Các Bài Suy Niệm Lễ Thánh Giuse
2.TRỞ NÊN CÔNG CHÍNH NHỜ BIẾT THỰC THI Ý CHÚA.. 3
5.THÁNH GIUSE: KIÊN ĐỊNH THI HÀNH.. 12
6.ĐẤNG CÔNG CHÍNH – BỔN MẠNG GIÁO HỘI 14
10.THÁNH GIUSE – NGƯỜI GIA TRƯỞNG GƯƠNG MẪU.. 27
11.THÁNH GIUSE BẠN HIỀN TRINH NỮ, CHA NUÔI HÀI ĐỒNG GIÊSU.. 29
12.NÊN THÁNH THEO GƯƠNG THÁNH GIUSE. 32
13.MẪU GƯƠNG GIUSE GIA TRƯỞNG.. 35
14.THÁNH GIUSE: NGƯỜI CÔNG CHÍNH.. 36
15.SUY NIỆM LỄ THÁNH GIUSE. 39
16.SUY NIỆM LỄ THÁNH GIUSE- 45
18.THÁNH GIUSE BẠN HIỀN TRINH NỮ, CHA NUÔI HÀI ĐỒNG GIÊ-SU.. 55
19.CÔNG CHÍNH VÀ KHIÊM NHU.. 58
20.NHỮNG NẺO ĐƯỜNG KHÔNG BAO GIỜ NGHĨ TỚI 62
21.THÁNH GIUSE LÀ GƯƠNG MẪU CHO CÁC GIA TRƯỞNG.. 64
22.THÁNH GIUSE BẠN TRĂM NĂM ĐỨC TRINH NỮ MARIA.. 68
23.VỊ THÁNH QUYỀN THẾ, NHƯNG KHIÊM NHU! 72
Lm. Jos. DĐH
Biết bao người thành công là do lời nói việc làm của họ rất rõ ràng, mực thước, thứ đến là nhờ họ luôn ý thức sống có trách nhiệm với gia đình xã hội. Có những niềm vui tình cờ, may mắn, đến độ người ta gọi là “phúc bất trùng lai”. Không biết từ bao giờ, tiền nhân của chúng ta đã nảy sinh một ý tưởng thật khúc triết: trẻ cậy cha, già cậy con. Cũng không thể vô tình mà các đấng bậc của chúng ta lại nói: cha anh hùng, con hảo hán. Bậc làm cha mẹ, có con cháu chuẩn bị bước vào hôn nhân, các ngài thường hết sức tế nhị khi nhắc nhớ chúng: lấy vợ xem tông, lấy chồng xem giống. Chúng ta cũng từng nghe nói: bàn tay có ngón ngắn, ngón dài, ở đời có tốt xấu, trong suy nghĩ có nông cạn, có sâu sắc, quả là phong phú đa dạng.
Trong đời sống tự nhiên, phải có lần chúng ta suy nghĩ đến câu thành ngữ: ơn cha nghĩa mẹ, trong đời sống thiêng, hẳn lời mời gọi sống tâm tình: đền ơn đáp nghĩa, cũng từng xuất hiện trong tâm trí chúng ta. Làm cha mẹ một gia đình, làm con cháu của một dòng tộc, dù theo nghĩa tự nhiên hay siêu nhiên, đều phải được xét đến là có tư cách, chứ không phải thuần tuý tài giỏi. Là cha Đức Giêsu, ông Giuse được biết đến với cái nghề thợ mộc rất bình thường, như biết bao các ông các bố, chu toàn ơn gọi làm cha, làm chồng, ông Giuse chắc chắn cũng hằng nghĩ tới mục tiêu đó. Sống trên đời, ai chẳng mơ ước được là người tốt, người có ích ; làm cha, làm chồng, họ cũng mong con ngoan, vợ hiền, và để đạt tới hạnh phúc, tất cả các thành viên gia đình đều phải ý thức bổn phận và trách nhiệm của mình.
Là cha, là bố, được hiểu là cột trụ gia đình, vinh dự về trọng trách hay ưu tư tới vị trí là “đầu tầu” gia đình, ít nhiều cũng cho thấy họ đã nghĩ đến thiên chức cao quý của họ rồi. Ngày hôm nay, chúng ta được mời gọi để hướng tới thiên chức làm con Chúa, con Hội Thánh của mình, khởi đi từ ơn gọi gia đình chuẩn mực nơi người cha, người gia trưởng, mang tên Giuse. Dựa vào một vài gợi ý nhỏ trong kinh thánh, chúng ta chỉ biết Thánh Giuse với danh xưng là người công chính, ngài luôn thao thức nhận ra thánh ý Chúa và sống vẹn toàn thánh ý Chúa. Thế hệ hôm nay sẽ không ai thắc mắc tại sao tôi được làm cha, làm chồng, làm mẹ, làm vợ, có chăng họ đang cố gắng suy xét phải sống thế nào, để họ thực sự là “cột trụ” vững chắc cho gia đình, và thực sự không hổ thẹn với hậu thế về chức vị cao cả mình đang có.
Chúng ta hôm nay có suy nghĩ gì về Thiên chức là cha là bố, là chồng, là người gia trưởng Giuse không ? Tài giỏi, đức độ thời nào cũng có, ấy vậy, Thiên Chúa lại mời gọi Giuse làm đấng bao bọc chở che Hài nhi Giêsu và Mẹ Người. Nếu ở đời họ nói: cú xấu mà cú lắm lông, đại loại là người không đẹp về diện mạo, nhưng họ giầu tiền của, họ lắm tài năng trổi vượt. Hiện xung quanh chúng ta đây, vẫn có nhiều ông bố, nhiều vị gia trưởng, không tài giỏi, không “phương phi tốt tướng”, vậy mà họ đang thực sự là người cha đức độ, người chồng lý tưởng cho gia đình, vợ con họ vô cùng hạnh phúc.
Cũng nhiều ông bố, ông chồng, đang tự an ủi nhau, rất may Thiên Chúa không gọi thái tử con vua, hay người anh hùng dân tộc làm cha Đức Giêsu, làm bạn Đức Maria. Trước hết, phải nói là Thiên Chúa ban cho mỗi người chúng ta có một ơn gọi rất cao cả đó là ơn làm con Chúa, làm con Giáo Hội. Cũng trong ý tưởng đó, chúng ta có thể nói thiên chức làm cha, hay ơn gọi làm chồng, làm bố, làm mẹ, hoặc làm linh mục tu sĩ, rất ư là phong phú với sứ mạng xây dựng và phát triển Đại gia đình Hội Thánh Chúa. Người xưa có những câu răn dạy con cháu thật tinh tế: nói là gieo, nghe là gặt, cho nên, người đáng để chúng ta khâm phục chính là người nghe giỏi, đâu phải là người nói hay. Thánh Giuse nếu có dịp chia sẻ với hậu thế chúng ta, hẳn ngài sẽ khuyên chúng ta hãy nhanh nghe và chậm nói, đó có phải là bí quyết sống thánh ý Chúa, trở nên người công chính không ?
Là cha mẹ đức độ, là con thảo con hiếu, đều phát xuất bởi dòng dõi được tuyển chọn, được có chung một Cội Nguồn là Thiên Chúa yêu thương. Làm người, làm con Chúa, tạm hiểu là chúng ta đang mang một thiên chức cao cả. Cha Giuse, Mẹ Maria, đã từng sống à chia sẻ ơn gọi mến Chúa yêu người, đã từng chiến đấu, chiến thắng khổ đau, bằng sức mạnh tình yêu, bằng sự trung tín cậy trông. Thiên chức cao cả của Thánh Giuse, của Đức Maria, là khởi đầu cho tất cả những ai đang khao khát sống thiên chức làm con Chúa theo mẩu gương người công chính. Thánh Giuse xưa kia đã nghe, đã hiểu, đã sống thánh ý Chúa rất đặc biệt, dù là ý Chúa được thể hiện qua giấc mơ: “hỡi Giuse con vua Đavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi quyền phép Chúa thánh thần”. Xin tình yêu Chúa thánh hoá, chúc lành, để con cái của Chúa hiểu, và biết cách thực hành thánh ý Chúa cách trọn vẹn theo mẫu gương của Cha Thánh Giuse. Amen.
Tu sĩ: Jos. Vinc. Ngọc Biển
Hôm nay, cùng với Giáo Hội, chúng ta hân hoan mừng trọng thể lễ thánh Giuse, ngài là Đấng Công Chính, là bạn trăm năm của Đức Trinh Nữ Maria, là Cha Nuôi Đấng Cứu Thế.
Tuy nhiên, thánh Giuse được biết đến là một con người thinh lặng, âm thầm tuyệt đối, nhưng lại có một cuộc đời hoạt động không ngừng nghỉ cho công cuộc cứu chuộc của Thiên Chúa.
Chính vì điều đó mà thánh nhân được mệnh danh là người có một đời sống đức tin sâu xa, lòng trông cậy vững vàng và đức mến thiết tha.
Có được điều đó là vì thánh Giuse luôn tìm thánh ý Thiên Chúa thay cho ý riêng của mình. Ngài cũng sẵn sàng đón nhận mọi thử thách, đau thương để thánh ý Chúa được nên trọn.
Thánh Giuse là con cháu Vua Đavít, ngài thuộc dòng dõi hoàng tộc. Khi xuất thân từ con dòng cháu giống như vậy, thân thế của thánh Giuse rất sáng giá. Từ đó, ta có thể suy tư và nhận biết rằng: thánh Giuse là một con người gương mẫu về việc trung thành với luật lệ của tiền nhân. Có lẽ ngài cũng giống như những người đạo đức của Dothái thời bấy giờ, đó là:
Luôn coi luật lệ Cựu Ước là khuôn vàng thước ngọc, là ánh sáng, là con đường để dẫn đưa mình tới hạnh phúc.
Tuy nhiên, thánh Giuse lại được Thiên Chúa ghé mắt nhìn và muốn sử dụng ngài trở thành người phục vụ cho công trình cứu chuộc của Thiên Chúa, chứ không phải chỉ là người chu toàn lề luật thuần túy. Vì thế, Thiên Chúa đã làm cho thánh Giuse từ một người công chính của thời Cựu Ước trong việc chu toàn lề luật cũ, trở thành người công chính của thời Tân Ước trong chương trình của Thiên Chúa.
Sự công chính mà Thiên Chúa muốn dành tặng cho thánh Giuse được khởi đi từ biến cố ngài được báo mộng để đón nhận Đức Maria về làm vợ của mình trong khi Mẹ Maria đang mang thai.
Khi đón Mẹ Maria về chung sống như vậy, thánh Giuse thực sự trở thành người bảo vệ Đức Maria khỏi dị nghị và cái chết, bởi vì việc Mẹ Maria mang thai là do quyền năng Chúa Thánh Thần, vì thế, một người phụ nữ mang thai mà không có chồng, chắc chắn, chiếu theo luật, Mẹ sẽ bị ném đá. Việc đón nhận Đức Maria trong lúc nước sôi lửa bỏng như vậy đồng nghĩa với việc cứu sống Đức Maria cách nhãn tiền. Đây là một việc làm can đảm và mang tính quan trọng, quyết định.
Khi chấp nhận như vậy, thánh Giuse đã làm tan biến cái “tôi” của mình để sống và phục vụ cho chương trình của Thiên Chúa.
Như vậy, nếu sự công chính thời Cựu Ước là chu toàn lề luật theo mặt chữ, thì công chính giờ đây, với thánh Giuse là: lắng nghe Lời Chúa, yêu mến, trung thành và thực thi trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa.
Khi chấp nhận đi vào đường lối của Thiên Chúa, thánh Giuse đã bước đi trên con đường chẳng mấy ai đi, bởi vì nó không mấy êm ả!
Nhưng với ngài, không một lời than van, oán trách, ngược lại, ngài đi trên con ấy bằng một tình yêu vô vị lợi và với tinh thần trách nhiệm cao.
Bí quyết mà thánh Giuse có được, đó là: ngài luôn gieo vào từng suy nghĩ, hành động của mình bằng một thứ tình yêu độ lượng, bao dung, từ đó, mọi chuyện dù có vất vả, khó khăn…, cũng không thể làm chùn ý chí của ngài.
Điều này được chứng minh ngay sau một thời gian khi đón nhận Mẹ Maria về làm vợ, thánh Giuse đã phải lặn lội đưa Mẹ Maria trở về quê quán để khai tên tuổi. Biến cố này đối với thánh Giuse là một sự kiện rất đáng ghi dấu, bởi vì chuyến đi này đầy ắp tình yêu của ngài với Mẹ Maria, nhưng lại là chuyến đi xa của đôi vợ chồng nghèo!
Chính vì điều này, mà khi đến nơi, không tiền, không bạc, nên không thuê được nhà trọ, vì thế, xót xa lắm khi phải đưa người vợ đầy yêu thương đang bụng mang dạ chửa sắp sinh con tiến ra cánh đồng, nơi dành cho bò lừa để tá túc qua đêm.
Rồi không gì khổ tâm cho bằng chứng kiến cảnh Con Thiên Chúa toàn năng, Đấng tạo dựng nên đất trời, mà lại phải sinh trong máng cỏ của bò lừa, tanh hôi và lạnh giá!
Sự khó khăn không chỉ dừng lại ở đấy, nhưng chỉ mới được có vài ngày sau khi sinh, Gia Đình Thánh đã phải trốn chạy cảnh bạo chúa Hêrôđê ra tay tương tàn sát hại những con trẻ ở Belem.
Không phải chạy gần, mà chạy tới Aicập ngay trong đêm. Hơn nữa, sau khi nghe tin vua Hêrôđê băng hà, Giuse lại quyết định đưa vợ và con của mình hồi hương.
Rồi trong suốt thời gian Đức Giêsu sống ẩn dật, Kinh Thánh chỉ nhắc tới thánh Giuse có một lần. Tuy nhiên, lần nhắc đến này lại là lần ngài và Mẹ Maria tất tưởi đi tìm Đức Giêsu vì bị lạc mất Ngài.
Lược qua những biến cố trong cuộc đời của thánh Giuse như vậy, để cho chúng ta hiểu rằng: chấp nhận đi theo đường lối của Thiên Chúa, ấy là chúng ta chấp nhận lội ngược dòng của cuộc đời. Tuy nhiên, như thánh Giuse, ngài đã không hề than trách, không hề ngại khó ngại khổ, mà ngược lại, thánh Giuse đã làm cho tình yêu của ngài với Thiên Chúa qua Mẹ Maria và Đức Giêsu ngày càng lớn mạnh.
Còn chúng ta thì sao?
Trong cuộc sống của con người hiện nay, có lẽ khi nói đến sự công chính của thánh Giuse và mời gọi noi gương ngài để sống sự công chính ấy trong cuộc sống, chắc có nhiều người cho là hão huyền! Bởi vì ngày nay, người ta nhìn mọi biến cố dưới nhãn quan khoa học, ít quan tâm đến hiện tượng lạ xảy ra trong cuộc đời. Bên cạnh đó, chủ nghĩa thực dụng, vô thần và những trào lưu tục hóa đang ngày càng xâm lấn tư tưởng của con người, đã làm cho con người rơi vào tình trạng luôn tìm cách giải nghi huyền nhiệm theo hướng thực dụng!
Người Kitô hữu cũng không ngoại lệ bởi những diễn biến trên!
Chính vì vậy, nên người ta ít nhạy bén trước lời mời gọi của Thiên Chúa qua các dấu chỉ. Việc từ bỏ ý riêng để tuân theo ý Chúa là điều mà nhiều người không muốn nghĩ tới. Hơn nữa, quan niệm hưởng thụ lại là tiêu chí chủ đạo trong cuộc sống hôm nay, vì thế, khi nói đến hy sinh, chịu khổ vì người khác là điều mà nhiều người không thích!
Sứ điệp ngày lễ thánh Giuse hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm để từ bỏ ý riêng, nhằm phục vụ cho thánh ý và chương trình của Thiên Chúa. Chỉ khi ý riêng của chúng ta được hòa vào thánh ý Thiên Chúa, thì cuộc đời chúng ta mới thực sự được tự do hoàn toàn và đời sống mới có giá trị đích thực.
Luôn loại bỏ tư tưởng rằng: tin và theo Chúa là tránh được những đau khổ, vất vả…. Không phải vậy! Nhưng cần điều chỉnh lại suy nghĩ và hướng tới tinh thần như thánh Giuse, đó là: chấp nhận tin và theo Chúa là sẵn sàng đi vào con đường hy sinh, đau khổ, từ bỏ. Hơn nữa, điều quan trọng nhất, đó là biết đón nhận đau khổ, hy sinh, từ bỏ với tình yêu vô vị lợi và luôn hướng tới người khác. Chỉ có như vậy, chúng ta mới biến đau khổ thành phương thế để được cứu chuộc mình và tha nhân.
Muốn làm được điều đó, chúng ta phải có một đức tin sống động, đức mến nồng nàn và niềm phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa. Có thế, chúng ta mới hy vọng có đủ độ nhạy bén như thánh Giuse để biết được đâu là thánh ý Thiên Chúa và đâu là ý loài người.
Nguyện xin thánh Giuse luôn bầu cử cho mỗi chúng ta có được trái tim yêu thương, xả thân hết mình vì Chúa và tha nhân như ngài. Xin thánh Giuse nâng đỡ đời sống đức tin, lòng mến và niềm cậy trông nơi chúng ta. Ước gì nhờ lời chuyển cầu của ngài, chúng ta can đảm và an vui dấn bước theo Chúa để được cứu độ. Amen.
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Phụng vụ ngày lễ kính Thánh Cả Giu-se cống hiến một đoạn văn ngắn ngủn và hiếm hoi của Phúc âm Mát-thêu hé lộ cho thấy con người Tin Mừng của Giu-se, vị thánh vẫn thường được tôn kính và khẩn cầu dưới các tước hiệu trang trọng như Dưỡng Phụ của Đức Giê-su hay Bạn Trăm Năm Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Vậy thì ngoài các tước hiệu, con người Tin Mừng của ngài có gì đặc sắc, có gì nổi bật đáng cho chúng ta chiêm ngưỡng? Quan trọng hơn, ngài có gì để giúp Ki-tô hữu chúng ta sống Tin Mừng cách triệt để hơn, ngoài việc cầu bầu trước mặt Chúa như đấng có thần thế để lãnh nhận được các ân huệ và phúc lành?
Trong gia phả Đức Giê-su khi liệt kê các bậc tổ phụ sinh thành, Mát-thêu đã dùng câu 16 để tạo một bước ngoặt, Giu-se không sinh ra Giê-su. Qua ông và nhờ ông điều duy nhất được xác định là, Giê-su chính là hậu duệ hợp pháp của vua Đa-vít. Chỉ có thế, vì trong suốt tiến trình Giê-su giáng sinh và lớn lên, Phúc Âm cho thấy Giu-se không đóng một vai trò chủ chốt nào. Cái bóng của ông vẫn còn đó, nhưng chỉ thấp thoáng trong tư cách hỗ trợ ‘ông đón vợ về nhà.., ông đưa Ma-ri-a đi khai sổ bộ.., ông tìm quán trọ.., ông ở bên Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ.., ông đem Con Trẻ lên Giê-ru-sa-lem để hiến dâng.., đang đêm ông đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập.., ông lại đưa Hài Nhi và mẹ Người trở về đất It-ra-en.., rồi về Na-da-rét miền Ga-li-lê.., ông lo lắng đi tìm Trẻ Giê-su thất lạc trong đền thờ…’ Ngoài các điều trên, ông chỉ được coi như một con người tầm thường, bình dị, một công nhân lao động không được bà con lối xóm ngay tại Na-da-rét kiêng nể là bao, nói chung ông chỉ là một cái bóng mờ trong các sách Tin Mừng (Lc 4:22).
Lời khen tặng duy nhất Phúc Âm dành cho ông là: “Ông là người công chính”. Tuy nhiên danh hiệu này tự nó cũng chẳng phải là lời khen ngợi cao quí gì cho lắm. Công chính (justus) của Giu-se chỉ là một thuộc từ gán cho ông, chứ không phải là một tước hiệu danh giá mà xã hội ban tặng như trường hợp của Ba-sa-ba (Cv 1:23). Khi sử dụng danh hiệu này, tác giá Mát-thêu nhấn mạnh cho các độc giả Do Thái biết, trước con mắt các đồng hương Na-da-rét, Giu-se đơn giản là một người tốt, một người chính trực, tức là một công dân Do Thái chính hiệu, luôn trung thành với các qui định của luật Mô-sê. Trong xã hội đó, người ta gọi hạng người sống như thế là ‘công chính’, tương tự như ngày nay chúng ta nói ai đó là ‘lương thiện’ hay ‘công dân tốt’ vì tuân thủ luật pháp cách ngay chính (xem Mt 5:20). (Lưu ý: Các bản dịch Thánh Kinh Anh ngữ sử dụng nhiều tĩnh từ khác nhau để lột tả nội dung này như ‘just, righteous, good, honorable…’) Cụ thể trong bối cảnh bài Tin Mừng hôm nay, từ này được dùng để giải thích: khi Giu-se phải giáp mặt với tình huống hôn nhân khó xử, Mát-thêu cho thấy ông chỉ muốn tuân thủ cặn kẽ các qui định của luật pháp được ghi rõ trong Đệ Nhị Luật. Nếu có đôi nét đặc biệt nào thì chẳng qua cũng chỉ là thái độ tế nhị ông muốn thi hành các điều này cách kín đáo và thận trọng. Khi gọi ông là công chính, Mát-thêu chỉ muốn nhấn mạnh có một điều: Giu-se, miêu duệ Đa-vit, là một người Do Thái hoàn hảo trong việc tuân thủ luật pháp; và điều này, đối với các độc giả sách Tin Mừng ông viết mà phần đa là các Ki-tô hữu gốc Do Thái, sẽ có một tầm quan trọng và ảnh hưởng rất lớn.
Và rồi Sứ thần Chúa được gởi đến can thiệp để khảng định với ông rằng: kế hoạch cứu độ mà Thiên Chúa đang muốn thực hiện là ‘vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ’. Trong kế hoạch đó, sứ thần cho thấy Giu-se được dành cho một vai trò nhất định: qua ông và nhờ ông, Giê-su sẽ được luật pháp công nhận là miêu duệ vua Đa-vít, một điều có tầm quan trọng vô cùng lớn lao trong quan niệm của người Do Thái về đấng Mê-si-a. Để thi hành cho được kế hoạch này, cụ thể ông phải ‘đừng ngại đón Ma-ri-a vợ ông về’, phải công khai thi hành vai trò gia trưởng ‘đặt tên cho con trẻ là Giê-su’. Các đòi hỏi này ngầm hiểu ông sẽ phải đình chỉ thi hành các điều mà luật pháp qui định, những điều mà ông – một công dân Do Thái mẫu mực – đang chú tâm tuân thủ cách căn kẽ: ‘viết cho nàng một chứng thư ly dị, trao tận tay và đuổi nàng ra khỏi nhà’ (Đnl 24:1). Nếu chấp nhận thi hành theo lời sứ thần sẽ đồng nghĩa với việc, trước luật pháp Do Thái, ông không còn có thể coi mình là ‘công chính’ được nữa. Giu-se phải lựa chọn một trong hai: kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa hay sự ‘công chính’ dân sự của riêng mình. Và may mắn thay, ông đã quyết định; ‘Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy, và đón vợ ông về nhà…” Giu-se thực tế đã quyết định rời bỏ sự công chính của Cựu Ước (luật pháp) để chu toàn công chính của Tân Ước cứu độ. Từ nay ông sẽ sống trong sự ‘công chính mới’ của kế hoạch cứu độ! Phải chăng đó mới đích thị là sự vĩ đại Tin Mừng của Thánh Cả Giu-se?
Và không chỉ một mình Giu-se, Ma-ri-a – bạn ông cũng đã phải kinh qua một trải nghiệm và chọn lựa tương tự: hoặc sự công chính của lề luật – có con với chồng đã thành hôn – hoặc kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa; “Việc đó xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?” Và lời ‘Xin vâng!’ của Ma-ri-a cũng dứt khoát và vĩ đại không kém hành động ‘Đón vợ về nhà’ của Giu-se, tức là rời bỏ sự công chính theo luật pháp để đi vào kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa yêu thương. Ôi, các cây cổ thụ của Tin Mừng quả vĩ đại dường bao, các ngài thật công chính và thánh thiện, nhưng là một thứ công chính thánh thiện của cộng tác vào chương trình cứu độ đầy yêu thương của Thiên Chúa!
Trong đời sống thường ngày chắc rằng mỗi chúng ta cũng đều đã kinh qua một số lựa chọn tương tự, những điều mà ta quen gọi là vâng phục hay chu toàn Thánh Ý Chúa. Thế nhưng việc vâng phục này, theo thiển ý của tôi, rất thường khi sẽ đòi Ki-tô hữu phải khiêm tốn nhìn nhận thân phận hèn yếu, thấp kém và lỗi phạm của mình để dọn chỗ cho kế hoạch cứu độ đầy yêu thương mà Thiên Chúa đang muốn thực hiện nơi mình. Khiếm tốn nhìn nhận những yếu kém, những bất chính theo luật pháp hay luân lý để kế hoạch yêu thương thứ tha của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi mình, điều này đôi khi còn khó hơn cả những nỗ lực sống ngay chính lương thiện để được người đời ca tụng. Thánh Cả Giu-se và Đức Ma-ri-a là những nhân vật đặc biệt vì đã nêu gương và sẽ giúp ta thi hành được sự ‘công chính’ rất Tin Mừng này!
Lạy Thánh Cả Giu-se, dầu biết ngài là đấng có quyền thế trước mặt Chúa, nhưng con lại muốn năng chạy tới ngài như Cha và Thầy hướng dẫn cuộc sống và các lựa chọn Tin Mừng của con hơn. Xin Cha giúp con đặt Tin Mừng cứu độ Chúa lên trên tất cả những gì con và người đời thường vẫn coi là cao đẹp, là đạo đức, là thánh thiện. Xin giúp con thấu hiểu rằng: đón nhận kế hoạch yêu thương cứu độ của Thiên Chúa qua việc nhìn nhận sự yếu đuối tội lỗi của chính mình đôi khi còn quan trọng hơn cả sống công chính. Xin cho con biết cộng tác vào kế hoạch yêu thương cứu độ của Chúa từ việc nhìn nhận tình trạng thấp hèn tội lỗi của mình. A-men.
Lm. Anthony Trung Thành
Ngoài những sứ mạng chung được trao phó cho tất cả mỗi người, Thiên Chúa còn trao những sứ mạng riêng cho một số người mà Ngài tuyển chọn. Có những sứ mạng âm thầm, kín đáo, nhẹ nhàng nhưng cũng có những sứ mạng công khai, trọng đại và hết sức nặng nề. Một trong những vị được Thiên Chúa trao cho sứ mạng công khai, trọng đại và hết sức nặng nề đó chính là Thánh cả Giuse mà chúng ta mừng kính hôm nay. Thánh Nhân được Thiên Chúa trao cho sứ mạng làm Bạn Thanh Sạch Đức Maria và làm Cha Nuôi Đức Giêsu. Đây là sứ mạng cao cả và hết sức quan trọng trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Bởi vì, để Đức Giêsu xuống thế làm người cần phải có một người mẹ. Thiên Chúa đã chọn Đức Maria. Nhưng Đức Maria cần có một người bảo vệ và Đức Giêsu cần có người chăm nom, nên Thiên Chúa đã chọn Thánh Giuse.
Vì sao Thánh Giuse được Thiên Chúa chọn và giao nhiệm vụ quan trọng như thế? Đó là một mầu nhiệm, chỉ có Thiên Chúa biết. Nhưng xét về cái nhìn của con người, thì có lẽ Thánh Giuse là người trổi vượt hơn hết mọi người. Kinh thánh gọi Ngài là người công chính, tức là người có đầy đủ mọi nhân đức như: trọn tốt trọn lành, cực thanh cực tịnh, cực khôn cực ngoan, kiên tâm mạnh mẽ mọi đàng, hay vâng lời chịu lụy, ngay chính tận trung, gương nhân đức nhịn nhục, yêu chuộng nhân đức khó khăn, gương tốt lành cho các kẻ làm thợ phải soi, mẫu mực sáng láng về cách ăn nết ở trong nhà (Theo Kinh Cầu Thánh Giuse). Và vì là người công chính nên Ngài đã hết lòng chu toàn sứ mạng làm Bạn Thanh Sạch Đức Maria và Cha Nuôi Đức Giêsu. Thật vậy, sau khi được sứ thần báo mộng, Ngài đã sẵn sàng đem Đức Maria về nhà làm bạn mình. Tiếp đó, Ngài sẵn sàng chấp nhận mọi khó khăn xảy đến với Ngài và người bạn đời cũng như với Đức Giêsu. Cụ thể, khi Đức Maria đến ngày mãn nguyệt khai hoa, Ngài cố gắng tìm chỗ cho Đức Mẹ hạ sinh Đức Giêsu. Sau đó, Ngài đem Đức Mẹ và Hài Nhi đến Đền thờ để được dâng hiến theo luật Môsê. Rồi, Ngài đem Đức Mẹ và Hài Nhi trốn sang Aicập khỏi sự lùng bắt của Hêrôđê. Ngài cùng Đức Mẹ và trẻ Giêsu lên đền thờ Giêrusalem dự lễ. Ngài cùng Đức Mẹ đi tìm Chúa Giêsu suốt ba ngày đàng. Ngài trung thành làm nghề thợ mộc và dạy Đức Giêsu làm nghề đó để nuôi sống gia đình. Tóm lại, Thánh Giuse luôn trung thành với chức vụ làm Bạn Đức Maria và làm Cha nuôi Đức Giêsu suốt 30 năm trời như kinh cầu Thánh Giuse xác nhận: “Thánh Giuse là Đấng đồng trinh gìn giữ Đức Nữ Đồng Trinh”; “Thánh Giuse là cha nuôi con Đức Chúa Trời, là Đấng hằng lo lắng che chở cho Đức Chúa Giêsu liên”.
Như vậy, Thánh Giuse đã chu toàn sứ mạng Thiên Chúa giao phó một cách trọn vẹn, còn chúng ta thì sao? Đặc biệt những người sống ơn gọi gia đình có chu toàn bổn phận làm vợ làm chồng, làm cha làm mẹ không?
Thứ nhất, bổn phận làm vợ chồng: “Anh (em) là T. nhận em (anh) T. làm vợ của anh (làm chồng của anh), và hứa giữ lòng chung thủy với em (anh), khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi mạnh khỏe cũng như lúc đau yếu, để yêu thương và tôn trọng em (anh) mọi ngày suốt đời anh (em).” Đó là lời thề hứa của hai người với nhau trước mặt Thiên Chúa và Hội thánh khi lãnh nhận Bí tích Hôn phối. Nhưng sau khi cưới nhau và cho đến hôm nay có ai giữ trọn vẹn lời thề hứa đó không? Nếu xét mình lại chắc chắn không ai tránh khỏi sai lỗi về lời thề hứa đó: hoặc trong việc làm hoặc trong lời nói hoặc trong sự thiếu sót. Bởi vì, trong thực tế, chúng ta vẫn thấy có những vụ vợ chồng đánh nhau, chửi nhau, giận nhau, nói xấu nhau. Vẫn có những người chồng người vợ thiếu sự chung thủy với nhau. Vẫn có những người chồng người vợ thiếu trách nhiệm đối với nhau, nhất là khi một trong hai người đau yếu, bệnh tật.
Thứ đến, bổn phận làm cha mẹ: Giáo lý dạy các bậc làm cha mẹ phải có bổn phận nuôi dưỡng, thương yêu, dạy dỗ và làm gương cho con cái cả về mặt nhân bản cả đời sống đức tin. Nhưng trong thực tế, rất ít bậc cha mẹ chu toàn các bổn phận ấy. Bởi vì, trong thực tế vẫn có những người con đang bị đói khát, vẫn có những người con đang thiếu vắng tình yêu thương, vẫn có những người con thiếu sự dạy dỗ và vẫn có rất nhiều bậc làm cha làm mẹ không làm gương sáng về đời sống nhân bản và đời sống đức tin cho con cái.
Tại tỉnh Hà Nam, Trung Quốc, có cậu bé 4 tuổi, tên là La Minh Triết đã bị chính mẹ đẻ của em bỏ rơi. Ban đầu, khi sinh ra, em là một cậu bé đẹp trai, thông minh và lanh lợi. Nhưng đến 4 tuổi tròn, khi bị ốm đi khám bệnh, bác sĩ kết luận em bị ung thư máu.
Nỗi đau đớn ập đến cuộc đời cậu bé đáng thương, kèm theo đó là những giọt nước mắt của bà và bố. Biết con bị bệnh nặng, cha của Minh Triết đã ngay lập tức vào viện cùng bà nội để chăm sóc bé.
Trái với thái độ khẩn trương của bà và bố thì người mẹ lại tỏ ra dưng dửng. Mẹ em làm ở thành phố gần bệnh viện nhưng vẫn chần chừ không đến thăm em. Thậm chí, người phụ nữ này còn không đến thăm con và chỉ hứa hẹn “2,3 hôm nữa mẹ về.” Chờ mãi, đợi mãi cũng không thấy bóng dáng mẹ đâu, cậu bé mong ngóng trong nỗi buồn tủi và đau đớn. Những cơn đau kéo dài cùng sự cô đơn trong mắt cậu bé đã khiến bố và bà em vô cùng thương xót.
Được biết, để điều trị bệnh, Minh Triết phải được xạ trị, và với một đứa trẻ yếu ớt như Triết thì việc này thật là quá sức chịu đựng. Cậu bé phải trải qua 14 lần xạ trị và thân hình em ngày càng gầy gò, ốm yếu. Đau đớn là vậy nhưng mỗi ngày Triết đều hỏi bố: “Bố ơi, bao giờ con mới khỏi? Sau khi con khỏi là con có thể gặp mẹ phải không ạ?”
Câu hỏi đơn giản của con trai như cứa vào tim ông bố. Anh La Chiến, bố của cậu bé đành phải dỗ ngọt con trai và đề nghị em hãy vẽ chân dung của mẹ. Và nếu nhớ mẹ quá thì hãy nhìn bức tranh ấy. Chưa hết, anh kìm nén cảm xúc tức giận và giải thích cho con là mẹ phải đi kiếm tiền nên không thể về thăm bé được.
Bà của Minh Triết rất thương cháu và mỗi lần cháu khóc, bà chỉ biết dỗ dành: “Minh Triết à, con là con trai, con phải mạnh mẽ lên, ngoan, chịu khó chữa bệnh đến khi khỏi rồi mẹ sẽ về với con thôi mà.” (theo giadinh.net.vn)
Câu chuyện trên phản ánh tình trạng nhiều trẻ em bị cha mẹ bỏ rơi trong xã hội chúng ta đang sống. Nguyện xin Thánh Giuse cầu thay nguyện giúp để mỗi người chồng người vợ, người cha người mẹ biết chu toàn bổn phận của mình, đừng để tình trạng các em bé bị bỏ rơi như em Minh Triết trong câu chuyện trên đây. Amen.
Lm Giuse Hoàng Kim Toan
Để biểu lộ rõ con người với căn tính toàn diện của mình, nhiều nhà Tâm lý học ứng dụng đặt ra hai tiêu chí: Liên tục và thống nhất. Câu hỏi cụ thể đặt ra: Tôi là ai? Và tôi muốn mình là ai? Là hai câu hỏi đồng quy về chính con người của mình.
Nhận định theo hai tiêu chí này, có thể thấy mẫu gương của Thánh Giuse để học theo và ứng dụng.
Tôi là ai?
Thánh kinh giới thiệu Thánh Giuse là con cháu vua Đavit theo gia phả Tin Mừng Thánh Mat thêu. Là một người thợ mộc, có đời sống công chính.
Đó là những giới thiệu về ngài, còn chính Thánh Giuse nhận biết mình là ai, điều này mới quan trọng để định hướng cuộc đời.
Thánh Giuse nhận biết mình là dưỡng phụ thanh sạch của Chúa Giêsu. Đây là nhận biết về mình cách chính xác sau khi được sứ thần mời gọi trở thành dưỡng phụ của Chúa Giêsu, bảo đảm cho Đức Maria trong ơn gọi đồng trinh và một gia đình ấm êm hạnh phúc. (Xem Mt 1, 18 – 25; Lc 2, 1 – 7)
Để biết về mình Thánh Augustine đã cầu nguyện: “Xin cho con biết Chúa, để con biết con. Cho con biết con để con biết Chúa”. Chúng ta có thể biết mình nhờ những thành tựu khoa học và nhận xét về mình, nhưng nguồn gốc về việc biết mình đó còn hạn hẹp. Chúa cho biết thêm để hiểu rõ con người của mình hơn nữa, vì “Lạy Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ, biết cả khi con đứng con ngồi. Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa” (Tv 139, 1 – 2)
Liên tục theo đuổi mục đích đời mình.
Biết rõ mục đích cuộc đời là cái biết để cần thiết tiến tới không ngừng, dù bao khó khăn, bao thử thách.
Những thử thách đầu tiên đến trong hành trình về Bêlem. Đức Maria tới ngày sanh nở mà không tìm ra nơi trú ngụ, Đức Maria sanh con nơi máng cỏ. Vừa sinh nở xong, chẳng bao lâu, Thánh Giuse lại được báo mộng đưa con sang trốn tại Ai Cập. Sau khi Herode băng hà, một lần nữa Thánh Giuse lại đưa gia đình về lại quê hương.
Tất cả những lần thi hành theo hướng dẫn của Chúa, Thánh Giuse chỉ được nghe qua lời báo trong mộng. Thánh Giuse liên tục theo đuổi tiếng nói từ trong mộng báo đó.
Đây là điểm đặc biệt mà mỗi người đều có thể nghe được tiếng nói của lương tâm ngay thẳng mách bảo, làm hay không làm. Tuy nhiên, mỗi người chúng ta có thể chần chừ hoặc lách ra một chút, hoặc chẳng nghe theo gì cả. Lỗi lầm và hậu quả lâu ngày mới thấy xuất hiện và đôi khi không phát hiện ra được nguyên nhân từ lâu rồi đã quên mất. Lạc xa lý tưởng, mất hẳn tính liên tục từ ban đầu dự định. Hệ quả dẫn đến xao xuyến bồn chồn trước những đổ vỡ. Hoặc trốn tránh, tiếp tục lừa dối chính mình hoặc tích cực sửa chữa để hoàn thiện.
Thánh Phaolô nói về tình trạng cuộc chiến nội tâm và phương thức tháo gỡ:
“Tôi biết rằng sự thiện không ở trong tôi, nghĩa là trong xác thịt tôi. Thật vậy, muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi.” (Rm 7, 18 – 20)
“Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta!” (Rm 7, 24 – 25).
Chính Thiên Chúa, Đấng tháo gỡ con người ra khỏi cuộc chiến này bằng chiến thắng tội lỗi, sự xấu liên tục, để trưởng thành hơn sau những lần vấp ngã, để bền bỉ hơn sau những lần rã rời. Không có Chúa, con người sẽ lấy những giá trị giả tạo khác để lấp đi sai phạm và dần dần lạc trôi giữa đời vô nghĩa.
Một con người thân thiện với nhiều người và yêu thương cả kẻ thù địch, đó là dấu chỉ của một người đã được tháo gỡ khỏi sự dữ, cái xấu. Con người đó thực sự sống trong tự do của Thiên Chúa ban tặng.
Mẫu gương các thánh trong gia đình Nazareth biểu hiện niềm vui hạnh phúc lan tỏa trong Chúa. Các Ngài làm lan tỏa niềm vui thánh thiện đến với mọi người và mọi người tìm đến các Ngài để tìm gặp niềm vui, an ủi, khích lệ, chữa lành.
Đòi hỏi thăng tiến toàn diện con người, phục vụ cho con người, cho cộng đoàn và cho đời sống riêng mình. Mỗi người chúng ta cầu xin Thánh Giuse trợ giúp để hoàn thành sứ vụ Chúa trao trong ơn Chúa ban.
Lam Thy
Thấm thoát đã gần tới lễ kính Thánh Cả Giu-se – Bạn trăm năm của Đức Maria (19/3). Kẻ viết bài này cũng nhận Thánh Cả làm Bổn mạng (chữ JM. trong bút hiệu chính là chữ viết tắt tên thánh của ngu mỗ: Joseph-Maria. Nếu viết bằng tiếng Việt: Giuse Maria mà viết tắt là GM thì có thể bị “ăn đòn” vì dám nhận mình là Giám mục. Đó là lý do phải dùng tiếng La-tinh). Có bổn mạng là Thánh Giu-se mà những hiểu biết về ngài còn rất hạn chế, đó có lẽ cũng là một yếu điểm, xin hải nội chư quân tử lượng thứ. Bài viết hôm nay ngu mỗ muốn tìm hiểu về danh hiệu của Thánh Giu-se, ngài là một “Cộng tác viên đắc lực” trong công trình cứu độ loài người của Thiên Chúa. Trước hết xin tìm hiểu xem “cộng tác” là gì?
Thói thường ở đời có nhiều công việc không thể hoạt động cách đơn lẻ, mà cần có sự hợp tác, cộng tác của nhiều người. Theo từ nguyên thì “cộng tác” hay “hợp tác” đều cùng có nghĩa là: “cùng góp sức hoàn thành một công việc nhằm một mục đích chung, nhưng có thể không cùng chung một trách nhiệm”. Nói đến cộng tác là nói đến sự tin tưởng lẫn nhau, và chỉ có tin mới sẵn sàng hợp tác làm ăn. Đó là đối với con người với sự bất toàn cố hữu, nhưng đối với Thiên Chúa thì sao? Tất nhiên ai cũng nghĩ rằng Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, Người đã tạo dựng vũ trụ và con người, thì đâu còn sự gì Người không thể làm được (“Đối với loài người thì điều đó không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa, thì mọi sự đều có thể được.” – Mt 19, 23). Vậy mà thánh Au-gus-ti-nô lại nói: “Để dựng nên ta, Thiên Chúa không cần đến ta, nhưng để cứu rỗi ta, Thiên Chúa không thể làm được nếu ta không cộng tác với Ngài.” Mới thoạt nghe thì thấy có vẻ không ổn, nhưng suy nghĩ cho kỹ sẽ thấy lời dạy của thánh nhân thật chí lý.
Thật thế, khi dựng nên loài người, Thiên Chúa đã ban cho sự tự do tuyệt đối, và cũng vì được tự do, con người đã không nghe Lời Thiên Chúa, mà nghe lời cám dỗ của ma quỷ (St 3, 1-24), nên mới sa ngã và bị tội lỗi thống trị. Sau đó, không muốn để loài người chìm ngập trong đau khổ, nên vì tình yêu, Thiên Chúa lại sai chính Con Một xuống thế, chịu chết trên thập giá để cứu độ nhân loại. Cứ nhìn thẳng vào Đức Giê-su Thiên Chúa sẽ thấy trong các phép lạ Chúa làm, Người đều cần sự cộng tác của con người (ở tiệc cưới Cana, Chúa chỉ làm phép lạ khi người ta đã “múc nước đổ đầy các chum” – Ga 2, 7; trong phép lạ về bánh, Người chỉ làm cho bánh hóa nhiều khi “có 5 chiếc bánh và 2 con cá” – Mc 6, 35-43; khi chữa mắt cho người mù, Người chỉ thoa bùn vào mắt anh, còn phần anh phải đi rửa ở hồ Si-lô-ê mới được sáng mắt – Ga 9, 1-7; rồi trong những lần chữa bệnh cho mọi người, Đức Ki-tô luôn nói: “Đức tin của con đã chữa lành con”).
Vấn đề sẽ hoàn toàn sáng tỏ khi tự đặt câu hỏi: Những kẻ trực tiếp lên án, bắt trói, đánh đòn, đóng đinh Đức Giê-su Thiên Chúa, mà không biết ăn năn hối cải (tức là những kẻ dứt khoát không cộng tác với Người), thì liệu có được hưởng phần rỗi hay không? Câu trả lời tất nhiên là không. Chỉ có những kẻ tin vào Người, sẵn sàng nghe Lời Người – kể cả những kẻ “chối chúa phản thầy” biết ăn năn hối cải – tức là biết cộng tác với Người trong chương trình cứu độ, mới được hưởng phần rỗi mà thôi.
Trong Giao Ước Mới, khi thực hiện chương trình giải thoát loài người khỏi ách thống trị của tội lỗi và sự chết, Thiên Chúa đã mời gọi con người cộng tác với Người. Có rất nhiều cộng tác viên ở giai đoạn đầu, nhưng nổi bật hơn cả là 3 nhân vật trọng tâm: Đức Maria, Thánh Giu-se và Thánh Gio-an Tẩy Giả. Về Đức Maria và Thánh Gio-an Tẩy Giả thì các sách Tin Mừng đều có những trình thuật khá chi tiết, nhưng riêng với Thánh Giu-se thì quá sơ lược, sơ lược đến độ có thể nói ngài chỉ như một bóng mờ trong chương trình cứu độ nhân loại được thực hiện qua Đức Ki-tô. Vậy mà tại sao Giáo hội lại tôn phong ngài là bậc Thánh Cả (đứng đầu các thánh)? Vấn đề đặt ra chính ở điểm này.
Trước hết, phải nói Thánh Giu-se đã sống trọn hảo 3 lời khuyên Phúc Âm: Khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục. Có thể nói cuộc đời và sự nghiệp của Thánh Giu-se không có gì đặc sắc, cao trọng trước con mắt người đời. Tuy là dòng dõi vua Đa-vít, nhưng Thánh nhân chỉ là một bác thợ mộc bình thường nơi làng quê nghèo khó Na-da-rét, ngày ngày cặm cụi với nghề thợ mộc đơn sơ để kiếm miếng cơm manh áo nuôi thân và phụ giúp Mẹ Maria dưỡng nuôi Đấng Cứu Thế. Trong hoàn cảnh nghèo nàn như vậy mà phải đón nhận và dưỡng nuôi một “Người vốn giàu sang phú quý” (2Cr 8, 9) là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, thì quả là không dễ dàng gì, nếu không có một nhân đức “khó nghèo” thực sự trong tâm hồn.
Thánh Giu-se đã triệt để sống tinh thần nghèo khó, bởi chính “Đấng giàu sang phú quý” là Đức Giê-su cũng “đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có.” (2Cr 8, 9) và khi Đấng ấy trưởng thành đã có lần phải thốt lên: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.” (Lc 9, 58). Nghèo đến độ không có cả chỗ tựa đầu thì đủ hiểu Con Thiên Chúa giàu sang vinh hiển đã chấp nhận “mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” để đem Nước Trời về cho “những ai có tinh thần nghèo khó” (“Tám Mối Phúc”) vậy.
Về đức khiết tịnh thì chỉ có nơi những người “không biết đến việc vợ chồng” vì “không có khả năng”, vì “bị hoạn” hoặc tự nguyện sống khiết tịnh vì Nước Trời (đi tu), như Lời dạy của Đức Giê-su: “Quả vậy, có những người không kết hôn vì từ khi lọt lòng mẹ, họ đã không có khả năng, có những người không thể kết hôn vì bị người ta hoạn, lại có những người tự ý không kết hôn vì Nước Trời.” (Mt 19, 12). Tuy nhiên, bài Tin Mừng hôm nay lại giới thiệu về Thánh Giu-se là “Sau đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô: Bà Ma-ri-a, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giu-se.” (Mt 1, 18), vậy thì phải hiểu như thế nào?
Luật Hôn nhân của Do Thái xưa quy định trai gái trưởng thành thì phải đính hôn và kể từ khi đính hôn đã được coi là thành vợ chồng (vì thế mới dùng chữ “thành hôn” như câu trích trên), nhưng chưa sống chung, mà còn phải chờ ngày đằng trai chính thức đón đằng gái về (VN gọi là “rước dâu”) mới thực sự sống chung trong một gia đình. Thánh Giu-se và Đức Maria đã khấn nguyện sống khiết tịnh nhưng vẫn tuân giữ Lề luật thành hôn với nhau và như thế các ngài đã không phải là tu sĩ nhưng vẫn sống khiết tịnh “vì Nước Trời” vậy. Tuy nhiên, Thánh Giu-se còn có những người con của người vợ trước và được coi là “anh em của Đức Giê-su” (vd: “ông Gia-cô-bê, người anh em của Chúa” – Gl 1, 19). Như vậy thì phải chăng Thánh Cả Giu-se đã không sống đời khiết tịnh từ trước khi thành hôn với Đức Maria? Quả thật đây là một vấn nạn rất khó trả lời. Đành phải tìm trong sách Giáo Lý.
Về sách Giáo Lý HTCG, thì trong PHẦN THỨ BA – ĐOẠN THỨ HAI – Chương hai – Mục 6: “Điều Răn Thứ Sáu” có nguyên một khoản II (các số từ 2337-2559) nói về “Ơn gọi sống khiết tịnh”. Chỉ xin trích một điều (số 2349) cũng đã rõ ràng: “Mỗi người giữ đức khiết tịnh tùy theo bậc sống của mình: người này trong bậc trinh khiết hay độc thân của đời thánh hiến, một cách thức dễ dàng tận hiến trọn vẹn tâm hồn cho Thiên Chúa; kẻ khác trong bậc gia đình hay độc thân, tùy theo luật luân lý xác định.” (x. CDF, déd.”Persona humana” À11). Người có gia đình được mời gọi giữ đức khiết tịnh trong đời sống vợ chồng; người độc thân giữ đức khiết tịnh khi sống tiết dục. “Có ba hình thức sống khiết tịnh: khiết tịnh của bậc hôn nhân, khiết tịnh của người góa bụa và khiết tịnh của kẻ đồng trinh. Chúng ta không ca tụng lối sống này mà loại bỏ lối sống khác. Về điều này, kỷ luật của Hội Thánh rất rộng rãi.” (T. Am-brô-xi-ô,Vid. 23).
Vì thế, nên khi biết được Đức Maria có thai, Thánh Giu-se “không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1, 19). Cũng theo lẽ thường tình, gặp những trường hợp như vậy thì chắc chắn người chồng sẽ làm ầm ĩ, rồi tố giác ra làng xã để xử (chiếu theo luật Mô-sê có thể bị ném đá cho đến chết), ấy là chưa kể ở thời đại ngày nay, anh chồng còn “tự xử án vợ” bằng cách “thượng cẳng chân hạ cẳng tay” hoặc “xin tí huyết” nữa. Nhưng Thánh Giu-se đã không làm thế, vì Người “là người công chính” (Mt 1, 19), lẽ tất nhiên chỉ còn một cách âm thầm bỏ đi là thượng sách.
Ngay ở giai đoạn gay go nhất ấy, thì Thiên Chúa đã can thiệp. Khi được thiên sứ truyền tin: “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần.” (Mt 1, 20); Thánh Giu-se đã vâng phục một cách tuyệt đối, không một lời băn khoăn thắc mắc, than vãn âu lo, hoặc khéo léo chối từ. Và như thế, lại thêm một điểm son chói lọi: Thánh nhân đã có một đức tin cực kỳ vững chắc. Chỉ có tuyệt đối tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa, thì trong hoàn cảnh éo le như vậy mới có thể vâng phục được. Quả thực, Thánh Giu-se là một con người rất đơn sơ giản dị, khiêm nhường, ít nói, nhưng lại là một người rất yêu mến, tin tưởng và phó thác cả cuộc đời vào sự quan phòng của Thiên Chúa.
Sự đơn sơ giản dị được bày tỏ qua việc lắng nghe và thực thi Thánh ý của Thiên Chúa, cho dù Lời Người mời gọi Thánh nhân chỉ qua một giấc mơ! Ngài không thắc mắc, than vãn hoặc đưa ra ý kiến riêng, cũng chẳng chần chờ, mà mau mắn xin vâng và thực hiện theo thánh ý của Thiên Chúa. Tấm lòng đơn sơ, giản dị, khiêm cung của Thánh nhân thể hiện thật cụ thể trong suốt cuộc đời trần thế, thông qua việc ngài chu toàn bổn phận của người chồng, người cha trong gia đình nơi mái ấm Na-da-rét, chu toàn giới luật của tiền nhân, là một công dân gương mẫu đối với xã hội, sống chan hòa yêu thương với mọi người. Tin Mừng đã minh chứng điều đó qua việc ngài giữ đúng tập tục truyền thống (luật Mô-sê) và luật pháp xã hội (kê khai nhân khẩu) trước và sau ngày Hài Nhi Giê-su giáng thế, qua việc ngài cùng với mọi người trẩy hội đền thờ hằng năm.
Thánh Giu-se đã tận tụy, vâng phục tuyệt đối Thánh ý của Thiên Chúa, qua việc cùng với Mẹ Maria dưỡng nuôi Đấng Cứu Thế, để “Đức Giê-su ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta.” (Lc 2, 52). Điều đó chứng tỏ Thánh nhân là một tấm gương tuyệt hảo về đức công chính, như lời nhận xét của người đương thời (Mt 1, 19) và càng tỏa sáng đến muôn đời hậu thế. Không những vậy, sự âm thầm cộng tác với Dưỡng Tử Giê-su trong hành trình thi hành sứ vụ Thiên Chúa Ngôi Cha trao phó, đã chứng minh Thánh Giu-se chu toàn sứ mệnh từ Ơn gọi làm con cái Thiên Chúa thông qua việc tham dự vào 3 chức vụ: Tư Tế, Ngôn Sứ, Vương Giả của Đấng Cứu Độ trần gian.
Hóa cho nên, Người tín hữu không lạ khi thấy trong muôn vàn vị thánh – ngoại trừ Mẹ Maria được Thiên Chúa ân thưởng và tôn phong cách riêng trong vai trò làm Mẹ Thiên Chúa – Giáo hội đã chiêm ngưỡng và tôn phong Thánh Giu-se là Thánh Cả trên hết các thánh, đặt Ngài là Đấng bảo trợ Giáo hội, gia đình và mỗi người tín hữu, nhất là các bậc gia trưởng trong gia đình. Người Ki-tô hữu ngày hôm nay không những học tập và thực hành triệt để tấm gương mẫu mực sống ba lời khuyên của Phúc Âm nơi Thánh Cả Giu-se, mà trên hết hãy cầu xin cho được ơn đức tin trọn hảo như Thánh Cả, để cùng với toàn thể Giáo hội cộng tác với Đức Giê-su Thiên Chúa trong chương trình cứu độ nhân loại.
Tóm lại, muốn thi hành trọn hảo ơn gọi Ki-tô hữu, xin “HÃY ĐẾN CÙNG GIU-SE – ITE AD JOSEPH”, cầu xin Thánh Cả cầu bầu cùng Thiên Chúa ban mọi ơn lành:
HÃY luôn phấn khởi hân hoan,
ĐẾN xin Thánh Cả, Người ban ơn lành,
CÙNG Người – cất bước đồng hành,
THÁNH Thần soi lối, tiến nhanh kịp thời.
CẢ trong những lúc rối bời,
GIU-SE nâng đỡ – cuộc đời bình an,
VÌ bao nhiêu nỗi lo toan,
NGƯỜI thương bầu chữa, ủi an tận tình.
LÀ người thánh thiên quang minh,
ĐẤNG hằng cứu vớt sinh linh cõi trần,
CÔNG tâm, chính trực muôn phần,
CHÍNH Người Bầu Cử giáo dân đêm ngày.
Người Ki-tô hữu hôm nay,
Hãy tìm lối thẳng đường ngay mà về.
Đến cùng Thánh Cả Giu-se,
Thiên Đường vui hưởng tràn trề vinh quang.
Ôi! “Lạy Chúa, Chúa đã giao phó Ðức Giê-su cho Thánh Cả Giu-se và thánh nhân đã trung thành gìn giữ trong giai đoạn đầu của công trình cứu độ. Xin nhận lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp, cho Giáo hội luôn luôn cộng tác với Ðức Giê-su để hoàn tất công trình Người đã khởi đầu. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở, muôn đời. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ lễ Thánh Giu-se, Bạn Trăm Năm Đức Maria).
Lm. Gioakim Dương Minh Thanh
Hôm nay cùng với toàn thể Giáo Hội mừng lễ Thánh Giuse, quan thầy của Giáo Hội Hoàn vũ, quan thầy của Giáo Hội Việt nam, quan Thầy của Giáo Phận Qui Nhơn chúng ta, quan Thầy của một số Giáo xứ, một số cộng đoàn và cũng là bổn mạng của các gia trưởng. Chúng ta cùng nhau nhìn ngắm ở nơi Thánh cả một chút về lòng tin của Ngài vào Thiên Chúa và đem ra thực hành trong đời sống của Ngài.
Không biết Ngài đính hôn với Đức trinh nữ Maria lúc đó Ngài bao nhiêu tuổi? Kinh Thánh cho biết lúc ấy Đức Maria chỉ mới 16 tuổi. Theo phong tục của miền Á Đông thì chắc Ngài cũng không lớn lắm. Ấy vậy mà ở nơi Ngài đã nổi bật một niềm tin tuyệt vời. Tuyệt vời ở chỗ nào? Chúng ta cứ nhìn vào trong đời sống của chúng ta một chút thì sẽ thấy. Với chúng ta sống trong thời đại nầy, khi chúng ta nghe một người nào đó nói rằng trong giấc ngủ họ đã mơ mộng thấy điều nầy, điều kia thì chúng ta có suy nghĩ gì? Ngày hôm nay người ta cũng đã có cách giải thích bí ẩn của những giấc mộng, giấc mơ theo phương cách khoa học. Thế nhưng, nếu tai chúng ta nghe người nào đó nói về giấc mơ, giấc mộng thì chắc chắn đa số chúng ta sẽ lắc đầu và cho rằng con người đó sống không thực tế, cứ mơ mộng, ảo tưởng. Đúng là những “người si dệt mộng”. Ngày hôm nay đã như vậy huống chi ngày xưa con người chưa giải thích được những giấc mơ, giấc mộng.
Trở về với Kinh Thánh, chúng ta nghe kể là Thiên Thần hiện ra với Giuse và bảo hãy làm điều nầy, điều nọ. Thánh cả đã tin và đã thi hành.
Riêng tôi, tôi thiết nghĩ, một người thanh niên mới lớn lên ai lại không vẽ nên một viễn cảnh huy hoàng cho tương lai của mình, ai lại không dệt nên những mơ ước tươi sáng, đẹp đẽ cho cuộc đời của mình. Ai dám tin vào những giấc mơ, giấc mộng rồi đặt tương lai của mình vào trong đó? Nhìn một chút như vậy chúng ta mới thấy niềm tin của Thánh cả nơi Thiên Chúa thật là tuyệt vời. Sẵn sàng từ bỏ tất cả những dự phóng cho tương lai của cuộc đời mình để tin vào những giấc mộng mà Thiên Thần của Thiên Chúa đã báo cho Ngài. Ngày đính hôn với Đức Mẹ; Chưa về chung sống với nhau mà Đức Mẹ Đã mang thai. Làm sao một người thanh niên mới lớn không bối rối lo âu? Bi kịch diễn ra trong tâm hồn của một người công chính như Thánh cả ai đo lường được, Ngài có nên chối từ không? Đó là suy nghĩ thông thường của một con người. Thế rồi lại cũng trong giấc mộng, Thiên Thần Chúa lại báo tin cho Thánh cả và Thánh cả đã tin lời của Sứ Thần. Tin nhận thai nhi là con Thiên Chúa , tin vào mầu nhiệm mà Thiên Chúa đang thực hiện nơi người bạn trinh khiết của mình của mình. Thánh cả đã chú ý tất cả các mệnh lệnh từ trời cao gởi xuống, đón nhận với một tâm hồn khiêm tốn và sâu thẳm.
Từ một niềm tin tuyệt vời ấy, đã dẫn Thánh cả đi đến hành động hết mình để bảo vệ gia đình Thánh: con Thiên Chúa và Đức trinh nữ Maria. Chúng ta nghe Kinh Thánh kể tiếp. Thánh Giuse chịu đựng tất cả khổ cực để đưa Đức Mẹ về Bêlem theo lệnh kiểm tra dân số của nhà vua. Ngài đau khổ khi thấy mọi hàng quán chối từ và chỉ tìm được chỗ trú ẩn trong chuồng bò. Lúc Chúa được sinh ra, Thánh cả là người đầu tiên thờ lạy Ngôi lời nhập thể với tâm hồn chân thành họa hiếm. Thánh Gioan kim khẩu đã nói rằng: Thiên Chúa đã đổ vào lòng Thánh Giuse tia sáng tình yêu vô cùng đối với con của Ngài. Sinh ra chưa được bao lâu lại phải đưa con trẻ chạy trốn Herode với sự báo mông của Thiên Thần. Thánh cả vâng lời mà không bàn cãi, chấp nhận hành trình đầy vất vả, hiểm nguy, mệt nhọc và đầy lo âu. Đến Ai cập phải lo làm lụng nuôi gia đình. Khi vừa mới ổn đình thì lại nhận được mộng báo của Thiên Thần đưa con trẻ về lại vì Hêrôđê đã chết. Trở về Nazaret. Thánh cả đã sống đời sống ẩn dật để săn sóc, nuôi dạy con trẻ. Khi Chúa Giêsu được 12 tuổi, cả nhà lên Giêrusalem mừng lễ vượt qua, lạc mất con trẻ, Thánh cả đã phải lo lắng vất vả để tìm Chúa Giêsu. Trở về Nazaret với cuộc sống khó nghèo để làm lụng nuôi nấng gia đình. Thánh cả đã cố gắng chu toàn nhiệm vụ của người chủ gia đình theo thánh ý của Thiên Chúa. Thánh kinh không nói gì đến sự qua đời của Thánh Giuse, ,nhưng theo nhận xét của Thánh Phanxicô salêsiô: Người ta không thể nghi ngờ là Thánh Giuse đã qua đời trước khi Chúa Giêsu chịu khổ nạn và chịu chết, bởi vì nếu không phải như thế, thì Chúa Giêsu đã không trối phó Đức mẹ cho Thánh Gioan. Các Ki tô hữu đã tưởng tượng rằng thánh Giuse đã an nghỉ trong tay Đức Mẹ và Chúa Giêsu. Và niềm tin nầy đã khiến cho người ta kêu cầu Thánh Giuse như là Đấng bảo trợ cho được chết lành.
Chúng ta vừa nhìn qua một chút về niềm tin tuyệt vời của Thánh cả Giuse và sự thực hiện niềm tin ấy trong cuộc sống của Ngài. Mừng lễ của Ngài hôm nay, chúng ta xin Ngài cầu bàu cùng Chúa gia tăng đức tin cho chúng ta, để chúng ta cũng dám tin tưởng phó thác cuộc đời chúng ta trong tay Thiên Chúa và sẵn sàng thi hành thánh ý Thiên Chúa trong cuộc đời kitô hữu của mình. Xin cho chúng ta biết bắt chước gương Thánh cả sống trọn vai trò của người tôi tớ trung thành, hầu sau khi đã làm việc phải làm chúng ta cũng hy vọng về trời hưởng nhan thánh Chúa cùng với thánh cả ngày sau. Amen.
Trầm Thiên Thu
GIUSE – DƯỠNG PHỤ THÂM TRẦM
LẶNG LẼ ÂM THẦM LAO ĐỘNG, YÊU THƯƠNG
SỐNG PHI THƯỜNG GIỮA ĐỜI THƯỜNG
GIUSE CÔNG CHÍNH VÔ CÙNG KHÔN NGOAN
Phần quan trọng là phần chính, phần không thể thiếu. Đó là điều chắc chắn. Còn phần phụ, tuy không là chính nhưng cũng có những phần phụ không thể thiếu, nghĩa là vẫn thực sự quan trọng. Phần phụ quan trọng đó chính là Đức Thánh Giuse.
Thật vậy, theo tiếng Do Thái, Giuse là יוֹסֵף [Yosef], và tiếng Hy Lạp là Ἰωσήφ [Ioseph], có nghĩa là “thêm vào” – tức là “phần phụ” mà thôi. Ý nghĩa này thật phù hợp với Đức Thánh Giuse, con ông Gia-cóp, dòng dõi Thánh vương Đa-vít, là Hôn phu của Đức Trinh Nữ Maria, người nhận trọng trách làm Dưỡng phụ của Chúa Giêsu trên trần gian.
Thánh tiến sĩ Têrêsa Avila (Teresa Sánchez de Cepeda y Ahumada, 1515–1582, dòng Kín Cát Minh) rất sùng kính Đức Thánh Giuse, thánh nữ xác định rằng Đức Thánh Giuse không bao giờ từ chối điều gì mà bà cầu xin vào ngày lễ kính Đức Thánh Giuse – 19 tháng 3.
Nói về Đức Thánh Giuse, Thánh tiến sĩ Tôma Aquinô (1225–1274) cho biết: “Một số vị thánh được đặc ân gia tăng sự bảo trợ của các ngài đối với chúng ta khi ban cho chúng ta những ơn đặc biệt trong một số trường hợp khi chúng ta cần. Nhưng Thánh Cả Giuse có quyền trợ giúp chúng ta trong mọi lúc, mọi sự cần thiết và mọi công việc”. Còn Thánh Grêgôriô Nadariên nhận định: “Chúa đã làm cho Thánh Giuse trở nên rạng ngời như được chiếu tỏa bởi ánh mặt trời, với tất cả ánh sáng và sự rực rỡ mà các thánh sở hữu”.
Chúng ta được biết rằng Đức Thánh Giuse là người chồng và người cha gương mẫu, nhưng ngài lại sống rất khiêm nhường, trầm tĩnh, luôn quên mình vì vợ con, vì người khác, nêu cao tinh thần phục vụ, âm thầm tan biến như muối hòa tan để làm ngon mọi thứ nhưng chẳng ai nhớ tới muối. Đức Thánh Giuse cũng vậy, và ngài được tôn xưng là Đấng Công Chính.
Điều Thiên Chúa nói với ông Na-than liên quan điểm Sinh và điểm Tử: “Khi ngày đời của ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi, một người do chính ngươi sinh ra, và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền. Chính nó sẽ xây một nhà để tôn kính danh Ta, và Ta sẽ làm cho ngai vàng của nó vững bền mãi mãi. Đối với nó, Ta sẽ là cha, đối với Ta, nó sẽ là con. Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta; ngai vàng của ngươi sẽ vững bền mãi mãi” (2 Sm 7:4-5, 12-16).
Rất ngắn gọn, nhưng trình thuật này cho chúng ta biết về Thánh Ý Thiên Chúa nhiệm mầu, mọi sự đã được quan phòng và tiền định rạch ròi. Ở đây, chúng ta hiểu sự tiền định về Đức Thánh Giuse, một người đầy quyền thế nhưng lại không thích dùng quyền, chỉ thích khiêm nhường, ưa thầm lặng. Thật vậy, ngài tự hạ như hạt muối hòa tan vào mọi thứ, đến nỗi không còn ai nhận ra muối. Ngài không nói gì nhưng hành động cụ thể. Sống lặng là cách sống khôn ngoan, vì Kinh Thánh xác nhận: “Nếu biết giữ thinh lặng, kẻ ngu cũng được kể là người khôn ngoan; nếu biết ngậm môi, kẻ đó được coi là người thông hiểu” (Cn 17:28).
Quả thật, đức tin của Đức Thánh Giuse quá lớn, lớn đến nỗi ngài chìm đắm trong Dòng Thác Thương Xót nên Ngài không còn biết nói gì nữa, chỉ biết xưng tụng Thiên Chúa, như tác giả Thánh Vịnh đã từng thốt lên: “Tình thương Chúa, đời đời con ca tụng, qua muôn ngàn thế hệ miệng con rao giảng lòng thành tín của Ngài. Vâng con nói: Tình thương ấy được xây dựng tới thiên thu, lòng thành tín Chúa được thiết lập trên trời” (Tv 89:2-3). Và mọi điều đã ứng nghiệm như Thiên Chúa tuyên phán từ ngàn xưa: “Ta đã giao ước với người Ta tuyển chọn, đã thề cùng Đa-vít, nghĩa bộc Ta, rằng: Dòng dõi ngươi, Ta thiết lập cho đến ngàn đời, ngai vàng ngươi, Ta xây dựng qua muôn thế hệ” (Tv 89:4-5).
Thiên Chúa biết rõ mọi sự, mọi tâm can, ai tốt hoặc xấu, cả những gì sâu thẳm (Cv 1:24; Cv 15:8; Rm 8:27; 1 Cr 2:10). Thánh Phaolô nói: “Không phải chiếu theo Lề Luật mà Thiên Chúa đã hứa cho ông Áp-ra-ham và dòng dõi ông được thế gian làm gia nghiệp, nhưng ông được lời hứa đó vì đã trở nên công chính nhờ lòng tin” (Rm 4:13). Vì tin mà Tổ phụ Áp-ra-ham được công chính hóa. Đức Thánh Giuse cũng vì tin mà được công chính hóa. Đó là hệ quả tất yếu theo lời hứa của Thiên Chúa, Đấng muôn đời thành tín.
Tất nhiên chúng ta cũng phải qua “hành trình đức tin” vậy, vì Đức Tin vô cùng quan trọng, Chúa Giêsu đã chúc phúc: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29). Chúa Giêsu cũng dạy chúng ta về cách sống đức tin bằng lời cầu nguyện ngắn gọn, đơn giản mà mạnh mẽ: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài”.
Thánh Phaolô cho biết thêm: “Vì tin mà người ta được thừa hưởng lời Thiên Chúa hứa; như thế lời hứa là ân huệ Thiên Chúa ban không, và có giá trị cho toàn thể dòng dõi ông Áp-ra-ham, nghĩa là không phải chỉ cho những ai giữ Lề Luật, mà còn cho những ai có lòng tin như ông. Ông là tổ phụ chúng ta hết thảy, như có lời chép: Ta đã đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc. Ông là tổ phụ chúng ta trước mặt Thiên Chúa, Đấng ông tin tưởng, Đấng làm cho kẻ chết được sống và khiến những gì không có hoá có. Mặc dầu không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin, do đó ông đã trở thành tổ phụ nhiều dân tộc, như lời Thiên Chúa phán: Dòng dõi ngươi sẽ đông đảo như thế” (Rm 4:16-18). Tấm gương của Tổ phụ Áp-ra-ham thật là sáng ngời! Lời giao ước của Thiên Chúa là tặng phẩm hoàn toàn miễn phí, nhưng lại hiệu quả và ích lợi cho những ai thực sự có lòng tin tưởng.
Đức tin của Tổ phụ Áp-ra-ham vô cùng vĩ đại: Sẵn sàng ra đi theo lệnh Chúa truyền, và cũng không ngại hạ sát đứa con trai I-xa-ác duy nhất của mình làm hy lễ dâng Thiên Chúa (St 22:1-18). Dù có khó khăn tới mức nào, đến nỗi có lúc như tuyệt vọng, thế nhưng Tổ phụ Áp-ra-ham vẫn một niềm tín trung: “Ông Áp-ra-ham đã chẳng mất niềm tin, chẳng chút nghi ngờ lời Thiên Chúa hứa; trái lại, nhờ niềm tin, ông đã nên vững mạnh và tôn vinh Thiên Chúa, vì ông hoàn toàn xác tín rằng: điều gì Thiên Chúa đã hứa thì Người cũng có đủ quyền năng thực hiện. Bởi thế, ông được kể là người công chính” (Rm 4:20-22).
Tổ phụ Áp-ra-ham và Đức Thánh Giuse là hai con người vĩ đại, son sắt niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa ngay trong lúc dầu sôi lửa bỏng nhất, tưởng như ở bước đường cùng, thế nhưng các ngài vẫn không hề so đo hoặc tính toán thiệt hơn – dù chỉ thoáng qua trong ý nghĩ.
Hôm nay, mặc dù là “muộn màng” cũng xin được mượn lời Thánh Vịnh để chúc mừng Tổ phụ Áp-ra-ham và Đức Thánh Giuse: “Phúc thay người ở trong thánh điện, họ luôn luôn được hát mừng Ngài” (Tv 84:5). Ước gì chúng ta cũng mau trưởng thành tâm linh để khả dĩ được công chính hóa, nhất là trong Mùa Chay Thánh này – cũng gọi là Mùa Thương Khó, vì đây là cơ hội ngàn vàng! Ít nói là tốt, dù người đời không ưa người ít nói, vì người ta cho rằng người lầm lì là người khó chịu. Nhưng thật ra, ít nói thì ít sai (về lời nói), nói nhiều rất dễ lỡ lời. Đức Thánh Giuse thật là khôn ngoan vì ngài rất ít nói, hầu như không nói gì. Ít nói cũng là một cách ăn chay, vì tịnh tâm là điều cần thiết để sống Mùa Chay – sống tích cực chứ không “theo phong trào”.
Tin Mừng là trình thuật Lc 2:41-51a, đề cập việc Con Trẻ Giêsu “thất lạc” khi Thánh Gia đi trẩy hội đền thờ Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua theo thông lệ hằng năm, đồng thời cũng cho thấy rõ nét về tính cách trầm lặng của Đức Thánh Giuse: Đức Mẹ có nói nhưng Đức Giuse hoàn toàn im lặng. Rất có thể ngài chỉ cười thôi.
Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng khi Con Trẻ Giêsu được mười hai tuổi, cả gia đình cùng lên đền thờ Giêrusalem, như người ta thường làm trong ngày lễ. Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giêsu thì ở lại Giêrusalem mà cha mẹ chẳng hay biết. Ông bà cứ tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành, nên sau một ngày đường, mới đi tìm kiếm giữa đám bà con và người quen thuộc. Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giêrusalem mà tìm.
Lễ hội thì người đông như kiến, biết đâu mà tìm. Nếu chúng ta gặp trường hợp này thì sao? Chắc hẳn vợ chồng sẽ “cắn đắng” nhau, đổ lỗi cho nhau đã không theo sát con cái, chồng trách vợ “vô trách nhiệm”, vợ trách chồng “vô tâm”. Mệt hết sức! Thế nhưng cả Đức Maria và Đức Giuse đều không nửa lời trách nhau, ai cũng im lặng vì tự biết nhận lỗi về mình, và cố gắng tìm kiếm Con Trẻ.
Đến ba ngày sau, hai ông bà mới tìm thấy Con Trẻ trong Đền Thờ, đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi. Ai nghe Cậu nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đối đáp của Cậu. Một thiếu niên mới mười hai tuổi mà làm sững sờ cả các nhà thông thái. Ngạc nhiên chưa? Chắc hẳn cha mẹ Ngài cũng ngạc nhiên lắm. Nhưng Đức Maria và Đức Giuse không hề “khoe” với ai về điều này. Còn chúng ta thì sao? Ôi thôi, khỏi nói! Con trẻ mới lanh lẹ một chút đã tưởng con mình là “thần đồng”, nó biết cái gì là khoe rùm beng, cả làng trên xã dưới đều biết ráo trọi. Đúng là “đèn nhà chưa tỏ, ngoài ngõ đã hay” mà. Chảnh ghê đi!
Sau khi tìm được Con Trẻ Giêsu, hai ông bà đều sửng sốt, riêng Đức Mẹ nói với Con Trẻ: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải CỰC LÒNG tìm con!”. Ngài đáp: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có BỔN PHẬN ở nhà của Cha con sao?”. Ui da, ông bà cũng chẳng hiểu lời Con Trẻ vừa nói. Phải vậy thôi, phàm nhân sao mà hiểu nổi Thiên Chúa chứ? Giả sử là chúng ta thì chắc chắn còn ngớ ngẩn hơn nhiều, chẳng khác chi “chú Tàu nghe kèn”, vừa gãi đầu vừa mắt chữ 0 và miệng chữ A. Lạ quá mà!
Nhưng nói là nói vậy thôi, chứ Con Trẻ Giêsu vẫn ngoan ngoãn đi xuống cùng với cha mẹ để trở về Na-da-rét, Thánh Luca cho biết rằng Con Trẻ Giêsu “hằng vâng phục các ngài”. Là Con Thiên Chúa, nhưng khi chấp nhận mặc xác phàm và sinh trong một gia đình, Chúa Giêsu vẫn giữ trọn đạo làm con đối với cha mẹ theo nhân tính. Một bài học “nhớ đời” cho chúng ta, vì không ai lại không làm con của cha mẹ mình. Chữ Hiếu rất quan trọng: “Thảo kính cha mẹ” (Tb 4:3; Hc 3:8), và cũng là giới răn thứ tư trong Thập Giới (Xh 20:3-17; Đnl 5:7-21).
Kinh nghiệm sống cho chúng ta biết rằng mặc dù tình yêu vô hình, không thể “đụng chạm” nhưng chúng ta vẫn khả dĩ cảm nhận. Lạ quá chừng!
Tình yêu không lời là tình yêu quá lớn, đến nỗi không thể diễn tả bằng lời! Ít nói như Thánh Giuse có nhiều lợi ích. Đơn giản là khỏi “vướng víu”. Nói nhiều thì sai nhiều. Lợi bất cập hại. Người ít nói là người có 8 “lợi ích” này: [1] Người ít nói là người biết lắng nghe, [2] Người ít nói là người biết quan sát, [3] Người ít nói là người suy nghĩ chín chắn, [4] Người ít nói là người thân thiện, [5] Người ít nói là người làm việc nhiều, [6] Người ít nói là người không nói nặng người khác, [7] Người ít nói là người bình tĩnh, [8] Người ít nói là người có óc sáng tạo.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, bụi-tro-con xin cảm tạ Ngài luôn quan phòng và tiền định mọi điều, dù có những lúc con cảm thấy trái ý. Con chân thành xin lỗi Ngài. Xin biến đổi con nên mới, giúp con biết noi gương thầm lặng của Đức Thánh Giuse, biết quên mình mà dấn thân sống tích cực, trọn niềm tuân phục Thánh Ý Chúa và hết lòng vì tha nhân. Xin giúp con nhận ra Ngài nơi tha nhân, và xin cho những ai gặp con cũng nhận ra Ngài. Xin Đức Thánh Giuse giúp con nên giống ngài: Nói ít, làm nhiều; xin luôn đồng hành với con và luôn cầu giúp nguyện thay. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Lm. Jos. DĐH.
Để được gọi là thầy, ai cũng phải trải qua năm tháng là học trò, để nói được lời yêu thương, ngoài việc tập luyện, đại đa số còn nhờ được ảnh hưởng từ mẫu gương gia đình trên thuận dưới hòa. Tuyệt đối tin tưởng vào tiếng nói sâu thẳm từ bên trong, hoặc nhất thiết phải tuân thủ theo suy luận của lý trí, lại luôn tùy thuộc tâm tính thông thoáng và tự do nơi mỗi người. Cũng có thể bởi một bên là “búa rìu dư luận”, một bên là sự ray rứt lương tâm vì “đạo làm người”: khôn cho người ta vái, hoặc ở hiền gặp lành.
Phong cách sống của con người rất đa dạng, nhưng mục đích hướng tới luôn là niềm vui, bình an, hạnh phúc. Cũng chính lý do phức tạp trong các tương quan xã hội làm cho mức độ tin và cách sống của ta dễ lỏng lẻo, mâu thuẫn, các đấng bậc nói rất có lý: gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Hôm nay, mừng kính Thánh Cả Giuse, ta hãy chung một thao thức với Giáo hội, hãy làm gì để niềm tin theo Chúa được sống động ? Hãy học và cầu nguyện như thế nào để nên giống Thánh Giuse, biết nghĩ đúng, cư xử tốt với anh chị em của mình, còn gọi là nhận biết và sống thánh ý Chúa cho chuẩn mực !
Trước khi được gọi là Thánh Cả Giuse, ngài là một thanh niên, một con người bình thường, từng ngày, từng năm tháng được gọt giũa, được thụ hưởng gương sáng của bầu khi gia đình, vượt qua cả những gạn lọc hay dở đúng sai của môi trường xã hội. Vì cần phải buông thả những tư tưởng xấu: không chồng mà chửa ; công anh bắt tép nuôi cò, …vì tư tưởng hành động chỉ hoàn thiện, khi các biến cố trong đời ta được đong đầy bằng tình yêu. Đúng hơn, người thanh niên Giuse năm đó nếm mùi khổ đau, chiến thắng giây phút xao xuyến tâm tư, chính là đang được huấn luyện để minh chứng Giuse không phải là “anh khờ”, tình yêu của Giuse luôn sống động, thuộc trọn về Chúa.
Trở nên người tài đức thế nào được, nếu người ta không có thời gian đầu tư công sức. Trở nên hoàn hảo thánh thiện, biết trung tín với tình yêu Chúa như Thánh Cả Giuse, nhất định phải đủ ơn Chúa, biết cảm nhận đâu là ý Chúa và đâu là ý riêng của mình. Bằng sự thầm lặng, khiêm tốn, không lý luận bằng lời nói, nhưng bằng hành động của đức tin, dù trong giấc ngủ Thánh nhân vẫn nhận ra thánh ý Chúa. Xã hội thời nào cũng thế, vui, buồn, công việc xuôi hay đang mắc ngăn trở, người ta đều có thể mượn rượu để tẩy rửa tâm tư hoặc nâng cao ý chí quyết tâm. Anh Giuse năm xưa chắc chắn có sầu buồn, có tâm sự, nhưng cách giải quyết vấn đề nhất định là cầu nguyện, là tin tưởng tuyệt đối vào tình yêu của Chúa.
Ngày hôm nay, biết bao người cho rằng để sống đạo làm người đã khó rồi, chúng ta còn phải thể hiện đức tin sống động cho ơn gọi làm con Chúa, khi mà nhu cầu hạnh phúc lại quá mông lung. Biết bao người nghĩ được: bỏ cả tuổi trẻ để kiếm tiền, nhưng rồi sau đó gom tất cả số tiền của kiếm được để mua lấy tuổi trẻ, nhưng vô vọng ! Biết bao người đang “vận sức dụng mưu” để được gọi là tài giỏi, có quyền lực, nhưng rồi một lúc nào đó họ mới ngộ ra, dù bán tất cả bằng cấp, địa vị, sự thông thái của mình, cũng không thể mua được sức khỏe, hoặc dù chỉ là mơ ước nhỏ bé ở bên người thân gia đình.
Để niềm tin sống động, hẳn có nhiều cách thực hành khác nhau, nhưng chuẩn mực và phù hợp ý Chúa mới là trọng tâm cho ơn gọi làm người, cho ơn gọi làm con Chúa. Người có tài hãy đem trí lực để mưu ích cho bản thân, gia đình xã hội. Người giầu có địa vị, hãy sử dụng của cải và uy quyền cho có tình có lý “để tâm” không thẹn với trời, “để phúc” sẽ còn lưu truyền hậu thế. Để nên công chính như Thánh Giuse, nhất thiết không phải cứ một khuôn mẫu hiền lành khù khờ, đơn sơ hai lúa, mới hiểu được ý Chúa.
Để sống động đức tin nơi một tâm hồn, ai cũng phải tuân thủ việc kết hiệp cầu nguyện, lắng nghe, và sống đức ái theo nén bạc Chúa trao. Người xưa nói rằng: chọn mặt gởi vàng, chọn người gởi của. Tiêu chí của người đời luôn khác với ý định yêu thương tự ban đầu Thiên Chúa muốn được chia sẻ. Ngài gọi chọn và trao phó cho Giuse một sứ mạng cao quý, trong khi biết bao vua tài tướng giỏi thì không có diễm phúc làm cha Đấng Cứu Thế. Giáo hội sẽ còn mãi nhắc nhớ Thánh Giuse người công chính, vì ngài luôn nhanh nhạy trước việc thực thi thánh ý Chúa mời gọi. Giáo hội lữ hành sẽ còn nói nhiều về đức tin sống động nơi Thánh Cả Giuse, khi mỗi người Kitô hữu đang cần ơn soi sáng và qua Thánh nhân, chúng ta biêt sử dụng nén bạc Chúa trao cách xứng hợp nhất. Amen.
Lm.Jos Tạ duy Tuyền
Ca dao Việt Nam có câu:
“Đi khắp thế gian không ai tốt bằng mẹ
Gian khổ cuộc đời không ai sánh bằng cha”.
Thực vậy, người cha là mái hiên che chắn cho gia đình trước biết bao giông tố của cuộc đời. Người cha còn là núi thái sơn cho con cái nương tựa, là cây cao bóng cả mang lại bóng mát cho gia đình. Tình của người cha có thể không dạt dào, nhưng công ơn của người cha thật cao như núi thái sơn cao vời. Người cha đã gánh trên vai mình trách nhiệm nuôi dưỡng, bao bọc chở che cho cả gia đình. Người cha có trách nhiệm sẽ quên bản thân mình để gầy dựng gia đình mỗi ngày một tốt hơn. Người cha chấp nhận những gian khổ cuộc đời để nuôi dưỡng gia đình. Chỗ đứng của người cha trong gia đình thật cần thiết, cần thiết đến nỗi người ta bảo rằng: “Còn cha gót đỏ như son – Mất cha, gót mẹ gót con đen xì”. Và cũng thật bất hạnh cho những ai không có cha, vì “con không cha như nhà không nóc”.
Hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm một ngưởi cha mẫu mực cho các gia trưởng: đó chính là Thánh cả Giuse. Ngài thực sự là một gia trưởng mẫu mực cho các người làm cha. Ngài đã gánh trên vai mình một gia đình đầy bất trắc truân chuyên. Một gia đình mà ngay từ đầu đã gặp bất trắc khi mà Maria mang thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Dầu Giuse không hiểu hết. Nhưng tấm lòng của Ngài thật quảng đại và bao dung. Ngài đã vui lòng đón nhận Maria về nhà làm bạn theo thánh ý Chúa. Khi sinh con, có lẽ Ngài cũng vất vả tìm cái nôi thật ấm cúng giữa trời đêm sương tuyết nơi đồng hoang mông quạnh. Belem năm đó thật lạnh. Cái lạnh của thời tiết và cái lạnh của tình người đã gây nên những khó khăn, khốn khó chồng chất. Nhưng Giuse đã giúp cho gia đình vượt qua. Ngài đã làm tất cả để mang lại hơi ấm cho hài nhi Giê-su. Ngài không buông xuôi trước khó khăn. Ngài luôn can đảm để vượt qua. Cuộc đời bể dâu đâu dừng lại ở đó. Gian nan tư bề như muốn phá nát gia đình của Ngài. Hê-rô-đê ra lệnh truy nã hài nhi Giê-su. Ngài đã chẳng quản ngại ra đi trong đêm thâu, băng đồi lội suối, đến lánh nạn nơi đất khách quê người. Dầu nơi đất khách quê người hay khi đã trở về quê hương, Thánh Giuse luôn tận tụy hy sinh để kiếm tìm miếng cơm manh áo cho gia đình. Bằng đôi bàn tay chai sần, bằng ý chí kiên cường và bằng tấm lòng hy sinh tận tụy Ngài đã trở thành chỗ dựa vững chắc cho gia đình. Lâu nay người ta vẫn nghĩ gia đình thánh gia là gia đình khó nghèo. Cái nghèo đói của thiếu thốn tư bề luôn bủa vây đến gia đình thánh gia. Thực sự không phải vậy. Vì gia đình thánh gia có người cha tận tụy lao động, có người mẹ chăm chỉ may vá, có người con luôn phụ giúp cha mẹ, chắc chắn không thể là gia đình khó khăn. Nhưng chắc một điều là họ sống khó nghèo. Họ không vì tiền mà tham lam, mà bán rẻ lương tri. Họ không hà tiện để làm giầu cho bản thân. Họ không phóng túng tiêu pha xa xỉ. Họ luôn sống thanh bần, đạm đạc. Họ sống khó nghèo để tâm hồn thanh thoát khỏi những ràng buộc của danh lợi thú trần gian. Họ đã sống trọn vẹn mối phúc của sự khó nghèo vì Nước Trời chính là gia nghiệp của các Ngài.
Ước gì những người làm cha hôm nay biết noi gương thánh Giuse để trở nên chỗ dựa vững chắc cho gia đình. Ước gì những người làm cha luôn tận tụy hy sinh để xây dựng gia đình mình thắng tiến và bình an. Ước gì các người làm cha luôn quảng đại bao dung để tha thứ cho những lỗi lầm của con cái và kiên nhẫn trong việc giáo dục các con.
Nguyện xin thánh Cả Giuse cầu bầu cùng Chúa cho các người cha luôn tìm được niềm vui trong những hy sinh vì hạnh phúc gia đình. Nguyện xin Chúa nhìn đến bao hy sinh vất vả của những người cha đã tiều tụy theo năm tháng vì gánh nặng của gia đình, vì hạnh phúc của đàn con. Xin Chúa ban cho các ngài được nhìn thấy phúc đức cao dày của các ngài nơi những người con hiếu thảo thành tài. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Ngày 19 tháng 3, Hội Thánh hoàn vũ hân hoan mừng kính thánh Giuse, bạn trăm năm của Ðức Trinh Nữ Maria, cha nuôi Chúa Giêsu, vị quan thầy khả kính của mình cách trọng thể. Truyền thống bình dân Kitô giáo dành trọn tháng Ba cho thánh Giuse người của Thiên Chúa và đem lòng sùng kính ngài cách đặc biệt.
Trong chương trình của Thiên Chúa tình thương, thánh Giuse đã được mời gọi trở nên người cha trên trần gian của Ngôi Lời Nhập Thể, (nơi ngài) được phản chiếu một cách đặc biệt tình phụ tử của Thiên Chúa. Nên khi chúng ta tôn kính thánh nhân là chúng ta ca khen chúc tụng Thiên Chúa : “Trong ngày lễ kính thánh Giuse chúng con cùng tung hô, chúc tụng và ca ngợi Cha” (Kinh Tiền Tụng Thánh Giuse). Đây là điều đẹp lòng Thiên Chúa, lời nguyện khác có đoạn “ Vào lúc bình minh của thời đại mới, Chúa đã trao cho thánh Giuse bảo vệ các Mầu Nhiệm Cứu Độ, xin cho Hội Thánh Chúa luôn luôn nhớ lời cầu bầu của thánh nhân …”. Chính Đức Giáo Hoàng Pio IX đã công bố sắc lệnh Quemadmodum Deus (08.12.1870), nhận thánh Giuse làm quan thầy cả Hội Thánh, hàng năm dành riêng hai lễ kính ngài vào ngày 19 tháng 3 và mùng 01 tháng 5.
Tin Mừng ghi lại : “ Giuse bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1, 19). Ðây là câu chuyện duy nhất trong Tân Ước diễn tả trực tiếp về con người của thánh Giuse, một vị hôn phu không những là người đã giữ đức công bình mà còn trung thành chu toàn mọi bổn phận của một người chồng, người chủ gia đình.
Lần giở lại những trang Tin Mừng có liên quan đến Thánh Giuse, chúng ta có thể khám phá ngay tính cao thượng trượng phu của ngài. Khi hay tin Maria mang thai, Thánh Giuse không bối rối cũng không ẩn trốn. Nhưng ngài chỉ mới toan tính bỏ bà Maria cách kín đáo. Tuy nhiên, ngài không thực hiện ý định đó. Bởi sau khi được sứ thần Thiên Chúa đến mặc khải cho ngài qua giấc mộng: “Mẹ Maria mang thai là bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần”(Mt 1,20), ngài đã không còn “bán tín bán nghi” nữa. Trái lại, tín thác hoàn toàn vào lời của sứ thần, sẵn sàng đón Đức Maria về nhà làm bạn mình và phục vụ với lòng kính trọng, mến yêu.
Những biến cố xảy ra trong cuộc đời thánh Giuse như: Mầu Nhiệm Nhập thể, cuộc trốn chạy sang Ai Cập trước ý định tìm giết Chúa Giêsu của vua Hêrôđê, việc lạc mất Chúa Giêsu, cũng như những tháng năm sống đời ẩn dật tại Nazaret, Giuse, bậc trượng phu đã đứng mũi chịu sào trong mọi tình huốn : cùng bạn mình “đem Hài nhi lên Giêrusalem tiến dâng cho Chúa” (Lc 2, 22) ; “đem Hài nhi và mẹ Ngài ban đêm mà trốn qua Ai Cập” (Mt 2,14 ) ; “đem Hài Nhi và Mẹ Ngài mà về đất Israel” (Mt 2, 20 ) ; cùng với bạn đời sống âm thầm nơi thôn làng Nazaret, hàng năm cùng với Đức Maria đưa Chúa Giêsu lên Đền thờ chầu lễ (x. Lc 2, 41- 43). Ngài thật xứng đáng là bạn hiền của Đức Nữ Trinh.
Như thế, từ khi kết hôn với Mẹ Maria cho đến biến cố Chúa Giêsu 12 tuổi tại Ðền thờ Giêrusalem, ngài ân cần yêu thương đồng hành trong mọi lúc. Ngài ở cạnh Maria Hiền thê của ngài trong những lúc thanh thản cũng như trong những lúc khó khăn của cuộc sống, trong hành trình đi Bêlem để kiểm tra dân số, và trong những giờ hồi hộp và vui mừng của cuộc sinh hạ; trong lúc bi thảm tị nạn sang Ai Cập và trong cuộc vất vả tìm con tại Ðền Thờ; và rồi trong cuộc sống hằng ngày tại nhà Nagiaret, trong phòng làm việc nơi thánh nhân đã dạy nghề cho Chúa Giêsu.
Thánh Giuse đã sống ơn gọi làm chồng của Đức Maria trong thinh lặng, kiên trì và trung tín hoàn toàn, cả khi ngài không hiểu. Ngài biết lắng nghe Thiên Chúa, để cho thánh ý Chúa hướng dẫn, và chính vì thế thánh nhân trở thành người chồng mẫu mực của Đức Maria và người cha tận tụy đối với Chúa Giêsu, như Chân phước Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh: “Thánh Giuse, vì yêu thương chăm sóc Mẹ Maria và vui mừng tận tụy giáo dục Ðức Giêsu Kitô, như thế Ngài cũng giữ gìn và bảo vệ nhiệm thể của Ngài là Giáo Hội, mà Ðức Thánh Trinh Nữ là hình ảnh và gương mẫu” (Trích Tông Huấn Redemptoris Custos, 1).
Thánh Giuse là vị hôn phu của Ðức Maria, người đã cưu mang Chúa Giêsu, mà vẫn còn đồng trinh, do bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần. Nhưng con trẻ Giêsu cũng là con của thánh Giuse, vị hôn phu hợp pháp của Mẹ Maria. Vì thế, trong Tin Mừng, cả hai đều được gọi là song thân của Chúa Giêsu (x. Lc 2, 27.41).
Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Mẹ Người mà thánh Luca mô tả : Đức Maria nói “Này cha con và mẹ phải đau khổ tìm con! ” Nhưng Ngài đáp lại: “ Thì tại sao tìm con? Lại còn không biết là con phải ở lại nơi nhà Cha con sao? ” (Lc 2 , 48 – 49 ). Những lời của Chúa Giêsu giúp chúng ta hiểu được thiên chức “ làm cha ” của thánh Giuse. Khi gợi lên cho cha mẹ trần gian về việc của Đấng mà Ngài gọi là “Cha con”, Chúa Giêsu tiết lộ sự thật về vai trò của Đức Maria và thánh Giuse. Thánh Giuse thực sự là “chồng” của Đức Maria và là “cha” của Chúa Giêsu, như Đức Maria nói: “Cha con và mẹ phải đau khổ tìm con”. Nhưng thánh Giuse là chồng và là cha theo ý Thiên Chúa, vì chính Thiên Chúa mời gọi Giuse cống hiến đời mình phục vụ người Con duy nhất của Chúa Cha và Đức Trinh Nữ Maria. Thánh nhân đã đảm nhận thánh ý Chúa với lòng trung thành và ngưỡng mộ.
Trong buổi Yết Kiến Chung (28/1/2015), Đức Thánh Cha Phanxicô đã than phiền : “Thật buồn là trong xã hội hiện nay, chúng ta đang trải nghiệm một cuộc khủng hoảng nơi cương vị làm cha”. Trong quá khứ, thông lệ phổ biến là nhận thức về hình ảnh của người cha như là một người độc tài và đôi khi hà khắc; còn ngày nay, chúng ta có cảm tưởng về một sự không chắc chắn và lẫn lộn nơi vai trò của người cha”. Ngài cho biết: “Thiếu vắng hình bóng người cha, người trẻ thường cảm thấy ‘mồ côi’, bị bỏ trôi dạt lênh đênh vào thời điểm then chốt trong sự trưởng thành và phát triển của chúng”. Ngài kêu gọi những người làm cha phải có trách nhiệm, và cho rằng những bậc làm cha cần thiết phải nên như mẫu gương và người hướng dẫn cho con cái của chúng ta trong sự khôn ngoan và đạo đức.
Trong xã hội hiện đại, vai trò người chồng, người cha trong gia đình được thể hiện đa dạng và có nhiều thử thách khắc nghiệt hơn. Thật khó để chu toàn hai nhiệm vụ cách song song được. Có người nói rằng là người chồng tốt, đương nhiên phải là người cha tốt. Tuy nhiên, một người cha tốt chưa chắc đã là người chồng tốt.
Kính xin thánh Giuse từ trời cao phù hộ cho các người làm cha trong gia đình, để họ có thể phản chiếu tình thương dự phòng và trung tín của Thiên Chúa khi thi hành những trách nhiệm là chồng, làm cha và làm chủ gia đình. Amen.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Trong các loài hoa, có một loài không những thân luôn mọc về phía ánh sáng mà hoa còn luôn quay về phía mặt trời. Đó là Hoa hướng dương.Hoa hướng dương luôn hướng về phía mặt trời với cánh hoa mở rộng đón nhận ánh sáng và sức sống để toả hương khoe sắc.
Thánh Giuse như hoa hướng dương luôn hướng về Thánh Ý Thiên Chúa.Ngài hằng hướng mắt, hướng lòng về Thiên Chúa để nhận ra và làm tròn Thiên Ý.Thánh Giuse được sách Tin mừng gọi là “người công chính”. Theo Kinh thánh, “Người công chính sống bởi đức tin” (Hab 2,4; Rm 1,17; Gal 3,11). Sống đức tin là sống công chính, là hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa như tổ phụ Abraham. Người công chính, nói đơn giản là người tốt, ngay thẳng, trung tín, có trách nhiệm. Là tôi tớ trung thành của Thiên Chúa, luôn thực thi trọn vẹn thánh ý của Thiên Chúa. Là con người luôn biết kính trọng và yêu thương tha nhân.
Thánh Giuse tuyệt đối tin tưởng vào lời Thiên Chúa. Ngài đã luôn sống trong thái độ hoàn toàn phó thác cho tình yêu quan phòng của Thiên Chúa. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, hễ biết là Ý Chúa, Thánh Giuse vui lòng lãnh nhận và mau mắn thi hành.
-Thấy Maria có thai,Giuse phải đau khổ lắm.Người Hôn thê đạo hạnh mà Ngài rất mực yêu thương lại mang thai trước khi về nhà chồng. Bối rối và khó xử nhưng Ngài vẫn tiếp tục tin tưởng Maria trong sạch vẹn tuyền. Không một lời phàn nàn, ca thán, trách móc, Giuse không hề hạch sách hay tra hỏi Maria một lời nào, Ngài âm thầm ôm lấy nỗi đau riêng mình với một quyết định : “Đào vi thượng sách”. Giuse không còn chọn lựa nào khác “vì là người công chính và không muốn tố giác bà nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1,19).Thế nhưng, Thiên Thần đã hiện ra với Giuse trong giấc mộng giải thích cho Ngài biết “Người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20); rồi Thiên Thần khuyên Giuse “Chớ sợ rước Maria về nhà mình”(Mt 1,20). Nhận ra Thánh Ý Thiên Chúa “Giuse đã làm như lời Thiên Thần Chúa truyền và ông đã rước bà về” (Mt 1,24).
– Cuộc sống đang bình yên tại Bêlem thì chính lúc đó Chúa lại bảo ông chỗi dậy đi ngay giữa đêm khuya, không hành trang, không tiền bạc sang Aicập sống kiếp lưu đày.Trước mắt là gian truân vất vả,đường dài vạn dặm mà vợ yếu con thơ, nhưng Giuse luôn tín thác vâng phục “Chỗi dậy, ông đem Hài Nhi và Mẹ Người trốn sang Aicập ngay giữa đêm khuya” (Mt 2,14).
– Khi đã ổn định cuộc sống nơi xứ lạ quê người với một cơ ngơi bé nhỏ mà Giuse đã gầy dựng từ hai bàn tay trắng.Vậy mà một lần nữa Chúa lại bảo ông phải bỏ lại tất cả để ra đi.Thật mau mắn trước Thiên Ý “Giuse chỗi dậy đem Hài Nhi và Mẹ Người về đất Israel”(Mt 2,21).
Trước Thánh Ý Thiên Chúa, Giuse vâng phục và chu toàn.Từ Nazareth qua Bêlem, từ Bêlem đi Aicập, từ Aicập về Israel, Chúa bảo ông đi là ông đi, bảo ông về là ông về, bảo ông làm thế nào là ông làm thế ấy,đúng thời gian,đúng địa điểm mà không thắc mắc,không hoài nghi, không cự nự.Tất cả mọi lần Giuse đều thưa như Đức Maria “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần truyền”(Lc 1,38).
Thánh Ý Thiên Chúa bao giờ cũng hoàn hảo, không những cho cá nhân mà còn cho toàn thể nhân loại. Thánh Giuse người công chính đã thực hiện lời mời gọi “nên hoàn hảo như Cha trên trời là Đấng hoàn hảo” (Mt 5, 48) bằng cách thi hành ý muốn của Thiên Chúa.
Công đồng Vatican II dạy: “Mọi Kitô hữu, dù ở địa vị nào, bậc sống nào, đều được Chúa kêu gọi đạt tới sự trọn lành thánh thiện như Chúa Cha trọn lành, tuỳ theo con đường của mỗi người” (GH 11,3). Nên thánh theo con đường của Thánh Giuse là một con đường cho nhiều người. Không quan trọng mình là ai, địa vị nào trong xã hội, làm việc cao quý hay tầm thường.Trước nhan Thiên Chúa, mọi địa vị và công việc đều có giá trị. Điều quan trọng là hãy thực thi thánh ý Chúa, đáp lại tiếng Người mời gọi trong cuộc sống. Địa vị và công việc lao động chân tay của Thánh Giuse chỉ ở mức tầm thường; thế nhưng, ngài vẫn có khả năng biến đổi nó trở thành phi thường. Thánh Giuse nên thánh trong nghề nghiệp của mình nên ngài là Thánh bổn mạng của những người lao động.
Anh em Gia trưởng thân mến.
Thánh Giuse làm cha. Con của ngài vừa là con người vừa là Con Thiên Chúa – Đấng Cứu Độ. Con cái của anh em được làm con Thiên Chúa. Cho nên nhiệm vụ nuôi nấng dưỡng dục con cái là sứ vụ cao cả và là hồng ân quý giá Thiên Chúa ban cho bậc cha mẹ. Anh em hãy yêu thương và tôn trọng con cái mình. Hãy trở nên gương mẫu đạo đức thánh thiện cho con cháu. Hãy tránh mọi thứ gương mù gương xấu. Từ lời nói đến thái độ sống xấu sẽ là đại họa cho con cháu. Tuổi thơ các em đơn sơ như tờ giấy trắng, mỗi lời nói, mỗi cử chỉ của cha mẹ đều ghi đậm nét trên tờ giấy trắng tâm hồn và in dấu suốt cuộc đời các em. Người cha lãnh trách nhiệm che chắn cho mọi thành viên trong gia đình, với tư cách gia trưởng, anh em quyết định về tổ chức, sinh hoạt và kỷ cương trong gia đình. Do đó, anh em có vai trò thật quan trọng trong việc dưỡng dục con cái : thúc đẩy việc học hành và phát huy năng khiếu, chỗ dựa tinh thần, giúp con cái định hướng tương lai, cũng như tự tin hơn khi dấn thân vào đời.
Làm Gia trưởng, anh em là “cây cao bóng mát” cho con cái, không chỉ trong lãnh vực vật chất, tinh thần, mà còn trong lãnh vực tâm linh và nên thánh giữa đời. Chắc chắn con cái chịu ảnh hưởng nơi người cha, chúng giống cha từ tính tình, ngôn ngữ, đến quan điểm và lý tưởng sống. Vì thế, người gia trưởng phải là mẫu gương cho con cái noi theo.
Hãy truyền lại cho con cái tình yêu với gia đình, những kinh nghiệm cuộc sống, những giá trị nhân bản và đạo đức. Hãy dạy con biết mến Chúa yêu người, sống công bằng bác ái. Và vì “lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”, đừng hành động ngược với giáo huấn của mình, đừng để xảy ra cảnh “nhà dột từ nóc”. Noi gương thánh Giuse xưa đã cứu gia đình khỏi thảm họa vua Hêrôđê, hãy giúp con cái tránh xa các tệ nạn xã hội, cũng như những quyết định nông nổi nhất thời.
“Trong gia đình mồ côi, vắng bóng người cha”. Đó là ngôn ngữ Đức Phanxicô sử dụng trong huấn từ ngày 28.1.2015. Theo ngài, cần tránh hai thái cực về người cha. Đừng là người cha kiểu gia trưởng, độc đoán, mệnh lệnh và kiểm soát con cái như những đầy tớ; cũng đừng trốn trách nhiệm làm cha, để mặc con cái bị lôi cuốn theo hoàn cảnh. Ngài nói “Giới trẻ ngày nay mồ côi ngay trong gia đình, vì các người cha thường vắng nhà, hoặc khi ở nhà, lại không hành xử như là cha, không chu toàn nhiệm vụ giáo dục, không trao ban cho con cái các nguyên tắc, các giá trị, các luật sống mà chúng cần như cơm bánh, với gương sống đi kèm lời nói của mình … Gương mặt và sự hiện diện của người cha trong gia đình rất quan trọng đối với sự quân bình của con cái”. Hãy dành thời gian cho con cái, tôn trọng sự trưởng thành của chúng; trợ giúp con cái bước đi với tinh thần tự do và trách nhiệm về tương lai của chính chúng và của xã hội.(x.daminh.net, thư tháng 3).
Thánh Giuse, mẫu mực của đường nên thánh giữa đời, luôn hướng tâm hồn về Chúa như hóa hướng dương hướng về phía mặt trời.
Thánh Giuse là con người thầm lặng, ít nói, khiêm tốn, sống theo Ý Chúa trong cuộc sống hàng ngày. Gioan Tẩy Giả chân thành “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ bé lại”. Giuse đã sống điều đó mà không nói một lời. Chính cuộc sống ấy đã làm nên một con đường tu đức hướng đến trọn lành. Thánh Giuse là bậc thầy dạy con người sống an vui và nên thánh trong địa vị của mình. Thánh Giuse là mẫu gương cho mọi người, đặc biệt là anh em gia trưởng nên thánh trong cuộc sống thường ngày.
Jos. Hoàng Mạnh Hùng
Ngày nay, khi nói đến từ “gia trưởng”, người ta thường nghĩ ngay đến một người đàn ông độc đoán, cứng nhắc, kiêu ngạo, áp đặt ý chí của mình lên người khác! Thật ra bản thân “gia trưởng” chỉ có nghĩa là người chủ gia đình.
Gia đình là tế bào của xã hội, gia đình có yên ấm hạnh phúc thì xã hội mới ổn định, đất nước mới hưng thịnh. Ngược lại, gia đình lục đục khiến xã hội rối ren, đất nước chậm phát triển.
Con người không thể sống cô độc, nhưng cần thiết phải biết nương tựa vào nhau. Khi chung sống quây quần bên nhau, cần có người đứng đầu, lãnh đạo. Gia đình cũng thế, trong lịch sử có những bộ tộc, dân tộc theo chế độ mẫu hệ dành vị trí này cho người phụ nữ. Nhưng thông thường – cũng như trong gia đình truyền thống Việt Nam – vị trí quan trọng này được dành cho người đàn ông, người cha trong gia đình.
Tùy theo nhận thức, trình độ học vấn, quan hệ xã hội … mà người gia trưởng khi điều hành gia đình được (hoặc bị) đánh giá tốt hoặc xấu. Quan niệm “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” đều bắt nguồn từ việc “tu thân”, nghĩa là việc tu dưỡng đạo đức. Nhiều gia trưởng quá say mê trong việc hành xử quyền gia trưởng, quên việc tu thân nên đã vô tình tạo tiếng xấu cho từ “gia trưởng”.
Nhưng tu thân như thế nào thi tùy theo quan điểm tôn giáo, tín ngưỡng cũng như nhiều lãnh vực khác nhau. Đối với các gia trưởng Công giáo, mẫu gương tu thân tuyệt vời của Thánh Giuse bổn mạng đáng để chúng ta suy gẫm và thực hành. Ngài đã sống một cuộc đời bình thường của một gia trưởng, cầu nguyện và lao động để bảo vệ, nuôi dưỡng gia đình Nazaret.
Thánh nhân đã cầu nguyện liên lỉ suốt cuộc đời. Ngài luôn kết hiệp mật thiết với Chúa, đặc biệt là những khi gia đình thánh gặp phải sóng gió. Nhờ đó ngài luôn nhận ra thánh ý Chúa và mau mắn thi hành. Khi lo âu buồn phiền, khi mừng vui hoan hỉ, Giuse đều chạy đến cầu nguyện với Chúa để đón nhận thánh ý của Người.
Trong công việc thợ mộc, thánh Giuse tiếp xúc với nhiều người, làm những việc khác nhau tại xưởng nhà cũng như tại bất cứ nơi đâu người ta gọi tới. Dù có phải lao động đầu tắt mặt tối, đổ mồ hôi sôi nước mắt, …. Ngài vẫn không ngừng luyện tập để sống có trách nhiệm và đạo đức, luôn chọn những điều có ích cho người khác để làm gương cho “cậu bé” Giêsu.
Trong xã hội hiện đại, vai trò gia trưởng được thể hiện đa dạng và có nhiều thử thách khắc nghiệt hơn. Thật khó để chu toàn nhiệm vụ lãnh đạo, điều hành gia đình mà không bị mang tiếng là có “thói gia trưởng”. Có người nói rằng một người chồng tốt có thể là người cha tốt, nhưng một người cha tốt chưa chắc đã phải là một người chồng tốt và cả hai trường hợp chưa chắc đã là một gia trưởng tốt!
Đức Thánh Cha Phanxicô trong buổi yết kiến chung ngày 28/1/2015 đã than phiền: “Thật buồn là trong xã hội hiện nay, chúng ta đang trải nghiệm một cuộc khủng hoảng nơi cương vị làm cha. Trong quá khứ, thông lệ phổ biến là nhận thức về hình ảnh người cha như là một người độc tài và đôi khi hà khắc; còn ngày nay, chúng ta có cảm tưởng về một sự không chắc chắn và lẫn lộn nơi vai trò của người cha”. Ngài kêu gọi những người làm cha phải có trách nhiệm, và cho rằng những bậc làm cha cần thiết phải nên như mẫu gương và là người hướng dẫn cho con cái trong sự khôn ngoan và đạo đức.
Xin thánh Giuse bổn mạng phù hộ cho bậc gia trưởng, để họ có thể xây dựng gia đình mình thành cộng đoàn thờ phượng, ngôi nhà hiệp thông, mái ấm nuôi dưỡng và phát triển tình yêu khi thi hành những trách nhiệm là chồng, làm cha và làm chủ gia đình. Amen.
Lm. GB. Trần Văn Hào
Nói về Thánh Giuse, chúng ta dễ có nguy cơ ngụy tạo ra một Thánh Giuse theo trí tưởng tượng hay theo cảm tính đạo đức, hơn là chiêm ngắm hình ảnh Thánh Giuse được Kinh thánh nói đến. Thực ra, chúng ta biết rất ít về Ngài, ngoài trừ một vài chi tiết được Thánh sử Matthêu và Luca ghi lại, liên quan đến thời thơ ấu của Đức Giêsu. Tuy nhiên, thánh Matthêu đã quy tóm sự thánh thiện của Thánh Giuse vào một tước hiệu rất đơn giản : ‘Người Công chính’ (Mt 1,19).
Dưới góc độ sử học, chắc chắn chúng ta không thể biết nhiều về Thánh Giuse, ngoại trừ chi tiết cho biết Ngài là con của Giacóp và là chồng của bà Maria, Mẹ Chúa Giêsu cũng gọi là Đấng Kitô (x.Mt chương 1). Ngoài ra, những điều khác được viết ra nói về Ngài đều gắn kết với cuộc đời của Chúa Giêsu tại Nazareth thủở thiếu thời. Chúng ta không biết Thánh Giuse sinh năm nào, sống được bao nhiêu tuổi và qua đời ở đâu. Vả lại, lúc sinh thời, Thánh Giuse cũng không để lại một trước tác nào để các học giả có thể nghiên cứu linh đạo của Ngài. Các trang Tin mừng tuyệt đối không ghi lại bất cứ câu nói nào của Thánh nhân. Thánh Giuse ít nói, nhưng chắc chắn không phải Ngài bị câm điếc hay mắc chứng trầm cảm. Cũng chẳng phải Ngài là một con người lầm lì hoặc ít giao tế xã hội. Trên hết, sự thinh lặng của Thánh Giuse gắn liền với tước hiệu ‘Người Công chính’ diễn bày một tư thế nội tâm sâu xa, và Giáo hội vẫn sánh ví Ngài như một ‘Người tôi tớ trung thành’. Xin chia sẻ một vài suy tư để chúng ta chiêm ngắm sự thánh thiện của Thánh nhân như một mẫu gương sống nội tâm cách sâu xa.
Thinh lặng để nghe: Nhận ra tiếng Chúa nói.
Thánh Matthêu trình thuật 2 sự kiện: Thần sứ nói với Giuse trong giấc mộng để đón Đức Maria về nhà, sau đó thần sứ cũng báo mộng cho Giuse hãy đưa dẫn cả gia đình trốn sang Ai Cập để lánh nạn (x Mt chương 1 và 2; x Lc chương 2). Giữa đêm khuya thanh vắng, Giuse đã nghe được tiếng Chúa ngỏ trao. Văn phong thời xưa khi diễn tả ‘Thiên Thần báo mộng’, chính là diễn bày sự kiện Thiên Chúa đang nói với con người. Ngày xưa, ngôn sứ Elia đã nghe tiếng Chúa nói trên núi Khô-rép không phải trong tiếng ầm ầm của gió bão, động đất hay những tiếng gầm rú của núi lửa phun trào, nhưng Chúa chỉ nói trong tiếng gió hiu hiu nhè nhẹ (1 Vua 19,11-13). Cậu bé Samuel cũng nghe tiếng Chúa gọi giữa đêm khuya thanh vắng khi cậu ngủ trong đền thờ với thầy cả E-li. Cũng thế, trong đêm trường tĩnh lặng, Thánh Giuse đã nghe được tiếng Chúa nói và mau mắn thi hành. Đây là thái độ nội tâm mà thánh Giuse đã thể hiện : Thinh lặng để nghe Chúa nói với chính mình. Thánh Biển Đức cũng dạy các con cái Ngài: “Chúng con hãy năng lắng nghe Lời Chúa, nhưng không phải nghe bằng đôi tai của thân xác, mà nghe với đôi tai của cõi lòng”. Trong cuộc sống hôm nay, chúng ta đang bị vây kín bởi quá nhiều tiếng động ồn ào, đan xen giữa những sinh hoạt đời thường. Những âm thanh hỗn độn đó cản che đôi tai và làm nhiễu sóng những sứ điệp mà Chúa đang muốn gửi đến. Đây không phải là âm thanh của những loa nhạc mở hết công suất, hay của những tiếng xe máy gầm rú chạy ngoài đường phố. Trên hết, đó là những tiếng động xào xạc của tiền bạc, những ồn ào của lạc thú hay những bon chen kiếm tìm danh vọng. Những tiếng động ấy như một thứ ngáng trở mà ma quỷ giăng ra để che chắn lỗ tai chúng ta trước tiếng mời gọi của Thiên Chúa. Chúa dựng nên con người chỉ có một cái miệng để nói nhưng có hai cái tai để nghe. Chúng ta hãy bắt chước Thánh Giuse, tập sống thinh lặng nội tâm để nhận ra những tín hiệu mà Lời Chúa đang vang vọng lại nơi tâm hồn chúng ta mỗi ngày.
Thinh lặng để nói: Đối thoại với Chúa.
Nếu chúng ta hiểu rằng cầu nguyện là đối thoại với Chúa, thì Thánh Guise đã nêu bật cho chúng ta mẫu gương về phẩm chất cao đẹp này. Ngài thinh lặng để nói với Chúa. Nơi gia đình Nazareth, Chúa Giêsu trở thành tâm điểm mà Thánh Giuse cũng như Đức Maria luôn quy hướng về. Ngài thinh lặng để nghe Chúa nói và cũng thinh lặng để nói với Chúa. Cha Luke Oysinger, tu sỹ dòng Biển đức, đã phân định việc cầu nguyện với 4 bước cơ bản. Bước thứ nhất, chúng ta đến gặp Chúa, tôi nói và Chúa nghe. Bước thứ hai quan trọng hơn, là Chúa nói còn tôi lắng nghe. Giai đoạn thứ ba,việc cầu nguyện trở nên sâu xa hơn, là chúng ta đến với Chúa, cả hai đều thinh lặng và cùng lắng nghe. Cuối cùng, sự viên mãn của tiến trình cầu nguyện là chúng ta đến với Chúa, không ai nói, chẳng ai nghe, cả hai đi vào sự thinh lặng trong hiệp thông cách trọn vẹn. Sự viên mãn này chỉ đạt đến khi chúng ta trở về với Chúa và an hưởng vinh quang vĩnh cửu trên quê trời, lúc đó chúng ta sẽ gặp Chúa ‘diện đối diện’ như thánh Phaolô đã từng diễn tả. Trong đời sống thiêng liêng, chúng ta cần tập thinh lặng để nghe Chúa nói, hơn là chúng ta chỉ độc thoại và nói một mình. Thánh Giuse đã thể hiện tư thế nội tâm này và nêu gương cho chúng ta. Ngày xưa, Chúa Giêsu cũng mời gọi các học trò hãy rút lui vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi một chút (Mc 6,31). Đây không phải là sự nghỉ ngơi của thân xác, nhưng trên hết là sự nghỉ ngơi với tư thế nội tâm để nhìn lại những biến cố đã qua, nói với Chúa và lắng nghe những gì Chúa nói với chúng ta.
Trong cuộc sống thường ngày, người ta vẫn dùng hai loại hình ngôn ngữ để giao tiếp, đó là ngôn ngữ bằng lời (verbal words) và ngôn ngữ không lời (non-verbal words). Khi hai người yêu nhau say đắm, những ngôn từ trên môi miệng sẽ trở nên thừa thãi. Trong tình yêu, ngôn ngữ của trái tim và đôi tai của cõi lòng vẫn là những phương thế tuyệt hảo nhất. Thánh Giuse đã sử dùng loại hình ngôn ngữ này để nói, để đối thoại với Chúa.
Thinh lặng để phục vụ : Như một đầy tớ trung thành
Thánh ký Matthêu ghi lại rằng, sau khi được Thiên sứ mách bảo, Giuse đã đón Đức Maria về nhà mình (Mt1,24). Cũng vậy, sau khi nghe Thiên sứ truyền lệnh, Thánh Giuse liền trỗi dậy, đang đêm đem Hài nhi và mẹ người trốn sang Ai Cập (Mt 2, 24). Thánh Giuse luôn sẵn sàng lên đường để thực thi điều Thiên Chúa muốn. Ngài không quản ngại nhọc nhằn hay gian nan. Cũng vậy, trong cuộc sống âm thầm tại Nazareth, Thánh nhân cũng đã phải bươn chải mưu sinh với nghề thợ mộc. Điểm mấu chốt, không phải Ngài làm việc để kiếm cơm áo gạo tiền, nhưng để phục vụ Chúa Giêsu và Đức Maria. Vì thế, Giáo hội vẫn sánh ví Thánh Giuse như một người tôi tớ trung thành. Người đầy tớ trong xã hội khi xưa là người luôn biết làm theo ý chủ, lúc nào cũng xắn tay áo lên, thắt lưng cho gọnđể làm việc không mỏi mệt, và chẳng bao giờ đòi chấm công hay nhận thù lao. Chúa Giêsu cũng đã từng nói về người Pharisêu : “Họ nói mà không làm”. Còn thánh Giuse thì ngược lại, Ngài làm nhưng không nói.Trong thư thứ hai gửi giáo đoàn Thessalonica, thánh Phaolô cũng đưa ra lời trách móc : “Chúng tôi nghe nói trong anh em có một số người sống vô kỷ luật, chẳng làm việc gì, mà việc gì cũng xen vào” (2Thes2,11). Hiện trạng đó vẫn thường hay xảy ra trong các cộng đoàn giáo xứ hay ngay cả nơi các cộng đoàn tu sỹ. Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng đã từng nhắc nhở : “Ngày nay,Giáo hội cần những chứng nhân hơn là những thầy dạy”,nghĩa là Giáo hội cần có những con người xả thân làm việc cách cụ thể để phục vụ hơn là chỉ đứng trên bục giảng để nói bằng lý thuyết. Chúa Giêsuđã từng cảnh báo : “Không phải cứ mở miệng kêu lạy Chúa lạy Chúa là được vào nước trời cả đâu, nhưng chỉ những ai thi hành ý Chúa mà thôi” (Mt 7,21).
Giáo hội chiêm ngắm hình ảnh thánh Giuse lao động không phải nhằm đề cao những giọt mồ hôi nhễ nhại nơi xưởng mộc. Giáo hội muốn chúng ta học hỏi gương mẫu cần cù và miệt mài của Thánh nhân trong việc phục vụ Chúa Giêsu và Đức Maria tại Nazareth.
Kết luận
Linh đạo mà thánh Giuse thể hiện không phải được viết lại trên một vài trang giấy vô hồn, nhưng linh đạo thánh thiện ấy đã hiển thị rõ nét nơi cuộc sống của Thánh nhân ở Nazareth mà các sách Tin mừng thuật lại. Một cuộc sống rất bình dị và lặng lẽ nhưng ngập tràn tình yêu nồng nàn dành cho Chúa Giêsu và Đức Maria. Thánh Giuse tuy không nói một câu nào trên đầu môi cửa miệng, nhưng Ngài vẫn đang nói với chúng ta rất nhiều qua mẫu gương thánh thiện của Ngài. Ngài là ‘Người Công chính’ không phải theo nghĩa hẹp, tức là chỉ tuân giữ lề luật cách nghiêm túc, nhưng Thánh nhân đã hoàn thiện lề luật một cách trọn hảo qua tình yêu nồng cháy dành cho Chúa Giêsu và Đức Maria.
Lạy Thánh Giuse Đấng Công chính, xin cầu cho chúng con.
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt
Khi mừng lễ thánh Giuse, tôi thường tự hỏi. Không biết thánh Giuse, người sống cách đây 2000 năm có còn thích hợp với thời đại chúng ta không? Không biết thánh Giuse, Đấng đã coi sóc một gia đình gồm toàn những đấng thánh có thể làm gương mẫu cho gia đình chúng ta, những gia đình gồm toàn những con người phàm trần không?
Tin Mừng hôm nay nói thánh Giuse là người công chính. Nhìn vào cuộc đời thánh Giuse, ta có thể hiểu được nội dung tính từ công chính. Công chính trước hết là trả lại cho người khác những gì thuộc về họ. Nói khác đi công chính là không dám nhận những gì không phải của mình. Thánh Giuse định trốn đi khi biết Đức Maria mang thai. Theo lối giải thích xưa kia thì thánh Giuse trốn đi vì nghi ngờ Đức Maria. Nhưng theo các nhà chú giải thời mới thì thánh Giuse định bỏ trốn vì thấy mình không xứng đáng với danh hiệu làm cha nuôi Đấng Cứu Thế. Chức vị làm cha Đấng Cứu Thế là một chức vị quá cao trọng, thánh Giuse thấy mình không phải là Cha Đấng Cứu Thế, không xứng đáng làm Cha Đấng Cứu Thế, nên Ngài bỏ trốn.
Công chính là chu toàn nhiệm vụ của mình. Nhiệm vụ của thánh Giuse là gìn giữ Đức Giêsu và Đức Maria. Chúa đã trao cho Ngài nhiệm vụ đó và Ngài đã hết sức chu toàn. Chu toàn với tinh thần trách nhiệm cao, không để xảy ra chuyện gì đáng tiếc. Chu toàn với sự tế nhị, kính cẩn, nâng niu, hãy nhìn cảnh Thánh Gia trốn sang Ai cập, Đức Maria bế Đức Giêsu ngồi trên lưng lừa. Thánh Giuse dắt lừa đi trong đêm tối. Không còn cảnh tượng nào đẹp đẽ hơn. Thánh Giuse trân trọng kho tàng Chúa trao cho Ngài gìn giữ. Thánh Giuse kính cẩn nâng niu Đức Maria và Đức Giêsu, ngài chu toàn nhiệm vụ với tinh thần dấn thân hy sinh không ngại gian khổ. Đang đêm mà Chúa bảo thức dậy trốn sang Ai cập, ngài cũng thức dậy lên đường ngay tức khắc.
Những nhiệm vụ của thánh Giuse xem ra tăm tối, không có gì vinh quang. Nhưng thánh Giuse vẫn chăm chỉ chu toàn, và không đòi cho mình nhiệm vụ nào khác. Chẳng hạn sau này các Tông đồ được mọi người kính phục, thánh Giuse vẫn không ghen tị và đòi cho mình quyền đó. Ngài thật là người công chính.
Sau cùng, công chính là trung tín với nhiệm vụ. Thánh Giuse được Chúa trao cho nhiệm vụ gìn giữ Đức Maria và Đức Giêsu, gìn giữ gia đình, ngài đã hết sức chu toàn trong hoàn cảnh thuận lợi cũng như trong hoàn cảnh khó khăn. Vì trung tín với nhiệm vụ mà thánh Giuse phải lao động vất vả để nuôi sống gia đình. Vì trung tín với nhiệm vụ mà thánh Giuse phải chung sống với súc vật trong ngày Đức Maria hạ sinh Đức Giêsu. Vì trung tín với nhiệm vụ mà thánh Giuse phải vất vả bồng bề Đức Giêsu chạy trốn sang Ai cập. Vì trung tín với nhiệm vụ mà thánh Giuse kiên trì tìm kiếm khi Đức Giêsu đi lạc 3 ngày trong Đền thờ. Trung tín không hề xao nhãng, không hề lẩn tránh, không hề lùi bước trước nhiệm vụ khó khăn, thánh Giuse thật là người công chính.
Ngày nay thánh Giuse vẫn hợp thời, vẫn là gương mẫu cho con người, vẫn là niềm mơ ước của con người. Vì thế giới ngày nay đang thiếu vắng sự công chính. Người ta gian tham nhận những gì không phải của mình. Không phải chỉ gian tham tiền bạc mà còn gian tham chức quyền, danh vọng. Vì thiếu công chính mà người ta hãm hại người khác, chiếm đoạt tiền của, danh dự của người khác. Vì thiếu công chính mà người ta sống giả dối, làm hàng giả, nói dối, mượn bằng giả. Vì thiếu công chính nên người ta trốn tránh nhiệm vụ. Chỉ thích những việc nhàn tản, phô trương, trốn tránh những việc nặng nhọc, hèn kém.
Các gia trưởng nhiều khi lười biếng, ham vui mà thiếu trách nhiệm với gia đình, với vợ con. Sự trung tín ngày nay đang là một vấn đề lớn, người ta bất tín, lừa đảo, gian dối trong đời sống xã hội, trong kinh doanh buôn bán, người ta thiếu trung tín cả trong gia đình. Chỉ một vài thử thách, thiếu thốn, người ta sẵn sàng từ bỏ nhiệm vụ, từ bỏ người thân.
Nên thánh Giuse vẫn còn là gương mẫu cần thiết cho người thời nay. Những đức tính của ngài, sự công chính của Ngài rất hữu ích để chấn chỉnh, xây dựng xã hội hôm nay.
Trong các bức tranh vẽ thánh Giuse, tôi thích nhất bức tranh vẽ thánh Giuse đưa Đức Mẹ và Đức Giêsu trốn sang Ai cập. Bầu trời đen thẫm. Một vài tia chớp loé lên ở cuối chân trời vừa soi đường cho Thánh gia, vừa báo hiệu cơn giông bão sắp tới. Đức Maria bồng Đức Giêsu ngồi trên lưng lừa. Thánh Giuse dắt lừa. Cả người cả lừa như lẩn vào màn đêm. Bức tranh không chỉ đẹp ở nét vẽ gợi cảm, mà còn đẹp về ý nghĩa, Ngắm bức tranh, tôi thấy hiện lên cả cuộc đời thánh Giuse: một đời bước đi trong đêm tối.
Thánh Giuse đã đi trong đêm tối đức tin. Ngài đã sống chung với Đức Maria và Đức Giêsu, những con người của huyền nhiệm. Một người bình thường đã là một thế giới huyền bí. Một con người của huyền nhiệm lại càng sâu xa bí ẩn hơn bội phần. Đi bên những huyền nhiệm cũng như đi trong đêm tối. Thánh Giuse không hiểu gì hết. Không hiểu mà vẫn phải đón nhận. Không hiểu mà vẫn phải tin, phải yêu. Không hiểu mà vẫn phải đống hành cho đến mãn đời. Thánh Giuse giống như người lính canh được cấp trên trao cho một chiếc hộp đóng kín. Người lính canh chỉ có nhiệm vụ canh giữ mà không được phép mở ra. Trong hộp có gì? Có thể là một kho tàng quý giá. Nhưng cũng có thể là chiếc hộp rỗng không. Không biết. Nhưng vẫn phải canh giữ.
Thánh Giuse đã đi trong đêm tối im lặng. Ngài đi trong sự im lặng của Đức Maria, người bạn yêu quý. Trước những mầu nhiệm cao cả, Đức Maria đã lặng thinh không nói. Ngài đi trong sự im lặng của Đức Giêsu. Thiên Chúa làm người vẫn là một mầu nhiệm ẩn dấu và Đức Giêsu không hề hé lộ thân phận. Ngài đi trong sự im lặng của Thiên Chúa. Thiên Chúa không bao giờ trực tiếp nói với Ngài. Chỉ có vài lần. Mà chỉ là những tiếng vọng mô hồ, giữa đêm khuya, trong giấc ngủ. Vẫn là ngôn ngữ của im lặng. Im lặng đáng sợ. Nhất là khi phải đối đầu với nguy hiểm, với nghi ngờ, với những vấn đề hệ trọng của đời sống. Im lặng khó hiểu khi những gì thân thiết nhất trong đời lại trở nên bí ẩn, cách xa. Im lặng nguy hiểm. Nó có thể đốn ngã thân cổ thụ, làm chao đảo những niềm tin vững mạnh nhất. Ngài đi trong im lặng của chính mình. Trong cả bốn Phúc Âm, không thấy ghi lại lời nói nào của thánh Giuse. Ngài bước đi trong âm thầm lặng lẽ.
Thánh Giuse đã đi trong đêm tối lãng quên. Ngài bị lãng quên trong làng quê nhỏ bé, trong thân phận nghèo hèn của bác thợ mộc. Người ta không bao giờ nhắc đến Ngài. Nếu có nhắc đến, cũng chỉ để chê bai, dè bỉu, để hạ thấp thân phận của Đức Giêsu: “Giêsu con của bác Giuse thợ mộc tầm thường ấy mà. Có làm gì nên chuyện”. Ngài bị lãng quên vì luôn luôn ở phía sau, luôn luôn chìm trong bóng tối.
Phúc Âm kể về Đức Maria. Sách Tông Đồ Công Vụ kể về Đức Maria. Nhưng từ khi Đức Giêsu khôn lớn không ai nói gì về Thánh Giuse nữa. Ngài chìm vào đêm tối quên lãng. Ngài luôn luôn đóng vai phụ, như hình ảnh dắt lừa đi trong đêm tối.
Thánh Giuse đã đi trong đêm tối thử thách. Thân phận nghèo hèn. Sống trong im lặng và lãng quên, nhưng những thử thách Ngài phải đương đầu lại rất cam go. Rất hiền lành, nhưng phải đương đầu với Hêrôđê hung hãn. Mình giữ mình chưa xong, lại phải che chở cho một hài nhi sơ sinh và một sản phụ yếâu ớt. Nhưng những thử thách, khốn khó về thể lý dù cam go thế nào cũng còn chịu được. Những thử thách đức tin mới thật là khủng khiếp. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa ư? Đức Giêsu là Con Thiên Chúa ư? Thật khó mà chấp nhận được. Sao này? Sao Vua Trời vinh hiển lại phải trốn chạy một ông vua trần thế. Các thử thách làm cho đêm tối càng đen hơn, càng dầy hơn, càng sâu hơn.
Tuy đêm có đen, tuy chân có mỏi, tuy lòng có xao xuyến nhưng Thánh Giuse vẫn bước đi. Tuy thử thách có nặng nề, Thánh Giuse vẫn chiến đấu. Cha Teilhard de Chardin nói: người chiến đấu giống như người bơi lội ngoài biển ban đêm: “Ban đêm, người bơi lội vùng vẫy trong làn nước biển có chất lân tinh, làm ánh sáng loé lên chung quanh mình”.
Thánh Giuse đã chiến đấu. Những chiến đấu mạnh mẽ cũng làm loé lên chung quanh Ngài những làn ánh sáng soi bước chân Ngài đi.
Đi trong đêm tối đức tin, Ngài có ngọn lửa đức mến soi đường. Đêm đen lắm, nhưng Ngài cứ yêu mến Chúa, cứ gắn bó với Chúa, và cứ bước đi với Chúa.
Trong đêm tối im lặng. Ngài đốt lên trong tâm hồn ngọn đèn thao thức, lắng nghe, đón chờ. Niềm thao thức khiến tâm hồn Ngài nhạy bén như một phím đàn mỏng. Lời Chúa chỉ thoáng nhẹ như làn gió thoảng, phím đàn đã rung lên. Ý Chúa chỉ mờ ảo trong giấc mơ, Ngài đã đọc được và mau mắn thi hành.
Trong đêm tối lãng quên, Ngài có đèn khiêm nhường dẫn lối. Khiêm nhường chìm vào quên lãng. Khiêm nhường phục vụ, khiêm nhường sâu thẳm. Ngài có cùng tâm tình như Thánh Gioan Tẩy Giả: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi”.
Trong đêm tối thử thách, Ngài thắp lên ngọn đèn tin yêu phó thác. Tin vững vàng vào Lời Chúa. Hoàn toàn phó thác cho Chúa. Để Chúa dẫn đường qua đêm đen mù mịt.
Lạy Thánh Giuse, con cũng đang đi trong đêm đen. Xin hãy thắp lên trong con những ngọn đèn của Thánh Cả, soi đường cho con đi đến nơi bình an.
Khi chọn một vị thánh bảo trợ, ta đặt mình dưới sự chở che cứu giúp của Người và cũng mong noi gương bắt chước đời sống đức hạnh của Người. Tất cả những ai xin thánh cả Giuse bảo trợ chắc chắn sẽ được Người chở che gìn giữ, như xưa Người đã gìn giữ Đức Giêsu và Đức Maria trong cuộc đời dương thế. Nhưng ít có ai noi gương được đời sống của Người. Đó là một đời sống thánh đức chiếu toả ra những nét đẹp cao quý mà ta khó bắt chước.
Nét đẹp thứ nhất ở nơi thánh Giuse mà ta khó bắt chước, đó là đức tính ít nói. Lần giở những trang Tin Mừng, ta thấy diễn tả nhiều hành động của thánh cả Giuse, nhưng không thấy trích dẫn lời nói nào của Người. Người làm nhiều nhưng nói ít. Còn ta, ta thương nói nhiều và làm ít. Tục ngữ Việt nam có câu: Đa ngôn đa quá. Ai nói nhiều sai lỗi nhiều. Thực vậy trong đời sống có biết bao hiểu lầm phát sinh từ những lời nói thiếu trung thực. Biết bao đổ vỡ do những lời nói thiếu trách nhiệm gây nên. Biết bao lời nói trống rỗng không chứa đựng nội dung xây dựng. Biết bao lời nói làm vẩn đục tâm hồn, vẩn đục môi trường đạo đức, làm ô nhiễm bầu khí bác ái. Thánh Giacôbê thật chí lý khi nói: “Ai không sai lỗi trong lời nói thì đó là người hoàn hảo. Người ấy có khả năng kiềm chế toàn thân” (Gc 3,2). Thánh Cả Giuse đã kiềm chế được lời nói, chứng tỏ Người hoàn toàn làm chủ được bản thân. Sự im lặng của Người là sự im lặng của kẻ mạnh. Sự im lặng của Người là sự im lặng của một đời sống nội tâm phong phú. Sự im lặng của Người là sự im lặng hoạt động đem lại những kết quả tốt đẹp.
Nét đẹp thứ hai ở nơi thánh Cả Giuse mà ta khó bắt chước, đó là sự vâng lời tuyệt đối. Người luôn vâng lời Chúa, dù lệnh Chúa truyền chỉ mơ hồ trong cơn mê ngủ, dù lệnh Chúa truyền nhiều khi rất khó chấp nhận. Làm sao chấp nhận được một phụ nữ đã có thai làm bạn? Không bao giờ Người thắc mắc, chối từ. Không bao giờ Người tỏ ý ngần ngại trước những mệnh lệnh khó khăn. Trong mọi nơi mọi lúc, Người luôn vâng lệnh Chúa một cách mau chóng, tức khắc, vui tươi. Thấy Đức Maria đã mang thai, Người muốn trốn đi, nhưng khi Chúa tỏ ý muốn Người ở lại nhận Đức Maria làm bạn, Người vâng lệnh ngay tức khắc. Khi Chúa muốn Người đưa Đức Giêsu và Đức Maria trốn sang Ai cập, Người đã thức dậy và tức khắc lên đường giữa đêm khuya. Thật là một sự vâng lời tuyệt đối. Còn ta, trước những lệnh truyền của Chúa, ta có thái độ nào? Nếu ta không chối từ thì cũng uốn nắn theo ý riêng. Ít nhất cũng thắc mắc, giảm nhẹ. Nếu có vâng lời thì cũng ngần ngại, chậm trễ thi hành. Sự vâng lời tuyệt đối nói lên đức tin mãnh liệt vào Chúa. Vì hoàn toàn tin tưởng nên hoàn toàn phó thác. Vì hoàn toàn phó thác nên hoàn toàn vâng phục. Dù không hiểu, nhưng cứ dấn bước lên đường. Sự vâng lời tuyệt đối nói lên một lòng mến yêu tha thiết. Vì mến yêu tha thiết nên sẵn sàng làm bất cứ điều gì, cho dù không hiểu, cho dù khó khăn. Thánh Cả Giuse có lòng tin tưởng tuyệt đối và lòng yêu mến tha thiết đối với Chúa, nên đã vâng lời Chúa một cách tuyệt đối.
Nét đẹp thứ ba ở nơi thánh Cả Giuse mà ta khó bắt chước, đó là sự khiêm nhường quên mình. Đọc trong Tin Mừng, ta không bao giờ thấy Người xuất hiện ở những nơi công khai được nhiều người biết đến, trái lại Người luôn có mặt ở những nơi tối tăm âm thầm. Người không làm những việc lớn lao trọng đại, nhưng chỉ chu toàn những bổn phận nhỏ bé thông thường. Một hình ảnh quen gặp là bức vẽ hoạ cảnh Thánh gia trốn sang Ai cập. Đức Mẹ bế Đức Giêsu ngồi trên lưng lừa. Thánh Giuse đi bộ, dắt lừa âm thầm trong đêm tối. Tôi có cảm tưởng Người đã tự nguyện hạ mình xuống để Chúa được tôn vinh. Người đã tự nguyện sống âm thầm để Chúa được nhận biết. Người đã tự nguyện lùi vào bóng tối để Chúa được xuất hiện trong ánh sáng. Người đã chấp nhận bị quên lãng để Chúa được yêu mến. Còn chúng ta, chúng ta thường làm ngược lại. Ta luôn muốn nâng mình lên, nên Chúa thường bị hạ xuống. Ta luôn muốn phô trương bản thân, nên Chúa bị chìm trong âm thầm. Ta luôn muốn xuất hiện trong ánh sáng, nên Chúa bị đẩy lùi vào bóng tối. Ta luôn tìm cho mình được yêu mến, nên Chúa bị chôn vùi trong quên lãng.
Những nhân đức của thánh Cả Giuse thật khó bắt chước, nhưng đó là những đức tính rất cần cho thời đại chúng ta. Thế giới ngày nay quá ồn ào, cần có những con người hành động. Thế giới ngày nay đã chán ngán những lý thuyết, cho dù rất hay, rất đẹp, nên cần có những con người thực hành, làm chứng nhân. Thế giới ngày nay đang đánh mất niềm tin yêu phó thác, cần có thánh Cả Giuse như mẫu gương trung tín và khôn ngoan. Thế giới càng ngày càng tiến đến hưởng thụ, cá nhân chủ nghĩa, đang cần những con người khiêm nhường, phục vụ, quên mình. Nếu ta biết noi gương những nhân đức của thánh Cả Giuse, ta sẽ có thể thánh hoá bản thân, củng cố gia đình và góp phần cải tạo xã hội.
Lạy thánh Cả Giuse, xin hãy chở che gìn giữ giáo phận chúng con. Amen.
Gm. Bùi Tuần
Đọc Phúc Âm để tìm hiểu thánh Giuse, tôi thấy một bầu khí âm thầm bao phủ Ngài. Có một chọn lựa khiêm nhường trong bầu khí đó. Khiêm nhường ấy đầy khó nghèo và khôn ngoan.
Ngắm nhìn các ảnh tượng thánh Giuse, tôi thấy lòng sùng kính các nơi dành cho thánh Giuse thực rất phong phú và đa dạng.
Nhưng năng lui tới thánh Giuse trong đời sống hằng ngày, nhất là qua các giờ phút cầu nguyện, gẫm suy, tôi thấy thánh Giuse rất gần gũi, rất sống động, nhất là rất dễ thương. Có một điểm dễ thương nơi Ngài đã gây ấn tượng sâu sắc nơi tôi, đó là sự thinh lặng của Ngài.
Sự thinh lặng của Ngài là trường dạy tôi về tu đức, mục vụ và truyền giáo. Tôi gọi đây là sự thinh lặng thánh. Bởi vì không phải thinh lặng nào cũng tốt cả. Ai cũng biết có vô số thứ thinh lặng tiêu cực. Như thinh lặng vì kiêu căng. Thinh lặng vì lập dị. Thinh lặng vì dốt nát. Thinh lặng vì sợ sệt. Thinh lặng vì bất cần. Thinh lặng vì dửng dưng. Thinh lặng vì hờn giận. Thinh lặng vì ích kỷ vv… Trái lại, sự thinh lặng của thánh Giuse là một hoạt động thường xuyên tích cực.
Ngài tin con trẻ mà thiên thần báo mộng sẽ sinh ra bởi Đức Maria, đúng thực là “Đấng Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1,23). Cho dù gặp muôn vàn thử thách, Ngài vẫn vững tin: Đấng Thiên Chúa ở cùng chúng ta đó chính là Con Thiên Chúa giáng trần. Con trẻ đó chính là Đấng cứu thế.
Ngài tin Thiên Chúa thương yêu Ngài một cách hết sức đặc biệt. Ngài biết tình thương đặc biệt Chúa dành cho Ngài là hoàn toàn nhưng không, chứ không phải do công phúc nào của Ngài.
Ngài tin vào sứ vụ Chúa trao phó cho Ngài là vô cùng lớn lao. Sứ vụ đó là bảo vệ Đức Mẹ Maria và Chúa Giêsu. Ngài biết Chúa Giêsu sẽ làm chuyện lớn, nhưng bề ngoài chưa thấy có gì là lớn. Thực nhiệm mầu. Ngài chỉ biết tin. Ngài chưa hiểu hết. Nhưng không thắc mắc. Một sự kín đáo trong niềm tin đầy khiêm tốn, với nhận thức sâu sắc về tình trạng khó nghèo, bất xứng của mình, đó là một sự thinh lặng đáng kính phục.
Bảo vệ Đức Mẹ và Chúa Giêsu trong hoàn cảnh thời đó nơi đó đầy khó khăn là một trách nhiệm rất nặng nề, đòi nhiều khôn ngoan sáng suốt và đức tin vững vàng. Ngài đã tin vững vàng và khôn ngoan sáng suốt trong thinh lặng. Thinh lặng đó không phải vì sợ. Nhưng vì vâng phục đức tin.
Tin Mừng là một mầu nhiệm “vốn được giữ kín từ ngàn xưa” (Rm 16,25) sẽ được biểu lộ, sẽ được thông báo cách nào, lúc nào, bởi ai, cho ai, thì phải tuỳ ở Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan thượng trí mà thôi. Chúa muốn như vậy (Rm 16,27).
Tôi thiết nghĩ thánh Giuse đã có đức tin như thế, và đã vâng phục đức tin đó. Vì thế mà Ngài khiêm tốn thinh lặng, Ngài tin rằng: Sứ mạng Chúa trao cho Ngài không phải là loan báo, mà là bảo vệ và giữ kín.
Đọc Sách Thánh và chuyện các thánh, tôi thấy Thiên Chúa có một lối đào tạo độc đáo đối với các người của Ngài. Khi Thiên Chúa tính chuyện trao cho ai một sứ mệnh khó khăn, Ngài thường đưa họ vào sa mạc. Hoặc sa mạc địa lý là nơi vốn thanh vắng. Hoặc sa mạc tâm hồn là nơi phải thinh lặng.
– Ông Môisen vào sa mạc Madian.
– Thánh Gioan tiền hô vào sa mạc Giuđê.
– Thánh Phaolô vào sa mạc Syria.
– Thánh Benedictô lên núi Subiacô.
– Thánh Phanxicô khó khăn vào hang Assisi.
– Chính Chúa Giêsu vào sa mạc 40 đêm ngày.
Đối với thánh Giuse, sa mạc là tâm hồn thinh lặng của Ngài. Trong sự thinh lặng của sa mạc tâm hồn, Chúa đào tạo cho Ngài có một sự tự do mới. Đó là một sự tự do biết chọn Chúa là tất cả, chọn ý Chúa là trên hết. Một sự tự do sẵn sàng dứt bỏ ý riêng, để mau lẹ thực thi ý Chúa.
Đọc Phúc Âm, tôi gặp thấy một cách nói hay được dùng, khi thuật lại việc phục vụ của thánh Giuse, để vâng phục ý Chúa. Cách nói đó là sẵn sàng và mau lẹ. Ngài sẵn sàng đón Maria về nhà mình (Mt 1,24). Ngài mau lẹ đang đêm, đưa Hài Nhi và Mẹ Ngài trốn sang Ai Cập (Mt 2,14). Ngài liền vội vã chỗi dậy đem Hài Nhi và Mẹ Ngài về đất Israel (Mt 2,21). Những thái độ đó, được sự thinh lặng đào tạo, chứng tỏ thánh Giuse có một tâm hồn rất tự do. Không phải tự do đối với của cải và ý riêng, mà là tự do cho Chúa và cho những việc Chúa muốn.
Tôi có cảm tưởng là Chúa đôi khi cũng muốn bản thân tôi và những người thuộc về Ngài, phải bắt chước thánh Giuse xưa, có lúc phải vào sa mạc mà tế lễ Chúa. Tế lễ trong sa mạc là tế lễ trong tình trạng rất thiếu thốn: Không có nhà thờ, bàn thờ, đồ thờ. Không có những trang trọng vật chất. Không có cả những nhân đức cần có. Chỉ còn tập trung vào một mình Chúa đầy tình yêu thương xót. Chỉ còn chính bản thân mình là của lễ mà thôi. Thiếu tất cả, nhưng được tất cả. Chỉ còn thinh lặng tôn thờ và vâng phục với lửa thiêng của Chúa Thánh Thần trong tâm hồn mình như tia hy vọng. Sẽ rất nghèo, nhưng cũng rất vui mừng. Vì thấy mình được thông công vào việc Chúa cứu độ.
Kinh nghiệm cho thấy: Nhiều khi sự hiện diện thinh lặng vẫn có sức gây được cảm tưởng tốt về Tin Mừng, hơn một sự hiện diện nhiều lời. Nhất là khi sự hiện diện đó có Chúa ở cùng. Tôi có cảm tưởng là thời nay tại Việt Nam này, dân chúng vẫn trân trọng và khát khao những người, tuy không nói, nhưng toả ra được ánh sáng tâm linh, lửa thiêng tâm hồn, hương thơm từ những giá trị nội tâm. Họ thinh lặng nhưng có chiều sâu tâm hồn, biết phân định, biết phấn đấu, biết sắp xếp, biết thanh luyện, biết ý tứ, biết tế nhị.
Điều đó không có nghĩa là thinh lặng luôn luôn có giá trị hơn nói. Tôi thiết nghĩ chọn thinh lặng hay chọn nói là một chọn lựa tuỳ ơn gọi. Các ơn gọi và các ơn thánh rất khác nhau. Con đường tốt hơn ta nên chọn là con đường mà sứ vụ Chúa trao cho ta, con đường mà hoàn cảnh chỉ cho ta, con đường mà ta thấy thích hợp cho tính tình và khả năng của ta, con đường mà ta cho rằng có thể thực hiện tốt hơn việc mến Chúa yêu người trong những hoàn cảnh cụ thể, đúng với yêu cầu của thời điểm.
Riêng tôi, trong năm Mân Côi này, tôi xin thánh Giuse cho tôi và mọi người chúng ta
– biết thinh lặng hơn để nghe ý Chúa,
– biết thinh lặng hơn để suy niệm các mầu nhiệm Mân Côi,
– biết thinh lặng hơn để đón nhận ơn cứu độ,
– biết thinh lặng hơn để cộng tác vào chương trình cứu độ,
– biết thinh lặng hơn để khám phá ra những kỳ diệu Chúa Thánh Thần đang làm trong các linh hồn,
– biết thinh lặng hơn, để đón nhận những bất ngờ Chúa gởi đến với đức tin sáng suốt.
Hình như nhiều linh hồn đang được ơn ấy. Họ là những người đơn sơ tỉnh thức và thinh lặng như thánh Giuse. Họ đang thinh lặng gieo rắc hạt giống Tin Mừng giữa xã hội Việt Nam hôm nay.
Thánh Giuse là người thinh lặng. Tôi nghĩ là ngài cũng đã nói năng như mọi người bình thường. Nhưng, khi soi dẫn các thánh sử viết Phúc âm, Chúa Thánh Thần đã chủ ý không muốn ai ghi lại lời nói nào của thánh Giuse.
Sự kiện đó phải được coi là một lựa chọn tốt, đề cao sự thinh lặng của thánh Giuse như một vẻ đẹp. Hơn nữa đó cũng là một bài học đạo đức cho các thế hệ mai sau. Như vậy, thánh Giuse là một trường học dạy thinh lặng. Nói đứng ra thầy dậy ở trường này là Chúa thánh Linh. Vì thế mọi tài liệu bàn về sự thinh lặng của thánh Giuse, nhất là bài này, chỉ nên được coi là những gợi ý yếu ớt đọc thì cứ đọc, nhưng việc quan trọng cần làm để hiểu và để học, chính là cầu nguyện với Chúa Thánh Linh.
Riêng trong bài này, xin chia sẻ vài suy nghĩ riêng tư. Có nghĩa là những suy nghĩ này đã ảnh hưởng đến đời tôi, từ đó tôi có phần nào kinh nghiệm.
Điểm phát xuất những suy nghĩ sau đây của tôi là hình ảnh con trẻ Giêsu tại Nagiarét sống bên Đức Mẹ và thánh Giuse thinh lặng. “Con trẻ dần dần đã lớn lên đầy khôn ngoan và ân sủng, đẹp lòng Chúa và được người ta thương mến” (Lc 2,52). Theo cái nhìn đó, Thánh Gia là một cộng đoàn Hội Thánh cực nhỏ. Chúa Giêsu, tuy là con, nhưng là vai chính trong kế hoạch cứu độ, đổi mới con người. Đức Mẹ và thánh Giuse là những người cộng tác gần gũi nhất. Đây là những cộng tác viên đắc lực đưa lại kết quả cao. Bởi vì đã góp phần làm cho trẻ Giêsu được nổi tiếng là phát triển về khôn ngoan và ân sủng, đẹp lòng Chúa và được người ta mến thương.
Vậy, cộng tác đắc lực của thánh Giuse là gì? Thưa chính là sự cộng tác thinh lặng. Tất nhiên đây là sự thinh lặng tích cực. Thinh lặng tích cực đó được thể hiện như thế nào? Trước hết tôi nghĩ ngay tới sự thinh lặng tu thân.
Thinh lặng tu thân
Phong tục Á châu rất coi trọng việc tu thân. Những người muốn cải cách tôn giáo, chủ trương cứu độ, đổi mới con người và xã hội, thường phải xây dựng uy tín cho mình trước hết bằng việc tu thân. Thời này vẫn là thế. Thời xưa còn hơn bây giờ.
Thánh gia là một cộng đoàn đề cao tu thân. Một cách tu thân bình dân, phổ thông nhưng chất lượng cao. Trong cái ấy, thánh Giuse là một người tu tại gia. Nội dung tu thân của Thánh Gia nói chung và của thánh Giuse nói riêng là thực hiện trước những gì mà chúa Giêsu sẽ rao giảng sau này. Có thể tóm gọn lại là tu thân nhắm mục đích trở nên một tạo vật mới, dần dần nên giống Chúa là tình yêu và kết hợp với Ngài là Tình yêu. Muốn được thế phải thực thi thánh ý Chúa, hết tình yêu mến Ngài và chân thành yêu thương mọi người.
Như vậy, tu thân là hằng ngày vun tưới chăm sóc những hạt giống tình yêu Chúa đã gieo sẵn trong lòng mình. Tu thân là hằng ngày học hành tập luyện, để biết tự do chọn điều lành và tự do bỏ điều xấu. Lựa chọn tốt nhất và quan trọng nhất là chu toàn bổn phận phục vụ của mình.
Phục vụ tốt là đáp ứng đúng nhu cầu, bằng đúng việc, với đúng cách, vào đúng lúc. Tất cả trong tình mến Chúa và yêu người với mức cao nhất.
Nhìn thoáng qua tu thân là như thế, chúng ta có thể tưởng tu thân là việc đơn sơ. Đúng là đơn sơ, nhưng chính là một cuộc phấn đấu thinh lặng cam go và thường xuyên với chính mình. Bởi vì có một vấn đề gai góc đứng đàng sau việc tu thân đó là một sự thực phũ phàng mà thánh Phao lô đã thực thà thú nhật: “Vẫn biết rằng Lề luật là Thần Khí, nhưng tôi thì lại mang tính xác thịt, bị bán làm tôi cho tội lỗi. Thực vậy tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: Vì diều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm… Tôi biết là sự thiện không có ở trong tôi, nghĩa là trong xác thịt tôi… Theo con người nội tâm, tôi vui thích luật của Chúa, nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác. Luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí và giam tôi trong luật của tội là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể của tôi” (Rm 7,14-23).
Như thế, tu thân đòi phải học hành, tập luyện để biết phân định điều lành điều dữ. Biết rõ rồi, lại phải biết can đảm chọn lựa điều lành một cách tự do. Chọn rồi, lại phải kiên cường thực hành điều mình đã tự do chọn lựa. Để được thế phải phấn đấu nhiều lắm, phải từ bỏ mình nhiều lắm, phải cầu nguyện nhiều lắm.
Tôi dám chắc là Thánh gia nói chung và thánh Giuse nói riêng đã thực hiện việc tu thân một cách trọn vẹn từng ngày, từng tháng, từng năm. Suốt 30 năm tu thân trong thinh lặng, đúng là một hành trình phát triển ơn khôn ngoan và ân sủng, đẹp lòng Thiên Chúa và được người ta thương mến.
Suy nghĩ trên đây co phép tôi rút ra một kinh nghiệm về mục vụ và truyền giáo. Đó là người có chức vụ cộng tác với Chúa vào kế hoạch cứu độ, đổi mới con người và xã hội, sẽ phải quan tâm rất nhiều đến việc tu thân nơi chính mình. Tu thân một cách thinh lặng là một yếu tố quan trọng có sức cứu độ. Rất mong kinh nghiệm này của thánh Giuse được sống lại mạnh mẽ nơi mỗi người tín hữu, nhất là nơi các tông đồ ngày nay, bất kỳ là giáo sĩ, tu sĩ hay giáo dân.
Thinh lặng gặp gỡ Chúa trong cầu nguyện
Kinh nghiệm cho thấy: Sự khôn ngoan và ân sủng của Chúa được ban dồi dào cho những người thực sự tu thân. Và kinh nghiệm còn cho thấy: Sự khôn ngoan và ân sủng của Chúa còn được trao ban rất dồi dào cho những người gặp gỡ Chúa trong cầu nguyện.
Một nơi thuận lợi để Chúa gặp gỡ con người, chính là nơi thinh lặng: “Ta sẽ dẫn nó vào sa mạc và sẽ nói với lòng nó” (Ose 2,14). Sa mạc là biểu tượng nơi yên tĩnh. Nơi yên tĩnh là không gian thinh lặng, và nhất là tâm hồn thinh lặng.
Ai cầu nguyện suy gẫm và chiêm niệm trong thinh lặng sẽ dễ gặp được Chúa. Và khi Chúa đã đến với lòng họ, Chúa lại làm cho lòng họ càng thinh lặng hơn. Để rồi lúc đó sự thinh lặng trở nên đầy sự hiện diện của Thiên Chúa.
Trong gặp gỡ thinh lặng này, con người không còn tìm hiểu Chúa nữa, mà là có chính Chúa. Họ cảm nghiệm được Chúa là tình yêu, là hạnh phúc của mình. Lúc đó con người sẽ thấy mọi sự đều rất đơn giản. Bất cứ việc gì tốt mình làm mặc dù bề ngoài coi là rất bé nhỏ, rất âm thầm, nhưng nếu làm với một tình mến lớn lao, chỉ vì Chúa, thì sẽ là việc rất giá trị có sức cứu độ, đổi mới bản thân, đổi mới con người và xã hội.
Trong cuộc gặp gỡ ấy, con người cũng sẽ thấy rõ mình hơn. Mình chẳng là gì, chẳng thể làm gì có sức cứu độ nếu không có sự hỗ trợ của Chúa. Do đó mà phải chết đi cho chính mình để quyền năng Chúa ngự trị hoàn toàn trong con người của mình, từ lớp ý thức đến lớp tiềm thức và vô thức sâu thẳm, từ trí khôn cho đến ý chí và tình cảm, ký ức, trí vẽ và mọi tiềm năng sáng tạo.
Người học hành cần thinh lặng. Người nghiên cứu suy nghĩ cần thinh lặng. Người sáng tạo cần thinh lặng. Người tìm minh triết cần thinh lặng. Người hồi tâm cần thinh lặng. Phương chi người muốn gặp gỡ, lắng nghe Chúa càng cần phải thinh lặng. Bởi vì Chúa muốn được thờ phượng trong tinh thần và trong chân lý, chứ không hài lòng với những hình thức ồn ào. Và bởi vì Chúa chỉ nói nhỏ nhẹ với những tâm hồn thinh lặng. Và bởi vì ơn đổi mới con người cũng chỉ được thực hiện nơi những con người khiêm tốn, thinh lặng.
Thánh Giuse, cần cù, nhiệt thành, tâm hồn khát khao tuân phục thánh ý Chúa, không bị ràng buộc bởi bất cứ kiêu căng ích kỷ nào. Đoá là một thinh lặng thuận lợi co việc cầu nguyện sống thân mật với Chúa, lắng nghe được ý Chúa.
Thời gian thinh lặng cầu nguyện nơi thánh Giuse là suốt đời mình. Dài mấy chục năm. Đó là một cộng tác quí báu vào công trình cứu độ của Chúa. Đây là một gương sáng rất quan trọng ma mọi người đang cộng tác với Chúa tại Việt Nam hôm nay cần suy nghĩ và bắt chước.
Bởi vì tôi thấy hiện nay sự thinh lặng cầu nguyện đang có chiều hướng giảm dần, nhường chỗ cho những hình thức thờ phượng và hoạt động tôn giáo nhiều khi quá ồn ào, trình diễn, chiếu lệ, phô trương, cạnh tranh, lố lăng. Thinh lặng cảm thương thân phận con người đau khổ
Bất cứ ở đâu và ở thời điểm nào, lịch sử những người làm cách mạng chân chính đều làm chứng họ là những trái tim rực cháy lửa cảm thương số phận dân mình. Họï sống không những vì dân, cho dân, nhưng nhất là gân dân, giữa dân và như dân. Dân nói đây là lớp dân khổ đau. Họ đồng cảm nỗi lo nỗi khổ của lớp người đau khổ lo âu. Họ cùng trải quạ những hoàn cảnh khó khăn bế tắc như lớp người nghèo khổ nhất.
Trong ba năm đi rao giảng, Chúa Giêsu tỏ ra Ngài đã có những thương cảm đặc biệt sâu sắc đối với mọi thứ người đau khổ. Riêng đối với những người tội lỗi, Chúa Giêsu đã không ngại yêu thượng gần gũi, tìm đến, với tất cả tấm lòng cảm thương lạ lùng chưa từng thấy “Thầy không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5,32).
Tôi nghĩ là trước đó thánh Giuse cũng đã âm thầm cộng tác với Chúa Giêsu trong lãnh vực cảm thương. Suốt mấy chục năm tại Nagiareth, thánh gai nói chung và thánh Giuse nói riêng đã được dân nghèo coi như những người thân thương của họ. Và nhất là những người tội lỗi đã coi các Ngài như những người hiểu họ, thương họ, cảm hoá được họ và lôi kéo họ về đàng lành.
Những cảm thương của thánh Giuse dành cho những người tội lỗi là rất sâu sắc. Bởi vì ngài được Đấng cứu độ chia sẻ cho sự thực về những nỗi kinh hoàng mà những kẻ tội lỗi sẽ phải gánh chịu. Nói cho đúng ra, thì không phải Chúa sẽ phạt họ, nhưng chính những việc xấu của họ sẽ kết án họ. An rất nặng nề, rất đáng sợ.
Vì cảm thương số phận người tội lỗi, thánh Giuse coi việc cứu con người khỏi xiềng xích tội lỗi là ưu tiên, hàng đầu. Xiềng xích do tính xấu xác thịt, xiềng xích do thói xấu thế gian, xiềng xích do ác quỉ Sa tan, tất cả làm nên một hệ thống mãnh lực ghê gớm nô lệ hoá con người tội lỗi.
Giải cứu họ là cả một thách đố lớn. Khuyên bảo dạy đỗ chỉ là một phương cách thô sơ nhất. Trừng trị, đe doạ cũng vẫn chỉ là một cách may ra sinh kết quả tạm thời. Sau cùng Chúa Giêsu đã hết sức cầu nguyện và tự hiến mình chịu chết để đền tội thay cho tội nhân.
Những tội nhân sẽ chỉ được cứu, nếu họ biết đón nhận ơn tha thứ và cộng tác vào việc cứu độ của họ. Thực tế cho thấy rất nhiều người đã không biết đón nhận ơn cứu độ, đã không cộng tác vào ơn cứu độ. Đây là một thảm hoạ kinh hoàng, mà thánh Giuse đã thinh lặng cảm nhận. Do đó ngài đã âm thầm hiến dâng đời mình để cam lòng chịu mọi hy sinh cùng với Chúa Giêsu dấn thân vào con đường cứu độ. Giai đoạn sau cùng của Chúa Giêsu là sự thinh lặng chịu chết trên cây thánh giá. Thánh giá là khí cụ cứu độ. Tôi nghĩ là thánh Giuse cũng đã phần nào chia sẻ tất cả những chặng đường cứu độ của Chúa Giêsu. Chia sẻ một cách thinh lặng nhưng đã gây được kết quả tốt cho nhân loại. Sám hối, sửa mình, đổi mới cách sống, trở về đàng lành, đó là những việc rất cần có ơn thánh giá mới thực hiện được
Thinh lặng bảo vệ kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa
Để cứu độ nhân loại, Thiên Chúa có kế hoạch riêng của Ngài. Trong kế hoạch đó, Thiên Chúa chọn một số người. Mỗi người được trao nhiệm vụ nhất định, để thi hành tại những nơi nhất định và trong thời điểm nhất định. Thánh Giuse được trao trách nhiệm bảo vệ Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Chắc là ngài cũng biết nhiều chuyện về Chúa Giêsu và Đức mẹ Nhưng ngài thinh lặng. Ngài là người bảo mật tối đa. Ngài là người thận trọng tuyệt đối với trật tự mầu nhiệm mà Thiên Chúa đã phần nào soi sáng cho ngài. Đó là phải tuân phục thánh ý Cha trên trời, như con trẻ Giêsu đã mạc khải: “Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà Cha của con sao (Lc 2,49).
Với sự thinh lặng và thận trọng đó, thánh Giuse lùi vào bóng tối. Chính nhờ vậy mà tất cả Tin Mừng đều tập trung vào Chúa Giêsu. Tập trung vào Chúa Giêsu, đó là điểm căn bản của kế hoạch cứu độ. Điểm căn bản này đã được thánh Giuse thực hiện một cách triệt để, khi ngài khiêm tốn ẩn mình vào thinh lặng hoàn toàn.
Phải chăng đây cũng là gương để chúng ta chỉnh đốn lại cách sống đạo. Khi mà nhiều nơi mục vụ xem ra càng ngày càng bớt tập trung vào Đức Kitô để đến nỗi trên thực tế, nơi nhiều người và nhiều cộng đoàn, Chúa Giêsu thực sự trở nên mờ nhạt, cô đơn, giữa những sùng kính phụ thuộc càng ngày càng đua nhau phát triển tưng bừng.
Thiết tưởng một sự kiện như thế giữa một tình hình Hội Thánh đang có nhiều vấn đề phức tạp không là dấu chỉ của một lòng đạo phát triển khôn ngoan và ân sủng.
Khi tĩnh tâm tại các tu viện chiêm niệm, tôi cảm thấy thấm thía một nhu cầu khẩn cấp hiện nay của tu đức, mục vụ và truyền giáo. Nhu cầu khẩn thiết đó là sự thinh lặng mà tích cực tôi vừa trình bày ở trên. Thinh lặng tu thân, thinh lặng gặp gỡ Chúa trong cầu nguyện, thinh lặng cảm thương số phận những người khổ đau tội lỗi, thinh lặng bảo vệ kế hoạch cứu độ của Chúa. Những đấng hiện nay đang gây được ảnh hưởng rộng lớn trong việc đổi mới con người, xã hội và Hội Thánh như thánh nữ Têrêsa thành Lisieux, Mẹ Têrêsa Calcutta, Anh Charles de Foucauld, đều là những người đã thinh lặng nhưng tích cực trong bốn lãnh vực nói trên. Thiết tưởng các vị đó đã đi con đường thinh lặng của thánh Giuse. Thời nay, nhất là tại Việt Nam này, người ta quá nhàm chán với những thứ người ồn ào la lối về cái rác nơi mắt người khác, còn cái xà nơi mắt mình thì lại không thấy (Lc 6,41-42).
Con đường thinh lặng mà tích cực đang mở rộng. Chúa tha thiết mời gọi chúng ta đi vào. Nguyện xin thánh Giuse giúp đỡ chúng ta biết mộ mến con đường đó. Hy vọng bằng con đường đó, chúng ta chứng minh được chúng ta là những người thực sự có sự khôn ngoan và ân sủng của Chúa, đẹp lòng Chúa và đáng được người ta mến thương, tin cậy.
Lm. Jos. DĐH
Cuộc sống quanh ta, biết bao người đang tìm tiền tài địa vị, cũng không thiếu những người vẫn hướng tới mục tiêu hạnh phúc; còn gặp gỡ, thỏa mãn được mơ ước hay không, tùy mỗi người. Sống có tình có nghĩa, hoặc kiếm tìm giá trị thật của hạnh phúc, luôn là chọn lựa mà người ta phải giữ vững lập trường của mình. Dù ngóng chờ, dù trông đợi thành quả vật chất hay tinh thần, người ta vẫn có quyền hy vọng vào những nỗ lực riêng họ đầu tư.
Có hai thứ trên đời rất đáng trân trọng đó là danh dự và lẽ phải, nếu không nhẫn nại khi gặp điều trái ý, hoặc không đủ bình tĩnh sáng suốt lúc gặp gian truân, hẳn là sẽ “lớn chuyện”. Để có một quyết định đúng, không gây tổn thương đến người bạn trăm năm, ông Giuse muốn biết sự thật về việc Maria mang thai, không phải là sai ! Nhưng ông Giuse không tìm kiếm sự thật theo kiểu điều tra, hạch hỏi, hờn dỗi bực tức, nói một cách tích cực, ông đúng là người thật bình tĩnh. Ông tìm thánh ý Chúa, thay vì tìm cho ra lý lẽ Maria có phải là kẻ phản bội hay không ?
Để nhận ra thánh ý Chúa và sống đạo làm người, chúng ta không cần phải nhìn trước ngó sau xem có ai chê cười ta, đúng hơn là nên bảo vệ danh dự cho anh chị em mình bao nhiêu có thể. Xưa kia, để giáo dục và truyền được kinh nghiệm quí báu cho con cháu, cha ông chúng ta có câu : gọi vâng bảo dạ con ơi, vâng lời sau trước con thời chớ quên. Nhìn vào cách tìm ý Chúa để sống, nơi Giuse, ngài đã vâng phục đức tin thật tuyệt vời, dù qua giấc mơ Ông vẫn biết đón nhận Maria về làm bạn là điều cần thiết.
Có thể chỉ Kitô giáo mới đặt vấn đề đâu là ý ta và đâu là ý Chúa, nhưng đạo làm người cũng có câu đáng để ta suy xét : hữu tâm tất thành sự, hữu đức phúc tự lai. Nơi Giuse, ông vừa có tâm vừa có đức, nên cả cuộc đời của ngài là tìm biết ý Chúa và sống đức tin, cho dù khó khăn đau khổ không buông tha bất cứ ai. Tại sao Giuse không phải là vị “thông minh uyên bác”, mà Giáo Hội vẫn gọi ngài là Thánh Cả, dù thời nào cũng chủ trương người toàn diện phải là vừa tài vừa đức.
Ngày hôm nay, yếu tố làm nên “người hùng” không phải là văn võ song toàn, đâu phải cứ “vung tiền” khắp tứ phương mới gọi là đại gia, cũng không phải “cứ bằng cấp” đầy nhà sẽ được gọi là thầy thiên hạ. Giới răn trọng nhất là mến Chúa yêu người, không hệ tại giầu hay nghèo, lớn tuổi hay nhỏ tuổi, nhưng tùy thuộc mỗi người có hiểu và sống thánh ý Chúa đến đâu rồi ? Con đường nên thánh đâu phải là làm những việc to lớn; để được gọi là công chính, nhất định phải hiểu và hành động đức tin không chậm trễ.
Xã hội thời nào cũng sợ kẻ : nhất lý nhì lì, nhưng còn khiếp hơn nữa khi nói : chín thằng lì vẫn thua thằng liều. Thánh Giuse xưa kia không phải là người lý sự, không kiên trì đến độ “lì lợm”, cũng chẳng hiền lành dễ dãi như người “uống thuốc liều”, mặc kệ cho số phận. Cuộc đời hôm nay vẫn rất cần đến người cha tài đức, khiêm tốn, biết tìm ý Chúa và mạnh dạn sống yêu thương hơn là lý sự nguyên tắc. Xin Cha Thánh trợ giúp cho những ai thành tâm thiện chí biết thinh thặng cầu nguyện, gặp và hiểu được ý Chúa trong yêu mến phục vụ, xứng hợp với tình yêu xây dựng người công chính. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Ngày 19 tháng 3, Hội Thánh hoàn vũ hân hoan mừng kính thánh Giuse, bạn trăm năm của Ðức Trinh Nữ Maria, cha nuôi Chúa Giêsu, vị quan thầy khả kính của mình cách trọng thể. Truyền thống bình dân Kitô giáo dành trọn tháng Ba cho thánh Giuse người của Thiên Chúa và đem lòng sùng kính ngài cách đặc biệt.
Trong chương trình của Thiên Chúa tình thương, thánh Giuse đã được mời gọi trở nên người cha trên trần gian của Ngôi Lời Nhập Thể, (nơi ngài) được phản chiếu một cách đặc biệt tình phụ tử của Thiên Chúa. Nên khi chúng ta tôn kính thánh nhân là chúng ta ca khen chúc tụng Thiên Chúa : “Trong ngày lễ kính thánh Giuse chúng con cùng tung hô, chúc tụng và ca ngợi Cha” (Kinh Tiền Tụng Thánh Giuse). Đây là điều đẹp lòng Thiên Chúa, lời nguyện khác có đoạn “ Vào lúc bình minh của thời đại mới, Chúa đã trao cho thánh Giuse bảo vệ các Mầu Nhiệm Cứu Độ, xin cho Hội Thánh Chúa luôn luôn nhớ lời cầu bầu của thánh nhân …”. Chính Đức Giáo Hoàng Pio IX đã công bố sắc lệnh Quemadmodum Deus (08.12.1870), nhận thánh Giuse làm quan thầy cả Hội Thánh, hàng năm dành riêng hai lễ kính ngài vào ngày 19 tháng 3 và mùng 01 tháng 5.
Tin Mừng ghi lại : “ Giuse bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1, 19). Ðây là câu chuyện duy nhất trong Tân Ước diễn tả trực tiếp về con người của thánh Giuse, một vị hôn phu không những là người đã giữ đức công bình mà còn trung thành chu toàn mọi bổn phận của một người chồng, người chủ gia đình.
Lần giở lại những trang Tin Mừng có liên quan đến Thánh Giuse, chúng ta có thể khám phá ngay tính cao thượng trượng phu của ngài. Khi hay tin Maria mang thai, Thánh Giuse không bối rối cũng không ẩn trốn. Nhưng ngài chỉ mới toan tính bỏ bà Maria cách kín đáo. Tuy nhiên, ngài không thực hiện ý định đó. Bởi sau khi được sứ thần Thiên Chúa đến mặc khải cho ngài qua giấc mộng: “Mẹ Maria mang thai là bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần”(Mt 1,20), ngài đã không còn “bán tín bán nghi” nữa. Trái lại, tín thác hoàn toàn vào lời của sứ thần, sẵn sàng đón Đức Maria về nhà làm bạn mình và phục vụ với lòng kính trọng, mến yêu.
Những biến cố xảy ra trong cuộc đời thánh Giuse như: Mầu Nhiệm Nhập thể, cuộc trốn chạy sang Ai Cập trước ý định tìm giết Chúa Giêsu của vua Hêrôđê, việc lạc mất Chúa Giêsu, cũng như những tháng năm sống đời ẩn dật tại Nazaret, Giuse, bậc trượng phu đã đứng mũi chịu sào trong mọi tình huốn : cùng bạn mình “đem Hài nhi lên Giêrusalem tiến dâng cho Chúa” (Lc 2, 22) ; “đem Hài nhi và mẹ Ngài ban đêm mà trốn qua Ai Cập” (Mt 2,14 ) ; “đem Hài Nhi và Mẹ Ngài mà về đất Israel” (Mt 2, 20 ) ; cùng với bạn đời sống âm thầm nơi thôn làng Nazaret, hàng năm cùng với Đức Maria đưa Chúa Giêsu lên Đền thờ chầu lễ (x. Lc 2, 41- 43). Ngài thật xứng đáng là bạn hiền của Đức Nữ Trinh.
Như thế, từ khi kết hôn với Mẹ Maria cho đến biến cố Chúa Giêsu 12 tuổi tại Ðền thờ Giêrusalem, ngài ân cần yêu thương đồng hành trong mọi lúc. Ngài ở cạnh Maria Hiền thê của ngài trong những lúc thanh thản cũng như trong những lúc khó khăn của cuộc sống, trong hành trình đi Bêlem để kiểm tra dân số, và trong những giờ hồi hộp và vui mừng của cuộc sinh hạ; trong lúc bi thảm tị nạn sang Ai Cập và trong cuộc vất vả tìm con tại Ðền Thờ; và rồi trong cuộc sống hằng ngày tại nhà Nazaret, trong phòng làm việc nơi thánh nhân đã dạy nghề cho Chúa Giêsu.
Thánh Giuse đã sống ơn gọi làm chồng của Đức Maria trong thinh lặng, kiên trì và trung tín hoàn toàn, cả khi ngài không hiểu. Ngài biết lắng nghe Thiên Chúa, để cho thánh ý Chúa hướng dẫn, và chính vì thế thánh nhân trở thành người chồng mẫu mực của Đức Maria và người cha tận tụy đối với Chúa Giêsu, như Chân phước Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh: “Thánh Giuse, vì yêu thương chăm sóc Mẹ Maria và vui mừng tận tụy giáo dục Ðức Giêsu Kitô, như thế Ngài cũng giữ gìn và bảo vệ nhiệm thể của Ngài là Giáo Hội, mà Ðức Thánh Trinh Nữ là hình ảnh và gương mẫu” (Trích Tông Huấn Redemptoris Custos, 1).
Thánh Giuse là vị hôn phu của Ðức Maria, đấng đã cưu mang Chúa Giêsu, mà vẫn còn đồng trinh, do bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần. Nhưng con trẻ Giêsu cũng là con của thánh Giuse, vị hôn phu hợp pháp của Mẹ Maria. Vì thế, trong Tin Mừng, cả hai đều được gọi là song thân của Chúa Giêsu (x. Lc 2, 27.41).
Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Mẹ Người mà thánh Luca mô tả : Đức Maria nói “Này cha con và mẹ phải đau khổ tìm con! ” Nhưng Ngài đáp lại: “ Thì tại sao tìm con? Lại còn không biết là con phải ở lại nơi nhà Cha con sao? ” (Lc 2 , 48 – 49 ). Những lời của Chúa Giêsu giúp chúng ta hiểu được thiên chức “ làm cha ” của thánh Giuse. Khi gợi lên cho cha mẹ trần gian về việc của Đấng mà Ngài gọi là “Cha con”, Chúa Giêsu tiết lộ sự thật về vai trò của Đức Maria và Thánh Giuse. Thánh Giuse thực sự là “chồng” của Đức Maria và là “cha” của Chúa Giêsu, như Đức Maria nói: “Cha con và mẹ phải đau khổ tìm con”. Nhưng thánh Giuse là chồng và là cha theo ý Thiên Chúa, vì chính Thiên Chúa mời gọi Giuse cống hiến đời mình phục vụ người Con duy nhất của Chúa Cha và Đức Trinh Nữ Maria. Thánh nhân đã đảm nhận thánh ý Chúa với lòng trung thành và ngưỡng mộ.
Trong buổi Yết Kiến Chung (28/1/2015), Đức Thánh Cha Phanxicô đã than phiền : “Thật buồn là trong xã hội hiện nay, chúng ta đang trải nghiệm một cuộc khủng hoảng nơi cương vị làm cha”. Trong quá khứ, thông lệ phổ biến là nhận thức về hình ảnh của người cha như là một người độc tài và đôi khi hà khắc; còn ngày nay, chúng ta có cảm tưởng về một sự không chắc chắn và lẫn lộn nơi vai trò của người cha”. Ngài cho biết: “Thiếu vắng hình bóng người cha, người trẻ thường cảm thấy ‘mồ côi’, bị bỏ trôi dạt lênh đênh vào thời điểm then chốt trong sự trưởng thành và phát triển của chúng”. Ngài kêu gọi những người làm cha phải có trách nhiệm, và cho rằng những bậc làm cha cần thiết phải nên như mẫu gương và người hướng dẫn cho con cái của chúng ta trong sự khôn ngoan và đạo đức.
Trong xã hội hiện đại, vai trò người chồng, người cha trong gia đình được thể hiện đa dạng và có nhiều thử thách khắc nghiệt hơn. Thật khó để chu toàn hai nhiệm vụ cách song song được. Có người nói rằng là người chồng tốt, đương nhiên phải là người cha tốt. Tuy nhiên, một người cha tốt chưa chắc đã là người chồng tốt.
Kính xin thánh Giuse từ trời cao phù hộ cho các người làm cha trong gia đình, để họ có thể phản chiếu tình thương dự phòng và trung tín của Thiên Chúa khi thi hành những trách nhiệm là chồng, làm cha và làm chủ gia đình. Amen.
Trầm Thiên Thu
Giuse theo tiếng Do Thái là יוֹסֵף [Yosef], tiếng Hy Lạp là Ἰωσήφ [Ioseph]. Giuse nghĩa là “thêm vào”. Có lẽ là thú vị đối với ý nghĩa này về Đức Thánh Giuse, con ông Gia-cóp, dòng dõi Thánh vương Đa-vít, Hôn phu của Đức Trinh Nữ Maria và người nhận lãnh trọng trách làm Dưỡng phụ của Chúa Giêsu trên trần gian.
Đức Thánh Giuse là người chồng và người cha gương mẫu, nhưng lại sống rất khiêm nhường, trầm tĩnh, quên mình vì vợ con, vì người khác, nêu cao tinh thần phục vụ, âm thầm tan biến như muối hòa tan để làm ngon mọi thứ, và ngài được tôn xưng là Đấng Công Chính.
Ngài là Phu quân của Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, và Dưỡng phụ của Chúa Giêsu, vai vế lắm, trách nhiệm nặng nề và công cán to lắm, thế nhưng chẳng ai nghe thấy ngài nói gì, có lẽ ngài chỉ cười thôi. Quả thật, cuộc đời ngài hoàn toàn “nhỏ bé”, trầm lặng tuyệt đối, hầu như không có tài liệu nào ghi lại lời nói nào của ngài. Đúng như Chúa Giêsu nói: “Ai là người nhỏ nhất trong tất cả anh em, kẻ ấy là người lớn nhất” (Lc 9:48). Giáo hội Công giáo tôn xưng ngài là Thánh Cả, và là bổn mạng của Giáo hội.
Đức công chính rất cần, vì Chúa Giêsu dạy: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người” (Mt 6:33). Thật vậy, “một khi nên công chính thì con người được bảo đảm ơn cứu độ” (Rm 5:1-2). Với Đức Thánh Giuse, chúng ta có nhiều điều để nói, mà rồi cũng chẳng có gì để nói. Kỳ lạ thật! Đó là hai thái cực KHÔN – NGU.
Có vẻ chúng ta “rát tai” khi sách Huấn Ca nói: “Kẻ ngu đần chửi thẳng vào mặt; quà tặng của con người tham lam làm rơi nước mắt. Học trước đã rồi hãy nói sau; để ngừa bệnh, con hãy uống thuốc” (Hc 18:18-19). Thế nhưng lại hợp lý lắm. Cách so sánh rất thực tế: “Uống thuốc để ngừa bệnh”. Như vậy, “học trước, nói sau” là đúng. Người Việt cũng nói: “Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe”. Không biết mà “tài lanh” thì quả là dại dột, đúng ra phải nói là “ngu xuẩn”. Ngu dốt sinh ra độc đoán. Đầu bã đậu nên không thể hiểu nổi ý tưởng cao xa. La Rochefoucauld nói rõ: “Những kẻ có trí tuệ tầm thường thì hay lên án những gì vượt quá tầm hiểu biết của họ”.
Im lặng là điều không dễ thực hiện. Chỉ vài người ngồi chung bàn mà ai cũng giành nói, tự cho mình biết nhiều, chữ nghĩa đầy bụng, muốn mình nổi bật, đôi khi nói mà không suy nghĩ, không uốn lưỡi bảy lần. Nói nhiều sai nhiều, nói ít sai ít. Không nói như Đức Thánh Giuse là OK nhất. Tuyệt cú mèo! Vả lại, nói đâu là chuyện dễ. Trước khi nói thì phải suy nghĩ, đắn đo, nói sao cho ngắn gọn mà đầy đủ. Nói dai, nói dài là dại. Nghĩ là điều khó, nói ra càng khó hơn, nhưng làm thì khó lắm. Đúng như Lachausser phân tích: “Nghĩ đúng, nói đúng, vậy cũng chưa đúng, mà còn phải làm đúng”.
Về tâm linh, sách Huấn Ca căn dặn: “Trước khi xét đoán, hãy tự kiểm điểm, thì trong giờ Chúa đến viếng thăm, con sẽ được khoan hồng” (Hc 18:20). Tính toán không hề đơn giản, dù chỉ suy nghĩ về điều nhỏ. Xem chừng “đơn giản” nhưng chỉ là… “đang giỡn” thôi. Việt ngữ ngộ vậy mà chí lý lắm!
Chúng ta thường nói tới “ba thù” – bộ ba: Ma quỷ, Thế gian, Xác thịt. Ham nói mà không ham làm là “dính líu” tới “thằng quỷ” Xác Thịt, vừa ích kỷ vừa kiêu ngạo. Thế mới “ham nói”. Ai thích “chỉ tay năm ngón” đều… nói nhiều. Thực tế minh nhiên như vậy. Vì thế, như đã nói, không dễ gì mà “im lặng” đâu! Có thể nói im lặng là một nhân đức, vì sự im lặng liên quan lòng khiêm nhường. Đức Thánh Giuse im lặng vì ngài rất khiêm nhường.
Mưu ma chước quỷ như lưới giăng bắt chim, phải cảnh giác cao độ. Tác giả Thánh Vịnh nói: “Lưới kẻ thù giăng, xin gỡ con ra khỏi, vì nơi con trú ẩn, chính là Ngài. Trong tay Ngài, con xin phó thác hồn con, Ngài đã cứu chuộc con, lạy Chúa Trời thành tín” (Tv 31:5-6). Không gì khôn ngoan hơn là hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa quan phòng. Chắc chắn Đức Thánh Giuse có đức tin lớn lao và mạnh mẽ, nên ngài “thoải mái” giữ im lặng và hoàn toàn tín thác nơi Lòng Chúa Xót Thương.
Trình thuật 2 Sm 7:4-5, 12-16 cho biết: Ngày ấy, Thiên Chúa phán với ông Na-than: “Khi ngày đời của ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi, một người do chính ngươi sinh ra, và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền. Chính nó sẽ xây một nhà để tôn kính danh Ta, và Ta sẽ làm cho ngai vàng của nó vững bền mãi mãi. Đối với nó, Ta sẽ là cha, đối với Ta, nó sẽ là con. Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta; ngai vàng của ngươi sẽ vững bền mãi mãi”.
Trình thuật ngắn gọn nhưng cho thấy Thánh Ý Thiên Chúa đã tiền định. Ở đây chúng ta hiểu về Đức Thánh Giuse, một người đầy quyền thế nhưng không thích dùng quyền đó. Thật vậy, ngài tự hạ như hạt muối hòa tan vào mọi thứ, đến nỗi không còn ai nhận ra muối. Ngài không nói nhưng hành động cụ thể. Thánh Teresa Ávila (Teresa Sánchez de Cepeda y Ahumada, 1515-1582), Tiến sĩ Giáo hội, quả quyết: “Không có điều gì tôi xin với Đức Thánh Giuse mà không được. Nếu không tin tôi nói, bạn hãy thử mà xem!”.
Đức tin của Đức Thánh Giuse quá lớn, đến nỗi ngài chìm đắm trong Dòng Thác Thương Xót nên không còn biết nói gì nữa, chỉ biết xưng tụng: “Tình thương Chúa, đời đời con ca tụng, qua muôn ngàn thế hệ miệng con rao giảng lòng thành tín của Ngài. Vâng con nói: Tình thương ấy được xây dựng tới thiên thu, lòng thành tín Chúa được thiết lập trên trời” (Tv 89:2-3). Mọi điều đã ứng nghiệm như xưa Thiên Chúa tuyên phán: “Ta đã giao ước với người Ta tuyển chọn, đã thề cùng Đa-vít, nghĩa bộc Ta, rằng: Dòng dõi ngươi, Ta thiết lập cho đến ngàn đời, ngai vàng ngươi, Ta xây dựng qua muôn thế hệ” (Tv 89:4-5).
Thánh Phaolô nói: “Không phải chiếu theo Lề Luật mà Thiên Chúa đã hứa cho ông Áp-ra-ham và dòng dõi ông được thế gian làm gia nghiệp, nhưng ông được lời hứa đó vì đã trở nên công chính nhờ lòng tin” (Rm 4:13). Vì tin mà Tổ phụ Áp-ra-ham được công chính hóa. Đức Thánh Giuse cũng vì tin mà được công chính hóa. Đó là hệ quả tất yếu theo lời hứa của Thiên Chúa.
Thánh Phaolô cho biết thêm: “Vì tin mà người ta được thừa hưởng lời Thiên Chúa hứa; như thế lời hứa là ân huệ Thiên Chúa ban không, và có giá trị cho toàn thể dòng dõi ông Áp-ra-ham, nghĩa là không phải chỉ cho những ai giữ Lề Luật, mà còn cho những ai có lòng tin như ông. Ông là tổ phụ chúng ta hết thảy, như có lời chép: Ta đã đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc. Ông là tổ phụ chúng ta trước mặt Thiên Chúa, Đấng ông tin tưởng, Đấng làm cho kẻ chết được sống và khiến những gì không có hoá có. Mặc dầu không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin, do đó ông đã trở thành tổ phụ nhiều dân tộc, như lời Thiên Chúa phán: Dòng dõi ngươi sẽ đông đảo như thế” (Rm 4:16-18). Lời giao ước của Thiên Chúa là tặng phẩm hoàn toàn miễn phí, nhưng lại hiệu quả và ích lợi cho những ai thực sự tin tưởng.
Đức tin của Tổ phụ Áp-ra-ham vô cùng vĩ đại: Sẵn sàng ra đi theo lệnh Chúa truyền, và cũng không ngại hạ sát đứa con trai duy nhất của mình làm hy lễ dâng Thiên Chúa. Dù khó khăn cỡ nào, có lúc như tuyệt vọng, nhưng Tổ phụ Áp-ra-ham vẫn tín trung: “Ông Áp-ra-ham đã chẳng mất niềm tin, chẳng chút nghi ngờ lời Thiên Chúa hứa; trái lại, nhờ niềm tin, ông đã nên vững mạnh và tôn vinh Thiên Chúa, vì ông hoàn toàn xác tín rằng: điều gì Thiên Chúa đã hứa thì Người cũng có đủ quyền năng thực hiện. Bởi thế, ông được kể là người công chính” (Rm 4:20-22).
Dù “muộn màng” cũng xin mượn lời Thánh Vịnh để chúc mừng Tổ phụ Áp-ra-ham và Đức Thánh Giuse: “Phúc thay người ở trong thánh điện, họ luôn luôn được hát mừng Ngài” (Tv 84:5). Ước gì chúng ta cũng mau trưởng thành tâm linh để khả dĩ được công chính hóa, nhất là trong Mùa Thương Khó này, vì đây là cơ hội ngàn vàng!
Trình thuật Mt 1:16. 18-21. 24a, Thánh sử Mát-thêu kể: Gia-cóp sinh Giuse, chồng của bà Maria, bà là mẹ Đức Giêsu cũng gọi là Đấng Kitô. Sau đây là gốc tích Đức Giêsu Kitô: bà Maria, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giuse. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ông Giuse, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng: “Này ông Giuse, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”.
Chuyện kể ngắn gọn, nhưng chúng ta thấy trong đó là một hành trình dài đằng đẵng, đầy gian khó, hẳn là Đức Thánh Giuse bị giằng co dữ dằn lắm. Chả thế mà “Chàng định ngấm ngầm bỏ đi khi thấy Nàng bụng to”. Chết chắc! Thời đó bị ném đá cho chết đấy. Đau thí mồ! Ý định “bỏ của chạy lấy người” cũng là lẽ thường của con người, thế nhưng sứ thần cấp báo cho ngài biết rằng chuyện không đơn giản như vậy, vì đó là “quyền phép của Chúa Thánh Thần” í mà. Chi mà nhát gan rứa hỉ? Chắc là Đức Thánh Giuse lúc ấy… gãi đầu. Ngại ghê!
Và rồi khi tỉnh giấc, biết rõ “hai năm rõ mười”, Đức Thánh Giuse liền làm y như sứ thần Chúa dạy và vui vẻ “đưa nàng về dinh”. Chả có vấn đề gì ráo trọi. Thế là an tâm và vô tư. Và Đức Thánh Giuse tiếp tục hành nghề thợ mộc để sinh sống, chuẩn bị cho mái ấm tương lai. Hay quá chừng luôn!
Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin cảm tạ Ngài luôn quan phòng và tiền định mọi điều, dù có những lúc chúng con cảm thấy trái ý. Chúng con chân thành xin lỗi Ngài. Xin biến đổi chúng con, giúp chúng con biết noi gương thầm lặng của Đức Thánh Giuse, biết quên mình mà dấn thân sống tích cực vì tuân phục Thánh Ý Chúa và hết lòng vì tha nhân. Xin Đức Thánh Giuse đồng hành với chúng con và luôn cầu giúp nguyện thay. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa Cứu Độ của chúng con. Amen.
Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
Đấy là những nẻo đường trong đời của Giu-se …
Đấy là những nẻo đường trong đời của mỗi con người …
Cái anh chàng thanh niên làng quê Nazareth ấy – có lẽ khoảng 17 , 18 tuổi – có những dự định cho riêng mình …
Những dự định của anh ta “ ngẫu nhiên ” lại ăn khớp với dự định của cô bạn gái Maria – có lẽ khoảng 14 , 15 tuổi …
Và dự định của cả đôi bên lại không giống những bạn bè đồng trang đồng lứa ở thời đó : thời mà Dân Chúa mong đợi đến độ khát khao sự xuất hiện của Vị Vua Cứu Thế như lời hứa trong Kinh Thánh và âm thầm nhưng mãnh liệt không kém là nỗi ước mơ thầm kín được có Đấng Cứu Thế trong nhà mình , trong gia đình mình … Con làm vua thì phụ mẫu đương nhiên là vinh vang lắm rồi …
Vậy là “ ngẫu nhiên ” này đã nối kết với “ ngẫu nhiên” kia để rồi những dự định riêng tư trở thành một quyết định chung: yêu nhau và sẽ là bạn của nhau mãi mãi …
Thế nhưng Thiên Chúa lại thích cái “ ngẫu nhiên ” khác đời và khác người của cả hai …
Cái thích của Thiên Chúa thì không phải là thích tính cách “ khác đời và khác người ” của dự định , nhưng là thích thú nhìn thấy tình trạng “ nguyên thủy” của giây phút đầu tiên ngay sau tạo dựng khi tất cả còn vô cùng trong sáng , vô cùng pha lê , vô cùng thánh thiện , bởi vì như vừa xuất từ lò Tình Yêu…Thiên Chúa nhìn thấy điều ấy nơi dự định … và Người tận dụng ngay những “ngẫu nhiên” của cả đôi bên …
Những “ ngẫu nhiên” … làm nên NHỮNG NẺO ĐƯỜNG KHÔNG BAO GIỜ NGHĨ TỚI…
NHỮNG NẺO ĐƯỜNG KHÔNG BAO GIỜ NGHĨ TỚI trong cuộc đời của Giu-se…
NHỮNG NẺO ĐƯỜNG KHÔNG BAO GIỜ NGHĨ TỚI trong cuộc đời một con người…
Nhớ lại lời tâm sự của một vị Giám Mục nọ trong ngày tấn phong và nhận Giáo Phận : Chúa đã giúp con và đặt để trên khắp các ngã ba đường đời của con những bàn tay trợ lực … Con đi tới đâu thì đều có những bàn tay đưa ra nắm lấy tay con … Một cách khác để diễn tả những “ ngẫu nhiên” trong một cuộc đời … mà – chỉ khi nhìn lại thật kỹ – mới thấy những “ ngẫu nhiên” ấy nằm trong “ quan phòng” … Mà “ quan phòng” thì không còn là “ ngẫu nhiên” nữa , nhưng là “ trong kế hoạch ” … Chỉ có điều “ kế hoạch” đây là “ kế hoạch” của Thượng Trí được thể hiện qua những “ ngẫu nhiên” nơi thụ sinh , và , với thụ sinh thì là “ ngẫu nhiên” , nhưng nơi Thượng Trí thì là “ quan phòng” …
Truyền thông Hàn Quốc vừa qua mới tường thuật về cuộc đấu cờ vây đầu trong ba , bốn trận gì đó giữa phần mềm “trí tuệ nhân tạo” máy tính AlphaGo của Google và kỳ thủ người Hàn Lee Se-dol diễn ra tại khách sạn Four Season ở Seoul … Lee Se-dol đã thua trong trận đấu đầu tiên …
Mình hoàn toàn mù tịt về cờ vây …
Mình không biết gì nhiều về máy tính , ngoài chuyện gõ và gửi e-mail …
Thế nhưng có một chuyện vui vẫn hay được kể : ấy là có một cụ sở thích cờ tướng nhưng không được hay lắm …Đến chơi với cụ thì phải dè chừng nếu muốn được cùng ăn trưa …Năm ván thì thắng hai thua ba …Đặc biệt là ván cuối trước giờ ăn thì người thắng phải là cụ … Bữa trưa sẽ rất vui vẻ và hoành tráng …
Nhà hưu cũng có hai tay biết chơi cờ tướng : một tay khá thì còn trẻ và một tay tàm tạm đã chạm bát tuần … Cả hai chơi với nhau một thời gian thì xếp bàn : lý do tay trẻ , khá hơn , liên tục thắng và vị bát tuần liên tục thua …Giả như tay nọ nhường tay kia , thấy rõ con đường chiếu của mình nhưng vẫn lơ mơ , loạng choạng vài ba nước để “ được” thua … thì cuộc cờ có lẽ dài lâu và vui thú …
Suy ngĩ một chút về cuộc đấu cờ vây trên đây – dĩ nhiên chỉ là suy nghĩ của một lão già thất tuần ngốc nghếch về máy tính và kỹ thuật máy tính – nhưng chắc chắn một điều : máy tính là do con người và thông minh của máy tính là kết quả óc thông mình của con người …Chép phần mềm “trí tuệ nhân tạo” thì đương nhiên là DeepMind phải chép cả một “ kho” những thế cờ của các kỳ thủ thế giới … Vấn đề là làm sao để “ bộ óc nhân tạo” tung ra được thế cờ cần thiết đứng trước thế cờ của đối tượng con người … Đấy là chuyện của cảm ứng điện tử qua những những làn sóng điện tử của óc , của mắt , của môi , thậm chí của cả hơi thở …Cho nên chuyện đương đầu giữa một bộ óc chứa cả kho thế cờ có sẵn và bộ óc con người thì …
Suy nghĩ lẩn thẩn và nói mò nói mẫm vậy thôi …Tuy nhiên một sự thật là : bộ óc máy móc của một tập thể những bộ óc con người có thể làm được những điều lạ lùng trong thế giới của con người , và , nếu tập thể con người tốt lành thì những việc lạ lùng hướng đến sự thiện , còn , nếu tập thể con người không tốt , những việc lạ lùng sẽ gây hại …Hình như đấy cũng là nỗi sợ của nhân loại …đứng trước tốc độ phát triển thần kỳ của máy tính …Có lẽ người ta không sợ máy tính nhưng người ta sợ tham vọng bá chủ của con người … Và thứ tham vọng này thì có thật và ở mọi thời …
Gì thì gì chứ tự tạo những thế cờ lơ mơ, loạng choạng để có được bữa trưa hoành tráng và vui vẻ, có được những cuộc cờ thân hữu lâu dài … thì “ trí tuệ nhân tạo” không thể linh hoạt được đâu…Lúc ấy nó là thế cờ phối hợp của cả bộ óc và con tim : điều mà “ trí tuệ nhân tạo” chưa làm được … Chưa làm được hay không biết có làm được không …
Nhưng Đấng là Thượng Trí thì Người làm được tất cả …
Những “ ngẫu nhiên” của một đời người phải chăng cũng là những thế cờ sống biến hóa khôn lường …
Thiên Chúa vốn là “ chuyên gia” trong việc tận dụng những “ ngẫu nhiên” trong thế giới con người để hoàn thành chương trình của Người : một chương trình phần mềm được viết bằng những con người có tư duy và có hành động và có trái tim , phần mềm sẽ phân định thắng / thua trong cuộc cờ đời mà những người chơi bó tay , không thể xoay sở gì ở giây phút tận chung : vòng vây kết thúc …
Xin tạ ơn Cha về những nẻo đường không bao giờ nghĩ tới nơi cuộc đời thánh Giuse …
Xin cám ơn Cha về những nẻo đường không bao giờ nghĩ tới nơi cuộc đời mỗi chúng con …
Lm. Anthony Trung Thành
Hôm nay, cùng với Giáo hội chúng ta mừng trọng thể lễ kính Thánh Giuse, bạn trăm năm Đức Trinh Nữ Maria. Ngài là bổn mạng Giáo Hội Việt Nam, đồng thời cũng là bổn mạng nhiều tập thể và cá nhân khác, đặc biệt là của giới gia trưởng trong giáo họ chúng ta. Chúng ta xin Ngài bầu cử cho Giáo hội Việt Nam, cho mỗi người chúng ta, đồng thời đây cũng là dịp để các gia trưởng suy niệm các nhân đức của Ngài để noi gương bắt chước.
Thật vậy, Thánh Giuse là người công chính, Ngài luôn luôn tuân theo thánh ý Chúa. Khi Mẹ Maria mang thai, Thánh Giuse không hiểu bào thai trong bụng Mẹ do đâu. Theo luật Do Thái, Ngài có quyền tố cáo Mẹ. Nhưng thay vì tố cáo, Ngài định âm thầm bỏ đi. Đang khi tính toán như vậy, thì trong giấc chiêm bao, sứ thần bảo Ngài: “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”(Mt 1, 20-21). Khi tỉnh dậy, Thánh Giuse hiểu được ý Chúa, nên đã mau mắn đón nhận Mẹ về nhà mình. Thế là mọi nghi vấn trong lòng của Thánh Nhân lâu nay đã được giải toả. Chắc chắn Mẹ Maria vui lắm. Vui vì người bạn đời đã hiểu được những gì mà Mẹ không tiện nói ra. Vui vì từ đây Mẹ có một chỗ dựa vững chắc và đáng tin cậy. Con Thiên Chúa sẽ có một người cha bảo vệ chở che.
Thế là cuộc sống của gia đình Thánh Gia được bắt đầu. Cũng như bao gia đình khác, gia đình Thánh Gia chăm chỉ lao động, giữ các luật lệ đạo đời. Thánh Gia cũng gặp nhiều niềm vui và chắc chắn không thể tránh khỏi những nỗi buồn. Nhưng nhờ sự khôn ngoan và tài đức của người cha, nên gia đình đã vượt qua tất cả.
Cuộc sống đang bình yên thì Sứ thần báo mộng cho Thánh Giuse biết, Hài Nhi đang bị Hêrôđê lùng bắt. Thánh Giuse đã vội vã đưa Hài Nhi và Mẹ Ngài trốn sang Ai Cập(x. Mt 2,14). Đường xa hiểm trở, cuộc sống mờ mịt không biết đến ngày mai ở nơi đất khách quê người. Chúng ta hình dung một đôi vợ chồng trẻ với một đứa con thơ phải trốn chạy vì một một thế lực hùng mạnh đang tìm cách khử trừ, sẽ thấy được sự vất vả hy sinh của Thánh Giuse như thế nào. Nhưng vì muốn bảo vệ Hài Nhi, Thánh Nhân đã bất chấp tất cả. Hình ảnh Đức Mẹ và Hài Nhi ngồi trên lưng lừa, Thánh Giuse đi bộ dắt lừa là hình ảnh đầy tinh thần hy sinh và sự quan tâm của một người gia trưởng đối với vợ con.
Sau một thời gian vất vả sống nơi đất khách quê người, cuộc sống bắt đầu tạm ổn. Bổng dưng, Thiên Thần lại báo mộng cho Giuse đưa Mẹ Con trở về. Thánh Giuse chổi dậy, sẵn sàng đem Hài Nhi và Mẹ Maria về quê quán là Israel (x. Mt 2,21).
Khi trẻ Giêsu lên 12 tuổi, cả gia đình trẩy hội lên đền Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua. Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn trẻ Giêsu ở lại Giêrusalem mà hai ông bà không hay biết. Ông bà cứ tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành, nên sau một ngày đường, mới đi tìm kiếm giữa đám bà con và người quen thuộc. Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giêrusalem mà tìm. Sau ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy con trong Đền Thờ (x. Lc 2,41-46). Trẻ Giêsu lạc mất, Thánh Giuse và Mẹ Maria chia nhau đi tìm, là thể hiện sự quan tâm lo lắng của các Ngài đối với con cái.
Ngày hôm nay có nhiều bậc gia trưởng vẫn để con cái mình đi lạc mất nhưng không đi tìm. Trẻ Giêsu lạc mất trong Đền Thờ, “Đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi”, tức là đang làm việc của Cha Ngài như chính Ngài đã nói: “Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà Cha của con sao?” (Lc 2,49). Còn rất nhiều con em của chúng ta ngày hôm nay không phải lạc mất trong Đền Thờ, mà lạc mất ở quán bar, quán net, khách sạn, bãi biển, những nơi ăn chơi trác táng…Thậm chí chúng đang sống trong gia đình với cha mẹ, nhưng hằng ngày chúng làm gì, bạn bè chúng là ai mà cha mẹ cũng chẳng hay biết.
Sau biến cố tìm lại được trẻ Giêsu trong đền thờ, Phúc Âm không nói gì về mối liên hệ giữa Thánh Giuse và Chúa Giêsu. Nhưng nhờ vào Tin mừng của Thánh Luca, chúng ta đoán được sự quan tâm hướng dẫn của Thánh Giuse đối với Chúa Giêsu như thế nào. Thánh Luca diễn tả: “Con trẻ dần dần đã lớn lên đầy khôn ngoan và ân sủng, đẹp lòng Chúa và được người ta thương mến” (Lc 2,52).
Con trẻ của chúng ta ngày hôm nay cũng cần được lớn lên trong sự khôn ngoan và ân sủng, đẹp lòng Chúa và được mọi người thương mến. Vì vậy, cần sự quan tâm giáo dục của các bậc cha mẹ. Giáo dục về mọi mặt, nhất là về đức tin và nhân bản. Giáo dục phải bắt đầu từ khi con cái còn thơ bé. Người Đức có câu “Đừng nên bứng cây già đem trồng chỗ khác”. Thật phù hợp với quan niệm và cũng là chân lý ngàn đời của người Á Đông chúng ta : “Uốn cây từ lúc còn non, dạy con từ thuở con còn ấu thơ”. Bởi vì, cây non mới dễ uốn, cũng như trẻ thơ mới dễ dạy.
Công đồng Vatican II cho biết tầm quan trọng của việc giáo dục con cái khi nói: “Cùng với lúc lãnh nhận sứ mệnh cộng tác tạo dựng với Thiên Chúa, cha mẹ đương nhiên lãnh nhận trách nhiệm giáo dục con cái, nhất là về phương diện tôn giáo” (x. GS 48). Tại sao vậy ? Vì đứa con mà cha mẹ sinh ra là một nhân vị, có quyền sinh trưởng cả về thể xác lẫn tinh thần xứng đáng với phẩm vị thiêng liêng của con người. Khi cha mẹ đem con đến nhà thờ để được cha xứ rửa tội, là như khai trương máng thông ơn thánh vào tâm hồn trẻ. Con mới bập bẹ tập nói thì dạy cho nó gọi tên cha, tên Chúa, dạy cho chúng biết đọc Kinh Lạy Cha, Kinh Kính Mừng. Dạy cho chúng nhận biết Chúa qua các hình ảnh mặt trời, mặt trăng và muôn vàn tinh tú. Từ đó, theo từng lứa tuổi, cha mẹ phải lo cho con cái lãnh nhận các Bí tích: Giải tội, Thánh Thể, Thêm Sức…Cha mẹ phải cộng tác với cha xứ, với thầy cô giáo lý viên để giúp con cái học giáo lý đầy đủ. Trọng trách của cha mẹ thật lớn lao: Cha mẹ luôn là nhà giáo dục đầu tiên và chính yếu không ai thay thế được. Bỏ bê con cái là trọng tội trước mặt Thiên Chúa. Cha ông ta đã nói:
Nuôi con chẳng dạy chẳng răn,
Thà rằng nuôi lợn mà ăn lấy lòng.
Có nhiều phương pháp để giáo dục con cái, nhưng hai yếu tố chủ đạo là tình thương và gương sáng. Chính cha mẹ có nhiệm vụ tạo cho gia đình một bầu khí thấm nhuần tình yêu thương. Phải bộc lộ được tình mẫu tử và phụ tử với con cái, là mực thức hướng dẫn mỗi bước vào đời của con cái. Khi trẻ chưa đủ lý trí để đón nhận những lời dạy bảo của cha mẹ, thì chúng dùng con tim để đón nhận những ánh mắt và những cử chỉ đầy yêu thương của cha mẹ. Vì thế, lời dạy bảo của cha mẹ luôn phải đầy tình yêu thương và rất cần sự âu yếm và ngọt ngào:
Con ơi, muốn nên thân người,
Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha.
Để con cái nghe lời thì cha mẹ phải làm gương sáng. Gia đình là một môi trường của tình thương, công bằng và công lý vì “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Làm sao con cái vâng lời cha mẹ, khi thấy cha mẹ nói một đàng làm một nẻo: Dạy con cái sống thật thà, nhưng cha mẹ lại gian dối; dạy con cái yêu thương, nhưng cha mẹ lại ghen ghét nhau và căm thù người khác; dạy con cái làm việc bác ái, nhưng cha mẹ lại không bao giờ giúp đỡ ai; dạy con cái thảo hiếu với mình, nhưng cha mẹ lại đối xử tệ với ông bà; dạy con cái xưng tội, rước lễ, nhưng cha mẹ lại bỏ Mùa Phục sinh; dạy con cái đi lễ đi nhà thờ, nhưng cha mẹ lại ngồi xem phim không muốn đến nhà thờ.
Nhìn vào các gia đình hôm nay, chúng ta thấy có nhiều gia trưởng biết chăm lo cho con cái về mọi mặt, nhưng vẫn không thiếu những gia trưởng sống vô trách nhiệm, không quan tâm giáo dục con cái, không làm gương sáng cho con cái. Thậm chí, lời nói và hành động của họ lại làm cớ cho con cái vấp phạm. Vì thế, một số giới trẻ vẫn bị những “Hêrôđê thời đại” như cờ bạc, xì ke, ma tuý, và các trào lưu xấu lùng bắt và giết chết. Vậy, nhân ngày lễ hôm nay, mỗi người chúng ta hãy cầu nguyện cho các gia trưởng luôn biết nhìn lên Thánh Giuse để noi gương bắt chước các nhân đức của Ngài. Đồng thời, xin Thánh Nhân bầu cử để các gia trưởng luôn biết chu toàn bổn phận làm chồng làm cha. Nhờ đó, tất cả gia đình chúng ta luôn được đầm ấm và hạnh phúc. Amen.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Ngày 19.06.2013, Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích công bố một Sắc lệnh đã được Đức hồng y Bộ trưởng Antonius Cañizares Llovera và Đức Tổng giám mục Thư ký Arturus Roche ký vào ngày lễ Thánh Giuse Thợ 01.05.2013. Sắc lệnh quyết định đưa tên Thánh Giuse vào các Kinh nguyện Thánh Thể II, III và IV, sau tên của Đức Trinh Nữ Maria.
Trước đây, tên Thánh Giuse chỉ được đọc trong Kinh nguyện Thánh Thể I (Lễ quy Rôma).
Sắc lệnh viết: “Qua việc làm cha chăm sóc Chúa Giêsu, Thánh Giuse làng Nazareth, khi được đặt lên trông coi gia đình của Chúa, đã hoàn thành nhiệm vụ đã nhận được nhờ ân sủng. Do gắn bó chặt chẽ với các mầu nhiệm khởi đầu trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, Ngài trở nên mẫu gương về lòng khiêm nhường và nhân ái, những điều làm cho đức tin Kitô giáo có được những phẩm giá cao cả; và thể hiện những nhân đức nhân bản và đơn sơ, cần cho con người trở nên môn đệ tốt lành và đích thực của Chúa Kitô. Nhờ các nhân đức đó, Người Công Chính này, sau khi đã hết sức trìu mến chăm sóc Mẹ Thiên Chúa và vui vẻ tận tình dạy dỗ Chúa Giêsu Kitô, đã trở nên người quản lý kho tàng quý giá của Thiên Chúa Cha và qua các thế hệ được Dân Thiên Chúa không ngừng tôn kính như đấng bảo trợ thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô, nghĩa là Hội Thánh” (Lm. Phêrô Lê Tấn Bảo dịch).
Sắc lệnh ghi nhận rằng các tín hữu trong Hội thánh Công giáo luôn tỏ lòng sùng mộ Thánh Giuse và không ngừng tôn kính Ngài là Bạn rất thanh khiết của Mẹ Thiên Chúa và là Đấng bảo trợ trên trời của Giáo hội hoàn vũ. Vì lý do này mà Chân phước Giáo hoàng Gioan XXIII đã truyền đưa thêm tên Thánh Giuse vào Lễ quy Rôma, sau tên của Mẹ Maria (Thánh bộ Lễ nghi, Sắc lệnh Novis hisce temporibus, 13.11.1962).
Sắc lệnh nhắc lại rằng Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI đã nhận được nhiều lời thỉnh cầu đạo đức từ khắp nơi trên thế giới và ngài đã vui lòng chấp thuận, nay lại được Đức giáo hoàng Phanxicô tái xác nhận. Điều này diễn tả sự hiệp thông trọn vẹn với các Thánh, là những người đồng hành với chúng ta trong cuộc lữ hành trần thế và dẫn chúng ta đến với Chúa Kitô để liên kết chúng ta với Người.
Nội dung Sắc lệnh cũng ghi rõ các phần Kinh nguyện Thánh Thể (II, III và IV) bằng tiếng Latinh với tên Thánh Giuse đã được thêm vào, chẳng hạn như trong Kinh nguyện Thánh Thể II: “ut cum beata Dei Genetrice Virgine Maria, beato Ioseph, eius Sponso, beatis Apostolis”. Ngoài ra còn có thêm phần phụ lục cho các ngôn ngữ Anh, Tây Ban Nha, Ý, Bồ Đào Nha, Pháp, Đức và Ba Lan.Đối với các ngôn ngữ khác, bản dịch sẽ do các Hội đồng Giám mục soạn thảo, theo quy định của luật và được Tòa Thánh phê chuẩn thông qua Bộ Phụng tự (trích: “Phải đọc tên Thánh Giuse trong Kinh Nguyện Thánh Thể II, III và IV”, ‘WHĐ 19.06.2013’).
“Maria đã đính hôn với Giuse” (Mt 1,18). Từ ngày đó, Thánh Giuse đã trở nên Bạn Trăm Năm của Đức Trinh Nữ Maria. Vui buồn sướng khổ, gian truân thử thách, Thánh Giuse đều đã trải qua. Ngài chính là mẫu gương cho anh em Gia trưởng trong đời sống gia đình.
Kể từ khi hai bên nội ngoại làm lễ đính hôn cho Giuse và Maria, ai ai cũng vui mừng, chúc phúc cho đôi hôn nhân lý tưởng. Họ thương nhau không vì trai tài gái sắc, mà thương nhau vì cả hai đều nết na đức hạnh, cùng có một đức tin tinh tuyền từ gia đình đạo đức. Giuse là Người Công Chính. Maria là Đấng Đầy Ơn Phúc. Đó là tổ ấm cao sang nhất trong lịch sử nhân loại. Sau ngày làm lễ đính hôn, chỉ chờ lễ cưới.Maria và Giuse vẫn chỉ biết hướng về tương lai, chuẩn bị cho gia đình mới sắp thiết lập.
Thế rồi điều bất ngờ xảy đến với cuộc tình duyên êm đẹp. Thiên Chúa đã can thiệp vào dự án tương lai của Maria và Giuse. Thiên Chúa muốn cả hai thành Đấng Bậc Đồng Trinh để Ngài trao gửi Con Một dấu yêu của mình. Cả hai trở nên cha mẹ của con trẻ Giêsu về pháp lý và Maria ban tặng bản tính nhân loại cho Đấng Cứu Thế.
Thiên Chúa đi từng bước một. Truyền tin cho Đức Maria rồi truyền tin cho Giuse. Giữa hai biến cố trọng đại là cuộc khủng hoảng đối với Giuse.
Thấy Maria có thai, Giuse phải đau khổ lắm. Người hôn thê đạo hạnh mà ngài rất mực yêu thương lại mang thai trước khi về nhà chồng. Bối rối và khó xử nhưng ngài vẫn tiếp tục tin tưởng Maria trong sạch vẹn tuyền. Không một lời phàn nàn, ca thán, trách móc, Giuse không hề hạch sách hay tra hỏi Maria một lời nào, ngài âm thầm ôm lấy nổi đau riêng mình với một quyết định: “Đào vi thượng sách”. Giuse không còn chọn lựa nào khác: “vì là Người Công Chính và không muốn tố giác bà nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1,19). Thế rồi, Thiên Thần đã hiện ra với Giuse trong giấc mộng giải thích cho ngài biết: “Người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20); Thai nhi ấy không chỉ là một con người mà còn là Người Con của Thiên Chúa. Ngài là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, được sinh ra, không phải được tạo thành, vì Ngài đã có từ trước muôn thuở. Ngài là Con của Chúa Cha ở trên trời; đã từ trời xuống thế nhập thể trong lòng trinh nữ Maria, và đã làm Người. Và Người Con sẽ sinh ra ấy được Thánh Giuse đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu Dân của Người khỏi tội. Thiên Thần khuyên Giuse “Chớ sợ rước Maria về nhà mình” (Mt 1,20). Nhận ra Thánh Ý Thiên Chúa “Giuse đã làm như lời Thiên Thần Chúa truyền và ông đã rước bà về” (Mt 1,24).
Thiên Chúa đã đưa Thánh Giuse vào chương trình cứu độ của Ngài. Thánh Giuse đã tích cực góp phần thực hiện chương trình ấy. Ngài được Thiên Chúa chọn, trở thành người cha nuôi của Chúa Giêsu ở trần gian. Vì vai trò làm cha của Chúa Giêsu và làm bạn đời của Mẹ Maria, sống bên cạnh một người nữ trẻ tuổi xinh đẹp là Mẹ Maria, mà theo dự định của Thiên Chúa, sẽ trọn đời đồng trinh, nên các nghệ nhân thường có khuynh hướng hình dung Thánh Giuse như một cụ già. Điều đó không đúng! Thánh Giuse là một thanh niên trẻ trung và đầy sinh lực, có lẽ chỉ lớn hơn Mẹ Maria chừng năm đến bảy tuổi! Nhưng ngài là một người rất nhân đức, được Thiên Chúa chọn để đồng hành với Mẹ Maria đồng trinh trong cuộc đời dâng hiến của Mẹ. Mẹ đã hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, không thuộc về người trần gian (ĐTGM Phaolô Bùi Văn Đọc).
Thánh Giuse còn được sách Tin mừng gọi là “Người Công Chính”. Mà người công chính, theo lời Kinh thánh, là người sống bằng đức tin, hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa như tổ phụ Abraham. Người Công Chính, nói đơn giản, là người tốt, ngay thẳng, trung tín. Là tôi tớ trung thành của Thiên Chúa, luôn thực thi trọn vẹn thánh ý của Thiên Chúa. Là con người luôn biết kính trọng và yêu thương tha nhân.
Thánh Giuse là một con người bình thường như mọi người, được Thiên Chúa giao phó thực hiện “những điều cao trọng” trong cuộc đời thường, như làm “cha nuôi của Chúa Giêsu”, làm “bạn trăm năm của Đức Trinh Nữ Maria”. Ngài đã thực hiện đúng như ý muốn của Thiên Chúa trong mọi biến cố. Thiên Chúa bảo ngài cưới Mẹ Maria, đưa Mẹ về nhà mình, đưa Mẹ Maria sắp sinh nở về nguyên quán Bêlem để khai lý lịch, đưa Mẹ và hài nhi Giêsu chạy trốn sang Aicập, sau đó đưa gia đình về Nazarét vùng Galilê, Thánh Giuse luôn xin vâng theo Ý Chúa.
Thánh Giuse mạnh dạn đối diện với các vấn đề, đương đầu với các khó khăn, mà không bao giờ trách móc Thiên Chúa hay quy tội cho người khác. Ngài là một con người “đầy tinh thần trách nhiệm”, một con người nhiều sáng kiến trong bất cứ công việc gì được trao phó. Trước Thánh Ý Thiên Chúa, Giuse vâng phục và chu toàn. Từ Nazarét qua Bêlem, từ Bêlem đi Aicập, từ Aicập về Israel, Chúa bảo ngài đi là ngài đi, bảo ngài về là ngài về, bảo ngài làm thế nào là ngài làm thế ấy, đúng thời gian, đúng địa điểm mà không thắc mắc, không hoài nghi, không cự nự.Tất cả mọi lần Giuse đều thưa như Đức Maria “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần truyền”(Lc1,38).
Để luôn hướng về Ý Chúa, Thánh Giuse đã âm thầm đi sâu vào đời sống nội tâm. Trong nội tâm thinh lặng, ngài lắng nghe Chúa. Ngài hiểu tiếng gọi đó là một tình thương đặc biệt. Ngài trả lời như một giao ước, một gắn bó tín trung bền vững. Chúa gọi và chỉ dẫn ở từng chặng đường, ngài nghe và vâng theo. Cho dù gặp khó khăn trắc trở, ngài luôn vững tin ở Đấng đã gọi mình. Vì thế, nơi Thánh Giuse, con đường sống đạo là con đường tin cậy khiêm cung và tuyệt đối vào Thiên Chúa. Tin với tâm hồn thờ phượng, tạ ơn, với lòng phó thác và nguyện cầu tha thiết.
Ngày nay, Thánh Giuse vẫn đồng hành với chúng ta và che chở chúng ta, như đã đồng hành và che chở Mẹ Maria và Chúa Giêsu. Với kinh nghiệm của mình, ngài xứng đáng là thầy dạy đời sống nội tâm cho mỗi người chúng ta: dạy cho ta biết Chúa Giêsu, gần gũi với Chúa, chia sẻ cuộc đời của Chúa. Ngài giúp ta ý thức mình là người nhà của Chúa, là thành viên của Giáo hội, Gia đình của Thiên Chúa tại trần gian.
Anh em Gia trưởng thân mến,
Thánh Giuse – Bạn Trăm Năm Đức Trinh Nữ là gương sáng khiết tịnh cho anh em. Không cần chờ tới tuổi già mới sống đời thanh tịnh. Sự thanh khiết của đôi bạn Giuse và Maria là do tình yêu. Sức mạnh và sự vui tươi của tuổi trẻ không là ngăn trở cho một tình yêu cao thượng. Khi cưới Mẹ Maria về, Thánh Giuse có một “trái tim trẻ trung” trong một thân xác trẻ trung. Khi được thiên thần báo mộng cho biết mầu nhiệm “Đức Maria là Mẹ Chúa Trời”, người đã sẵn sàng đón nhận Mẹ Maria, đồng hành với Mẹ, chăm sóc Mẹ, mà vẫn tôn trọng sự trinh nguyên của Mẹ. Mẹ Maria trở thành một niềm vui, một hồng ân cho Thánh Giuse.
Anh em là người cha người chồng trong gia đình. Anh em đừng bao giờ coi mình là ông chủ đầy quyền lực trong gia đình, muốn làm gì thì làm. Anh em phải biết tuân theo ý Chúa, phải bình tĩnh, biết quảng đại, hy sinh trong mọi khó khăn của gia đình theo gương Thánh Giuse.
Đứng trước những bối rối, đối diện với nghịch cảnh, gặp những thử thách, Thánh Giuse luôn chia sẻ nỗi lòng với Đức Mẹ, ngài trăn trở những âu lo của Đức Mẹ, ngài chỉ muốn tìm giải pháp ưu việt cho nhất cho gia đình. Anh em gia trưởng cần có lòng tôn kính Thánh Giuse, thường xuyên xin ngài cố vấn cho các hoàn cảnh khó xử của mình. Ngài đã kinh qua tất cả nên ngài hiểu rõ hơn ai hết những nổi niềm của người Gia trưởng. Thánh Cả như một địa chỉ cần thiết, thân quen, anh em cần lui tới chuyện trò với ngài.
Hôn nhân là tổ ấm. Gia đình là chiếc nôi. Con cái đón nhận đời sống thể chất và tinh thần. Mỗi đứa con đều mang hình ảnh Thiên Chúa. Giáo dục để chúng lớn lên trong ơn gọi làm người, ơn gọi làm con Thiên Chúa. Nhiệm vụ giáo dục con cái thật thiêng liêng và cao cả. Thiên Chúa trao cho các Gia trưởng.
Thánh Giuse làm cha. Con của ngài vừa là con người vừa là Con Thiên Chúa – Đấng Cứu Độ. Con cái của anh em được làm con Thiên Chúa. Cho nên nhiệm vụ nuôi nấng dưỡng dục con cái là sứ vụ cao cả và là hồng ân quý giá Thiên Chúa ban cho anh em. Anh em cần phải biết yêu thương và tôn trọng con cái mình. Hãy trở nên gương mẫu đạo đức thánh thiện cho con cái. Hãy tránh mọi thứ gương mù gương xấu. Từ lời nói đến thái độ sống xấu sẽ là đại họa cho con cái. Tuổi thơ các em đơn sơ như tờ giấy trắng, mỗi lời nói, mỗi cử chỉ của cha mẹ đều ghi đậm nét trên tờ giấy trắng tâm hồn và in dấu suốt cuộc đời các em. Bởi đó, trách nhiệm của người Gia trưởng đối với các em vô cùng quan trọng. Các em là thánh hay là quỷ tùy vào sự giáo dục và cách ăn nết ở của cha mẹ. Con cái là hoa trái của tình yêu và là niềm hy vọng của cha mẹ. Nguyện xin Thánh Giuse phù trợ cho anh em được trở nên những Gia trưởng thánh thiện, gương mẫu để đem hạnh phúc đến cho gia đình và cho cả xã hội tương lai.
Thánh Giuse mãi mãi là tấm gương cho anh em Gia trưởng soi. Tấm gương của một con người luôn thao thức lắng nghe tiếng Chúa và khi đã nghe thì mau mắn đáp lại không thắc mắc cho dù phải trả giá.Tấm gương của một con người luôn hướng tâm hồn về Chúa, xin vâng trước Thiên Ý, luôn phó thác để Chúa thực hiện chương trình cứu rỗi của Người.Tấm gương về người quản gia trung tín chăm sóc hai kho tàng quý giá nhất trần gian là Hài Nhi Giêsu và Mẹ Maria.
Thánh Giuse là con người thầm lặng, ít nói, khiêm tốn. Gioan Tẩy Giả chân thành “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ bé lại”. Giuse đã sống điều đó mà không nói một lời. Chính cuộc sống ấy đã biến Thánh nhân thành một vị Đại Thánh. Thánh Cả đã đem cuộc đời mình biến thành một Lời Chúa sống động, ngài xứng đáng là Bạn Trăm Năm Đức Trinh Nữ.
Trần Đình Phan Tiến
Thưa quý vị, trong kế hoạch cứu độ loài người, Thiên Chúa đã sắp đặt những con người để cộng tác vào chương trình cứu độ nhiệm mầu bởi Thiên Chúa. Cơ bản là phát xuất từ Lòng Xót Thương của Thiên Chúa. Vâng, vì vậy, các Đấng được cộng tác vào công trình của “Lòng Thương Xót” ấy trước tiên chính là Đức Trinh Nữ Maria và Thánh Cả Giuse, một vị thánh đầy quyền thế, nhưng khiêm nhu.
Thánh Kinh không ghi lại nhiều về thánh Cả Giuse, bởi vì thánh Cả Giuse chỉ đảm nhận một trọng trách thầm lặng, một sứ mạng lớn lao, nhưng hoàn toàn thinh lặng. Sự thinh lặng nơi thánh Cả Giuse là một sứ mạng gìn giữ Hội Thánh tương lai, khi ngài được cộng tác vào sứ mạng cứu thế của Chúa Giêsu. Chúng ta thấy, tuy Tin Mừng nói rất ít về ngài, nhưng đức hiền lành và khiêm nhu nơi ngài quả thật rất lớn. Người ta quen gọi thánh Giuse là người Công Chính, bởi vì sự tốt lành, gương mẫu về mọi nhân đức, ngài chắc chắn trổi vượt. Sự công chính nơi thánh Giuse không còn khó hiểu, hoặc nghi ngờ gì nữa, bởi vì giữa Đức Trinh Nữ Maria và thánh Giuse đã có đính ước, tức khế ước hôn nhân, nhưng chưa trở nên vợ chồng chính thức, thì Thiên Chúa chọn Đức Maria để cộng tác vào công trình cứu độ loài người. Rồi sự mầu nhiệm truyền Tin bắt đầu, như vậy, thánh Giuse thật bối rối, nhưng không bực tức, nổi giận lôi đình, hiểu ngay ra thánh Ý nhiệm mầu, ngài rất mực khiêm nhu, có ý định rút lui. Đúng ra , về lý, ngài có thể “tố giác” Đức Maria với công luận. Nhưng, ngài rất mực hiền lành và ý Chúa soi sáng vì đây là một mầu nhiệm. Vâng, thánh Giuse đính tâm lìa bỏ Đức maria cách kín đáo, nhưng , đang định tâm như vậy, thì sứ thần Chúa hiện ra trong giấc mộng và bảo : “ Nầy ông Giuse, con cháu Đavit, đừng ngại đón nhận bà Maria vợ ông về, vì Người Con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần…” (Mt 1,20).
Vâng, như vậy, khi tỉnh giấc thánh Giuse thực hiện ngay điều ấy, đây có thể nói là :” lần truyền tin thứ hai”, như vậy, thánh Giuse cũng được truyền tin như Đức Maria. Rõ ràng, sự vâng của thánh Giuse cũng không kém gì Đức Trinh Nữ Maria, ngài cũng vâng phục Thánh Ý Thiên Chúa như Đức Mẹ vậy. Rồi thì, Ngài âm thầm vâng phục và thực thi một cách tuyệt vời sứ mạng cao cả là làm “Dưỡng Phụ” Chúa Giêsu. Tay bào, tay cưa, tay đục đẽo, thánh Giuse lao động một cách chân thật và chu toàn bộ phận cách khiêm nhu, âm thầm trong đức tin. Tin đây là mầu nhiệm, tin đây là quyền năng tối cao, tin vững vàng một công trình cao cả, tin vào tình thương của Thiên Chúa đối với công cuộc cứu độ nhân loại. Vâng, thánh Giuse chỉ khác với Đức Mẹ là ngài không chứng kiến cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, có lẽ ngài qua đời trước khi Chúa Giêsu sống đời rao giảng, vì ngài lớn tuổi và Thiên Chúa không trao cho ngài sứ vụ đau khổ( Đồng Công khổ nạn ).
Vâng, kính thưa quý vị, nói về thánh Giuse không dựa vào Thánh Kinh nhiều lắm, nhưng suy niệm từ những biến cố đầu tiên, mầu nhiệm Truyền Tin, mầu nhiệm Giáng Sinh, mầu nhiệm lao động của cuộc đời Chúa Cứu Thế, chúng ta thấy thánh Giuse quả là người công chính. Có nghĩa là người biết dựa vào công bằng chính trực, trong suốt cuộc đời của thánh Giuse, ngài chu toàn moị sự cách chính trực theo lẽ công bằng. Không lấn lướt , không tranh giành, chấp nhận mầu nhiệm cách tron vẹn và âm thầm, mềm mỏng, kín đáo. Công minh chính trực có nghĩa là điều “đúng” ai cũng phải thừa nhận.
Noi gương thánh Giuse là noi gương khiêm nhường, vì khiêm nhường là ánh sáng soi đường chân lý cho chúng ta, ánh sáng chân thật là Thiên Chúa. Thánh Giuse là Đấng Bảo Trợ Con Đức Chúa Trời, và Mẹ Thiên Chúa , thì ngài cũng luôn bảo Trợi Giáo Hội là Hiền Thê của Đức Kitô, và mặc nhiên , ngài cũng bảo trợ những ai chạy đến với ngài, đó là điều chắc chắn, vì theo lời thánh Teresa Avila thì: ” Dường như Thiên Chúa ban ơn cho các thánh giúp chúng ta việc nầy, việc nọ. Nhưng , thánh Giuse giúp chúng ta trong mọi trường hợp, những ai không tin lời tôi cứ thử mà xem!”. Trong mọi nhà thờ Công giáo khắp nơi trên thế giới, không thiếu ảnh tương thánh Giuse bồng bế Hài Nhi Giêsu. Vậy, chúng ta hãy chạy đến cùng ngài. Ở Canada có một đền thánh Giuse rất lớn, chứng tỏ, dân Nước Canada và giáo hội Canada rất yêu mến thánh Giuse. Trên hết, Giáo Hội đã nhận thánh Cả Giuse làm bổn mạng để đưa con thuyền hội thánh Chúa Kitô tại trần thế, hầu làm vinh danh Thiên Chúa. Đồng thời, giáo hội Việt Nam cũng nhận thánh cả Giuse làm bổn mạng để xin sự bảo trợ của ngài trước tòa Thiên Chúa.
Lạy thánh Cả Giuse là Đấng dưỡng nuôi Con Thiên Chúa, ngài đã bảo trợ Chúa Giêsu suốt cuộc đời sống ẩn dật trước khi rao giảng Tin Mừng, xin thương đoàn con cái dưới thế trong con thuyền Hội Thánh trần gian được vững vàng chèo chống đến bến Nước Trời bình an./. Amen.
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn