Thứ Ba tuần 2 Mùa Chay.
“Họ nói mà không làm”.
Lời Chúa: Mt 23, 1-12
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng và các môn đệ rằng: “Các Luật sĩ và các người biệt phái ngồi trên toà Môsê: vậy những gì họ nói với các ngươi, hãy làm và tuân giữ, nhưng đừng noi theo hành vi của họ, vì họ nói mà không làm. Họ buộc những bó nặng và chất lên vai người ta, còn chính họ lại không muốn giơ ngón tay lay thử. Mọi công việc họ làm đều có ý cho người ta thấy, vì thế họ nới rộng thẻ Kinh, may dài tua áo. Họ muốn được chỗ nhất trong đám tiệc và ghế đầu trong hội đường, ưa được bái chào nơi đường phố và được người ta xưng hô là “thầy”. Phần các ngươi, các ngươi đừng muốn được người ta gọi là thầy, vì các ngươi chỉ có một Thầy, còn tất cả các ngươi đều là anh em với nhau.
Và các ngươi cũng đừng gọi ai dưới đất là cha, vì các ngươi chỉ có một Cha, Người ngự trên trời. Các ngươi cũng đừng bắt người ta gọi là người chỉ đạo, vì các ngươi có một người chỉ đạo, đó là Ðức Kitô.
Trong các ngươi ai quyền thế hơn sẽ là người phục vụ các ngươi. Hễ ai tự nhắc mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai tự hạ mình xuống, sẽ được nâng lên”.
SUY NIỆM 1: Nói mà không làm
Bài Tin Mừng hôm nay được đọc trong Mùa Chay
không phải để chúng ta nghiền ngẫm thói hư của một số người Pharisêu,
nhưng để chúng ta soi gương họ mà nhận ra mình.
Chẳng có thói đạo đức giả nào của họ mà ta được miễn nhiễm.
Đạo đức giả đơn giản là một sự mâu thuẫn, thiếu thống nhất nơi lòng người.
Nói rất hay, giảng rất đúng, nhưng lại chẳng sống điều mình nói hay giảng.
Có một khoảng cách thật xa giữa ngôn và hành.
Chất trên vai người khác gánh nặng của luật lệ với những đòi hỏi chi li,
nhưng chính mình lại không muốn chia sẻ chút nào gánh nặng đó.
Vẫn là khoảng cách giữa nói và làm, giữa mình với người khác.
Đeo trên trán hay cánh tay những hộp kinh thật to, đính những tua áo thật dài:
các cử chỉ này lẽ ra để bày tỏ tình yêu đối với Lời Chúa, qui hướng về Chúa,
thì lại trở nên những cử chỉ qui về mình,
nhằm làm cho người ta thấy mình, thấy sự đạo hạnh của mình, để tìm tiếng khen.
Người đạo đức giả không thực sự tìm Chúa.
Chúa chỉ là phương tiện để họ tự đánh bóng mình trước mặt người đời.
Háo danh là điều họ khó dứt bỏ trong cuộc sống:
ưa ngồi chỗ nhất, ưa chiếm ghế đầu, thích được chào là rabbi…
Cộng đoàn Kitô hữu của Matthêu là một cộng đoàn huynh đệ.
Trong cộng đoàn ấy hẳn có những vị thầy dạy.
Có những bậc thầy cao niên được gọi một cách trân trọng là rabbi.
Có những đấng sáng lập cộng đoàn được gọi một cách kính cẩn là cha.
Nhưng bất chấp điều đó, Đức Giêsu khẳng định:
“Tất cả anh em đều là anh em với nhau” (c.8).
Mọi thành viên trong cộng đoàn đều lệ thuộc như nhau
vào một vị Thầy duy nhất là Đức Giêsu Kitô,
vào một người Cha duy nhất là Cha trên trời.
Các Kitô hữu gọi nhau là anh, là chị, là em,
và đối xử với nhau như anh chị em, con một Cha, học trò một Thầy.
”Đừng để ai gọi mình là thầy, đừng gọi ai là cha…”
Lời của Đức Giêsu vẫn là một lời cảnh giác cho Giáo hội mọi thời.
Càng lớn mạnh theo thời gian, Giáo hội càng cần một cơ cấu tổ chức,
bao gồm nhiều chức vụ lãnh đạo có uy quyền.
Làm sao để tinh thần phục vụ khiêm hạ của Đức Kitô thấm vào mọi cơ cấu?
Làm sao để mọi vị thầy của Giáo hội không che khuất Đấng là vị Thầy duy nhất?
Làm sao để các người cha thiêng liêng múc được tình phụ tử dịu hiền
từ Người Cha duy nhất là chính Thiên Chúa?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
khi đến với nhau,
chúng con thường mang những mặt nạ.
Chúng con sợ người khác thấy sự thật về mình.
Chúng con cố giữ uy tín cho bộ mặt
dù đó chỉ là chiếc mặt nạ giả dối.
Khi đến với Chúa,
chúng con cũng thường mang mặt nạ.
Có những hành vi đạo đức bên ngoài
để che giấu cái trống rỗng bên trong.
Có những lời kinh đọc trên môi,
nhưng không có chỗ trong tâm hồn,
và ngược hẳn với cuộc sống thực tế.
Lạy Chúa Giêsu,
chúng con cũng thường ngắm mình trong gương,
tự ru ngủ và đánh lừa mình,
mãn nguyện với cái mặt nạ vừa vặn.
Xin giúp chúng con cởi bỏ mọi thứ mặt nạ,
đã ăn sâu vào da thịt chúng con,
để chúng con thôi đánh lừa nhau,
đánh lừa Chúa và chính mình.
Ước gì chúng con xây dựng bầu khí chân thành,
để chúng con được lớn lên trong bình an. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: CHA – THẦY- LÃNH ĐẠO
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Mùa Chay không phải là lý thuyết. Sống mùa Chay phải thực hành. Như dân thành Sô-đô-ma và Gô-mô-ra. Nếu thực hành Lời Chúa dạy thì tội “dù có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều, cũng hóa trắng như bông”.
Nhưng ta thường nói mà không làm. Hoặc chỉ dạy người khác mà bản thân không thực hành. Trước hết vì nói dễ làm khó. Đặc biệt những người có trách nhiệm đứng đầu, có bổn phận dạy dỗ. Ta dễ méo mó công việc khi dạy lý thuyết cho người khác còn chính bản thân không thực hành. Và tệ hơn nữa khi ta tự coi mình là cha, là thầy, là người lãnh đạo. Hôm nay Chúa Giê-su dạy ta biết chỉ có Chúa mới là cha, là thầy, và là người lãnh đạo.
Cha là người ban sự sống. Ta chẳng thể ban sự sống. Chỉ Thiên Chúa mới ban sự sống. Chỉ Thiên Chúa là Cha của chúng ta. Khôn ngoan là phải biết khiêm nhường tìm đến Thiên Chúa là đấng ban sự sống.
Thầy là người nắm giữ chân lý. Ta chẳng có chân lý. Chỉ Thiên Chúa mới có sự thật. Chúa Giê-su mới là Thầy duy nhất. Vì thế khôn ngoan là khiêm tốn lắng nghe Lời Chúa.
Lãnh đạo là người dẫn đường. Ta không biết đường. Hằng ngày phải dọ dẫm tìm đường đi. Chỉ Thiên Chúa biết đường dẫn đến Người. Chúa Giê-su là người lãnh đạo duy nhất. Ta phải ngoan ngoãn tuân theo hướng dẫn của Người.
Mùa Chay ta hãy đi theo Chúa Giêsu. Người chính là “Con Đường, Sự Thật và Sự Sống”. Đi theo Người là đi trên đường khổ nạn. Nhưng đi theo Người ta chắc chắn đi trên Con Đường thẳng tắp dẫn đến Sự Thật, đạt đến Sự Sống muôn đời. Đi theo Người trên con đường hiếu thảo. Luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha. Luôn tìm thi hành thánh ý Chúa Cha. Đó chính là tin nhận Thiên Chúa là Cha, là Thầy, là Người Hướng Đạo.
Lạy Cha, xin cho con sống hiếu thảo với Cha, để được là người con, nhận được Sự Sống từ Cha. Xin cho con biết lắng nghe Lời Cha, để được biết Sự Thật. Xin cho con hằng chăm chú học hỏi với Lời Chúa để con đạt tới Sự Thật. Xin cho con biết luôn đi theo con đường của Con Cha, để con đạt tới chính Cha là hạnh phúc muôn đời cho con.
SUY NIỆM 3: Biệt Phái giả hình
Có người kể câu chuyện khôi hài như sau:
Một luật sư mới ra trường thuê một căn nhà sang trọng để làm văn phòng. Nhằm gây ấn tượng nơi các thân chủ tương lai, ông cho gắn một ống điện thoại loại đắt tiền trên bàn làm việc. Ngày khai trương, ông ăn mặc chải chuốt và ngồi chờ đợi trong một tư thế rất tự tin. Có tiếng chuông reo, ông ra mời thân chủ đầu tiên vào văn phòng và để người đó chờ hơn một khắc đồng hồ, trong khi đó ông làm như đang nghe điện thoại. Người thân chủ cười thầm khi nghe cuộc nói chuyện tưởng tượng của ông với một Giám đốc của một cơ quan rất quan trọng trong thành phố. Chấm dứt cuộc nói chuyện tưởng tượng, ông luật sư quay sang hỏi thân chủ: “Thưa ông, tôi có thể làm gì để giúp ông?”. Người thân chủ đầu tiên trả lời: “Thưa ông, tôi là nhân viên của sở viễn thông thành phố, tôi được gửi đến để nối đường dây điện thoại cho ông”.
Những giao tế xã hội dễ khiến cho con người đeo mặt nạ hay đánh bóng khuôn mặt mình bằng những nét giả tạo. Ngay cả trong đời sống tôn giáo, con người cũng dễ bị cám dỗ tô vẽ và đánh bóng gương mặt mình thêm đạo đức. Đó là một trong những thái độ mà Chúa Giêsu đã đả phá một cách gay gắt.
Mùa Chay, người Kitô hữu được mời gọi gia tăng các việc đạo đức: ăn chay, cầu nguyện, hãm mình, bố thí. Ý nghĩa của sám hối dễ bị biến mất khi các việc làm đó biến thành một thứ thi đua, phô trương. Chính vì muốn các tín hữu đề cao cảnh giác trước thái độ phô trương giả hình ấy mà Giáo hội cho chúng ta lắng nghe lời kêu gọi của Chúa Giêsu trong Tin mừng hôm nay. Qua thái độ phô trương công đức của các Biệt phái và luật sĩ, Chúa Giêsu nêu bật dung mạo của kẻ giả hình. Kẻ giả hình là người muốn đánh lừa người khác bằng các hành vi đạo đức. Họ tìm kiếm vinh dự mà lẽ ra chỉ thuộc về Thiên Chúa. Họ làm những động tác thờ phượng Thiên Chúa, nhưng thật ra chỉ tìm danh vọng và tư lợi. Tựu trung, giả hình là một hình thức tiếm vị Thiên Chúa. Dưới nhiều hình thức khác nhau, giả hình là một nọc độc dễ len lỏi vào tâm hồn người Kitô hữu. Khi con người thực thi những việc đạo đức cốt chỉ để tìm mình, thì lúc đó con người đang rơi vào thái độ giả hình.
Mùa Chay là mùa của hoán cải, là mùa của trở về. Trở về đối với người Kitô hữu chính là trở về với chân lý về con người. Con người đã được tạo dựng để sống cho Thiên Chúa. Chỉ khi nào con người sống trọn cho Thiên Chúa, con người thực sự tìm được chính mình. Chỉ khi nào con người bị tiêu hao vì Thiên Chúa, con người mới đạt được tầm vóc viên mãn của mình. Đó là định luật Chúa Giêsu đã đề ra cho các môn đệ Ngài khi nói: “Ai mất sự sống mình thì sẽ tìm lại được”.
Tìm kiếm và yêu mến chỉ một mình Thiên Chúa, đó là định hướng cơ bản của người Kitô hữu mà chúng ta được mời gọi để đeo đuổi và thực thi trong mùa chay này.
SUY NIỆM 4: Phục vụ đến cùng
Dạy người khác luôn tuân giữ điều này, thực hiện điều kia, lúc nào cũng dễ hơn chính mình tuân hành chúng. Người Việt chúng ta thường nói: “Chỉ tay năm ngón” để nói về những người chỉ biết ra lệnh cho kẻ khác, còn mình thì chẳng hề mó tay vào việc. Vào thời Chúa Giêsu, các kinh sư và những người Pharisiêu giả hình cũng sống theo cung cách này. Họ dạy người ta làm đủ điều, còn họ thì chẳng hề làm điều gì như lời họ dạy.
Ðoạn Tin Mừng trên đây gồm hai phần: phần đầu ghi lại những lời Chúa Giêsu nhận xét về các kinh sư và những người Pharisiêu; phần sau ghi lại những lời Chúa Giêsu dạy dỗ đám đông và các môn đệ.
Ở phần đầu, Chúa Giêsu chỉ trích thái độ nói một đàng làm một nẻo của các kinh sư và những người Pharisiêu. Họ là những người có vai vế trong đạo. Họ nghiên cứu lề luật, giảng dạy lề luật, bảo vệ lề luật. Nhìn từ bên ngoài thì họ là những nhân vật đáng kính, học cao, biết nhiều, dáng vẻ nghiêm trang, đạo mạo, y phục chỉnh tề, đi đâu họ cũng ngồi chỗ quan trọng, đến đâu họ cũng chiếm vị trí ưu tiên. Ấy thế mà buồn thay, họ chỉ được cái vỏ xanh tốt bên ngoài, còn bên trong thì lại cằn cỗi khô héo. Chúa Giêsu không phủ nhận vai vế của các kinh sư và những người Pharisiêu trong dân. Chúa khuyên dân chúng hãy tuân giữ những gì họ giảng dạy. Nhưng bởi họ dạy mà không làm những gì mình dạy nên Chúa Giêsu cảnh giác dân chúng đừng làm theo những gì họ làm.
Sau khi nêu rõ những thói tật của các kinh sư và những người Pharisiêu, Chúa Giêsu chuyển sang phần giáo huấn cụ thể cho dân chúng và các môn đệ. Ở phần này khi nói: “Các con đừng gọi ai là cha, cũng đừng để ai gọi mình là thầy hay là nhà lãnh đạo”, Chúa Giêsu đã dùng lối nói cường điệu để nhấn mạnh vai trò tuyệt đốì của Cha và của chính Ngài. Khi giảng dạy như thế, Ngài không có ý phủ nhận vai trò của cha mẹ hay của thầy dạy hoặc của người lãnh đạo trên trần gian, mà Ngài chỉ muốn người ta đừng tuyệt đối hóa những vai trò đó, đến độ đặt ngang hàng hoặc cao hơn Thiên Chúa. Chỉ có Chúa Cha mới là Ðấng sinh thành tối cao và chỉ có Chúa Kitô mới là Ðấng giáo hóa tối thượng, còn tất cả mọi người đều là anh chị em bình đẳng với nhau. Ở đây, chúng ta gặp được một quan niệm rất quen thuộc của tư tưởng Á đông: tứ hải giai huynh đệ, người trong bốn bể đều là anh em, mà đã là anh em thì không còn lên mặt lên mày, không còn tranh chấp ghế cao ghế thấp làm gì nữa. Ðã là anh em thì yêu thương phục vụ là chuyện đương nhiên phải làm: “Trong các con, ai là người làm lớn hơn cả phải là người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống thì sẽ được tôn lên.”
Thời các kinh sư và những người Pharisiêu đã qua từ lâu, nhưng não trạng ăn trên ngồi trước, chỉ tay năm ngón vẫn luôn tồn tại trong bản tính đã bị hư hoại của con người. Xét mình cho kỹ, chúng ta thấy đã không thiếu những lần chúng ta đối xử với những người khác theo cách thế đáng buồn trên đây. Nếu Chúa Giêsu xuất hiện, chắc hẳn Ngài cũng nặng lời quở trách chúng ta như Ngài đã từng quở trách các kinh sư và những người Pharisiêu ngày xưa.
Lạy Chúa Giêsu, con vốn thích nói hơn thích làm, thích ra lệnh hơn là tuân lệnh, thích sai khiến hơn là vâng phục, thích vênh vang hơn là khiêm hạ. Con thật chẳng khác gì các kinh sư và những người Pharisiêu trong bài Tin Mừng hôm nay. Xin Chúa giúp con thay đổi cách nhìn, cách nghĩ, cách làm để con trở nên anh chị em đích thực của mọi người.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 5: Biệt phái và chúng ta.
Vậy những gì họ nói thì anh em hãy làm, hãy giữ; nhưng đừng theo hành động của họ mà làm, vì họ nói mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào. Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi chỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là: “Ráp-bi”
Phần anh em thì đừng để cho ai gọi mình là “Ráp-bi”, vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau. Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời. Anh em cũng đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo, vì anh em chỉ có một người lãnh đạo là Đức Ki-tô. Trong anh em người lớn hơn cả, phải là người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống; sẽ được tôn lên.(Mt. 23, 3-11)
1) Đức Giê-su cảnh giác các môn đệ và đánh động dân chúng hãy coi chừng những biệt phái và luật sĩ: “Họ ngồi trên tòa Môi-sê mà giảng dạy, vậy, những gì họ nói thì anh em hãy làm, hãy giữ. Nhưng đừng làm theo những hành động của họ, vì họ nói mà không làm”. Họ sống nghịch với giáo lý họ dạy. Họ không làm những điều mà họ buộc người ta làm. Những việc họ làm đều để khoe khoang và tìm danh vọng, nên vô ích trước mặt Thiên Chúa. Đức Giê-su đã vạch rõ cái thói phù phiếm giả hình công chính mà họ lợi dụng quyền thế để trình diễn những cái sai lầm, vô ích, dối trá, giả dạng trang trọng của họ. Chúng ngược lại với điều công chính chân thật mà Đức Giê-su rao giảng cho các môn đệ và cho tất cả các Ki-tô hữu. Người nhắc nhở chúng ta hãy kiểm điểm đời sống mình, hãy đề cao cảnh giác đừng đi theo vết chân của biệt phái. Đó là phương thế lành mạnh.
2) Mỗi tín hữu phải được Đức Giê-su dạy dỗ. Tất cả những ai lãnh trách nhiệm dìu dắt người khác, trước hết phải được Đức Giê-su dẫn dắt. Đoạn Tin mừng này của Chúa luôn luôn là lời mời gọi và là một lệnh truyền đối với Giáo hội. Thời nay người ta có thể tự hỏi: Lời cảnh giác của Chúa còn trong lương tri của chúng ta không? Bản văn này còn đánh động chúng ta không? lời kêu gọi khẩn thiết này có giúp chúng ta ăn năn trở về với đường công chính của Chúa không? Điều cốt yếu ở đây không phải chỉ dẹp bỏ những danh hiệu danh vọng, mà phải nhắm đào sâu lương tri nội tâm của môn đệ Đức Ki-tô, họ không được có một yêu sách nào cả. Không được tìm danh vọng nào cả, dù trong ý nghĩ.
3) Thà rằng tự dẹp bỏ gánh nặng của mình đi, còn hơn là nhận lấy với ước muốn được vinh dự, được xuất hiện vẻ vang, được chức nọ tước kia. Đức Giê-su thật tự do thoát khỏi những ham muốn con nít đó. Không màng chi tước vị nào cả. Người đã trở nên tôi tớ mọi người, giúp đỡ hầu hạ tất cả. Thật là Người cao cả.
Lạy Chúa, xin giải thoát con khỏi mọi vẻ quan trọng và sang trọng đó.
SUY NIỆM 6: NGÔN HÀNH THỐNG NHẤT (Mt 23,1-12)
Nói đến việc giữ chay, có lẽ bên Công Giáo giữ chay tương đối ít! Các tôn giáo khác họ giữ chay nhiều khi cả tháng, hay có người giữ chay cả cuộc đời!
Luật của chúng ta chỉ buộc giữ chay có hai ngày: Thứ Tư Lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh. Nhưng biết bao người đã so đo, tính toán thiệt hơn, coi việc giữ chay là chuyện nặng nề, mệt nhọc... Sống đạo như vậy là hình thức, là cái vỏ, còn trong thực tế không có gì cả! Chúng ta trung thành từng chi tiết nhỏ của luật, nhưng không hề có chút tâm tình hay có hồn trong đó!
Vì thế, nhiều người tham gia rất nhiều đoàn thể, lễ hội, nhưng điều quan trọng là sống bác ái, yêu thương, nhân hậu và công bằng thì họ lại không hề mảy may quan tâm!
Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu vạch mặt chỉ tên những người Pharisêu giả hình. Họ thuộc hạng phô trương, hình thức, khoe mẽ. Họ giữ luật từng chi tiết, nhưng đời sống của họ thì không hề có chút tình thương nào cả! Ngài nói: “Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào; họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là "ráp-bi". Và Đức Giêsu cảnh báo: “Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên”.
Chúng ta đang sống trong những tuần đầu của Mùa Chay, mỗi người Kitô hữu được mời gọi hãy hoán cải để nhận ra sự kiêu ngạo, khoe khoang, hình thức bấy lâu nay. Từ đó, hãy lo sám hối và xin ơn tha thứ của Thiên Chúa. Đồng thời biết khiêm tốn để Lời Chúa được thấm nhập vào trong tâm hồn của mình, ngõ hầu chúng ta sẽ trở thành người có Chúa và loan truyền Chúa cho anh chị em mình bằng chính đời sống khiêm tốn, phục vụ.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con được ơn khiêm tốn trong việc sống đạo, nhất là trong các mối tương quan với mọi người. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Tất cả đều là anh em với nhau, là con một Cha
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Aristogiton lúc thanh bình, là một nhà ái quốc thượng thặng. Thở ra lửa trận, nói ra sấm sét. Chàng lợi dụng mọi hoàn cảnh để cổ vũ những đức tính anh hùng của người chiến sĩ yêu nước. Nghe chàng nói, thính giả có ấn tượng như chàng đang tuyên chiến với các cường quốc trên thế giới.
Nhưng đến khi phải thi hành lệnh quân dịch, người ta thấy chàng đột nhiên bước đi khập khiễng, tay chống gậy, chân thì băng bó, trông thảm não vô cùng. Biết rõ những bí ẩn của chàng, Photion trợn mắt nói: “Aristogiton đã làm một người què lại còn hèn nhát”.
Suy niệm
Các tiến sĩ luật, các biệt phái thời Chúa Giêsu là các ban lãnh đạo dân. Tiến sĩ luật có nhiệm vụ chú giải Luật Môisê để áp dụng vào đời sống hàng ngày. Người pharisiêu (biệt phái) là một tầng lớp tri thức đạo đức bao gồm những người chủ trương sống đạo nhặt nhiệm, nhất là trong việc thi hành luật đạo. Là những vị vọng có trách nhiệm hướng dẫn đời sống đạo đức, thế nhưng họ chỉ chú trọng đến hư danh, đến chiếc ghế danh dự trong cộng đoàn. Ðức Giêsu chỉ trích và vạch trần cách họ dạy đạo và sống đạo hình thức, chỉ mong hư danh của người biệt phái và kinh sư. Đối chiếu với sự hám danh dự nơi các người trách nhiệm Do Thái, Ngài dạy các môn đệ tinh thần phục vụ yêu thương: “Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em”. Theo giáo huấn của Thầy, người làm lớn được ngồi trên ghế danh dự quyền bính nhưng không vì hư danh mà vì chính tinh thần phục vụ.
Chúng ta cảm thấy “sốc” khi nghe Chúa Giêsu xưng hô “Cha” chỉ dành cho Thiên Chúa và danh “Thầy” nên chỉ được dành cho Đức Kitô. Theo Giáo lý Công giáo: “Thiên Chúa với danh hiệu Cha, ngôn từ đức tin chính yếu đề cập đến hai khía cạnh: Thiên Chúa là nguồn gốc đệ nhất của muôn vật và quyền bính siêu việt. Ðồng thời Ngài cũng tốt lành, ân cần yêu thương mọi con cái” (Giáo lý Công giáo, số 239).
Ngay cả Giáo hội sơ khai, đã có các đấng bậc làm cha, thánh Phaolô đã coi mình là cha sinh ra các tín hữu, đã gọi các người mình dẫn dắt là con (1Cr 4,14-17; Gl 4,19). Gọi các bậc lãnh đạo trong Giáo hội là cha, chúng ta ý thức rằng các ngài được chia sẻ quyền làm cha của Thiên Chúa. Trong Giáo hội, mọi người dù có chức vụ hay chức vị khác nhau, tất cả anh em đều là anh em với nhau, con một Cha.
Trong Giáo hội cũng có những thầy dạy (Cv 13,1; 1Cr 12,28), và những vị lãnh đạo (Cv 15,22; Rm 12,8). Chỉ có một vị thầy là Ðức Giêsu, gọi thầy nơi các bậc dạy dỗ trong dân Chúa là thầy vì các ngài tham dự vào nhiệm vụ thầy dạy của Đức Kitô. Thầy Giêsu lại sống như bạn của các môn đệ, như anh em với họ (Ga 15,14; Mt 12,49-50), và nhất là như tôi tớ phục vụ họ (Mt 20,28), Ngài là mẫu gương phục vụ tuyệt vời và mời gọi người mang tinh thần công vụ “người làm lớn” phải phục vụ.
Thật thế, dù công quyền hay giáo quyền, mọi quyền bính đều bắt nguồn từ Thiên Chúa và phải quy về Thiên Chúa. Nếu có ai làm thầy, làm người lãnh đạo, thì vì họ được chia sẻ quyền làm thầy của Ðức Giêsu. Xin tinh thần phục vụ đến từ Chúa Kitô thanh tẩy tâm trí tôi và bạn, tâm trí của các nhà lãnh đạo, các bậc thầy dạy dỗ trong dân, để xã hội và đất nước được xây dựng trên tinh thần phục vụ trong trách nhiệm, liêm chính…
Ý lực sống: “Luôn đặt trách nhiệm của mình cao hơn những gì người khác mong đợi” (Henry Ward Beecher).
Suy Niệm 8: Đừng có giả hình
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Đức Giêsu đưa ra hình ảnh người luật sĩ và biệt phải giả hình. Họ là những người nói nhiều làm ít, mồm miệng đỡ chân tay, nói hay nhưng làm dở. Họ lo tô vẽ dáng bề ngoài cho đạo đức mẫu mực nhưng lòng họ thì hám danh, phô trương và tham lam. Chúa phân biệt rõ hai phương diện: những gì họ nói thì đều là nói Lời Chúa, nên hãy nghe theo; nhưng những việc họ làm thì mâu thuẫn với những lời họ giảng dạy, cho nên đừng bắt chước.
2. Luật sĩ và biệt phái tượng trưng cho quyền bính trong dân. Họ có bổn phận phải giảng dạy dân chúng và người dân có nghĩa vụ tuân giữ những lời họ giảng dạy. Thế nhưng nhiều lần họ đã bị Đức Giêsu khiển trách, chỉ vì họ tự cho mình là tài giỏi, đạo đức, từ đó họ phê bình chỉ trích lên án người khác; làm gì họ cũng muốn cho người khác thấy và khen ngợi; họ ham muốn danh vọng chức quyền, luôn luôn lên mặt dạy đời, nhất là họ nói mà không làm.
Tuy thế, Chúa vẫn khuyên chúng ta tôn trọng họ vì họ có nghĩa vụ giảng dạy, và hãy thực hiện những lời họ giảng dạy. Vì thế Chúa phán: “Vậy, những gì họ nói thì anh em hãy làm, hãy giữ!
3. “Các ngươi chất lên vai kẻ khác những gánh nặng...”
Thật vậy, nhiều tiến sĩ luật Do thái ưa nói về luật cách tỉ mỉ, nhưng lời nói của họ không đi đôi với việc làm, nói một đàng làm một nẻo, lo tô vẽ cho cái bên ngoài nhằm che đậy sự xấu xa lợi dụng trong lòng họ. Họ dạy luật thì để cho dân giữ, còn chính họ lại không làm gương, họ dùng luật làm thứ bình phong che chắn và làm lợi cho họ, còn dân chúng thì cảm thấy nặng nề, để rồi thay vì yêu mến và tự nguyện, họ chỉ giữ vì buộc phải giữ và luật trở thành gánh nặng đè trên vai họ.
Phải chăng chỉ những luật sĩ và biệt phái thời xưa mới kiêu căng giả hình? Phải chăng thời nay không còn hạng người đó nữa? Nhan nhản trước mắt chúng ta: biết bao người ngoài miệng rêu rao là vị nhân vị nghĩa, mà kỳ thực, họ tham lam, ích kỷ, tự tôn, lợi dụng thế lực để bóc lột người khác; họ lường gạt xảo trá không những đối với con người mà cả với Chúa nữa.
Aristogiton lúc thanh bình, là một nhà ái quốc thượng thặng. Thở ra lửa trận, nói ra sấm sét. Chàng lợi dụng mọi hoàn cảnh để cổ võ những đức tính anh hùng của người chiến sĩ yêu nước. Nghe chàng nói, khán giả có ấn tượng như chàng đang tuyên chiến với các cường quốc trên thế giới. Nhưng đến khi phải thi hành lệnh quân dịch, người ta thấy chàng đột nhiên bước đi khập khiễng, tay chống gậy, chân thì băng bó, trông thảm não vô cùng.
Biết rõ những bí ẩn của chàng, ông Photion trợn mắt nói: “Aristogiton đã làm một người què lại còn hèn nhát”.
4. Có một người nêu ý kiến rằng: Nếu phải chọn một trong hai điều, một là cứu rỗi một triết nhân, chỉ biết mình là tất cả, kiêu ngạo, khoe khoang về kiến thức của mình. Hai là phải cứu rỗi một trăm người tội lỗi, điếm đàng, thì hiển nhiên nên chọn điều thứ hai.
Tại sao vậy? Vì ở trần gian, không có gì khó bằng khuất phục một người trí thức kiêu ngạo, tâm hồn họ đầy cái tôi của mình thì chẳng còn chỗ nào cho Thiên Chúa len vào được. Cũng như một chiếc bình đầy nước thì không thể đồng thời chứa đầy dâu hôi. Đối với tâm hồn, tình trạng cũng chẳng khác gì, Thiên Chúa chỉ ban chân lý và sự sống của Ngài cho những ai trống rỗng với chính mình. Do đó, chúng ta phải tạo một khoảng trống trong tâm hồn để có thể chứa ơn thánh.
5. Mọi quyền hành đều bắt nguồn bởi Thiên Chúa và phải trở về Thiên Chúa. Nếu có ai làm thầy, làm người lãnh đạo thì vì họ được chia sẻ quyền làm thầy của Đức Kitô, họ phải nêu gương trước. Nhưng trong thực tế, vẫn còn đó đây những vị này vị nọ nói thuyết thì hay nhưng lại tự chuẩn cho mình; dạy dỗ người ta nhưng chính mình lại không giữ, thậm chí còn tệ hơn – ngôn hành bất nhất. Lại nữa, chỉ thấy người khác phạm luật và trách mắng họ, nhưng thực tế thì “suy bụng ta ra bụng người” – chính mình còn bê bối hơn cả những gì mình trách người... Xin Chúa giúp chúng ta, biết dùng chính hành động làm cho lời nói có giá trị, nghĩa là khi muốn ai giữ luật, thì mình phải làm gương trước – ngôn hành như nhất.
6. Truyện: Bé cái lầm.
Có một người đi dạo đến nơi hành hương. Vì quá mệt nhọc, ông ngồi nghỉ chân trên một bệ đá. Ông hết sức ngạc nhiên và rồi tỏ ra hãnh diện sung sướng khi thấy nhiều người đi qua trước mặt ông, họ đã ngả mũ cúi chào.
Trong khi còn đang nghĩ ngợi, thắc mắc, thì cũng có một bà già đến trước mặt ông. Sau khi cúi chào, bà đã ngước nhìn lên và miệng lâm râm nhiều lời mà ông không thể nghe rõ.
Thế rồi bà ta tiếp tục đi như những người khác. Lúc ấy ông mới quay lưng lại và nhìn lên theo hướng bà kia đã nhìn. Ông nhận ra ngay sau lưng và phía trên đầu ông có một cây Thánh giá đã được dựng lên ở đó. Và ông xấu hổ bỏ đi nơi khác.
SUY NIỆM
1. Sống theo vẻ bề ngoài
Đức Giêsu mời gọi các môn đệ đi theo Người thuộc mọi thời, trong đó có chúng ta hôm nay, đừng sống theo các luật sĩ và những người Pha-ri-sêu, bởi vì:
Như thế, theo Đức Giê-su, các luật sĩ và những người Pha-ri-sêu là những người chỉ sống theo vẻ bề ngoài: bề ngoài trên môi miệng, bề ngoài với việc làm, và bề ngoài trong tương quan với người khác. Ngang qua việc vạch rõ lối sống cụ thể của một nhóm người, Đức Giê-su mời gọi chúng ta nhìn lại chính bản thân mình, để nhận ra rằng, sống theo vẻ bề ngoài ở trong mọi lãnh vực, ở mọi nơi và ở mọi cấp độ, là một căn bệnh phổ biến và nan y của mọi người, trong đó có chính bản thân chúng ta.
Đức Giê-su rất “nhạy cảm” với căn bệnh sống theo vẻ bề ngoài và đã nhiều lần nhắc nhở các môn đệ; và hôm nay trong bài Tin Mừng, Ngài lại tiếp tục cảnh báo “các môn đệ” và cả đám đông nữa về căn bệnh này ngang qua những con người cụ thể là luật sĩ và Pha-ri-sêu.
2. Thiên Chúa là “Đấng kín đáo”
Trong “Bài Giảng Trên Núi”, Đức Giê-su mời gọi chúng ta đừng sống theo vẻ bề ngoài, nhưng sống theo sự thật trong tương quan với chính Thiên Chúa là Cha chúng ta, nhất là khi bố thí, cầu nguyện và ăn chay. Đó là ba việc đạo đức căn bản trong đời sống đức tin; và chúng ta có thể mở rộng ra tất cả tất cả những việc đạo đức khác, và nhất là mở rộng ra cung cách sống căn tính Kitô hữu hay căn tính tu sĩ của chúng ta. Thực vậy, Đức Giê-su nói trong bài Tin Mừng của Ngày Lễ Tro:
Còn anh, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm,để việc anh bố thí được kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh.
Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh
Còn anh, khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm,18 để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh. (Mt 6, 1-18)
Thay vì phô trương, Đức Giêsu mời gọi chúng ta thực hành các việc đạo đức một cách kín đáo. Không phải để thi thố sự khiêm nhường, nhưng để trở nên giống Cha của mình là Thiên Chúa, Đấng hiện diện nơi kín đáo và hành động một cách kín đáo. Trong những lời chúng ta vừa trích dẫn, Đức Giêsu dùng tới sáu lần từ “kín đáo”, trong đó năm lần được dùng để nói về Thiên Chúa Cha: Cha của anh hiện diện nơi kín đáo; Cha của anh thấy trong kín đáo. Như thế, Thiên Chúa, Cha của Đức Giêsu, là “Đấng kín đáo” và Ngài mời gọi chúng ta cũng trở nên “những người con kín đáo” như Cha của mình.
Và chúng ta cứ nghiệm lại mà xem: Thiên Chúa hiện diện và hành động kín đáo biết bao trong sáng tạo, trong lịch sử loài người, nơi cuộc đời chúng ta và nhất là nơi Thập Giá của Đức Giêsu. Chúng ta phải có ngũ quan biết chiêm ngắm, mới có thể nhận ra Thiên Chúa hiện diện, lên tiếng và hành động.
Đức Giêsu không chỉ chữa bệnh vẻ bề ngoài của loài người chúng ta bằng lời nói, nhưng bằng chính cách sống nữa; như Ngài nói về mình: “Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến dâng sự sống của mình”. Và phương thuốc tận cùng của Ngài là Thập Giá, nơi đó, vẻ bề ngoài của Ngài không còn là gì nữa: thân xác, danh dự, sự nghiệp, sự sống… Nhưng chính lúc đó Căn Tính đích thật của Ngài lại rạng ngời nhất. Như con rắn đồng xưa, ai nhìn lên Đấng bị đâm thâu, thì sẽ được chữa lành (x. Ds 21, 4-9; Ga 3, 14-15).
3. “Anh em chỉ có một Thầy… Anh em chỉ có một Cha”
Trong vô số những biểu hiện của căn bệnh sống theo vẻ bề ngoài, Đức Giê-su đặc biệt chú ý đến cách xưng hô; và dường như Ngài đặt những cách xưng hô bình thường của chúng ta thành vấn đề, vì chúng ta vẫn gọi người khác và người khác cũng vẫn gọi chúng ta là “thầy”, là “bà thầy” là “cha”, là “đức cha”, là “bề trên thứ cấp” hay “bề trên thượng cấp”… ; và những cách xưng hô tương đương đối với phái nữ.
Bởi lẽ, cách xưng hô diễn tả tương quan và những cách xưng hô như thế rất dễ làm cho tương quan của chúng ta trở thành lệch lạc, nghĩa là chúng ta có thể tự biến mình hay người khác thành thần linh, thành một thứ tuyệt đối hay không thể không có, thành trung tâm, thành mẫu mực, thành điểm qui chiếu mà mọi người phải hướng về. Bệnh vẻ bề ngoài ở dạng này có thể nó là nghiêm trọng nhất.
Như thế, rốt cuộc Đức Giêsu không muốn chúng ta thay đổi cách xưng hô, cho dù đã có những thay đổi thực sự về cách xưng hô theo hướng tương quan huynh đệ của Tin Mừng, nhất là sau Công Đồng Vatinanô II, và chắc chắn đã có ảnh hưởng trên cách chúng ta tương quan với nhau. Bởi vì, xét cho cùng, cách xưng hô vẫn dừng lại ở bên ngoài. Nhưng, sâu xa hơn nhiều vẻ bề ngoài, Đức Giêsu mời gọi chúng ta thay đổi cách chúng ta sống với nhau, ứng xử với nhau: dù chúng ta là ai, có chức vụ gì hay ở độ tuổi nào, tất cả chúng ta đều có một Cha, một vị Thầy, đồng thời là vị Lãnh Đạo, và do đó, chúng ta là anh chị em của nhau trong Chúa. Đó mới là Sự Thật và chúng ta được mời gọi sống theo Sự Thật này, theo khuôn mẫu của chính Đức Giê-su.
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
Tuesday (March 02): Whoever humbles oneself will be exalted
Gospel Reading: Matthew 23:1-12 1 Then said Jesus to the crowds and to his disciples, 2 “The scribes and the Pharisees sit on Moses’ seat; 3 so practice and observe whatever they tell you, but not what they do; for they preach, but do not practice. 4 They bind heavy burdens, hard to bear, and lay them on men’s shoulders; but they themselves will not move them with their finger. 5 They do all their deeds to be seen by men; for they make their phylacteries broad and their fringes long, 6 and they love the place of honor at feasts and the best seats in the synagogues, 7 and salutations in the market places, and being called rabbi by men. 8 But you are not to be called rabbi, for you have one teacher, and you are all brethren. 9 And call no man your father on earth, for you have one Father, who is in heaven. 10 Neither be called masters, for you have one master, the Christ. 11 He who is greatest among you shall be your servant; 12 whoever exalts himself will be humbled, and whoever humbles himself will be exalted. |
Thứ Ba 02-3 Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên
Mt 23,1-12 1 Bấy giờ, Đức Giê-su nói với dân chúng và các môn đệ Người rằng:2 “Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên tòa ông Mô-sê mà giảng dạy.3 Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm.4 Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào.5 Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài.6 Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường,7 ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “ráp-bi”.8 “Phần anh em, thì đừng để ai gọi mình là “ráp-bi”, vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau.9 Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời.10 Anh em cũng đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo, vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo, là Đức Ki-tô.11 Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em.12 Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên. |
Meditation:
Who doesn’t desire the praise and respect of others? We want others to see us at our best with all of our strengths and achievements – rather than at our worst with all of our faults and shortcomings. God sees us as we truly are – sinners and beggars always in need of his mercy, help, and guidance.
The prophet Isaiah warned both the rulers and the people of Sodom and Gomorrah to humbly listen and submit to God’s teaching so they could learn to do good and to cease from evil (Isaiah 110,17). Jesus warned the scribes and Pharisees, the teachers and rulers of Israel, to teach and serve their people with humility and sincerity rather than with pride and self-promotion. They went to great lengths to draw attention to their religious status and practices. In a way they wanted to be good models of observant Jews. “See how well we observe all the ritual rules and regulations of our religion!” In their misguided zeal for religion they sought recognition and honor for themselves rather than for God. They made the practice of their faith a burden rather than a joy for the people they were supposed to serve. True respect for God inclines us to humble ourselves and to submit to his wisdom and guidance. We cannot be taught by God unless we first learn to listen to his word and then obey his instruction. One Father and Teacher Was Jesus against calling anyone a rabbi, the Jewish title for a teacher of God’s word (Matthew 23:7-8), or a father? The law of Moses in Scripture specifically instructed all fathers to be teachers and instructors for their children to help them understand and obey God’s instructions (Deuteronomy 6:7)? Why did Jesus rebuke the scribes and Pharisees, the religious authorities of the Jewish people, in the presence of his disciples? Jesus wanted to warn both his own disciples and the religious leaders about the temptation to seek honors and titles that draw attention to ourselves in place of God and his word. Pride tempts us to put ourselves first above others. The Scriptures give ample warning about the danger of self-seeking pride: Pride goes before destruction, and a haughty spirit before a fall (Proverbs 16:18). God opposes the proud, but gives grace to the humble (James 4:6; Proverbs 3:24). Origen (185-254 AD), an early Christian teacher and bible scholar, reminds those who teach and lead to remember that they are first and foremost “disciples” and “servants” who sit at the feet of their Master and Teacher the Lord Jesus Christ: “You have one teacher, and you are all brothers to each other…Whoever ministers with the divine word does not put himself forward to be called teacher, for he knows that when he performs well it is Christ who is within him. He should only call himself servant according to the command of Christ, saying, Whoever is greater among you, let him be the servant of all.” True humility Respect for God and for his ways inclines us to humility and to simplicity of heart – the willing readiness to seek the one true good who is God himself. What is the nature of true humility and why should we embrace it as essential for our lives? We can easily mistake humility as something demeaning or harmful to our sense of well-being and feeling good about ourselves. True humility is not feeling bad about yourself, or having a low opinion of yourself, or thinking of yourself as inferior to all others. True humility frees us from preoccupation with ourselves, whereas a low self-opinion tends to focus our attention on ourselves. Humility is truth in self-understanding and truth in action. Viewing ourselves honestly, with sober judgment, means seeing ourselves the way God sees us (Psalm 139:1-4). A humble person makes a realistic assessment of oneself without illusion or pretense to be something one is not. A truly humble person regards oneself neither smaller nor larger than one truly is. True humility frees us to be ourselves as God regards us and to avoid falling into despair and pride. A humble person does not want to wear a mask or put on a facade in order to look good to others. Such a person is not swayed by accidentals, such as fame, reputation, success, or failure. Do you know the joy of Christ-like humility and simplicity of heart?
Humility is the queen or foundation of all the other virtues because it enables us to see and judge correctly, the way God sees. Humility helps us to be teachable so we can acquire true knowledge, wisdom, and an honest view of reality. It directs our energy, zeal, and will to give ourselves to something greater than ourselves. Humility frees us to love and serve others willingly and selflessly, for their own sake, rather than for our own. Paul the Apostle gives us the greatest example and model of humility in the person of Jesus Christ, who emptied himself, taking the form of a servant, and… who humbled himself and became obedient unto death, even death on a cross (Philippians 2:7-8). Do you want to be a servant as Jesus loved and served others? The Lord Jesus gives us his heart – the heart of a servant who seeks the good of others and puts their interests first in his care and concern for them.
“Lord Jesus, you became a servant for my sake to set me free from the tyranny of selfish pride and self-concern. Teach me to be humble as you are humble and to love others generously with selfless service and kindness.” |
Suy niệm:
Ai lại chẳng muốn được người khác ngưỡng mộ và kính trọng? Chúng ta muốn người khác nhìn chúng ta lúc tốt nhất với tất cả năng lực và thành tựu của mình – hơn là lúc tồi tệ nhất với mọi lỗi lầm và khuyết điểm. Thiên Chúa nhìn thấy chúng ta như chúng ta thật sự là – những kẻ ăn xin và tội nhân cần đến lòng thương xót, sự trợ giúp, và hướng dẫn của Người luôn mãi. Ngôn sứ Isaia đã cảnh báo các nhà lãnh đạo và dân thành Sôđôm và Gômôra khiêm tốn lắng nghe và quy phục lời giáo huấn của Thiên Chúa để họ có thể học làm điều thiện và tránh điều dữ (Is 110,17). Đức Giêsu đã khiển trách những luật sĩ và Pharisêu về việc tìm kiếm lời khen ngợi của người khác, bằng việc lôi kéo sự chú ý vào những thực hành đạo đức phô trương của họ. Bằng cách này, họ muốn là những mẫu mực tốt về sự tuân giữ luật lệ Dothái. “Hãy xem chúng tôi tuân giữ tất cả mọi luật lệ nghi thức và tôn giáo chu đáo biết chừng nào!” Trong sự nhiệt thành sai lạc của mình về tôn giáo, họ tìm kiếm sự kính trọng và vinh dự cho riêng mình hơn là cho Thiên Chúa. Họ khiến cho sự thực hành đức tin của mình thành gánh nặng hơn là niềm vui cho dân chúng mà lẽ ra họ phải phục vụ.
Lòng kính trọng dành cho Thiên Chúa giúp ta hạ mình và quy phục sự khôn ngoan và hướng dẫn của Người. Chúng ta không thể được Thiên Chúa dạy dỗ trừ khi chúng ta lắng nghe lời Người và vâng theo sự hướng dẫn của Người. Một Cha và Một Thầy Đức Giêsu có cấm người ta gọi ai đó là thầy, danh xưng mà người Dothái dành cho người dạy lời Chúa (Mt 23,7-8) hay là cha? Luật Môisen trong Kinh thánh đặc biệt hướng dẫn mọi người cha trở thành những thầy dạy và hướng dẫn cho con cái để giúp họ hiểu và vâng phục các chỉ dẫn của Thiên Chúa (Đnl 6,7). Tại sao Đức Giêsu khiển trách các kinh sư và Pharisêu, các nhà cầm quyền tôn giáo của dân Dothái, trước sự hiện diện của các môn đệ? Đức Giêsu muốn cảnh báo cả hai cho các môn đệ và các nhà lãnh đạo tôn giáo về sự cám dỗ tìm kiếm danh dự và chức sắc để lôi kéo sự chú ý về mình thay vì Thiên Chúa và lời Người. Tính kiêu ngạo cám dỗ chúng ta coi mình lên trước những người khác. Kinh thánh đưa ra lời cảnh cáo mạnh mẽ về mối nguy hiểm của lòng kiêu ngạo tự tìm kiếm tư lợi: Kiêu căng đưa tới sụp đổ, ngạo mạn dẫn đến té nhào (Cn 16,18). Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, và ban ơn cho những kẻ khiêm nhường (Cn 3,24; Gc 4,6). Origen (185-254 AD), một giáo phụ và học giả Kinh thánh, nhắc nhở những ai dạy dỗ và hướng dẫn phải nhớ rằng trước hết và trên hết họ là các “môn đệ” và “tôi tớ”, ngồi dưới chân Chúa và Thầy của mình là Đức Giêsu Kitô: “Anh em có một thầy còn tất cả anh em là anh em của nhau… Ai phục vụ lời Chúa không mong đợi mình được gọi là thầy, vì họ biết rằng khi họ thực hiện tốt, đó chính là Đức Kitô ở trong họ. Họ chỉ nhận mình là tôi tớ, chiếu theo lệnh truyền của Đức Kitô, Đấng đã nói, Ai là người lớn nhất giữa anh em, hãy là người phục vụ mọi người.
Sự khiêm nhường đích thật. Tôn kính Thiên Chúa và đường lối của Người giúp chúng ta khiêm nhường và hiền lành trong lòng – sự sẵn sàng tự nguyện tìm kiếm Đấng tốt lành thật sự là chính Thiên Chúa. Bản chất của khiêm nhường đích thật là gì và tại sao chúng ta phải đón nhận nó như sự cần thiết cho đời sống của mình? Chúng ta có thể dễ dàng ngộ nhận khiêm nhường là cái gì đó làm mất giá trị hay tai hại cho cảm giác của mình về thiện ý và cảm nhận tốt về mình. Khiêm nhường thật sự không nghĩ xấu về chính mình, hay có quan điểm thấp kém về mình, hay nghĩ mình là bề dưới của người khác. Khiêm nhường thật sự giải thoát chúng ta khỏi mối ưu tư về mình, xét rằng sự cố chấp thấp hèn hướng tới sự quy hướng về mình. Khiêm nhường là chân thật trong sự hiểu biết chính mình và trong hành động. Việc nhìn xem mình một cách chân thật, với sự phán đoán khiêm tốn hơn, tức là nhìn mình theo cách Thiên Chúa nhìn chúng ta (Tv 139,1-4). Người khiêm nhường đánh giá thật sự về chính mình không có ảo tưởng hay giả bộ là gì đó mà mình không phải. Người khiêm nhường thật sự nhìn mình không nhỏ hơn cũng không lớn hơn con người thật của mình là. Khiêm nhường thật sự giúp chúng ta là chính mình như Thiên Chúa nhìn chúng ta, và tránh được nỗi tuyệt vọng và kiêu ngạo. Người khiêm nhường không muốn mang cái mặt nạ hay cái mã bên ngoài để người khác thấy mình tốt. Một người như vậy không bị xao động bất thường, như tiếng đồn, thanh danh, thành công, hay thất bại. Bạn có biết niềm vui của đức tính khiêm nhường và hiền lành trong lòng như Đức Kitô không? Khiêm nhường là nữ hoàng hay nền tảng của tất cả các nhân đức khác, bởi vì nó giúp chúng ta nhìn và phán đoán đúng đắn, cách thức Thiên Chúa nhìn. Khiêm nhường giúp chúng ta dễ bảo, nhờ đó chúng ta có thể đạt được sự hiểu biết, khôn ngoan đích thật, và quan điểm thành thật về thực tại. Nó điều khiển năng lực, sự nhiệt thành, và khát vọng của chúng ta để trao ban chính mình cho điều gì lớn hơn bản thân. Khiêm nhường giúp chúng ta yêu thương và phục vụ người khác vô vị lợi, vì lợi ích của họ, hơn là của mình. Thánh Phaolô tông đồ cho chúng ta gương mẫu và mô hình của đức khiêm nhường lớn nhất trong con người của Đức Giêsu Kitô, Đấng đã hóa mình ra không, mặc lấy thân phận tôi đòi, và hạ mình và vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên thập giá (Pl 2,7-8). Bạn có muốn là người tôi tớ như Đức Giêsu để phục vụ và yêu thương người khác không? Chúa Giêsu ban cho chúng ta trái tim của Người – trái tim của người tôi tớ tìm kiếm lợi ích cho người khác và đặt những quyền lợi của họ lên hàng đầu để quan tâm và lo lắng cho họ. Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã trở nên tôi tớ vì con, để giải thoát con khỏi ách nô lệ của tính kiêu ngạo ích kỷ và quá quan tâm đến mình. Xin dạy con biết khiêm nhường như Chúa, và yêu thương tha nhân cách quảng đại với sự phục vụ và lòng khoan dung vô vị lợi. |
Tác giả: Don Schwager
(http://dailyscripture.servantsoftheword.org/readings/)
Bro. Paul Thanh Vu – chuyển ngữ
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn