Các Bài Suy niệm Chúa Nhật 15 Thường Niên – B
Lời Chúa: Am. 7, 12-15; Ep. 1, 3-14; Mc. 6, 7-13
MỤC LỤC
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Trong kỳ họp thường niên của HĐGMVN thứ nhất năm nay, các Đức giám mục Việt Nam chia sẻ với nhau tiến trình thỉnh nguyện xin mở án phong chân phước cho hai Đức Cha: Đức Cha Lambert de la Motte và Đức Cha Francois Pallu. Vào thế kỷ 17, Toà Thánh đã đặt Đức Cha Lambert de la Motte làm giám mục Đàng Trong (từ sông Gianh trở vào Nam) kiêm Camquchia, Lào, Thái Lan. Đức Cha Francois Pallu giám mục Đàng Ngoài (từ sông Gianh trở ra Bắc) kiêm Trung Quốc.
Đức Cha Francois Pallu là người pháp, từ bỏ gia đình và quê hương, ngài dùng tàu buồm vượt qua Địa Trung Hải rồi men theo đường bộ từ Trung Đông, Vịnh Ba Tư, Ấn Độ mới đến Thái Lan. Năm 1670, trên đường đến miền Bắc Việt Nam, lúc đi ngang qua Huế, thuyền của ngài bị một cơn bão đánh giạt vào Philippin. Ngài bị người Tây Ban Nha bắt bỏ tù rồi đem giải về Tây Ban Nha. Với sự can thiệp của Toà Thánh, Tây Ban Nha trả tự do cho Đức Cha. Tuy phải trải qua nhiều gian khổ, nhưng tim ngài vẫn luôn sáng chói một niềm hy vọng là phải đem Tin Mừng đến tận Trung Quốc. Vừa được trả tự do, ngài tìm mọi cách đến Bắc Kinh, và cuối cùng thân xác ngài được chôn vùi tại đây. Cho nên, Ngài đã vui mừng nói: “Tôi tự cho mình hạnh phúc nếu có thể đem xương cốt mình bắc một nhịp cầu tới Bắc Việt và tới Trung Quốc!”.
Thưa anh chị em, cuộc đời truyền giáo của Đức Cha Francois Pallu tại đất nước chúng ta cũng như biết bao nhà truyền giáo khác đều gắn liền với đời tông đồ và cái chết tử đạo của mười hai Tông Đồ. Chính Chúa Giêsu tuyển chọn Nhóm Mười Hai để nhóm này ở lại bên Ngài và để được huấn luyện. Mục tiêu của huấn luyện là để các ông trở nên giống như Chúa, rồi cũng được Chúa sai đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Cho nên, Chúa Giêsu đã trao tất cả những gì mình có cho các ông: quyền rao giảng, chữa bệnh, trừ quỷ. Vì vậy, hoạt động của các ngài là một sự nối dài và mở rộng sứ vụ của Chúa Giêsu.
Đáng lý ra hành trình rao giảng đầy gian khó như thế phải mang nhiều hành trang chứ? Nhưng Chúa Giêsu nói: “Không được mang gì khi đi đường”, tức phải lên đường với hai bàn tay trắng, không có lộ phí, không có lương thực dự trữ, như thế họ phải hoàn toàn lệ thuộc vào lòng nhân hậu của Thiên Chúa và lòng tốt của tha nhân. Ra đi tay trắng như thế là chấp nhận mọi bất trắc có thể xẩy ra dọc đường, nhưng đặt mình dưới sự quan phòng của Chúa. Chính Chúa lo mọi sự cho tôi, để tôi chuyên tâm lo việc của Chúa. Sự an toàn của tôi không dựa vào những phương tiện trần thế, nhưng vào chính Thiên Chúa. Có như thế, chúng ta mới dễ:
Thứ nhất, có nhiều thời gian gắn bó mật thiết với Đức Giêsu. Thứ hai là có trái tim biết cảm thương và cứu giúp tất cả mọi người: từ người trẻ đến già, từ những người đau yếu bệnh tật, hoang đàng tội lỗi, đến những người nghèo kém may mắn. Cuối cùng, có tâm hồn nghèo khó đơn sơ phó thác. Nghèo khó tâm hồn tức là siêu thoát với vật chất. Vật chất chỉ là phương tiện giúp sống chứ không phải mục đích sống. Nếu sống duy vật chất thì chắc chắn mất phần tâm linh, tức mất linh hồn, mất lương tri. Ví dụ, hôm này 7-7 vừa qua một vụ giết giết kinh hoàng xảy ra ở Bình Phước, làm 6 người trong gia đình đại gia, tất cả đều bị sát hại bằng phương thức cắt cổ. Chỉ duy nhất bé gái khoảng 18 tháng tuổi, con út ông bà chủ may mắn thoát nạn. Theo thông tin, người ta dự đoán đây là vụ giết người cướp của. Lại một sự đau lòng cho con người vì tiền của mà mất lương tâm, bất nhân và tàn ác.
Trong bài đọc 2, Thánh Phaolô xác tín: “Trong Đức Ki-tô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người” (Ep 1,4). Qủa thế, chúng ta là những người đã chịu Phép Rửa, là giống nòi tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa để hoạt động tông đồ và rao truyền Tin Mừng cho mọi người. Vì thế, hôm nay, Chúa Giêsu Phục Sinh cũng sai chúng ta đến với thế giới. Thế giới đó là: nơi chúng ta đang sống, đang làm việc, là gia đình, bạn bè, là trường học, cơ quan, xí nghiệp… Vậy, là môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta phải ra đem Tin Mừng của Chúa thấm đẩm vào cuộc sống ngõ hầu biến đổi thế giới mình đang sống hành thế giới của Thiên Chúa: là công bình, bác ái, yêu thương, tha thứ, không gian tham, không độc ác…
Ước gì Lời Chúa hôm này, sau Thánh Lễ này, Chúa Giêsu sai chúng ta ra đi loan truyền Tin Mừng Phục Sinh của Ngài cho mọi người ở mọi nơi. Tin Mừng này chỉ có thể được công bố rõ ràng và hữu hiệu nhất bằng cuộc sống chứng tá của mỗi người chúng ta qua các hoạt động tông đồ của chính mình hay các ban ngành, đoàn thể trong giáo xứ trong tình yêu hiệp nhất với nhau và đặc biệt với Chúa Giêsu Kitô và Hội Thánh. Amen.
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.)
Tin Mừng Mc 6: 7-13: Ngày nay, trên thế giới, người ta đang rất quan tâm và thán phục Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Trân trọng không hẳn vì ngài khôn ngoan cho bằng nhân đức của ngài vượt trội. Một trong những đức tính tuyệt vời mà nhiều người nhận ra, đó là đức tính khiêm nhường, can đảm và nghèo khó….
Ngày nay, trên thế giới, người ta đang rất quan tâm và thán phục Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Trân trọng không hẳn vì ngài khôn ngoan cho bằng nhân đức của ngài vượt trội. Một trong những đức tính tuyệt vời mà nhiều người nhận ra, đó là đức tính khiêm nhường, can đảm và nghèo khó. Vì thế, ngài đơn sơ, giản dị, dễ gần, luôn cảm thông cho người tội lỗi, nâng đỡ những người bất an, bảo vệ những người bị áp bức, và nhất là luôn thương cảm với người nghèo.
Ngài thực là người mục tử mẫu mực, luôn “cảm thấu” và “ngửi” thấy mùi chiên.
Hôm nay, phụng vụ Lời Chúa cũng làm toát lên những đặc tính cần phải có nơi người môn đệ.
Bài đọc I, trích sách Amos, thuật lại việc ngôn sứ Amos bị mời đi nơi khác hoạt động, vì nơi đó, người ta không muốn ngài hiện diện. Tuy nhiên, vị ngôn sứ này rất chân thành, đơn sơ, nghèo khó và can đảm xác tín mạnh mẽ về ơn gọi của mình đến từ Chúa và sứ mạng ông đang thực thi cũng là do chính Chúa chỉ định. Khi xác tín như thế, ông đã trung thành và quả cảm ở lại ngay tại nơi “nước sôi lửa bỏng” để loan báo sứ điệp mà Thiên Cháu muốn ông thi hành.
Với bài đọc II, thánh Phaolô tuyên tín mạnh mẽ và gợi lại cho dân về ơn gọi của mỗi người cách nhiệm mầu trong tình thương của Thiên Chúa từ trước cả khi tạo dựng đất trời.
Điều cao quý nhất, đó là trong Đức Giêsu, mỗi người được trở thành nghĩa tử của Thiên Chúa và được cứu chuộc nhờ máu của Con của Người đã đổ ra trên thập giá để giải thoát khỏi tội lỗi và ban cho chúng ta sự sống thần linh.
Ân huệ này phải được chúng ta cảm nghiệm và loan truyền cho mọi người được thấy.
Cuối cùng, thánh sử Máccô thuật lại việc Chúa gọi và chọn mười hai Tông đồ, rồi nhắn nhủ các môn sinh của mình trước lúc lên đường những điều cốt lõi, trọng tâm.
Tin Mừng thuật lại: Đức Giêsu trao cho các ông quyền trên mọi thần ô uế, để các ông chữa lành và củng cố lời giảng của mình, hầu cho lời giảng có giá trị và thuyết phục, đồng thời để lời nói và hành động không bị mâu thuẫn.
Từ bài Tin Mừng, chúng ta có thể hiểu về lời căn dặn của Đức Giêsu trước khi sai các môn đệ đi loan báo Tin Mừng như sau:
Trước tiên là nhiệm vụ của người ra đi: người được sai đi là để loan báo Tin Mừng, kêu gọi thống hối chứ không phải là loan báo tin buồn, đồng thời sai đi để chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền chứ không phải gieo rắc đau thương.
Thứ hai là tinh thần của người ra đi: người được sai đi sẽ gặp không ít khó khăn, nên cần phải tin tưởng, bám chặt lấy Thiên Chúa, trao phó mọi sự nơi Ngài. Ra đi trong tinh thần thanh thoát, không cần phải cồng kềnh và quá lo lắng cho ngày mai. Hãy là người tôi tớ phục vụ, bởi vì: “Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy”. Và đừng quá lo lắng về vật chất, bởi vì: Không ai giàu đến độ không có gì cần phải nhận. Không ai nghèo đến mức không có cái gì để cho (Helder Camara).
Thứ ba là thái độ của người được sai đi: người môn đệ muốn được thành công thì phải mặc lấy thái độ của hạt lúa, tức là tự hủy ra không, phải nhân từ để “ngửi thấy mùi chiên” và “mang mùi chiên nơi mình”, luôn quan tâm đến người khác hơn là nghĩ về mình. Không ngại khổ, ngại khó và cần phải hy sinh vì phần thưởng của người thừa sai trên trời thật lớn lao.
Thứ tư là lập trường của người ra đi: sống trong một xã hội đầy nhiễu nhương, muốn loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi tư tưởng, nhận thức của con người. Quan điểm, lập trường của một số người mọi thời là không có Thiên Chúa, cũng chẳng có niềm tin…. Vì thế, họ không ngần ngại uốn nắn và tìm đủ mọi cách dưới nhiều hình thức tinh vi để gây nên những hoang mang, thất vọng. Bên cạnh đó là những trào lưu tục hóa, những văn hóa phẩm đồi trụy… nhằm gieo rắc những chân lý nửa vời và làm cho con người lấn sâu trong tội mà không biết! Và, cũng những con người đó, họ muốn loại bỏ người môn đệ của Chúa, vì thế, cái chết là kết cục cuối cùng của người thừa sai. Số phận của người môn đệ là: như chiên đi vào giữa bầy sói.
Tuy nhiên, lập trường của người môn đệ, trong mọi hoàn cảnh, không bao giờ và không được phép đồng lõa, thỏa hiệp để chỉ vì mục đích “rẻ tiền” nhằm được yên thân. Lập trường của người môn đệ còn là hiện diện và sống những giá trị Tin Mừng cách thực tế chứ không chỉ lo củng cố bề ngoài cho thật “hoành tráng” theo thói đời, nhưng bên trong thì rỗng tuếch.
Thứ năm là chiến lược của người môn đệ: được mời gọi hiện hữu giữa thế gian nhưng không bị thế gian điều khiển và đẩy đưa để dẫn đến cái gọi là: dùng phương tiện xấu để biện minh cho mục đích tốt. Phải khôn như rắn để xây dựng, bảo vệ sự hiệp nhất của Giáo Hội, và, phải hiền lành, đơn sơ như chim bồ cầu trong tinh thần huynh đệ.
Cuối cùng, lời chào của người ra đi: là lời chúc bình an của Chúa chứ không phải là những gợi ý, mong muốn để được nâng đỡ cách này hay cách khác mang tính phàm tục.
Từ những suy niệm trên, chúng ta thấy, Đức Giêsu rất quan tâm đến tinh thần của người môn đệ. Một trong những điều mà Ngài quan tâm hơn cả, đó là tinh thần nghèo khó của người được sai đi. Tinh thần nghèo khó có nghĩa là chỉ gắn bó với sự giàu có của Thiên Chúa mà thôi. Vì thế, Ngài đã không gọi những người giàu có, tài ba lỗi lạc, mà đa phần là những người nghèo, tội lỗi để loan báo Tin Mừng. Có thế, Đức Giêsu muốn cho các ông hiểu rằng: hành trang các ông mang theo trên đường truyền giáo là trái tim, sự khiêm nhường và lòng phó thác.
Mặt khác, khi chọn người nghèo và tội lỗi là đối tượng chính yếu để loan báo Tin Mừng, Đức Giêsu muốn cho mọi người nhận thấy rằng: người nghèo chính là tài sản của Giáo Hội.
Từ ơn gọi của các Tông đồ đến đối tượng của sứ vụ các ngài đã lãnh nhận từ nơi Chúa, mỗi người Kitô hữu chúng ta cũng đều là những nhà thừa sai đúng nghĩa. Vì thế, tiên vàn, mỗi người Kitô hữu phải xác tín căn tính của mình là thuộc về Chúa và phải truyền giáo. Không truyền giáo, chúng ta đánh mất bản chất và không còn là người Kitô hữu đúng nghĩa. Có chăng chỉ là cái xác không hồn hay chỉ có tên tuổi trong sổ Rửa Tội!
Noi gương Vị Thừa Sai Vĩ Đại là Đức Giêsu, chúng ta truyền giáo bằng đời sống tốt lành, gương mẫu. Nhất định không bao giờ trở thành cái phèng la làm điếc tai thiên hạ, hay giống như cái thùng kêu to nhưng bên trong rỗng tuếch. Đời sống cầu nguyện, nghèo khó và sự khiêm tốn là nền tảng cho sứ vụ loan báo Tin Mừng.
Đối tượng chính yếu của công cuộc này là người nghèo. Trong Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, Đức Thánh Cha Phanxicô đã kêu gọi: “Mỗi cá nhân và mỗi cộng đồng Kitô hữu được kêu gọi trở thành một dụng cụ của Thiên Chúa cho việc giải phóng và thăng tiến người nghèo, và giúp họ là thành viên đầy đủ của xã hội” (số 187). Ngài quả quyết thêm: “Trong trái tim của Thiên Chúa có môt chỗ đặc biệt cho người nghèo, vì chính Thiên Chúa “đã trở nên nghèo khó” (x. 2 Cr 8,9; số 197). Nói như Paula Hoesi: “Nếu sự ham muốn của cải thế gian lấp đầy con tim tôi thì thử hỏi đâu còn chỗ dành cho Thiên Chúa?.
Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu rằng: Giáo Hội thực sự trung tín với Thiên Chúa khi Giáo Hội khiêm nhường, khó nghèo và tín thác. Xin cho mọi thành phần dân Chúa luôn sống tinh thần ấy khi loan báo Tin Mừng để Lời Chúa không bị bóp méo nơi những người loan báo. Amen.
(Suy niệm của Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc)
Tin Mừng Mc 6: 7-13: Hôm nay, Chúa Giêsu phục sinh cũng sai chúng ta đến với thế giới.
Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam đã ghi lại tên tuổi hai vị giáo sĩ truyền giáo nổi tiếng: Đức Cha Lambert de la Motte và Đức Cha Francois Pallu. Vào thế kỷ 17, Tòa Thánh đã đặt hai giám mục này làm Giám quản Tông Tòa đầu tiên ở Việt Nam: Đức Cha Lambert de la Motte phụ trách Đàng Trong (từ sông Gianh trở vào Nam) kiêm Campuchia, Lào, Thái Lan. Đức Cha Francois Pallu phụ trách Đàng Ngoài (từ sông Gianh trở ra Bắc) kiêm Trung Quốc.
Đức Cha Francois Pallu là người Pháp, từ bỏ gia đình và quê hương vào ngày 3.1.1662, Ngài dùng tàu buồm vượt qua Địa Trung Hải rồi men theo đường bộ một thời gian lâu dài, qua hết các nước Trung Đông, Vịnh Ba Tư, Ấn độ mới đến Thái Lan. Năm 1670, trên đường đến miền Bắc Việt Nam, lúc đi ngang qua Huế, thuyền của Ngài bị một cơn bão đánh giạt vào Philippin. Ngài bị người Tây Ban Nha bắt bỏ tù rồi đem giải về Tây Ban Nha. Với sự can thiệp của Tòa Thánh, Tây Ban Nha trả tự do cho Đức Cha. Tuy phải trải qua nhiều gian khổ, nhưng tim Ngài vẫn luôn sáng chói một niềm hy vọng. Ngài nói: “Tôi phải đem Tin Mừng đến tận Trung Quốc”. Vừa được trả tự do, Ngài tìm mọi cách để đến Bắc Kinh, và cuối cùng thân xác Ngài được chôn vùi tại đây theo như Ngài mơ ước. Một câu nói của Ngài đáng cho chúng ta ghi nhớ: “Tôi tự cho mình hạnh phúc nếu có thể đem xương cốt mình bắc một nhịp cầu tới Bắc Việt và tới Trung Quốc !”
Thưa anh chị em,
Cuộc đời truyền giáo của Đức Cha Francois Pallu tại đất nước ta cũng như biết bao nhà truyền giáo khác trên thế giới gắn liền với đời tông đồ và cái chết tử đạo của Mười Hai Tông đồ. Chính Chúa Giêsu tuyển chọn Nhóm Mười Hai để Nhóm này ở lại bên Ngài và để được huấn luyện. Mục tiêu của huấn luyện là để các ông trở nên những người được Chúa Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Ngay từ khi còn ở trần gian, Chúa Giêsu đã thấy mình đứng trước một cánh đồng mênh mông, có biết bao người cần được nghe Tin Mừng cứu độ. Ngài thấy mình cần những cộng tác viên nhiệt thành cho công cuộc truyền bá Tin Mừng. Chúa Giêsu đã trao tất cả những gì mình có cho Nhóm Mười Hai: quyền rao giảng, chữa bệnh, trừ quỷ. Hoạt động của các ông là một sự nối dài và mở rộng sứ vụ của chính Chúa Giêsu.
Chia tay Thầy Giêsu, Nhóm Mười Hai lên đường. Đâu là hành trang của người tông đồ ? Chúa Giêsu trả lời: “Không được mang gì khi đi đường”. Không bánh trái, không bao bị, không tiền bạc, không mặc hai áo. Như thế, các ông lên đường với tất cả sự nhẹ nhàng. Càng nhẹ nhàng thì càng dễ thi hành sứ mạng và càng được tự do hơn. Tuy nhiên sự nhẹ nhàng này thật là một thách đố. Khi người tông đồ phải lên đường với hai bàn tay trắng, không có lộ phí, không có lương thực dự trữ, lúc đó họ phải hoàn toàn lệ thuộc vào lòng nhân hậu của Thiên Chúa và lòng tốt của tha nhân. Ra đi tay trắng như thế là chấp nhận đủ mọi bất trắc có thể xảy ra dọc đường, nhưng cũng là đặt mình thường xuyên dưới sự quan phòng của Chúa. Chính Chúa lo mọi sự cho tôi, để tôi chuyên tâm lo việc của Chúa. Sự an toàn của tôi không dựa vào những phương tiện trần thế, nhưng vào chính Thiên Chúa.
Chúa Giêsu cũng dạy cho các ông biết thái độ phải có khi đến với dân chúng. Nếu được đón tiếp thì hãy ở lại, không tìm một nhà khác tiện nghi hơn. Người tông đồ cần có đời sống nghèo, đón nhận những gì được trao cho mình với lòng biết ơn. Nếu không được đón tiếp thì cũng không nên nản lòng. Cử chỉ giũ chân ra đi cho thấy người tông đồ chẳng hề muốn lấy đi điều gì ở nơi đã từ chối đón tiếp mình.
Anh chị em thân mến,
Hôm nay, Chúa Giêsu phục sinh cũng sai chúng ta đến với thế giới. Thế giới không phải là chuyện xa xôi. Thế giới là nơi chúng ta đang sống, đang làm việc. Thế giới là gia đình, bạn bè, là trường học, cơ quan, xí nghiệp. Thế giới là nơi giải trí, nơi du lịch, bãi biển. Thế giới là sách báo, phim ảnh, video, quảng cáo. Thế giới là mọi ngành khoa học, nghệ thuật, văn chương. Chúng ta ở trong thế giới và Chúa muốn sai chúng ta đi vào thế giới của mình trong tư cách là người kitô hữu. Kitô hữu là người có khả năng biến đổi thế giới mình đang sống để nó biến thành thế giới của Thiên Chúa. Các tông đồ đã rao giảng, đã mời gọi con người hoán cải để đón nhận Nước Thiên Chúa gần bên. Chúng ta cũng phải có can đảm kêu gọi mọi người hoán cải, để tất cả những gì phá hủy phẩm giá con người, loại trừ sự sống của Thiên Chúa, đều phải bị loại trừ. Kitô hữu là người phải hoán cải trước khi mời gọi người khác hoán cải, phải tỉnh thức trước khi đánh thức người khác, phải thuộc về Chúa trước khi trừ quỷ.
Thế giới hôm nay cũng là một thế giới bị thương tích, cần được chữa lành. Bệnh tật của thân xác và bệnh tật của tinh thần vẫn hoành hành trên thế giới. Con người đau khổ vì mất niềm tin, lo âu, tuyệt vọng. Con người nô lệ cho chính những sản phẩm của mình. Tiến bộ khoa học kỹ thuật lại đặt ra những vấn đề mới mà tự sức con người không giải quyết được. Kitô hữu là người tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu, băng bó vết thương của thế giới bằng sự hiện diện đầy yêu thương.
Chúng ta không rõ nếu hôm nay Chúa phục sinh chỉ thị cho chúng ta, thì Ngài sẽ nói gì trước khi sai chúng ta ra đi. Chắc Ngài sẽ nói khác với đoạn Tin Mừng hôm nay, nhưng ý chính vẫn không thay đổi. Ngài dạy chúng ta tin cậy vào quyền năng của Thánh Linh hơn là vào khả năng và phương tiện tự nhiên của mình. Ngài nhắc nhở chúng ta tín thác vào Cha trên trời và chuyên cần cầu nguyện, vì chẳng ai có thể rao giảng Tin Mừng nếu không có tình bạn thân thiết với Chúa.
Mỗi thánh lễ Chúa Giêsu tập họp chúng ta lại thành một cộng đoàn môn đệ của Ngài, để rồi sai chúng ta ra đi loan truyền Tin Mừng phục sinh của Ngài cho mọi người ở mọi nơi. Tin Mừng này chỉ có thể được công bố bằng cuộc sống làm chứng của mỗi người chúng ta và của cả Giáo Hội, một cuộc sống trung thành với Chúa Giêsu nghèo khó và chịu đóng đinh thập giá. Đó là bằng chứng đáng tin của tình thương cứu độ cho mọi người.
Một tôn giáo chỉ tồn tại nếu mỗi ngày một phát triển và có thêm người tin theo.
Kitô giáo do Chúa Giêsu thiết lập cũng nằm trong hoàn cảnh ấy. Dưới con mắt của Ngài, thì mỗi linh hồn đều có một giá trị như nhau. Và mỗi người đều được sai đi để tìm kiếm những con chiên lạc, mà dẫn chúng trở về cùng Chúa. Ngài luôn ý thức rằng Thiên Chúa đã tạo dựng con người, không phải để vứt vào lò lửa đời đời, nhưng là để được thu vào kho lẫm Nước Trời. Do đó, mối bận tâm lớn nhất của Ngài khi đến trong trần gian chính là đem Tin Mừng cứu độ cho mọi người. Và để chu toàn sứ mệnh này, Ngài cần có những người cộng tác với Ngài, bởi vì lúa chín thì nhiều, mà thợ gặt thì ít.
Với chúng ta cũng vậy, một khi đã lãnh nhận bí tích Rửa tội và bí tích Thêm Sức, chúng ta cũng đã bước theo Chúa để trở nên môn đệ của Ngài. Vì thế, chúng ta có bổn phận phải cộng tác với Ngài, trong công cuộc rao giảng Tin Mừng, truyền bá đức tin. Vậy rao giảng Tin Mừng, hay truyền bá đức tin là gì?
Tôi xin thưa: Trước hết là rao giảng Đức Kitô, Đấng đã đến để thiết lập Nước Trời. Việc rao giảng và truyền bá này gồm hai phần. Một phần tiêu cực, đó là giải phóng con người khỏi sự nô lệ và kìm kẹp của ma quỷ, tội lỗi. Vì thế, Chúa đã ban cho các tông đồ quyền hành trên các thần ô uế. Còn một phần tích cực đó là làm chứng cho Chúa trong lời nói, trong việc làm và nhất là trong đời sống của mình.
Thực vậy, người Kitô hữu phải là người có Chúa trong tâm hồn và đem Chúa đến cho người khác. Và cách thức bảo đảm để đem Chúa đến cho người khác, đó chính là đời sống gương mẫu của mình, một đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương.
Ngày kia thánh Phanxicô gọi một thầy dòng để cùng đi rao giảng với ngài. Hai thầy trò rảo qua các đường phố tại Assie, một cách thật nghiêm trang, vừa đi vừa suy gẫm về Chúa. Tới nhà, thầy dòng ngạc nhiên vì chẳng thấy giảng dạy ở chỗ nào. Thánh nhân mỉm cười và trả lời: Chúng ta đã giảng bằng chính gương sáng, bằng chính sự sốt sắng mang Chúa trong tâm hồn.
Một điều cần thiết khác trong khi hoạt động tông đồ, đó là phải biết quên mình đi, để Chúa hoạt động, bởi vì dù tài giỏi đến đâu chăng nữa, chúng ta cũng chỉ là một dụng cụ tầm thường trong bàn tay Chúa. Vì thế, đừng ỷ lại vào tài năng, một hãy tin cậy vào tình thương và quyền năng của Chúa, bởi vì không có Chúa chúng ta không thể làm được gì.
Một văn hào có nói: Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ nâng cả địa cầu này lên. Điềm tựa duy nhất của chúng ta, chính là Thiên Chúa. Thánh nữ Catarina, chỉ là một nữ tu dòng Đaminh, vừa trẻ tuổi lại vừa ít học, thế nhưng đã chi phối đời sống thiêng liêng của Giáo Hội, đã chi phối những sinh hoạt chính trị của nước Ý và đã làm được nhiều việc to lớn, như đem Đức Giáo Hoàng từ Avignon trở về Rôma. Sở dĩ như vậy vì thánh nữ hoàn toàn tin tưởng và phó thác vào quyền năng và tình thương của Chúa.
Bởi vì như Thánh vịnh cũng đã viết:
Ví như Chúa chẳng xây nhà,
Thợ nề vất vả cũng là uổng công
Thành trì Chúa chẳng giữ trông
Hùng binh kiện tướng cũng không ra gì.
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Sau khi đã dạy cho các môn đệ xong, Chúa Giêsu sai các ông đi rao giảng. Điều này cho thấy, Ngài không rao giảng một mình. Ngài muốn cho các môn đệ cùng chia sẻ sứ mệnh rao giảng với Ngài.
Điều này hợp lý vì Ngài biết cuộc đời trần thế của Ngài không kéo dài mãi, nhưng sứ mệnh cứu độ của Ngài phải được tiếp tục cho đến tận thế. Để thực hiện điều này, Ngài chọn mười hai môn đệ và một nhóm môn đệ khác. Ngài huấn luyện họ và sai họ đi rao giảng ngay khi Ngài còn ở với họ, giúp họ học hỏi kinh nghiệm cuộc sống truyền giáo của Ngài. Ngài sai đi với những chỉ thị rõ rệt.
Ngài sai họ đi từng hai người. Chúng ta có thể hiểu rằng công việc rao giảng không phải là công việc của một cá nhân và cũng không dễ dàng, cần phải trợ lực cho nhau, cần cộng tác với nhau. Công việc này không phải công việc của một cá nhân muốn làm thế nào tùy ý mình, mà là một trách nhiệm chung cùng chia sẻ cực khổ với nhau, và theo một đường hướng nhất định. Sau này chúng ta thấy các Tông Đồ cũng thực hiện y như thế: Phêrô với Gioan sát cánh, Phaolô và Banaba cũng luôn đi đôi.
Trước khi sai đi, Chúa Giêsu căn dặn thật kỹ: chỉ được mang theo cây gậy và mang dép, ngoài ra không mang theo gì khác: không lương thực, không tiền bạc, áo xống…
Cây gậy và dép là cần thiết cho những chuyến đi dài. Ngoài ra, mọi sự sẽ được giải quyết tại chỗ tùy hoàn cảnh. Ra đi rao giảng không phải là tìm cho mình những bảo đảm vật chất, những tiện nghi. Người giảng chỉ cần mang trong lòng Tin Mừng mà thôi.
Những điều Ngài căn dặn đều được nhìn thấy nơi Ngài. Ngài “không có nơi tựa đầu”, không tiền, không bạc, hoàn toàn tay không. Các môn đệ của Ngài không thể nào đi con đường khác. Nhờ đó, họ cảm thấy nhẹ nhàng, không vướng mắc gì cả khi dấn thân cho sứ mệnh.
Công Đồng Vatican II, trong sắc lệnh về truyền giáo (Ad gentes) đã nêu rõ: “Giáo Hội (…) nhờ Chúa Thánh Thần thúc đẩy,(…) cũng tiến bước trên con đường mà Chúa Giêsu đã đi, là nghèo khó, vâng phục, phục vụ và tự hiến thân cho đến chết”. Chúng ta không thể ra đi mang cồng kềnh những hành trang vật chất. Con người truyền giáo là con người dám “cho không cuộc đời của mình” như Thầy Chí thánh, mới có thể đem lại những mùa gặt phong phú.
Phải ra đi.
Truyền giáo là ra đi, vì “lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít”. Thế giới mênh mông, Giáo Hội vẫn còn là một con thuyền nhỏ trên biển cả nhân loại. Giáo Hội vẫn ước mong làm sáng tỏ Tin Mừng trên khắp thế giới. Mỗi người Công giáo phải cảm thấy bị thôi thúc ra đi khỏi chân trời hẹp hòi của mình, đi vào chương trình mênh mông của Thiên Chúa là “cứu vớt tất cả mọi người”.
Chúng ta làm được gì?
Xem ra chúng ta nhỏ bé quá, chúng ta cảm thấy mình như một hạt cát, chẳng có giá trị gì, làm sao “rao giảng Tin Mừng” như Chúa muốn?
Chúng ta nhỏ bé đó là điều hiển nhiên, nhưng chúng ta không làm gì một mình. Một mình, chúng ta chỉ là hạt cát nhỏ, nhưng chúng ta là Giáo Hội. Chúng ta làm theo Giáo Hội, với Giáo Hội và trong Giáo Hội, nghĩa là với tất cả anh chị em chúng ta.
Chúng ta ra đi không phải do sáng kiến riêng của chúng ta, mà là được “sai đi”. Chúng ta lãnh nhận sứ mệnh từ nơi Chúa, trong luồng gió của Thánh Thần, chỉ một điều quan trọng là chúng ta “dám” ra đi hay không.
Chúng ta có dám ra đi với sự khó nghèo khiêm tốn, buông bỏ tất cả những gì là tham vọng cá nhân hay trần thế không?
Chúa muốn chúng ta ra đi với bàn tay trắng, chỉ có cây gậy, là niềm tin tuyệt đối vào Đấng đã sai chúng ta đi. Chúng ta không mang theo hành trang nào ngoài “Chúa Giêsu Kitô” và “Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh trên thập giá”.
Đây là điều dễ vì chúng ta luôn luộm thuộm đủ các thứ: tham vọng, kiêu căng và bao nhiêu ước mơ không phải là Chúa. Chúng ta vẫn mang theo “con người cũ” của chúng ta. Phải tẩy xóa tất cả những gì có thể ngăn cản lời Chúa. Người tông đồ, càng bỏ mình, thì càng vâng phục ý Cha mới có thể chuyển thông sứ điệp của Chúa. Chúng ta hoàn toàn thuộc về Chúa, trong sự sống cũng như sự chết, như các Tông Đồ, như Phaolô, lời nhỏ bé của chúng ta mới mang lấy sức mạnh cần thiết để đi vào các tâm hồn.
Chúa Giêsu trao quyền trừ quỷ cho các Tông Đồ. Tại sao thánh Maccô chỉ nói đến quyền này mà thôi? Chúa Giêsu đến trong trần gian là để tiêu diệt thần dữ. Các Tông Đồ ra đi là đi vào cuộc chiến chống thần dữ. Trao quyền trừ quỷ là mục tiêu chính yếu, các quyền khác như chữa bệnh chỉ là phụ thuộc. Điều quan trọng và cam go nhất là lột mặt nạ của ma quỷ đang chiếm hữu các tâm hồn, giải thoát con người khỏi ách nô lệ của thần dữ. Vì thế, các Tông Đồ ra đi, kêu gọi mọi người “sám hối”. Đó là công việc đầu tiên giúp con người thoát ra khỏi vòng kềm tỏa của ma quỷ. Việc trừ quỷ bên ngoài chỉ là dấu hiệu cho một cuộc giải thoát quan trọng hơn.
Người Tông Đồ phải đặt tất cả niềm tin vào Đấng đã kêu gọi và sai mình đi mới đủ khả năng lột mặt nạ và xua đuổi ma quỷ, vì đôi khi, chúng ta không trừ quỷ được “phải ăn chay và cầu nguyện”.
Sai các Tông Đồ đi rao giảng, Chúa Giêsu ân cần dặn dò các ông, cả về vấn đề vật chất như “ăn những gì người ta dọn cho”, “ở lại trong một nhà mà thôi, không đi nhà này đến nhà khác”, tìm những gì thích hợp cho mình. Người Tông Đồ không tìm tiện nghi cho chính mình để hưởng thụ.
Đi rao giảng là “cho không” tất cả, chỉ bằng lòng với những gì tối thiểu, và nếu cần, cũng hiến dâng mạng sống cho sứ mệnh.
Các Tông Đồ ra đi, thâu lượm nhiều kết quả.
Hôm nay, Chúa vẫn sai chúng ta đi, những người đang mang Tin Mừng trong cuộc sống của mình. Phép Rửa tội là một hồng ân nhưng không làm cho chúng ta được sáp nhập vào Chúa Kitô. Phép Thêm sức là lệnh truyền ra đi. Thánh Thần Chúa tung chúng ta ra khắp nẻo đường cuộc sống. Không ai được phép nói rằng: tôi nhỏ bé, bất tài, dốt nát… Chúa Giêsu chỉ đòi hỏi chúng ta tin vào Ngài thôi.
Truyền giáo là biến cuộc sống hằng ngày thành một tuyên xưng đức tin sống động và rõ rệt: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng (Tin Mừng)!” Tin Mừng chính là chúng ta, là cuộc sống hôm nay, cuộc sống hướng thẳng vào Chúa, trao trọn cho Chúa. Một giáo dân đã nói: “Từ khi có Chúa Giêsu, mỗi cuộc đời của người tín hữu là một quyển Tin Mừng thứ năm”.
Hôm nay, trên bàn thờ này, Chúa Giêsu vẫn đến và sai chúng ta đi. Kết thúc thánh lễ, chủ tế nói: “Lễ xong, chúc anh chị em về bình an”. Chúng ta quy tụ lại để cùng nhau chia sẻ Mình Máu Thánh Chúa, để “được no say tình Chúa” và ra đi. Cuộc sống chính là môi trường rao giảng của mỗi người. Chúng ta ra đi vào đời, không phải đơn độc, mà cùng với Chúa, mang Chúa trong tâm hồn…và thông chuyển tình yêu Chúa cho mọi người chung quanh. Chỉ cần biết: phục vụ và yêu thương.
Như chúng ta đã biết: thánh Phanxicô Assisi, sinh trong một gia đình giàu có. Thuở niên thiếu, người là một cậu bé lêu lỏng hoang phí. Thế rồi vào năm 1202, thành phố Assisi và Perugia bỗng trở nên thù địch nhau. Phanxicô gia nhập quân đội Assisi và lên đường chiến đấu. Chàng bị bắt làm tù binh. Sau đó bị xiềng và giam trong hầm ngục dơ bẩn suốt một năm. Khi được trả tự do, phải mất một thời gian dài, sức khoẻ chàng mới được khôi phục. Chính biến cố này đã thay đổi cuộc đời chàng. Chàng dẹp bỏ những bộ quần áo đắt tiền và khoác lên người bộ quần áo công nhân nghèo khổ. Chàng từ giã gia đình để sống đời ẩn sĩ khổ hạnh. Chàng đặc biệt lưu tâm tới những kẻ bị xã hội ruồng bỏ. Sở dĩ tình thương ấy lớn mạnh trong tâm hồn chàng là do mối xúc cảm sâu xa trước hai lời giáo huấn trong Kinh Thánh.
Lời giáo huấn thứ nhất nằm trong sách Sáng Thế Ký, đó là mọi người đều được dựng nên theo hình ảnh Chúa. Giáo huấn thứ hai nằm trong sách Phúc Âm, đó là sự gì chúng ta làm cho một kẻ bé nhỏ nhất là chúng ta đã làm cho chính Chúa vậy. Chàng đã xác tín và thực thi đúng với những lời giáo huấn kể trên. Lần kia, đang lúc đi đường, Phanxicô gặp một người cùi. Mặc dù rất ghê tởm, nhưng Phanxicô xấn tiến lại ôm hôn con người bất hạnh đó.
Hơn thế nữa, chính đoạn Tin Mừng hôm nay, ngài được nghe đọc trong một thánh lễ đã thay đổi toàn bộ nếp sống của ngài. Ngài từ giã nếp sống ẩn sĩ, dùng đức khó nghèo làm hành trang lên đường để rao giảng Tin Mừng. Nếp sống này chẳng bao lâu đã lôi cuốn được nhiều thanh niên. Và những tu sĩ đầu tiên của dòng Phanxicô này ra đi khắp nơi, chăm sóc các bệnh nhân và giúp đỡ những người nghèo. Họ lấy trời làm nhà và ăn uống bất cứ thứ gì người ta bố thí cho. Đức khó nghèo biến họ trở nên một với những kẻ nghèo khó. Và đó cũng chính là nếp sống mà Chúa Giêsu đã chọn.
Thánh Phanxiô kêu gọi mọi người giúp đỡ kẻ nghèo tuỳ theo hoàn cảnh của mình, và nhường cho kẻ khác trách nhiệm động viên quần chúng và chính quyền tấn công vào cội rễ phát sinh ra sự nghèo khổ. Điều đó dẫn chúng ta đến một kết luận thật quan trọng. Đó là ngày nay hơn bao giờ hết, xã hội đang cần những loại chứng từ phục vụ người nghèo như Chúa Giêsu, như thánh Phanxicô, như Mẹ Têrêsa…
Phải, thế giới đang rất cần những người biết giúp đỡ kẻ nghèo tuỳ theo hoành cảnh riêng của mình. Lời giáo huấn của Chúa trong đoạn Tin Mừng sáng hôm nay thật rõ ràng. Tất cả chúng ta đều được mời gọi rao giảng Phúc Âm. Và chúng ta có thể rao giảng Phúc Âm bằng cách biểu lộ tình yêu và sự quan tâm đối với kẻ khác, nhất là những kẻ nghèo túng và khổ đau.
Và để kết luận, chúng ta hãy nhớ lại kinh Hoà Bình của thánh Phanxicô Assisi: Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.
(Suy niệm của Lm Giuse Maria Lê Quốc Thăng)
Tin Mừng Mc 6: 7-13: Loan báo không phãi bằng lời mà bằng chính cuộc sống chứng tá của mình.
Tục ngữ có câu: “Miệng người giàu có gang, có thép”. Và người ta dạy đi tìm quyền lực trong tiền bạc, khí giới, trí thức, khoa học … Môn đệ của Đức Ki-tô không chạy theo tham vọng. Sứ vụ của họ là rao truyền lời Chúa, làm chứng nhân cho Chúa. Người môn đệ phải dành trọn vẹn tâm hồn và sức lực cho Thiên Chúa. Người ta chỉ tin lời của môn đệ khi họ sống lời đó như chân lý.
Mác-cô trình thuật cho chúng ta vài người bước theo Đức Ki-tô (1, 16- 20). Người qui tụ họ thành một Nhóm Mười Hai để “ở với Người” và chia sẻ sứ vụ với Người (3, 43- 19). Giờ đây, Người sai họ đi rao giảng (7).u5
Đức Giêsu “sai đi từng hai người một”. Có phải đây là thói quen của người Do thái hay không ? Theo luật Môsê ít nhất phải có hai người chứng, thì điều làm chứng mới được nhìn nhận (Đnl 19, 15). Con số 2 cũng nói lên tinh thần tập thể: người sứ giả rao truyền Tin Mừng không được đi đơn độc, nhưng phải làm việc theo tập thể. Điều Đức Giêsu làm đã được cộng đoàn tiên khởi tuân giữ. Trong sách Công vụ, các nhà truyền giáo luôn đi từng hai người một: Phêrô và Gioan (3, 1; 4, 13). Phaolô và Barnabê (13, 2); Giuđa và Silas (15, 22b)… Đức Giêsu chia sẻ một phần quyền hành của Người cho những kẻ được sai đi: quyền trừ quỷ. Đó là một dấu chứng cho thấy Nước Thiên Chúa đã khởi đầu.
Điều làm chúng ta kinh ngạc ở đây là tinh thần khó nghèo của vị sứ giả Thiên Chúa. Những phương tiện sống (lương thực, tiền túi) họ chỉ được lãnh nhận từ những kẻ họ thăm viếng. Khi ra đi họ không được mang theo bao bị, cũng không được mặc hai áo. Gọn nhẹ và luôn sẵn sàng để đi tới. Họ được cầm gậy và mang dép. Vào thời đó, người ta thường đi chân đất; nếu mang dép và cầm gậy, cho thấy con đường mà họ phải đi rất xa, như một người hành hương, như nghi thức trong đêm Vượt qua: “Các ngươi phải ăn thế này: lưng thắt gọn, chân đi dép, tay cầm gậy” (Xh 12, 11).
Lời nói về việc tiếp đón cũng gây kinh ngạc. Sứ giả truyền giáo, dù mang Tin Mừng cứu độ nhưng không, đến cho người ta, nhưng đôi khi vẫn bị từ chối. Tin Mừng không áp đặt ai, nhưng chỉ là lời mời gọi tự do, có thể được đón nhận hay bị từ chối. Khi người ta từ chối “Hãy giữ bụi đất dưới chân để tỏ ý cảnh cáo họ”. Đó là một thói quen cổ xưa để nói lên sự cắt đứt dứt khoát (Cv 13, 51).
Như Đức Giêsu, Nhóm Mười Hai ra đi công bố “Nước Trời đã đến”, kêu gọi con người sám hối để đón nhận. Các dấu lạ làm chứng điều các ông loan báo. Việc xức dầu chữa lành bệnh nhân là một phương dược thông thường vào thời đó, nhưng vì được hỗ trợ bằng quyền năng Đức Giêsu, nên trở thành hữu hiệu. Đây là mần mống cho Bí tích Xức Dầu bệnh nhân, do quyền năng Đấng Phục sinh nghi thức này chữa lành phần hồn, phần xác cho người tín hữu (x. Ge 5, 14).
Mỗi Kitô hữu đều là những người được Chúa chọn gọi để sai đi. Sai đi vào chính môi trường mình đang sống để trở nên muối men ướp cho mặn đời; để nên ánh sáng chiếu soi bóng tối tội lỗi, u mê của thế gian. Tất cả cuộc sống phải thấm nhuần tinh thần phúc âm. Mỗi người đếu phải ý thức và nỗ lực chu toàn trách nhiệm truyền giáo của mình. Luôn phải tự hỏi và cảnh tỉnh bản thân: Tôi được gọi để sai đi, vậy tôi đã thi hành lệnh sai đi ấy như thế nào trong cuộc sống hàng ngày của tôi.
Dù ở bất cứ đâu, bất cứ môi trường nào, địa vị nào, thì Kitô hữu, môn đệ Chúa Giêsu luôn luôn phải sống tinh thần khó nghèo, tín thác mọi sự trong tay Chúa.
Ngày hôm nay, qua các việc từ thiện chia sẻ bác ái, qua việc sống mưu sinh lương thiện, qua đời sống công chính dám hy sinh … sẽ làm cho đời Kitô hữu trở nên dấu chỉ của Nước Trời. Đó mới thực là những lời giảng hùng hồn nhất, có sức thuyết phục nhất.
Có một câu chuyện tưởng tượng kể lại:
Sau khi hoàn tất sứ mạng trần gian, Chúa Giêsu trở về trời và được thiên thần Gabriel ra tiếp đón. Gặp Chúa, thiên thần lên tiếng hỏi ngay: Lạy Chúa, xin Chúa cho biết công trình của Chúa sẽ được tiếp tục như thế nào ở dưới thế? Chúa Giêsu đáp: Ta đã chọn 12 tông đồ và Ta đã trao phó cho họ sứ mạng rao giảng Tin Mừng cho đến tận cùng bờ cõi trái đất. Nghe Chúa trả lời như thế, thiên thần Gabriel hình như chưa hoàn toàn thoả mãn nên hỏi tiếp: Nếu chẳng may họ thất bại thì Chúa có dự tính chương trình nào khác nữa không? Chúa Giêsu mỉm cười: Ta không dự tính một chương trình nào khác, Ta tin tưởng ơ họ.
Đúng thế, Chúa Giêsu hoàn toàn tin tưởng vào các tông đồ, mặc dầu xét về nhiều phương diện, khi Ngài về trời, Ngài đã để lại một nhóm tông đồ ít ỏi xem ra không đủ khả năng để chu toàn sứ mạng đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Hơn thế nữa, ngay cả sau khi Chúa đã sống lại, đức tin của các ông vẫn còn chập chững và chao đảo. Chẳng hạn lần kia Chúa Giêsu gặp gỡ họ trên bờ biển Tibêria, sau khi nghe theo lời Chúa truyền, các ông đã được một mẻ lưới đầy cá. Lên bờ, thấy sẵn có than hồng, với cá đang nướng và bánh. Các ông được Chúa ân cần mời: Hãy ăn đi các con. Tuy nhiên các ông vẫn còn nghi ngờ, chưa nhận ra ngay là Chúa. Và sách Tông Đồ Công Vụ còn cho chúng ta thấy thái độ sợ sệt và khép kín của các ông sau khi Chúa đã về trời. Thế nhưng, chính nơi các ngư phủ quê mùa này mà Chúa Giêsu đã trao phó trọn vẹn sứ mạng hoàn tất chương trình Chúa muốn thực hiện. Đó là chương trình biến trần gian trở thành Nước Trời. Cũng trong sách Tông Đồ Công Vụ, chúng ta còn thấy được một hình ảnh khác hẳn khi các ông nhận lãnh Chúa Thánh Thần.
Thực vậy, các ông đã can đảm ra khỏi những gian phòng đóng kín, nơi các ông đã từng sợ hãi và trốn tránh, để lên đường rao giảng Tin Mừng Đức Kitô ở khắp mọi nơi, bất chấp mọi cấm đoán, mọi đòn vọt, mọi giam cầm, sẵn sàng chấp nhận cái chết để nêu cao niềm tin. Tất cả các tông đồ, ngoại trừ một mình Gioan, đều đã lấy máu đào để minh chứng lời mình rao giảng.
Nước Trời từ một hạt cải nhỏ bé, đã trở thành một cây to cho chim trời tới đậu. Đã hai mươi thế kỷ trôi qua, có biết bao nhiêu người, thuộc đủ mọi thành phần, mọi sắc dân, đáp ứng lời mời gọi của Chúa Giêsu, Đấng là đường là sự thật và là sự sống.
Và bây giờ đến lượt chúng ta. Đúng thế, có lẽ lúc này Ngài đang nhìn mỗi người chúng ta và đưa ra một câu hỏi để chúng ta có được một thái độ dứt khoát. Câu hỏi ấy như thế này: Còn con, con có muốn trở nên tông đồ, cộng tác với Ta bằng lời nói cũng như bằng chính việc làm và cuộc sống của mình, để đem Tin Mừng đến cho những người chung quanh hay không? Thế nhưng, trước câu hỏi ấy, chúng ta đã trả lời như thế nào và chúng ta sẽ làm gì để đáp trả tiếng Chúa.
Một trong những ưu tư lớn trong cuộc đời công khai của Chúa Giêsu, đó là tìm những người cộng tác với mình trong công cuộc truyền bá Phúc âm, bởi vì Ngài luôn ý thức rằng: Lúa chín thì nhiều, mà thợ gặt thì ít. Chính vì thế Ngài đã kêu gọi và chọn lựa các môn đệ. Ngài đã để cho các ông sống bên cạnh mình và trực tiếp huấn luyện các ông, bằng cách để cho các ông được nghe những lời Ngài giảng, xem những việc Ngài làm. Và cắt nghĩa cho các ông những điều các ông chưa hiểu.
Rồi hôm nay, Ngài đã sai các ông đi để thực tập truyền giáo. Và trước khi các ông lên đường, Ngài đã căn dặn: Đừng mang theo bao bị, đừng mang theo cơm bánh, đừng mang theo tiền bạc và đừng mặc hai áo, nghĩa là Ngài bảo các ông phải ra đi trong một hoàn cảnh bấp bênh nhất, để tập trung vào việc rao giảng Tin Mừng, cũng như luôn phó thác vào tình thương và quyền năng của Thiên Chúa.
Lầm lỗi nặng nề nhất của người tông đồ hăng say và nhiệt thành, đó là họ quá cậy dựa vào tài năng riêng của mình mà quên mất tác động và sự trợ giúp của Chúa, bởi vì không có Chúa, chúng ta không thể làm được gì. Hay như lời thánh Phaolô xác quyết: Phaolô trồng, Apollo tưới, nhưng chính Thiên Chúa mới là Đấng đem lại kết quả.
Đối với chúng ta cũng vậy, một khi đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội và Bí tích Thêm sức, chúng ta cũng được Chúa kêu mời cộng tác với Ngài trong công cuộc truyền bá đức tin, để rồi chúng ta cũng sẽ là những môn đệ của Ngài. Và cách thức để chúng ta thể hiện ơn gọi và sứ mạng của mình một cách hiệu quả nhất vẫn là đời sống gương mẫu của chúng ta.
Vì thế, sau khi công bố tám mối phúc thật, Chúa Giêsu đã truyền dạy: Các con là ánh sáng thế gian. Ánh sáng ấy phải chiếu dãi trước mặt thiên hạ, để mọi người nhìn thấy những công việc của các con mà ngợi khen Cha các con là Đấng ở trên trời.
Tục ngữ Việt Nam cũng bảo: Lời nói như gió lung lay, việc làm như tay lôi kéo. Chính đời sống gương mẫu của chúng ta mới là một bài giảng hùng hồn có sức lôi cuốn và hấp dẫn mọi người đến cùng Chúa.
Tuy nhiên, nói tới việc tông đồ, nhiều người trong chúng ta vẫn cảm thấy xa lạ bởi vì họ cho rằng đó là bổn phận của giới tu hành, chứ không phải là bổn phận của họ, những người giáo dân sống giữa lòng đời. Đây là một quan niệm sai lạc, bởi vì đã là con cái Giáo Hội, chúng ta đều có bổn phận làm cho Giáo Hội được phát triển, được rộng mở, tùy theo hoàn cảnh và đấng bậc của mình.
Mẹ Têrêxa Calcutta kể lại một mẩu chuyện cảm động như sau: Ngày kia có một thiếu phụ cùng tám đứa con đến gõ cửa xin gạo. Mẹ đích thân trao cho bà ta một bao. Bà nhận gạo rồi chia làm hai phần, Mẹ ngạc nhiên hỏi tại sao thì bà trả lời: Tôi dành một phần cho gia đình Hồi giáo bên cạnh vì đã mấy ngày qua, họ không có gì để ăn.
Người nghèo khổ nhất cũng có thể thực thi tinh thần chia sẻ huynh đệ, nghĩa là họ vẫn có thể làm việc tông đồ, làm sáng danh Chúa bằng chính đời sống của họ.
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin Mừng Mc 6: 7-13: Người chỉ thị cho các ông không được mang gì hết, ngọai trừ cây gậy và đôi dép.
Có câu chuyện kể rằng: Sau khi hoàn tất sứ mạng trần gian, Chúa Giêsu về trời và được thiên thần Gabriel ra tiếp đón. Gặp Chúa, thiên thần lên tiếng hỏi ngay: Lạy Chúa, xin Chúa cho biết công trình của Chúa sẽ được tiếp tục như thế nào ở dưới trần gian? Chúa Giêsu đáp: Ta đã chọn 12 tông đồ và Ta đã trao phó cho họ sứ mạng rao giảng Tin Mừng cho đến tận cùng trái đất. Nghe Chúa trả lời, thiên thần Gabriel hình như chưa thoả mãn nên hỏi tiếp: Nếu chẳng may họ thất bại thì Chúa có dự tính chương trình nào nữa không? Chúa Giêsu mỉm cười đáp: Ta không dự tính một chương trình nào khác, Ta tin tưởng ở họ.
Đúng thế, Chúa Giêsu hoàn toàn tin tưởng vào các tông đồ, mặc dầu xét về nhiều phương diện, Người đã để lại một nhóm tông đồ xem ra không đủ khả năng để chu toàn sứ mạng rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Thế nhưng, chính nơi các ngư phủ quê mùa này mà Chúa Giêsu đã trao phó trọn vẹn sứ mạng hoàn tất chương trình của Chúa, đó là đem Nước Thiên Chúa vào trần gian.
Quả thế, trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng. Người chỉ thị cho các ông không được mang gì hết, ngọai trừ cây gậy và đôi dép.
– Đôi dép (sandal) là những miếng da bằng phẳng có xoi lỗ, có khi bằng gỗ hoặc bện bằng rơm. Người ta xỏ dây và cột nó vào chân để đi. Sandal được sử dụng rất thông thường trong xã hội Do Thái thời đó, và rất cần thiết cho những chặng đường dài. Cũng nên nhớ rằng, ở Israel có những miền đất sa mạc khô cằn, nóng cháy, vì thế sandal thật là cần thiết. Còn khi đi chân không, thì đó là dấu hiệu của sự tang tóc và chay tịnh. Vâng, người rao giảng tin vui đâu có ăn chay, đâu có mang tang tóc, vì thế cần phải đi sandal, và như vậy thì mới khỏe khoắn nhanh nhẹn rảo bước, sẵn sàng lên đường đi bất cứ nơi đâu, đến với bất cứ ai đang cần đến Tin Mừng.
– Cây gậy ở đây cũng là vật dụng cần thiết cho người lữ hành, cho người giảng thuyết phải đi khắp mọi nơi mọi chốn để loan báo tin vui. Với cây gậy trên tay chứ không vũ khí nào khác, người giảng thuyết xuất hiện rất đơn sơ và giản dị trước mặt mọi người.
– Không được mang hai áo
Trong xã hội Đông Phương thời đó, quần áo là dấu hiệu của sự giàu sang phú quý. Người giàu sang là người có nhiều quần áo, trong khi người nghèo khổ chỉ có mỗi một chiếc áo che thân. Để khoe khoang và muốn mọi người tiếp đón, người giàu có thường thay đổi áo và mang trên mình nhiều áo khác nhau. Người loan báo Tin Mừng của Giêsu không cần phải khoe khoang, không cần phải sửa soạn nhiều, không cần phải mang áo sang trọng trên mình.
– Không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng
Dây thắt lưng để buộc phía ngoài chiếc áo. Khi cần làm việc hay chạy, người ta vén các vạt áo trong lên và giữ lại bằng dây thắt lưng. Dây thắt lưng thường được may hai lớp khoảng 4 tấc rưỡi từ mỗi đầu. Phần may hai lớp thường dùng làm túi đựng tiền.
Túi tiền có thể là hai vật sau đây: Nó có thể là chiếc túi đi đường bình thường. Túi này được may bằng da dê con. Thường thì bộ da con vật được lột nguyên miếng nên vẫn giữ được hình dáng con vật, đủ cả chân, đuôi và đầu. Hai túi có dây để đeo trên vai. Trong đó người chăn chiên, khách hành hương, hoặc kẻ đi đường đựng bánh mì, nho, trái ôliu và bánh sữa đủ ăn một hai ngày. Khi ra chỉ thị này Chúa Giêsu muốn nhắc nhở các môn đệ đừng mang theo túi tiền, mang theo thức ăn khi đi đường, nhưng phải tin cậy phó thác vào Chúa.
– Rồi Chúa còn bảo: khi anh em vào nhà nào, thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi
Ở với họ, chung sống với họ, họ cho ăn cái gì thì ăn cái đó. Nói thì đơn giản, nhưng đi vào thực tế thì không đơn giản chút nào vì mỗi địa phương đều có văn hóa ẩm thực khác nhau. Không cần phải nói thời Chúa Giêsu, cách đây cả hơn hai ngàn năm, nói ngay tại đất nước chúng ta, ở ngay vùng Kontum, cách đây hơn một trăm năm thôi, các nhà thừa sai ngoại quốc đã gặp khó khăn như thế nào trong việc thích nghi với người dân tộc Làng Hồ về cách ăn uống. Các ngài phải ăn cả những thịt thối rữa như một vị thừa sai kể rằng:
“… Một hôm tôi yêu cầu một người dân tộc kể cho tôi nghe các loại động vật mà chính anh ta và những người dân tộc khác có thể ăn. Anh ta cười và nói với tôi: “Đúng hơn, tôi nên kể cho ông nghe tên những loài vật mà chúng tôi không được ăn”. Và anh kể ra bốn loại. Rồi anh nói thêm: “Ngoài bốn loài vật này, chúng tôi ăn tất cả những gì động đậy, nhúc nhích trong không khí, trên đất và cả dưới nước nữa”. Tuy nhiên, nói vậy không có nghĩa là những con vật còn sống khi người ta giết chết làm thịt, bởi vì dù con vật đã chết vì bệnh hoặc vì bị con vật khác giết, thậm chí đã thối rữa thì người dân tộc vẫn cứ ăn như thường. Một ngày kia, tôi đi ngang qua khu rừng. Một người dân làng Dak Rô Ting quen biết tôi, đã gọi tôi từ xa và mời tôi dùng bữa tối. Anh muốn thiết đãi tôi một bữa tiệc. Tôi quay lại và đến gần anh. Anh đang nấu thức ăn trong một ống lồ ô đặt trên đống lửa. Món gì vậy? Anh đã may mắn vớ được một phần còn lại của một con nai đã thối rữa. Anh cẩn thận lượm từng con giòi đang lúc nhúc trong đống thịt thối, bỏ vào đầy một ống lồ ô để làm một bữa tiệc, mà theo anh thì đây phải là một bữa tiệc dành cho bậc quyền quý đấy.
… Và tại làng Kơ Long: có cơm ăn là tốt rồi:
Trong thời gian đầu, nhiều sáng thức dậy, chúng tôi lo lắng không biết liệu còn đủ gạo để ăn nữa không. Nhưng nhờ Chúa Quan Phòng, chưa có ngày nào mà chúng tôi không còn gạo để nấu. Chúa nhân lành đã soi lòng mở trí cho cư dân của một làng tên là Kon Kơ Mo, để họ cung cấp gạo cho chúng tôi ăn suốt thời gian tạm trú trong rừng Kơ Lang.
Sau mấy tuần tôi ở Kơ Lang, Bok Kiêm, bạn của Thầy Sáu Do, đã đến thăm chúng tôi. Đến giờ ăn tối, thấy bên cạnh nồi cơm chỉ có rau rừng, ông đã ứa nước mắt. Hai ngày sau, các gia nhân của ông đã đem đến tặng chúng tôi một phần tư con trâu, một con heo và mấy con gà.
Thật đúng như lời Chúa nói: “thợ thì đáng ăn lương của chủ”. Cuộc sống của những nhà thừa sai là như vậy đó. Amen.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Tôi hình dung ngày Chúa nhật, Chúa Giêsu gọi tất cả chúng ta đến xum họp chung quanh bàn thờ để hiệp dâng Thánh lễ với Ngài. Rồi sau đó, Ngài sai chúng ta đi đưa Tin mừng, như các môn đệ sống thân mật bên Chúa Giêsu đã được sai đi rao giảng Tin mừng cho muôn dân. Thực vậy, Chúa Giêsu đã sống hiệp nhất với Chúa Cha và được sai xuống trần gian. Các môn đệ đã chung sống với Chúa Giêsu để rồi được sai đi, thì chúng ta xum họp với Ngài trong Thánh lễ để rồi cũng được sai đi thi hành sứ mạng tông đồ của Chúa Giêsu. Lời chúc cuối Thánh lễ là: Ite, missa est: Hãy đi, thi hành sứ mệnh được ủy nhiệm. Sứ mệnh đó là sứ mệnh tông đồ (Apostolorum missio), cũng là đầu đề của bài Tin mừng này,
Trước khi đi, Đức Giêsu đã gọi nhóm Mười hai lại và sai đi với những lời chỉ dẫn sau đây: “Đi từng hai người một”. Hai người làm chứng thì chứng có giá trị hơn một người. Trước tòa án cần có hai nhân chứng, chứng đó mới thật. Trước dân chúng, cần cóhai người chứng, chứng đó mới mạnh mẽ. Mạnh mẽ hơn nữa khi hai người sống thành cộng đồng thương yêu nhau như Chúa Giêsu đã nói: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương các con”, “Cứ dấu đó, thế gian sẽ nhận biết các con là môn đệ Thầy”.
Các môn đệ đã chung sống với Thầy, đã được Thầy yêu thương thế nào, các ông cũng phải chung sống và thương yêu nhau như vậy, để làm chứng về Thầy. Đó là ý muốn rõ nhất của Chúa Giêsu khi chỉ thị cho chúng ta thực hiện sứ mệnh tông đồ.
Lối sống yêu thương được thể hiện hơn qua cách sống nghèo: có khó mới bó lấy nhau, nên chỉ thị thứ hai là “Không mang gì đi đường”, đừng mang lương thực, bao bị, tiền bạc, quần áo, thêm phức tạp, nặng nề, phiền toái. Chỉ có giầy và dép là hành trang của kẻ bộ hành luôn luôn sẵn sàng lên đường đến các làng chung quanh, đến các thành thị, qua các bờ biển xa xăm. Chỉ thị của Thầy đòi hỏi chứng nhân sống nghèo khó, thanh bạch, siêu thoát, không cậy dựa vào của cải, giàu sang, không cậy thế, cậy quyền, như Thầy đã trả lời một kinh sư: “Con chồn có hang, con chim có tổ, Con Người không có chỗ dựa đầu”. Quyền thế, danh vọng, chỉ bắt người ta phục vụ mình, còn Đức Giêsu: “Con Người đến phục vụ như một đầy tớ hy sinh mạng sống để cứu người ta”. Cho nên thánh Phaolô nói: “Chính nhờ Máu thánh Đức Kitô mà ta được giải thoát, được tha tội … được hồng ân dồi dào phong phú … được Thiên Chúa đóng ấn bằng Thánh Thần … là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta” (Bài đọc 2).
Chứng nhân chỉ cậy dựa vào Đấng đã sai đi và ban quyền cho mình thôi: “Người ban cho các ông quyền trừ quỷ”. Như Thầy đã trừ quỷ, các môn đệ cũng trừ quỷ. Quỷ là thủ lãnh, là tướng, đầu mối gây ra tội lỗi, sự dữ, sự ác, đau khổ và sự chết. Cho nên các ông đã ra đi rao giảng kêu gọi người ta sám hối, từ bỏ mọi sự của ma quỷ, trở về với Thiên Chúa là nguồn sự sống, sự thánh thiện và ơn phúc.
Sau Thánh lễ chúng ta được Chúa Giêsu sai đi như mười hai tông đồ vậy. Khi chúng ta lo trừ khử tội lỗi, sửa thói hư tật xấu, trừ khử sự dữ, sự ác, đau khổ nơi mình và người khác là chúng ta trừ quỷ, là rao giảng Tin mừng.
Khi chúng ta cầu nguyện kết hợp với Chúa và làm cho người ta sống kết hợp với Chúa để mến Chúa, yêu người, là chúng ta rao giảng Tin mừng.
Khi chúng ta cố gắng làm mọi việc thiện, mọi việc ích lợi cho hồn xác người khác, là rao giảng Tin mừng. Chúa Giêsu đã từng nói: “Kẻ nào cho người bé mọn chỉ một bát nước vì danh nghĩa là môn đệ, sẽ không mất phần thưởng” (Mt. 10, 41; Mc. 6, 42).
Rao giảng Tin mừng như thế ai làm cũng được. Bài đọc một cho biết Amos là người chăn bò trồng sung, thế mà Chúa sai ông đi công bố lời Chúa cho dân Israel. Một ông già rách rưới gầy còm như ăn mày, đứng chen chúc trên xe đò, vẫn cầm tràng hạt đọc kinh, hướng lòng lên với Chúa, cầu nguyện cho mọi người đứng chật chội trên xe là rao giảng Tin mừng. Một đứa trẻ học giáo lý, đọc đi đọc lại, rót vào tai người lớn, đó là rao giảng Tin mừng. Một thanh niên biết khéo léo rủ bạn đi làm, xa tránh nghiện ngập rượu chè, đó là rao giảng Tin mừng.
Có trăm ngàn cách rao giảng Tin mừng, vì có trăm ngàn việc thiện đem lại vui mừng cho người ta.
Lạy Chúa, mỗi Thánh lễ là một bài sai chúng con đi thi hành sứ mệnh tông đồ, đi rao giảng công trình cứu độ của Chúa. Xin cho chúng con biết liên kết với nhau hăng hái đón nhận bài sai của Chúa để làm sáng danh Chúa giữa muôn người.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Ai đi xa cũng phải chuẩn bị hành trang. Chuyến đi càng xa thì hành trang càng nhiều. Chuyến đi càng quan trọng thì hành trang càng phải chọn lựa, tính toán. Hôm nay Đức Giêsu sai các môn đệ đi một chuyến quan trọng: tiếp nối sứ mạng của Người đem Tin Mừng đến khắp các làng mạc xa xôi. Để chuẩn bị cho chuyến đi quan trọng này, Đức Giêsu đã giúp các môn đệ sắp xếp hành trang. Sau khi đã loại bỏ những loại hành trang cồng kềnh không cần thiết, có hại cho nhiệm vụ, Đức Giêsu đã trao cho các môn đệ những hành trang thực sự cần thiết và hữu ích cho sứ vụ Tông đồ.
Hành trang của người môn đệ là sự gắn bó mật thiết với Đức Giêsu. Các môn đệ chỉ được sai đi sau khi đã có một thời gian sống bên cạnh Người. Thời gian sống bên Đức Giêsu cần thiết để các môn đệ hiểu biết, cảm thông và nhất là yêu mến, gắn bó mật thiết với Người. Đây chính là hành trang quan trọng nhất. Người được sai đi phải gắn bó mật thiết với Đấng đã sai mình. Sự gắn bó mật thiết là nguồn mạch, bảo đảm tính trung thực, là chìa khoá thành công của sứ vụ. Đức Giêsu đã nêu gương về điểm này khi luôn gắn bó mật thiết với Đức Chúa Cha, Đấng đã sai Người. Sự gắn bó ấy giúp Người hoàn toàn kết hiệp với Đức Chúa Cha, trở nên một lòng một ý với Đức Chúa Cha, luôn cầu nguyện, luôn từ bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa Cha. Chính vì thế, sứ vụ của Người đã thành công tốt đẹp.
Hành trang của người môn đệ là tâm hồn đơn sơ phó thác. Khi chỉ thị cho các môn đệ: “không được mang gì khi đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo”, Đức Giêsu muốn các ông sống trong cảnh nghèo khó để hoàn toàn tin tưởng phó thác vào Chúa. Tiền của, tiện nghi vật chất dễ tạo ra một thứ an tâm giả tạo, dẫn con người đến chỗ tự mãn, tự kiêu, tự phụ cho rằng mọi thành công là nhờ tài sức riêng mình. Vì thế, dễ tha hoá, làm theo ý mình hơn là làm theo ý Chúa, sắp đặt chương trình cho Chúa hơn là tìm thực hiện chương trình của Chúa. Nghèo khó sẽ giúp người môn đệ ý thức sự nghèo nàn thiếu thốn, sự yếu ớt của mình, ý thức đó sẽ giúp người môn đệ biết khiêm nhường, tin tưởng phó thác cho Chúa. Tôi chỉ là hư vô, là cát bụi. Mọi thành công đều của Chúa, nhờ Chúa. Những thành công do tài sức con người sẽ mau tàn. Chỉ có công trình của Chúa mới bền vững. Vì thế đơn sơ phó thác là một hành trang rất cần thiết cho người môn đệ. Không mang theo gì của loài người, chỉ mang theo niềm tin yêu phó thác vào Thiên Chúa, đó chính là mang theo tất cả.
Hành trang của người môn đệ là tình liên đới. Đức Giêsu không sai các môn đệ đi riêng lẻ, nhưng sai từng hai người một. Người biết khả năng con người yếu kém, cần có tập thể nâng đỡ mới hoàn thành sứ mạng. Lời chứng của một cá nhân chưa đủ sức thuyết phục. Cần có sự đồng tâm nhất trí của một tập thể lời chứng mới thực sự đáng tin. Hơn nữa, Đức Giêsu không sai các môn đệ đi làm việc với giấy tờ hay đất đai, nhưng sai các ngài đến với con người. Các ngài phải sống giữa mọi người, nhờ mọi người giúp đỡ, chia sẻ cuộc sống với họ. Phải liên đới với con người. Tình liên đới không những cần thiết để giúp các ngài làm việc tông đồ một cách hữu hiệu. Chính qua tình liên đới mà Tin Mừng dễ dàng được đón nhận.
Hành trang của người môn đệ là trái tim biết cảm thương. Đức Giêsu sai các môn đệ đến với những người đau yếu bệnh tật, hoang đàng tội lỗi, bị quỷ ma hành hạ. Tức là đến với những người kém may mắn ở đời. Những người nghèo hèn yếu đuối. Những người bị xã hội bỏ quên. Để đến với những người anh em bé nhỏ, người môn đệ phải có trái tim biết cảm thương. Các ngài phải mang trái tim của Thiên Chúa luôn chạnh lòng thương khi nhìn thấy đám đông bơ vơ tất tưởi, túng thiếu, đói khát. Phải sẵn sàng băng rừng vượt suối đi tìm một con chiên lạc. Phải mở rộng vòng tay đón nhận đứa con hoang đàng trở về. Phải sẵn sàng tha thứ cho kẻ tội lỗi thật lòng hối cải ăn năn.
Mỗi người chúng ta đều là môn đệ của Chúa. Khi chúng ta lãnh nhận phép Rửa tội và Thêm sức, Chúa sai chúng ta đi rao giảng Tin Mừng của Người. Tôi thấy anh chị em ở Giáo xứ Cửa Nam rất tích cực trong việc tông đồ. Nhưng có lẽ anh chị em vẫn băn khoăn, không biết làm sao để việc tông đồ có kết quả tốt đẹp. Hôm nay, Đức Giêsu cho ta biết, muốn việc tông đồ có kết quả, ta phải gắn bó mật thiết với Chúa, phó thác mọi sự cho Chúa, đồng thời phải có tình liên đới và nhất là phải biết cảm thương anh chị em đồng loại. Một tay nắm lấy tay Chúa, một tay nắm lấy tay anh em. Một tình yêu anh chị em trong tình yêu mến Chúa. Liên kết mọi người trong tình yêu mến. Với tình yêu mến, chắc chắn việc tông đồ của ta sẽ đi đúng đường hướng của Chúa. Với tình yêu mến, chắc chắn việc tông đồ sẽ có kết quả tốt đẹp.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Chúa sai bạn đi làm tông đồ cho Chúa, bạn có cảm thấy điều đó không?
2- Mỗi khi đi làm việc tông đồ, bạn thường chuẩn bị những loại hành trang nào, những hành trang của bạn quan tâm có giống những hành trang Chúa chuẩn bị cho các môn đệ không?
3- Theo bạn, đâu là phương thế hữu hiệu nhất làm cho những người chung quanh nhận biết Chúa?
4- Đâu là những hành trang cần thiết của người môn đệ của Chúa?
(Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh)
Nếu có lần nào đi cắm trại, nhất là trại huấn luyện, chắc bạn sẽ hiểu: Ý nghĩa đúng của việc cắm trại là hòa hợp với thiên nhiên, là sống hết mình cho thụ tạo, là thở hơi thở của hoang dã, là sống sức sống của ngàn xanh, là đi vào lòng của tự nhiên để khám phá siêu nhiên, đắm mình với tự nhiên để vươn hồn lên tới siêu nhiên, gọi về lòng biết ơn thụ tạo đã cho nhau sự sống và dâng muôn muôn lời cảm tạ Tạo Hóa ân ban cho muôn loài sự sống toàn hảo. Vì thế, đi cắm trại cũng đồng nghĩa với việc trút bỏ một cách tự nguyện.
Càng trút bỏ bao nhiêu có thể và biết giữ lại những gì thật cần thiết, và cần thiết đúng mức, người ta càng thanh thoát, càng nhẹ nhõm, không vướng bận hay lo toan điều gì. Bởi đó, hành trang của trại viên càng nhẹ nhàng bao nhiêu, ăn mặc càng giản dị bao nhiêu, lòng khiêm nhường, tinh thần nghèo khó càng lớn bao nhiêu, người ta càng sống hết mình với giây phút hiện tại, hết mình với không gian, với thời gian. Nhất là càng thấm đẫm lòng yêu mến tự nhiên, người ta sẽ càng dễ dàng trở về Nguồn Cội Vĩnh Cửu, Đấng đã tác sinh mọi loài.
Hiểu được sự “trút bỏ” là điều cần thiết của người đi cắm trại, ta sẽ dễ hiểu hơn mệnh lệnh lên đường mà Chúa Giêsu trao cho các môn đệ của Người. Đấy cũng là một sự trút bỏ, nhưng còn hơn cả sự “trút bỏ” của người trại viên, môn đệ của Chúa Giêsu phải trút bỏ đến trở nên nghèo khó, một cái nghèo đúng mức, nghèo trọn nghĩa nhất: “Người truyền cho các ông lên đường, đừng mang gì ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép và đừng mặc hai áo”.
Tin Mừng của Chúa Giêsu là Tin Mừng cho người nghèo, Tin Mừng của người nghèo. Do đó chỉ có người nghèo mới có thể nên chứng nhân cho Tin Mừng ấy, mới có thể loan báo Tin Mừng ấy hữu hiệu. Chúa Giêsu không dạy gì mà Người đã không sống lời dạy ấy. Cả cuộc đời của Người là một bài học lớn cho người môn đệ về sự nghèo khó. Chúa Giêsu đã trút bỏ hoàn toàn. Sự trút bỏ của Chúa là sự trút bỏ đúng nghĩa nhất (nghĩa đen lẫn nghĩa bóng). Người đã không dành cho mình một sự riêng tư nào: Là thân phận Thiên Chúa, nhưng đã trở nên người phàm, một sự trút bỏ không thể tưởng tượng. Vậy mà Đấng Thiên Chúa làm người ấy đã chấp nhận sống nghèo, nghèo đến mức không còn gì. Bạn và tôi chắc không giàu có gì, nhưng khi sinh ra, chắc không ai sinh nơi chuồng thú vật, nằm trên rơm rạ xót xa. Ngược lại, dẫu là người nghèo, ta vẫn còn có một mái nhà ấm áp, một chiếc nôi xinh xắn. Nếu mai này, bạn và tôi có chết, chắc cũng chết trong những điều kiện tươm tất. Nhưng Chúa Giêsu, cả một đời, từ lúc bắt đầu sinh ra tới khi trưởng thành, chối từ sự sang giàu đã vậy, đến lúc sinh thì, ngay đến manh áo cuối cùng cũng không có, chết trần treo giữa trời giữa đất, chết chung với kẻ trộm cướp, cùng chịu một hình khổ ngang hàng với kẻ trộm cướp… Chúa Giêsu đã trút bỏ hoàn toàn. Trút bỏ cả cuộc đời, trút bỏ cả mạng sống vẫn chưa làm đủ. Đến khi trao hơi thở sau cùng, lại còn tiếp tục trao dâng cả đến giọt máu cuối cùng. Trái Tim của Thiên Chúa làm người không đòi cho mình bất cứ điều gì, bây giờ lại thuộc về chúng ta tất cả. Chúa Kitô, nhà truyền giáo đại tài, đã trút bỏ để Tin Mừng Tình yêu lớn lên. Chúa chính là bài học ngàn vàng cho những ai là môn đệ của Người.
“Đừng mang gì ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép và đừng mặc hai áo”. Hôm nay khi nghe lại lời dạy ấy của Chúa Giêsu, bạn và tôi nghĩ gì? Ta nhận ra rằng Chúa cũng đang mời gọi mình hãy trút bỏ tất cả những gì là cồng kềnh, những gì là cản trở, là chướng ngại làm cho lời rao giảng Tin Mừng thiếu chứng tá, công cuộc rao giảng Tin Mừng bị khựng lại.
Giống như người đi cắm trại, nếu biết trút bỏ mọi cái không cần thiết, họ mới sống hoàn toàn, sống hết mình cho ý nghĩa của việc cắm trại. Cũng vậy, người đi gieo Lời Chúa, đi cắm rể Lời Chúa sâu trong lòng người, càng phải là người biết trút bỏ mọi vướng bận để việc phục vụ Lời đạt kết quả lớn lao. Bởi thế, Chúa sai chúng ta ra đi, nhưng hành trang của người môn đệ không là gì khác ngoài đức tin dâng hiến và lòng phó thác. Dâng hiến đến trút bỏ hoàn toàn. Phó thác đến mức trở nên nghèo khó, đến không còn gì. Chỉ có thế, người rao giảng Lời mới trở nên chứng tá cho Lời. Vì chứng tá cho Lời quan trọng hơn nói về Lời. Chỉ có một lối đường duy nhất là sự trút bỏ: mặc lấy tinh thần nghèo khó, sống lối sống nghèo của Chúa Kitô, chính bạn và chính tôi mới hy vọng nên chứng tá gieo Lời đạt kết quả.
Thánh Phaolô rất hay, khi một lần nào đó, đã đúc kết bài học trút bỏ của người môn đệ Chúa Kitô bằng những lời rất chân thành và lạc quan: “Bị coi là bịp bợm nhưng kỳ thực chúng tôi chân thành; bị coi là vô danh tiểu tốt, nhưng kỳ thực chúng tôi bị mọi người biết đến; bị coi là sắp chết, nhưng kỳ thực chúng tôi vẫn sống; coi như bị trừng phạt, nhưng kỳ thực không bị giết chết; coi như phải ưu phiền, nhưng kỳ thực chúnh tôi luôn vui vẻ; coi như nghèo túng, nhưng kỳ thực chúng tôi làm cho bao người trở nên giàu có; coi như không có gì, nhưng kỳ thực chúng tôi có tất cả” (2 Cr 7, 8 – 10). Nếu đồng cảm với thánh Phaolô, ta cũng sẽ hiểu rằng trút bỏ là đánh mất, nhưng kỳ thực, không hề mất mát bất cứ điều gì.
Tiên tri Amos xuất hiện khoảng năm 760 trước Công Nguyên dưới thời của Vua Phương Nam Uzziah (783-742) và Vua Phương Bắc Jeroboam II (786-746).
Tiên tri Amos làm việc nơi đồng áng và chăn nuôi súc vật. Ông được Thiên Chúa tuyển chọn và sai đi rao giảng sám hối tại trung tâm miền Bắc Bethel và Samaria. Quan niệm thần học tập trung việc cảnh cáo dân Do-thái rằng Thiên Chúa sẽ trừng phạt và phá hủy dân Israel bởi vì tội lỗi của họ. Amos kêu gọi dân chúng ăn năn sám hối và cải đổi đời sống theo giới răn của Chúa.
Phúc âm Chúa Nhật hôm nay tường thuật việc Chúa Giêsu gọi mười hai tông đồ và sai từng hai người đi. Chúa ban cho các ông quyền trên các thần ô uế. Với lời nhắn nhủ sống đơn sơ chân thành và đi làm nhân chứng với hai bàn tay trắng. Các ông đã ra đi vào các làng mạc chuẩn bị các tâm hồn đón nhận ơn Chúa. Các ông hoàn toàn cậy dựa vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Chúng ta biết Chúa Giêsu đã chọn những con người tầm thường, họ không có nhiều tài năng chuyên môn, không có của cải và không có chỗ đứng trong xã hội. Chúa chọn những người bình thường để làm những việc phi thường cho Nước Chúa.
Thật lạ lùng, Chúa Giêsu sai các tông đồ ra đi loan truyền sứ mệnh quan trọng nhưng không ban cho các phương tiện, tiền bạc hay của cải. Ngày nay trong công tác mục vụ, chúng ta thường chuẩn bị rất kỹ càng, nào là tiền mặt, thẻ tín dụng, thức ăn thức uống, bản đồ, áo trong áo ngoài, máy móc đủ loại và các dụng cụ cá nhân. Nếu khi phải ở qua đêm, chúng ta còn cần nhiều thứ lỉnh kỉnh nữa. Chúng ta lo lắng cho những nhu cầu vật chất như chỗ ăn chỗ ở, cái ăn cái mặc và những tiện nghi tối thiểu. Đôi khi chúng ta lại quá lo lắng cậy dựa vào những nhu cầu vật chất của đời thường. Theo thông lệ một số các đấng bậc khi thăm viếng mục vụ, các giáo đoàn phải chuẩn bị đón tiếp long trọng và đôi khi còn phải chi tiêu hao tốn, thiếu đi tinh thần nghèo khó và sự phó thác.
Mỗi năm kết khóa, mùa Hè là mùa ra trường. Các ứng sinh lãnh nhận những mảnh bằng tốt nghiệp đã bắt đầu bước vào đời. Những vốn liếng thu lượm qua việc trau dồi học hỏi trên ghế nhà trường nay đem ra áp dụng theo những sở trường và khả năng. Trong sứ mệnh dâng hiến, mỗi năm Giáo Hội đón nhận nhiều tu sĩ nam nữ khấn dòng, khấn tạm hoặc vĩnh khấn, các chủng sinh lãnh nhận chức đọc sách, giúp lễ, phó tế và các tân chức linh mục. Mỗi tu sĩ hay tân chức sẽ lãnh nhận những bài sai từ bề trên để ra đi làm nhân chứng cho Chúa Kitô. Các sứ giả phúc âm không được tự chọn cho mình nơi chỗ, nhưng được sai đến bất cứ nơi nào để phục vụ Giáo Hội và tha nhân.
Tháng Sáu vừa qua, tôi rất hân hạnh được tham dự thánh lễ truyền chức linh mục tại Đài Đức Mẹ, Tân Hiệp, Địa phận Long Xuyên. Lễ phong chức cho 18 tân linh mục rất là hoành tráng. Với trên hai trăm linh mục trong Giáo phận có mặt và có thêm nhiều vị từ khắp nơi đổ về. Với sự hiện diện trên mười ngàn Giáo dân vui mừng hân hoan tụ về tham dự nghi lễ phong chức linh mục. Ngay sau thánh lễ truyền chức, một vị linh mục đại diện đã công bố Bài Sai của Đức Giám Mục Địa Phận cho từng tân linh mục. Một sự chọn lựa cắt đặt các tân chức vào các sứ vụ tùy theo khả năng thích hợp của mỗi tân linh mục.
Chúng ta biết rằng lãnh nhận thiên chức linh mục không phải riêng cho mình, nhưng cho Giáo Hội và chung cho mọi người. Các tân chức nhận những Bài Sai khác nhau như về trụ sở Tòa Giám Mục, các Giáo Xứ và có những Bài Sai về nơi truyền giáo vùng sâu vùng xa. Niềm vui trào dâng khi nhận lãnh thiên chức cao cả. Khi nghe rao báo Bài Sai, các tân chức cũng có những cảm tình vui buồn lẫn lộn. Có những bà mẹ nhảy cẫng vui mừng vì con mình được về giáo xứ giầu có ổn định. Có những gia đình vỗ tay hãnh diện vì tân linh mục nhà mình được về xứ lớn ở trung tâm thành phố. Có những vẻ mặt không được vui lắm khi nghe Bài Sai sẽ đi phục vụ ở những nơi khai hoang truyền giáo. Thật vậy, được sai đi nơi đâu, cũng là để phục vụ tha nhân. Chúa Kitô vẫn luôn là trung tâm điểm của đời sống mục vụ và phục vụ.
Câu truyện vào thời chiến, có một sự kiện xảy ra nơi một làng nhỏ ở nước Đại Hàn. Trước nhà thờ có một tượng Chúa Giêsu bị trúng mảnh bom làm vỡ bể. Một nhóm binh sĩ Hoa Kỳ đã giúp linh mục lau dọn và thu thập các mảnh vỡ vụn để gắn đặt lại tượng Chúa. Họ tìm thấy mọi phần của tượng Chúa, trừ một cánh tay bị vỡ tan. Các binh sĩ đề nghị với linh mục là đưa tượng Chúa về Hoa Kỳ để tu sửa và làm cánh tay mới. Linh mục bổn sở từ chối. Ngài nói: Tôi có một ý tưởng. Cứ để tượng như thế, thiếu một cánh tay. Chúng ta hãy viết trên bệ cho các khách hành hương chú ý: Hỡi bạn, cho tôi mượn cánh tay của bạn.
Trong cách này, mỗi tu sĩ nam nữ, các thiện nguyện viên hay các linh mục ra đi giúp mọi người nhận ra những nhu cầu trong sứ mệnh phục vụ của mình. Chúng ta sẽ là những cánh tay nối dài của Chúa Giêsu để xây dựng lại những đổ nát và hư mất. Cùng một suy tưởng, Chúa cần những đôi chân của chúng ta để đi tìm kiếm những ai đã lạc bước. Chúa muốn những đôi tai của chúng ta để nghe những tâm sự cô đơn buồn chán của tha nhân. Chúa dùng miệng lưỡi của chúng ta để nói những lời thân thương, khuyến khích, ủi an và nâng đỡ những kẻ đau buồn, khổ sở và thất vọng.
Trong thơ gởi cho tín hữu Ephêsô, thánh Phaolô đã viết rằng: Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người (Eph 1, 4). Sau khi hồi đầu, Phaolô đặt trọn niềm tin nơi Đức Kitô. Chúa đã chọn và gọi Phaolô một cách đặc biệt. Biến đổi ông từ một người bách hại các Kitô hữu trở nên nhân chứng cho niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô. Phaolô đã được sai đi rao giảng tin mừng cho dân ngoại. Tông đồ Phaolô đã không ngại gian khó rong ruổi khắp các thành thị và làng mạc để loan báo về công cuộc cứu độ của Chúa Kitô.
Giáo Hội luôn kêu gọi chúng ta cầu nguyện cho ơn gọi dâng hiến. Có rất nhiều tâm hồn đã và đang quảng đại đáp lại tiếng Chúa trong ơn gọi tu trì. Mỗi tín hữu đều có bổn phận góp sức mình, của cải và khả năng để xây dựng và loan truyền tin mừng cứu độ. Chúng ta không thể đổ dồn trách nhiệm cho môt thành phần riêng biệt nào. Mỗi người chúng ta đều có bổn phận và trách nhiệm sống động trong Nhiệm Thể Chúa Kitô. Sự cộng tác của chúng ta bằng lời cầu nguyện, nâng đỡ tinh thần và khuyến khích hơn là sự chỉ trích, gây chia rẽ, đàm tiếu hoặc phá đổ. Lạy Chúa, cánh đồng truyền giáo còn bao la bát ngát, xin Chúa sai thêm những thợ gặt lành nghề. Chúng con cảm tạ Danh Chúa đến muôn ngàn đời. Amen.
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’ của Thiên Phúc)
Sau thế chiến thứ nhất, một linh mục trẻ người Pháp được bài sai đi coi xứ. Tay xách vali, cha mạnh dạn ra đi truyền giáo. Đến nơi chỉ thấy hầm sâu, tường đổ. Nhà thờ, nhà xứ, chỉ còn duy nhất một bức tường xiêu vẹo.
Không một chút sờn lòng, cha cùng với các tín hữu tích cực kiến thiết lại ngôi thánh đường đổ nát. Chẳng bao lâu sau, đền thờ vật chất đã hoàn thành khang trang đẹp đẽ. Giờ đây, cha lại tiếp tục xây dựng đền thờ tâm hồn. Nhờ đời sống gương mẫu, cha đã tu sửa lại lòng đạo đức của cả đoàn chiên.
Tuổi cha chưa cao nhưng đã kiệt sức, giữa lúc tình cha con đang mặn nồng, gắn bó. Dầu vậy, nằm trên giường bệnh, cha vẫn thản nhiên vui vẻ. Giờ hấp hối đến, cha nhỏ nhẹ nói với những người chung quanh:
– Giờ đây tôi vui mừng vì đã trung thành giữ lời nhủ bảo của thân phụ ngày tôi chịu chức linh mục: “Nay con làm linh mục Chúa, cha chỉ cầu ước cho con 3 điều: Thứ nhất, lúc con chết đừng nợ ai xu nào; Thứ hai, khi qua đời con cũng chẳng còn xu nào; Thứ ba, lúc lâm chung con đừng vướng một chút tội nào với Chúa”. Và ngài an bình đi về với Đấng mình đã trọn đời dâng hiến.
***
Vị linh mục trong câu chuyện trên đây, không những đã làm theo lời khuyên của thân phụ, mà còn thi hành đúng lời dạy của Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay. Khi sai các tông đồ đi truyền giáo, Chúa phán: “Không được mang lương thực, bao bị, tiền bạc…” (Mc.6,8). Hành trang của các ông chỉ là chiếc áo đang mặc, cây gậy và đôi dép đi đường. Vì chính Người đã từng nói: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, con Người không có chỗ dựa đầu”. Người muốn các ông hoàn toàn nương tựa vào Chúa, phó thác cho tình yêu quan phòng của Người, và cậy dựa vào lòng tốt của tha nhân.
Đó là thân phận của kẻ được sai đi: ra đi mà không gì bảo đảm, ra đi mà không mảy may dính bén. Sẵn sàng đến mà cũng sẵn sàng đi. Thành công không thụ hưởng mà thất bại cũng chẳng đắng cay. Vì “Phaolô trồng, Apollo tưới và Chúa mới cho mọc lên” (1Cr.3,6).
Hôm nay Chúa cũng sai chúng ta đi vào lòng thế giới, để “rao giảng sự sám hối” (Mc.6,12). Sám hối rất khó nói vì chẳng mấy ai thích nghe. Đó cũng là thách thức của người tông đồ: can đảm nói lên những điều phải nói. Nói mà không giảm nhẹ những đòi hỏi của Tin mừng. Nói mà không lợi dụng tin mừng để mưu cầu cá nhân. Nói mà không trích dẫn Tin mừng để khoe khoang kiến thức. Nói mà không bóp méo Tin mừng để vuốt ve quần chúng. Dù sao Tin mừng vẫn phải được loan báo. Chúng ta hãy xem câu nói của Thánh Phaolô như là của chính mình: “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng” (1Cr.9,16).
Hôm nay, Chúa cũng trao cho chúng ta những quyền năng như hành trang để lên đường. Đó là quyền rao giảng Tin mừng, quyền trừ quỷ và quyền chữa bệnh.
Chúng ta có thể chia sẻ Tin mừng với niềm hân hoan của người tìm được viên ngọc quí.
Chúng ta có thể nói về Chúa như nói về một người bạn thân.
Chúng ta có thể xua trừ quỉ bằng cách đẩy lui những thói hư tật xấu.
Chúng ta có thể chữa bệnh bằng cách lau khô những giọt lệ của bao người quanh ta.
***
Lạy Đức Giêsu, mỗi thánh lễ là một bài sai, mỗi bài Tin mừng là một sứ điệp Chúa gởi cho trần gian qua từng người chúng con. Xin cho chúng con đừng bao giờ cậy dựa sức riêng mình, nhưng tin tưởng vào quyền năng Chúa mà chu toàn sứ vụ Người đã trao ban. Amen.
Muốn đất nước phát triển: “Hãy loại trừ tham nhũng”, đó là vấn đề được bàn luận sôi nổi nhất nơi các kỳ họp quốc hội Việt Nam.
Tham nhũng là gì? Tham nhũng không đơn thuần là lấy của công thành của riêng. Tham nhũng không dừng lại ở việc lợi dụng chức quyền để vun quén cho bản thân mà còn cho cả dòng họ. Đúng như cha ông ta đã nói: “Một người làm quan cả họ được nhờ”. Điều tệ hại của tham nhũng đó là lòng tham đã ăn sâu vào xương tủy những người làm quan. Lòng tham khiến họ không còn chí công vô tư khi thi hành chức vụ. Lòng tham khiến họ không thể sống thanh liêm chính trực. Lòng tham dẫn họ đi sâu vào tội ác và dối trá. Nếu xã hội không còn những người thanh liêm thì làm sao tránh khỏi ăn bẩn, ăn chận của người thấp cổ bé miệng và đói nghèo. Nếu xã hội không còn những con người chí công vô tư thì làm sao có công lý và tình thương trong xã hội hôm nay. Tất cả chỉ là dối trả và phỉnh lừa lẫn nhau.
Lời Chúa hôm nay gợi lên một hình ảnh thật đẹp về những sứ giả tin mừng. Họ là những người được tuyển chọn để cứu nhân độ thế. Họ dấn thân vào đời để giải cứu thế gian khỏi ba thù hiểm độc. Thế gian có quá nhiều mưu mô và xảo quyệt. Ma qủy có quá nhiều phương cách để cám dỗ. Họ cần phải ra đi với đôi chân nhẹ nhàng và lòng thanh thoát. Họ không được mang bao bị, không mang bạc tiền của nhân thế. Họ là những người chấp nhận cuộc sống nổi trôi “ba chìm bảy nổi chín lênh đênh”. Sứ mệnh của họ là đẩy lùi sự dữ và thi thố tình thuơng. Họ không thể bận tâm đến của cải thế gian. Họ không để lòng mình bị ràng buộc bởi nhu cầu vật chất và tiện nghi. Nếu họ quá quan tâm đến mình sẽ bỏ quên đồng loại. Nếu họ quá chú trọng đến vật chất sẽ dẫn đến lo hưởng thụ và tích góp cho bản thân. Thiện chí sẽ mất. Hướng đi sẽ chệch đường lạc lối. Lý tưởng ban đầu sẽ bị đảo ngược. Thay vì cứu đời sẽ chỉ còn lại sự lợi dụng địa vị chức quyền để vun quén cho bản thân.
Người ta kể rằng: có một đệ tử muốn từ bỏ mọi sự của thế gian để sống tu trì. Anh quyết định vào rừng vắng sống ẩn tu. Hành trang duy nhất anh mang là chiếc áo ăn mày để khất thực sống qua ngày.
Ngày kia, anh đau đớn vô cùng khi thấy chiếc áo phơi ở bờ sông đã bị chuột cắn nát tả tơi. Không còn cách nào khác, anh phải vào trong làng xin một chiếc áo khác. Chiếc áo thứ hai này cũng bị cùng chung số phận, nát tả tơi vì chuột cắn. Anh nghĩ rằng chỉ có nuôi mèo mới giữ được chiếc áo. Anh quyết định nuôi mèo. Thế nhưng, khi có mèo anh lại phải lo kiếm thêm phần ăn cho con mèo được nuôi để đuổi chuột.
Ngày ngày vác bị đi khất thực, anh cảm thấy mình như một gánh nặng đối với dân làng. Nghĩ thế, anh cố gắng chắt chiu để kiếm tiền nuôi một con bò để thêm phần thu nhập. Nhưng có bò lại phải kiếm cỏ cho bò ăn. Chăn nuôi gia súc khiến anh không thể có thời giờ cầu nguyện, anh lại phải thuê người cắt cỏ nuôi bò. Càng ngày bò càng sinh sản, người cắt cỏ cũng phải gia tăng. Thời gian trôi qua, mảnh đất hoang sơ đã biến thành một trang trại rộng lớn. Gia súc và người làm ngày càng thêm đông. Con người đã một thời muốn từ bỏ mọi sự để trở thành một tu sĩ, nay nghiễm nhiên trở thành một ông chủ trang trại.
Có tiền của và tài sản to lớn, anh lại muốn có người chia sẻ công việc của mình. Anh cưới vợ và sinh con. Anh trở thành một người chồng, người cha trong một gia đình hạnh phúc. Thế là lý tưởng ban đầu đã hết. Anh đã đánh mất lý tưởng chỉ vì mải lo gìn giữ một “cái áo rách”.
Chuyện có vẻ hoang đường nhưng lại là thật. Ma quỷ thường cám dỗ từng bước. Ma quỷ thường gợi lên những điều hay, điều tốt để dẵn dắt con người đi theo chương trình của nó. Adam – Evà đã nhìn thấy trái táo thơm ngon mà quên đi thân phận phải vâng lời Thiên Chúa. Khi tỉnh lại chỉ còn thất vọng và hổ thẹn lương tâm. Người tu sĩ đã lạc bước khi quá bận tâm đến nhu cầu vật chất, đến đồng tiền bát gạo, khiến tâm hồn anh không còn thời giờ để vun đắp, định hướng cho hướng đi của mình. Cái thất bại của anh thật tẻ nhạt, chỉ vì mải lo gìn giữ một “chiếc áo rách”.
Thực vậy, vì tiền bạc, mà người ta có thể đánh mất lý tưởng cuộc đời. Vì tiền mà “nhân chi sơ tính bổn thiện” đã không còn. Vì tiền mà người ta có thể chối bỏ niềm tin. Đó là nguy cơ mà bất cứ ai cũng có thể rơi vào.
Đó là bài học cho tất cả chúng ta. Đồng tiền thật cần thiết cho cuộc sống nhưng không phải là cứu cánh cho cuộc đời. Đừng quá lệ thuộc vào của cải vật chất. Nó chính là con dao hai lưỡi có thể làm hại cuộc đời chúng ta, nếu không khôn ngoan, sáng suốt để nhận định đúng giá trị của nó. Chúng ta cần can đảm để trong khi mưu tìm của cải vật chất, chúng ta có đủ nghị lực khước từ mọi hành vi bất chính, mọi thoả hiệp với lừa đảo, gian trá của thế gian.
Con người luôn hướng về sự thiện. Con người luôn mong muốn cống hiến cuộc đời mình cho tha nhân. Đó chính là mục đích mà Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa. Thế nhưng ma quỷ luôn vẽ lối chúng ta đi sai đường Chúa. Ước gì lời Chúa hôm nay thức tỉnh chúng ta, hãy lo tìm kiếm những điều đẹp ý Chúa hơn là thế gian. Hãy để tâm làm việc phụng sự Chúa hơn là làm tôi cho tiền bạc và tiện nghi. Đừng để lòng mình lệ thuộc vào vật chất mà quên đi gía trị tinh thần. Xin Chúa giúp chúng ta biết sống theo lời Chúa để được phúc lành mai sau. Vì “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó, vì nước trời là của họ”. Amen.
(Suy niệm của PM. Cao Huy Hoàng)
Từ câu chuyện chiếc Minsk
Sau khi về nhận xứ Malâm, Cha Gioan NVH có ngay kế hoạch bán chiếc xe máy Honda Nhật đang chạy để mua một chiếc Minsk. Bà con nực cười ông cha xứ mình chạy chiếc Minsk giống mấy người xe thồ, xe ôm, chẳng ra dáng vẻ ông cha xứ tí nào. Mãi đến mấy tháng sau họ mới hiểu, chiếc Minsk là phương tiện tốt nhất có thể đưa cha đi đến vùng Đami cách Giáo xứ nhà 70 cây số về hướng tây bắc, giáp ranh với Bảo Lộc Lâm Đồng, nơi ấy, có vài trăm con chiên đang tản mác trên các đồi chè ngập nắng. Vào ngày 11-9-2001, chúng tôi được đi với Cha Gioan đến thăm vùng Đami đèo núi. Được biết, bà con hầu hết từ những tỉnh miền Bắc đến đây tìm kế sinh nhai. Họ sống trên đồi, nhà này cách nhà kia có khi cả cây số. Chỉ mới 6 tháng sau khi về nhận xứ và năm lần “đến xem nơi người ở và ở lại với người” mà Cha Gioan đã thuộc hầu hết địa chỉ của con chiên và thành lập được ba điểm tập trung để dâng Thánh Lễ. Còn các Bí tích hầu hết cử hành tại nhà dân. Sau hơn 10 năm, Đami nay đã tràn đầy sức sống mới của Tin Mừng, đã là Giáo Xứ với ba bốn Giáo Họ.
Chiếc Minsk là phương tiện, nhưng là phương tiện đơn sơ mà hiệu quả của một sứ giả có tấm lòng mang Sứ Điệp Tin Mừng đến cho muôn dân. Chiếc Minsk ắp đầy kỷ niệm của bao lần vấp đá, trượt đồi, té ngã, cán chó, tai nạn… và cả những lần bị rượt đuổi vu vơ vì tội làm lễ nhà dân không xin phép…
Các Linh Mục được sai đi
Hy vọng đây là một trong trăm ngàn minh họa rất hùng hồn về việc các Linh Mục, Sứ giả Tin Mừng tại Việt Nam đã và đang tuân thủ đúng lệnh truyền của Chúa Giêsu, Người Sai Đi: “đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áo”.
Vâng, có thể nói, không vì hoàn cảnh quá sức khó khăn đến nổi giáo dân Việt Nam không lo lắng được, hoặc chính các linh mục không sắm sửa cho mình những phương tiện, tiện nghi thoải mái, nhưng vì các ngài muốn thực hiện cuộc sống đơn sơ khó nghèo như đòi hỏi của Tin Mừng, và hơn thế nữa, các ngài ý thức được việc chính yếu của lệnh sai đi là “rao giảng sự thống hối”.
Khi đề cập đến chi tiết này có thể có người bi quan vặn hỏi: “Được bao nhiêu phần trăm như thế mà dám cả quyết vậy?”. Chúng ta nên biểu quyết: “Gần trăm phần trăm”. Bởi vì, con số những người được sai đi hôm nay bị tục hóa, vị phương tiện hóa, không thi hành sứ vụ chính yếu của mình… chỉ là số phần trăm nho nhỏ thôi. Nhưng, bởi vì, sự xấu xa dễ ảnh hưởng nhanh và rộng hơn là điều tốt lành, nên khi có vài trường hợp không phù hợp là đã có thể gây hoang mang lớn lao cho mọi người. Hơn nữa, cũng cần phải cẩn trọng trước những đồn đoán, phao tin làm mất danh dự của các linh mục bởi vì những người chống phá Giáo Hội cũng đang rắp tâm tìm các khe hở của các linh mục để thổi phồng lên cho thỏa mãn ý đồ phá hoại. Thiết tưởng, dẫu sao, chúng ta cũng hãy cầu nguyện và tin tưởng rằng Chúa Thánh Thần và tình yêu Chúa Kitô sẽ thúc bách các linh mục “thống hối, canh tân” trước khi rao giảng sự thống hối, đổi mới theo Tin Mừng.
Giáo dân được sai đi
Không chỉ các Linh Mục mới là những người nhận lệnh sai đi loan báo tin mừng, mà cả mỗi tín hữu hôm nay, được sai đến trong môi trường sống của mình để làm chứng cho Thiên Chúa. Mỗi chúng ta cũng được mời gọi sống đời đơn sơ khó nghèo và đặc biệt quan tâm đến việc truyền giáo ngay trong chính lúc khó nghèo đau khổ nhất. Thế nhưng, chúng ta vẫn:
Từ chối một sẻ chia vì cho rằng phải đợi đến dư thừa mới chia sẻ được.
Từ chối thăm viếng nhau vì không có thời gian cho việc vô bổ ấy.
Từ chối một chút chạnh lòng bởi rằng lúc mình khốn khó chẳng thấy ai ngó tới.
Từ chối một lời lành khuyên người bởi cứ nhất nhất cho rằng người lòng chai dạ đá.
Từ chối một lời xin lỗi bởi người thấp bé hơn mình.
Từ chối một lời cảm ơn bởi cho rằng người làm ơn đang bố thí hơn là giúp đỡ.
Chúng ta đã bị lệ thuộc quá nhiều vào phương tiện, vào điều kiện mà không chú tâm đến việc đáp đền hồng ân Thiên Chúa bằng cách loan báo sứ điệp Tin Mừng cho anh em, làm chứng về “cuộc sống bình an trong Chúa” cho mọi người.
Lời Chúa hôm nay đang nhắc nhớ chúng ta đơn sơ khiêm tốn bắt chước gương tiên tri Amos, nhận ra ơn gọi rao giảng Tin Mừng của mình là hồng ân cao cả vượt lên trên thân phận tầm thường và bất toàn của mình: “Tôi chỉ là người chăn chiên và đi hái sung vả, và Chúa đã gọi: Hãy đi tuyên sấm cho Ít-ra-en dân của Ta” (Am 7, 15), và chu toàn sứ vụ của mình theo thể cách đơn sơ nhất, phù hợp nhất với Tin Mừng, để phục vụ cho Tin Mừng.
Nguyện xin Chúa cho các Linh Mục của Chúa chuyên tâm “rao giảng sự thống hối” “trừ quỷ, xức dầu, chữa lành” cho đoàn chiên Chúa. Và xin cho các tín hữu Chúa không quá lệ thuộc vào phương tiện trần gian, những luôn năng nổ chu toàn sứ vụ tông đồ trong đời thường. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Ai là những người được sai đi?
Hằng năm cứ vào dịp hè về, các Chủng viện, các Hội Dòng tại Việt Nam thường có những tổ chức cắt cử người thụ huấn đi thực tập mục vụ, truyền giáo, với các văn thư sứ vụ hay còn gọi là “bài sai”. Hình như tâm trạng chung là vừa hí hững khi được dịp khẳng định mình và vừa hồi hộp không biết mình sẽ đi đâu và làm việc gì. Cần khẳng định rằng không phải chỉ có các linh mục, chủng sinh, thỉnh sinh, tập sinh hay tu sĩ nam nữ mới là những người được sai đi.
Những người được sai đi phải là những người được Thiên Chúa chọn gọi. Ngôn sứ Amốt đã trả lời với tư tế Amatgia cách tượng hình rằng: “Chính Đức Chúa đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo sau đàn vật…”(Am 7, 15). Thánh sử Maccô ghi rõ “Khi ấy Chúa Giêsu gọi Nhóm Mười Hai và bắt đầu sai đi từng hai người một…”(Mc 6,7). Có thể nói rằng bất cứ ai là Kitô hữu cũng đều được sai đi, đặc biệt khi đã lãnh nhận hồng ân Thánh Thần qua Bí tích Thêm Sức để sống đời Kitô hữu cách trưởng thành, nghĩa là với sự ý thức, tự giác và tinh thần trách nhiệm. Một người dân quê, chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây sung như Amốt cũng được sai đi. Tất thảy là vì “Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã chọn chúng ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, chúng ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người” (Ep 1, 4).
Được sai đi để làm những gì?
Chúng ta có thể liệt kê một vài công việc của người được sai đi như sau: Trước hết là nhân danh Chúa truyền đạt ý định của Chúa cho tha nhân. Đây chính sứ vụ làm ngôn sứ mà Cựu ước thường gọi là đi tuyên sấm hay đi nói tiên tri và Tân ước thường gọi là đi rao giảng Tin Mừng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. Công việc của người được sai đi còn là xua trừ ma quỷ, chữa lành bệnh tật, nghĩa là thi ân giáng phúc cả phần hồn lẫn phần xác cho nhân trần.
Một định luật dường như là tất yếu: Không ai có thể trao ban những gì mình không có. Để thực thi những điều, những việc vượt lẽ thường tình, thì những người được sai đi phải có khả năng cách nào đó cũng như phương tiện nào đó. Nhìn vào danh sách của Nhóm Mười Hai thì người ta có quyền nghi ngại về khả năng tự bản thân các ngài. Hơn nữa, khi các ngài được sai đi thì như với hai bàn tay trắng. Không tiền bạc, không lương thực, không bao bị, trên thân chỉ mỗi một manh áo, dưới chân chỉ có đôi dép và chiếc gậy trên tay, thế thì các ngài dựa vào đâu để chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ, rao giảng tin mừng và kêu gọi người ta ăn năn sám hối? Câu trả lời là đây: Chúa Giêsu ban cho các ngài quyền trên các thần ô uế (6,7).
Một nguồn lực để thực thi sứ mạng tông đồ: Có quyền trên các thần ô uế.
Có quyền trên một ai đó là ta thực sự làm chủ trên họ, ra lệnh cho họ và họ phải tuân theo. Thử hỏi các thần ô uế là những ai? Nếu cho rằng đó là thần dữ, là ma quỷ thì ít ai dám phản đối. Thế nhưng, người mà thần ô uế đành tuân lệnh thì phải Đấng Thánh của Thiên Chúa (x.Mc 1,23-24). Thần ô uế xét như là thế lực bên ngoài thì chính là ma quỷ. Chúng ta tin nhận Chúa Giêsu đã ban quyền cho các Tông đồ cách nào đó trên thế lực này. Xưa lẫn nay, cũng có nhiều đấng được thông ban ơn trừ quỷ. Tuy nhiên số các vị này rất ít. Thế thì những người khác không có ơn này thì không được sai đi để thi hành sứ vụ tông đồ ư? Dễ dàng trả lời là không phải như thế. Thử hỏi có mấy ai dám to gan cho rằng mình đủ khả năng đương đầu với ma quỷ? Trước kẻ thù bên ngoài như “sư tử gầm thét”, thì chúng ta không dám coi thường (x.1 P 5,8), nhưng chúng ta rất có thể xao lãng kẻ nội thù.
Vậy cần phải xem xét thêm một thứ thế lực ô uế bên trong con người chúng ta. Chúa Giêsu đã minh nhiên khẳng định những cái bên trong phát xuất ra làm cho người ta ra ô uế đó là “tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng” (Mc 7,21). Có quyền trên các thần ô uế thì cũng có nghĩa là làm chủ các khuynh hướng xấu, các ý định xấu, các việc làm xấu xa ở trên. Một điều chắc chắn rằng để được sai đi và có khả năng thực thi sứ mạng, thì người đựơc sai phải làm chủ một cách nào đó những cái bên trong vốn có thể làm chúng ta ra ô uế.
Đó đây có thể thiếu người được sai đi, nhưng ở Việt Nam hiện nay thì có thể nói vẫn chưa thiếu nếu không muốn nói là còn thừa. Với những người được sai đi thì Thiên Chúa không bao giờ dè sẻn ân ban. Thế nhưng, những người được sai đi có thực thi được sứ mạng hay thực hiện sứ mạng cách tốt, xấu ra sao, thì vẫn còn tùy ở việc họ có làm chủ được các thần ô uế bên trong, nghĩa là làm chủ những xung lực xấu ở bên trong, khả dĩ có thể làm cho họ ra ô uế như thế nào.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Sau khoá huấn luyện “trung cấp” 2 năm về “kỹ năng” loan báo Tin Mừng, hôm nay Chúa Giêsu đặc phái các môn sinh của mình lên đường thực tập sứ vụ trước khi cấp “chứng chỉ tốt nghiệp ra trường” cho các ông. Ngay trước lúc lên đường, Chúa Giêsu đã không quên ân cần dặn dò các môn sinh cách thức để việc loan báo Tin Mừng mang lại hiệu quả như ý. Tựu trung lời dặn dò đó chứa đựng 3 bí quyết, như là “kim chỉ nam” cho các nhà truyền giáo mọi thời mọi nơi.
Cá nhân chủ nghĩa không có chổ đứng trong công cuộc loan báo Tin Mừng. Bởi chưng, Chúa Giêsu không sai các môn đệ đi từng người một, lẻ loi, đơn độc, để rồi các ông cứ mãi hát khúc hát “Cô đơn một cõi đi về”. Ngài sai họ đi là sai từng hai người một, cùng với các Tông đồ khác tạo thành nhóm, thành cộng đoàn. Qua đó, các ông được huấn luyện tinh thần làm việc chung, làm việc với người khác. Tinh thần làm việc chung, việc nhóm mới có khả năng tạo nên sức mạnh kỳ diệu (các giải thưởng Nobel trong những năm gần đây chứng minh điều này. Hầu hết đó là những công trình của một tập thể, một nhóm). Hơn nữa, trên phương diện chứng tá, chứng của hai người trở lên bao giờ cũng có giá trị hơn. Giá trị còn là vì cộng đoàn tính nói lên tinh thần liên đới và hiệp nhất của người Tông đồ. Cộng đoàn tính còn là lời chứng sống động về tình huynh đệ yêu thương mà họ rao giảng. Bởi thế, ta không ngạc nhiên khi thấy các vị thừa sai thường được phái đi từ 2 hoặc 3 người đến một giáo điểm hay một vùng miền nào đó để làm việc Tông đồ truyền giáo.
Chính Chúa Giêsu khi được Chúa Cha sai đến trần gian, Ngài không đi một mình, nhưng có Chúa Thánh thần cùng đồng hành và cùng hoạt động với Ngài.
Siêu thoát khỏi những dính bén với của cải vật chất, tiền bạc để sẵn sàng lên đường, sẵn sàng đi đến bất cứ nơi đâu một cách nhanh nhẹn và vui tươi. Siêu thoát với mọi thực tại đời này để toàn tâm, toàn ý cho sứ mạng được giao phó. Thái độ siêu thoát cũng là dấu chứng nói cho người khác biết lòng tin tưởng phó thác của người môn đệ vào sự quan phòng của Chúa. Chúa Quan Phòng phải là người bạn đường của người loan báo Tin Mừng. Nếu gạt Chúa Quan Phòng sang một bên, người tông đồ chỉ còn loay hoay vun vén, “đào hang”, “xây tổ” cho riêng mình.
Chúa Giêsu đã nêu gương cho các môn đệ của Ngài về tinh thần siêu thoát và tín thác. Khi đến trong trần gian, Ngài không mang theo gì ngoại trừ tình yêu của Chúa Cha. Khi sống trong trần gian, cũng như khi đi rao giảng Tin Mừng, Ngài hoàn toàn sống phó thác vào sự quan phòng của Chúa Cha. Chính Ngài đã bộc bạch: “Chim có tổ, cáo có hang; còn Con Người không có chổ tựa đầu” (Lc 9,58).
Lệnh truyền và sứ điệp loan báo Tin Mừng không đến từ con người, nhưng đến từ Thiên Chúa. Do đó, để có thể chu toàn sứ mạng, cần đón nhận năng quyền Thiên Chúa ban. Đó là năng quyền rao giảng: công bố Tin Mừng cứu độ của Đức Kitô. Đó là năng quyền chữa lành và thánh hoá nhằm cải thiện đời sống và phong hoá trần gian. Đó còn là năng quyền trừ quỷ hầu chế ngự và đẩy lui các thế lực sự dữ.
Kinh nghiệm của các Tông đồ ngày hôm nay cũng cho thấy Thiên Chúa luôn dẫn dắt chúng ta đi: “Ơn ta đã đủ cho ngươi”. Đức Tổng Giám mục Vacchelli, Tổng Thư ký Hội đồng Giám mục Ý quốc, khi được Đức Thánh Cha bổ nhiệm làm Trợ lý Tổng Trưởng của Thánh Bộ Rao giảng Tin Mừng cho các Dân tộc và Chủ tịch Hiệp hội Giáo hoàng Truyền giáo, ngài cho hay: “Gia nhập vào Thánh Bộ là chịu trách nhiệm trực tiếp với 1.100 giáo phận trên toàn cầu, 2.000 giám mục và vô số các giáo sĩ, nam nữ tu sĩ. Và trên hết vấn đề chính không chỉ là nghèo đói, nhưng là xây dựng một đời sống theo đường lối Kitô giáo. Vì thế, phạm vi rộng hơn nhiều”.
Đối mặt với lượng công việc đồ sộ như vậy, ngài vẫn tràn trề hy vọng nói: “Khi anh làm việc cho Thiên Chúa, Người luôn đi trước anh, thu xếp tính hèn yếu của anh bằng ân huệ của Người”. Nếu ý thức được như thế, các vị thừa sai của Chúa sẽ bớt sợ bớt lo khi thấy trách nhiệm năng nề, đồng thời sẽ bớt tự mãn kiêu căng khi làm được việc này việc nọ.
Qua Bí tích Rửa Tội, đặc biệt là Bí tích Thêm Sức, người Kitô hữu, cũng là người được sai đi. Được sai đi cùng với người khác, được sai đi với tính thần siêu thoát và được sai đi với ơn sức của Chúa. Đối tượng mà chúng ta cần nói cho biết về Chúa, không ở đâu xa mà ngay trong gia đình, gia tộc và xứ đạo của mình. Họ là những người thân thích với ta, là bà con lối xóm của ta. Họ là những người đồng hương với ta. Họ là những người cùng nghề cùng sở làm với ta…
Thế nhưng câu hỏi đặt ra là khi thực hiện ơn gọi loan báo Tin Mừng, tôi đã nêu cao tinh thần chung, tinh thần cộng tác với anh chị mình chưa hay vẫn còn cá nhân chủ nghĩa? Tôi đã đề cao tinh thần siêu thoát chưa, hay còn quá dính bén với những thực tại đời này, và quá chú trọng đến việc “xây tổ”, “đào hang” cho mình? Và nhất là tôi đã hết lòng giương cao sức mạnh của Chúa chưa, hay chỉ toàn cậy dựa vào tài cán và sức riêng mình?
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Kinh Thánh ghi lại lịch sử của mười hai con cháu ông Jacob trở thành Mười Hai Chi Tộc Israel, dân riêng Chúa. Mười hai chi tộc bắt đầu từ một đại gia đình. Chính tên Jacob cũng do Chúa đặt cho. Tên của 12 chi tộc đó là: Reuben, Simeon, Judah, Issachar, Zebulun, Benjamin, Dan, Naphtali, Gad, Asher, Ephraim và Manasseh. Sáng Thế Ký 9.
Khi Jacob định cư đất Aicập cũng là lúc lịch sử Israel được thành lập. Trên núi thánh Sinai Thiên Chúa ban cho họ lề luật và đó là lề luật của cả một dân tộc ghi lại trong sách Torah. Lề luật bị coi thường, việc thờ phượng lơ là, xa dời Thiên Chúa, đời sống đồi trụy trở thành nô lệ thói hư tật xấu bản thân sau đó là nô lệ cho Pharaoh. Thiên Chúa sai Môisen đến cứu họ và dân này lưu đầy bốn mươi năm trong sa mạc trước khi đến miền đất hứa. Tại đây mỗi chi tộc chiếm một vùng đất do chi tộc trưởng lãnh đạo và tất cả dưới quyền lãnh đạo chung của Saul và thầy cả thượng phẩm Eli. Nội chiến xảy ra và các bô lão ủng hộ David và David trở thành vua. Sau khi David chết Solomon thay cha lãnh đạo. Sau khi Solomon chết, Nam Bắc phân tranh chia đất nước làm hai. Lãnh thổ phía Bắc nhận là Israel; lãnh thổ phía Nam thành Judah.
Thời Tân Ước Đức Kitô cũng chọn mười hai tông đồ tạo dựng nước Thiên Chúa nơi trần gian. Chính Đức Kitô đã chọn họ và đặt tên cho một số các môn đệ, huấn luyện và sai họ đi rao giảng Tin Mừng và sau đó là Tin Mừng Phục Sinh. Ai tin và nhận phép thanh tẩy: Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần, người đó trở thành dân riêng của Thiên Chúa, trở thành anh chị em trong Đức Kitô và trở thành Dân Tư Tế, thừa hưởng gia nghiệp Đức Kitô trao ban, là kẻ thừa tự trong đại gia đình Chúa. Là kẻ thừa tự, hưởng gia nghiệp Chúa bởi chính Đức Kitô sống lại từ cõi chết, ban sự sống trường sinh cho những ai tin theo, sống tinh thần mến Chúa, yêu tha nhân. Trong nước Đức Kitô chỉ có một lề luật đó là luật yêu thương bởi chính Đức Kitô xác định: Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy là các con yêu thương nhau.Gn 15,12
Đức Kitô thiết lập Giáo Hội Chúa nơi trần gian. Ngài trao quyền điều hành cho thánh Phêrô, vị Giáo Hoàng tiên khởi và những kẻ kế tiếp điều hành Giáo Hội trần thế theo tinh thần của Đức Kitô, Ngài là đầu và các Kitô hữu là thành phần của thân thể Kitô. Giáo hội trần thế nhận sức mạnh và sự khôn ngoan của Thánh Thần Chúa, lắng nghe và thực thi lời hướng dẫn của Thánh Thần. Dân Israel chịu lưu đầy bốn mươi năm trong sa mạc truớc khi tiến vào miền đất hứa. Dân Đức Kitô không phải lưu đầy mà là những người lữ hành suốt cuộc sống trần gian. Trở thành người lữ hành để họ tìm kiếm người khác cùng đồng hành với họ rao giảng Tin Mừng Đức Kitô Phục Sinh. Trước khi Đức Kitô sống lại từ cõi chết họ rao giảng kêu gọi mọi người thống hối để đón nhận nước Thiên Chúa đang đến. Sau khi Đức Kitô sống lại từ cõi chết họ rao giảng Tin Mừng Phục Sinh, họ là sứ giả của Tin Mừng Phục Sinh, là anh chị em sống trong đại gia đình Chúa. Người lãnh đạo dân Chúa mang tinh thần của Đức Kitô, tinh thần đó là “đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ” Mat 20,28. Chính Đức Kitô xác nhận điều đó và thực thi trong cuộc sống rao giảng của Ngài. Phục vụ trong tinh thần khiêm tốn, yêu thương và tha thứ. Khiêm tốn, yêu thương, phục vụ là yếu tố căn bản chọn người lãnh đạo dân Chúa. Khi người lãnh đạo thực sự mang tinh thần trên của Đức Kitô thì việc tranh giành quyền lực sẽ không còn bởi họ được kêu gọi để phục vụ, để nhận ra khuôn mặt Đức Kitô nơi người họ phục vụ và nhận biết sự sống là lành thánh vì do Chúa ban.
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Ngọc Thế)
* Vài hàng sơ lược
– Sau khi bị người đồng hương Na-za-réth của mình chối từ (Mc 6, 1-6a), thay vì bực mình giận dữ, Giêsu vẫn thản nhiên và Ngài tiếp tục lên đường đến các làng chung quanh để giảng dạy. Sau đó, Ngài sai các môn đệ ra đi thi hành sứ mạng giảng dạy như Ngài.
– Đoạn này có thể chia như sau: (1) 6b-7: Chuyển tiếp (câu 6b) và dẫn vào câu chuyện. (2) 8-9: Chỉ thị các môn đệ phải trang bị những gì khi ra đi. (3) 10-11: Chỉ thị các môn đệ về phản ứng trước sự đón tiếp của người khác. (4) 12-13: việc rao giảng và chữa bệnh của các môn đệ.
– Trong cái nhìn nhất lãm, thì Luca nêu đoạn 9, 1-6, tương hợp với đoạn phúc âm của Mác-cô ở đây. Còn trong Mát-thêu thì cũng nêu lên trong Mt 10, 1-15. Theo Helmut Klein thì Luca đã lấy lại đoạn phúc âm này của Mác-cô. Tuy nhiên, có một vài sự khác biệt: Luca không đề cập đến việc đi giày trong chỉ thị sai đi của Giêsu. Ngoài ra, Luca nêu bật ý nghĩa và nội dung của việc Giêsu sai đi, trong khi Mác-cô thì lại không. Ý nghĩa nằm trong câu: “Người sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa” (Lc 9,2). So sánh với Mát-thêu thì có khá nhiều sự khác biệt. Mát-thêu nêu tên 12 tông đồ (câu 2-4). Đích đến cũng được Mát-thêu nêu rõ: “Tốt hơn là hãy đến với các con chiên lạc nhà Ít-ra-en” (câu 6). Ý nghĩa việc sai đi của Mát-thêu thì gần giống như Luca.
* Suy niệm
“Rồi Người đi các làng chung quanh mà giảng dạy.”
Các làng chung quanh ở đây là các làng nằm chung quanh Na-za-réth. Trong mạch văn của Mác-cô, thì việc giảng dạy của Giêsu ở đây có ý nghĩa hướng dẫn các môn đệ vào trong sứ mạng rao giảng sắp tới.
“Người gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một. Người ban cho các ông quyền trừ quỷ.”
Nhóm Mười Hai mà Giêsu thành lập (ss. Mc 3,14) giờ đây được Giêsu gọi lại và bắt đầu sai họ đi. Sứ mạng thực sự bắt đầu. Sau những ngày được kêu gọi để ở lại với Giêsu (Mc 3, 14), để đi sâu vào tương quan với Giêsu, để học biết tinh thần của Ngài, thì giờ đây có lẽ các môn đệ đã phần nào “chín chắn”, nên Giêsu sai các ông lên đường. Ngài sai các ông đi từng hai người một. Tại sao lại từng hai người một? Theo các nhà chú giải thì trước hết liên quan đến việc làm chứng của người Do-thái. Chỉ có một người làm chứng sẽ không có tác dụng gì cả, hay nói mạnh hơn là không phải là người làm chứng. Nếu chỉ có một người làm chứng thì không thế dẫn tới quyết định trong tòa án, mà cần phải có hai người hay ba người làm chứng: “Một nhân chứng duy nhất không thể đứng lên buộc tội một người về bất cứ một tội một lỗi nào; về bất cứ lỗi nào người ấy phạm, phải căn cứ vào lời của hai nhân chứng hay căn cứ vào lời của ba nhân chứng, sự việc mới được cứu xét.” (Đnl 19,15)
Ngoài ra, trong Thánh Kinh còn có một số đoạn nhắc đến cặp “hai người”, như trong cuộc tranh luận với người Pha-ri-sêu về bản thân của Người, Giêsu đã nói: “Trong Lề Luật của các ông, có chép rằng lời chứng của hai người là chứng thật. Tôi làm chứng cho chính mình, và Chúa Cha là Đấng đã sai tôi cũng làm chứng cho tôi.” (Ga 8,17-18), hay ở Mt 18,19: “Thầy còn bảo thật anh em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ.”
Như vậy, việc làm chứng của “hai người” còn có ý nghĩa là làm cho sự thật được sáng tỏ, sự thật về chính Đức Kitô, con Thiên Chúa, đến trần gian để rao giảng tin mừng Nước Thiên Chúa cho mọi người. Sự thật về tin mừng này sẽ được tỏ lộ một cách thật rõ ràng và chất lượng hơn, khi có hai người cùng đi chung để rao giảng và loan báo.
Có lẽ đây là điều quan trọng trong sứ mạng rao giảng, nên ngay từ đầu chúng ta đã thấy các cặp đi rao giảng chung, như trong Tông Đồ Công Vụ đề cập đến: Phao-lô và Ba-na-bê, Phêrô và Gioan.
Và Giêsu đã ban cho họ quyền trừ quỷ. Điều này được Mác-cô nêu bật trong Phúc Âm của mình (ss. Mc 1, 21-28), qua đó quyền năng của Giêsu được “tô đậm”, quyền năng giải phóng con người khỏi thần dữ. Vâng, Mác-cô chủ ý nêu bật điều này, vì độc giả của ông là những người kitô giáo trở lại ở Roma. Họ cần nhận ra sự gần gũi của Thiên Chúa, ngay cả khi thần dữ đang chế ngự. Sự gần gũi và quyền năng Thiên Chúa chính là bảo đảm cho sự tự do của những người con cái Thiên Chúa.
Trở về với đoạn Phúc Âm, các môn đệ ra đi với quyền năng của Giêsu để trừ quỷ.
Thực, trong trận chiến đấu với thần dữ, thì nếu không mang vũ khí của Thiên Chúa ban cho, thì không thể nào chiến thắng được: “Sau cùng, anh em hãy tìm sức mạnh trong Chúa và trong uy lực toàn năng của Người. Hãy mang toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa, để có thể đứng vững trước những mưu chước của ma quỷ. Vì chúng ta chiến đấu không phải với phàm nhân, nhưng là với những quyền lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới tối tăm này, với những thần linh quái ác chốn trời cao. Bởi đó, anh em hãy nhận lấy toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa; như thế, anh em có thể vận dụng toàn lực để đối phó và đứng vững trong ngày đen tối.” (Ep 6, 10-13) Đây chính là vũ khí thiêng liêng các môn đệ cần đến.
Với sự sai đi và với quyền năng trừ quỷ của Giêsu ban cho, các môn đệ và giáo hội nhận được một sứ mạng mới, sứ mạng loan báo Tin Mừng nước Thiên Chúa, và sứ mạng trừ khử thần dữ trong thế giới.
“Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo.”
Lời nhắn nhủ của Giêsu ở trên được coi như là chỉ thị, tiếng Hy-lạp là paragge,llw (paraggellò). Theo từ điển chú giải Tân Ước của Horst Balz và Gerhard Schneider xuất bản (Exegetisches Woerterbuch zum Neuen Testament), thì động từ này xuất hiện 31 lần trong Tân Ước. Trong các sách Phúc Âm, chỉ có Giêsu là người ra lệnh cho thần ô uế (Lc 8,29), và chỉ thị cho nhóm 12 (Mc 6,8)…. Ở đây, trong đoạn phúc âm của Mác-cô, theo R. Pesch, với chỉ thị này Giêsu muốn đặt nền tảng cho nguyên tắc sai đi của Ngài. Nguyên tắc đó là gì vậy?
“Không được mang gì đi đường”, nghĩa là phải từ bỏ của cải và không còn có nhu cầu gì cả. Đó là nguyên tắc rất triệt để. Như vậy, trong bối cảnh xã hội thời đó, thì người môn đệ của Giêsu còn phải triệt để hơn cả những nhà triết gia Kyniker, những nhà thuyết giảng khắc khổ đi khắp mọi nơi. Và khi các triết gia Kyniker đi, thì họ không có nhu cầu gì cả, nhưng họ có đem theo gậy, túi xin tiền và chiếc áo mantel giành cho nhà triết gia. Còn các môn đệ của Giêsu thì có gậy đấy, nhưng không có túi xin tiền hay ba lô hay túi ngủ gì cả, và cũng chẳng có tiền buộc bụng, đến cả của ăn đàng cũng không có nữa. Dù vậy, có áo, nhưng chỉ là một thôi chứ không phải là hai hay là ba.
Nhưng tại sao lại phải từ bỏ những vật dụng đó?
Không mang lương thực đi đường, không bánh trái gì cả. Điều này còn vượt trội hơn các triết gia khắc khổ Kyniker thời đó, vì khi họ ra đi thì họ đem theo bánh, trái vải và bình nước. Như vậy, người loan báo tin mừng của Đức Kitô sẽ hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa, và cũng tự do và khiêm nhường đón nhận tất cả những gì anh chị em ban cho mình. Ai cho ăn gì thì ăn nấy. Ai cho ly nước thì uống nước, ai mời tách trà thì sẵn sàng ngồi lại nhâm nhi. Thật đơn sơ và giản dị.
Giản dị hơn nữa, khi chẳng đem theo bao bị, chẳng có ba lô trên vai. Rũ bỏ tất cả. Tự do hoàn toàn. Không vương vấn điều gì, không giữ lại sự gì cả. Như vậy, thì không chỉ chân rảnh, mà tay cũng rảnh, người cũng nhẹ và đầu óc cũng trở nên trống rỗng hoàn toàn, để tất cả cho Tin Mừng mà thôi.
Tất cả vì Tin Mừng nên tiền bạc cũng chẳng màng tới. Và nhờ vậy mà tránh được biết bao nhiêu phiền toái tiền bạc có thể gây ra. Không tham lam, không thu gom, không cất giữ, đỡ phải mệt mỏi ôm đống tiền trong lòng, đỡ phải phí phạm chẳng đáng gì. Hơn nữa, trong xã hội Đông Phương thời đó, thì khi không mang tiền bạc trên mình, sẽ tránh được sự trấn lột của kẻ cướp qua đường.
Thật là tuyệt, nếu tự do hoàn toàn với tiền bạc, tự do với thế lực của đồng tiền mà người đời thường nói: “Có tiền mua tiên cũng được.”
Vật được mang theo là gậy và dép, còn áo thì chỉ một cái thôi nhé!
Tại sao vậy? Cây gậy ở đây là vật dụng cần thiết cho người lữ hành, cho người giảng thuyết phải đi khắp mọi chốn để loan báo tin vui. Với cây gậy trên tay chứ không vũ khí nào khác, người giảng thuyết xuất hiện rất đơn sơ và giản dị trước mọi người. Không ai phải sợ sệt người giảng thuyết cả, và người rao giảng Tin Mừng cũng không cần phải hãi sợ ai hết: “Vậy anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết. Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng. “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn” (Mt 10, 26-28a) Và người rao giảng sẽ “không phải chết, nhưng sẽ sống, để loan báo những công việc CHÚA làm.” (Tv 118,17)
Dép được nhắc ở đây chính là Sandalion, tiếng Hy-lạp là sanda,lion, có thể mường tượng như giày Sandal có quai như hiện giờ, là một vật dụng cần thiết cho người rảo bước khắp mọi nơi loan báo Tin Mừng. Sandal được sử dụng rất thường trong xã hội Do-thái thời đó, và rất cần thiết cho những chặng đường dài, từ miền đất này qua miền đất khác. Cũng nên nhớ rằng, ở Ít-ra-en có những miền đất sa mạc rất khô cằn và nóng, vì thế Sandal thực là cần thiết. Còn khi đi chân không, thì đó là dấu hiệu của sự tang tóc và chay tịnh. Vâng, người rao giảng tin vui đâu có ăn chay, đâu có mang tang tóc, vì thế cần phải đi Sandal vào, và như vậy thì mới khỏe khoắn nhanh nhẹn rảo bước, sẵn sàng lên đường đi bất cứ nơi đâu, đến với bất cứ ai đang cần đến Tin Mừng.
Ngoài Sandal và gậy ra, người loan bao tin vui được phép mang theo áo, nhưng chỉ một mà thôi. “Áo” ở đây dịch từ ngữ Hy-lạp citw,n (chitòn). Theo từ điển chú giải Tân Ước của Horst Balz và Gerhard Schneider, thì áo này là một loại áo dài bằng vải thô hay len, dài có thể tới đầu gối che thân mình trên và thân mình dưới, có cả hai loại tay ngắn và tay dài.
Ngoài ra, theo Adolf Pohl, trong xã hội Đông Phương thời đó, quần áo là dấu hiệu nói về sự giàu sang phú quý. Người giàu sang là người có nhiều quần áo, trong khi người nghèo khổ chỉ có mỗi một chiếc áo che thân. Để khoe khoang và muốn mọi người tiếp đón mình đàng hoàng, người giàu có thường thay đổi áo và mang trên mình nhiều áo khác nhau. Nhưng cũng vì sự khoe khoang này, mà họ trở thành nạn nhân của kẻ cướp đường.
Người loan báo tin mừng của Giêsu không cần phải khoe khoang, không cần phải sửa soạn nhiều, không cần phải mang áo có hiệu vào mình. Vâng, khi mọi người chẳng sợ hãi gì trước người loan báo tin mừng, thì cũng thế, không ai phải ganh tị với người loan báo tin mừng về áo quần cả.
Như vậy, tinh thần của người loan báo tin mừng là trở nên tự do hoàn toàn với mọi thứ. Mọi thứ đều trở thành thứ yếu. Chỉ có Tin Mừng, Nước Thiên Chúa và ơn cứu rỗi cho mọi người là tất cả. Không có gì hơn cả. Cả quần áo, cả tiền bạc, cả lương thực, cả balô. Vâng, nói theo tinh thần của thánh I-nhã, thì người môn đệ của Chúa cần phải trở nên bình tâm và tự do hoàn toàn, để luôn sống theo thánh ý Chúa, và luôn ao ước được trở nên nghèo khó như Đức Kitô, Vị Giảng Thuyết đơn sơ nghèo hèn, nhưng đem lại biết bao nhiêu ơn lành cho mọi người.
“Người bảo các ông: “Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi.”
Sau các chỉ thị về việc từ bỏ tất cả những gì không cần thiết để lên đường, Giêsu căn dặc các môn đệ thêm hai nguyên tắc, khi đi đến với những người mà họ rao giảng. Điều thứ nhất liên quan đến lòng hiếu khách và đón tiếp. Trong tục lệ Do-thái, sự hiếu khách đóng một vai trò quan trọng. Sự hiếu khách hứa hẹn sự chúc phúc, và còn là sự tha thứ cho người lầm lỡ. Ngay cả đối với kẻ thù, thì cũng khó lòng mà từ chối không đón tiếp. Về phía khách, ở đây là những người rao giảng tin vui, thì không được phép thay đổi chỗ ở tùy ý. Trong ý nghĩa mà Mác-cô diễn tả ở đây, có thể việc rao giảng và xây dựng một cộng đoàn đòi hỏi nhiều thời gian, nên không không được thay đổi chỗ ở liên hồi. Trong khi Tin Mừng chưa “đâm rễ” vào lòng người, vào cộng đoàn, thì cần phải ở lại.
“Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ.”
Nguyên tắc thứ hai ở đây liên quan đến sự từ chối, không đón tiếp, không lắng nghe của chủ nhà. Khi chối từ người rao giảng và sứ điệp anh ta đưa lại, là chối từ chính Đấng sai anh ta. Sự chối từ đem lại hậu quả. Như trong phản ứng của Giêsu với những người Na-za-réth, Giêsu nói với các môn đệ mình hãy đi ra khỏi đó, và giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ. Thái độ giũ bụi này trong xã hội Do-thái thời đó, được người Do-thái làm, mỗi lần họ từ đất dân ngoại trở về lại biên giới của đất thánh. Theo truyền thống của các Rabbi, thì bụi đó có thể sẽ làm ô uế. Vì vậy, họ muốn tẩy rửa và giũ lại tất cả những gì dơ bẩn.
Theo các nhà chú giải, thì trong đoạn phúc âm này, thái độ giũ bụi chân là biểu tượng của chứng từ mà người rao giảng tin mừng để lại, và hy vọng có ngày người chối từ Tin Mừng sẽ suy nghĩ lại, tự chất vấn lại thái độ của mình đối với Tin Mừng và đối với Đấng là chủ của Tin Mừng.
“Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh.”
Nhóm Mười Hai ra đi theo lời sai đi của Giêsu, và họ đã làm được nhiều điều tốt lành. Cụ thể họ đã ra đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. Không chỉ thế, với quyền trừ quỷ mà Giêu đã trao, họ đã trừ được nhiều quỷ. Mác-cô lại làm nổi bật điều này, để qua đó nói lên quyền năng của Thiên Chúa trên thần dữ. Quyền năng giải thoát con người khỏi bóng đêm. Thêm vào đó họ đã xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh.
Như vậy, khi ra đi theo lời kêu gọi của Đức Kitô, và sống đúng theo chỉ thị và tinh thần của Ngài, các môn đệ đã cùng với Đức Kitô đem lại Tin Mừng cho rất nhiều người, và qua đó họ nhận được sự tự do làm con cái Thiên Chúa, sự tự do với bình an và niềm vui sống mà mọi người có thể tìm thấy trong Nước Trời.
(Suy niệm của Camille Gagnon)
Hôm nay, xin anh chị em cho phép tôi giảng một bài hơi nhẹ nhàng một chút, một bài giảng cho kỳ nghỉ hè. Tôi muốn nói về gia đình Tremblay tuần rồi đã đi cắm trại lần đầu tiên ra sao.
Điều khiến tôi nói về gia đình này, là Tin Mừng bảo rằng “Lần đầu tiên” Chúa Giêsu sai các môn đệ, từng hai người một, đi rao giảng, và để giúp họ, Ngài dặn dò họ ngay trước lúc lên đường. Tôi không biết các môn đệ có hiểu rõ và nghe theo những lời dặn dò này không, nhưng tôi biết rằng gia đình Tremblay đã không hiểu và không tuân theo, và họ là làm hỏng kinh nghiệm cắm trại của mình. Và khi nói về kinh nghiệm cắm trại của gia đình Tremblay, tôi sẽ nói một chút về các bạn và tôi.
“Đừng mang theo hành lý cồng kềnh”.
Lời căn dặn đầu tiên của Chúa Giêsu thật rõ ràng: “Đừng mang theo hành lý cồng kềnh”. Vì ông Tremblay không biết điều gì sẽ xảy ra nên ông đã chuẩn bị mọi sự: Hai túi ngủ cho mỗi người, những cây cọc để cắm lều, những chiếc ấm lớn nhỏ, thùng dụng cụ, v.v… Đối với ông Tremblay thà chen chúc nhau trong lều còn hơn là thiếu bất cứ món gì. Cuối cùng ông hầu như đã dọn hết đồ đạc trong nhà đi và đã phải bận rộn chuẩn bị đồ đạc cả tuần.
Một người quen cắm trại, sẽ khôn ngoan hơn. Ít nhất họ biết phải tránh mang theo những hành lý vô ích. Họ đã hiểu ý nghĩa thật của lời Chúa Giêsu căn dặn. Khi nhìn ông Tremblay họ thấy được yếu điểm của ông. Trước một công việc đòi hỏi phải dẹp đi mọi nhu cầu không cần thiết ông lại sợ phải bỏ đi những thói quen và những bảo đảm cho cuộc sống của mình. Thật ra ông Tremblay nghi ngờ rằng việc cắm trại sẽ không lấp đầy được cả một tuần lễ nghỉ ngơi, và ông nghĩ sẽ buồn chán khi thiếu tiện nghi. Thế là, bị kẹt trong đống đồ đạc lỉnh kỉnh của mình, ông không còn thảnh thơi để có được những ngày nghỉ ngơi thực sự nữa.
“Đừng đi lăng xăng khắp nơi!”.
Lời căn dặn thứ hai là đừng đi lăng xăng khắp nơi. Nhưng cả ở điểm này nữa, bà Tremblay đã không thành công. Tuy nhiên, bà đã có ý tốt. Đối với bà, trong tuần cắm trại đó sẽ có dịp gặp gỡ nhiều người và bà cũng nghe nói rằng khi đi cắm trại người ta rất tử tế và dễ làm quen. Vậy nên bà không ngồi đấy mà chờ đợi: Bà vội vã đi bước trước, mỗi ngày bà đi thăm hết mọi người, những chẳng tiếp xúc với ai lâu. Cuối tuần, bà đã “quen biết” nhiều người, nhưng lại có ít bạn bè. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã nói: “Khi các con được đón tiếp vào nhà nào thì ở lại đó cho đến lúc ra đi!”. Điều này có vẻ ngộ nghĩnh. Hiển nhiên là phải ở nơi nào đó trước khi ra đi. Nhưng, suy nghĩ một chút, ta thấy rằng ta có thể ở nơi nào đó mà không hiện diện, không bao giờ ở với ai cả. Điều này cũng có nghĩa là chỉ có một cách để tạo nên những mối liên hệ thực sự với kẻ khác: Đó là dừng lại, đừng bỏ đi ngay khi vừa gặp sự khó chịu nào đó và đừng sợ làm quen. Chúa Giêsu bảo: Với thái độ ấy làm sao các con có thể loan báo Thầy. Nói về Thầy thế nào nếu không tạo được những cuộc gặp gỡ thực sự? Nếu các con chỉ chạy vội hết nơi này đến nơi khác?
Cuối cùng đừng luyến tiếc gì cả.
Bọn trẻ nhà Tremblay trở về rất thất vọng. Chúng cứ tưởng sẽ gặp được nhiều bạn trẻ cùng lứa tuổi với chúng; dụng cụ thể thao cũ rích; huấn luyện viên về bơi lội bị ốm hai ngày, hai ngày đẹp trời nhất, v.v… Chúng đã mong một cái gì mới mẻ, nhưng bây giờ chúng chán cắm trại lắm rồi. Từ nay chúng đã biết cắm trại chẳng thích thú gì cả. Từ lúc về nhà chúng cứ luyến tiếc mãi những ngày đi chơi thất bại.
Điều Chúa Giêsu căn dặn cuối cùng là: “Nghe đây! Nếu các con đã thất bại ở nơi nào đó, thì hãy bỏ đi và để lại tất cả đàng sau mình, nhất là đừng luyến tiếc gì cả. Vì chúng sẽ chỉ ngăn cản các con bắt đầu lại công việc cách tốt hơn mà thôi”.
Tóm lại sứ vụ của các môn đệ, cuộc đời của chúng ta, và cuộc cắm trại của gia đình Tremblay lại chẳng cần những lời căn dặn này sao: “Hãy siêu thoát đối với bản thân; hãy dừng lại để thiết lập những mối liên hệ thực sự; và hãy quên đi những luyến tiếc để bắt đầu lại cách tốt hơn”.
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Thiên Chúa luôn làm việc. Ngài trực tiếp tác động nơi tâm hồn mỗi người, và Ngài cũng sai một số người đặc biệt để nói với con người của mọi thời đại. Mỗi một người rao giảng đều phải là người đã biết lắng nghe và vâng nghe Lời Chúa trong đời sống.
Con người là tạo vật được yêu thương. Thiên Chúa luôn quan tâm đến con người, Ngài mong ước con người sống hạnh phúc đời này lẫn đời sau. Khi cần can thiệp để hướng dẫn dân một cách đặc biệt, Thiên Chúa dùng các tôi tớ Ngài, cụ thể là các tiên tri. Sách tiên tri Amos cho thấy tiên tri Amos không phải là tiên tri “chuyên nghiệp”, nghĩa là, Ngài không thuộc nhóm tiên tri, hoặc con cháu tiên tri. Ngài là một người chăn cừu, người đi hái trái sung, nhưng đã được Thiên Chúa gọi đi nói tiên tri, đi làm ngôn sứ.
Tiên tri Amos đã được Chúa sai tới nói với dân ở phía bắc, tại đền thờ ở Bethel, nên đã bị tư tế Amaziah đuổi: “hãy cút đi, hỡi nhà thị kiến, hãy trở lại đất Juđa mà nói tiên tri, mà kiếm cơm ở đó”. Amos không là người kiếm cơm bằng nghề tiên tri, thầy chiêm, bói toán. Amos được Thiên Chúa gọi để làm ngôn sứ, nói với dân nhân danh Thiên Chúa. Amos đã đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa, ông đã tới miền bắc để nói tiên tri, để loan báo những gì sắp xảy ra cho dân, để cho dân biết rằng Thiên Chúa vẫn yêu thương dân; những tai họa sắp xảy tới là do nhà vua và dân chúng phía bắc đã không tuân giữ giao ước của Thiên Chúa. Nếu vua chúa và dân không nghe, không đổi đời, thì sẽ có tai họa xảy tới, sẽ bị mất nước. Khi rao giảng như vậy, dĩ nhiên vua chúa và đa số dân chúng thuộc vương quốc phía bắc không đồng ý. Người ta muốn nghe điều tốt lành, chứ không ai muốn nghe nói tai họa sẽ xảy ra. Tư tế Amaziah của đền thờ tại Bethel đã trục xuất tiên tri Amos và không cho ông rao giảng nữa.
Tiên tri, là người của Thiên Chúa. Amos đã vâng nghe Chúa, đáp trả lời mời gọi của Ngài. Ông đã bỏ nghề, đã đi tới vùng đất xa lạ và thậm chí nói cả điều mà chính ông cũng biết sẽ không được người ta chấp nhận. Những nhà tiên tri “chuyên nghiệp”, kiếm cơm bằng nghề bói toán (thầy chiêm, tiên tri) sẽ không dám nói mất lòng dân chúng vì như vậy đâu có kiếm cơm được. Nhiều tiên tri “thật” trong lịch sử đã phải khốn khổ vì đã nói lên sự thật, đã làm điều mà nhiều người cho là ngu dại. Một tiên tri đúng nghĩa, là người của Thiên Chúa, vâng theo Chúa bất chấp những gì xảy tới cho mình.
Sau khi nhận phép rửa tại sông Yordan với Yoan Tẩy Giả, Đức Giêsu đã ăn chay cầu nguyện bốn mươi đêm ngày trong hoang địa, đã rong ruổi rao giảng khắp đất nước Do Thái. Khi đi rao giảng, Đức Giêsu không có gì ngoài chính con người của Ngài. Ngài không sợ đói, không sợ vất vả, không sợ phải màn trời chiếu đất (Mt.21, 18; Lc.21, 37). Đức Giêsu chấp nhận tất cả, Ngài chỉ có sứ mạng phải nói với dân chúng, và chính Ngài đang là Lời cho dân chúng qua cách sống và cách ứng xử của Ngài.
Đức Giêsu cũng sai các tông đồ đi rao giảng. Có lẽ Ngài đang huấn luyện các tông đồ cho sứ vụ tương lai. Ngài ban cho các ông quyền trên thần ô uế, sai các ông đi từng đôi một, dạy các tông đồ đừng mang gì cả ngoại trừ cây gậy. Hành trang của một người tông đồ rất đơn giản: không trang bị lương thực, không bao bị rương hòm, không hai áo! Chả có gì phải bận tâm ngoại trừ chính sứ điệp phải rao giảng.
Người tông đồ của Chúa không chọn ở chỗ này chỗ kia vì được tiện nghi hay kính trọng, nhưng cố gắng diễn tả tính thành tín của Thiên Chúa bằng việc ở tại nhà nào thì ở lại đó cho tới khi ra đi. Nếu người ta không nghe, thì hãy ra đi và không mang theo gì cả, kể cả bụi chân, cũng không ra đi với lòng hận thù hay nguyền rủa. Người của Thiên Chúa mang bình an tới, nhưng nếu người ta không đón nhận, nghĩa là họ không đủ điều kiện để sống bình an, thì người tông đồ của Chúa cũng chấp nhận họ như Thiên Chúa đã chấp nhận họ.
III. Người được sai cũng là quà tặng của Thiên Chúa cho con người
Thiên Chúa tạo dựng con người qua Lời của Ngài. Thiên Chúa ban cho con người tự do. Qua lương tâm, Thiên Chúa mời gọi con người sống vươn lên từng ngày, từng giây phút sống trọn vẹn trong yêu thương, để thành con cái yêu quý của Thiên Chúa. Để thực hiện chương trình yêu thương con người, Thiên Chúa đã sai Lời Ngài đến ở giữa con người, thành một người rất cụ thể là Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu đã sống trọn vẹn thân phận con người, Ngài cũng phải chọn lựa từng ngày, từng hành vi để thuộc về Thiên Chúa hoàn toàn. Đức Giêsu không là một người giầu có về vật chất tiền bạc, Ngài không là một người có địa vị chức quyền, Ngài trắng tay như bao người nghèo khác. Ngài chỉ có Thiên Chúa là Cha, và sống trọn vẹn cho Thiên Chúa mỗi ngày.
Thiên Chúa muốn ban tất cả cho con người, không chỉ là sự hiện hữu của mỗi người; nhưng Ngài còn muốn ban cho con người tất cả trong Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu là mẫu gương, để mỗi con người nhìn vào và dõi theo, để sống yêu thương và hạnh phúc từng ngày. Đức Giêsu là quà tặng vô cùng quý mà Thiên Chúa đã trao ban cho con người. Qua Đức Giêsu, con người nhận ra Thiên Chúa yêu thương con người biết bao, Thiên Chúa sẵn sàng cho con người tất cả trong Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu là tất cả, diễn tả tất cả những gì Thiên Chúa muốn cho con người.
Đức Giêsu Kitô là điều gì vô cùng mới, theo thánh Phaolô, được dấu kín từ muốn thuở nay được tỏ lộ. Đức Giêsu Kitô là mặc khải tuyệt vời của Thiên Chúa. Với Đức Giêsu Kitô, người ta hiểu hơn Thiên Chúa là ai, là Đấng yêu thương con người đến độ nào, là Đấng có nhiều sáng kiến tuyệt vời như thế nào để yêu thương con người. Đức Giêsu đúng là Lời của Thiên Chúa, là mặc khải của Thiên Chúa cho con người, là bảo chứng tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Đức Giêsu là bình an của con người, hiểu theo nghĩa, qua Đức Giêsu con người biết Thiên Chúa yêu thương mình vô cùng, đến độ mình có thể phó thác tất cả cho Thiên Chúa và sống bình an.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Tin Mừng Mc 6: 7-13: Chúa Giêsu lập Nhóm Mười Hai. Ngài cho các ông sống bên cạnh mình. Ngài trực tiếp huấn luyện, bằng cách cho các môn đệ được nghe những lời Ngài giảng, được xem những việc Ngài làm. Sau đó, Ngài sai các môn đệ ra đi thực tập truyền giáo.
Chúa Giêsu lập Nhóm Mười Hai. Ngài cho các ông sống bên cạnh mình. Ngài trực tiếp huấn luyện, bằng cách cho các môn đệ được nghe những lời Ngài giảng, được xem những việc Ngài làm. Sau đó, Ngài sai các môn đệ ra đi thực tập truyền giáo. Hai động từ “gọi, sai đi” diễn tả rõ rệt ơn gọi của các Tông đồ. Trước khi các học trò lên đường, Chúa Giêsu căn dặn nhiều điều như là hành trang cần thiết cho sứ vụ tông đồ. M. Quesnel ví những lời đó như “một loại thủ bản, một cẩm nang cho một nhà truyền giáo hoàn hảo” (“Comment lire un évangile?”, Seuil, trang 103).
Các môn đệ được tham dự vào ba chức năng tư tế, tiên tri và vương đế của Chúa Giêsu. Cây gậy của vương đế, đôi dép của tiên tri, và tấm áo của tư tế.
– Cây gậy
Cây gậy trong tay biểu trưng cho sức mạnh của Thiên Chúa thông ban cho người thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng. Ra đi với niềm tin vào năng quyền của Thiên Chúa trao ban: công bố Tin mừng cứu độ của Đức Kitô, chữa lành và thánh hoá nhằm cải thiện đời sống, xua trừ ma quỷ hầu chế ngự và đẩy lui các thế lực sự dữ.
– Đôi dép
Đôi dép là hình ảnh luôn lên đường. Truyền giáo là ra đi. Đi để mang sứ điệp Tin mừng đến với muôn dân. Sứ vụ sai đi khởi phát từ Chúa Cha “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”.
– Tấm áo
Người ra đi mang áo là mặc lấy tâm tình Chúa Giêsu. Nhờ đó, các môn đệ làm cho cuộc đời mình trở nên của lễ hiến dâng hợp với hiến lễ Chúa Kitô.
Chúa Giêsu trao cho các ông những quyền năng Ngài có: quyền rao giảng, quyền chữa bệnh, quyền trừ quỷ. Đó là hành trang quan trọng hàng đầu. Mọi hành trang khác chỉ là phụ thuộc: một chiếc áo đang mặc, một cây gậy và đôi dép khi đi đường.Với những hành trang như thế, Chúa Giêsu muốn tỏ cho thấy sự thành công trong hoạt động tông đồ không do tài lực của con người nhưng là do quyền năng Thiên Chúa.
Người truyền giáo luôn bị cám dỗ định cư, tìm an toàn bảo đảm bản thân, an nghĩ trong những thành công tạm bợ…và không muốn ra đi. Càng gắn bó, lúc cách xa càng luyến nhớ. Sâu đậm bao nhiêu, lúc giã biệt sẽ nuối tiếc bấy nhiêu. Vì vậy, Chúa muốn các môn đệ luôn sẵn sàng ra đi. Lên đường bao giờ cũng đẹp. Hạnh phúc chỉ dành cho ai dám lên đường tìm kiếm.
Khi sai đi “từng hai người một“, Chúa Giêsu mong các ông hợp tác và liên đới với nhau, khích lệ và bàn hỏi nhau khi gặp khó khăn “Hai người có giá trị hơn một, nếu họ ngã, người này đỡ người kia dậy” (Gv 4,9). Hai người làm việc chung, nâng đỡ nhau biểu lộ tình yêu thương nhau như một dấu chỉ đặc trưng của môn đệ của Chúa (x. Ga 13,35). Dấu chỉ này là một chứng từ sống động và lôi cuốn người khác.
Trong Công vụ Tông đồ, các nhà truyền giáo thường lên đường với nhau “từng hai người một”: Phêrô đi với Gioan (Cv 3,1; 4,13); Phaolô với Banabê (Cv 1 3,2); Giuđa và Sila (Cv 15,22)… Hoạt động tông đồ luôn là tạo thành nhóm. Nếp sống huynh đệ là một bài giảng về tình yêu. Chứng tá Kitô hữu phải nhắm đến một hình thức cộng đoàn trong Giáo Hội. Cuộc sống yêu thương trong cộng đoàn vừa là dấu hiệu của người môn đệ Chúa Giêsu, vừa là lời rao giảng sống động, hùng hồn nhất về Tin Mừng.
Trao “Sứ vụ” cho các môn đệ, Chúa Giêsu không bảo các ông “phải giảng điều gì”. Ngài chỉ căn dặn các ông những chi tiết “phải sống”. Đối với Chúa Giêsu, ra đi làm chứng tá bằng cuộc sống quan trọng hơn chứng tá bằng lời nói.
Suốt mấy năm ra mặt với đời để thi hành sứ vụ, Chúa Giêsu không ngừng đi rày đây mai đó. Ngài luôn ngang dọc trên mọi nẻo đường đất nước để truyền giáo. Từ hội đường này đến hội đường khác (Mt 4,23). Đôi khi ở ngoài trời, ở ngoài đường. Trên một sườn núi cũng có (Mt 5,1), bên một bờ hồ hiu quạnh cũng có (Mc 6,30-34). Có khi “mệt mỏi vì đường sá”, một mình ngồi trên thành giếng nói chuyện với người phụ nữ đến kín nước (Ga 4,6). Có lúc vì dân chúng chen lấn xung quanh đông đảo quá thì “Ngài mới lên một chiếc thuyền, thuyền của Simon và xin ông ấy chèo ra xa bờ một tí. Ngài ngồi xuống rồi từ ngoài thuyền nói vào mà giảng dạy dân chúng” (Lc 5,3). Chúa Giêsu thực hiện một cuộc hành trình liên miên. Theo ngôn ngữ của Phúc âm Marcô chương 1: Ngài bỏ Nazareth để đến gặp Gioan bên sông Giođan, rồi đến Galilê, dọc theo bờ biển Galilê, và Ngài đi rao giảng trong các hội đường khắp xứ Galilê. Trong chương 2: ít lâu sau, Ngài lại về Capharnaum… Ngài ngang qua đồng lúa… Cứ đi và đi như vậy mãi.
Chính giữa khung cảnh đường dài trời rộng thênh thang ấy mà lời giảng dạy của Chúa bao giờ cũng khởi hứng từ một hoàn cảnh cuộc sống. Các hình ảnh cuộc sống đời thường gần gũi tràn ngập trong lời rao giảng. Cánh huệ mọc ngoài đồng. Đàn chim sẻ đang bay. Một đám ruộng lúa chín vàng mở rộng đến chân trời. Một mẻ cá lớn bên biển hồ. Những hạt giống người nông phu gieo vương vãi trên đường mòn,giữa bụi gai, trên sỏi đá. Một đàn cừu người chăn lùa về buổi chiều tối. Từng tảng đá, từng hạt sạn người ta nhặt từ một đống muối để vất đi. Từng con còng người đánh cá nhặt ra bỏ lại bên bờ sau một mẻ cá…
Việc thu thập môn đệ, Ngài cũng vừa đi, vừa gọi, vừa nhận… Như các môn đệ đầu tiên (Mc 1,16-20). Chúa Giêsu không dừng lại, yên nghĩ, hưởng thụ hay cũng cố vị trí người ta dành sẵn cho mình. Sau một ngày thành công rực rỡ ở Capharnaum chẳng hạn: “Sáng đến, Ngài ra đi vào nơi hoang vắng. Dân chúng đi tìm Ngài và đến nơi Ngài,họ cố giữ Ngài lại, không để Ngài đi khỏi chỗ họ. Nhưng Ngài bảo họ: Ta còn phải đem Tin mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa” (Lc 4,42-43).
Như thế, suốt đời Chúa Giêsu đã không hề có trụ sở, không hề có nhà thờ. Ngài đi khắp mọi nẻo đường trên thế giới Ngài đang sống.
Chúa Giêsu bị bắt lúc đang cầu nguyện giữa vườn Giệtsêmani hoang vắng. Bị điệu đến Hanna rồi Caipha. Từ toà đạo qua toà đời. Hết bị điệu đến dinh Philatô lại bị gửi qua dinh Hêrôđê, rồi bị đưa trả về cho Philatô. Không đầy một ngày một đêm mà kẻ tử tù đã phải đi không biết bao nhiêu dặm đường trên con đường “công lý” của loài người.
Bị kết án thập hình. Hai tay dang rộng, bị đóng đinh trên thập giá. Tảng đá lấp cửa mồ (Mc 14,32 -15,47). “Lính canh phòng cẩn mật, niêm phong tảng đá lại” (Mt 27,62-66).Thế nhưng, Chúa Giêsu đã không dừng chân cả trong cái chết. Ngày thứ ba Ngài sống lại, vượt cái chết qua sự sống bất diệt.
Sau khi phục sinh, Ngài cũng đi nhiều nơi, đến với với các môn đệ, cũng cố lòng tin và sai họ ra đi loan báo Tin mừng.
Hoàn thành sứ mạng, “Ngài lên trời ngự bên hữu Chúa Cha” (Mc 16,19) và luôn đồng hành cùng Giáo hội “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. (Mt 28,20).
Chúa Giêsu gọi các môn đệ và “thiết lập Nhóm Mười Hai” để họ ở với Ngài và để Ngài sai đi. Giáo hội tiếp nối sứ vụ được sai đi, ra đi đến với muôn dân. Ra đi là dấn thân đi đến gặp gỡ mọi người với tinh thần đơn sơ, từ bỏ và tự do, để loan báo tin vui và mang đến cho họ ơn cứu độ.
Cuộc đời người Kitô hữu cứ phải ra đi không ngơi nghĩ. Ra khỏi cái cũ và đi tới cái mới. Ra khỏi cái đang có để đi tới cái chưa có. Ra khỏi cái mình đang là để đi tới cái mình phải là. Như thế, hành trình xa xăm nhất lại chính là hành trình của con tim.
Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi.
Nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã ra đi từ trời cao xuống đất thấp, mang Tin mừng chiếu soi nhân trần. Xin sai chúng con ra đi nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế. Xin Chúa giúp chúng con chỉ biết cậy dựa vào Chúa. Chỉ mình Chúa là đủ cho chúng con. Amen.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng” – Charles E. Miller)
Trước khi một tòa nhà được xây dựng, kỹ sư phải hoàn thành bản vẽ. Trước khi một đội bóng đá chuyên nghiệp đến một sân nào thì người huấn luyện viên đó phải có một chiến thuật. Vậy trước khi chúng ta làm một việc gì, phải ý thức về cuộc sống của chúng ta, chúng ta cần phải có một bản thiết kế; cần phải biết chiến thuật của chúng ta là gì.
Chúa Giêsu đã giới thiệu dự định đó trong lúc Ngài ở đây trên mặt đất này, Ngài đã gởi mười hai tông đồ đi trước Ngài trong công cuộc rao giảng, và Ngài tiếp tục rao giảng ngày hôm nay xuyên qua Giáo Hội, tuy nhiên sự thật là dự định của Thiên Chúa không phải là một chân lý lầm lạc hoặc là một ý tưởng xa vời. Dự định của Thiên Chúa là một con người, con người đó là người Con của Ngài, Chúa Giêsu Kitô. Chúa Giêsu thì giống như là một bản thiết kế đã được mang lấy xác. Chúa Giêsu là chương trình dự định cho đới sống của chúng ta.
Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Êphêsô giải thích dự định mà Thiên Chúa Cha đã hài lòng nơi Đức Kitô, Đấng đã mang hết tất cả mọi sự trên trời dưới đất vào trong quyền thủ lãnh của Đức Kitô. Đức Kitô là Đầu và chúng ta là chi thể của thân mình Ngài. Thân thể mầu nhiệm của Ngài là Giáo Hội, thân thể phải đươc trở nên giống như Đầu.
Bởi vì chúng ta là một với Đức Kitô ở trong Giáo Hội, chúng thông dự vào mối quan hệ của Người với Cha. Vì Người là người Con đời đời của Cha, trong ba ngôi, như thế chúng ta cũng trở thành con cái của Thiên Chúa trong Giáo Hội. Thiên Chúa cũng là một gia đình gồm Cha và Con được hợp nhất trong một Thánh Thần. Giáo Hội là một gia đình thiêng liêng ở trên mặt đất này. Chúng ta được sinh ra trong gia đình này qua phép rửa và phép thêm sức và được củng cố như là con cái của Thiên Chúa qua việc xức dầu của Thánh Thần.
Thánh Phaolô đã viết: “Chúng ta đã được đóng ấn bằng Thánh Thần. Sự diễn tả này ám chỉ lối thực hành của một vị vua hoặc của những người khác, họ đã ấn chiếc nhẫn của mình trên sáp nóng và sau đó đóng dấu ấn vào một bức thư hoặc một văn kiện quan trọng để làm bằng chứng xác thực. Khi người ta nhận thấy con dấu của vua, người đó biết rằng tài liệu này là xác thực. Chúa Thánh Thần cũng xuyên qua bí tích Thêm sức đã in dấu trên linh hồn chúng ta để xác định chúng ta thật sự là con cái của Thiên Chúa. Chúng ta thật sự là như thế”
Mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa trong Giáo Hội kêu gọi chúng ta đáp trả bằng hai cách. Cách đầu tiên là phụng vụ. Thánh Phaolô đã nhấn mạnh rằng chúng ta phải ngợi khen đặc ân của Thiên Chúa đã ban cho chúng ta qua người Con Yêu Dấu của Ngài: “Chúng ta đươc tiền định để ngợi khen vinh quang Ngài”. Chúng ta làm viên mãn sự đáp trả này chính yếu là trong phụng vụ thánh, lời cầu nguyện của chúng ta được vươn cùng Giáo Hội. Cái đáp trả thứ hai là “cố gắng trở nên thánh thiện và không tì tích trước ánh nhìn của Thiên Chúa, được tràn đầy tình yêu”. Lối đáp trả thứ hai được chỉ định như là cách chúng ta sẽ sống. Nó có nghĩa là chúng ta phải trở nên giống Đức Kitô, không chỉ trong hữu thể của mình nhưng còn trong tư tưởng, lời nói, việc làm của chúng ta nữa.
Bởi vì Đức Kitô là bản vẽ, là kế hoạch cho đời sống chúng ta, nên phụng vụ không mệt mỏi để giới thiệu Phúc âm cho chúng ta trong mỗi Thánh Lễ. Trong suốt ba năm và Chúa nhật, chúng ta được nghe Lời của Chúa trong bốn Phúc âm. Tất cả các sách Phúc âm đều giúp chúng ta chứng kiến hành động của Chúa Giêsu. Chúng ta thấy bản vẽ của chúng ta, Con Thiên Chúa đã sống như một con người thế nào. Chúng ta cũng được giới thiệu lý tưởng để sống đúng. Trong việc lãnh nhận Thân Mình và Máu của Chúa trong bí tích Thánh Thể, chúng ta được làm cho mạnh sưc1 để có thể theo được kế hoạch của Thiên Chúa dành cho chúng ta: “ Hãy ngợi khen Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng đã ban cho chúng ta trong Đức Kitô mọi phước lành thiêng liêng trên trời”.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest).
Trước hết là một vài điểm chi tiết để hiểu đoạn văn dễ dàng hơn:
– Nhóm 12 là 12 tông đồ. Đức Giêsu sai họ đi từng hai người một, để họ có thể nâng đỡ nhau. Cũng có thể là để làm chứng vì luật Do thái về việc làm chứng đòi hỏi có hai người.
– Chiếc gậy là vật trợ giúp thông thường cho những người đi đường. Chúa cấm mang bị. Có lẽ Ngài ám chỉ đến cái bị của các kẻ hành khất làm giàu nhờ của xin được ở các nơi thờ phượng ít nhiều có khuynh hướng ngẫu tượng. Người ta biết rằng trong lịch sử Giáo hội đã có xuất hiện các dòng hành khất. Để tránh những lạm dụng, Giáo hội luôn đề phòng sao cho việc hành khất khỏi lìa xa đối tượng của nó: việc sinh sống, giúp đỡ kẻ nghèo và các việc truyền giáo. Những lúc nẩy sinh các lạm dụng là những giai đoạn xuống dốc: các dòng tu và hàng giáo sĩ không thực hành đức nghèo khó của người môn đệ. Ngược lại người ta biết đến sự phiêu lưu phan sinh (dòng hành khất đầu tiên do thánh Phanxicô Assisi sáng lập), đã đem lại cho Giáo hội sự canh tân Phúc âm.
– Đi đường với hai áo là dấu chỉ của người giàu di chuyển bằng ngựa.
– Đức Giêsu sai các môn đệ và nói họ cậy trông vào sự tiếp đãi của dân chúng. Sự tiếp đãi đó thuộc phong tục của thời đại và mặc lấy tính cách một bổn phẩn của thành phố và làng mạc với tư cách tập thể cũng như cá nhân.
– Phủi bụi chân ám chỉ một tập tục. Người Do thái từ một nước ngoại giáo trở về hay từ một nơi chốn dơ bẩn mà đến, phải phủi bụi chân để khỏi pha trộn đất bị bẩn và đất thánh thiện của xứ Giavê.
Hai câu hỏi được đặt ra:
1) Tại sao Đức Giêsu sai nhóm 12 đi rao giảng? Thưa vì lý do sư phạm. Đức Giêsu muốn giáo dục các mônd đệ. Và sự giáo dục bao hàm một phần thực tập. Các môn đệ đã nghe Đức Giêsu rao giảng. Nhưng người ta chỉ học tốt điều người ta kinh nghiệm, điều người ta thực hành. Sai họ đi rao giảng, Đức Giêsu muốn cho các môn đệ có được hai kinh nghiệm: Kinh nghiệm sống sự sám hối mà họ rao giảng và kinh nghiệm cảm thấy sự bất túc của con người và vì thế cần phải cầu xin Chúa trong khi chu toàn sứ vụ tông đồ của mình.
Đức Giêsu cũng muốn huấn luyện nhóm 12 về điểm bất vụ lợi tuyệt đối, thật cần thiết cho việc tông đồ đích thật. Cho nên Ngài đòi hỏi phải từ bỏ tất cả những gì không cần thiết cho đời sống. Nhất là Ngài muốn cho họ được cái kinh nghiệm này là: sự từ bỏ chắc chắn sẽ lôi kéo sự quan phòng của Chúa Cha. Con người tự hạn chế về của cải vật chất vì tình yêu đối với TC và để sẵn sàng phục vụ ơn cứu rỗi sẽ không thiếu điều cần thiết.
2) Đức Giêsu gọi 12 tông đồ và sai từng hai người đi, Người ban cho các ông có quyền… Ngay từ lúc đầu trong đời sống CHUNG với Đức Giêsu, các tông đồ kinh nghiệm rằng Thầy họ sai họ đi. Sứ vụ tông đồ tương lai của họ có được tính cách xác thực cũng là nhờ một nguồn gốc: được Đức GIêsu sai đi rao giảng. Ngày ngay chúng ta nói: Giáo hội là Tông truyền. Điều này có hai nghĩa: trước nhất là xuyên qua các Giám mục, Giáo Hội lên đến các Tông đồ, kế tiếp là các Tông đồ được chính Chúa Kitô sai đi và ban quyền hành. Chúng ta có thể rút ra một hệ luận. Nếu ai muốn đến và nhân danh Phúc âm mà nói với chúng ta, chúng ta hãy xem họ có ở trong hàng ngũ tông truyền không, nghĩa là họ có được sự ủy quyền của các người kế vị các Tông đồ, các Giám mục cùng với Đức Thánh Cha ở đàng đầu không. Đây thật là một điều kiện tối cần thiết để bảo đảm rằng qua lời nói và việc làm của họ, họ có được ơn huệ của Đức Kitô không.
Nếu các ngôn sứ là những người nói thay cho Thiên Chúa trong thời Cựu Ước, thì các Tông đồ là những ngôn sứ của Chúa Kitô và được Người sai đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật trước đã nói với ta về những đặc nét của ngôn sứ trong Cựu Ước, đồng thời cũng giới thiệu cho ta vị Ngôn Sứ Con Thiên Chúa là Đức Kitô. Bài Tin Mừng hôm nay là những lời Chúa Giêsu căn dặn các Tông đồ trước khi sai họ lên đường thực tập việc rao giảng.
Câu truyện ngôn sứ A-mốt bị tư tế A-mát-gia sỉ nhục và xua đuổi, cho ta hiểu đâu là điều giúp ta nhận ra một ngôn sứ đích thực. Vốn là một nông dân chỉ biết miệt mài với công việc chăn nuôi và trồng cây, ông A-mốt không hề nghĩ một ngày nào đó Thiên Chúa sẽ gọi ông làm công việc của một vị ngôn sứ. Đáp lời gọi của Chúa, ông rao giảng ở miền bắc vương quốc Ít-ra-en, dưới thời Gia-róp-am II (783-743 trước công nguyên). Với tính tình chất phác của người nông dân, lời giảng của ông giản dị, dễ hiểu, nhưng cũng hết sức mạnh mẽ và thẳng thắn. Chính những lời ông cảnh cáo tội ác của mọi giới trong Ít-ra-en đã khiến cho các nhà lãnh đạo khó chịu và không muốn thấy ông hiện diện tại miền đất của họ nữa. Do đó, A-mát-gia, tư tế đền thờ Bết-Ên, đã quyết tâm xua đuổi ông. Vị tư tế mỉa mai gọi ông A-mốt là “thầy chiêm”, danh từ ám chỉ người phục vụ các thần ngoại chứ không phải Thiên Chúa. Tệ hơn nữa, ông ta còn coi sứ vụ ngôn sứ của A-mốt là một “nghề” để kiếm ăn! Sau cùng ông ta đem cả cái nhãn hiệu “Bết-Ên, thánh điện của quân vương và đền thờ của vương triều” để dọa nạt A-mốt.
Trả lời cho vị tư tế, ông A-mốt đơn giản cho biết: ông không phải là ngôn sứ, hay nói đúng hơn, ông không muốn được người ta xưng tụng là ngôn sứ, mà chỉ là một nông dân thi hành những gì Thiên Chúa truyền dạy ông phải làm, là “đi tuyên sấm cho Ít-ra-en dân Chúa”.
Thực thế, ngôn sứ là người đáp lại lời gọi của Chúa để thi hành một tác vụ, chứ đâu phải một nghề nghiệp hay một địa vị xã hội để vênh vang lên mặt. Ơn gọi khác với nghề nghiệp. Linh mục, tu sĩ, ngay cả những người chọn sống bậc gia đình hay độc thân đều là những người sống ơn gọi. Còn bác sĩ, luật sư, kỹ sư… là những người chọn một nghề nghiệp. Ơn gọi là để phục vụ, còn nghề nghiệp thì mục đích chính là để kiếm tiền và nếu hành nghề với lý tưởng phục vụ nữa thì càng hay biết mấy. Nếu vậy thì ngoài các linh mục tu sĩ là những người chọn việc phục vụ, ta là những anh chị em giáo dân cũng vẫn có thể phục vụ mặc dù ta cần phải có nghề nghiệp để sinh sống. Khi ta thi hành nghề nghiệp của ta cho có lương tâm, sử dụng nghề nghiệp để không những kiếm sống, mà còn giúp đỡ mọi người trong khả năng nghề nghiệp của ta tức là ta đang làm công việc phục vụ rồi đó. Ta rao giảng bằng chính công việc của ta, bằng cách giao tiếp với những người liên hệ trong đức ái Kitô, trong đức công bằng và bình an như Giáo Hội dạy. Ta sử dụng những tài năng trong lãnh vực nghề nghiệp để xây dựng cộng đồng, lo lắng cho công ích, chú tâm tới những người cần giúp đỡ về mọi phương diện… Đó là ta đang cùng một lúc vừa thi hành nghề nghiệp, vừa làm việc tông đồ, một phương thức thực tiễn nhất để chu toàn tác vụ ngôn sứ của ta.
Trước khi sai các Tông đồ ra đi rao giảng, Chúa Giêsu đã phải huấn luyện và đào tạo các ông. Mặc dù các ông có cơ hội “học việc” với Chúa khi các ông theo Người đi khắp nơi, các ông vẫn cần một thời gian “thử việc” sau khi nghe những lời căn dặn quan trọng của Chúa. Những lời căn dặn của Chúa hôm nay không phải là một bản đề cương chi tiết với những nguyên tắc luật lệ rõ ràng, nhưng là những lời đơn sơ nhắm nói lên tinh thần tông đồ hoặc hồn tông đồ là điều các ông cần phải có. Nên nhớ đây không phải là một “nghề nghiệp” cần phải có bản “mô tả công việc” như ta thấy nơi các sở làm, nhưng là một “ơn gọi phục vụ” Chúa mời gọi để các Tông đồ đáp lời và ra đi phục vụ.
Trước hết Chúa sai họ đi từng hai người một, để họ không lẻ loi, nhưng nâng đỡ và giúp nhau, nhất là khi gặp những gian nan thử thách. Tiếp đến, Chúa “ban quyền” cho các ông, không phải để dùng quyền đó mà hống hách nạt nộ hay áp bức người khác, nhưng là để sử dụng mà giải thoát người khác khỏi quyền lực của ác thần, bệnh tật thể xác cũng như tinh thần.
Những lời căn dặn của Chúa Giêsu nhắm đến tinh thần tông đồ và cách giao tiếp cũng như ứng phó với hoàn cảnh rao giảng. Nói đến tinh thần tông đồ hoặc hồn tông đồ là nói đến tinh thần tự do, không vướng mắc vào tiền bạc, của cải, đời sống vật chất hoặc danh vọng ở đời. Người tông đồ “không được mang gì đi đường” và chỉ độc nhất có “cây gậy và đôi dép” làm hành trang! Không mang theo gì cả, ngoài lý tưởng phục vụ, bởi vì lỉnh kỉnh với những hành trang nặng nề sẽ làm tổn thương đến lý tưởng phục vụ. Chỉ có cây gậy là lòng tín thác cậy dựa vào tình yêu cũng như quyền năng của Chúa. Chỉ có đôi dép là sức mạnh của Chúa giúp họ bền bỉ và can đảm rảo khắp nẻo đường Chúa muốn họ đi.
Về cách giao tiếp và ứng phó với hoàn cảnh, người tông đồ phải luôn thẳng thắn, đó là điều cần thiết nhất. “Khi anh em đã vào nhà nào” là cách nói ám chỉ người tông đồ đã được người ta tiếp nhận và lắng nghe. Nếu thế thì người tông đồ cứ tác vụ mình mà thi hành, “ở lại đó” mà rao giảng, mà phục vụ, mà làm khí cụ bình an của Chúa, chứ đừng làm gì đi ngược với tinh thần tự do đích thực, đừng vướng mắc bất cứ gì dù là vật chất hay tình cảm. Người tông đồ thẳng thắn khi được tiếp nhận, nhưng cũng thẳng thắn khi bị xua đuổi. Dù không được đón tiếp niềm nở hay thậm chí bị xua đuổi, người tông đồ không cay đắng nguyền rủa những người xử tệ với họ, nhưng chỉ thẳng thắn “cảnh cáo” những kẻ ấy đã không tiếp nhận Tin Mừng để hy vọng ngày nào đó họ sẽ thay lòng đổi dạ.
Lời dặn dò của Chúa Giêsu chẳng cần văn hoa hoặc đao to búa lớn, nhưng là những điều đơn sơ nhất, cần thiết nhất và thực tế nhất. Tinh thần tự do và tinh thần thẳng thắn đã đủ là hành trang của bất cứ ai muốn đáp lời Chúa ra đi rao giảng hoặc làm chứng cho những giá trị Tin Mừng. Có lẽ ta tự hỏi: vậy người giáo dân chúng tôi làm thế nào để áp dụng tinh thần tự do và thẳng thắn ấy? Thì cũng vậy thôi, nghĩa là cứ sống như một người Công giáo không để cho tiền bạc, danh vọng và quyền lực làm chủ mình. Nghĩa là cứ thẳng thắn và thành thực trong những giao tiếp, đối xử với những người chung quanh, lúc nào cũng cố gắng thực thi lời dạy “hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương chúng con” của Chúa. Như thế là ta đang làm ngôn sứ của Chúa Kitô, làm chứng nhân cho Tin Mừng của Người rồi. Thánh sử Mác-cô kể rằng các Tông đồ đã thực sự lên đường và cũng đã gặt hái được những thành quả tốt đẹp. Chắc chắn việc lên đường ấy và gặt hái được những hoa trái tông đồ ấy không phải là điều không thể đối với ta, những Kitô hữu hôm nay.
Được Thiên Chúa chọn và gọi làm ngôn sứ là một ân sủng lớn lao. Tuy nhiên được Người chọn làm nghĩa tử còn là một ân sủng lớn lao hơn nữa. Chính vì thế thánh Phao-lô Tông đồ đã cảm nghiệm ân sủng cao sâu đó, nên mở đầu thư gửi tín hữu Ê-phê-xô, ngài đã dành một đoạn hết sức tuyệt vời để dâng lời chúc tụng Thiên Chúa. Thánh Phao-lô chúc tụng Chúa, vì trong Đức Kitô, Chúa đã thực hiện cho nhân loại một điều vô cùng lớn lao mà ngài gọi là “kế hoạch yêu thương”. Kế hoạch này được thực hiện đều là nhờ Chúa Kitô. Vậy trong Đức Kitô và nhờ Đức Kitô, Thiên Chúa làm gì cho ta? Thánh Phao-lô kể ra những việc sau đây: a) Thiên Chúa đã chọn ta và muốn ta nên tinh tuyền thánh thiện (Ep 1:4); b) Thiên Chúa đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Kitô (1:5); c) Thiên Chúa cứu độ ta nhờ máu Thánh Tử đổ ra (1:7); d) Thiên Chúa đã chọn các Tông đồ làm gương mẫu đặt hy vọng vào Đức Kitô (1:11); e) Thiên Chúa đã cho ta được diễm phúc đón nghe Tin Mừng (1:13); và f) Thiên Chúa ban Thánh Thần làm bảo chứng phần gia nghiệp của ta (1:13). Tất cả những điều này đều là những điều Thiên Chúa đã “tiền định”, tức là đã có kế hoạch từ trước muôn đời. Nói như vậy tức là mọi thứ phúc họa ta gặp ở đời này chỉ là những may rủi hay trùng hợp, chứ không thể là “Chúa định”! Chúa chỉ tiền định có một điều và Chúa chỉ tiền định điều tốt thôi, đó là sắp đặt “kế hoạch yêu thương” để mong ta đáp lại, cộng tác và sau hết được cùng Người hưởng phúc trường sinh. Mà chính khi tiền định để cứu độ ta, Thiên Chúa vẫn tôn trọng quyền tự do cộng tác của ta, chứ không tiền định một cách độc đoán đến độ “bắt” ta “phải” lên thiên đàng đâu!
Có khi nào trong đời Kitô hữu, ta biết dừng lại một chút để suy nghĩ về kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa và dâng lời chúc tụng Người như thánh Phao-lô đã làm không? Hay là cái điệp khúc “ta là con cái Chúa và được Người cứu độ” đã trở thành quá quen thuộc đến độ ta không còn để ý tới ý nghĩa sâu xa của nó nữa, nhất là ta quên rằng đó là một kế hoạch của tình yêu? “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (Ga 20:21; xem 17:18). Chúa Cha đã sai Đức Kitô đi thực hiện kế hoạch yêu thương. Giờ đây đến lượt Đức Kitô sai ta đi làm ngôn sứ và chứng nhân cho kế hoạch yêu thương ấy bằng chính đời sống yêu thương của ta.
4) Sống Lời Chúa
Chúa Giêsu kêu gọi các thánh Tông đồ, đào tạo họ trong tinh thần truyền giáo và sai họ đi rao giảng Tin Mừng. Tất cả đều nhắm mục đích thực hiện kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã chu toàn sứ mệnh và Người còn kêu gọi ta tiếp tục sứ mệnh của Người nếu ta sống tất cả những ân sủng đã lãnh nhận được từ kế hoạch yêu thương ấy. Ý thức sứ mệnh tông đồ và truyền giáo ta được chia sẻ với Chúa Kitô, ta cố gắng sống cuộc đời Kitô hữu gương mẫu, để không chỉ rao giảng bằng lời nói, nhưng bằng việc làm và qua những giao tiếp đầy tình thương bác ái với anh chị em.
Suy nghĩ: Tông đồ nghĩa là người được sai đi. Vậy tôi được Chúa sai đi tới đâu và làm gì với tính cách là tông đồ của Người? Những lời Chúa căn dặn các Tông đồ có ý nghĩa gì đối với tôi?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, nhờ Con Chúa hạ mình xuống, Chúa đã nâng loài người sa ngã lên; xin rộng ban cho các tín hữu Chúa niềm vui thánh thiện này: Chúa đã thương cứu họ ra khỏi vòng nô lệ tội lỗi, xin cũng cho họ được hưởng phúc trường sinh. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật 14 mùa Thường niên).
Mãi đến lúc này Maccô mới kể cho chúng ta biết thoạt đầu Chúa Giêsu gọi vài môn đệ theo Ngài (1,16-20), sau đó Chúa Giêsu thiết lập nhóm Mười Hai để họ “ở với Ngài” và chia sẻ sứ vụ của Ngài (3,13-19). Và giờ đây Ngài mới sai họ đi rao giảng (c. 7). Nhóm Mười Hai sẽ xứng đáng với tước hiệu “tông đồ”, nghĩa là “được sai đi” thi hành sứ vụ (6,30) mà sau này họ sẽ lãnh nhận. Trong chương ngắn gọn này, xem ra Maccô đã sử dụng cuốn tiểu cẩm nang của một thừa sai hoàn hảo. Lối hành văn vấp váp không mạch lạc cho thấy rõ Maccô đã sử dụng lại một truyền thống có trước ông.
Khởi đầu Chúa Giêsu sai các môn đệ đi từng nhóm “hai người một” (c. 76). Đây không hiểu có phải là một tập tục Do Thái không? Theo luật Môsê, cần hai nhân chứng mới xác nhận được một lời khai (Đnl 19,15). Tuy nhiên con số hai cũng là biểu tượng của cộng đoàn, nghĩa là các thừa sai không làm việc đơn lẻ mà làm việc theo từng nhóm. Các Kitô hữu sơ khai đã lặp lại y hệt lối thực hành này của Chúa Giêsu. Trong công vụ sứ đồ, các thừa sai luôn luôn đồng hành từng cặp với nhau: Phêrô và Gioan (Cv 3,1; 4,13); Phalô và Barnabê (Cv 13,2); Giuđa và Sila (Cv 15,22b)… Chúa Giêsu cũng ban cho các thừa sai này một phần quyền năng của Ngài, đó là quyền trừ quỷ, như là một trong dấu chỉ xác thực rằng Vương Quốc Thiên Chúa đã được khánh thành.
Điều đáng nhớ trước hết: các lệnh Chúa Giêsu truyền cho các thừa sai (c. 8-9) lại là các lệnh truyền dành riêng cho khách bộ hành. Tuy nhiên, các huấn luyện ấy đặc biệt nhấn mạnh đến đức tính khó nghèo mà các thừa sai phải chứng tỏ cho mọi người thấy. Ngay cả những gì thiết yếu (như bánh mì, tiền túi) thì cũng sẽ chỉ được nhận lãnh như những quà tặng của những người được họ ghé thăm. Phong thái họ cực kỳ đơn giản giống như những lữ khách lòng không hề vướng bận (không túi xách đi đường, không áo dài để thay đổi). Ngược với Matthêu và Luca, để bước đi cho dễ, Maccô cho rằng gậy và dép là cần thiết. Vào thời đó, hầu như người ta thường đi chân không. Tuy nhiên để đi nhưng chặng đường dài, xem ra cần phải có gậy và dép. Có lẽ ở đây Maccô muốn trình bày các trợ tá của Chúa Giêsu như những “khách hành hương” luôn luôn sẵn sàng lên đường, như những kẻ được mô tả trong nghi thức lễ vượt qua: “Nịt thắt ngang hông, giầy dép xỏ vào chân, tay cầm sẵn gậy” (Xh 12,11).
Các lời khuyên liên quan đến việc tiếp đãi còn đáng ngạc nhiên hơn (c. 10-11). Là thừa sai đi rao truyền sứ điệp một cách vô vị lợi, nên họ có quyền được những gia đình mà họ ghé tiếp đón họ một cách vô vị lợi. Tuy nhiên Tin Mừng không mang tính áp đặt, mà chỉ có thể được đón nhận trong tự do. Nếu thành phố hay làng mạc nào từ chối không đón nhận thì người ta sẽ đi qua chỗ khác nhưng đồng thời vẫn tôn trọng sự từ chối đó. Ở đây Maccô mô tả lại nghi thức xưa kia thường được dùng ở phương Đông: Phủi bụi khỏi chân mình khi rời bỏ một nơi chốn thù nghịch để tỏ dấu tuyệt giao!
Giống như Chúa Giêsu (c. 12-13), nhóm Mười Hai lên đường loan báo Nước Thiên Chúa đã đến và mời gọi mọi người hoán cải (1,15). Giống như Ngài, họ cũng chứng thực lời nói của họ bằng việc ban phát những dấu chỉ để giúp người ta tin họ. Việc xức dầu trên bệnh nhân chứng thực đây là một thói quen đã có từ xa xưa. Người ta từng biết công dụng hữu ích của việc xức dầu lên thân thể. Giáo Hội về sau đã nhận ra trong tập tục này mầm giống một phép bí tích đó là bí tích Xức dầu bệnh nhân để chữa lành thể xác và tâm linh của họ (x. Gc 5,14).
Đối với chúng ta ngày nay xem ra rất cổ kính xét về mặt hình thức của nó bởi vì rõ ràng nó chịu ảnh hưởng sâu đậm của các phong tục thời xưa. Tuy nhiên tận căn nó vẫn hiện thực. Tin Mừng phải luôn luôn được cơ động mang đến khắp mọi nơi bằng những phương tiện nghèo khó. Được trao ban vô vị lợi, Tin Mừng này mời gọi lương tâm tự do đón nhân. Đây là lời nói đi kèm theo các dấu chứng sự chiến thắng của Chúa Kitô trên sự Dữ và Thần Chết. Đó chính là sứ điệp trường cửu của trình thuật rất cổ kính này.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam ghi lại tên tuổi hai vị giáo sĩ truyền giáo nổi tiếng: Đức Cha Lambert de la Motte và Đức Cha Francois Pallu. Vào thế kỷ 17, Toà Thánh đã đặt hai giám mục này làm Giám Quản Tông Toà đầu tiên ở Việt Nam: Đức Cha Lambert de la Motte phụ trách Đàng Trong (từ sông Gianh trở vào Nam) kiêm Camquchia, Lào, Thái Lan. Đức Cha Francois Pallu phụ trách Đàng Ngoài (từ sông Gianh trở ra Bắc) kiêm Trung Quốc.
Đức Cha Francois Pallu là người pháp, từ bỏ gia đình và quê hương vào ngày 3.1.1662, ngài dùng tàu buồm vượt qua Địa Trung Hải rồi men theo đường bộ một thời gian lâu dài, qua hết các nước Trung Đông, Vịnh Ba Tư, Ấn Độ mới đến Thái Lan. Năm 1670, trên đường đến miền Bắc Việt Nam, lúc đi ngang qua Huế, thuyền của ngài bị một cơn bão đánh giạt vào Philippin. Ngài bị người Tây Ban Nha bắt bỏ tù rồi đem giải về Tây Ban Nha.Với sự can thiệp của Toà Thánh, Tây Ban Nha trả tự do cho Đức Cha. Tuy phải trải qua nhiều gian khổ, nhưng tim ngài vẫn luôn sáng chói một niềm hy vọng. Ngài nói: “Tôi phải đem Tin Mừng đến tận Trung Quốc”. Vừa được trả tự do, ngài tìm mọi cách đến Bắc Kinh, và cuối cùng thân xác ngài được chôn vùi tại đây theo như ngài mơ ước. một câu nói của ngài đáng cho chúng ta ghi nhớ: “Tôi tự cho mình hạnh phúc nếu có thể đem xương cốt mình bắc một nhịp cầu tới Bắc Việt và tới Trung Quốc!”.
Thưa anh chị em, cuộc đời truyền giáo của Đức Cha Francois Pallu tại đất nước ta cũng như biết bao nhà truyền giáo khác trên thế giới gắn liền với đời tông đồ và cái chết tử đạo của mười hai Tông Đồ. Chính Chúa Giêsu tuyển chọn Nhóm Mười Hai để nhóm này ở lại bên Ngài và để được huấn luyện. Mục tiêu của huấn luyện là để các ông trở nên những người được Chúa Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Ngay từ khi còn ở trần gian, Chúa Giêsu đã thấy mình đứng trước một cánh đồng mênh mông, có biết bao nhiêu người cần được nghe Tin Mừng cứu độ. Ngài thấy mình cần những cộng tác viên nhiệt thành cho công cuộc truyền bá Tin Mừng. Chúa Giêsu đã trao tất cả những gì mình có cho Nhóm Mười Hai: quyền rao giảng, chữa bệnh, trừ quỷ. Hoạt động của các ông là một sự nối dài và mở rộng sứ vụ của mình Chúa Giêsu.
Chia tay Thầy Giêsu, Nhóm Mười Hai lên đường. Đâu là hành trang của người tông đồ? Chúa Giêsu trả lời: “Không được mang gì khi đi đường”. Không bánh trái, không bao bì, không tiền bạc, không mặc hai áo. Như thế, các ông lên đường với tất cả sự nhẹ nhàng. Càng nhẹ nhàng thì càng dễ thi hành sứ mạng và càng được tự do hơn. Tuy nhiên sự nhẹ nhàng này thật là một thách đố. Khi người tông đồ phải lên đường với hai bàn tay trắng, không có lộ phí, không có lương thực dự trữ, lúc đó họ phải hoàn toàn lệ thuộc vào lòng nhân hậu của Thiên Chúa và lòng tốt của tha nhân. Ra đi tay trắng như thế là chấp nhận mọi bất trắc có thể xẩy ra dọc đường, nhưng cũng là đặt mình thường xuyên dưới sự quan phòng của Chúa. Chính Chúa lo mọi sự cho tôi, để tôi chuyên tâm lo việc của Chúa. Sự an toàn của tôi không dựa vào những phương tiện trần thế, nhưng vào chính Thiên Chúa.
Chúa Giêsu cũng dạy cho các ông biết thái độ phải có khi đến với dân chúng. Nếu được đón tiếp thì hãy ở lại, không tìm một nhà khác tiện nghi hơn. Người tông đồ cần có đời sống nghèo, đón nhận những gì được trao cho mình với lòng biết ơn. Nếu không được đón tiếp thì cũng không nên nản lòng. Cử chỉ giũ chân ra đi cho thấy người tông đồ chẳng hề muốn lấy đi điều gì ở nơi đã từ chối đón tiếp mình.
Anh chị em thân mến, hôm nay, Chúa Giêsu Phục Sinh cũng sai chúng ta đến với thế giới. Thế giới không phải là chuyện xa xôi. Thế giới là nơi chúng ta đang sống, đang làm việc. Thế giới là gia đình, bạn bè, là trường học, cơ quan, xí nghiệp. Thế giới là nơi giải trí, nơi du lịch, bãi biển. Thế giới là sách báo, phim ảnh, video, quảng cáo. Thế giới là mọi ngành khoa học, nghệ thuật, văn chương. Chúng ta ở trong thế giới và Chúa muốn sai chúng ta đi vào thế giới của mình trong tư cách là người Kitô hữu. Kitô hữu là người có khả năng biến đổi thế giới mình đang sống để nó biến thành thế giới của Thiên Chúa. Các Tông Đồ đã rao giảng, đã mời gọi con người hoán cải để đón nhận Nước Thiên Chúa gần bên. Chúng ta cả những gì phá huỷ phẩm giá con người, loại trừ sự sống của Thiên Chúa, đều phải bị loại trừ. Kitô hữu là người phải hoán cải trước khi mời gọi người khác hoán cải, phải tỉnh thức trước khi đánh thức người khác, phải thuộc về Chúa trước khi trừ quỷ.
Thế giới hôm nay cũng là một thế giới bị thương tích, cần được chữa lành. Bệnh tật của thân xác và bệnh tật của tinh thần vẫn hoành hành trên thế giới. Con người đau khổ vì mất lòng tin, lo âu, tuyệt vọng. Con người nô lệ cho chính những sản phẩm của mình. Tiến bộ khoa học kỹ thuật lại đặt ra những vấn đề mới mà tự sức con người không giải quyết được. Kitô hữu là người tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu, băng bó vết thương của thế giới bằng sự hiện diện đầy yêu thương.
Chúng ta không rõ nếu hôm nay Chúa Phục Sinh chỉ thị cho chúng ta, thì Ngài sẽ nói gì trước khi ngài sai chúng ta ra đi. Chắc Ngài sẽ nói khác với đoạn Tin Mừng hôm nay, những ý chính vẫn không thay đổi. Ngài dạy chúng ta tin cậy và quyền năng của Thánh Linh hơn là vào khả năng và phương tiện tự nhiên của mình. Ngài nhắc nhở chúng ta tín thác và Cha trên trời và Chuyển cầu cầu nguyện, vì chẳng ai có thể rao giảng Tin Mừng nếu không có tình bạn thân thết với Chúa.
Mỗi Thánh Lễ Chúa Giêsu tập họp chúng ta lại thành một cộng đoàn môn đệ của Ngài, để rồi sai chúng ta ra đi loan truyền Tin Mừng Phục Sinh của Ngài cho mọi người ở mọi nơi. Tin Mừng này chỉ có thể được công bố bằng cuộc sống làm chứng của mỗi người chúng ta và của Giáo Hội, một cuộc sống trung thành với Chúa Giêsu nghèo khó và chịu đóng đinh thập giá. Đó là bằng chứng đáng tin của tình thương cứu độ mọi người.
(Suy niệm của AM Trần Bình An)
Ngày 11 tháng 12 năm 1979, Mẹ Têrêxa Calcutta đáp máy bay đến Oslo. thủ đô Na Uy, để lãnh giải thưởng Nobel Hòa Bình. Mặc bộ y phục đặc biệt của mình, là chiếc sari có đường viền màu xanh và chân đi dép, bất chấp thời tiết lạnh dưới không độ. Một tay nắm chặt tràng chuỗi Mân Côi, còn tay kia một túi xách nhỏ, khiến cho cả đoàn xe hùng hậu ra nghênh đón Mẹ Têrêsa tại phi trường, phải chưng hửng về không, vì Mẹ chẳng có mang theo gì hơn.
Theo Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã kỹ lưỡng căn dặn các Tông đồ: “Không được mang gì đi đường,” không vướng bận vào những lo toan, vật chất, danh lợi, khi Đi Gieo. Phải chăng Người chỉ muốn nhắn nhủ các sứ đồ mang theo ba lô lên đường, với những hành trang tinh thần?
Hành trang thiết yếu nhất là cầu nguyện. Nhờ kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu, các Tông đồ mới nghe được Ơn Gọi sai đi, để mau mắn đáp lời. Gương sáng gần đây nhất, chính là Mẹ Têrêsa Calcutta luôn liên lỉ cầu nguyện, vì đó là viêc thường nhật, là nguồn sức mạnh bồi dưỡng. Do vậy, cỗ tràng hạt không bao giờ rời khỏi tay Mẹ Têrêsa, vì ad Jesum per Mariam, đến với Chúa Giêsu nhờ qua Mẹ Maria.
“Nếu không có Thiên Chúa hỗ trợ, chúng ta quả thật quá nghèo chẳng có thể giúp đỡ người nghèo được. Mẹ chỉ là phụ nữ nghèo luôn cầu nguyện. Chính trong khi cầu nguyện mà Thiên Chúa đặt Tình Yêu Ngài vào lòng mẹ và nhờ thế, mẹ có thể giúp đỡ người nghèo. Mẹ giúp đỡ người nghèo vì mẹ hằng cầu nguyện, mẹ cầu nguyện luôn.” (Mẹ Têrêsa Calcutta).
Chúa Giêsu đã biến mình dưới hình bánh để đem cho chúng ta sự sống. Ðó là nơi chúng tôi bắt đầu một ngày, với Thánh Lễ. Và chúng tôi kết thúc một ngày với việc Chầu Thánh Thể. Tôi nghĩ là tôi không thể làm nổi công việc này chỉ một tuần lễ, nếu không dành bốn giờ cầu nguyện hàng ngày. (Mẹ Têrêsa trả lời phỏng vấn của báo Time)
Chúa Giêsu còn dặn dò: “Không được mang lương thực, bao bì, tiền giắt lưng, được đi dép, nhưng không được mặc hai áo.” (Mc 6, 8) Tại sao Người lại đòi hỏi ngặt nghèo đến thế? Nếu không phải là tâm tình dâng hiến, phó thác, tin cậy. Nếu không phải tâm hồn đơn sơ, giản dị, thanh bần và hòan toàn hy sinh.
Một khi sống khắng khít với Người qua cầu nguyện, hy sinh và phó thác trọn vẹn vào tay Chúa Quan Phòng, không còn lấn cấn lo lắng đến bản thân, cái tôi nhỏ mọn, thì môn đệ của Chúa mới có thể tận tâm đến với tha nhân, đến với người nghèo, tàn tật, bịnh hoạn thân xác, lẫn tâm hồn. Chính nhờ đức bác ái, người ta nhận ra chính xác người môn đệ của Chúa.
“Bác ái, đồng phục của người Kitô hữu.” (ĐHV)
Không phân biệt đối xử với bất cứ ai, môn đệ còn sống trung thực, liên đới, cảm thông, tin yêu, theo đúng những điều mình đang rao giảng, để làm chứng nhân cho Chúa Giêsu, cho Tình Yêu tuyệt diệu của Người: “Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì hãy ở lại đó cho đến lúc ra đi.” (Mc 6, 10)
Tuy nhiên Chúa Giêsu cũng đòi hỏi phải bày tỏ thái độ dứt khoát và công khai, đối với những ai cố chấp, khước từ Tin Mừng:”Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân, để tỏ ý phản đối họ.” (Mc 6, 11)
Tóm lại, cầu nguyện, hy sinh và bác ái là ba hành trang vô cùng thiết yếu, bất khả phân ly, của người được sai đi rao giảng, nếu không muốn trở thành kẻ phản nghịch, kẻ giả hình, man trá, a dua theo sự dữ.
Lạy Chúa, xin giúp con giũ bỏ được mọi phù vân, mọi dục vọng danh lợi, để con có thể xứng đáng trở nên sứ giả Đi Gieo Tin Mừng.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy con biết cầu nguyện, kết hợp mật thiết với Chúa, biết hy sinh bản thân, để yêu thương, phục vụ tha nhân, hầu đem Tình Yêu Thiên Chúa đến mọi người. Amen.
(Suy niệm của AM. Trần Bình An)
Linh mục Anto Kudukkamthadam là Cha Sở giáo xứ Piploda bên Ấn Độ. Vốn liếng kiến thức về xã hội học đã giúp Cha Anto biết rõ địa hình địa thế của xứ đạo. Theo Cha, có từ 5-7% dân làng là người giàu, 10% là giới trung lưu, còn lại 80% là người nghèo. Thế nhưng, Cha Anto nói:” Vị Linh Mục tu sĩ nào dám công khai lên tiếng tố giác hố sâu bất công này thì tính mạng bị lâm nguy. Nữ tu Rani Maria bị ám sát cách dã man, chỉ vì Chị hoạt động xã hội, khuyến khích các bà các cô biết tự tổ chức, phân định các hoàn cảnh và làm việc chung với nhau. Hoạt động của Chị Rani Maria mang lại kết quả tốt đẹp. Nhưng kết quả tốt đẹp lại gây khó chịu cho giới giàu có trong làng và họ thuê người giết Chị.”
Thời gian đầu vô cùng khó khăn. Một ngày, tôi tưởng như giờ cuối cùng đã điểm. Một nhóm thanh niên thuộc phong trào chính trị Ấn giáo đến giáo xứ gặp tôi. Họ chất vấn tôi đủ điều:” Ông là ai mà dám ở đây? Rồi ông đến đây để làm gì? Ông không phải dân địa phương, như thế có nghĩa ông nhận tiền viện trợ của Anh hoặc của Mỹ! May mắn thay, tôi nói được tiếng Hindi địa phương. Sau khi giải thích việc đang làm, tôi kết thúc: “ Các anh có thể giết tôi, tôi sẵn sàng chết vì Đức Chúa GIÊSU KITÔ!
Dần dần, họ dịu lại. Một thời gian sau, khi họ thấy chúng tôi thật sự giúp dân làng, đặc biệt mở các lớp học bình dân, thì chính những người từng dọa giết tôi, lại gửi con cái họ đến học trường chúng tôi! Cha Anto lấy lại bình tĩnh nhờ cầu nguyện và suy gẫm mỗi ngày. Rồi từ sau vụ khỏi bệnh lạ lùng, uy tín của Cha Anto càng gia tăng thêm. Số là, một ngày kia, một dân làng bị bò húc gãy xương sống. Họ mang người bị nạn đến, xin Cha chữa vì nghĩ Cha là thầy thuốc. Cha Anto nói với người bệnh: ”Tôi không có thuốc, nhưng chỉ duy nhất Đức Chúa GIÊSU KITÔ có thể chữa ông lành.” Nói xong, Cha đặt tay trên ông và sốt sắng cầu nguyện. Bỗng chốc người bị nạn đứng lên và đi đứng như thường.
Từ đó, Cha Anto điều động một nhóm cầu nguyện và tiếp tục làm việc tông đồ trong an bình, không còn bị quấy nhiễu nữa! (Nữ tu Jean Berchmans Minh Nguyệt, “Missions Étrangères de Paris”, n.315, Janvier/1997, trang 12-17)
Theo Tin Mừng Máccô hôm nay, Đức Giêsu bắt đầu sai các Tông Đồ đi rao giảng. Ban cho các ông có quyền trên các thần ô uế, sự dữ, ma quỷ. Nhưng dặn các ông không được mang theo tiền của, lương thực, hành trang nào khác ngoài Lời Chúa. Linh mục Anto Kudukkamthadam đã áp dụng chuẩn xác những điều Đức Giêsu răn dạy khi đi rao giảng.
Sống đơn sơ
Thoát khỏi cám dỗ vật chất, tiện nghi, không lương thực, bao bì, tiền bạc, không áo quần rườm rà, kiểu cọ, thời trang, mà sống đạm bạc, đơn sơ, thanh đạm, Tông Đồ mới có thể can đảm dấn thân đi rao giảng kết quả hữu hiệu. Bao lâu còn bị những ràng buộc vật chất, của cải, danh lợi, chức tước, quyền lực khuynh đảo, quản lý và trói buộc, thì chẳng còn hồn Tông Đồ, mà chỉ còn hồn Trương Ba, da hàng thịt, là kẻ cơ hội, mưu lợi cá nhân, vinh thân phì gia, cúc cung bái thần tài, nô lệ cho thân xác, thế gian và ma quỷ. “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được.” (Mt 6, 24).
Đức Thánh Cha Phanxicô hẳn phải rất băn khoăn, lo lắng cho tiền đồ Hội Thánh mới công khai nhắc nhở các Linh mục: “Tôi yêu cầu anh em hãy là những mục tử mang nặng mùi con chiên của mình.” Khi ngài cử hành Thánh Lễ Làm Phép Dầu tại Đền thờ Thánh Phêrô,vào lúc 9 giờ 30, ngày Thứ Năm Tuần Thánh, 28.3.2013.
Sống phục vụ
“Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi.” Không theo ý riêng, không đòi hỏi được phục vụ như thế nào, mà hoàn toàn vâng theo Thánh ý Chúa, bằng lòng với môi trường được trao, chấp nhận mọi thách đố, khó khăn, thi hành đầy đủ chức năng, bổn phận và Ơn Gọi. Vì Đi Gieo là phục vụ chứ không phải được phục vụ, mà kén cá chọn canh, là sẵn sàng đón nhận gian lao, khó khăn, hy sinh và hiểm nguy đến tánh mạng. “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm, thì sẽ cứu được mạng sống mình.” (Mc 8, 34-35)
“Mỗi dịp hiến mình trong ngày không phải là một khổ đau, mất mát, nhưng là một đề nghị của Chúa, để con được lớn lên.” (Đường Hy Vọng, số 610)
Sống công chính
“Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ.” Không thỏa hiệp với sự dữ, cái ác, với thế gian và với ma quỷ, Tông Đồ luôn khẳng định là chứng nhân đích thực của Đức Kitô, không cần mỵ dân, không a dua bầy đàn theo xã hội, theo khuynh hướng thế tục, ham danh háo lợi, khoa trương, kiêu căng, kiêu hãnh.
Khôn ngoan thế gian hay cám dỗ hòa hợp, thỏa hiệp để tồn tại, để phát triển, để xây nhà thờ, nhà xứ cho đồ sộ, nguy nga, để sinh hoạt giáo xứ sầm uất, rầm rộ, xôm tụ, danh tiếng, mà bỏ bê tâm hồn giáo dân nguội lạnh, xa Chúa thì phỏng được ích gì?
Thánh Phaolô chỉ duy nhất lấy làm hãnh diện về Thập Giá Đức Giêsu: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi, và tôi đối với thế gian.” (Gl 6, 14)
“Ánh sáng tông đồ của con phải chuyển sang những lớp tông đồ khác, cho đến lúc thế gian từ u tối tràn ngập hào quang. Làm tông đồ cho tông đồ.” (Đường Hy Vọng, số 305)
Lạy Chúa Giêsu, chúng con được Chúa mời gọi ra đi rao giảng Tin Mừng, nhưng chúng con còn mãi bận rộn, tất bật với đủ chuyện thế gian, lo toan giành giật làm ăn, kiếm tiền, kiếm chức, kiếm danh, lại còn đam mê những thứ phù phiếm hư ảo chóng qua. Xin Chúa thức tỉnh chúng con, biết dần bỏ đi mọi sự phù vân, mà can đảm lên đường theo Chúa làm chứng nhân.
Mẹ Maria ơi, xin Mẹ cầu bầu cứu giúp chúng con bừng tỉnh, thoát ra khỏi thung lũng nước mắt này, để chúng con biết lắng nghe tiếng Chúa mời gọi, sám hối, ăn năn, tái sinh trong Chúa Thánh Thần, trở nên người Đi Gieo Lời Chúa cho muôn người. Amen.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
“Hãy đi”. Chúa phán cùng Amos: “Hãy đi nói tiên tri cho dân Ta” (Am 7, 15); “Chúa Giêsu gọi mười hai tông đồ và sai từng hai người đi” (Mc 6, 7). Chúa gọi Amos, Chúa sai các tông đồ, Chúa cũng gọi mỗi người chúng ta. Hết thảy mọi tín hữu, ngoài ơn gọi làm con cái Chúa, còn có ơn gọi làm ngôn sứ, và rao giảng Tin Mừng nữa.
Chúa chọn Amos và sai đi
Amos là người được Thiên Chúa chọn gọi và sai đi, khi ông chăn bò, Chúa túm lấy ông, Chúa lôi ông đi. Dù không được đón tiếp, ông vẫn mạnh mẽ rao giảng chống lại sự bất công, nhất là tố cáo nhà vua và các kỳ mục đã xúc phạm đến Thiên Chúa khiến cho hành vi phụng tự của họ trở nên vô ích. Vì thế Amasia đuổi Amos khỏi vương quốc Israel: “Hỡi tiên tri, người hãy trốn sang đất Giuđa, sinh sống và nói tiên tri ở đó. Chớ tiếp tục nói tiên tri ở Bêthel, vì đó là thánh điện của vua và là đền thờ của vương quốc” (Am 7, 12-13). Nhưng Amos vẫn tiếp tục nhiệm vụ ngôn sứ của mình. Dẫu biết rằng, việc phụng sự Thiên Chúa nơi Đền thờ và trong cung thánh là việc dành riêng cho chi tộc Lêvi. Amos không chỉ trích điều Môisê thiết lập. Ông tự đặt mình vào vị trí chính xác: “Tôi không phải là tiên tri, cũng không phải con của tiên tri. Tôi là một người chăn bò và chuyên đi hái lá xung” (Am 7,14). Thiên Chúa đã chọn ông từ nơi khác đến và trao cho ông sứ mạng này. Ông đến rao giảng điều Thiên Chúa phán chứ không rao giảng những gì con người muốn nghe. Đây chính sứ mạng của Giáo hội, Giáo hội không rao giảng điều các kẻ quyền thế muốn nghe. Tiêu chuẩn của các tông đồ là sự thật và công lý, cả khi chống lại sự đồng tình của con người và quyền bính trần gian. Cộng đoàn Giáo hội sơ khai cũng gặp những khó khăn tương tự như sự xuất hiện của thánh Phaolô, “hoán cải trong giây lát”.
Amasia yêu cầu Amos rời khỏi vương quốc thuộc chi tộc phía Bắc đi đến đất Giuđa, vì ông không muốn nghe, Amos trả lời: “Khi tôi đang đi theo đàn chiên, thì Chúa dẫn tôi đi và nói cùng tôi rằng: “Ngươi hãy đi nói tiên tri cho dân Israel của Ta” (Am 7, 15). Sứ mạng của Amos là phổ quát, Chúa sai đi nói tiên tri cho cả 12 chi tộc chứ không riêng một chi tộc nào.
Chúa Giêsu sai các môn đệ
“Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con” (Ga 20, 21). Đến lượt Chúa Con cũng sai Giáo hội đi đến tận cùng trái đất. Đây là sứ điệp phát xuất từ Thiên Chúa gửi đến hết mọi người, ngõ hầu con người được cứu chuộc và trở nên con cái Thiên Chúa.
Các tông đồ là những người bình thường được Chúa chọn, gọi và sai từng hai người đi, sau khi dạy các ông cầu nguyện, Người ban cho các ông quyền trên các thần ô uế là những thần có lần làm các ông bất lực! Dù là ai đi chăng nữa, gặp sự gì vượt quá khả năng, cần có sự trợ giúp từ Trời Cao. Chúa Giêsu tin tưởng và dạy dỗ các ông để các ông mang Tin Mừng đến tận cùng thế giới.
Thế là sáng kiến của Chúa Giêsu được thể hiện, mười hai ông được sai đi. Tông Đồ nghĩa là “được sai đi”. Sự kiện Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ cộng tác trực tiếp vào sứ mệnh của Người, thể hiện khía cạnh yêu thương của Chúa. Chúa không chê sự trợ giúp của con người vào công trình của Chúa. Người biết rõ giới hạn cũng như yếu đuối của họ nhưng không khinh rể họ, trái lại còn ban cho họ phẩm giá là những người được Chúa sai đi.
Chúa sai họ đi kèm theo các chỉ thị. Thứ nhất là tinh thần không dính bén tới tiền bạc và các tiện nghi vật chất. Ra đi với hai bàn tay trắng để họ chỉ còn cậy dựa vào chính Chúa. Chỉ có Thiên Chúa mới hoán cải được lòng người. Người cũng báo cho họ biết không phải nơi nào họ cũng được tiếp đón, đôi khi bị khước từ và cũng có thể bị bách hại. Nhưng họ phải luôn luôn nói nhân danh Chúa Giêsu và rao giảng Nước Thiên Chúa mà không lo chuyện thành công.
Cử chỉ rũ bụi chân diễn tả sự không dính bén luân lý và vật chất, như để nói rằng chúng tôi đã loan báo nhưng các bạn đã từ chối, và chúng tôi không muốn gì cho các bạn cả. Sau hết, cùng với việc rao giảng là chữa lành bệnh tật theo gương Chúa Giêsu để biểu lộ lòng lành của Người với các cử chỉ bác ái, phục vụ và sự tận hiến.
Chúa tiếp tục sai chúng ta
“Hãy đi!” Mệnh lệnh Chúa truyền cho Amos vẫn còn rất thời sự với chúng ta. Nếu như tiên tri Amos lúc ấy thoái thác, thì ngày hôm nay một tâm thức khá phổ biến cổ võ cho thái độ muốn rút lui trước những khó khăn vẫn tồn tại. Điều kiện đầu tiên để “ra đi” là vun trồng một tinh thần cầu nguyện sâu xa, được nuôi dưỡng hằng ngày bởi việc lắng nghe Lời Chúa.
Ở thời chúng ta, vẫn có những người nam nữ được Thiên Chúa chọn, túm lấy, khi họ đang đối mặt với những lo lắng hằng ngày. Họ đang ở trong giáo xứ, chủng viện, tu viện, hay trên cánh đồng truyền giáo. Khuôn mẫu của họ là Đức Kitô, Đấng đầu tiên chấp nhận con đường thánh ý Chúa Cha vạch ra và cam kết trung thành với sứ mạng cho đến chết và Phục sinh.
Chúng ta không dựa vào sức con người hay tìm kiếm thành công, mà phải dựa vào chính Thiên Chúa. Vì là tạo vật của Thiên Chúa, nhận lãnh mọi sự từ Thiên Chúa. Chúng ta không thể làm những gì chúng ta muốn. Chúng ta có nghĩa vụ phải làm những gì Thiên Chúa muốn. Vì tất cả là hồng ân mời gọi ta thưa: “Lạy Chúa, con đây”. Đừng bao giờ phản đối hay từ chối lời mời gọi của Chúa, “Chính Chúa đã chọn tôi”.
Thiên Chúa “đã chọn chúng ta trong Người trước khi tạo dựng thế gian, để chúng ta được nên thánh thiện và tinh tuyền trước mặt Ngài trong tình yêu thương. Chiếu theo thánh ý Ngài, Ngài đã tiền định cho ta được phúc làm con nhờ Đức Giêsu Kitô, để chúng ta ca tụng vinh quang ân sủng của Ngài” (Ep 1, 4). Đây là kế hoạch tình yêu nhiệm mầu của Thiên Chúa dành cho chúng ta.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ trợ giúp chúng con quảng đại đáp trả lại lời mời gọi của Chúa để loan báo Tin Mừng cứu độ của Chúa bằng lời nói và trước hết bằng cuộc sống hằng ngày của chúng con. Amen.
Vào thế kỷ thứ 8 trước khi Chúa Giêsu sinh ra, sau một cuộc tranh chấp ác liệt, đất Do thái bị chia làm đôi: hai chi tộc phía Nam là Giuđa và Bengiamin làm thành quốc gia Giuđa với Giêrusalem là thủ đô; mười chi tộc còn lại ở phía Bắc lập thành nước Israel với Samaria là thủ phủ. Dưới triều đại của Giêrôbôam II (786-726 BC), đất nước Israel trở nên hưng thịnh. Vương quốc được mở mang và trở nên giàu có.
Để lôi kéo thêm dân chúng từ các nơi về, và để dân trong nước không đi lên đền thờ Giêrusalem trong các dịp lễ, Giêrôbôam và các vua trước ông đã cho lập đền thờ tại Bethel, cách Giêrusalem chừng 14 dặm Anh về phía bắc. Hàng tư tế tại đây được ưu đãi và khuyến khích lập ra những lễ nghi đặc biệt, để tạo nên không khí huy hoàng và sầm uất, hầu làm lu mờ những hình ảnh sinh hoạt tôn giáo tại Giêrusalem. Đây là một mưu đồ chính trị nhằm củng cố việc chia đôi đất nước và phân rẻ một dân tộc mà Giavê đã tuyển chọn nhằm tái tạo sự hiệp nhất giữa trời cao với đất thấp-giữa Thiên Chúa và con người.
Nhưng Giavê không thể làm ngơ trước cảnh tượng đó. Ngài đã chọn Amos, một người chăn chiên tại Tekoa, bên bìa sa mạc Giuđa, để đi làm ngôn sứ cho Giavê Thiên Chúa bên nước Israel.
Nhân danh Thiên Chúa, Amos cảnh cáo những âm mưu nuôi dưỡng tình trạng chia rẽ để trục lợi, lên án những cuộc sống sa đoạ bất công trong xã hội, công kích sự an tâm giả tạo khi người ta lấy lễ nghi tôn giáo để che đậy cho những việc làm xấu xa.
Sau một thời gian ngắn thi hành sứ vụ tại Bethel và Samria, Amos đã bị trục xuất ra khỏi Israel.
Khi mà quyền lợi cá nhân bị đụng chạm, miếng cơm bị đe doạ, người ta khó lòng để yên. Vì thế Amasia, một tư tế của đền thờ Bethel đã cậy vào uy thế của vua Giêrôbôam và nhân danh hàng tư tế của vương quốc miền Bắc để đuổi Amos về lại Giuđa. Ông cho Amos là hạng thầy bói nói mò hòng kiếm miếng cơm. Amasia cấm Amos không được tuyên sấm ở Bethel nữa, vì theo ông, những sứ điệp đó không phù hợp với đường lối chính trị của nhà vua và cả vương quốc Israel.
Nhưng ngôn sứ Amos không chấp nhận lập luận của Amasia. Ông khiêm nhường nói với vị tư tế bụt thần này rằng ông không làm nghề tiên tri, cũng không phải là con của một tiên tri. Trước kia ông chẳng hề nghĩ đến việc đi tuyên sấm, ông chỉ biết chăn chiên và hái trái sung. Nhưng rồi một hôm, đang lúc bước theo đàn chiên, Giavê Thiên Chúa đã gọi ông và truyền phải đi tuyên sấm cho nhà Israel, cảnh báo họ về một tai hoạ khủng khiếp sẽ giáng xuống: quân thù dày xéo đất nước, tàn sát dân chúng, bắt đi lưu đày những kẻ còn sống sót (Am 7:17).
Như vậy việc Amos đi loan truyền sứ điệp tiên tri cho các vua quan, tư tế, và dân chúng, không vì khả năng tự nhiên hay tài đức hơn người, song là vì Giavê đã trao Lời và sai ông ra đi. Thế nên sứ mạng của ông không gì khác hơn là nói lại Lời đó trong vai trò của một ngôn sứ. Có thể sứ điệp do ông truyền đạt sẽ được nhiều người đón nhận, nhưng cũng không chắc tránh khỏi tình cảnh bị từ khước, xua đuổi, hay giết hại. Dẫu sao, người được sai đi vẫn ra đi và không ngừng tiến bước. Không nản lòng. Không thất vọng. Không đầu hàng. Đó mới là thái độ của người môn đệ Đức Kitô.
Phúc âm tường thuật việc Chúa Giêsu sai mười hai tông đồ đi đến các làng mạc miền Galilê, rao giảng sự ăn năn thống hối. Ngài thấy trước những thất bại có thể sảy ra, và sự thất bại đáng kể nhất sẽ là bị khước từ. Song thất bại không thể là yếu tố làm chùn bước chân của vị sứ giả Tin Mừng. Bởi vì như lời Đức Giêsu phán dạy: “Nếu nơi nào không tiếp đón các ngươi thì hãy ra khỏi chỗ đó, phủi bụi chân lại” (Mc 6:11) rồi tiếp tục tiến bước. Cũng như trong bài Phúc âm tuần trước, khi bị những người đồng hương đồng hạt khinh dể thì “Chúa Giêsu đã rảo qua các làng xung quanh và giảng dạy” (Mc 6:6b).
Khách quan mà xét, hành trình rao giảng của Chúa Giêsu cũng có thất bại, nhưng không vì đó mà Ngài thất vọng ngã lòng. Trái lại Ngài vẫn tiến bước ra đi. Đi cho đến chặng đường cuối cùng là thập giá.
Như thế, người tông đồ của Đức Kitô cũng không thể tránh khỏi thập giá, vì “môn đệ không thể hơn thầy.” Nhưng dù có gặp từ khước, khó khăn, trắc trở, lao tù, xiềng xích trên hành trình rao giảng, Lời Chúa vẫn “không bị xích xiềng” và “Đức Kitô vẫn được truyền rao” (Ph 1:18).
Thế nhưng tôi tự hỏi: Nếu ngày nay Lời Chúa bị xiềng xích và Đức Kitô không được rao truyền là bởi các lý do bên ngoài hay những yếu tố bên trong? Vì người ta không nghe Tin Mừng tôi loan báo hay vì những tham lam, lợi nhuận, bất công, và cả những hình thức, lễ nghi trang trọng nhưng vô hồn, như của dân Do thái trong thời ngôn sứ Amos, đã trói buộc chân lý Phúc âm?
Thế nên, Lời Chúa lại nhắc nhở tôi về thái độ nghèo khó để được tự do trong khi rao giảng: không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, không mặc tới hai áo. Giá trị của Tin Mừng không hệ tại nơi áo quần, tiền bạc, cơm bánh. Chúa Giêsu không chọn con đường cứu nhân độ thế bằng sự đáp ứng của cải vật chất, song là chính Lời Hằng Sống của Ngài.
Vì vậy, hành trang rao giảng của người môn đệ Chúa Kitô phải luôn là Đức Giêsu Kitô-Lời Thiên Chúa mà họ tiếp cận và tìm thấy “sự sống phong phú dồi dào” (Ga 10:10b)-chứ không phải bao bị, giày dép, tài năng, bạo lực hay bạc tiền. Đây cũng chính là nguyên lý căn bản mà Giáo hội đã dùng để trả lời cho thần học “giải phóng” khi xác định: Chỉ có “chân lý mới giải thoát con người” (Ga 8:32). Và chân lý đó chính là Đức Giêsu. Vì Ngài là đường, là chân lý, và là sự sống cho nhân trần mọi thời và mọi nơi.
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
Anh chị em thân mến
Chúng ta thường nghe nói tới hai chữ “thừa sai”: Giáo Hội chúng ta là một Giáo Hội “thừa sai”, mỗi tín hữu chúng ta là một “thừa sai”. “Thừa sai” là gì? Là được sai đi. Ngày xưa Đức Giêsu đã sai 12 tông đồ đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng. Ngày nay Ngài cũng sai chúng ta như thế.
Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa dạy cho chúng ta hiểu rõ hơn để chúng ta thi hành sứ mạng này.
Xưa nay chúng ta chỉ lo “giữ đạo” mà không để ý đến “truyền đạo”.
Chúng ta chưa ý thức mình được Thiên Chúa sai đi để mang Tin Mừng đến cho người khác.
Trong những lúc khó khăn, chúng ta chưa phó thác đủ vào sự quan phòng của Chúa.
III. Lời Chúa
Amos sinh sống ở tiểu vương quốc Giuđa (miền Nam), nhưng Chúa sai ông lên tiểu vương quốc Israel (miền Bắc) để làm ngôn sứ nói lời Ngài.
Vì trung thực nói lời Chúa, nên Amos bị dân Israel ghét. Một vị tư tế tên Amasia còn đuổi ông về Giuđa.
Amos đáp lại: Ông chỉ là một nông dân chứ không thuộc dòng dõi ngôn sứ cho nên không quen làm ngôn sứ. Nhưng chỉ vì Thiên Chúa sai ông nên ông phải vâng theo.
Trong một đoạn khác không thuộc trích đoạn này, Amos còn nói một câu rất ý nghĩa cho thấy sự thúc bách của lệnh Chúa sai đi: “Sư tử gầm lên, ai lại không sợ; Đức Chúa Giavê phán, ai lại không nói tiên tri?” (Am 3,8)
Trích đoạn Tv 84 này có thể được coi là nối tiếp ý tưởng của bài đọc I: người được Thiên Chúa sai đi phải quan tâm “lắng nghe điều Thiên Chúa phán”, đó là những lời mang lại bình an và ơn cứu độ.
Trong giai đoạn đầu của việc rao giảng Tin Mừng, trung tâm hoạt động của Đức Giêsu là thành Caphácnaum và những thành ven bờ hồ Ghênêdarét. Bây giờ bước vào giai đoạn 2, Ngài sai các tông đồ từng hai người một đi đến những vùng khác.
Sứ mạng của các ông là rao giảng sự thống hối và trừ quỷ, chữa bệnh.
“Phương tiện” của các ông chỉ có tối thiểu, còn tất cả những điều khác đều phó thác cho Chúa quan phòng lo liệu.
Thánh Phaolô trình bày chương trình cứu độ của Thiên Chúa:
Ngài đã chọn chúng ta trước khi tạo thành thế gian.
Tiền định cho chúng ta được phúc làm con Ngài nhờ Đức Giêsu Kitô.
Cứu chuộc chúng ta bằng giá máu của chính Đức Giêsu Kitô.
Ban Thánh Thần cho chúng ta.
* 1. Chúa cần đến chúng ta
Trong thời kỳ chiến tranh Triều Tiên, một ngôi làng bị pháo kích nặng nề. Giữa làng có một ngôi nhà thờ, trước nhà thờ có một tượng Đức Giêsu được đặt trên một cái bệ. Nhưng sau khi khói lửa của trận pháo kích tan đi, người ta chỉ còn thấy cái bệ, còn pho tượng thì biến đâu mất. Những người lính đồng minh cố gắng đi tìm và cuối cùng cũng tìm thấy tượng Chúa bị văng khỏi đó một khoảng khá xa. Tuy nhiên hai cánh tay của Chúa đã bị hỏng mất. Họ cung cấp một chiếc máy bay để chở pho tượng về Mỹ cho thợ làm lại hai cánh tay. Nhưng Cha Xứ từ chối. Cha bảo cứ đặt pho tượng lên bệ như cũ, phía dưới viết thêm hàng chữ: “Các con thân mến, hãy cho ta mượn đôi cánh tay của các con”.
Câu chuyện trên giúp ta hiểu sứ điệp của bài Tin Mừng hôm nay: Đức Giêsu kêu gọi các tông đồ tham gia công việc của Ngài. Ngài chia sẻ sứ mạng với họ. Ngài ban cho họ chính quyền năng và uy tín của Ngài. Rồi Ngài sai họ đi loan truyền Tin Mừng. Thực ra, họ chỉ là những người chài lưới, cả tài năng lẫn đức độ đều không có bao nhiêu. Nhưng Ngài vẫn chia sẻ sứ mạng cho họ, vì họ sẽ thi hành sứ mạng không phải bằng sức riêng của họ, mà bằng ơn Chúa.
Ngày nay, có nhiều đấng có thẩm quyền vẫn e ngại không chia xẻ công việc cho giáo dân; mặt khác, nhiều giáo dân cũng e ngại không dám gánh trách nhiệm trong Giáo Hội. Cả hai phía đều tính toán thành bại dựa trên khả năng của con người. Nhưng đó không phải là tính toán của Thiên Chúa.
Hãy nhớ rằng Sách Thánh bắt đầu bằng chuyện Thiên Chúa giao cho loài người quyền hợp tác với Ngài trong công cuộc sáng tạo vũ trụ; bài đọc I hôm nay kể chuyện Thiên Chúa giao cho Amos sứ mạng làm ngôn sứ cho dân Israel mặc dù ông chỉ chuyên nghề chăm sóc cây sung; và bài Tin Mừng kể chuyện Đức Giêsu sai 12 tông đồ vốn là những dân chài sứ mạng truyền giáo. (Viết theo Flor McCarthy)
* 2. Phó thác trong tay Chúa
Bài Tin Mừng này nói đến tinh thần Phó Thác mà Chúa muốn các Tông đồ phải có trong khi đi truyền giáo. Phó Thác là một nhân đức quan trọng, nhưng nhiều người không hiểu đúng.
Chẳng hạn một người kia mắc bệnh, không lo chữa trị mà cũng chẳng có biện pháp giữ gìn sức khoẻ gì hết, mà lại nói “Tôi phó thác tất cả cho Chúa”. Như thế có phải là phó thác không? Dĩ nhiên là không.
Hay một người khác không chăm chỉ làm ăn, tiêu xài thì chẳng tính toán cân nhắc, rồi lâm cảnh túng thiếu. Cũng nó: “Xin phó thác tương lai trong tay Chúa”. Có phải là phó thác không? Dĩ nhiên cũng là không.
Xin thêm một thí dụ nữa: làm cha mẹ chẳng lo sửa dạy con cái, để cho chúng hư thân mất nết, rồi bảo “Phó thác cho Chúa”. Có phải là Phó thác không? Cũng không phải.
Nếu những trường hợp kể trên mà là Phó Thác, thì Phó thác chẳng còn phải là một nhân đức nữa, nhưng là một tính xấu: tính lười biếng, thụ động. Đạo Công giáo mà chủ trương phó thác kiểu đó thì cũng không oan ức gì khi bị người khác chế nhạo là đạo tiêu cực, đạo cảm trở sự tiến bộ….
Ngược lại, đứng trước một công việc mà mình lo lắng thái quá, làm như Chúa để một mình mình phải lo, thì cũng không phải là phó thác. Rồi trong khi lo công việc mà quá cậy dựa vào những phương tiện vật chất, thế tục, không tin tưởng vào ơn Chúa giúp, cũng không phải là phó thác.
Vậy phó thác là gì? Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa dạy các tông đồ có tinh thần phó thác đúng nghĩa: khi các ông ra đi truyền giáo, các ông chỉ cần một số phương tiện vật chất vừa đủ: một cây gậy để chống lại thú dữ dọc đường, một chiếc áo mặc, một đôi dép để đi, thế thôi. Đừng quá lo lắng về vật chất: không cần mang lương thực dự trữ, không cần thủ cho nhiều tiền trong túi, không cần tới hai áo, không cần mang bị theo để đựng quà biếu của người khác. Về nơi ăn chốn ở cũng thế, miễn sao có chỗ trọ là được, nhà nào cho mình trọ, thì cứ trọ bất kể giàu hay nghèo, đừng chọn lựa nhà này hay nhà khác để có tiện nghi hơn. Nhà nào không cho mình trọ thì mình ra đi không chút lưu luyến. Điều chính yếu quan trọng mà các ông phải cậy dựa vào, đó là quyền năng của Chúa.
Qua đoạn Tin Mừng trên, chúng ta hiểu Phó Thác là đứng trước một công việc, một mặt mình không được lười biếng buông trôi nhưng phải vận dụng hết sức mình để làm cho được; mặt khác không ỷ sức riêng mình mà còn phải cầu nguyện xin Chúa ban ơn giúp sức. Và khi đã cố gắng hết sức mình đồng thời đã tin cậy vào ơn Chúa như thế, sau đó công việc diễn tiến thế nào đi nữa mình cũng không quá lo lắng sợ sệt, vì mình đã Phó thác cho Chúa.
Như thế, đứng trước một vấn đề khó khăn, nếu ta ngả lòng nản chí thì là thiếu phó thác; nhưng nếu ta quá lo lắng cậy dựa vào khả năng riêng của mình để giải quyết thì cũng là thiếu phó thác.
Chúng ta hãy làm như một đứa bé tập đi: bàn tay nhỏ bé của nó nắm chặt bàn tay Cha nó, đôi chân nhỏ bé của nó can đảm bước đi từng bước từng bước, và lòng nó thì rất an tâm, vì nó biết chắc có Cha nó luôn sẵn sàng nâng đỡ mỗi khi nó xảy chân. Phó thác là như thế.
* 3. Chúa sai tôi đi
Sau thế chiến thứ nhất, một linh mục trẻ người Pháp được bài sai đi coi xứ. Tay xách vali, cha mạnh dạn ra đi truyền giáo. Đến nơi chỉ thấy hầm sâu, tường đổ. Nhà thờ, nhà xứ, chỉ còn duy nhất một bức tường xiêu vẹo.
Không một chút sờn lòng, cha cùng với các tín hữu tích cực kiến thiết lại ngôi thánh đường đổ nát. Chẳng bao lâu sau, đền thờ vật chất đã hoàn thành khang trang đẹp đẽ. Giờ đây, cha lại tiếp tục xây dựng đền thờ tâm hồn. Nhờ đời sống gương mẫu, cha đã tu sửa lại lòng đạo đức của cả đoàn chiên.
Tuổi cha chưa cao nhưng đã kiệt sức, giữa lúc tình cha con đang mặn nồng, gắn bó. Dầu vậy, nằm trên giường bệnh, cha vẫn thản nhiên vui vẻ. Giờ hấp hối đến, cha nhỏ nhẹ nói với những người chung quanh:
– Giờ đây tôi vui mừng vì đã trung thành giữ lời nhủ bảo của thân phụ ngày tôi chịu chức linh mục: “Nay con làm linh mục Chúa, cha chỉ cầu ước cho con 3 điều: Thứ nhất, lúc con chết đừng nợ ai xu nào; Thứ hai, khi qua đời con cũng chẳng còn xu nào; Thứ ba, lúc lâm chung con đừng vướng một chút tội nào với Chúa”. Và ngài an bình đi về với Đấng mình đã trọn đời dâng hiến.
***
Vị linh mục trong câu chuyện trên đây, không những đã làm theo lời khuyên của thân phụ, mà còn thi hành đúng lời dạy của Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay. Khi sai các tông đồ đi truyền giáo, Chúa phán: “Không được mang lương thực, bao bị, tiền bạc…” (Mc.6,8). Hành trang của các ông chỉ là chiếc áo đang mặc, cây gậy và đôi dép đi đường. Vì chính Người đã từng nói: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, con Người không có chỗ dựa đầu”. Người muốn các ông hoàn toàn nương tựa vào Chúa, phó thác cho tình yêu quan phòng của Người, và cậy dựa vào lòng tốt của tha nhân.
Đó là thân phận của kẻ được sai đi: ra đi mà không gì bảo đảm, ra đi mà không mảy may dính bén. Sẵn sàng đến mà cũng sẵn sàng đi. Thành công không thụ hưởng mà thất bại cũng chẳng đắng cay. Vì “Phaolô trồng, Apollo tưới và Chúa mới cho mọc lên” (1Cr.3,6).
Hôm nay Chúa cũng sai chúng ta đi vào lòng thế giới, để “rao giảng sự sám hối” (Mc.6,12). Sám hối rất khó nói vì chẳng mấy ai thích nghe. Đó cũng là thách thức của người tông đồ: can đảm nói lên những điều phải nói. Nói mà không giảm nhẹ những đòi hỏi của Tin mừng. Nói mà không lợi dụng tin mừng để mưu cầu cá nhân. Nói mà không trích dẫn Tin mừng để khoe khoang kiến thức. Nói mà không bóp méo Tin mừng để vuốt ve quần chúng. Dù sao Tin mừng vẫn phải được loan báo. Chúng ta hãy xem câu nói của Thánh Phaolô như là của chính mình: “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng” (1Cr.9,16).
Hôm nay, Chúa cũng trao cho chúng ta những quyền năng như hành trang để lên đường. Đó là quyền rao giảng Tin mừng, quyền trừ quỷ và quyền chữa bệnh.
Chúng ta có thể chia sẻ Tin mừng với niềm hân hoan của người tìm được viên ngọc quí.
Chúng ta có thể nói về Chúa như nói về một người bạn thân.
Chúng ta có thể xua trừ quỉ bằng cách đẩy lui những thói hư tật xấu.
Chúng ta có thể chữa bệnh bằng cách lau khô những giọt lệ của bao người quanh ta.
***
Lạy Đức Giêsu, mỗi thánh lễ là một bài sai, mỗi bài Tin mừng là một sứ điệp Chúa gởi cho trần gian qua từng người chúng con. Xin cho chúng con đừng bao giờ cậy dựa sức riêng mình, nhưng tin tưởng vào quyền năng Chúa mà chu toàn sứ vụ Người đã trao ban. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
Chúng ta hãy tìm hiểu bài đọc thứ I, được trích từ sách tiên tri Amos.
Amos không phải là một ngôn sứ chuyên nghiệp. Hằng ngày làm ăn sinh sống bằng nghề chăn chiên và hái trái sung. Nhưng một ngày kia Thiên Chúa bảo ông hãy lên miền Israel công bố Lời Chúa. Lúc ấy nước Do thái đang chia cắt thành hai miền vừa khác nhau vừa đối nghịch nhau; miền Nam nơi Amos đang sinh sống là Yuđa, còn miền Bắc là Israel. Mà Israel lúc đó đang vào hồi thịnh vượng, giàu có. Tuy nhiên đó chỉ là thịnh vượng giàu có về mặt vật chất, chứ về tôn giáo và luân lý xã hội thì rất tồi tệ.
Về tôn giáo: người dân Israel thờ Chúa ở Đền Thờ Bethel. Họ dâng hiến rất nhiều lễ vật. Nhưng họ cũng ỷ rằng vì họ đã dâng nhiều lễ vật cho nên họ chẳng cần phải sống đạo đức. Chúa đã nhận lễ vật của họ cho nên Chúa có bổn phận phải che chở cho họ. Đó là một thứ đạo đức bề ngoài.
Còn về luân lý xã hội thì đầy dẫy những xấu xa: người giàu bóc lột, ức hiếp người nghèo, thói làm ăn gian lận, kẻ có nhiều tiền thì có tất cả, còn kẻ không có tiền thì thua thiệt mọi mặt.
Vì vâng lệnh Chúa, Amos đã từ giả nếp sống bình dị ở miền Nam Yuđa để lên miền bắc Israel. Ông lớn tiếng công kích tất cả những tệ nạn xấu xa vừa kể trên. Ông can đảm vạch tội của mọi hạng người từ vua chúa, đến các tư tế và những người giàu có. Và dĩ nhiên là những người này tức giận. Nhưng người tức giận nhất là Amasia, một ngôn sứ chuyên nghiệp ở đền thờ Bethel. Xưa nay Amasia vẫn cấu kết với giới hoàng gia và những người giàu có, dùng quyền tiên tri để nói những điều vừa ý họ. Bây giờ ông cũng thay mặt họ chống lại Amos. Đại khái ông mỉa mai Amos rằng: nếu nhà người có muốn kiếm ăn bằng cái nghề ngôn sứ này thì tốt hơn hãy trở về miền Yuđa của nhà ngươi mà nói tiên tri đi. Ở đây mà nói tiên tri giọng đó thì chẳng ăn khách đâu. Đối lại Amos trả lời: tôi đâu phải là một người kiếm sống bằng nghề ngôn sứ. Tôi chỉ là một nhà nông thôi. Nhưng vì Chúa sai tôi đến đây nói tiên tri thì tôi phải đến và nói, và bổn phận của tôi là phải truyền đạt lại đúng y như lời Chúa. Amasia tức bực. Ông ta vận động với triều đình Israel ra lệnh trục xuất Amos. Thế là Amos phải trở về quê cũ.
Ca dao có câu: “Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Đó là một thái độ khôn ngoan, khôn ngoan vì lời mình nói không đụng chạm ai và dễ được người ta chấp nhận, người ta còn thích mình nữa. Đó là kiểu khôn ngoan của tiên tri Amasia: ông đã nói những lời thuận tai vừa lòng những bậc vua chúa và những người giàu có, và họ đã ưu đãi ông, ông được hưởng một cuộc sống sung túc dễ chịu. Nhưng kiểu khôn ngoan đó không đem lại lợi ích thực sự cho dân. Dân Israel bị ru ngủ bởi những lời dễ chịu ấy cứ tiếp tục dấn sâu mãi trong những tội lỗi của mình, để rồi đến khi Thiên Chúa ra tay trừng phạt thì hối tiếc đã muộn. Năm 721 Chúa để cho đất nước họ bị xâm lược, dân chúng bị bắt, đi lưu đày. Tục ngữ cũng có câu “Thuốc đắng đã tật lời thật mất lòng”. Những lời nói thành thật, dám vạch ra những cái xấu thì thường không được người ta ưa nghe, lại còn làm cho người ta ghét mình nữa. Có thể coi đó là một thái độ ngu dại. Đó là cái ngu dại của Amos. Thế nhưng cái ngu dại ấy lại có ích. Nếu như dân Israel chịu nghe lời của Amos mà sửa đổi những tật xấu của mình thì họ đã được Chúa thương tha thứ.
Như vậy là có 2 kiểu nói: Kiểu nói thuận tai của Amasia và kiểu nói chói tai của Amos. Tự nhiên thì chúng ta thích nghe những lời nói kiểu Amasia. Thế nhưng nếu chúng ta muốn hoàn thiện đời mình thì chúng ta phải tập lắng nghe những lời nói kiểu Amos. Vậy ai là những Amos của chúng ta ngày nay? Trước hết đó là những Linh mục có nhiệm vụ giảng dạy Lời Chúa. Kế đó là những người thiện chí muốn sửa đổi chúng ta. Và kế tiếp nữa phải kể cả những người không ưa chúng ta mà chỉ trích chúng ta. Trước những lời nói thẳng nói thật, nhiều người tức bực, chẳng những không là một người muốn kiếm ăn bằng nghề tiên tri. Chúng ta cũng có phản ứng tương tự khi tìm cách nói xấu lại người dám nói thẳng vạch cái xấu của chúng ta: nào là người ấy bịa chuyện, nào là bản thân người ấy cũng chẳng tốt lành gì, có khi còn vạch ra những cái xấu của người ấy hay thậm chí bịa ra những điều xấu gán cho người ấy để làm giảm uy tín của họ và để che giấu chính cái xấu của mình. Nghĩa là trên cương vị người nghe, chúng ta phải tập khiêm nhường để sẵn sàng lắng nghe những tiếng nói chói tai vạch những cái xấu của mình.
Còn trên cương vị người nói, nếu nói kiểu Amasia để làm vừa lòng người ta thì thật là quá đã, nhưng chúng ta phải tập cho có can đảm để dám nói theo kiểu Amos, dám vạch thẳng những cái xấu của người khác. Nhưng chúng ta đừng hiểu lầm Amos, cho rằng Amos đã làm gương cho chúng ta về việc nói xấu nói hành. Amos nói thẳng nói thật chứ không phải nói xấu nói hành. Người nói là thẳng nói thật là người nói trước mặt người nghe. Còn người nói xấu nói hành là người trước mặt thì nói tốt hoặc không dám nói, nhưng sau lưng thì nói xấu. Thực ra, biết được một điều xấu của người khác thì rất dễ, nhưng chỉ cho người ta biết cái xấu của họ một cách thẳng thắn thì là khó, và giúp cho người ta sửa được cái xấu ấy lại càng khó hơn nhiều. Vậy trong thực hành, khi chúng ta biết một điều xấu của người nào đó, nếu chúng ta có can đảm tới nói thẳng với người đó để người đó sửa lỗi thì chúng ta hãy nói, cho dù lời nói của mình có thể làm cho người ta khó chịu, người ta ghét mình. Còn nếu chúng ta không có đủ can đảm như vậy thì thà chúng ta im lặng, đừng nói lén sau lưng, đừng rỉ tai, đừng nói lại cho bất cứ ai nghe, vì như thế chẳng những không có lợi mà chỉ có hại và còn có tội nữa.
Tuy nhiên có lẽ chúng ta nên tìm một giải pháp dung hoà giữa hai thái độ của Amasia và Amos. Amasia chỉ nói ngọt nên được người ta ưa nghe nhưng không làm lợi cho người ta. Còn Amos thì nói lời chói tai nên người ta không chịu nghe, còn bị người ta ghét và xua đuổi. Thái độ dung hoà là nói thật nhưng ngọt ngào. Vừa dễ nghe vừa sửa được lỗi của người khác. Và ngọt ngào thì không gì ngọt ngào bằng yêu thương. Vì yêu thương người có lỗi mà ta nói, và nói làm sao để người nghe hiểu rằng ta nói vì ta thương họ; và kết quả là vì họ biết ta thương họ nên họ sẽ cố gắng sửa mình để đáp lại tình thương của ta.
Con người có tai để nghe và lưỡi để nói. Trong chữ Nho, chữ “Thánh” là do 3 chữ ghép lại: chữ Vương ở dưới có nghĩa là vua, phía trên có chữ Nhĩ là lỗ tai và chữ Khẩu là cái miệng. Vậy Thánh, theo chữ Nho, có nghĩa là người làm chủ được sự nghe và sự nói của mình. Làm chủ được sự nghe là không phải chỉ thích nghe những lời nói khen mà còn dám nghe những lời phê bình thẳng thắn; làm chủ sự nói là không phải bạ đâu nói đó, nói một cách vô trách nhiệm, nói hành nói xấu, nhưng là nói đúng, nói thật, nói khéo, nói với tình thương để lời nói của mình đem lại lợi ích xây dựng cho người khác.
Một tội nhân được giong đi pháp trường. Đến nơi hành quyết lính vây quanh thành ba vòng: vòng trong cầm gươm, vòng giữa cầm giáo, vòng ngoài cầm cờ, sĩ quan oai vệ cưỡi ngựa cưỡi voi. Bỗng tội nhân lên tiếng nói đôi lời với những người có mặt, sau đó nói riêng với viên chỉ huy. Với viên chỉ huy tội nhân nói:
“Tôi xin gửi quan 30 đồng tiền để xin quan một ân huệ: xin đừng chém tôi một nhát, nhưng chém ba nhát. Nhát thứ nhất, tôi tạ ơn Chúa đã dựng nên tôi, và đưa tôi đến đất Việt Nam giảng đạo. Nhát thứ hai để nhớ ơn cha mẹ sinh thành nên tôi. Còn nhát thứ ba như lời di chúc cho các bổn đạo của tôi, để họ bền chí trong đức tin, theo gương vị chủ chăn của mình. Và như thế họ đáng lãnh phần phúc cùng các thánh trên trời.”
Tội nhân là Đức Cha An vừa dứt lời, lính liền trói ngài vào cây cọc hình thập giá. Dân công giáo có mặt oà lên khóc. Lính chém Đức Cha ba nhát như ngài đã yêu cầu. Đầu và mình của vị tử đạo bị ném xuống sông. Có hai người lính thấm máu vị tử đạo liền bị tống giam. Đồ đạc sách vở của Đức Cha đều bị đốt.
Đó là ngày 20 tháng 7, 1857. Trước đó hai tháng, Đức Cha đã viết thư tạm biệt Đức Giám Mục và các linh mục trong Giáo Phận. Từ nhà ngục tỉnh Nam Định ngày 28 tháng 5,1857, Đức Cha An viết:
“Tù nhân trong Chúa gửi lời tạm biệt Đức Cha và các cha cho tới ngày gặp nhau trên trời. Xin tất cả anh em tha thứ cho những điều lầm lỗi và gương xấu tôi đã làm… Gông xiềng tôi đang mang được coi là những báu vật Đức Giêsu gửi cho tôi. Tôi vui mừng lắm và chỉ ước ao đổ máu vì Chúa, để máu tôi hoà với máu cực thánh Đức Giêsu rửa linh hồn tôi được sạch mọi tội lỗi. Xin anh em cầu cho tôi vững tin đến cùng…”
Giuse Diaz Sanjurjo cất tiếng chào đời ngày 26 tháng 10, 1818 tại tỉnh Lugo nước Tây Ban Nha. Cậu là con cả trong gia đình có năm anh em mà một người sau là nữ tu Antonia. Lớn lên cậu theo học chủng viện Lugo. Chiến tranh khiến việc học của cậu bị gián đoạn ba năm nhưng sau được vào đại học, cậu đã tìm đến với tỉnh dòng Đa Minh Rất Thánh Mân Côi là tỉnh dòng đặc trách lo việc truyền giáo tại Viễn Đông. Ở đây cậu đã lần lượt được nhận vào Tập Viện ngày 23 tháng 9, 1842; được tuyên khấn 24.9.1843. Cha Giuse Diaz Sanjurjo đến địa phận Đông Đàng Ngoài ngày 19.9.1845 với tên Việt Nam là An. Sau thời gian học tiếng Việt, cha An được giao nhiệm vụ coi sóc chủng viện tại Nam An.
Dưới thời vua Tự Đức cấm đạo gắt gao năm 1848, cha An đã phải đau lòng gấp rút giải tán chủng sinh, chôn giấu các đồ thờ phượng và nhìn chủng viện bị tàn phá. Trong thư gởi một bạn ở Tây Ban Nha, cha An viết: “Chúng tôi chẳng còn nhà, chẳng còn sách vở và áo quần, chẳng còn gì nữa… nhưng chúng tôi vẫn an tâm vì nhớ lời Thầy Chí Thánh nói “Con Người không có chỗ gối đầu…”
Nhiệt thành với tương lai giáo phận, cha An tái lập chủng viện tại Cao Xá. Thời gian này cha biên soạn cuốn văn phạm La ngữ bằng tiếng Việt.
Qua tông thư đề ngày 05.09.1848, Đức Piô IX thiết lập giáo phận Trung tách khỏi giáo phận Đông Đàng Ngoài. Giáo phận Trung gồm cả Bùi Chu và Thái Bình hiện nay, với dân số khi ấy là 140.000 giáo hữu rải rác trên 624 giáo xứ.
Người có công thuyết phục linh mục Marti Gia nhận chức vụ giám mục giáo phận mới thành lập chính là cha An. Trong bầu khí trao đổi thân tình, cha An đã phân tích các mặt của nhiệm vụ giám mục với những khó khăn trong thời cấm đạo. Kế đến cha nêu những nhu cầu của cộng đoàn dân Chúa mà vai trò phục vụ được giao cần phải đáp ứng. Cha An không ngờ sắc lệnh bổ nhiệm Đức Cha Marti Gia làm giám mục giáo phận Trung Đàng Ngoài, có ban quyền chọn giám mục phó. Đức Cha Gia liền chọn người đã thuyết phục mình nhận chức giám mục bản quyền, là cha An, làm giám mục phó.
Sau khi thụ phong giám mục, cha An lại trở về Cao Xá tiếp tục coi sóc chủng viện. Trong thư gởi gia đình, đức tân giám mục viết: “Ở đây thì chức vụ cao chỉ thêm công việc, con thường phải đi bộ, có khi phải đi chân không, nhiều lần phải lội bùn đến đầu gối, để trốn tránh những người lùng bắt.”
Tháng 3, 1850, Đức Cha An giao chủng viện cho cha San Pedro Xuyên coi sóc rồi đi kinh lý toàn tỉnh Hưng Yên. Cuộc kinh lý bị bỏ dở. Hai linh mục Việt Nam cùng đi với Đức Cha bị bắt. Đức Cha thoát nạn nhưng về bị sốt rét nặng một thời gian. Hai năm sau, Đức Cha Marti Gia lâm bệnh nặng và qua đời tại Hương Cảng ngày 26.4.1852. Thế là Đức Cha An phải đến ở toà giám mục Bùi Chu để điều khiển công việc giáo phận mà mũi nhọn là công cuộc truyền giáo. Số người được chịu phép rửa tội năm 1852 lên tới 28.355 người. Đức Cha An viết: “Đó quả là phần thưởng đầy khích lệ để các nhà truyền giáo tiếp tục trách nhiệm tông đồ bất chấp âm mưu của thần dữ. Không nản lòng trước những cơ cực thiếu thốn, trước nguy hiểm vây quanh và những nghịch cảnh có thể xảy đến…”
Xảy ra là từ năm 1854, tại miền Bắc có giặc châu chấu của Lê Duy Cự và Cao Bá Quát. Họ kêu gọi người công giáo tham gia nhưng Đức Cha An lên tiếng cấm bổn đạo không được chống lại chính quyền hợp pháp. Do đó các quan chức địa phương cũng nới tay trong việc thi hành sắc lệnh cấm đạo của nhà vua. Tổng đốc Nguyễn Đình Tuân biết chính xác trụ sở toà giám mục Bùi Chu nhưng vẫn làm ngơ. Ông còn hứa nếu bất đắc dĩ phải sai quân truy nã thì ông sai người báo trước.
Không may khi ấy có quan thượng thư từ kinh đô về Nam Định nhằm lúc có người làng Thoại Miên là Chánh Mẹo, lên tỉnh tố cáo rằng có đạo trưởng Tây tên An ở Bùi Chu. Quan Tổng đốc buộc lòng phải ra lệnh truy bắt nhưng cũng cho người đi báo tin cho toà giám mục. Tiếc rằng tin đến nơi thì Đức Cha An đã bị bắt. Khi lính đến bao vây, Đức Cha chạy đi ẩn náu liên tiếp ở bốn nơi. Nơi cuối cùng ở giữa bụi tre khá kín. Nhưng đúng lúc Đức Cha ngó đầu ra để xem lính đã đi chưa thì bị phát hiện và bị bắt.
Đức Cha An bị giải về Nam Định và bị biệt giam hai tháng trước khi có án tử hình từ kinh đô truyền chém đầu Tây dương đạo trưởng tên An. Nhưng Đức Cha An đã không bị cưỡng bức chịu tử hình. Ngài đã vui mừng đón nhận cái chết tử đạo vì yêu mến Đức Giêsu vị Mục Tử nhân lành. Do đó ngài đã xin được chém ba nhát mà nhát thứ ba như lời di chúc cho các bổn đạo của ngài để họ bền chí trong đức tin, theo gương vị chủ chăn của mình.
Cuộc đời tông đồ và cái chết tử đạo của Đức Cha An được kể vì gắn liền với đời tông đồ và cái chết tử đạo của Mười Hai Tông Đồ xưa. Mỗi giám mục đều là người kế vị các tông đồ của Đức Giêsu. Chính Người gọi từng người môn đệ (Mc 1,16-20). Từ số các môn đệ ấy, Người tuyển chọn Nhóm Mười Hai (3,13-19) để Nhóm này ở lại bên Người hầu được huấn luyện. Mục tiêu của huấn luyện là để họ trở nên những người được Đức Giêsu sai đi như ta thấy trong bài Tin Mừng hôm nay (6,7-13). Họ có sứ mạng khử trừ các thần ô uế (c.7), đó là điều chính yếu. Nhưng họ còn được hướng dẫn về cách ăn vận, về đồ vật nào được mang theo, về nơi nào nên ở lại, về cách xử trí khi bị khước từ. Điều quan trọng là họ phải trở nên nhẹ nhàng cho việc di chuyển và phải đặt mình dưới sự săn sóc của Thiên Chúa.
Điều mà Tin Mừng Máccô gợi ý đối với các Kitô hữu xưa cũng như nay là chính họ cũng cần ở lại bên Đức Giêsu để được Người huấn luyện. Đức Giêsu hôm qua cũng như hôm nay và mãi mãi vẫn là một (Dt 13,8). Chính Người đứng đầu Giáo Hội. Người điều khiển mọi người nhờ Chúa Thánh Linh. Chúa Thánh Linh là Đấng làm vang lên tiếng gọi của Đức Giêsu nơi những tâm hồn quảng đại. Chúa Thánh Linh cũng là Đấng làm cho cuộc huấn luyện các môn đệ vẫn còn tiếp tục trong Giáo Hội. Thư Do Thái nói rõ tính chất của cuộc huấn luyện đó khi nói “Anh em hãy nhớ đến những người lãnh đạo của anh em, họ là những người làm cho anh em được nghe lời của Thiên Chúa và hãy xem cuộc đời của họ kết thúc như thế nào, để noi theo lòng tin của họ” (Dt 13,7).
Vậy bài Tin Mừng hôm nay đi đôi với cái chết tử đạo của các thánh tông đồ cũng như của các vị kế nghiệp Nhóm Mười Hai như trường hợp Đức Cha An, phải trở nên sức mạnh củng cố ta trong đức tin và thăng tiến ta trong đức ái nhằm vinh danh Chúa hơn. (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)
* 6. Chuyện minh họa
a/ Đóng góp
Một vị Thị trưởng mở một Lễ hội lớn và mời mọi thị dân đến dự. Phần thức ăn thì vị Thị Trưởng hứa cung cấp đầy đủ. Phần rượu thì ông kêu gọi mỗi người khi đến dự hãy mang theo một chai, đến đổ vào một thùng rất lớn rồi mọi người sẽ uống chung.
Tới ngày Lễ hội, ai nấy đều mang chai rượu mình đến đổ vào thùng. Khi mọi người đổ xong, vị Thị trưởng cầm ly đến múc từ trong thùng ra, rồi nâng ly tuyên bố “Lễ Hội chính thức bắt đầu”.
Tuy nhiên khi ông Thị Trưởng uống, thì ôi thôi chỉ toàn là nước! Bởi vì ai cũng nghĩ rằng người ta sẽ mang rượu thật đổ vào đấy, chỉ một chai nước của mình thì có làm loãng bao nhiêu đâu! Thế là Lễ Hội thất bại thê thảm, chỉ vì sự tiêu cực và ích kỷ của thị dân.
Chúa mời gọi chúng ta cộng tác vào công trình của Ngài. Chúng ta hãy là những người tích cực chứ đừng tiêu cực như những thị dân trong chuyện trên. Chúng ta đừng chỉ biết nhận mà cũng hãy biết cho.
b/ Trang bị đầy đủ
Một chàng hiệp sĩ chuẩn bị làm một chuyến viễn du. Chàng tính trước tất cả mọi tình huống có thể xảy ra, để trang bị tất cả những điều cần thiết để đối phó.
Chàng mang theo một thanh gươm và một bộ áo giáp để sẵn sàng chiến đấu với quân thù. Chàng mang thêm một bình dầu chống nắng để thoa lên da phòng khi phải đi giữa trời trưa nắng gắt. Lại mang thêm một cái rìu để đốn củi đốt lên phòng lúc đi lạc ban đêm trong rừng. Chàng còn mang thêm một cái lều và rất nhiều chăn mền phòng khi gặp tiết trời trở lạnh. Lại có cả nồi niêu xoong chão để nấu nướng kẻo có lúc không gặp được quán ăn. Và chàng cũng không quên chở theo mấy bao ngũ cốc cho con ngựa vì sợ dọc đường không mua được. Và với những hành trang rất đầy đủ đó, chàng bắt đầu lên đường.
Nhưng mới đi được một khoảng thì gặp một chiếc cầu cũ kỹ lung lay. Chàng mới đi được đến giữa cầu thì chiếc cầu gãy sụp vì không chịu nổi sức nặng của mớ hành lý. Thế là anh chàng hiệp sĩ chết đuối mà không hoàn thành được cuộc hành trình đã dự định.
Khi Đức Giêsu sai 12 tông đồ ra đi truyền giáo, Ngài căn dặn họ một mặt đừng mang nhiều hành trang, mặt khác hãy phó thác cho Chúa Quan Phòng. Muốn hành trình đi xa thì hành trang phải nhẹ nhàng. Tuy nhiên ra đi với hành trang nhẹ nhàng đòi hỏi phải có đức tin vững chắc.
c/ Chúng ta là công cụ của Chúa
Một ngày mùa đông, một người bộ hành bắt gặp một cậu bé đang ngồi ăn xin ở dạ cầu. Cậu bé vừa lạnh run vừa rất đói. Người bộ hành cảm thấy bất nhẫn nên nói với Chúa:
– Thưa Chúa, sao Chúa không làm gì hết để giúp cậu bé này?
Chúa đáp:
– Ta đã làm rồi chứ.
Người bộ hành rất ngạc nhiên trước câu trả lời ấy nên vặn lại:
– Nhưng dù Chúa có làm gì đi nữa thì xem ra chẳng có hiệu quả gì cả.
– Ta đồng ý.
– Nhân tiện, xin mạo muội hỏi Chúa một câu nữa: Chúa đã làm gì nào?
– Thì Ta đã tạo dựng nên con đó.
Chúng ta là dụng cụ Chúa dùng để lo cho người khác, và chúng ta có trách nhiệm về hạnh phúc của người khác.
d/ Ánh sáng của Chúa
Ở thành phố Dallas, bang Texas Hoa Kỳ, có một cặp vợ chồng thất nghiệp hàng ngày đi lượm những lon bia và lon nước ngọt để bán lại kiếm tiền sinh sống. Một hôm, đang khi tìm kiếm trong những thùng rác, họ gặp được một cảnh rất đau lòng, đó là một đứa bé bị cha mẹ vất bỏ và đã chết trong thùng rác. Họ báo cảnh sát để tìm cha mẹ đứa bé. Nhưng chẳng tìm ra. Cũng chẳng ai đứng ra lo chôn cất đứa bé xấu số ấy. Thế là hai vợ chồng nghèo này quyết định làm việc đó. Họ lấy hết số tiền đang có để mua một chiếc quan tài nhỏ và một bó hoa, rồi đưa tiễn đứa bé tới nơi an nghỉ cuối cùng. Có thể nói, những giọt lệ của họ trước nấm mồ của đứa bé cũng thánh thiện như những giọt lệ Đức Giêsu đã đổ ra trước nấm mồ của Ladarô.
Để trở thành ánh sáng tỏa chiếu trong thế giới tối tăm này, chúng ta không cần phải có nhiều tiền, mà chỉ cần có một tấm lòng biết hướng tới người khác.
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã sai 12 tông đồ đi loan báo Tin mừng. Chúng ta đã lãnh nhận bí tích Rửa tội và Thêm sức nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta cũng được sai đi để Tin mừng hóa anh chị em đồng bào chúng ta. Chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện:
Chủ tế: Lạy Chúa, xin cho mọi Kitô hữu chúng con biết nghe theo lệnh truyền của Chúa, để sẵn sàng cộng tác bằng bất cứ cách nào có thể, cho mọi người được nghe biết và đón nhận Tin mừng của Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
– Trước kinh Lạy Cha: Khi cùng với Đức Giêsu dâng lời cầu nguyện lên Chúa Cha trên trời, chúng ta hãy đặc biệt xin cho Nước Cha trị đến.
VII. Giải tán
– Thánh lễ đã xong. Đây là lúc Chúa sai chúng ta đi. Chúng ta hãy mang tinh thần Tin Mừng của Chúa đến cho tất cả mọi người chúng ta sẽ gặp gỡ trong tuần này.
Ulysses Grant là tổng tư lệnh liên quân trong trận nội chiến, và sau này là Tổng thống Hoa Kỳ trong hai nhiệm kỳ. Ông K.B.Washburn, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, làm chứng về lối sống đơn giản của ông Grant như sau:
“Khi ông Grant rời tổng hành dinh, mở một chiến dịch quyết định, ông không đem theo hành trang như thói quen các binh sĩ. Tất cả lệ thuộc vào phản ứng mau lẹ, điều quan trọng là ông không bị cản trở bởi hành trang. Ông không đem theo tùy viên, không ngựa hay tôi tớ, không đem theo áo khoác và ngay cả một chiếc sơ mi. Trọn hành trang của ông trong 6 ngày –tôi có mặt lúc đó- là chiếc bàn chải đánh răng. Ông ăn uống như một người lính trơn, ngủ giữa màn trời chiếu đất”.
Tướng Grant đi tay không. Đức Giêsu và các Tông đồ cũng vậy. Chúng ta vừa đọc, Đức Giêsu đã sai phái những người lãnh đạo của Ngài ra sao. Người nói với họ: “Không đem theo đồ ăn, không giỏ xách, không tiền và không áo ngoài nữa”.
Chúng ta phải làm gì? Bạn và tôi được gọi làm tông đồ để loan truyền sứ điệp của Đức Kitô bằng lời nói và việc làm. Chúng ta có thể làm việc khá hơn nếu chúng ta không bị đè nặng với những đồ đạc không cần thiết. Nó có thể làm mất thời giờ, mất sự chú ý và mất cả tiền bạc nữa. Một số đồ dùng có thể cho chúng ta tiện nghi, dễ chịu giúp chúng ta làm việc nhanh và hiệu nghiệm hơn. Tuy nhiên có nhiều cái không cần thiết làm mất thời giờ, giảm thiểu cố gắng của tinh thần và lý trí.
Phải chăng tôi đề nghị chúng ta bắt chước Mahatma Gandi, hoặc thánh Phanxicô Essisiô và sống như người hành khất nghèo hèn nhất sao? Không phải thế, nhưng tinh thần của Đức Kitô là chúng ta được tự do khỏi những sự dư thừa không cần thiết, một đống dư thừa đè nặng chúng ta cả thể xác lẫn tinh thần.
Tôi đề nghị chúng ta đừng bắt chước cô nữ sinh trung học có 26 chiếc áo lót mà hầu hết cô không bao giờ mặc tới hay như một bà Đại sứ bên Anh có hàng ngàn đôi giầy hoặc như một ai đã gây ra nỗi 65 % đồ ăn đặt tại khách sạn phải bỏ đi.
Dĩ nhiên, làm việc không có dụng cụ sẽ bị hạn chế. Bác thợ mộc cần cưa, ông bác sĩ cần một phòng làm việc mắc tiền. Bà nội trợ cần dụng cụ trong bếp, ông luật sư cần 1 giá sách luật. Nhưng tất cả chúng ta, kẻ nhiều người ít, có thể tìm ra cái không cần, những cái làm cho chúng ta mất tự do suy nghĩ, nói năng và hành động.
Mới đây, có vài người lối xóm phải chuyển đến một thành phố khác, họ tốn công gấp 5 lần để thu góp, phân loại, đóng kiện và chuyên chở những cái không quan trọng –mà có người gọi là đồ “ve chai lông vịt”- sánh với những cái chính yếu. Chúng ta thường thấy như thế.
Chúng ta đang trên hành trình về quê trời. Bớt hành trang chúng ta càng có thể tập trung vào điểm chính yếu, càng có thời giờ cho vấn đề thiêng liêng. Đi tay không như Chúa Giêsu và như những người theo Chúa lúc ban đầu.
Xin Chúa chúc lành bạn.
Gandhi là vị cứu tinh của Ấn Độ, ông rất cảm phục Đức Kitô. Ông đọc Tin Mừng hằng ngày và lấy “bài giảng trên núi” của Chúa làm phương châm hành động. Một hôm, muốn tìm hiểu cụ thể hơn về Giáo Hội, ông đi tới một nhà thờ Công Giáo. Vừa tới cửa nhà thờ, một người chực việc tiến lại bảo ông: “Nếu những người Công Giáo sống đúng theo Tin Mừng Đức Kitô thì dân tộc của tôi bớt khổ”. Ông Gandhi mới có ý nghĩ đó. Nhiều người chúng ta cũng lấy làm tiếc vì không được chính Chúa Giêsu đích thân điều hành sinh hoạt Giáo Hội. Và thấy rằng trong các cộng đoàn nhỏ, có nhiều người ở cấp điều hành đã làm người ta hiểu sai về Tin Mừng ở Đức Kitô. Nhưng biết làm sao được? Khi Chúa Giêsu nhập thể làm người, Chúa phải chịu chi phối do không gian và thời gian. Muốn thiết lập một Giáo Hội trường tồn trong lịch sử, Chúa phải trao Giáo Hội Chúa vào tay con người trần thế. Ngay từ khi bắt đầu cuộc sống công khai, Chúa đã huấn luyện các môn đệ để các ông tiếp tục sứ mệnh của Chúa. Cũng vậy, hôm nay đây, Chúa trao sứ mệnh tiếp tục công việc Chúa làm nơi trần gian cho mỗi người chúng ta. Mọi Thánh Lễ chúng ta tham dự, đều kết thúc bằng lệnh truyền sai đi: Thánh lễ đã xong, chúc anh chị em ra đi bình an.
Theo lệnh Chúa, các Tông đồ ra đi, làm những việc Chúa đã làm: xức dầu cho bệnh nhân, chữa họ lành, rao giảng Tin Mừng, thúc giục người ta cải thiện đời sống. Nhân danh Chúa, các ông làm được nhiều việc lạ, đã trừ quỉ.
Chúa sai các ông đi từng hai người, như vậy, Chúa đã thiết lập những cộng đoàn nhỏ. Các ông là những chứng nhân, và chứng nhân càng nhiều thì càng có giá trị. Một cộng đoàn, bao giờ cũng có lợi hơn là một người đơn độc. Trong cộng đoàn người ta nhắc nhở nhau, nâng đỡ nhau sống trung thành với luật Chúa, nhất là việc làm chứng tình thương của Chúa ngay trong cộng đoàn. Chúa đòi hỏi các Tông đồ phải nhất thiết trở nên mẫu mực về tình bác ái huynh đệ. Và làm sao thực thi bác ái được, nếu mỗi người chỉ sống một mình. Dân chúng thời các tông đồ đã nhận ra dấu chứng này nơi cộng đoàn tín hữu đầu tiên: “Coi kìa, họ yêu thương nhau biết bao!”. Và đó cũng là định hướng của chính Đức Kitô: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là thấy các con yêu thương nhau”. Cuộc sống yêu thương trong cộng đoàn vừa là dấu hiệu của người môn đệ Chúa, vừa là lời rao giảng sống động, hùng hồn nhất về Tin Mừng của Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết dùng cuộc sống yêu thương để làm chứng cho Tin Mừng ngay trong cộng đoàn và trong môi trường sống của chúng con.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Đức Giêsu là người làm nên Nhóm Mười Hai.
Sau một thời gian ở với Ngài (x. Mc 3,14), họ đã được Ngài sai đi rao giảng.
Người được sai đi phải là người có đời sống gần gũi thiết thân với Chúa.
Đức Giêsu sai họ lên đường. Ngài trao cho các ông những quyền năng Ngài có: quyền rao giảng, quyền chữa bệnh, quyền trừ quỷ. Đó là hành trang lên đường của các ông. Mọi hành trang khác chỉ là phụ thuộc: một chiếc áo đang mặc, một cây gậy và đôi dép khi đi đường.
Đức Giêsu cấm các ông không được mang theo lương thực, bao bị, tiền bạc… Không lương thực đi đường nên có thể bị đói. Không bao bị nên không thể để dành. Không tiền bạc nên không thể mua sắm. Ngài muốn các ông hoàn toàn nương tựa vào lòng tốt của Thiên Chúa và của con người.
Ra đi mà không có một chút bảo đảm. Các môn đệ đã đi từ nơi nọ đến nơi kia, lê gót qua các làng mạc và thành phố. Họ không đóng đô ở một nơi, dù gặp thành công, vì họ nhớ lời của Thầy: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa” (x. Mc 1,38)
Tính cơ động là đặc tính thiết yếu của người tông đồ. Sẵn sàng đến và cũng sẵn sàng đi.
Các môn đệ loan báo về Nước Thiên Chúa đang đến. Đó là một tin vui, nhưng đòi con người hoán cải.
Hoán cải là điều chẳng ai ưa. Người tông đồ cần can đảm nói điều phải nói. Không làm nhẹ đi những đòi buộc của Tin Mừng, không bóp méo Tin Mừng để tìm thành công cá nhân, cũng không mỵ dân để vuốt ve dư luận. Người tông đồ phải chấp nhận được tiếp đón một cách nồng hậu hay lạnh nhạt.
Họ chỉ là những người phục vụ cho Tin Mừng.
Chúng ta cần cảm nghiệm niềm vui của các môn đệ. Những người đánh cá nay trở thành nhà rao giảng. Những người ít học, bình dân, nay trừ quỷ và chữa bệnh. Họ đem đến cho con người niềm vui, sự giải phóng toàn vẹn cả hồn lẫn xác.
Hôm nay Đức Giêsu vẫn sai ta đến trong thế giới. Đi từng hai người hay từng nhóm để nâng đỡ nhau. Chúng ta có thể mang theo nhiều đồ trang bị hơn xưa, nhưng không vì thế mà bỏ rơi cậy dựa vào Chúa. Thế giới hôm nay vẫn có nhiều bệnh tật: bệnh tuyệt vọng chán chường, bệnh hoài nghi khép kín… Ước gì chúng ta chữa lành những nỗi đau hôm nay.
Gợi Ý Chia Sẻ
Lên đường là ra đi, nhưng cũng là ở lại môi trường mình đang sống. Bạn thấy làm chứng cho Chúa tại nơi bạn học hành, làm việc, có khó không? Đâu là những cản trở?
Thế giới hôm nay là thế giới bị nô lệ dưới nhiều hình thức. Bạn thấy được những hình thức nào? (nô lệ cho vật chất, tiện nghi, chức vị, xác thịt…)
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Xin sai chúng con lên đường; nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế.
Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm: rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ, chữa lành những người ốm đau.
Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý, biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.
Xin ban cho chúng con khả năng đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.
Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ của bao người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu, thế giới thật bao la mà vòng tay chúng con quá nhỏ. Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau mà tin tưởng lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát.
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Mười hai môn đệ lên đường theo lệnh Chúa Giêsu mà chẳng mang theo gì cả: không lương thực, không tiền bạc, không mang thêm chiếc áo thứ hai, không bao bị, ngoại trừ hai vật dụng tối cần là cây gậy và đôi dép (Mc 6, 8-9). Ngoài ra, các môn đệ lại là những người ít học, khả năng khiêm tốn…
Vậy mà các ngài đã đạt được những thành quả tuyệt vời: Xua trừ nhiều ma quỷ, chữa lành nhiều bệnh nhân, kêu gọi người ta ăn năn sám hối! (Mc 6,13).
Nhờ đâu các ngài đạt được những thành quả phi thường nầy?
Tất cả là do quyền năng Thiên Chúa.
Khi sai các môn đệ lên đường không chút hành trang, Chúa Giêsu muốn tỏ cho thấy sự thành công trong hoạt động tông đồ không do tài lực của con người nhưng là do quyền năng Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu hoạt động qua các vị như đôi bàn tay của Người.
Chúng ta là chi thể của Chúa Giêsu
Từ ngày lãnh bí tích rửa tội, chúng ta được tháp nhập vào Thân Mình Chúa Giêsu như cành liền cây, như bàn tay nối liền cơ thể và từ đó, chúng ta được thông dự vào sứ mạng ngôn sứ, tư tế và vương đế của Chúa Giêsu.
Từ đó, Chúa Giêsu muốn rao giảng qua chúng ta là môi miệng của Người; Chúa Giêsu muốn chăm sóc bệnh nhân và người đau khổ qua chúng ta là đôi tay của Người; Chúa Giêsu muốn tỏ lòng thương xót nhân loại qua chúng ta là trái tim của Người.
Thế nên, chúng ta phải cùng hoạt động với Chúa Giêsu và để Người sử dụng chúng ta như chi thể của Người mà tiếp nối sứ mạng loan Tin Mừng và đem ơn cứu độ cho thế giới.
Chúng ta không thể viện cớ mình nghèo nàn, ít học, yếu đuối để từ khước sứ mạng Chúa giao, vì mười hai môn đệ đầu tiên được Chúa sai đi cũng không có nhiều khả năng, nhiều điều kiện hơn chúng ta hôm nay. Các vị lên đường theo lệnh Chúa Giêsu dù không mang lương thực, không tiền bạc, không bao bị, không cả chiếc áo thứ hai mà vẫn đạt được thành quả tốt đẹp khác thường. Chúng ta cũng có thể đạt được hiệu quả như thế nếu chúng ta hiến mình cho Chúa Giêsu sử dụng.
Đừng trở nên bàn tay tê bại
Nhân loại hôm nay đông đảo gấp hàng triệu lần so với thời các môn đệ đầu tiên nên nhu cầu loan báo Tin Mừng lúc nầy càng cấp bách và khẩn thiết hơn bao giờ hết. Hôm nay Chúa Giêsu vẫn liên lỉ kêu mời mỗi người chúng ta tham gia sứ vụ loan Tin Mừng như các môn đệ xưa.
Là chi thể của Chúa Giêsu, chúng ta không thể từ chối tham gia vào công việc cứu độ của Người.
Một chi thể không cùng các chi thể khác tham gia vào các hoạt động của thân mình là một chi thể tê bại hoặc là một chi thể thừa (như ngón thứ sáu -ngón tay thừa- trên một bàn tay).
Một chi thể tê bại (hoặc thừa) chẳng những không mang lợi ích gì cho thân mình mà còn trở nên chướng ngại cho hoạt động của toàn thân.
Chắc chắn không ai trong chúng ta muốn làm một chi thể tê bại trong Thân Mình Chúa.
Vậy thì hãy sẵn sàng hiến thân làm khí cụ cho Chúa Kitô.
Khi chúng ta hiến đời mình để Chúa Giêsu sử dụng như bàn tay của Người, chắc chắn nhiều điều kỳ diệu sẽ được Người thực hiện qua con người mỏng giòn yếu đuối của chúng ta.
(Suy niệm của Lm Jos. Tạ Duy Tuyền)
Một cuộc đời đẹp là một cuộc đời dấn thân vì lợi ích cho tha nhân. Một tâm hồn thanh cao là tâm hồn luôn thanh thoát khỏi những bon chen vật chất, những vinh hoa phù phiếm mau qua. Đó chính là mẫu người mà xã hội hôm qua cũng như hôm nay đang cần, rất cần họ để điểm tô cho xã hội thêm phong phú nhờ những cống hiến vô vị lợi và đầy lòng quảng đại của họ.
Đó cũng chính là chân dung của các sứ giả Tin mừng. Họ đã để lại cho nhân thế những bước chân thật thanh thoát, nhẹ nhàng nhưng đầy tình người. Họ là những người được tuyển chọn để cứu nhân độ thế. Họ dấn thân vào đời để giải cứu thế gian khỏi ba thù hiểm độc. Thế gian có quá nhiều mưu mô và xảo quyệt. Ma qủy có quá nhiều phương cách để cám dỗ. Họ cần phải ra đi với đôi chân nhẹ nhàng và lòng thanh thoát. Họ không được mang bao bị, không mang bạc tiền của nhân thế. Họ là những người chấp nhận cuộc sống nổi trôi “ba chìm bảy nổi chín lênh đênh”. Sứ mệnh của họ là đẩy lùi sự dữ và thi thố tình thuơng. Họ không thể bận tâm đến của cải thế gian. Họ không để lòng mình bị ràng buộc bởi nhu cầu vật chất và tiện nghi. Nếu họ quá quan tâm đến mình sẽ quên đồng loại. Nếu họ quá chú trọng đến vật chất sẽ dẫn đến lo hưởng thụ và tích góp cho bản thân. Thiện chí sẽ mất. Hướng đi sẽ chệch đường lạc lối. Lý tưởng ban đầu sẽ bị đảo ngược. Thay vì cứu đời sẽ chỉ còn lại sự lợi dụng địa vị chức quyền để vun quén cho bản thân.
Người ta kể rằng: có một đệ tử muốn từ bỏ mọi sự của thế gian để sống tu trì. Anh quyết định vào rừng vắng sống ẩn tu. Hành trang duy nhất anh mang là chiếc áo ăn mày để khất thực sống qua ngày.
Ngày kia, anh đau đớn vô cùng khi thấy chiếc áo phơi ở bờ sông đã bị chuột cắn nát tả tơi. Không còn cách nào khác, anh phải vào trong làng xin một chiếc áo khác. Chiếc áo thứ hai này cũng bị cùng chung số phận, nát tả tơi vì chuột cắn. Anh nghĩ rằng chỉ có nuôi mèo mới giữ được chiếc áo. Anh quyết định nuôi mèo. Thế nhưng, khi có mèo anh lại phải lo kiếm thêm phần ăn cho con mèo được nuôi để đuổi chuột.
Ngày ngày vác bị đi khất thực, anh cảm thấy mình như một gánh nặng đối với dân làng. Nghĩ thế, anh cố gắng chắt chiu để kiếm tiền nuôi một con bò để thêm phần thu nhập. Nhưng có bò lại phải kiếm cỏ cho bò ăn. Chăn nuôi gia súc khiến anh không thể có thời giờ cầu nguyện, tối mặt vì công việc, anh lại phải thuê người cắt cỏ nuôi bò. Càng ngày bò càng sinh sản, người cắt cỏ cũng phải gia tăng. Thời gian trôi qua, mảnh đất hoang sơ đã biến thành một trang trại rộng lớn. Gia súc và người làm ngày càng thêm đông. Con người đã một thời muốn từ bỏ mọi sự để trở thành một tu sĩ, nay nghiễm nhiên trở thành một ông chủ trang trại.
Có tiền của và tài sản to lớn, anh lại muốn có người chia sẻ công việc của mình. Anh cưới vợ và sinh con. Anh trở thành một người chồng, người cha trong một gia đình hạnh phúc. Thế là lý tưởng ban đầu đã hết. Anh đã đánh mất lý tưởng chỉ vì mải lo gìn giữ một cái áo rách. Chuyện có vẻ hoang đường nhưng lại là thật. Ma qủy thường cám dỗ từng bước. Ma qủy thường gợi lên những điều rất hấp dẫn để dẵn dắt con người đi theo chương trình của nó. Adam – Evà đã nhìn thấy trái táo thơm ngon mà quên đi thân phận phải vâng lời Thiên Chúa. Khi tỉnh lại chỉ còn thất vọng và hổ thẹn lương tâm. Người tu sĩ đã lạc bước khi quá bận tâm đến nhu cầu vật chất, đến đồng tiền bát gạo, khiến tâm hồn anh không còn thời giờ để vun đắp, định hướng cho hướng đi của mình. Cái thất bại của anh thật tẻ nhạt, chỉ vì mải lo gìn giữ một chiếc áo rách.
Thực vậy, vì tiền bạc, mà người ta có thể đánh mất lý tưởng cuộc đời.Vì tiền mà cái tính bổn thiện của con người ban đầu đã không còn. Vì tiền mà người ta có thể chối bỏ niềm tin. Đó là nguy cơ mà bất cứ ai cũng có thể rơi vào.
Đó là bài học cho tất cả chúng ta. Đồng tiền thật cần thiết cho cuộc sống nhưng không phải là cứu cánh cho cuộc đời. Đừng quá lệ thuộc vào của cải vật chất. Nó chính là con dao hai lưỡi có thể làm hại cuộc đời chúng ta, nếu không khôn ngoan, sáng suốt để nhận định đúng giá trị của nó. Chúng ta cần can đảm để trong khi mưu tìm của cải vật chất, chúng ta cần có đủ nghị lực khước từ mọi hành vi bất chính, mọi thoả hiệp với lừa đảo, gian trá của thế gian. Chúng ta không thể vì tiền mà đánh mất tính người. Vì tiền mà đánh mất tình người. Vì tiền mà lòng mang dạ sói để hại người, hại đời, để làm tôi cho ma quỷ sai khiến ra đi gieo vãi sự dữ cho trần gian.
Con người luôn hướng về sự thiện. Con người luôn mong muốn cống hiến cuộc đời mình cho tha nhân. Đó chính là mục đích mà Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa. Thế nhưng ma quỷ luôn vẽ lối chúng ta đi sai đường Chúa. Ước gì lời Chúa hôm nay thức tỉnh chúng ta, hãy lo tìm kiếm những điều đẹp ý Chúa hơn là thế gian. Hãy để tâm làm việc phụng sự Chúa hơn là làm tôi cho tiền bạc và tiện nghi. Đừng để lòng mình lệ thuộc vào vật chất mà quên đi gía trị tinh thần. Xin Chúa giúp chúng ta biết sống theo lời Chúa để được phúc lành mai sau. Vì “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó, vì nước trời là của họ”. Amen.
(Suy niệm của Lm Jos. Tạ Duy Tuyền)
Nét đẹp của một người không hệ tại ở chức vụ người đó, cũng không hệ tài ở tài sản của họ mà quan yếu là ở những gì họ cống hiến phục vụ cho đời. Càng cho đi thì giá trị họ càng cao. Càng sống thanh thoát khỏi những bon chen thì con người họ càng thanh cao. Càng sống phục vụ thì con người họ càng cần thiết cho gia đình và xã hội.
Người cao đẹp như thế cũng tựa như dòng nước. Nước nuôi dưỡng tất cả các sinh linh, tưới tắm cho vạn vật, nó không tranh đấu vì quyền lợi, và cũng không cần sự báo đáp. Mặc dầu nước rất cần cho con người. Thiếu nước con người sẽ chết. Thiếu nước vạn vật cũng không tồn tại. Nhưng nước vẫn thanh thoát tự tại, không màng đến được- mất, thắng- thua…
Thế nên, điều quan trọng trong cuộc sống là ta hãy tích đức. Tích đức bằng việc đến với tha nhân để thi ân, để phục vụ. Tích đức bằng việc cho đi mà không cần nhận lãnh. Sống thanh thoát khỏi những tham sân si để tâm hồn luôn cởi mở bình an. Khi con người gieo việc thiện sẽ nhận được những điều tốt lành, vì “gieo gì gặt ấy”. Càng sống quảng đại thì trời lại càng cho thêm như người xưa đã nói: “Xởi lởi Trời lại cho thêm”
Người ta kể rằng: có một người phụ nữ mù đi taxi tới một tòa nhà. Lúc đến nơi, đồng hồ hiển thị số tiền là 100 ngàn đồng. Tài xế taxi dẫn cô vào chỗ an toàn rồi nói: “Tôi không thu tiền của cô, bởi vì so với cô thì việc kiếm tiền của tôi chắc là dễ dàng hơn”.
Vừa đúng lúc này, từ trong khu cư xá, người đàn ông có dáng vẻ của một ông chủ đi ra. Ông cũng lên chiếc xe taxi đó rồi đi. Trên đường, hai người đàn ông vui vẻ chuyện trò cùng nhau. Khi xuống xe, đồng hồ hiển thị số tiền là 100 ngàn đồng nhưng người đàn ông lấy ra số tiền 200 ngàn và nói: “Tiền này bao gồm cả số tiền của người phụ nữ lúc nãy. Tôi cũng không phải vĩ đại gì, nhưng chắc là việc kiếm tiền cũng dễ dàng hơn cậu một chút, hy vọng cậu có thể tiếp tục làm việc tốt!”.
Cuộc sống giống như một chiếc gương phản chiếu, nó có thể ghi nhận rồi phản ánh hết thảy những chuyện tốt xấu của đời người. Vậy nên, sẽ có lúc chúng ta nhận ra, những việc mình đã làm cuối cùng đều sẽ quay trở lại. Gieo điều thiện sẽ gặt trong hân hoan.
Hôm nay Chúa bảo sứ giả Tin Mừng phải sống thanh thoát với tiền của vật chất. Họ vào đời không phải để bon chen kiếm tiền. Họ dấn thân không phải để xài tiền phung phí. Họ bước vào đời để làm chứng cho nhân thế một giá trị khác với vật chất tầm thường. Một giá trị vĩnh cửu mà không phải mua bằng tiền của vật chất. Họ đi vào cuộc đời để mời gọi con người tìm kiếm của ăn không hư nát là Nước Trời mai sau, chứ không phải là bon chen tìm kiếm những vinh hoa phú quý đời này.
Giáo hội luôn được người đời yêu mến vì thời nào cũng có những sứ giả tin mừng sống thanh thoát với đời để sẵn lòng phục vụ mọi người và mọi nơi. Giáo hội vẫn còn đó những con người miệt mài đi lên những miền sơn cước để truyền giáo cho anh em dân tộc vùng Tây Nguyên và vùng miền núi phía Bắc. Giáo hội vẫn còn đó những con người sống thanh thoát khỏi những tiện nghi vật chất để sống thanh bần như người nghèo, để phục vụ mà không mong đền đáp.
Đó là những chứng nhân cho Tin Mừng. Họ sống thanh thoát khỏi những tham lam bất chính như người đời vẫn làm. Họ hiểu rằng lòng tham thì vô đáy. Điều quan yếu làm nên hạnh phúc không phải là có nhiều tiền mà là biết vui với những gì mình có, biết hạnh phúc với những cái trong tầm tay. Đó là cách giúp cho con người tránh khỏi mọi tham lam bất chính.
Cuộc sống con người sẽ đẹp biết bao nếu biết sống thanh thoát với của cải, để không vì tham lam mà giết chết danh dự, nhân phẩm của mình. Cuộc sống sẽ đẹp biết bao nếu con người đến với nhau không vì tiền, không vì lợi nhuận. Nhưng để sống được điều đó con người cần có niềm tin vào Thiên Chúa. Vì tin mà họ phó thác mọi sự cho Thiên Chúa. Vì tin mà họ dấn thân cho tha nhân mà không mong đền đáp, chỉ mong cho danh Chúa cả sáng. Xin Chúa ban thêm đức tin để chúng ta có thể bước đi trong thánh ý Thiên Chúa. Amen.
Các con hãy đi rao giảng.
Đó là một mệnh lệnh đòi chúng ta phải ra đi.
Ra đi như các tông đồ, từ bỏ nghề nghiệp, từ bỏ quê hương, từ bỏ những người thân yêu và ra đi như thế có nghĩa là hy sinh.
Ra đi như các tu sĩ, từ bỏ gia đình, từ bỏ bè bạn. Và ra đi như thế cũng có nghĩa là hy sinh.
Hễ đã muốn hiến thân theo đuổi một sự nghiệp trong đạo, thì phải bằng cách này hay cách khác, chấp nhận từ bỏ và hy sinh.
Nhưng từ bỏ những cái bên ngoài mà thôi thì vẫn chưa phải là ra đi đích thực. Ra đi đích thực chính là từ bỏ bản thân, từ bỏ những tập quán và những ý riêng tư để tin vào giá trị vô song của nước trời, một vương quốc mà chúng ta phải hy sinh tất cả để xây dựng. Chấp nhận ra đi, chúng ta sẽ rao giảng, sẽ nhắc lại lời Ngài đã nói:
– Nước trời đã gần.
Đó là tất cả những gì chúng ta phải rao truyền cho các tâm hồn.
Nhìn vào cuộc sống, chúng ta thấy còn quá nhiều người chưa nhận biết nước Chúa. Ngày nay cũng chẳng hơn gì ngày xưa, vì nhân loại luôn đợi chờ một cái gì khác nữa.
Vào thời Chúa Giêsu, người ta mong đợi Thiên Chúa sẽ can thiệp, sẽ làm một phép lạ để đánh đuổi binh đội Rôma, biến nước Israel thành một địa đàng mới, đầy đủ mọi vinh quang. Ngày nay người ta cũng mơ ước như thế. Nhưng khốn nỗi là họ không mong đợi ở Thiên Chúa mà lại mong đỡi ở tài năng con người như khoa học, kỹ thuật. Họ tin tưởng ở quyền lực và tổ chức con người để rồi loại trừ Thiên Chúa. Dĩ nhiên không phải là tất cả, vì còn có những người biết suy nghĩ cách sâu xa hơn, để rồi nghiêng mình suy tôn Thiên Chúa…
Nhưng xét cho cùng, vẫn còn biết bao nhiêu sự phủ nhận về nhiều phương diện, hoặc công khai ngoài xã hội, hoặc âm thầm trong đời sống riêng tư.
Sở dĩ như vậy, vì Chúa Giêsu đã rao giảng một nước trời hoàn toàn khác biệt với mộng ước của người Do Thái, một vương quốc thiêng liêng được thiết lập trong tâm hồn người đón nhận.
Chúng ta cũng phải rao giảng như thế, mặc dù có trái với mộng ước của thời đại. Chúng ta phải chèo ngược dòng nước đang cuốn trôi nhân loại.
Như các tông đồ, chúng ta hãy nhắc lại lời Chúa:
– Nước trời đã gần, và đang ở trong tâm hồn những người thiện chí.
Mọi Kitô hữu đều có bổn phận rao giảng lời Chúa, nhưng rao giảng bằng cách nào?
Trước hết, rao giảng bằng lời cầu nguyện.
Đây là cách rao giảng tốt nhất mà mọi người đều có thể áp dụng. Thánh nữ Têrêxa với 24 tuổi đời trong bốn bức tường tu viện, đã được Giáo hội đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo, phải chăng là nhờ lời cầu nguyện của thánh nữ mà biết bao tâm hồn được ơn ăn năn sám hối.
Tiếp đến là rao giảng bằng gương sáng, bằng chính đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương.
Các tu sĩ Phanxicô đầu tiên đã áp dụng phương cách này. Họ rao giảng bằng cách sống Phúc âm, thực hiện sự khó nghèo giữa một thế giới đang chạy theo giàu sang, kể cả những người con của Chúa. Họ sống khó nghèo nhưng trên khuôn mặt luôn phản chiếu niềm vui của thiên đàng, và đó là một bài giảng hùng hồn nhất. Bài giảng sẽ vô ích nếu người giảng không sống lời mình giảng, Trái lại, khi đã sống một cách gương mẫu thì bài giảng hoàn tất. Một khi đã sống thánh thiện và làm gương cho người khác, chúng ta có thể rao giảng bằng lời nói, đó là cách thức thứ ba.
Nói càng ít càng tốt, nhưng phải nói những lời xuất phát từ một tâm hồn thánh thiện, những lời được Chúa soi sáng, vì như lời thánh Phaolô: Muốn tin thì phải được nghe biết, muốn nghe biết thì phải có người nói tới. Chúng ta cũng đừng quên rằng đời sống càng thánh thiện thì lời giảng càng hiệu lực.
Sau cùng, rao giảng bằng cách làm tròn bổn phận.
Thực vậy, địa vị nào cũng có thể là một bài giảng sống động, bổn phận nào cũng có thể là một lời kinh, nếu chúng ta biết thánh hóa, hoàn cảnh nào cũng có thể giúp chúng ta nên chứng tá cho Chúa ngay giữa lòng cuộc đời của mình.
Chúa Giêsu mở rộng hoạt động của Người bằng cách sai các môn đệ ra đi rao giảng Tin Mừng. “Nhóm Mười Hai” là một nhóm nhỏ các môn đệ, còn được gọi là các tông đồ. Chúa Giêsu đã tuyển chọn để sai đi rao giảng. Họ loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu và thúc giục người ta hoán cải cuộc sống, để có thể đón nhận Nước Thiên Chúa đang đến qua con người của Chúa Giêsu.
Qua trình thuật của Tin Mừng, chúng ta thoáng thấy những qui luật truyền giáo của Hội Thánh tiên khởi. Hoạt động truyền giáo của Giáo hội được trình bày như là tiếp nối sứ vụ mà Chúa Giêsu đã ủy thác cho các tông đồ. Các nhà thừa sai rao giảng bằng lời nói và các hoạt động bác ái. Như vậy, Tin Mừng được chứng minh là công trình của Thiên Chúa nhằm cứu độ những người có lòng tin.
Các giáo phụ luôn luôn nhắc nhở các tín hữu như sau: “Chúa Kitô tiếp tục hoạt động trong các bí tích. Khi vị linh mục làm phép Thánh Tẩy, đó là chính Chúa Kitô thanh tẩy chúng ta. Khi Đức Giám mục ban phép Thêm sức, đó là chính Chúa Kitô tăng sức mạnh cho chúng ta. Khi linh mục ban phép Giải tội, đó là chính Chúa Kitô tha tội cho chúng ta. Các thừa tác viên là những người tiếp nối công trình của Chúa Kitô. Công việc của các ngài là chính hoạt động cứu độ của Chúa Kitô”.
Những thành viên của phong trào Cursillo đã vẽ một bức tranh Chúa Kitô không có tay chân. Mỗi một thành viên của phong trào Cursillo được yêu cầu trở thành tay chân của Chúa Kitô, tiếp tục công trình cứu độ của Chúa Kitô trong hiện tại. Nếu bức tranh đó mô tả nhiệm vụ của các thành viên trong phong trào Cursillo, thì điều đó càng đúng hơn cho các thừa tác viên trong Giáo hội. Họ tiếp tục công việc “rao giảng lòng thống hối, từ bỏ tội lỗi, xức dầu cho các bệnh nhân và chữa lành cho nhiều người”.
Trở thành một thừa tác viên của Chúa Kitô là một ơn gọi cao quý, nhưng cũng là một ân huệ. Không ai được tự cho mình có ơn gọi đó. Người ta phải cầu nguyện, suy nghĩ và chuẩn bị chu đáo cho ơn gọi đó. Nhiều người được gọi nhưng ít kẻ được chọn. Người ta phải sống gắn bó chặt chẽ với Chúa Kitô, theo sát Chúa Kitô và sống cho Người. Bất cứ một do dự, một nghi ngờ nào về sự trung tín của Thiên Chúa cũng là một sự phản bội. Nếu có một sự bất trung nào thì người ta sẽ thấy đó là do lỗi của chính mình, bởi vì Chúa Giêsu không bao giờ bỏ rơi những ai chân thành tìm kiếm và bước theo Người.
Lạy Chúa, xin Chúa cho các bậc làm cha mẹ biết quảng đại dâng hiến con mình trong cuộc sống tận hiến cho việc phụng sự Chúa. Xin Chúa ban cho chúng con những linh mục thánh thiện như lòng Chúa mong ước.
Tất cả những người đi tu, nhất là để làm linh mục, thường được kêu gọi hai lần: lần thứ nhất, Chúa kêu gọi âm thầm trong lòng mỗi người bằng những ước muốn, yêu thích và qua những biến cố do Chúa quan phòng xếp đặt để hướng dẫn đương sự tới nơi tu trì hay tới bàn thờ. Lần thứ hai, Chúa kêu gọi qua sự tuyển chọn và kêu gọi của bề trên hay Đức Giám mục.
Chúa Giêsu cũng đã hành động như thế trong việc kêu gọi các tông đồ, các môn đệ đầu tiên của Ngài. Chúa kêu gọi họ ngay khi bắt đầu sứ vụ công khai truyền giảng Tin Mừng. Ngài đã kêu gọi từng người một trong nhiều hoàn cảnh khác nhau: người thì đang vá lưới, kẻ gặp ở giữa đường, người khác đang ngồi thu thuế… Rồi Ngài qui tụ họ lại cho ở luôn bên cạnh Ngài, huấn luyện, dạy dỗ, cho chứng kiến những phép lạ, các công việc Ngài làm, nghe Ngài giảng dạy dân chúng, thấy gương sáng của Ngài. Giờ đây, muốn sai họ đi truyền giảng Tin Mừng, Ngài lại chính thức gọi họ một lần nữa như bài Tin Mừng kể lại. Sở dĩ Chúa làm như vậy là để cho họ thấy rằng: việc trở thành tông đồ, và linh mục hay cả tu sĩ ngày nay, không phải là sáng kiến của cá nhân họ, nhưng là ơn thiên triệu Chúa ban, là một thứ đoàn sủng.
Trước khi sai các tông đồ đi truyền giảng, Chúa Giêsu đã căn dặn họ nhiều điều. Những điều này được coi là khuôn mẫu, là bộ luật chỉ đạo cho các chiến sĩ truyền giáo. Chúng ta thấy Chúa không bảo họ phải giảng gì và giảng như thế nào, nhưng phải ăn mặc thế nào, mang những gì, sinh sống đối xử làm sao với những người mà họ tiếp xúc, đồng thời dùng quyền năng Chúa ban mà trừ quỷ và chữa bệnh.
Có thể nói: Chúa không dạy các ông phải rao giảng bằng những bài giảng thuyết tràng giang đại hải hay bằng những lý luận đanh thép, khôn ngoan, thông thái nhằm thuyết phục mọi người, nhưng Chúa bảo các ông phải giảng bằng chứng tích, tức là bằng chính đời sống của họ. Còn những điều các ông phải nói, phải giảng, tóm lại vỏn vẹn có hai hay ba điều: chúc bình an – báo tin Nước Trời đã đến hay đã gần – và thúc giục người ta ăn năn hối cải. Nghĩa là Chúa muốn các môn đệ của Chúa nói ít và làm nhiều, dĩ nhiên Chúa không cấm họ kể lại cho mọi người tất cả những giáo huấn mà họ đã được nghe.
Đối với chúng ta hôm nay, Chúa cũng kêu gọi và sai chúng ta đi truyền giảng Nước Thiên Chúa. Bởi vì mỗi người chúng ta khi đã lãnh bí tích Rửa tội và Thêm sức, chúng ta đều được kêu gọi và sai đi rao giảng: Có người bằng lời nói, nhưng tất cả đều bằng việc làm, tức là bằng đời sống, bằng hành động gương mẫu tốt lành. Nghĩa là tất cả chúng ta đều phải là chứng nhân của Chúa và của Nước Trời, không ai được chuẩn chước, cho dù là một bệnh nhân bất toại nằm trên giường cũng thế.
Rao giảng bằng lời nói của các chiến sĩ Phúc âm, của các vị thừa sai, của các linh mục… cũng rất cần thiết, nhưng với điều kiện là phải đi đôi với bằng chứng đời sống của chính các ngài, nếu không lời nói của các ngài chỉ là tiếng thanh la não bạt rộn ràng. Ngược lại, việc rao giảng bằng đời sống, tự nó có năng lực thuyết phục người ta chấp nhận chân lý mà không cần lời nói, tuy rằng lời giảng vẫn có thể bổ túc một cách hữu hiệu. Chúng ta vẫn nói hay nghe người khác nói: “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”, lời nói mới chỉ làm lung lay lòng người, nhưng đời sống sẽ lôi kéo người ấy về hẳn phía mình.
Mỗi Kitô hữu, mỗi người Công giáo là một chứng nhân cho Chúa, cho đạo. Nếu chúng ta thiếu đời sống tốt lành, thiếu đời sống gương mẫu là chúng ta đã bỏ mất ơn thiên triệu làm chứng nhân và không thi hành đầy đủ sứ mệnh tông đồ của mình. Như vậy, cách rao giảng, cách làm chứng cho Chúa, cho đạo tốt nhất, hữu hiệu nhất là đời sống tốt đẹp của chúng ta. Nghĩa là làm bất cứ việc gì, ở đâu, với ai, chúng ta hãy để ý đối xử với họ thế nào để gây được thiện cảm cho đạo, dù đó chỉ là những cử chỉ nhỏ nhặt hay những câu nói buông trôi giữa trời, bởi vì chính những cử chỉ không tên tuổi, những câu nói giữa trời, những thái độ dường như vô tình ấy cũng rất có ảnh hưởng và có khi còn ảnh hưởng sâu xa nữa.
Phương ngôn Ả Rập có câu: “Nếu anh không làm được ngôi sao trên trời, anh hãy làm cái đèn trong nhà anh”. Nếu đa số chúng ta không có điều kiện để đi đây đó làm tông đồ, thì tất cả chúng ta đều có thể làm tông đồ bằng gương sáng. Làm gương sáng là một nhiệm vụ chính Chúa Giêsu đã truyền dạy: “Các con là cái đèn sáng, sự sáng của các con phải tỏa chiếu trước người ta, để người ta thấy công việc của các con mà ngợi khen Cha trên trời”. Chúng ta làm tông đồ bằng cách gây ảnh hưởng tốt và gây ảnh hưởng bằng ngôn ngữ, cử chỉ, thái độ… Vậy nếu một lời nói, một cử chỉ, một thái độ có thể ảnh hưởng đến người khác, thì phương chi một hành động, một công việc và nhất là một nếp sống. Làm gương sáng bằng hành động của chúng ta có sức lôi cuốn hơn những lời nói hoặc những bài giảng hay.
Gương sáng cụ thể nhất là những việc làm thể hiện tình yêu thương của chúng ta. Có một người đàn bà kia đã khuyên đứa con cưng của bà như sau: “Con ơi, ngày con mới sinh, đôi mắt con vừa nhìn thấy ánh sáng, mọi người đều mỉm cười với con, mà con lại khóc. Con hãy sống thế nào để một ngày kia, đến giờ sau hết, mọi người đều tràn lệ mà con lại mỉm cười”. Sống thế nào để được như thế? Chỉ có một cách duy nhất là gieo vào tâm hồn những người chung quanh một tình thương mến, để đến giờ cuối đó họ phải khóc vì thương tiếc, và chúng ta mỉm cười vì đã thực thi được tình người, muốn như vậy cần phải biết yêu thương và thể hiện tình yêu thương.
Xin Chúa cho chúng ta luôn ý thức nhiệm vụ tông đồ và cố gắng thực hiện bằng cách làm gương sáng và thể hiện tình yêu thương để danh Chúa được rạng sáng và nước Chúa được mở rộng.
Rất nhiều lần trong Phúc âm, Chúa Giêsu đã than thở, đã tâm sự với các môn đệ:
– Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít…Ta mang lửa xuống trần gian và chỉ mong cho lửa ấy bừng cháy lên.
Vì thế, nỗi lo lắng số một trong cuộc đời Chúa, đó là huấn luyện các tông đồ, để các ông tiếp nối sứ mạng của Ngài.
Chính Ngài đã tuyển chọn các ông, cắt nghĩa cho các ông được hiểu về giáo lý Tin Mừng, trao ban quyền hành và sai các ông đi truyền giáo. Phần các tông đồ, các ông cũng đã hăng say đáp trả lời mời gọi của Chúa.
Còn chúng ta thì sao?
Với Bí tích Rửa tội, Chúa cũng đã kêu gọi chúng ta trở nên những tông đồ. Với Bí tích Thêm sức, Chúa cũng đã sai chúng ta đi vào cuộc đời để làm chứng cho Ngài. Thế nhưng, chúng ta đã làm được những gì, cho danh Chúa được cả sáng, và nước Chúa được trị đến?
Nhiều người trong chúng ta đã phủi tay trước nhiệm vụ khẩn thiết ấy. Họ cho rằng: Hoạt động tông đồ truyền giáo chỉ là một bổn phận dành riêng cho linh mục và tu sĩ. Còn họ, đang phải vật lộn giữa dòng đời, thì còn hơi sức đâu mà nghĩ tới.
Vậy họ đã đưa ra những lý do nào để biện minh cho thái độ của mình.
Lý do thứ nhất như vừa trình bày, họ cho rằng hoạt động tông đồ và truyền giáo không phải là bổn phận của họ.
Nghĩ như vậy là lầm, bởi vì một khi đã là chi thể của Hội thánh, chúng ta phải liên đới chịu trách nhiệm về sự sống còn và phát triển của Hội thánh.
Chính vì thế, Đức Thánh Cha Piô XII đã kêu gọi:
– Hãy liên kết với nhau để xây dựng lại thế giới.
Hơn thế nữa, Kinh thánh đã bảo chúng ta:
– Đức tin không có việc làm thì chỉ là một đức tin đã chết.
Bằng hoạt động, bằng việc làm, chúng ta sẽ biểu lộ được sức sống của niềm tin.
Lý do thứ hai họ đưa ra, đó là tôi không có thời giờ và tiền bạc.
Chúng ta nói rằng, chúng ta yêu mến Chúa hết lòng, nhưng thử hỏi chúng ta đã dành cho Chúa những gì?
Nếu so sánh chúng ta với một đảng viên, một cán bộ, chúng ta sẽ thấy mình thua xa. Trong một tuần lễ mà thôi, một đảng viên, một cán bộ đã bỏ ra bao nhiêu thời giờ để hội họp, để thảo luận, để đi đây đi đó mà phổ biến chính sách đường lối, còn chúng ta thì sao?
Đừng hỏi rằng Chúa đã làm gì cho tôi, mà hãy tự kiểm điểm xem tôi đã làm được những gì cho Chúa.
Lý do thứ ba họ nghĩ rằng: mình không có khả năng.
Thực vậy, tôi vừa quê mùa, lại vừa dốt nát, làm sao có thể đối đầu với những người học rộng biết nhiều và trí thức?
Đọc lại Phúc âm chúng ta thấy các tông đồ là ai? Tôi xin thưa:
– Họ là những ngư phủ đơn sơ và chất phác, học thì ít mà thiện chí thì nhiều.
Chính thiện chí mới là điều cần thiết, như là một câu danh ngôn đã bảo:
– Người ta làm được nhiều điều tốt đẹp với một trái tim hơn là với một cái đầu.
Ngoài ra, làm việc tông đồ đâu có phải chỉ là giảng giải, tranh biện hơn thua mà còn bằng lời cầu nguyện, còn bằng đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương của mình nữa.
Trong bàn tay của Chúa, một dụng cụ tầm thường nhất cũng có thể tạo được những thành công rực rỡ.
Ngày nay chúng ta thường kêu ca:
– Đạo đức thì suy đồi, luân thường thì đảo lộn, con người như đã đánh mất niềm tin vào những giá trị thiêng liêng.
Nhưng thử hỏi:
– Chúng ta làm được những gì để cải tạo xã hội, hay là chúng ta cho rằng mình chỉ là một cánh én, làm sao tạo dựng nổi một mùa xuân?
Chúng ta lớn tiếng phê bình chỉ trích, nhưng lại không góp được một phần nhỏ bé vào công cuộc truyền giáo, đem ánh sáng Phúc âm đến cho những người chung quanh…
Thiết tưởng, chúng ta nên ghi nhớ và thực hành lời khuyên sau đây, đó là:
– Thà thắp lên một ngọn nến còn hơn ngồi đó mà rủa xả bóng đêm.
Lần đầu tiên sai các môn đệ đi thực tập rao giảng Chúa Giêsu đã căn dặn họ nhiều điều. Đoạn Tin Mừng hôm nay chỉ nói đến hai điều: hành trang phải mang theo là những gì và phải xử trí thế nào trước những thái độ khác nhau của thính giả.
Bình thường, trước khi đi đâu, nhất là khi đi xa, lâu ngày, một người cẩn thận, bao giờ cũng phải chuẩn bị, sửa soạn, sắm sửa hành trang. Chẳng hạn: một người tính đi du lịch Đà Lạt hay Nha Trang, dù chỉ bốn, năm ngày hay một tuần, trước khi đi, người ấy sẽ chuẩn bị quần áo và những vật dụng cần thiết. Một người mẹ cho con gái đi ở riêng, trước khi tiễn con lên xe hoa, bà thường sắm sửa cho con đủ thứ áo xống, vật dụng và căn dặn con đủ cách. Hoặc khi tiễn người con trai đi nghĩa vụ quân sự, bà cũng lo lắng, sắm sửa, căn dặn con nhiều điều. Trong phạm vi nghề nghiệp cũng vậy. Làm nghề gì người ta cũng sửa soạn dụng cụ cần thiết: một bác nông dân đi làm thì phải có cày có cuốc. Trẻ em đi học thì phải có bút mực, sách vở…
Vậy mà chúng ta thấy, trước khi sai các môn đệ đi rao giảng, Chúa Giêsu bảo họ: không được mang gì cả, không mang bị, không mang tiền, không mang hai áo… Tại sao vậy? Bởi vì Chúa muốn họ ra đi truyền giáo phải có tấm lòng từ bỏ tất cả, thoát ly ra ngoài vòng cương tỏa của vật chất. Họ sẽ sống một nếp sống bấp bênh. Có vậy họ mới biết bám víu vào Thiên Chúa quan phòng đã sai họ ra đi.
Vấn đề ở đây, Chúa muốn dạy các môn đệ Ngài phải có một tấm lòng sẵn sàng từ bỏ: từ bỏ cha mẹ, bà con và chính bản thân, từ bỏ những gì cần thiết… để họ thảnh thơi ra đi, không bon chen, không dính bén, không vướng víu; và đi đâu, đến đâu cũng được, nơi đâu cũng là quê hương. Chúa không muốn các môn đệ Ngài trở thành những hành khách được trang bị đầy đủ để rồi không còn lo sợ bất trắc. Không, Chúa muốn các môn đệ Ngài phải biết đặt lòng tin vào Thiên Chúa quan phòng. Ngài muốn họ gặp bất trắc để họ biết phó thác vào Thiên Chúa.
Sau khi căn dặn các môn đệ từ bỏ, tín thác vào Thiên Chúa quan phòng, Chúa cho họ biết ngay rằng: công việc rao giảng của họ không dễ dàng: có người chấp nhận, có người không. Vậy họ phải xử trí thế nào? Chúa bảo: gặp được nhà nào tốt lành, chính đáng, thì ở lại đó cho đến lúc ra đi. Làm như vậy là tỏ lòng kính trọng, trung thành và biết ơn lòng hiếu khách. Còn làm khác đi dễ gây hiểu lầm, bội tín. Sở dĩ có lời khuyên như thế là vì hồi xưa, các nhà truyền giáo không có chỗ ở cố định mà phải nhờ vả rất nhiều vào các tín hữu để truyền giáo dần dần.
Dĩ nhiên và đương nhiên họ sẽ không được một số nơi tiếp nhận và còn ngược đãi nữa. Trường hợp đó, Chúa cho phép ra đi tới một nơi khác, và hãy giũ bụi chân lại cho họ biết lỗi lầm bất kính cảu họ. Người Do thái có thói quen làm như thế khi họ đi từ vùng dân ngoại vào vùng đất của họ để minh chứng họ dứt bỏ mọi liên hệ xấu với dân ngoại. Vậy người môn đệ làm như thế để đánh thức những ai từ chối họ, và cho những người ấy biết rằng cư xử của họ như vậy là đã trở thành dân ngoại.
Việc Chúa Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng và căn dặn các ông nhiều điều, nhắc nhở chúng ta cũng hãy làm tông đồ cho Chúa. Và tất cả chúng ta đều biết cách làm tông đồ tốt nhất, được Giáo Hội đề cao và cổ võ nhất, là làm tông đồ bằng chính đời sống tốt lành của chúng ta. Bởi vì đời sống của một người tín hữu chẳng những sống mà còn mang một sứ điệp, là người phát ngôn của Chúa ở nơi mình sống. Thiên Chúa là tác giả viết thư, còn chúng ta là những dòng chữ sống Thiên Chúa viết trên trần gian này. Đọc bức thư là người ta hiểu được ý tưởng, vấn đề người chủ muốn viết. Cho nên, đời sống của người Kitô hữu thánh thiện, tốt lành có giá trị thuyết phục hơn tất cả những bằng chứng khác.
Ngược lại, nếu chúng ta không sống như thế mà còn sống tệ hơn những người khác thì sao? Chẳng hạn như vấn đề được nêu lên trên một tờ báo như sau: Khu xóm tôi là một xóm toàn tòng theo đạo. Những ngày Chúa nhật hoặc lễ trọng, nhà nhà đi lễ, người người đi lễ, rất là nhộn nhịp trong bầu không khí thánh thiện của một ngày lễ. Đó là một điều đáng mừng đáng quí. Thế nhưng còn một điều đáng buồn cũng xảy ra thường ngày trong xóm đạo tôi, đó là thiếu tình thương, thiếu bác ái. Chẳng hạn: hai nhà gần nhau, mấy đứa nhỏ chơi với nhau rồi đánh nhau. Thế là hai gia đình đó cãi nhau chí tử. Chẳng hạn: buôn bán, vay mượn tiền bạc của nhau, không biết quên sót hay thiếu đủ sao đó, rồi cũng đi đến chỗ cãi nhau cả ngày trời, náo động cả khu xóm. Những chuyện như vậy cứ xảy ra thường xuyên ở khu xóm tôi, một xóm toàn những người có đạo. Thế mà mọi người vẫn thản nhiên vui sống, vẫn cứ đi lễ, đọc kinh, vẫn cứ cãi lộn, chửi nhau. Cuối cùng, tác giả bài báo này kết luận: Ước mong xóm đạo tôi ngày càng sống đạo tốt hơn, tức là vẫn siêng năng đi lễ, cầu nguyện, nhưng cũng biết sống bác ái, chia sẻ hơn với mọi người chung quanh.
Có lẽ đó cũng là điều ước mong của chúng ta. Chúng ta hãy sống đạo ở trong nhà thờ, trong gia đình, ở khu phố, ở mọi nơi. Sống đạo thực sự như thế là chúng ta cũng đang đóng góp phần mình vào công cuộc tông đồ của Chúa và Giáo Hội.
Đức Giêsu sai các tông đồ ra đi. Kitô giáo luôn là thế. Nó không bao giờ giữ lại điều gì cho mình. Nó luôn bao hàm sự vươn tới những người khác. Nếu không có yếu tố này, không còn là Kitô giáo nữa. Và điều đó nhiều lần được chứng tỏ bằng sự sẵn sàng hy sinh của mỗi người.
Cho tới lúc đó, các tông đồ ở với Đức Giêsu. Suốt thời gian qua, Người đã giáo huấn họ. Nhưng Người đã chọn họ cho một sứ mạng – giúp truyền bá Tin mừng về nước Thiên Chúa. Đã đến lúc họ phải góp phần vào công việc ấy. Người sai họ đi từng hai người một để họ có thể nâng đỡ nhau và học làm việc với những người khác. Người ban cho họ quyền nói và hành động nhân danh Người.
Hãy nhớ rằng đó chỉ là sứ mạng tạm thời, ngắn hạn và giới hạn trong các thị trấn và làng mạc Do thái. Sứ vụ sau cùng, khi họ được sai đến toàn thế giới, vẫn còn trong tương lai.
Sứ vụ của họ trước tiên là một sứ vụ tâm linh – rao giảng sự sám hối và nước Thiên Chúa đã đến trong thế giới. Nhưng sứ vụ ấy cũng liên quan đến việc chữa lành thể chất và tinh thần. Nó cho thấy Kitô giáo quan tâm đến hạnh phúc tinh thần và vật chất của con người. Nói cách khác, nó quan tâm đến con người toàn diện.
Họ không mang theo những vật chất để cho người ta. Trong bất cứ trường hợp nào, họ không thể có được những thứ ấy. Nếu việc truyền giáo gắn sứ điệp với những quà tặng vật chất luôn luôn là điều nguy hiểm. Bởi lẽ người ta có thể chấp nhận sứ điệp với những lý do sai lầm. Sứ điệp của họ phải tự nó tỏa sáng giá trị xứng đáng, và phải được chấp nhận chủ yếu bởi những lý do tinh thần.
Về những trang bị cá nhân, họ chỉ được mang những cái hoàn toàn cần thiết – dép và gậy. Về lương thực và chỗ ở, họ phải trông cậy vào lòng hiếu khách của những người mà họ được sai đến. Thật vậy, điều đó có nghĩa là trông cậy vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Nhưng bằng cách ấy, dân chúng sẽ cảm thấy họ cũng tặng lại một điều gì đó. Sẽ có một sự chia sẻ. Điều này tốt cho các thừa sai: họ cần dân chúng nơi họ được sai đến. Và cũng tốt cho dân ở nơi truyền giáo: tốt cho nhân phẩm của họ, và cũng để khuyến khích lòng quảng đại của họ.
Các thừa sai phải làm chứng về đức nghèo khó bằng sự từ bỏ những của cải vật chất. Và họ phải chứng tỏ sự liên đới với người nghèo bằng cách liên kết trong các cuộc đấu tranh của họ và chia sẻ sự nghèo khó với họ. Nhiệm vụ chính của họ là rao giảng sứ điệp. Nhưng họ không thể kiểm soát, điều khiển sự đáp ứng của dân và cũng không nên làm như thế. Họ phải tôn trọng tự do của người được rao giảng. Và họ phải chờ đợi có người sẽ khước từ nó.
Nếu sự rao giảng của họ bị chối bỏ, họ chỉ được phản ứng với một cử chỉ tượng trưng, phủi bụi dính ở chân. Đây là một hành động có tính tượng trưng cao đối với người Do thái trong thời đó. Dân chúng sẽ hiểu rõ ý nghĩa của hành động đó. Nó có nghĩa là các tông đồ sẽ đoạn giao với họ hoàn toàn và kể từ đó coi họ như người ngoại giáo. Tuy nhiên, cũng có nghĩa như một cữ chỉ quan tâm. Mục đích của nó là làm cho họ nghĩ lại về những điều mà các tông đồ đã đem đến cho họ và những hậu quả của việc khước từ. Nó cho thấy số phận của những người khước từ quà tặng của Thiên Chúa.
Đoạn Tin Mừng này rất thích hợp với chúng ta. Tin Mừng vẫn cần được rao giảng và cần có những người chấp nhận nó. Giáo huấn của Đức Giêsu vẫn còn thích hợp cho các thừa sai hôm nay. Dù những điều kiện đã thay đổi, những nguyên tắc căn bản những giữ nguyên. Những điều kiện ấy thách đố những người có trách nhiệm rao giảng Tin Mừng và những người được rao giảng – Nó cho thấy tầm quan trọng của việc cởi mở tâm hồn để đón nhận lời Chúa.
Tất cả chúng ta đều gặp một thách đố lớn là phải trở thành các môn đệ hoạt động, chứ không phải là các môn đệ thụ động; không chỉ là những người đón nhận mà còn là những người ban phát. Không phải là cành cây khô hoặc gốc nho chết mà là những cành cây sống và trĩu quả.
Chúng ta thấy A mốt đã được kêu gọi bỏ công việc bình thường để đi rao giảng sứ điệp (Bài đọc 1). Mười hai tông đồ cũng thế. Không phải chỉ một số ít chúng ta được kêu gọi rao giảng Tin Mừng ngày nay. Nhưng tất cả chúng ta đều được kêu gọi làm nhân chứng cho Tin Mừng. Chúng ta làm điều đó chủ yếu bằng cách sống Tin Mừng – bằng cách làm môn đệ của Đức Kitô trong thực tế cũng như trên danh nghĩa.
Trong một ý nghĩa, niềm tin vào Thiên Chúa rất phiền nhiễu bởi vì nó gia tăng trách nhiệm của chúng ta. Nếu không có Thiên Chúa, thì cũng không còn trách nhiệm – chỉ còn sự hỗn mang và đêm dài vô tận.
Nếu một người nào đến tìm chúng ta và cầu xin giúp đỡ, chúng ta không thể xua đuổi người ấy với những lời đạo đức: “Bạn hãy có đức tin, hãy dâng sự khó khăn này lên Thiên Chúa và Người sẽ giúp đỡ bạn”. Trong những trường hợp như thế, bạn nên hành động như thể không có Thiên Chúa, như thể chỉ có một người trên thế gian này có thể giúp đỡ, người ấy chính là tôi.
Nương tựa vào sự quan phòng của Thiên Chúa là một chủ yếu của Kitô giáo. Nhưng nó không được viện dẫn như một cái cớ để không làm việc gì. Chúng ta không nên lùi lại và chờ đợi Thiên Chúa làm hết. Thiên Chúa sẽ không xuống và đích thân Người làm. Thiên Chúa hành động qua chúng ta.
Một ngày mùa đông một người đàn ông đi đến một cậu bé đang ngồi ăn xin trên một cây cầu của thành phố, gió thổi lồng lộng. Cậu bé run lập cập vì lạnh và rõ ràng đang cần một bữa ăn ngon. Nhìn thấy cậu bé, người đàn ông rất tức giận bèn nói với Thiên Chúa:
“Lạy Chúa, tại sao Chúa không làm điều gì đó cho cậu bé này?”
Và Thiên Chúa đáp lại: “Ta đã làm một điều gì đó cho nó rồi”.
Điều này làm người đàn ông ngạc nhiên, vì thế ông nói “Con hy vọng Chúa không nói rằng: Bất cứ điều gì Chúa làm đều có vẻ như không làm”.
“Ta cũng đồng ý với con điều đó” Chúa đáp.
“ Nhưng bằng cách nào Chúa đã làm điều đó?” Người đàn ông hỏi.
“Ta đã làm ra con” Chúa đáp.
Không có gì sai khi yêu cầu Thiên Chúa chỉnh đốn lại những điều sai trái và an ủi nỗi khổ đau. Nhưng chúng ta phải nhớ một điều là Người đã giao phó những nhiệm vụ ấy cho chúng ta.
Chúng ta là những công cụ của Thiên Chúa. Đó là phẩm giá và cũng là trách nhiệm của chúng ta. Chúng ta phải xác tín rằng không có tình yêu thương của chúng ta, những người khác sẽ không hoàn thành những việc mà Thiên Chúa muốn họ làm. Chúng ta thấy điều này rất rõ trong bài Tin Mừng hôm nay. Ở đây chúng ta thấy Đức Giêsu chia sẻ công việc mở rộng nước Thiên Chúa cho các tông đồ.
Dĩ nhiên, chúng ta có thể tự hỏi: chúng ta có thể làm gì? Chúng ta phải trả lời câu hỏi ấy cho chính mình. Nhưng ví dụ sau đây chỉ cho chúng ta phương hướng đúng.
Một cặp vợ chồng thất nghiệp sống ở Dallas, Texas. Họ rất nghèo và thường đi quanh thành phố nhặt những lon bia bằng nhôm để bán cho những nơi tái chế. Trong công việc của họ, họ phải lục lọi trong những thùng đựng rượu vứt làm rác.
Một buổi sáng họ có một khám phá rất đau buồn trong một thùng bia đặc biệt. Trong đó họ thấy một cái xác của một trẻ sơ sinh. Họ báo cho cảnh sát. Cảnh sát tiến hành một cuộc điều tra nhưng không tìm ra dấu vết của cha mẹ đứa trẻ. Thế là không có ai là người chôn cất cho đứa bé.
Cặp vợ chồng biết ngay việc họ phải làm. Chính họ muốn nhìn thấy đứa trẻ xa lạ được chôn cất tử tế. Nhưng việc này phải tốn tiền, trong khi họ lại có quá ít. Người vợ đem cầm vật duy nhất có giá trị, một chiếc nhẫn cưới hột xoàn, để trả các chi phí mai táng.
Nhờ có sự cố gắng của họ, đứa trẻ đã đến nơi an nghỉ cuối cùng trong một quan tài màu trắng có phủ hoa. Nước mắt của cặp vợ chồng cũng thanh khiết như nước mắt của Đức Giêsu trước nấm mồ của bạn Người, Ladarô.
Để trở nên suối nguồn ánh sáng trong thế gian, người ta không cần giàu sang hoặc có tiếng tăm. Người ta chỉ cần có một tấm lòng yêu thương nồng cháy.
Cuộc chiến tranh trên bán đảo Triều tiên trước đây là một cuộc chiến tranh tàn khốc. Một ngôi làng nhỏ rơi vào dưới làn đạn của trọng pháo. Trong làng, có một ngôi nhà thờ Công giáo. Bên ngoài nhà thờ có một bệ cao, bên trên có đặt một bức tượng Đức Kitô. Tuy nhiên, khi cuộc chiến qua rồi bức tượng đã biến mất. Bức tượng đã bị hất ra khỏi bệ vỡ ra từng mảnh trên mặt đất.
Một nhóm lính Mỹ đã giúp vị linh mục thu thập những mảnh vụn. Một cách cẩn thận, họ đã ráp lại pho tượng. Họ tìm thấy tất cả các mảnh vỡ, trừ đôi bàn tay. Họ đề nghị khi trở về Mỹ họ sẽ đặt làm đôi bàn tay ấy. Nhưng vị linh mục đã từ chối.
“Tôi có một ý tưởng hay hơn”, ông nói. “Chúng ta hãy để pho tượng không có bàn tay. Và chúng ta sẽ ghi vào chân đế lời này. “Bạn ơi, hãy cho tôi mượn đôi bàn tay của bạn”. Bằng cách đó, những khách vãng lai sẽ nhìn thấy giờ đây Đức Kitô không có tay nhưng chính tay chúng ta sẽ nâng đỡ người vấp ngã; không có bàn chân chính chân chúng ta sẽ đi tìm người lạc mất, không có tai nhưng chính tai chúng ta sẽ lắng nghe người cô độc, không có lưỡi nhưng chính lưỡi chúng ta sẽ nói những lời an ủi người cô đơn.
Sự cố nhỏ ấy làm sáng tỏ sứ điệp Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu kéo các tông đồ vào công việc của Người. Người chia sẻ sứ vụ thánh thiêng của Người cho họ. Người đã cho họ quyền bính và sức mạnh của Người. Đương nhiên, họ cũng phạm những lỗi lầm, điều này không làm người ta ngạc nhiên khi hiểu rằng họ là những con người bình thường.
A mốt là một mục đồng bình thường (Bài đọc 1). Tuy nhiên Thiên Chúa đã sai ông đi rao giảng sứ điệp hối cải cho dân. Hầu hết các tông đồ là những ngư phủ. Tuy nhiên Đức Giêsu đã không ngần ngại chia sẻ công việc Người cho họ. Càng ngạc nhiên hơn khi một ngày kia Người sẽ giao phó toàn bộ công việc cho họ.
Nhiều người đang nắm quyền hành thường sợ kéo người khác vào công việc, đặc biệt những người được gọi là tầm thường. Vì thế, người khác bị loại ra với cảm giác rằng họ không đóng góp được điều gì. Để cho người khác tham gia là điều tốt. Nó làm cho người ta có trách nhiệm. Nó cho người ta một cơ hội sử dụng tài năng của mình. Nó xây dựng một cộng đoàn tinh thần.
Nhưng một đôi khi người ta không muốn tham gia. Giao việc ấy lại cho các chuyên viên hẳn là dễ dàng hơn. Ngày nay, người ta thường giao việc cho các chuyên môn. Vì thế, việc chữa bệnh được giao cho các bác sĩ và y tá. Việc dạy học giao cho các thầy cô giáo. Còn việc lo cho người nghèo giao cho chính phủ hoặc Hiệp Hội Bác ái Vinh Sơn Phao Lô.
Dĩ nhiên các chuyên gia rất cần trong các việc chuyên môn. Nhưng người không chuyên môn cũng có nhiều việc đóng góp và thường có nhiều nhiệt tình hơn. Người bệnh có thầy thuốc nhưng cũng cần có tình bè bạn. Người già cần có người chia sẻ thời gian với họ. Người trẻ cần có người tỏ ra quan tâm đến họ. Đây là công việc mà chúng ta có thể làm được. Nó không đòi hỏi tài chuyên môn nào mà chỉ cần có một tấm lòng tận tụy.
Kinh Thánh bắt đầu với câu chuyện Thiên Chúa làm con người trở thành những người cộng tác trong công trình sáng thế. Và Đức Kitô đã cho các môn đệ tham gia công trình cứu chuộc của Người. Một trách nhiệm cao cả đã được đặt lên vai chúng ta. Một vinh dự cao quí cũng đã được trao cho chúng ta. Chúng ta có trách nhiệm về thế giới này của Thiên Chúa và về mỗi người khác. Chúng ta là những người quản lý tạo vật và là người đồng cộng tác với Đức Kitô.
Trong thời kỳ chiến tranh Triều Tiên, một ngôi làng bị pháo kích nặng nề. Giữa làng có một ngôi nhà thờ, trước nhà thờ có một tượng Đức Giêsu được đặt trên một cái bệ. Nhưng sau khi khói lửa của trận pháo kích tan đi, người ta chỉ còn thấy cái bệ, còn pho tượng thì biến đâu mất. Những người lính đồng minh cố gắng đi tìm và cuối cùng cũng tìm thấy tượng Chúa bị văng khỏi đó một khoảng khá xa. Tuy nhiên hai cánh tay của Chúa đã bị hỏng mất. Họ cung cấp một chiếc máy bay để chở pho tượng về Mỹ cho thợ làm lại hai cánh tay. Nhưng cha xứ từ chối. Cha bảo cứ đặt pho tượng lên bệ như cũ, phía dưới viết thêm hàng chữ: “Các con thân mến, hãy cho ta mượn đôi cánh tay của các bạn”.
Câu chuyện trên giúp ta hiểu sứ điệp của bài Tin Mừng hôm nay: Đức Giêsu kêu gọi các tông đồ tham gia công việc của Ngài. Ngài chia sẻ sứ mạng với họ. Ngài ban cho họ chính quyền năng và uy tín của Ngài. Rồi Ngài sai họ đi loan truyền Tin Mừng. Thực ra, họ chỉ là những người chài lưới, cả tài năng lẫn đức độ đều không có bao nhiêu. Nhưng Ngài vẫn chia sẻ sứ mạng cho họ, vì họ sẽ thi hành sứ mạng không phải bằng sức riêng của họ, mà bằng ơn Chúa.
Ngày nay, có nhiều đấng có thẩm quyền vẫn e ngại không xẻ công việc cho giáo dân; mặt khác, nhiều giáo dân cũng e ngại không dám gánh trách nhiệm trong Giáo Hội. Cả hai phía đều tính toán thành bại dựa trên khả năng của con người. Nhưng đó không phải là tính toán của Thiên Chúa.
Hãy nhớ rằng Sách Thánh bắt đầu bằng chuyện Thiên Chúa giao cho loài người quyền hợp tác với Ngài trong công cuộc sáng tạo vũ trụ; bài đọc 1 hôm nay kể chuyện Thiên Chúa giao cho Amos sứ mạng làm ngôn sứ cho dân Israel mặc dù ông chỉ chuyên nghề chăm sóc cây sung; và bài Tin Mừng kể chuyện Đức Giêsu sai 12 tông đồ vốn là những dân chài sứ mạng truyền giáo.
TẠI SAO CHÚA GIÊSU SỚM SAI CÁC TÔNG ĐỒ ĐI RAO GIẢNG…?
Bài chia sẻ tuần trước đã nói đến sự kiện Chúa Kitô chẳng những không nản trước tình trạng cứng lòng tin nơi dân làng của Người, trái lại, Người lại còn hăng say đi rao giảng ở các làng lân cận đó nữa. Chưa hết, trong bài Phúc Âm hôm nay, Người thậm chí còn sai cả các môn đệ của Người đi làm việc rao giảng như Người nữa. Vấn đề được đặt ra ở đây là, chính bản thân Người còn chưa làm cho dân chúng tin tưởng Người, thì thành phần mới theo Người chẳng được bao lâu, thành phần vì thể chưa hiểu được Người là mấy, làm sao có đủ khả năng và tư cách làm chứng cho Người, nhờ đó làm cho Người được nhận biết và yêu mến? Thật thế, sự kiện Chúa Kitô sai các môn đệ sớm đi rao giảng đây đã cho thấy chẳng những tính cách khẩn trương của việc truyền giáo mà còn cho thấy cả cốt lõi của vấn đề thừa sai nữa.
Nếu Lời Thần Linh nhập thể để mạc khải cho loài người biết Mầu Nhiệm Thần Linh bằng chính ngôn ngữ và hành động của một Con Người là Chúa Kitô, thì việc Chúa Kitô sai các tông đồ đi cũng là cách Người muốn dùng chính những con người thuần nhân tầm thường hơn Người để nói với các thành phần dân chúng bình dân. Chính vì thế các vị thừa sai đích thực và trung thực còn được gọi là thành phần ngôn sứ của Thiên Chúa, của Chúa Kitô, Đấng đã được Cha sai thế nào cũng sai các tông đồ như vậy. Như thế, nếu bản chất của Giáo Hội lữ hành là truyền giáo, như Công Đồng Chung Vaticanô II đã ý thức và tuyên ngôn trong Sắc Lệnh Truyền Giáo “Ad Gentes” (đầu đoạn 2), thì ơn gọi của Kitô hữu không phải chỉ là ơn gọi nên thánh mà còn là ơn gọi thừa sai, đúng hơn là một ơn gọi duy nhất lưỡng diện mà người viết vẫn diễn tả bằng cụm từ “sống thánh chứng nhân”. Đúng thế, nếu khi lãnh nhận bí tích rửa tội, con người đã được thánh hóa, được nên thánh, đã là thánh trong Chúa Kitô và bởi Thần Linh của Người, thì đời sống của Kitô hữu chẳng qua là để thể hiện hay bộc lộ bản chất thánh thiện của một người con Thiên Chúa ra mà thôi. Để rồi, càng trung thực phản ảnh bản chất thánh thiện của mình là con Thiên Chúa, bằng một đức mến trọn hảo, được thể hiện ở một nội tâm liên lỉ khao khát Chúa và sẵn sàng tuân hợp ý Chúa ở mọi nơi và trong mọi lúc, cũng như ở một cuộc đời hăng say hoạt động tông đồ, dấn thân phục vụ cho đến tận tuyệt, đến độ hoàn toàn phản ảnh Đấng Thiên Sai Tử Giá.
Vâng, “thừa sai” là gì, nếu không phải là được sai đi, với tư cách là “tông đồ”, một danh xưng theo tiếng Hy Lạp là apostolos có nghĩa là “được sai đi”. Vậy nếu người được sai đi để làm việc cho người sai phái thì họ sẽ được người sai phái cung cấp cho có đủ những gì cần thiết để làm việc cho họ và chu toàn sứ mệnh được ủy thác. Đó là trường hợp của vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô, dù không được ở từ đầu đến cuối với Chúa Kitô như các Nhóm 12 Vị Tông Đồ, trái lại, còn có một quá khứ hoàn toàn phản lại Kitô giáo, nhưng cũng đã chớp nhoáng trở thành một vị tông đồ, và là một vị có thể nói nổi nhất trong thành phần Tông Đồ, đến nỗi, danh xưng tông đồ đã được đồng hóa với con người Phaolô, ở chỗ, khi nghe trống đến danh xưng Thánh Tông Đồ, dù không nói rõ tên vị nào, cũng hiểu là Thánh Phaolô. Vậy Thánh Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô đã được Đấng Sai Phái ngài trang bị cho ngài ra sao, nếu không phải, như thánh nhân nói đến trong thư gửi giáo đoàn Êphêsô ở bài đọc thứ hai, đó là “Thiên Chúa đã ban cho chúng ta ơn khôn ngoan để hoàn toàn hiểu được mầu nhiệm, hiểu được dự án Thiên Chúa đã ấn định nơi Chúa Kitô, một dự án được thực hiện khi thời gian viên trọn, tức là làm cho tất cả mọi sự trên trời dưới đất qui phục quyền thủ lãnh của Chúa Kitô”.
Trong bài đọc thứ nhất chúng ta cũng thấy trường hợp tương tự của tiên tri Amos, vị đã bị tư tế Amaziah ở Bethel đuổi đi về đất Do Thái, chứ không cho nói tiên tri ở Bethel của vị tư tế này. Tiên tri Amos đã nói với vị tư tế ấy rằng: “Tôi không phải là tiên tri, tôi cũng không thuộc về nhóm các tiên tri; tôi là một mục tử và là một người hái sung. Chúa đã chọn tôi là một kẻ đang chăn dắt thú vật khi phán cùng tôi rằng ngươi hãy đi nói tiên tri cùng dân Do Thái của Ta”. Chính việc tuân phục và phó thác làm theo ý Đấng đã sai phái mình là tất cả nghệ thuật truyền giáo và là tư cách đích thực của một vị thừa sai, thành phần ra đi để hoàn tất ý Đấng Sai Phái mình, và cũng nhờ tinh thần phục vụ vô tư này họ mới có thể gặt hái được thành quả của việc truyền giáo, ở chỗ làm cho những ai gặp họ đếu thấy rằng họ thực sự được sai đi, để rồi qua họ, Chúa Kitô là Đấng Sai Phái họ được nhận biết và yêu mến.
Riêng các vị tông đồ tiên khởi trong bài Phúc Âm hôm nay đã được Đấng sai phái các vị trang bị cho như thế nào để các vị có thể thi hành vai trò thừa sai của các vị trong cuộc truyền giáo đầu tiên? Nếu không phải, như Chúa Kitô minh định trong bài Phúc Âm, đó là quyền năng khu trừ thần ô uế, và cùng với quyền năng này, Người mong muốn các vị hãy sống tinh thần phó thác khó nghèo, chỉ chuyên lo trước hết và trên hết chu toàn ý định của Đấng sai phái mình (x Jn 4:34). Được trang bị trong ngoài như thế, các vị thừa sai có thực hiện những gì Vị Sai Phái của các vị mong muốn chăng? Ở cuối bài Phúc Âm, Thánh Ký Marcô đã thuật lại thế này: “Các vị ra đi rao giảng việc cần phải ăn năn thống hối. Các vị đã khu trừ nhiều quỉ, xức dầu bệnh nhân và chữa lành nhiều người”. So sánh thành quả truyền giáo với những gì các vị tông đồ thừa sai được trang bị, chúng ta thấy chúng tương hợp với nhau. Thứ nhất, nhờ được Đấng sai phái ban cho quyền năng trừ thần ô uế mà các vị đã có thể “khu trừ nhiều quỉ” và chữa lành bệnh nạn tật nguyền. Thứ hai, nhờ tinh thần phó thác khó nghèo chỉ chuyên tâm rao giảng mà các vị mới có thể “rao giảng việc cần phải ăn năn thống hối”.
Qua hai yếu tố trang bị vị thừa sai như thế, chúng ta thấy một bởi Chúa ban, đó là quyền trừ thần ô uế, và một bởi vị thừa sai, là tinh thần phó thác khó nghèo phục vụ. Đặt trường hợp một vị thừa sai không có tinh thần tông đồ cần thiết, chỉ có quyền trừ thần ô uế thôi, các vị có khả năng trừ tà ma ác qủi được chăng? Thưa không. Như đã xẩy ra ở trường hợp một em bé trai bị thần câm ám song các môn đệ của Chúa Giêsu không thể nào trừ nổi, sau đó được Chúa Giêsu cho biết thứ quỉ này chỉ bị khu trừ bằng lời cầu nguyện mà thôi (x Mk 9:18,29). Thật ra, tự mình, quyền năng của Chúa có thể trừ tà thần ác quỉ dễ như chơi, song quyền năng này, một khi ở nơi vị thừa sai, chỉ có thể phát sinh tất cả mãnh lực của mình khi nó hoàn toàn chiếm đoạt con người thừa sai ấy, đến độ biến con người thừa sai này làm phương tiện để Đấng Sai Phái các vị có thể tỏ mình ra qua các vị. Chỉ có tinh thần phó thác khó nghèo phục vụ như Chúa Kitô Tử Giá, con người thừa sai mới được thông phần quyền toàn năng trời đất của Chúa Kitô Phục Sinh (x Mt 28:18), một thứ quyền năng làm cho chính họ thắng vượt và khống chế mọi sự dữ (x Mk 16:17-18), một thứ quyền năng thực sự mạnh hơn cả sự chết, mãnh liệt như chính chân lý giải phóng (x Jn 8:32).
Mùa Thường Niên được chia làm hai giai đoạn, giai đoạn sau Mùa Giáng Sinh và giai đoạn sau Mùa Phục Sinh. Như hai tuần trước đã chia sẻ, giai đoạn Mùa Thường Niên sau Giáng Sinh nhắm đến chủ đề Mầu Nhiệm Chúa Kitô – Sự Sống Tỏ Hiện, và giai đoạn Mùa Thường Niên sau Phục Sinh nhắm đến chủ đề Mầu Nhiệm Chúa Kitô – Sự Sống Tái Sinh. Việc phân biệt này rất cần để có thể hiểu được việc Giáo Hội chọn lựa và sắp xếp Phụng Vụ Lời Chúa, nhờ đó hiểu được ý nghĩa của chiều hướng Lời Chúa trong giai đoạn Mùa Thường Niên. Nếu Phụng Vụ Lời Chúa của Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh được hiểu theo chủ đề Mầu Nhiệm Chúa Kitô – Sự Sống Tỏ Hiện, ở chỗ, chính Chúa Kitô tỏ bản thân của Người ra cho dân Do Thái nhận biết Người, thì Phụng Vụ Lời Chúa của Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh xoay quanh chủ đề Mầu Nhiệm Chúa Kitô – Sự Sống Tái Sinh, một Sự Sống hay một Chúa Kitô được tái sinh qua những chứng từ của Giáo Hội về Người, những chứng từ được thể hiện qua các hoạt động truyền giáo trước hết và trên hết của thành phần thừa sai tông đồ.
Vẫn biết Sự Sống Tái Sinh đây, sau khi Chúa Kitô Thăng Thiên về cùng Cha, được nhắm đến Dân Ngoại, đến việc truyền giáo “ad gentes” (nhan đề của sắc lệnh truyền giáo của Công Đồng Chung Vaticanô II được ban hành ngày 7/12/1965, ngay trước ngày Công Đồng bế mạc 8/12/1965, sau 3 năm diễn tiến từ ngày 11/10/1962), tức việc truyền giáo cho muôn dân, một việc truyền giáo đã được Sách Tông Vụ thuật lại, nhưng lại là việc truyền giáo, như Chúa Kitô căn dặn các vị tông đồ, phải được “bắt đầu từ Giêrusalem”, và các vị sau đó phải làm chứng về Người “ở khắp Giuđêa và Samaria, thậm chí cho tới tận cùng trái đất” (Acts 1:8). Trong lời căn dặn cuối cùng này của Chúa Kitô, chúng ta không thấy Người nói đến vùng Galilêa là nơi xuất thân của Người, phải chăng là vì nơi Người gặp gỡ các vị sau khi Phục Sinh để lên trời đã là ở chính Galilêa rồi (x Mt 28:7,16), thì kể như Galilêa là khởi điểm, là điểm phát xuất truyền giáo, nhất là vì miền Galilêa đã được chính bản thân Người rao giảng, lại còn là nơi Người đã sai các môn đệ của Người đi rao giảng nữa?
(Suy niệm của Br. B.M.Thiện Mỹ, CRM)
LỜI CHÚA:
Bài đọc1: Am.7,12-15: Hãy đi nói tiên tri cho dân Ta.
Bài đọc 2: Ep.1,3-14: Ngài đã chọn chúng ta trong Ngài trước khi tạo dựng thế gian.
Phúc âm: Mc.6,7-13: Người bắt đầu sai các ông đi.
SUY NIỆM:
Washburne mô tả tướng Grant đã tiến hành chiến dịch trong cuộc nội chiến như thế nào: “Tất cả phụ thuộc vào khả năng di chuyển nhanh. Điều quan trọng với tướng Grant là mang hành lý càng nhẹ càng tốt. Ông không mang theo cận vệ, cũng chẳng có áo khoác ngoài, ngay cả một áo sơ mi sạch”. Lúc đó tôi ở với ông và biết rằng toàn bộ hành trang của ông trong 6 ngày chỉ là một bàn chải đánh răng. Ông ăn uống như những binh sĩ thường nhất, ngủ trên đất và khỏi cần có gì để đắp ngoài trời.
Sứ vụ tông đồ của con dân Thiên Chúa chắc chắn còn quan trọng hơn công tác đặc biệt của tướng Grant nhiều lắm. Chính vì thế Chúa Giêsu dặn dò các tông đồ rất kỹ lưỡng: Đi đường các con đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, đừng mặc hai áo nhưng có thể cầm gậy và chân đi dép. Những điều Chúa căn dặn ở đây ngoài tính cách tự nhiên cho gọn nhẹ, nó còn mang yếu tố siêu nhiên giúp cho các tông đồ trở nên giống Đức Vua Giêsu nghèo nàn, đó là nhân đức cần thiết làm cho ta dễ dàng vươn tâm hồn lên cùng Thiên Chúa, đồng thời cũng là gương sáng cho mọi người biết thoát ly của cải vật chất, tránh xa sự ham hố tiền bạc là thứ dẫn đến hư hỏng ở trần gian. Những hành trang của các tông đồ là chính Đức Kitô, Lời Chúa, quyền phép trên các thần ô uế, đó là linh dược vô cùng quí giá để thánh hoá tha nhân và cứu các linh hồn.
Chúng ta biết rằng về cách ăn mặc của người Do Thái thời Chúa Giêsu có 5 trang phục:
Những hành trang đơn giản Chúa dạy môn đệ như thế là Chúa có ý muốn cho các Ngài phải tin cậy vào Thiên Chúa và không nên quan tâm đến vật chất. Sứ mệnh tông đồ là đi ban phát ơn thánh chứ không phải để kinh doanh thương mại. Tuy nhiên chúng ta thấy có vẻ quá là thiếu thôn bấp bênh so với thực tế bây giờ và nó có thể làm cho vị tông đồ phải lo lắng nhiều điều. Nhưng đi vào thực tế hoàn cảnh thời đó thì không có gì phải ngạc nhiên: Ngày xưa ở bên Đông Phương, việc ân cần tiếp đãi khách lạ được xem là bổn phận thiêng liêng. Khi có người lạ vào làng, người ấy không cần tìm nơi trú ngụ vì chính làng ấy có nhiệm vụ tiếp đãi họ. Dầu vậy Chúa Giêsu dậy các môn đệ của Ngài phải tìm nơi ở xứng đáng. Nơi nào kém đạo đức, kém lịch thiệp chắc chắn sẽ gây trở ngại cho chức vụ. Sứ giả của Chúa phải cẩn thận trong việc tiếp rước để khỏi trở ngại cho công tác của mình. Đối lại nơi nào tốt lành thì ở lại đó cho tới khi ra đi, chứ không phải là đi hết chỗ nọ đến chỗ khác để cho thiên hạ tiếp đón, chiều chuộng, ăn chơi. Ngôn sứ của Chúa không bao giờ để cho người ta có ấn tượng mình dụ dỗ dân chúng để được thoả mãn cá nhân. Như vậy dấu hiệu của môn đệ Chúa Giêsu là sống thật đơn giản, và phải luôn luôn đem ơn phước đến cho người khác chứ không mong người ta phục dịch hầu hạ mình.
Sau khi hoàn tất bài học công tác chuẩn bị, tiếp đến là công tác mục tiêu chính sự, công tác này nhằm hoàn thiện hoá tha nhân trên cả phương diện tinh thần lẫn thể xác, tức là rao giảng sự ăn năn thống hối để đổi mới tâm hồn và chữa lành các bệnh tật thân xác. Công việc ở đây rất là tế nhị, khuyên bảo người khác ăn năn tức là gián tiếp nói họ tội lỗi, có tội mới phải ăn năn tội. Lúc đó sẽ chạm tới lòng tự ái sâu thẳm, đụng đến “cái tôi vĩ đại” của lòng người. Từ đó tâm hồn họ nảy sinh nỗi buồn, đôi khi xa cách, thậm chí có người còn chống lại chính Chúa Giêsu Kitô và đóng đinh Ngài vào Thập Giá một cách oan nghiệt.
Theo chân Thập Giá Chúa Giêsu chúng ta cũng không thể khác hơn được, nhưng tin tưởng vào sức mạnh của Thiên Chúa, các vị tông đồ sẽ vượt qua đau khổ để đưa các linh hồn về với Chúa. Đó là một sự giải phóng toàn diện, xoay trở cả cuộc đời người tội lỗi về với Chúa, đem sự lành mạnh và sức khoẻ cho cả xác lẫn hồn. Điều này rất ý nghĩa khi các tông đồ xức dầu cho các bệnh nhân. Đời xưa dầu được xem là môn thuốc trị bá bệnh cho thân thể. Nhất là khi tôi tớ Chúa xức dầu, Chúa Giêsu đã ban cho họ một quyền phép mới trong cách trị bệnh cổ truyền đó. Quyền phép mới của Thiên Chúa trở thành giá trị trong mọi việc thông thường khi người ta có Đức Tin. Vậy 12 tông đồ đã đem đến cho nhân loại thông điệp ơn cứu rỗi. Và cho đến nay đó vẫn là nhiệm vụ hàng đầu của Giáo Hội và mọi người Kitô hữu.
Chúng ta có thể thi hành sứ vụ tông đồ dưới nhiều hình thức:
Bằng cầu nguyện đặc biệt là Thánh lễ Misa.
Bằng khuyên dậy hay những lời xây dựng.
Bằng gương sáng nhân đức của bản thân.
Bằng việc làm trong đời sống thường ngày.
(Suy niệm của Lm. Philip M. Thanh Cao, CRM)
Có lẽ không ai trong chúng ta sống mà lại không có những thao thức, những khát vọng. Khi được dệt vào tấm thảm của lịch sử nhân loại, Chúa Kitô cũng có những thao thức, những khát vọng. Niềm khát vọng của Chúa Kitô đó chính là một đoàn chiên, một chủ chăn; thao thức của Chúa Kitô đó là giáo hội của Chúa mỗi ngày có thêm đồng, thêm lúa, thêm thợ gặt.
Chúa Kitô có một ước vọng rất lớn đó là thiết lập vương quốc của Cha Ngài. Một công việc quá lớn lao, nhưng Ngài lại dùng những cộng tác viên thật nhỏ bé. Bằng cuộc sống của con người, Chúa Kitô đã chia sẻ tất cả với chúng ta. Cha của Ngài là Cha của chúng ta. Mẹ của Ngài lài Mẹ của chúng ta, vậy sứ mạng của Chúa Kitô, thao thức của Chúa Kitô lẽ nào lại không phải là sứ mạng và thao thức của mỗi người chúng ta, những Kitô Hữu, những chi thể của nhiệm thể Chúa Kitô?
Công trình truyền giáo to lớn, nhưng Chúa muốn dùng những dụng cụ bé nhỏ như chúng ta. Chúa sai chúng ta đi để thực hiện khát vọng của Ngài. Mọi người trong mỗi khả năng, hoàn cảnh và ơn gọi đều được mời gọi sống quảng đại cho Tin Mừng. Mang trong mình thao thức của Chúa Kitô các nhà truyền giáo được mời gọi dấn thân một cách quyết liệt, không quản ngại những khó khăn, dù hiểm nguy, đói khát; hiểu lầm bắt bớ hay tù đày để rao giảng, để kể chuyện Chúa Giêsu cho mọi người.
Để thực hiện thao thức của Chúa Kitô trong bối cảnh ngày hôm nay, trước hết mời gọi chúng ta hãy xem lại cung cách sống tin mừng. Sống đạo chắc hẳn đòi hỏi chúng ta một sự đáp trả quyết liệt hơn là chỉ theo đạo! Việc sống đạo của chính mình còn chưa quan tâm thì làm sao có thể quan tâm đến đời sống đạo của những anh chị em khác!.
Linh đạo truyền giáo và rao giảng tin mừng của Thánh Phụ Đaminh đó là: “Contemplare, contemplata aliis tradere – chiêm niệm và mang kết quả của sự chiêm niệm đó đến cho tha nhân.” Khi nhìn đồng lúa chín bao la mà thợ gặt thì ít, Chúa Giêsu đã không truyền cho các môn đệ phải dấn thân đi rao giảng tin mừng ngay, nhưng Chúa Giêsu đã bảo hãy cầu nguyện để xin chủ ruộng sai thợ đến. Vị thánh Tiến Sĩ trẻ của Giáo hội, Thánh Nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu, cả cuộc đời không bước chân ra khỏi bốn bức từng Dòng Kín Carmêlô để đi truyền giáo, nhưng lại là vị thánh bổn mạng của các xứ truyền giáo qua đời sống chiêm niệm. Vì chỉ bằng đời sống cầu nguyện, nhà truyền giáo mới có thể công bố Tin Mừng Cứu Độ một cách đáng tin tưởng.
Lời mời gọi và sai đi truyền giáo, không gì khác hơn đó chính là lời mời gọi sống đức tin của mình. Lời mời gọi đó chính là thước đo niềm tin của chúng ta nơi Đức Kitô và tình yêu của chúng ta dành cho Ngài. Mang Chúa đến cho tha nhân, thì có lẽ nào trong cuộc sống của chúng ta lại vắng bóng Chúa Kitô? Vì thế, truyền giáo chính là một cuộc trở về của mỗi cá nhân; trở về trong cung cách sống đạo; trở về để gặp gỡ Đức Kitô trong cuộc sống. Chưa gặp được Chúa Kitô, chưa biết Ngài, và nhất là chưa yêu mến Ngài, biết đâu khi rao giảng về Ngài, chúng ta lại rao giảng về một Chúa Kitô nào đó khác với Chúa Kitô của Phúc âm!.
Gia đình chính là môi trường truyền giáo hữu hiệu và thực tế nhất, nơi mà hạt giống Lời Chúa cần được gieo vãi trước hết; nơi được coi là chủng viện đầu tiên đào tạo và phát xuất những thợ gặt lành nghề trong cánh đồng truyền giáo. Thế nhưng, liệu các gia đình Công giáo Việt Nam ngày hôm nay còn thực sự là những mái ấm, hoặc còn đủ ấm để Lời Chúa có cơ hội nảy mầm và phát triển?
Ngày 15 tháng 07 năm 2011, nguồn tin từ Kolkata, Ấn Độ có đăng một mẩu chuyện về cái chết của một người Mẹ Công Giáo 94 tuổi, đó là bà Elizabeth Anikuzhikat il. Bà có tất cả 15 người con, 8 trai và 7 gái. Người con trai lớn nhất là một Giám Mục, 5 người con trai khác là Linh mục và 4 cô con gái là Nữ tu của hai Dòng Thánh Tâm và Salêgiêng. Gia đình, cung thánh của sự sống và tình yêu, chính là chiếc nôi nuôi dưỡng và làm nảy sinh những ơn gọi truyền giáo trong Giáo hội.
Lời nói như gió lung lay, gương bày như tay lôi cuốn. Sau hơn hai ngàn năm, nhưng ánh sáng của lời Chúa Kitô chưa lôi cuốn được nhiều người, phải chăng vì trong đêm đen này còn thiếu nhiều những ánh trăng sao phản chiếu ánh sáng của Chúa Kitô!
Vậy Lời Chúa một lần nữa mời gọi và thúc bách chúng ta cùng nhau nhìn lại sứ vụ loan báo tin mừng, cùng nhau khơi dậy niềm thao thức truyền giáo, cùng kể cho nhau nghe về Chúa Giêsu. Bắt đầu từ trong môi trường gia đình, trong giáo xứ, trong cộng đoàn, chúng ta hãy kể cho người khác về Chúa Giêsu, kể bằng lời nói, bằng cuộc sống, bằng những phương thế thích hợp với hoàn cảnh và cuộc sống của mỗi người.
Chớ gì mỗi Kitô hữu là một thợ gặt, mỗi gia đình, mỗi giáo xứ, mỗi môi trường sống là một cánh đồng. Được như thế, thao thức của Chúa Kitô sẽ trở thành hiện thực, Giáo hội Chúa mỗi ngày có thêm đồng, thêm lúa, thêm thợ gặt. Vậy chúng ta hãy đi, hãy kể chuyện Chúa Giêsu cho mọi người. Và đừng quên, xin Mẹ Maria cùng đồng hành với chúng ta. Amen.
(Suy niệm của Lm. Minh Vận, CRM)
Đại Tướng Grant là Tổng Chỉ Huy quân đội trong trận nội chiến và sau này trở thành Tổng Thống Hoa Kỳ thứ 18 với hai nhiệm kỳ. Đại Tướng sống rất đơn sơ, như Ngoại Trưởng Washburne đã viết về ông như sau: “Khi Đại Tướng Grant từ giã Bộ Tổng Tham Mưu để đi tranh cử Tổng Thống, ông chẳng mang theo sắc phục “Lon Tướng” và những vật dụng mà một Tướng Lãnh thường mang theo. Ông chỉ muốn làm sao để có thể di chuyển cho nhẹ nhàng. Vì thế, điều quan trọng đối với ông là càng mang theo ít đồ càng tốt. Ông chẳng cần có cận vệ đi theo, chẳng cần có lừa ngựa để di chuyển, cũng chẳng mang theo áo khoác hoặc nhiều y phục để thay đổi. Tất cả những thứ mà ông mang theo cho cuộc vận động 6 ngày là một bàn chải đánh răng. Tôi đi theo ông, nên tôi biết rõ lắm. Ông sống như một anh binh nhì, ăn như lính, ngủ như lính, lấy trời xanh làm màn che”.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, khi Chúa Kitô sai các Tông Đồ đi rao giảng, đi vận động cho Tin Mừng Nước Trời, Ngài cũng truyền cho các ông đừng mang theo nhiều đồ kềnh càng, không mang bị mang bánh, không mang theo tiền của, không mang hai áo choàng… để các ông khỏi bận tâm vào của cải, khỏi bị những phù vân đời này ràng buộc chi phối, làm ngãng trở sứ mạng Tông Đồ cao cả Chúa ủy thác.
Tất cả chúng ta đều cũng được Chúa tuyển chọn, như Ngài đã tuyển chọn các Tông Đồ. Thánh Phaolô đã viết trong thư gởi Giáo Đoàn Ephesô khi nói với chúng ta rằng: “Thiên Chúa đã tuyển chọn chúng ta trong Chúa Kitô trước khi tạo dựng thế gian, để chúng ta nên thánh thiện và tinh tuyền trước nhan thánh Ngài trong tình yêu thương” (Eph 1:4).
Ngay từ muôn thế hệ, Chúa đã biết chúng ta, đã yêu thương và tuyển chọn chúng ta, để chúng ta sinh vào đời, làm người rao giảng Tin Mừng, làm chứng nhân cho Chúa, như lời Người đã phán trong sách tiên tri Isaia: “Trước khi tác tạo nên con trong lòng thân mẫu, Cha đã tường hiểu con; trước khi con ra khỏi lòng mẹ, Cha đã thánh hiến con và đặt con làm tiên tri rao truyền danh Cha cho các dân tộc” (Jer.1:4-5). Chúa còn phán: “Cha đã yêu thương con bằng một tình yêu vĩnh cửu; nên Cha đã dủ tình thương mà lôi kéo con lại với Cha” (Jer. 31:3).
Để đáp lại tình Chúa yêu thương đã tuyển chọn chúng ta; để chu toàn sứ mạng làm Tông Đồ, làm chứng nhân cho Chúa giữa trần gian; cũng như các Tông Đồ, Chúa muốn chúng ta sống thanh thản siêu thoát, không bị ràng buộc vào những của cải vật chất, không bị trói buộc và nô lệ bởi bất cứ một phù vân nào ở đời này; để dễ dàng chuyên lo thực thi sứ mạng Chúa ủy thác và đạt tới cùng đích của cuộc sống làm con cái Chúa.
Dĩ nhiên, bao lâu còn sống trên trần gian, chúng ta còn phải sử dụng tiền của, vật dụng, tiện nghi cho những nhu cầu thân xác hoặc làm việc tông đồ; chúng ta cũng cần phải có những phương tiện vật chất trợ giúp, thiếu nó chúng ta cũng khó chu toàn được nhiệm vụ. Nhưng Chúa truyền dạy chúng ta đừng quá lệ thuộc vào những thứ đó, đến nỗi chúng ta trở nên nô lệ cho vật chất làm choán đoạt tâm trí, kéo ghì con người chúng ta xuống, khó vươn mình lên cao được, khiến chúng ta không thể: “Tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người trước hết”.
Các Thánh đã quá hiểu sự ràng buộc bởi của cải vật chất, làm ngãng trở đường tiến tới cùng đích và cản ngăn sứ mạng Tông Đồ, nên các ngài đã khước từ của cải đời này; hoặc phải dùng của cải đời này mà như không dùng, tức là không để cho mình bị chúng chiếm đoạt, đến nỗi trở thành nộ lệ cho những thứ phù ảo đó.
Nhiều vị Thánh, như Thánh Phanxicô Khó Khăn chẳng hạn, đã bán hết của cải, phân phát cho người nghèo, hoặc từ bỏ chức quyền sang trọng để sống một đời nghèo nàn, tầm thường, bình dị, thoát ly khỏi những bon chen trần thế, để dễ dàng thoát ly khỏi những vật chất và ngay cả chính bản thân mình, hầu mau chóng đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu của ơn gọi làm con cái Chúa và chu toàn được sứ mạng Tông Đồ làm vinh danh Chúa.
Trái lại, nếu chúng ta không vươn tâm hồn lên khỏi cái bản ngã hư hèn, chúng ta cũng chẳng thể làm được ích lợi gì cho tha nhân, và cũng chẳng thể làm được lợi ích gì cho vinh danh Chúa, mà ngay cả phần rỗi chúng ta cũng khó đạt tới, chẳng hạn như câu truyện sau đây:
Một ông bõ giúp việc trong một giáo xứ nọ ở Miền Bắc Việt Nam, do một Cha Xứ kể lại: “Ông sống trong Nhà Xứ bằng một đời sống khô khan nguội lạnh, hằng ngày với các công việc thông thường như dọn nhà, xay thóc, giã gạo… Cuộc sống cũng nghèo khó đơn bạch, nhưng ông lại có lòng ham mê tiền của, chỉ lo tích góp từng đồng bạc không dám tiêu dùng và cũng chẳng giúp đỡ ai, ông chỉ bo bo như thần giữ của, cho đến khi ông lâm bệnh gần chết, mà cũng chẳng sao xưng tội được để dọn mình ra trước tòa Chúa, khuyên bảo mấy cũng vô ích… Mắt ông cứ đăm chiêu nhìn lên xà nhà, nơi treo bó quần áo rách của ông và lòng thì gắn vào mớ giấy bạc ông đã bó chặt vào đùi ông, mãi sau khi chết người ta mới khám phá ra. Thật thẳm hại thay con người mê tiền của!”
Kết Luận
Xin Chúa ban cho chúng ta biết chuyên lo một điều khẩn thiết là: “Tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người trước tiên”, tức là biết chu toàn sứ mạng Chúa ủy thác làm tông đồ vinh danh Chúa, tìm cầu Ơn Cứu Độ và hạnh phúc vĩnh cửu cho chính mình và cho các linh hồn trước hết mọi sự.
Để đạt được điều ước mong trên, Chúa đòi chúng ta phải siêu thoát khỏi mọi ràng buộc và nô lệ bởi những phù ảo trần thế như tiền của, danh vọng, chức quyền, hầu dễ dàng vươn lên với Chúa.
(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Sau khi bị dân chúng ở Nazaréth chối từ, Chúa Giêsu đi rao giảng ở vùng phụ cận. Đoạn 6:6b-13 nằm trong bối cảnh những sinh hoạt cuối cùng của Chúa Giêsu ở Galilêa (6:6b-8:26), mà việc trước hết là gởi các môn đệ đi (6:6b-13), và họ sẽ trở lại tường thuật cho Người những việc họ đã làm (6:30). Cấu trúc của đoạn: 1- Chúa sai các môn đệ đi trong khi gọi họ đến với Người và ban cho họ quyền năng (6:7); 2- Chỉ thị cho họ những gì họ phải mang theo mình (6:8-9); 3- Cách thức họ phải cư xử (6:10-11) và lời của thánh sử về việc họ đã thi hành bổn phận của họ như thế nào (6:12-13).
Đây là lần đầu tiên các môn đệ được sai đi. Khi thiết lập nhóm Mười Hai, Chúa Giêsu đã nhắm đến hai điều chính: là “ở với Người” và “để sai đi” (3:14). Người đã nói với những người đầu tiên được kêu gọi là họ sẽ trở nên những người đánh cá con người (x. 1:17). Sứ mạng của nhóm Mười Hai chứng tỏ một cách mới mẻ quyền năng của Chúa Giêsu. Người kêu họ đến với Người, sai họ đi, ban cho họ quyền năng và chỉ định cho họ cách hành xử. Họ đi rao giảng và làm chứng không phải cho tin mừng của họ, mà của tin mừng đã lãnh nhận từ Người (x. Mt 18:16). Việc xua trừ ma quỉ trước đây là của Người, bây giờ việc nầy được trao phó cho họ để thi hành (x. 1:23-27.34.39; 3:11-12.22; 5:1-20; 3:15).
Chỉ thị trước tiên là các môn đệ không được có gì cả, ngoại trừ chỉ một cây gậy, đôi dép và một cái áo là những thứ cần thiết của người đi trên đường (c. 9). Họ không mang theo lương thực cần thiết cho bản thân, mà là sứ điệp và quyền hành nhân danh Người để nuôi sống cách thiêng liêng người khác. Phù hợp với điều nầy Phêrô đã nói với người què: “Vàng và bạc tôi không có. Nhưng tôi cho anh điều tôi có là nhân danh Chúa Giêsu Kitô Nazaréth, anh hãy bước đi” (Cvtđ 3:6). Tiếp đến là cách hành xử nếu như người ta từ chối đón nhận sứ điệp họ mang đến. Với cử chỉ giũ bụi khỏi dép các môn đệ cho họ thấy là giữa họ và những người không đón nhận họ không có một điểm chung và quan hệ nào cả (x. Cvtđ 13:51; 18:6).
Sứ mạng của các môn đệ xem ra nằm ngoài thời gian và không gian. Cũng không có một chỉ dẫn đặc thù nào về nơi chốn và thời gian mà họ được sai đến. Tuy nhiên quan hệ giữa họ với Chúa Giêsu được xác định rõ ràng: Người sai họ đi và họ sẽ trở về tường thuật với Người những điều họ đã làm. Như thế, sứ mạng của họ lệ thuộc hoàn toàn vào Người. Marcô không cho biết nội dung của sứ điệp, mà hành động đi rao giảng của họ. Mục đích của việc nầy làm làm cho người ta hoán cải và trở về với Thiên Chúa. Sứ điệp nầy tương tự với sứ điệp Gioan Tẩy Giả đã rao giảng (1:4); kèm theo đó, họ xua trừ ma quỉ và chữa bệnh họ. Phần Chúa Giêsu, Người kêu gọi không chỉ sám hối mà cả tin vào Tin Mừng nữa (1:14-15).
Từ khi được kêu gọi làm ngư phủ của con người (1:7) đến khi được thiết lập thành nhóm Mười Hai (3:14-15), đây là lần đầu tiên họ được sai đi để học kinh nghiệm bản thân về sứ mạng của họ. Họ lệ thuộc vào Chúa Giêsu, Đấng kêu gọi họ, không chỉ như là môn đệ, mà là tông đồ, người được sai đi.
“Hôm nay khai mạc đại hội Truyền giáo tại nhà nguyện dòng Thánh Phaolô. Mình phu trách phần thuyết trình. Lần đầu tiên trong đời, mình đăng đàn trước một cử toạ có nhiều người tai to mặt lớn như thế. Mình bắt đầu run. Phải hít thật sâu mấy hơi liền mới thấy hết hồi hộp.
Mình chủ trương rằng người truyền giáo phải khởi đầu sự nghiệp bằng việc ra đi. Đi đễ thấy mình phải làm gì, phải làm thế nào và phải làm tới mức độ nào. Đức Giêsu đã đi và đi không ngừng. Thánh Phaolô cũng thế. Mình trích dẫn lời của Thủ tướng Ben Gourion: “Người lính Do Thái phải tìm hiểu và yêu thương quê hương của mình bằng hai bàn chân”. Người truyền giáo có thể đi bằng phương tiện truyền thông xã hội, nhưng đi bằng chính thân xác của mình, để hiện diện và đối thoại với người lương dân là cách đi hoàn hảo nhất. Mặt đối mặt, lời trao lời mới nảy ra tình yêu. Truyền giáo mà không yêu thương thì không thể là truyền giáo được. Muốn thế thì phải đi, phải đến…
Bài thuyết trình của mình có một ưu điểm là rất ngắn gọn, nên được thính giả vỗ tay hơn thông lệ. Vừa rời giảng đài được chừng ba bước thì chạm trán với thầy Hiến Minh. Thầy siết tay mình thật chặt và khen ngợi bằng một câu rất gọn: “Cậu nói được đấy”.
Thái độ niềm nở và lời khen ngợi của Thầy làm mình phấn khởi và thêm xác tín vào lập trường sẵn có: “Người truyền giáo phải khởi đầu sự nghiệp bằng việc ra đi. Đi để thấy mình phải làm gì, phải làm thế nao và phải làm tới mức độ nào”
(Lm Piô Phúc Hậu, Nhật ký truyền giáo trang 177).
Truyền giáo là ra đi, đi để mang sứ điệp Tin mừng đến với muôn dân.
Sứ vụ sai đi khởi phát từ Chúa Cha “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”. Đức Giêsu thực hiện sứ vụ bằng việc ra đi.
Suốt mấy năm ra mặt với đời để hành đạo, Chúa Giêsu không ngừng đi rày đây mai đó. Ngài luôn ngang dọc trên mọi nẻo đường đất nước của Ngài để truyền đạo. Từ hội đương này đến hội đường khác (Mt 4,23) hay ở ngoài trời, ở ngoài đường. Trên một sườn núi cũng có (Mt 5,1), bên một bờ hồ hiu quạnh cũng có (Mc 6,30-34). Có khi “mệt mỏi vì đường sá”, một mình ngồi trên thành giếng nói chuyện với người phụ nữ đến kín nước (Ga 4,6). Có lúc vì dân chúng chen lấn xung quanh đông đảo quá thì “Ngài mới lên một chiếc thuyền, thuyền của Simon và xin ông ấy chèo ra xa bờ một tí. Ngài ngồi xuống rồi từ ngoài thuyền nói vào mà giảng dạy dân chúng” (Lc 5,3). Chúa Giêsu thực hiện một cuộc hành trình liên miên. Theo ngôn ngữ của Marcô chương 1: Ngài bỏ Nazareth để đến gặp Gioan bên sông Gio-đan, rồi đến Galilê, dọc theo bờ biển Galilê, và Ngài đi rao giảng trong các hội đường khắp xứ Galilê. Trong chương 2: ít lâu sau, Ngài lại về Capharnaum… Ngài ngang qua đồng lúa… Cứ đi và đi như vậy mãi.
Chính giữa khung cảnh đường dài trời rộng thênh thang ấy mà lời giảng dạy của Ngài bao giờ cũng khởi hứng từ một hoàn cảnh cuộc sống. Các hình ảnh cuộc sống đời thường gần gũi tràn ngập trong lời rao giảng. Cánh huệ mọc ngoài đồng, đàn chim sẻ đang bay. Một đám ruộng lúa chín vàng mở rộng đến chân trời. Một mẻ cá lớn bên biển hồ. Những hạt giống người nông phu gieo vương vãi trên đường mòn,giữa bụi gai, trên sỏi đá. Một đàn cừu, dê, người chăn lùa về buổi chiều tối. Từng tảng đá, từng hạt sạn người ta nhặt từ một đống muối để vất đi. Từng con còng người đánh cá nhặt ra bỏ lại bên bờ sau một mẻ cá…
Việc thu thập môn đệ, Ngài cũng vừa đi, vừa gọi, vừa nhận… Như các môn đệ đầu tiên (Mc 1,16-20). Chúa Giêsu không dừng lại, yên nghĩ, hưởng thụ hay cũng cố vị trí người ta dành sẵn cho. Sau một ngày thành công rực rỡ ở Capharnaum chẳng hạn “sáng đến, Ngài ra đi vào nơi hoang vắng. Dân chúng đi tìm Ngài và đến nơi Ngài,họ cố giữ Ngài lại, không để Ngài đi khỏi chỗ họ. Nhưng Ngài bảo họ: Ta còn phải đem tin mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa” (Lc 4,42-43).
Như thế, quả là suốt đời Đức Giêsu đã không hề có trụ sở, không hề có chỗ trụ trì, không hề có nhà thờ. Ngài đi khắp mọi nẻo đường trên thế giới Ngài sống.
Đức Giêsu bị bắt lúc đang cầu nguyện giữa vườn Ghetsêmani hoang vắng. Bị điệu đến Hanna rồi Caipha. Từ toà đạo qua toà đời. Hết bị điệu đen dinh Philatô lại bị gửi qua dinh Hêrôđê, rồi bị đưa trả về cho Philatô. Không đầy một ngày một đêm mà kẻ tử tù đã phải đi không biết bao nhiêu dặm đường trên con đường “công lý” của loài người.
Bị kết án thập hình. Hai tay dang rộng, bị đóng đinh thập giá. Tảng đá lấp cửa mồ (Mc 14,32 -15,47). “Lính canh phòng cẩn mật, niêm phong tảng đá lại” (Mt 27,62-66).
Thế nhưng, Đức Giêsu đã không dừng chân cả trong cái chết. Ngày thứ ba Ngài sống lại, vượt cái chết qua sự sống bất diệt.
Sau khi phục sinh, Ngài cũng đi nhiều nơi, đến với với các môn đệ, cũng cố lòng tin và sai họ ra đi loan báo tin mừng.
Hoàn thành sứ mạng, “Ngài lên trời ngự bên hữu Chúa Cha” (Mc 16,19) và luôn đồng hành cùng Giáo hội “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. (Mt 28,20)
Đức Giêsu lập nên Nhóm Mười Hai. Họ được Ngài sai đi rao giảng (Mc 6,7). Giáo hội tiếp nối sứ vụ được sai đi, ra đi đến với muôn dân.
Hai động từ Gọi – Sai Đi diễn tả rõ rệt ơn gọi của Nhóm Mười Hai. Các Tông Đồ là những người được sai đi. Chúa căn dặn rằng: người được sai đi phải có tinh thần nghèo khó và từ bỏ.
Nghèo khó về hành trang đi đường: 1 cây gậy, 1 đôi dép, không mang 2 áo. Ý nghĩa ở đây là những kẻ được sai đi phải là những con người thanh thoát, không cồng kềnh nặng nề với của cải vật chất để có thể luôn sẵn sàng lên đường ra đi cho sứ vụ.
Nghèo khó về phương diện sinh sống: không được mang lương thực, bao bị, tiền bạc. Hành trình như vậy đặt các người được sai đi trong tư thế tuỳ thuộc. Không vướng víu, không “mọc rễ” bất cứ đâu để nhẹ nhàng ra đi nơi đâu Chua muốn.
Đức Giêsu cũng không giấu diếm họ. Con đường truyền giáo là con đường đầy chông gai, lắm gian khó. Cũng như Ngài, họ đón nhận sự rủi ro bị từ chối, bị xua đuổi. Cần phải hy sinh bản thân. Đó là thân phận kẻ được gọi, được sai đi. Ra đi mà không gì bảo đảm, ra đi mà không mảy may dính bén. Sẵn sàng đến mà cũng sẵn sàng đi. Thành công cũng không thụ hưởng mà thất bại cũng chẳng đắng cay. Bởi lẽ tôi trồng, Apollô tưới Chúa cho moc lên.
Người truyền giáo luôn bị cám dỗ định cư, tìm an toàn bảo đảm bản thân, an nghĩ trong những thành công tạm bợ… và không muốn ra đi. Càng gắn bó, lúc cách xa càng luyến nhớ. Sâu đậm bao nhiêu, lúc giã biệt sẽ nuoi tiếc bấy nhiêu. Vì vậy, Chúa muốn các môn đệ luôn sẵn sàng ra đi, lên đường bao giờ cũng đẹp, hạnh phúc chỉ dành cho ai dám lên đường tìm kiếm.
Cuộc đời người Kitô hữu cứ phải ra đi không ngơi nghĩ. Ra khỏi cái cũ và đi tới cái mới. Ra khỏi cái đang có để đi tới cái chưa có. Ra khỏi cái mình đang là để đi tới cái mình phải là. Như thế, hành trình xa xăm nhất lại chính là hành trình của con tim.
Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi.
Nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã ra đi từ trời cao xuống đất thấp, mang Tin mừng chiếu soi nhân trần. Xin sai chúng con ra đi nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng ban thân hay vào những phương tiện trần thế. Xin giúp chúng con chỉ biết cậy dựa vào Chúa. Chỉ mình Chúa là đủ cho chúng con. Amen.
Việc truyền giáo trong đạo của chúng ta ở vào thời đại nào cũng thế, luôn luôn bị vấn đề kinh tế, tài chánh làm cản trở bước tiến. Các nhà truyền giáo ngày nay muốn phát động một chiến dịch đến với dân ngoại mà không có tài chánh, thì cũng đành bó tay; bởi thế trong dân mới có câu: “Có thực mới vực được đạo” quả là chí lý lắm, từ trung ương Giáo-hội cho chí các Giáo-phận, rồi giáo hạt, giáo xứ, đều phải có sẵn một qũi dành riêng cho việc truyền giáo thì công việc mới trôi chẩy. Thế mà các nhà truyền giáo tiên khởi của chúng ta, là các Tông đồ, được Chúa Giêsu, là bậc Thầy lỗi lạc của mọi nhà truyền giáo, trực tiếp sai đi xem ra lại coi nhẹ vấn đề tài chánh ấy. Chúa nói: “Khi đi anh em không được mang theo lương thực, tiền bạc, ngoại trừ một đôi dép mang dưới chân và một cây gậy câm nơi tay để chống thôi, ăn mặc đơn sơ gọn gàng, đừng mặc hai áo.”
Trích đoạn Tin-mừng theo thánh Marcô, đọc trong thánh lễ hôm nay, cho chúng ta thấy người chiến sĩ Phúc âm mẫu được Chúa Giêsu đích thân sai đi, chỉ có hai bàn tay trắng, mọi nhu cầu thiết yếu cho sự sống thân xác, cụ thể như lương thực, tiền bạc đều không được mang theo. Điều đó khiến nhiều người trong chúng ta không khỏi thắc mắc, tại sao Chúa Giêsu là Thiên-Chúa mà lại hành sử một cách khờ khạo và vô lý như thế? hay Chúa chỉ sai đi trong chốc lát thôi, đói bụng thì về nhà ăn. Người chiến sĩ ra mặt trận mà hễ đói bụng thì phải trở về hậu phương để ăn, như thế làm sao có thể chiến đấu thành công được? Chúng ta phải hiểu Lời Chúa sao đây? có nên làm theo lời Chúa dậy để nắm chắc lấy cái thất bại không? Chúng ta hãy cùng nhau chia sẻ để tìm hiểu ý Chúa.
Tiên vàn, chúng ta phải tự giác lãnh lấy trách nhiệm loan báo Tin-mừng mà Chúa trao cho chúng ta trước đã, đừng thoái thác cho rằng việc truyền giáo là việc hay là bổn phận dành riêng cho các vị Thừa sai, cho hàng Giáo sĩ, hay Tu sĩ, chứ Chúa không trao cho người giáo dân chúng tôi. Nếu chưa xác định được lệnh truyền của Chúa xưa sai các môn đệ đi cũng là lệnh truyền sai hết mọi Kitô hữu cho đến từng người một trong chúng ta, thì chẳng còn gì để nói cả, chỉ vì một lý do rất đơn giản là hết thảy những ai đã chịu phép rửa tội đều mang danh là Kitô hữu, nên chúng ta trở thành môn đệ đích thực của Chúa, hơn nữa chẳng ai trong chúng ta muốn chối bỏ danh hiệu này. Thánh lễ chúng ta tham dự hằng ngày, bao giờ cũng được kết thúc bằng một lệnh truyền sai đi. Giáo-hội thay mặt Chúa nói với chúng ta: “Thánh lễ đã xong, chúc anh chị em ra về bình an” Cộng đoàn hoan hỷ đáp lại: “Tạ ơn Chúa” Lời cầu chúc ấy là một lệnh sai đi loan báo Tin-mừng, hàm ý nhắc nhở người tín hữu về bao nhiêu ơn lành Chúa thông ban cho chúng ta trong Thánh lễ, đặc biệt những ơn chúng ta lãnh được nơi bàn tiệc Mình và Máu Chúa, không phải để chúng ta mang về cất giấu đi cho mình. Bao nhiêu tâm hồn đang đói khát ơn Chúa, không được diễm phúc ăn uống no say Mình và Máu Chúa như chúng ta, chúng ta có bổn phận phải đem chia sẻ ơn Chúa cho họ.
Chỉ cần nói tới đây thôi là ai cũng hiểu được, tại sao hôm nay Chúa sai tôi đi loan báo Tin-mừng lại không muốn cho tôi bận tâm đến vấn đề kinh tế, tài chánh và ẩm thực, tất nhiên Ngài không sai tôi đi chỉ trong chốc lát, công tác phải được thực hiện liên tục và kéo dài suốt cả đời tôi. Đã có ai trước tôi thực hiện nổi Lời Chúa dạy chưa? Thánh Nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu chỉ ở trong 4 bức tường của nhà Kín, không tiếp xúc với ngoài xã hội, nhưng chị nhận trách nhiệm được sai đi, chị đã đem được bao nhiệu tâm hồn trở lại, mà Giáo-hội đặt chị thánh làm bổn mạng các xứ truyền giáo ngang hàng thánh Phanxicô Xavier, người chiến sĩ Phúc âm lỗi lạc đã từng đặt chân lên mọi nẻo đường của cả một vùng Đông Nam Á rộng lớn. Thánh nữ đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ truyền bá Phúc âm chỉ bằng lời cầu nguyện và sư hy sinh hãm mình mà thôi.
Nếu người Kitô hữu chúng ta phải sống giữa thế gian xô bồ, đầy những bon chen, cạnh tranh, không có môi trường thuận lợi để cầu nguyện và hy sinh hãm mình như Têrêxa, thì chúng ta rao giảng danh Chúa bằng gương sáng đời sống và cách ăn ở của chúng ta, như lời Chúa dậy: “Anh em hãy sống làm sao để mọi người nhìn thấy cách anh em ăn ở mà ngợi khen Cha anh em ở trên trời”, những cách thế loan báo Tin-mừng như vậy không đòi hỏi chúng ta phải mang theo tiền bạc, luơng thực hay phải ăn mặc lịch sự (hai áo) làm gì. Một người sống bần hàn giữa chợ đời, mà sáng chói những đức tính khiêm tốn, thật thà, đạo đức thì có sức lôi cuốn được người ta trở về với Chúa gấp hơn cả ngàn lần những bài giảng hùng hồn mà rỗng tuếch.
Nói như thế không có nghĩa là, cách thế Chúa sai các môn đệ đi loan báo Tin-mừng xưa, hiểu theo nghĩa hẹp, các nhà truyền giáo của chúng ta ngày nay chẳng còn ai đem ra áp dụng nữa đâu. Tất cả những ai đã đọc cuốn NHẬT KÝ TRUYỀN GIÁO của Linh mục Nguyễn phúc Hậu nói về những sinh hoạt truyền giáo của người chiến sĩ Phúc âm ở vùng Năm-căn, Cà mau, một cánh đồng truyền giáo Mầu mỡ, phì nhiêu ngay trên đất nước Việt-nam thân yêu của chúng ta, đều phải công nhận rằng, Lời Chúa hôm nay vẫn còn được đem ra áp dụng từng nét. Sống trong thời kỳ kinh tế thị trường như ở xã hội Việt-nam chúng ta đang sống hiện nay, đối với những người chiến sĩ Phúc âm vùng Năm căn, Cà mau, Chúa vẫn chỉ thị: “Anh em không được mang gì đi đường, trừ cây gậy, không được mang lương thực, bao bị, tiền bạc, được đi dép, nhưng không mặc hai áo” còn họ thì không có gậy cầm tay, có khi dép cũng chẳng có để đi nữa, thì còn nói chi tới luơng thực, tiền bạc có đâu mà mang theo, nhưng lời Chúa vẫn được rao giảng rất là kỳ diệu, những người chiến sĩ ấy sống giữa đám dân nghèo, nhà ở cũng như nhà thờ làm toàn bằng lá dừa nứơc lụp xụp, đến nỗi nhìn nhà thờ, người ta có cảm tương đó là một Cái Chuồng thờ thì đúng hơn.
Trong khi đó Chúa cho tôi được sống trong một hoàn cảnh vô cùng thuận lợi về mọi mặt, hằng ngày tôi đã làm được những gì để hoàn thành nhiệm vụ của người được Chúa sai đi? đời sống của tôi có vì Phúc âm mà cải thiện được chút nào không? tôi có dùng đức tin như cây gậy Chúa trang bị cho để đi cho vững khỏi vấp ngã trước bao nhiêu thử thách của cuộc đời không? tôi có tận dụng được mọi ơn Chúa ban như cơm ăn, áo mặc, nhà ở cùng mọi tiện nghi của cuộc sống, như đôi dép giúp cho đôi chân tôi chống lại mọi chông gai trên đường đi, để tôi an tâm lo việc loan báo Tin-mừng không? hay ngược lại, tôi lại lợi dụng những ơn lành Chúa ban, làm gương xấu cho những người chung quanh, khiến cho người ta tìm đường xa lánh, không muốn trở về với Hội-thánh của Người.
Ngày nay nói tới Gandhi thì ai cũng biết ông là một vị Cứu tinh của dân tộc Ấn độ. Mặc dù là người theo Ấn giáo, nhưng ông rất cảm phục Chúa Giêsu, qua việc ông chăm chỉ đọc sách Tin-mừng hằng ngày, ông rất tâm đắc với Bài giảng trên núi, Chúa nói về tám mối phúc thật và lấy đó làm phương châm hành động cho mình. Nhờ đó mà ông quyết chọn một đường lối đấu tranh bất bạo động để cứu nguy cho nhân dân Aán độ. Thế rồi một hôm, ông muốn tìm hiểu cụ thể hơn về Hội-thánh Công giáo, ông tìm tới một nhà thơ trong giờ thánh lễ để quan sát sinh hoạt của người Công giáo. Nhưng không may, ông vừa tới cửa định bước vào thì một người chức việc cản ông lại và nói:”Nếu ông muốn đến dự lễ thì xin ông hãy tìm đến một nhà thờ khác, nhà thờ này chỉ dành chongười da trắng thôi’ Nghe thế, ông lủi thủi bước ra, và từ đó không bao giờ ông nghĩ đến việc đi vào một nhà thờ nào nữa. Có lần ông phải cay đắng thốt lên: “Nếu như người Công giáo sống đúng như tinh thần Phúc âm của Chúa Giêsu, thì dân tộc của tôi bớt khổ biết mấy”
Nói đúng ra, không phải chỉ mình ông Gandhi mới có ý nghĩ ấy, mà nhiều người Kitô hữu chúng ta cũng đã có lần lấy làm tiếc, vì thấy rằng, chỉ nội trong cộng đoàn người Công giáo nhỏ bé của chúng ta thôi, nhiều lần cũng có người phơi ra trước mặt mọi người cách ăn nết ở chẳng ra gì, khiến cho người ngoài hiểu sai về Tin-mừng của Đức Kitô. Họ công khai lớn tiếng thoá mạ, hạ nhục nhau ngay trước mặt những anh em luơng dân. Phải chi chúng ta phát huy được lối sống của người giáo dân thời các Tông đồ, dân chúng thời đó đã nhận ra dấu chứng này nơi cộng đoàn các tín hữu đầu tiên, khi nhìn các Kitô hữu chung sống với nhau khiến họ phải thốt lên:Coi kìa, họ yêu thương nhau biết bao và đó cũng là định hướng của chính Đức Kitô, đã ban ra cho chúng ta. Ngài nói: Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là thấy anh em yêu thương nhau Quả thế cuộc sống huynh đệ của chúng ta chẳng những là dấu hiệu chứng tỏ tôi và bạn là người môn đệ Chúa, mà còn là một bài giảng sống động và hùng hồn nhất về Tin-mừng của Chúa.
Còn chần chừ gì nữa, ngay từ hôm nay, từ giậy phút này, chúng ta cùng nhau bắt tay vào việc ngay, thời gian khẩn trương lắm rồi, Chúa đang cần những chứng nhân cho Tin-mừng. Hãy gấp rút sửa lại mọi lệch lạc của đời sống để mở lối cho nhiều tâm hồn đang trên đường tìm về với Chúa và Hội-thánh của Người. Amen.
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Đức Giêsu sai nhóm 12 môn đệ ra đi rao giảng Tin Mừng. Trước khi lên đường, ngoài việc ban quyền trừ quỷ và chữa lành bệnh tật, Đức Giêsu còn đưa ra những chỉ dẫn cụ thể cho các ông trong đời sống tông đồ. Đó là những điều Chúa đòi hỏi với từng người môn đệ qua mọi thời đại. Nếu dám sống theo những đòi hỏi ấy, chúng ta mới là môn đệ thật sự của Chúa. Vì ngày nay Chúa vẫn sai chúng ta ra đi vào đời với tư cách của người tông đồ.
Là môn đệ Đức Giêsu, mỗi người Kitô hữu phải sống theo những lời chỉ dạy của Chúa. Chỉ dẫn của Đức Giêsu cho các tông đồ cách đây hơn 2000 năm vẫn luôn hợp thời. Nhìn chung những đòi hỏi đó Chúa chỉ muốn các ông tin tưởng vào Ngài. Không cho mang bao bị, tiền bạc, lương thực, mặc hai áo, nghĩa là Ngài muốn người môn đệ phải sống tinh thần khó nghèo. Những thứ đó là nhu cầu vật chất cần thiết cho cuộc sống, nhưng chúng chỉ là phương tiện chứ không phải là cứu cánh. Chúng chỉ tốt khi giúp con người đạt tới mục đích tốt. Không mang những thứ đo người môn đệ đỡ phải vướng bận lo lắng, vì đôi khi chúng còn chiếm cả thời gian dành cho Chúa của ngườI môn đệ. Một người lên đường mà hành trang gọn nhẹ như các tông đồ được Đức Giêsu chỉ dẫn thì thật là dễ di chuyen đến nhiều nơi. Người tông đồ có sống nghèo mới được tự do, thanh thản, không bị vật chất chi phốI, điều khiển. Người môn đệ nghèo vật chất nhưng rất giàu tấm lòng yêu mến. Càng nghèo người môn đệ càng dễ tín thác vao sự quan phòng của Chúa. Hơn nữa khi dám sống nghèo người tông đồ sẽ là bạn của người nghèo. Bởi vì Tin Mừng mà Đức Giêsu ủy thác cho Giáo Hội và cho mỗi người Kitô hữu là Tin Mừng cho những người nghèo khó, bị tù đay, đang sầu khổ, đang thiếu cơm ăn áo mặc và vô gia cư. Những người đó được xem là thành phần “thấp cổ bé miệng” trong xã hội, bị người đời khinh thường, nhưng lại được người tông đồ tiếp đón niềm nở.
Thật thế, dám sống theo những chỉ dẫn của Đức Giêsu, người tông đồ sẽ là con người tự do, tự mình suy nghĩ và hành động mà không lo sợ bị mất quyền lợi vật chất. Nếu cần họ sẵn sàng chịu mất tiền bạc và tất cả mọi sự để có được Chúa. Họ luôn ý thức rằng chỉ có Chúa là Cứu Cánh Tối Thượng của cuộc đời mình. Như vậy, dù Chúa có cử họ đi bất cứ nơi đâu, họ cũng hoàn toàn vâng theoThánh Ý Ngài. Mỗi khi gặp khó khăn thử thách xảy ra là dịp để họ boc lộ lòng yêu mến và tin tưởng vào Chúa.
Ngoài ra Chúa còn đòi hỏi các tông đồ phải có một thái độ kiên nhẫn, biết chịu đựng cả những gì mà xem ra mình không thể chấp nhận được. Có thể khi ra đi rao giảng Tin Mừng ngươi tông đồ sẽ bị người đời từ chối. Nhưng kiên nhẫn chờ đợi với lòng tin tưởng và làm hết mọi việc với tâm sức vào việc Chúa giao, không bao giờ buông xuôi hay chạy trốn việc khó. Biết chấp nhận thực tại bị chối từ người tông đồ sẽ ra đi rao giảng Tin Mừng trong niềm vui tươi phấn khởi. Dù có bị người đời tẩy chay và cô lập hoàn toàn vì lối sống “ngược dòng đời “ của mình, nhưng người tông đồ không cảm thấy trống vắng. Chúa không nhưng sai các ông ra đi, mà Ngài còn đi bên cạnh các ông trên đường sứ vụ. Chính Chúa sẽ lấp đầy mọi khoảng trống trong lòng của các ông.
“Khi anh em vào nhà nào làm được người ta đón tiếp thì ở lại cho đến lúc ra đi. Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em thì ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ’ Chỉ dẫn này cho thấy Chúa chỉ sai các tông đồ ra đi rao giảng Tin Mừng chứ không phải là cưỡng bức, áp đặt người khác phải tin theo. Việc bây giờ các ông làm chỉ trông chờ vào bàn tay Chúa làm cho có kết quả mĩ mãn
Lời Chúa dạy các tông đồ năm xưa ngày nay vẫn đang thôi thúc mọi Kitô hữu. Chúa sai chúng ta ra đi đến với con người để sống như người anh em của mọi người. Dĩ nhiên không phải ai trong chúng ta cũng có hạnh phúc được đi đến những nơi xa xăm để rao giảng Tin Mừng như các thừa sai. Tuy nhiên sự ra đi của chúng ta của người Kitô hữu nằm ngay trong cuộc sống đức tin của mỗi người. Sự ra đi đó đặt vấn đề cho niềm tin của chúng ta khi chúng ta phải đương đầu những khó khăn, phải đối diện với những chọn lựa dứt khoát. Để chúng ta biết chọn lựa Chúa và thực hanh những đòi hỏi gay gắt của Tin Mừng. Chúng ta không chạy theo tiền tài, danh vọng, chức quyền mà phải tìm kiếm chính Chúa. Chúng ta chỉ có thể giới thiệu Tin Mừng của Chúa cho những người chung quanh bằng một đời sống khiem tốn, hiền lành và bác ái. Chúng ta sống khó nghèo qua việc chia sẻ vật chất, thăm hỏi. ủi an và kính trọng yêu thương tha nhân.
Lạy Chúa, Chúa đã đến trong trần gian để rao giảng Tin Mừng cứu độ. Và Chúa còn chịu chết vì con người. Chúng con hiểu điều đó và hết lòng tin tưởng vào sứ mạng Chúa đã trao cho mỗi người chúng con là làm tông đồ giữa thời đại ngày nay. Xin cho chúng con biết giương cao những giá trị của Tin Mừng là hy sinh quen mình và yêu thương giữa một xã hộI ai cũng chạy theo hưởng thụ vật chất. Để nhờ đời sống của chúng con mà có them nhiều người nhận biết Chúa. Amen.
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vu Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Đức Giêsu đã thiết lập Nhóm Mười Hai với hai mục tiêu: họ phải ở với Người và phải được Người cử đi loan báo Tin Mừng và trừ quỉ (Mc 3,14t). Kể từ khi được Người chỉ định, Nhóm Mười Hai ở với Ngươi, đồng hành với Người, chứng kiến tất cả hoạt động giảng dạy và tất cả các hành vi quyền lực của Người. Như thế, các ông chu toàn mục tiêu đầu tiên mà Đức Giêsu nhắm cho các ông, khi các ông cùng đi với Người trong khi Người chu toàn sứ mạng của Người (x. 1,38).
Đức Giêsu đang đi đường và giảng dạy các làng trong miền Galilê (6,6). Kế đó, Người cử Nhóm Mười Hai đi, để các ông nối tiếp công việc của Người.
2.- Bố cục
Bản văn có the chia thành hai phần:
1) Đức Giêsu ban chỉ thị cho Nhóm Mười Hai (6,7-11):
a- Nhóm Mười Hai được giao phó sứ mạng (c. 7),
b- Giáo huấn của Đức Giêsu về hành trang (cc. 8-9),
c- Giáo huấn của Đức Giêsu về cách xử sự (cc. 10-11);
2) Nhóm Mười Hai thi hành sứ mạng (6,12-13).
3.- Vài điểm chú giải
– Nhóm Mười Hai (7): Đời tông đồ là một cuộc hành trình để nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu. Điều này được tác giả Mc diễn tả bằng cách dùng thuật ngữ “Nhóm Mười Hai” ở 7 điểm quan trọng. Thuật ngữ này trở đi trở lại theo những khoảng cách đều đặn: từ khi Nhóm được thành lập cho đến khi tan rã vào lúc Giuđa phản bội, Nhóm được nhắc đến ở mỗi chặng quan trọng. Các ông đi theo Đức Giêsu từ lời đầu tiên loan báo về Nước Thiên Chúa cho đến thử thách cuối cùng:
1) Lần đầu, ở ch. 3: Đức Giêsu “thành lập (= tạo thành) Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai đi rao giảng” (3,14). Và xa hơn: “Người thành lập Nhóm Mười Hai” (3,16).
2) Ở ch. 4: “Khi còn một mình Người, những người thân cận cùng với Nhóm Mười Hai mới hỏi Người về các dụ ngôn” (4,10). Lần đầu tiên Nhóm Mười Hai hỏi riêng Đức Giêsu: điều này chứng tỏ Nhóm được tuyển chọn để được đào tạo riêng.
3) Ở ch. 6: “Đức Giêsu gọi Nhóm Mười Hai” (6,7). Trong TM Mc, từ ngữ “tông đồ” chỉ được dùng ở 6,30.
4) Ở ch. 9: Đức Giêsu nhắc bảo các môn đệ vài điều: “Ngài gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói: “Ai muốn làm đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm tôi tớ mọi người” (9,35).
5) Ở ch. 10: Đức Giêsu loan báo Người sẽ chết và sống lại. Đức Giêsu dẫn các ông; các ông kinh hoàng, còn nhưng kẻ theo sau cũng sợ hãi. Người lại kéo riêng Nhóm Mười Hai ra, và bắt đầu nói với các ông về những điều sắp xảy đến cho mình” (10,32).
6) Ở ch. 11: Đức Giêsu đã đi vào Giêrusalem: “Sau khi rảo mắt nhìn xem mọi sư, Người ra khỏi thành…, và tiến về Bêtania cùng với Nhóm Mười Hai” (11,11). Câu 11 là như lời dẫn nhập vào hoạt động của Đức Giêsu tại Giêrusalem (nơi chốn, hoàn cảnh, chương trình hành động), và Nhóm Mười Hai là những người tháp tùng Người.
7) Ở ch. 14 (tại Giêrusalem): Đây là khởi đầu cuộc Thương Khó, Nhóm Mười Hai được nhắc đến thường xuyên, nhưng như là Nhóm trong đó có kẻ phản bội: 14,10.17.20.43. Mỗi lần kẻ phản bội được nhắc tên cung là mỗi lần Nhóm được nhắc lại. Ở 14,17, Nhóm Mười Hai được nêu lên như là những người tháp tùng Đức Giêsu vào Tiệc Ly và đồng bàn với Người.
Khi nêu bật Nhóm Mười Hai, Mc cho thấy rằng Tin Mừng không phải là một he thống các giáo thuyết hoặc luật lệ. Khi nêu bật Nhóm Mười Hai, Mc cho thấy rằng Tin Mừng được mạc khải và đón nhận xuyên qua một quan hệ riêng tư với Đức Giêsu, được truyền đạt bởi những sứ giả được đào tạo từ chính quan hệ này, và, cuối cùng, điều ngài muốn là đưa độc giả đi dần vào quan hệ riêng tư và trọn vẹn này với Đức Giêsu.
– Quyền trừ quỉ: Mc trình bày sứ mạng của Nhóm Mười Hai như là việc nối dài chính sứ vụ của Đức Giêsu là rao giảng và chữa bệnh (chủ yếu là trừ quỉ).
– không được mang gì đi đường (8): Tình trạng thiếu trang bị vật chất như thế phản ánh tính cấp bách của công tác và sự tin tưởng ký thác hoàn toàn vào tay Thiên Chúa.
– chỉ trừ cây gậy: Mt 10,10 và Lc 9,3 cấm các môn đệ cầm gậy đi đường. NJBC giải thích: hoặc bản văn Mc có khuynh hướng chế giảm hoặc đây là cách đọc sai từ A-ram l’ (“không”) thành ’l’ (“ngoại trừ”). Hay là phải chăng vào thời Mc, tình thế còn khá nguy hiểm, nên còn chấp nhận một vài chế giảm như thế?
– bao bị: Từ Hy Lạp pêra là túi xách để đựng hành trang đi đường hoặc của bố thí.
– được đi dép (9): Mt 10,10 và Lc 9,3 cấm các môn đệ đi giày; có lẽ đây là cấm đi một đôi dư ra (Mt dùng từ hypodêma, vật bó dưới chân; còn Mc dùng từ sandalion), bởi vì đi chân không trên các nẻo đường đầy sỏi đá xứ Paléttina thì rất vất vả.
– hai áo: Từ Hy Lạp chitôn là áo trong, mặc sát người.
– giũ bụi chân (11): Khi có nơi nào không đón tiếp mình, người môn đệ được hướng dẫn làm thành một hành vi biểu tượng thôi, chứ không trả đũa thô bạo. Hành vi này nhằm thúc bách những con người tại nơi ấy phải suy nghĩ. Hành vi này cũng có thể có liên hệ với việc giũ bụi chân khi trở lại xứ Paléttina. Khi ấy, ý nghĩa của hành vi này là thành thiếu lòng hiếu khách thì không thuộc về Ít-ra-en chân chính.
– Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối (12): Câu tóm về lời rao giảng của các môn đệ làm vọng lại câu tóm về lời rao giảng của Đức Giêsu trong 1,14-15: các môn đệ chia sẻ sứ mạng của Thầy (x. c. 13).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đức Giêsu ban chỉ thị cho Nhóm Mười Hai (7-11)
Đức Giêsu đã “gọi lại với mình” Nhóm Mười Hai: điều này chứng tỏ uy quyền của Người và sự chọn lựa của Người. Người cử Nhóm Mười Hai đi, để các ông nối tiếp công việc của Người. Các hình thái cơ bản trong hoạt động của các ông là loan báo Tin Mừng và xua trừ ma quỉ (3,14t; 6,7.12t): đây cũng là những nhiệm vụ của Đức Giêsu (1,14t; 1,21-27; 1,39). Người không chu toàn sứ mạng một mình, nhưng chia sẻ sứ mạng đó cho những người mà Người đã uốn nắn và đào tạo nhờ tiếp xúc thường xuyên với Người. Cũng như Người, các ông cũng phải loan báo Tin Mừng là Triều Đại Thiên Chúa đã gần. Cũng như Người, các ong phải truyền đạt với xác tín cao và vững chắc sứ điệp vui tươi và giải phóng này: chỉ mình Thiên Chúa là Chúa tể; quyền làm chủ của Ngài trên muôn loài muôn vật, vào lúc này, người ta chưa nhận ra được, nhưng đến một lúc nào đó, chắc chắn sẽ tỏ hiện rõ ràng.
Chân lý hệ trọng này, các môn đệ phải loan báo không những bằng lời nói, mà còn phải cho thấy nó có giá trị thực sự bằng hành động nữa. Hành trang của các ông chỉ có những gì cần thiết cho một lữ khách: một cây gậy, một áo choàng và đôi dép. Người ta phải thấy được rõ ràng là các ông không sở hữu gì cả và các ông không có gì mà mang theo cả, ngoại trừ sứ điệp của các ông: các ông chỉ là sứ giả mà thôi. Về lối sống của các ông, Đức Giêsu cho hai chỉ thị: các ông không được đòi hỏi gì và phải ý thức về sứ mạng của các ông. Các ông phải bằng lòng với mọi kiểu nơi ăn chốn ở có được, chứ không đi hết nhà này đến nhà kia để tìm được nếp sống thoải mái hơn. Các ông phải nêu bật ý nghĩa của sứ điệp. Ai không muốn nghe, các ông phải cho họ hiểu rõ ràng rằng khi từ chối như thế, họ đã lấy một quyết định hệ trong trong quan hệ đối với ơn cứu độ: giũ bụi chân để cho hiểu rằng vừa xảy ra một việc tách biệt quyết liệt, “giữa chúng ta, không còn liên hệ gì nữa!”. Từ chối sứ giả có nghĩa là từ khước sứ điệp.
* Nhóm Mười Hai thi hành sứ mạng (12-13)
Giữa phần mô tả hoạt động của Nhóm Mười Hai (6,12t) và việc họ trở về (6,30), TM II không nói gì đến hoạt động của Đức Giêsu. Hoạt động của các tông đồ có trọng lượng riêng, chứ không phải là một chuyện phụ thuộc được che phủ bởi hoạt động của Đức Giêsu. Hoạt động của các ông có trọn vẹn tầm quan trọng của nó. Các ông đã ra đi thi hành hai điều cốt yếu trong chỉ thị của Đức Giêsu: rao giảng và trừ quỉ.
+ Kết luan
Khi đọc đoạn văn trên đây, Giáo Hội (và mỗi Kitô hữu) được mời gọi nhận ra câu truyện về ơn gọi của chính mình. Giáo Hội (và mỗi Kitô hữu) không được khép kín trên chính mình, theo một số tiêu chuẩn xã hội học nào đó. Giáo Hội sẽ phải ra đi đến mọi phương trời vào mọi thời đại.
5.- Gợi ý suy niệm
SAI NHÓM MƯỜI HAI ĐI RAO GIẢNG (6,7-13)
Mãi đến lúc này Maccô mới kể cho chúng ta biết thoạt đầu Chúa Giêsu gọi vài môn đệ theo Ngài (1,16-20), sau đó Chúa Giêsu thiết lập nhóm Mười Hai để họ “ở với Ngài” và chia sẻ sứ vụ của Ngài (3,13-19). Và giờ đây Ngài mới sai họ đi rao giảng (c. 7). Nhóm Mười Hai sẽ xứng đáng với tước hiệu “tông đồ”, nghĩa là “được sai đi” thi hành sứ vụ (6,30) mà sau này họ sẽ lãnh nhận. Trong chương ngắn gọn này, xem ra Maccô đã sử dụng cuốn tiểu cẩm nang của một thừa sai hoàn hảo. Lối hành văn vấp váp không mạch lạc cho thấy rõ Maccô đã sử dụng lại một truyền thống có trước ông.
Khởi đầu Chúa Giêsu sai các môn đệ đi từng nhóm “hai người một” (c. 76). Đây không hiểu có phải là một tập tục Do Thái không? Theo luật Môsê, cần hai nhân chứng mới xác nhận được một lời khai (Đnl 19,15). Tuy nhiên con số hai cũng là biểu tượng của cộng đoàn, nghĩa là các thừa sai không làm việc đơn lẻ mà làm việc theo từng nhóm. Các Kitô hữu sơ khai đã lặp lại y hệt lối thực hành này của Chúa Giêsu. Trong công vụ sứ đồ, các thừa sai luôn luôn đồng hành từng cặp với nhau: Phêrô và Gioan (Cv 3,1; 4,13); Phalô và Barnabê (Cv 13,2); Giuđa và Sila (Cv 15,22b)… Chúa Giêsu cũng ban cho các thừa sai này một phần quyền năng của Ngài, đó là quyền trừ quỷ, như là một trong dấu chỉ xác thực rằng Vương Quốc Thiên Chúa đã được khánh thành.
Điều đáng nhớ trước hết: các lệnh Chúa Giêsu truyền cho các thừa sai (c. 8-9) lại là các lệnh truyền dành riêng cho khách bộ hành. Tuy nhiên, các huấn luyện ấy đặc biệt nhấn mạnh đến đức tính khó nghèo mà các thừa sai phải chứng tỏ cho mọi người thấy. Ngay cả những gì thiết yếu (như bánh mì, tiền túi) thì cũng sẽ chỉ được nhận lãnh như những quà tặng của những người được họ ghé thăm. Phong thái họ cực kỳ đơn giản giống như những lữ khách lòng không hề vướng bận (không túi xách đi đường, không áo dài để thay đổi). Ngược với Matthêu và Luca, để bước đi cho dễ, Maccô cho rằng gậy và dép là cần thiết. Vào thời đó, hầu như người ta thường đi chân không. Tuy nhiên để đi nhưng chặng đường dài, xem ra cần phải có gậy và dép. Có lẽ ở đây Maccô muốn trình bày các trợ tá của Chúa Giêsu như những “khách hành hương” luôn luôn sẵn sàng lên đường, như những kẻ được mô tả trong nghi thức lễ vượt qua: “Nịt thắt ngang hông, giầy dép xỏ vào chân, tay cầm sẵn gậy” (Xh 12,11).
Các lời khuyên liên quan đến việc tiếp đãi còn đáng ngạc nhiên hơn (c. 10-11). Là thừa sai đi rao truyền sứ điệp một cách vô vị lợi, nên họ có quyền được những gia đình mà họ ghé tiếp đón họ một cách vô vị lợi. Tuy nhiên Tin Mừng không mang tính áp đặt, mà chỉ có thể được đón nhận trong tự do. Nếu thành phố hay làng mạc nào từ chối không đón nhận thì người ta sẽ đi qua chỗ khác nhưng đồng thời vẫn tôn trọng sự từ chối đó. Ở đây Maccô mô tả lại nghi thức xưa kia thường được dùng ở phương Đông: Phủi bụi khỏi chân mình khi rời bỏ một nơi chốn thù nghịch để tỏ dấu tuyệt giao!
Giống như Chúa Giêsu (c. 12-13), nhóm Mười Hai lên đường loan báo Nước Thiên Chúa đã đến và mời gọi mọi người hoán cải (1,15). Giống như Ngài, họ cũng chứng thực lời nói của họ bằng việc ban phát những dấu chỉ để giúp người ta tin họ. Việc xức dầu trên bệnh nhân chứng thực đây là một thói quen đã có từ xa xưa. Người ta từng biết công dụng hữu ích của việc xức dầu lên thân thể. Giáo Hội về sau đã nhận ra trong tập tục này mầm giống một phép bí tích đó là bí tích Xức dầu bệnh nhân để chữa lành thể xác và tâm linh của họ (x. Gc 5,14).
Đối với chúng ta ngày nay xem ra rất cổ kính xét về mặt hình thức của nó bởi vì rõ ràng nó chịu ảnh hưởng sâu đậm của các phong tục thời xưa. Tuy nhiên tận căn nó vẫn hiện thực. Tin Mừng phải luôn luôn được cơ động mang đến khắp mọi nơi bằng những phương tiện nghèo khó. Được trao ban vô vị lợi, Tin Mừng này mời gọi lương tâm tự do đón nhân. Đây là lời nói đi kèm theo các dấu chứng sự chiến thắng của Chúa Kitô trên sự Dữ và Thần Chết. Đó chính là sứ điệp trường cửu của trình thuật rất cổ kính này.
Chúa gọi Nhóm Mười Hai lại, và sai đi từng hai người một.
Một trong những việc làm đầu tiên của Đức Giêsu, ngay từ bắt đầu cuộc sống công khai, là chọn những cộng tác viên (Mc 1,16). Sau khi đã dần dần bổ sung nhóm môn đệ (Mc 2,14), cuối cùng Đức Giêsu đã chọn 12 vị. Con số tượng trưng ám chỉ ý định của Người muốn thành lập một dân tộc Israel mới, dựa theo mười hai Tổ phụ hay mười hai Chi tộc. Trong phần đầu của Tin Mừng, chúng ta thấy các Tông đồ đi theo Đức Giêsu và ở “với Người” (Mc 3,14).
Hôm nay, có thể nói, Đức Giêsu sắp ẩn mình đi và trao phó sứ vụ của Người trong tay các tông đồ. Lần đầu tiên các ông đi rao giảng một mình, không có Đức Giêsu. Đó là thời kỳ Giáo Hội đang bắt đầu. Trước tiên, chúng ta có thể cầu nguyện dựa trên thái độ này của Người: Thiên Chúa của chúng ta, Người trao cho chúng ta những trách vụ quan trọng: Người không điều khiển chúng ta như những con rối. Tôi có những trách nhiệm nào? Lạy Chúa, Chúa chờ đợi gì nơi con?
Chúa sai họ đi.
Trong năm chương đầu của trình thuật, Maccô đã nhấn mạnh cho chúng ta thấy “Đức Giêsu với các môn đệ”, tạo thành một nhóm duy nhất và hợp nhất đối lại với đám đông, với các đối thủ. Vào lúc “kêu gọi” các ông (Mc 3,13-14), Maccô ghi nhận, Đức Giêsu đã “thiết lập Nhóm Mười Hai” để ở với Người và để Người “sai họ đi”. Đó cũng chính là chuyển động của trái tim: Tâm trương… tâm thu… máu vào tim rồi chuyển đến các cơ quan. Hoạt động tông đồ thông thường cũng như thế: Sống kết hợp mật thiết với Chúa Kitô, mang Đức Kitô đến khắp nơi trên thế giới. Đó cũng là hoạt động của đời sống Kitô hữu: Tập họp quanh Chúa vào mỗi Chúa nhật, tản mác trong cuộc sống hằng ngày để nên nhân chứng sống động của Chúa.
“Anh hãy đi! Anh em được sai đi” “Ite, Missa est” chữ Messe (Thánh Lễ) có nghĩa là “sự sai đi”. Chính Chúa đã thiết lập nhịp sống đó. Tôi có sống như thế không? Tôi có thường sống “với Chúa” trong suy niệm, trong nguyện cầu không? Tôi có ý thức mình được Chúa “sai đi” vào đời sống thướng nhật để làm một việc gì đó, có liên quan đến Chúa không?
Người sai đi từng hai người một.
Phải có hai người thì chứng tá mới có giá trị (Ds 17,6; 19,5). Dân gian đã khôn ngoan đặt ra nhiều câu ngạn ngữ để nói về điều này. “Hai người có giá trị hơn một, nếu họ ngã, người này đỡ người kia dậy, nhưng khốn cho kẻ đi một mình” (Gv 4,9).
Quy tắc đầu tiên của việc tông đồ là tạo thành nhóm. Nếp sống huynh đệ là một bài giảng về tình yêu, trước khi bàn tới. “Các bạn hãy nhìn xem họ thương nhau biết bao!”. Chứng tá Kitô hữu phải nhắm đến một hình thức cộng đoàn trong Giáo Hội. Đó là ý muốn rõ ràng của Đức Giêsu. Vậy tôi phải tự vấn về thái độ của tôi. Chủ nghĩa cá nhân có nhưng hình thức tinh vi và đáng sợ: Chúng ta không thích những người anh em khác kiểm tra thái độ sống của riêng mình. Tuy nhiên?
Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, trừ cây gậy; không được mang lương thực, mang bao bị, mang tiền giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo.
Điều đáng lưu ý là chúng ta không thấy Đức Giêsu dặn dò các Tông đồ về nội dung giáo thuyết, “Sứ vụ” của các ông. Chúa không bảo các ông “phải giảng điều gì”. Người chỉ nhắc nhở các ông những chi tiết “phải sống”. Đối với Đức Giêsu, chứng tá bằng cuộc sống quan trọng hơn chứng tá bằng lời nói.
Thực tế lời khuyên duy nhất của Thầy liên quan đến đòi hỏi sống nghèo khó. Những người đại diện Chúa phải tỏ ra mình không cậy dựa vào sự giúp đỡ, vào uy tín nào của con người. Tất cả chỉ dựa vào niềm tin nơi Đấng đã sai họ. Thánh Phaolô sẽ khai triển đòi hỏi này khi khẳng định: “Vinh quang của Thiên Chúa rạng ngời lên gương mặt Đức Kitô, nhưng kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong bình đất, để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi” (2 Cr 4,6-7). Thánh Phaolô cũng khoe về sự nghèo khó của mình: “Khi tôi đến với anh em, tôi đã không dùng lời nói hùng hồn hoặc triết lý cao siêu… nhưng tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy… có vậy đức tin của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa” (l Cr 2,1-5).
Vâng, điều Đức Giêsu muốn, đó là những đoàn ngũ phải nhẹ nhàng, không có những hành trang cồng kềnh, luôn sẵn sàng đi nơi khác. Lữ khách, phải là người sẵn sàng. Có lẽ, Giáo Hội không ngừng tự “làm nhẹ bớt” để sẵn sàng theo sự thúc đẩy của Thánh Thần.
Còn tôi? Tôi sống thế nào trước đòi hỏi nghèo khó này? Đức Giêsu đã nói rõ với các bạn hữu của Người, chỉ mang theo những vật hết sức cần thiết. Chiến thắng sự cám dỗ của tiền bạc là chiến thắng đầu tiên của Tin Mừng, là bài giảng đầu tiên rất cần thiết cho một thế giới tham lam, là trận chiến hàng đầu (nơi chính bản thân mình trước hết) chống lại một kẻ thù lớn của nhân loại: Sự chiếm hữu của cải! Nguồn gốc của chia rẽ, tranh chấp và kiêu ngạo!
Lạy Chúa, xin giúp chúng con đến gần lý tưởng từ bỏ mà Chúa mong muốn.
Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ.
Chúng ta ngạc nhiên vi tầm quan trọng của thái độ khước từ “tiếp nhận” trong diễn từ của Đức Giêsu. Nhưng môn đệ của Người có thành công lắm không? Hình như không được khá lắm. Người ta dễ dàng đoán được những ý nghĩ: “Các ông muốn chúng tôi trở lại chăng? Nhưng hiện nay chúng tôi rất tốt! Chúng tôi là những người Do Thái tốt theo truyền thống. Tại sao phải thay đổi những thói quen của chúng tôi? Xin các ông hãy đi giảng đạo nơi khác” Những khó khăn của Kitô hữu khi trình bày đức tin không phải chỉ ngày nay mới có, Đức Giêsu nói với chúng ta hôm nay: “Các con chớ có lo lắng. Đây là điều Thầy đã tiên liệu, Thầy đã báo trước cho các con”. “Chúng ta chớ nên ảo tưởng”.
Ngày nay cũng như thời Đức Giêsu sứ điệp đích thực của đức tin vẫn bị đa số khước từ, không đón nhận. Vì thế điều Đức Giêsu yêu cầu chúng ta là: Luôn đứng vững đừng ngã lòng: “Nếu người ta không tiếp nhận các con, các con hãy đi nơi khác”. Chịu đựng thái độ không tin, lãnh đạm, chối bỏ,… điều đó xem ra hết sức bình thường đối với Đức Giêsu. Sự thật là khó khăn. Đức Giêsu đã báo trước điều đó cho những người được sai đi rao giảng Tin Mừng.
Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh.
Họ đã làm đúng những gì họ thấy Đức Giêsu làm khi họ “ở với Người”. Nội dung của nỗ lực “truyền giáo” gồm 3 giai đoạn:
Hoán cải
Đó là nội dung thứ nhất của việc rao giảng: Hãy thay đổi cách sống. Hãy hoán cải. Chúng ta hiểu vì sao các Tông đồ được ít người nghe theo và bị từ chối. Thông thường, con người không thích “thay đổi” cách sống: Hãy để cho chúng tôi yên! Thế mà, Thiên Chúa lại hay gây phiền hà, Người yêu cầu chúng ta dấn thân vào một cuộc sống mới. Chữ Hy Lạp “mitanoa” dịch ra là “hoán cải”, có nghĩa là “đổi ngược tinh thần”. Vậy là phải đổi hướng: Chúng ta đã đi theo một hướng, bây giờ phải quyết tâm đổi ngược lại. Đây không phải là điều dễ. Tin Mừng luôn mang tính ác liệt. Chúng ta đã biến Tin Mừng trở nên loại gì? Một thứ học thuyết thiếu năng động? Một thứ thuốc ngủ? Một thứ nâng đỡ cho trật tự hiện hành? “Các Ngài đã kêu to” “ékèruxan” phải thay đổi cuộc sống “Metanoôsin”.
Trừ quỷ
Chắc hẳn Maccô đã dùng những cách mô tả theo tâm thức của những người đương thời, nhưng rõ ràng sứ vụ mang tính chất bi kịch. Đó là một cuộc chiến! Một cuộc chiến chống lại quyền lực của sự dữ trên thế giới. Những “nhà truyền giáo” những người được Chúa “sai đi” không quảng cáo cho một sản phẩm để bán chạy. Các Ngài đã lên đường để đương đầu với một đối thủ ghê gớm. Sự chống đối mà các Ngài gặp không chỉ đến từ những người khước từ vì không hiểu. Có một lực lượng đối kháng. Một sự chống lại Tin Mừng đến từ xa hơn: Đó là những điều chúng ta gọi là ‘tội lỗi thế gian’. Ngày nay, chúng ta có thể diễn tả thế nào về những thế lực xấu xa mà chúng ta phải chống lại để xua đuổi chúng.
Chữa lành
Lôi kéo con người ra khỏi những thế lực xấu làm cho họ hư mất, đó cũng là giúp họ thăng hoa phẩm giá một cách tích cực, là chữa lành họ. Đây là một trong những đòi hỏi rõ ràng của Đức Giêsu. Mệnh lệnh vẫn có giá trị, mặc dù trong bối cảnh văn minh hiện nay, nó mang một hình thức cụ thể khác.
Rao giảng Tin Mừng.
Không phải chỉ là “giảng dạy” mà đặc biệt còn là “giải thoát”. Ngày nay rao giảng Tin Mừng phải có những hình thức tân tiến và thích ứng thế nào để phù hợp với thời đại của chúng ta? Chúng ta phải chiến đấu chống lại những sự dữ nào? Xã hội chúng ta cần sự chữa lành nào?
Tin Mừng vẫn luôn mang tính thời sự, nhưng chính chúng ta không còn nghe được lời kêu gọi hoán cải của Tin Mừng nữa.
CHÚA KÊU GỌI VÀ
SAI CÁC ÔNG ĐI TRUYỀN GIÁO
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
Ngay từ những trang đầu Tin Mừng của mình, Maccô đã muốn kể lại việc Chúa kêu gọi Simon và anh của ông là Anrê, cùng với hai anh em Giacôbê và Gioan khi Người đang đi dọc theo Biển Hồ Galilê (1,16-20); Người nói với các ông ấy: “Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá!” Maccô cũng cho ta thấy khi tới Capharnaum vào một ngày Sabát, Đức Giêsu “cùng với các môn đệ đi vào thành” (1,21). Sau đó thánh sử còn cho ta thấy Đức Giêsu “Lập Nhóm Mười Hai để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng, với quyền trừ quỷ”(3,14-15). Con số Mười Hai ám chỉ mười hai chi tộc Israel là dấu chỉ Chúa muốn khai sinh một dân Thiên Chúa mới nơi bản thân các ông.
Giờ đây Maccô gợi nhớ lại buổi truyền giáo ban đầu của Nhóm Mười Hai mà Ngài lại đặt vào trong một nghịch cảnh là sau chuyến viếng thăm thất bại của Đức Giêsu khi trở về quê hương Nagiarét. Maccô viết: “Người gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi”. Hai động từ “Gọi, sai đi” diễn tả rõ rệt ơn gọi của các ông. Các ông sẽ là những “Tông đồ” của Đức Giêsu, nghĩa là những người được Chúa “sai đi”, như Tin Mừng thứ hai sẽ nói đến, khi các ông đi truyền giáo về (6,30).
Những lời tiếp theo là chỉ thị Đức Giêsu ban bố cho các tông đồ trước khi lên đường truyền giáo. M. Quesnel ví những lời đó như “một loại thủ bản, một cẩm nang cho một nhà truyền giáo hoàn hảo” (“Comment lire un évangile?”, Seuil, trang 103).
– Đức Giêsu sai các ông đi: “Từng hai người một”.
Và thực tế như vậy, trong Công vụ Tông đồ, chúng ta sẽ thấy các nhà truyền giáo ấy thường lên đường với nhau “từng hai người một”. Phêrô đi với Gioan (Cv 3,1; 4,13); Phaolô với Banabê (Cv 1 3,2); giuđa và Sila (Cv 15,22).
– Đức Giêsu ra chỉ thị cho các kẻ Người gọi và sai đi như vậy phải có tinh thần khó nghèo và từ bỏ:
+ Khó nghèo xét về hành trang đi đường: “Một cây gậy, một đôi dép” là những gì Người cho phép. Người cũng không đồng ý cho mang hai áo”. Những kẻ được Chúa sai đi sẽ là những con người thanh thoát, không cồng kềnh, mà rong ruổi như Người và luôn sẵn sàng lên đường đi loan báo Tin Mừng.
+ Khó nghèo xét về những phương tiên sinh sống: không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng”. Hành trình như vậy đặt các người được sai đi tong tư thế tùy thuộc. Họ sẽ nhận lương thực và tiền túi từ tay những ai sẽ tiếp rước họ.
Đức Giêsu không giấu giếm họ: con đường truyền giáo là con đường gian khổ. Cũng như Người họ phải đón nhận rủi ro bị chối từ hay xua đuổi Các ông phải đi theo Người đến độ phải bị chống đối, phải hy sinh thân mình.
Sứ mệnh của Nhóm Mười Hai không phải là của riêng các ông, đó chính là sứ mệnh của Đức Giêsu nối tiếp nơi bản thân các ông: các ông rao giảng cùng một sứ điệp như Đức Giêsu là “Sám hối” (Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” Mc 1,14-15); các ông thực hiện cùng những dấu chỉ như Đức Giêsu là “trừ quỷ”và nếu Maccô ghi nhận rằng nhờ việc “xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh” thì hẳn là để ám chỉ rằng các ông hành động nhờ quyền năng của một ai khác là Đức Giêsu vậy.
Là những người được kêu gọi và sai đi, Nhóm Mười Hai không được giới thiệu ở đây như là những chuyên viên có ít nhiều chuyên môn hay là những người chuyên trách rao giảng Tin Mừng. J. Delorme kết luận: “Maccô mang lại cho sứ mệnh của nhóm Mười Hai một chiều kích rộng lớn hơn cả không phủ nhận một sự thật là bất cứ tác vụ nào trong Hội Thánh đều có thể tìm thấy nền tảng nơi sứ mệnh của Nhóm Mười Hai, trình thuật này của thánh Maccô có thể nhắc cho mọi tín hữu nhớ rằng họ thuộc một Hội Thánh được sai đến với mọi người và họ phải là nhân chứng của Đức Giêsu trước mặt người đời”.
BÀI ĐỌC THÊM
(J. Delorme, “Assemblées du Seigneur” số 46, trang 49).
Không những mang giá trị lịch sử, bài trình thuật về sử mệnh của Nhóm Mười Hai ở Galilê, trong Tin Mừng Maccô còn hoàn thành một chức năng cao hơn. Trình thuật ấy ghi một cột mốc quan trọng, có ý nghĩa, ở buổi ban đầu của Hội Thánh cũng như trong sự triển khai một công trình vẫn được theo đuổi trong Hội Thánh và thế giới. Khi đọc trình thuật này Hội Thánh được mời gọi nhận ra ơn gọi của mình. Ơn gọi này bao hàm một sứ mệnh không cho phép Hội Thánh được tự kết cấu thành xã hội khép kín đối với chính mình hoặc đối với bất kỳ mô hình văn hóa-xã hội nào. Trong trình thuật của Maccô, khi sai Nhóm Mười Hai ra đi, không kèm theo một xác định rõ ràng nào về địa điểm, nơi chốn phải tới để hạn định các ông (so sánh với Mt 10, 5-6 và Lc 9,6; 10,1). Mà theo sau đó là cả một bài tập nghề khó khăn đối với các môn đệ, khiến Đức Giêsu phải gia tăng các phép lạ và những lời cảnh giác rút vào ngay trong Do Thái giáo (7,8-13). Theo cái nhìn của Hội Thánh, Nhóm Mười Hai chính là những bảo chứng cho phần vụ mà Hội Thánh phải gánh vác là giới thiệu Tin Mừng cho tất cả mọi người.
“Đức Giêsu cho con người liên kết với công việc chính Người đang thực hiện. Người mở rộng công việc rao giảng, rời bỏ làng mạc cùng gia đình, đi đến các làng chung quanh mà giảng dạy. Người gọi Nhóm Mười Hai để ở bên Người rồi sai họ đi. Các ông sẽ phải lao vào cùng một cuộc chiến như Chúa, nên Người ban cho các ông “quyền trừ quỷ”. Thế là các ông ra đi từng hai người một, kêu gọi người ta ăn năn sám hối, trừ được nhiều quỷ, chữa nhiều người đau ốm khỏi bệnh. Rồi đây cuộc đời của các Tông đồ sau khi Chúa sống lại và ban Thánh Thần, sẽ như thế nào, thì lúc này đã được khởi sự như một bước thí nghiệm vậy. Bởi đấy người môn đệ của Đức Giêsu chia sẻ sứ mệnh của Người. Người môn đệ ấy loan báo và truyền đạt ơn cứu độ, ơn chữa lành ơn giải thoát. Đức Giêsu làm cho người môn đệ ấy trở thành cộng tác viên của Người. Người môn đệ mang cùng một tâm tư, có chung cùng hoạt động và những bận tâm như Thầy mình. Từ nay, những “ưu tư “ của người môn đệ trở nên đơn giản vì “Người chỉ thi cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy, không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng. Đi theo Đức Giêsu, không phải là sống cách biệt với sứ mệnh. Nhưng là dấn thân đi đến gặp gỡ mọi người với tinh thần đơn sơ, từ bỏ và tự do, để loan báo tin vui và mang đến cho họ ơn cứu độ”.
(“Thư gởi người Công giáo Pháp”, Cerf, trang 36-37).
Cái thời mà Hội Thánh thực Sự hoá thân với đại bộ phận xã hội, dầu gặp phải nhiều chống đối và thách đố, công việc truyền bá đức tin đều được tiến hành gần như tác động, nhờ vào những bộ phận chuyên lo việc truyền bá này còn có mặt ở cả những cơ quan điều hành thông thường của xã hội nửa. Do đó mà kiểm chứng được câu ngạn ngữ cho rằng người ta không sinh ra làm người tín hữu, nhưng cử thành người tín hữu (có đạo theo kiểu cha truyền con nối).
Dần dà với thời gian, chúng ta phải nhìn nhận rằng hoàn cảnh xa xưa này có những điều bất tiện, bởi lẽ khi việc loan báo đức tin ít nhiều bị thu gọn vào công việc thi hành những thủ tục gần như tự động để truyền đạt, người ta khó mà nhận thấy được những lệch lạc có thể xảy ra. Có những lệch lạc thực sự đã dẫn đến một thứ tục hóa đức tin chừng nào đạo Công giáo nhắm trở thành một phận vụ của xã hội và Hội Thánh thì được coi như một dịch vụ bình thường của xã hội.
Hoàn cảnh hiện nay lại có những khó khăn mới. Thực vậy, việc truyền bá đức tin ngày nay đang bị thỏa hiệp, hoặc rất khó thực hiện trong những khu vực rộng lớn của xã hội Pháp.
Điều có vẻ nghịch lý là hoàn cảnh này đòi buộc chúng ta phải đón nhận chiều kích mới mẻ của đức tin và kinh nghiệm sống đức tin ấy. Chúng ta không còn có thể chỉ hài lòng với một di sản đã thừa hưởng dù nó có phong phú đến đâu. Mà phải mở lòng đón nhận ân huệ Chúa ban trong những điều kiện mới mẻ và đồng thời tìm lại được cử chỉ ban đầu của việc phúc âm hóa đó là thái độ đề nghị đơn sơ mà cả quyết của Tin Mừng đức ki tô (Giáo Hội chỉ rao giảng Tin Mừng như một đề nghị để mỗi người tự ý quyết định lựa chọn).
SỨ MỆNH CỦA NHÓM MƯỜI HAI TẠI GALILÊ
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Không phải các sứ đồ tự chọn sứ mệnh cho mình. Như Amos, Phaolô (bài đọc 1 và 2), họ đã được chọn: “Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con” (Ga 15,16). Vì họ rao giảng sứ điệp của Thiên Chúa chứ không phải sứ điệp của họ. Và sứ mệnh họ là Tin Mừng hóa thế gian, dù lúc thuận tiện hay bất thuận tiện, dù phải lưu đày hay phải chết.
2) Lệnh lên đường: không mang bánh, bao bị, tiền bạc, không mặc hai áo. Nghĩa là phải khẩn trương, vì thời gian cấp bách, phải nhẹ nhàng, vì phương tiện chính là phương tiện của Chúa. Bận bịu với của cải, lo cho đầy đủ phương tiện như ý mình thì khó mà cả bước lên đường truyền giáo! Có bao giờ ta cảm nghiệm được tính cách cấp bách này không? Để dứt khoát dấn thân, để khẩn trương hối cải, để chinh phục thế gian ngay trong thế hệ mình! “Hãy cắt đứt xích xiềng ràng buộc con, dù là xích vàng, để tiến tới. Cuối đường có Chúa đón chờ con” (ĐHV 179).
3) Chúa Giêsu sai đi từng hai người, là để trước hết họ cho một chứng tích sống động về điều họ rao giảng: cộng đoàn huynh đệ yêu thương. Người ta cứ dấu đó mà biết họ là môn đồ của Chúa. Sau là để nâng đỡ nhau. Người tông đồ nào không được nâng đỡ hay không tìm sự nâng đỡ, hiệp thông nơi các bạn đồng chí, thế nào cũng cằn cỗi trong công việc rồi xé lẻ tách rời.
4) Người ban cho các ông quyền trừ quỷ. Quỷ là tên chia rẽ, chia rẽ dưới mọi hình thức: chia rẽ trong chính con người, chia rẽ trong xã hội, chia rẽ giữa con người với Thiên Chúa. Chúa Giêsu là Đấng cứu độ, là thầy thuốc chữa lành, là Đấng tái tạo sự hiệp nhất trong con người, giữa con người, giữa con người với Thiên Chúa. Người tông đồ phải đặt lại vấn đề khi thấy công việc mình làm không đem lại sự hiệp nhất và bình an trong chính bản thân, trong môi trường hoạt động.
5) Có nhiều hình thức làm tông đồ trong xã hội hôm nay: Tông đồ bằng đau khổ: không rao giảng, không hoạt động, nhưng thinh lặng tế lễ cứu bao linh hồn. Như Chúa Giêsu hấp hối trên thập giá, Đức Mẹ hấp hối trong tâm hồn dưới chân thập giá. Tông đồ bằng hy sinh và thinh lặng: như hạt lúa chôn vùi, thối nát để sinh muôn ngàn hạt khác nuôi nhân loại. Tông đồ bằng chứng tích: tang vật đáng tin hơn. Tông đồ bằng tiếp xúc: “Tâm hồn chúng ta chẳng nóng lên khi Người đi đường đàm đạo và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó sao?” (Lc 24,32). Tông đồ bằng tư tưởng: nâng đỡ người bạn đang lung lạc, ủi an kẻ sầu buồn… Tông đồ bằng bữa ăn: ăn là chuyện thường tình. Nhưng Chúa Giêsu ăn ở nhà Mađalêna, ở nhà Simon, Giakêu khác xa chúng ta: “Hôm nay ơn cứu rỗi đã đến với nhà này” (Lc 19,9). Tông đồ bằng thư từ: Phaolô ngồi trong tù, không máy in, vẫn viết thư cho một giáo đoàn, giáo đoàn ấy chép lại rồi chuyển sang cho giáo đoàn khác. Cứ thế, Phaolô đã giữ vững và phát triển đức tin của Hội Thánh sơ khởi. Con hãy để tất cả lòng yêu thương con vào phong bì rồi dán lại, gởi đi.
NHỮNG NGƯỜI TIỀN HÔ CHO NHÀ VUA (Mc 6,7-11)
Chúng ta sẽ hiểu rõ đoạn sách này hơn, nếu chúng ta có trong trí một hình ảnh về cách ăn mặc của người Do Thái tại Palestine vào thời của Chúa Giêsu. Có có năm trang phục.
1/ Phần áo lót mặc lên người trước nhất là cái chiton hay sindon, tức là áo trong. Áo này rất đơn giản, chỉ là một mẩu vải dài xếp đôi rồi may một bên. Nó khá dài đủ che phủ đến bàn chân. Hai góc ở phần trên được khoét để làm hai cánh tay ra. Loại áo này thường được bán mà chưa khoét cổ. Điều đó cho ta biết áo vẫn còn mới, để người mua tùy tiện khoét phần cổ sao cho vừa với khổ người của mình. Thí dụ như kiểu cổ áo của nam với nữ khác nhau. Cổ áo phụ nữ phải rộng để có thể cho con bú. Tóm lại chiếc áo trong chỉ khác hơn cái bao một chút có khoét hai lỗ ở hai góc phía trên. Trong hình thức phát triển hơn, nó có hai tay áo dài được khâu dính vào và đôi khi xẻ ở phía trước để tra nút và cài lại.
2/ Chiếc áo ngoài được gọi là himation. Ban ngày nó được dùng làm áo choàng và ban đêm làm mền. Nó gồm một tấm vải dài hơn 2 mét, khổ rộng khoảng 1,4 đến 1,5, rộng khoảng 0,4m mỗi bên được xếp và may lại, khoét lỗ ở phía trên để xỏ tay được. Vì thế nó gần như vuông vức. Thường thường nó là hai khúc vải, mỗi khúc dài hơn 2m, rộng khoảng 0,6-0,7m may dính vào nhau. Đường may nằm phía sau lưng. Nhưng chiếc áo ngoài đặc biệt có thể dệt cẩn thận nguyên tấm không có đường may như chiếc áo dài của Chúa Giêsu vậy (Ga 19,23). Đây là chiếc áo chính trong toàn bộ y phục.
3/ Có dây thắt lưng. Dây thắt lưng để buộc phía ngoài hai chiếc áo vừa kể trên. Khi cần làm việc hay chạy, người ta vén các vạt áo trong lên và giữ lại bằng giây thắt lưng. Có khi chiếc áo ngắn được vén lên ở phía trên dây thắt lưng, chỗ trống phía trước thắt lưng có thể đặt một bao hoặc một gói gì đó để mang đi. Dây thắt lưng thường được may hai lớp khoảng 4 tấc rưỡi từ mỗi đầu. Phần may hai lớp thường dùng làm túi đựng tiền.
4/ Có khăn vuông che đầu. Khăn vuông che đầu bằng vải, rộng khoảng 1m2, thường màu trắng, xanh hoặc đen. Thỉnh thoảng cũng có loại khăn bằng lụa màu, nó được xếp theo đường chéo góc, cột lên đầu để che gáy gò má và mắt cho khỏi sức nóng và tia nắng của mặt trời. Người ta cột nó vòng quanh đầu bằng một sợi dây da co giãn được sao cho dễ mở ra.
5/ Có đôi dép. Dép chỉ là những miếng da bằng phẳng có xoi lỗ, có khi bằng gỗ hoặc bện bằng rơm. Người ta xỏ dây và cột nó vào bàn chân để mang.
Túi tiền có thể là hai vật sau đây:
(a) Nó có thể là chiếc túi đi đường bình thường. Túi này được may bằng da dê con. Thường thì bộ da con vật được lột nguyên miếng nên vẫn giữ được hình dáng con vật, đủ cả chân, đuôi và đầu. Hai túi có dây để đeo trên vai. Trong đó người chăn chiên, khách hành hương, hoặc kẻ đi đường đựng bánh mì, nho, trái ôliu và bánh sữa đủ ăn một hai ngày.
(b) Có một điểm gợi ý rất thú vị ở đây. Từ Hy Lạp pera có nghĩa là chiếc bao quyên góp. Thường thường các thầy tư tế và người sùng đạo ra đi với chiếc bao này để góp nhặt các của đóng góp cho Đền Thờ. Họ được mô tả là “những tên trộm cướp ngoan đạo với các chiến lợi phẩm phình to thêm, từ làng này sang làng khác”. Có một tấm bia của một người tự xưng là nô lệ của nữ thần xứ Syri, cho biết mỗi chuyến đi như vậy, anh ta lại mang về cho nữ thần của mình 70 bao đầy.
Nếu chúng ta hiểu theo nghĩa thứ nhất thì Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ Ngài đừng mang theo thức ăn khi đi đường, nhưng phải tin cậy vào Thiên Chúa trong mọi sự. Còn theo nghĩa thứ hai, thì lời dạy ấy có nghĩa là họ không nên tham lam mà vơ vét như các thầy tư tế. Họ phải đi đây đi đó để cho đi chứ không phải để thâu gom của cải.
Ở đây còn thêm hai điều lý thú khác nữa:
1/ Theo luật của các Rabbi, thì khi vào đến các sân của Đền Thờ, người ta phải để lại đó chiếc gậy, đôi dép và túi bạc. Mọi vật tầm thường phải được xếp qua một bên khi vào nơi thánh. Có lẽ Chúa Giêsu đang nghĩ đến việc đó và Ngài ngụ ý dạy rằng các căn nhà khiêm tốn mà các môn đệ Ngài vào, đều là những nơi thánh thiêng như các sân trong Đền Thờ vậy.
2/ Bên phương Đông, việc ân cần tiếp đãi khách lạ được xem là một bổn phận thiêng liêng. Khi có người lạ vào làng, người ấy không cần đi tìm nơi trú ngụ vì chính làng ấy có nhiệm vụ tiếp đãi họ. Chúa Giêsu dạy các môn đệ của Ngài rằng nếu người ta từ chối không chịu tiếp đãi, đóng cửa, bịt tai lại, các ông cứ phủi bụi dính chân họ rồi đi nơi khác. Luật của các Rabbi dạy rằng bụi đất nơi dân ngoại vốn ô uế, nên khi một người từ xứ khác vào Palestine, phải phủi cho sạch không còn một hạt bụi ô uế nào. Chúa Giêsu muốn dạy nếu họ không chịu nghe các ngươi, việc duy nhất các ngươi có thể làm là đối xử với họ như cách người Do Thái khắt khe vẫn đối xử với nhà của người ngoại. Giữa họ và các ngươi chẳng còn có liên hệt gì với nhau nữa cả!.
Vậy chúng ta thấy dấu hiệu của một môn đệ Chúa là sống thật đơn giản, hoàn toàn tin cậy vào Thiên Chúa và phải luôn luôn đem ơn phúc đến cho người khác chứ không phải mong thiên hạ làm phúc cho mình.
THÔNG ĐIỆP VÀ LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA NHÀ VUA (Mc 6,12-13)
Nói vắn tắt, đây là bản phúc trình công tác mà các môn đệ đã trình lên Chúa Giêsu sau khi Ngài sai phái họ ra đi.
1/ Họ rao truyền sứ điệp của Chúa Giêsu cho quần chúng. Theo nghĩa đen, từ được dùng chính là từ dùng cho sự công bố của sứ giả tiền trạm. Khi các tông đồ đi ra rao giảng cho mọi người, các vị không hề tạo ra sứ điệp, các vị mang một sứ điệp. Họ không nói với mọi người điều họ tin hay thấy là đúng nhưng chỉ nói lại cho mọi người chân lý của Thiên Chúa. Sứ điệp của các ngôn sứ bao giờ cũng bắt đầu bằng câu “Đức Chúa phán vậy”. Người muốn mang một sứ điệp kiến hiệu và thành công đến cho kẻ khác, trước hết phải nhận từ nơi Chúa.
2/ Các vị mang theo sứ điệp của nhà vua đến cho mọi người và sứ điệp đó là “hãy hối cải”. Đây là một sứ điệp gây khó chịu cho mọi người. Hối cải có nghĩa là thay đối ý, sau đó hành động phù hợp với sự đối ý đó, có nghĩa là đổi ý và thay đổi luôn hành động nữa. Hối cải bao gồm sự thương tổn vì phải tự nhận con đường mình đang đi là sai lầm, đầy cay đắng. Hối cải bao gồm sự xáo trộn, vì nó có nghĩa là người ta phải hoàn toàn đảo ngược nếp sống.
Chính vì thế mà ít người chịu hối cải, vì hầu hết người ta không muốn bị quấy rầy. Trong một câu sống động, bà Asquith đề cập đến số người “lãng phí cho đến chết”. Nhiều người vẫn hành động như thế. Họ oán ghét mọi hành động gây căng thẳng, nỗ lực. Với họ, cuộc đời là “một vùng đất chỉ có buổi chiều”. Theo một vài phương diện, một tội nhân hung hăng, công khai xông vào mục tiêu tự chọn vẫn dễ cuốn hút hơn một người đi rông tiêu cực, ủ rũ trôi giạt cách nhu nhược và chẳng có một chút định hướng gì cho đời sống cả.
Trong tác phẩm Quo Vadis có một đoạn trong đó chàng thanh niên Roma Vinicius yêu một cô gái là Kitô hữu. Vì Vinicius không phải là Kitô hữu nên cô ta không muốn liên hệ với cậu. Cậu theo cô ấy đến những buổi họp thầm lén ban đêm của một số Kitô hữu, tại đó chẳng ai nhận ra cậu, và cậu lắng nghe Phêrô giảng dạy. Lúc đang nghe có một việc đã xảy đến cho cậu: “Vinicius cảm thấy rằng nếu muốn theo lời dạy ấy, cậu phải đặt trên đống lửa hừng tất cả mọi ý nghĩ, thói quen, tính tình, cả bản chất của mình cho đến khoảnh khắc nào đó và thiêu đốt tất cả ra tro, rồi tiếp nhận vào người sự sống khác hẳn, một linh hồn hoàn toàn mới mẻ”.
Đó là hối cải. Nhưng nếu một người không mong ước gì hơn là được để yên một mình thì sao? Sự thay đổi không nhất thiết chỉ từ chỗ trộm cắp, sát nhân, dâm loạn, cùng các tội tỏ tường khác. Sự thay đổi có thể xảy ra ngay trong một đời sống ích kỷ, tham lam, chẳng xem ai ra gì, thay đổi từ chỗ lấy cái tôi làm trung tâm, và mọi sự thay đổi như vậy ắt sẽ gây rất nhiều tổn thương. W. M. Macgregor có trích một câu nói của vị giám mục trong quyển “Những Kẻ Khốn Cùng” của Victor Hugo “Tôi luôn luôn gây rối cho một vài người trong đám họ, vì qua tôi, một luồng không khí từ bên ngoài đã thổi tới họ, sự có mặt của tôi giữa họ khiến họ cảm thấy như có một khung cửa được mở toang và họ ở trong vùng có gió lùa”. Hối cải không chỉ là hối tiếc về mặt tình cảm mà thôi, mà là làm cách mạng. Vì lý do ấy đã có rất ít người chịu hối cải.
3/ Các tông đồ đưa đến cho người ta ơn thương xót của nhà vua. Không phải họ chỉ đem đến cho người ta những đòi hỏi làm đảo lộn mà thôi, nhưng họ cũng cần mang đến sự trợ giúp và chữa bệnh nữa. Họ đem đến sự giải phóng cho những người bị quỷ ám cùng khổ. Ngay từ đầu Kitô giáo đã nhắm mục đích đem sức khỏe, sự lành mạnh cho cả xác lẫn hồn. Kitô giáo không chỉ nhằm cứu rỗi linh hồn mà thôi, nhưng là cứu rỗi con người toàn diện. Kitô giáo không chỉ đưa ra một tay kéo người ta lên khỏi chỗ suy đồi đạo đức, nhưng cũng đưa tay còn lại kéo người ta ra khỏi sự đau đớn, khổ sở của thân xác. Điều rất có ý nghĩa, là các môn đệ còn xức dầu cho mọi người nữa. Đời xưa, dầu được xem là thuốc trị bá chứng. Galen là y sĩ đại tài người Hy Lạp nói “Dầu là thuốc hay nhất để trị bệnh cho thân thể”. Khi đặt trong tay các tôi tớ của Chúa Cứu Thế, dầu được thêm một đặc tính mới. Điều lạ lùng là các môn đệ sử dụng những vật mà tri thức hạn chế của loài người thời bấy giờ vẫn biết rõ, nhưng Thần Khí Chúa đã ban cho họ một quyền phép mới và một đặc tính mới trong cách trị bệnh cổ truyền đó. Quyền năng của Chúa trở thành có giá trị trong mọi việc thông thường khi người ta có đức tin.
Vậy mười hai tông đồ đã đem đến cho nhân loại sứ điệp cứu rỗi, lòng thương xót của Nhà Vua, và cho đến ngày nay, đó vẫn là nhiệm vụ hằng ngày của Kitô hữu.
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn