Thứ hai tuần 22 thường niên.
"Người sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó... Không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình".
Lời Chúa: Lc 4, 16-30
Khi ấy, Chúa Giêsu trở về Nadarét, nơi Người sinh trưởng, và theo thói quen của Người, thì ngày Sabbat, Người vào hội đường. Người đứng dậy để đọc sách. Người ta trao cho Người sách tiên tri Isaia. Mở sách ra, Người gặp ngay đoạn chép rằng: "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng".
Người gấp sách lại, trao cho thừa tác viên, và ngồi xuống. Mọi người trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe". Mọi người đều làm chứng cho Người và thán phục Người về những lời từ miệng Người thốt ra, và họ nói: "Người này không phải là con ông Giuse sao?"
Và Người nói với họ: "Hẳn các ngươi sắp nói cho Ta nghe câu ngạn ngữ này: "Hỡi thầy thuốc, hãy chữa lấy chính mình"; "điều chúng tôi nghe xảy ra ở Capharnaum, ông hãy làm như vậy tại quê hương ông". Người nói tiếp: "Ta bảo thật các ngươi, không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình. Ta bảo thật các ngươi, đã có nhiều bà goá trong Israel thời Êlia, khi trời bị đóng lại trong ba năm sáu tháng, khi nạn đói lớn xảy ra khắp trong xứ; dầu vậy, Êlia không được sai đến cùng một người nào trong các bà đó, nhưng được sai đến bà goá tại Sarepta thuộc xứ Siđon. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Êlisêô, thế mà không người nào trong họ được lành sạch cả, ngoại trừ Naaman, người Syria".
Khi nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy căm phẫn, họ chỗi dậy và trục xuất Người ra khỏi thành. Họ dẫn Người lên triền núi, nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống vực thẳm. Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi.
Suy Niệm 1: Trả lại tự do
Suy niệm:
Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Luca kể chuyện Đức Giêsu
đến giảng tại hội đường Nadarét, vào một ngày sabát (c. 16),
Dù trước đó Ngài đã giảng tại Caphácnaum và nhiều nơi khác (cc. 15. 23),
nhưng thánh Luca đã cố ý đặt ngay ở đầu sứ vụ công khai
cuộc gặp gỡ đặc biệt này giữa Ngài với người đồng hương ở Nadarét.
Đây là nơi Đức Giêsu tuyên bố chương trình sắp tới của Ngài.
Chương trình ấy được gói trong những câu trích dẫn từ ngôn sứ Isaia.
Được thụ thai bởi quyền năng Thánh Thần (Lc 1, 35),
và được lãnh nhận Thần Khí khi chịu phép rửa (Lc 3, 22),
Đức Giêsu đã được xức dầu để nhận lãnh sứ mạng làm ngôn sứ.
Sứ mạng này chủ yếu là loan báo Tin Mừng cho người nghèo.
Loan báo Tin Mừng là động từ hay được Luca sử dụng (4, 43; 7, 22; 8,1…)
Tin Mừng này trước hết dành cho người nghèo theo nghĩa đen,
nghĩa là những người không có thu nhập cao, không đủ ăn, đủ mặc.
Ai là người nghèo nữa dưới mắt của Đức Giêsu?
Đó là những người nghèo tự do, phải chịu cảnh giam cầm.
Họ có thể là những người bị tù đày chỉ vì không có tiền trả nợ.
Đó là những người nghèo sức khỏe,
họ bị coi là chịu sự trói buộc của Xatan (Lc 13, 16),
Đó là những người nghèo đời sống tâm linh,
họ phạm tội nên thấy mình xa cách Thiên Chúa và cộng đoàn.
Đức Giêsu đến để giải thoát những người nghèo này khỏi áp bức.
Ngài kéo họ ra khỏi cảnh nô lệ và trả lại tự do cho họ.
Chính vì thế Tin Mừng của Nước Thiên Chúa luôn đem lại niềm vui.
Đức Giêsu đã loan báo: Phúc cho anh em là người nghèo (Lc 6, 20).
Ngài đã chữa bệnh cho những kẻ ốm đau thân xác,
đã mở mắt người mù để họ thấy ánh sáng của ơn cứu độ.
Ngài cũng đã giao du và ăn uống với những tội nhân để đưa chiên lạc về.
Bởi đó thời của Đức Giêsu là Năm hồng ân, Năm Thánh.
Lời giảng của Đức Giêsu bước đầu đã được dân làng thán phục.
Họ có vẻ hãnh diện vì một người trong làng được lừng lẫy tiếng tăm.
Nhưng Đức Giêsu không muốn mình bị chi phối bởi dân làng.
Ngài không muốn bị buộc phải dành chút ưu tiên nào cho Nadarét (c. 23).
Đức Giêsu còn nhìn xa hơn đến sứ vụ nơi dân ngoại (cc. 25-27).
Ngài nhắc đến hai vị ngôn sứ trong Cựu Ước là Êlia và Êlisa.
Hai vị này đã giúp bà góa ở Xiđôn và tướng Naaman ở Xyri.
Dân Nadarét phẫn nộ và định giết Đức Giêsu khi Ngài nói rằng
Thiên Chúa chỉ sai hai ngôn sứ trên đến với dân ngoại mà thôi.
Thế giới hôm nay giàu hơn, nhưng vẫn còn lắm người nghèo như xưa.
Nghèo vì thiếu những điều kiện sống cơ bản, thiếu những quyền lợi căn bản.
Nghèo vì chưa được nghe biết về Đức Giêsu,
hay nghèo vì đã gạt Thiên Chúa ra khỏi đời mình.
Loan báo Tin Mừng là làm con người thực sự thêm giàu có.
Cầu nguyện :
Lạy Cha,
thế giới hôm nay cũng như hôm qua
vẫn có những người bơ vơ lạc hướng
vì không tìm được một người để tin;
vẫn có những người đã chết từ lâu
mà vẫn tưởng mình đang sống;
vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế,
ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;
vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn,
bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống;
vẫn có những người bị sống bên lề xã hội,
dù không phải là người phong...
Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ
và biết chạnh lòng thương như Con Cha.
Nhưng trước hết,
xin cho chúng con
nhìn thấy chính bản thân chúng con.
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Suy Niệm 2: Bí Quyết Nên Thánh (Lc 4,16-30)
Sau một thời gian rao giảng Tin Mừng ở vùng gần Giêrusalem bên bờ sông Giócđan nơi Gioan Tẩy Giả làm phép rửa, Chúa Giêsu trở về thăm làng cũ. Ở đó dân chúng đã nghe nói về nội dung lời rao giảng của Ngài, ở đó người ta cũng nghe nói tới một số phép lạ Ngài đã làm. Tin đồn này làm cho những người đồng hương bỡ ngỡ: "Ông ta đã học được những điều đó ở đâu? Ông không phải là con ông Giuse đó sao?" Ðó là một thắc mắc rất chính đáng.
Người dân Nazareth, nhất là những người đã từng quen biết và lớn lên với Chúa Giêsu hẳn có đủ lý do để tỏ ra ngỡ ngàng khi nghe kể về thành tích của Ngài, bởi vì trong suốt ba mươi năm sống trong ngôi làng nhỏ bé ấy, Ngài đã chẳng tỏ ra bất cứ một dấu thánh thiện siêu phàm nào. Chúng ta có thể tự hỏi làm sao Chúa Giêsu đã có thể sống trong ngôi làng bé nhỏ ấy trong suốt ba mươi năm mà không để lộ bản tính của Ngài? Làm sao Con Thiên Chúa lại có thể sống trong ngôi làng hẻo lánh nghèo nàn ấy trong bao nhiêu năm mà dân chúng không hề thắc mắc? Câu trả lời chỉ có thể là Chúa Giêsu chỉ có một ý niệm về thánh thiện hoàn toàn khác với những người Do Thái đồng hương và cả chúng ta nữa. Thời Ngài, thánh thiện có nghĩa là tuân giữ chi ly mọi Lề Luật, trung thành với truyền thống và phong tục vốn được xem là biểu thị của đời sống đạo đức, nhưng Chúa Giêsu đã không nghĩ như thế. Chính vì vậy mà khi Ngài bắt đầu rao giảng, chữa bệnh và làm phép lạ, tất cả những ai đã từng biết Ngài trong ngôi làng nhỏ bé ấy đều thắc mắc và bỡ ngỡ. Quả thật, tất cả những ai đã từng quen biết Ngài chỉ xem Ngài như một người như họ mà thôi, Ngài không để lộ bất cứ một dấu thánh thiện hay siêu phàm nào.
Ðiều đáng làm cho chúng ta suy nghĩ là không nơi nào trong các sách Tin Mừng viết rằng Chúa Giêsu là một con người đạo đức, chúng ta chỉ đọc được rằng Ngài đi khắp nơi để rao giảng Tin Mừng và làm việc thiện mà thôi. Như vậy, chúng ta có thể kết luận rằng Chúa Giêsu có một quan niệm về sự thánh thiện hoàn toàn khác với những người Do Thái đương thời. Ðối với Ngài, thánh thiện là sống hoàn toàn như một con người, là làm người như Thiên Chúa đã dựng nên, đó là câu giải đáp thắc mắc tại sao những người Do Thái đồng hương của Chúa Giêsu thắc mắc và bỡ ngỡ khi Ngài bắt đầu rao giảng và chữa bệnh. Ðối với lối suy tư của họ, Ngài xem ra quá trần tục, quá là người cho nên không thể làm được những chuyện cả thể như người ta đã đồn thổi. Tuy nhiên đây chính là một mạc khải sâu xa: Thiên Chúa nhập thể làm người để sống như một con người như mọi người, hầu dạy chúng ta biết sống cho ra người. Chính cuộc sống đơn giản và bình thường ấy lại chứa đựng một sự thánh thiện tuyệt vời.
Trong các thứ học thì hẳn học làm người là điều khó nhất, người ta có thể đỗ đạt thành tài trong cuộc sống, người ta có thể nắm vững được lãnh vực chuyên môn của mình, nhưng học làm người là một thứ trường học mà con người sẽ chẳng bao giờ tự cho là mình đã tốt nghiệp và thôi học. Sống như một con người, như Chúa Giêsu đã sống ba mươi năm âm thầm tại Nazareth, âm thầm đến độ những người quen biết không thấy có gì đáng chú ý trong cuộc sống ấy. Sống như một con người chính là sống một cách sung mãn từng giây phút của cuộc sống. Sống một cách phi thường những việc tầm thường nhất trong đời thường, sống bằng một tình yêu cao cả những việc làm nhỏ bé nhất hàng ngày, đó chính là bí quyết để nên thánh vậy.
Suy Niệm 3: Không có thứ thanh niên đó nơi chúng tôi
Người bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người.
Họ bảo nhau: “Ông này không phải là con ông Giu-se đó sao?” (Lc. 4, 21-22)
Giờ Thiên Chúa đã điểm cho Đức Kitô xuất hiện. Ngài vừa chuẩn bị sứ mệnh trong một cuộc tình lâu dài và kham khổ trong hoang địa. Ngài định thi hành sứ vụ công khai bằng cuộc thăm viếng ngôi làng nhỏ bé nơi sinh trưởng của Ngài là Na-gia-rét. Ngài vào hội đường lúc giờ kinh phụng vụ và lên tiếng giải thích bài sách tiên tri I-sai-a: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khổ, cho kẻ bị tù đầy được tự do và cho người mù được thấy ánh sáng, giải phóng cho kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân của Chúa”
Đức Giêsu nói: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh” những người đồng hương ngạc nhiên về sự khôn ngoan của Ngài, họ chưa hiểu Ngài. Ngài nói với họ: Tôi, Người đang nói với ông bà anh chị em là chàng thanh niên của ông bà và anh chị em đều biết rõ tôi, tôi là Người Chúa đã truyền đi thực hiện những điều lạ lùng như tiên tri I-sai-a đã nói.
Nhưng bây giờ tôi không còn là chàng thanh niên đó nữa nên các ông bà anh chị em không chấp nhận tôi, không nghe tôi, không muốn có tôi. “Tôi bảo thật: không có một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”. Quá khứ đã chứng tỏ hùng hồn cho điều đó. Bao nhiêu ngôn sứ như Ê-li-a và E-li-sê đã không thể làm điều gì lạ ở nơi quê mình và các ông bà anh chị em tiếp tục theo lề thói xưa nên đã khinh thường tôi. Tôi chỉ là con ông Giu-se. Tôi không thể thông thái hơn các ông bà. Không có gã thanh niên nào nơi các ông bà, giám yêu sách đòi làm ngôn sứ cho các ông bà. Đó có phải là trò đùa không.
Đó là thứ dỡn mặt quá trớn, cần phải trừ khử đi! Quả thực, “Họ đã phẫn nộ phải đứng dậy, lôi Ngài ra khỏi làng, khéo lên tận đỉnh núi để xô Ngài xuống vực. Nhưng Ngài băng qua giữa họ mà đi”. Vì giờ rao giảng của Ngài đã tới, giờ chết của Ngài chưa điểm.
Chúng ta cũng có những ngôn sứ của chúng ta. Những gã thanh niên, thanh nữ này... Họ đang mang sứ điệp của Đức Kitô đến mọi nơi. Họ âm thầm, hiền lành và khiêm nhường trong lòng! nhưng lại không có nơi chúng ta sao?
Chúng ta đối xử với họ thế nào?
GF
Suy Niệm 4: LOAN BÁO TIN MỪNG CHO NGƯỜI NGHÈO (Lc 4, 16-30)
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật việc Đức Giêsu trở về quê hương và Ngài được mời lên để đọc Sách Thánh. Đoạn sách mà Đức Giêsu công bố hôm nay được lấy từ sách Tiên tri Isaia nói về ơn cứu độ của Thiên Chúa cho những người nghèo. Đọc xong, Ngài tuyên bố: "Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe".
Thấy vậy, mọi người trong Hội Đường hy vọng Đức Giêsu sẽ ưu ái đặc biệt với họ. Tuy nhiên, điều mà họ mong muốn lại không được Đức Giêsu đáp ứng. Thay vào đó, Đức Giêsu muốn cho họ hiểu rằng: ơn gọi, sứ mạng của Ngài là đến với muôn dân, và đối tượng số một là những người nghèo. Nghèo về tinh thần, nghèo về vật chất, những người cô thế cô thân, thấp cổ bé họng... chứ không chỉ dành cho một số người ưu tuyển hoặc đặc quyền thân quen...!
Khi bị Đức Giêsu lật ngược ván cờ, họ sinh ra lòng căm nghét, vì thế, dân chúng đã trục xuất Đức Giêsu ra khỏi Hội Đường.
Khi suy niệm tới đây, hẳn chúng ta xầm xì về những hành vi phũ phàng của người Dothái với Đức Giêsu! Nhưng nếu hồi tâm một chút, hẳn chúng ta cũng chẳng khác gì những người Dothái khi xưa.
Thật vậy, đã biết bao lần chúng ta mang trong mình tâm thức: “Một người làm quan cả họ được nhờ”. Và như một hệ lụy, nhiều người đã vất vả, khó khăn khi phải đối diện với sự chọn lựa theo tinh thần của Đức Giêsu.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết quý trọng quê hương, gia đình. Vì quê hương là nơi “chôn nhau cắt rốn”, là nơi cung cấp cho chúng ta những truyền thống tốt đẹp thủa ban đầu. Gia đình là nơi chúng ta được sinh ra, được nuôi dưỡng và lớn lên thành người...
Tuy nhiên, quê hương chỉ là nơi cưu mang chúng ta một thời. Gia đình là chỗ ta đi về và thể hiện tình nghĩa. Còn khi chúng ta đã trưởng thành, Chúa mời gọi chúng ta hãy đi và phải vươn xa tầm nhìn để mở rộng trái tim, để ôm ấp những người bé mọn, ốm đau, bị áp bức, bất công...
Cần phải vượt ra khỏi những kỳ thị vùng miền, giai cấp địa vị để đến với muôn dân, mọi nơi.
Được như thế, chúng ta mới thực sự là môn đệ của Đức Giêsu và trở thành người mang Tin Mừng của Ngài đến cho người nghèo...
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sẵn sàng ra đi bất cứ nơi đâu Chúa cần chúng con hiện diện. Xin cũng ban cho chúng con trái tim của Chúa, để chúng con vượt qua mọi ranh giới, ngõ hầu đến được với những người đang cần sự giúp đỡ của chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 5: Bụt Nhà Không Thiêng
Không thể làm tiên tri mà không trải qua bách hại, khổ đau thử thách. Ðó là số phận chung của các tiên tri từ Cựu Ước qua Tân Ước. Những kẻ không được sai đi, tự lấy danh mình mà nói, đó là những tiên tri giả; còn các tiên tri thật ý thức mình được Chúa sai đi và chỉ nói những gì Ngài muốn, một sứ mệnh như thế thường tạo ra nơi vị tiên tri một cuộc chiến nội tâm mãnh liệt. Môsê và Êlia trải qua khủng hoảng và ngay cả thất vọng khi phải trung thành với Lời Chúa; Yêrêmia đã nhiều lần ca thán và có lúc chỉ muốn đào thoát. Ðau khổ nhất cho các tiên tri là thấy lời nói của mình không được lắng nghe.
Chúa Giêsu không chỉ đến để làm cho lời các tiên tri được ứng nghiệm, Ngài cũng là vị tiên tri đúng nghĩa nhất. Nơi Ngài cũng có những đặc điểm của các tiên tri: đối đầu với những giá trị sẵn có, Ngài tỏ thái độ như các tiên tri: Ngài nghiêm khắc với những kẻ khóa Nước Trời không cho người khác vào. Ngài nổi giận trước sự giả hình của những người Biệt phái. Ngài đặt lại vấn đề tư cách là con cháu Tổ phụ Abraham mà người Do Thái vẫn tự hào. Nhất là Ngài rao giảng không chỉ bằng lời nói, mà còn bằng cả cuộc sống của Ngài; do đó, bị chống đối, bị bách hại là số phận tất yếu của Ngài.
Tin Mừng hôm nay là lời tiên báo về sự chống đối và bách hại mà Chúa Giêsu sẽ trải qua. Sau một thời gian rao giảng và làm nhiều phép lạ, danh tiếng Ngài được nhiều người biết đến. Thế nhưng, khi trở về quê hương, Ngài chỉ nhận được sự hững hờ và khinh rẻ của người đồng hương mà thôi. Quả thật, như Ngài đã trích dẫn câu tục ngữ quen thuộc: "Không tiên tri nào được đón tiếp nơi quê hương của mình", đó là định luật tâm lý mà chính Ngài cũng không thoát khỏi. Nhưng quê hương đối với Chúa Giêsu không chỉ là ngôi làng Nazaréth nhỏ bé, mà sẽ là toàn cõi Palestina. Ngài đã đến nơi nhà Ngài mà người nhà của Ngài đã không đón tiếp Ngài. Cái chết trên Thập giá là tuyệt đỉnh sứ mệnh tiên tri của Chúa Giêsu, là lời nói cuối cùng của Ngài như một vị tiên tri.
Là thân thể, là sự nối dài của Chúa Kitô, Giáo Hội cũng đang tiếp tục sứ mện tiên tri của Ngài trong trần thế, do đó, Giáo Hội không thoát khỏi số phận bị chống đối và bách hại. Một Giáo Hội không bị chống đối và bách hại là một Giáo Hội thỏa hiệp, nghĩa là đánh mất vai trò tiên tri của mình.
Nhờ phép Rửa, người Kitô hữu cũng được tham dự vào sứ mệnh tiên tri của Chúa Kitô: bằng lời nói, và nhất là chứng tá cuộc sống, chúng ta thực thi vai trò tiên tri của mình trong xã hội. Cũng như Chúa Giêsu, chúng ta được Thánh Thần xức dầu và sai vào trần thế. Ước gì chúng ta luôn kiên trì rao giảng Tin Mừng của Chúa dù gặp thời thuận tiện hay không thuận tiện, vì biết rằng mình đang sống ơn gọi tiên tri.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
A. Hạt giống...
Bắt đầu từ hôm nay, phụng vụ chọn đọc Tin Mừng theo thánh Luca.
Đoạn Tin Mừng hôm nay nói về hoạt động của Chúa Giêsu ở Nazarét, quê hương Ngài:
Ngày sabbat, Ngài vào hội đường, dựa trên doạn sách Isaia để công bố chương trình hành động của Ngài. Đó là mang Tin Mừng ơn cứu độ cho người nghèo khổ.
Bài giảng đã gây hứng khởi trong lòng thính giả. Họ thầm mong rằng vì tình đồng hương, Ngài sẽ ưu tiên làm phép cho họ. Nhưng Ngài đã chốt từ, bởi vì Ngài là Đấng cứu độ của mọi người chứ không phải của riêng ai.
Thất vọng, dân Nazarét trục xuất Ngài khỏi thành và muốn giết Ngài.
B. Suy niệm (...nẩy mầm)
Sứ mang của chúng ta nối tiếp sứ mang Chúa Giêsu, là mang Tin Mừng và ơn cứu độ cho mọi người. Nếu có ưu tiên cho ai, thì đó là những kẻ nghèo khổ chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội, chứ không phải là những người bà con, bạn bè thân thuộc chúng ta.
Thế nào là “loan Tin Mừng cho người nghèo khổ?”. Những người nghèo khổ quanh tôi là ai? Tôi có quan tâm ưu tiên đến việc loan báo Tin Mừng cho họ chưa?
Hai câu chuyện Cựu ước cho thấy các ngôn sứ Êlia và Êlisê ưu ái những người ngoại. Chúa Giêsu cũng thế. Còn tôi, hình như tôi xa lánh người ngoại, tôi nguyện dè với họ, tôi còn giữ nhiều thành kiến về họ, tôi có thái độ tự tôn coi mình hơn họ.
Đối với Chúa Giêsu, người dân Nazarét chỉ mong Ngài nể tình đồng hương mà ưu tiên ban cho họ nhiều đặc ân. Khi ước muốn không đạt thì họ quay mặt phản đối và trục xuất Ngài. Đó là một thái độ hoàn toàn vụ lợi. Phải chăng thái độ của tôi đối với Chúa cũng vụ lợi như thế?
Bài Tin Mừng này làm tôi nhớ đến quê hương, cha mẹ, anh chị em, bà con, bạn bè.. Những người này thực sự là nguồn an ủi trợ lực cho tôi. Xin cho họ luôn là trợ lực chứ đừng bao giờ là trở lực cho sứ mạng Tin Mừng của tôi.
Trợ lực và trở lực:
Hai thanh niên lớn lên trong một gia đình với một người cha nghiện rượu. Vì còn trẻ mỗi cậu sống theo ý muốn riêng mình.
Nhiều năm sau, một cậu trở nên nghiện rươu không thể cải thiện. Cậu kia là người chống uống rượu. Một tâm lý gia tìm hiểu hậu quả của việc nghiện rượu gây cho những đứa trẻ trong gia đình hỏi cậu thứ nhất: “Tại sao anh trở nên người nghiện rươu?” và cậu thứ hai: “Tại sao anh trở nên người chống rượu?”.
Cả hai cùng câu trả lời: “Ông có thể mong đợi điều gì khác khi ông có người cha như tôi ?”(Góp nhặt).
“Ngài đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Luca 4,18-19).
Tôi lênh đênh trên chiếc xuồng máy vào các xã vùng sâu của miền Đồng Tháp đã được nửa ngày. Là thành viên của đoàn công tác xã hội cứu trợ lũ lụt, hơn chục lần tôi phải leo lên bờ đất trơn tuột, sình lầy để vào những căn lều phong phanh cũ nát. Không khí oi nồng và cảm giác chênh vênh trên mặt nước làm tôi nuốt không trôi mẫu bành mì ăn trưa. Còn nửa trái quýt, cảm thấy không ăn được nữa tôi nhét vào tay một cậu bé ốm nhách, đen thui như cục than. Không hiểu vì vị ngọt không thể tìm thấy ở vùng đất khắc nghiệt ấy hay vì điều gì mà ánh mắt em nhìn tôi vui vui, thật lạ.
Một niềm vui bé con được thắp lên từ một hành động vô tình. Niềm vui ấy có lẽ sẽ được nhân lên gấp đôi trong tôi nếu tôi biết san xẻ cho em phần ăn với tất cả tấm lòng yêu thương, nhân ái.
Lạy Chúa, xin cho con luôn luôn biết đem niềm vui đến cho mọi người, để niềm vui được nhân lên và trở thành hồng ân Chúa tuôn tràn trên nhân loại từng phút giây. (Hosanna).
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn