LỄ CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA
Lời Chúa: Is 42, 1-4. 6-7; Cv 10, 34-38; Lc 3, 15-16. 21-22
—–
1. Con là Con Cha yêu dấu (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Đừng hỏi tại sao (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)
3. Trời mở ra (Lm. Thái Nguyên)
4. Vinh quang của Thiên Chúa trong Đức Giêsu khiêm hạ (Jorathe Nắng Tím)
5. Ra mắt toàn dân (Thiên San, Học viện MTG.Thủ Đức)
6. Phép rửa tội – Ơn gọi làm con Chúa (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
7. Xin cho được sống xứng đáng là con cái Chúa (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
8. Tái sinh trong Đức Kitô (Lm. Vũ Đình Tường)
9. Ta hài lòng về Con (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
10. Hồng ân tái sinh (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
11. Kitô hữu chịu cùng một phép rửa như Chúa Giêsu (Phê rô Phạm VănTrung)
12. Cửa Trời mở ra (Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
1. Đời sống mới (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng)
2. Phép rửa khiêm nhường (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. Hòa nhập với đời (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
4. Ba dạng phép rửa (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
5. Ơn gọi làm con (Lm. GB Văn Hào, SDB)
6. Đấng Thương Xót (Trầm Thiên Thu)
7. Đức Giê-su Chịu Phép Rửa (Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ)
8. Sống tước vị làm con (Lm. Nguyễn Nguyên)
9. Phép Rửa (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
10. Trời mở ra (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)
11. Chúa Nhật Chúa Chịu Phép Rửa_C (Lm. Antôn)
12. Luôn sống hiếu thảo để làm vui lòng Chúa Cha (Lm. Đan Vinh)
13. Ngày mạc khải dung nhan lòng thương xót (Lm. Giuse Trực)
14. Trở nên giống Chúa để loan báo Tin mừng cứu độ (Jos. Vinc. Ngọc Biển)
15. Chúa chịu phép rửa, xin ơn sống xứng đáng là con cái Chúa (Lm.Antôn Nguyễn Văn Độ)
16. Biết mình biết ta (Lm. Jos. DĐH, Gp. Xuân Lộc)
17. Thiên Chúa hòa mình với con người (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Từ hôm nay, chúng ta bước vào mùa Phụng vụ mới, được gọi là “Mùa thường niên” hay “Mùa quanh năm”. Trong mùa này, chúng ta không cử hành một mầu nhiệm đặc biệt nào của cuộc đời Đấng Cứu thế, mà cùng nhau chiêm ngắm Đức Giêsu ở nhiều khía cạnh, khi Người thực hành sứ vụ thiên sai, loan báo Tin Mừng Cứu độ.
Chúa nhật đầu tiên này, cũng giống như bước khởi đầu của hành trình theo Chúa nơi người tín hữu, Phụng vụ muốn giới thiệu với chúng ta về Đức Giêsu. Người là ai? Câu trả lời đến từ chính Chúa Cha: “Con là Con Cha yêu dấu, Cha hài lòng về Con“. Đây là lời Chúa Cha đến từ trời, không chỉ nhằm nói với Đức Giêsu, mà còn như một lời giới thiệu với dân chúng, để họ nhận biết Người là Đấng Thiên Sai, đồng thời mở lòng đón nhận những giáo huấn của Người. Trình thuật của thánh Luca cho chúng ta thấy đây là một cuộc “thần hiện”, tức là Thiên Chúa tỏ mình cho loài người được nhìn thấy. Ở đây, chúng ta thấy hình ảnh Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha thể hiện qua lời phán, Chúa Thánh Thần dưới hình chim bồ câu; Chúa Con là Chúa Giêsu, được chính Chúa Cha long trọng giới thiệu. Cuộc thần hiện này còn vĩ đại hơn cả việc tỏ mình cho ba đạo sĩ mà chúng ta đã long trọng cử hành Chúa nhật trước.
Đức Kitô là ai đối với chúng ta? Thưa, Người là Con Thiên Chúa, là Đấng các ngôn sứ loan báo từ ngàn xưa. Nơi Chúa Giêsu, tóm gọn tất cả những gì mà Thiên Chúa Cha muốn nói với loài người, vì Người là Ngôi Lời của Thiên Chúa đã mặc lấy xác phàm. Tuân theo giáo huấn của Chúa Giêsu, tức là đang từng bước tiến gần tới gặp gỡ Chúa Cha, vì “ai thấy Thầy là thấy Cha“, “ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thày“. Kitô hữu đích thực là người chuyên tâm lắng nghe và tuân giữ giáo huấn của Chúa Giêsu, để từng bước nên đồng hình đồng dạng với Người, ngay khi còn sống ở đời này.
Nhân vật Gioan Tẩy giả được nhấn mạnh trong Mùa Vọng, hôm nay lại xuất hiện. Trong dòng sông Giorđan, Chúa Giêsu đã lãnh nhận phép rửa bởi «vị ngôn sứ cuối cùng» này. Giữa sa mạc khô cằn, một dòng chảy là biểu tượng cho sự canh tân phục hồi. Đây cũng là biểu tượng của sự sống. Phép rửa ông Gioan và các môn đệ ông thực hiện chỉ là nghi thức sám hối. Chúa Giêsu đã hoà mình vào dòng người khiêm nhường nhận mình là những tội nhân, để được ông Gioan rửa, mặc dù Người là Thiên Chúa chí thánh, Đấng không hề biết đến tội lỗi, như thánh Phaolô đã viết: “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Ngài thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Ngài” (2 Cr 5, 21).
Giáo Hội dạy chúng ta, khi nhấn mình trong dòng nước sông Giordan, Chúa Giêsu đã lập Bí tích Thanh Tẩy, để rồi những ai được tẩy rửa trong dòng nước thánh, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, sẽ được trở nên tạo vật mới và là nghĩa tử của Thiên Chúa. Vì được dìm vào trong cái chết của Chúa Giêsu, chúng ta được mai táng với Người. “Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6, 4). Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa hôm nay nhắc cho chúng ta vinh dự lớn lao của người tín hữu. Được rửa tội có nghĩa là lịch sử đời chúng ta được chìm đắm trong dòng chảy tình yêu của Thiên Chúa. Đức Thánh Cha Bênêđitô viết: “Sau khi lãnh nhận bí tích Thanh tẩy, đời tôi thuộc về Chúa Kitô chứ không thuộc về tôi nữa… Được Chúa tháp tùng, vâng, được Chúa đón nhận vào tình yêu của Người, tôi được thoát khỏi sợ hãi. Chúa bao bọc tôi và mang tôi đi tất cả nơi nào tôi đi. Người chính là sự sống” (Youcat, tr. 168).
Là Kitô hữu, đó là vinh dự lớn lao. Tuy vậy, đó không phải là một danh hiệu suông, nhưng gắn liền với bổn phận phải thực hành để nên giống Đức Giêsu mỗi ngày. Lời mời gọi sám hối qua ngôn sứ Isaia luôn mang tính hiện tại trong cuộc đời tín hữu chúng ta: mọi thung lũng hãy lấp cho đầy; mọi núi đồi hãy bạt cho thẳng… khi nào con người thực sự thiện chí để làm những điều này, vinh quang Thiên Chúa sẽ tỏ hiện, vương quốc an bình Chúa hứa sẽ trở thành hiện thực. Một cách cụ thể hơn, thánh Phaolô khuyên chúng ta từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống công chính đạo đức ở trần gian. Những cố gắng khổ chế sẽ giúp tâm hồn chúng ta nên thanh thản, và như thế, chúng ta sẽ được gặp Chúa ngay khi còn sống ở đời này.
“Con là Con Cha yêu dấu, Cha hài lòng về Con“. Đó là lời Chúa Cha nói với Chúa Giêsu. Ước chi đó cũng là lời Chúa Cha nói với mỗi chúng ta, ngay ngày hôm nay, và nhất là vào lúc sau hết của cuộc đời.
Lm. Jos DĐH.
Dịch bệnh co-vid đã ý thức mỗi người phải thận trọng, an toàn là trên hết, mạng sống cao quý nhất, giầu tiền lắm của cũng chào thua, nếu chẳng may bị lây nhiễm vi-rus. Tuân thủ khuyến cáo của ngành y tế, tránh tập trung đông người, mau chóng tiêm vác-xin, chấp nhận sống việc bình thường mới, không còn là chuyện ngồi đó ưu tư. Bạn đang mơ ước điều gì, muốn công danh sự nghiệp, mơ ước thoát khổ, hay khao khát trường sinh bất tử ? Cho dù lực bất tòng tâm, nhưng ai chẳng mong “đại dịch” sớm chấm dứt, dù tiền của dư thừa hay nghèo xơ xác, ta vẫn có quyền hy vọng về tương lai hạnh phúc mang tên mình. Năm xưa đám đông đã tự hỏi trong lòng: Gioan có phải là Đấng Kitô không ? Nay nhiều người đang tự hỏi: cha xứ mình có thật sự “chí công vô tư”, giữa nói và làm thế nào, ngài có toàn tâm phục vụ vì phần rỗi các linh hồn không ?
Xưa Gioan trả lời với dân chúng: “không, tôi không đáng cởi dây giày cho Ngài, phần tôi, tôi rửa anh em trong nước, Đấng đến sau tôi, sẽ rửa mọi người trong Thánh Thần”. Nếu các linh mục lên tiếng, thiết nghĩ các ngài sẽ lần lượt cho biết: tôi không dám hứa việc lớn việc nhỏ, nhưng tôi quyết một lòng với giáo hội Chúa cho đến hơi thở cuối cùng. Tại sao tiền nhân chúng ta nói: khiêm tốn bao nhiêu cũng chẳng đủ, kiêu căng một chút đã là thừa ! Niềm khao khát, chờ mong, Đấng sẽ đến của muôn dân, là thật lòng, ấy vậy mà tại sao Gioan lại không trả lời với họ, tôi đúng là một ngôn sứ. Hiện diện ở nhà thờ này, hẳn chúng ta đã từng tuyên xưng, từng nói Đấng Kitô đã đến, nhưng gặp Ngài, và có thực sự sống niềm tin Chúa đã đến, mỗi người phải tự trả lời.
Đừng hỏi y tế thế giới, tại sao chưa khống chế được “đại dịch” ? Đừng hỏi vì sao Gioan là “tiếng hô” nơi sa mạc, mà không phải là tiếng hô ở thành thị ? Đừng hỏi tại sao Đức Giêsu xếp hàng như mọi người để xin Gioan làm phép rửa, trong khi vị Tiền hô cũng mong chờ “Đấng sẽ rửa anh em trong Thánh Thần”. Chắc chắn không phải những tín hữu đạo đức đến nhà thờ hàng ngày, do họ nhiều ưu tư, có nhu cầu nhiều hơn những anh chị em khác, một tuần đi lễ một lần. Chẳng ai nói rằng, các linh mục tu sĩ, hàng tháng xưng tội vì các ngài tội lỗi hơn giáo dân. Cũng không ai nói rằng, đến sông Gio-đan xin chịu phép rửa, họ là kẻ nhẹ dạ cả tin, họ sợ đủ thứ, sợ chết … Hãy tự trả lời, tôi là ai ?
Gioan tự trả lời: “tôi rửa anh em trong nước, nhưng Đấng cao trọng hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi dây giầy cho Người”. Các nhà thần học thì cho rằng: Đức Giêsu hoà mình vào sông Gio-đan là để thánh hoá dòng nước, là để nâng phép rửa lên hàng bí tích. Đức Giêsu đến sông Gio-đan trong thân phận con người là để chu toàn lề luật, để thiên tính và nhân tính của Ngài hoàn toàn thuộc về Chúa Cha. Đức Giêsu hôm nay vẫn đang mời gọi chúng ta trả lời: bạn đến sông Gio-đan, đến nhà thờ, đến toà giải tội, là do khả năng hiểu biết của mình, hay do tác động của Thánh Thần, hầu sống thánh ý Chúa ? Người xưa có câu: ai chưa từng thiếu thốn và thất bại, sẽ khó mà hiểu thế nào là hạnh phúc. Ai không tự đến nhà thờ, không tự đến toà giải tội, khó mà trả lời, tôi tin Thiên Chúa Đấng giầu lòng xót thương.
Đừng hỏi tại sao, “sau khi chịu phép rửa xong, Người cầu nguyện, thì trời mở ra và Thánh Thần Chúa ngự xuống trên Người dưới hình chim bồ câu …”? Hãy tự trả lời, tôi có ước muốn được gọi: Con là yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha. Khi yêu đừng hỏi tại sao, nếu có khao khát hạnh phúc, đừng thụ động chờ cơ hội. Dù được phù hiệu bằng vàng, kẻ tự mãn kiêu căng, cũng không thể vì vàng mà trường thọ, một người bất xứng, xấu xa, dù được thế gian tán dương khen thưởng, trước nhan thánh Chúa, họ cũng chỉ là kẻ đáng thương. Cha ông chúng ta cũng từng chia sẻ kinh nghiệm: có đi mới đến, có học mới hay. Đi đến trường học, đi đến trường đời, đi đến sông Gio-đan, đi đến nhà thờ, hay đi đến toà giải tội, nhất định chỉ có ý nghĩa khi ta tự đi bằng đôi chân và ý chí quyết tâm của mình.
Đừng hỏi tại sao tôi thích nổi tiếng, mà không muốn bị tai tiếng. Đừng hỏi tại sao tôi ước muốn được là con ngoan phải yêu cha kính mẹ, đừng hỏi tại sao muốn là người tốt, muốn là thánh, phải bày tỏ niềm tin và sống thánh ý Chúa. Nếu không biết yêu là gì, làm sao ta có thể thẩm thấu ý nghĩa các các đấng bậc nói: chỉ cần yêu thật lòng, mối tình thứ mấy cũng là tình đầu. Đến sông Gio-đan mà không muốn dìm mình xuống dòng nước tỏ bày lòng sám hối, đến nhà thờ mà không lắng nghe, không có ý hiệp thông cầu nguyện, làm sao có thể hiểu Đấng được gọi là Con yêu dấu, cũng chính là Đấng sẽ tẩy rửa ta sạch mọi tội lỗi. Vâng, người quân tử khi nghèo, sẽ sống thật liêm khiết, lúc giầu thì chỉ ước muốn làm việc có đức. Người tin theo Chúa, hàng ngày, hàng tuần, sẽ đến nhà thờ: tập nghe, tập nói, tập sống thánh ý Chúa, và khao khát được trở nên con yêu dấu của Chúa. Amen.
Lm. Thái Nguyên
Suy niệm
Khi thấy Gioan làm phép rửa sám hối thì dân chúng thắc mắc và tự hỏi: Biết đâu ông này chẳng phải là Ðấng Mêsia mà toàn dân đang mong đợi? Gioan liền cho họ biết, ông chỉ là người làm phép rửa trong nước, còn Đấng quyền thế đến sau ông sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa. Lời giới thiệu của Gioan cho thấy thời đại cũ sắp qua đi, và thời đại mới đang tới, là thời đại của tình yêu và ân sủng.
Đức Giêsu đã đến và đã khai mạc sứ mạng rao giảng Tin Mừng trong sự hiện diện của Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Đáng lẽ đây là một biến cố trọng đại, gây choáng ngợp thiên hạ bằng quyền năng và oai phong của một Đấng Cứu Thế. Nhưng sự kiện Đức Giêsu chịu phép rửa cho ta thấy một điều lạ thường và trái ngược: Ngài là Đấng phải đến làm phép rửa mà lại xin chịu phép rửa; Ngài là Đấng ban ơn sám hối mà lại tỏ lòng sám hối; là Đấng thánh của Thiên Chúa mà lại đứng chung với hàng tội nhân; là Đấng thanh sạch vô ngần mà lại chịu dìm mình xuống dòng sông thanh tẩy. Nhưng chính trong sự tự hạ này, mà ta thấy Con Thiên Chúa đã xuống tận vũng bùn lầy của tội lỗi để cứu vớt nhân loại, đưa con người trở lại vườn địa đàng.
Ý thức mình là Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian, nên Đức Giêsu đã thể hiện trước tiên bằng thái độ liên đới với dân tộc mình: liên đới trong thân phận, trong tội lệ, trong sám hối và chờ mong ơn cứu độ. Tuy nhiên, quang cảnh Đức Giêsu chịu phép rửa cũng đã hé lộ một mầu nhiệm cao cả: Trước tiên là trời mở ra, vì từ khi Ađam- Eva phạm tội thì cửa thiên đàng đóng lại (St 3,23-24). Từ nay, nhờ Đức Giêsu, con người lại được sống thông hiệp với Thiên Chúa. Tiếp theo là Thánh Thần ngự xuống trên Ngài, cho thấy Đức Giêsu là con người mới, trong Ngài, nhân loại sẽ được tái tạo, được đổi mới. (Gl 6, 15). Lại có tiếng phán từ trời: “Con là Con của Cha…”. Chúa Giêsu chính là Con Thiên Chúa. Những ai tin và nhận phép rửa nhân danh Ngài thì được thông phần vào địa vị làm con Thiên Chúa.
Phép Rửa hôm nay chỉ là khúc dạo đầu của bản trường ca “Yêu thương”. Để rồi vì yêu thương, mà Ngài sẽ bị người đời liệt vào “Tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thế và phường tội lỗi” (Lc 7,34); bị người nhà coi là “kẻ mất trí”; bị xua đuổi ra khỏi thành; bị lên án như một tội nhân, và cuối cùng bị chết treo giữa những tên trộm cướp. Đến nỗi thánh Phaolô đã phải thốt lên: “Đấng chẳng hề biết tội là gì thì Thiên Chúa đã làm cho Người thành tội vì chúng ta”.
Đức Giêsu gọi cuộc thương khó của Người là một “phép rửa”: “Thầy còn một phép rửa phải chịu, lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất.” (Lc 12,50). Thật ra, chẳng ai muốn đau khổ nếu được chọn cách khác. Đức Giêsu cũng vậy, Ngài xin Cha cất chén đắng đau thương, nhưng Ngài muốn chọn theo ý Cha để mở ra cho nhân loại một sự sống mới. Đau khổ sẽ là một phép mầu, khi nó là một phương tiện để biểu hiện tình yêu, minh chứng tình yêu, xóa tan những chia rẽ bất hòa. Chỉ có tình yêu mới làm cho con người trở nên vĩ đại, vì Thiên Chúa là Tình Yêu. Đức Giêsu đã dùng thập giá để cứu chuộc nhân loại. Không phải thập giá cứu chuộc mà Tình Yêu cứu chuộc.
Chúng ta cũng đã lãnh nhận phép Rửa nhờ phép rửa của Đức Giêsu trên thập giá. Cũng như Đức Giêsu, chúng ta được mời gọi để mang tình yêu Thiên Chúa đến cho mọi người, nhất là những người cùng khổ, bị bỏ rơi, bị khinh miệt, bị sa ngã. Cha Zundel cũng đã nói lên rằng: “Đừng để ai trong những người anh em của chúng ta có thể phàn nàn rằng, họ chẳng gặp được lòng thương xót của Thiên Chúa nơi chúng ta“. Là môn đệ Đức Giêsu, chúng ta cần có thái độ khiêm hạ và hòa mình vào đám đông dân chúng, để chia sẻ, nâng đỡ, đem lại an vui và hy vọng cho bao mảnh đời bất hạnh. Phép Rửa đầu đời của chúng ta chỉ được được hoàn thành trong phép Rửa cuối đời nơi thập giá Chúa Giêsu, Đấng mời gọi chúng ta dám hiến mạng vì yêu như Ngài, để vinh danh Thiên Chúa và ích lợi phần rỗi cho tha nhân.
Cầu nguyện
Lạy Chúa!
Trước một thế giới bạo lực và ích kỷ,
nhiều khi chúng con cũng thất chí,
vì thấy cuộc đời bất công và vô lý,
nên khép kín và tìm chỗ cách ly.
Chúng con có vẻ như đang kết nối,
nhưng thực sự là củng cố “cái tôi”,
cho dù đang phục vụ trong Giáo hội,
nhưng lại bó hẹp trong nội bộ mà thôi.
Biết rằng đức ái ở gia đình là trước hết,
nhưng đồng thời giữa cảnh đời xã hội,
phải dấn thân cho cuộc trần đang trôi nổi,
để thay đổi theo đường lối của Tin Mừng.
Chúng con cần ra ngoài nhóm bạn thân,
để xây thêm tình bạn hữu với tha nhân,
tránh mọi hình thức phân biệt và kỳ thị,
làm nên những điều cao quí cho nhau.
Xin cho chúng con có tinh thần tham gia,
đừng chết cứng trong công việc nhà,
mà biết đi ra cộng tác với mọi người,
với tinh thần khiêm nhu và trách nhiệm,
sống tình liên đới với tất cả trái tim.
Xin cho chúng con hòa mình vào xã hội,
góp phần xây dựng một thế giới tốt hơn,
thế giới văn minh công bình và huynh đệ,
chứ không sống theo chủ nghĩa “mặc kệ”,
kẻo trở nên nô lệ cho chính mình.
Xin cho con thấy Đức Kitô đang sống,
đang hiện diện và hoạt động khắp nơi,
để con đem tâm trí mà sáng tạo cho đời,
làm đẹp mới cho bầu trời nhân loại,
để chuẩn bị cho ngày mai Chúa đến,
đem an vui và hạnh phúc vững bền. Amen.
TRONG ĐỨC GIÊSU KHIÊM HẠ
Jorathe Nắng Tím
Chúng ta vừa mừng lễ Giáng Sinh với vinh quang ngời sáng của Thiên Chúa chiếu toả trên các mục đồng và qua tiếng hát các thiên thần ở Bêlem: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời …”, và lễ Hiển Linh khi Thiên Chúa tỏ vinh quang của Ngài cho các dân tộc ngoài Do Thái, qua sự kiện các đạo sĩ từ phương xa đến bái lậy Hài Nhi Giêsu và dâng tiến Ngài các phẩm vật quý giá. Lễ Đức Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan mà Giáo Hội mừng kính hôm nay lại một lần nữa tỏ ra cho chúng ta vinh quang của Thiên Chúa như Tin Mừng kể lại: khi Đức Giêsu bước lên khỏi nước sau khi nhận phép rửa của Gioan như mọi người, thì “trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” (Lc 3,21-22).
Tin Mừng cho chúng ta biết: sau biến cố Hiển Linh, tức tỏ vinh quang Thiên Chúa cho các dân ngoại, Ngôi Lời của Thiên Chúa đã sống ẩn dật, âm thầm suốt ba mươi năm ở Nadarét bên cạnh cha mẹ Ngài là thánh Giuse và Đức Maria cho đến ngày chịu phép rửa của Gioan Tẩy Giả, Ngài mới lại xuất hiện với vinh quang của Thiên Chúa khi “trời mở ra, và có tiếng Chúa Cha nói với Ngài”.
Những vinh quang thuộc về Ngôi Lời này đã được báo trước trong Cựu Ước, điển hình là lời sấm của ngôn sứ Isaia: “Kìa Đức Chúa quang lâm hùng dũng, tay nắm trọn chủ quyền. Bên cạnh Người, này công lao lập được, trước mặt Người, đầy sự nghiệp làm nên” (Is 40,10). Thánh vịnh cũng khấp khởi tung hô Ngài: “Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, Chúa muôn trùng cao cả! Áo Ngài mặc: toàn oai phong lẫm liệt, cẩm bào Ngài khoác: muôn vạn ánh hào quang” (Tv 130, 1-2).
Và cũng như những lần tỏ vinh quang khác, vinh quang lần này khi “trời mở ra, Thánh Thần hiện xuống … và có tiếng Chúa Cha từ trời: Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” (Mc 1, 11) cũng được khép lại ngay sau đó và tiếp nối bằng ba năm dong duổi truyền giáo với bao khó khăn, vất vả, nhọc nhằn, bị khai trừ, lên án, đóng đinh …
Như thế, vinh quang của Thiên Chúa không là vinh quang của thế gian, như thế gian tưởng, không là vinh quang theo kiểu loài người thiết kế, như ý muốn của con người, nhưng trái ngược với những điều con người họach định, tính toán, ước mơ, tìm kiếm, vì vinh quang của Thiên Chúa ở trong “Con người – Thiên Chúa” khiêm hạ xóa mình, bỏ mình của Đức Giêsu, vinh quang của Thiên Chúa được thực hiện trong những chọn lựa làm người yếu đuối, đứng chung hàng ngũ phàm nhân, ở giữa dám người hèn mọn, đau yếu, tật bệnh, bị bạc đãi, bỏ rơi và tội lỗi của Đức Giêsu, bởi đó chính là lý do Ngài đã được Thiên Chúa “siêu tôn và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu”, và thần thánh, con người, muôn vật phải bái qùy khi nghe danh thánh Giêsu, cũng như “mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2,9.10.11).
Nói cách khác, vinh quang của Thiên Chúa chính là Đức Giêsu, Con Một của Thiên Chúa trong mầu nhiệm Nhập Thể khi xuống thế gian, mặc lấy thân phận con người, làm người như chúng ta, ở giữa chúng ta, chết cho chúng ta, và sống lại vì chúng ta.
Thực vậy, Đức Giêsu ở giữa chúng ta để cứu chuộc chúng ta bằng kết hợp vinh quang của Chúa Cha ở ngày “quang lâm hùng dũng, tay nắm trọn chủ quyền” với sứ vụ mục tử chăn dắt đoàn chiên của Ngài, như ngôn sứ Isaia đã tuyên sấm về Ngài: “Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình chăm sóc” (Is 40, 10.11).
Đức Giêsu cũng ở giữa chúng ta, như Chiên gánh tội, xóa tội, chuộc tội: “Vì chúng ta, Người đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện” (Tt 2,14), để ngày hồng phúc chúng ta mong đợi sẽ là ngày Ngài trở lại và chúng ta sẽ được thấy Ngài trong vinh quang của Thiên Chúa.
Mừng lễ Đức Giêsu chịu phép rửa, chúng ta nhớ lại mình đã được thực sự đi vào mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi qua bí tích thánh tẩy, và với Đức Giêsu, Mục Tử nhân hậu, Đấng Cứu Độ giàu lòng thương xót, chúng ta không chỉ được sinh lại để trở nên con cái Thiên Chúa, nghĩa là được ở trong ân tình nghĩa thiết với Ba Ngôi Thiên Chúa, mà còn được thừa kế gia sản Nước Trời mà Thiên Chúa đã dành sẵn cho những ai sống đẹp lòng Ngài, và điều làm đẹp lòng Thiên Chúa chính là tin vào Đức Giêsu, Con yêu dấu của Ngài, cũng như để “làm vinh danh Thiên Chúa hơn”, không gì bằng sống khiêm hạ, từ bỏ mình, xóa mình, hiến mình vì sự sống và hạnh phúc của mọi người như Đức Giêsu, Đấng đã luôn làm đẹp lòng Chúa Cha, làm vinh danh Thiên Chúa, Cha Ngài bằng “trút bỏ mọi vinh quang, mặc lấy thân nô lệ”, và vâng lời chịu chết trên Thánh Giá (x. Pl 2, 7-8) để ban lại sự sống đời đời cho nhân loại, như sứ vụ Mục Tử của Ngài “đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).
Thiên San
Có nhiều cuộc tỏ mình của Thiên Chúa được kể lại trong Thánh Kinh như cuộc tỏ mình của Đức Chúa cho ông Môsê nơi bụi gai rực cháy mà không bị thiêu rụi, sự tỏ mình của Con Một Thiên Chúa nơi máng cỏ Bêlem cho ba nhà chiêm tinh, hay hôm nay Đấng Cứu Thế tỏ mình cho dân Người nơi dòng sông Giođan. Thiên Chúa đến với con người và tỏ mình cách tiệm tiến. Gioan Tẩy Giả giới thiệu về Đấng đến sau ông sẽ làm phép rửa cho mọi người bằng Thánh Thần và bằng lửa. Tuy nhiên, hôm nay, tại sông Giođan, Đức Giêsu – Đấng Gioan đã báo trước lại xuất hiện cách khiêm tốn, bất ngờ và khó hiểu. Người hòa mình vào đám đông, đứng xếp hàng, bước xuống dòng sông để xin Gioan làm phép rửa. Đó là cuộc ra mắt rất đặc biệt của Con Thiên Chúa.
Gioan Tẩy Giả chỉ là người đi trước để dọn đường. Phép rửa ông thực hiện là phép rửa bằng nước, mục đích để kêu gọi mọi người sám hối đón chờ Đấng Cứu Thế. Tuy nhiên, sự xuất hiện của Đức Giêsu tại dòng sông Giođan khiến Gioan rất bàng hoàng. Có thể, ông cũng không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Người vô tội nhưng đã bước xuống dòng sông nhận phép rửa từ ông, dẫu cho sự thật là dòng sông Giođan và mọi người đều nhờ Người mà được thánh hóa. Rồi đây, chính Người sẽ thực hiện một phép rửa cả thể trên đồi Gôngôtha, trên cây thập giá để cứu muôn người. Sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa thì trời mở ra, Thánh Thần ngự xuống trên Người và có tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con yêu dấu của Cha; Cha hài lòng về con” (Lc 3, 22). Đó là lời xác nhận tuyệt hảo của Chúa Cha dành cho Đức Giêsu, Con Một yêu dấu.
Qua bí tích rửa tội, chúng ta được trở nên “con yêu dấu” của Chúa Cha. Chính Đức Giêsu đã nhập thể làm người, cùng chung chia phận người với chúng ta và chính Người đã dùng giá máu châu báu của mình mà chuộc lấy chúng ta. Thiên Chúa đã biểu lộ lòng thương xót của Người khi ban cho nhân loại Con Một yêu dấu. “Người đã cứu chúng ta, không phải vì chúng ta đã làm những việc công chính, mà là vì Người thương xót. Người cứu chúng ta nhờ phép rửa ban ơn tái sinh và đổi mới do Thánh Thần thực hiện” (Tt 2, 5). Nhờ Đức Giêsu, chúng ta được diễm phúc trở nên con cái Thiên Chúa. Trong tư cách ấy, chúng ta được mời gọi sống theo gương của Đức Giêsu để mỗi ngày trở nên “con yêu dấu” của Chúa Cha hơn. Đó là ân sủng lớn lao Thiên Chúa đã ban tặng cho chúng ta.
“Ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này (Tt 2, 12). Ngôn sứ Isaia cũng mời gọi chúng ta sửa đường để đón mừng Đức Chúa. Khi từ bỏ lối sống vô luân, đam mê trần tục, kiêu ngạo, xảo trá, những việc làm đen tối là khi chúng ta đang sống trong ân sủng của Thiên Chúa, trở nên “con yêu dấu” đúng nghĩa. Như Đức Giêsu đã hạ mình, khiêm tốn đến với Gioan để lãnh nhận phép rửa, chúng ta cũng hãy khiêm tốn, tin tưởng, ăn năn để đến với Chúa qua bí tích hòa giải; nhờ đó chúng ta kín múc những ân huệ lớn lao và lòng thương xót của Người. Và rồi chúng ta cũng sẽ được diện kiến tôn nhan vinh hiển của Chúa trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
PHÉP RỬA TỘI – ƠN GỌI LÀM CON CHÚA
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Chúng ta vừa cử hành lễ Chúa giáng sinh: “Một hài nhi đã sinh ra cho chúng ta”. Liền sau đó, Giáo Hội cử hành lễ Hiển linh, lễ Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại mà ba nhà đạo sĩ từ Phương Đông đại diện cho chúng ta cất bước lên đường tìm đến. “Họ đã gặp thấy Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người” (Mt 2,11).
Hôm nay chúng ta cử hành lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa. Tức là sau ba mươi năm sống đời ẩn dật, nay Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ công khai với phép rửa tại sông Giordan bởi tay Gioan. Như thế, từ lễ Giáng Sinh – Hiển Linh đến lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, nếu tính theo thời gian thì đúng 30 năm. Trong quãng thời gian này, chúng ta không biết nhiều về Chúa Giêsu, ngoài đời sống ẩn dật sống của Người trong gia đình, học tập và lao công, vâng phục Đức Mẹ và Thánh Giuse.
Câu hỏi lớn được đặt ra: Tại sao Chúa Giêsu là Đấng vô tội sao lại đến xin Gioan làm phép rửa?
Khi Gioan đang làm phép rửa cho dân chúng để giúp họ sám hối và cầu xin ơn tha tội. Chúa Giêsu đã hòa mình vào đám đông trong cùng dòng sông Giođan, với những con người có tội để sám hối thay cho loài người đang cần sám hối để được tha thứ.
Thánh Ghê-gô-ri-ô, giám mục Na-di-en cho biết: “Có thể là Chúa muốn thánh hoá kẻ sắp làm phép rửa cho Chúa, nhưng chắc chắn để chôn vùi trọn vẹn con người Ađam cũ trong dòng nước. Thật vậy, trước khi thanh tẩy ta và để thanh tẩy ta, Chúa thánh hoá sông Giođan; vì Người vừa là thần khí vừa là xác phàm, nên Người cũng muốn nhờ Thần Khí và nước để đưa chúng ta vào đạo”. Nên dù Gioan làm phép rửa, ông cũng chỉ là đèn đối với Mặt Trời, tiếng nói với Lời, phù rể đối với Chàng Rể, người cao trọng nhất trong số những người sinh bởi đàn bà với Trưởng Tử mọi loài thọ sinh, người nhảy mừng trong dạ mẹ với Đấng được thờ lạy ngay khi còn trong lòng mẹ, người tiền hô hiện tại và tương lai với Đấng vừa xuất hiện và sẽ xuất hiện. Quả thật, Gioan biết rằng mình sẽ được thanh tẩy bằng cuộc tử đạo. (Trích bài giảng của thánh -gô-ri-ô, giám mục Na-di-en).
Thánh Phêrô Kim Ngôn giải thích rằng, khi Gioan làm phép rửa cho Chúa Giêsu thì: “Tôi tớ đóng vai chủ, con người đóng vai Thiên Chúa, ông Gioan đóng vai Đức Kitô; ông đóng vai đó để lãnh ơn thứ tha chứ không phải để ban phát”. Nên Gioan giảng: “Phần tôi, tôi đã rửa anh em trong nước, nhưng Người, Người sẽ rửa anh em trong Thánh Thần” (Mc 1, 8). Đây là phép lạ vĩ đại đã xảy ra sau khi Đấng Cứu Thế chịu phép rửa; phép lạ này là khúc dạo đầu cho những gì sẽ xảy ra. Đây không phải là Thiên Đàng khi xưa đóng lại vì tội của Ađam nay mở ra, mà chính trời mở ra: “Khi vừa lên khỏi nước, Người liền thấy trời mở ra, thấy Thánh Thần như chim bồ câu ngự xuống trên mình” (Mc 1,10). Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đến xin Gioan làm phép rửa cho mình.
Tin Mừng mô tả ,“sau khi tất cả dân chúng đã chịu phép rửa, và chính lúc Chúa Giêsu cũng đã chịu phép rửa xong, Người đang cầu nguyện, thì trời mở ra và Thánh Thần Chúa ngự xuống trên Người dưới hình chim bồ câu, và có tiếng từ trời phán: “Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha” (Lc 3, 21-22). Thiên Chúa Ba Ngôi là Cha, Con và Thánh Thần tự hiển hiện. Chúa Giêsu được Chúa Cha tuyên phán là Con. Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Người cho thấy Chúa Giêsu khiêm nhường hạ mình xuống với các tội nhân và trở nên Chiên gánh tội thế gian.
Chúa Giêsu bước lên khỏi nước lúc ấy trời mở ra là Chúa Giêsu nâng thế gian lên cao với Người. Vì xưa kia, khi bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng và bị lưỡi gươm lửa cấm đoán, chính Ađam đã đóng cửa trời lại, không cho mình mà cũng không cho con cháu vào. Nay nhờ Chúa Giêsu mà cửa trời được mở ra.
Trời mở ra, còn mạc khải cho Gioan Tẩy Giả và những người Do Thái biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Thiên Chúa mở cửa trời để kêu gọi chúng ta hướng về trời.
Vậy, phép rửa của Chúa Giêsu và phép rửa của chúng ta có liên kết chặt chẽ với nhau. Phụng Vụ của ngày lễ này đã hát lên như sau: “Đức Kitô chịu phép rửa, cả trần gian được thánh hoá, chúng ta được tha thứ tội lỗi, được thanh tẩy nhờ nước và Thánh Thần” (Tiền xướng của Kinh Bênêdictus, của Giờ Kinh Sáng). Chúng ta hãy thanh tẩy mình cho thanh sạch, hãy tiếp tục thanh tẩy cho thanh sạch hoàn toàn và đem lòng tôn kính mà tưởng niệm ngày Đức Kitô chịu phép rửa, và hãy mừng lễ cách xứng đáng. Thiết nghĩ, thực hành và sống lời hứa khi chịu phép Rửa tội là việc phải làm trong đời sống người kitô hữu chúng ta.
Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa là cơ hội tốt lành để đổi mới với lòng biết ơn và xác tín lời hứa trong ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội, hãy dấn thân sống xác tín này trong đời sống hàng ngày. Chúa Giêsu cứu độ chúng ta không phải vì cộng trạng của chúng ta nhưng là để thực hiện lòng tốt vô biên của Cha với cả nhân loại. Vì thế, mỗi ngày chúng ta hãy cố gằng thực hiện những điều đã hứa khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội là từ bỏ ma quỷ, xa lánh các dịp tội và tin vào Thiên Chúa, như thế chúng ta mới có thể đón nhận mọi ơn lành Thiên Chúa ban và sống xứng đáng là con Thiên Chúa.
Không phải cứ được rửa tội, cứ nói tôi tin Chúa Kitô, là được cứu rỗi để vào Thiên Đàng hưởng hạnh phúc đời đời với Chúa. Rửa tội chỉ là bước đầu cần thiết cho việc cứu rỗi mà thôi. Bước tiếp theo quan trọng hơn, đó là thi hành những điều cam kết khi được rửa tội. Nếu không thi hành những lới hứa hay cam kết này thì Phép Rửa sẽ thành vô ích.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con trung thành với lời hứa khi chịu phép Rửa tội trong suốt cuộc đời chúng con, nhờ lời chuyển cầu của thánh Gioan Tẩy Giả. Amen.
XIN CHO ĐƯỢC SỐNG XỨNG ĐÁNG LÀ CON CÁI CHÚA
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Tin mừng hôm nay kể chuyện: tiếp nhận đoàn người lũ lượt đến xin chịu Phép Rửa, bày tỏ lòng sám hối, thánh Gioan được nghe những lời bàn tán của dân chúng phỏng đoán ông chính là đấng Mêsia. Thánh nhân đã trả lời:“Tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa”. Câu trả lời của Gioan vừa bác bỏ tin đồn vừa cũng cố niềm hy vọng của dân chúng về Đấng Mesia đang đến.Gioan làm Phép Rửa trong dòng nước sông Giođan, còn Đấng Mêsia làm Phép Rửa trong Thánh Thần.Vậy Phép Rửa của Gioan và Phép Rửa của Chúa Giêsu khác nhau thế nào?
Đây là Phép Rửa bằng nước do Gioan thực hiện tại sông Giođan: “Tôi làm phép rửa bằng nước để làm dấu hiệu cho thấy anh em đã ăn năn sám hối “. Ai chịu Phép Rửa đều phải có một thái độ nội tâm cũng như bên ngoài, phải tin vào sứ điệp của Gioan, phải trở lại thực lòng, phải quay về với Thiên Chúa. Tuy nhiên, Phép Rửa của Gioan chỉ có tính cách tượng trưng, tự nó không có sức xóa bỏ được tội lỗi mà chỉ là nghi thức nhắc nhở cho mọi người phải ăn năn sám hối và cải thiện đời sống.
Phép Rửa sám hối chỉ là nghi thức mang tính tẩy trần, nếu có giá trị thì chỉ theo quy định của lề luật thôi, còn chưa có hiệu quả đích thực tôn giáo. Gioan làm Phép Rửa sám hối để dọn lòng dân chúng đón chờ Đấng Cứu Thế. Như vậy gắn với hành động sám hối phải là niềm hy vọng được nuôi dưỡng bền chặt trong lòng. Sám hối vì hy vọng được tha thứ và được giải thoát.Sám hối để xứng đáng với niềm hy vọng.Thánh Gioan ngoài sứ mạng kêu gọi mọi người sám hối còn đảm nhận trọng trách đồng hành với dân chúng hướng về Đấng Mêsia đang đến.
Vai trò của Gioan đã kết thúc, nhưng trước khi Chúa Giêsu chính thức đảm nhận sứ mạng, Người đã xếp hàng đứng chung với hàng ngũ dân chúng, hiệp thông trọn vẹn với họ về niềm mong đợi thiết tha được Chúa đến cứu. Thật lạ lùng! Chúa Giêsu bước xuống sông Giođan. Người là Đấng Thánh, là Thiên Chúa, siêu việt tuyệt đối nay xin chịu phép rửa sám hối của Gioan. Người là Đấng mà Gioan “không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Ngài” đang đứng chung với đám đông người tội lỗi chờ đến lượt mình được chịu thanh tẩy. Một sự hạ mình sâu thẳm, một sự khiêm nhường cao cả đã làm cho cửa trời mở ra, ân sủng tuôn đổ, ơn cứu độ được trao ban và lan truyền. Đức Kitô được công khai tấn phong làm Đấng Mêsia.Thánh Thần ngự xuống, tiếng từ trời xác nhận: “Con là con của cha; ngày hôm nay Cha đã sinh ra con”. Đó là lời phong vương trong Thánh Vịnh 2,7. Chúa Giêsu đã được chính Thiên Chúa xức dầu tấn phong bằng Thánh Thần.
Phép rửa của Gioan là Phép rửa bằng nước mời gọi sám hối. Phép rửa của Chúa Giêsu là Phép Rửa tái sinh. Phép rửa này ban cho người được rửa một đời sống mới. Thánh Phaolô đã giải thích về đời sống này cho những người vừa được rửa tội như sau: “Khi được rửa tội, anh em được an táng với Đức Kitô và trong phép rửa, anh em cũng được sống lại với Đức Kitô. Anh em đã từng bị chết về mặt tâm linh nhưng giờ đây Thiên Chúa đã mang anh em đến nguồn sống cùng với Đức Kitô” (Cl 2, 12-13).
Phép rửa của Chúa Giêsu là Bí Tích Rửa Tội thanh tẩy chúng ta khỏi tội nguyên tổ và tội riêng chúng ta phạm. Đây là sự Thanh tẩy nội tại của Bí tích Thanh tẩy do ơn Chúa Thánh Thần. Nước có ý nói về nghi thức bên ngoài, thực hiện trên thân xác; còn lửa là biểu tượng diễn tả sự biến đổi bên trong tâm hồn. Trong khi nước chỉ đạt tới bề mặt của các sự vật, thì lửa thấm sâu vào, thanh luyện, soi sáng, đốt cháy. Trong phép rửa Đấng Mêsia thiết lập, người ta sẽ không gặp được thứ lửa nào ngoài thứ lửa của Thánh Thần, bởi vì chính Người thánh hóa các tâm hồn. Lửa nói lên sức thanh tẩy của Chúa Thánh Thần, như trong ngày Lễ Ngũ Tuần (Cvtđ 2,1-4), khi các Tông đồ đang cầu nguyện thì Chúa Thánh Thần lấy hình lưỡi lửa đậu trên đầu các ngài và biến đổi các ngài trở nên những con người mới, những Tông đồ nhiệt thành, thông hiểu Lời Chúa để các ngài rao giảng cho dân chúng.
Như vậy qua Phép Rửa tái sinh, Chúa Giêsu chia sẻ cho những người được rửa tội đời sống thần linh của Ngài. Đó là sự sống trong Chúa Ba Ngôi. Người tín hữu trở nên thành viên trong Dân Chúa Cha, chi thể trong Thân Mình Chúa Kitô và viên đá sống động kiến tạo Đền Thờ Chúa Thánh Thần, nghĩa là trở nên con cái Thiên Chúa và được thông phần vào Sự Sống của chính Thiên Chúa hằng sống.
Bí Tích Thánh Tẩy chính là một phép lạ cả thể tác động trên một cá thể trong suốt chiều dài cuộc sống. Người ta được tắm gội trong sự chết và phục sinh của Đức Kitô và được thần hóa một cách nhiệm mầu, để từ đó có thể phát biểu ngất ngây như Thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi”, hay đầy xác quyết như thánh Augustinô: “Chúa đã tạo dưng con người cách lạ lùng và còn tái tạo con người cách lạ lùng hơn nữa”.
Bí Tích Thánh Tẩy là nền tảng của toàn bộ đời sống Kitô hữu, là cửa ngõ dẫn vào đời sống thần linh và mọi bí tích khác. Nhờ bí tích này chúng ta được giải thoát khỏi tội lỗi và tái sinh làm con cái Thiên Chúa, thành chi thể của Đức Kitô, được gia nhập và tham dự sứ mạng của Hội Thánh (GLCG #1213).
Bí Tích Thánh Tẩy tha thứ nguyên tội, mọi tội cá nhân và các hình phạt do tội. Bí Tích Thánh Tẩy cho tham dự vào đời sống của Thiên Chúa Ba Ngôi nhờ ơn thánh hoá, nhờ ơn công chính hoá giúp tháp nhập vào Đức Kitô và Hội Thánh. Bí Tích này cho tham dự vào chức tư tế của Đức Kitô và tạo nền tảng cho sự hiệp thông với tất cả các Kitô hữu. Bí Tích này trao ban các nhân đức đối thần và các hồng ân của Chúa Thánh Thần. Người lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy thuộc về Đức Kitô luôn mãi: họ được đóng ấn không thể xóa được của Đức Kitô (GLCG #263).
3.Ta hãy xin cho được sống xứng đáng là con cái Chúa
Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và Gioan tại sông Giođan đã làm nên lịch sử và đã được Giáo Hội chọn làm khởi điểm cho Mùa Thường Niên là Mùa Phụng Vụ cử hành các mầu nhiệm cuộc đời rao giảng tin mừng của Chúa Giêsu. Biến cố này không chỉ là cuộc bàn giao cũ mới mà còn là điểm giao duyên giữa trời và đất, giữa Thần Khí và nước, giữa Tân Ước và Cựu Ước. Từ nay nhân loại được tái sinh trong đời sống mới. Qua Bí Tích Thánh Tẩy, chúng ta được tái sinh trong của Chúa Giêsu nhờ ghi dấu ấn tín của Chúa Thánh Thần và được trở nên con cái Thiên Chúa.
Nhờ Bí Tích Thánh Tẩy, trong tư cách là “Kitô hữu thuộc về Chúa Kitô”, chúng ta được nhắc nhớ về sứ mạng phải làm triển nở sự sống của Chúa Kitô nơi mình và nơi những người lân cận bằng lòng tin và bằng tình yêu chân thành và trung tín.
Trong tư cách “Kitô hữu hướng về Chúa Kitô”, chúng ta cũng được hun đúc để luôn biết sống bằng niềm hy vọng và bằng lời kinh phó thác, nhất là trong lúc gặp thử thách gian truân.
Trong tư cách “Kitô hữu tìm về Chúa Kitô”, chúng ta còn biết sẵn sàng thanh tẩy đời sống qua việc sám hối hòa giải để đón nhận lòng thương xót của Chúa một cách dồi dào hơn.
Trong phép lần hạt Năm Sự Sáng, gẫm thứ nhất, chúng ta vẫn đọc: “Thứ nhất thì ngắm, Đức Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan. Ta hãy xin cho được sống xứng đáng là con cái Chúa”. Người Kitô hữu được hai hồng ân lớn nhất là được ơn sự sống và ơn làm con Chúa. Nhờ cha mẹ, mỗi người được sinh ra và hiện hữu trên đời này. Nhờ Bí Tích Rửa Tội, mỗi Kitô hữu được sống sự sống thần linh của Thiên Chúa Ba Ngôi. Theo gương Mẹ Maria, chúng ta xin được sống gắn bó với Chúa Giêsu mật thiết hơn, để xứng đáng là những người con yêu dấu của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu là gương mẫu một người con hiếu thảo. Người luôn sống thân mật với Chúa Cha, luôn kết hiệp với Chúa Cha trong kinh nguyện hằng ngày, luôn thi hành thánh ý Chúa Cha. Người đã vâng lời Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá.
Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta luôn kết hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi, luôn thi hành thánh ý Thiên Chúa, luôn sống một cuộc sống tốt đẹp, luôn tích cực góp phần xây dựng xã hội, tạo hạnh phúc cho tha nhân.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin dạy chúng con biết sống ơn Bí Tích Thánh Tẩy để chúng con được xứng đáng được làm con yêu dấu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Amen.
Lm Vũđình Tường
Thánh Gioan ngại ngùng khi Ngôi Hai Thiên Chúa, Đức Kitô đến xin nhận phép thanh tẩy. Gioan từ chối vì tin rằng Đức Kitô, Đấng tinh tuyền, không cần thanh tẩy, nhưng chính ông cần thanh tẩy. Gioan vâng phục làm theo điều Đức Kitô phán dậy. Điều Gioan thầm tín trở thành sự thực. Sau khi Đức Kitô nhận phép thanh tẩy từ Gioan, Thiên Chúa mặc khải cho biết căn tính thực của Đức Kitô. Ngài là Con yêu dấu của Chúa Cha. Đây là lần đầu tiên nhân loại nhận biết Một Thiên Chúa Ba Ngôi. Mỗi Ngôi tự mặc khải một cách riêng biệt. Ngôi một chính là Chúa Cha hiện diện trên không trung, vang vọng phán,
‘Con yêu dấu của Cha, lòng mến Cha ở trong Con’ Lc 3,22b
Đức Trinh Nữ Maria làm đẹp lòng Thiên Chúa và trở thành Mẹ Thiên Chúa. Lòng mến Thiên Chúa ở trong Đức Kitô có nghĩa sứ mạng của Đức Kitô là làm cho ‘Lòng mến Thiên Chúa’ tỏ lộ cho muôn dân. Sứ mạng đó chính là sứ mạng cứu chuộc nhân loại. Người nhận được ‘Lòng mến Thiên Chúa’ sẽ không còn sống cho chính mình nữa, nhưng sống cho Chúa, luôn làm đẹp lòng Chúa và luôn thực thi í Chúa. Ngôi Ba Thiên Chúa chính là Thánh Thần. Ngài không lên tiếng như Chúa Cha nhưng từ trời cao xuất hiện dưới hình bóng,
‘Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu’ Lc 3,22a.
Khi Đức Kitô nhận Phép Thanh Tẩy, Ngôi Ba Thiên Chúa là Thánh Thần hiện xuống trên Ngài. Trường hợp Đức Kitô là trường hợp đặc biệt, mỗi chúng ta khi còn tấm bé nhận phép thanh tẩy, chờ tới khi khôn lớn chúng ta mới lãnh nhận nhận Ngôi Ba Thiên Chúa qua bí tích Thêm Sức. Trước khi từ giã môn đệ, về cùng Chúa Cha, Đức Kitô phán dậy môn đệ, nhân Danh Ba Ngôi Thiên Chúa, ban phép Thanh Tẩy cho muôn dân. ‘Nhân Danh Cha, và Con và Thánh Thần Mt 28,19’. Đây là công thức Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ dùng chung khi ban phép thanh tẩy cho người lớn cũng như cho trẻ em. Riêng người lớn lãnh nhận bí tích thanh tẩy và bí tích thêm sức cùng lúc.
Bí tích Thanh Tẩy không phải đơn thuần mang í nghĩa người đó là thành viên trong Giáo Hội. Đây chỉ là bước đầu trong ba bí tích: Thanh Tẩy, Thêm Sức và Thánh Thể. Qua bí tích Thanh Tẩy người đó trở thành thành viên của Giáo Hội, trở thành Con Thiên Chúa, thành kẻ thừa tự Nước Trời. Đây chính là bước khởi đầu trong việc liên kết, đổi đời, sống đời sống mới trong Đức Kitô.
Đức Kitô, Đấng vô tội, không cần nhận phép Thanh Tẩy. Ngài tự nguyện xin nhập phép Thanh Tẩy với mục đích. Thứ nhất, Ngài muốn đồng hoá Ngài với muôn dân, bằng cách xuống thế sống chung với muôn dân. Đấng vô tội, sống chung với tội nhân, hiến sự sống mình gánh tội, chết thay cho muôn dân, đồng thời làm cho đau khổ muôn dân oằn vai gánh chịu có một í nghĩa đặc biệt. Í nghĩa thông phần đau khổ với thập giá Đức Kitô. Thập giá Đức Kitô lại chính là triều thiên vinh hiển Đức Kitô mang lại sau khi Ngài sống lại từ cõi chết. Như thế đau khổ muôn dân hiện đang gánh chịu sẽ thông phần vinh quang Phục Sinh của Đức Kitô.
Thứ hai, là Con Yêu Dấu Thiên Chúa, Đức Kitô yêu tha nhân vô giới hạn. Ngài ban chính tình yêu này cho muôn dân chung hưởng ‘Lòng mến Thiên Chúa’. Những ai thành tâm đón nhận Ngài là Con Thiên Chúa, người đó sẽ chung sống với Đức Kitô khi họ hoàn thành cuộc lữ hành trần thế.
Thứ ba, Đức Kitô xác định điều Gioan rao giảng bằng cách nhận phép thanh tẩy từ Gioan.
‘Tôi thanh tẩy anh em bằng nước, nhưng Đấng đến sau tôi thanh tẩy anh em bằng Thánh Thần và Lửa’ Lc 3,16.
Giáo hội liên kết hai phép thanh tẩy; phần thanh tẩy bằng nước của Gioan, phần thanh tẩy do Thần Khí và Lửa Tình Yêu của Đức Kitô. Vì thế chúng ta chịu thanh tẩy vừa bằng nước vừa bằng Lửa. Lửa đây chính là Ngôi Ba, Thánh Thần Chúa, Đấng ngự trên các tông đồ hình lưỡi Lửa. Lửa còn một í nghĩa nữa đó chính là Lửa Tình Yêu của chính Đức Kitô thanh tẩy con người ta biến ta thành con người mới trong Đức Kitô.
Bí tích thanh tẩy là một nghi thức cộng đoàn bởi vì qua bí tích thanh tẩy người đó chính thức a/ gia nhập cộng đoàn Kitô hữu, b/ thành viên của Giáo Hội, c/ trở thành anh chị em trong Giáo Hội, d/ trở nên con Thiên Chúa, e/ đồng thừa tự ơn Chúa ban.
Tính cộng đoàn nghĩa là người đó có trách nhiệm cùng với các Kitô hữu sống làm Sáng Danh Thiên Chúa và phục vụ các anh chị em khác trong gia đình nhân loại. Chúng ta xin ơn phục vụ Chúa qua tha nhân.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều kết thúc thuật trình Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan bằng lời tuyên phán của Chúa Cha: “ Đây là Con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về Con” hoặc “Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” (x.Mt 3,17; Mc 1,11; Lc 3,22). Chúa Cha hài lòng với Chúa Chúa Giêsu về chuyện gì đây? Dĩ nhiên là về chuyện Chúa Giêsu tự nguyện xếp mình vào hàng đoàn người tội lỗi đang đến để cho Gioan Tẩy Giả làm phép rửa bày tỏ lòng sám hối ăn năn. Thế nhưng Chúa Giêsu vốn là Thiên Chúa dù đã mặc lấy xác phàm nhân loại như chúng ta mọi đàng nhưng chẳng hề vương bẩn tội nhơ (x.Dt 4,15). Là Đấng Thánh của Thiên Chúa, Người hoàn toàn thanh sạch thế mà Người xếp hàng giữa đám người tội lỗi để làm gì? Chắc chắn không phải là để nhờ Gioan làm phép thanh tẩy hầu được nên thanh sạch. Cũng chắc chắn rằng không phải Người cố tình làm gương cho chúng ta về việc hoán cải ăn năn như đã có nhiều nhà tu đức từng suy diễn. Không ai có thể làm gương một việc mà chính mình không thực làm. Như thế chìa khoá vấn đề phải nằm ở chỗ khác.
Mang lấy xác phàm, trở nên giống loài người chúng ta mọi đàng, thì Chúa Giêsu vẫn phải cần có thời gian để hiểu biết ý Chúa Cha cũng như tự nhận thức về căn tính của mình. Các nhà Kitô học đồng thuận với nhau rằng khi còn nằm trong nôi, còn ôm lấy bầu sữa mẹ, thì trẻ Giêsu chưa thể nhận thức được căn tính Thiên Chúa của mình. Và một điều ít ai chối cãi đó là năm lên mười hai tuổi, khi lưu lại Đền thờ Giêrusalem ba ngày nhân chuyến cùng cha mẹ hành hương, thì thiếu niên Giêsu đã ý thức về căn tính Thiên Chúa của mình. Biết mình là Thiên Chúa, thế nhưng để biết sứ vụ của mình là cứu độ nhân loại và cứu độ nhân loại như thế nào thì Chúa Giêsu cũng cần phải có thời gian cần thiết để tìm hiểu thánh ý Chúa Cha.
Nhiều nhà Kitô học nhìn nhận rằng khi Chúa Giêsu đến chịu phép rửa tại bờ sông Giođan chính là lúc Người tìm ra con đường cứu độ. Nói đến ơn cứu độ, các nhà thần học lẫn tu đức thường dùng hình ảnh cứu vớt người đang chìm dưới sông nước. Không biết bơi mà rơi xuống hố nước sâu thì sự sống như không còn thuộc vào chính bản thân mình. Cần phải có một ai đó độ trì, cứu vớt, may ra mới được sống.
Để cứu độ nhân loại khỏi vũng lầy tội lỗi, Chúa Kitô không đứng bên trên mà kéo. Người đã tự nguyện đi xuống tận đáy sâu kiếp người khi vào trần gian. Đồng thân với con người trong kiếp phàm hèn chưa đủ, Chúa Kitô còn muốn chung phận với loài người trong kiếp tội nhân, dù Người hoàn toàn vô tội. Tình yêu lên đến đỉnh cao khi người ta tự nguyện chung thân, đồng phận với nhau. Chung thân, đồng phận với nhau là một trong những hình thức liên đới đến cùng. Là con chiên tinh tuyền, là người tôi tớ trung thành và nhân hậu, Chúa Kitô đã nhận lấy mọi hậu quả tội lỗi của loài người vào chính bản thân Người. Điều đã được Ngôn sứ Isaia loan báo xưa về “Người Tôi Trung” nay ứng nghiệm nơi chính Chúa Kitô (x.Is 42,1-9; 49,1-7; 50,4-11).
Chọn con đường đi xuống để nâng loài người sa ngã lên, sự chọn lựa của Chúa Giêsu đã làm hài lòng Chúa Cha. Đây là một sự chọn lựa phát xuất bởi tình yêu sung mãn. Chúa Thánh Thần với hình chim bồ câu ngự xuống trên Người là một dấu chỉ. Và các tầng trời mở ra, nghĩa là con đường cứu độ nay đã khai mở cho con người. Việc Chúa Giêsu chọn con đường đi xuống giúp chúng ta xác tín những chân lý sau:
1. Không một ai là không có thể được cứu rỗi: Các cứu hộ viên đứng trên bờ sông mà đưa tay ra thì những người ở xa bờ hay đang chìm dưới nước quả là khó có cơ may được cứu. Trái lại khi các cứu hộ viên đã lặn sâu xuống đáy sông thì mọi người đều có thể được cứu sống. Chúa Giêsu đã cúi xuống dưới chân các tông đồ, Người đã cúi xuống dưới chân Giuđa, kẻ đã rắp tâm phản bội Người và Người sẵn sàng cúi xuống dưới chân hết mọi người, trong mọi hoàn cảnh. Chỉ cần chúng ta đồng thuận thì Người sẽ nâng chúng ta lên cùng Chúa Cha.
Mọi người đều có thể được cứu rỗi. Một chân lý của niềm tin và của niềm hy vọng. Bất cứ ai, dù trong hoàn cảnh tồi tệ nào đi nữa, thì vẫn luôn có Giêsu Kitô đứng dưới chân để sẵn sàng nâng lên. Chính vì thế mà thất vọng về chính mình là một sự tồi tệ thật đáng trách không kém gì khi ta thất vọng về tha nhân.
2. Trước tiên hãy trách mình, đừng trách tha nhân hay phàn nàn Chúa, nếu giả như chúng ta vẫn mãi mê trong tội. Một trong những thói xấu của người đắm chìm trong tội đó là tìm đủ lý do để bào chữa. Để làm giảm nhẹ trách nhiệm của mình, khi phạm tội, chúng ta thường hay đổ lỗi cho hoàn cảnh, cho tha nhân, cho ma quỷ và có khi cho cả Thiên Chúa. Phải tiên thiên loại trừ việc gán cho Thiên Chúa là tác nhân gây sự xấu vì Thiên Chúa không hề, đúng hơn là không thể cám dỗ một ai. Chúng ta cũng cần chân nhận rằng thần dữ, người xấu hay ngoại cảnh cũng có góp phần nào đó trong tội của chúng ta. Tuy nhiên, các tác nhân ấy chỉ có thể làm tăng giảm mức độ trách nhiệm của chúng ta trên tội của mình. Nhưng không ai khác, chính chúng ta phải là người trực tiếp chịu trách nhiệm mọi hành vi tội lỗi của mình.
Mừng mầu nhiệm Chúa Giêsu chịu phép rửa, mở đầu cuộc đời công khai rao giảng Tin Mừng, hãy cùng cảm tạ và ngợi khen Thiên Chúa vì đã yêu thương loài người đến cùng. Không có gì tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, trong Đức Giêsu Kitô, Đấng đã tự nguyện đồng hàng với chúng ta trong kiếp tội nhân: cúi mình để cho Gioan làm phép rửa là điểm khởi đầu và điểm kết thúc là thân phận một tội nhân trên thập giá.
Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương
Hôm nay, chúng ta cử hành lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa tại sông Giođan. Biến cố này là gạch nối giữa đời sống ẩn dật và sứ vụ công khai của Chúa Giêsu. Sau khi chịu Phép Rửa, Chúa Giêsu bắt đầu bước vào sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Trong thánh lễ này, chúng ta tìm hiểu về sự khác biệt và ý nghĩa Phép Rửa của Gioan Tẩy Giả, Phép Rửa của Chúa Giêsu và Phép Rửa của chúng ta.
1- Phép Rửa Gioan
Với tư cách là người dọn đường cho Đấng Mêsia, Gioan Tẩy Giả kêu gọi mọi người sám hối và hoán cải bằng việc đón nhận Phép Rửa của ông. Nhờ gương sáng và lời nói đầy thuyết phục, Gioan đã thu hút dân chúng. Người ta lũ lượt kéo đến với Gioan để xin ông làm Phép Rửa; nhiều người nghĩ rằng, Gioan chính là Đấng Mêsia mà họ đang trông chờ. Nhưng Gioan quả quyết rằng, ông không phải là Đấng Mêsia: “Phần tôi, tôi làm Phép Rửa cho anh em bằng nước, nhưng có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm Phép Rửa cho anh em bằng Thánh Thần và bằng lửa” (Lc 3,16).
Như vậy, Phép Rửa của Gioan là Phép Rửa bằng nước, là dấu chỉ bên ngoài để tỏ lòng sám hối và giúp quay trở về với Chúa, nhưng chưa phải là bí tích. Bởi thế, Phép Rửa này không mang lại hiệu quả ơn tha tội khi lãnh nhận. Phép Rửa của Gioan là Phép Rửa dọn đường cho Phép Rửa của Chúa Giêsu sẽ được thiết lập sau này.
2- Phép Rửa của Chúa Giêsu
Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Luca kể lại việc Chúa Giêsu đến với Gioan và xin ông làm Phép Rửa tại sông Giođan. Tại sao Chúa Giêsu lại xin Gioan làm Phép Rửa? Tại sao Người là Đấng Thánh của Thiên Chúa lại cần phải thống hối và thanh tẩy? Chắc chắn là không. Đây là ý nghĩa của việc Chúa Giêsu chịu Phép Rửa này:
Trước hết, việc Chúa Giêsu chịu Phép Rửa bởi Gioan là một hành vi tự hạ và khiêm tốn mà Người thực hiện theo ý định của Chúa Cha. Nếu biến cố nhập thể là bước khởi đầu mầu nhiệm tự hủy của Con Thiên Chúa. Như Thánh Phaolô đã nói: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2,6-7). Nay, qua biến cố Phép Rửa, Chúa Giêsu đi thêm một bước nữa, đó là hạ mình xuống để hòa mình và liên đới với mọi tội nhân. Như thế, qua hành vi này, Chúa Giêsu sống tinh thần tự hạ, muốn trở nên giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi (x. Hr 4,15). Hơn nữa, theo các Giáo Phụ, việc Chúa Giêsu chịu Phép Rửa là để thanh tẩy thay tội lỗi nhân loại. Cũng như trong mầu nhiệm nhập thể, Chúa Giêsu đã dìm mình trong bản tính nhân loại để thánh hóa bản tính ấy, nay Chúa Giêsu dìm mình trong dòng nước để thánh hóa dòng nước, nhờ đó mà thánh hóa nhân loại qua bí tích Rửa Tội.
Khi Chúa Giêsu chịu Phép Rửa, thánh Luca tường thuật về ba dấu hiệu xảy ra:
Dấu hiệu thứ nhất: “Trời mở ra.” Chúng ta nhớ lại: khi Ađam và Evà phạm tội, cửa thiên đàng đóng lại (St 3,23-24). Qua bao thế hệ, dân Chúa cầu khẩn: “Ước chi Ngài xé các tầng trời và ngự xuống” (Is 64,1). Nay đã đến lúc, nhờ Chúa Kitô, trời mở ra. Điều này nói lên rằng từ nay trời đất giao thông với nhau, con người được sống hiệp thông với Thiên Chúa.
Dấu hiệu thứ hai: “Chúa Thánh Thần ngự xuống như chim bồ câu.” Đây là mạc khải về Chúa Thánh Thần, Ngôi Ba Thiên Chúa. Người được sai đến và cùng với Chúa Giêsu khai mở một giai đoạn mới, giai đoạn cứu độ nhân loại. Chúa Thánh Thần luôn đồng hành với Chúa Giêsu trong hành trình rao giảng Tin Mừng. Chúa Thánh Thần được ban cho chúng ta qua Bí tích Rửa Tội. Người thánh hóa và dẫn đưa mỗi người về với Thiên Chúa.
Dấu hiệu thứ ba: là lời của Chúa Cha: “Con là con yêu dấu của Cha. Cha hài lòng về Con” (Lc 3,21-23). Đây là mạc khải về Chúa Cha. Người là Cha của Đức Giêsu và cũng là Cha của chúng ta. Người sai Chúa Con đến trong trần gian. Chúa Cha luôn hài lòng vì Chúa Con luôn làm theo ý định cứu độ của Chúa Cha.
Như thế, qua ba dấu hiệu trên mạc khải cho chúng ta biết về Thiên Chúa Ba Ngôi và vai trò mỗi ngôi vị trong chương trình cứu độ nhân loại.
3- Phép Rửa của người Kitô hữu
Nếu Phép Rửa của Gioan là dấu chỉ bằng nước, mời gọi sám hối, thì Phép Rửa của Chúa Giêsu là bí tích bằng nước và Thánh Thần. Phép Rửa này là một bí tích trong bảy bí tích vừa mời gọi hoán cải, vừa mang lại hiệu quả tha tội và thánh hóa cho những ai đón nhận.
Bí tích Rửa Tội tha thứ tội nguyên tổ và mọi tội cá nhân cũng như các hình phạt do tội, ban cho chúng ta sự sống thần linh. Đồng thời, nhờ Phép Rửa, chúng ta được làm con cái Thiên Chúa, trở thành chi thể Chúa Kitô, được gia nhập và tham dự vào các sứ mạng của Hội Thánh (GLCG. số 1213).
Như vậy, chúng ta đón nhận Phép Rửa không phải vì danh nghĩa làm Kitô hữu, nhưng là để sống tốt đời Kitô hữu. Vì thế, chúng ta được mời gọi luôn ý thức những hồng ân cao cả mà Thiên Chúa ban cho chúng ta qua Phép Rửa Tội. Đồng thời, chúng ta cũng được mời gọi cố gắng mỗi ngày sống xứng đáng là con cái Chúa và biết làm chứng cho Chúa trong cuộc sống hằng ngày.
Lạy Chúa là Đấng hoàn toàn thánh thiện, Chúa đã cúi xuống để đón nhận Phép Rửa tại sông Giođan, Chúa cũng đã lập Phép Rửa để thanh tẩy và thánh hóa chúng con, xin cho mỗi người chúng con luôn sống xứng đáng là con cái của Chúa để chúng con trở thành những người con yêu dấu và hằng đẹp lòng Chúa. Amen!
KITÔ HỮU CHỊU CÙNG MỘT PHÉP RỬA NHƯ CHÚA GIÊSU
Phêrô Phạm Văn Trung.
“Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí.”(Gioan 3: 5)
I/ Chịu phép rửa để làm chứng.
Chúa Kitô khi bước vào sứ vụ công khai, Ngài đã mở đầu những tháng ngày thi hành sứ vụ đó bằng cách để cho thánh Gioan Tẩy giả thực hiện phép rửa trên Ngài, như được thuật lại trong Tin Mừng thánh Máccô:
“Hồi ấy, Chúa Giêsu từ Nadarét miền Galilê đến, và được ông Gioan làm phép rửa dưới sông Giođan. Vừa lên khỏi nước, Ngài liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Lại có tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con.” (Máccô 1:9-11).
Trong sách Tin mừng theo thánh Máccô, cũng như trong sách Tin mừng theo thánh Gioan, người ta không tìm thấy những trình thuật về thời thơ ấu, vể máng cỏ, về thánh gia, về các vị vua hiền sĩ. Tuy nhiên, giống như cuộc hiển linh mà thánh Mátthêu nói với chúng ta: cuộc tỏ mình ra cho Ba Vị Hiền Sĩ Phương Đông, đại diện cho tất cả những người dân ngoại, không phải Dân Riêng của Thiên Chúa, thì thánh Máccô cũng nói với chúng ta về một cuộc hiển linh khác.
Cuộc hiển linh theo thánh Máccô chính là việc Chúa Kitô chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy Giả, là việc Thiên Chúa tỏ mình ra, là sự mạc khải rằng nơi con người của Chúa Giêsu, toàn thể sự sống Ba Ngôi được thể hiện: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần: Chúa Cha xác nhận Con Ngài trong Thánh Thần.Thiên Chúa tỏ mình ra qua sự nhập thể của Chúa Con, Đấng chịu phép rửa bởi ân huệ của Chúa Thánh Thần, là Đấng sau đó sẽ được ban cho tất cả những ai sẽ lãnh nhận phép thánh tẩy trong Chúa Con.
II/ Sự tuyển chọn.
Phép rửa, giống như phép cắt bì trong Cựu ước, là dấu hiệu của Giao ước, của sự tuyển chọn. Tất cả mọi người đều là con cái của Thiên Chúa, tất cả mọi người đều được kêu gọi để được cứu độ, nhưng trong lịch sử thánh, trong tiến trình của Mặc Khải, một số người được tuyển chọn, được chọn để thực hiện một sứ mệnh cụ thể. Tất cả đều được Thiên Chúa yêu thương nhưng một số người có phần dành riêng cho mình, một phần đặc biệt giống Chúa Kitô, tư tế, tiên tri và vua. Trong Chúa Giêsu Kitô, tất cả những người được tuyển chọn này đều được làm phép rửa trong nước, Thánh Thần và máu, như thư thứ nhất của Gioan nói cho chúng ta biết “Chính Đức Giêsu Kitô là Đấng đã đến, nhờ nước và máu; không phải chỉ trong nước mà thôi, nhưng trong nước và trong máu. Chính Thần Khí là chứng nhân, và Thần Khí là sự thật. Có ba chứng nhân: Thần Khí, nước và máu. Cả ba cùng làm chứng một điều” (1 Gioan 5, 6-8).
Nước, thần khí và máu là ba dấu chỉ của sự khai tâm Kitô giáo: nước trong phép rửa tội, Thánh Thần trong phép thêm sức, máu trong phép Thánh Thể. Ba dấu chỉ này là dấu hiệu của sự tuyển chọn, sự lựa chọn cụ thể của Thiên Chúa để hình thành nên thân mình của Chúa Kitô là Giáo hội. Sự lựa chọn này, cũng như trong Cựu Ước, không phải là kết quả của bất cứ công lao đặc biệt hay những năng khiếu phi thường nào, đó hoàn toàn chỉ là ân ban và sự cho không. Sự tuyển chọn đó vẫn là một mầu nhiệm thâm sâu và không khơi dậy bất cứ niềm tự hào nào từ phía chúng ta, như Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo số 1215 viết:
“Bí tích Thánh Tẩy là hồng ân cao đẹp nhất và kỳ diệu nhất trong các hồng ân của Thiên Chúa…Chúng ta gọi là hồng ân, ân sủng, xức dầu, soi sáng. mặc lấy sự bất tử, tắm để tái sinh, ấn tín và tất cả những gì quý giá nhất. Là hồng ân, vì được ban cho những người trắng tay. Là ân sủng, vì được ban cho cả những người có lỗi. Dìm xuống,vì tội lỗi bị nhận chìm trong nước. Xức dầu, vì có tính cách linh thiêng và vương giả (như những người được xức dầu). Soi sáng, vì đó là ánh sáng chói lọi. Mặc, vì che đi nỗi tủi nhục của chúng ta. Tắm, vì làm cho chúng ta sạch. Ấn tín, vì gìn giữ chúng ta và là dấu chỉ về quyền tối cao của Thiên Chúa” (Thánh Ghêgôriô Nadien, Bài giảng 40, 3-4).”
III/ Được tuyển chọn để làm đầy tớ.
Để tránh mọi sự kiêu ngạo, danh hiệu được trao cho những người được tuyển chọn này là danh hiệu đầy tớ. Trong Cựu Ước, Môsê, Nôê, Đavít, Ábraham được gọi là tôi tớ. Đây là danh xưng vinh dự của các ngài. Chúng ta cũng được kêu gọi trở thành tôi tớ qua phép rửa của chúng ta, cũng như chính Chúa Kitô đã trở thành tôi tớ. Đây là ý nghĩa của việc rửa chân trong sách Tin Mừng Gioan “Vậy nếu Ta là Thầy, là Chúa, mà đã rửa chân cho các ngươi, thì các ngươi cũng phải rửa chân cho nhau. Ta đã nêu gương cho các ngươi, ngõ hầu như Ta đã làm cho các ngươi thế nào, thì các ngươi cũng làm như vậy. “Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Tôi tớ không lớn hơn chủ,kẻ được sai không lớn hơn người sai nó” (Gioan 13: 14-16). Sự tuyển chọn này không làm cho chúng ta vượt trội hơn những người khác, mà ngược lại, mời gọi chúng ta hãy biến mình trở thành những người sau chót, nhỏ bé nhất, những đầy tớ của anh em chúng ta, giống như hình ảnh của Đức Kitô, là người phục vụ: “Tôi đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10:45) và: “Trong anh em, người làm lớn hơn cả phải là người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Mt 23,12).
Thánh Phaolô nói: “Giờ đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Chúa Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Ngài là Hội Thánh. Tôi đã trở nên người phục vụ Hội Thánh, theo kế hoạch Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em: đó là tôi phải rao giảng lời của Ngài cho trọn vẹn, rao giảng mầu nhiệm đã được giữ kín từ bao thời đại và qua bao thế hệ, nhưng nay đã được tỏ ra cho dân thánh của Thiên Chúa” (Cl 1:24-26).
IV/ Việc làm chứng.
Và sự phục vụ, mà chúng ta phải đáp ứng trước tiên, như Thánh Gioan nói với chúng ta, là sự phục vụ choviệc làm chứng -μαρτυρ trong tiếng Hy Lạp, cũng là tử đạo– martyr: “Khi Ðấng Bầu Chữa đến, Ðấng Ta sẽ gởi đến từ nơi Cha, Thần khí sự thật, từ Cha xuất ra, Ngài sẽ làm chứng về Ta. Và các ngươi cũng làm chứng, vì từ ban đầu các ngươi hằng ở với Ta.” (Gioan 15: 26-27). Isaia cho chúng ta biết rằng Lời của Thiên Chúa đến thế gian để làm cho nó sinh hoa kết trái và sinh ra hạt giống “Vì cũng như mưa với tuyết từ trời sa xuống, tất không lùi lại về trời, nếu đã không thấm nhuận đất đai, nếu không làm cho đất sinh sản, nảy chồi, và cho người gieo có giống, cùng bánh cho người ta ăn. Cũng vậy, lời của Ta, một khi đã xuất từ miệng Ta, sẽ không về lại với Ta, hư luống, nếu không thực hiện điều Ta đã muốn, nếu không đạt được sự Ta sai làm.” (Isaia 55: 10-11).Rao giảng Lời là việc làm chứng về đức tin của những người đã được rửa tội. Việc làm chứng này là của cuộc sống hàng ngày của chúng ta, ngay cả trước khi thành lời nói. Theo tiếng Hy Lạp μαρτυρ – nhân chứng, chính là người tử đạo- martyr. Vị tử đạo trong Giáo hội không hẳn là người đổ máu chính mình, trừ khi bị bắt buộc chọn lựa một trong hai: hoặc Chúa Kitô, hoặc một giá trị trần thế nào đó như sự sống, danh vọng, tiền của, tình cảm…, lại càng không làm đổ máu người khác, mà thực sự là người hiến mạng sống mình cho người khác bằng những cung cách sống và phục vụ đa dạng, phong phú khác nhau. Phép rửa là một cuộc tuyển chọn, nhưng là một cuộc tuyển chọn cam kết suốt đời phục vụ con người. Phép rửa này sai chúng ta đi phục vụ, mà sự phục vụ cao quý trên hết chính là loan báo cho toàn thế giới Tin Vui Mừng rằng mọi người đều là con yêu dấu của Chúa Cha, là Đấng qua Người Con Yêu Dấu của Ngài, là Chúa Giêsu Kitô, luôn luôn tìm kiếm những con chiên lạc “Các con nghĩ sao? Nếu ai có một trăm con chiên mà lạc mất một con, thì người đó lại không bỏ chín mươi chín con trên núi, để đi tìm con chiên lạc sao? Nếu người đó tìm được, thì quả thật, Thầy bảo các con, người đó sẽ vui mừng vì con chiên đó hơn chín mươi chín con chiên không thất lạc. Cũng vậy, Cha các con ở trên trời không muốn để một trong những kẻ bé nhỏ này phải hư đi” (Mátthêu 18: 12-14), và những đứa con hoang đàng, để trao lại cho họ quyền làm con, ban lại sự sống và niềm hạnh phúc đích thực: “Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha. Bấy giờ người con nói rằng: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. ..Nhưng người cha liền bảo các đầy tớrằng: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại,đã mất mà nay lại tìm thấy. Và họ bắt đầu ăn mừng” (Luca 15: 20-24).Phép rửa này sai chúng ta đi công bố rằng chính trong nhân loại mà Thiên Chúa tìm thấy niềm vui của Ngài.
Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo nói rõ:
“Sau khi chấp nhận ban phép rửa cho Chúa Giêsu giữa những kẻ tội lỗi (Lc 3,21; Mt 3,14-15), Gioan Tẩy giả đã thấy và giới thiệu Ngài: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian”(Ga 1,29) (Ga 1,36). Như vậy ông cho thấy rằng Chúa Giêsu vừa là Người Tôi Tớ đau khổ, im lặng chịu dẫn đến lò sát sinh (Isaia 53,7) (Giêrêmia 11,19) và gánh tội lỗi muôn dân (Isaia 53,12), vừa là Chiên Vượt Qua biểu tượng cho việc Israel được cứu chuộc trong cuộc Vượt Qua lần đầu (Xuất hành 12,3-14) ( Ga 19,36; 1Cr 5,7). Toàn bộ cuộc đời của Chúa Kitô diễn tả sứ mạng của Ngài “hầu hạ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người (Mc10,45)” (GLGHCG, số 608).
GLGHCG, số 1273 còn nói rõ hơn:
“Được tháp nhập vào Hội Thánh nhờ bí tích Thánh Tẩy, các tín hữu đã được ấn tích thánh hiến để họ thi hành việc phụng tự Kitô giáo (Lumen Gentium 11). Ấn tín rửa tội vừa cho họ khả năng vừa đòi buộc họ phụng sự Thiên Chúa, bằng cách tham dự tích cực vào phụng vụ của Hội Thánh và thực thi chức vụ tư tế cộng đồng bằng đời sống thánh thiện và đứcmến năng động để làm chứng cho Chúa(LG 10).”
Cuộc tuyển chọn như vậy không phải là hồi kết, nhưng nó là khúc mở đầu dành cho người khác. Đó là sứ mạng sai chúng ta đi vào thế giới để mang Tin mừng về sự cứu độ và tình yêu của Thiên Chúa cho mọi người. Thiên Chúa ban cho tất cả những người đã chịu phép rửa ân sủng của Ngài để họ sống trọn vẹn sự tuyển chọn này,sự tuyển chọn mà họ đã nhận nơi phép rửa được Chúa Kitô truyền lại cho các Tông đồ “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án.” (Máccô 16: 15-16).
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã thanh tẩy chúng con bằng nước, máu và Thánh Thần, xin tiếp tục thanh tẩy chúng con,để chúng con luôn được đầy tràn sự sống thần linh của Chúa. Xin cho chúng con, một khi đã trở thành con cái đích thực của Chúa trong chân lý và tình yêu thương, được trở nên những con người phục vụ,mang Tin Mừng Cứu Độ của Chúa đến cho mọi người chung quanh. Amen.
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Chúa Giê-su là Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người. Ngài là Đấng cao cả, vô cùng tốt lành và thánh thiện, chẳng hề vương chút tội tình… thế mà Ngài lại đến với thánh Gioan, như một người tội lỗi, hòa mình với đám đông những người thu thuế, những người đàng điếm, những tên côn đồ đạo tặc, cướp của giết người và với bao nhiêu người tội lỗi khác… chăm chú nghe Gioan rao giảng và để chờ đến phiên, bước xuống dòng sông Gio-đan, nhờ thánh Gioan làm phép rửa cho mình.
Chắc chắn Chúa Giê-su đến chịu phép rửa không phải vì Ngài có tội, nhưng vì tội lỗi của nhân loại mà Ngài đã mang vào thân. Cũng thế, Chúa Giê-su chịu khổ hình thập giá không phải vì tội của Ngài mà vì tội lỗi của thế gian mà Ngài đã gánh lấy. Chính vì thế, Gioan tẩy giả đã từng giới thiệu cho các môn đệ biết Chúa Giê-su là con “Chiên Thiên Chúa” (Gioan 1, 29) được sai xuống trần để gánh tội trần gian. Một khi đã gánh tội trần gian thì Chúa Giê-su chấp nhận chịu thanh tẩy cũng như chịu chết vì tội lỗi thế gian…
Thế rồi khi Chúa Giê-su chịu phép Rửa xong, “và đang khi Ngài cầu nguyện, thì trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Ngài… ”
Từ ngày A-đam và E-và phạm tội, Thiên Chúa xua đuổi ông bà ra khỏi địa đàng và cho thiên thần cầm gươm lửa để ngăn không cho ông bà quay trở lại… (St 3,24). Thế là từ đây, tương quan giữa loài người tội lỗi và Thiên Chúa thánh thiện tốt lành bị cắt đứt. Từ đó, loài người phải ngụp lặn trong bùn nhơ tội lỗi và đắm chìm trong cõi chết…
Để cứu loài người khỏi vòng oan nghiệt đó, Chúa Con đã vâng theo ý Chúa Cha, hạ mình xuống thế làm người, gánh lấy tội lỗi muôn người và Ngài đã bước xuống dòng sông Gio-đan chịu thanh tẩy vì tội lỗi con người… Chính vào thời điểm đáng nhớ này, “cửa trời mở ra và Thánh Thần Chúa ngự xuống trên Ngài.”
Đây là thời khắc lịch sử hết sức trọng đại: Cửa thiên cung từ ngàn xưa đã đóng lại vì tội bất phục tùng của A-đam-cũ, cắt đứt mọi tương quan giữa Thiên Chúa và loài người, thì trong giờ phút này, nhờ sự vâng phục tuyệt đối của A-đam-mới là Chúa Giê-su, cửa trời được mở ra… mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên giao hoà giữa Thiên Chúa và nhân loại, tương quan giữa Thiên Chúa và con người được nối lại, trời giao hoà với đất, Thiên Chúa giao hoà với con người, con người được trở về với Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa là Đấng vô cùng tốt lành thánh thiện đã mang tội lỗi chúng con vào thân, đã hòa mình với các tội nhân bên bờ sông Gio-đan và khiêm tốn bước xuống dòng nước lãnh nhận phép rửa vì chúng con; Trong khi đó, chúng con là những người đầy tội lỗi nhưng chẳng biết nhìn nhận tội mình để ăn năn sám hối, thì thật đáng trách.
Xin giúp chúng con khiêm tốn nhận mình là người tội lỗi và thực lòng ăn năn sám hối, nhờ đó, cửa trời cũng sẽ mở ra để đón nhận chúng con vào chốn hồng phúc đời đời. Amen.
Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
Ai cũng biết tầm quan trọng của nước trong đời sống con người, đến nỗi người ta so sánh: nước là sự sống. Con người cũng như động vật cỏ cây không thể sống nếu không có nước.
Nước diễn tả sự sống một cách đặc biệt trong nghi thức thanh tẩy, là bí tích nền tảng trong bảy bí tích của Kitô giáo. Nhờ quyền năng của Thiên Chúa, dòng nước thanh tẩy có khả năng tái sinh, làm cho người lãnh nhận được “sinh ra một lần nữa” trong ân sủng. Qua dòng nước này, người Kitô hữu được trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa, là anh chị em với mọi tín hữu khác, như những chi thể của cùng một thân thể, như những thành viên trong cùng một gia đình Giáo Hội. Nếu nước của trận Hồng thuỷ thời Cựu ước đã huỷ diệt một nhân loại bị nhuốm màu tội lỗi để thiết lập một tạo thành mới tốt lành hơn, thì nước của bí tích Thanh tẩy cũng nhấn chìm và huỷ diệt con người cũ, tái tạo con người mới, trong Đức Kitô.
Đối với người tín hữu, lãnh nhận Bí tích Thanh tẩy là một khúc rẽ quan trọng trong đời. Qua việc được dìm mình trong dòng nước tái sinh (hay được dội nước trên đầu như trong thực hành hiện nay), họ đoạt tuyệt với quá khứ, bước sang một giai đoạn mới của cuộc đời, tức là hành trình theo Đức Kitô. Bí tích thanh tẩy nhắc nhớ ta luôn cố gắng để nên thánh, vì đó là ơn gọi căn bản của người Kitô hữu: “Các con hãy nên thánh, vì Ta là Đấng Thánh” (Lv 11,45). “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48). Nhờ được mang danh Kitô hữu, người đã lãnh nhận bí tích này còn được mời gọi trở nên hiện thân của Chúa Giêsu giữa lòng cuộc đời, qua việc thực thi ba chức năng quan trọng Chúa ban: chức năng ngôn sứ; chức năng tư tế và chức năng quản trị.
Có lẽ do khiếm khuyết trong việc dạy và học giáo lý, phần lớn các Kitô hữu ít hiểu biết về ý nghĩa và vẻ đẹp của bí tích Thanh tẩy, thậm chí nhiều phụ huynh còn quên không nhớ các con mình đã được rửa tội hay chưa. Vì chưa hiểu đúng bí tích này, nên họ không thể làm cho ơn của bí tích lớn lên trong tâm hồn, đồng thời không cảm thấy vinh dự và niềm vui của những người tín hữu.
Được rửa tội có nghĩa là lịch sử đời chúng ta được chìm đắm trong dòng chảy tình yêu của Chúa. Đức Thánh Cha Benêđitô đã viết: “Đời tôi thuộc về Chúa Kitô chứ không thuộc về tôi nữa… Được Chúa tháp tùng, vâng, được Chúa đón nhận vào tình yêu của Người, tôi được thoát khỏi sợ hãi. Chúa bao bọc tôi và mang tôi đi tất cả nơi nào tôi đi. Người chính là sự sống” (Youtcat, tr. 168).
Thánh Luca trong Tin Mừng hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu chịu phép Rửa. Việc Người xếp hàng cùng dân chúng chờ đợi được ông Gioan Tẩy giả thanh tẩy cho thấy sự khiêm nhường hạ mình của Chúa. Đây cũng là giờ phút linh thiêng, Chúa Cha và Chúa Thánh Thần hiển linh giới thiệu với dân chúng Đấng Messia, tức là Đấng Thiên Sai muôn dân mong đợi. Với việc đón nhận phép rửa bởi tay ông Gioan, Chúa Giêsu bắt đầu cuộc đời công khai, thi hành sứ vụ loan báo Nước Trời. Khi dìm mình xuống dòng nước sông Giordan, Chúa Giêsu đã lập bí tích Thanh tẩy, để rồi, những ai được thanh tẩy nhân danh Chúa Ba Ngôi đều được tái sinh vào cuộc sống mới, trở nên con cái ánh sáng.
Ngày lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa nhắc nhớ mỗi chúng ta về bí tích Thanh tẩy chúng ta đã lãnh nhận, đồng thời khuyên chúng ta hãy cố gắng sống xứng đáng với tước hiệu Kitô hữu. Thánh Phaolô khuyên môn sinh của mình là Titô và các tín hữu “từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này” (Bài đọc II). Thánh nhân cũng phân tích ý nghĩa của bí tích Thanh tẩy, như biểu tượng lòng thương xót dồi dào của Thiên Chúa, nhằm đổi mới cuộc đời chúng ta và cho chúng ta thừa hưởng sự sống đời đời.
Mỗi chúng ta cần ý thức “đời sống mới” được lãnh nhận nhờ bí tích Thanh tẩy. Đời sống mới này cần được tăng trưởng và lớn lên mỗi ngày, để hình ảnh của Chúa ngày càng rõ nét trong ta, đến mức chúng ta có thể nói như Thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).
.
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt
Sông Gio-đăng, tiếng Do Thái là “yarad” có nghĩa là đi xuống. Sông Gio-đăng phát nguồn từ ngọn núi Héc-mon ở độ cao 520m. suốt 220km đường dài dòng sông không ngừng đi xuống. Thoạt tiên sông chảy vào hồ Hu-lê chỉ còn 68m trên mực nước biển. Kế đó sông chảy vào biển hồ Galilê, nơi Chúa Giêsu thường qua lại, và các tông đồ thường chài lưới. Ở đây lòng hồ sâu 212m dưới mực nước biển. Sông tiếp tục chảy xuống miền Nam, đổ vào Biển Chết. Ở đây độ sâu là 394m dưới mức nước biển. Có thể nói đây là điểm thấp nhất của địa cầu.
Khi Chúa Giêsu bước xuống sông Gio-đăng để chịu phép rửa, Người đã xuống chỗ thấp nhất không chỉ về chiều sâu theo không gian địa lý mà còn về chiều sâu tâm lý xã hội. Bước xuống để Gioan Baotixita làm phép rửa tội, Chúa Giêsu đã hoà mình vào dòng thác người tội lỗi, cần thống hối ăn năn. Tuy đến để cứu độ người tội lỗi, nhưng Chúa Giêsu không cho mình quyền đứng trên kẻ tội lỗi. Người đã hạ mình xuống ngang hàng với họ, liên đới với họ và trở nên anh em của họ. Không ai nhận ra Người. Mọi người đều cho rằng Người là một trong những kẻ tội lỗi.
Trong đêm Giáng Sinh, ta được chứng kiến một Thiên Chúa hạ mình xuống làm người. Làm một người bé nhỏ nghèo hèn như chưa đủ đối với tình yêu thương vô biên của Thiên Chúa, nên hôm nay người lại hạ mình xuống thêm một bậc nữa, xuống tận đáy xã hội nhân loại khi nhận mình tội lỗi.
Hôm nay, bắt đầu cuộc đời công khai của Chúa Giêsu. Người bắt đầu xuất hiện để rao giảng Tin Mừng. Trước khi tiến ra gặp gỡ quần chúng, Chúa Giêsu đã tới gìm mình trong dòng sông Gio-đăng. Để chuẩn bị ra gặp loài người Chúa Giêsu cảm thấy cần phải thanh tẩy. Mặc lấy xác phàm, Chúa Giêsu chưa cảm thấy mình gần với nhân loại cho đủ. Người còn hạ mình xuống làm một người tội lỗi. Người gìm mình xuống lòng sông Gio-đăng, dường như muốn mượn làn nước trong xanh tẩy sạch đi tất cả dáng vẻ cao quý của Thiên Chúa còn vương vấn nơi thân xác nhân loại của Người. Tẩy sạch đi tất cả những gì ngăn cách, để Người được thực sự là một người anh em của mọi người.
Dòng nước sông Gio-đăng có trong xanh đến mấy cũng đâu đủ sức rửa Thiên Chúa làm người. Thực ra chính Người tự rửa mình bằng sự khiêm nhường thẳm sâu. Khiêm nhướng là một phép rửa. Vì khiêm nhường là sự quên mình, là chết đi một chút. Gìm mình vào dòng sông là chấp nhận đau khổ và chết đi. Cái chết chính là phép rửa như Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Thầy còn phải chịu một phép rửa, và Thầy những bồn chồn chờ đến lúc hoàn tất” (Lc 12,50). Người còn hỏi hai ông Gioan và Giacôbê khi hai ông này đến xin được ngồi bên tả, bên hữu trong nước Người: “Các ngươi có thể uống chén Ta uống và chịu thanh tẩy thứ thanh tẩy Ta phải chịu không?” (Mc 10,38). Khi nói thế Chúa Giêsu có ý nói đến cái chết Người sẽ phải chịu.
Một câu châm ngôn nói; Không ai thấy được tình yêu. Người ta chỉ thấy được những bằng chứng của tình yêu. Bằng chứng tình yêu của Chúa Giêsu đối với ta đó là sự hạ sinh làm một em bé nghèo hèn yếu ớt. Đó là sự khiêm nhường hoà mình vào đoàn lũ những tội nhân tới gìm mình trong dòng sông Gio-đăng. Tình yêu đã thúc đẩy Người đi những bước táo bạo, bất ngờ. Mượn dòng nước sám hối xoá đi mọi khoảng cách còn lại giữa Thiên Chúa và con người.
Cử chỉ khiêm nhường của Người là một lời mời gọi ta. Nếu ta cảm thấy mình còn xa cách Chúa. Nếu ta cảm thấy mình cần được thanh tẩy. Đừng ngần ngại thay đổi đời sống. Hãy mạnh dạn tiến đến lãnh nhận phép rửa của Chúa Giêsu để trở nên gần gũi với Người. Nếu ta chưa thể lãnh nhận phép rửa trong cái chết tủi nhục như Chúa Giêsu, ta vẫn có thể được thanh tẩy trong phép rửa khiêm nhường. Hãy rửa mình trong dòng lệ sám hối. Hãy tắm mình trong dòng nước khiêm cung. Như lời vua Đavit nói: “Lễ dâng Chúa là tâm hồn sám hối. Một tấm lòng tan nát giày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê” (Tv 50)/
Khiêm nhường sám hối là bước khởi đầu để ta đón nhận Phúc Âm. Khiêm nhường sám hối là quay trở về nhà Cha, sống trọn tâm tình của người con thảo hiếu. Khi khiêm nhường trở về, ta sẽ gặp được người Cha nhân hậu đang đứng chờ ta. Người sẽ nói về ta như nói về Chúa Giêsu: “Đây là con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về con”.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con biết đến với Chúa và đến với anh em bằng sự khiêm nhường sám hối. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Ngày nay ai cũng công nhận rằng Đức Thánh Cha Phanxico là con người bình dị. Bình dị trong cách sống đến mức độ có thể cúi xuống hôn người cùi hủi, cúi xuống hôn đôi chân bụi đời của những trẻ em phạm pháp . . . Ngài đã đi vào lòng người không phải bằng những giáo thuyết cao sâu mà bằng một lối sống giản dị nhưng đầy lòng cảm thông, chia sẻ với mọi phận người cùng khốn.
Có thể nói lối sống bình dị thân mật là cách tiếp cận người khác tốt nhất. Đôi khi chỉ cần một cái bắt tay, một ánh mắt nhìn, một lời hỏi thăm có thể khiến hai người xa lạ xích lại gần nhau. Trước một người luôn trầm tư, nghiêm nghị, ta cảm thấy ngại ngùng, nhưng trước một con người luôn sẵn sàng chia sẻ niềm vui với mọi người, luôn chan hòa tình người sẽ tạo ra bầu không khí chan hoà vui tươi.
Cuộc đời sẽ đẹp biết bao khi chúng ta phá bỏ đi những vỏ bọc của thành kiến, của cái tôi cao ngạo để sống hòa hợp với mọi người. Cuộc sống sẽ không còn cô đơn buồn tủi khi mỗi người biết cúi xuống để quan tâm chia sẻ với nhau.
Đây là cách bước vào đời mà Chúa Giê-su đã làm gương cho chúng ta. Ngài đến trần gian trong khiêm tốn nơi hang đá bò lừa Belem. Ngài sinh ra trong một gia đình thợ nghèo miền Nagiaret. Ngài còn hòa nhập vào đám đông tội nhân để cúi mình lãnh nhận phép rửa tại sông Giordan. Chính sự khiêm tốn, giản dị hòa nhập ấy mà từ trời cao đã vọng lên tiếng Chúa Cha: “Đây là Con Ta yêu dấu”.
Trong suốt 3 năm rao giảng Tin mừng Ngài luôn chan hòa tình yêu với những mảnh đời bất hạnh khổ đau. Mọi phận người khổ đau đều được Ngài xoa dịu chữa lành. Ngài đã phục hồi cho người mù được thấy, người điếc được nghe, người câm nói được và người què được nhảy nhót như nai. Nhờ sự gần gũi ân cần mà Ngài đã cảm hóa được biết bao người tội lỗi được ăn năn trở lại như Lê-Vi, như Madalena . . .
Năm nay với chủ đề Loan Báo Lòng Thương Xót, Giáo hội như mời gọi chúng ta tin tưởng phó thác nơi Lòng Thương Xót Chúa. Hãy để ân sủng Chúa bao trùm trên cuộc đời chúng ta. Hãy để Lòng thương xót Chúa chữa lành hồn xác chúng ta. Hãy tín thác vào lòng thương xót Chúa. Chúa Giê-su vẫn đang đi vào lòng người không phải để kết án mà để phủ lấp tình thương và ân sủng Chúa trên cuộc đời chúng ta. Chính Chúa đã bước xuống dòng sông Giordan để thanh tẩy dòng nước, và hôm nay Ngài cũng đang bước xuống dòng đời này để thánh hóa chúng ta bằng ân sủng của lòng Thương Xót Chúa.
Xin cho chúng ta biết tin tưởng vào lòng Thương Xót Chúa mà chạy đến với Ngài trong những khó khăn cuộc đời. Ước gì chúng ta luôn tìm được sức mạnh của sự đỡ nâng từ Lòng Thương Xót Chúa để được bình an và hạnh phúc trong cuộc sống. Amen.
.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Sự kiện Chúa Giêsu chịu Phép Rửa là gạch nối giữa hai giai đoạn quan trọng: sống ẩn dật 30 năm âm thầm với gia đình tại Nadarét và rao giảng công khai sứ vụ loan báo Tin Mừng. Đây cũng là gạch nối giữa hai mùa phụng vụ : Giáng sinh và Thường niên.
Hôm nay Chúa nhật I thường niên, Giáo Hội sẽ cùng đồng hành với Chúa Giêsu qua các biến cố của đời rao giảng, khởi đầu là sự kiện Chúa chịu phép rửa của Gioan Tẩy Giả tại sông Giođan.
Bài Tin Mừng nói đến ba dạng Phép rửa.
Đây là Phép Rửa bằng nước do Gioan thực hiện tại sông Giođan “Tôi làm phép rửa bằng nước để làm dấu hiệu cho thấy anh em đã ăn năn sám hối “(Mt 3,11). Ai chịu phép rửa đều phải có một thái độ nội tâm cũng như bên ngoài, phải tin vào sứ điệp của Gioan, phải trở lại thực lòng, phải quay về với Thiên Chúa.Tuy nhiên, phép rửa của Gioan chỉ có tính cách tượng trưng, tự nó không có sức xóa bỏ được tội lỗi mà chỉ là nghi thức nhắc nhở cho mọi người phải ăn năn sám hối và cải thiện đời sống. Phép rửa sám hối chỉ là nghi thức mang tính tẩy trần, nếu có giá trị thì chỉ theo quy định của lề luật thôi, còn chưa có hiệu quả đích thực tôn giáo. Chính Gioan Tẩy Giả đã minh định : “Đấng cao trọng hơn tôi đang đến, Ngài quyền phép hơn tôi, chính Ngài sẽ rửa anh em trong Thánh Thần và bằng lửa”. (Mt 3,11). Gioan làm phép rửa sám hối để dọn lòng dân chúng đón chờ Đấng Cứu Thế.
Khởi đầu cuộc sống công khai, Chúa Giêsu tìm đến sông Giođan để xin Gioan Tẩy Giả cử hành phép rửa cho mình. Phép rửa Chúa Giêsu chịu là Phép rửa mạc khải về một kỷ nguyên mới đã bắt đầu. Chính khung cảnh thần hiển của bài Tin mừng kể là một mạc khải sống động về Ba Ngôi: Chúa Giêsu cúi mình trên dòng nước, Chúa Thánh Thần ngự xuống dưới hình bồ câu và tiếng Chúa Cha xác nhận “Này là Con Ta yêu dấu”.
Thật lạ lùng, trong số những người đến “xưng thú tội lỗi” ( Mc 1,5) và chịu “ phép rửa sám hối để đước ơn tha tội” (Mc 1,4) lại có Chúa Giêsu. Người là Đấng Thánh, là Thiên Chúa, siêu việt tuyệt đối, tại sao lại đến xin Gioan làm phép rửa sám hối ? Người là Đấng mà Gioan “không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Ngài ” lại có thể đứng chung với đám đông người tội lỗi chờ đến lượt mình được chịu thanh tẩy? Đây là động thái gây kinh ngạc cho con người thời nay, vì khó hiểu: Đấng không có tội lại đi nhận phép rửa làm gì? Nhưng người ta cũng sớm hiểu ra rằng: phép rửa của Gioan Tẩy Giả chỉ là nghi thức mang tính tẩy trần, nếu có giá trị thì chỉ theo quy định của lề luật thôi, còn chưa có hiệu quả đích thực tôn giáo. Chính Gioan Tẩy Giả đã minh định: “Tôi rửa anh em trong nước, nhưng Đấng đến sau tôi sẽ rửa anh em trong Thánh Thần và trong lửa”. Khi Chúa Giêsu nhận phép rửa này, ngoài việc “nhập thế đến cùng”, khiêm tốn xếp hàng đứng chung với các tội nhân đợi chờ đến phiên, Người còn hữu ý qua động thái có một không hai đó, công khai khởi đầu cuộc sống mới: cuộc rao giảng Tin Mừng cho mọi người.
Có ba dấu hiệu bài Tin mừng mạc khải không những tiên báo sự sống lại vinh hiển của Đức Kitô mà còn tiên báo thời đại ân sủng mà Người mang đến cho loài người.
– Dấu hiệu 1 : Trời mở ra.
Sách Sáng thế đã nói : Ađam và Evà phạm tội, cửa thiên đàng đóng lại (St 3,23-24). Qua biết bao thế kỷ, Dân Thiên Chúa đã thiết tha cầu nguyện “Ôi ước chi Ngài xé rách các tầng trời và ngự xuống” (Is 64,1). Nhờ Chúa Kitô, từ nay trời mở ra, một kiểu nói của Thánh Kinh ngụ ý là con người từ nay được sống thông hiệp với Thiên Chúa.
– Dấu hiệu 2 : Thánh thần ngự xuống như chim bồ câu.
Sách Sáng Thế có nói:Trước khi tạo dựng trời đất thì “Thánh Thần Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” (St 1,2) như để thông truyền sức sống. Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, Chúa Thánh Thần ngự xuống dưới hình chim bồ câu thì ngụ ý: Chúa Giêsu là con người mới và trong Người nhân loại sẽ được tạo dựng lại, sẽ được đổi mới. Chính Thánh Phaolô xác định : “Điều quan trọng chẳng phải là việc cắt bì hay không cắt bì, nhưng là trở thành tạo vật mới” (Gal 6,15)
– Dấu hiệu 3 : Lời của Chúa Cha : “Con là con yêu dấu của Ta”.
Qua lời tuyên bố này chúng ta nhận biết Đức Giêsu là con thật của Thiên Chúa, và sau này Đức Giêsu dạy cho biết: những ai tin vào Người và nhận phép rửa nhân danh Người thì cũng được thông phần vào địa vị làm con Thiên Chúa.
Phép Rửa của Gioan là Phép Rửa bằng nước mời gọi sám hối. Phép rửa của Chúa Giêsu là Phép Rửa tái sinh. Phép rửa này ban cho người được rửa một đời sống mới. Thánh Phaolô đã giải thích về đời sống này cho những người vừa được rửa tội như sau: “Khi được rửa tội, anh em được an táng với Đức Kitô và trong phép rửa anh em cũng được sống lại với Đức Kitô. Anh em đã từng bị chết về mặt tâm linh nhưng giờ đây Thiên Chúa đã mang anh em đến nguồn sống cùng với Đức Kitô.” (Cl 2,12-13). Như vậy qua Phép Rửa tái sinh, Chúa Giêsu chia sẻ cho những người được rửa tội đời sống thần linh của Ngài. Đó là sự sống trong Chúa Ba Ngôi. Người tín hữu trở thành thành viên trong Dân Chúa Cha, chi thể trong Thân Mình Chúa Kitô và viên đá sống động kiến tạo Đền Thờ Chúa Thánh Thần, nghĩa là trở nên con cái Thiên Chúa và được thông phần vào sự sống của chính Thiên Chúa hằng sống. Bí tích Rửa tội chính là một phép lạ cả thể tác động trên một cá thể trong suốt chiều dài cuộc sống. Người ta được tắm gội trong sự chết và phục sinh của Đức Kitô và được thần hóa một cách nhiệm mầu, để từ đó có thể phát biểu ngất ngây như thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi”, hay đầy xác quyết như thánh Augustinô: “Chúa đã tạo dưng con người cách lạ lùng và còn tái tạo con người cách lạ lùng hơn nữa”.
Bí Tích Rửa Tội là nền tảng của toàn bộ đời sống Kitô hữu, là cửa ngõ dẫn vào đời sống thần linh và mọi bí tích khác. Nhờ bí tích này chúng ta được giải thoát khỏi tội lỗi và tái sinh làm con cái Thiên Chúa, thành chi thể của Đức Kitô, được gia nhập và tham dự sứ mạng của Hội Thánh (GLCG #1213).
Bí Tích Rửa Tội tha thứ nguyên tội, mọi tội cá nhân và các hình phạt do tội. Bí Tích Rửa tội cho tham dự vào đời sống của Thiên Chúa Ba Ngôi nhờ ơn thánh hoá, nhờ ơn công chính hoá giúp tháp nhập vào Đức Kitô và Hội Thánh. Bí tích này cho tham dự vào chức tư tế của Đức Kitô và tạo nền tảng cho sự hiệp thông với tất cả các Kitô hữu. Bí tích này trao ban các nhân đức đối thần và các hồng ân của Chúa Thánh Thần. Người lãnh nhận bí tích Rửa tội thuộc về Đức Kitô luôn mãi: họ được đóng ấn không thể xóa được của Đức Kitô (GLCG #263).
Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và Gioan tại sông Giođan đã làm nên lịch sử và đã được Giáo hội chọn làm khởi điểm cho mùa thường niên là mùa phụng vụ cử hành các mầu nhiệm cuộc đời rao giảng tin mừng của Chúa Giêsu. Biến cố này không chỉ là cuộc bàn giao cũ mới mà còn là điểm giao duyên giữa trời và đất, giữa Thần khí và nước, giữa Tân ước và Cựu ước. Từ nay nhân loại được tái sinh trong đời sống mới. Qua Bí tích Rửa tội, chúng ta được tái sinh trong của Chúa Giêsu nhờ ghi dấu ấn tín của Chúa Thánh Thần và được trở nên con cái Thiên Chúa. Trong phép lần hạt Năm Sự Sáng, gẫm thứ nhất, chúng ta vẫn đọc: “Thứ nhất thì ngắm, Đức Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan. Ta hãy xin cho được sống xứng đáng là con cái Chúa”. Theo gương Mẹ Maria, chúng ta xin được sống gắn bó với Chúa Giêsu mật thiết hơn, để xứng đáng là những người con yêu dấu của Thiên Chúa.
.
Lm. GB Văn Hào
Biến cố Chúa chịu phép rửa được cả ba sách Tin mừng nhất lãm kể lại. Sự kiện này đánh dấu việc khởi đầu sứ vụ rao giảng công khai của Đức Giêsu. Trình thuật cũng tiên báo về bí tích rửa tội mà Chúa Giêsu sẽ thiết lập qua cái chết và sự Phục sinh của Ngài.
Một cuộc lễ phong vương trong khiêm hạ
Ngày xưa, khi một người sắp được tấn phong làm vua, người ta tiến hành nghi thức gồm 3 giai đoạn: Tắm rửa sạch sẽ, xức dầu thơm và nghi lễ phong vương long trọng. Bài Tin mừng hôm nay cũng phác vẽ tiến trình ấy. Đức Giêsu được dìm xuống để tẩy rửa trong dòng sông Giorđan. Ngài được Thánh Thần xức dầu và đậu xuống trên Ngài. Sau cùng Ngài được chính Chúa Cha tấn phong qua lời tuyên bố ‘Đây là Con ta yêu dấu, đẹp lòng ta mọi đàng’. Tuy nhiên cuộc phong vương mà phụng vụ hôm nay gợi nhắc chỉ là hình bóng. Đức Giêsu sẽ thực sự được tấn phong làm Vua khi Ngài được tắm rửa bằng máu đổ ra trên Thập giá, được xức dầu tẩn liệm trong huyệt đá và được Chúa Cha cho Phục sinh để khai mở một triều đại mới, một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên ơn cứu độ.
Các chi tiết mà thánh Luca mô tả trong Tin mừng hôm nay đều mang chở những nội dung rất sâu xa. Trước hết, sự kiện trời mở ra diễn bày sự giao hòa giữa trời và đất. Theo quan niệm Do thái cổ xưa, Thiên Chúa ở tít trên cao và con người ở sâu tận trong vực thẳm dưới đất thấp. Có cả một khoảng cách mênh mông con người không thể vươn tới. Cửa trời mãi khép lại, và con người luôn bị ngập chìm trong bóng tối của tội lỗi và sự chết. Vì vậy trong Cựu ước, chúng ta nghe những lời rên xiết ai oán của dân Chúa vọng lên cao: “Lạy Chúa xin xé trời mà ngự đến với chúng con”. Khi Đức Giêsu thụ tẩy trong dòng sông Hòa giang, bầu trời đã mở toang ra, và đất trời được giao hòa. Đây là hình tượng tiên báo bí tích Thánh tẩy của Tân ước. Một khi được dìm trong máu Đức Giêsu, chúng ta cũng được tẩy sạch mọi tội lỗi và được nâng lên địa vị làm con cái Chúa. Con người từ đất thấp được vươn lên tới trời cao.
Thứ đến, Thánh Luca thuật lại việc Chúa Thánh Thần đậu xuống trên Đức Giêsu dưới hình chim bồ câu. Tác giả sách Sáng Thế mô tả Thần Khí như là nguyên lý tác sinh vũ trụ : “ Thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” (St 1, 2). Khi Đức Giêsu sống lại, Ngài cũng hiện ra với các Tông đồ và ‘thổi hơi ban Thánh Thần’ (Ga 20, 22). Như vậy sự hiện diện của Thần khí chứng thực một cuộc tạo dựng mới, đem đến cho con người luồng sinh khí mới để chúng ta được sống sung mãn trong nguồn ân sủng. Chúa Giêsu lãnh phép rửa để khai mở ơn cứu độ. Ngài bắt đầu đi rao giảng Tin mừng, và đây là Tin mừng giải phóng, phục hồi nơi ta sự sống thần linh. Đó chính là sự tái tạo mà Đức Giêsu sẽ thực hiện qua cái chết và sự phục sinh vinh thắng của Ngài.
Cuối cùng, chúng ta nghe câu tuyên bố của Chúa Cha. Lời Thánh vịnh này cũng được lập lại trong đêm Giáng sinh: “Này là Con Ta yêu dấu, ngày hôm nay Ta đã sinh ra Con”. Qua Đức Giêsu, Thiên Chúa cũng thực hiện một cuộc đản sinh mới nơi loài người. Phụng vụ hôm nay là cao điểm và kết thúc mùa Giáng sinh, mùa chúng ta mừng kính việc Thiên Chúa tỏ lộ vinh quang của Ngài nơi Đức Giêsu. Hài nhi Giêsu đến trần gian để thực hiện thánh ý Chúa Cha, diễn bày sự giao hòa trời đất, và dẫn đưa chúng ta đi vào một tạo dựng mới, phục hồi cho chúng ta phẩm giá được làm con cái Chúa.
Văn hóa xếp hàng
Ngày nay, xã hội nói nhiều về loại hình văn hóa này. Sự chen lấn xô xẩy, dành giật nhau là những gì chúng ta thấy xảy ra nhan nhản hằng ngày. Người văn minh rất khó chịu khi nhìn vào những cảnh tượng ấy. Nhiều người vẫn còn nhớ thời bao cấp, chúng ta phải xếp hàng rồng rắn có khi cả ngày mới mua được vé xe đò hay mua được vài ba ký lương thực theo chế độ tem phiếu. Nhưng không phải chỉ chúng ta mà 2000 năm trước đây, Đức Giêsu đã từng đứng xếp hàng bên dòng sông Giorđan. Có điều khá lạ lùng, là Ngài đứng chung với những người tội lỗi để xin thụ tẩy theo lời mời gọi của Thánh Gioan tiền hô. Gioan đã từng tuyên bố cho dân chúng: “ Đây là Chiên Thiên Chúa, đấng gánh tội trần gian”. Thế thì tại sao Con Chiên vô tội ấy lại lặng lẽ đứng xếp hàng, chung với các tội nhân. Đây là một nghịch lý khó hiểu, không phải chỉ đối với Gioan, nhưng còn đối với tâm thức con người thuộc mọi thời đại.
Bài học ở đây không phải chỉ là bài học về ‘văn hóa xếp hàng’, nhưng Đức Giêsu muốn diễn bày một linh đạo sâu xa khi đứng chung với những con người tội lỗi. Ngài tự mang lấy muôn tội của loài người cho dù Ngài hoàn toàn vô tội. Ngài xin được thanh tẩy trong dòng sông, nhưng chính con sông Giorđan ấy mới cần được thanh tẩy. Nơi con người Đức Giêsu, chúng ta khám phá ra hết nghịch lý này đến nghịch lý khác. Những nghịch lý đó nhằm diễn bày chân trời yêu thương rộng mở mà Đức Giêsu đã khai sáng. “Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã ban chính Con một, để ai tin Người Con ấy sẽ được cứu độ” (Ga 3, 16). ‘Văn hóa xếp hàng’ mà Đức Giêsu đi bước trước, hàm chứa bài học sâu xa về sự khiêm hạ sâu thẳm.
Ơn gọi làm con
văn Flannery O’Connor trong tác phẩm “Dòng sông”có viết một câu chuyện hư cấu với nội dung gần giống với câu chuyện chúng ta nghe trong Tin mừng hôm nay. Một giáo sỹ đang giảng đạo cho dân chúng bên cạnh một con sông nhỏ và mời gọi dân chúng sám hối để thụ tẩy. Một dãy người đông đảo đứng xếp hàng nối đuôi nhau để xin ông làm phép rửa. Chú bé Bavel cũng đứng trong dãy người chờ đến lượt mình. Vị giáo sỹ dìm đứa bé xuống nước và làm nghi thức, sau đó xách cổ đứa bé lôi lên khỏi mặt nước và nói: “Này chú bé, lúc nãy chú mày chẳng là cái thớ gì, nhưng bây giờ chú em có giá rồi đấy”. Mọi Kitô hữu chúng ta cũng trở nên có giá vì đã được dìm trong máu cứu độ nơi giếng rửa tội. Chúng ta mang nơi mình giá trị vô song vì được biến đổi hoàn toàn, được lãnh nhận thiên chức trở nên con cái Thiên Chúa. Phẩm giá ưu việt chúng ta có được nhờ vào sự thanh tẩy mà chúng ta đã lãnh nhận qua Bí tích Rửa tội.
Một vị Cha già đã chua chát nhận xét: “Nhiều vị linh mục ngày nay khi được mọi người gọi mình bằng cha, bỗng quên mất đi ơn gọi làm con của mình”. Đây là ơn gọi căn bản và cao quý nhất mà tất cả chúng ta, các Kitô hữu đều được chia sẻ. Cách đây vài thập niên ở Âu Châu, có một phong trào rộ lên đòi tự do một cách vô lối. Nhiều bạn trẻ Công giáo đặt vấn đề tại sao bố mẹ đem tôi đến nhà thờ để rửa tội mà không hỏi ý kiến trước. Họ phải đợi chúng tôi lớn lên, đủ trưởng thành để chúng tôi quyết định về sự tự do chọn lựa của mình. Khi Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đi thăm viếng mục vụ nước Pháp vào những năm thập niên 80, nhiều người đồng loạt ký tên xin ra khỏi Giáo hội vì não trạng và thái độ mang tính ngụy biện giống như vậy.
Không cần nói đâu xa, ngay tại Việt Nam, không ít Kitô hữu vẫn có tên trong giáo xứ, nhưng cuộc sống của họ cũng giống như những con người vô thần, xa rời hẳn mẹ Hội Thánh. Ở bên Pháp người ta vẫn gọi họ là ‘le croyant mais non-practiquant’, chỉ tin trên lý thuyết còn thực hành thì không. Còn chúng ta là những Kitô hữu, chúng ta đã sống ơn gọi Bí tích rửa tội như thế nào?
Kết luận
Phụng vụ hôm nay gợi nhắc về ơn gọi cao quý chúng ta đã lãnh nhận nơi giếng rửa tội. Chúng ta nhìn vào gương mẫu Đức Giêsu, một Con Chiên vô tội đã tự hạ, xếp mình ngang hàng với những tội nhân hèn mọn. Về phần chúng ta, chúng ta có đủ khiêm tốn nhận ra những bất toàn nơi con người mình để cố gắng sống thật sung mãn ơn gọi của Bí tích rửa tội hay không? Bí tích thánh thiêng ấy đã ghi ấn tích vĩnh viễn nơi tâm hồn chúng ta, một ấn tích không thể xóa nhòa. Còn lại, chúng ta có bổn phận phải phát huy và sống thật trọn vẹn ơn gọi cao quý này.
.
Trầm Thiên Thu
Thương xót là chạnh lòng trắc ẩn, biết mủi lòng trước nỗi khổ của người khác. Cảm xúc mỗi người có mức độ khác nhau. Có người dễ rơi lệ, có người khó rơi lệ; có người đau lòng một thời gian dài, có người khóc òa, có người khóc không ra tiếng; có người đau lòng trong thời gian ngắn. Đó là cảm xúc trào dâng hầu như không thể kìm nén khi trong lòng nhói đau, mất mát điều gì đó quan trọng. Nhưng cảm xúc đó có thực sự hay không, đó mới là vấn đề.
Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta (Ep 2:4), Ngài là Cha giàu lòng từ bi lân ái và luôn sẵn sàng nâng đỡ ủi an (2 Cr 1:3). Vì là con cái của Ngài, chúng ta phải nên giống Ngài, như người Việt nói “con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”, nghĩa là chúng ta phải “cố gắng trở nên người công chính, đạo đức, giàu lòng tin và lòng mến, sống nhẫn nại và hiền hòa” (1 Tm 6:11).
Vì thương xót chúng ta, Chúa Giêsu đã nhập thể và nhập thế, sinh nghèo khó, sống khổ sở và chết đau thương. Tôi tớ không hơn chủ, trò không hơn thầy, thế nên chúng ta phải không ngừng cố gắng sống “nhân từ như Chúa Cha là Đấng nhân từ” (Lc 6:36) và “yêu thương nhau như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta” (Ga 13:34; Ga 15:12).
Chúa Giêsu là Đấng Ái Tử, phàm ngôn gọi là “con cưng”, nhưng Ngài không được chiều chuộng, không ngồi mát ăn bát vàng, mà phải chịu trăm cay ngàn đắng vì tuân phục và vì thương xót nhân loại chúng ta, nên Ngài có nickname là “Người Tôi Trung” hoặc “Người Tôi Tớ Đau Khổ”.
Ngôn sứ Isaia cho biết: “Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn và quý mến hết lòng, Ta cho thần khí Ta ngự trên nó; nó sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân. Nó sẽ không kêu to, không nói lớn, không để ai tiếng giữa phố phường” (Is 42:1-2). Người Tôi Trung đó là Con Thiên Chúa, nhưng Ngài tự hạ mình xuống ngang với chúng ta, thậm chí còn bị chúng ta ruồng bỏ và xử tệ, thế mà Ngài vẫn nín thinh, làm ngơ, không chấp lách chúng ta chỉ vì Ngài cảm thông tính bướng bỉnh của chúng ta, luôn yêu thương chúng ta hết lòng.
Phàm nhân không thể hiểu nổi Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, đúng như Blaise Pascal (1623-1662) cảm nhận: “Thiên Chúa là Đấng không thể dò thấu. Chúng ta không thể nói được gì về Thiên Chúa. Tất cả những gì chúng ta nói về Thiên Chúa đều chỉ là tưởng tượng”. Tuy nhiên, Lòng Chúa Thương Xót luôn hiện hữu và có thật. Quả thật, phong cách của Người Tôi Trung cũng rất lạ: “Cây lau bị giập, nó không đành bẻ gẫy, tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ tắt đi. Nó sẽ trung thành làm sáng tỏ công lý. Nó không yếu hèn, không chịu phục, cho đến khi thiết lập công lý trên địa cầu. Dân các hải đảo xa xăm đều mong được nó chỉ bảo” (Is 42:3-4). Lòng Chúa Thương Xót vô cùng mầu nhiệm, Đấng Thương Xót quá đỗi diệu kỳ!
Thiên Chúa đã minh định rạch ròi thế này về Đấng Ái Tử Giêsu Kitô: “Ta là Đức Chúa, Ta đã gọi ngươi, vì muốn làm sáng tỏ đức công chính của Ta. Ta đã nắm tay ngươi, đã gìn giữ ngươi và đặt làm giao ước với dân, làm ánh sáng chiếu soi muôn nước, để mở mắt cho những ai mù loà, đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ, dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong chốn tối tăm” (Is 42:6-7). Hạnh phúc thay chúng ta được Chúa Cha trao ban cho Tặng Phẩm Vô Giá là chính Con Yêu Dấu của Ngài – Đức Giêsu Kitô, Đấng Emmanuel.
Chúng ta có dành cả đời để tạ ơn Thiên Chúa cũng không đủ, vì Ngài ban Hồng Ân quá lớn lao. Dù bất xứng nhưng chúng ta vẫn phải biết ơn, như tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “Hãy dâng Chúa, hỡi chư thần chư thánh, dâng Chúa quyền lực và vinh quang. Hãy dâng Chúa vinh quang xứng danh Người, và thờ lạy Chúa uy nghiêm thánh thiện” (Tv 29:1-2). Thiên Chúa khác thường mà bình thường, lạ mà quen, xa mà gần: “Tiếng Chúa rền vang trên sóng nước, Thiên Chúa hiển vinh cho sấm nổ ầm ầm, Chúa ngự trên nước lũ mênh mông. Tiếng Chúa thật hùng mạnh! Tiếng Chúa thật uy nghiêm!” (Tv 29:3-4).
Thiên Chúa nhẹ nhàng mà mạnh mẽ, êm đềm mà dữ dội. Kinh Thánh cho biết về “giọng nói” của Ngài: “Tiếng Chúa lay động cả rặng sồi, tuốt trụi lá cây cao rừng rậm. Còn trong thánh điện Người, tất cả cùng hô: ‘Vinh danh Chúa!’. Chúa ngự trị trên cơn hồng thuỷ, Chúa là Vua ngự trị muôn đời” (Tv 29:9-10). Kỳ diệu quá! Chỉ một thoáng chúng ta thiếu sự quan tâm và lòng thương xót của Ngài thì chúng ta sẽ biến thành hư vô ngay lập tức!
Đấng Thương Xót luôn trắc ẩn với mọi người, đối xử bình đẳng, không phân biệt bất cứ ai hoặc bất cứ thứ gì. Tuy nhiên, Ngài thấy ai càng yếu kém thì Ngài càng quan tâm, chăm sóc, nâng đỡ, vì Ngài đến với mục đích là “tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19:10), thậm chí Ngài còn bỏ 99 con chiên béo tốt và đạo đức để đi tìm chỉ một con chiên ghẻ lở, ốm yếu, xấu xa, tội lỗi (Mt 18:12-14; Lc 15:4-7). Điều đó chứng tỏ Đấng Thương Xót không hề thiên tư tây vị bất cứ ai (Cv 10:34; Rm 2:11; Ep 6:9). Ngài không chỉ muốn chúng ta được sống mà còn muốn chúng ta được sống dồi dào (Ga 10:10), và Ngài yêu thương chúng ta đến cùng (Ga 13:1).
Thật vậy, thời gian sau khi Chúa Giêsu phục sinh, ông Phêrô đã minh định và dõng dạc tuyên bố với mọi người: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận” (Cv 10:34-35). Thật vậy ư? Ông Phêrô giải thích: “Người đã gửi đến cho con cái nhà Ít-ra-en lời loan báo Tin Mừng bình an, nhờ Đức Giêsu Kitô, là Chúa của mọi người. Quý vị biết rõ biến cố đã xảy ra trong toàn cõi Giuđê, bắt đầu từ miền Galilê, sau phép rửa mà ông Gioan rao giảng” (Cv 10:36-37). Người Công giáo Việt Nam chúng ta có thể coi như những người con “út mót” của Thiên Chúa vậy. Được biết và tin nhận Ngài là Thiên Chúa cứu độ, chúng ta thực sự vô cùng diễm phúc. Tạ ơn Chúa – Deo gratias!
Ông Phêrô nói rõ ràng về Đấng Thương Xót: “Quý vị biết rõ: Đức Giêsu xuất thân từ Nadarét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người” (Cv 10:38). Thật vậy, chính Chúa Giêsu đã từng xác định: “Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa” (Mc 10:18; Lc 18:19). Vì vậy, chúng ta phải cố gắng thực hành theo Tôn Ý của Chúa Giêsu là không ngừng hoàn thiện để nên giống Chúa Cha (x. Mt 5:48).
Nhưng làm sao để nên giống Thiên Chúa Cha? Chắc chắn không có cách nào hơn là noi gương Thiên Chúa Con – Đức Giêsu Kitô, Đấng Thiên Sai, Đấng Thương Xót, Đấng Luôn-Ở-Cùng-Chúng-Ta (Emmanuel). Ngài luôn ở với chúng ta, chẳng lẽ chúng ta lại không ảnh hưởng tính cách “hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11:29) của Ngài sao?
Hồi đó, khi dân đang trông ngóng Đấng Thiên Sai, họ thấy ông Gioan rất “khác người”, từ phong cách đến ý tưởng, đặc biệt là làm Phép Rửa, và trong thâm tâm họ, ai nấy đều tự hỏi: biết đâu ông Gioan lại chẳng là Đấng Mêsia! Nhưng ông Gioan trả lời mọi người rất thẳng thắn: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong NƯỚC, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong THÁNH THẦN và LỬA” (Lc 3:16). Chính ông Gioan cũng đã xác định: “Người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi” (Ga 1:15 và 30). Rất lạ: đến sau mà có trước, và còn “kỳ lạ” hơn ông Gioan nhiều. Đó là sự thật, người không có đức tin sẽ “chói tai” và không thể hiểu nổi.
Khi toàn dân đã chịu phép rửa, Đức Giêsu cũng chịu phép rửa, dù Ngài không cần chịu phép rửa, nhưng Ngài muốn nêu gương khiêm nhường và nhịn nhục. Khi Ngài đang cầu nguyện, trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Ngài dưới hình dáng chim bồ câu, và có tiếng từ trời phán: “Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” (Lc 3:22).
Lãnh nhận phép rửa là tái sinh bởi Nước và Thánh Thần, thoát kiếp nô tỳ của tội lỗi, thoát vòng kim cô của ma quỷ để trở nên con cái Thiên Chúa, con cái của Sự Sáng và Sự Thật. Và như vậy, chúng ta không thể không thương xót nhau như Thiên Chúa đã thương xót chúng ta trước, khi chúng ta còn là những tội nhân. Hoàn toàn hợp lý!
Qua Thánh nữ Faustina, Thánh Tử Giêsu đã dạy chúng ta cầu xin không ngừng: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài”. Điều đó thật chí lý, bởi vì Ngài xác định: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14:6). Muốn hoàn thiện và nhân từ như Chúa Cha thì các tội nhân chúng ta phải noi gương Đấng Thương Xót Giêsu Kitô.
Lạy Thiên Chúa, xin thanh tẩy hồn xác con và tái tạo trái tim con nên giống Đức Giêsu Kitô, và xin giúp con cũng biết tẩy rửa cuộc đời bằng Lòng Thương Xót của Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
.
Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Kitô hữu ngày nay biết Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể; nhưng những người ngày xưa như dân Bêlem, dân làng Nadarét và cả những người nghe Đức Giêsu rao giảng, đều không biết Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể. Họ đã đối xử với Đức Giêsu như một con người. Vì thế, khi Đức Giêsu mặc khải Ngài ngang hàng với Thiên Chúa thì Ngài bị người ta kết án tử hình. Đối với người thời đó, không có chuyện Thiên Chúa ba ngôi vị, nên chẳng có chuyện Thiên Chúa nhập thể.
Đức Giêsu là con của Đức Maria ở Nadarét. Ngài đã được sinh trong chuồng chiên cừu ở Bêlem khi cha mẹ Ngài không tìm được chỗ qua đêm. Ngài sinh ra như một người nghèo hèn nhất trong thiên hạ. Không ai biết chân tướng của Ngài. Có lẽ cả Đức Maria và thánh Giuse cũng chỉ biết Đức Giêsu là một người rất đặc biệt, là người của Thiên Chúa, nhưng vẫn chưa biết Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Người ta chỉ biết Thiên Chúa là ba ngôi vị sau biến cố Đức Giêsu Phục Sinh.
Đức Giêsu đã sống một thời gian dài ở Nadarét như tất cả những người Do Thái thời đó. Ngài hành nghề lao động như bao người nghèo. Tin về Gioan con ông Dacaria rao giảng làm phép rửa sám hối đến làng Nadarét, chắc Đức Giêsu không phải là người duy nhất từ Nadarét muốn đi nhận lãnh phép rửa sám hối với Gioan. Có lẽ Ngài đã xin Đức Maria, và được sự đồng ý của Mẹ, Ngài đã lên đường tới sông Giordan. Ngài chờ đợi tới phiên mình. Ngài cũng gục đầu sám hối như bao người. Ngài cảm thấy mình liên đới với con người tội lỗi. Ngài thống hối xin Thiên Chúa tha thứ tội lỗi cho tất cả mọi người. “Đây chiên Thiên Chúa, đây Đấng gánh tội trần gian”. Ngài chịu phép rửa, vì Ngài gánh tội trần gian.
Đức Giêsu đã sống một thời gian dài sống ở Nadarét, vì Ngài không thấy Thiên Chúa muốn Ngài làm điều gì đặc biệt. Với biến cố này, Thiên Chúa thúc đẩy Ngài tới với Gioan để nhận phép rửa sám hối. Sau khi lãnh nhận phép rửa sám hối, Thánh Thần Thiên Chúa đã thúc đẩy Ngài vào sa mạc ăn chay cầu nguyện (Mt.4, 1tt). Ngài cầu nguyện để biết Thiên Chúa muốn Ngài làm gì. Đức Giêsu là một người chia sẻ thân phận con người hoàn toàn, nghĩa là, Ngài cũng chấp nhận “đi tìm ý Thiên Chúa” như tất cả mọi người. Cũng chính trong bầu khí này mà người ta hiểu tại sao Ngài lại bị cám dỗ. Ma quỷ cám dỗ Ngài làm sai ý của Thiên Chúa Cha, nhưng Ngài đã chống lại. Đức Giêsu đã chiến thắng.
Đức Giêsu cũng đã phải nhận định xem mình có nên chịu phép rửa hay không, vì Ngài thấy mình đâu có tội lỗi gì để mà phải nhận lãnh phép rửa sám hối. Đức Giêsu đã muốn liên đới với con người, với tội nhân, nên Ngài đã đi nhận lãnh phép rửa. Hành vi này của Ngài, đã được Thiên Chúa chuẩn nhận. “Khi Ngài đang cầu nguyện, thì trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim câu. Và có tiếng từ trời phán rằng: ‘Con là Con yêu dấu của Cha; Cha hài lòng về Con’”.
Hành vi Đức Giêsu nhận lãnh phép rửa sám hối, làm đẹp lòng Thiên Chúa. Khiêm tốn, liên đới với người nghèo và người tội lỗi, là cung cách hành xử của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã thực hiện đúng ý Người. Đức Giêsu luôn tìm kiếm ý Thiên Chúa, và một khi thấy thì Ngài thi hành:
Của ăn của Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta (Ga.4, 34),
Lạy Cha, nếu có thể thì xin cho con khỏi uống chén này, nhưng đừng theo ý con, mà theo ý Cha.
Đức Giêsu luôn tìm kiếm để biết Thiên Chúa muốn Ngài làm gì. Sở dĩ vậy, vì Đức Giêsu chia sẻ thân phận con người hoàn toàn (Dt.2, 17; 4, 15). Con người không biết nên phải tìm kiếm ý Thiên Chúa, thì cũng vậy Đức Giêsu cũng chia sẻ tính vô tri này của con người, và Ngài cũng phải liên tục tìm biết ý Thiên Chúa.
Khiêm tốn là nhìn nhận sự thật về chính mình. Đức Giêsu đã nhìn nhận sự thật về chính Ngài, và hơn nữa, Ngài còn tự hạ mình, muốn chia sẻ thân phận của anh em mình vì yêu thương. Hành vi này của Ngài, đã làm đẹp lòng Thiên Chúa Cha. Hành vi khiêm tốn, là hành vi chấp nhận sự thật về chính mình, và cũng là hành vi được điều khiển bởi tình yêu. Yêu thương sẵn sàng hy sinh chính mạng sống mình để anh em mình được sống.
Biến cố Đức Giêsu xuất hiện, đã được Giáo Hội nhìn như một biến cố đặc biệt mà Cựu Ước đã loan báo như chúng ta nghe trong bài đọc thứ nhất: “Hỡi kẻ loan tin mừng cho Sion, hãy trèo lên núi cao; Hỡi kẻ loan tin mừng cho Yêrusalem, hãy cất tiếng lên cho thật lớn … kìa Thiên Chúa các ngươi đang tới”. Nơi Đức Giêsu, người ta thấy vinh quang của Thiên Chúa. Thiên Chúa đến cách đặc biệt nơi Đức Giêsu.
Biến cố Đức Giêsu cũng đã chi phối và biến đổi đời sống của những người tin Ngài một cách dứt khoát. Đời sống của Kitô hữu phải dọi theo đời sống của chính Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu luôn chọn ý Thiên Chúa trên tất cả, Ngài luôn yêu thương anh chị em mình. Ngài yêu họ đến độ dám hy sinh chính mạng sống mình cho họ, nói cho họ biết Thiên Chúa yêu thương họ đến cùng khi cho Con Ngài nhập thể, cho dù khi nói như vậy Ngài bị người ta hiểu lầm và giết Ngài. Đức Giêsu là người đã đến sống cho tình yêu và chết cho tình yêu. Xin cho mỗi người chúng ta sống theo gương Ngài, yêu thương và khiêm tốn, để đem hạnh phúc cho những người chúng ta gặp gỡ và sống với.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
.
Lm. Nguyễn Nguyên
Sống ở đời, ai cũng mang trong mình một tâm lý thường tình là muốn mình được trọng vọng, được đề cao, được vượt trội hơn người khác.
Tất cả những điều đó phản ảnh khuynh hướng kiêu căng trong lòng mỗi người. Mà kiêu căng là mối tội thứ nhất trong bảy mối tội đầu. Gọi là mối tội đầu vì nó là căn nguyên đưa tới nhiều thứ tội lỗi khác. Thật vậy, sự kiêu căng chính là đầu mối dẫn tới rất nhiều điều tệ hại trong cuộc sống của con người: Chiến tranh bởi đâu nếu không phải bởi nước này muốn thống trị nước nọ? Ghen tương bởi đâu nếu không phải bởi người này muốn trổi vượt hơn người khác? Hận thù bởi đâu nếu không phải bởi người ta muốn đạp người khác xuống để chiếm lấy vị trí của họ? Nói hành, nói xấu, vu khống, gièm pha bởi đâu nếu không phải bởi người ta muốn tự quảng cáo mình tốt hơn, giỏi hơn người khác, cho người khác là không biết gì?…
Luxiphe vì kiêu căng không muốn phục tùng Thiên Chúa nên đã tự loại mình ra khỏi hàng ngũ các Thiên thần. Ông bà nguyên tổ loài người vì kiêu căng muốn bằng Thiên Chúa nên đã bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, và cửa trời đóng lại. Sự kiêu căng đã tạo nên hố ngăn cách giữa Thiên Chúa và con người. Sự kiêu căng đã dựng nên một hàng rào không cho con người đến với nhau…
Hôm nay, chúng ta mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa. Quang cảnh trong biến cố Ngài chịu phép rửa mà chúng ta vừa nghe trong Tin Mừng có lẽ làm chúng ta thấy mình hổ thẹn biết bao khi để cho tính kiêu căng thống trị và hướng dẫn đời sống mình. Thật vậy, Chúa Giêsu là Thiên Chúa cao cả vô cùng, nhưng Ngài đã mặc lấy những tâm tình và cung cách sống khiêm tốn thẳm sâu. Là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không đòi phải được sinh ra trong một đất nước văn minh, trong một thành phố hoa lệ và trong cung ngọc điện ngà. Trái lại, Ngài đã chấp nhận sinh ra trong một hoàn cảnh bi đát nhất của thân phận làm người.
Ngài đã không chọn cho mình một người cha, một người mẹ danh giá và giàu sang. Trái lại, Ngài chấp nhận làm con của một anh thợ mộc vô danh tiểu tốt và một cô thiếu nữ nhà quê khổ nghèo.
Và hôm nay, khi bước xuống dòng sông để lãnh nhận phép rửa của Gioan, chúng ta mới thấy hết sự khiêm nhường của Thiên Chúa chúng ta. Là Thiên Chúa thánh thiện tuyệt đối, nhưng Ngài lại hạ mình đến xin ông Gioan làm phép rửa như một người dân tầm thường và tội lỗi. Ngài khiêm hạ đến độ làm cho mình trở thành một kẻ vô danh bên cạnh một ông Gioan Tẩy Giả đang được mọi người ngưỡng mộ và kính phục để chia sẻ kiếp người với chúng ta, để nâng loài người chúng ta lên.
Ngài mặc lấy xác phàm để chia sẻ thân phận đói nghèo, đau khổ, bệnh hoạn của con người. Ngài hoá kiếp phàm nhân để nếm trải nỗi ray rứt khắc khoải của tội nhân. Ngài đang cùng nhịp đập con tim với mọi người để cảm thông và yêu thương tất cả, một sự liên đới của tình yêu. Chính trong sự khiêm nhường và tự hạ như thế, Đức Giêsu đã được Thiên Chúa Cha xác nhận “Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha”.
Ngày xưa, do sự kiêu căng của nguyên tổ loài người, cửa trời đã đóng lại. Ngày nay, do sự khiêm hạ của Con Thiên Chúa mà cửa trời lại được mở ra. Trời mở ra nghĩa là mọi ngăn cách giữa Thiên Chúa và con người đã bị xoá bỏ. Con người phản bội nay đã được tha thứ, được phục hồi tước vị làm con Thiên Chúa và được đồng thừa tự gia tài Nước Trời cùng với Chúa Giêsu. Trời được mở ra cho hết mọi người có thể đi vào. Nhưng nếu chúng ta tiếp tục bước vào vết chân kiêu căng của ông bà nguyên tổ, thì cánh Cửa Trời ấy sẽ mãi mãi đóng lại trước mắt chúng ta.
Vậy chớ gì khi mừng kính Chúa Giêsu chịu phép rửa, mỗi người chúng ta cảm nhận rằng, Ngài đang ở gần chúng ta hơn chúng ta tưởng. Ngài đang ở gần chúng ta khi chúng ta mạnh mẽ, lúc chúng ta yếu đuối; buổi thành công cũng như hồi thất bại; phút sa ngã cũng như thời đứng lên; những ngày nắng ấm, những chiều giông bão… đã luôn luôn có Ngài bên cạnh, để rồi mỗi người khiêm tốn và quyết tâm ra khỏi chính mình, ra khỏi những ích kỷ, dứt bỏ những khuynh hướng xấu, đoạn tuyệt với tội lỗi… hầu cất bước tìm về với Ngài. Ngài sẽ băng bó, Ngài sẽ chữa lành, sẽ vác trên vai, sẽ rửa gội thương tích và đem chúng ta về lại trong tình yêu thương của Chúa Cha. Nhất là để chúng ta nghe được những lời yêu thương mà Thiên Chúa đã nói với Chúa Giêsu ngày xưa bên dòng sông Giođan: “Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha.” Amen.
.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Trong vòng vài tuần lễ vừa qua, Giáo Hội cử hành nhiều Lễ Mừng. Mùa Vọng mời gọi chúng ta sám hối và chuẩn bị tâm hồn đón Chúa giáng trần. Mùa Giáng Sinh đã qua. Chúa đã tỏ mình ra cho các mục đồng nơi máng cỏ. Rồi các nhà Đạo Sĩ từ phương xa đã đến tôn kính, bái thờ và dâng lễ vật cho Chúa Hài Nhi. Giáo Hội kết thúc Mùa Giáng Sinh với Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa bởi ông Gioan Tẩy Giả tại sông Giôđan. Nguồn gốc lễ này vào những thế kỷ đầu được cử hành đồng thời với Lễ Hiển Linh. Khi Chúa Giêsu bắt đầu công khai ra giảng đạo và chính thức thi hành sứ mệnh cứu độ, Chúa đã nhập hàng với đoàn dân để nhận phép rửa của Gioan. Phép rửa của Gioan không xóa tội lỗi nhưng là một nghi thức sám hối. Phép rửa là dấu chỉ một sự hối lỗi quay đầu. Biết mình là một bước khởi đầu tu thân. Chúa Giêsu hòa nhập giữa đám đông trong tình liên đới thân phận để từ đó dẫn dắt mọi người ra khỏi vòng nô lệ tội lỗi.
Thiên Chúa đã dùng miệng tiên tri Isaia để loan báo cho toàn dân: “Ta là Thiên Chúa, Ta đã gọi ngươi, vì muốn làm sáng tỏ đức công chính của Ta. Ta đã nắm tay ngươi, đã gìn giữ ngươi và đặt làm giao ước với dân, làm ánh sáng chiếu soi muôn nước (Is 42, 6). Isaia truyền đạt một sứ mệnh được ẩn tàng nơi Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người. Ngài là ánh sáng tỏa chiếu trong đêm tối và soi dọi đường nẻo công chính. Isaia đã giới thiệu Ngài cho toàn dân qua Bài ca Thứ Nhất nói về Người Tôi Trung hiền lành và tín trung: Cây lau bị giập, nó không đành bẻ gẫy, tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ tắt đi. Nó sẽ trung thành làm sáng tỏ công lý (Is 42, 3). Những lời tiên báo này từ từ được tỏ hiện một cách rõ ràng nơi một con người. Người Tôi Trung chính là Chúa Giêsu Kitô sẽ hoàn tất mọi việc để ứng nghiệm các lời tiên tri công bố về Ngài.
Nhìn lại, Giáng Sinh tại quê nhà Việt Nam rất vui, hầu như mọi người cả Lương lẫn Giáo đều nao nức tham dự ngày Sinh Nhật Chúa. Mọi giáo dân tuôn về các Nhà Thờ hân hoan tham dự Lễ Vọng Giáng Sinh và Lễ Giáng Sinh. Trong khi tại các xứ đạo đa văn hóa ở nước ngoài, Mùa Vọng nhiều người chuẩn bị khá rộn ràng để đón mừng Lễ Chúa Giáng Sinh, nhưng chính ngày Lễ Mừng, số người tham dự xem ra rất khiêm tốn. Nhìn chung thấy rằng người ta dành nhiều thời gian cho các sinh hoạt khác như đi mua sắm, tiệc tùng, thưởng ngắm phố chợ và rong chơi. Một số nhóm dân tộc thuộc truyền thống của Nam Mỹ không chú tâm nhiều vào ngày lễ Giáng Sinh, nhưng tâm tình hướng đến việc cử hành Lễ Hiển Linh. Chúng ta biết Chúa đến ban bình an và niềm vui ơn cứu độ cho nhân loại. Niềm vui được lan tỏa khắp nơi tới mọi tâm hồn. Chúng ta không thể giới hạn niềm hoan lạc trong một khoảng thời khắc hay nơi chốn nào. Mỗi người sẽ nhận lãnh niềm vui an lạc trong những hoàn cảnh khác nhau suốt Mùa Giáng Sinh. Điều quan trọng là mỗi người hãy mở lòng đón nhận ơn cứu độ của Chúa.
Con người sống trong thế giới này có quá nhiều khác biệt về niềm tin, tín ngưỡng, văn hóa, ngôn ngữ, truyền thống dân tộc và ý thức hệ. Chúng ta không cần phải tranh cãi hay biện luận về cách thế Chúa giáng sinh, nhưng hãy sống tinh thần của Đấng đã hóa thân làm người. Hãy ngắm nhìn những tượng Chúa Hài Đồng nằm trong máng cỏ với hai bàn tay giơ lên. Hình ảnh thật đẹp! Chúa muốn mở rộng bàn tay đón nhận các tâm hồn về với Chúa. Một tâm tình khác, Chúa Hài Nhi cũng giống như các trẻ thơ khác là muốn được ẵm bế. Chúa giơ tay muốn được Mẹ ẵm vào lòng. Chúa hạ sinh như một bé thơ để cùng chia sẻ sự yếu ớt, khó nghèo, khiêm hạ và mời gọi yêu thương đáp trả. Chúa muốn chúng ta ẵm Chúa như ôm ấp những kẻ bé mọn, cô đơn, mồ côi, tàn tật, khổ đau, nghèo đói và bất hạnh. Chính Chúa Giêsu đã khuyên dạy: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy.”(Mt 25, 45).
Khoảng năm 30 tuổi, ông Gioan xuất hiện công khai kêu gọi mọi người hãy chuẩn bị tâm hồn đón Chúa. Nhiều người chạy đến với Gioan và xin vấn kế: Chúng tôi phải làm gì bây giờ? Gioan đã chỉ dạy họ thay đổi cách sống và thực hành phép rửa sám hối. Bấy giờ chưa có người nào nhận biết Chúa Giêsu là ai? Ông Gioan thi hành sứ vụ của mình là vị tiền hô của Chúa. Ông không tìm vinh quang cho riêng mình, nhưng tập trung chuẩn bị tâm hồn mọi người đón Đấng cứu tinh. Ông Gioan trả lời mọi người rằng: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa (Lc 3, 16). Chính Chúa Giêsu đã nhập đoàn với dân người đến với Gioan xin nhận phép rửa.
Thánh Luca giới thiệu về sứ vụ của Chúa Kitô sau phép rửa sám hối. Sự tác động rất quan trọng của Ba Ngôi Thiên Chúa trong biến cố này. Ngôi Cha chứng dám qua Lời từ trời cao, Ngôi Thánh Thần thánh hóa và Ngôi Con thi hành sứ vụ. Thánh sử Luca viết: Khi toàn dân đã chịu phép rửa, Đức Giêsu cũng chịu phép rửa, và đang khi Người cầu nguyện, thì trời mở ra và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con (Lc 3, 21-22). Đấng Cứu Thế đã đến và mang thân phận con người như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Sau khi nhận phép rửa bởi ông Gioan, Chúa Giêsu đã bắt đầu sứ mệnh rao giảng về Nước Trời.
Chúa Giêsu đã dùng các dụ ngôn và nhiều cách thế đơn sơ để mặc khải về chân lý Nước Trời. Lời của Chúa là lời hằng sống có uy quyền biến đổi tâm can của con người. Ngài mở cửa đón nhận mọi tâm hồn và không loại trừ một dòng dõi dân tộc nào. Thánh Luca đã diễn tả trong sách Tông Đồ Công Vụ: Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận (Tđcv 10, 35). Cửa Nước Trời đã được mở ra cho những ai có thiện tâm tìm kiếm. Giáo Hội tiếp nhận mọi thành phần đa dạng của tất cả các nền văn hóa, tín ngưỡng và chủng tộc. Qui tụ mọi người chung trong một niềm tin vào Chúa Kitô và một niềm hy vọng ngày sau sẽ được chung hưởng sự sống muôn đời.
Mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa cũng nhắc nhớ đến Phép Rửa Tội của mỗi người chúng ta. Chính Chúa Giêsu đã rửa sạch tâm hồn chúng ta trong nước và Thánh Thần. Chúng ta được trở nên thụ tạo mới và được trở thành con cái của Thiên Chúa. Hạt giống niềm tin được gieo vào lòng, việc xức dầu thánh đã in ghi dấu ấn trong tâm hồn, áo trắng tinh sạch được phủ trùm và ánh sáng của Chúa Kitô được gởi gắm cho những vị đỡ đầu chăm nom. Chúng ta nên ghi nhớ ngày đã được sinh lại làm con Chúa và con Hội Thánh qua Bí tích Rửa Tội. Chúng ta đã được tháp nhập vào nhiệm thể Chúa Kitô. Ngài là đầu và chúng ta là chi thể của Ngài. Liên kết với Chúa Kitô, mỗi người có bổn phận làm cho hạt giống của sự sống đời đời nẩy sinh hoa trái ngay trong cuộc sống này.
Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã bước xuống và cúi đầu nhận phép rửa của thánh Gioan, xin cho chúng con biết khiêm hạ nhận thân phận tội lỗi yếu hèn, để xin ơn sám hối. Sám hối là biết mình. Biết mình là khởi đầu bước tiến tới sự trọn lành.
.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
Suy Niệm
Các Kitô hữu ở thế kỷ đầu thật hết sức bối rối trước sự kiện Đức Giêsu lãnh phép rửa của Gioan.
Tại sao Ngài lại đến với Gioan như một môn đệ để chịu phép rửa, nhằm bày tỏ lòng sám hối? Ngài có cần sám hối không nếu thật sự Ngài vô tội?
Đã có bao câu trả lời cho vấn nạn này.
Chúng ta chỉ cần nhìn ngắm Đức Giêsu bên bờ sông Giođan. Ngài đứng xếp hàng cùng với dân tộc của Ngài. Ngài trà trộn với những tội nhân muốn sám hối. Ngài chấp nhận dìm mình xuống cùng một dòng sông. Có ai nhận ra Ngài là Chiên Thiên Chúa, là Đấng xóa tội trần gian không?
Đấng thánh thiện lại khiêm nhu đứng bên kẻ tội lỗi. Đấng sẽ làm phép Rửa trong Thánh Thần nay lại xin được chịu phép rửa sám hối trong nước.
Hành vi đầu tiên công khai của Đức Giêsu lại là một hành vi khiêm hạ, dìm mình, mất hút…
Ngài chỉ là một kẻ vô danh bên cạnh một Gioan tăm tiếng.
Nhìn Đấng Cứu Độ cúi mình chịu phép rửa, chúng ta hiểu được thế nào là đồng hành và liên đới.
Đồng hành với người khác đòi tôi phải đi chậm lại.
Liên đới với người khác đòi tôi nhỏ bé đi.
Đồng hành đòi tôi có chung một tâm tình với người khác.
Đấng vô tội nếm được cái ray rứt của tội nhân và cảm được nỗi khát khao đổi đời của họ. Đức Giêsu đã đồng hành với con người cho đến chết. Ngài đã chia sẻ thân phận của người nghèo, người khổ đau, người bị bỏ rơi, bị thất bại, bị kết án và cả thân phận khắc khoải của tội nhân.
Mầu nhiệm Nhập Thể là mầu nhiệm đồng hành.
Thiên Chúa tập làm người để hiểu được con người. Ngài cúi xuống để nâng con người lên.
Sau khi chịu phép rửa, Đức Giêsu cầu nguyện với Thiên Chúa. Ngài muốn gặp gỡ Cha trong tư cách là Con. Chính trong giây phút hiệp thông sâu đậm này mà Ngài cảm thấy được Thánh Thần tràn ngập, và tự thâm tâm, Ngài nghe rõ tiếng của Cha. Cha âu yếm gọi Ngài là Con và phong Ngài làm Mêsia:
“Con là Con của Cha. Hôm nay, Cha đã sinh ra Con.”
Từ hôm nay, Đức Giêsu hiểu rằng giờ lên đường đã điểm. Thời gian ẩn dật ở Nadarét đã kết thúc.
Cha ban Thánh Thần để ủy thác cho Ngài một sứ mạng.
Đức Giêsu đã trải qua một kinh nghiệm tuyệt vời…
Sông Giođan, nơi Ngài gắn bó với tội nhân, với dân tộc, đã trở nên nơi Ngài gắn bó với Cha trong Thánh Thần.
Nơi đi xuống cũng là nơi đi lên.
Nơi Ngài được sai đến cũng là nơi Ngài đang hiện diện.
Chúng ta đã chịu phép Rửa của Đức Giêsu trong Thánh Thần. Phép Rửa này có đưa chúng ta lên đường phục vụ không?
Mỗi ngày, ta có lại thấy mình được Cha sinh ra không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Càng lúc con người càng cảm thấy mình không thể sống lẻ loi. Sống là đồng hành, liên đới với người khác. Bạn nghĩ gì về khả năng sống với và sống cho người khác của bạn?
Khi Đức Giêsu cầu nguyện thì Thánh Thần ngự xuống và Cha ngỏ lời với Ngài. Có khi nào bạn được một kinh nghiệm tương tự như Đức Giêsu không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, khi đến với chúng con Chúa thường đến như một người hành khất. Chúa cần chút nước của người phụ nữ Samari. Chúa cần năm chiếc bánh và hai con cá. Chúa cần nhà ông Giakêu để nghỉ chân.
Chúa khiêm tốn cúi xuống xin chúng con, để rồi tuôn đổ trên chúng con nhiều gấp bội.
Xin dạy chúng con biết cách đến với mọi người, và khám phá ra đốm lửa nhỏ của sự thiện vẫn cháy sáng nơi lòng người tội lỗi. Ước gì chúng con nhìn tha nhân bằng ánh mắt của Chúa, dám hy vọng không ngơi vào lòng tốt của mỗi người, và can đảm tin tưởng vào sự quảng đại của họ, nhờ đó thế giới của chúng con trở nên nhân bản hơn và thần linh hơn.
.
Lm. Antôn
Ông bà anh chị em thân mến. Hôm nay chúng ta mừng kính phép rửa của Chúa Giê-su Ki-tô. Trước khi công khai thi hành sứ vụ rao giảng Tin mừng, Chúa Giê-su bỏ xứ Ga-li-lê-a đến sông Gio-đan, và chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy giả. Chúng ta biết phép rửa của Gioan là phép rửa của sự ăn năn thống hối tội lỗi. Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa, mặc lấy bản tính loài người, trở thành một phàm nhân với tất cả mọi cảm giác, ngoại trừ tội lỗi. Vậy tại sao Chúa phải lãnh nhận phép rửa của Gioan?
Nếu ông bà anh chị em cảm thấy bối rối và khó hiểu về phép rửa của Chúa Giê-su thì ông bà anh chị em ở trong một “công ty tốt.” Giáo hội sơ khai cũng có những bối rối và cảm thấy không thoải mái và đồng ý với sự kiện này. Tin mừng thánh Mát-thêu cho chúng ta biết chính Gioan đã thưa với Chúa “Chính tôi phải được Ngài rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi sao?” Trong Tin mừng thánh Luca mà chúng ta nghe hôm nay, không đề cập đến sự kiện Gioan làm phép rửa cho Chúa. Và Tin mừng thánh Gioan chỉ đề cập đến phép rửa một cách gián tiếp mà thôi. Nhưng tất cả các sách Tin mừng và Tông đồ Công vụ đều nhận biết sự kiện phép rửa của Chúa đã xảy ra, và đều phải cố gắng hết sức hiểu và giải nghĩa sự kiện này.
Chúng ta thấy Chúa Giê-su không có tội, cho nên phép rửa của Gioan Tẩy giả vô hiệu hay không chính đáng, cho nên một phương cách để hiểu phép rửa của Chúa bằng cách nhận biết đây là sự chiếu sáng bản tính của Chúa Giê-su, hay tỏ hiện Chúa Giê-su là ai. Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa, Con yêu dấu và làm đẹp lòng Thiên Chúa Cha. Chúng ta không đặt câu hỏi hay thắc mắc về bản tính của Chúa Giê-su. Bản tính của Người đã được bày tỏ cho chúng ta biết trong Tin mừng thánh Luca khi thiên thần thưa với Đức Maria, trong mầu nhiệm Truyền tin, Mẹ sẽ thụ thai bởi Chúa Thánh Thần, và hài nhi sinh ra sẽ là Đấng Thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa. Bản tính của Chúa Giê-su cũng đã được mạc khải trong câu chuyện Chúa ở lại trong đền thờ 3 ngày giữa các nhà tiến sĩ và thông thái. Chúa nói với cha mẹ “Mà tại sao cha mẹ tìm Con? Cha mẹ không biết rằng Con phải lo công việc của Cha Con ư?” Nhưng chúng ta nhận thấy bản tính của Chúa Giê-su còn bị che dấu, chỉ tỏ hiện ra với số người giới hạn. Ba đạo sĩ Phương Đông chỉ là biểu hiệu cho dân ngoại mà thôi, cho nên, khi Chúa Giê-su chịu phép rửa, Thiên Chúa đã tuyên báo cho tất cả trần gian biết: “Này là Con yêu dấu của Ta.” (Mt. 3.17) Và Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên Người để cho thế giới biết Người là ai.
Phép rửa của Chúa không những chiếu sáng bản tính của Người cho trần thế, mà còn loan báo một sứ mạng. Chúa Giê-su là giao ước của con người trần thế và là Ánh Sáng cho muôn dân. Sứ mạng đặc biệt của Người là xây dựng, thiết lập công lý và bình an dưới thế, và cũng là sứ giả lòng thương xót của Thiên Chúa Cha. Công lý ở đây có nghĩa là công chính, chính đáng, là trung thành với Thiên Chúa, là tốt lành, hy sinh, là công bằng, bác ái, là thương xót, tha thứ và quảng đại. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, đã trung thành chu toàn sứ mạng ấy một cách tuyệt hảo, làm đẹp lòng Thiên Chúa Cha.
Chúng ta cảm thấy hai tiếng “sứ mạng” có vẻ nghiêm trọng quá. Nhưng thực ra mọi người, mọi sinh vật, mọi thụ tạo nói chung đều có sứ mạng. Sứ mạng của mặt trời là sưởi ấm và sự sống cho các sinh vật trên mặt đất. Sứ mạng của cây lúa, cây mì là nuôi sống con người. Sứ mạng của vợ chồng là trung thành và xây dựng cũng như bảo trì hạnh phúc và hòa thuận trong gia đình. Sứ mạng của cha mẹ là nuôi nấng, dạy dỗ, hướng dẫn con cái. Mỗi người công dân trong một quốc gia đều có một sứ mạng tuân theo như tôn trọng luật, đóng thuế, bảo vệ an ninh trật tự và tự do. Mỗi Ki-tô hữu, già trẻ, nam nữ, giáo dân hay tu sĩ, đều có một sứ mạng. Vậy mỗi người hãy tự hỏi “Sứ mạng của tôi là gì đối với gia đình, đối với xã hội, đối với Giáo Hội, đối với giáo xứ, và mọi người chung quanh?”
Ở một quốc gia kia áp bức và có luật cấm đạo, có hai vợ chồng bị bắt đưa ra tòa vì tội là Kitô hữu. Để cứu vợ chồng này khỏi tội, luật sư đã hùng hồn biện hộ thân chủ như sau: “Thưa quan tòa! Hai thân chủ của tôi bị kết tội là Kitô hữu. Tôi xin chứng minh rằng sự thật không phải là thế. Họ có một cuộc sống đàng hoàng, siêng năng làm việc, không hề gian tham trộm cắp, không làm thiệt hại ai điều gì, không xích mích gì với hàng xóm. Thưa quan tòa! Như thế họ là những con người tốt, những công dân tốt. Không có gì sai trái. Ngày Chúa nhật họ đi dự lễ ở nhà thờ, họ thường đọc kinh ở nhà, họ đeo ảnh Thánh giá. Thưa quan tòa! Chính vì những biểu hiện bề ngoài này mà họ bị kết tội là Kitô hữu. Nhưng, thưa quan tòa, những biểu hiện bề ngoài ấy không đủ để kết luận họ thực sự là Kitô hữu chân chính. Tôi xin dựa vào Thánh Kinh của Kitô giáo đưa ra những tiêu chuẩn để xác định ai là Kitô hữu thật, ai là Ki-tô hữu chân chính, đích thực. “Cứ xem quả thì biết cây” (Mt 7,15) Thưa quan tòa! Hoa quả, theo Kinh thánh, chứng minh ai là Kitô hữu chân chính, là những việc hy sinh và phục vụ, là những việc bác ái yêu thương, đoàn kết và quảng đại. Một câu Thánh Kinh khác khẳng định rằng: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con thương yêu nhau.” (Ga 13, 35) Thưa quan tòa! Nếu căn cứ vào những tiêu chuẩn này để xét, thì tôi dám khẳng định rằng thân chủ của tôi chắc chắn không phải là kitô hữu chân chính, đích thực. Mọi người chung quanh đều không thấy họ hy sinh giúp đỡ gì đến những công việc hay đóng góp trong giáo xứ của họ. Họ cũng không sống hiệp nhất yêu thương và liên kết trong giáo xứ. Họ chỉ tham dự Thánh lễ rồi về nhà. Họ cũng chẳng có chút quan tâm gì đến người nghèo khổ. Mỗi khi có cuộc lạc quyên, họ cũng đóng góp nhưng chỉ đóng góp cho có với người khác, chứ thực sự họ không có lòng chân thật. Vì những bằng chứng trên, thưa quan tòa và quí bồi thẩm đoàn, tôi xin quý tòa hãy hủy bỏ tội danh Kitô hữu của thân chủ tôi. Chánh án ra lệnh tạm ngừng vụ xử án để họp xét lại những bằng chứng. Sau đó tòa kết luận: Tội Ki-tô hữu không được thành lập và chính đáng. Hai vợ chồng được trả tự do!
Ông bà anh chị em thân mến. Bí tích Rửa tội hay Thanh tẩy cho chúng ta một bản tính: chúng ta là con cái Thiên Chúa, chia sẻ sự sống của Ngài, rất yêu dấu của Chúa Cha, và được kêu gọi sống cuộc sống làm đẹp lòng Cha trên trời. Vì ảnh hưởng của xã hội, chúng ta thường quên chúng ta là ai: là những người con yêu dấu muôn đời của Thiên Chúa Cha, và chỉ một người, một người duy nhất, có thể tẩy xóa khuôn mặt và bản tính này, người đó là chúng ta, chỉ chúng ta mà thôi. Chúa ban cho chúng ta nhiều ơn lành hồn xác và sức mạnh, để trung thành và chu toàn sứ mạnh đem ánh sáng, tình yêu Chúa đến những người chung quanh, bằng những việc lành phúc đức, bằng tấm lòng bác ái và quảng đại, sống yêu thương và hiệp nhất để làm sáng danh và đẹp lòng Chúa. Chúng ta là ai phải được định nghĩa và chiếu sáng trong đời sống hàng ngày của chúng ta.
.
LUÔN SỐNG HIẾU THẢO ĐỂ LÀM VUI LÒNG CHÚA CHA
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
(15) Hồi đó, dân đang trông ngóng, và trong thâm tâm, ai nấy đều tự hỏi về ông Gio-an: Biết đâu ông chẳng phải là Đấng Mê-si-a ! (16) Ông Gio-an trả lời mọi người rằng: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước. Nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến. Tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và Lửa”. (21) Khi toàn dân chịu phép rửa, Đức Giê-su cũng chịu phép rửa. Sau đó, đang khi Người cầu nguyện, thì trời mở ra (22) và Thánh Thần ngự xuống trên Người như chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con của Cha. Ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con”.
Bài Tin mừng hôm nay được chia làm hai phần: Trong phần đầu: dân chúng thắc mắc và nghĩ Gio-an có lẽ là Đấng Mê-si-a. Nhưng ông đã khiêm tốn phủ nhận điều này và còn giúp họ phân biệt giữa phép rửa bằng nước sông do ông làm khác với phép rửa trong Thánh Thần và Lửa do Đấng Thiên Sai sẽ thực hiện. Trong phần hai: Khi Đức Giê-su vừa chịu phép rửa do Gio-an thực hiện thì một cuộc Thần hiện đã xảy ra: Chúa Cha giới thiệu Đức Giê-su chính là Người Con độc nhất được sinh ra trước mọi thời gian và được Chúa Cha rất mực yêu quý..
-C 15-16: +Đấng Mê-si-a: Mê-si-a trong tiếng Do thái có nghĩa là Đấng Thiên Sai. Từ Mê-si-a này mang nặng ý nghĩa về mặt chính trị ái quốc cực đoan. Mê-si-a đồng nghĩa với Chris-tos trong tiếng Hy lạp hay Ki-tô tiếng La tinh, nghĩa là “Người được Chúa xức dầu” (x. Lc 22,67; 23.3). Về sau tại An-ti-o-ki-a, lần đầu tiên các tín hữu đã được gọi là Ki-tô hữu, nghĩa là người thuộc về Đức Ki-tô (x Cv 11,26). +Cởi quai dép: Là hành vi của các nô lệ người ngọai quốc. +Làm phép Rửa trong Thánh Thần: Ở đây và trong sách Công vụ (1,5;11,16), Lu-ca phân biệt giữa phép rửa bằng nước do Gio-an thực hiện với phép rửa thanh tẩy bằng quyền năng Thánh Thần. Phép rửa mới này sẽ được khai diễn vào lễ Ngũ Tuần khi Thánh Thần lấy hình ngọn lửa hiện xuống trên đầu mỗi tông đồ hay môn đệ của Đức Giê-su. +Lửa: “Lửa” tượng trưng tác động của Chúa Thánh Thần thanh luyện tâm hồn các tín hữu, đang khi “nước” chỉ có tác dụng để tẩy rửa bên ngoài thân xác mà thôi (x. 1 Pr 1,7). Câu này tiên báo việc Chúa Thánh Thần sẽ tác động trên các tông đồ vào lễ Ngũ Tuần, tức ngày thứ mười sau khi Chúa lên trời (x. Cv 2,3-4).
-C 21-22: +Đức Giê-su cũng chịu phép rửa: Người khiêm tốn hòa nhập vào đoàn người sám hối đang xếp hàng lần lượt xuống sông Gio-đan để được Gio-an làm phép Rửa thanh tẩy cho +Đang khi Người cầu nguyện: Lu-ca thường ghi nhận những lần Đức Giê-su cầu nguyện trước các biến cố quan trọng (5,16; 6,12; 9,18.28-29). +Trời mở ra: Tin mừng Mác-cô viết: “Các tầng trời xé ra” (Mc 1,10). Còn ở đây Lu-ca viết: “Trời mở ra” có vẻ nhẹ nhàng hơn. Đức Giê-su chấm dứt thời kỳ Cựu ước của Do thái giáo và bắt đầu một kỷ nguyên mới là thời kỳ Tân ước. Từ đây trời đất đã giao hòa. Cửa Trời không còn đóng lại, nhưng đã được mở ra (x. Cv 7,56). +Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng như chim bồ câu: Chim bồ câu là hình dáng mà Thánh Thần mượn khi muốn cho người phàm xem thấy. Đây cũng là hình ảnh nhắc lại cuộc tạo dựng vào lúc khởi nguyên, báo hiệu một cuộc tạo thành mới (x. St 1,2). Trong biến cố đại hồng thủy thời No-e, chim bồ câu cũng báo trước về một thế giới mới (x. St 8,8). Cuối cùng, chim bồ câu ở đây còn bao hàm một ý nghĩa nữa là: Thần Khí đã xức dầu thiêng liêng cho Đức Giê-su (x. Cv 10,38), để tấn phong Người là Đấng Mê-si-a (x. Mt 12,18). +“Con là Con của Cha. Ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con”: Đây là Lời Chúa trích trong Thánh kinh (x Tv 2,7 ; Cv 13,33 ; Dt 1,5). Qua lời này, Đức Giê-su được Chúa Cha tấn phong làm Đấng Mê-si-a và bắt đầu sứ mệnh cứu độ dân Chúa. Cũng qua câu này, Thiên Chúa mặc khải mầu nhiệm quan trọng: “Đức Giê-su là Con Một Thiên Chúa” (x. Lc 1,35).
II. SỐNG LỜI CHÚA:
Tại một bệnh viện, một bé gái được đưa vào phòng giải phẫu. Bác sĩ nói: “Cháu ạ, trước khi giải phẫu, ta phải làm cho cháu ngủ đã!” Cô bé, vốn được bà mẹ đạo đức huấn luyện từ nhỏ về thói quen cầu nguyện trước khi đi ngủ, liền đáp: “Ồ, nếu bác sĩ làm cho cháu ngủ, thì xin hãy để cho cháu được cầu nguyện trước đã”. Rồi em ngồi dậy sốt sắng cầu nguyện. Sau một phút, em nói: “Bây giờ thì bác sĩ có thể cho cháu bắt đầu ngủ được rồi đấy!” Sau đó, chính bác sĩ giải phẫu cũng âm thầm cầu nguyện khi sắp bắt tay vào việc chuyên môn gây mê và giải phẫu khối u cho em nhỏ. Đây là lần cầu nguyện đầu tiên của ông sau 30 năm xa Chúa. Không biết sức mạnh nào ở nơi cô bé yếu đuối kia đã làm khơi dậy niềm tin nơi vị bác sĩ đáng bậc cha chú của em!
1) PHÂN BIỆT HAI LOẠI PHÉP RỬA:
– Gioan Tẩy Giả đã phân biệt hai loại phép rửa với dân chúng Do Thái như sau: “Tôi rửa anh chị em trong nước, nhưng có Đấng cao trọng hơn tôi đang đến sau tôi …Nhưng Người có trước tôi, và tôi không xứng đáng cởi giây giày cho Người. Người sẽ rửa anh chị em trong Thánh Thần và Lửa”. Gioan cũng làm chứng về Ngôi vị Con Thiên Chúa của Đức Giêsu như sau: “Tôi không biết Người, nhưng Đấng sai tôi làm phép rửa trong nước phán bảo tôi: Ngươi thấy Thánh Thần ngự xuống trên ai, thì đó chính là Đấng làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần. Tôi đã thấy và tôi làm chứng Người Chính là Con Thiên Chúa…”
– Như vậy ta thấy có hai loại phép Rửa: Phép rửa sám hối bằng nước sông của Gioan Tẩy Giả, và phép rửa trong Thánh Thần và lửa hay bí tích rửa tội của Đức Giêsu như sau:
+Phép rửa sám hối bằng nước sông: Đức Giêsu đã đến xếp hàng xin Gioan làm phép rửa bằng nước sông Gio-đan để được Thiên Chúa xác nhận là Đấng Thiên Sai, như Gioan Tẩy Giả đã nói: “Để Ngài được tỏ mình ra với dân Israel, nên tôi mới đến làm phép rửa trong nước”. Người chịu phép Rửa bằng nước được Gio-an dìm mình xuống dưới mặt nước bày tỏ lòng “sám hối để được ơn tha tội” (x. Mc 1,4), và được gia nhập vào đoàn ngũ những người sẽ đón nhận ơn cứu độ của Đấng Thiên Sai sắp đến ban cho.
+Phép rửa tái sinh trong Chúa Thánh Thần: Đây là phép Rửa nhân danh Chúa Ba Ngôi do Chúa Giêsu thiết lập. Trước khi lên trời, Chúa Giêsu Phục Sinh đã truyền cho các môn đệ cử hành phép rửa tội như sau: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần…” (Mt 28,18-19). Phép rửa của Chúa Giêsu ám chỉ toàn bộ công trình cứu độ bằng sự chết và phục sinh của Người như Người đã nói trước cuộc khổ nạn: “Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất” (Lc 12,50). Những ai chịu phép rửa do Đức Giê-su thiết lập sẽ nhận được Thần Khí tẩy sạch mọi vết nhơ tội lỗi, sẽ được Chúa ban tặng một quả tim mới bằng thịt biết yêu thương, thay cho quả tim đã hóa ra chai đá (x. Is 44,3).
2) PHÉP RỬA TỘI GIÚP LOẠI TRỪ CÁC THÓI HƯ THUỘC XÁC THỊT:
– Hôm nay Hội thánh cũng muốn nhắc lại những cam kết trong ngày chịu phép rửa tội. Qua nghi lễ thanh tẩy bằng nước, diễn tả mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh của Đức Giê-su, Hội thánh nhắc nhở các tín hữu phải chết đi cho những gì thuộc về ma quỉ, thế gian cùng các đam mê tội lỗi bất chính để cùng Người sống lại một cuộc sống mới làm con Thiên Chúa trong Chúa Thánh Thần.
– Chết đi cho các thói hư chính là lọai trừ óc bè phái cục bộ, gây chia rẽ nội bộ, thói tự cao tự đại cho mình là nhất và hay phê phán kẻ khác, thói tự ái cao không chấp nhận những góp ý phê bình của tha nhân đối với các sai sót khuyết điểm của mình. Chết đi cho những việc làm xấu xa như: tham ô hối lộ, ăn cắp của công, bóc lột người nghèo, giết người cướp của, chè chén say sưa, cờ gian bạc lận, gian tham tục tĩu, loại bỏ những ý nghĩ đen tối, những lời nói hành, “gắp lửa bỏ bàn tay người”, lên án bất công cho những kẻ mình không ưa, nói sai sự thật, thói ưa tọc mạch soi mói vào đời tư kẻ khác…
3) PHÉP RỬA TỘI TÁI SINH TA LÀM CON THIÊN CHÚA:
– Ngày lễ hôm nay nhắc nhở chúng ta ý thức và sống ơn gọi khi chịu phép rửa tội: Được biến hóa nên con của Thiên Chúa giống Đức Giê-su như Tin Mừng đã ghi nhận: “Lại có tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con của Cha. Ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” (Lc 3,22). Như vậy, phép rửa tội không những là một lễ nghi để được ghi tên gia nhập đạo, mà còn là khởi đầu của một cuộc sống mới làm con Thiên Chúa và sẽ kéo dài trong suốt cuộc đời mỗi người tín hữu. Chúng ta phải sống thế nào để Thiên Chúa có thể xác nhận chúng ta là con thảo như đã từng xác nhận khi Đức Giêsu sau khi chịu phép Rửa của Gioan: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3,17).
– Vậy thế nào là một “người con yêu dấu luôn làm Chúa Cha hài lòng? :
+ Hiểu biết ý muốn của cha mình: Đức Giêsu luôn cầu nguyện kết hiệp với Chúa Cha và hiểu biết thánh ý của Chúa Cha và luôn theo ý Chúa cha. Người cũng cho các môn đệ biết: ”Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người” (Ga 4,34). Trước cuộc khổ nạn, sau bữa Tiệc Ly, Người đã đến vườn Cây Dầu và cầu nguyện với Chúa Cha: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39).
+ Chiếu ánh sáng đức tin bằng các việc lành: chúng ta phải chiếu ánh sáng của Chúa bằng việc thăm viếng để chia sẻ và phục vụ cụ thể như lời Chúa Giêsu phán: ”Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16). Cần năng cầu nguyện với Chúa Cha với tâm tình con thơ phó thác như lời kinh Chúa dạy: ”Chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời…”
Cuộc sống của chúng ta phải biểu lộ cho người khác biết chúng ta là con Thiên Chúa như ông vua Bo-les-las nước Ba lan luôn đeo mẫu ảnh vua cha trước ngực, và luôn cầu nguyện với Chúa Cha: ”Con quyết tâm không làm điều gì bất xứng với chức vụ làm con thảo của Chúa cha”.
4) PHÉP RỬA GIÚP TA CHU TOÀN SỨ VỤ LÀM CHỨNG CHO CHÚA: Sau khi chịu phép Rửa Tội và Thêm Sức, chúng ta sẽ được thánh hóa nhờ Thần Khí của Chúa Kitô Phục Sinh. Từ đây chúng ta có bổn phận làm chứng cho Chúa Giêsu bằng các việc như sau:
+ Làm chứng bằng một cuộc sống hiếu thảo luôn làm hài lòng Thiên Chúa như Đức Giê-su (x Mt 3,17): Mỗi tín hữu cần năng kết hiệp bằng sự đọc kinh cầu nguyện sớm tối; Dành ra thời gian để đọc một đoạn Lời Chúa rối suy niệm để tìm hiểu ý Chúa muốn cho mình phải làm gì và cầu xin Chúa giúp thực hành theo gương mẫu và lời dạy của Đức Giêsu (x Dt 10,9; Mt 26,39); Cần ý thức phải tích cực góp phần xây dựng xã hội mình đang sống trở nên “Trời Mới Đất Mới” (Kh 21,1-4), nghĩa là ngày một an tòan sạch đẹp hơn, công bình nhân ái hơn…
+ Làm chứng cho Đức Giê-su là không phải lúc nào cũng nói về Chúa, nhưng là luôn sống đức tin bằng việc thực hành đức cậy và chiếu sáng đức ái qua cách ứng xử với tha nhân: Câu chuyện bé gái sắp bị mổ đã yêu cầu được một phút cầu nguyện với Chúa, đã có sức lay động đức tin chai đá nguội lạnh của viên bác sĩ giải phẫu đã bỏ cầu nguyện trong nhiều năm.
+ Làm chứng bằng việc quyết tâm loại bỏ con người cũ xác thịt bằng cách xin ơn Thánh Thần luôn làm theo gương mẫu và lời dạy của Đức Giêsu như thánh Phao-lô đã viết: “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa” (Cl 3, 1-2).
+ Làm chứng bằng việc chu tòan sứ vụ loan báo Tin Mừng, nghĩa là làm cho “danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” (Mt 6,9-10), bằng lời nói việc làm chia sẻ quảng đại và khiêm tốn phục vụ những kẻ bệnh tật hoặc bị bỏ rơi… Nhờ đó anh em lương dân sẽ dễ dàng nhận biết tin yêu Chúa như Đức Giêsu đã dạy: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin cho chúng con học tập nơi Chúa nhân đức hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Xin cho chúng con luôn biết nhận ra những thiếu sót và lầm lỗi của mình để tu sửa đời sống. Xin cho chúng con tránh cố ý nổi trội hơn anh em nhưng luôn chọn những gì nhỏ hơn tha nhân về quyền lợi địa vị, nhưng nhiều hơn anh em về trách nhiệm phục vụ. Xin cho chúng con luôn ăn nói khiêm tốn nhỏ nhẹ, tránh la mắng to tiếng với người dưới, cho chúng con biết nói ít làm nhiều như Gioan đã nói: “Người cần phải lớn lên còn tôi phải nhỏ bé đi”… Nhờ đó, “hữu xạ tự nhiên hương”: qua chúng con, anh em lương dân sẽ nhận biết yêu mến Chúa để cùng được chia sẻ niềm vui ơn cứu độ trong gia đình Hội Thánh với chúng con.
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.
Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.
NGÀY MAC KHẢI DUNG NHAN LÒNG THƯƠNG XÓT
Lm. Giuse Trực
Những lời đầu tiên của Tông Thư Misericordiae Vultus (Dung mạo Lòng Thương Xót), Đức Thánh Cha Phanxicô đã tổng hợp mầu nhiệm đức tin của Kitô giáo: “Chúa Giêsu Kitô là dung mạo của Lòng Thương Xót Chúa Cha”. Dung mạo đó được Chúa Cha đặc biệt giới thiệu cho nhân loại chúng ta trong ngày lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa hôm nay. Vì vậy ngày lễ này còn được gọi là ngày mặc khải dung nhan Lòng Thương Xót.
Sách an ủi của tiên tri Isaia đã loan báo ngày “Vinh quang của Đức Chúa sẽ tỏ hiện, và mọi người phàm sẽ cùng được thấy” (Is 40, 5). Vinh quang đó là gì và “người phàm” sẽ thấy gì? Vinh quang đó chính là sức mạnh của Thiên Chúa không ai có thể thắng được. Sức mạnh đó không phải dùng để thống trị, nhưng “Như người mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt” (Is 40, 11). Như vậy khi con người nhận ra tình thương yêu chăm sóc của Thiên Chúa là lúc họ thấy được vinh quang của Ngài.
Để tỏ tình yêu thương và chăm sóc nhân loại, Thiên Chúa đã quy tụ con cái Ngài lại như mục tử tập trung đoàn chiên. Ngài quy tụ chúng ta bằng cách nào? Thánh Phaolô trong thư gởi ông Titô đã nói: “Người cứu chúng ta nhờ phép rửa ban ơn tái sinh” (Tt 3, 5b), nghĩa là qua phép rửa, Thiên Chúa quy tụ chúng ta lại thành một dân riêng của Ngài, để ở đó, “Người cứu chúng ta không phải vì chúng ta đã làm những việc công chính, mà là vì Người thương xót” (Tt 3, 5a).
Khi dân chúng tuôn đến với Gioan Tẩy Giả, họ cứ nghĩ ông là Đấng Messia. Nhưng Gioan với sứ mạng tiền hô, đã giới thiệu: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho người” (Lc 3, 16b).
Để rồi sau khi chịu phép rửa bởi Gioan, “Đấng quyền thế” đó đã được chính Chúa Cha xác nhận: “Con là Con yêu dấu của Cha; Cha hài lòng về Con” (Lc 3, 22b). Lời tuyên bố này được “Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình chim bồ câu” (Lc 3, 22a).
Như vậy, qua việc Chúa Giêsu lãnh nhận phép rửa, Chúa Cha đã bày tỏ vinh quang của Ngài nơi Người Con yêu dấu là Đức Giêsu Kitô. Vinh quang đó là sự yêu thương, quan tâm, chăm sóc con người như mục tử chăm sóc đoàn chiên. Nói ngắn gọn lại, vinh quang đó chính là Lòng Thương Xót của Chúa Cha.
Vậy giờ đây chúng ta hãy chiêm ngắm khuôn mặt của Đức Giêsu Kitô trong biến cố phép rửa để thấy được Dung Mạo Lòng Thương Xót của Chúa Cha.
Việc Đức Giêsu nhận phép rửa từ Gioan, theo các nhà chú giải là việc Người đồng hành với dân của Chúa trên con đường sám hối.
Dân chúng là những tội nhân xếp hàng chờ lãnh phép rửa của Gioan để tỏ lòng thống hối ăn năn. Trong hàng ngũ những tội nhân đó có khuôn mặt thánh thiện của Con Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô. Ngài xếp hàng chung với họ không phải vì Ngài là tội nhân, nhưng vì Ngài muốn đồng hành với những người có tội.
Điều đó cho chúng ta thấy dung mạo Lòng Thương Xót của Chúa Cha hết sức gần gũi. Ngài không chê bai, không kết án, không loại trừ, không khinh miệt những những người có tội, nhưng Ngài luôn ở bên họ. Kinh Năm Thánh Lòng Thương Xót nhắc tới những nhân vật như ông Giakêu, Mattthêu, Mađalêna, người đàn bà ngoại tình và ngay cả Phêrô đều có những sai lỗi, nhưng đã biết sám hối nhờ sự thông cảm, tha thứ của Đức Giêsu.
Khi đồng hành với những người có tội, không phải Ngài đồng ý, tán thành với những sai lỗi của họ, nhưng muốn họ biết rằng, sự thánh thiện vẫn ở bên họ, và họ vẫn có khả năng để trở nên tốt lành.
Tôi nhớ câu chuyện với nội dung đại khái có hai vị linh mục hành xử với hai cậu bé giúp lễ khác nhau. Một vị quát mắng và tát cậu bé giúp lễ vì cậu chơi giỡn trong nhà thờ. Một vị mỉm cười khi thấy cậu bé giúp lễ chơi giỡn. Kết quả một cậu trở thành tên độc tài quân phiệt chuyên chống đối lại Giáo hội, và một cậu trở thành vị Giám mục tài ba của Giáo hội.
Chúng ta tiếp xúc, sống chung với nhiều người, đó là cơ hội để bày tỏ dung mạo lòng thương xót của Thiên Chúa qua sự đồng hành của chúng ta. Không đồng lõa với những điều sai, nhưng luôn đồng hành với những ai sai lỗi. Đó là vợ chồng, con cái, người thân, những người trong hội đoàn, những người có trách nhiệm… Làm sao để họ thấy họ luôn có cơ hội để quay trở về. Chắc chắn sự trở về của họ là một quyết tâm để sống tốt hơn.
Đồng hành qua việc luôn nghĩ đến những băn khoăn, thao thức, cũng như những hành động của họ, để khuyến khích những gì là tốt đẹp, khuyên lơn những gì là sai trái, và sẵn sàng trở thành điểm tựa cho họ sau khi họ gục ngã.
Cuộc sống rất cần những con người đồng hành trên con đường sám hối. Những hội viên Legio Mariae, những người đạo đức, các tu sĩ, các linh mục… Hãy nhớ đừng bao giờ chê bai, quát nạt, loại trừ những người có tội hoặc có lỗi, nhưng hãy cho họ thấy dù họ như thế nào vẫn có chúng ta bên cạnh. Chính điều đó là động lực để họ quay về nẻo chính đường ngày để hiệp thông với Chúa.
Sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, có tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra con” (Lc 3, 22). Đây là lời của Thánh vịnh 2, câu 7, ngụ ý nói rằng Đức Giêsu được công khai tấn phong làm Đấng Messia và bắt đầu thi hành sứ mạng giữa dân của Chúa.
Nhờ việc thi hành sứ mạng của Đấng Messia mà Đức Giêsu mới bày tỏ được dung mạo thương xót của Chúa Cha.
Từ đó mời gọi chúng ta trong cuộc sống hằng ngày phải luôn luôn thi hành sứ mạng mà mình được trao phó. Chính khi chúng ta chu toàn bổn phận của mình, chúng ta mới trở thành “Con yêu dấu của Chúa Cha”, mới bày tỏ dung mạo thương xót của Thiên Chúa.
Vì vậy chúng ta cần phải biết trách nhiệm của mình và luôn luôn thi hành không được ngơi nghỉ. Trách nhiệm của một con người phải luôn luôn thăng tiến bản thân chứ không để cho nó xuống cấp. Trách nhiệm của một Kitô hữu phải giữ cho trọn tình, vẹn nghĩa chứ không phải giữ cho có, cho vui. Trách nhiệm của một thành viên trong gia đình phải có đối với những mối tương quan vợ chồng, cha mẹ, con cái… Trách nhiệm của một hội viên trong một hội đoàn để góp phần xây dựng đoàn thể của mình thêm vững mạnh…
Trong khi thi hành sứ mạng, qua cách sống luôn chu toàn bổn phận với tất cả tình yêu thương, sẽ làm cho mọi người thấy dung mạo tròn đầy, viên mãn của Thiên Chúa Cha.
Lạy Thiên Chúa là Cha, Ngài đã bày tỏ vinh quang của Ngài nơi Đức Giêsu Kitô, người con chí ái của Ngài. Vinh quang đó chính là sự đồng hành với mọi người, nhất là những tội nhân; chính là việc luôn luôn thực thi sứ mạng của Chúa Cha. Xin cho chúng con cũng trở thành những người con chí ái, để phản chiếu dung mạo thương xót của Chúa Cha qua việc đồng hành với người khác và chu toàn bổn phận của mình.
.
TRỞ NÊN GIỐNG CHÚA ĐỂ LOAN BÁO TIN MỪNG CỨU ĐỘ
Jos. Vinc. Ngọc Biển
Người ta có kể một câu chuyện đầy cảm động rằng: có một linh mục nọ, được Tòa Thánh bổ nhiệm làm giám mục của một Giáo phận truyền giáo với số giáo dân vỏn vẹn có vài ngàn người. Toàn Giáo phận duy chỉ còn một linh mục già trên dưới 100 tuổi và một nữ tu cũng gần đất xa trời. Giáo lý viên thì không có; các hội đoàn đã tan rã; nhà thờ không còn đáng là bao, hoặc có còn thì cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay, nhưng có lẽ giống như nhà hoang thì đúng hơn, vì không có người chăm nom! Giáo dân gần như không được tham dự thánh lễ vì lý do không có linh mục. Cuộc sống cứ thế trôi đi, khiến số tín hữu thưa thớt này cũng không còn tha thiết với việc đi lễ, nhà thờ hay kinh hạt nữa…!
Đón nhận Giáo phận trong tình trạng xuống cấp trầm trọng như thế, vị Giám mục này đã bắt tay vào việc:
Ưu tiên của ngài trước tiên là đào tạo nhân sự, thiết lập các hội đoàn, khơi gợi lại tinh thần sống đạo. Tuy nhiên, điều mà ngài phải làm ngay, đó là: chính ngài phải kinh qua tất cả những những vai trò như: làm ca trưởng, giáo lý viên, ông từ kéo chuông, mở cửa nhà thờ và cất kinh, làm các chú lễ sinh dọn lễ, người phu quét dọn nhà thờ…
Khi nghe thấy tin mong manh ở đâu có người Công giáo, dù xa xôi hàng trăm kilômét, ngài cũng lặn lội tới thăm cho bằng được, để an ủi, động viên, khích lệ và khơi gợi lên trong họ ngọn lửa của niềm tin…
Chính vì lối sống của ngài như vậy, mà chẳng mấy chốc, giáo dân đến nhà thờ đông lên, đời sống đạo có phần khởi sắc, chương trình giáo lý được gây dựng lại, các hội đoàn được tái lập, nhiều nhà thờ mới mọc lên, có các bạn trẻ xin đi tu… tại vì họ thấy: “Ông này chơi được, vì ông ý giống Đức Giêsu”. Đây là lối nói thể hiện lòng kính trọng, quý mến của người dân địa phương nơi đây.
Nhiều người đặt vấn đề: liệu có cần phải làm như thế trong tư cách là một giám mục không? Câu trả lời là không! Nhưng vì lòng mến Chúa, yêu quý các linh hồn và tha thiết với sứ vụ, nhất là ngài đã lựa chọn con đường tự hủy, khiêm hạ, liên đới và cảm thông với con chiên của mình, nên vì họ, mà ngài đành mất tất cả, chỉ cần được mối lợi tuyệt vời là Đức Kitô và miễn sao Ngài được rao giảng (x. Pl 1,18)
Đời sống của vị giám mục trong câu chuyện trên đã phản ánh phần nào đời sống của Đức Giêsu, nhất là làm sống lại tinh thần của biến cố Đức Giêsu chịu phép rửa tại sông Giorđan khi xưa.
Thánh sử Luca trình thuật: để đánh dấu đời sống công khai thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng cứu độ, Đức Giêsu đã đến xin ông Gioan Tẩy giả làm phép rửa tại sông Giorđan.
Trước tiên, Ngài xin Gioan làm phép rửa cho mình không phải là Ngài có tội như mọi phàm nhân, nhưng Ngài đến xin Gioan làm phép rửa là nhằm thánh hóa dòng nước để thanh tẩy trong Bí tích Rửa Tội mà Ngài sẽ thiết lập sau này.
Thứ đến, sự kiện này cho thấy: Đức Giêsu tiếp nối giữa Giao ước cũ và Giao ước mới; tiếp nối giữa lời rao giảng của vị tiên tri cuối cùng với lời loan báo của chính Ngài để thiết lập một triều đại mới, triều đại của những người được cứu chuộc bằng chính giá máu của Đấng thiết lập nên mình.
Mặt khác, Đức Giêsu hòa mình trong đoàn người đó để nêu gương khiêm hạ cho mọi người. Vì thế, việc Ngài chịu phép rửa, không phải cho Ngài, mà là cho chúng ta, vì chúng ta. Hình ảnh Ngài sáp nhập cùng dòng người đến xin Gioan ban phép rửa cho thấy: từ nay, Đức Giêsu đứng về phía người tội lỗi không phải để cổ võ họ phạm tội, mà là tìm cách đưa họ ra khỏi con đường tội lỗi, tiến đi trên con đường thánh thiện, công chính để được cứu chuộc.
Hơn nữa, hành vi của việc lãnh nhận phép rửa nơi Đức Giêsu loan báo chính cái chết và sự phục sinh của Ngài: dìm mình xuống nước là biểu hiệu cái chết, trồi lên khỏi nước là loan báo sự sống lại.
Cuối cùng, Thiên Chúa mặc khải cho ta biết một cuộc phong vương của Thiên Chúa Cha cho con Chí Ái của mình, để Ngài ra đi thiết lập một vương quốc mới với thần dân là những người thuộc về Vị Vua hiền lành, khiêm nhường, yêu thương và tha thứ…
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta ý thức hồng ân lớn lao mà Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta cách nhưng không, đó là hồng ân của Bí tích Rửa Tội.
Qua Bí tích này, chúng ta được trở nên con Thiên Chúa, được thanh tẩy mọi tội lỗi, từ tội nguyên tổ cho đến những tội riêng của chính mình. Do đó, chúng ta được dìm mình vào trong một khuôn đúc mới, để xuất hiện một hình ảnh mới, hình ảnh của Đức Kitô phục sinh. Kể từ đó, chúng ta được gọi là Kitô hữu, trở nên “một tạo vật mới” (2Cr 5,17), nghĩa tử của Thiên Chúa (x. Gl 4,5-7), được thông phần vào sự sống thần linh (x. 2Pr 1,4), trở nên người thừa kế của Đức Kitô (x. Rm 8,17) và được gọi là đền thờ của Chúa Thánh Thần (x. 1Cr 6,19).
Qua đó, chúng ta được mời gọi trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô cách sống động khi sẵn sàng khước từ những điều không phù hợp với giá trị Tin Mừng như thánh Phaolô khuyên dạy: “Anh em hãy mặc lấy Đức Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thỏa mãn các dục vọng”(Rm 13,14). Mặc lấy Đức Kitô là từ bỏ ý riêng, sống tinh thần tự hủy, chết đi cho tội lỗi, để trở nên chính Ngài: “Tôi sống, nhưng không phải là tôi sống, mà chính Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Vì thế: “Những người tin theo Đức Kitô được mệnh danh là Kitô hữu, nghĩa là thuộc về Đức Kitô, nên họ đã và phải có một tâm tình như Đức Kitô. Họ không sợ chết. Họ không sợ hình khổ. Họ không sợ bách hại. Bởi vì họ đã đi cùng một đường với Chúa” (Tertullianô).
Như vậy, mỗi người Kitô hữu chúng ta khi đã được gia nhập Giáo Hội, trở thành đoàn dân của những người tin Chúa, chúng ta có trách nhiệm phản ánh chân thực bản chất của người Công Giáo là yêu thương, không lấy oán báo ơn; không thù hằn ghen ghét, không phân biệt giai cấp, không coi rẻ người nghèo, không khinh khi người có tội… sống công bằng không tham lam, bóc lột, hối lộ, nêu cao gương bác ái, liên đới, sẻ chia, và nhất là sống và làm chứng cho sự thật, bởi vì chúng ta thuộc về nước của Sự Thật.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con biết mặc lấy sự khiêm nhường, liên đới của Chúa, để chúng con sống xứng đáng là con của Cha trên trời, và là anh chị em với nhau nhờ được liên kết với Chúa là đầu của Giáo Hội. Amen.
.
TA HÃY XIN ƠN CHO SỐNG XỨNG ĐÁNG LÀ CON CÁI CHÚA
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Tiếp theo lễ Chúa Hiển Linh, kết thúc mùa Giáng sinh, Giáo Hội cử hành lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa. Lễ này được mừng sớm nhất, chỉ sau lễ Phục sinh, vì nó bao hàm lời rao giảng của các Tông Đồ, là điểm khởi hành cho tất cả những việc mà các Tông Đồ phải làm chứng cho (x. Tđcv 1, 21-22; 10, 37-41). Bởi thế, vào những thời kỳ đầu các Giáo phụ đã đặc biệt quan tâm, vì tính cổ thời quan trọng của nó. Thứ đến, đây là lần đầu tiên, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi được mạc khải một cách đầy đủ và rõ ràng. Lý do nữa là phép rửa của Chúa Giêsu nơi sông Giordan loan báo trước cho phép rửa bằng Máu của Chúa trên Thập Giá, tượng trưng cho tất cả hoạt động có tính cách bí tích của Ðấng Cứu Thế. Để cứu rỗi nhân loại, dù vô tội, Chúa Giêsu đã đặt mình vào hàng ngũ các tội nhân, mang trên mình tội lỗi của thế nhân. Hành động khiêm nhường và tự hủy này được Chúa Cha chứng dám : ” Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha” (Lc 3, 22). Cùng với Đức Giêsu, Chúa Thánh Thần xuất hiện dưới hình chim bồ câu đậu xuống trên Người, để chỉ cho chúng ta tín điều Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh mà chúng ta sẽ thấy diễn ra tương tự nơi biến cố Chúa Biến Hình.
Chúa Giêsu là Đấng vô tội sao lại đến xin Gioan làm phép rửa?
Thánh Ghêgôriô, giám mục Nadien cho biết : “Có thể là Chúa muốn thánh hoá kẻ sắp làm phép rửa cho Chúa, nhưng chắc chắn để chôn vùi trọn vẹn con người Ađam cũ trong dòng nước. Thật vậy, trước khi thanh tẩy ta và để thanh tẩy ta, Chúa thánh hoá sông Gio-đan ; vì Người vừa là thần khí vừa là xác phàm, nên Người cũng muốn nhờ Thần Khí và nước để đưa chúng ta vào đạo”. Nên dù Gioan làm phép rửa, ông cũng chỉ là đèn đối với Mặt Trời, tiếng nói với Lời, phù rể đối với Chàng Rể, người cao trọng nhất trong số những người sinh bởi đàn bà với Trưởng Tử mọi loài thọ sinh, người nhảy mừng trong dạ mẹ với Đấng được thờ lạy ngay khi còn trong lòng mẹ, người tiền hô hiện tại và tương lai với Đấng vừa xuất hiện và sẽ xuất hiện. Quả thật, Gioan biết rằng mình sẽ được thanh tẩy bằng cuộc tử đạo. (Trích bài giảng của thánh Ghêgôriô, giám mục Nadien). Thánh Phêrô Kim Ngôn giải thích rằng, khi Gioan làm phép rửa cho Chúa Giêsu thì : “Tôi tớ đóng vai chủ, con người đóng vai Thiên Chúa, ông Gio-an đóng vai Đức Ki-tô ; ông đóng vai đó để lãnh ơn thứ tha chứ không phải để ban phát“. Nên Gioan giảng: “ Phần tôi, tôi đã rửa anh em trong nước, nhưng Đấng cao trọng hơn tôi đang đến, và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người, chính Người sẽ rửa anh em trong Chúa Thánh Thần và trong lửa!“ (Lc 3, 16). Đây là phép lạ vĩ đại đã xảy ra sau khi Đấng Cứu Thế chịu phép rửa ; phép lạ này là khúc dạo đầu cho những gì sẽ xảy ra. Đây không phải là Thiên Đàng khi xưa đóng lại vì tội của Ađam nay mở ra, mà chính trời mở ra: “Chính lúc Chúa Giêsu cũng đã chịu phép rửa xong, Người đang cầu nguyện, thì trời mở ra và Thánh Thần Chúa ngự xuống trên Người dưới hình chim bồ câu ” (Lc 3,21).
Tại sao khi Chúa Giêsu chịu phép rửa xong, trời lại mở ra?
Chúa Giêsu vừa chịu phép rửa xong, trời mở ra là Chúa Giêsu nâng thế gian lên cao với Người. Vì khi Ađam phạm tội, ông bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, cửa trời đóng lại và bị lưỡi gươm lửa cấm đoán, không cho mình mà cũng không cho con cháu vào. Nay nhờ Chúa Giêsu mà cửa trời được mở ra.
Trời mở ra, còn mạc khải cho Gioan Tẩy Giả và những người Do Thái biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Theo thánh Gioan Kim Khẩu, điều này muốn dạy chúng ta rằng, một sự tương tự vô hình cũng xảy ra khi chúng ta chịu Phép Rửa Tội: Chúa Thánh Thần cũng ngự vào tâm hồn của chúng ta. Ngài không ngự đến một cách hữu hình, bởi vì chúng ta không cần: đức tin hiện nay là đủ… Thiên Chúa mở cửa trời để kêu gọi chúng ta hướng về trời, vì quê hương chúng ta là quê trời, và mách bảo chúng ta rằng, chúng ta không có gì ở dưới đất.
Tại sao Thánh Thần Chúa ngự xuống trên Người dưới hình chim bồ câu?
Thưa : Chim bồ câu rất dịu dàng và trong sạch, và Chúa Thánh Thần là thần khí dịu êm và an bình . Chim bồ câu cũng nhắc cho chúng ta nhớ lại trận hồng thủy trong Cựu Ước nhấn chìm trái đất và toàn thể loài người trong nguy cơ hư mất, chim bồ câu ngậm cành ôlui xuất hiện để báo đại hồng thủy đã chấm dứt, tin vui hòa bình cho toàn thế giới. Giờ đây, tất cả những điều này cũng tiên báo về tương lai. Khi tất cả đã hư mất, nay được giải thoát và đổi mới, điều gì đã xảy ra khi nước lũ đến ngày hôm nay như là một lũ lụt của ân sủng và lòng thương xót Chúa… Chim bồ câu, thay vì ngậm một cành ô liu báo cho Noe là người duy nhất bước ra khỏi tầu để đặt chân lên mặt đất. Nay Chim bồ câu báo tin trận hồng thuỷ tràn ngập thế gian đã lui đi, thế gian không còn chìm ngập trong cảnh trầm luân muôn đời nữa, phẩm giá ơn gọi làm con Thiên Chúa của chúng ta được phục hồi, và lôi kéo hết thảy mọi người lên Thiên Đàng.
Lời ngôn sứ nói : “Tiếng Chúa vang rền trên nước… Tiếng Chúa uy linh tung sấm sét“ (Tv 28). Tiếng nào vậy ? “Này là tôi tớ Ta mà Ta nâng đỡ, là người Ta chọn, Ta hài lòng về người. Ta ban Thần trí Ta trên người” (Is 42, 1). Đây là tiếng từ trời vọng xuống để làm chứng cho Đấng từ trời mà đến. Tiếng đó bày tỏ lòng tôn trọng thân xác dưới hình chim bồ câu, vì thân xác đã được thần hoá, khi Thiên Chúa tự tỏ mình ra trong thân xác :”Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha“(Lc 3, 22).
Vậy, phép rửa của Chúa Giêsu và phép rửa của chúng ta có liên kết chặt chẽ với nhau, trong mối liên hệ ấy với Thiên Chúa, chúng ta được tái sinh và trở nên con cái Thiên Chúa. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta được sống xứng đáng là con cái Chúa. Amen.
.
Lm. Jos. DĐH
Khỏe dùng sức, yếu dùng mưu, là câu thành ngữ nhắc người ta tùy cơ ứng biến, hãy sử dụng ưu thế của mình. Sinh ra làm người, cơ hội thành công ai cũng có, biết chăm chỉ học tập, biết cần mẫn trong lao động, tất nhiên sẽ đến ngày gặt hái kết quả. Một số người khi xưa tìm đến Gioan vì khát vọng bình an tâm hồn, cả những người giầu có trí thức, họ có mặt ở sông Gio-đan, hẳn không phải là tình cờ. Trong khi đoàn người đông đảo sắp hàng chờ tới lượt được dìm mình trong dòng nước, ai ngờ đâu, Đấng vô tội cũng có mặt xin Gioan tẩy rửa như những phần tử khác.
Gioan ý thức mình mang sứ mạng chuẩn bị cho Đấng đến sau, ông đã chỉ cho đám đông biết ông rửa mọi người trong nước, và “Đấng cao trọng đang đến, ông không xứng đáng cởi dây giầy cho Người”. Giới trẻ hôm nay thường nhắc nhở nhau : yếu đừng ra gió, muốn yên thân đừng khoác lác, võ miệng, kẻo khốn vào thân. Kinh nghiệm tiền nhân cũng cho rằng : khôn ngoan đến cửa quan mới biết. Dù không tài cao đức rộng, nhưng ai cũng hiểu không phải tự nhiên mà người ta trở nên “thánh nhân”, nếu như không biết mình là ai, không tu tâm luyện đức.
Ngày hôm nay, bình luận về sứ cứng ngắc của Giáo hội, nhận xét về linh mục năng động, hay không nhiệt thành, ít nhiều gì cũng có, nhưng trong số đó, không biết các vị có tự hỏi, tôi đang yêu hay tôi đang lên án Giáo hội ? Trong Khổng giáo có nói tới : đừng lấy bụng tiểu nhân mà đo lòng người quân tử. Người quân tử bao giờ cũng theo “Thiên lý”, nên tâm tánh quang minh, hành xử có đạo, có đức. Kẻ tiểu nhân bao giờ cũng theo nhân dục, chí khí mờ tối, dễ bị vật dục sai khiến. Người xưa ngụ ý rằng : hãy đi con đường quang minh, hầu trở nên người quân tử, không thể ngồi đó dò xét.
Nếu không biết mình là ai, thật khó lòng mà hiểu được ai đang yêu mình. Gioan không bàn đến “thiên chức” mà nhân loại đang mong đợi, nhưng ông đã biết mang lại hy vọng cho toàn dân là Đấng cao trọng đang đến. Gioan biết ông cũng là người trông chờ Đấng sẽ đến, Gioan còn nhận được tín hiệu Đấng đến sau ông sẽ rửa trong Thánh Thần và lửa. Biết mình chỉ là tiếng hô nơi hoang địa, biết mình chính là người dọn đường, chuẩn bị cho Đấng Kitô, ông đã phấn đấu để “cái biết” thực sự có ý nghĩa cho ông và cho những ai đang mong đợi Chúa đến.
Người “háo danh hám lợi”, thời nào cũng có; kẻ “cưa bom, chém gió”, đâu phải chỉ xảy ra nơi cửa miệng người trẻ. Danh tiếng của Gioan ở thời điểm đó được mọi người kính nể, ông đã trở nên thầy dạy cho các đối tượng, cả về mặt lý thuyết lẫn thực hành sám hối để gặp Đấng Kitô. Đúng hơn, Gioan biết mình là ai, và rồi ông có thể giải đáp mọi thắc mắc, cho những ai tìm kiếm sự thật, ông chính là cơ hội tốt, để người ta minh chứng tình yêu và cách sống của họ.
Để nói lên cho thiên hạ biết mình là người thật, Đức Giêsu đã sắp hàng, đã xin được dìm mình cùng đám đông tội lỗi, và phải là tiếng từ trời tuyên phán : “Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha”. Sau trình thuật sắp hàng ở sông Gio-đan, Đức Giêsu tiếp tục vâng phục thánh ý Chúa Cha, cũng là mời gọi những ai muốn trở nên con chí ái, hãy sống lời thưa vâng. Khi Gioan và đám đông dân chúng nhận biết Thiên tính của Đức Giêsu, bằng tình yêu thương, Chúa Giêsu tiếp tục biến đổi những ai đặt niềm tin nơi Ngài đều trở nên con chí ái.
Biết mình chỉ là người dọn đường cho Đấng Kitô, Gioan đã nhận ra ông cũng cần được rửa trong Thánh Thần, cũng cần được trở nên con yêu dấu, và ông rất vui khi sứ mạng của ông được hoàn tất. Biết mình là Con yêu dấu, Chúa Giêsu càng thao thức sứ mạng yêu thương được thông chia đến mọi tầng lớp nhân loại. Biết Đấng phải đến chỉ thực sự là Con yêu dấu khi sống thánh ý Chúa Cha, và hoàn thành sứ mạng cứu độ, Chúa Giêsu đã kết hiệp cầu nguyện để được nên Một trong tình yêu của Chúa Cha và Thánh Thần.
Ơn gọi của người Kitô hữu chúng ta hôm nay không phải đến sông Gio-đan để dìm mình bày tỏ lòng sám hối, mà chúng ta được mời gọi để biết mình cần tẩy rửa trong Thánh Thần tình yêu của Đức Kitô. Ơn gọi làm môn đệ Đức Kitô hôm nay không phải là người chỉ đường cho người khác đến lãnh nhận các Bí tích, mà mỗi người phải biết sống thánh ý Chúa, để rồi được Chúa Kitô gọi là con yêu dấu. Đức Giêsu vẫn đang bằng nhiều cách thế để hướng dẫn Đại gia đình nhân loại tới bến bờ hạnh phúc, nhưng biết mình là ai, biết cuộc đời của ta không thể thiếu vắng tình yêu Chúa, vậy chúng ta không thể thụ động trước ơn gọi trở nên con yêu dấu của Chúa. Amen.
.
THIÊN CHÚA HÒA MÌNH VỚI CON NGƯỜI
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Cuộc công du của Đức Thánh Cha Fancis tới Hoa Kỳ vào cuối năm 2015 đã để lại sự cảm phục và ấn tượng mạnh mẽ không chỉ cho dân Mỹ mà còn cho nhiều người khác trên thế giới. Dân Hoa Kỳ cảm thấy một vị Giáo Hoàng gần gũi với họ. Sau bài phát biểu tại Quốc Hội Hoa Kỳ, Đức Thánh Cha Fancis đã được vỗ tay không ngớt. Tuy nhiên sau đó, Đức Thánh Cha đã từ chối buổi chiêu đãi của Quốc Hội để đến thăm và ăn trưa với những người nghèo, vô gia cư. Trong bữa ăn này, Đức Thánh Cha không chỉ chuyện trò với họ mà Ngài còn tận tay phục vụ bữa ăn cho những người vô gia cư này.
Hình ảnh gần gũi, thân thương của Đức Giáo Hoàng Fancis phần nào minh hoạ lại hình ảnh của Chúa Giêsu là Thiên Chúa quyền năng đã từ bỏ vinh quang của một vị Thiên Chúa để mang lấy thân phận con người. Không chỉ làm người, Chúa Giêsu còn bước vào trần gian, thực sự trở thành một thành viên trong thế giới này. Ngài đã hoà mình với mọi người, đứng chung hàng với các tội nhân và cùng cúi xuống để xin Gioan dìm xuống dòng sông Giođan.
Tin Mừng Luca cho thấy bầu khí của dân chúng lúc bấy giờ đang khao khát mong đợi Đấng Cứu Thế, đang háo hức được nhìn thấy mặt Ngài. Vì thế, họ dồn tất cả niềm hy vọng vào Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên, Gioan biết rõ sứ mạng của ông chỉ là kẻ dọn đường cho Đấng Cứu Thế, vì vậy trước đám đông, Gioan đã tuyên bố : Phần tôi, tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, nhưng có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần và bằng lửa. Gioan nói lên sứ mạng vượt trội của Đấng Cứu Thế, Ngài sẽ dùng quyền năng của Thánh Thần để thanh tẩy nhân loại khỏi tội. Qua đó, Gioan cũng cho thấy phép rửa của ông không có sức tha tội ; việc đổ nước của ông chỉ là dấu hiệu bày tỏ lòng sám hối, còn phép rửa đích thực của Đấng Cứu Thế sẽ thanh tẩy mọi tội lỗi của nhân loại.
Theo Tin Mừng Matthew, Gioan đã nhìn thấy Chúa Giêsu từ đàng xa bước đến với ông. Ông nhận ra Ngài là Đấng Cứu Thế. Ông cảm thấy vô cùng bất xứng và đã từ chối : Chính tôi mới là người cần Ngài làm phép rửa cho. Nhưng trước sự yêu cầu của Chúa Giêsu, Gioan đã thực hiện như Chúa Giêsu yêu cầu. Thánh Matthew và Marcô kể rằng : Khi vừa bước ra khỏi dòng nước thì trời mở ra. Còn Thánh Luca hôm nay muốn nhấn mạnh đến một hành động khác của Chúa Giêsu đã khiến trời mở ra : Đang khi Người cầu nguyện thì trời mở ra và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình chim bồ câu.
Thánh Luca muốn giới thiệu cho thấy Chúa Giêsu là con người cầu nguyện, chính qua sự cầu nguyện, Ngài hiệp thông với Thiên Chúa Cha, đồng thời cũng nhận ra thánh ý của Thiên Chúa Cha. Nhờ lời cầu nguyện của Ngài mà cửa trời được mở ra. Nếu như ngày xưa Adam Evà từ chối Thiên Chúa, phạm tội chống lại Thiên Chúa đã khiến cho cửa trời bị đóng lại, mối liên lạc bị cắt đứt, thì hôm nay, Chúa Giêsu đã nối lại mối liên lạc với Chúa Cha qua cầu nguyện, đã khiến Thiên Chúa mở cửa trời để cúi xuống nhìn xem con người. Cửa trời mở ra cũng có nghĩa là các rào cản đã bị gỡ bỏ, Thiên Chúa có thể bước đến với nhân loại và nhân loại từ nay có thể bước vào nhà của Thiên Chúa, tức là vào Nước Trời. Cửa trời mở ra để từ đây, qua Chúa Giêsu, lòng thương xót của Thiên Chúa được tuôn tràn xuống trên con người như mưa rơi xuống trên mặt đất. Trời mở ra để Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại Người Con duy nhất và Thánh Thần của Ngài.
Tiếng Chúa Cha từ trời tuyên phán : Con là con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về con. Lời này Thiên Chúa Cha nói với Chúa Giêsu và đồng thời cũng là lời Thiên Chúa giới thiệu Con của Ngài cho nhân loại. Chúa Giêsu được Thiên Chúa khẳng định là người Con yêu dấu của Thiên Chúa, hằng làm đẹp lòng Thiên Chúa. Tiếng nói này còn cho thấy lòng quảng đại yêu thương của Thiên Chúa dành cho con người, vì đến Con yêu dấu của Ngài, Ngài cũng không giữ lại riêng cho mình, nhưng đã trao tặng cho nhân loại chúng ta.
Việc Chúa Giêsu bước xuống dòng sông Giođan, cùng xếp hàng với các tội nhân để xin Gioan thanh tẩy, cho thấy Chúa Giêsu đến trần gian không phải như người đi dạo chơi, cũng không đứng bên ngoài để nhìn con người đau khổ, nhưng Ngài đã hạ mình để trở thành kẻ mang thân tội lỗi như mọi người, cho dù Ngài không hề có một tội nào. Ngài đã hoà đồng và nhập cuộc với con người đến tận cùng, kể cả việc chấp nhận mang thân tội của con người vào thân mình và bị liệt vào hàng tội nhân để đem lại cho con người ơn tha thứ và địa vị làm con Thiên Chúa, cùng được bước vào Nước Trời với Người.
Bài đọc hai nhắc cho chúng ta về ơn gọi làm con Thiên Chúa nhờ được thanh tẩy trong máu của Chúa Giêsu qua cái chết thập giá của Ngài. Chúng ta được thanh tẩy để trở nên con người mới, vì thế, chúng ta được mời gọi từ bỏ lối sống cũ, lối sống vô luân và những đam mê trần tục mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này, tức là sống một nếp sống mới. Sống thể hiện đứng tư cách là những con người được Thiên Chúa cứu chuộc và đang mong chờ ngày Chúa Giêsu trở lại trong vinh quang. Bên cạnh đó, thánh Phaolô còn cho thấy Thiên Chúa đã xót thương không chỉ cứu chuộc chúng ta, mà Ngài còn ban Thánh thần của Ngài xuống trên mỗi chúng ta, giúp chúng ta có thể sống và hành động đúng với tư cách là con Thiên Chúa.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, chúng ta có thể rất nhớ ngày sinh nhật của mình nhưng không hề nhớ ngày mình được lãnh Bí tích Rửa tội, được trở nên con Chúa và ngày lãnh Bí tích Thêm sức để trở nên chứng nhân của Chúa. Chúng ta không nhớ ngày trọng đại này vì có thể chúng ta không nhận ra phẩm giá mà Thiên Chúa ban cho ta, không cảm thấy vinh dự và tự hào vì được làm con của Thiên Chúa, không hãnh diện khi được gọi Thiên Chúa là cha. Vì thế, chúng ta chưa cố gắng để thể hiện niềm tự hào đó và làm cho những ơn này trổ sinh hoa trái trong cuộc đời.
Trở nên con cái Thiên Chúa đòi chúng ta phải loại trừ những gì là phàm tục, tầm thường ra khỏi cách sống, cách suy nghĩ và hành động của mình, để tích cực làm nhiều việc thiện việc tốt cho mình và cho mọi người. Là những người được cứu chuộc, chúng ta không thể để mình bị rơi lại vào sự ràng buộc của ma quỷ, tội lỗi, dục vọng và tật xấu, vì Thiên Chúa đã ban cho ta sức mạnh Thánh Thần của Ngài giúp ta chiến đấu và chiến thắng trước những ràng buộc, lôi kéo đó. Hãy dựa vào sức mạnh của Thánh Thần để chống trả lại những tấn công của ma quỷ và cám dỗ.
Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa hôm nay nhắc cho mỗi người tẩy rửa chính bản thân mình khỏi những đam mê như rượu chè, cờ bạc, cá độ, lô đề… đang bôi bẩn hạnh phúc và sự bình an của gia đình, thanh tẩy gia đình mình khỏi sự gian dối, chửi bới, cãi vã, thay vào đó là sự quan tâm, thông cảm, chia sẻ với nhau nhiều hơn. Mỗi thành viên hãy góp phần làm cho gia đình nên ấm cúng thuận hòa, cùng nhau vun đắp cho hạnh phúc gia đình mình bằng những giờ kinh, những giờ cầu nguyện sớm tối. Sống như thế là chúng ta đang chung tay đổi mới gia đình và con cái nên những con người được Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc.
Ngày lễ này cũng nhắc cho các bạn trẻ nhớ rằng mỗi người chúng ta đã thuộc về Đức Kitô, vì thế, chúng ta không thể để mình rơi vào tay của ma quỷ và thế gian. Ơn của Bí tích Rửa tội cũng đòi mỗi người phải dám sống cho xứng đáng và tự hào là một người Kitô hữu trong xã hội hôm nay. Vì được Chúa yêu thương, chúng ta cũng cần tiếp tục đem tình thương của Chúa đến cho người khác, đừng để mình trở nên thụ động, ù lỳ hoặc vô cảm. Hãy cùng nhau xây dựng một môi trường sống tốt đẹp, hòa bình ; cùng nhau làm cho tinh thần của Tin Mừng lan tỏa trong xã hội hôm nay, nơi nhà trường, nơi xí nghiệp, nơi gia đình của mỗi người.
Khi mỗi người cố gắng sống với một quyết tâm đổi mới bản thân, gia đình và xã hội, hoàn thành tốt sứ mạng Chúa đang trao phó, thì Trời cũng sẽ mở ra cho chúng ta, cho mọi người và chính Thiên Chúa cũng sẽ nói với ta rằng : Con là con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về con. Amen.
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn