nghĩ Lời Chúa không có nghĩa gì với chúng ta, bởi vì chúng ta có cần đến Chúa và Lời Chúa đâu! Chúng ta có tội gì đâu! Chúng ta có mù đâu! Chúng ta có bị tù hay áp bức đâu! Nhưng nếu chúng ta thành tâm suy nghĩ: Chúng ta có thực sự khao khát, thành tâm lắng nghe và can đảm sống Lời Chúa dạy không? Chúng ta có bị những đam mê, ích kỷ, lười biếng, tham lam, gian dối, nghiện ngập, kiêu căng, tự cao, những tật xấu làm cho chúng ta trở thành mù lòa, bị tù hay bị áp bức không? Hay chúng ta có sống yêu thương, liên kết, hiệp nhất và hy sinh phục vụ cũng như sống công bằng, bác ái và quảng đại để xây dựng giáo xứ, Thân Thể Chúa Ki-tô không? Chỉ khi chúng ta nội tâm hóa Lời Chúa thì chúng ta mới nhận ra được sự mù lòa, sự tù hãm, áp bức và tội lỗi của chúng ta.
Ông bà anh chị em thân mến. Khi chúng ta cá nhân hóa và nội tâm hóa Kinh Thánh và Lời Chúa nói với chúng ta ngay bây giờ và ngay ngày hôm nay, thì ngày hôm nay mới là “ngày thánh, ngày hồng ân, ngày vui mừng và hy vọng.” Và chúng ta mới tiếp nhận được ân sủng thánh hóa, ơn giải thoát, ơn chữa lành, cũng như sự bình an và sự sống do Kinh Thánh, Lời Chúa mang đến cho chúng ta. Xin Lời Chúa đánh động đến tâm hồn, và ứng nghiệm trong cuộc sống cá nhân mỗi người chúng ta HÔM NAY.
.
Lm. Jos. DĐH
Xã hội thời nào cũng có những thiên tài xuất hiện : nói hay, làm giỏi, mang lại sự phồn vinh cho dân tộc, đất nước, dân gian vẫn gọi là thời thế tạo anh hùng. Sống trong bầu khí gia đình, các bậc cha mẹ đều ý thức : con cái chính là hoa trái của tình yêu, và hạnh phúc bền vững luôn là sự trù phú làm nên trái ngon quả ngọt. Mơ ước con cháu nên người hữu ích, các cha mẹ thường chăm sóc, đầu tư. Điều kiện để nghe, để nhìn và thấy người tài đức cống hiến phục vụ, nhất định không phải do tình cờ may mắn, nhưng là sự thao thức của trí lòng muốn được toàn thiện, được hạnh phúc.
Đức Giêsu xuất hiện tại hội đường hôm nay là người hùng không phải do thời thế, mà nhờ tác động của Thánh Thần. Đức Giêsu không chỉ nói hay làm giỏi, Ngài đến để ban phát muôn ơn của Thiên Chúa. Bằng tình yêu của Thánh Thần, Ngài vẫn đang biến đổi nhiều tâm hồn trở nên xứng đáng với ơn cứu độ của Thiên Chúa. Danh tiếng Đức Giêsu lan tràn khắp nơi không phải do Ngài đánh đông dẹp tây, ban bố bổng lộc chức tước. Đức Giêsu giảng dạy trong các hội đường và được mọi người ca tụng, vì trong tâm tư họ vui mừng khi mắt thấy tai nghe về hồng ân cứu độ được ban.
Sứ mạng ban phát muôn ơn nơi Đức Giêsu là kết hiệp cầu nguyện, là nhờ Chúa Thánh Thần soi dẫn, để Ngài biết sống thánh ý Chúa Cha. Đám đông ở hội đường nghe, hiểu, và tâm hồn họ vui sướng hân hoan, cũng là nhờ bởi Thánh Thần hoạt động để tất cả nên một trong tình yêu với Đấng được Thiên Chúa thông ban cho muôn dân. Đức Giêsu trực tiếp ban muôn ơn cho các thính giả tại hội đường, Ngài cũng sẽ ban ơn cho những người ở ngoài hội đường, người được trước người được sau, nhưng đều chung nguồn ơn từ Thiên Chúa ban tặng.
Đến hội đường để cầu nguyện, nhiều người Do-thái vẫn thường đến, và họ cũng từng thấy được ý nghĩa của việc cầu nguyện. Đọc sách ở hội đường, nhiều vị hữu trách tại hội đường vẫn đọc và các thính giả cũng từng nghe. Tại hội đường Nagiarét hôm đó, Đức Giêsu đọc đoạn sách tiên tri Isaia, âm vang của niềm vui đã chạm tới tâm hồn những người ở hội đường. Đặc biệt hơn là từ xa xưa đến giờ, chỉ Đức Giêsu là đủ ơn ban, đủ tư cách để công bố : “hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe”.
Kinh nghiệm của người xưa dạy rằng : không nên nói tất cả những gì mình biết, nhưng bao giờ cũng phải biết những gì mình nói. Đức Giêsu ý thức sứ mạng của Ngài tại trần gian, và trong tất cả mọi hoạt động, Đức Giêsu luôn cho thấy vị trí của Thánh Thần có ở trong Ngài. “Thánh Thần Chúa ngự trong tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao gảng Tin Mừng cho người nghèo khó…”. Trong ca dao có câu : chim khôn kêu tiếng rảnh rang, người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe. Dân gian vẫn quan niệm như vậy : xem mặt đặt tên, nhìn mặt bắt hình dong, con lợn có béo thì lòng mới ngon.
Đám đông ở hội đường năm xưa, họ quan tâm đến Đức Giêsu nói hay, nói giỏi, Ngài làm nhiều việc kỳ lạ mà các kinh sư khác không nói, không làm được như vậy. Trong khi Đức Giêsu đang giới thiệu một niềm tin duy nhất : nói, nghe, hiểu, là nhờ tác động của Thánh Thần, và như thế, mọi người mới sống đúng tinh thần của Tin Mừng. Ngày hôm nay nhiều người đã nghĩ ra được : ta chỉ có một cái miệng để nói, nhưng có hai cái tai để nghe. Trong ý tưởng đó, hẳn mỗi người chúng ta nên nghe nhiều, học hỏi nhiều, để rồi ta sẽ nói và nói thật chính xác về niềm tin, về tình yêu mà ta đang có.
Tục ngữ có câu : trông gà hóa quốc, hoặc trăm nghe không bằng một thấy. Nhìn cho có nhìn, nghe cho có nghe, nhìn không chính xác, nghe mà không hiểu, hoặc hiểu sai thì mức độ trầm trọng nguy hiểm khỏi phải nói rồi, ai có thể lường hết được ? Lời Đức Giêsu đã chia sẻ, Thánh Kinh chúng ta vẫn đọc vẫn nghe, không thể nói, không thể nghe như một “quán tính” cho xong lần. Đọc, nghe, hiểu và sống giáo huấn của Chúa Giêsu phải được đặt niềm tin vào trong đó, phải đặt tình yêu trong Thánh Thần, 33 năm của Đức Giêsu tại trần thế Ngài đã sống tương quan duy nhất đó.
Tình yêu Chúa, ơn ban của Thiên Chúa được Chúa Giêsu lập lại trong hội đường hôm nay : Thánh Thần Chúa ngự trên tôi,…”. Niềm tin đó, ơn ban đó, luôn là sứ mạng tông đồ của người Kitô hữu chúng ta. Đức Giêsu chính là Đấng ban phát muôn ơn của Thiên Chúa, ở hội đường xưa kia họ đã nghe, và chúng ta hôm cũng nghe, nhưng rất cần phải có tình yêu của Thánh Thần để từng tâm hồn được niềm vui trọn vẹn. Giáo huấn của Chúa, ơn ban của Chúa sẽ không mất đi, không uổng phí, khi tình yêu của Ngài thực sự vững chắc trong cuộc đời của mỗi chúng ta.
Thánh Thần đã xức dầu cho Đức Giêsu, sai Đức Giêsu đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được thấy. Và mỗi chúng ta đều phải có trách nhiệm công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng của Thiên Chúa cho anh chị em mình. Mỗi chúng ta hãy ý thức mình là người nghèo ơn Chúa, nghèo tình yêu của Chúa, qua đó mỗi lần cầu nguyện, mỗi lần đọc và nghe Lời Chúa, chúng ta biết đặt tin tưởng tuyệt đối hơn vào tình yêu Thánh Thần. Amen.
.
P.Trần Đình Phan Tiến
Vâng, thưa quý vị, khởi đầu sứ vụ thiên sai, tức cuộc đời rao giảng công khai của Chúa Giêsu tại Nazaret, được loan báo trước từ ngàn xưa. Chính Chúa Giêsu xác định điều ấy. Người nói sau khi đã đọc đoan Thánh Kinh trong hội đường : “ Hôm nay đã ứng nghiện lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”. ( c 21).
Vâng, Sứ Vụ Thiên Sai chỉ có duy nhất nơi Đức Kitô, vì Kitô là Đấng được xức dầu tấn phong. Từ thời Isaia đã loan báo Đấng Cứu Độ muôn dân, là Đấng được xức dầu tấn phong. Tiên Tri Isaia là vị tiên tri loan báo nhiều nhất về Đấng Cứu Thế. Vì vậy, tất cả những ai được tháp nhập vào Đức Kitô đều được nhận lãnh tước hiệu là Kitô hữu, là người được tiếp nhận sự xức dầu tấn phong bởi chính một Đấng Kitô duy nhất. Nhưng, theo lời thánh Phao-lô nói : “ Có nhiều thứ ân sủng, nhưng chỉ có một Thánh Thần.” .
Bài đọc II hôm nay ( 1Cr 12, 12-30) cũng nói về ý nghĩa trên.
Nhưng, sứ vụ thiên sai thừa tác được dành cho một số người đáp lại cách đặc biệt sứ vụ Kitô, tức Đấng được xức dầu tấn phong để đi rao giảng Tin Mừng. Nhưng, rõ ràng Tin Mừng được rao giảng cho ai ?! Nếu như không phải là đối tượng Tin Mừng. Vậy đối tượng Tin Mừng là ai ? Há chẳng phải là người nghèo hèn, tù tội, mù đuôi, bị áp bức :
“ Thần Khí Chúa ngự trên tôi,
vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi,
để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.
Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha,
cho người mù biết họ được sáng mắt,
trả lại tự do cho người bị áp bức,
công bố một năm hồng ân của Chúa” ( c 18 -19 )
Nhưng, những “ đối tượng của Tin Mừng” nói trên được hiểu theo nghĩa Tin Mừng, chứ không hiểu theo nghĩa đen.
Theo đó, tất cả những ai được kêu gọi ” bước theo ” Đức Kitô là Đấng Thiên sai duy nhất, thì họ cũng trở nên là Đấng Thiên Sai thừa tác để tiếp nối sứ mạng của Đức Kitô. Mặc nhiên, có những người được trực tiếp rao giảng trên tòa giảng, đó là hàng giáo sĩ. Còn những người rao giảng bằng những phương tiện truyền thông, truyền hình. Và , còn lại đa số là những người rao giảng bằng đời sống.
Theo đó, sứ vụ thiên sai thừa tác và sứ vụ thiên sai cộng đồng đều phải được tháp nhập vào Đức Kitô. Ngoài ra , đều là giả hiệu.
Trở lại Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy, khởi đầu sứ vụ rao giảng của Người, Đức Kitô trở về Nazaret, nơi Người sinh trưởng, tức quê hương của Người. Đức Kitô đã xuất hiện ở giữa họ, nhưng, đáng tiếc họ không tiếp nhận Người.
Đọc đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta mặc lấy thái độ nào?
Chúng ta mang sứ vụ thiên sai của Đức Kitô, nhưng chúng ta có mang lấy tâm tình thiên sai của Người không? Chúng ta rao giảng vì chúng ta hay vì Đức Kitô và Nước Trời ?
Năm Hồng Ân là năm gì? Năm Thánh, hay những năm Thánh, như năm nay” Năm Lòng Chúa Thương Xót”. Năm hồng ân của Chúa là mỗi năm trong chương trình cứu độ của Người từ ngày Đấng Cứu Thế đến. Chúng ta thấy, các Đức Giáo hoàng luôn kế tiếp mở ra những “Năm Thánh”, năm “Hồng Ân” của Chúa.
Như vậy, nếu mù, điếc, câm, què, bị tù tội, áp bức, có nghĩa là thân thể con người bị thế lực satan ràng buộc, nhưng nếu không có ơn cứu độ giải thoát, làm sao chúng ta được cứu?! Theo đó, Tin Mừng là Lời Chúa, sẽ cứu chữa những bệnh tật phần hồn của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu , Ngôi Lời đã đến thế gian, hầu giải thoát con người khỏi thế lực thần dữ là satan. Xin cho con người biết mở lòng ra để đón nhận ơn cứu độ, là lắng nghe và thực thi Lời Chúa, hầu đón nhận ơn giải thoát và bình an. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con./. Amen.
.
GÓP PHẦN THI HÀNH SỨ VỤ THIÊN SAI
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
(1) Thưa ngài Thê-ô-phi-lô đáng kính, có nhiều người đã ra công biên soạn tường thuật những điều đã được thực hiện giữa chúng ta. (2) Họ viết theo những điều mà các người đã được chứng kiến ngay từ đầu và đã phục vụ Lời Chúa truyền lại cho chúng ta. (3) Tôi cũng vậy, sau khi đã cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự, thì thiết tưởng cũng nên tuần tự viết ra để kính tặng ngài. (4) Mong ngài sẽ nhận thức được rằng: giáo huấn ngài đã học hỏi thật là vững chắc. (4,14) Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giê-su trở về miền Galilê, và tiếng tăm Người đồn ra khắp vùng lân cận. (15) Người giảng dạy trong các hội đường của họ, và được mọi người tôn vinh. (16) Rồi Đức Giê-su đến Nadarét, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày Sabát, và đứng lên đọc Sách thánh. (17) Họ trao cho Người cuốn sách Ngôn sứ I-sai-a. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng: (18) “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan Tin mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, (19) công bố một năm hồng ân của Chúa. (20) Đức Giê-su cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. (21) Người bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”.
Tin Mừng hôm nay gồm có bài tựa mở đầu sách Tin Mừng thứ ba, nêu ra lý do khiến Lu-ca viết Tin Mừng dựa vào truyền thống và có tính khoa học, và việc Đức Giê-su khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng với một chương trình hành động cụ thể, đã được ngôn sứ I-sai-a tuyên sấm trước đó khá lâu.
-C 1-2: +Ngài Thê-ô-phi-lô đáng kính: Thê-ô-phi-lô là một người giàu có và đáng kính thời bấy giờ. Ong này đã được tác giả Lu-ca gửi tặng cuốn Tin Mừng để nhờ ông làm người bảo trợ cho việc sao chép ra nhiều cuốn sách trên các tấm da thuộc, hầu có thể phổ biến đi nhiều nơi.
-C 3-4: +Cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự: Vì Lu-ca không thuộc Nhóm 12 Tông đồ theo Đức Giê-su ngay từ đầu, nên ông phải tra cứu đầu mối căn nguyên về cuộc đời và Tin Mừng của Người rồi viết lại. +Tuần tự viết ra: Ông viết Tin mừng theo thứ tự văn chương và các đề tài giảng huấn, chứ không theo đúng thứ tự thời gian trước sau.
-C 14-15: +Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy: Đức Giê-su được Thần Khí dẫn vào hoang địa để ăn chay và chịu ma quỷ thử thách. Giờ đây Thần Khí lại thúc đẩy Người trở về Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng. +Người giảng dạy trong các hội đường của họ: Hội đường là nơi người Do thái đến hội họp, cầu nguyện và nghe giảng Kinh thánh vào các ngày Sa-bát. Ở mỗi làng khắp xứ Pa-lét-tin cũng như tại những nơi có người Do thái cư ngụ đều có hội đường.
-C 17b-19: +Người mở ra, gặp đoạn chép rằng: Chữ gặp ở đây cho thấy Đức Giê-su đã không chọn hay sửa soạn trước, nhưng mở ra đã gặp ngay một đoạn sách phù hợp cho thấy có sự can thiệp của Thiên Chúa,. +Thần Khí Chúa ngự trên tôi…: Đoạn văn được trích dẫn trong sách I-sai-a (x. Is 61,1-2) nói về việc xức dầu tấn phong của một ngôn sứ (x. 1 V 19,16). Nhưng Đức Giê-su đã ứng dụng vào sứ mệnh của Người : Người mới được lãnh nhận Thần Khí khi chịu phép rửa của Gio-an, và coi đó là nguồn gốc phát sinh các hoạt động cứu độ của Người. +Công bố một năm hồng ân của Chúa: Năm Hồng Ân hay năm Toàn Xá của Thiên Chúa. Theo Luật Mô-sê, cứ năm mươi năm lại cử hành một lần (x Lv 25,10-13). Năm Toàn Xá là hình thức mở rộng của Năm Sa-bát được cử hành cứ bảy năm một lần (Đnl 15: 1-11). Năm này tiêu biểu lý tưởng công bình xã hội một cách thiết thực cụ thể. Đây là tin mừng giải thoát cho những người nghèo, những kẻ cô thân cố thế bị chèn ép áp bức, dưới bất kỳ hình thức nào, đến nỗi phải mất nhà cửa đất đai, trở nên nghèo khổ và đem thân làm nô lệ cho những kẻ giàu có quyền thế. Đó cũng là năm mời gọi hết mọi người hãy ăn năn sám hối, vì đã góp phần vào sự bất công hay đã nhắm mắt làm ngơ trước những đau khổ của đồng loại.
-C 20-21: +Hôm nay: Chữ này xuất hiện nhiều lần trong Tin Mừng Lu-ca, để nhấn mạnh tính cách hiện tại của ơn cứu độ. Chẳng hạn: “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em” (Lc 2,11) ; “Con là Con của Cha. Ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Lc 3,22) ; “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4,21) ; “Hôm nay tôi phải ở lại nhà ông” (Lc 19,5b) ; “Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này” (Lc 19,9) ; “Hôm nay gà chưa kịp gáy, thì ba lần anh đã chối không biết Thầy” (Lc 22,34.61) ; “Hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng” (Lc 23,43).
1) Lu-ca đã viết lời tựa sách Tin Mừng gửi cho ông Thê-ô-phi-lô nhằm mục đích gì ? 2) Lu-ca không thuộc Nhóm 12 Tông đồ. Vậy ông đã làm gì để có thể viết về cuộc đời và lời rao giảng của Đức Giê-su cách chính xác được ? 3) Hội đường Do thái là gì và dùng để làm gì ? 4) Câu trích trong sách ngôn sứ I-sai-a được Đức Giê-su đọc tại hội đường Na-da-rét đã ứng nghiệm vào sứ mệnh cứu thế của Người như thế nào ? 5) Bạn hãy kể ra 5 câu Kinh thánh có chữ “hôm nay” trong Tin mừng Lu-ca.
II. SỐNG LỜI CHÚA
1) NÊN THÂN NHÂN CỦA CHÚA NHỜ SỐNG GIỚI RĂN YÊU THƯƠNG CỦA NGƯỜI:
DAN CLACK kể lại một câu chuyện như sau: Vào một buổi tối trời tuyết lạnh, một bé trai khoảng sáu, bảy tuổi đang đứng tần ngần nhìn vào gian hàng trưng bày quần áo trước một cửa hàng sang trọng. Em đi chân đất, khoác trên người bộ quần áo cũ kỹ tơi tả, trông như một mảnh giẻ rách. Một bà sang trọng đi ngang qua trông thấy và đọc được ước muốn trong đôi mắt của em. Bà liền đến cầm tay em dẫn vào tiệm và mua cho em một đôi giầy mới và bộ quần áo ấm.
Sau đó, khi cả hai bước ra ngoài phố, người đàn bà tốt bụng liền nói với cậu bé :
– Chúc cháu vui vẻ và một đêm ngủ ngon.
Cậu bé trố mắt nhìn người vừa cho quà và hỏi :
– Thưa bà, bà có phải là Chúa không ?
Bà cúi xuống mỉm cười vỗ nhẹ vào vai cậu và trả lời :
– Con ơi, không phải đâu, ta chỉ là một trong những đứa con của Chúa thôi !
Cậu bé như khám phá được điều gì mới lạ :
– Cháu đã sớm biết ngay là bà có họ hàng với Chúa mà.
Câu nói của cậu bé trong câu chuyện trên cho thấy: Chính lối sống yêu thương vị tha là dấu chỉ giúp tha nhân nhận biết chúng ta là môn đệ thực sự của Chúa Giêsu (x. Ga 13,35), và việc thực hành yêu thương cũng làm cho chúng ta trở nên con cái trong đại gia đình của Chúa như Người đã nói: ”Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 6,21). Quả thật, người phụ nữ trong câu chuyện trên đã thực hành lời dạy quảng đại yêu thương của Chúa: ”Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em bằng cái đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc 6,38). Vậy mỗi người chúng ta trong những ngày này sẽ làm gì cụ thể giúp đỡ tha nhân để nên con cái Thiên Chúa và nên môn đệ thực sự của Đức Giêsu?
2) CHÚA NÓI VỚI CHÚNG TA BẰNG NHỮNG CÁCH NÀO?
Cách đây khá lâu, một vở kịch mang tựa đề là “Hoàng Gia đi săn mặt trời” kể lại cuộc chinh phục của người Tây ban nha đối với dân da đỏ ở Pê-ru. Trong đó có một màn kịch kể lại câu chuyện về một người Tây ban nha đã tặng cho viên tù trưởng của bộ lạc da đỏ một cuốn Thánh Kinh và nói với viên tù trưởng rằng : “Đây là Lời Chúa. Ngài nói với chúng ta trong cuốn sách này”. Viên tù trưởng cầm lấy cuốn Thánh Kinh, xem xét thật kỹ và sau đó áp cuốn sách vào một bên tai nghe ngóng. Nhưng dù đã cố gắng hết sức mà ông ta cũng chẳng nghe thấy có tiếng nói nào phát ra từ cuốn sách. Cử chỉ ngây thơ của viên tù trưởng khiến những người Tây ban nha có mặt cười ồ lên. Viên tù trưởng nghĩ mình bị mấy người ngoại quốc kia chơi khăm, liền nổi giận và ném mạnh cuốn Kinh Thánh xuống mặt bàn trước mặt !
1) Đức Giê-su công bố Tin Mừng về sứ vụ Thiên Sai:
Sau một thời gian đi rao giảng Tin mừng và làm phép lạ khắp miền Ga-li-lê, danh tiếng Đức Giêsu đã lan truyền khắp nơi, Người trở về thăm quê hương Na-da-rét. Vào ngày sa-bat, Người đến hội đường cầu nguyện theo thông lệ, viên trưởng hội đường đưa cho Người cuốn sách ngôn sứ I-sai-a. Người mở trúng ngay đọan nói về sứ vụ của Đấng Thiên Sai như sau: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan tin mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,18-19). Sau đó gấp sách lại, Người ngồi xuống và tuyên bố: ”Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4,18-19).
2) Hội Thánh có bổn phận tiếp tục thi hành sứ vụ Thiên Sai:
Trong Tin Mừng Luca, từ “Hôm nay” xuất hiện tại một số đoạn: Trong ngày Giáng Sinh, chúng ta đã nghe các thiên thần loan báo “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra” (Lc 2,11). Khi Chúa Giêsu đến nhà ông Giakêu, Người nói với ông “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này” (Lc 19,9). Chúa Giêsu cũng hứa với kẻ trộm cướp bị đóng đinh bên phải rằng “Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23,43). Ý nghĩa của từ “Hôm nay” mà Chúa Giêsu công bố không những là “hôm nay” khi Người còn đang sống, mà còn là “hôm nay”, khi Người tiếp tục sứ vụ Thiên Sai trong và nhờ Hội Thánh là các tín hữu chúng ta.
3) Thi hành sứ vụ Thiên Sai hôm nay là đem Tin Mừng cho người nghèo hèn:
Là loan báo cho những kẻ đang bị giam trong lao tù ngục thất được tha hay đang bị giam hãm trong thói ích kỷ tham lam biết họ được Chúa đến cứu thoát.
Là góp phần chữa lành những kẻ đang bị mù tối thể xác được nhìn thấy, hoặc đang lầm lạc được thoát vòng u mê tối tăm.
Là khai mở một năm Toàn Xá ban Hồng Ân cứu độ.
Mỗi Kitô hữu có sứ vụ tiếp nối công việc của Chúa Giêsu bằng cách chia sẻ niềm vui và ánh sáng, nâng đỡ người đau khổ cả về thể xác cũng như tinh thần, an ủi những người cô thế cô thân, xoa dịu các vết thương, loại trừ những sự sợ hãi, giải thoát những người đang bị áp bức… Mỗi tín hữu chúng ta cần trung thành thi hành sứ vụ đã được Đức Kitô trao phó, là góp phần làm cho sấm ngôn của ngôn sứ Isaia sớm trở thành hiện thực, công bố năm hồng ân của Chúa và Nước Trời an lành hạnh phúc sớm được thực hiện trong cuộc sống xã hội Việt Nam hôm nay.
4) Làm tông đồ là sống bác ái để làm chứng cho Chúa:
Là ki-tô hữu, chúng ta phải trở thành cánh tay nối dài của Đức Giê-su. Mỗi người chúng ta đều được Chúa mời gọi cộng tác để làm bùng lên ngọn lửa tin yêu mà Người đem xuống trần gian, bằng việc thực thi giới luật yêu thương từ trong gia đình ra đến khu xóm, giáo xứ và ngòai xã hội. Đó chính là đường nên thánh, là chìa khoá mở cửa thiên đàng cho mọi người chúng ta.
Đức Gio-an Phao-lô II đã nói: “Người thời nay thích nghe những chứng nhân hơn là thầy dạy, và nếu họ có nghe những thầy dạy thì đó là vì những thầy dạy này đồng thời cũng là những chứng nhân”. Thực vậy, lời giảng suông thường khó thuyết phục người khác cho bằng gương sáng, như người ta thường nói: ”Trăm nghe không bằng một thấy”. Lời giảng mà thiếu gương sáng sẽ trở thành vô ích và có khi còn phản tác dụng: làm cho người ta ghét đạo Chúa hơn. Các tín hữu cần thực hành theo lời khuyên trong lễ phong chức linh mục như sau: “Con hãy tin điều con đọc, dạy điều con tin và thi hành điều con dạy”. Cần áp dụng lời Chúa trong cách suy nghĩ, cách ứng xử giữa đời thường.
Mỗi người chúng ta cần sống hiệp nhất yêu thương nhau noi gương các tín hữu thời Hội Thánh sơ khai như sách Công Vụ Tông Đồ đã thuật lại như sau: “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn sống hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng…Tất cả đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được tòan dân thương mến. Và Chúa cho cộng đòan mỗi ngày có thêm những người được cứu độ” (Cv 2,42-47).
-LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin cho chúng con nhận ra Thánh Thần Chúa vẫn đang ngự giữa thế giới và trong lòng mọi người. Thế giới hôm nay tuy còn nhiều tội lỗi, nhưng vẫn chan hòa ánh sáng tin yêu nơi các gia đình tín hữu, trong các xóm đạo, nơi các cộng đoàn quyết tâm học sống Lời Chúa. Ngày nay người ta đã biết ngồi lại với nhau để giải quyết các tranh chấp và tìm kiếm hòa bình; Các tổ chức quốc tế thường hợp tác với nhau để chống lại sự kỳ thị chủng tộc, mầu da, tôn giáo, phái tính, bệnh tật; Các cơ quan đoàn thể đã biết hợp tác để chống tham nhũng và các tệ nạn xã hội khác… Xin cho các tín hữu chúng con cũng biết hợp tác với tha nhân để góp phần làm cho ngôi nhà chung của nhân lọai là trái đất ngày một an toàn tốt đẹp hơn.
-LẠY CHÚA. Xin cho chúng con cũng được đầy Thánh Thần để sẵn sàng đi bước trước đến với tha nhân : nở nụ cười thân thiện với một người chưa quen, dấn thân phục vụ dân nghèo ở những vùng sâu vùng xa… Xin cho mọi người không còn bị đau khổ, không còn nước mắt và thù hận, nhưng chỉ còn tình thương thể hiện qua thái độ biết quan tâm chia sẻ và phục vụ cho nhau.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.
Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.
AM. Trần Bình An
Thánh Philip Neri, biệt danh là “Tông đồ thành Rôma” là một trong những khuôn mặt vĩ đại đã đóng góp vào việc cải tổ Giáo Hội thời bây giờ. Ngài đã ảnh hưởng dân chúng bằng chính đời sống của mình. Ngài không viết một quyển sách, cũng không đưa ra một lý thuyết thần học nào, hoặc một đường hướng tinh thần nào. Neri sinh ở Florence năm 1515. Gia đình ngài sống chật vật nên đã gởi ngài đến ở với người bà con buôn bán giàu có. Trong thời gian này, Neri thường đến một hang đá gần nhà đã biến thành nhà nguyện, mà đọc kinh cầu nguyện. Trong lúc cầu nguyện Neri được soi sáng nên quyết định rời bỏ việc buôn bán mà tận hiến đời sống mình lên Thiên Chúa.
Sau khi từ giã người bà con, Neri đi lên Rôma vào năm 1533 và sinh sống bằng cách dạy kèm cho mấy đứa con của một người đồng hương. Neri theo học triết và thần học cho đến lúc Neri nhận thấy việc học đã cản trở việc kinh nguyện, nên Neri liền bỏ việc học mà sống như một vị ẩn tu. Ðêm đêm, Neri thường ra ngoài đường phố, lắm lúc đi vào trong nhà thờ, nhưng thường xuyên là đến hầm mộ của thánh Sebastiano mà cầu nguyện.
Thánh Philip Neri lúc 29 tuổi, nhận được một quà lớn lao của Chúa Thánh Thần. Khi ngài sốt sắng cầu nguyện xin Chúa Thánh Thần hãy ban cho ngài những ơn đặc sủng của Chúa, thì một có một trái cầu bằng lửa rớt vào miệng ngài và nằm trong ngực ngài. Lúc ấy, ngài ngạc nhiên vì nhận được lửa tình yêu của Chúa Thánh Thần. Vì không thể chịu được sức nóng của tình yêu Thiên Chúa, nên ngài phải ném mình xuống mặt đất để làm cho thân xác được mát mẻ hơn. Trong khi đó nơi lồng ngực ngài thì có lửa tình yêu thiêng liêng bốc cháy. Ngài phải nằm yên trong một hồi lâu để được phục hồị. Sau đó ngài ngồi dậy với tràn đầy niềm vui. Trái tim ngài sưng to lên như có một cái bướu lớn bằng nắm tay của một người lớn. Nhưng sau đó ngài không còn đau đớn nữa, trong suốt 50 năm của cuộc đời. Ngài cương quyết từ bỏ tất cả để đi theo Chúa. Giúp việc tại bệnh viện của những người bệnh gần chết và ngài bắt đầu rao giảng cho mọi người về Thiên Chúa, từ người ăn xin ngoài đường cho đến những chủ nhà băng.
Năm 1548 Neri thành lập một hội đoàn, cầu nguyện giúp đỡ những người hành hương đến Roma, thiếu thốn lương thực và nơi trú ngụ. Vi linh hướng của cộng đoàn khuyến khích Neri làm linh mục, thì sẽ giúp ích được nhiều hơn. Sau khi đã theo học đầy đủ, Neri được lãnh nhận chức linh mục vào năm 1551.
Tại trú sở mới, nhà thờ San Girolamo, ngài yêu mến phép giải tội. Những người trẻ tìm thấy nơi Neri những lời khuyên giải khôn ngoan và giúp cho đời sống thiêng liêng lớn mạnh. Neri cảm thấy những ngưòi trẻ này không chỉ cần tha tội, nhưng cần được hướng dẫn trong đời sống thường nhật nữa, nên Neri mời gọi họ đến nhà thờ mỗi buổi chiều, để đọc và học hỏi Kinh Thánh và cùng nhau cầu nguyện. Số người đến tham dự càng ngày càng gia tăng, nên ngài cùng Cha Buonsignore Cacciaguerra chính thức thành lập một Hội đoàn cầu nguyện để hướng dẫn họ. Năm 1575, Hội đoàn này được Đức Giáo Hoàng Gregory XIII thừa nhận và những qui luật của Hội đoàn phản ảnh tính phóng khoáng của thánh nhân. Thánh Philip Neri đã làm nhiều phép lạ, trong dịp lễ Hiện Xuống năm 1544, Neri đã xuất thần và cảm thấy tim mình tràn đầy tình yêu của Thiên Chúa. Sau đó khi dâng Thánh Lễ thì mặt ngài sáng rực một cách lạ lùng. Vào ngày 25 tháng 5 năm 1595, như thường lệ, Thánh Neri ngồi tòa giải tội và tiếp những người đến thăm viếng. Trước khi đi về nghỉ ngài nói: “Cuối cùng rồi chúng ta cũng phải chết.” Và đêm đó ngài về với Chúa. ( Kim Hà, 7 Vị Thánh Tràn Đầy Ơn Chúa Thánh Thần. MeMaria.org )
Tin Mừng Chúa Nhật 3 TN hôm nay, thánh sử Luca thuật lại Đức Giêsu về Nazareth, vào hội đường ngày Sabat, đọc sách ngôn sứ Isaia: “Thần Khí Chúa ở trên tôi, bởi Người đã xức dầu cho tôi, Người đã sai tôi đem Tin Mừng cho người nghèo khó, ban bố ân xá cho kẻ tù đầy, cho người đui mù được thấy, cho kẻ áp bức được giải oan; loan báo năm hồng ân của Chúa.” Với tràn đầy Thần Khí Thiên Chúa, thánh Philip Neri đã bước theo bước chân Đức Giêsu, chu toàn cả ba sứ vụ: tư tế, ngôn sứ và vương giả. Đây cũng chính là ơn gọi và sứ mạng của người Kitô hữu trong Giáo Hội và trong thế giới.
Tư tế
“Thần Khí Chúa ở trên tôi,”Qua Bí Tích Thanh Tẩy, Thần Khí Chúa thánh hoá người lãnh nhận, trở nên con cái Thiên Chúa, chi thể của Đức Giêsu. “Bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Ðức Kitô, đều mặc lấy Ðức Kitô.” ( Gl 3, 27 ) Người Kitô hữu bất cứ ở đâu, hay bất cứ thân phận nào được xức dầu trong Thần Khí đều trở nên đền thờ thiêng liêng, hiệp nhất với Đức Giêsu và Hội Thánh. Như thánh Phaolô đã mạnh mẽ minh xác với tín hữu Côrinhtô: “Vì trong Thần Khí độc nhất, hết thảy ta được thanh tẩy mà nhập vào Thân Mình độc nhất, dù là Do thái hay Hy lạp, dù là nô lệ hay tự do, và hết thảy ta đã được cùng uống Thần Khí độc nhất.( 1Cr 12, 13 bản dịch của Lm Nguyễn Thế Thuấn, DCCT )
Nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, người Kitô hữu được tham dự vào chức năng tư tế của Ðức Kitô, theo cách thức riêng của mình, trở nên đền thờ Thiên Chúa, chiếu tỏa sự thánh thiện và thánh hiến con người cho Thiên Chúa Cha. “Thực vậy, mọi hành động, kinh nguyện và công việc tông đồ, đời sống hôn nhân và gia đình, công ăn việc làm hàng ngày, việc nghỉ ngơi thể xác và tinh thần, nếu họ chu toàn trong Thánh Thần, và cả đến những thử thách của cuộc sống, nếu họ kiên trì đón nhận, thì tất cả đều trở nên của lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa, nhờ Chúa Giêsu Kitô.” ( Hiến Chế Lumen Gentium, 34, đ 2 )
Chức năng tư tế của tín hữu là hiệp dâng lên Thiên Chúa tất cả bổn phận, lẫn trách nhiệm theo ơn gọi, noi gương cuộc đời Ðức Giêsu hiến dâng, phục vụ cho Thiên Chúa và con người. Hằng ngày, người Kitô hữu tiến dâng lên Chúa những thành quả, lẫn thất bại, niềm vui lẫn nỗi buồn, âu lo và hy vọng, để biết ơn, cảm tạ, ngợi khen, cũng như để được an ủi, cứu giúp.
Ngôn sứ
“(Thánh Thần Chúa,) sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó.” Người Kitô hữu còn có chức năng ngôn sứ, đem Tin Mừng đến mọi người, nhất là người nghèo hèn, đau khổ, bệnh tật, qua chính cuộc sống bản thân, qua chứng tá đức tin, qua lời nói chân thành và việc làm bác ái, tương thân, tương ái với tha nhân.
Nhân Năm Thánh Lòng Thương Xót, từng Kitô hữu có thể tự kiểm điểm vai trò ngôn sứ của mình qua kinh Thương Người Có Mười Bốn Mối. Thương Xác Bảy Mối thì tương đối dễ dàng thực hành, còn Thương Linh Hồn Bảy Mối thì người tín hữu Kitô đã chu toàn hay đã bỏ quên, chỉ vì lối sống vị kỷ mackeno, chẳng muốn dây dưa với tha nhân, khỏi phiền luỵ. Nếu thế, đến ngày cánh chung, Chúa cũng sẽ ngoảnh mặt làm ngơ, không biết chúng ta là ai, mà cho vào hưởng Nước Chúa.
“Gia đình Kitô giáo lớn tiếng loan truyền sức mạnh của Nước Thiên Chúa và niềm cậy trông vào một đời sống hạnh phúc. Như thế, bằng gương lành và chứng tá, gia đình Kitô giáo làm cho thế gian nhận biết tội lỗi mình, đồng thời sáng soi những kẻ đang kiếm tìm chân lý.” ( Hiến Chế Lumen Gentium 35, đ. 3 )
Vương giả
“Ban bố ân xá cho kẻ tù đầy, cho người đui mù được thấy, cho kẻ áp bức được giải oan; loan báo năm hồng ân của Chúa.” Hơn nữa, nhờ thuộc về Đức Giêsu người Kitô hữu còn dược vinh dự thông phần vào chức năng vương giả của Người. Đem ánh sáng Tin Mừng giải thoát tha nhân khỏi ngục tù tội lỗi chế ngự, khai sáng những kẻ mù loà, hoa mắt trong thế giới vật chất phù phiếm hấp dẫn, đem sự thật, công lý và tình thương đến những kẻ bị sự dữ khai trừ, đàn áp, bị bỏ rơi. Như thế, người Kitô hữu được mời gọi phục vụ, xây dựng và phát triển Nước Chúa ngay tại thế.
Nhưng trước hết, người Kitô hữu phải chiến đấu với chính mình, tỉnh thức vượt qua các chước cám dỗ hằng ngày, cũng như luôn ăn năn sám hối tội lỗi đã vấp phạm. Nhờ Chúa Thánh Thần soi sáng và ban sức mạnh, canh tân, đổi mới, người Kitô hữu mới có thể phục vụ Đức Giêsu đang hiện hữu trong mọi người. Như thánh Phaolô chân thành khuyên nhủ tín hữu Roma: “Anh em là những người sống đã từ cõi chết trở về, anh em hãy hiến toàn thân cho Thiên Chúa, và dùng chi thể của anh em như khí cụ, để làm điều công chính, phục vụ Thiên Chúa.” ( Rm 6, 13 )
Nếu con bảo “giáo dân có ơn đặc sủng của Chúa Thánh Thần” có người sẽ cho rằng con nhạo báng họ! Nếu con bảo “giáo dân là tư tế, tiên tri, vương giả”, có người sẽ cho con là thệ phản! Có mấy giáo dân ý thức họ được Chúa gọi? Chúa cần họ? Hãnh diện và tri ân vì được làm con Chúa nhờ phép Thánh Tẩy? Làm chiến sĩ, chứng nhân cho phép Thêm Sức? ( Đường Hy Vọng, số 333 )
Lạy Chúa Thánh Thần xin thương xót, giúp chúng con noi gương Đức Giêsu, chu toàn ba chức năng Tư Tế, Ngôn sứ và Vương Giả với người thân thuộc đến Giáo xứ, Cộng đoàn và tất cả tha nhân.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ soi sáng chúng con ý thức rằng, nhờ Đức Giêsu Kitô nhập thể làm người, chúng con luôn được vinh hưởng Lòng Thương Xót, trở nên đồng hình, đồng dạng Con Chúa, cũng như biến thành chi thể của Người. Xin Mẹ luôn nhắc nhủ chúng con chân thành tri ân, cảm tạ, ca tụng và ngợi khen Thiên Chúa chí nhân chí ái muôn đời. Amen.
.
“CÔNG BỐ NĂM HỒNG ÂN CỦA CHÚA”
Lm. Giuse Trực
Sau khi giới thiệu dung mạo Lòng Thương Xót của Chúa Cha được thể hiện qua Đức Giêsu Kitô, Đức Thánh Cha nói đến nguyên lý của cuộc đời chúng ta: “Lúc này lúc khác chúng ta được mời gọi để dán mắt nhìn chăm chú hơn lòng thương xót để chúng ta có thể trở thành một dấu chỉ thuyết phục hơn cho tác động của Chúa Cha trong cuộc sống chúng ta”(MV. 3). Đó là lý do để Đức Thánh Cha “Tuyên bố một Năm Thánh Ngoại Thường về Lòng Thương Xót như một thời gian đặc biệt cho giáo Hội; một thời gian trong đó chứng tá của các tín hữu có thể phát triển mạnh mẽ và hiệu quả hơn”.
Lời Chúa hôm nay cũng dẫn chúng ta đến việc “Công bố một năm hồng ân của Chúa”.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
Sau khi dân đã an cư trong Đất Hứa, ông Etra long trọng đọc Lề Luật của Đức Chúa cho dân nghe. Đây được xem là ngày khai sinh đạo Do Thái, vì từ nay đời sống tôn giáo của họ sẽ dựa vào lề luật mà ông Etra vừa tuyên đọc.
Khi nghe ông Etra đọc sách luật của Đức Chúa, toàn dân đã khóc lóc vì họ thấy mình đã không tuân giữ lề luật. Nhưng ông Etra đã khuyên họ: “Hôm nay là ngày thánh hiến cho Đức Chúa, anh em đừng sầu thương khóc lóc”, nhưng: “Anh em hãy về ăn thịt béo, uống rượu ngon, và gửi phần cho những người không sẵn của ăn, vì hôm nay là ngày thánh hiến cho Chúa chúng ta. Anh em đừng buồn bã, vì niềm vui của Đức Chúa là thành trì bảo vệ anh em”.
Ông Etra đã khai mạc thời kỳ hồng ân dành cho dân của Chúa.
Đoạn Tin mừng hôm nay được Luca trình bày như bản tóm lược chương trình hành động của Đức Giêsu.
Mọi hoạt động của Đức Giêsu đều “được quyền năng Thần Khí thúc đẩy”. Điều đó cho chúng ta thấy dung mạo thánh thiện của Thiên Chúa Cha qua con người Đức Giêsu. Ngài luôn hướng về những giá trị linh thánh, và được sự linh thánh thúc đẩy.
Thánh sử Luca trình bày bước chân không mỏi mệt của Đức Giêsu. Bước chân đó hôm nay rảo bước “đến Nadaret là nơi Người được dưỡng dục. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sabat, và đứng lên đọc Sách Thánh”. Ngài làm những quan tâm đến việc linh thánh, mà còn thường xuyên làm những việc linh thánh đó. Việc Ngài đến hội đường và đọc Sách Thánh chính là minh chứng cho một đời sống thánh thiện của Ngài.
Đoạn sách tiên tri Isaia mà Đức Giêsu đọc lên trong ngày hôm nay chính là lời tiên tri cho sứ mạng của Ngài: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố năm hồng ân của Chúa”.
Lời tiên báo đó được Đức Giêsu chính thức công bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”.
Ba từ ngữ mang âm thanh vang dội của Thánh Thần trong công bố này là “người nghèo” ; “được tha” ; và “năm hồng ân”.
Nói ngắn gọn lại, hôm nay Đức Giêsu đã tuyên bố chính Ngài sẽ công khai thực thi lòng thương xót của Cha. Chính Ngài đã công bố năm hồng ân của Chúa.
II. NĂM HỒNG ÂN
Đối tượng của Năm Hồng Ân mà Đức Giêsu công bố chính là “người nghèo”.
“Người nghèo” trong thời cựu ước là người nghèo về vật chất: những người thiếu nợ, những người làm nô lệ…
“Người nghèo” thời Chúa Giêsu là “kẻ bị giam cầm, người mù, người bị áp bức”… Những hạng người thấp kém, bị lãng quên hoặc loại trừ trong cuộc sống.
“Người nghèo” của thời đại hôm nay theo cái nhìn của Đức Thánh Cha Phanxicô là những người thiếu thốn về vật chất; là những người làm nô lệ cho những đam mê bất chính; là những người co cụm trong chính mình, không biết vươn đến người khác; là những người bị cướp mất nhân phẩm, bị hành hạ, đánh đập, bị đối xử không giống một con người.
Sứ điệp của Năm Hồng Ân mà Đức Giêsu công bố là sự giải phóng, “được tha”.
Như vậy, đất đai sẽ được trả về cho chủ của nó. Nô lệ sẽ được giải phóng. Người mù sẽ được sáng mắt. Kẻ tật nguyền sẽ được chữa khỏi. Kẻ tội lỗi sẽ được tha thứ…
Tất cả những điều này đã được thực hiện trong thời của Đức Giêsu. Ngài chính là dung mạo thương xót của Chúa Cha. “Các dấu chỉ Ngài thực hiên, đặc biệt trước những kẻ tội lỗi, người nghèo, người bị gạt ra ngoài lề, người bệnh, và những người đau khổ, tất cả đều nhằm giảng dạy về lòng thương xót” (MV.8).
Đức Giêsu đã nói: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”. Và Ngài đã thực hiện chương trình hành động đó, để qua cuộc sống của Ngài đem đến đến ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại. Vì vậy, thời kỳ của Ngài là thời kỳ ân phúc do biết thực thi Lòng Thương Xót của Chúa Cha.
Đức Thánh Cha đã tuyên bố khai mở Năm Thánh này cũng với mục đích để con người chúng ta hướng đến Lòng Thương Xót của Chúa, và mời gọi mỗi người chúng ta thực thi Lòng Thương Xót đó.
Nghĩa là Ngài muốn chúng ta chiêm ngắm, học học, và bắt chước dung mạo thương xót của Chúa Cha nơi Đức Giêsu Kitô.
III. THỰC THI LÒNG THƯƠNG XÓT
Ngài là Đấng luôn để Thánh Thần hướng dẫn và làm theo những hướng dẫn của Thánh Thần. Một cuộc sống luôn hướng đến những giá trị linh thánh.
Ngài thực thi Lòng Thương Xót của Chúa Cha bằng tình yêu thương chân thành dành cho mọi người, nhất là những kẻ bé mọn và tội lỗi.
Ngài sẵn sàng hiến trao thân mình để thực hiện hoạch định Lòng Thương Xót.
“Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh thánh”. Hôm nay Năm Hồng Ân, thời kỳ ân phúc, Năm Thánh Lòng Thương Xót sẽ được thực hiện nơi cuộc đời của mỗi chúng ta:
Lạy Chúa, con mọn hèn, nhưng Chúa vẫn yêu thương và thực thi Lòng Thương Xót của Ngài trên cuộc đời con. Hơn thế nữa, Chúa còn ưu ái mời gọi con thực thi Lòng Thương Xót của Chúa bằng chính cuộc đời của con. Xin ban cho con ơn can đảm để từ bỏ tất cả dấn bước theo Ngài trong cuộc sống hằng ngày. Amen.
.
Huệ Minh
Galilê là một vùng đất phía Bắc xứ Palestine, rộng chừng 80km từ Bắc xuống Nam và 40km từ Đông sang Tây. Galilê có nghĩa là vòng tròn, phát xuất từ chữ Galil trong tiếng Do Thái. Người ta gọi thế bởi vì vùng đất ấy được vây bọc bởi các nước ngoại bang.
Vì vậy mà Galilê luôn bị các thứ ảnh hưởng thâm nhập và đã trở thành phần đất tân tiến, ít bảo thủ. Đó là một vùng đông dân cư nhất của xứ Do Thái. Sử gia Josephus, người đã có lần làm thống đốc tại vùng này cho biết rằng miền đó có 204 làng hoặc thành, làng nào cũng có số dân không dưới 15.000.
Không ai có thể tin được Galilê chứa được đến 3 triệu dân.
Thật ra, đó là vùng đất phì nhiêu lạ thường.
Một tục ngữ đã phản ánh điều này: “nuôi một vạn cây ôliu ở Galilê còn dễ hơn nuôi một đứa con ở xứ Giuđê”. Khí hậu rất tốt và nước uống dư dật khiến Galilê trở thành một vườn cây của xứ Palestine.
Danh mục các loại cây mọc ở đó chứng tỏ đất rất tốt: cây nho, ôliu, vả, giẻ, hồ đào, thông, cọ, bá hương, trắc, dầu thơm, thông các loại, sung, dương, sim, anh đào, thạch lựu, chanh, trúc đào… Chính người Galilê là những người vùng cao của xứ Palestine. Josephus nói về những người Galilê rằng: “họ chuộng sự mới mẻ, bản tính họ thích đổi thay, và chỉ thích nổi loạn.
Nếu có lãnh tụ nào đứng ra khởi xướng một cuộc nổi dậy là họ sẵn sàng theo ngay. Họ dễ nóng giận và ưa tranh cãi”. Người ta thường nói: “Người Galilê không bao giờ thiếu can đảm”, “người Galilê mê tìm danh tiếng hơn là tìm lợi lộc”.
Chúa Giêsu đã khởi đầu sứ vụ loan báo Tin Mừng của mình ở một nơi như vậy, một hoàn cảnh kinh tế và địa lý như vậy.
Thật ra, đó là đất của Ngài sinh trưởng. Nơi mảnh đất này, một số thính giả biết đón nhận và say sưa với sứ điệp của Ngài.
Và rồi, một trong những nơi thăm viếng đầu tiên của Chúa Giêsu là Nagiarét, quê nhà của Ngài. Nagiarét không phải là một làng, nó được gọi là một polis, nghĩa là một thành hay một thị trấn, và có thể có tới 20.000 dân.
Nagiarét toạ lạc trong một vùng đất của sườn đồi núi Galilê gần cánh đồng Gitrien. Chỉ cần leo lên đỉnh đồi vượt cao trên mặt thành là có thể thấy toàn cảnh bao la hàng dặm chung quanh đó. George Adm Simth diễn tả phong cảnh từ trên đỉnh đồi như sau: Lịch sử của dân Israel mở ra trước mắt chúng ta.
Kia là cánh đồng Esdraelon, nơi Đêhôra và Barac đã chiến đấu, nơi Ghêđêon đã thắng trận vẻ vang, nơi Saulê đã thảm bại và chính nơi này Giôsia đã bị giết trong chiến trận.
Kìa là vườn nho của Nabôt, chỗ Giêhu giết Giêsabên, kìa nữa là đất Sunem, nơi ngôn sứ Elia đã sống, kìa là núi Cácmen, nơi Êlia đã đánh trận oanh liệt với các tiên tri Baan, và xanh xanh ở đằng xa là Đia Trung Hải và các hải đảo! Nhưng không phải chỉ có lịch sử Israel ở đó mà lịch sử thế giới cũng mở ra trên đỉnh đồi Nagiarét.
Có ba đường lớn vây quanh Nagiarét. Có con đường từ phía Nam đưa các khách hành hương lên Giêrusalem. Có con đường lớn dọc bờ biển để đưa những đoàn thương gia chở nặng hàng hoá từ Ai Cập lên tới Đamas.
Và có con đường lớn đi về Phương Đông, cho những đoàn doanh thương từ Ai Cập đến, và cũng có những đoàn quân viễn chinh Rôma tiến về các biên giới miền Đông của đế quốc. Thật sai lầm nếu nghĩ rằng Chúa Giêsu lớn lên tại một nơi hẻo lánh; Ngài lớn lên trong một thành có tầm cỡ lịch sử và có các trục lộ giao thông của thế giới chạy qua ngay trước ngõ.
Qua những trang Thánh Kinh, ta thấy Chúa Giêsu có thói quen vào hội đường vào ngày Sabat. Tại đó hẳn có nhiều điều Ngài hoàn toàn không đồng ý và làm Ngài cảm thấy khó chịu, nhưng Ngài đã đến đó. Việc thờ phượng tại nhà hội có thể có nhiều thiếu sót, nhưng Chúa Giêsu không bao giờ bỏ qua hiệp thông với dân Chúa bằng thờ phượng trong Ngày của Chúa.
Hội đường là trung tâm đời sống tôn giáo ở xứ Palestine. Trong nước chỉ có một Đền Thờ, nhưng luật quy định rằng hễ ở đâu có mười gia đình Do Thái thì ở đấy phải có một hội đường, và như thế ở trong mỗi thành, mỗi làng, dân chúng nhóm họp thờ phượng trong hội đường. Không có tế lễ trong hội đường. Đền Thờ mới là nơi để dâng của lễ, hội đường chỉ để giảng dạy.
Trang Tin Mừng hôm nay đề cao vai trò của Chúa Thánh Thần trong sứ vụ của Chúa Giê-su. Nhất cử nhất động, Chúa Giê-su đều làm mọi việc dưới ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần, làm theo tinh thần của Thiên Chúa chứ không phải theo tinh thần của loài người. Khi chịu phép rửa của ông Gio-an, Chúa Giê-su đã được “Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng như chim bồ câu” (Lu-ca 3, 22).
Tiếp đến, “Chúa Giê-su được đầy Thánh Thần… và được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu ma quỷ cám dỗ” (4,1,2). Sau đó, “được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Chúa Giê-su trở về Ga-li-lê” (4,14).
Cả cuộc đời rao giảng Tin Mừng, ta thấy liên tục “ứng nghiệm lời Kinh Thánh” trong suốt quá trình thực hiện sứ vụ của Ngài.
Nhìn lại cuộc đời Chúa Giêsu, ta thấy biết bao nhiêu bệnh nhân đã được chữa khỏi (kẻ mù được trông thấy, kẻ què được đi, kẻ câm nói được, kẻ điếc nghe được, thậm chí cả những kẻ đã chết được sống lại).
Rồi biết bao con người khó nghèo, tù đày trong cảnh lầm than, hoạn nạn được giải thoát. Và khắp nơi đang nổi lên bầu khí hân hoan như mừng đón năm hồng ân đại xá đã tới. Tất cả đã minh chứng những lời tiên tri của ngôn sứ Isaia đang được thực hiện và được thực hiện nhờ Người, do Người. Cho nên không lạ khi thấy “Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người.” (Lc 4, 24).
Thật sự, không có ai tìm được thánh ý Thiên Chúa nếu không được Ơn Chúa Thánh Thần soi sáng. Chẳng ai có thể thực hành Lời Chúa nếu không được Ơn Chúa Thánh Thần nâng đỡ. Như một phản hồi hai chiều. Càng được Ơn Chúa Thánh Thần ta càng say mê Kinh Thánh. Càng say mê Kinh Thánh ta lại càng để Chúa Thánh Thần hướng dẫn cuộc đời. Cuộc đời sống theo Ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn sẽ hoàn toàn ứng nghiệm ý định của Thiên Chúa cho bản thân và cho tha nhân. Đó chính là cuộc đời đạt được mục đích cao quý nhất.
Ta hãy để lòng mình lắng đọng trong tĩnh lặng để tìm thánh ý Chúa trong Kinh Thánh chắc chắn ta sẽ được ơn Chúa soi sáng cho biết đường đi. Nhất là hãy quyết tâm thực hành Lời Chúa mà ta đã đọc. Ta sẽ được tràn đầy Ơn Chúa Thánh Thần. Thật vậy, chẳng ai có thể say mê Kinh Thánh nếu không được Ơn Chúa Thánh Thần lôi cuốn.
.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
Suy Niệm
Khi đã khá có tiếng tăm ở vùng Galilê,
Ðức Giêsu trở về Nadarét, nơi Ngài sinh trưởng.
Làm sao Ngài quên được mảnh đất làng quê đã ấp ủ mình,
nơi có bà con họ hàng, láng giềng, bè bạn.
Hơn nữa Ngài cũng không cắt đứt với tôn giáo của cha ông.
Ngài vẫn là một người Do Thái ngoan đạo,
quen lui tới hội đường cùng với dân làng vào ngày sa-bát,
để thờ phượng Thiên Chúa mà Ngài âu yếm gọi là Cha.
Chúng ta cần chiêm ngắm Ðức Giêsu đứng đọc Sách Thánh.
rồi ngồi xuống giải thích Lời Chúa cho mọi người.
Cử chỉ của Ngài thật trang trọng, đỉnh đạc,
khi nhận sách, mở sách, cũng như khi cuộn sách để trả lại.
Có một bầu khí cầu nguyện sâu lắng ở hội đường.
Mọi người đều chăm chú nghe lời Ngài giảng.
Ðoạn sách Ngài đọc hôm ấy là của ngôn sứ Isaia.
Isaia đã nói lên ơn gọi và sứ mạng của mình.
Ông được xức dầu để trở thành ngôn sứ
cho những người Do Thái mới thoát khỏi cảnh lưu đày.
Ông được sai đi để loan báo thời cùng khốn đã chấm dứt
và công bố khai mở một thời kỳ đầy ân sủng và tự do.
Ðức Giêsu đã bị đánh động bởi đoạn sách này.
Ngài thấy nó phản ánh chính ơn gọi và sứ mạng của mình.
Ðây là một hướng đi mà Ngài phải theo đuổi,
một chương trình hành động mà Ngài muốn hoàn thành.
Ðức Giêsu là người đầy tràn Thánh Thần cách đặc biệt.
Thánh Thần chi phối toàn bộ lời nói, việc làm của Ngài.
Ngài được sai đi đem Tin Mừng cho người nghèo,
nghèo tiền bạc, nghèo sức khỏe, nghèo tiếng nói.
Ngài được sai đến với những kẻ bị giam cầm
bởi nỗi lo sợ, bởi thành kiến, bởi ích kỷ tham lam.
Ngài cho người mù được sáng mắt và thấy trong niềm tin.
Ngài trả lại tự do cho cả người bị áp bức
lẫn người gây áp bức bóc lột.
Ngài mời gọi cả hai sống thanh thoát như Ngài,
sống như con của Cha và anh em của nhau.
Ngài khai mạc một Năm Thánh, Năm Hồng Ân cứu độ.
“Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.”
Chúng ta phải có thể nói một câu tương tự như Ðức Giêsu.
Có nhiều đoạn Lời Chúa chẳng được ứng nghiệm bao giờ
vì thiếu sự cộng tác của bản thân tôi.
Con người hôm nay khao khát niềm vui, ánh sáng, tự do,
nhưng ít người chịu tin vào Ðức Kitô
chỉ vì đời tôi đầy sầu muộn, bóng tối và nô lệ.
Thậm chí có khi tôi lại là kẻ áp bức anh em,
kẻ bịt mắt và giam hãm tha nhân trong ngục tù.
Lời ngôn sứ Isaia đã được ứng nghiệm trong đời Ðức Giêsu.
Ước gì Lời Chúa cũng được ứng nghiệm trong đời tôi,
để ngày hôm nay của Chúa được kéo dài đến tận thế.
Ðại Năm Thánh 2000 đã kết thúc,
nhưng kết thúc là để tôi bắt đầu sống quảng đại
một thiên niên kỷ mới chan chứa hồng ân.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Thánh Thần,
Xin cho chúng con nhận ra sự hiện diện của Ngài
giữa lòng thế giới,
trong lòng mọi người.
Thế giới hôm nay còn nhiều điểm tối,
nhưng vẫn có những đóm sáng rực rỡ:
khi con người ngồi lại gần nhau
để giải quyết tranh chấp, tìm kiếm hòa bình;
khi cả thế giới lo chung một mối lo:
bảo vệ trái đất, ngăn chận sida,
tận diệt ma tuý;
khi có những người nghèo
quan tâm đến những người nghèo hơn;
khi trẻ thơ và người già được chăm sóc;
khi hàng rào ngăn cách các nước được tháo gỡ;
khi không còn nạn kỳ thị chủng tộc, tôn giáo, màu da;
khi những tiến bộ của khoa học kỹ thuật
làm cho con người sống hạnh phúc;
khi mọi người nhận ra mình là anh em của nhau,
liên đới với nhau và chịu trách nhiệm về nhau,
sống trên cùng một hành tinh,
dưới mái nhà bầu trời.
Lạy Chúa Thánh Thần,
xin cho chúng con thấy Ngài
nơi nụ cười người ta trao cho nhau trên đường phố,
nơi những hy sinh vô vị lợi,
và cả nơi những thao thức của ai đó,
muốn xây dựng một thế giới huynh đệ hơn.
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn