Thứ Sáu tuần 20 thường niên.
"Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi, và yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi".
Lời Chúa: Mt 22, 34-40
Khi ấy, những người biệt phái nghe tiếng Chúa Giêsu đã làm cho những người Sađốc câm miệng, thì họp nhau lại. Đoạn một người thông luật trong nhóm họ hỏi thử Người rằng: "Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?"
Chúa Giêsu phán cùng người ấy rằng: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất.
Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy, là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi. Toàn thể lề luật và sách các tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó".
SUY NIỆM 1: Giới Răn Yêu Thương
Tuần báo Newsweek số ra ngày 10/8/1993 đã ghi lại một sáng kiến mới lạ tại Nhật, đó là "Sư máy". Vị sư máy này, mới nhìn qua, không khác gì vị tu hành thực thụ: đầu cúi xuống, mắt khép lại, môi và các cơ bắp trên gương mặt cử động theo nhịp cầu kinh ghi sẵn, một tay cầm chuỗi đưa lên, một tay thì gõ mõ. Mỗi vị sư máy có thể cầu kinh không biết mỏi mệt, và có thể thuộc toàn bộ kinh kệ của mười giáo phái Phật giáo khác nhau tại Nhật. Sáng kiến này được đưa ra nhằm đáp ứng cho nhu cầu ơn gọi sư sãi ngày càng khan hiếm trong các Giáo hội Phật giáo tại Nhật. Tuy nhiên, như tác giả bài báo ghi nhận: những cái máy làm được mọi sự, duy chỉ một điều chúng không thể làm được, đó là chúng không biết yêu thương.
Yêu thương là đặc điểm của con người. Thú vật có thể có cảm giác, nhưng đó không hẳn là yêu thương. Chỉ có con người được tạo dựng theo và giống hình ảnh Thiên Chúa tình yêu mới thực sự được mời gọi yêu thương mà thôi.
Tin Mừng hôm nay nhắc lại cho chúng ta ơn gọi cao cả của con người. Trả lời cho thắc mắc của luật sĩ, Chúa Giêsu đã thu tóm tất cả lề luật thành một giới răn duy nhất là mến Chúa và yêu người. Hai mệnh lệnh này là một giới răn duy nhất, bởi vì không thể kính mến Chúa mà lại ghét bỏ hình ảnh của Ngài là con người, cũng như không thể yêu thương con người mà lại không nhận ra và yêu mến Thiên Chúa là nguồn mạch tình yêu chân thật. Tách biệt hai mệnh lệnh ấy là chối bỏ tình yêu. Các luật sĩ và các biệt phái thời Chúa Giêsu quả là những người đạo đức: họ ăn chay, cầu nguyện và tỏ ra yêu mến Thiên Chúa hơn ai hết; thế nhưng Chúa Giêsu đã điểm mặt họ là những kẻ giả hình, bởi vì lòng yêu mến Chúa nơi họ không được thể hiện bằng tình yêu đối với tha nhân. Chúa Giêsu còn gọi họ là những mồ mả tô vôi, bên ngoài thì bóng loáng, nhưng bên trong thì thối rữa. Có thể so sánh thái độ giả hình ấy với một người máy: người máy có thể làm được nhiều cử chỉ ngoạn mục, nhưng không có một tâm hồn để yêu thương thực sự.
Yêu thương là kiện toàn lề luật; yêu thương là cốt lõi, là linh hồn của Ðạo. Ði Ðạo, sống Ðạo, giữ Ðạo, xét cho cùng chính là yêu thương; không yêu thương thì con người chỉ còn là một thứ người máy vô hồn. Thánh Gioan Tông đồ, người đã suốt đời sống và suy tư về tình yêu, vào cuối đời, ngài đã tóm gọn tất cả thành một công thức: "Thiên Chúa là Tình Yêu", và ngài dẫn giải: "Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em thì đó là kẻ nói dối, bởi vì kẻ không yêu thương người anh em nó thấy trước mắt, tất không thể yêu mến Ðấng nó không thấy".
Nguyện xin cho cuộc sống của chúng ta ngày càng được thanh luyện và gần gũi hơn với cốt lõi của Ðạo là Yêu Thương.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Ý Nghĩa Ðích Thực Trong Cuộc Sống
Những người theo phái Pharisiêu và phái Sađốc là hai nhóm người luôn đối nghịch với Chúa Giêsu vì Ngài đã nhiều lần mạnh mẽ lên tiếng khiển trách thái độ kiêu căng tự mãn và đạo đức giả của họ. Trước đó, Chúa Giêsu đã tranh luận với nhóm người Sađốc về sự sống lại của những người chết; theo đó thì người Sađốc không tin có sự sống lại ở đời sau, họ cũng không tin vào sự bất diệt của linh hồn cũng như vào sự vĩnh cửu của Nước Thiên Chúa. Chúa Giêsu, qua sự khôn ngoan và tài hùng biện xuất chúng đã chứng minh về sự sống lại ở đời sau và sự bất tử của linh hồn khi Ngài bảo với họ: "Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của những kẻ chết, mà là của kẻ sống" khiến họ phải im miệng. Thấy vậy, những người Pharisiêu thừa cơ hội này mà trách móc Chúa Giêsu với chủ ý tìm ra kẽ hở để buộc tội Ngài bằng cách hỏi Ngài các lề luật của Thiên Chúa, để xem Ngài có hiểu tường tận về lề luật hay không hay cũng chỉ lập lại với những giới răn của Thiên Chúa, bởi vì những người Pharisiêu luôn tự mãn cho rằng họ hiểu rõ lề luật và các tập tục lễ nghi tôn giáo của dân Do Thái. Họ đã bỏ ra nhiều năm trời để học hỏi sáu trăm mười ba điều răn trong Cựu Ước và vô số điều luật khác. Trước câu hỏi của người luật sĩ về điều răn nào lớn hơn hết, Chúa Giêsu đã không trích dẫn một điều răn nào trong Mười Ðiều Răn mà Thiên Chúa đã mạc khải với ngôn sứ Môsê trên núi Sinai, mà chỉ tóm lược tất cả trong một điều răn lớn nhất là điều răn yêu thương: "Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi, và ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình".
Qua câu trả lời này, Chúa Giêsu thay vì trích dẫn Mười Ðiều Răn trên núi Sinai, là một loạt những điều cấm đoán làm những việc tội lỗi với mục đích giữ dân Do Thái sống trong hồng ân của Ngài, thì Chúa Giêsu lại đưa ra một điều răn mới tích cực và có sức tác động hơn đó là yêu thương bằng với tất cả tâm hồn khiêm tốn. Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy biết yêu mến Thiên Chúa với tất cả tâm hồn vì Thiên Chúa là Ðấng tạo dựng vũ trụ. Ngài là sự toàn thiện và cội nguồn của tình yêu. Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại trước hết và tình yêu mến của chúng ta đối với Ngài là tất cả lời tích cực nhất về những hồng ân cao cả và lòng quảng đại bao la của Ngài. Tình yêu thương đối với những người thân cận vì thế cũng bắt rễ từ tình yêu Thiên Chúa.
Tất cả các giới răn của Chúa Giêsu trong toàn bộ Tân Ước cũng chỉ xoay quanh theo chiều hướng lòng yêu mến những người thân cận không thể nào tách rời khỏi tình yêu mến đối với Thiên Chúa, vì khi yêu mến người anh em là những người mà Thiên Chúa yêu thương có nghĩa là chúng ta thực sự yêu mến Thiên Chúa; ngược lại, thù ghét người anh em là chúng ta thù ghét và đối nghịch lại với Thiên Chúa. Khi chúng ta thực sự yêu mến người anh em của mình, tức là chúng ta sống trong tình yêu mến của Thiên Chúa và như thế tình yêu của Thiên Chúa trở nên toàn thiện trong chúng ta.
Lời răn yêu thương trong Phúc Âm hôm nay giúp chúng ta tìm thấy ý nghĩa đích thực trong cuộc sống, đó là trở nên toàn thiện trong tình yêu thương và trong sự hiệp nhất của Thiên Chúa. Ðây chính là lý tưởng sống cao cả của người tín hữu Kitô. Thêm vào đó, đức tin và lòng hy vọng vào tình yêu và lời hứa cứu rỗi của Chúa Giêsu là những động lực làm tăng trưởng tình yêu mến trong tâm hồn chúng ta, giúp chúng ta luôn sống hiệp nhất với người anh em và với Thiên Chúa. Khi chúng ta càng hiểu biết về Thiên Chúa, thì chúng ta càng yêu mến Ngài nhiều hơn. Thiên Chúa thông qua hồng ân của Chúa Thánh Linh ban cho chúng ta sự tự do đích thực để yêu thương như Ngài yêu thương, như thánh Phaolô tông đồ nói trong thư gửi tín hữu thành Rôma: "Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta".
Lạy Chúa,
Vì tình yêu của Chúa vượt lên trên hết mọi sự trên thế gian này, xin hãy đổ tràn tình yêu của Chúa vào trong con tim chúng con cũng như Chúa cho đức tin và lòng hy vọng trong chúng con thêm lớn mạnh. Xin dạy cho chúng con biết quảng đại hiến mình trong các công việc từ thiện và cho những người anh em khác như Chúa đã hy sinh vì chúng con.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Yêu Mến, Vâng Lời.
Rồi một người thông luật trong nhóm hỏi Đức Giêsu để thử Người rằng: “Thưa Thầy, trong sách luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn lớn nhất?” Đức Giêsu đáp: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa Trời, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống như điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.”(Mt. 22, 35. 36-39)
Mọi nỗ lực của con người đều khởi động từ cùng một nguồn gốc và hướng về một mục đích độc nhất là tình yêu. Con người không chỉ được dựng nên để vâng lời Thiên Chúa. Như vâng lời ông chủ, ông Chúa, nhưng con người còn được dựng nên để yêu mến Thiên Chúa như cha mẹ mình. Vâng lời chân thật khi yêu mến. Thiên Chúa không muốn có những kẻ nô lệ đầy sợ hãi, Ngài muốn có những người con tự do, tự nguyện. Tình yêu Thiên Chúa phải là trung tâm và nguồn mọi hiếu thảo.
Tình yêu của mọi người cũng phát xuất từ cùng nguồn mạch này. Mọi người đều có thể là người lân cận của tôi nhưng thực tế họ không cần thiết gần gũi tôi. Họ có lẽ ở rất xa, nhưng vẫn là đối tượng của tình yêu chân thật. Người lân cận là bất cứ ai được tôi liên hệ với họ một cách hữu hiệu và cụ thể. Tình yêu của môn đệ Đức Giêsu không có biên giới. Gương mẫu của họ là tình yêu Cha trên trời hằng làm cho mặt trời mọc lên soi sáng cho kẻ lành người dữ, ban mưa xuống cho người công chính cũng như kẻ bất lương. Mọi tương quan với người khác phải theo luật đồng đều: đó là tình yêu tạo nên sức mạnh hấp dẫn và đưa lại mối tương quan chân thật giữa người với người.
Thái độ duy nhất.
Chỉ có một sự đáng kể đối với người môn đệ của Đức Giêsu là thái độ yêu mến thâm sâu. Thật dễ hiểu, theo bản văn này. Người ta không bao giờ bị bó buộc đi tìm một câu đáp bất định cho một trường hợp cụ thể, ý Thiên Chúa luôn được sáng tỏ nhất định bởi tình yêu lớn lao nhất.
Hai tình yêu?
Có hai hướng khác nhau về tình yêu chăng? Một hướng về Thiên Chúa, một hướng về người ta. Tình yêu khác nhau cho trường hợp này và cho trường hợp kia ư? Chúa chỉ cho chúng ta qua đời sống của Người: Đâu là tương quan giữa hai tình yêu này. Trong đời sống của Đức Giêsu, sự chu toàn thánh ý Thiên Chúa và tình yêu phục vụ mọi người được thể hiện duy nhất trong một thực thể độc nhất. Thực hiển nhiên vì tình yêu đối với loài người mà Chúa đã chu toàn công cuộc cứu độ, nhưng tình yêu này không hề tách rời khỏi tình yêu của Thiên Chúa, cũng chính là thánh ý của Thiên Chúa.
J.M
SUY NIỆM 4: “MẾN CHÚA VÀ YÊU NGƯỜI” (Mt 22, 34-40)
Xem lại CN 15 TN C, CN 30 TN A, CN 31 TN B,
thứ Sáu tuần 3 MC, thứ Năm tuần 9 TN, Và thứ 2 tuần 27 TN.
Hôm nay thánh Mátthêu trình thuật việc Đức Giêsu và các môn đệ tiến vào thành Gêrusalem. Trên hành trình ấy, Ðức Giêsu đã làm cho nhóm Xađốc phải câm miệng khi họ hỏi Đức Giêsu về chuyện kẻ chết sống lại. Thấy vậy, nhóm Pharisêu vào cuộc bằng việc họp nhau lại và cử một người đại diện tiến đến nhằm thử Đức Giêsu để tìm cớ tố cáo Ngài, nhà luật sĩ hỏi Ngài: "Trong các điều răn, điều nào trọng nhất?" Đức Giêsu đáp: "Yêu mến Thiên Chúa hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức ngươi". Nhân đây, Đức Giêsu giúp họ nhớ lại một điều luật đã được nhắc đến trong sách Lêvi: “Ngươi phải yêu mến đồng loại ngươi như chính mình”
Tại sao Ngài lại nhắc lại khoản luật đó?
Thưa, bởi vì những người Pharisêu, họ chỉ giữ Luật hình thức bên ngoài, mà bên trong thì hoàn toàn trống rỗng. Họ không yêu thương anh em mình cách thật lòng. Vì thế, chính việc giữ Luật của họ đã phá vỡ đi ý nghĩa, cốt lõi tinh thần của Luật.
Với Đức Giêsu, khi Ngài đến, sứ vụ của Ngài là kiện toàn Lề Luật và làm cho chúng trở nên trong sáng. Đồng thời, Ngài muốn cho các môn đệ, những người sống cùng thời và nhất là giới lãnh đạo... ngày càng sống đúng cốt lõi của Luật hơn. Tinh thần và nội dung của Luật chính là: “Mến Chúa và yêu người”. Vì thế, với Đức Giêsu, yêu thương anh em là tuân giữ Lời Ngài. Không yêu thương anh em là không tuân giữ Lời Ngài. Nói mến Chúa mà không yêu anh em là kẻ nói dối. Thật vậy, nên đã có lần Đức Giêsu nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ của Thầy, đó là các con yêu thương nhau”.
Đây không chỉ là lời khuyên, mà còn là một lệnh truyền, một sứ mạng đòi buộc các môn đệ và tất cả chúng ta là những Kitô hữu phải thi hành.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta rằng: mến Chúa và yêu người phải là cốt lõi của Luật. Thiếu một trong hai thì chẳng những không giữ đúng tinh thần của Chúa mà còn có nguy cơ bóp méo Luật của Ngài và mặc cho nó sự bất nhân trong khi thi hành Luật.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con mến yêu Luật Chúa và biết thi hành Luật Chúa cách trung thành. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 5: Điều răn trọng nhất
Suy niệm
Theo truyền thống hội đường Do-thái, Luật gồm 613 điều răn.
365 điều cấm làm và 248 điều phải làm.
Giữa một rừng điều răn như thế, người thông luật đã hỏi Đức Giêsu:
“Điều răn nào trọng nhất trong Luật Môsê ?” (c. 36).
Đức Giêsu đã trả lời bằng một câu trong kinh Shema,
kinh mà người Do-thái phải đọc mỗi ngày.
“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi,
với tất cả trái tim ngươi, tất cả linh hồn ngươi, tất cả trí khôn ngươi” (Tl 6, 5).
Và Ngài còn thêm một điều răn thứ hai nữa (c. 39).
“Ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình” (Lv 19, 18).
Tất cả Luật Môsê nằm trong hai điều răn đó.
Hai điều răn được gói trong một động từ yêu.
Mọi điều cấm làm và mọi điều buộc làm, đều bắt nguồn từ và qui về tình yêu.
Các bạn trẻ thường nghĩ yêu là chuyện dễ.
Nhưng yêu với tất cả trái tim, tất cả linh hồn, tất cả trí khôn, tất cả sức lực,
nghĩa là yêu với trọn cả con người mình, thì điều đó không dễ.
Đối với người Do-thái, trái tim là nơi phát sinh toàn bộ đời sống tinh thần.
Yêu mến Thiên Chúa bằng tất cả trái tim của mình
là để cho Ngài chi phối mọi tư tưởng, mọi ý muốn, mọi tình cảm.
Tất cả đều nhằm làm cho Ngài được mọi người nhận biết và tôn vinh.
Yêu người thân cận như chính mình cũng là điều rất khó.
Có bao người làm chúng ta đau khổ và bị xúc phạm.
Yêu thương và tôn trọng họ đòi một sự từ bỏ mình không nhỏ.
Nhưng chúng ta cũng dễ coi mình là trung tâm và qui tất cả về mình.
Chúng ta lạnh lùng trước nỗi đau, thiếu sẻ chia và độc đoán,
đôi khi dùng tha nhân như phương tiện lót đường để ta tiến thân.
Nói chung, dù yêu Chúa hay yêu người, chúng ta cũng phải ra khỏi mình,
trao đi chính mình và chấp nhận mọi hy sinh mà tình yêu đòi hỏi.
Đức Giêsu đã tóm Luật Môsê trong động từ yêu mến.
Và Ngài đã hoàn thiện Luật này bằng cách đẩy yêu mến đến cùng.
Kitô hữu chẳng những yêu mến Thiên Chúa với trọn con người mình,
mà còn được mời yêu mến Đức Giêsu trên mọi thụ tạo khác,
trên mọi của cải, trên những người ruột thịt, và trên cả mạng sống.
Kitô hữu là người mang mối tình sâu đậm với Đức Giêsu,
“Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2, 20),
đến nỗi họ có thể tuyên xưng như Phêrô : “Thầy biết con mến Thầy.”
Đức Giêsu cũng không chỉ đòi yêu tha nhân như chính mình.
Ngài còn đòi ta phải yêu như Ngài đã yêu (Ga 13, 34-35).
Một tình yêu tha thứ đến vô cùng, một tình yêu đối với cả kẻ thù,
một tình yêu phục vụ như người tôi tớ, một tình yêu dám hiến mạng.
Kitô hữu tự bản chất là người biết yêu và cuộc đời chỉ là tình yêu.
Tình yêu đích thực với Thiên Chúa thì đưa tôi về với anh em.
Tình yêu đối với anh em lại đòi tôi phải trở về với Thiên Chúa.
Chỉ mong đời tôi đong đưa giữa hai tình yêu đó, để chúng nên một tình yêu.
Cầu nguyện
Con đã yêu Chúa quá muộn màng!
Ôi lạy Chúa là vẻ đẹp vừa cổ kính,
vừa luôn mới mẻ,
con đã yêu Chúa quá muộn màng!
Bấy giờ Chúa ở trong con
mà con thì ở ngoài,
con cứ chạy đi tìm Chúa ở ngoài.
Con thật hư hỏng,
khi chạy theo các thụ tạo xinh đẹp.
Bởi thế, bấy giờ Chúa ở với con
mà con lại không ở với Chúa.
Các thụ tạo xinh đẹp kia cứ giữ con ở xa Chúa,
trong khi chúng hiện hữu được là nhờ Chúa.
Chúa đã gọi con, đã gọi to
và phá tan sự điếc lác của con.
Chúa đã soi sáng
và xua đi sự mù lòa của con.
Chúa đã tỏa hương thơm ngát
để con được thưởng thức,
và giờ đây hối hả quay về với Chúa.
Con đã nếm thử Chúa
và giờ đây con đói khát Người.
Chúa đã chạm đến con,
nên giờ đây con nóng lòng
chạy đi tìm anh bình nơi Chúa. (Thánh Âu Tinh)
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
A- Phân tích (Hạt giống...)
Trả lời cho một số luật sĩ hỏi “Giới răn nào là trọng nhất”, Chúa Giêsu đưa ra hai giới răn mến Chúa và yêu người.
Đặt biệt, Ngài nói “Giới răn thứ hai cũng giống như giới răn thứ nhất”, và “Toàn thể lề luật và các sách tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó”.
B- Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Những luật sĩ Do Thái rất thuộc luật và giữ rất kỹ, nhưng họ không biết đến cốt lõi của mọi khoản luật là yêu thương. Có thể chúng ta cũng thế: hằng ngày chăm chỉ giữ luật Giáo Hội và luật cộng đoàn, nhưng không có tình mến Chúa và yêu người. Nếu thế thì tất cả đều vô ích.
2. Có người nói yêu thương khó hơn mến Chúa. Dĩ nhiên, vì con người không đễ thương bằng Chúa. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã coi giới răn thứ hai bằng giới răn thứ nhất.
3. “Nếu ai nói tôi yêu mến Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối, vì ai không yêu thương anh em mà họ trông thấy thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn chúng ta đã nhận được từ Ngài: ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng yêu thương anh em mình.” (1Ga 4,20-21)
4. Có một tác giả tưởng tượng câu chuyện sau:
Trên đường đi đến miền đất Chúa hứa, Abraham dựng một cái lều để nghỉ chân. Vừa ra khỏi lều, Ngài thấy một người hành khất xin giúp đỡ. Động lòng thương, Ngài mời người đó vào và làm tiệc thiết đãi. Trước khi ăn tiệc, Ngài mời người hành khất cùng dâng lời chúc tụng cảm tạ Chúa. Nhưng vừa nghe thấy tiếng “Chúa”, người ăn mày liền nói lộng ngôn xúc phạm đến Chúa. Abraham nổi giận đuổi người đó ra khỏi lều. Đêm đó, Abraham quỳ cầu nguyện, Ngài nghe có tiếng Chúa nói như sau: “Này Abraham, ngươi có biết người ăn mày đó nhục mạ Ta năm mươi năm nay không? Thế mà mỗi ngày Ta vẫn thương ban lương thực cho nó. Ngươi không yêu thương cho nó một bữa hay sao?”.
Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mặc khải là một Người Cha yêu thương mọi con cái, ngay cả những đứa con bất hiếu ngỗ nghịch. Đồng thời Ngài mời gọi chúng ta nên trọn lành như Cha trên trời, nghĩa là yêu thương mọi người không loại trừ người nào. Đó là tất cả giáo huấn của Chúa Giêsu: Ngài đến để nói với con người rằng Thiên Chúa yêu thương con người và con người cũng hãy yêu thương nhau. (Mỗi ngày một tin vui)
5. “Giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy, là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi.” (Mt 22,39).
Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu được giao phó trông coi một chị nữ tu lớn tuổi. Chị này nổi tiếng là khó tính trong nhà Dòng. Đến giờ ăn, Têrêsa phải dìu chị xuống nhà ăn. Một thiếu sót nhỏ cũng đủ để cho Têrêsa bị trách móc. Chị ấy bực bội, không bằng lòng, nhưng Têrêsa vẫn luôn tỏ ra vui tươi hồn nhiên và chịu đựng tất cả vì Thánh nữ yêu mến Chúa; và vì tình yêu Chúa, Thánh nữ yêu mến nữ tu đáng thương này.
Tình yêu đối với Thiên Chúa phải được tỏ hiện ra dấu hiệu bề ngoài là tình yêu đối với tha nhân. Và chúng ta không chỉ chứng tỏ tình yêu đối với tha nhân không phải chỉ bằng lời nói nhưng còn bằng hành động, bằng sự nhẫn nhịn, tha thứ và cảm thông.
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết yêu thương tha nhân, nhất là những người thân, sống trong gia đình chúng con. (Hosanna)
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn