LỜI CHÚA CHÚA NHẬT 28 THƯỜNG NIÊN_C
Lời Chúa: 2V 5, 14-17; 2Tm 2,8-13; Lc 17,11-19
——-
1. Nhận ra ơn Chúa (TGm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Đón nhận ơn cứu độ (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. Tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
4. Sống Tin mừng là sống Tạ ơn (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
5. Biết ơn (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)
6. Biết ơn và vô ơn (Trầm Thiên Thu)
7. Trọn đời tri ân (AM. Trần Bình An)
8. Tình yêu Thiên Chúa diễn tả qua trung gian con người (Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
9. Đừng có vô ơn (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
10. Nhận biết và cảm tạ hồng ân (Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
11. Làm ơn đừng nhớ, chịu ơn chớ quên (JM. Lam Thy, ĐVD)
12. Lòng biết ơn (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
13. Tình thương của Chúa (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
14. Bệnh phong cùi (Lm. Giacôbê Tạ Chúc)
15. Sống lòng biết ơn Thiên Chúa (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
16. Người Samari trở lại tôn vinh Thiên Chúa (Lm. Uyên Nguyen)
17. Biết ơn. (Lm. Trầm Phúc)
18. Tỏ lòng biết ơn (Dã Quỳ)
19. Không phải tất cả đểu sạch cả sao? (Fx. Đỗ Công Minh)
20. Hãy tạ ơn Thiên Chúa (Lm. Đan Vinh)
21. Chúa Nhật 28 Thường niên_C (Lm. Antôn)
.
Vô duyên bất tài, phận bạc duyên đen, ăn không ngon, ngủ không yên, đó là dấu hiệu xấu, xem như mất cả chì lẫn chài ở đời này rồi. Đồng ý rằng, cuộc sống có vui buồn sướng khổ, có giầu nghèo, có đắng cay ngọt bùi, tuy nhiên ai cũng ngán cảnh hết tình cạn nghĩa ! Người xưa có câu: cây khô tưới nước vẫn khô, kẻ hèn đi đến đâu vẫn hèn; nghèo không phải là xấu, bệnh tật chưa phải khổ tột cùng, người không có chí khí, mới thực sự là hết thuốc chữa. Trong cái khó, ló cái khôn, trăm cái lý, không bằng tí cái tình, trong tình thế khẩn cấp, sự liều lĩnh thay thế cho sự khôn ngoan. Mỗi người có thể nghèo, có thể giầu, thân xác ốm yếu hoặc cường tráng, tuy có khác nhau về tình cảnh, nhưng thực ra họ đều có chung một khao khát hạnh phúc.
Tục ngữ có câu: nhất lý nhì lỳ, thực tế xã hội luôn khiếp sợ trước cảm nhận: chín thằng lỳ không bằng một thằng liều. Đúng, mười người phong cùi họ vừa lỳ vừa liều, khi đồng thanh “hô to, hét lớn”: “lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi”. Trong tư cách là thầy dạy, Đức Giêsu đã bày tỏ lòng thương xót, đã chỉ giúp họ: “các ngươi hãy đi trinh diện với các tư tế”. Vâng, không đề nghị “giá cả” việc chữa trị bệnh nan y, nhưng có ý nói đến việc “thưa vâng”. Không đặt vấn đề quyền năng và sám hối, nhưng chỉ ra “tin yêu”, chính là điều kiện để được lành sạch. Qua việc gặp gỡ mười người “bệnh phong”, Đức Giêsu đã thực thi sứ mạng là Thầy dạy đức tin, là Đấng có quyền năng chữa trị xác hồn. Mười người phong, vừa thể hiện được tình đoàn kết kêu xin lòng thương xót Chúa, vừa là cơ duyên gặp Đức Giêsu là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa.
Biết để sống, biết để niềm tin được trưởng thành, biết để xác tín hơn tin theo Chúa không có “ai đỏ ai đen”, biết để tâm phục khẩu phục về tình yêu và lòng thương xót Chúa, luôn đồng hành với từng hoàn cảnh là sự thật. Ngày hôm nay, biết bao người cho rằng: có bệnh vái tứ phương, hoặc cảm thông, động viên các bệnh nhân: còn nước còn tát. Đồng ý rằng, đau khổ, nhu cầu cần được giải toả những vướng mắc, ai cũng có, quan trọng hơn là những u nhọt, những tâm bệnh, ta có biết tìm gặp bác sĩ không ? Thầy thuốc tài giỏi thời nào cũng có, nhưng thầy thuốc chữa trị xác hồn phải tìm gặp nơi Thầy Giêsu mới thực sự khỏi. Đức Giêsu thấu biết đau bệnh thể xác hay tâm hồn, đều khổ và cần được cứu chữa, Đức Giêsu không cần người bệnh phải “lỳ hay liều”, miễn là biết sống niềm tin, biết sống lời thưa vâng cách nhanh lẹ nhất,
Theo binh pháp của Tôn Tử: biết người biết ta, trăm trận trăm thắng, đã là hợp lý, là thành công trong việc điều quân khiển tướng. Trong tương quan xã hội, biết mình là ai, biết mình đầy giới hạn, cần được cảm thông, yêu thương, đó là chọn lựa lựa khôn ngoan. Trong tương quan với Đấng ta tin thờ, ai cũng phải biết mình chưa phải là thánh, nghĩa là còn đầy tội lỗi bất xứng, cần đến Chúa xót thương biến đổi, chữa trị xác hồn. Mười người phong cùi biết mình mắc bệnh nan y, họ biết hiệp nhất với nhau kêu cầu lòng thương xót Chúa, thì đúng và đẹp, nhưng sẽ chuẩn hơn, khi được lành sạch, họ phải biết sống lời tạ ơn, sống ơn ban Đấng cứu chữa họ. Hồng ân giữa cho và nhận nơi mười người phong với Đức Giêsu thật giống với câu ca dao: đắng cay cũng thể ớt nồng, ngọt ngào chi lắm mà không say tình ? “Chớ gì không phải mười người được lành sạch sao, còn chín người kia đâu” ?
Biết mình cần một tinh thần minh mẫn để cư xử đúng đẹp, biết nói lời yêu thương với đấng bậc sinh thành, biết nói lời xin lỗi với anh chị em, nhưng còn phải biết cám ơn, biết sống chân thành, khiêm tốn, mới đầy đủ tình và lý. Văn hoá cám ơn, biết ơn, không phải là điều khó, những ai cũng phải tập luyện, phải thực hành, dù ở phạm vi tự nhiên hay siêu nhiên. Đức Giêsu vô tình hay mười người bệnh phong cố tình kêu xin lòng thương xót Chúa, đều có lý và hợp lý, nghĩa là khi ốm đau cần thầy thuốc, khi tội lỗi cần được thứ tha. Mười người bệnh phong biết Đức Giêsu là thầy thuốc, biết Đức Giêsu là hiện thân của tình Chúa, họ cần được chữa bệnh thể xác, nhưng họ cần phải biết Đức Giêsu là Đấng cứu chữa phần hồn nữa. Đức Giêsu rất muốn nói đến tất cả nhân loại: “hãy đứng dạy mà về đi, vì lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi”.
Biết để sống tốt với bổn phận của mình, biết để sống cho có ý nghĩa hơn, biết Đức Giêsu là Thiên Chúa làm người, là Đấng cứu độ trần gian, nhưng phải làm gì để được lành sạch trong ơn gọi làm môn đệ Chúa ? Kinh nghiệm luôn cần thiết cho chúng ta: niềm vui của kẻ được no say, hạnh phúc của đôi trai tài gái sắc, cũng như lòng biết ơn không bao giờ tự đến theo kiểu cầu được ước thấy. Cổ nhân cũng nói đến một thực tế: có lòng tri ân sẽ không bao giờ thiếu vắng hạnh phúc, vì người ấy sẽ nhận ra mình mãi mãi được yêu thương. Thánh Inhaxiô nói: tội lớn lao hơn cả là tội vô ơn, còn sự ray rứt nhất của người mắc bệnh nan y, đó là tiếc nuối vì đã sống vô chừng mực. Được biết Chúa yêu thương không phải chỉ là người đạo gốc đạo dòng, được sạch sẽ thơm tho không phải chỉ nơi người mắc bệnh phong, nhưng là tất cả những ai tin và biết sống niềm tin vào Đức Giêsu trọn vẹn nhất. Amen.
.
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Ở đời, người ta nhận ơn thì nhiều và cám ơn thì chẳng mấy khi. Khi chọn các Bài đọc Lời Chúa cho các Thánh lễ tạ ơn, mới thấy trong Kinh Thánh rất ít đoạn nói tới việc người đã nhận ơn mà biết tạ ơn Chúa. Bài Tin Mừng hôm nay nằm trong số ít ỏi đó, mà nội dung cũng cho thấy tỷ lệ rất thấp (1/10) những người tạ ơn, vì trong số mười người được chữa lành, chỉ có một người trở lại nói lời cám ơn vì đã được khỏi bệnh. Lòng biết ơn hiếm hoi là vậy, ngay cả trong mối tương quan giữa con người với nhau. Người ta dễ quên những điều tốt đẹp người khác làm cho mình. Trong khi đó, những sơ suất, những xúc phạm thì lại nhớ rất lâu và biến thành “thù dai”, đợi cơ hội trả thù.
Naaman là một tướng lĩnh người Syria, tức là người “ngoại đạo” theo cái nhìn của người Do Thái. Câu chuyện ông được chữa lành cũng nhiều rắc rối gian truân. Ông đã qua bao nhiêu thày mà chẳng khỏi bệnh cùi. Trong khi đó, tương lai và sự nghiệp của ông có nguy cơ bị tiêu tan do chứng bệnh nan y này. Hành trình đến gặp ngôn sứ Elisê, người của Thiên Chúa, cũng gian truân không kém. Vị ngôn sứ xem ra không mặn mà, trong khi “bệnh nhân” nghĩ mình phải được ưu tiên trọng vọng và chăm sóc đặc biệt. Người của Thiên Chúa chỉ có một lời chỉ dẫn duy nhất: ra tắm bảy lần nước sông Giođan. Sau nhiều phản ứng dữ dội, vị tướng người Syria đã chấp nhận lời khuyên này và ông đã đạt được kết quả như lòng mong muốn. Da thịt ông trở nên như da thịt của đứa trẻ. Ông trở lại tôn vinh Thiên Chúa. Dưới ngòi bút của tác giả sách Các Vua, không chỉ cá nhân ông Naaman nhận ra quyền năng của Thiên Chúa, nhưng còn cả dân ngoại. Vị tướng người Syria đại diện cho các dân ngoại tuyên xưng: “Thật, tôi không biết có Thiên Chúa nào khác trên hoàn vũ, ngoài một Thiên Chúa ở Israen”. Naaman đã bày tỏ lòng biết ơn đối với Chúa, là Đấng đã chữa lành ông. Nếu vị Ngôn sứ ra đón tiếp ông nồng hậu và dùng phương pháp trần gian để chữa ông lành bệnh cùi, chưa chắc ông đã nhận ra quyền năng của Chúa, mà sự thán phục chỉ dừng lại nơi một con người là vị Ngôn sứ mà thôi. Việc Naaman xin đất chở về quê, cho thấy niềm tin tuyệt đối của Ông vào Thiên Chúa, để rồi từ nay, ông sẽ chỉ tôn thờ một mình Ngài.
Niềm tin vào Thiên Chúa được củng cố khi người tin nhận ra những điều kỳ diệu Ngài đã làm. Phaolô là một chứng nhân về điều này, qua việc ông bị giam tù. Mặc dù thân xác ông bị xiềng xích, nhưng Lời Chúa không bao giờ bị xiềng xích. Ông khẳng định điều ấy, vì thấy Chúa vẫn thực hiện những điều kỳ diệu qua lời rao giảng của Ông. Lời Chúa vẫn tiếp tục sinh hoa kết trái, ngay trong chính cảnh tù đày. Vì vậy, Phaolô khuyên nhủ người môn sinh của mình là Timôthê hãy noi gương ông mà kiên trì, đồng thời nhận ra: giữa những đau khổ thân xác, tâm hồn vẫn chan chứa niềm vui và hy vọng. Như Đức Giêsu đã chịu khổ hình và đã sống lại vinh quang, nếu ai chịu khổ hình với Người thì cũng sẽ được vinh quang với Người.
Cũng như Naaman là một người ngoại, người cùi được chữa lành trong Tin Mừng cũng là người Samari. Người Do Thái thường nhìn người Samari một cách khinh bỉ và coi thường. Ấy vậy mà anh lại nhận ra quyền năng của Đấng vừa chữa mình khỏi bệnh, để rồi trở lại sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người. Cử chỉ sấp mình nói lên sự thờ phượng kính tôn. Khi diễn tả chi tiết này, tác giả Luca muốn nói với chúng ta: người được chữa lành tuy là người ngoại, mà anh lại tôn thờ Đức Giêsu và tôn xưng Người là Đấng Tối cao. Sự tôn thờ cũng được thể hiện trong lời van xin của mười người cùi: “Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi!”. Đó cũng chính là lời van xin của chúng ta khi sám hối khởi đầu phụng vụ Thánh Thể. Thánh sử Luca cũng nói với chúng ta: đừng nhìn người khác với cái nhìn thành kiến, nhưng hãy thấy cái tâm và lòng tốt của họ.
Mỗi phút giây trong cuộc đời, chúng ta đều đón nhận những ơn lành Chúa ban. Người vô tín không nhận ra điều đó và họ cho là ngẫu nhiên. William Arthur Ward đã viết: “Ngày hôm nay Chúa đã cho bạn món quà là 86,400 giây. Bạn đã dùng giây nào để nói ‘cảm ơn’ chưa?”. Nhân vật người cùi trong Tin Mừng, như một lời nhắc nhở chúng ta hãy nhận ra ơn của Chúa để cảm tạ Ngài. Tạ ơn và tôn vinh Chúa còn giúp chúng ta đón nhận thêm những ơn khác Chúa ban.
Cám ơn Chúa, chúng ta cũng biết nói lời cám ơn đối với nhau. Bởi lẽ con người sống trên trần gian không phải là những ốc đảo riêng biệt, nhưng liên đới và phụ thuộc vào nhau. Ý thức điều đó sẽ giúp chúng ta sống hài hoà với tha nhân, tôn trọng những khác biệt để xây dựng cuộc sống nhân ái hoà bình.
“Trái tim không biết ơn sẽ không tìm được sự hạnh phúc. Khi có lòng biết ơn, chúng ta sẽ tìm thấy hạnh phúc từng giờ” ( Henry Ward Beecher).
.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Một lần, trong dịp kỷ niệm chịu chức của 1 linh mục bạn, tôi thấy ấn tượng về lời cám ơn cuối lễ, một lời cám ơn thật chân thành, đầy cảm xúc. Cha ấy nói: “Hôm nay, tôi xin cảm ơn tất cả anh chị em trong ban hành giáo giáo xứ, vì trong thời gian qua đã nhiệt thành cống hiến hết sức mình cho giáo xứ và cá nhân tôi, thành quả giáo xứ có được như hôm nay có sự đóng góp công sức của tất cả mọi người”. Cha còn tâm sự riêng: “Giáo xứ của tôi có nhiều người giỏi lắm, giỏi hơn tôi nhiều”! Câu chuyện trên đối với nhiều người không có gì là mới, nhưng có mấy lãnh đạo đã nhớ cám ơn cộng sự viên của mình.
Ở đời người lãnh đạo thường nghĩ mình là “người giỏi nhất”, là bề trên thì nghiễm nhiên công lao về mình. Đã là “giỏi nhất” thì thành quả hay công lao chỉ thuộc về lãnh đạo tạo ra. Đã là “giỏi nhất” thì chỉ nghe bề dưới “ca tụng”. Đã là “bề trên” thì bề dưới phải phục tùng, nên đâu cần phải cảm ơn kẻ dưới quyền mình. Đây là nguyên nhân cho sự kiêu ngạo, độc đoán, gia trưởng trong con người, thích được tung hô và không biết phải khiêm nhu cám ơn mọi người. Đây là nguyên nhân khiến nhiều lần chúng ta cũng quên cám ơn người nhỏ bé hơn chúng ta. Bề trên không cám ơn bề dưới. Cha mẹ không cám ơn con cái. Ông chủ không cám ơn người giúp việc. Khách dự tiệc không cám ơn người dọn cỗ . . . Xem ra người bé mọn luôn thiệt thòi mọi sự, kể cả mong đợi lời cảm ơn cũng không?
Xem ra muốn cám ơn phải biết khiêm nhường. Khiêm nhường để thấy mình nhỏ bé, đáng thương. Khiêm nhường để thấy được quà tặng thật cao quý. Khiêm nhường để thấy hạnh phúc khi được người khác trao ban. Khiêm nhường để nói lời cám ơn với những ai đã giúp đỡ mình, dù là việc nhỏ nhặt nhất nhưng dầu sao họ cũng vì ta mà hy sinh.
Bài phúc âm hôm nay nói tới những 9 người quên cám ơn. Con số quên cám ơn nhiều hơn số biết ơn. Họ không cám ơn, có thể vì nghĩ rằng đây là bổn phận mà Chúa phải làm? Họ không cám ơn, có thể vì thói quen chỉ biết đòi hỏi mà không cần báo đáp? Họ không cám ơn, có thể họ quá tự cao nên không dám cúi xuống nhận ơn và cám ơn.
Rất may trong 10 người vẫn còn 1 người có lòng khiêm hạ để quay lại cám ơn. Lòng biết ơn của anh hôm nay không dừng lại ở việc cám ơn mà điều quan yếu là anh quay đầu lại sấp mình thờ lạy và tôn vinh Chúa. Dù rằng chín người kia đã không quay lại, nhưng số đông không là tất cả. Lương tâm và lòng khiêm hạ đã mách bảo anh quay trở lại để cảm tạ tri ân người đã cứu giúp anh. Chín người kia họ có thể ngại ngùng khi phải cảm ơn, nhưng lòng khiêm hạ nơi anh là nhịp cầu để anh đến với Chúa trong niềm tri ân.
Hóa ra trong cuộc sống lời tri ân cần có sự khiêm hạ. Không có sự khiêm hạ con người sẽ không nhìn thấy sự trợ giúp của tha nhân cũng như của Thiên Chúa để biết sống trong tâm tình tạ ơn. Sự kiêu căng khiến con người chỉ nhìn thấy tài năng của mình, chỉ nhìn thấy công lao của mình mà quên đi sự đóng góp của tha nhân và nhất là tình thương quan phòng của Thiên Chúa.
Thế nên, trong mọi sự hãy biết cám ơn Chúa, cám ơn nhau. Vợ chồng hãy cám ơn nhau vì đã là một phần của nhau để có thể chia sẻ ngọt bùi với nhau. Cha mẹ hãy cám ơn con cái, vì con cái đã luôn ngoan ngoãn vâng lời. Con cái hãy cám ơn cha mẹ, vì cả đời cha mẹ đã hy sinh cho ta. Ước gì chúng ta cũng biết khiêm tốn sấp mình thờ lạy cám tạ Thiên Chúa đã rộng ban cho chúng ta muôn vàn ân phúc. Amen
.
Lm Giuse Hoàng Kim Toan
Lời cám ơn mang đến cho con người những điều tốt đẹp trong tương qua với nhau. Lời tạ ơn đối với Thiên Chúa cũng làm cho con người được thấy sự phong phú của Thiên Chúa ở giữa loài người. Câu truyện Tin Mừng ghi lại chỉ có một người đến tạ ơn, còn chín người kia đâu? Cũng đặt ra cho con người một câu hỏi.
Lời cám ơn giữa con người với nhau.
Lời cám ơn bày tỏ con người khiêm cung, biết trân trọng những việc người khác đã làm cho mình. Lời cám ơn chân thành, không sáo ngữ, rút ngắn được những khoảng cách giữa người và người.
Người nhận cũng vui và người cho cũng vui, khi trao nhau những lời cám ơn thật thà. Con người sống với nhau đâu cần những lớn lao, chỉ một nụ cười, một câu nói nhân từ, một lời cám ơn, một ánh mắt nhìn dễ thương, cũng đủ làm cho cuộc sống thêm phần vui tươi.
Lời cám ơn làm cuộc sống dễ dàng xua đi căng thẳng giữa những công việc, êm đi giữa những bộn bề lo âu, giảm bớt những đau khổ cuộc sống. Hạnh phúc đơn sơ với lời cám ơn thật thà.
Đôi khi cũng cần cám ơn những nghịch cảnh đến vì nhờ đó con người được thêm kinh nghiệm và mạnh sức tiến lên. Không có gì đến với con người mà vô ích nếu nhận ra đó một cơ hội sửa sai và tiến lên phía trước.
Tạ ơn
Hầu như quốc gia nào, dân tộc nào cũng có lễ tạ ơn. Tạ ơn mang một ý nghĩa đặc biệt để nhắc tới một ơn huệ lớn lao của trời, của thượng đế hay Thiên Chúa hoặc tổ tiên đã ban cho dân tộc, quê hương xứ sở mình.
Thông thường đã gọi là lễ lúc nào cũng có phần trang trọng để kính nhớ và hoài tưởng. Khi hoài tưởng những ký ức về những gì đã qua trong quá khứ, người ta muốn nhắc lại cho con cháu sự kiện ghi nhớ về cội nguồn, đồng thời cũng sống lại những ký ức ấy trong hiện tại và cùng ước mong ơn lành đó tiếp tục để được sống tâm tình tạ ơn.
Trong khi chữa lành mười người phong hủi, chỉ có một người đến tạ ơn, lại là người dân ngoại. Câu hỏi chín người kia đâu? Gợi lên biết bao điều đã vô tình bỏ qua trong đời sống.
Thiếu tạ ơn. Cuộc sống đôi khi con người đang sống mất đi ý nghĩa của đời sống, sống như một cỗ máy: ăn, làm, hưởng thụ, nghỉ ngơi, cứ vậy ngày qua ngày. Không thấy gì mới, không cảm nghiệm gì vui, sống như trả nợ từng ngày sống, cứ vui chóng qua rồi lại tiếp tục sống. Vui là mấy mà toàn là buồn sầu, khổ đau!
Không biết tạ ơn. Không bao giờ bằng lòng với cuộc sống mình đang có. Lúc nào cũng cảm thấy thua kém người khác, lúc nào cũng cảm thấy chẳng đủ đầy. Cứ vất vả ngược xuôi, cứ cày sâu, cuốc bẫm trong công việc. Cuộc đời buồn tênh theo con nước trôi, hơn thua nhau giữa đời.
Không cám ơn, chẳng thấy gì mới, không nhận ra điều hay, cứ nghĩ do mình gặp may, do mình tài khéo, hoặc do mình đã cố gắng. Không nhận ra được dấu ấn từ Trời ban cho, nên con người chỉ thấy trách nhiệm hoặc chỉ thấy mình đáng thương trong cuộc sống, nên cứ mãi xin lòng xót thương.
Cám ơn và tạ ơn luôn làm nên đời sống phong phú, nối gần các tương quan với Chúa với anh chị em và quan trọng nhất là mình “đón nhận nhiều hơn những gì mình kiến tạo”.
“Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh” (1Cr 4, 7)
.
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu chúng ta được đưa đi từ ngạc nhiên này tới bất ngờ khác. Có những câu chuyện làm ta thú vị. có những dụ ngôn làm ta dở mếu dở khóc. Có những thí dụ làm ta nực cười.Có những dụ ngôn gây ấn tượng sâu xa trong cuộc đời con người.Có những chuyện làm ta suy nghĩ nát óc. Vâng, Chúa Giêsu khi đi rao giảng, loan báo Nước Trời, Ngài đã dùng những hình ảnh, những sự việc, những câu chuyện thực trong xã hội Do Thái thời Ngài sống để nói lên Đạo lý, giới răn, luật lệ mà Chúa Giêsu dạy dỗ nhân loại, con người, chúng ta hiểu, nhận ra Thiên Chúa là ai ? Nước Trời ở đâu ? Dụ ngôn mười người phong cùi được Chúa chữa lành nhưng chỉ có một người trở lại tạ ơn Ngài mà người ấy lại là người ngoại giáo khiến chúng ta vô cùng suy nghĩ…
Tin Mừng của thánh Luca 17,11-19 thuật lai cho chúng ta về việc mười người bị mắc bệnh phong được Chúa chữa lành.Cai trớ trêu của du ngôn này là trong mười người phong cùi đã có chín người có đạo, có nghĩa là tin Chúa, còn một người bị xếp vào lại vô đạo, đứng ngoài và chưa biết Chúa. Tất cả những người này đều nghe danh Đức Kitô, đều một cách nào đó tin rằng chỉ mình Đức Kitô mới có thể chữa lanh cho họ được. Bệnh phong là bệnh nan y, bệnh truyền nhiễm lây lan. Họ bị tách ra khỏi xã hội loài người, họ không được đến gần người nào. Từ xa họ đã phải la to lên họ là cùi hủi, hãy tránh xa họ. Họ tủi nhục sống không được như con vật. Họ bị xã hội ruồng bỏ, gia đình ruồng rẫy và mọi người xa tránh. Họ sống nhưng giống như đã chết. Do đó, gặp được Đức Giêsu là niềm mong ước sâu xa của những người bị bệnh phong cùi này. Nghe tin Đức Giêsu sẽ đi ngang qua đó, họ đứng xa xa trông chờ Ngài đi qua để họ van nài Ngài ban ơn huệ chữa lành cho họ. Đứng xa vì họ sợ làm lây nhiễm, làm ô uế kẻ khác.Luật không cho phép họ được tới gần ai. Luật không cho phép họ được tiếp cận với ai. Cho nên,từ rất xa họ đã lớn tiếng kêu la :” Lạy Giêsu, Con vua Đavít, xin thương xót chúng tôi “. Chúa đã làm cho cả mười người phong được lành sạch.Ngài trả lại sự sống cho họ, đưa họ trở lại đời sống bình thường và cho họ nhập vào xã hội con người…Chúa truyền cho họ phải đi trình diện với các tư tế vì mình đã được lành sạch, để các tư tế xác nhận và cho họ nhập vào, sinh hoạt với tập thể, với xã hội mà lâu nay họ đã bị đẩy xa.
Sau khi được chữa lành và đã trình diện với các tư tế thì chỉ có một người ngoại đạo trở lại tạ ơn Chúa Giêsu. Cái nghịch thường, trớ trêu nằm ở chỗ :” Chín người được lành sạch có đạo lại không biết ơn Chúa mà chỉ có một người ngoại đạo đã trở lại để cám tạ ơn Chúa vì tình thương bao la của Ngài “. Vô ơn thường xẩy ra nơi con người. Sự dí dỏm, ngạc nhiên đến ngỡ ngàng khi Chúa hỏi người ngoại giáo :” Không phải cả mười người đều được lành sạch sao, mà chỉ có một mình anh trở lại cám ơn Ta ? “. Xem ra con người dễ vô ơn bội nghĩa. Biết ơn ai một chút cũng phải trả ơn, cũng phải cám ơn . Con người thường ích kỷ muốn người khác biết ơn mình, nhưng mình không cần biết ơn ai. Đáng lẽ con người phải “Uống nước nhớ nguồn “,nhưng thường con người hay “ Vắt chanh bỏ vỏ hay ăn cháo đá bát vv và vv…”. Trường hợp của chín người phong cùi trong đoạn Tin Mừng hôm nay cũng thế . Khi chưa được Chúa chữa lành, họ chỉ ước mong gặp Chúa để xin Chúa thi ân cho họ, nhưng khi được lành bệnh, sạch sẽ rồi, họ lại “ Ăn mật trả gừng “. Họ thật vô ơn đối với Đấng thi ân giáng phúc cho họ,yêu thương, chữa lành bệnh nan y cho họ. Thật thế, người ta dễ vô ơn đối với người khác khi ai cũng hàm ơn nhau.
Vâng, lời của Chúa hôm nay dạy chúng ta bài học thật rõ ràng :
1.Chúng ta luôn phải biết ơn Chúa và cảm tạ tri ân Chúa.
2.Biết ơn Chúa và tạ ơn Chúa, đó là điều ai cũng phải làm vì Chúa chính là Đấng dựng nên ta, ban cho ta sự sống và Ngài tiếp tục dưỡng nuôi ta, đồng thời chúng ta phải biết ơn nhau vì chúng ta người cách này hay cách khác đều hàm ơn nhau.
Biết ơn và cám ơn nói lên lòng nghĩa thiết của con người vì thiếu những điều này con người sẽ sống ích kỷ và chai đá, như thế sẽ không đi đúng đường lối của Chúa bởi Chúa luôn sống hiếu thảo, luôn biết tạ ơn và biết ơn Chúa Cha. Chúa Giêsu là mẫu gương của sự biết ơn và tạ ơn.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết noi gương bắt chước Chúa, luôn biết nói lời biết ơn và cám ơn anh chị em của chúng con. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Tại sao những người phong không được tiếp xúc với xã hội, với người khác ?
2.Biết ơn là gì và vô ơn là gì ?
3.Tại sao chỉ có một người phong cùi ngoại giáo được Chúa chữa lành lại biết quay trở lại để cảm tạ Chúa ?
.
Lm Vũđình Tường
Thời xưa mắc chứng cùi hủi là một đại hoạ không những cho cá nhân người đó mà còn cho cả gia đình nạn nhân. Nạn nhân bị xua đuổi ra khỏi cộng đoàn, xóm làng. Thân nhân nạn nhân bị cấm, không được tự do thăm nom, nuôi nấng. Khi xuất hiện nơi công cộng nạn nhân luôn phải hô to ‘dơ bẩn, dơ bẩn’. Kẻ cùng hoạn nạn tụ nhau để vừa nâng đỡ, an ủi để sống còn. Nhóm mười người phong hủi sống ở biên giới vùng Samaria và Galilê may mắn gặp Đức Kitô. Họ cùng lớn tiếng nài van Ngài cứu chữa họ. Chạnh lòng thương Đức Kitô nói với họ. Đi trình diện với vị tư tế để thầy tư tế giúp họ trở lại cộng đoàn, sống cuộc sống bình thường như trước. Lời yêu cầu trên thật là khó, bởi khi gặp thầy tư tế họ biết ăn nói làm sao, ngoài việc nói Đức Kitô bảo họ đến gặp. Bệnh của họ chưa khỏi, da trên cơ thể còn sần sùi, bệnh phong cùi vẫn còn. Khi bị chất vấn lấy đâu ra bằng chứng cho thầy tư tế biết họ đã khỏi bệnh. Biết là khó khăn, họ vẫn tin vào lời Đức Kitô, và họ ra đi. Trên đường đi cả nhóm nhận biết da họ sạch sẽ, tươi mát, không còn bị ngứa như trước. Một trong số đó lập tức quay trở về gặp Đức Kitô và dâng lời cảm ta, ca tụng kì công của Thiên Chúa. Người đó là dân ngoại thành Samaria. Chín người kia cũng khỏi bệnh nhưng không trở lại dâng lời tạ ơn. Thấy thế, Đức Kitô nói với người Samaria. Không phải cả nhóm mười người đều khỏi bệnh sao? Bạn anh đâu, không trở lại tạ ơn Thiên Chúa mà chỉ có một mình anh. Người trở lại tạ ơn Đức Kitô được chữa lành cả bệnh thể xác lẫn tâm hồn, bởi chính Đức Kitô nói với anh.
Đứng dậy mà đi. Đức tin anh đã cứu anh c.19
Chín người kia nhận ơn mà không biết tạ ơn. Họ khỏi bệnh thể xác, họ tin vào điều Đức Kitô nói, nhưng không thực hiện việc tạ ơn. Nhận ơn mà không mang trong lòng tâm tình cảm tạ là một thiếu sót lớn trong đời. Cách hành xử của chín người nhắc nhở chúng ta tâm tình tạ ơn Thiên Chúa. Kitô hữu thiếu dâng lời tạ ơn Thiên Chúa mỗi ngày là một thiếu sót, đó chính là hành động của chín người phong cùi khỏi bệnh. Dâng lời cầu xin và dâng lời cảm tạ là điều không thể thiếu trong đời sống tâm linh. Thực ra, cầu xin là lo cho nhu cầu nơi trần thế; dâng lời cảm tạ là là làm Sáng Danh Chúa. Đây chính là điều Đức Kitô dậy chúng ta khi cầu nguyện. Câu đầu tiên trong kinh Lậy Cha chính là xin cho Danh Cha cả sáng. Như thế dâng lời tạ ơn là làm Sáng Danh Chúa. Làm thế nào để cuộc sống hàng ngày của các Kitô hữu làm cho người khác nhận biết và ca tụng Danh Chúa. Theo tinh thần của kinh Lậy Cha thì việc làm Sáng Danh Chúa chính là lời cầu quan trọng và cần thiết. Xét kĩ hơn sẽ thấy cầu nguyện tồn tại nơi cuộc sống trần gian; ca tụng Thánh Danh Chúa là cuộc sống nơi Thiên Quốc. Khi vào thiên đàng sẽ không còn cầu nguyện. Các thánh nơi thiên quốc, ngoài việc ca tụng Thánh Danh Chúa, các ngài làm công việc chuyển lời cầu của ta lên Thiên Chúa. Ca tụng Danh Chúa vì những kì công Ngài thực hiện cho muôn dân. Ngoài việc tạo dựng vũ trụ, sông ngòi, biển cả, trời cao, núi thẳm, Thiên Chúa còn tạo dựng nên ta, ban cho nhiều đặc ân giúp ta sống an vui, hạnh phúc. Thiên Chúa ban cho ngay cả những điều chính ta cũng không biết để xin nhưng Ngài vẫn ban.
Mười người phong hủi đến với Đức Kitô trong ốm đau, bệnh tật, dơ bẩn nhưng Đức Kitô không chê bai, chỉ trích trái lại còn giúp chữa bệnh cho họ. Chúng ta cũng đến với Đức Kitô với tất cả lòng thành, với đau khổ, bệnh tật và cả tội của ta, phơi bày tra trước mặt Thiên Chúa, xin Ngài thánh hoá, thanh tẩy, chữa lành. Đức tin và tình yêu giúp mở tim và tâm hồn ta ca tụng Thiên Chúa để đón nhận ân sủng Ngài ban. Bởi tình yêu Chúa chứa đựng ơn thánh hoá và ơn tha thứ. Không phải chúng ta xứng đáng lãnh nhận ơn Chúa mà chính là Thiên Chúa không quản ngại dơ bẩn, tội lỗi ta mà ban cho ta làm con cái Chúa. Tình yêu Chúa ban cho tất cả, không trừ một ai. Bất cứ ai thành tâm đến với Ngài đều nhận được ơn Ngài ban; phần chúng ta đừng bao giờ quên dâng lời cảm tạ, bởi dâng lời cảm tạ có lợi cho phần rỗi linh hồn ta.
.
Bông hồng nhỏ
Khi biết mình mắc bệnh, nhất là những bệnh nan y, ai cũng mong mỏi gặp thầy gặp thuốc để được chữa lành. Mắc bệnh đã khổ, bị người thân xa tránh lại càng khổ tâm hơn gấp ngàn lần, bị gạt ra bên lề xã hội thì xem như đã chết. Đó là trường hợp của mười người phong mà thánh sử Luca hôm nay kể lại. Điều đặc biệt hơn là, cả mười người mắc bệnh phong ấy đã không rơi vào cái gọi là “bất cần”, tất cả đều được nhen nhúm trong lòng niềm hy vọng được chữa lành. Niềm hy vọng của họ đặt trọn vào Đức Giêsu.
Khi biết tin Thầy Giêsu vào làng, cả mười người phong đã đồng tâm nhất trí đón gặp Người. Chắc hẳn họ đã phải nương tựa vào nhau trong suốt quãng thời gian mắc bệnh và ngay lúc này đây, họ cùng nhau vượt qua đoạn đường đầy khó khăn để gặp được Thầy. Tiếng kêu của một người thì yếu ớt nhưng cả mười người hợp lực thì tiếng kêu xin không chỉ lớn tiếng hơn mà còn tha thiết hơn nữa. Thầy Giêsu đã chỉ nói: “Hãy đi trình diện với các tư tế” (Lc 17, 14) và cả mười người đã lên đường đang khi vẫn còn mắc bệnh. Trong cuộc sống, nhiều lúc, bản thân ta cũng nhận được một lời mời gọi của Chúa, lời mọi gọi lên đường với một niềm tin mạnh mẽ và sâu xa. Quả thật, như mười người phong hôm nay, ta nhận được lệnh truyền nhưng tay chưa chạm tới điều ta mong ước. Chỉ khi dám can đảm lên đường, bất chấp những khó khăn sẽ xảy đến mà ta vẫn một lòng tín thác nơi tình thương và quyền năng của Thiên Chúa, phép lạ sẽ xảy ra. Đang khi đi trình diện với các tư tế thì cả mười người phong đã được chữa lành. Niềm vui của một người được chia sẻ sẽ được tăng thêm, niềm vui của mười người như một thì quả là tuyệt vời. Trong số họ, có một người đã quay trở lại, anh tìm gặp Đấng đã chữa anh lành bệnh. Những người còn lại, họ tiếp tục đoạn đường.
Điều gì đã thôi thúc con người này quay trở lại gặp Thầy Giêsu? Anh có thuyết phục các bạn mình quay trở lại gặp Người không? Cuộc sống có nhiều lúc đặt ta trước những chọn lựa khó khăn: Chọn đi theo tiếng lương tâm mách bảo hay chọn đi theo quyết định của đám đông. Có lẽ, khi quyết định quay trở lại gặp Thầy Giêsu, anh cũng đã gặp sự phản đối của các bạn. Anh cần đến trình diện với các tư tế để được chứng nhận đã lành bệnh, sẽ trở về báo tin vui cho người thân biết hơn là quay trở lại gặp Thầy Giêsu. Liệu rằng khi quay trở lại, anh có còn gặp được Thầy nữa chăng? Biết bao nhiêu điều cản trở nhưng anh đã một mình vượt qua tất cả chỉ để được gặp gỡ Thầy, để tỏ lòng biết ơn, để tôn vinh Thiên Chúa. Có nhiều khi, ta cũng đi trên con đường Thánh Ý vạch ra và đường ấy lắm lúc là đường đi một mình.
Lạy Chúa Giêsu! Mỗi ngày xin Chúa đặt để trong con niềm thôi thúc mãnh liệt được gặp Chúa. Quả thật, nếu “qua mỗi ngày đời con không gặp Chúa thì ước mơ ươm thơ để làm chi” (bài hát Mỗi ngày đời con- Lm. Thái Nguyên). Mỗi lần gặp Chúa, con tin rằng con được nhận lãnh một nguồn sức mạnh vô biên và được thỏa nỗi khát khao. Xin Chúa cũng giúp con nhận ra những ơn mà con được nhận lãnh từ bàn tay quan phòng của Chúa, những ơn con nhìn thấy và cả những ơn mà con chưa ý thức đó là ơn, con cũng xin tạ ơn Chúa. Amen.
.
Anna Cỏ may
Đã là người, chúng ta không tránh khỏi bệnh tật. Có người đang trên đường thành công, bất chợt biết mình mắc bệnh ở giai đoạn cuối thì thường họ rất khó để đón nhận. Họ vùi mình trong sự rên xiết và than trách số phận của mình. Ngược lại cũng có không ít người vui vẻ và cố gắng vượt qua chính mình mỗi ngày.
Trong Tin Mừng Luca thuật lại câu chuyện mười người mắc bệnh phong cùi đã tìm đến với Thầy Giêsu và được chữa lành. Khi mắc bệnh, họ đã bị mọi người xa lánh và khinh chê. Tuy nhiên, trong thâm tâm, họ vẫn khát khao được khỏi bệnh, được sống và được yêu như bao người khác. Họ chưa từng được nghe Chúa Giêsu giảng dạy. Họ chỉ được nghe người khác nói cho hay về quyền năng của Ngài. Vậy mà, khi nghe tin Chúa Giêsu đi ngang qua, họ liền đón Ngài từ xa và kêu xin một cách khẩn thiết: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!” (Lc 17,13). Trước lời kêu xin tha thiết, Chúa Giêsu đã động lòng thương xót họ. Lòng thương xót ấy không chỉ được thể hiện qua việc Ngài chữa lành bệnh tật về thể xác mà còn tăng thêm niềm tin và đổ tràn niềm vui nơi tâm hồn các ông. Ngài bảo họ: “Hãy đi trình diện với các tư tế” (Lc 17,14). Lời Chúa Giêsu nói có vẻ không liên quan đến việc các ông sẽ được chữa, nhưng họ vẫn lên đường như lời đã nói. Bởi vì trong lòng họ đã đặt niềm tin và sự hy vọng vào Chúa Giêsu. Nhờ niềm tin ấy, họ đã được sạch trên đường đi. Trong số người được sạch, chỉ có một người thay vì đi gặp tư tế, anh đã quay lại tìm Đấng đã chữa mình. Hành động quay lại của anh biểu hiện một con người biết sống tâm tình biết ơn, biết quên đi niềm vui bên ngoài mà đi tìm niềm vui bên trong. Anh nhận ra niềm vui ấy xuất phát từ Chúa Giêsu, nên không gì hơn là anh quay lại tìm Ngài. Anh trở lại lòng tràn đầy hân hoan và tôn vinh Thiên Chúa. Anh sấp mình dưới chân Chúa Giêsu mà tạ ơn. Bây giờ, Chúa Giêsu nói với anh: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh” (Lc 17,19). Anh đã hoàn toàn được chữa lành.
Nhìn lại mình, mỗi người chúng ta đang mắc bệnh gì? Chúng ta đang sống với bệnh của mình ra sao? Với tinh thần thế nào? Cha Casaigne và thi sĩ Hàn Mạc Tử là những người mắc bệnh phong cùi. Các ngài không được chữa lành về phần xác nhưng được ban ơn đức tin cách lạ lùng. Các ngài tôn vinh Thiên Chúa bằng cả cuộc đời mình, chấp nhận sống chung với bệnh tật. Với Đức Cha Lambert, Đấng Đại Diện Tông Toà đầu tiên của Đàng Ngoài Việt Nam, trong những ngày cuối đời trên giường bệnh, môi miệng ngài không ngớt nài xin: “Xin thêm nỗi đau khổ, xin thêm lòng kiên nhẫn”. Ngài muốn trở nên giống Chúa Giêsu trên Thánh Giá.
Là Kitô hữu, chúng ta được sống trong lòng thương xót của Thiên Chúa. Chúng ta có điểm tựa là Chúa Giêsu, tại sao chúng ta không đến kêu xin, không đến lắng nghe và làm theo lời Ngài nói? Đến với Ngài, chúng ta sẽ có được sự bình an, niềm vui và được chữa lành. Chúa Giêsu hằng đứng đó lắng nghe và sẵn sàng ban cho những ai đặt niềm tin vào Ngài. Ngài sẽ làm điều tốt nhất cho tất cả mọi người. Chúng ta hãy đến với Ngài.
Lạy Chúa! Chúa biết chúng con đang mang trong mình bệnh tật nào. Xin Chúa chữa lành và giúp chúng con nhận ra hồng ân Chúa ban cho chúng con, để chúng con phụng sự Chúa cho xứng đáng ngay trong cuộc sống này. Amen.
.
Têrêsa Tuyết Ngọc
Trong cuộc sống, những câu chuyện về sự vô ơn bất hiếu vẫn xảy ra hằng ngày, hằng giờ ngay bên cạnh chúng ta, khiến nhiều người vẫn cho rằng trong xã hội hiện nay đã lãng quên lòng biết ơn, vì người ta chỉ sống với nhau bằng sự sòng phẳng mà không còn liên đới với nhau bằng lòng biết ơn chân thành nữa. Vậy biết ơn là một thái độ mà con người cần phải có, cần học biết để bày tỏ lòng biết ơn với những người đã làm ơn cách vô vị lợi cho chúng ta. Đó là một nghĩa cử cao đẹp mà Chúa đã nhắn gửi cho chúng ta trong bài Tin mừng Chúa Nhật XXVIII TN.
Lời Chúa mời gọi chúng ta phải có một thái độ biết ơn chân thành, phát xuất từ tận đáy lòng mình đối với Thiên Chúa. Thánh Luca đã kể lại câu chuyện về mười người phong cùi đến cầu xin Đức Giêsu: “Lạy Thầy Giêsu, xin rủ lòng thương chúng tôi!” (Lc17, 13) và họ được truyền đi trình diện tư tế, trên đường đi thì cả mười người đều được sạch, nhưng chỉ có một người biết quay lại để cảm ơn và tôn vinh Thiên Chúa, còn chín người kia thì nhanh chóng quên ơn. Có thể họ cho rằng việc họ được sạch là một chuyện tự nhiên chứ không hẳn là nhờ vào quyền năng của Đức Giêsu. Người Samaria là dân ngoại nhưng đã nhận ra Đức Giêsu và bày tỏ lòng biết ơn với Người, Đấng đã chữa lành bệnh cho mình; còn chính những người Israel là dân của Thiên Chúa thì lại tỏ ra vô ơn với Người.
Người Samaria bày tỏ lòng biết ơn đối với Đức Giêsu bằng cách lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa và sấp mình dưới chân Người để tạ ơn Người. Đức Giêsu đã đón nhận lòng biết ơn của anh và trách chín người kia: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy trở lại mà tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại này?” (Lc17, 17) Đáng lẽ ra chín người Israel kia là những người phải nhận ra ơn Chúa và bày tỏ lòng biết ơn của họ với Người hơn cả người Samaria này, nhưng đáng buồn thay là họ lại vô ơn mà ngoảnh mặt đi.
Đức Giêsu còn nói với người Samaria: “Đứng dậy về đi ! Lòng tin của anh đã cứ chữa anh.” (Lc17, 19) Lời ấy như đã gội mát tâm hồn anh, anh không chỉ được chữa lành bệnh về thể xác mà còn được chữa cả căn bệnh ở trong tâm hồn và được biến đổi bản thân mà đón nhận ơn đức tin. Thế nên, nếu chúng ta biết nhận ra ơn Chúa ban và biết bày tỏ lòng biết ơn cách chân thành thì Thiên Chúa lại tiếp tục ban ơn cũng như cho ta nhận ra sự hiện hữu và quyền năng của Người.
Hơn hai ngàn năm đã qua kể từ ngày Chúa kể câu chuyện về mười người phong cùi nhưng nhìn vào cuộc sống hôm nay, chúng ta vẫn thấy vấn nạn ấy lặp lại không ít. Đó là thái độ sống vô ơn với Thiên Chúa, với cha mẹ, với anh chị em và với những người xung quanh. Nhiều người tự kiêu, tự mãn cho rằng họ có khả năng làm được mọi sự mà không cần nhờ đến ai, họ quên rằng nếu không có sự can thiệp của Thiên Chúa thì họ sẽ không làm được gì cả, họ quên đi mọi sự đều là ân huệ của Thiên Chúa.
Nhiều lúc chúng ta tỏ lòng biết ơn và cảm mến đối với một người nào đó đã làm ơn cho mình, dù là một việc nhỏ nhoi, nhưng chúng ta lại quên đi những ân huệ mà Thiên Chúa ban cho chúng ta lớn lao biết nhường nào. Nhiều người không quan tâm đến việc bày tỏ lòng biết ơn đối với Thiên Chúa qua việc thờ phượng Người và đã không cảm tạ Người mỗi khi được nhìn thấy một ngày mới tươi đệp. Lại có người không dám nói cho người khác về Thiên Chúa và về ơn mà Người ban cho chúng ta. Cũng có người biết ơn sự giúp đỡ tận tình của bạn bè hay một ai đó, mà lại không hề biết cảm động và bày tỏ lòng biết ơn đối với ông bà, cha mẹ hay anh chị em mình. Thật là những nghịch lý không đẹp lòng Chúa.
Lạy Chúa, xin cho chúng con nhận ra ơn ban của Chúa và biết bày tỏ lòng biết ơn của mình. Trước hết là với Chúa qua việc thờ phượng và tôn vinh Người; sau nữa là biết ơn đối với những bậc sinh thành đã được Chúa ban cho để dạy dỗ chúng con. Xin đừng để chúng con có thái độ vô ơn như chín người Israel trong bài Tin Mừng hôm nay nhưng xin giúp chúng con sống xứng đáng với ân huệ Chúa ban trong từng giây phút trong đời. Amen.
.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Mười người phong hủi đứng xa,
Cầu xin thương xót, thứ tha tội đời.
Khổ đau gặm nhấm một thời,
Thương thay số phận, ơn trời khấn xin.
Chúa truyền trình diện báo tin,
Nơi đền tư tế, niềm tin tỏ bày.
Đi đường khỏi bệnh thấy ngay,
Một người ngoại giáo, giang tay khấu đầu.
Trở về cảm tạ tình sâu,
Ơn trên đã cứu, con tâu thưa Ngài.
Tạ ơn Thiên Chúa sớm mai,
Đã thương giải thoát, thiên sai phụng thờ.
Chín người lành sạch không ngờ,
Vui mừng hoan hỉ, hững hờ ơn ban.
Quên ơn phụ nghĩa thiên an,
Quay đi chẳng nhớ, vạn ngàn hồng ân.
Xót thương Chúa chữa toàn thân,
Phong cùi sạch sẽ, tinh thần trắng tinh.
Tôn vinh Thiên Chúa hết mình,
Tri ân nhắc nhớ, thật tình mến yêu.
Lạy Thầy, xin thương xót chúng tôi. Đây là lời van xin của những người phong cùi. Chúa thương xót và đã chữa lành cho họ. Cả mười người phong cùi đều được khỏi bệnh, nhưng có một chi tiết rất hay là chỉ có một người ngoại giáo trở lại chúc tụng và tạ ơn Chúa. Chúa hỏi: Còn chín người kia đâu? Chúng ta thấy nhột nhạt, hình như Chúa đang hỏi mỗi người chúng ta. Còn chín người kia đâu không thấy trở lại tạ ơn Thiên Chúa.
Đời chúng ta là một chuỗi những nhận ơn, nhưng mấy người biết tạ ơn Thiên Chúa. Trong phúc âm kể rằng mười người được chữa lành có một người trở lại cám ơn Chúa. Có cả ngàn người được Chúa thi ân, nhưng khi Chúa vác thánh giá lên núi sọ, chỉ có một người ngoại vác đỡ thánh giá Chúa. Cả một dân tộc chịu ơn, nhưng khi Chúa bị đóng đinh trên thập giá, chỉ có một người ăn trộm dám công khai lên tiếng bênh đỡ Chúa. Kẻ muốn được ơn thì nhiều, kẻ biết ơn thì quá ít. Làm ơn có thể không cần được trả ơn, nhưng khi đã nhận ơn, chúng ta phải biết cám ơn. Cũng như cho đi có thể không mong đáp đền, nhưng đã nhận ơn, chúng ta có bổn phận phải đền ơn đáp nghĩa.
Đời của chúng ta là một liên đới chập chùng của sự chịu ơn. Muôn vàn hồng ân mà chúng ta đã lãnh nhận từng giây phút trong đời, từ ơn sự sống đến ơn được làm người và được ơn làm con cái Chúa. Trong đời, chúng ta chẳng cho đi bao nhiêu, nhưng đã nhận quá nhiều. Nếu thử một ngày chúng ta ngưng nhận được các mối giây liên lạc, sự giúp đỡ tương trợ, sự yêu thương nâng đỡ và các nhu cầu cung cấp cho cuộc sống thì chúng ta sẽ lập tức trở thành bơ vơ , lạc lõng, nghèo nàn và khốn đốn.
Truyện kể: Có một Rabbi và học trò đi dạo, đang đi đường, gặp một người ăn xin. Anh cho người đó một chút tiền, rồi tiếp tục đi, trong lòng rất sung sướng. Sau một lát, anh cảm thấy bực bội trong người. Khi chợt nhớ lại hồi nãy, người ăn xin không cám ơn anh. Anh đem truyện kể cho thầy Rabbi nghe. Rabbi chăm chú nghe, rồi Rabbi hỏi anh: Khi anh cho tiền người ăn xin, anh cảm thấy sao? Anh thưa: Con thấy rất vui. Rabbi nói: Thế là phần thưởng của con rồi đó. Anh trả lời: Nhưng dù sao họ cũng phải cám ơn con chứ. Rabbi: Thế sao con không cám ơn Chúa. Anh nói: Tại sao con phải cám ơn Chúa. Rabbi tiếp: Vì Chúa cho con cơ hội thể hiện tình thương của Ngài với người khốn khó.
Chúng ta hãy dâng lời tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc suốt cả đời, vì không có giây phút nào chúng ta không nhận lãnh hồng ân Chúa. Càng biết tạ ơn, chúng ta càng trở nên người hơn.
.
Lm Giacôbê Phạm Văn Phượng
Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem, theo thánh Lu-ca. đây là lần thứ ba Chúa đến đây và cũng gần tới ngày Chúa chịu nạn. Khi đi tới gần biên giới Samari và Ga-li-lê, thì gặp 10 người phong hủi van xin Chúa cứu chữa. Chúa không chữa ngay, nhưng bảo họ đi trình diện các tư tế. Đây là luật của người Do Thái, không phải các tư tế làm cho họ khỏi bệnh, nhưng là để xác nhận họ đã khỏi bệnh. Nghe lời Chúa, họ ra đi, và khi đi dọc đường, cả 10 người đều được khỏi, nhưng chỉ có một người trở lại cám ơn Chúa, tỉ lệ một phần mười, thật là đáng buồn. Đây cũng là điều chúng ta chú ý tìm hiểu và suy nghĩ: vô ơn và biết ơn.
Có người nói: “Con người thường hay ích kỷ: muốn người khác phải trả ơn mình, biết ơn mình, còn mình không để ý cám ơn ai”. Hơn nữa, người ta dễ quên ơn hoặc mau quên ơn, cũng như cả năm ngàn người được ăn bánh hóa nhiều lần thứ nhất và bốn ngàn người lần thứ hai; bao nhiêu người được hưởng sóng gió yên lặng, mẻ cá lạ, được chữa lành bệnh tật…Nhưng đến khi Chúa vác thập giá thì chỉ có một người vác đỡ Chúa, đó là ông Si-mon, nhưng là do quân lính bắt vác chứ không phải ông tự nguyện; chỉ có một phụ nữ cảm thương trao khăn cho Chúa lau mặt, đó là bà Vê-rô-ni-ca; rồi khi Chúa bị đóng đinh trên thập giá thì chỉ có một người dám lên tiếng xưng đức tin, biện hộ cho Chúa là vô tội, đó là một người ăn trộm.
Đời là thế. Lẽ ra phải “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “uống nước nhớ nguồn”, “có đi có lại mới toại lòng nhau”, lẽ ra phải “ăn cây nào rào cây ấy”, “hòn đất ném đi hòn chì ném lại”… Đó là phép xã giao, lịch sự, tế nhị tối thiểu, bình thường, và phải cư xử như vậy mới là người biết điều. Lẽ ra phải như vậy, thì lại “ăn cháo đá bát”, “vắt chanh bỏ vỏ”, “có trăng phụ đèn”, “ăn mật trả gừng”, “ăn sung trả ngải”… Kẻ muốn được ơn thì quá nhiều, kẻ biết ơn, hàm ơn thì lại quá ít, đếm số người biết ơn thì dễ hơn số người vô ơn, vì số người này quá lớn, có những con cháu vô ơn, có những học trò vô ơn, có đủ thứ người vô ơn, thậm chí có người nói một cách chua chát: “Ném cho con chó một khúc xương, nó vẫy đuôi tỏ vẻ cám ơn, còn làm ơn cho một người, thì rồi bạn sẽ thấy người ấy làm gì cho bạn?”.
Chúng ta nhìn nhận rằng: làm ơn thì không đòi trả nghĩa, nhưng đã chịu ơn thì phải biết ơn: “có đi có lại mới toại lòng nhau”. Tuy nhiên, nếu làm ơn mà mong người sẽ trả ơn lại mình thì đó chỉ là một việc bình thường và tầm thường, nếu không muốn nói là xấu, tính toán, ích kỷ và vụ lợi. Nhưng nếu làm ơn mà không đòi trả nghĩa thì đó mới là tấm lòng vàng, cao quý, cao thượng.
Ngược lại, nếu đã chịu ơn thì phải biết ơn. Bổn phận biết ơn không có nghĩa là đổi chác, bồi hoàn, nhưng là một sự bày tỏ điều mình nhận biết về giá trị tinh thần và vật chất đã nhận được. Một món quà chúng ta nhận được, không những có một giá trị vật chất bằng tiền của trong đó, nhưng còn gói ghém bao tình thương, tình cảm quý mến và hy sinh của người cho hay tặng món quà ấy. Có những món quà mà vật chất chỉ là vỏ, còn ruột là tình yêu. Nhận ra được như thế, hiểu được như thế mới thấy, mới biết ơn huệ là gì. Dĩ nhiên, chúng ta đừng chỉ coi những gì lớn lao mới là ơn, bất cứ những gì người khác đem lại cho chúng ta: một niềm vui, một sự bình an, một sự thăm hỏi…đều là ơn và chúng ta phải biết ơn. Chúng ta hãy nhớ: biết ơn người khác làm cho tấm lòng họ càng mở rộng thêm ra, đúng như câu nói: “một lần cám ơn là hai lần xin ơn”, một lời cám ơn được nói ra, không mất mát gì, không tốn kém gì, nhưng sẽ làm phát sinh nơi người làm ơn cũng như người thụ ơn một niềm vui lan tỏa. Một câu cám ơn trên môi miệng có giá trị như vậy, nên nếu chúng ta không biết ơn thì giá trị con người chúng ta chẳng hơn gì chín người phong hủi kia: “ai mà phụ nghĩa quên công, thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm”. Biết ơn là một tập quán mà mọi người phải học tập, có nghĩa là chúng ta quý mến những gì người khác làm cho chúng ta và không coi chúng là những chuyện dĩ nhiên phải thế, không nhận nhưng không. Khi người khác làm gì cho chúng ta, nhất là những việc chúng ta không có quyền hy vọng được làm, thì việc tối thiểu chúng ta phải làm là nói “cám ơn”. Những người phong hủi không có quyền được chữa lành, nhưng chỉ có một người tỏ ra biết điều trở lại cám ơn Chúa.
Sống với nhau, chúng ta còn phải biết đối xử với nhau như thế, còn phải biết ơn người làm ơn cho mình, thì chúng ta lại càng phải biết ơn Thiên Chúa nhiều hơn nữa. Lòng biết ơn Thiên Chúa là thái độ làm con mà Chúa Giêsu đã làm gương, Ngài luôn luôn cảm tạ Chúa Cha thay cho chúng ta; thánh Phao-lô không ngừng tạ ơn Thiên Chúa thay cho các tín hữu và kêu gọi họ sống tâm tình biết ơn này. Lòng biết ơn Thiên Chúa còn là thái độ sâu xa nhất của lòng tin, đồng thời làm tăng thêm lòng tin vào Thiên Chúa. Chúng ta hãy nhớ: tạ ơn Chúa là dấu tỏ lộ lòng tin vào Thiên Chúa, là tuyên xưng lòng tin của mình.
Tóm lại, đời chúng ta là kết tinh của bao công ơn, chúng ta phải biết ơn, cám ơn mọi người có liên hệ gần xa với chúng ta, tất cả đều là những ân nhân của chúng ta. Nhưng trước hết và trên hết, chúng ta phải biết ơn và cảm tạ Chúa luôn luôn, bởi vì tất cả những gì chúng ta đã có, đang có hay sẽ có đều là những ơn Chúa ban. Cảm tạ Chúa là một sự công bằng, hợp lý, không bao giờ đủ, cả đời sống dương thế để mà tạ ơn Chúa cũng không đủ, huống chi chúng ta chỉ thỉnh thoảng cám ơn, thậm chí quên bẵng luôn những việc tạ ơn, thì thật là bất hiếu, bất kính biết bao.
.
TẠ ƠN LÀ MỘT BIỂU HIỆU CỦA LÒNG TIN
Lm. Đỗ Bá Công
Một thi sĩ đã tả lại một giấc mơ thế này: Thiên Chúa mở đại hội “trăm hoa đua nở”. Tất cả các loại hoa trên mặt đất đều gởi đại biểu đến tham dự. Thật là một rừng hoa tươi thắm muôn màu, xông hương khoe sắc trước nhan Chúa. Các đại biểu hoa, tay bắt mặt mừng chào hỏi thăm nhau, duy chỉ có hai loại hoa không buồn giáp mặt nhau. Đó là hoa Thi ơn và hoa Nhớ ơn.
Giấc mơ chỉ vắn vỏi chừng ấy, nhưng thật có ích cho ta, vì nó mô tả trung thực sự kiện xảy trong bài Tin Mừng: mười người phong hủi đã được Chúa chữa lành, nhưng chỉ một người trở lại tạ ơn Chúa. Cũng như ở đời có lắm người thi ân mà có ít người nhớ ơn. Ta hãy cùng nhau suy niệm:
– Con số thống kê một trên mười nói lên những điều gì?
– Khi ta đã ý thức tạ ơn là một biểu hiệu của lòng tin, ta phải tạ ơn thế nào?
“Chỉ một trên mười người phong hủi được lành đến tạ ơn, nói lên chẳng những là sự vô ơn, mà một cách sâu xa hơn, là sự thiếu lòng tin”. Với câu hỏi của Chúa Giêsu trên người phong hủi biết ơn đang sụp dưới chân Ngài: “Ngươi hãy đứng dậy mà về, vì lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi”. Cha Féder giải rằng: “Chúa ngạc nhiên khi thấy chỉ có một người quay trở lại mà lên tiếng tôn vinh Chúa, nên Ngài cảm phục lòng tin tưởng đầy biết ơn của người Samari đó.”
Vâng, chính đức tin đã thúc giục người phong hủi trở lại tạ ơn Chúa. Bởi lẽ, việc Chúa chữa mười người phong hủi này khác hẳn với trường hợp khác. Khi thấy Chúa đi qua, mười người phong hủi đứng xa và la lớn rằng: “Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng con”. Chúa không đến với họ, nhưng Ngài cũng từ xa lớn tiếng trả lời: “Các ngươi hãy đi trình diện với các tư tế”. Thế là vâng theo lời Chúa dạy, mang thương tích mà đi. Và chỉ khi đã đi một đoạn đường xa, họ mới thấy mình lành mạnh. Như thế, Chúa Giêsu đã khuất bóng họ và có lẽ họ có cảm tưởng rằng, việc họ được sạch là một việc tình cờ chăng? Hơn nữa, có tạ ơn hay không, họ cũng đã sạch phong hủi rồi. Vì thế, việc đầu tiên của họ là đi trình tư tế, hầu được cấp giấy trở về với làng họ, với bà con. Duy chỉ người Samaria nghĩ khác mà trở lại cảm tạ Chúa.
Vâng, chỉ để ra một giây phút suy tư, một nháy mắt quan sát, ta có thể thấy đời ta tràn ngập hồng ân Thiên Chúa: Đây bầu không khí trong lành ta đang thở. Đây bát cơm ta đang ăn, chén nước ta đang uống. Đây tiếng chim thánh thót ta đang nghe, hương sắc những cánh hoa ta đang hưởng, tất cả đều nói cho ta hay tình yêu vô biên của Chúa chan hoà đời sống chúng ta.
Khi ta đã ý thức tạ ơn là một biểu hiệu của lòng tin, ta phải tạ ơn thế nào? Cái nhìn đức tin ấy có hướng chúng ta tới Thánh Thể để tạ ơn Chúa không?
Ta hãy đưa con người tướng quân Naaman được mô tả trong bài đọc I để làm gương sáng cho chúng ta. Khi Naaman đã xuống tắm bảy lần ở sông Giođan theo lời tiên tri dạy, da thịt ông lại trở nên hồng hào như da thịt đứa trẻ, thì việc trước tiên là ông và đoàn tùy tùng trở lại gặp người của Thiên Chúa. Ông không cảm tạ Elisê, nhưng ông lớn tiếng và ngước mắt lên trời tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa và tạ ơn Ngài. Nói xong Naaman mới lấy của lễ dâng Elisê. Elisê không nhận, Naaman cố nài ép nhưng tiên tri nhất định từ chối. Sự từ chối của Elisê đã mạc khải cho Naaman rằng: Chúa không muốn nhận của lễ vật chất và chỉ nhất thời, nhưng phải là một của lễ thiêng liêng và trường tồn hơn. Chính trong lúc ấy, Naaman nảy ra một sáng kiến. Ông nói: “Vậy xin ngài ban phép cho tôi được chở một xe đất đem về nước tôi, để dựng tế đàn trên đất ấy mà dâng lễ tế cho Yavê, vì tôi tớ ngài đây sẽ không còn dâng thượng hiến và tế lễ cho một thần linh nào khác.” Sáng kiến ấy được tiên tri Elisê tán thành.
Như thế, nếu việc tạ ơn đẹp lòng Chúa hơn hết trong Cựu ước là mỗi ngày dâng lễ toàn thiêu hoặc hy lễ lên Yavê Thiên Chúa, thì ngày nay trong Tân Ước việc tạ ơn đẹp lòng Chúa hơn hết cũng phải hướng về Thánh Thể – tức là Thánh lễ Misa, một của lễ cao quí dâng lên hằng giây phúc “để từ Đông sang Tây có một hiến lễ trong sạch dâng lên Chúa” (Kinh nguyện Thánh Thể III).
Vậy Thánh lễ có một tầm quan trọng như thế bởi vì chỉ trong Thánh lễ, chúng ta mới tìm được một Tư tế xứng đáng, một bàn thờ trong sạch và một của lễ vẹn toàn. Vị Tư tế ấy, bàn thờ ấy, của lễ ấy chính là Chúa Giêsu. Nói đến đây, xin mọi người hãy tự vấn lương tâm coi thử chúng ta có thấy triệt cái tầm quan trọng của Thánh Lễ chăng? Ta có hối hận chăng vì đã bỏ lễ ngày Chúa Nhật? Chúng ta nghĩ xem: ai sẽ thay thế chúng ta để cảm tạ Thiên Chúa về những ơn lành mà Ngài đã ban cho chúng ta trong bảy này qua? Bởi vì “nhận ơn thì đừng quên ơn”. Rồi ai sẽ thay thế chúng ta để xin ơn Chúa cho bảy ngày tới? Bởi vì không có Chúa, ta không làm gì được”.
Như thế, hôm nay đây trước nhan Chúa, chúng ta hãy cùng nhau đoan hứa quyết dốc lòng luôn cảm tạ Thiên Chúa với một niềm tin chân thành.
.
Lm. Vũ Minh Nghiễm
Cách đây không lâu, trong kỳ nghỉ hè, một thanh niên Trung học tình nguyện đi làm việc xã hội ở Nicaragua. Chàng đi theo một nhóm y tế đến một làng nhỏ trên miền núi để chích thuốc ngừa bệnh tê liệt, bệnh đậu mùa, cho các trẻ em nghèo ở đó. Chàng thuật lại rằng:
“Cuối tuần đầu, tôi cảm thấy rất chán nản, nhớ nhà, nhớ bạn. Tôi đi ra ngoài trời, ngồi ủ rủ trong bóng tối và tự hỏi: Tại sao tôi lại tình nguyện đi tới một nơi xa lạ nghèo khổ như thế nầy? Bỗng tôi nghe có tiếng người nói trong đêm tối. Đó chính là José Santos, một giáo viên cũng là gia trưởng của gia đình tôi trọ. Ông kéo ghế ngồi gần bên tôi, mắt ngước lên nhìn trời.
Sau một phút thinh lặng, ông José bắt đầu nói:
“Thật là hùng vĩ”
Tôi hỏi:
– Thưa Thầy, Thầy nói gì vậy?
Ông José lại nói:
“Thật là hùng vĩ!”
“Đôi mắt ông vẫn ngước nhìn lên trời. Tôi cũng nhìn lên trời theo. Thì ra tôi đã không để ý rằng trên đầu tôi, hằng hà sa số những ngôi sao lung linh nhấp nháy, một quang cảnh rực rỡ vô cùng. Chúng tôi cứ ngồi đó mãi, mắt nhìn lên trời hoài, thưởng ngoạn sự huy hoàng của muôn vì sao trên không trung lồng lộng.”
Cảm nghiệm hôm đó, không bao giờ tôi có thể quên được. Sáng hôm sau, tôi đi tới một ngọn suối để tắm. Chung quanh tôi, cỏ cây mơn mởn tươi xanh. Vạn vật điều yên tĩnh, trừ ra tiếng nước chảy róc rách, hòa với tiếng bầy chim ca hát líu lo trên ngọn cây. Bây giờ tôi nhớ lại lời ông José nói trong đêm vừa rồi: “Thật là hùng vĩ!” Những cảnh tượng Thiên Chúa ban cho chúng ta thật là hùng vĩ. Và tôi cảm thấy tâm hồn sảng khoái lạ thường. Chưa bao giờ tôi cảm nghiệm được lòng biết ơn đối với Chúa sâu sa như vậy. Chưa bao giờ tôi cảm nghiệm được tình Chúa yêu thương tôi bao la như vậy. Khi trở lại chích ngừa cho các em trong làng, tôi luôn luôn vui cười, từ đầu chí cuối, đến nỗi đau cả hai gò má.”
Câu chuyện nầy nhắc chúng ta nhớ đến hai hạng người mà Chúa Giêsu nói đến trong Phúc âm hôm nay. Hạng người biết tri ân đối với những ơn Thiên Chúa đã ban cho mình. Và hạng người vô ơn bội nghĩa.
Câu chuyện trên cũng cho chúng ta thấy rằng: Các em nào lớn lên mà hay vô ơn, là vì các em đó đã không được ai chỉ vẽ cho biết cách tri ân. Cậu sinh viên Trung học nói trên, sở dĩ học biết lòng tri ân đối với các ơn Thiên Chúa ban cho là nhờ có ông giáo viên José Santos dạy bảo cho.
Một hôm nà Ann Landers nhận được một bài do người nào đó cắt trong báo Wall Street Journal gởi cho bà. Bài đó như sau:
“Một hôm, có người hỏi một người miền Nam Hoa-kỳ rằng:
– Ranh giới miền Nam thực sự bắt đầu từ chỗ nào?
Người miền Nam kia đáp lại cách kiêu hãnh:
– Ranh giới miền Nam bắt đầu từ chỗ người ta thấy các trẻ em biết nói: ‘Dạ, thưa ông có’. ‘Dạ, thưa không’.
Thật ra, bài báo nói tiếp, phép lịch sự không phải là vấn đề địa dư. Nhưng phép lịch sự đó, các học được nơi cha mẹ, không phải nơi con dấu của bưu điện.”
Bài báo vừa rồi nhắc nhở cha mẹ có bổn phận dạy bảo con cái biết ăn nói lịch sự. Nhưng ăn nói lịch sự và có lòng biết ơn cũng là một. Chỉ có những ai lịch sự mới biết nói: “Cảm ơn”. Không phải bất cứ lời cám ơn nào, nhưng là lời cám ơn chân thành.
Một trong những phương pháp hữu hiệu để dạy con phải có lòng biết ơn, là phương pháp của José Santos dạy cậu học sinh Trung học Chicago nói trên. Đó là chia sẻ những lý do thúc đẩy mình biết ơn Thiên Chúa về những ơn lành Ngài đã ban cho.
Ông Byron, một người sinh trưởng tại Nebraska, nói: “Khi lên 8 tuổi, tôi có một con ngựa nhỏ tên Frisky. Một buổi sáng, khi tôi đang ngồi trên lưng, bỗng nó lồng lên, chạy nhảy như điên khùng. Tôi hết hồn hết vía, nhắm mắt cố ghì chặt lấy lưng ngựa. Sau cùng, may quá, tôi được thoát nạn, an toàn. Tối đó, trước giờ đi ngủ, ba tôi lên phòng, bảo tôi quì xuống đất bên cạnh người, rồi người lớn tiếng chúc tụng tạ ơn Chúa vì đã cho tôi được qua tai qua nạn khỏi. Đến nay đã 55 năm rồi, tôi vẫn nhớ mãi đêm đó. Đêm mà ba tôi dạy tôi biết tạ ơn Thiên Chúa về ơn lành Ngài đã ban cho tôi như thế nào. Và từ đó, tôi coi việc tán tụng hồng ân Thiên Chúa là bổn vụ thường xuyên hằng ngày của cuộc đời tôi.”
Trở lại với Phúc âm hôm nay, chúng ta hãy tự hỏi mình: Tôi thuộc hạng người nào? Tri ân hay phụ ân?
Nếu là phụ huynh, là cha mẹ, tôi có lo dạy bảo con em biết tạ ơn Chúa về các ơn lành Chúa ban cho không?
Bài Phúc âm hôm nay nói trong số mười người được chữa khỏi bệnh phong cùi, thì chỉ có một người biết tạơn Chúa thôi. Mà người nầy lại là người ngoại giáo. Còn chín người thuộc dân riêng Chúa đều phụ ơn.
Trước cảnh tượng nầy, Chúa Giêsu lấy làm buồn, hỏi:
“Không phải tất cả mười người đều được lành sạch cả sao? Còn chín người kia đâu? Không thấy trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang nầy?
Chúa buồn không phải buồn vì bị phụ ơn, cho bằng buồn vì thấy trong 10 người, chỉ có một người hiểu biết tình trạng thiêng liêng của mình trước mặt Thiên Chúa.
Bệnh phong cùi là thứ bệnh nan y thời bấy giờ. Chỉ có một phép lạ do quyền năng của Thiên Chúa mới chữa lành được. Vậy việc Đức Giêsu chữa họ khỏi bệnh phong cùi là một lời tuyên bố Ngài là ai. Ngài là Đấng Thiên Sai đã được các tiên tri loan báo từ lâu đời về trước. Ngài đến để thuyên chữa các tật bệnh, đem hy vọng tới cho những người tuyệt vọng, những tù nhân.
Trong mười người chỉ có một đến tạ ơn Thiên Chúa, vì nhận biết rằng loài người trước mặt Ngài chỉ là những hành khất, những người đi xin bố thí. Và người đó là người dân ngoại. Còn chín người kia, những người thuộc dân Chúa chọn, thì vô ơn, coi ân huệ Chúa ban cho họ như tất nhiên. Như cha mẹ sinh con ra, tất nhiên phải lo gầy dựng cho con cái. Họ là những người mù lòa thiêng liêng, không nhìn thấy tình trạng thấp kém nghèo hèn của mình trước mặt Thiên Chúa. Chính sự mù lòa thiêng liêng của họ đây hơn là sự họ phụ ơn Ngài, làm cho Đức Giêsu phải buồn rầu.
Chúng ta biết rằng lòng biết ơn là một nhân đức trong đạo. Người Việt Nam gọi là hiếu nghĩa, hay là chữ Hiếu. Điều răn thứ IV dạy chúng ta phải có hiếu, phải biết ơn cha mẹ, ông bà tổ tiên, và trên hết là biết ơn.
Chúa Trời, Đấng tạo thành vạn vật. Thánh lễ, trung tâm điểm của việc thờ phượng Chúa mà chúng ta đang cử hành trong giờ nầy, là do tiếng Eucharistia, một danh từ trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là Tạ Ơn.
Dâng thánh lễ hay là dâng lời Tạ Ơn Thiên Chúa cũng là một. Thể theo lời truyền dạy của Chúa trong đêm Tiệc Ly, Giáo Hội dạy chúng ta năng đi dâng lễ, tối thiểu một tuần một lần trong ngày Chúa nhựt, hầu nhớ lại những ơn lành hồn xác Ngài ban cho chúng ta là những người mắc bệnh phong cùi một cách nào đó, là những người thực sự đi ăn xin bố thí trước cửa nhà Chúa.
Hội Thánh dạy chúng ta năng đi dâng lễ là để Tạ ơn Chúa. Thánh lễ là trung tâm điểm của việc thờ phượng Chúa. Cảm tạ hồng ân Chúa cũng phải là trung tâm điểm của đời sống tín hữu của chúng ta.
Để tóm lược: nhân bài Phúc Âm có giọng điệu u buồn hôm nay, mỗi một người trong chúng ta hãy tự xét mình:
Trước hết, tôi thuộc về hạng người nào trong hai hạng người của Phúc Âm. Hạng người biết ơn như người ngoại bang Samari? Hay hạng người vô ơn bội nghĩa cùng Chúa như chín người Do-thái kia?
Sau nữa, nếu là cha mẹ, phụ huynh, tôi có lo dạy vẽ cho con em biết cách xử thế lịch sự cùng mọi người, biết tạ ơn Chúa về những ơn Ngài đã ban cho, ít nhứt trước khi lên giường nằm ngủ, như cụ thân sinh của ông Byron nói trên chăng?
.
Lm. Bùi quang Tuấn
“Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu?” (Lc 17:17)
Cách đây không lâu, giới điện ảnh Hollywood có phát hành một cuốn phim mang tựa đề Schindler’s List dựa trên một câu chuyện có thật thời Đệ Nhị Thế Chiến.
Schindler là một nhà kinh doanh giàu có người Đức. Khi gặp cảnh những người Do thái bị ức hiếp, giết hại, ông đã tìm cách cứu họ qua việc mua chuộc các sĩ quan Đức để được phép chiêu mộ nhân công Do thái cho các cơ xưởng của ông. Việc này nếu bị bại lộ thì không những gia sản bị tước đoạt mà mạng sống của ông cũng chẳng còn, vì Hitler sẽ không dung thứ cho kẻ nào dám bao che hay bênh vực dân Do thái.
Cuốn phim được kết thúc không bằng cảnh quân đội đồng minh tiến vào giải phóng người Do thái, nhưng là cảnh Schindler phải chạy trốn vì bị tố cáo có chân trong Đảng Quốc xã. Lúc chia tay với các nhân công, ông đã bật khóc. Người ta tò mò hỏi tại sao ông khóc? Ông cho hay: “Tôi hối tiếc vì đã không cứu được nhiều người Dothái.” Không ít người ngạc nhiên hỏi lại: “Thế nhưng ông đã cứu được hàng ngàn người Do thái chúng tôi cơ mà?”
Sau lúc dằn nén cảm xúc, Schindler trả lời: “Nếu tôi bớt được tính ích kỷ thêm một chút nữa thì có lẽ nhiều người Do thái đã không phải chết oan. Nếu những chiếc đồng hồ, cà rá trên tay tôi được bán đi sớm hơn một chút thì tôi đã cứu thêm được vài người. Nếu tôi không dùng chiếc xe quá sang trọng kia thì có lẽ tôi đã giải thoát thêm được ít là 10 người Do thái nữa rồi.”
Câu nói của Schindler, người mà sau này dân Do thái vinh danh như một anh hùng, đáng cho con người hôm nay suy nghĩ: Làm việc thiện nhưng không nghĩ đến trục lợi. Lo cứu người đến độ không quản ngại tài sản, địa vị, và tính mạng của mình. Làm nhiều việc thiện, cứu được nhiều người mà vẫn còn cảm thấy như chưa thực hiện được bao nhiêu.
Thử hỏi động lực nào đã thúc đẩy Schindler ra tay cứu mạng người Do thái như thế? Phải chăng vì lợi nhuận? Hay mưu đồ riêng tư? Hay phải thi hành một sự báo đáp nào đó?
Không một động lực hay lôi cuốn lớn lao nào đã khiến cho Schindler dám trả giá mạng sống, địa vị, và tài sản mình có để cứu “kẻ thù của dân tộc Đức,” ngoại trừ lòng xác tín vào một chân lý: chỉ mình Thượng Đế mới có toàn quyền trên sự sống con người; còn con người là phải biết tôn trọng và bảo vệ sự sống đó cho nhau.
Việc tôn trọng, bênh vực và làm thăng hoa chân lý đó, cộng với thái độ dám hy sinh của cải, sức lực và an toàn cá nhân chính là hành động biết ơn và tôn vinh Đấng ban sự sống cho mình cách chân thành và sâu xa nhất.
Trong sách Các Vua có nhắc đến chuyện ông Naaman, một người dân ngoại đang bị chứng phong cùi bào mòn sự sống. Ông được chữa lành sau khi nghe lời tiên tri Elisa đi tắm tại sông Giođan. Thế rồi, trước khi về lại quê hương, Naaman đã tuyên bố trước mặt vị tiên tri: “Từ nay, ngoài Chúa ra, tôi tớ ngài sẽ chẳng dâng của lễ toàn thiêu hoặc hy tế tôn vinh bất cứ thần minh nào khác.” Tâm tình biết ơn và tự nguyện vinh danh Thiên Chúa này đã được Đức Giêsu nhắc lại sau khi chữa lành cho 10 người phong cùi, nhưng chỉ có một người biết trở lại để tri ân và tôn vinh. Đức Giêsu phải thốt lên: “Còn chín người kia đâu? Chớ thì không phải họ đã được lành sạch hết sao? Tại sao chỉ có một người ngoại giáo này?”
Không phải Đức Giêsu cần đến lòng tri ân và lời ca ngợi chúc vinh của con người, nhưng bởi những ai biết ơn, kẻ đó sẽ nhận ra ơn mới. Một con người có lòng tri ân sẽ không bao giờ thiếu vắng hạnh phúc, vì nhận thức mình luôn được yêu thương và tặng ban. Chính điều này làm cho sức sống nơi họ thêm phong phú và tràn đầy. Sức sống đó sẽ giúp họ thêm quảng đại, cảm thương, và trao ban cho tha nhân. Đây chính là điều Đức Giêsu muốn nhìn thấy nơi con người, và đây cũng chính là điều mà Schindler đã thực thi.
Đức Giêsu muốn con người nhận ra ơn Chúa trong đời mình để tri ân và đáp đền qua việc bảo vệ và làm thăng hoa cho sự sống của người xung quanh. Biết ơn sẽ làm cho đời người thêm hạnh phúc.
Tôi muốn tri ân Thiên Chúa đã ban cho tôi sự sống, biết ơn Ngài vẫn hằng tuôn đổ ân thiêng từ trời cao, biết ơn những ai giúp làm phong phú đời mình, cả thể xác lẫn tinh thần, chính là thái độ cần có nơi những người mang danh Kitô hữu.
Có tâm tình biết ơn như vậy, tôi mới dám vượt trên danh dự cá nhân, gia đình để bảo vệ sự sống thay vì huỷ diệt.
Có biết ơn như vậy, tôi mới tích cực dùng khả năng, thời gian, sức lực, của cải vào việc giáo dục dạy dỗ, củng cố niềm tin, và gia tăng sức sống của tha nhân.
Và có biết ơn như vậy, tôi mới có thể đi sâu hơn vào ý nghĩa của Hiến lễ Tạ ơn–trung tâm điểm của đời sống Kitô hữu–nơi đó tôi tạ ơn và tôn vinh Thiên Chúa qua Đức Giêsu, và cũng nơi đó tôi đón nhận chính Ngài để làm phong phú cho sức sống của tâm hồn, gia đình, và xã hội.
.
Lm. Giuse Nguyễn An Khang
Vào thời Đức Giêsu, phong cùi là bệnh truyền nhiễm ghê tởm và đáng sợ nhất, không thuốc nào chữa được. Người mắc bệnh coi như đã chết, bị loại ra khỏi cộng đoàn không chỉ vì lý do vệ sinh, nhưng còn vì lý do thiêng liêng nữa. Sách Đệ Nhị Luật viết: “Nếu ngươi không nghe lời Giavê, Thiên Chúa của ngươi, mà tuân hành mọi giới luật Ngài ban… Giavê sẽ giáng xuống ngươi bệnh lở lói kinh khủng nơi đầu gối và chân, ăn từ bàn chân đến đỉnh đầu không sao chữa nổi” (Đnl 28,15-35).
Giavê đã trừng phạt, cộng đoàn cũng xa cách. Người phong cùi được phép vào các làng, nhưng không được đi vào đô thị có tường thành chung quanh. Do đó, họ càng không được vào thành Giêrusalem, không được đến gần các người khác. Người mắc bệnh phong cùi phải mặc quần áo rách rưới, râu dài tua tủa, phải sống biệt lập trên bãi tha ma, đi đến đâu phải cầm chuông lắc cho người ta tránh và phải la lên: Ô uế! Ô uế! Bao lâu còn mắc chứng bệnh ấy, bấy lâu còn bị ô uế.
Sách ký sự ghi lại Osias, vua Giêrusalem, bị phong cùi, thầy tư tế tức tốc trục xuất ông ta khỏi thành và chính ông cũng vội vã ra đi, vì thấy mình bị Thiên Chúa ruồng bỏ (II Ký sự 26, 19-21).
Tin mừng Chúa nhật hôm nay, Luca kể: “Đức Giêsu từ Galilê tiến về Giêrusalem, khi đến Samaria, lúc Người vào một làng kia, có mười Người phong cùi đón gặp Người”. Trong miền đất bị chúc dữ này, đây là những ngời bị chúc dữ nhiều nhất. Thật lạ lùng khi nhóm này gồm cả người Dothái lẫn người Samaria. Đau khổ và bệnh tật làm con người xích lại gần nhau, quên đi mối thù truyền kiếp giữa người Dothái và người Samaria. Biết thân phận mời người phong cùi đứng đằng xa và kêu lớn tiếng: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi”. Họ gọi Đức Giêsu bằng tên Người, một sự kiện tương đối hiếm trong Tin mừng.
Trong ngôn ngữ Aramêen, Jeshouah có nghĩa là Thiên Chúa cứu. Kitô hữu gọi kinh cầu Chúa Giêsu, chính là lời cầu xin ấy được lặp lại nhiều lần: Lạy Chúa Giêsu xin thương xót chúng con… Trong thánh lễ chúng ta cũng lặp lại kinh này lúc đầu lễ Kyrie Eleison: Lậy Chúa xin thương xót.
Thay vì chữa họ lành ngay tức khắc, Đức Giêsu muốn thử thách lòng tin của họ. Cũng như ngày xưa ngôn sứ Êlisê sai môn đệ nói với quan Naaman người Siri :”Quan hãy đi tắm ở sông Giođan bảy lần”. Đức Giêsu cũng bảo mười người phong cùi: “Hãy đi trình diện với các tư tế”.
Vào thời đó, các Thầy tư tế có quyền chẩn đoán và quyết định người nào bị mắc, người nào khỏi. Ai mắc bệnh được thầy tư tế công bố là khỏi, người ấy sẽ được tái nhập vào cộng đoàn (Lv 14,3).
Khi truyền cho mười người phong cùi đi trình diện các thầy tư tế, Đức Giêsu đòi họ phải biết vâng lời trong đức tin. Ngài muốn hành vi tín thác đó phải được thể hiện bằng việc tuân phục lề luật. Đối với Đức Giêsu lề luật và ngôn sứ là khuôn vàng thước ngọc giúp người ta thực hiện ơn cứu rỗi, như Người đã đề cập trong dụ ngôn người phú hộ xấu bụng và Ladarô nghèo khó.
Khác với vị tướng lãnh Siri, mười người phong cùi tức tốc thi hành, không mảy may chần chừ. Đang khi đi, họ được sạch. “Một người trong bọn thấy mình được khỏi liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa.” Thật kì lạ, Người quay lại cám ơn Chúa lại là một người ngoại, một người Samari. Nhưng đó chẳng phải là điều vẫn thường xảy ra đó sao? “Kẻ ở ngoài” coi mọi sự như quà tặng, “kẻ ở trong” coi mọi sự đều là hiển nhiên.
Người Dothái cho, mình thuộc tuyển dân có quyền đòi Thiên Chúa thi ân, không cần tỏ lòng biết ơn Người. Họ quên, cám ơn là một trong những tính nhân bản của con người. Ngạn ngữ Pháp có câu: “Biết ơn là kí ức của tâm hồn”. Lời đầu tiên người Mỹ dạy con: “Thank You – Cám ơn”.
Mỗi khi nhận được ơn từ ai, ta phải biết nói lời cám ơn. Đó là điều tốt đẹp cho ta, nó thúc dục ta nhận ra sự hàm ơn người khác và làm cho người cho cảm nhận rõ giá trị của việc họ làm. Người không biết ơn trong việc nhỏ, sẽ không biết ơn trong việc lớn. Điều quan trọng là phải có lòng biết ơn.
Thánh Inhaxiô nói : “Tội lớn hơn cả là tội vô ơn”. Chín người Dothái không biết cám ơn, chỉ được khỏi bệnh phong cùi thể xác. Người Samaria biết cám ơn, khỏi phong cùi cả phần hồn là tin nhận Đức Giêsu là Thiên Chúa, anh đã sấp mình dưới chân Đức Giêsu tạ ơn Người, một cử chỉ người ta chỉ dành cho Thiên Chúa.
Thiên Chúa không cần ta cám ơn, ta phải cám ơn Chúa vì mọi sự trong cuộc đời:
Hồng ân Thiên Chúa bao la.
Muôn đời con sẽ ngợi ca danh Người.
.
Lm Giuse Nguyễn Cao Luật
Đảo lộn trật tự bình thường
Câu chuyện được thuật lại cách giản dị, tự nhiên, nhưng hết sức linh động. Tất cả dường như đều diễn ra bình thường, hợp lề luật. Những người mắc bệnh phong ở riêng một nơi: họ là những người ô uế, nên phải ở ngoài làng. Đức Giêsu cư xử đúng đắn như một người chữa bệnh. Người tôn trọng Lề Luật (x. Lv 13,46 ; 14,2-3) khi truyền cho những người bệnh đi trình diện các tư tế.
Điều bất ngờ là danh xưng mà các người phung hủi sử dụng để thưa với Đức Giêsu: “Lạy Thầy Giêsu.” Đây là lần duy nhất Đức Giêsu được những người không phải môn đệ gọi là Thầy.
Điều bất ngờ hơn và là trọng tâm của tường thuật là: “Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn. Anh ta lại là người Samari.”
“Người Samari” đổng nghĩa với “người nước ngoài”, “người ngoại đạo”, tức là không thuộc dân Ít-ra-en, không được Thiên Chúa yêu thương cứu vớt.
Người ta có thể nghĩ rằng, đối với 9 người kia, câu chuyện diễn tiến theo Lề Luật: sau khi được các tư tế chứng nhận là đã khỏi bệnh, họ được tái gia nhập cộng đoàn.
Chỉ có một người làm đảo lộn trật tự bình thường. Có lẽ người Samari không hiểu lệnh truyền của Đức Giêsu. Hoặc anh ta đã quên. Hay đúng hơn, vì không phải là người Ít-ra-en, anh không để ý đến tầm quan trọng của Lề Luật. Anh đã trở lại gặp Đức Giêsu để tạ ơn.
Những người kia ở lại trong chế độ lề luật, họ đã không bước vào thế giới ân sủng, thế giới của việc tặng ban và tạ ơn. Như vậy, phải chăng người ở ngoài dân được tuyển chọn mới có thể hiểu điều này? Vậy mà, đối với một số người, việc thuộc về dân của lời hứa lại không tạo nên một thứ bảo đảm giả tạo đó sao? Họ coi đó như một quyền lợi hơn là một sự ban tặng.
“Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc lại những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” (Gl 4,4-5). Đức Giêsu sẽ lên Giêrusalem và sẽ ra mắt các tư tế. Nhưng tại đó, Người sẽ phá tung trật tự của họ. Tại đó, Người sẽ mặc khải, sẽ tỏ bày tình thương do Chúa Cha ban tặng, tình thương làm cho sống. Và điều ấy, hôm nay, người Samari, đã loan báo.
Lời bộc bạch của người Samari
“Tôi bị bệnh phung hủi. Tôi rất mặc cảm, không những vì cái bệnh khốn khỗ nơi thân xác, mà còn về cả cái gốc gác lý lịch không được sạch trước mắt đạo Do-thái. Như thói quen thời ấy, những người phung hủi chúng tôi phải sống ở bên ngoài làng, không được giao tiếp với những người bên trong, vì chúng tôi là những người dơ bẩn, còn những người khác là người sạch.
“Tôi vẫn nghĩ rằng mình sẽ phải mang cái bệnh khốn khỗ đó cho đến chết, và mình sẽ sống cô đơn suốt đời, cô đơn cho đến chết. Chẳng có tài nào chữa được thứ bệnh quái ác này, và tôi sẽ cứ phải sống chui, sống nhủi. Chỉ có cái chết mới giải thoát được, còn bây giờ thì cứ sống mà như không phải là người.
“Khi nghe tin ông Giêsu của người Do-thái đi ngang qua, những người phung hủi chúng tôi đến xin ông cứu giúp, bởi vì chúng tôi đã được nghe nói về ông, và chúng tôi hy vọng ông sẽ chữa chúng tôi lành bệnh như ông đã làm cho nhiều người. Tuy thế, tôi vẫn sợ rằng mình không phải là người Do-thái nên ông sẽ loại tôi ra. Nhưng không, lời ông nói đã làm cho chúng tôi được sạch, những vết phung hủi biến đâu mất, và chúng tôi thấy mình lành lặn. Những người Do-thái, theo như lời ông Giêsu nói, đã đi trình diện các tư tế theo đúng Lề Luật của họ. Còn tôi, tôi là người Samari, tôi đâu có lề luật, mà các tư tế cũng đâu có chứng nhận cho tôi. Tôi biết trình diện với ai bây giờ? Ai chứng nhận cho tôi, tôi đâu có thuộc quyền ai?
“Bởi vậy, không có gì hay hơn là tôi trở lại với chính người đã cứu tôi, đã chữa tôi lành bệnh. Ông ấy không coi thường tôi, không xét đến lý lịch gốc gác của tôi, và tôi thấy mình hạnh phúc, hạnh phúc hơn cả những người Do-thái. Tôi đã trở lại với ông Giêsu, trở lại để cám ơn, vì ơn đó quá lớn, chẳng thể nào tin nỗi.
“Đúng thế, ân huệ đó quá lớn lao. Những mặc cảm, những bất hạnh của tôi đã được xoá bỏ. Từ nay tôi được vào một đời sống mới, tôi được công nhận là người như mọi người khác. Và vì thế, tôi đã trở lại với Đấng đã làm ơn cho tôi, trở lại để bày tỏ tấm lòng của tôi, và cũng để công bố cho mọi người biết, Đấng làm ơn cho tôi có tấm lòng yêu thương vô biên.”
Người ấy, có phải là chúng ta?
Những người phung hủi ấy tượng trưng cho chúng ta. Khi mọi sự yên ỗn, sức khoẻ, công việc làm ăn đều tiến triển tốt đẹp, chúng ta nghĩ rằng chúng ta có quyền hưởng những thành quả ấy đúng như sự khôn khéo và hiểu biết của mình. Chỉ cần một chút thông minh, một chút mánh lới là chúng ta sẽ tránh được những điều tệ hại. Chúng ta chẳng cần phải cầu xin: “Xin dủ lòng thương chúng con.” Chúng ta không cảm thấy mình bệnh hoạn, thiếu thốn, và khi ấy, Thiên Chúa không thể làm gì được.
Nhưng khi mắc phải bệnh phung hủi, khi tai hoạ ập xuống, khi xảy ra những nguy hiểm, những cám dỗ, những tật bệnh … khi bất thình lình, cuộc đời chúng ta thay đỗi, lúc ấy, một cách tự nhiên, chúng ta chạy đến với Đấng có thể cứu thoát và thưa: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng con.” Đó là tiếng kêu của ân sủng. Mặc dù có những lúc dường như Thiên Chúa không đáp lại, nhưng Người vẫn luôn nghe thấy. Không có tiếng kêu nào của con người bị bỏ quên, không có tiếng kêu nào của con người mà Thiên Chúa lại không nghe thấy. Người sẽ chữa lành, chữa lành toàn diện.
Như thế, chúng ta phải nhận thấy mình mắc bệnh và cần đến sự trợ giúp của Thiên Chúa. Và khi đã phó thác, đã đặt niềm tin tưởng nơi Người, chắc chắn Người sẽ nhận lời, sẽ chữa lành, dù chúng ta thế nào chăng nữa. Thiên Chúa không xét chúng ta là ai, chúng ta như thế nào, Người chỉ cần lòng tin của chúng ta.
Và cũng như người Samari, chúng ta sẽ phải trở lại để tạ ơn Thiên Chúa, để nhìn nhận Đấng đã làm ơn cho mình, không chỉ là biết nhận ân huệ, nhưng còn phải nhận ra Đấng đã thi ân. Chính điều đó làm cho chúng ta nhận được thêm những ân huệ khác.
Người Samari đã vượt ra khỏi giới hạn của Lề Luật để bước vào thế giới ân sủng, bởi vì anh có tấm lòng. Nhận thức rõ ân huệ mình đã lãnh nhận, anh đã cư xử như nhận thức đó thúc đẩy, không theo một quy tắc nào cả. Không phải ai cũng có được tấm lòng như thế: Trong mười người, chỉ có một người trở lại mà thôi. Chúng ta có phải là người ấy?
* * *
“Ngay khi đọc câu chuyện chín người được chữa lành và mất dạng trong Tin Mừng, tôi liền khám phá ra nơi họ khuôn mặt của các cộng đoàn chúng ta, vẫn thường có tính hay quên và vô ân. Tôi cũng nhận thấy nơi người Samari trở lại để tạ ơn Đức Giêsu hình ảnh dân mới của Thiên Chúa. Con người mới này, con người xa lạ với Tin Mừng, con người không có thái độ chán ngán trước Lời Chúa, đã được Tin Mừng biến đỗi và đã làm cho Đức Giêsu phải ngạc nhiên.
Này đây Lời đã chết nơi những con người được coi là đạo đức, nay đang tái sinh ở ngoài họ, nơi một con người xa lạ với mọi nghi lễ tôn giáo của họ. Này đây Tin Mừng đang trỗi vượt lên cách bất ngờ bên ngoài mọi truyền thống và thói quen.
Chỉ một mình người lạ này, người đã trở lại để tạ ơn Thiên Chúa, là tất cả niềm hy vọng của Ít-ra-en, là lời mời gọi nhận ra sự hiện diện và quyền năng của Đức Ki-tô giữa trần gian. Đó chính là nét độc đáo của Tân Ước: Xưa kia, Cựu Ước kêu mời dân ngoại nhìn vào dân Ít-ra-en, còn giờ đây, Tân Ước kêu mời những người nhiệt thành hãy nhìn và lắng nghe sự thật đang được Đức Ki-tô bày tỏ giữa trần gian.” (theo G. Casalis)
.
An Phong
Tin mừng hôm nay là trình thuật Đức Giêsu chữa lành cho mười người phong cùi. Sau đó, chỉ có một người “quay trở lại, lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người…”. Bối cảnh của câu chuyện hôm nay là Đức Giêsu cùng các môn đệ đang trên đường rao giảng Tin mừng từ thành này đến thành khác, từ làng này đến làng khác. Đức Giêsu đã gặp nhóm người phong cùi này tại một trong số những làng mà Người ghé qua. Đây là nhóm gồm có người Do Thái và người Samari (người Do Thái và người Samari vốn thù địch nhau). Bệnh tật và sự khốn khổ đã kéo họ lại gần nhau.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay muốn nói đến dân Do Thái là dân đặc tuyển của Thiên Chúa. Họ đã nhận được nhiều ân huệ lớn lao như giao ước, luật Môsê, các ngôn sứ, đất hứa… Nhưng, như những người Do Thái bị phong cùi được Chúa chữa lành đã không biết trở lại cám ơn Đức Giêsu, dân Do Thái cũng không biết bày tỏ lòng biết ơn với Thiên Chúa vì những ân huệ lớn lao Người ban cho. Từ đó, những ân huệ lớn lao không còn chỉ dành riêng cho dân Do Thái, nhưng cho tất cả nhân loại. Đức Giêsu là ân huệ lớn lao nhất của Thiên Chúa gởi cho nhân loại.
Bệnh cùi không phải là một thứ bệnh như các thứ bệnh khác, nhưng nó là một hình phạt của Thiên Chúa vì tội lỗi quá khứ, là dấu chỉ sự thẩm phán của Thiên Chúa. Người cùi là người không còn được coi là con Thiên Chúa, họ bị loại ra khỏi cộng đoàn những người tin. Như thế, bệnh cùi là biểu tượng của một căn bệnh thiêng liêng của nhân loại vắng bóng Thiên Chúa, vắng bóng sự hiệp thông với cộng đoàn những người tin. Khi chữa lành cho mười người phong cùi, Chúa Giêsu cho thấy Người muốn tái tạo lại tất cả chúng ta – ít nhiều là những người mắc bệnh phong cùi thiêng liêng – thành những con cái đích thực của Thiên Chúa, đồng thời có được sự hiệp thông huynh đệ với nhau và với cộng đoàn những người tin. Đức Giêsu luôn là Đấng cứu độ chúng ta, Người muốn chữa lành tất cả những căn bệnh thiêng liêng của chúng ta, đó là “tham, sân, si, mạn, nghi, thâm kiến”, đó là mọi thứ tội lỗi đẩy Thiên Chúa ra khỏi trần gian này, đó là phá đổ sự hiệp thông huynh đệ…
Chắc hẳn Đức Giêsu không chờ những người được chữa lành trở lại cám ơn Người. Người ghi nhận chỉ có một người trở lại cám ơn. Một người duy nhất là tiêu biểu con số quá ít ỏi. Dường như chỉ thiểu số nhân loại thuộc về con số ít ỏi này?
Có lẽ mỗi người chúng ta cũng có kinh nghiệm về sự vô ơn dưới hình thức này hay hình thức khác. Có thể là chúng ta đã làm điều tốt cho một ai đó, nhưng họ không biết cám ơn chúng ta. Có thể là chúng ta không biết cám ơn vì những ân huệ Thiên Chúa ban cho chúng ta. Được làm người, được làm con cái Thiên Chúa không phải là những ân huệ Thiên Chúa ban sao?
Đời sống kitô hữu là một bài ca chúc tụng ngợi khen và tạ ơn Thiên Chúa. Khi lãnh nhận bí tích Rửa tội, chúng ta trở thành những thành viên trong cộng đoàn những người tin – Giáo hội. Khi lãnh nhận bí tích Thánh Thể – bí tích hy tế của Đức Giêsu và bí tích Tạ ơn Thiên Chúa, chúng ta được Thiên Chúa trao ban chính Đức Giêsu. Chúng ta cần trao ban lại – tạ ơn Thiên Chúa. Là kitô hữu tức là luôn tạ ơn, ngợi khen và chúc tụng Thiên Chúa. Là kitô hữu tức là được đón nhận một Tin mừng lớn lao – Đức Giêsu Kitô.
Phải chăng cuộc đời chúng ta là một bài ca ngợi khen chúc tụng và tạ ơn Thiên Chúa?
Lạy Chúa Giêsu, Ngài là Đấng khoan dung và nhân từ.
Chúng con xin tạ ơn Chúa vì những ơn lành Chúa ban.
Xin cho lòng con bình an đón nhận một ngày mới.
Xin giúp con luôn nương tựa vào ý Ngài.
Xin hướng dẫn con tìm ra ý Ngài trong mỗi giờ mỗi phút của ngày hôm nay.
Xin chúc lành cách đối nhân xử thế của con.
Xin dạy con đón nhận mọi cái bất ngờ trong ngày hôm nay với một tâm hồn thanh thản.
Xin cho con sức mạnh để chịu đựng những mệt nhọc của ngày hôm nay.
Xin biến đổi cuộc đời chúng con thành một bài thần ca ngợi khen, tôn vinh và tạ ơn Thiên Chúa. Amen.
.
PM. Cao Huy Hoàng
Nhờ ơn người, nhờ ơn đời
Có vẻ như chữ “nhơn” do chữ “nhờ ơn” mà thành. Là người, ai cũng nhờ ơn:
– ơn Cha Mẹ sinh thành dưỡng dục trong suốt một cuộc đời lam lũ nghèo khó;
– ơn giáo hội qua các bí tích để tôi được gọi là Thiên Chúa là Cha, và tôi là nghĩa tử của Ngài;
– ơn Thầy cô miệt mài hun đúc tôi từ chữ đến nghĩa, từ học đến hành;
– ơn người thân- bà con, anh em- thương yêu đùm bọc nâng niu giúp đỡ;
– ơn người dưng nước lã cho tôi nghĩa tình quê hương, nhân loại;
– ơn người đạo đức mỗi ngày cầu nguyện hy sinh cho mọi người, trong đó có tôi, được bình an;
– ơn người lành cho tôi bao bài học phải giữ;
– ơn kẻ dữ cho tôi bao bài học phải tránh;
– ơn người trung tín, ơn người phản bội, ơn người yêu, ơn người ghét, ơn người dối trá, ơn người thành thật, ơn người có đạo, ơn người vô thần, ơn người cho vay, ơn người đòi nợ, ơn người mắng nhiếc sỉ nhục, ơn người an ủi cảm thông, ơn ốm đau bệnh tật, ơn tai nạn bất ngờ, kể cả sự chết…
Làm sao kể hết những ơn lộc mà tôi đã nhận được qua những con người, những biến cố. Vì thế, có thể nói, mỗi người quanh tôi, gần tôi, xa tôi, người biết tôi, chưa biết tôi, người ở Texas, người ở Cali, người ở tận châu Phi, có người ở Sài gòn, có người Hà Nội…có người giàu có, cũng có người nghèo khó… tất cả đều là ân nhân của tôi một cách nào đó.
Mỗi người trở nên một phần trong cuộc sống của nhau, không thể thiếu.
Mỗi biến cố cũng vậy, dù tốt hay xấu, dù có lợi hay không có lợi, tôi cũng nhận được một ơn đặc biệt. “Thất bại là mẹ thành công”. Chẳng hạn, nếu không có một cái nhìn mới mẻ dưới ánh sáng đức tin, thì tôi không thể chấp nhận sự thua thiệt, cảnh tang thương hay thất bại là một ân huệ. Và đợi đến lúc tôi cảm nghiệm được rằng: tôi đã nhờ ơn đau khổ mà thành nhơn, thì tôi không còn đủ thời gian để xin lỗi những đau khổ vì đã nặng lời trách móc.
Vì thế, tôi muốn xác tín rằng: mỗi con người đang là cánh tay của Thiên Chúa nối dài để thi ân; mỗi biến cố là công cụ, là phương cách Chúa đã dùng để ban ơn cho tôi, cho mọi người.
Quả thật đời sống con người cần có nhau để tô đẹp cho nhau và cho cuộc đời, như có người nói:
“Nói với lá rằng hoa chưa đẹp nhất,
nếu không chen vào giữa lá nhung xanh,
nói với anh rằng em chưa đẹp nhất,
nếu không chen vào giữa trái tim anh”.
Hoa đẹp nhờ có lá, tôi đẹp nhờ có người xấu. Tôi biết tôi giàu nhờ có người nghèo quanh tôi. Tôi biết tôi mạnh khỏe nhờ có người đau yếu…
Hãy mở lòng ra để đón nhận nhau, chấp nhận nhờ ơn nhau, như một người cần có trái tim để sống.
Bác Trần Duy Nhiên trong thư gửi các cháu mổ tim có đoạn “một trái tim bị mổ, ngàn trái tim mở ra. Ngàn trái tim mở ra, vì có Một Trái Tim đã mở toang ra vì yêu nhân loại”.
Vâng, sống trong cuộc sống là sống với, sống vì, sống cho người khác sống. Tôi có thể cảm nhận trái tim tôi đập được là nhờ trái tim của nhiều người khác.Vâng, tất cả chúng ta đang “nhờ ơn” mà thành “nhơn”.
Nguồn ơn ấy, chính là sự quan phòng tuyệt vời của Thiên Chúa tình yêu.
Biết ơn
Biết mình cần “nhờ ơn” người khác là một điều đã khó; biết ơn người khác lại là một điều khó hơn. Để biết ơn, phải cảm nhận được ơn mình đã nhận. Và đối với tín hữu của Chúa, để cảm nhận được ân huệ của Thiên Chúa qua các biến cố, qua tha nhân, nhất thiết người thọ ơn phải có lòng khiêm tốn sâu xa và một đức tin chân thành mà sâu sắc.
Tướng Naaman trong sách các vua 5,14-17 quả thật đã có một niềm tin khiêm tốn sâu thẳm, nên mới có được một niềm xác tín vững chắc để nghe lời của Tiên tri Elise mà đi dìm mình bảy lần trong sông Giodan Cũng vậy, mười người phung hủi trong Tin Mừng Lc 17,11-14 có niềm tin khiêm tốn sâu thẳm, nghe lời Đức Giêsu mà đi trình diện các tư tế.
Cả một đất nước Aram không có con sông nào sạch sao và chắc gì sông Giodan sạch bằng? Hoặc có thầy thuốc nào bảo chỉ cần đi trình diện với ông nầy ông kia thì sẽ được khỏi bệnh?
Quả là một điều lý trí không thể chấp nhận được. Nhưng điều lý trí không chấp nhận được ấy lại là đức tin.
Như vậy sự khiêm tốn ở đây chính là bằng lòng hy sinh lý trí, hy sinh cái suy luận theo tài năng hiểu biết của mình, để đón nhận điều sẽ xảy ra với lòng tin tưởng tuyệt đối. Việc chấp nhận dìm mình trong song Giodan của Naaman cũng như chuyện chấp nhận thực hiện điều trái ý, chấp nhận điều chẳng lành trong cuộc đời, không dễ dàng tí nào đối với người không có đức tin.
Việc chấp nhận đến với Giodan còn mang một ý nghĩa khác, là chấp nhận đến với Đất Nước của Thiên Chúa, đến với Giáo Hội.
Cũng vậy, “đi trình diện với các tư tế” trong trình thuật Luca 17,11-19 cũng đồng nghĩa với việc chấp nhận đến với những người của Thiên Chúa, trong Giáo Hội. Và khi đến, phải khiêm tốn và xác tín rằng, tôi đến là tôi sẽ được nhận ơn.
“Trong khi đi trình diện với các tư tế, họ đã được sạch phung hủi”. Điểm nầy, tôi liên tưởng đến người có lòng khao khát được sạch những vết phung hủi của tâm hồn do tội lỗi, trên đường đi đến tòa cáo giải với lòng khiêm tốn và đức tin, thiết nghĩ, họ đã được sạch tội rồi nếu họ chết khi chưa kịp xưng thú các tội.
Chấp nhận dìm mình trong dòng sông Giodan hay đến với Đức Giêsu để nhận được ơn sự sống đòi hỏi một đức tin cao nhất, như Thánh Phaolô xác quyết: “Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta cùng kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người” (2Tm 2,11-12)
Rất tiếc, rất tiếc, vẫn còn có nhiều người luôn tuyên bố: “Từ nhỏ đến giờ tôi chẳng nhờ ơn ai cả, tôi tự lập mà nên”. Có người không chấp nhận nhờ vả vì sỉ diện, một cách tránh né do lòng kiêu ngạo. Vậy, không chấp nhận nhờ ơn thì làm gì nói đến chuyện biết ơn.
Ngay cả đối với sự hiện hữu tốt đẹp của chính mình trên trần gian, có người theo chủ nghĩa duy vật vô thần không đủ khiêm tốn để chấp nhận đó là một ơn huệ, còn to tiếng phủ nhận; và cho là một việc tự nhiên do chuyện giải trí của cha mẹ mà có! Thế thì làm gì có lòng biết ơn ai! Rồi từ đó, kéo theo một thế hệ con cháu vô ơn với trời đất, với tổ tiên, với nòi giống. Cái chủ nghĩa duy vật dạy cho họ cuộc sống con người bắt đầu từ con vật, sống và lớn lên như con vật, rồi chết đi như con vật.
Và khái niệm đó đóng khung lý trí của họ mà họ xem như một chân lý. Họ không thể khiêm tốn hy sinh cái lý trí què quặt ấy để đón nhận ánh sáng của đức tin. Họ không chấp nhận dìm mình trong dòng sông cứu rỗi mà người của Thiên Chúa giới thiệu. Họ cố tình không biết những ơn cao trọng mà dòng sông cứu rỗi mang lại. Chẳng trách gì mà họ không những không khiêm tốn đến với Chúa Giêsu mà còn không muốn ai đến với Ngài.
Rất tiếc hơn nữa, những con cái của Chúa cũng không thiếu những con người vô ơn như vậy. Khi cuộc sống vất vả, đau yếu, bệnh tật, nghèo túng thì sốt sằng tìm đến Chúa để kêu la cầu cứu; đến khi có của ăn của để, nhà cao cửa rộng, phương tiện tiện nghi đầy đủ thì xem tất cả những gì mình có là do sức mình, rồi tỏ ra bất cần đến Thiên Chúa nữa, bất cần đến ơn cao trọng hơn cả là ơn cứu rỗi, tự gieo mình vào một cuộc sống mỗi ngày thêm sa đọa. Chúa Giêsu nói: “không phải cả mười người đều được sạch cả sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?”(Lc.17,17-18)
Với tôi, bài học của tướng Naaman và mười người phung hủi, cho thấy sự cần thiết của lòng khiêm tốn, của một đức tin vững chắc để đón nhận và biết ơn Thiên Chúa đang tràn lan trong đời mình qua mọi người và qua mọi biến cố.
Hãy khiêm tốn đến với dòng sông Bí tích, dòng sông Giodan ngày xưa, và dòng sông của Đức Giêsu hôm nay, trong dó có dòng sông của bí tích hòa giải với xác tín chính Chúa Giêsu cũng đang nói với ta “Đức tin con đã chữa con” mọi thứ bệnh trầm kha nhất của tâm hồn. Và rồi, hãy thể hiện lòng biết ơn cách cụ thể qua việc đền đáp công ơn của Người.
Đền ơn
Đối với người Việt Nam, có thể nói có lòng biết ơn là đã đủ sống với đạo làm người, vì có những ơn Trời ban mà con người không bao giờ đáp đền cho cân xứng.
Với chúng ta, sống tâm tình biết ơn, thiết nghĩ, là chưa đủ. Phải thiết thực đáp đền ơn Chúa bằng việc thờ phượng tôn vinh Thiên Chúa cho xứng đáng. Biết việc đền ơn không phải là lễ vật như “món quà” của Naaman dâng cho Thiên Chúa qua Elise. Naaman đã chọn cách đền ơn bằng việc “chở một ít đất ở Giodan về mà lập bàn thờ Thiên Chúa trên đất ấy”.(2V 5,15-17). Cũng như người Samari “thấy mình được khỏi, liền quay trở lại mà lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn” (Lc 17,15-16).
Như vậy, đáp đền ơn Thiên Chúa là tôn vinh Thiên Chúa bằng cách:
– sống trọn tình con thảo trong niềm tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa quan phòng, tin tưởng vào Chúa Giêsu và Giáo Hội của Ngài: “hãy trình diện với các tư tế”.
Về điểm nầy, tôi không đồng tình với quan điểm “Giêsu-Yes”, “Giáo Hội- No”. Vì như thế là chúng ta tự mâu thuẫn với đức tin của mình. Chúng ta đã nhận muôn ơn Chúa qua Giáo Hội. Phủ nhận Giáo hội cũng chính là phủ nhận đức tin vào Thiên Chúa. Ta vẫn tuyên tín “ tôi tin Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền” kia mà. Hãy tin tưởng vào Giáo Hội của Chúa. Không vì một vài phần tử bội tín hoặc phá phách trong giáo hội mà ta phủ nhận sự thánh thiện của Giáo Hội, rồi trở thành người vô ơn một cách oan uổng. Hãy tin tưởng Giáo Hội.
– sống và trở nên nguồn sống cho tha nhân – nguồn sống ấy có thể là một nụ cười, một niềm vui, một chia sẻ như làm cánh tay nối dài của Thiên Chúa. Ta vẫn thường nhận ơn của một người và không bao giờ đáp trả nổi, nhưng ta lại thi ân cho người khác như một nghĩa cử đền đáp cho người mình đã nhận. Hãy sống chứng nhân tôn vinh thờ phượng Chúa bằng đức bác ái.
Để kết
Tôi có nghe các em mổ tim nhờ Hội Bác ái Phanxicô hỗ trợ- sau khi mổ tim thành công, hát mấy câu trọn vẹn ba ý nghĩa: nhờ ơn, biết ơn và đền ơn, như sau:
“Em có một trái tim nhưng là trái tim của nhiều người
Em sống nhờ trái tim, nhờ tình yêu thương người mọi nơi
Em suốt đời biết ơn người cho em sự sống nầy
Sẽ sống và sẻ chia tình yêu thương cho muôn người.”
Lạy Chúa xin cho chúng con lòng khiêm tốn và đức tin vững chắc, để đón nhận tất cả là hồng ân Chúa. Và xin cho chúng con biết sẻ chia sự sống cho tha nhân. A men.
.
Jos. Vinc. Ngọc Biển
Chúng ta vẫn còn nhớ vào ngày 11 tháng 3 năm 2012, kỷ niệm tròn 1 năm thảm họa sóng thần ập đến với nhân dân Nhật Bản. Sau đại họa đó, Nhật Bản đã hồi sinh nhanh chóng, một phần nhờ vào sự tương trợ của các nước trên thế giới. Vì thế, nhân dịp kỷ niệm này, khoảng 500 em học sinh từ thành phố Ishinomaki thuộc tỉnh Miyagi đã đồng ca bài hát mang tên “Arigato” (Cảm ơn) để tri ân thế giới. Hành động này đã làm cho thế giới nghiêng mình kính phục trước hệ thống giáo dục của nước Nhật.
Hôm nay, bài Tin Mừng trình thuật cho chúng ta thấy việc Đức Giêsu chữa lành mười người phong cùi, tuy nhiên, sau đó chỉ có một người quay lại để tạ ơn Chúa mà thôi. Vậy, tại sao lại có sự chữa lành đó và thái độ tạ ơn của người Samaria đã đem lại cho anh ta những gì?
Trước tiên, chúng ta tìm hiểu về quan niệm của người Do Thái đối với người bị bệnh phong cùi:
Theo lối suy nghĩ của người Do Thái thời bấy giờ, bệnh phong cùi là một thứ bệnh dơ bẩn, ô uế. Vì thế, người mắc bệnh này chắc chắn bị cô lập. Họ không được sống một cuộc sống bình thường như mọi người, và lẽ đương nhiên bị người cùng thời khinh bỉ. Cuộc sống của họ thường ở ngoại ô, hay nơi vùng sâu vùng xa, nơi ít người qua lại. Nhưng có lẽ khổ tâm hơn cả, chính là họ bị mọi người coi mình như là dấu chỉ bị Thiên Chúa trừng phạt. Những ai mắc bệnh này thì kể như là kẻ bị chúc dữ.
Quả thật sách Lêvi cũng đã trình bày sự phân biệt và kỳ thị đối với người bị bệnh phong thời bấy giờ như sau: “Người phong hủi phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu và kêu lên: ‘Ô uế! Ô uế!’ Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó còn ô uế; nó ô uế: nó phải ở riêng ra, chỗ ở của nó là một nơi bên ngoài trại” (Lv 13,45-46).
Tuy nhiên, hôm nay Đức Giêsu đã làm cho mọi người phải ngỡ ngàng vì Ngài có một trái tim rộng lớn, Ngài đã “chạnh lòng thương” để vượt lên trên lề luật, ra khỏi quan niệm của dân chúng để cứu giúp những người đau khổ.
Câu chuyện được khởi đi từ việc Đức Giêsu đi đến một làng kia, và có mười người phong cùi biết tin Ngài đi qua, nên đã đến để xin Ngài chữa lành cho mình: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!” Lc 17, 13 ). Câu nói này thể hiện niềm tin của họ vào Đức Giêsu cách tuyệt đối. Vì tin, nên những người bệnh này cũng đã phá tan hàng rào kỳ thị của dân chúng xưa nay cũng như lòng tự ti của chính mình để miễn sao gặp được Chúa và mong ước được Chúa yêu thương, chữa lành. Và, khi nghe thấy họ kêu xin mình như vậy, Đức Giêsu đã “chạnh lòng thương” và, Ngài đã ra tay cứu giúp khi nói: “Hãy đi trình diện với các tư tế. Ðang khi đi thì họ đã được sạch” ( Lc 17, 14 ). Qua hành vi chữa lành bệnh tật này, Đức Giêsu thể hiện lòng thương xót, nhân từ của Thiên Chúa cho nhân loại.
Tuy nhiên, điều quan trọng hơn cả chính là Đức Giêsu đã giải thoát họ về mặt tinh thần. Từ nay họ không còn bị xã hội xa lánh, khinh miệt và nguyền rủa nữa. Cũng kể từ nay, họ được hòa nhập với xã hội và người thân. Đây có lẽ là điều hạnh phúc nhất của họ.
Sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong bài tin mừng hôm nay đó là đức tin và lòng biết ơn:
Trước tiên, vì tin, những người phong cùi mới kêu lên: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!” (Lc 17, 14). Vì tin, họ mới nghe lời Đức Giêsu để đến trình diện tư tế khi chưa lành bệnh. Và, kết quả là nhờ lòng tin, họ đã được lành sạch khi đang trên đường đi trình diện các Tư Tế.
Thứ đến, là lòng biết ơn. Tất cả mười người đều được lành sạch cả, nhưng chỉ có một người trong nhóm họ đến tạ ơn Đức Giêsu mà thôi. Thật chớ trêu thay, người đó lại là người Samaria dân ngoại, còn những người Do Thái thì có những thái độ ngược lại. Thấy vậy, Đức Giêsu mới hỏi: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” (Lc 17, 18-19). Câu hỏi này vừa nói lên sự ngỡ ngàng và chua chát của Đức Giêsu với người Do Thái, vốn được coi là dân riêng của Thiên Chúa, nhưng đã không hề chân nhận những ơn lành mà Ngài đã thi ân. Thái độ này của họ đã được Đức Giêsu cảnh báo: “Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Ápraham, Ixaác và Giacóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng”.
Cuối cùng, nhờ lòng biết ơn, người Samaria này đã sinh hoa trái về đàng thiêng liêng cho chính mình. Người này được sạch cả bên trong lẫn bên ngoài, còn những người Do Thái thì tuy bên ngoài đã sạch, nhưng tâm hồn của họ vẫn bị thứ bệnh phong cùi vô hình làm cho họ mất cảm thức về ơn cứu độ.
Hôm nay chúng ta được nghe tường thuật bài Tin Mừng Chúa chữa mười người phong cùi về mặt thể lý, và điểm then chốt mà sứ điệp lời Chúa hôm nay muốn nhấn mạnh đó là cần phải có niềm tin và lòng biết ơn đối với Thiên Chúa. Đồng thời cũng muốn cho mỗi chúng ta ý thức được mình cũng là người tội lỗi cần được Chúa thứ tha.
Đã nhiều lần ta nghe đâu đó, hay chính chúng ta đã hứa với Chúa: “lạy Chúa, xin cho gia đình con được bình an, hạnh phúc, được nhiều người giúp đỡ. Con cái ngoan hiền, thi cử đỗ đạt, gia đình có công ăn việc làm, buôn bán được thuận lợi”, rồi sau đó hứa với Chúa là sẽ thay đổi như: bỏ rượu, cờ bạc, trai gái và chăm chỉ đi lễ nhà thờ, lần hạt, chia sẻ bác ái…. Nhưng khi đạt được rồi thì bỏ luôn không còn nhớ gì hay nếu có nhớ thì cũng làm ngơ không để ý đến lời thề của mình với Chúa, Đức Mẹ và các thánh nữa. Vẫn còn đó câu ngạn ngữ: “Hết rên, quên thầy”; “được chim bẻ ná, được cá quăng nơm”; “chắp tay lạy Đức Chúa Trời, cho con lấy vợ con thôi nhà thờ”.
Mong thay, mỗi người chúng ta hãy có một đức tin mạnh mẽ và luôn mang trong mình tâm tình tạ ơn Chúa để được cứu độ. Hồng ân này đã được kinh Tiền tụng Thánh Thể IV diễn tả: “Lạy Cha chí thánh là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Cha mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và sinh ơn cứu độ cho chúng con nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Thật ra, Cha không cần chúng con ca tụng, nhưng được ca tụng Cha lại là một hồng ân cao cả, vì những lời ca tụng của chúng con chẳng thêm gì cho Cha, nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ muôn đời”.
Lạy Chúa, xin cho con biết tin tưởng vào Chúa như những người phong cùi khi xưa, và xin cho con có thái độ biết ơn như người Samarria trong bài Tin Mừng hôm nay. Ước gì lời tạ ơn của chúng con được Chúa chúc lành và ban ơn cứu độ. Amen.
.
Lm Giuse Đinh lập Liễm
A-. DẪN NHẬP.
Người ta hay nói :”Hữu sự vái tứ phương, vô sự đồng hương không mất”. Câu nói ấy có ý chỉ trích thói vô ơn của nhiều người. Theo thói thường, người ta chỉ muốn nhận chứ không muốn cho đi. Nếu nhận được một ân huệ nào của ngưới khác thì dễ quên đối với vị ân nhân, còn khi mình làm ơn cho ai thì nhớ rất dai và muốn người ta phải thể hiện lòng biết ơn đó. Bài Tin mừng hôm nay cho biết Đức Giêsu đã chữa lành cho mười người phong cùi mà chỉ có một người dân ngoại Samaria trở lại ca tụng hồng ân Thiên Chúa, còn chín người Do thái kia bỏ đi luôn không nghĩ gì đến hồng ân đã lãnh nhận. Những người này không tỏ lòng biết ơn vì nghĩ mình là người Do thái nên có quyền đòi hỏi Chúa thi ân. Họ là những người vô ơn.
Người đời thường nói :”Uống nước nhớ nguồn” hay “An quả nhớ kẻ trồng cây”. Biết ơn là một chuyện xem ra rất bình thường nhưng cũng là một bổn phận mà ít người làm trọn. Ngày nay người ta ít dùng hai tiếng “cám ơn”, người ta rất hà tiện trong việc dùng hai tiếng đó. Ngạn ngữ Pháp có câu :”Lòng biết ơn là trí nhớ của trái tim”, vì con tim cảm nghiệm được điều tốt người khác làm cho mình, nên người biết ơn người khác phải là người đạo đức, có văn hóa, có giáo dục. Vì vậy, chúng ta có thể nói : biết ơn là một việc khó, và thể hiện lòng biết ơn bằng những việc làm cụ thể lại càng khó hơn.
Cuộc đời của chúng ta được đan dệt bằng những hồng ân của Thiên Chúa. Thánh Phaolô nói:”Tất cả là hồng ân”. Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu cũng nói như thế. Đối với người chịu ơn thì phải tỏ lòng biết ơn đối với người làm ơn. Đối với Thiên Chúa, lời cảm tạ của chúng ta không cần thiết vì nó chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng nó lại cần thiết cho chúng ta vì đem lại lợi ích cho chúng ta. Chúng ta phải có tâm tình tạ ơn Chúa như ông Naaman đối với tiên tri Elisê và người phong cùi Samaria đối với Chúa. Cách thể hiện lòng biết ơn của chúng ta đối với Chúa không gì tốt hơn là Thánh Thể và Thánh lễ, vì Thánh Thể và Thánh lễ đều là tạ ơn. Đi tham dự Thánh lễ là đi tạ ơn Chúa. Ngoài ra, tinh thần biết ơn ấy còn phải được thể hiện bằng sự chia sẻ với những người khác về tinh thần cũng như vật chất.
B-. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : 2V 5,14-17.
Ông Naaman là tổng tư lệnh quân đội Syria bị mắc bệnh phong cùi. Nghe tin bên Israel có ông Elisê có thể chữa được, nên ông đã đến xin tiên tri Elisê chữa cho ông.
Tiên tri Elisê bảo ông hãy xuống sống Giorđan tắm 7 lần thì khỏi. Ông thấy đây là phương pháp quá tầm thường và nước sông ở đây cũng không hơn gì nuớc sông ở xứ sở mình. Lúc đầu ông không chịu, nhưng do một người hầu gái thuyết phục, ông đã đi tắm 7 lần và sau đó ông được khỏi bệnh cùi.
Sau khi khỏi bệnh, ông Naaman muốn tạ ơn tiên tri Elisê nhưng ông nhất định từ chối, vì ông muốn quan chỉ cám tạ ơn Thiên Chúa mà thôi.
+ Bài đọc 2 : 2Tm 2,8-13.
Lúc đó, thánh Phaolô đang bị giam cầm tại Rôma lần thứ hai. Ngài viết cho Timôthêô những lời di huấn : hãy chịu đau khổ và chết với Đức Kitô để được cùng sống lại và hiển trị với Ngài. Còn riêng với thánh Phaolô, mặc dầu đang chịu khổ sở vì bị giam trong tù, nhưng vẫn ca tụng Thiên Chúa và quyết tâm trung kiên với Ngài.
+ Bài Tin mừng : Lc 17,11-19.
Chúng ta có thể chia bài Tin mừng thành ba đoạn nhỏ :
a) Nhận biết phận mình: Mười người phong cùi đến với Đức Giêsu xin Ngài cứu chữa. Nhận biết phận mình là những người bị xã hội loại bỏ nên không dám đến gần Đức Giêsu mà chỉ “đứng đàng xa” mà kêu xin.
b) Đức Giêsu thử thách họ: Ngài không chữa cho họ ngay mà chỉ bảo họ :”Hãy đi trình diện với các tư tế”. Nếu có đức tin thì họ sẽ đi ngay và sẽ được khỏi. Trường hợp này họ có đức tin vì đang đi trên đường thì họ được khỏi.
c) Kết quả: Mười người đều được khỏi bệnh : 9 người cùi Do thái không trở lại tạ ơn vì họ đã quen được ơn Chúa nên coi đó là việc bình thường. Còn người cùi xứ Samariatrở lại tạ ơn vì nghĩ rằng mình không xứng đáng được ơn, thế mà lại được.
C-. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
I. CHỮA LÀNH MƯỜI NGƯỜI PHONG CÙI.
Trên đường tiến về Giêrusalem, nơi Đức Giêsu thực hiện công trình cứu độ bằng việc chịu thương khó, chịu chết và sống lại. Thánh Luca thuật lại cho chúng ta một biến cố xẩy ra trong cuộc hành trình lên Giêrusalem, đồng thời cũng là một phép lạ : Chúa chữa lành mười người phong cùi ở biên giới Samaria và Galilêa.
Bệnh phong cùi vẫn được giới y học cho là phát sinh từ Ai cập truyền qua Palestine, An độ rồi hai đế quốc La Hy. Sau đó truyền sang Au châu. Phong cùi là một bệnh nan y nhơ nhớp, người bệnh phải sống cách biệt với người lành và vì thế họ không được ở trong thành, chỉ được sống ở những làng mạc chung quanh thành. Vì thế, trước khi vào Giêrusalem. Đức Giêsu đi qua làng thì gặp mười người phong cùi.
Phong cùi là một bệnh khó trị, ai cũng ghê tởm và run sợ nếu mắc phải bệnh này. Vào thời Đức Giêsu, nó còn khoác vào người bệnh nỗi nhục nhã trong tâm hồn vì người ta cho rằng họ là những người bị Thiên Chúa phạt. Những người mắc bệnh cùi bị ruồng bỏ. Luật của Maisen thật là hà khắc nhằm tránh dịch bệnh lan truyền : người mắc bệnh phong cùi phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu và kêu lên :”Ô uế ! Ô uế !”. Không cần phải nói thêm rằng họ đương nhiên bị cấm đến ở những nơi dân cư và hoàn toàn bị đuổi ra khỏi những nơi thờ phượng.
Mười người phong cùi này sống chung với nhau lẫn lộn cả Samaria và Do thái, không còn phân biệt như trong các cộng đồng của họ ở trước. Họ sống vui vẻ hòa hợp. Chính đau khổ đã đưa con người đến tình liên đới nhân loại. Khi họ bị loại ra khỏi xã hội con người, họ đã trở thành một xã hội đầy tình người hơn.
Theo luật Maisen, họ không được đến gần, phải đứng đàng xa mà kêu xin :”Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi”. Đức Giêsu không chữa lành họ tức khắc mà chỉ bảo họ hãy đi trình diện với các tư tế. Những người phong cùi phải đến trình diện thầy tư tế, không phải để được khỏi bệnh nhưng để xác nhận là đã khỏi bệnh. Ở đây ra lệnh cho người bệnh đi trình diện khi chưa khỏi bệnh là để thử luyện lòng tin của họ, vì theo luật khi khỏi bệnh mới đi trình diện các thầy tư tế.
Để được khỏi bệnh, Đức Giêsu đòi hỏi phải có lòng tin. Những người cùi này đã tỏ bầy lòng tin vào Đức Giêsu khi họ tuyên xưng Đức Giêsu là Thầy và xin Ngài thương xót, đồng thời họ cũng đã tỏ lòng tin ấy bằng hành động : vâng lời Chúa đi trình diện ngay với các vị tư tế mà không chờ một hành động gì khác để chữa bệnh. Việc này cũng làm cho chúng ta nghĩ đến thử thách lòng tin mà tiên tri Elisê bắt ông Naaman, người gốc Syria phải chịu khi yêu cầu ông này phải tự mình thực hiện một biện pháp… điều này làm ông ta nổi giận. Vì thế, hiệu quả của lòng tin ấy làm họ thấy mình được khỏi bệnh trên đường đi trình diện theo Luật.
Trong khi đi trình diện, cả mười người đều được lành sạch. Chúng ta nhận thấy trong khi 9 người tiếp tục đi “trình diện với các tư tế”, thì riêng có một người, thay vì vâng lệnh Chúa và Luật dạy, “liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa”. Thật ngạc nhiên, chỉ đến lúc này, lúc mà cách xử sự của anh đã gây ấn tượng tốt nơi chúng ta, thì chúng ta mới biết anh thuộc dòng tộc nào : anh là người Samaria. Đối với anh, tuy đã khỏi bệnh cùi, nhưng vẫn phải mang thân phận của người bị khinh khi vì lạc đạo, nên không có vấn đề đi đến đền thờ… hơn nữa, anh đã gặp Đấng Thiên Sai trên đường, Đấng vừa cứu chữa anh, như rồi đây ta sẽ thấy : chính nơi Đức Giêsu mà ta tôn vinh Thiên Chúa.
Cử chỉ anh làm là một cử chỉ trong phụng vụ,”anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn”. Anh nghĩ chắc hẳn đó là cách tuyên xưng công khai Đức Giêsu là người gần gũi với Thiên Chúa. Roland Meynet chú giải :”Người Samaria vừa khỏi bệnh đã kết hợp Thiên Chúa với Đức Giêsu trong cùng một lời ngợi khen và tạ ơn. Ơn cứu độ vừa đón nhận được anh công bố cho mọi người biết, đó là công trình của Thiên Chúa và của Đức Giêsu. Lòng tin của anh không phân biệt hai Đấng ấy, và anh sấp mình dưới chân Đấng đã làm cho anh nên sạch, như sấp mình dưới chân Đức Chúa” (Fiches dominicales C, tr 328-329).
“Chớ thì không phải cả mười người được lành sao” ? Đức Giêsu đợi tất cả mọi người đến tôn vinh Thiên chúa qua trung gian của Ngài. Những người Do thái không tỏ lòng biết ơn, vì nghĩ mình là người Do thái nên có quyền đòi hỏi Chúa thi ân. Ở đây Chúa có ý ám chỉ đến người Do thái, đến riêng các biệt phái, luật sĩ là những người ỷ lại vào danh nghĩa (con cái Israel) dân riêng của Chúa, mà tự phụ kiêu căng, khép kín không tin nhận vào quyền năng của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Đang khi ấy chỉ có người dân ngoại là ngườiSamaria đã tỏ bày lòng biết ơn bằng cách trở lại tôn vinh Thiên Chúa.
II. HAI TIẾNG “CÁM ƠN” TRONG ĐỜI THƯỜNG.
Trên bình diện con người thì biết ơn rất ư là chuyện bình thường. Khi chịu ơn ai thì tỏ lòng biết ơn qua một hình thức nào đó hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp vì người ta thường nói :
Uống nước nhớ nguồn
Hoặc
An quả nhớ kẻ trồng cây,
An cơm nhớ kẻ đâm, say , giã, sàng.
Thế nên lòng biết ơn thường là “có đi có lại”. Dĩ nhiên cũng có người chỉ muốn cho đi mà không muốn nhận lại, dù chỉ là lời cám ơn. Nhưng quả là hiếm !
Ngày nay, hai tiếng “cám ơn” hình như càng ngày càng thiếu vắng trong cuộc sống hiện nay. Chúng ta ngày hôm nay, ngần ngại khi phải nói tiếng “cám ơn”. Nếu để ý, chúng ta sẽ thấy hai tiếng “cám ơn” hình như bớt dần đi với tuổi tác. Càng lớn tuổi, người ta càng khó nói tiếng “cám ơn”. Nhưng nếu chỉ hai tiếng “cám ơn” mà chúng ta không nói được, thì cho thấy tình trạng luân lý của xã hội đang tuột dốc một cách nguy hiểm.
Người Pháp có câu ngạn ngữ :”Lòng biết ơn là trí nhớ của trái tim”. Vì con tim cảm nghiệm được điều tốt người khác đã làm cho mình, nên người biết ơn người khác phải là người đạo đức, có văn hóa, và có giáo dục. Thi sĩ người Anh, Samuel Johnson, đã nói rằng :”Lòng biết ơn là một hoa trái của công trình rèn luyện cao quí, bạn không tìm thấy nó ở những kẻ thô lỗ”.
Còn Chu Văn, tác giả Chuyện Tử Tế thì chia sẻ với chúng ta :”Một tiếng nói cám ơn với tất cả thành thật, một cử chỉ biết ơn đối với những ai đã làm ơn cho chúng ta cách này hay cách khác, một thái độ như thế không những làm cho chúng ta được nên người hơn, mà là thể hiện của một niềm tin sâu sắc nữa. Có lẽ không gì tử tế bằng khi hai tiếngcám ơn luôn được thốt lên với tất cả chân thành và trân trọng”.
Công ai một chút chớ quên,
Phiền ai một chút để bên cạnh lòng.
Truyện : Anh lính biết ơn.
Kurt Emmerich, một bác sĩ giải phẫu trong quân đội của Đức, đã kể câu chuyện sau đây về một kinh nghiệm ông đã trải qua ở biên giới Nga sô. Hàng ngàn thương binh đã được ông giải phẫu tại bệnh viện dã chiến, nhưng chỉ có một trường hợp làm ông không bao giờ quên. Người lính trẻ đó được đưa vào bệnh viện với một khuôn mặt bị vỡ tan nát. Bác sĩ phải làm việc rất nhiều ngày để sửa lại khuôn mặt của anh với tất cả nỗ lực có thể được qua hàng loạt những phẫu thuật cấy và ghép da.
Trong lần giải phẫu cuối cùng, bác sĩ đã phải khâu nối kết toàn thể các phần còn lại với nhau ở khóe miệng của bệnh nhân. Những y tá phụ đã giúp cho anh thương binh ngồi lên. Vì thuốc tê chung quanh miệng bệnh nhân vẫn còn hiệu quả, nên bác sĩ nói với anh, “Bây giờ công việc đã hoàn tất, chúng tôi muốn nghe anh phát biểu một điều gì với môi miệng mới của anh”.
Anh thương binh trẻ từ từ cử động những bắp thịt quanh miệng một cách rất cẩn thận, và rồi với nụ cười mỉm chi đầu tiên của anh, miệng anh uốn theo những chữ :”Cám ơn”(Nguyễn văn Thái, Sống Lời Chúa… năm C, tr 343).
Đừng tưởng việc biết ơn, nhớ ơn, biết nói lời cám ơn là một chuyện dễ dàng, không mấy khó khăn. Nếu nghĩ như thế là lầm vừa chưa biết cám ơn bao giờ vì qua cách sống của mỗi người và qua thực tế như bài Tin mừng hôm nay trình bầy cho chúng ta thấy rằng : nhận ơn thì ai cũng muốn, còn nhớ ơn lại rất ít người làm hoặc cho ai cái gì người ta nhớ rất dai, còn khi nhận được cái gì thì lại quên mau chóng. Như thế, chỉ những ai có tâm hồn đạo đức, một lòng trí trong sáng mới có thể biết ơn ân nhân của mình cách đúng đắn.
Nếu biết năng dùng hai tiếng “cám ơn” thì nó cũng sẽ giúp người ta rất nhiều :
– Khi ta cám ơn ai, người đó sẽ hài lòng, và lần sau họ sẽ sằn sàng giúp ta nữa.
– Nghe ta nói cám ơn, lòng người ta vui, mặt người ta sáng, người ta sẽ làm việc vui vẻ hơn.
Hai tiếng “cám ơn” khi được thốt ra bởi những người lớn hơn thì càng sinh hiệu quả nhiều hơn. Chẳng hạn cha mẹ cám ơn con cái, thầy cô cám ơn các em học trò, chủ cám ơn tớ…
Nhưng tại sao người ta cám ơn “người dưng” hơn là cám ơn người nhà”(Frank Mihalic).
Bài đọc 1 đưa ra cho chúng ta một hình ảnh rất đẹp : Tướng của Syria là Naaman bầy tỏ lòng biết ơn của mình đối với tiên tri Elisê một cách cụ thể bằng lễ vật mà ông tha thiết xin tiên tri nhận cho. Còn Elisê thì kiên quyết từ chối, mặc dù lễ vật ấy chắc chắn sẽ giúp ngài sống đỡ thiếu thốn, và nhất là – theo cách suy nghĩ bình thường của người đời – có thể tạo cho ngài nhiều phương tiện hơn để thi hành sứ mạng của mình.
Cả hai thái độ tốt đẹp trên có thể làm chúng ta suy nghĩ và xét lại thái độ của chúng ta khi chịu ơn ai hoặc làm ơn cho ai. Thông thường người ta có tâm lý hay quên hoặc không nhận ra những điều tốt người khác làm cho mình, nhưng lại dễ nhớ những gì tốt đẹp mình làm được cho người khác. Không những thế, mình còn mong họ nhớ ơn và trả ơn mình. Nếu họ vô tình quên ơn, thì ta buồn phiền, oán trách, thậm chí sẵn sàng lên tiếng chê bai :
Những người phụ nghĩa quên công,
Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm.
Truyện : Không ai cám ơn tôi cả.
Cách đây đã lâu, một con tầu bị đắm vì giông bão trong vùng Ngũ Đại Hồ, Hoa kỳ. Những toán cấp cứu được phái đến giúp đỡ, trong đó có một nhóm sinh viên của trườngNorthwestern University ở Chicago. Một sinh viên trẻ tuổi, tên là Edward Spencer, đã cứu được 16 người từ con tầu đang bị chìm. Anh làm việc hăng say cho đến khi gần kiệt sức. Khi được phỏng vấn, anh còn lúng túng e ngại vì sợ rằng vẫn chưa làm hết sức mình :”Tôi đã làm việc hết sức chưa ? Quý vị có nghĩ rằng tôi đã làm việc hết mình không”?
Nhiều năm sau đó, trong buổi họp mặt của các cựu sinh viên, một thuyết trình viên đã nhắc lại hành động anh hùng này. Bỗng nhiên có một người la lớn rằng Edward Spencer đang hiện diện ở đây. Thế là Spencer được mời lên bàn cử tọa. Bây giờ ông đã già, tóc bạc, buớc lên bục đài giữa tiếng hoan hô vỗ tay của khán giả. Thuyết trình viên hỏi ông :”Trong biến cố đó, sự kiện nào đáng ông ghi nhớ nhất” ? Ông cụ bèn trả lời:”Chỉ có một điều này làm tôi nhớ mãi, khoảng 16 hay 17 người đã được tôi cứu vớt, không một người nào đã cám ơn tôi cả”.
Thái độ biết ơn Thiên Chúa là một thái độ căn bản của các tạo vật và chỉ con người mới ý thức và nói lên được hai tiếng cám ơn. Trong Cựu ước, dân Israel đã dâng các lễ vật đầu mùa để cám ơn Thiên Chúa (Đnl 26, 1-10). Trong Tân ước, một hành động cảm ơn trọn vẹn và xứng đáng nhất là phép Thánh Thể thường được gọi là Lễ Tạ Ơn. Sách Talmud nói:”Một ngày kia khi mọi lời nguyện sẽ im bặt trên môi miệng con người, ngoại trừ kinh nguyện tạ ơn”.
Thánh Bênađo đã nói:”Anh em, tôi xin anh em điều này là hãy xa tránh một nết xấu lớn lao là sự vô ơn. Chớ gì đời ta là một đời sống, một lời cám ơn liên lỉ. Chúng ta đừng cảm ơn suông bằng môi bằng miệng, nhưng bằng các việc làm và bằng chân lý của đời ta : đừng nói cám ơn, nhưng hãy thực hành việc cám ơn. Đó là điều mà Chúa mọi ơn lành đòi hỏi chúng ta”.
III. THỂ HIỆN TÂM TÌNH BIẾT ƠN.
Cuộc sống là một chuỗi những ân huệ nối tiếp nhau. Những ân huệ này đan xen với những ân huệ khác. Có những ơn do nơi Thiên Chúa, và cũng có những ơn đến từ con người. Vậy nếu cuộc sống là lãnh nhận thì người ta sẽ như thế nào nếu không hề biết nói hai tiếng “cám ơn”, hoặc chẳng bao giơ bầy tỏ tấm lòng tri ân.
Chúa cho con đôi mắt, con nhìn bao kỳ công,
Chúa cho con đôi tai, con nghe đủ âm thanh,
Chúa cho con đôi môi, con hé mở nụ cười,
Chúa cho con hai tay, bưng chén cơm, cầm bút,
Chúa cho con đôi chân, dẫn con khắp nẻo đường,
Chúa cho con khối óc, phân biệt điều thực hư,
Những điều con có đó, tưởng tầm thường nhưng thật vĩ đại, thật cao cả.
Mà đã lần nào con nhớ đến những thứ ấy để cám ơn Chúa.
Chắc đợi đến khi mắt mù, tai điếc, chân què, con mới nhận ra những thứ ấy thật cao quí.
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho chúng con nhiều điều. Nhưng xin ban cho chúng con một điều nữa là cho chúng con biết luôn nhận ra những ân huệ Chúa mà không ngừng cảm tạ tri ân.
Amen . (Hosanna).
Truyện : Hồng ân Chúa quá nhiều.
Có một người cha trong gia đình đã ghi lại câu chuyện và những ý nghĩ sau đây : Một đêm kia, trong lúc đang đọc báo, tôi nghe đứa con gái bé nhỏ của tôi nói :”Bố ơi, con sẽ đếm sao trên trời có bao nhiêu ngôi sao nhé”. Sau đó, tôi nghe giọng nói êm đềm của con tôi bắt đầu đếm 1,2,3,4… Rồi tôi chăm chú vào việc đọc báo, không để ý đến tiếng con tôi đếm các ngôi sao nữa. Đến khi đọc xong bài báo, tôi chú ý lắng tai và nghe tiếng nó vẫn tiếp tục đếm 123,124,125… Đến đây nó bỗng ngừng lại, không đếm nữa, rồi quay sang nói với tôi :”Bố ơi, con không dè trên trời lại có nhiều sao đến thế”. Nghe con gái nhận xét như vậy, tôi chợt nhớ là thỉnh thoảng tôi cũng âm thầm nói với Chúa :”Chúa ơi, để con thử đếm xem con đã nhận lãnh bao nhiêu ơn lành Chúa đã ban”, và càng đếm, trái tim tôi hình như càng cảm thấy thổn thức, không phải vì âu sầu mà vì bị quá nhiều hồng ân Chúa đè nặng. Rồi tôi cũng thường phải thốt lên như con gái tôi :”Lạy Chúa, con không dè đời con lại có quá nhiều hồng ân của Chúa đến thế”(Phạm văn Phượng).
2. Có nhiều cách tỏ lòng biết ơn.
Tâm tình biết ơn thường được gói ghém trong hai tiếng “Cám ơn”. Cám ơn không những là một bổn phận mà còn là một nhân đức bởi vì người ta rất hà tiện trong việc cám ơn. Người ta có muôn vàn cách để cám ơn. Có rất nhiều chuyện mà người ta không thể cám ơn bằng tiền bạc được, người ta có thể cám ơn bằng nụ cười, một thoáng quan tâm, một tiếng cám ơn. Những ngưởi bán hoa đã viết một biểu ngữ trước quầy hàng của họ thế này:”Hãy diễn tả tâm tình của bạn bằng những bông hoa”. Cũng vậy, chúng ta phải diễn tả tâm tình của mình ra nhờ những cái gì khác hơn là tiền bạc, hoặc cả tiền trà nước, đó là lời cám ơn. Có cả một nghệ thuật bầy tỏ lòng tri ân mà chúng ta phải tập để biết sử dụng hợp thời, đúng lúc và tinh tế khéo léo.
Về việc thể hiện lòng biết ơn đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa không cần những lời cám ơn của chúng ta, nhưng chúng ta cần cám ơn Thiên Chúa. Điều ấy nhắc chúng ta rằng mọi việc mà chúng ta có đều do Thiên Chúa ban cho. Cám ơn Thiên Chúa về điều xẩy đến cho chúng ta là việc dễ dàng. Nhưng chúng ta cố gắng biết ơn về trọn cả cuộc đời mình : điều xấu cũng như điều tốt, những niềm vui và nỗi buồn, những thành công và thất bại. Đó không phải là một việc dễ dàng. Chúng ta chỉ thực sự gọi mình là những người có lòng biết ơn khi chúng ta có thể nói lời cám ơn về mọi việc đã đưa chúng ta đến giây phút này. Loại tri ân này làm chúng ta có khả năng cải tạo toàn bộ quá khứ của chúng ta và coi nó như là con đường cụ thể trong đó Thiên Chúa dẫn dắt chúng ta đến giây phút này.
Ngay từ ban đầu khi thành lập Giáo hội, các tín hữu đã qui tụ nhau lại hằng tuần để cử hành tiệc “Thánh Thể” (Cv 2,42). Chữ Eucharistia – “Thánh Thể” dịch từ tiếng Hy lạp “Eucharistos”, có nghĩa là “Biết ơn – Tạ ơn”. Vì thế ngay từ hồi Giáo hội sơ khai, người Kitô giáo đã ý thức về nhu cầu tạ ơn Thiên Chúa, và họ nhận thức rằng một cách tốt nhất để tạ ơn là việc dâng lễ. Khi mọi người tín hũu thời Giáo hội sơ khai đi dâng lễ, cái ý nghĩ và tâm tình của họ dựa trên cái ý niệm tạ ơn. Thánh lễ, theo tiếng Hy lạp, có nghĩa là tạ ơn. Vậy đi lễ là đi tạ ơn Thiên Chúa.
Trong Thánh lễ, ta dâng lời cảm tạ Thiên Chúa bằng lời tạ ơn và tâm tình biết ơn. Bằng một biểu hiệu tạ ơn và biết ơn, ta dâng lên Thiên Chúa bánh rượu là do kết quả của sức lao công hằng ngày, được trở thành Mình và Máu thánh Chúa do lời truyền phép của Linh mục tế lễ. Do đó lễ vật tạ ơn của ta được hiệp nhất với Mình Máu Thánh Chúa Kitô dâng lên Thiên Chúa làm của lễ đền tội, ca tụng và cảm tạ.
Để kết thúc, chúng ta có thể nói rằng Chúa không cần chúng ta phải cảm ơn nhưng lại cần cho chúng ta, bởi vì việc đó có lợi cho chúng ta như kinh Tiền tụng Thánh Thể IV đã nói:”Lạy Cha chí thánh là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Cha mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và sinh ơn cứu độ cho chúng con nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Thật ra, Cha không cần chúng con ca tụng, nhưng được ca tụng Cha lại là một hồng ân cao cả, vì những lời ca tụng của chúng con chẳng thêm gì cho Cha, nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ muôn đời, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con”.
Truyện : Cám ơn.
Thi sĩ Lamartine, người Pháp có kể lại một giai thoại như sau : một hôm ông tình cờ đi qua một khu rừng, ông nghe có một âm thanh kỳ lạ : cứ sau một tiếng búa đập vào đá lại vang lên một tiếng cám ơn ! Đến gần nơi phát ra âm thanh, thi sĩ mới nhìn thấy một người thợ đá đang miệt mài làm việc. Cứ mỗi lần gõ búa vào phiến đá, ông lại thốt ra hai tiếng “cám ơn”.
Thi sĩ nấn ná đến hỏi chuyện, ngưởi thợ đá mới giải thích :”Tôi tạ ơn Chúa” ! Ngạc nhiên về lòng tin của một người mà cuộc sống hẳn phải lam lũ, lầm than hơn nhiều người, thi sĩ bảo :
– Giả như bác được giầu có thì tôi hiểu tại sao bác không ngừng thốt lên hai tiếng “cám ơn”. Đàng này Thiên Chúa chỉ nghĩ đến bác có mỗi một lần duy nhất, đó là lúc Ngài tạo nên bác. Sau đó Ngài ban cho bác có mỗi cái búa này để rồi không ngó ngàng gì tới bác nữa, thế thì tại sao bác lại mỏi miệng cám ơn Ngài ?
– Ông nghĩ rằng Chúa chỉ nghĩ đến tôi có một lần thôi sao ?
– Dĩ nhiên – Lamartine thách thức – Chúa chỉ nghĩ đến bác có một lần thôi !
Người thợ đá nghèo, nhưng đầy lòng tin, náo nức thốt lên :
– Tôi nghĩ điều đó không có gì đáng ngạc nhiên cả. Ông hãy nghĩ rằng Thiên Chúa đã đoái thương nghĩ đến một người thợ đá thấp hèn như tôi, và chỉ một lần thôi, vậy không đủ cho tôi cám ơn Ngài sao ? Vậy, cám ơn Chúa, cám ơn Chúa !
Nói xong, người thợ đá đã bỏ mặc cho ông thi sĩ đứng đó và tiếp tục điệp khúc quen thuộc của ông : vừa đập đá vừa cám ơn Chúa.
“Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi,
Chớ khá quên mọi ân huệ của Người” (Tv 103,2)
.
Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt
1–. Đây là lần thứ ba (x. 9,51; 13,22; và c.11 chương này) Lc nói đến việc Chúa Giêsu lên Giêrusalem. Ngài đã “đi ngang qua Samaria và Galilea”. Các dòng chữ này từ lâu đã gây nhiều khó khăn trong các thủ bản và các sách Chú giải. Có 2 cách giải thích:
a/ “Đi ngang qua Samaria và Galilea” có nghĩa “đi ngang giữa Samaria và Galilea”, nghĩa là đi giữa đường ranh giới ngăn cách 2 tỉnh. Có lẽ Chúa Giêsu đã đi theo lộ trình đó để đến thung lũng sông Giodan miền Scythopolis và từ đó xuống Giêrico (18,35) để lên Giêrusalem. Việc đi gần Samaria đó cắt nghĩa sự có mặt của một người Samaritanô trong nhóm mười người phong cùi. Xét về văn phạm, lối chú giải này xem ra vững chắc, vì chữ meson không có mạo từ và ở accusatif, thay vì ở cas ghénitif (vd 4,30). Xét về địa dư, lối chú giải này càng vững, vì nếu đi về Giêrusalem, Chúa Giêsu phải đi từ bắc xuống Nam; còn nói “đi ngang qua Samaria và Galilea”, có lẽ phải đi từ nam ra bắc.
b/ Tuy nhiên có lẽ ở đây Lc đứng trên bình diện thần học hơn là địa dư. Do đó, vì đứng từ Giêrusalem nhìn lui đoạn đường đã đi, ông đã nhắc Samaria trước Galilea, vì thế ông viết “đi ngang qua Samaria và Galilea”. Lộ trình và hành động của Chúa Giêsu đều bị Giêrusalem chi phối, đến độ khi nhìn lại đoạn đường đã đi, cũng phải tính từ đích điểm là Giêrusalem. Chỉ có thể hiểu lộ trình và hành động của Chúa Giêsu dựa trên cơ sở Giêrusalem, là nơi Ngài sắp được nâng lên. Trình thuật về chuyến đi của Ngài đã bắt đầu với biến cố có nhắc đến Samaria. Samaria là chiếc cầu nhờ đó nhờ đó lời chúa đi từ Galilea sang Giêrusalem, rồi từ Giêrusalem đến với các dân ngoại. Sau khi phục sinh, Chúa Giêsu sẽ uỷ thác cho môn đệ Ngài sứ mệnh: “các con sẽ là chứng nhân cho Ta tại Giêrusalem, trong toàn cõi Giuđêa, Samaria và cho đến tận cùng trái đất” (Cvsđ 1,8). Chúa Giêsu đi trước vạch đường cho giáo hội theo lộ trình của giáo hội là hậu kết lộ trình của Chúa Giêsu.
Lối chú giải thứ hai, xét về phương diện ngữ học, có thể được chấp nhận: chữ địa với túc từ chỉ nơi chốn ở cas accusatif, dù trong Tân ước chỉ dùng một lần ở đây mà thôi, nhưng trong tiếng Hy lạp sau này, được người ta dùng rất nhiều.
Thật khó mà chọn một trong hai lối chú giải này. Tôi thiết nghĩ, nếu muốn nói “giữa ranh giới Samaria và Galiela” (BJ) hay “dọc theo biên giới Samaria và Galilea”, có lẽ Lc đã viết như thế. Có lẽ bản dịch TOB tự nhiên hơn (“Ngài đi ngang qua Samaria và Galilea”). Dù lối chú giải thứ hai có vẻ hơi bị ép theo nghĩa thần học, nhưng vẫn thích ứng với chủ tâm của Lc, là người thích nói đến điạ dư trong viễn cảnh thần học. Vì thế tôi tạm thì theo lối chú giải thứ hai.
Chúa Giêsu và các môn đệ đi từ thành này sang thành nọ, từ làng này đến làng kia (13,22), nên đã gặp nhóm người phong cùi khi vào một trong các làng đó. Thật lạ lùng khi nhóm này gồm cả người Do thái lẫn người Samaritanô. Đau khổ và bệnh tật làm cho con người xích lại gần nhau, quên đi mối thù truyền kiếp giữa người Do thái và Samaritanô (x.9,53; Gio 4,4-9). Chúng tôi không biết nhóm người phong cùi, ngoài một người Samaritanô, được nhắc đến trong phúc âm hôm nay, còn có thêm người Samaritanô nào nữa chăng. Chắc là không, vì nếu có những người Samaritanô khác nữa, có lẽ họ sẽ đi theo người đồng hương, đồng đạo đến cảm ơn Chúa Giêsu, hơn là ở lại với các người phong cùi Do thái khác. Nhưng đây chỉ là một phỏng đoán. Việc Chúa Giêsu đối chiếu “người ngoại bang này” (c.18) với “chín người kia” (c.17) làm cho vững chắc lời phỏng đoán chỉ có một người Samaritanô thôi.
Người phong cùi được phép vào các làng, nhưng không được vào đô thị có xây tường, thành chung quanh; do đó họ càng không được vào thành thánh Giêrusalem, không được đến gần các người khác: “người mắc bệnh phong cùi phải mặc quần áo rách rưới, tóc bờm xờm, râu dài tua tủa và phải la lên: ô uế, ô uế ! Bao lâu còn mắc chứng bệnh này, bấy lâu bị ô uế, và phải ở riêng biệt, xa chỗ dân chúng ở” (Lv 13,45). Vì thế những người phong cùi đó phải đứng ở đàng xa.
Ở đây Chúa Giêsu được gọi là thày. Cho đến nay, chỉ có các tông đồ là những người cảm kích quyền năng của Ngài, mới gọi Ngài là Thày (5,5; 9,49); các ông đã gọi Ngài là thày khi sững sờ vì vinh quang của Ngài (9,33) hay khi lo âu sợ hãi, phải xin Ngài giúp đỡ (8,24). Không những gọi: “Thày”, các người phong cùi còn van xin Ngài dủ tình thương xót. Đối với họ, Chúa Giêsu không chỉ là một thày rabbi thông luật, mà còn là một đấng quyền năng và nhân hậu. Vương quốc Thiên Chúa đã tỏ hiện trong Ngài, một vương quốc luôn xót thương mọi người.
Chúa Giêsu dạy các người phong cùi chấp hành luật thanh tẩy: “Đây là luật dành cho người phong cùi một khi được lành bệnh: phải được dẫn đến thày tư tế” (Lv 14,2). Chúa Giêsu không chữa lành họ ngay tức khắc, nhưng ra lệnh cho họ, việc họ tuân lệnh giả thiết họ sắp được chữa lành. Quả thế theo lề luật, người phong cùi phải đến trình diện thày tư tế, không phải để được lành bệnh, nhưng để ông ta xác nhận đã lành bệnh. Vậy khi ra lệnh cho các người phong cùi chấp hành lề luật như thể họ đã được lành bệnh rồi, Chúa Giêsu đòi họ phải biết vâng lời trong đức tin; và Ngài muốn hành vi tín thác đó phải được thể hiện bằng việc tuân phục lề luật. Như Lc vừa nhắc lại trong dụ ngôn Ladaro nghèo khó và nhà phú hộ xấu bụng, rằng người tuân nghe Môisen và các tiên tri sẽ được cứu rỗi (16,29). Người Samaritanô cũng được lành bệnh khi đi cùng con đường đó (trình thuật không nói rõ: y đã đến trình diện các tư tế Samaritanô ở núi Garizim hay trình diện tại Giêrusalem). Ơn cứu rỗi đến với người Samaritanô – và với tất cả dân ngoại – nhờ Chúa Giêsu, vì “ơn cứu rỗi đến từ dân Do thái” (Gio 4,22) trong người Chúa Giêsu.
2–. Phép lành chữa lành bệnh đã xảy ra khi họ đang trên đường đi trình diện thày tư tế (c.14). Một người trong nhóm mới được chữa lành liền quay trở lại, lớn tiếng “tôn vinh Thiên Chúa”. Chính Thiên Chúa hành động qua Chúa Giêsu. Người vừa người chữa lành ngợi khen Thiên Chúa trước mặt Chúa Giêsu, đồng thời sấp mình xuống dưới chân Ngài. Thiên Chúa cứu rỗi nhờ Chúa Giêsu. Hồng ân Thiên Chúa đã xuất hiện trong Ngài. Cách tạ ơn của người phong cùi đã nói lên điều đó.
Việc Thiên Chúa thường làm phát sinh một cảm xúc sâu xa đích thực. Những ai cảm nghiệm điều đó đều “hô lớn tiếng”: ma quỉ (4,33; 8,28), dân chúng dịp tiến vào Giêrusalem (19,37), Chúa Giêsu khi tắt thở (23,23), Stêphanô khi sinh thì (Cvsđ 7,60). Những người thờ lạy Thiên Chúa đang đến gần họ trong con người Chúa Giêsu cũng “sấp mặt xuống đất”: cha của cô bé hấp hối (8,41), người phong cùi xin chữa lành (5,12)… Quyền năng và lòng thương xót của Thiên Chúa tỏ hiện trong con người Chúa Giêsu. Quả thực Ngài là “sự thần hiển của Thiên Chúa”. Chính vương quốc của Thiên Chúa đã đến trong Ngài.
Bệnh nhân được chữa lành và đến tạ ơn Chúa Giêsu là một người Samaritanô (c.16). Cũng như người Samaritanô nhân lành qua việc thương xót săn sóc cho người bị rơi vào tay bọn cướp trong dụ ngôn (Lc 10,30tt), người Samaritanô hôm nay cũng đang đi trên con đường của phúc âm và vương quốc Thiên Chúa qua việc ông tỏ lòng biết ơn. Các đức tính nhân bản đích thực, đi kèm theo lòng khiêm nhu và tâm hồn đại lượng, là đường đưa đến ơn cứu rỗi, với điều kiện là các đức tính đó được liên kết với niềm tin vào lời Chúa Giêsu (một khi đã nghe lời Ngài),là lời tóm kết lề luật và các tiên tri. Lời sẽ sinh hoa trái, khi gặp được một “tâm hồn tốt lành và thiện hảo” (8,15). Trong bản thân người Samaritanô, chúng ta thấy vẽ lên con đường mà phúc âm sẽ dùng để đến với dân ngoại.
Chúa Giêsu đợi tất cả mọi người đến tôn vinh Thiên Chúa, qua trung gian của Ngài. Chính nhờ Ngài mà ân sủng của Thiên Chúa đến với chúng ta và cũng chính nhờ Ngài mà lời chúng ta tôn vinh thấu đến Thiên Chúa. “không có ơn cứu rỗi nhờ một Danh hiệu nào khác” (Cvsđ 4,12). Vì “chỉ có một đấng trung gian độc nhất giữa Thiên Chúa và loài người” (1Tm 2,5). Nhưng chỉ có người ngoại bang đến bên Chúa Giêsu. Với tư cách là người ngoại quốc, người Samaritanô không thuộc về cộng đoàn con cái Israel, nên không có quyền kêu xin Thiên Chúa điều gì. Mọi thứ y nhận được đều là do ân huệ nhưng không của Thiên Chúa, do đó y đã tỏ lòng biết ơn sâu xa. Người Do thái không tỏ lòng biết ơn, vì nghĩ mình là người Do thái, nên có quyền đòi hỏi Thiên Chúa thi ân. Họ thiếu thái độ căn bản để có thể đón nhận ơn cứu rỗi. Trái lại, người ngoại bang đã tỏ ra có các dự kiện đưa y đến ơn cứu rỗi: lòng biết ơn, lời ngợi khen, việc ý thức thân phân nghèo hèn của mình trước mặt Thiên Chúa. Đường cứu rỗi đã được chuẩn bị cho mọi người, cho cả “người ngoại bang”, người tội lỗi, lương dân. yếu tố cứu rỗi, chính là niềm tin, sự quyết tâm phó thác vào lời Chúa Giêsu và hành động cứu rỗi của Thiên Chúa thực hiện nhờ Chúa Giêsu.
KẾT LUẬN
Các người Do thái lẫn Samatitanô đều đã tin vào Chúa Giêsu. Họ đã tin vào lời hứa sẽ chữa lành tiềm tàng trong mệnh lệnh Chúa Giêsu. Nhưng một khi được phép lạ, chỉ một người trở lại tạ ơn. Các người khác xem việc họ được chữa lành như là một quyền lợi đáng được. Chỉ có một người duy nhất trở lại, hoán cải và nhìn nhận mình là kẻ thụ ân, mắc nợ Thiên Chúa. Chỉ có một người cảm thấy mình còn tươi trẻ để sững sờ trước ân huệ nhận được, để tiếp tục lên đường tìm gặp đấng đã thi ân. Chỉ có một người đã biết vượt qua niềm tin vào người chữa bệnh để tin vào Thiên Chúa cứu độ.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1–. Phong cùi là bệnh truyền nhiễm và ghê tởm, nhất là vào thời Đức Kitô. Người mắc bệnh bị loại ra khỏi cộng đoàn, vì lý do vệ sinh dĩ nhiên, nhưng cũng vì lý do thiêng liêng nữa. Bệnh này không chỉ đau đớn và ghê sợ, nhưng đối với người Do thái còn là dấu chỉ phán xét của Thiên Chúa; Quả thực, thời đó người ta tưởng rằng bệnh nhân mắc bệnh đó là vì tội lỗi cá nhân của y bị Thiên Chúa trừng phạt, nên không được tham dự vào đời sống của cộng đoàn. Quan niệm đó được rút từ kinh thánh, ví dụ trong sách Đệ-nhị-luật: “Nếu ngươi không nghe lời Giavê, Thiên Chúa của ngươi, mà tuân hành mọi giới luật Ngài ban… Giavê sẽ giáng xuống ngươi bệnh lở lói kinh khủng nơi đầu gối và chân, ăn từ bàn chân đến đỉnh đầu không sao chữa nổi (Đnl 28,15.35).
2-. Đối với người Samatitanô cũng như người Do thái, phong cùi không phải là một thứ bệnh thông thường, mà là dấu chỉ của tội lỗi, của hình phạt Thiên Chúa giáng xuống; nó làm bệnh nhân mất phẩm cách con cái Thiên Chúa và loại họ ra khỏi cộng đoàn tín hữu. Khi thấy nhóm người phong cùi van xin mình, Chúa Giêsu chỉ phán một lời (mà giờ chúng ta đã quán triệt): “Hãy đi trình diện với các thày tư tế…. Họ sẽ chính thức cho thấy họ không còn bị phạt nữa nhưng đã được giao hòa với Chúa và nhờ đó sẽ được tái nhập cộng đoàn. Qua phép lạ này, Chúa Giêsu cho thấy chương trình cứu rỗi của Ngài nhằm làm con người trở thành con cái Thiên Chúa, cũng như thành anh em với mọi người khác trong sự hiệp thông huynh đệ. Số lượng bệnh nhân được chữa lành thật đông đảo, cũng là dấu chỉ cho thấy tất cả mọi người đều được Chúa cứu thoát, không phân biệt quốc tịch, chủng tộc…
3–. Người Samatitanô quay trở lại gặp Chúa Giêsu. Tất cả các người phong cùi đều được chữa lành, đều được Chúa ân cần săn sóc yêu thương, cũng thế mọi người đều được tình yêu liên lỉ của Chúa nâng đỡ chở che. Không ai bị loại ra khỏi phạm vi hoạt động của Đức Kitô. Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Nhưng thử hỏi trong số 10 người đã có người nào biết và nhận ra Chúa? Chính chúng ta, trong 10 lần thử hỏi đã cám ơn Chúa lần nào chưa? Không chắc. Cám ơn không phải là dễ.
4–. Người Samatitanô đã biết Chúa đang hành động trong Chúa Giêsu; việc đi gặp Chúa Giêsu sau khi lành bệnh, chứng tỏ anh đã nhận ra Chúa của anh, vì thế anh đã sấp mặt xuống đất và tạ ơn. Chính bấy giờ Chúa Giêsu với anh lời lạ lùng này: “Hãy chỗi dậy mà đi, lòng tin của anh đã cứu anh”. Sau khi được chữa lành, anh trở lại bên Chúa Giêsu, cám ơn và tôn vinh Thiên Chúa. Cách cư xử của anh làm anh đáng được cứu thoát. Chúa Giêsu không nói: Ta cứu anh, nhưng nói: lòng tin của anh đã cứu anh. Anh đã nhận ra hành động của Chúa, đã vui vẻ chấp nhận và dâng lại cho Ngài. Trái lại, 9 người kia không được cứu thoát, dù đã được yêu thương như người Samatitanô. Họ đòi hỏi và đã nhận được, nhưng họ chỉ giữ lại ơn Chúa cho riêng họ, vì tư lợi của họ. Họ chỉ yêu thích chính mình; nên dù được Chúa thương mến điều đó không sinh ích gì cho họ.
5–. Phần thứ hai bổ túc phần thứ nhất của đoạn phúc âm hôm nay. Nếu mỗi người có thể được Đức Kitô cứu rỗi và chỉ nhờ một mình Ngài mà thôi, thì hành động của Chúa chỉ có hiệu quả, nếu chúng ta biết cởi mở dâng lại mọi sự cho Ngài.
6–. Bí tích Thánh Thể chúng ta đang tham dự hôm nay, thực hiện tất cả những gì chúng ta mới khám phá. Là hành động nhờ đó Đức Kitô đã cứu rỗi và biến đổi chúng ta. Thánh Thể cũng là phương tiện nhờ đó chúng ta ta ơn Chúa, vì mọi điều Ngài đã ban cho chúng ta, và nhờ đó chúng ta dâng lại cho Ngài mọi hồng ân Ngài đã ban. Hãy sốt sắng thông hiệp và tham dự thánh lễ đang được cử hành.
.
Trầm Thiên Thu
Một trong các nỗi khổ của con người là bệnh tật. Đau đâu khốn đó, dù chỉ là nhức răng. Bệnh càng nặng càng khổ, khổ đủ thứ, khổ mình mà cũng khổ cả người khác.
Bệnh nặng gọi là “trầm kha”. Đó là bệnh trạng nghiêm trọng, kéo dài, khó chữa. Theo Hán Việt: “Trầm” là chìm, đắm, lặn, nặng; “Kha” là bệnh tật, ốm đau. Ngày nay, chữ “trầm kha” cũng thường được hiểu theo nghĩa bóng, dùng để nói về các dạng tình trạng trầm trọng, khó giải quyết, mãn tính,… liên quan nhiều lĩnh vực trong cuộc sống, đặc biệt là các thói xấu. Chứng kinh niên đã thành “thói quen” thì thật đáng sợ, nguy hiểm hơn cả chứng ung thư!
Một trong các chứng bệnh nan y là bệnh phong [còn gọi là (phong) cùi hoặc (phung) hủi] do vi khuẩn Hansen gây ra, nhất là ngày xưa, ngày nay đã giảm bớt – cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Bệnh nhân phong trông rất “kỳ dị” (sần sùi, lở loét, rụng tóc, mất ngón chân, ngón tay), và tất nhiên họ rất đau khổ – không chỉ thể lý mà cả tinh thần, vì bị người ta xa lánh.
Ngày nay, khoa học đã có thể chữa trị được bệnh phong nhưng di chứng phong sẽ không bao giờ có thể chữa khỏi. Các nhà nghiên cứu phân ra ba loại bệnh phong:
[1] Thể Củ: dạng nhẹ, ít nghiêm trọng và ít lây hơn. Những người mắc bệnh này chỉ xuất hiện một hoặc vài mảng da phẳng, màu nhợt nhạt. Vùng da bị ảnh hưởng có thể cảm thấy tê liệt do các dây thần kinh bên dưới bị tổn thương.
[2] Thể U: dạng nghiêm trọng và dễ lây hơn. Người mắc bệnh bị u da và nổi ban (đa cùi phiến), tê và yếu cơ.
[3] Thể Trung Gian: dạng này có các triệu chứng của cả hai dạng thể củ và thể u.
Chắc hẳn ai cũng biết rằng trại phong Di Linh (Djiring), thuộc GP Đà-lạt, tỉnh Lâm Đồng, do ĐGM Jean Cassaigne sáng lập. Ngài là một chủ chiên vì đoàn chiên, như Đức Kitô xác định: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15:13) Thật “ăn khớp” với khẩu hiệu giám mục của ngài: “Caritas et Amor” (Bác Ái và Yêu Thương). Câu nói đáng nhớ của ngài nhắn nhủ những người phong cùi: “Suốt 47 năm dài (1926-1973), cha đã sống giữa các con, đã sống tại Việt Nam này và đã dâng hiến tất cả cho các con. Giờ đây cha không còn tiếc gì về sự dâng hiến toàn diện ấy. Việt Nam chính là quê hương thứ hai của cha, bởi vì Chúa muốn như vậy. Khi về với Chúa, cha vẫn ở với các con, các con đừng lo…” Chính ngài cũng bị lây nhiễm và qua đời ngày 31-10-1973.
Tại Việt Nam, trong số các bệnh nhân phong có một bệnh nhân đặc biệt: Hàn Mặc Tử (Phanxicô Nguyễn Trọng Trí, 1912-1940), thi sĩ Công giáo nổi tiếng và có lòng sùng kính Đức Mẹ. Trong thi phẩm “Trăng Vàng Trăng Ngọc”, ông đã thốt lên: “Ai mua trăng tôi bán trăng cho.” Tại sao ông đòi bán trăng vậy? Vào những mùa trăng, các bệnh nhân phong càng đau đớn hơn, đêm nào trăng càng sáng thì họ càng khổ sở, bởi vì vi trùng đục khoét các vết thương và gây nhức buốt nhiều hơn.
Thời Cựu Ước, bất cứ người nào mắc bệnh phong cũng bị coi là “ô uế” – có thể ngày nay quan niệm của người ta cũng chẳng khác. Người ta coi các bệnh nhân phong là BẨN, ngụ ý tự nhận mình là SẠCH. Có lẽ nên nhớ lại lời Chúa Giêsu đã có lần xác định: “Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế.” (Mc 7:15) Quả thật, ai dám chê người khác bẩn mà nhận mình sạch thì đều là kẻ mạo nhận, ảo tưởng, giả đối, giả hình, có “máu” Pharisêu, thậm chí là bất công và nhẫn tâm – bởi vì không bác ái, thiếu yêu thương.
Giả gì cũng nguy hiểm, dù là vật chất hay tinh thần. Đề cập thói giả dối, Thánh Giacôbê nói: “Ai cho mình đạo đức mà không kiềm chế miệng lưỡi, là tự dối lòng mình, vì đó chỉ là thứ đạo đức hão. Có lòng đạo đức tinh tuyền và không tỳ ố trước mặt Thiên Chúa Cha, là thăm viếng cô nhi quả phụ lâm cảnh gian truân, và giữ mình cho khỏi mọi vết nhơ của thế gian.” (Gc 1:26-27) Miệng lưỡi không đơn giản: “Ách của cái lưỡi là ách sắt, và xiềng của nó là xiềng đồng.” (Hc 28:20) Tiền nhân Việt Nam cũng đã cảnh báo: “Cười người hôm trước, hôm sau người cười.” Thật là thấm thía, nhưng thú vị và chí lý. Vẫn thường xảy ra đúng y như vậy!
Ngày xửa ngày xưa, ông Naaman mắc bệnh phung hủi, ông xuống dìm mình bảy lần trong sông Giođan, theo lời người của Thiên Chúa là ông Êlisa. Lạ thay, da thịt ông lại trở nên như da thịt một trẻ nhỏ. Vậy là ông đã được sạch. Ông cùng với đoàn tuỳ tùng trở lại gặp người của Thiên Chúa để cảm ơn. Ông vào, đứng trước mặt ông ấy và nói: “Nay tôi biết rằng: trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Ítraen. Bây giờ, xin ngài vui lòng nhận món quà của tôi tớ ngài đây.” (2 V 5:15) Tục ngữ Việt Nam dạy về lòng biết ơn qua cách nói giản dị nhưng cụ thể với hàm ý sâu sắc: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây.”
Ngay sau khi thấy mình được sạch, ông Naaman trở lại để cảm ơn nhưng ông Êlisa nói: “Có Đức Chúa hằng sống là Đấng tôi phụng sự, tôi thề sẽ không nhận gì cả.” (2 V 5:16) Ông Êlisa chí công, vô tư, thanh liêm và chính trực. Ngôn hành song song, ông không nói suông hoặc nói một đàng làm một nẻo. Ông Naaman cố nài ép nhưng ông Êlisa vẫn một mực từ chối, nhất quyết không nhận gì, bởi vì ông sống khiêm nhường và mặc nhiên tự nhận mình vô dụng. Ông Naaman năn nỉ: “Nếu ngài từ chối, xin cho phép tôi tớ ngài đây mang về một số đất vừa sức hai con lừa chở được, vì tôi tớ ngài sẽ không còn dâng lễ toàn thiêu và hy lễ cho thần nào khác ngoài Đức Chúa.” (2 V 5:17) Cả người thi ân và thụ ân đều chân thành, đơn giản là vì cả hai đều có lòng kính sợ Thiên Chúa – Đấng mà họ hết lòng tôn thờ.
Trong cuộc đời con người, không ai lại không hàm ân – từ hồng ân của Thiên Chúa đến tình nghĩa của tha nhân. Vì thế, lòng biết ơn rất cần thiết, như người Việt nói: “Ăn cây nào rào cây nấy.” Đối với Thiên Chúa thì chúng ta lại càng phải biết ơn. Hồng ân đơn giản nhất nhưng lại cần thiết nhất cho sự sống, đó là không khí – cụ thể nhưng không thể thấy hoặc sờ, chỉ có thể cảm nhận. Vô cùng kỳ lạ! Vì vậy, không thể không tạ ơn Chúa từng phút, từng giây, ngay từ mỗi sớm mai mở mắt ra thì chúng ta phải biết tạ ơn Ngài rồi. Tại sao vậy? Bởi vì “Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi; lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi.” (Tv 104:29)
Chính xác như vậy, thế nên Thánh Vịnh gia đã lên tiếng – vừa mời gọi vừa động viên: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã thực hiện bao kỳ công. Người chiến thắng nhờ bàn tay hùng mạnh, nhờ cánh tay chí thánh của Người.” (Tv 98:1) Thiên Chúa muốn chúng ta nhận biết Ngài là Thiên Chúa duy nhất nên Ngài “đã biểu dương ơn Người cứu độ, mặc khải đức công chính của Người trước mặt chư dân” (Tv 98:2) để chúng ta có thể chân nhận Ngài và chỉ tôn thờ một mình Ngài mà thôi. Điều đó vừa là bổn phận vừa là sự công bằng mà chúng ta phải dành riêng cho Ngài.
Có điều kỳ diệu là chúng ta chúc tụng, tôn vinh và kính thờ Ngài thì chúng ta lại hưởng lợi, chứ chúng ta không hề thêm chút gì cho Ngài. Thiên Chúa là Đấng trung tín tuyệt đối, chính Ngài đã “nhớ lại ân tình và tín nghĩa dành cho nhà Ítraen” – và cũng là chúng ta, thế nên “toàn cõi đất này đã xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.” (Tv 98:3) Vâng, “Thiên Chúa của chúng ta” chứ không của ai khác, chúng ta vui mừng được tuyên tín như vậy. Đúng vậy, không một quốc gia nào lại không có những nhân chứng sống động của Ngài, bằng cách này hoặc cách khác, vì Tin Mừng đã lan rộng khắp thế giới, tới tận các hang cùng, hẻm cụt, và từ đời nọ đến đời kia.
Bất cứ ai là tín nhân cũng có bổn phận đem Chúa đến với người khác, đồng thời phải thể hiện lòng thương xót đối với mọi người. Nhờ vậy chúng ta mới khả dĩ đồng thanh: “Tung hô Chúa, hỡi toàn thể địa cầu, mừng vui lên, reo hò đàn hát.” (Tv 98:4) Đó là điệp khúc tuyên tín của mọi Kitô hữu.
Thánh Phaolô nói rõ ràng với đệ tử Timôthê: “Anh hãy nhớ đến Đức Giêsu Kitô, Đấng đã sống lại từ cõi chết, Đấng xuất thân từ dòng dõi Đavít. Vì Tin Mừng ấy, tôi chịu khổ, tôi còn phải mang cả xiềng xích như một tên gian phi. Nhưng lời Thiên Chúa đâu bị xiềng xích! Bởi vậy, tôi cam chịu mọi sự, để mưu ích cho những người Thiên Chúa đã chọn, để họ cũng đạt tới ơn cứu độ trong Đức Kitô Giêsu, và được hưởng vinh quang muôn đời.” (2 Tm 2:8-10) Đó là những lời tâm huyết mà Thánh Phaolô trút cả lòng mình nhân danh Đức Kitô, cho chúng ta thấy rằng không ai có thể sung sướng hưởng nhàn khi chấp nhận theo bước Đức Kitô, ai sống ung dung tự tại thì không thể xứng đáng là môn đệ của Ngài. Chắc chắn như thế!
Với cách nói rạch ròi hơn, Thánh Phaolô xác định: “Đây là lời đáng tin cậy: Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người. Nếu ta chối bỏ Người, Người cũng sẽ chối bỏ ta. Nếu ta không trung tín, Người vẫn một lòng trung tín, vì Người không thể nào chối bỏ chính mình.” (2 Tm 2:11-13) Một chuỗi chữ “nếu” vô cùng quan trọng. NẾU là một giả định, nhưng ở đây là một giả-định-có-thật, đồng thời cũng ngụ ý rằng trong đó có sự tự do. Thiên Chúa cho phép tùy ý mỗi người chọn cách sống, chứ Ngài không ép buộc, không muốn ai miễn cưỡng thi hành. Khó là chỗ đó.
Trong hành trình lên Giêrusalem, Đức Giêsu đi qua biên giới giữa hai miền Samari và Galilê. Khi Ngài vào một làng kia, có mười người phong hủi đón gặp Ngài. Họ không dám đến gần, vì sợ luật. Họ dừng lại từ đằng xa và kêu lớn tiếng: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!” (Lc 17:13) Họ thực sự tin Ngài nên mới cầu xin như thế. Thấy vậy, Đức Giêsu bảo họ: “Hãy đi trình diện với các tư tế” (Lc 17:14). Thật lạ lùng, Chúa không làm gì để chữa họ mà chỉ bảo họ “đi trình diện các tư tế”. Có điều ngạc nhiên là họ cũng không hề thắc mắc chi cả, chứng tỏ họ đã thực sự tin sẽ khỏi dù thân thể họ lúc đó vẫn đau nhức vì các vết lở loét. Và niềm tin của họ đã được như ý muốn: Họ được sạch khi đang trên đường đi. Việc “đi trình diện các tư tế” chỉ là quy ước phần đời thời đó để được công nhận là sạch, vì luật buộc phải làm như vậy.
Ngay khi thấy thân thể mình sạch boong, một người trong bọn liền quay trở lại (dù chưa trình diện các tư tế) và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sụp lạy dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn. Có điều đáng quan ngại: Anh ta là người Samari – người ngoại giáo. Người Việt có cách ví von: “Khi vui chẳng nhớ đến ai, đến khi nóng cứ trái tai mà sờ.” Khi cầu xin điều gì thì ai cũng đều muốn được thỏa nguyện, không được thì “ấm ức”, được rồi thì “qua đò rút ván.” Trở tay hoặc phủi tay là điều dễ làm nhất, sẵn sàng “ăn cháo đá bát” mà không cần đắn đo gì. Làm toán trừ luôn dễ hơn các loại toán khác. Có lẽ chúng ta vẫn thường ảo tưởng mà mạo nhận mình là người “biết điều” – biết trước, biết sau, có tình, có nghĩa. Ôi, thấy ngại ghê đi!
Chắc chắn rằng bẩn ngoại tại không đáng lo, bẩn nội tại mới đáng sợ. Chứng phong cùi thân xác chưa nguy hiểm, phong cùi tâm hồn mới thực sự khủng khiếp và đáng sợ. Chứng phung hủi tâm linh nguy hiểm biết bao! Có khi chính mình bẩn mà lại tỏ ra ghê tởm người khác, chính mình mắc chứng phong cùi nặng mà không biết, thế mà lại dè bỉu và xa lánh người khác vì sự nọ hoặc lẽ kia. Cố ý bới bèo ra bọ vì tự tin hão huyền: “Tôi tự thấy tinh tuyền” – nhóm 5T thật đáng sợ!
Chỉ thấy một người trở lại, còn chín người kia biết mất, Chúa Giêsu đặt vấn đề: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” (Lc 17:17-18) Một câu hỏi nhẹ nhàng nhưng có thể xoáy sâu vào tâm khảm. Sự thật rõ ràng quá! Sự vô ơn đáng trách quá! Vấn đề nhức nhối quá! Đã không ít lần chính mình vô ơn với Thiên Chúa, bạc nghĩa bạc tình với tha nhân, thế mà lại cứ tưởng mình là người có lối sống đạo đức và tốt lành. Chúa Giêsu hỏi vậy là để mỗi người tự rà soát lương tâm, bởi vì điều tiên quyết phải là “tu thân” rồi mới có thể tính chuyện khác. Không vượt lên chính mình thì đừng mong vượt được gì. Cuối cùng, Chúa Giêsu ôn tồn nói với người-cùi-được-sạch: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.” (Lc 17:19) Và Ngài minh định rằng Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa họ, và cũng ở giữa chính chúng ta ngày nay.
Khi nghe Chúa Giêsu nói vậy, những người Biệt Phái hỏi về thời gian Triều Đại Thiên Chúa sẽ đến. Đúng là Pharisêu (Phái Rởm Xạo), chỉ tìm cớ để mai mỉa xỉa xói người khác, tìm cách làm hại người khác, cố ý chèn ép và chà đạp người khác. Trong cuộc sống – cả đời và đạo, thậm chí cả trong các cộng đoàn tu trì, vẫn thấy có các “phong cách” Biệt Phái như vậy. Và rồi Chúa Giêsu trả lời thẳng thắn: “Triều Đại Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được.” (Lc 17:20) Đó cũng là lời nhắc nhở chúng ta phải tỉnh thức luôn luôn – mọi nơi và mọi lúc, kẻo không kịp nhảy khi nước đã chạm đến chân!
Kinh Thánh xác định và cảnh báo: “Trong ngày thịnh nộ, của cải ích lợi chi, chỉ Đức Công Chính mới cứu khỏi tử thần.” (Cn 11:4) Và Chúa Giêsu cũng đã nói rõ: “Đến Ngày Phán Xét, người ta sẽ phải trả lời về mọi ĐIỀU VÔ ÍCH mình ĐÃ NÓI. Vì nhờ lời nói của anh mà anh sẽ được trắng án; và cũng tại lời nói của anh mà anh sẽ bị kết án.” (Mt 12:36-37) Chỉ là lời nói mà gió cũng không thể thổi bay mất đâu!
Lạy Thiên Chúa, xin ban ơn soi sáng để chúng con khả dĩ nhận biết mình ô uế với chứng bệnh trầm kha nguy hiểm, xin giúp chúng con tìm liệu pháp hiệu quả nhất để thanh tẩy và triệt mọi di căn, nhờ đó mà chúng con nên “thanh sạch”, không dám liếc xéo hoặc buông lời sắc bén làm tổn thương người khác. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
.
SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 28 TN_C
Lm. Inhaxio Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXVIII Thường Niên Năm C nêu lên cho chúng ta một bài học: Con đường đức tin là tâm tình cảm tạ và tri ân. Con đường này rộng mở cho hết mọi người.
2V 5: 14-17
Sách Các Vua quyển thứ hai thuật lại chuyện một quan đại thần ngoại bang, kẻ thù của dân Ít-ra-en, ông Na-a-man xứ Xy-ri-a, được chữa lành bệnh phong hủi, nhờ sự can thiệp của ngôn sứ Ê-li-sa. Ông Na-a-man nhận ra hành động của Thiên Chúa Ít-ra-en và bày tỏ tấm lòng cảm tạ tri ân bằng lời tuyên xưng đức tin của mình.
2Tm 2: 8-13
Trong những lời tâm huyết của ngài cho người môn đệ thân tín của mình, là ông Ti-mô-thê, thánh Phao-lô nhắc nhở ông rằng đức tin được đặt trên sự kiện vững chắc: cuộc Phục Sinh của Chúa Giê-su. Những ai chia sẻ đau khổ và cái chết của Chúa Ki-tô, sẽ được sống lại với Ngài.
Lc 17: 11-19
Tin Mừng là chuyện Chúa Giê-su chữa lành mười người phong hủi. Chỉ một người duy nhất, một người Sa-ma-ri, trở lại bày tỏ tấm lòng cảm tạ tri ân. Tâm tình cảm tạ tri ân này mở ra cho anh con đường đức tin và cứu độ.
BÀI ĐỌC I (2V 5: 14-17)
Hai sách Các Vua ghi lại các triều đại của mười chín vị vua Ít-ra-en (vương quốc miền Bắc) và của hai mươi vị vua Giu-đa (vương quốc miền Nam). Hai sách này cũng dành một vai trò quan trọng cho các vị ngôn sứ: Ê-li-a, Ê-li-sa và I-sai-a.
Hai cuốn sách này chứa đựng một số lượng những giai thoại vừa mang tính lịch sử vừa có tính dân gian. Giai thoại về việc chữa lành bệnh phong hủi của quan đại thần Na-a-man xứ Xy-ri-a không phải là không có cơ sở lịch sử. Công trình biên soạn sau cùng của hai tác phẩm này được đặt vào niên biểu cuối thế kỷ thứ sáu, nhưng những chứng liệu và truyền thống cổ xưa lại được nhà biên soạn sử dụng. Tên Na-a-man được chứng thực trong những bản văn ngoài Kinh Thánh.
Ngôn sứ Ê-li-sa là môn đệ của ngôn sứ Ê-li-a. Như thầy mình, ông thi hành sứ vụ của mình ở vương quốc miền Bắc, mà kinh đô là Sa-ma-ri, vào giữa thế kỷ thứ chín trước Công Nguyên.
Ông Na-a-man là tướng chỉ huy quân đội của vua A-ram (miền Đa-mát). Danh tính của vị vua này chưa được xác định. Vị tướng này đã lừng danh trong cuộc chiến thắng quân đội Ít-ra-en. Nhưng ông lại mắc bệnh phong hủi. Cốt yếu là chứng bệnh phong hủi nào? Sách Lê-vi đặt dưới tên gọi này những chứng bệnh ngoài da khác nhau (Lv 13: 14). Người ta có thể nghi vấn về chứng bệnh của quan đại thần Na-a-man, vì nếu như ông mắc bệnh phong hủi thật sự chắc chắn ông không thể nào dẫn quân đánh trận từ nước này sang nước khác được.
Đoạn trích hôm nay chỉ nói đến tình tiết chính yếu về việc quan đại thần của vua A-ram được chữa lành. Những chi tiết trước đó thì rất ý nhị không thể bỏ qua. Trong những cuộc xuất chinh vào đất Ít-ra-en, quân đội A-ram đã bắt đưa về nhiều tù nhân. Vì thế, bà vợ của quan đại thần Na-a-man có một tớ gái người Ít-ra-en giúp việc. Người tớ gái này gợi ý với bà chủ: “Ôi, phải chi ông chủ con được giáp mặt vị ngôn sứ ở Sa-ma-ri, thì chắc ngôn sứ sẽ chữa ông khỏi bệnh phong hủi” (5: 3).
Sau nhiều diễn biến ngoại giao, quan đại thần Na-a-man đến kinh đô Sa-ma-ri để mong được ngôn sứ Ê-li-sa chữa lành bệnh cho mình. Ngôn sứ Ê-li-sa không đích thân ra đón tiếp quan đại thần Na-a-man mà chỉ sai sứ giả đến nói với ông Na-a-man là đi tắm bảy lần trong sông Gio-đan thì ông sẽ được khỏi bệnh. Quan đại thần không ngờ cách tiếp đón và cách chữa trị như thế nên ông đã nổi giận và tức giận bỏ đi. Bấy giờ, các tôi tớ của ông khuyên ông cứ thử thi hành đều ngôn sứ chỉ dạy xem sao. Đại thần Na-a-man bình tâm lại, xuống tắm bảy lần trong dòng sông Gio-đan như lời ngôn sứ truyền và ông được lành sạch.
Chính ở đây bắt đầu chuyện tích về việc ông Na-a-man được chữa lành mà chúng ta đọc hôm nay. Ở nơi chuyện tích này, tác giả đã biết nêu bật những yếu tố tinh thần. Quan đại thần Na-a-man nhận ra hành động của Thiên Chúa Ít-ra-en và tuyên xưng rằng: “Nay tôi biết rằng: trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Ít-ra-en”. Để tỏ lòng tôn kính và tạ ơn, ông muốn dâng những lễ vật cho vị ngôn sứ. Nhưng vị ngôn sứ nhất quyết từ chối, bởi vì mình chỉ là người trung gian. Chủ đích của vị ngôn sứ chính là hướng tất cả tâm tình cảm tạ và tri ân của quan đại thần Na-a-man về tác giả duy nhất, Đấng đã chữa lành ông, đó là Đức Chúa. Nước sông Gio-đan chỉ là yếu tố vật chất, yếu tố “bí tích”. Phải nói rằng Đức Chúa đón nhận tấm lòng thành tín và ban ân huệ cả cho những người ngoại bang lẫn cho con cái Ít-ra-en.
Quan đại thần Na-a-man không chỉ tuyên xưng đức tin của mình mà còn làm một cử chỉ thật ý nghĩa: ông xin được đem về quê hương của ông một số đất Ít-ra-en để xây dựng cho mình một bàn thờ dâng hy lễ kính Thiên Chúa duy nhất và chân thật. Dưới nhãn quang của ông, đất xứ sở ông không là đất thánh.
Chúng ta nên đọc quá khuôn khổ đoạn trích hôm nay, vì những chi tiết tiếp liền sau đó đáng quan tâm: quan đại thần Na-a-man rất cẩn trọng: ông biết rằng khi trở về quê hương ông, vì những chức vụ ông đảm nhận, ông buộc phải tham dự vào những nghi thức tôn kính các vị thần linh của đất nước ông. Vì thế, ông ngỏ lời với ngôn sứ Ê-li-sa: “Xin Đức Chúa tha thứ điều ấy cho tôi tớ ngài”. Lúc đó, ngôn sứ Ê-li-sa, người của Thiên Chúa, cầu chúc cho ông một cách giản dị: “Ông đi bằng an”. Với câu chuyện này, chúng ta sống rồi trong bầu khí Tin Mừng.
BÀI ĐỌC II (2Tm 2: 8-13)
Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ hai của thánh Phao-lô gửi cho người môn đệ, đồng thời cũng là cộng tác viên của thánh nhân, là ông Ti-mô-thê.
Thánh Phao-lô, lúc đó đang bị giam cầm và biết rằng cái chết của mình sắp gần kề, gửi cho ông Ti-mô-thê những lời tâm huyết của mình. Trong đoạn trích tuần trước, thánh nhân đã khuyên người môn đệ của mình hãy can đảm và kiên vững; trong đoạn trích tuần này, thánh nhân kêu mời người môn đệ hãy cậy trông. Đức Giê-su đã chết và sống lại, vì thế những ai chia sẻ đau khổ và cái chết của Ngài, thì cũng được dự phần vào vinh quang Phục Sinh của Ngài.
Chúng ta có thể khảo sát những lời tâm huyết này trong bố cục của đoạn văn: phần mở (2: 8) và phần kết (2: 11-13) có cung giọng phụng vụ. Ngoài ra, phần kết chắc chắn là một bài thánh thi về phép Rửa. Chúng ta cũng có thể khảo sát những lời tâm huyết này trong khía cạnh tín lý: biến cố Phục Sinh là trọng tâm giáo huấn của thánh nhân. Cuộc Tử Nạn cứu độ khai mở ánh sáng và vinh quang của biến cố Phục Sinh và đặt nền tảng đức cậy trông của Ki-tô giáo. Nhưng chúng ta cũng có thể đọc đoạn trích này khi để cho mình thấm nhuần niềm xúc cảm của một bức thư vĩnh biệt và cố gắng nhận thức rõ nhân cách của một con người kề cận với cái chết.
Lời tâm huyết đầu tiên là lòng nhiệt thành của thánh Phao-lô đối với ơn gọi của ngài. Lời tâm huyết ấy hiện rõ trong tiếng kêu “Tin Mừng” mà thánh nhân không ngừng loan báo bằng cả mạng sống mình. Thánh nhân đã nhận lãnh một sứ mạng đặc biệt, chính vì sứ mạng ấy mà thánh nhân đã tận hiến trọn cuộc đời mình không một chút đắn đo dè sẻn.
Ngoài ra, chúng ta đọc thấy ở đây tiềm ẩn kỷ niệm mà thánh nhân đã kinh qua trên đường đi Đa-mát: Đấng Phục Sinh đã tỏ mình ra cho thánh nhân. Thánh Phao-lô đã trở nên sứ giả của Đấng Phục Sinh, đúng hơn, chứng nhân của Đấng Phục Sinh: “Anh hãy nhớ đến Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã sống lại từ cõi chết, Đấng xuất thân từ dòng dõi Đa-vít”. Đây là tín điều đầu tiên, tín điều đặt nền tảng cho đức cậy.
Biến cố Phục Sinh khởi đi từ cuộc Thương Khó và Tử Nạn. Thánh Phao-lô chịu đau khổ trong cảnh giam cầm, ở đó thánh nhân “còn phải mang cả xiềng xích như một tên gian phi”, dụng ngữ này cũng là dụng ngữ chỉ những tên gian phi bị đóng đinh với Đức Giê-su; nghĩa là thánh Phao-lô đã trở thành người đồng chịu đau khổ với Chúa Ki-tô. Thánh nhân cho rằng những đau khổ này ngang bằng giá trị với lời loan báo: “Lời Thiên Chúa không thể bị xiềng xích”. Như vậy, đối với thánh nhân, đau khổ là một cách thức khác để loan truyền ơn cứu độ, vì những gian nan thử thách mà thánh nhân phải chịu sinh nhiều ơn ích, như thánh nhân nói trong thư gửi cho các tín hữu Cô-lô-xê: “Bấy giờ, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Ki-tô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đúng mức, vì lợi ích cho thân thể Ngài là Hội Thánh” (Cl 1: 24). Đây thật là một bài học quý giá cho ông Ti-mô-thê, hiện nay ông cũng đang chịu trăm chiều gian nan thử thách.
Đức cậy trông của Ki-tô giáo là niềm hy vọng vào vinh quang đời đời. Thánh Phao-lô đã nhiều lần nhắc đi nhắc lại điều này; nhưng vào lúc cái chết cận kề, thánh nhân nhắc lại điều đó khi áp dụng vào chính bản thân mình: “Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người”. Trước đây, thánh nhân đã khai triển tư tưởng này trong thư gửi các tín hữu Cô-lô-xê và trong thư gửi các tín hữu Rô-ma. Lúc đó, tư tưởng này mặc lấy cường độ bi thảm hơn: “Vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người” (Rm 8: 17).
Đoạn kết bằng văn xuôi có vần có điệu xem ra là một bài thánh thi thịnh hành trong Giáo Hội tiên khởi, chắc hẳn là lời tuyên xưng đức tin vào dịp lãnh nhận phép Rửa. Câu cuối cùng khai mở lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa: “Nếu ta không trung tín, Người vẫn một lòng trung tín, vì Người không thể nào chối bỏ chính mình”.
TIN MỪNG (Lc 17: 11-19)
Câu chuyện chữa lành mười người phong hủi là nguồn riêng của Tin Mừng Lu-ca. Như thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô, thánh Lu-ca đã tường thuật rồi câu chuyện Chúa Giê-su chữa lành một người phong hủi vào lúc khởi đầu sứ vụ của Ngài (Lc 5: 14; Mt 8: 2-4; Mc 1: 40-41). Trong câu chuyện mới này, thánh Lu-ca mời gọi người đọc chú ý đến thái độ của một người trong số họ, người Sa-ma-ri, hơn là số lượng những bệnh nhân được chữa lành.
Nhiều lần Chúa Giê-su bày tỏ tấm lòng ưu ái của Ngài đối với những người phong hủi. Ngài đã trả lời cho những sứ giả Gioan Tẩy Giả sai đến: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch…” (Lc 7: 22; Mt 11: 5). Với các môn đệ Ngài sai đi thi hành sứ vụ, Ngài vạch ra như một chương trình: “Dọc đường hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần. Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh…” (Mt 10: 7-8). Hơn bất kỳ bệnh nhân nào khác, bệnh nhân phong hủi này, được xem như nhũng người tội lỗi, cần đến lòng xót thương của Đức Ki-tô. Họ bị xem như đồ ô uế, vì thế cấm mọi hình thức tiếp xúc. Ấy vậy, Chúa Giê-su không ngừng công bố rằng sự ô uế không đến từ bên ngoài; chỉ những tư tưởng gian tà phát xuất từ lòng con người mới gây nên ô uế đích thật.
Thánh Lu-ca nhắc lại rằng Chúa Giê-su đang trên đường lên Giê-ru-sa-lem. Đây là lần thứ ba thánh nhân kể ra việc Chúa Giê-su nhất quyết lên Giê-ru-sa-lem như mục đích tối hậu sứ mạng của Ngài (x. 9: 51; 13: 22). Dường như thay vì băng qua miền Sa-ma-ri để lên Giê-ru-sa-lem, thì Đức Giê-su lại rẽ qua hướng Đông, giữa Ga-li-lê và Sa-ma-ri, đến thung lũng sông Gio-đan, xuống thành Giê-ri-cô, và từ đó đi lên Giê-ru-sa-lem. Vì thế, mười người phong hủi mới có thể gặp Ngài ở nơi hoang vắng này, vì họ không được vào bất cứ nơi nào có đông dân chúng sinh sống. Tuy nhiên, thánh ký không định rõ lộ trình địa lý; chỉ lộ trình tinh thần mới là mối bận lòng của thánh ký. Từ tình tiết mà thánh nhân sắp thuật lại những bài học sẽ được rút ra.
Một nhóm mười người phong hủi đến gặp Đức Giê-su. Họ đứng cách xa như Luật quy định và kêu lớn tiếng: “Lạy Thầy Giê-su, xin dủ lòng thương chúng tôi!”. Việc kêu cứu Ngài bằng tên thì họa hiếm trong các sách Tin Mừng. Tại Tin Mừng Lu-ca việc gọi tên Ngài như vậy chỉ được gặp thấy ở nơi tiếng kêu cứu của người mù thành Giê-ri-cô (18: 38) và của người gian phí sám hối cùng chịu đóng đinh với Ngài (23: 42); nhưng trong sách Công Vụ, danh xưng này được dùng thường hơn, các Tông Đồ sẽ công bố: “Chính nhờ danh Giê-su mà ơn cứu độ được thực hiện”.
Còn đối với tước vị “Thầy”, chung chung chỉ các môn đệ mới gọi Ngài như thế. Đây là một trường hợp hi hữu khi thánh Lu-ca đặt tước vị này trên môi miệng của những người phong hủi như lời tuyên xưng niềm tin của họ vào quyền năng chữa lành của Chúa Giê-su.
Đáp lại lời kêu cứu của họ, Chúa Giê-su truyền lệnh: “Hãy đi trình diện với các tư tế”. Theo tâm thức thời đó, mọi bệnh hoạn đều được cho là do tội lỗi. Bệnh phong hủi, vì ấn tượng ghê tởm mà bệnh gây nên nơi thân xác, lại càng chứng tỏ tình trạng tội lỗi bị Thiên Chúa giáng phạt (Đnl 28: 27-35); thế nên, việc lành bệnh thuộc lãnh vực tôn giáo và phải được các tư tế kiểm nghiệm (Lv 14: 1-32). Vì thế, Chúa Giê-su mới ra lệnh cho mười người phong hủi: “Hãy đi trình diện với các tư tế”.
Nhưng các tư tế can dự chỉ để chứng thực là bệnh đã được lành và nhận hy lễ thanh tẩy; chỉ như thế người được lành bệnh mới có thể được tái nhập vào đời sống xã hội. Trước đây, trong trường hợp một người phong hủi, Chúa Giê-su đã ra lệnh cho người ấy đi trình diện tư tế chỉ sau khi đã chữa lành bệnh cho anh ta. Ở đây, Chúa Giê-su lại truyền cho mười người phong hủi đi trình diện tư tế trong khi họ chưa được lành bệnh. Xem ra Chúa Giê-su muốn thử thách đức tin của họ.
Tất cả giá trị của câu chuyện cốt ở nơi phần khai triển sau cùng này. “Đang khi đi thì họ đã được sạch”, chỉ một người quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. “Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giê-su”, đây là cử chỉ thờ lạy vì đối với anh chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể chữa lành chứng bệnh khủng khiếp này. Và anh bày tỏ tấm lòng biết ơn đối với vị ân nhân đã thi ân giáng phúc cho mình.
Chỉ vào lúc này, thánh Lu-ca mới chỉ ra “anh ta lại là người Sa-ma-ri”. Người Do thái xem người Sa-ma-ri như tên ngoại bang đáng nguyền rủa, kẻ lạc giáo đáng khinh bỉ. Một lần nữa, chính qua cách hành xử của người Sa-ma-ri mà Chúa Giê-su đưa ra một bài học cho đám đông, cho những người Pha-ri-sêu, và cho tất cả môn đệ Ngài. Ơn cứu độ được dâng hiến cho người ngoại bang này vì đức tin ở nơi anh còn lớn hơn nơi chín người Do thái kia. Trước những đồng hương Na-da-rét cứng lòng tin của Ngài, Chúa Giê-su cũng đã trích dẫn cho họ hai mẫu gương của hai người ngoại bang, mà niềm tin của họ còn lớn hơn những đồng hương của Ngài: bà góa xứ Xa-rép-ta và ông Na-a-man, người phong hủi xứ Xy-ri-a (4: 25-27).
“Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu?”. Chín người kia là những người Do thái, họ tiếp tục con đường lên Đền Thờ Giê-ru-sa-lem để chu toàn những nghi lễ thanh tẩy. Bản văn không nói điều này, nhưng lời Chúa Giê-su hàm chứa như vậy: “Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa?”.
Tôn vinh Thiên Chúa chính là ngỏ lời với Đức Giê-su. Từ nay chính qua con người của Ngài mà người ta đến với Chúa Cha. Đền Thờ đích thật không còn là Đền Thờ Giê-ru-sa-lem hay Đền Thờ Ga-ri-dim. Chúa Giê-su đã loan báo điều này cho người phụ nữ xứ Sa-ma-ri: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không ở trên núi này (Đền Thờ Ga-ri-dim) hay tại Giê-ru-sa-lem… (Ga 4: 21), Và Ngài cũng đã công bố: “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại” (Ga 2: 19). Thánh Gioan giải thích: “Nhưng Đền Thờ Đức Giê-su muốn nói ở đây là chính thân thể Người” (Ga 2: 21).
Người Sa-ma-ri nhận ra ở nơi Đức Giê-su chính là Thiên Chúa hiện thân. Với người Sa-ma-ri này và chỉ một mình anh, Chúa Giê-su không chỉ chữa lành thân xác của anh, nhưng Ngài còn ban cho anh ơn cứu độ: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”. Đức Giê-su đến để cứu thoát con người khỏi chứng bệnh phong hủi của tội lỗi.
.
Lm. Jos. DĐH.
Chỉ một giây phút tình cờ, ý tưởng tuôn trào, người nhạc sĩ có thể “sinh ra” các nhạc phẩm để đời. Có những thông tin rất đỗi bình thường, lại là cơ duyên mang đến cho anh chị em chúng ta việc làm ổn định, không gì hạnh phúc hơn cảnh: anh hùng gặp mỹ nhân. Có những tiếng nổ không gây thiệt hại đến vật chất, tính mạng, vậy mà chúng có thể làm tê tái nhiều tâm hồn, các chuyên gia gọi đó là tiếng sét ái tình, đầy thú vị. Trong khi đó, cụ Nguyễn Du lại gieo lên những vần thơ đầy ai oán: người ơi gặp gỡ làm chi, trăm năm biết có duyên gì hay không ? Cũng không thiếu những bất ngờ xung quanh ta đang phát sinh nhiều điều kỳ diệu, có cả những cuộc gặp gỡ vô tình, để lại nhiều cảm xúc: Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ, mặt trời chân lý chói qua tim, hồn tôi là một vườn hoa lá, rất đậm hương và rộn tiếng chim … (Tố Hữu)
Hành trình đi Giêrusalem năm xưa, Thầy trò Đức Giêsu tình cờ đã gặp, đã thấy, đã nghe, những thanh âm thật khẩn thiết: “lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi” ! Từ những lời kêu xin của 10 người mắc bênh nan y hôm đó, chúng ta không thấy xuất hiện một bản nhạc hay “trình làng” ; không tạo nên cơ hội làm giầu cho ai, không thấy trái tim đơn phương của bạn trẻ nào phải tê tái, nhưng tâm hồn một người ngoại giáo trở lại gặp Đức Giêsu để tôn vinh Thiên Chúa. Kinh nghiệm của tiền nhân: tiếng lành đồn xa, thực tế Đức Giêsu vẫn đang chứng minh: giầu nghèo, ốm đau, khoẻ mạnh, người tốt kẻ xấu, đều là đối tượng lòng thương xót Chúa, ai cũng xứng đáng để tận hưởng hồng ơn cứu độ. Thầy Giêsu được 10 người mắc bệnh phong biết đến là do danh tiếng Ngài là thầy thuốc, chữa được các loại tật bệnh, xa hơn nữa, người đương thời và muôn thế hệ sẽ còn nhận ra Đức Giêsu dạt dào tình yêu thương và là Thiên Chúa cứu độ.
Ngày hôm nay, chúng ta gặp Đức Giêsu không phải vì dư luận, không phải vì mắt thấy tai nghe, nhưng là bằng sự tự do của con tim và khối óc, bằng thao thức của tin yêu và hành động trong tin yêu. Ngày hôm nay, biết bao người được ơn gặp thầy gặp thuốc và khỏi bệnh, không dừng lại ở việc được chữa bệnh thể xác, Đấng Kitô còn cho thấy Ngài có sứ mạng làm cho mọi người mọi thời tin nhận lòng thương xót của Chúa là Thiên Chúa cứu chữa cả xác hồn. 10 người mắc bệnh phong không xin được khỏi bệnh, họ xin lòng thương xót của Đấng mà họ đặt niềm tin tưởng, Đức Giêsu đã hào phóng đáp ứng cả hai điều: được Chúa xót thương, được khỏi bệnh nan y. Những con người tội nghiệp ấy mong muốn được chia sẻ, cảm thông hoàn cảnh khổ đau, cùng cực của họ, Đức Giêsu đã gián tiếp, trực tiếp, dủ lòng xót thương từ khi họ khẩn cầu cho tới lúc đi trình diện các tư tế.
Phép lạ chữa lành giải thoát khỏi khổ đau bệnh tật, không cho biết có bao nhiêu người đạo gốc đạo theo, câu truyện nhắc đến chỉ có một người trở lại tạ ơn Thiên Chúa, cám ơn Đức Giêsu, mà anh ta lại là người ngoại giáo. Đức Giêsu không hối tiếc về việc thực thi lòng thương xót Chúa, chữa lành, Ngài có ý nhắc cho mọi người biết rằng 10 người mắc bệnh phong đều được khỏi, nhưng người lành sạch cả xác hồn chính là người biết tạ ơn Thiên Chúa. Gặp gỡ người tài giỏi là cơ duyên giữa tình người với nhau, gặp thầy gặp thuốc là do phúc đức tiền nhân để lại. Gặp gỡ Đức Kitô là do tình yêu nhưng không của Thiên Chúa, và được cứu độ hệ tại nơi mỗi người biết thể hiện niềm tin Đức Giêsu kitô là Thiên Chúa như thế nào ?
Tục ngữ có câu: trẻ cậy cha, già cậy con, thông thường chúng ta vẫn hiểu là tiền nhân có ý nhắn nhủ về dấu chỉ tình yêu thương giữa đấng bậc sinh thành và con cháu ; sâu xa hơn mỗi người phải biết đến tình liên đới trách nhiệm mà ai cũng phải chu toàn. Tâm lý chung, người thiếu tiền sẽ tìm tiền, người thiếu tình sẽ lưu ý đến tình đến nghĩa, tuy nhiên, đối tượng nào cũng cần được niềm vui hạnh phúc. Đức Giêsu tìm gặp thánh ý Chúa Cha và Ngài dành hết ưu tiên để chia sẻ tình yêu thương cho mọi đối tượng không phân biệt, không kỳ thị. 10 người phong cùi tìm gặp lòng thương xót nơi thầy thuốc Giêsu thì “quá chuẩn”, nhưng chính Đấng Kitô là niềm tin, là tình yêu, sẽ chữa lành cả xác hồn mà ai cũng phải thể hiện và bày tỏ niềm tin của mình.
Xưa hay nay gì thì Đức Kitô vẫn là Thiên Chúa yêu thương, mỗi người gặp Đấng kitô trong hoàn cảnh khác nhau: từ lúc lọt lòng mẹ, từ ốm đau bệnh tật, từ thành công, thất bại, tất cả đều là cơ hội, là dịp để được gọt giũa, biến đổi, hầu đáng được dự phần vào mầu nhiệm cứu độ của Con Thiên Chúa. Cơ hội gặp Đấng kitô với người thời nay luôn rộng lớn, Đấng kitô luôn hiện diện nơi cha mẹ ông bà, nơi giáo hội, nơi anh chị em mình là sự thật. Xin tình yêu của Đấng đã chết vì tội lỗi nhân loại, tiếp tục hiện diện và giúp từng tâm hồn anh chị em xung quanh chúng con nhận ra phép lạ Chúa sẽ chữa lành hồn xác chúng con. Amen.
.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đề cập đến lòng biết ơn và sự vô ơn của con người. Naaman, quan lãnh binh của vua xứ Syria thời Êlisê được chữa lành bệnh phong cùi nhờ nghe người của Thiên Chúa xuống tắm bẩy lần ở sông Gio đan. Ông trở lại tôn vinh Thiên Chúa (x.2 V 5, 14-17).
Mười người phong cùi thời Chúa Giêsu thì sao ? Biết Chúa Giêsu đi ngang qua, họ đồng thanh cất tiếng kêu xin, tiếng họ kêu to mang theo niềm hy vọng được Chúa chữa lành : “Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi !” (Lc 17, 13). Tiếng kêu của họ vượt qua không gian, phá vỡ ngăn cách, nhất là vọng thấu tới tai Chúa Giêsu là Đấng cứu chữa cả phần hồn lẫn phần xác, cả mười người đã được chữa lành, nhưng chỉ có một người quay trở lại cám ơn Chúa Giêsu; mà người đó lại là một người Samaria dân ngoại!
Vậy là chỉ có một người biết ơn, còn chín người kia không biết có quên ơn không, hay mừng quá về nhà ăn khao, chưa kịp trở lại tạ ơn Đấng chữa lành. Chúa Giêsu phải thốt lên : “Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu? Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này” (Lc 17,17-18).
Ngày nay, đạo đức xã hội đang ngày càng bị xói mòn. Trên mặt báo và xung quanh ta, thấy những câu chuyện đau lòng như con phụ công cha, quên ơn mẹ, bỏ nhà ra đi, đánh đuổi cha mẹ, ấy chưa nói đến có người coi trời bằng vung, hoặc sống như thể không có Thiên Chúa, giết cha, hại mẹ nữa. Phải chăng lòng biết ơn đang bị lu mà trong tâm khảm con người.
Tại sao lại vô ơn? Có nhiều lý do : vì người ta không chịu suy nghĩ để nhận ra ơn, họ nghĩ mọi sự trên đời tự nhiên mà có mà không cần suy nghĩ tại sao nó có ; họ giả sử tất cả mọi người phải hành động như vậy: là Thiên Chúa phải ban ơn; là cha mẹ phải nuôi nấng con cái; là thầy phải dạy dỗ học sinh; và họ sợ nếu nhận ra ơn, họ phải trả ơn, vì thế, họ quên ơn.
Lòng biến ơn không chỉ là đức tính vĩ đại nhất mà còn là khởi nguồn của mọi đức tính tốt đẹp khác. Hầu hết chúng ta thức dậy với tâm trí lơ đãng. Thay vào đó, chúng ta hãy bắt đầu một ngày mới với lòng biết ơn. Con cám ơn Đức Chúa Trời là Chúa lòng lành vô cùng chẳng bỏ con, chẳng để con hư không đời đời mà lại sinh ra con cho con được làm người… lại gìn giữ con hôm nay được mọi sự lành.v.v..
Biết ơn là xứng đáng để tiếp tục được Thiên Chúa ban ơn. Còn biết bao nhiêu ơn lớn lao và trọng thể khác Chúa dành sẵn cho những người biết ơn. Vô ơn là tự đào hố để vùi chôn cuộc đời mình, là đứng vào hàng ngũ của ma quỉ. Tạ ơn là lời cầu nguyện tốt nhất bất cứ ai cũng có thể làm. Lời tạ ơn thể hiện lòng biết ơn, sự khiêm tốn và hiểu biết.
“Biết ơn” là một cụm từ rất quen thuộc với mọi người chúng ta. Tạ ơn Chúa, cám ơn người, cám ơn đời, biết ơn ông bà, cha mẹ, biết ơn những người bao bọc, giúp đỡ mình những khi mình gặp khó khăn….Biết ơn là sự ghi nhớ và trân trọng những gì mình nhận được từ người khác.
Lòng biết ơn có thể thay đổi cuộc sống của chúng ta. Hạnh phúc và thành công đều tạo dựng từ lòng biết ơn. Cho nên từ xưa đến nay, cha ông ta vẫn luôn căn dặn thế hệ mai sau “uống nước nhớ nguồn”, phải luôn khắc ghi công ơn của những người đã cho ta cuộc sống này. Như thế, lòng biết ơn luôn hiện diện xung quanh cuộc đời ta, chỉ là chúng ta không để ýnhận ra thôi. Đừng bao giờ quá bận rộn đến quên nói lời “làm ơn” hay “cảm ơn”. Sống mà không có lòng biết ơn là một cuộc sống vô nghĩa. Nếu đời chỉ là chuỗi những lời oán than về bất công và thua thiệt mà ta đã gặp phải, mà không nhớ đến những may mắn đã từng đến với ta, thì chắc chắn là chúng ta sẽ bị trầm cảm, một căn bệnh thường gặp trong xã hội ngày nay.
Biết ơn là xứng đáng để tiếp tục được Thiên Chúa ban ơn. Còn biết bao nhiêu ơn lớn lao và trọng thể Chúa dành sẵn cho những người biết ơn. Người đời thường phê phán những kẻ “ăn cháo đá bát”, “có mới nới cũ”, lừa thầy phản bạn, bất hiếu với mẹ cha. Vô ơn là tự đào hố để vùi chôn cuộc đời mình, là đứng vào hàng ngũ của ma quỉ.
Đến với Thánh Lễ Tạ Ơn hôm nay, noi gương người Samaria chúng ta cùng tạ ơn Chúa, cám ơn những người làm ơn cho chúng ta, nhất là xin Chúa biến ta trở nên người luôn biết ơn. Amen.
.
Lm. John Nguyễn
Một cậu bé nghèo làm nghề bán hàng rong để kiếm tiền ăn học. Một ngày nọ, cậu bé chỉ còn một đồng trong túi, mà bụng thì đang đói, cậu ta đi đến nhà bên cạnh để ăn xin. Một phụ nữ trẻ đẹp, nhìn thấy cậu bé. Cô ta đoán là cậu đang đói bụng, nên cô mang cho cậu một ly sữa lớn. Cậu chầm chậm uống sữa, rồi hỏi: Cháu phải trả cho cô bao nhiêu tiền? Người phụ nữ trả lời: Cháu không nợ cô cái gì cả.
Mẹ cô dạy rằng, không bao giờ nhận tiền cho lòng tốt. Cậu bé cảm động nói: Cháu sẽ luôn biết ơn cô từ sâu thẳm trái tim của cháu. Khi ra đi, cậu cảm thấy khỏe mạnh hơn và niềm tin của cậu vào con người càng mãnh liệt hơn. Trước đó, cậu như muốn đầu hàng với số phận.
Nhiều năm sau đó, người phụ nữ bị ốm nặng. Các bác sĩ địa phương không thể chữa được. Họ chuyển bà đến một thành phố lớn, nhờ các chuyên gia nghiên cứu căn bệnh lạ này. Lúc ấy, tiến sĩ Howard Kelly được mời đến tham vấn. Ngay lập tức, ông khoác áo choàng và đi đến phòng bệnh nhân. Ông nhận ra ngay người ân nhân của mình năm xưa. Quay về phòng, ông quyết tâm hết sức lực để cứu sống bệnh nhân này.
Sau đó, tiến sĩ Howard Kelly đề nghị phòng y vụ chuyển cho ông hóa đơn viện phí của ân nhân để xem lại. Ông viết vài hàng chữ và chuyển nó đến người phụ nữ. Bà nhìn tờ hóa đơn thầm nghĩ rằng, bà phải thanh toán nó cho đến hết đời cũng chưa xong. Bỗng nhiên, có gì đó khác thường, bà nhìn thấy ngay dòng chữ: “Trị giá hóa đơn = một ly sữa.” (câu chuyện tiến sỹ Howard Kelly).
Qua câu chuyện này, chúng ta đều nhận ra ý nghĩa của nó, chính là lòng biết ơn. Bác sỹ Howard Kelly là một mẫu gương cho chúng ta. Lòng tốt luôn được đền đáp. Người mang ơn thì phải biết trả ơn. Con thì phải biết ơn cha mẹ, vì cha mẹ đã sinh ra, nuôi dưỡng, dạy dỗ ta nên người. Học trò phải biết ơn thầy cô vì họ dạy chúng ta, và chúng ta cũng phải biết ơn người giúp đỡ ta trong cuộc sống. Đó là đạo làm người. Khi ta sống đúng với đạo lý làm người, là ta sống đạo tốt.Ngay cả Chúa Giêsu cũng dạy và đặt câu hỏi với mười người bị bệnh phong cùi được Chúa chữa lành bệnh.
Họ đến van xin Chúa chữa cho họ, nhưng đến khi hết bệnh, họ lại quay lưng bỏ đi, không nói một lời cám ơn hay tạ ơn Thiên Chúa. Trong khi đó, chỉ có một người Samaria, anh ta là người ngoại bang, là người dân ngoại đến tạ ơn Chúa. Chúa Giêsu nói với anh ta: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.”
Chúng ta nghĩ gì về chín người bỏ đi kia. Được Chúa Giêsu chữa hết bệnh phong cùi là một điều vui sướng và hạnh phúc, họ không còn bị mọi nguời xa lánh, ruồng bỏ, họ được hội nhập vào xã hội và trở thành những con người mới. Ấy thế mà họ lại vô ơn. Con người dễ vô ơn với Chúa khi họ đạt được mục đích. Con người ngày nay khi gặp hoạn nạn, bệnh tật, ốm đau thì van xin Chúa đủ điều, nhưng khi được rồi thì lại quay lưng. Đó là căn bệnh của thời đại.
Chín người bệnh được chữa lành bệnh hôm nay là con số đại diện cho con những người chúng ta hôm nay cũng đang vô tâm bạc bẽo với Thiên Chúa. Có bao giờ chúng ta nghĩ rằng, chúng ta sống được là do Thiên Chúa cho ban không? Chúng ta sống được là nhờ hít thở không khí. Mọi sinh vật trên trái đất này, Chúa ban cho chúng ta hưởng dùng. Vậy có bao giờ chúng ta nhớ đến Chúa hay nói lời cám ơn Chúa không? Thật ra, lòng biết ơn của chúng ta chẳng mang lại gì cho Chúa, nhưng Chúa muốn chúng ta phải biết nhận ra tình yêu thương của Thiên Chúa dành mỗi nguời chúng ta trong cuộc sống này.
Lạy Chúa, xin Ngài dạy con lòng biết ơn:
Biết ơn Chúa cho con có cha có mẹ.
Biết ơn Chúa cho con được sinh ra.
Biết ơn Chúa cho con đức tin.
Biết ơn Chúa cho con đức mến.
Biết ơn Chúa cho con hơi thở.
Biết ơn Chúa cho con mạnh khỏe.
Biết ơn Chúa cho con hạnh phúc.
Biết ơn Chúa cho con điều tốt lành.
Biết ơn Chúa cho con biết chia sẻ.
Biết ơn Chúa cho con biết sống yêu thương.
Biết ơn Chúa cho con thành công.
Biết ơn Chúa vì Ngài yêu con.
Tất cả là hồng ân Chúa ban cho con. Amen.
.
Lm. Giuse Nguyễn
Khi đọc các bài đọc lời Chúa hôm nay, tôi nhớ đến hình ảnh một chàng trai khiếm thị mà báo Mực Tím đăng cách đây đã hơn 20 năm. Anh ta bị mù, nhưng anh không hề oán hận cuộc sống, ngược lại anh còn cảm thấy mình mắc nợ cuộc đời, mắc nợ những người xung quanh, và mắc nợ những thứ mà những người sáng mắt chưa từng nghĩ là mình mắc nợ. Từ tâm tình đó anh đã sáng tác một bài thơ, rồi phổ nhạc. Bài hát này đã một thời làm cho nhiều người xúc động ngay từ cái tên của nó. Đó là tác phẩm Mắc Nợ của Nguyễn Vân Thiên:
“Ta nợ mùa thu một bài thơ lá rụng sương mù
Ta mắc nợ ai bao năm rồi vẫn chưa trả nổi
Nợ quê hương một chùm khế ngọt
Nợ cuộc đời một lần đắng cay
Nợ cơn mưa một lần ướt áo
Nợ trời quê một cánh diều bay
Ta nợ lời ru mẹ ầu ơ bên cánh võng năm nào
Nợ bạn bè lần hẹn hò cuối phố
Nợ trường xưa nét chữ ban đầu
Cả cuộc đời trả mãi – chắc chi xong!”
Có những món nợ chúng ta trả được, nhưng có những món nợ “Cả cuộc đời trả mãi – chắc chi xong!”. Phụng vụ lời Chúa hôm nay còn chúng ta thấy một món nợ mà dường như chúng ta chưa từng nghe bao giờ, đó là nợ Thánh Ân. Đối với món nợ này, chúng ta chỉ có thể đáp đáp trả bằng lòng biết ơn mà thôi.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
Đoạn sách này kể về việc tướng Naaman của nước ngoại giáo Aram được tiên tri Êlisê chữa cho khỏi bệnh cùi. Ông đã quay trở lại để cám ơn người của Thiên Chúa. Ông đòi tặng cho tiên tri Êlisê nhiều vàng bạc, châu báu, nhưng tiên tri Êlisa từ chối: “Tôi thề sẽ không nhận gì cả” (2V 5, 16).
Điều chúng ta chú ý là để tỏ lòng biết ơn bằng của cải vật chất không được, tướng chỉ huy Naaman đã xin “mang về một số đất vừa sức hai con lừa chở” (2V 5, 17). Lý do mà tướng Naaman nêu ra là: “Vì tôi tớ Ngài sẽ không còn dâng lễ toàn thiêu và hy lễ cho thần nào khác ngoài Đức Chúa”. (2V 5, 17).
Chúng ta phải biết rằng ông là vị tướng của nước Aram, một nhân vật có thế giá trong triều đình. Vì vậy mọi nghi lễ của đất nước ông phải tham dự. Và theo nghi thức thì đương nhiên ông cũng phải sụp lạy trước các tượng thần của đất nước ông. Nhưng từ nay nó chỉ đơn thuần là một nghi thức, chứ trong lòng ông đã có Đức Chúa của Israel, Đấng đã cứu chữa ông. Từ nay ông sẽ quỳ trên mãnh đất mà ông đã xin về từ đất nước Do Thái, đặt trang trọng trong căn phòng của ông để thờ lạy Đức Chúa. Đó là thái độ biết ơn vô cùng sâu xa, vượt sức con người. Ông biết món nợ này ông không thể trả được, chỉ có lòng biết ơn, thái độ suy phục mới có thể làm cho lương tâm ông yên ổn. Và đó là nợ Thánh Ân.
Đức Giêsu đang trên đường lên Giêrusalem. Hôm nay Ngài đi ngang qua biên giới của người Samaria và Galilêa. Đây là vùng đất mà nếu một người giữ đạo đàng hoàng thì tốt nhất đừng nên đi vào. Ấy vậy mà chính tại nơi đây, chính tại vùng đất bị người Do Thái khinh rẽ lại xảy ra một phép lạ, mà phép lạ chẳng những cho một người, nhưng cho mười người. Đó là cho họ được khỏi bệnh phong cùi. Người Do Thái không chấp nhận cho người cùi sống chung trong làng. Họ phải sống cô lập ngoài sa mạc, xa xôi ngoài cánh đồng. Trong đoạn Tin Mừng này thánh Luca cũng cho biết là “Họ dừng lại đằng xa” (Lc 17, 12) chứ không dám lại gần Đức Giêsu. Họ bị coi là những kẻ tội lỗi, những người bị Thiên Chúa phạt. Hiểu như thế chúng ta cảm được nỗi đau của những người cùi, đau đớn về thể xác và nhất là khổ sở về tinh thần.
Chính vì vậy khi vừa nghe tiếng họ kêu cứu: “Lạy Thầy Giêsu xin dủ lòng thương chúng tôi” (Lc 17, 13), Đức Giêsu đã dừng lại. Chỉ sự dừng lại của Chúa thôi cũng đã làm cho họ được an ủi phần nào, cũng làm họ phải “mắc nợ” suốt đời, vì những người bình thường thấy họ là lo chạy nhanh, chạy xa như tránh một thứ độc hại. Chẳng những dừng lại mà Ngài còn làm nhiều hơn sự mong chờ của họ là cho họ được sạch. “Đang khi họ đi thì họ được sạch” (Lc 17, 14).
Nghĩ cũng lạ, họ đâu xin Chúa cho được sạch đâu, chỉ “xin dủ lòng thương”. Chúa cũng đâu nói với họ đi trình diện tư tế là sẽ được sạch đâu? Vậy mà đang khi đi họ được sạch. Qua những câu ngắn ngủi của Tin Mừng, chúng ta cảm nhận dường như họ đọc được nỗi niềm của nhau, biết được suy nghĩ của nhau.
Chúng ta cần để ý đến việc chữa lành thể xác và chữa lành tâm hồn. Cả 10 người cùi đều được chữa lành thể xác, vì khi đang đi trình diện tư tế thì họ được khỏi. Nhưng chỉ duy nhất người cùi xứ Samari là được chữa lành tâm hồn, được ơn cứu độ. Tại sao vậy? Thưa bởi vì anh ta biết ơn và quay trở lại để được gặp gỡ người làm ơn cho mình.
Niềm tin đã thúc đẩy cả 10 người cùi đi trình diện các tư tế. Nhưng dấn thân để có một liên hệ mật thiết với Đức Kitô mới đem đến ơn cứu độ mà thôi, và đó là niềm tin trọn vẹn nơi anh cùi xứ Samari. Niềm tin đó khởi sự từ lòng biết ơn.
II. SUY TƯ
Từ đoạn Tin Mừng này xin chia sẻ 2 suy tư.
Suy tư thứ nhất là trong đau khổ người ta sẽ dễ yêu thương nhau hơn. Đó là hình ảnh rất đẹp nơi 10 người cùi trong bài Tin Mừng hôm nay. Nếu những người Do Thái bình thường thì không bao giờ được phép gần gũi, gặp gỡ, sống chung với người ngoại giáo. Vậy mà trong nhóm người cùi này có một người ngoại giáo. Họ đi chung một con đường để tiến đến gặp gỡ Đức Kitô. Đẹp quá một hình ảnh như thế! Họ đi chung một con đường vì không còn đường nào khác. Họ đi chung một con đường vì những đường khác đã bị “kéo dây chì”. Họ đi chung một con đường vì đường khác đã dành cho những người lành lặn… Biết nương tựa vào ai đây ngoài những người cùng cảnh ngộ. Từ nay cùi đi với cùi, cùi chơi với cùi, cùi sống với cùi thôi chứ biết đi, biết chơi, biết sống với ai đây?
Thực trạng của xã hội Do Thái vẫn là thực trạng của xã hội hôm nay. Chỉ những ai cùng chung cảnh ngộ mới dễ thông cảm cho nhau. Cùng chung một nghề nghiệp, cùng chung một hoàn cảnh, cùng chung một tâm trạng, cùng chung một trình độ, thậm chí là cùng chung tội lỗi nữa…
Nhà thơ Chính Hữu đã mô tả tình đồng chí rất đẹp: “Áo anh rách vai, quần tôi có hai miếng vá, miệng cười buốt giá chân không giày, thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Trong những lúc gian khổ, “hột muối cắn làm đôi”, người ta dễ yêu thương nhau. Nhưng biết đâu mai kia có một người làm lãnh đạo, có chức, có quyền trong xã hội, không biết có còn nhớ đến thằng đồng chí mặc quần rách không?
Hay có những cặp vợ chồng đùm bọc nhau khi nghèo khó: “Râu tôm nấu với ruột bầu, chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon”; cùng đẩy chiếc xe bán hàng rong, cùng chèo chiếc ghe bán hàng bông… có gian khổ nhưng sao thấy hạnh phúc quá chừng… Bỗng dưng trúng số độc đắc nên đổi đời, và vì thế cũng đổi lòng đổi dạ, không còn yêu thương nhau, không còn những ngày xưa thân ái nữa.
Chín người cùi kia sau khi được lành sạch liệu có còn sống chung với người cùi xứ Samaria không? Chắc chắn là không!
Tình đời, tình người là thế. Vì vậy chúng ta hãy biết quý trọng tình nghĩa, dù là lúc gian khổ hay lúc sướng vui. Trong tất cả, chữ tình là trên hết. Đó là món nợ mà mỗi người chúng ta còn thiếu. Hãy thiếu hoài, thiếu mãi đừng bao giờ trả, vì nếu có trả, trả cũng không xong. Thánh Phaolô nói: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái”.
Thiết nghĩ 9 người cùi kia không quay trở lại là vì nghĩ rằng họ không mắc nợ, mà chuyện được chữa lành là lẽ đương nhiên khi họ tin Chúa. Họ nghĩ Chúa là Cha thì phải có trách nhiệm lo cho con cái. Cha mà không lo lắng cho con cái là một người cha không tốt. Sống đạo họ chỉ cần giữ những gì luật dạy chứ không giữ tâm tình với Chúa.
Suy nghĩ của họ hoàn toàn phàm tục. Thiên Chúa không phải là người cha theo kiểu trần gian, mà là Đấng Thánh. Trước Đấng Thánh thì thái độ của con người là suy phục, thờ lạy chứ không phải là đòi hỏi và công bằng, vì con người thì không có quyền đòi hỏi thần minh, cũng như cái bình không có quyền đòi hỏi người nắn ra nó phải làm theo hình dáng nó muốn.
Thụ tạo phải luôn luôn có tâm tình cám ơn vì mỗi một nét họa trong cuộc đời là một hồng ân của Thiên Chúa, cho dù đó là đẹp hay xấu (theo kiểu nghĩ con người); còn đối với Chúa thì luôn luôn là tốt cho chúng ta.
Vì vậy họ tưởng trong những lúc họ bị cùi là Chúa không thương họ, Chúa không đúng, giờ Chúa cho họ được sạch là chuyện đương nhiên Chúa phải làm. Họ nghĩ mình không mắc nợ.
Còn anh cùi Samari thì không thể tưởng tượng được ơn lành này. Chúa kêu anh đến trình diện tư tế, anh cũng đi. Nhưng khi anh được sạch thì anh biết các tư tế không thể làm cho mình được sạch, mà chỉ có Thiên Chúa mới cho mình được sạch thôi. Vì vậy anh đã quay trở lại để cám ơn Chúa. 9 người kia đến với các tư tế là theo luật. Còn anh trở lại với Chúa Giêsu là theo lòng biết ơn phát xuất từ con tim. Anh biết mình mắc nợ, món nợ không thể nào trả được. Món nợ Thánh Ân.
Đời sống của chúng ta quá bộn bề với những lo lắng, bon chen, khiến chúng ta đôi khi, thậm chí là thường khi ít nghĩ đến món nợ Thánh Ân. Chúng ta cứ tưởng mình hiện hữu ở trên đời này là chuyện bình thường, mình có đạo là điều tự nhiên, thậm chí có người còn cho là mình “lỡ có đạo”. Chúng ta nghĩ rằng Chúa đương nhiên phải lo liệu cho tôi theo như những gì tôi muốn. Chúa không cho thì tôi không đến với Chúa nữa là chuyện bình thường. Một lối sống đạo hết sức sai lầm. Chúng ta phải nhớ đức tin là đặt mình trước sự hướng dẫn của một vị Thiên Chúa. Vì vậy món nợ Thánh Ân không khi nào ta trả nỗi. Thái độ tốt nhất là cám ơn bằng cách gắn kết đời mình với Đức Giêsu như anh cùi Samari trong bài Tin Mừng hôm nay.
Xin Chúa cho mỗi người chúng con luôn có tâm tình biết ơn, biết ơn những con người đã, đang và sẽ đi ngang qua cuộc đời chúng con. Cám ơn Chúa vì món nợ Thánh Ân mà chúng con không bao giờ trả được. Chính thái độ biết ơn sẽ làm cho chúng con gắn kết với Chúa và với anh chị em.
.
SỐNG TÂM TÌNH CẢM TẠ THIÊN CHÚA
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa (2 V 5:14-17; 2 Tm 2:8-13; Lc 17:11-19)
Thỉnh thoảng tôi có dịp nghe giới thiệu trên TV công việc của Hội “Bạn những người cùi ở Việt Nam”. Những người cùi vừa vỗ tay (dù bàn tay không còn ngón nào cả!) vừa cất tiếng hát: “Xin tạ Ơn Trên, người vẫn thương người”. Nghe mà cảm động làm sao! Họ cảm tạ Chúa vì vẫn có những tấm lòng quảng đại đã giúp đỡ họ qua Hội. Đó là câu chuyện ngày nay. Nhưng ngày xưa cũng có nhiều câu chuyện như thế, cụ thể là chuyện ông Na-a-man trong sách Vua quyển thứ 2 và chuyện Mười người phong hủi được Chúa Giê-su chữa lành theo sách Tin Mừng Lu-ca. Cả hai câu chuyện không nhấn mạnh đến việc chữa lành, nhưng chuyển sang chủ đề tạ ơn Thiên Chúa. Trước khi trở về quê nhà là nước A-ram, ông Na-a-man đã quay lại cám ơn ngôn sứ Ê-li-sa và tuyên xưng Thiên Chúa của Ít-ra-en. Trong số mười người phong hủi được chữa lành, chỉ có người ngoại bang Sa-ma-ri trở lại cảm tạ Chúa Giê-su, còn chín người Do-thái thì không ai tỏ lòng biết ơn Chúa. Hai câu chuyện này khiến những người tự hào là con cái Chúa, là người “có đạo” phải nghĩ lại về thái độ vô ơn của mình.
Tạ ơn Thiên Chúa là một điệp khúc được lập đi lập lại trong Cựu Ước, nhất là sách Thánh Vịnh. Tác giả Thánh Vịnh kêu gọi mọi người hãy cảm tạ Chúa vì những ơn lành Người ban. Lời ca tạ ơn được cất lên từ mọi hạng người, thứ dân cho đến hàng vua chúa. Lý do để tạ ơn Chúa thì lại càng nhiều không sao kể hết. Có thể nói, cứ cách vài ba Thánh Vịnh, chúng ta lại gặp một Thánh Vịnh chứa đựng những lời cảm tạ Chúa. Câu chuyện ngôn sứ Ê-li-sa bảo tướng Na-a-man xuống dìm mình bảy lần trong sông Gio-đan thì sẽ khỏi bệnh phong hủi. Chúng ta thử tưởng tượng mình đóng vai ông tướng Na-a-man để hiểu được tâm trạng bất mãn của ông. Ông là một danh tướng nước A-ram, hạ mình đến để cầu xin ngôn sứ người Ít-ra-en chữa bệnh phong cùi cho ông. Nhưng ngôn sứ không tự tay chữa lành ông, mà chỉ bảo ông làm một việc hết sức vô nghĩa: dìm mình bảy lần trong sông Gio-đan. Mà nước sông Gio-đan có hơn gì những dòng sông tại quê hương ông đâu! Nhưng cuối cùng, ông cũng hạ mình thêm một lần nữa, làm theo điều ngôn sứ nói. Ông được lành bệnh, da thịt lại trở nên giống như trẻ nhỏ. Được khỏi bệnh, ông mừng lắm. Nhưng ông không quên điều phải làm là cùng đoàn tùy tùng quay lại cám ơn ngôn sứ Ê-li-sa, nhất là để tạ ơn Thiên Chúa của dân Ít-ra-en. Ông còn xin ngôn sứ cho ông đưa một ít đất của nước Ít-ra-en về nhà. Để làm gì với mấy bao đất ấy? Để ông được tiếp tục đứng trên miền đất Ít-ra-en mà “dâng lễ toàn thiêu và hy lễ” tạ ơn Thiên Chúa của Ít-ra-en. Ông quyết tâm từ bỏ bất cứ thần nào khác để phụng thờ duy một mình Thiên Chúa mà thôi. Đây là một cách tạ ơn Chúa thật tuyệt vời. Chúng ta đừng quên ông Na-a-man là người ngoại giáo, tức không phải người Do-thái.
Một câu chuyện tạ ơn khác được thánh sử Lu-ca kể lại. Chúa Giê-su và các môn đệ từ Ga-li-lê lên Giê-ru-sa-lem. Khi các ngài đi tới biên giới Ga-li-lê và Sa-ma-ri thì có mười người phong hủi ra đón gặp Chúa. Chắc chắn họ đã nghe nói về Chúa Giê-su. Nhưng theo luật thanh tẩy, họ phải đứng ở đằng xa và kêu lớn tiếng, xin Chúa thương xót họ. Đấng giầu lòng thương xót bảo họ cứ đi trình diện tư tế, vì theo luật, người phong hủi sau khi lành bệnh phải trình diện tư tế để được nhận lại vào trong cộng đồng. Thánh Lu-ca kể rõ ràng: “Đang khi đi thì họ được sạch”. Tiếp theo, bằng giọng văn khá mỉa mai, ngài kể tiếp: “Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giê-su mà tạ ơn. Anh ta lại là người Sa-ma-ri”. Đó là lời kể của Lu-ca. Nhưng chúng ta hãy đọc thật chậm những lời chua xót của Chúa Giê-su để thấy được Người muốn nhấn mạnh đến tâm tình tạ ơn Thiên Chúa: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” Vô cùng chua xót chứ! Không biết giọng của Chúa như thế nào khi Người hỏi: Thế thì chín người kia đâu? Phải, chín người là đồng bào của Người, là những người được Thiên Chúa đặc biệt yêu thương, vậy mà họ lại là những kẻ vô ơn, thua xa người ngoại bang Sa-ma-ri kia. Chúa Giê-su đâu cần họ phải cám ơn Người, nhưng Người chỉ muốn họ hãy “trở lại tôn vinh Thiên Chúa” mà thôi! Chắc chắn trong cuộc đời Ki-tô hữu, nhiều lần chính chúng ta cũng phải giật mình khi thấy mình ở trong số chín người này đấy. Người Sa-ma-ri đã làm một cử chỉ đầy ý nghĩa: anh sấp mình dưới chân Chúa Giê-su mà tạ ơn. Sấp mình là cử chỉ thờ lạy dành riêng cho việc thờ lạy Thiên Chúa. Vậy anh đã nhận Chúa Giê-su là Thiên Chúa của anh rồi. Chúa Giê-su chấp nhận lòng tin của anh khi Người bảo: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”. Thế là anh vừa được Chúa cứu thể xác vừa được Chúa cứu phần linh hồn.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Một lần nữa, thánh Phao-lô lại khéo léo dạy môn đệ Ti-mô-thê bài học cảm tạ Thiên Chúa. Ngài khuyên anh bắt chước ngài mà “nhớ đến Đức Giê-su Ki-tô”. Tạ ơn là nhớ đến. Phao-lô nhớ đến Chúa Giê-su vì Chúa đã làm cho ngài thật nhiều. Cho nên ngài nhớ đến thì ngài muốn nói cho người khác biết về Chúa, về lời Chúa và về ơn cứu độ Chúa ban cho ngài và cho chúng ta nữa.
.
Jos. Hồng Ân
Bệnh phong, còn gọi là bệnh hủi, cùi hay bệnh Hansen, do vi khuẩn Mycobacterium leprae gây ra. Da thịt người mắc bệnh thường phát nhọt, lở loét. Khi nặng hơn vết thương lõm vào da thịt.
Tình trạng mất cảm giác xuất hiện ở một vài bộ phận trên cơ thể do dây thần kinh bị nhiễm trùng. Sau đó các bắp thịt tiêu đi, gân cốt co làm hai bàn tay co quắp. Ở mức độ nặng ngón tay ngón chân rụng dần. Vi trùng bệnh cùi làm cho thân thể bệnh nhân bị đau đớn cả trong xương thịt, nhất là ban đêm, mà còn tấn công các chỗ xương sụn. Vì thế tai mũi và các khớp xương bị ăn mòn. Tai sưng lên rồi biến mất dần dần, mũi cũng biến đi để lại giữa mặt một hố mủ máu hôi thối. Các ngón tay rụng dần. Đàng khác bệnh nhân mất cảm giác, nên có bị phỏng, vết thương cũng không thấy đau, vì thế có khi cầm thanh củi cháy đến tay cũng không cảm thấy nóng, nên dễ bị thương nặng, có thể chết mà không biết.
Ở Việt Nam người bị nhiễm bệnh phong chịu thành kiến, chịu sự hắt hủi, xa lánh của cộng đồng, thậm chí bị ngược đãi cho trôi sông, chôn sống, bỏ vào rừng cho thú dữ ǎn thịt.
Trong Cựu Ước, nếu một người bị tình nghi mắc bệnh phong cùi thì người ta dẫn người ấy đến một vị tư tế có kinh nghiệm chuyên môn về bệnh này. Vị tư tế sẽ cho người ấy sống cách ly với cộng đoàn bảy ngày, sau đó tái khám, nếu không thấy dấu vết phong cùi ra nặng thì họ được về với gia đình. Nếu có những dấu bệnh lây lan thì vị ấy tuyên bố công khai người ấy quả đã bị phong cùi. Tức khắc người ấy bị đuổi ra khỏi làng, dù cha mẹ hay con cái có thương cũng không dám che giấu, vì ai ai cũng sợ bị lây. Mà lây bệnh cùi thì không còn phương dược nào chữa được.
Nếu bị tư tế kết luận là đã mắc bệnh phong, người bệnh buộc phải theo quy chế là: “mặc áo rách, xõa tóc, che râu và kêu lên: ‘Ô uế, ô uế” (Lv 13,45). Khi xác định là mắc bệnh phong thì người bệnh bị đuổi ra khỏi nhà, bị tách biệt khỏi cộng đồng, phải sống lang thang vất vưởng ở những nơi hoang vắng, rừng núi, chui rúc trong các hang hốc để che mưa tránh nắng. “Bao lâu còn mắc bệnh phong thì nó ô uế, nó ô uế nó phải ở riêng ra. Chỗ ở của nó là một nơi bên ngoài trại” (Lv 13,46).
Theo luật Do Thái thời xưa, người mắc bệnh phung phải ở cách xa người không mắc bệnh (kể cả thân thích ruột thịt) khoảng 1,8 mét; nếu có gió thổi, thì khoảng cách phải là 45 mét (x. http://www.gotquestions.org/Bible-leprosy.html). Vì vậy, người bệnh phong phải sống chung với người đồng cảnh ngộ cho tới khi chết, nếu bệnh không thuyên giảm. Đây là biện pháp thi hành ở Do Thái thời xưa để ngăn ngừa bệnh lây lan.
Vào thời của Chúa Giêsu cũng vậy, những người mắc bệnh phong cùi bị xã hội đối xử rất tồi tệ, có thể nói là tàn ác nữa. Vì bệnh phong là một căn bệnh nan y, không có thuốc, cũng không có cách nào, không ai có thể chữa trị được.
Tin Mừng Thánh Luca hôm nay mô tả Chúa Giêsu đang đi “Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người”. (Lc 17,12). Họ là những người đang mắc bệnh phong, theo luật họ không được đến gần người khác không mắc bệnh, khi có người không mắc bệnh đến gần họ phải kêu lên “Ô uế, ô uế” (x.Lv 13, 45). Để cho mọi người biết mà tránh xa.
Trong lúc cùng cực của sự đau khổ cả về thể xác và tinh thần. Họ nghe tin Đức Giêsu có tài chữa bệnh, hôm này Ngài đi ngang qua nơi đó, họ không dám lại gần chỉ đứng đàng xa mà kêu xin: “Họ dừng lại đằng xa và kêu lớn tiếng: “Lạy thầy Giê-su, xin dủ lòng thương chúng tôi” (Lc 17,13-14). Đức Giêsu thấy vậy Ngài thương xót và chữa lành cho họ. Đức Giêsu bảo họ: “Hãy đi trình diện với các tư tế” (Lc 17,14a). Bởi vì chính các tư tế khám cho họ và xác định là họ mắc bệnh phong và bị ô uế, nên để xác định là được khỏi bệnh thì họ phải trình diện các tư tế, để các tư tế khám và xác định họ được lành sạch và cho phép họ về nhà, hòa nhập với cộng đồng. Nhưng “Đang khi đi thì họ được sạch” (Lc 17, 14b).
Mười người phong cùi đã được chữa lành nhưng chỉ có một người trở lại cảm ơn Chúa, người này lại là người Samari, bởi anh ta chân thành cảm tạ Chúa từ trong đáy lòng. Trong khi các người kia thì lo sao để các tư tế khám và công nhận mình được lành sạch và cho phép họ trở về sống giữa gia đình và xã hội, thì riêng anh, anh muốn ngay lập tức cảm tạ Thiên Chúa ở chính nơi mà ơn của Người đến với anh, lòng tin đã cứu thoát và biến đổi con người anh.
Chỉ có một người trở lại tạ ơn Chúa “Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giê-su mà tạ ơn” (Lc 17,16). Chúa Giêsu thấy rõ con người của họ, sự vô ơn, bạc nghĩa của họ Ngài đã phải thốt lên “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” (Lc 17, 17-18).
Về đàng thiêng liêng, tội lỗi được ví như một thứ bệnh phong hủi tôn hồn. Phong hủi là hình bóng của tội lỗi: thân thể người phong hủi bị hư nát dần dần, trước ngoài da, sau đến thịt, rồi đến xương thật là ghê tởm! Bệnh phong hủi làm cho thân xác mất mọi vẻ đẹp bên ngoài, nơi mặt, mắt, mũi, miệng, tay chân …
Tội lỗi cũng làm cho linh hồn ra ô uế, mất mọi vẻ đẹp bên trong, người mắc bệnh hủi tâm hồn thì: so đo tính toán, ích kỷ hẹp hòi, ghen ăn tức ở, tham lam gian dối, mưu mô giảo quyệt, nói năng tục tĩu, cho vay nặng lãi, đặt điều bịa chuyện, tâm trí hèn hạ, tâm tình đê tiện, bên ngoài thơn thớt nói cười, bên trong nham hiểm giết người không dao, hay miệng thì nam mô, bụng bồ dao găm… Nói tóm lại là bao nhiêu thứ xấu xa, tội lỗi đều đổ cho hủi, người đời vẫn thường gán cho những kẻ xấu, ở bẩn, lười, tham lam: xấu như hủi, bẩn như hủi, lười như hủi, tham như hủi…
Bệnh phong hủi làm cho mọi người lánh xa, còn bệnh hủi tâm hồn làm chúng ta xa Chúa. Bệnh phong hủi gây đau khổ cho người bệnh, lây lan đến mọi người chung quanh. Tội lỗi là thứ bệnh hủi tâm hồn gây ra gương xấu, lôi kéo nhiều người phạm tội, chạy theo ma quỷ.
Để chữa trị thứ bệnh phong hủi tâm hồn thì người bệnh phải nhận ra mình ô uế, chạy đến với Chúa và kêu xin người cứu chữa, nếu không thì suốt đời mang căn bệnh nan y, sống trong đau khổ và tủi nhục, bị mọi người xa lánh.
.
Phêrô Nguyễn Văn Hương
Khi Chúa Giêsu trên đường lên Giêrusalem, có mười người phong cùi đến gặp Người tại cửa vào một làng. Họ đứng từ đàng xa và kêu lớn tiếng: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!” Chúa Giêsu động lòng thương và nói với họ: “Hãy đi trình diện với các tư tế.” Khi đi gặp các tư tế, cả mười người phong cùi nhận thấy mình được khỏi bệnh. Một người trong số họ quay trở lại tạ ơn Chúa Giêsu, người đó lại là người Samari. Đây là phép lạ Chúa Giêsu chữa lành những người phong cùi được thánh Luca trình thuật trong bài Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe.
1- Các phép lạ trong Kinh Thánh
Bài đọc I cũng nói về việc tiên tri Êlisa chữa lành một cách lạ lùng cho một người phong cùi, đó là Naaman, người Syria.
Rõ ràng ý hướng chủ đạo của phụng vụ Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta suy tư về ý nghĩa của phép lạ chữa lành người phong cùi.
Thật vậy, Kinh Thánh cho thấy dân chúng rất trông chờ Chúa Giêsu làm những phép lạ trong sứ vụ của Người. Đối với họ, ý tưởng nổi bật nhất mà họ quan niệm về Người là Đấng có quyền năng thực hiện nhiều phép lạ. Người ta thích thú hình ảnh này hơn hình ảnh Chúa Giêsu như là vị ngôn sứ. Một cách nào đó, chính Chúa Giêsu nhìn nhận và xác thực về sứ mạng cứu độ của Người khi nói rằng: “Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (Mt 11,5). Nếu các phép lại bị xóa bỏ khỏi cuộc đời Chúa Giêsu thì cốt lõi của toàn bộ Tin Mừng cũng bị phá hủy.
Trong Tin Mừng, các phép lạ thường được đón nhận cách khác nhau. Đôi khi chúng được nhìn cách tích cực và đôi khi trở thành tiêu cực. Tích cực, khi chúng được đón nhận với lòng biết ơn và niềm vui, khi chúng đánh thức đức tin vào Chúa Kitô và hy vọng vào một thế giới tương lai không có bệnh tật và chết chóc; tiêu cực, khi người ta chạy theo phép lạ, chỉ tìm kiếm phép lạ hoặc đòi Chúa làm phép lạ rồi mới tin, như trong cuộc hội thoại giữa Chúa và người Do Thái: “Đâu là dấu chỉ ông làm để chúng tôi có thể tin vào ông?” (Ga 6,30). Chúa Giêsu luôn từ chối làm phép lạ nếu họ thiếu niềm tin và vì mục đích này.
2- Sự bất cập hoặc thái quá khi nói về phép lạ
Ngày hôm nay, tính hiếu kỳ và thói chạy theo dấu lạ vẫn cứ tiếp tục trong dân chúng dưới muôn vàn hình thức khác nhau. Một đàng, có những người thích tìm kiếm phép lạ, tìm kiếm những chuyện ngoại thường xảy ra, rồi nhẹ dạ cả tin vì được chứng kiến tận mắt những hình ảnh, cảnh tượng như việc Đức Mẹ chảy dầu, tượng Chúa chảy mồ hôi, ảnh Lòng Thương Xót Chúa trổ hoa v.v… trong khi phép lạ Thánh Thể mỗi ngày diễn ra trên bàn thờ nơi thánh lễ thì họ rất ít quan tâm và đến tham dự…
Đàng khác, có những người lại phủ nhận hoàn toàn các phép lạ trong cuộc sống. Quả thế, họ nhìn phép lạ với một thái độ khó chịu nào đó và cho rằng những chuyện như thế là hoàn toàn bịa đặt. Theo họ, phép lạ như một lệch lạc của niềm tin tôn giáo, hay là do sự ngu muội, chủ quan, dốt nát, cả tin. Tuy nhiên, họ không nhìn nhận rằng trong lịch sử và trong cuộc sống, có những điều kỳ diệu xảy ra mà chỉ có đức tin mới lý giải được, đó là những can thiệp của Thiên Chúa, là dấu chỉ tình yêu Chúa dành cho con người khi chữa lành, hay cứu vớt một ai đó. Chẳng hạn như những trường hợp bệnh nhân được chữa lành ở Lộ Đức, hay trường hợp một người phụ nữ không có con ngươi, nhưng khi tiếp xúc với cha Piô Năm Dấu, thì bà nhìn thấy được.
3- Tiêu chuẩn để phân định
Cùng với những tường thuật về các phép lạ, Kinh Thánh cho chúng ta những tiêu chuẩn để phân định tính xác thực và mục đích của các phép lạ.
Trong Kinh Thánh, phép lạ tự thân không bao giờ là mục đích; phép lạ chỉ là một phương tiện để dẫn người ta đến với Thiên Chúa; Chúa Giêsu không làm phép lạ với ý định đề cao mình hay để chứng tỏ cho mọi người thấy quyền năng ngoại thường trổi vượt của mình. Người không giống như hầu hết những nhà phù thủy khi chữa bệnh, họ thường quảng cáo về mình. Đúng hơn, phép lạ được thực hiện như là sự khích lệ và phần thưởng của Đức tin. Phép lạ là một dấu chỉ giúp con người hướng tới ý nghĩa cao cả hơn của cuộc sống. Tự bản chất, phép lạ là “dấu chỉ” hướng đến Thiên Chúa và cũng dẫn con người đến Người. Thiên Chúa tự tỏ mình trong quyền năng yêu thương qua các phép lạ chữa lành của Chúa Giêsu và của các Tông Đồ. Chữa lành là một chiều kích chính yếu của sứ vụ Tông Đồ và của niềm tin Kitô giáo nói chung. Trong ý nghĩa đó, Kitô giáo được gọi là “tôn giáo chữa lành.” Ơn cứu độ xét cho cùng đó chính là sự chữa lành. Ai thực sự muốn chữa lành, người đó phải nhìn nhận rằng việc cứu chữa cuối cùng chỉ có thể đến từ tình yêu Thiên Chúa.
Bởi thế, chúng ta cần phải tránh rơi vào hai thái cực, hoặc là chạy theo tìm kiếm dấu lạ, hoặc là phủ nhận hoàn toàn các dấu lạ của cuộc sống, nhưng phải biết đón nhận những phép lạ với một thái độ biết ơn và cảm tạ Thiên Chúa. Con người thường thích nhận quà mà quên người tặng quà. Nên chúng ta cần học thái độ biết ơn của người phong ở Samari.
Xin Chúa giúp chúng ta có cặp mắt đức tin trong suốt để chúng ta thấy được những điều kỳ diệu mà Thiên Chúa thực hiện trong cuộc sống, nhờ đó chúng ta biết ngạc nhiên, tạ ơn và thực thi thánh ý của Thiên Chúa qua những phép lạ Người làm. Amen!
.
Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
Con người hiện hữu trên trái đất, dù tin Chúa hay không, vẫn sống trong tình yêu thương ngập tràn của Ngài. Đời sống nhân sinh cần Chúa như thân xác cần hơi thở, như trái đất cần nước mưa, như cây cỏ cần ánh mặt trời. Cũng như mặt trời luôn hiện hữu, dù người khiếm thị không nhìn thấy, Thiên Chúa luôn hiện diện, dù người vô tín không nhận ra. Tuy vậy, dù nhận ra hay không thì Ngài vẫn đang hiện diện giữa chúng ta để chúc lành và dẫn dắt chúng ta trên mọi nẻo đường trần gian.
Lời Chúa hôm nay giới thiệu với chúng ta hai cá nhân, dù là “người ngoại”, đã nhận ra tình thương và quyền năng của Chúa, đồng thời dâng lời tôn vinh cảm tạ Ngài.
Trường hợp thứ nhất là một vị tướng của Syria, tên là Naaman. Ông bị bệnh phong cùi, tìm thầy kiếm thợ mãi không khỏi. Ấy vậy mà khi đến với Ngôn sứ Elisê, chỉ đơn giản là tắm dưới dòng nước sông Giordan của Israen, ông đã được sạch. Thoạt đầu, khi nghe đề nghị của vị ngôn sứ, ông tỏ ra khó chịu, vì cách thức chữa bệnh quá đơn giản, không có sức thuyết phục. Nhưng sau đó, ông đã nhận ra, ông được chữa lành không phải là do thuốc trần gian, mà nhờ thuốc thiêng liêng. Ông không thiếu gì tiền bạc, nhưng bệnh của ông đã được chữa khỏi không phải nhờ tiền bạc và tài năng con người. Chính Thiên Chúa đã chữa lành ông, khởi đi từ niềm tin của ông qua việc chấp nhận dìm mình xuống dòng sông, theo lệnh truyền của vị ngôn sứ. Nhận ra quyền năng của Thiên Chúa, ông đã xin đất chở về quê hương để tôn thờ Ngài.
Người thứ hai là người cùi ở Samaria. Chúa Giêsu không nói với chúng ta chín người kia là người Do Thái hay dân ngoại, nhưng người duy nhất trở lại tôn vinh Thiên Chúa là người xứ Samaria. Dưới cái nhìn của người Do Thái, người Samaria là những người vô thần. Cả mười người cùi đều được chữa lành, nhưng duy nhất mình anh ta trở lại để nói lời cám ơn và tôn vinh quyền năng của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu. Có lẽ chín người kia đã quá vui mừng khi được chữa lành, hoặc quá vô tâm không nhận ra nhờ đâu mà mình được lành sạch. Dù vì lý do nào đi nữa, thì việc quên lãng người đã làm ơn cho mình là một điều đáng trách.
Mỗi chúng ta trong cuộc sống hằng ngày, có nhận ra những điều tốt lành Chúa ban, thông qua những biến cố hoặc những người đang sống xung quanh? Nhiều người cho rằng những điều tốt lành ấy là do ngẫu nhiên ta nhận được, chứ không phải do tình thương của Thượng Đế. Lời Chúa hôm nay muốn nhắn nhủ chúng ta, hãy luôn biết nhận ra ơn Chúa, để dâng lời cảm tạ và tôn vinh Đấng cao cả. Tạ ơn Chúa vừa là bổn phận của chúng ta, vừa là điều kiện để Chúa tiếp tục ban ơn lành.
Chân thành cám ơn Chúa vì những điều tốt lành Ngài ban, chúng ta cũng biết nói lời cám ơn nhau. Cuộc sống vắng tiếng cám ơn sẽ trở nên khô khan, buồn tẻ, và sẽ biến con người thành những cỗ máy di động. Cám ơn không phải là hèn hạ, phụ thuộc như một thời nhiều người lầm tưởng. Con người sống ở đời phụ thuộc và liên đới với nhau. Người nông dân mua vải của người thợ dệt. Nguời thợ dệt mua nông sản của người nông dân. Sự trân trọng công lao và việc làm của người khác là biểu hiện của người có văn hóa và có nghĩa có tình. Lời cám ơn đối với những người cùng chung sống không chỉ thể hiện qua lời nói, nhưng còn là sự cảm thông, tình liên đới và bao dung.
Tạ ơn Chúa khi gặp điều may lành, người tín hữu còn biết dâng lời cảm tạ Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, ngay cả khi gặp khó khăn thử thách, vì họ xác tín rằng Chúa luôn muốn những điều tốt đẹp cho những ai yêu mến Ngài. Thánh Phaolô đã khuyên người môn sinh của mình là ông Timôthê hay luôn kiên tâm chịu đựng và phó thác vào tình thương của Chúa. Thánh nhân viết thư này từ trong tù, lúc bị xiềng xích, mà vẫn lạc quan hy vọng và tin tưởng vào Chúa, là Đấng trung thành. Trong xiềng xích tù đầy, thánh nhân vẫn nhận ra ơn của Chúa ban và đón nhận chiu đựng tất cả, vì lòng mến Chúa (Bài đọc II).
Lạy Chúa, xin mở mắt tâm hồn chúng con, để chúng con biết chiêm ngưỡng những điều kỳ diệu Chúa làm cho nhân loại, và để chúng con nhận ra tình thương bao la hải hả của Chúa, xuyên qua những điều kỳ diệu ấy. Amen.
.
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt
Chúa Giêsu đang trên đường lên Giêrusalem để chịu khổ hình, hoàn thành việc cứu độ. Chính lúc đi ngang qua Samaria, nhất là qua việc cứu chữa mười bệnh nhân phong, Chúa cho thấy một vài đặc điểm của ơn cứu độ.
Ơn cứu độ là phổ quát.
Chúa muốn cứu độ hết mọi người không loại trừ ai. Nên Chúa đi qua Samaria. Samaria là vùng đất cấm kỵ đối với người Do Thái. Đó là vùng đất ngoại đạo. Đó là vùng đất ô uế. Người Do Thái và người Samaria không giao thiệp với nhau. Nhưng Chúa đã vượt qua ranh giới cấm kỵ đó. Chúa muốn đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Tại Samaria Chúa còn gặp gỡ mười người phong cùi. Lại một cấm kỵ nữa. Người phong cùi vốn bị coi là hạng người tội lỗi, ô uế. Ai gặp họ đều trở nên ô uế. Họ bị loại trừ ra khỏi đời sống xã hội. Tại Samaria, những người phong cùi là những người ở tầng lớp cuối cùng của xã hội. Chúa đem ơn cứu độ cho mọi người, kể cả những người bị khinh miệt nhất, bị quên lãng nhất, bị hất hủi nhất. Ơn cứu độ Chúa ban cho tất cả mọi người. Trước mặt Chúa mọi người đều bình đẳng.
Ơn cứu độ là nhưng không.
Không ai dám nghĩ đến việc mời Chúa xuống trần gian. Không ai có công trạng gì khiến Chúa phải xuống trần gian để tưởng thưởng hay để đền đáp. Chúa xuống trần gian hoàn toàn do lòng nhân từ yêu thương của Chúa. Cũng thế, người Samaria hoàn toàn bất ngờ khi Chúa đến miền đất của họ. Những người phong cùi lại càng không bao giờ dám mơ tưởng tới. Bản thân họ đã bị lên án, bị loại trừ rồi. Ngay việc gặp một người bình thường đã không được phép, huống chi là gặp gỡ Chúa. Nhưng Chúa đã đến gặp gỡ họ, ban ơn cứu chữa họ. Hoàn toàn nhưng không. Họ chẳng có công gì. Họ chẳng có quyền đòi hỏi gì. Họ chỉ có nỗi đau khổ tột cùng. Chính nỗi đau khổ đó đã khơi dậy lòng yêu thương của Chúa. Vì Chúa là tình yêu thương.
Ơn cứu độ phải được đón nhận với niềm tin.
Tuy ơn cứu độ được ban rộng rãi và nhưng không, nhưng để đón nhận đòi phải có niềm tin. Những người phong cùi hôm nay đã bày tỏ niềm tin qua hai thái độ. Thái độ thứ nhất là đồng thanh lớn tiếng kêu cầu danh Chúa Giêsu: “Lạy Thày Giêsu, xin cứu chúng tôi”. Danh Thánh Giêsu có nghĩa là Thiên Chúa cứu. Từ cùng tận nỗi đau khổ, những người phong cùi đã kêu van bằng tất cả tấm lòng tha thiết và với niềm tin vững chắc. Chỉ có Chúa mới thương xót họ. Chỉ có Chúa mới đủ quyền năng cứu chữa họ. Thái độ thứ hai là đi trình diện với thày tư tế. Chúa không chữa họ ngay nhưng bảo họ đi trình diện với thày tư tế. Dù chưa được khỏi, nhưng họ vẫn tin tưởng lên đường. Đang khi đi đường thì họ được khỏi. Đức tin đã chữa họ.
Ơn cứu độ phải được đón nhận với niềm vui.
Đây là niềm vui trong mối tương giao giữa Thiên Chúa với con người. Cốt lõi của ơn cứu độ là thiết lập mối tương giao, cho con người được trở nên con cái Thiên Chúa, đồng hưởng hạnh phúc với Chúa. Đó là cội rễ của niềm vui, niềm hạnh phúc. Chín người bệnh không trở lại chỉ có niềm vui được khỏi bệnh, nhưng không có niềm vui trong mối tương giao với Thiên Chúa. Họ có đức tin cầu xin nhưng thiếu đức tin gặp gỡ với Thiên Chúa. Niềm vui được khỏi bệnh rồi cũng sẽ nhạt phai. Chỉ có một người trở lại tạ ơn. Anh trở lại vì mối tương giao. Anh nhận biết nguồn gốc niềm vui của mình. Anh sụp lạy Chúa vì biết nguồn gốc hiện hữu của mình. Anh đã tìm thấy nguồn cội ý nghĩa đời mình. Niềm vui của anh sẽ còn mãi mãi. Đời anh sẽ là một đời tạ ơn không ngừng.
Lạy Chúa, xin cho con biết tìm đến gặp gỡ Chúa để tạ ơn Chúa. Chính niềm vui tạ ơn này đem đến cho con hạnh phúc suốt đời con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Vì sao Chúa ban ơn cứu độ cho ta và ta phải đón nhận với thái độ thế nào?
2) Đức tin cầu xin và đức tin gặp gỡ Chúa khác nhau thế nào? Bạn đã tiến đến đâu trong đời sống đức tin?
3) Có những miền đất, những con người nào mà bạn coi là cấm kỵ khiến bạn chưa dám tiếp cận không? Với gương Chúa Giêsu hôm nay, bạn sẽ làm gì?
4) Biết ơn rất cần trong đời sống tự nhiên. Bạn có biết ơn trong đời sống siêu nhiên không?
.
TẠ ƠN CHÚA TRONG MỌI HOÀN CẢNH
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Có một câu thơ mà dường như ta vẫn hay nhìn thấy ở đâu đó. Một câu thơ cho ta ý thức về những niềm vui không do mình tạo ra mà do cuộc sống ban tặng cho chúng ta. Câu thơ ấy viết rằng:
“Cảm ơn đời mỗi sớm mai thức dậy, ta có thêm ngày nữa để yêu thương”.
Thật đẹp cho tâm hồn con người biết cám ơn. Biết cám ơn là biểu lộ một tấm lòng lạc quan yêu đời. Biết cám ơn biểu lộ một cung cách khiêm nhường để đón nhận mọi sự trong yêu thương và kính trọng.
Người không biết cám ơn sẽ luôn bất mãn vì những gì đang xảy ra. Người không biết cảm ơn sẽ thiếu tôn trọng người làm ơn và món quá được đón nhận.
Ngược lại, người biết cám ơn sẽ cảm thấy vui và hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh cuộc đời.
Họ biết cám ơn Chúa khi mỗi sáng mai thức dạy đang khi đó có hàng vạn người không còn thức dạy.
Họ biết cám ơn cha mẹ đã cho họ góp mặt vào trần thế. Cám ơn thầy cô cho họ kiến thức. Cám ơn bạn bè đã dìu họ đi qua những khúc quanh của dòng đời. Cám ơn cuộc đời đã cho họ kinh nghiệm để sống hạnh phúc hơn.
Cám ơn làm cho tâm hồn con người an vui hạnh phúc. Không biết cám ơn sẽ làm cho tâm hồn bi quan, thất vọng và chán chường.
Trong tích truyện kể về ông Matthew Henry là một học giả Kinh Thánh lừng danh vào đầu thế kỷ 18. Một ngày kia, ông bị bọn cướp trấn lột và đêm hôm đó, Henry đã ghi xuống cuốn nhật ký của ông như sau: Hãy để cho lòng ta cảm tạ ơn Thượng Đế.
Thứ nhất, bởi vì cho đến bây giờ ta mới bị ăn cướp; trước đây ta chưa bao giờ bị bọn cướp đón đường cả.
Thứ nhì, bởi vì mặc dầu bọn chúng cướp cái ví tiền, nhưng chúng nó không cướp mất mạng sống của ta.
Thứ ba, bởi vì mặc dầu chúng nó cướp sạch những gì ta có trên người lúc đó, nhưng cũng chẳng đáng giá là bao.
Thứ tư, ta là người bị cướp, chứ ta không phải là quân đi ăn cướp.
Một con người biết cám ơn luôn nhìn mọi sự trong nhãn quan tích cực. Họ luôn thấy ánh bình minh xuyên qua màn đêm tăm tối của cuộc đời. Họ không bi quan khi cánh cửa khép lại nhưng luôn tìm kiếm những lối đi khác cho bản thân.
Nhưng tiếc thay, người biết cám ơn lại quá ít! Rất nhiều người đã không nhận ra cuộc đời họ là một chuỗi hồng ân của Chúa để cám ơn. Họ không nhận ra tình thương của gia đình, bè bạn và cuộc đời dành cho họ để tri ân. Họ vẫn sống trong bi quan để oán trời – oán đất về những gì đã – đang xảy ra trong cuộc đời của họ.
Dầu vậy giữa cuộc đời vẫn còn đó những lời cám ơn chân thành. Dầu chỉ là số 1 so với số 9 quên cám ơn. Ở giữa cuộc sống phồn hoa vẫn còn đó những gia đình cùng nhau đọc kinh, dâng lễ để tạ ơn Chúa đã phù hộ bình an. Ở giữa cuộc sống bon chen hối hả vẫn còn đó những người con thảo hiếu mẹ cha qua việc chăm sóc cha mẹ già yếu. Ở giữa chợ đời thị phi vẫn còn đó những người thiện nguyện phục vụ vô vị lợi để trả ơn cuộc đời.
Lời Chúa hôm nay cho ta thấy thái độ thật khiêm cung của người phong hủi được chữa lành. Anh cám ơn Chúa với một thái độ khiêm tốn thẳm sâu. Anh sấp mình trước vị ân nhân đã cứu anh. Một thái độ cho thấy từ nay anh sẽ làm nô bộc cho người thi ân. Một thái độ tôn kính dành cho Đấng có quyền năng xua trừ sự dữ trên cuộc đời anh. Nhưng tiếc thay, con số biết cám ơn lại là con số nhỏ. Chỉ một trong 10 người biết cám ơn, còn lại vẫn cho mình được quyền sống, quyền hưởng lộc mà không cần cám ơn.
Cuộc sống sẽ đẹp hơn nếu chúng ta biết cám ơn. Cám ơn Chúa và cám ơn nhau sẽ làm cho con người thân thiện với nhau hơn. Cám ơn Chúa mỗi sáng mai thức dạy vì đang khi đó có thể nhiều người sẽ không còn khả năng thức dạy. Cám ơn Chúa mỗi khi chúng ta có dịp làm một việc thiện, một việc nghĩa đầy yêu thương đang khi đó có nhiều người không có khả năng để làm điều đó. Cám ơn đời vì trên dòng đời hối hả vẫn còn có những người bạn cầm lấy tay ta để cảm thông, để nâng đỡ và dìu dắt chúng ta.
Xin cho chúng ta đủ khiêm tốn để cám ơn trong mọi sự, vì tất cả là hồng ân. Tất cả đều do Chúa mà có. Con người chỉ là thụ tạo nhưng được Chúa yêu thương và ban cho mọi sự trên trần gian. Xin cho lời tạ ơn của chúng ta luôn vang dội không gian, hòa vào vạn vật để tôn vinh chúc tụng và ngợi khen tình thương Chúa vẫn ấp ủ đời ta và gìn giữ chở che chúng ta. Amen
.
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Qua bài Tin Mừng hôm nay nói về việc: Đức Giê-su chữa mười người phong cùi, Chúa muốn nói cho tôi điều gì? Thoạt đầu câu trả lời xem ra quá đơn giản: phép lạ là để khảng định quyền năng Thiên Chúa, và ai nhận được phải dâng lời tạ ơn. Nhưng suy niệm cho kỹ, tôi mới nhận ra một điều gì lớn lao và khác lạ hơn những gì tôi vẫn thường nghĩ.
Ai cũng biết là bệnh phong (hay bệnh cùi) là một căn bệnh ghê tởm, dễ lây lan và nan y vào thời đó. Trong thời cổ đại, nhiều xã hội đã coi: phong cùi là hình ảnh điển hình nhất của tội lỗi. Như vậy khi Đức Giê-su chữa lành mười người phong cùi, trong đó có cả một người dân ngoại (không Do Thái), ngoài việc tỏ lộ quyền năng Người còn cho thấy ơn cứu độ Người mang đến cho trần gian là phổ quát. Nói các cách khác: lòng thương xót của Thiên Chúa được ban phát cho hết mọi con người. Đối với những kiếp người sống trong vô vọng và bị loại trừ như các người phong cùi, thì đột nhiên được chữa lành, có nghĩa là tìm lại được hy vọng và được chấp nhận, thì còn hồng ân nào lớn cho bằng! Đó chính là hình ảnh rõ rệt nhất của ơn cứu độ Đức Giê-su mang lại cho nhân loại tội lỗi, và do đó ta đi tới khảng định: tạ ơn sẽ phải là tâm tình tràn ngập nhân loại được cứu rỗi sau biến cố Thập Giá. Tạ ơn là tình cảm mà từ lâu đã được Giáo Hội nhìn nhận như nét tiêu biểu nhất của cộng đoàn Ki-tô hữu; tâm tình tạ ơn này phải được cử hành không ngừng qua Hy Lễ Tạ Ơn (Eucaristia).
Ý chính là như thế, tuy nhiên ta còn nhận ra trong bài tường thuật của Lu-ca một vài chi tiết khác rất đáng lưu ý:
– Mười người phong cùi, trong số đó có chín người Do Thái, nhưng vẫn lẫn vào một người Sa-ma-ri thường bị coi là ngoại giáo (có thể vì khu biệt lập dành cho các người phong này nằm ngay gíap ranh giữa hai miền Sa-ma-ri và Ga-li-lê). Con số 10 này có thể hàm ý cả một nhân loại tội lỗi, trong đó gồm cả các tín hữu lẫn người vô thần, Ki-tô hữu cũng như các người thuộc các tôn giáo khác. Tất cả họ đều vướng mắc ‘phong cùi’ tội lỗi, cùng chung sống và chia sẻ tài nguyên trong một thế giới tràn ngập hận thù và bất công.
– Cả 10 người phong cùi này đều mong mỏi gặp được Thầy Giê-su, vì thế ngay ‘từ đàng xa, họ đã kêu van lớn tiếng: “Lạy thầy Giê-su, xin rủ lòng thương chúng tôi”. Phải chăng cùng với các Ki-tô hữu, toàn thể nhân loại đều ngong ngóng trông chờ ơn cứu chuộc; phải chăng tất cả mọi tôn giáo, kể cả nhiều hình thái vô thần đều là những tiếng vang vọng xa xa của lời van xin thống thiết đó! Vì, theo cách nói của Phao-lô: toàn thể nhân loại và mọi tạo vật đều quằn quại rên xiết chờ đợi ngày đó (xem Rm 8:19). Và Đức Giê-su bảo họ: “Hãy đi trình diện với các tư tế”, thế nhưng ‘đang khi đi thì họ đã được sạch’. Phao-lô cũng đã từng khảng định: ơn cứu độ của Đức Giê-su Ki-tô sẽ tới với hết thảy mọi người, cũng như tội lỗi đã thâm nhập toàn thể nhân loại (xem Rm 5:15-19). Chắc chắn là việc ‘đi trình diện’ hay gia nhập Hội Thánh vẫn là một đòi hỏi căn bản; tuy nhiên trong tường thuật này, ta ghi nhận: đang khi đi (có nghĩa là chưa trình diện = chưa gia nhập), thì họ đã được khỏi (tức lãnh nhận được ơn cứu độ và sự thứ tha). Một chi tiết cần lưu ý: biên giới Sa-ma-ri và Ga-li-lê cách Giê-ru-sa-lem nơi các tư tế phục vụ một chặng đường khá xa; vậy mà mới đi được một khúc ngắn họ đã được khỏi rồi. Phải chăng điều đó có nghĩa là: nhiều người tuy còn xa lắc xa lơ đối với Hội Thánh về mặt cơ chế tổ chức, tín lý, nhất là về luân lý đạo đức…, vẫn có thể được cứu rỗi miễn là họ đang trên con đường tiếp nhận Tin Mừng?
– Thế thì đâu là vai trò và sự khác biệt của Ki-tô hữu? ‘Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa’…, và Đức Giê-su nói với anh: “Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”. Vai trò và sự khác biệt là ở chỗ đó! Lòng tin Ki-tô hữu hệ tại ở việc nhận biết mình được Thiên Chúa cứu chữa, và vai trò đặc biệt của họ là ‘sấp mình dưới chân Đức Giê-su mà tạ ơn Ngài’. Kể từ ngày chịu phép Thánh Tẩy Ki-tô hữu không ngừng nhận thức rằng: mình được Thiên Chúa xót thương. Mỗi khi xét mình hay đi xưng tội, họ đào sâu hơn vào nhận thức đó; và nhận thức này sẽ không ngừng gia tăng để niềm tri ân cảm tạ ngày một dâng cao. Thánh Lễ Tạ Ơn, thời điểm họ cử hành mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Đức Ki-tô, chính là một diễn tả tuyệt hảo lời ngợi khen đó; không có nhận thức và hành động cảm tạ này, Ki-tô hữu cũng giống như mọi người khác thôi, và có thể còn thấp hơn, vì ‘anh ta lại là người Sa-ma-ri’.
– Một trong các thao thức Tin Mừng của Đức Giê-su là làm sao để mọi người nhận biết và cảm tạ hồng ân cứu độ họ nhận được; ‘Không phải cả 10 người đều được sạch cả sao? Thế thì 9 người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa?’ Chính ở điểm này tôi tìm thấy ý nghĩa đích thực của sứ mệnh truyền giáo của Ki-tô hữu: truyền giáo không phải là mang ơn cứu độ tới cho một ai, nhưng là làm cho nhiều người hơn nữa nhận biết họ được Thiên Chúa xót thương và cứu chuộc. Đưa họ tới bí tích Rửa Tội là để khảng định nhận thức này từ nay sẽ trở thành lẽ sống của họ; cũng như mời gọi họ gia nhập Hội Thánh với mục đích chính là để cùng cộng đoàn chung lời cảm tạ.
Ôi, nhiều khi tôi mơ ước được trình bày một Hội Thánh như thế: Hội Thánh như một cộng đoàn qui tụ, để đón nhận hồng ân cứu độ, và dâng lời tạ ơn vì hồng ân đó. Có lẽ sách Công Vụ các Tông Đồ cũng đã từng trình bày một Hội Thánh như thế!
Lạy Chúa, đã một lần khi ngồi giữa một phi trường rộng lớn, nhìn dòng người qua lại trước mặt thuộc đủ mọi mầu da, ngôn ngữ và văn hóa. Lúc đó Chúa đã mở mắt con để nhận ra rằng: Chúa yêu thương và muốn cứu độ tất cả mọi người trong số họ; còn họ, giữa muôn vàn lo toan bận rộn, một cách nào đó, đang trên đường ‘đi trình diện thầy tư tế’. Chính lúc đó con mới nhận ra rằng: sứ mạng Ki-tô hữu của con là làm cho họ nhận thức ra, mình được Chúa yêu thương. Tuy con chưa làm được gì nhiều để họ nhận biết tình thương của Chúa, con xin Chúa dạy con ít là biết cảm tạ Chúa thay cho họ. Phải chăng đó chính là ơn gọi cao quí nhất Chúa dành cho con! A-men.
.
Lm. GB. Trần Văn Hào
Trong tập sách ‘Nói với chính mình’, Đức Cha Bùi Tuấn đã chia sẻ: “Tôi rất thích chó, vì chó là con vật biết ơn. Sự biết ơn của chó khác với lòng biết ơn của con người, nhưng không thiếu vẻ đẹp. Cho chó một miếng xương nó cũng tỏ dấu biết ơn bằng cách vẫy đuôi, quấn quýt người cho. Càng được cho, nó lại càng biết ơn và ra sức bảo vệ chủ. Nhiều người không biết ơn bằng chó.” Lời nhận định của Đức Cha có thể làm nhiều người dị ứng và khó chịu, nhưng nếu suy nghĩ cho kỹ thì quả không sai. Câu chuyện trong Tin mừng hôm nay là một minh dẫn cụ thể.
Sự vô ơn rất thường xảy ra.
Thánh Luca thuật lại câu chuyện về 10 người phong hủi được chữa lành, nhưng chỉ duy nhất một người quay lại bày tỏ lòng biết ơn. Rất bẽ bàng, đó lại là người ngoại giáo, một người Samari. Cũng vậy, cả đám đông khổng lồ đã được Chúa cho ăn no nê và chứng kiến biết bao phép lạ Ngài làm, nhưng khi Chúa oằn vai vác Thập Giá, chỉ duy nhất Simon thành Cyrênê ghé vai giúp Ngài, lại cũng là một người ngoại giáo. Sự vô ơn đạt đến cao điểm khi toàn dân quay lưng, đồng thanh đả đảo và kết án Chúa Giêsu như một tên tội phạm. Trên đỉnh cao núi sọ, chỉ duy nhất một người khám phá ra bầu trời yêu thương từ đôi mắt Chúa, và đó cũng chỉ là một tay ăn trộm khét tiếng.
Lịch sử dân Do Thái, một dân được Thiên Chúa ưu tuyển, được đan dệt bằng những hành vi phản bội và vô ơn. Hình tượng con bò vàng dưới chân núi Sinai rất tiêu biểu nói lên sự vô ơn này. Vết xe cũ của sự vô ơn nơi người Do Thái năm xưa, có thể vẫn đang được lặp lại nơi mỗi người chúng ta hôm nay. Mỗi tội chúng ta phạm là một sự phản bội. Mỗi điều ác chúng ta làm là một hành vi chống lại Thiên Chúa, và thể hiện sự vô ơn đối với Ngài.
Tại sao phải biết ơn.
‘Không ai là một hòn đảo’. Chúng ta được sinh ra và lớn lên, đều cần có sự tương tác và trợ giúp từ người khác. Miếng cơm chúng ta ăn, manh áo chúng ta mặc đều có sự đóng góp công sức của nhiều người. Chúng ta có làm được ông này hay bà nọ cũng nhờ công ơn sinh thành của cha mẹ, công lao dạy dỗ của thầy cô. Song trên hết, những gì chúng ta đang hưởng dùng như tiền bạc, nhà cửa, tài năng, sức khỏe, thời giờ…tất cả đều là hồng ân Thiên Chúa ban tặng. Vì vậy, Đấng mà chúng ta phải tỏ bày lòng biết ơn đầu tiên là chính Thiên Chúa.
Cha sở họ Ars trong một bài giảng đã kể một câu chuyện rất ý nghĩa. Hằng ngày Chúa sai hai Thiên Thần đi xuống trần gian để nhận những lời khấn nguyện của con người. Hai vị cầm hai giỏ, một để đựng những lời cầu xin, một để đựng những tâm tình tạ ơn. Ngày nào cũng vậy, giỏ đựng những lời cầu xin thì đầy ắp, còn giỏ đựng những tâm tình tri ân thì quá ít, hầu như không có gì. Chúa nói với các Thiên Thần: “Con người thường chỉ biết nhận và không biết cho đi. Họ cứ xin xỏ điều này điều kia, nhưng chỉ biết thụ ơn mà không nhớ đến kẻ đã thi ân cho mình.” Một nhà tu đức đã phát biểu: “Thiên Chúa cư ngụ ở hai nơi: Trên thiên đàng và trong tâm hồn những người có lòng biết ơn.” Khoa sư phạm giáo dục của Cha Thánh Gioan Bosco luôn nhấn mạnh đến lòng biết ơn, và đây là yếu tố để việc giáo dục đạt được kết quả. Ngài nói: “Hãy đem đến cho tôi một đứa trẻ có lòng biết ơn, tôi bảo đảm nó sẽ là một đứa trẻ tốt lành.”
Cách thể hiện lòng biết ơn.
Tại các nước văn minh, bài học đầu tiên người ta dạy cho các học sinh trong nhà trường là tập nói câu ‘xin lỗi’ và ‘cám ơn’. Ở Việt Nam, một cơ quan nọ đã phát động chiến dịch để các nhân viên tập mở miệng nói 2 câu này trong những giao tiếp hằng ngày, nhưng có lẽ không thành công lắm. Sự vô ơn, chỉ biết ngửa tay đón nhận và không biết mở lòng để cho, là một căn bệnh trầm kha rất khó chữa trị. Trong đời sống đức tin cũng vậy, sự vô ơn gắn liền với lối sống ích kỷ và hưởng thụ, là nguyên nhân làm sói mòn đức tin nơi người Kitô hữu. Chúng ta hãy đọc lại câu kết của bài Tin mừng hôm nay, khi Đức Giêsu nói với người Samari đã quay lại cám ơn Chúa: “Đứng dậy về đi. Lòng tin của anh đã cứu chữa anh” (Lc 17,19). Sự biết ơn là dấu biểu thị đức tin. Sống đức tin không phải chỉ là đi đến nhà thờ để đọc kinh, dự lễ một cách máy móc. Đức tin được diễn tả bằng hành động giống như người Samari mà Thánh Luca nhắc đến hôm nay. Những người có cảm thức đức tin sâu xa, sẽ rất quảng đại dấn thân phục vụ, nhất là qua sứ vụ truyền giáo, để diễn bày lòng biết ơn đối với Chúa.
Kết luận
Báo Digest có viết lại một giai thoại. Có một chàng thanh niên nọ đã sống rất quảng đại và rộng rãi giúp đỡ mọi người. Anh ta tình nguyện đến chăm sóc một người bạn bị tâm thần nằm trong bệnh viện mà không quản ngại vất vả. Anh ta cũng mở lòng đem tiền bạc đến giúp một anh bạn da đen chẳng may bị sa cơ thất thế. Khi được mời gọi đóng góp vào những việc từ thiện, anh ta không hề so đo tính toán. Nói chung, anh ta làm những gì có thể để mở lòng nhân ái giúp đỡ những ai cần đến. Bỗng dưng một bữa nọ, những người hàng xóm chung quanh phát hiện ra, con người tốt bụng ấy đã dùng súng để tự sát. Lý do dẫn đến cái chết đã được anh ta ghi lại trong quyển nhật ký : “Tôi đã nghĩ đến mọi người, nhưng chẳng ai thèm nghĩ đến tôi. Tôi đã sống tốt với tất cả, nhưng tôi đã không được đáp lại bằng sự tử tế. Điều duy nhất tôi nhận được, chính là sự vô ơn và bạc nghĩa”.
Để diễn bày lòng biết ơn, chúng ta hãy học lấy thái độ của người Samari trong bài Tin mừng hôm nay. Cũng tương tự, tướng Naaman, vua nước Aram sau khi khỏi bệnh đã đến cám ơn ngôn sứ Elisa, và dâng lễ vật tạ ơn Đức Chúa (bài đọc 1). Còn chúng ta, chúng ta thực hành lòng biết ơn như thế nào.
.
Trầm Thiên Thu
Cuộc đời có nhiều thứ đối lập, một trong các dạng đối lập đó thuộc lĩnh vực ân huệ: biết ơn và vô ơn.
Thomas Fuller (1608-1661), sử gia và giáo sĩ Anh giáo, nói: “Con người ưa trả thù vì bị tổn thương hơn là đền đáp cho lòng tử tế”. Chính khách Benjamin Franklin (1706-1790, nhà ngoại giao và triết gia Hoa Kỳ) nhắn nhủ: “Khi được giúp đỡ, hãy ghi nhớ; khi giúp đỡ, hãy quên đi”.
Về ân huệ, tục ngữ Việt Nam có những câu nhắc nhở như: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, hoặc “Ăn cây nào rào cây nấy”. Quả thật, lòng biết ơn rất quan trọng, vì không ai lại không thụ ân của người khác bằng một cách nào đó – gián tiếp hoặc trực tiếp. Ngược lại, sự vô ơn bạc nghĩa là điều tệ hại, không ai có thể chấp nhận.
Lòng biết ơn phải được thể hiện với mọi người, đặc biệt là đối với Thiên Chúa. Thánh Phaolô khuyên: “Để tỏ lòng biết ơn, anh em hãy đem cả tâm hồn mà hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca, do Thần Khí linh hứng” (Cl 3:16). Bài ca tạ ơn là tình khúc hay nhất, quý giá nhất, thâm thúy nhất, và tuyệt vời nhất.
Thời nay người ta ưa dùng danh từ “soái ca”. Nhưng “soái ca” là gì? Đó là danh từ bắt nguồn từ các truyện ngôn tình, ý nghĩa của “soái ca” ngụ ý về một người đàn ông hoàn hảo trong con mắt phụ nữ. Soái ca là một người vừa có tài, vừa có chí, vừa có tình, có thể vừa điển trai vừa giàu có nữa, tất nhiên người đàn ông này rất dễ thương.
Theo ý nghĩa thực tế, mỹ từ “soái ca” ngày nay không hẳn theo ý nghĩa nguyên ngữ như trước đây. Soái ca chỉ là một con người rất bình thường nhưng có tâm hồn cao thượng, có tấm lòng nghĩa hiệp. Chẳng hạn, trong đợt mưa to ngày 26-9-2016, Saigon xuất hiện nhiều “dòng sông đau khổ”. Tầng hầm để xe tại ký túc xá của Đại học Quốc gia (Thủ Đức) bị ngập nặng, xe cộ của sinh viên “uống nước” nhiều nên hư hỏng. Tùy loại xe, tiền sửa có thể giao động từ 3 triệu tới 10 triệu VNĐ. Sinh viên lấy tiền đâu mà sửa?
Và rồi xuất hiện hai “soái ca”. Đó là Nguyễn Công Nhật Minh (khoa Kỹ Thuật Xây Dựng) và Văn Minh Hiệp (khoa Môi Trường), cả hai đang là sinh viên năm II của trường Đại học Bách Khoa tại Saigon. Họ sửa xe miễn phí cho nhiều sinh viên khác, họ chỉ xin hộp cơm ăn cho đỡ đói thôi. Đẹp thay những tấm lòng đại nghĩa như vậy! Đơn giản hóa, chúng ta có thể hiểu “soái ca” là người tốt bụng.
Kinh Thánh xác định: “CHO thì có phúc hơn là NHẬN” (Cv 20:35). Cũng có thể hiểu rằng thi ân thì có phúc hơn là thụ ân. Có người mang nhãn hiệu 3V [Vội-Vơ-Vét], có người mang danh hiệu 3C [Chu-Cấp-Cho]. Ai đại phúc và ai đại họa? Chẳng ai lạ gì cái “thương hiệu” 3T [Tham Thì Thâm].
Trình thuật 2 V 5:14-17 cho biết: Ông Naaman là quan lãnh binh của vua xứ Syria, nhưng ông mắc chứng phong cùi. Nghe lời ngôn sứ Êlisa, người của Thiên Chúa, ông xuống dìm mình bảy lần trong sông Giođan, và ông được sạch, da thịt ông lại trở nên như da thịt một trẻ nhỏ. Phép lạ nhãn tiền, da không chỉ lành mà còn đẹp và mịn, không loại kem dưỡng da nào có thể tác dụng tuyệt vời như vậy.
Kinh Thánh cho biết thêm rằng ông đã cùng với đoàn tuỳ tùng trở lại gặp người của Thiên Chúa. Gặp để làm gì? Tỏ lòng biết ơn: Thank you a lot – Merci bien. Trong thi phẩm “Hễ Mai Tớ Hỏng”, thi sĩ trào phúng Tú Xương cũng đề cập cách nói cảm ơn: “Cống hỉ” (tiếng Quảng Đông) và “Mét-xì” (Merci, tiếng Pháp). Ý nói là dùng ngôn ngữ cơ bản nhất cũng đủ đi đây đi đó, chứng tỏ lời cảm ơn thực sự cần thiết khi giao tiếp.
Ông Naaman vào, đứng trước mặt ông ấy và nói: “Nay tôi biết rằng: trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Israel. Bây giờ, xin ngài vui lòng nhận món quà của tôi tớ ngài đây”. Nhưng ông Êlisa từ chối: “Có Đức Chúa hằng sống là Đấng tôi phụng sự, tôi thề sẽ không nhận gì cả”. Ông Naaman nài ép ông nhận, nhưng ông vẫn từ chối. Cuối cùng, ông Naaman nói: “Nếu ngài từ chối, xin cho phép tôi tớ ngài đây mang về một số đất vừa sức hai con lừa chở được, vì tôi tớ ngài sẽ không còn dâng lễ toàn thiêu và hy lễ cho thần nào khác ngoài Đức Chúa”. Ông Êlisa bằng lòng và chúc ông Naaman đi bình an.
Khi thi ân thì không nên nhớ, nhưng khi thụ ân thì phải ghi tâm khắc cốt, ghi lòng tạc dạ. Đừng theo “thói đời” mà qua cầu rút ván, hoặc phủi tay là xong. Sách Huấn Ca xác định: “Tỏ lòng biết ơn là dâng bột tinh hảo, làm việc bố thí là dâng lễ ngợi khen” (Hc 35:2).
Không đề cập trực tiếp với các từ ngữ mô tả lời cảm ơn, nhưng tác giả Thánh Vịnh vẫn chứng tỏ lòng biết ơn đối với Thiên Chúa, và mời gọi chúng ta cùng hiệp ý: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã thực hiện bao kỳ công. Người chiến thắng nhờ bàn tay hùng mạnh, nhờ cánh tay chí thánh của Người. Chúa đã biểu dương ơn Người cứu độ, mặc khải đức công chính của Người trước mặt chư dân” (Tv 98:1-2).
Tuy là Thiên Chúa nhưng Chúa Giêsu vẫn biết ơn Chúa Cha, chính Ngài đã làm gương để chúng ta học tập và thực hiện theo Ngài: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con” (Ga 11:41). Tác giả Thánh Vịnh giải thích và nhắn nhủ chúng ta: “Người đã nhớ lại ân tình và tín nghĩa dành cho nhà Ít-ra-en. Toàn cõi đất này đã xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Tung hô Chúa, hỡi toàn thể địa cầu, mừng vui lên, reo hò đàn hát” (Tv 98:3-4).
Thánh Phaolô cũng đã nhiều lần thể hiện lòng biết ơn đối với Thiên Chúa (x. 1 Cr 1:4; 1 Cr 10:16; 1 Cr 14:18; 2 Cr 8:16; Pl 1:3). Và thánh nhân căn dặn: “Anh em có làm gì, nói gì thì hãy làm, hãy nói nhân danh Chúa Giêsu và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha” (Cl 3:17).
Đối với đệ tử Timôthê, sư phụ Phaolô đưa ra lời khuyên này: “Anh hãy nhớ đến Đức Giêsu Kitô, Đấng đã sống lại từ cõi chết, Đấng xuất thân từ dòng dõi Đa-vít, Vì Tin Mừng ấy, tôi chịu khổ, tôi còn phải mang cả xiềng xích như một tên gian phi. Nhưng lời Thiên Chúa đâu bị xiềng xích!” (2 Tm 2:8-9).
Nguyên nhân thế nào? Thánh Phaolô giải thích: “Bởi vậy, tôi cam chịu mọi sự, để mưu ích cho những người Thiên Chúa đã chọn, để họ cũng đạt tới ơn cứu độ trong Đức Kitô Giêsu, và được hưởng vinh quang muôn đời” (2 Tm 2:10). Tiếp theo là những cái “nếu” quan trọng: “Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người. Nếu ta chối bỏ Người, Người cũng sẽ chối bỏ ta. Nếu ta không trung tín, Người vẫn một lòng trung tín, vì Người không thể nào chối bỏ chính mình” (2 Tm 2:12-13). Cuối cùng, nếu chúng ta biết tín thác và tạ ơn Thiên Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ được lãnh nhận hơn cả những gì chúng ta mong ước.
Trình thuật Lc 17:11-19 nói về chuyện mười người phong hủi được Chúa Giêsu chữa lành, nhưng CHÍN người vô ơn, chỉ có MỘT người biết ơn. Đáng lưu ý là người biết ơn lại là người ngoại giáo.
Một hôm, trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu đi qua biên giới giữa hai miền Samari và Galilê. Lúc Người vào một làng kia, có mười người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa và kêu lớn tiếng: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!”. Thấy vậy, Đức Giêsu bảo họ: “Hãy đi trình diện với các tư tế”.
Đang khi đi thì họ được sạch. Một người trong bọn là người Samari, khi thấy mình được khỏi thì liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn. Đức Giêsu mới nói: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?”. Rồi Ngài nói với anh ta: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”.
Khi xin thì xin cho bằng được, không được thì không bằng lòng, nhưng được rồi thì không cần biết ai ráo trọi. Con người thật tệ bạc! Máu “di truyền” chăng? Có lẽ vì vậy mà Thánh Vịnh 107 lặp đi lặp lại điều mong ước này: “Ước chi họ dâng lời CẢM TẠ vì tình thương của Chúa, và vì những kỳ công Chúa đã thực hiện cho người trần” (cc. 8, 15, 21, 31).
Lòng biết ơn rất quan trọng, đó là văn hóa cao cấp, là viên ngọc quý. Maya Angelou (1928-2014), nữ thi sĩ người Mỹ, nói: “Hãy để sự biết ơn làm gối để bạn quỳ lên nói lời cầu nguyện hàng đêm. Và hãy để đức tin làm cầu để đưa giúp bạn đi khỏi cái xấu đến với cái tốt”.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết ghi lòng tạc dạ về mọi hồng ân của Ngài không ngừng tuôn đổ trên con, xin cũng giúp con biết ơn những người giúp đỡ con một cách nào đó – trực tiếp hoặc gián tiếp, và xin Ngài trả công bội hậu cho họ. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
.
AM Trần Bình An
Theo Coconuts Bangkok, chàng Klanarong Srisakul vừa tốt nghiệp đại học Chulalongkorn danh tiếng tại Thái Lan. Anh bất ngờ nổi tiếng trên mạng nhờ khoảnh khắc quỳ gối cảm ơn bố. Theo đó, bố Klanarong là công nhân vệ sinh, chuyên chở rác tại địa phương. Hình ảnh kèm dòng trạng thái về bố của Klanarong Srisakul trên trang cá nhân hiện thu hút 86.000 like và 11.000 chia sẻ cùng hàng nghìn bình luận tỏ ra xúc động.
Chàng trai viết: “Khi còn là một đứa trẻ, không biết bao nhiêu lần tôi đã cảm thấy xấu hổ về người bố lam lũ của mình. Tại sao ông không mặc đồng phục đẹp đẽ hơn, như của cảnh sát hay quân nhân. Bố tôi chỉ học đến lớp 4, vì thế ước mơ lớn nhất của ông là tôi được đi học. Ông nói với tôi, gia đình chẳng có bất cứ tài sản gì, nhưng ông có thể cho tôi đến lớp. Tôi muốn trở thành người lính, nhưng không thể vượt qua kỳ thi đầu vào. Tôi phát hiện ra rằng, cha tôi đã khóc thầm.”
Klanarong tâm sự, bố đã hy sinh cả đời, mày mò với công việc dọn rác, mà khi bé anh từng cho là dơ bẩn, không đáng trân trọng. Nhưng cũng chính những đồng tiền bố làm ra, đã cho anh ăn học và thực hiện được ước mơ vào giảng đường đại học.“Cảm ơn bố đã đồng hành cùng con trong mọi chặng đường. Con xin nói lên lời cảm ơn và mong bố sẽ hạnh phúc, khi thấy con khôn lớn, báo hiếu sau này,” anh nói. (Phan Trai Úc, Chàng trai quỳ trước người bố nghèo để tỏ lòng biết ơn)
Lòng biết ơn của chàng tân cử nhân Klanarong Srisakul hẳn rất có ý nghĩa cho Kitô hữu tỉnh táo thoát cơn mê bạc bẽo, bất hiếu, lạnh lùng, vô cảm, vô ơn đối với Chúa Quan Phòng. Ngài luôn ân cần, chăm sóc, bảo vệ, gìn giữ từng giây phút cuộc đời từng người. “Ngay đến tóc trên đầu anh em cũng được đếm cả rồi.” (Lc 12, 7)
Tin Mừng hôm nay thuật lại mười người phong được Đức Giêsu cứu chữa, mà chỉ duy nhất một người quay lại tạ ơn. Trớ trêu thay, người đó lại là người Samaria bị rẻ rúng: “Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu? Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này.”
Biết ơn
Thánh Phanxicô Assisiô chiêm ngưỡng thiên nhiên xinh đẹp, hết lòng tán dương Thiên Chúa: “Ngợi khen Chúa, lạy Chúa tôi, với muôn loài thọ tạo, đặc biệt nhất Ông Anh Mặt Trời. Anh là ánh sáng ban ngày, nhờ Anh, Ngài soi chiếu chúng tôi. Anh đẹp và tỏa ánh rạng ngời. Anh tượng trưng Ngài, lạy Đấng Tối Cao…” (Bài Ca Mặt Trời)
Chúa Quan Phòng luôn thương ban muôn hồng ân cho vạn vật an nhiên tự tại, sinh sôi nảy nở, hài hoà, trật tự, phát triển bền vững: “Hãy nhìn xem chim trời, chúng, không gieo, không gặt, không thu vào lẫm, thế mà Cha các con trên trời vẫn nuôi chúng.” (Mt 6, 26)
Với con người, Thiên Chúa còn ưu đãi hơn, còn ban đời sau hạnh phúc viên mãn. “Hãy tìm kiếm Nước Trời trước đã, và sự công chính của Người, và các điều ấy sẽ được ban thêm cho các ngươi.” (Mt 6, 33)
Hàng ngày, biết bao ơn lành Chúa thương ban, như cơm ăn áo mặc, được bình an đi lại, yên ổn trong gia đình và cuộc sống, nhưng người Kitô hữu liệu có ý thức được mình hàm ơn Chúa, hay kiêu căng, tự hào, tự phụ rằng, mình tài năng, giỏi giang, thông minh, khôn khéo, thành đạt, mới được trong ấm, ngoài êm?
Thánh Inhaxiô nói: “Tội lớn lao hơn cả là tội vô ơn.” Cám ơn là dấu chỉ của lòng tin, là biểu hiệu lòng khiêm nhường, lòng tôn kính đấng gia ơn. Đức Giêusu thân thương nói với người phong cùi biết ơn, đang sụp lạy dưới chân Ngài: “Anh hãy đứng dậy mà về, vì lòng tin của anh đã cứu chữa anh.”
Tạ ơn
Biết ơn là mới chỉ là nhận thức ban đầu, cần kèm theo hành động cụ thể, biểu lộ tấm lòng chân thành tạ ơn, tấm lòng con thảo hiếu với Người Cha Nhân Từ, bằng lời cầu nguyện biết ơn, cảm tạ, chúc tụng, ngợi khen, tôn vinh Đấng Chí Thánh. “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, Chớ khá quên mọi ân huệ của Người.” (Tv 103,2)
Cảm tạ không phải là cứ khua môi múa mép, đọc cho to, đọc nhiều kinh, đọc liên miên, không ngơi nghỉ, mà cần dốc lòng biểu lộ ý nguyện thành kính tạ ơn.“Anh em hãy để cho lòng chan chứa niềm tri ân cảm tạ.” (Cl 2, 7) Can đảm làm chứng nhân giữa cõi đời đang từ chối Chúa, chống đối Chúa, như hiên ngang noi gương người khỏi bệnh, quay lại sấp mình tạ ơn Chúa. “Một người trong bọn họ thấy mình được lành sạch, liền quay trở lại, lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người.”
Làm ơn
Điều kiện tiên quyết để được Chúa xót thương, là trở nên khiêm hạ, nhận thức mình phàm hèn, hư hỏng, yếu đuối, tội lỗi, chân tình khẩn cầu Lòng Thương Xót, như dụ ngôn người thu thuế, vào Đền Thờ đấm ngực thưa rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” (Lc 18, 13) Nhưng để được Chúa cứu giúp, thì Kitô hữu cần thiết quảng đại xót thương tha nhân. “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.” (Mt 5, 7)
Nếu không làm ơn, xót thương tha nhân, thì tất nhiên chẳng được ban ơn tha thứ, như dụ ngôn người mắc nợ không biết xót thương: “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao? Rồi tôn chủ nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính hành hạ, cho đến ngày y trả hết nợ cho ông.”(Mt 18, 32-34)
Được Chúa thương chữa lành, người Kitô hữu vốn liên đới mật thiết, có bổn phận và trách nhiệm giúp đỡ, mời gọi người khác cũng được Chúa cứu chữa, cả phần xác lẫn phần hồn. Vì tất cả mọi người đều là chi thể duy nhất của Đức Giêsu Kitô. “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em.” (Ga 15, 12)
“Chúc tụng Thiên Chúa và là Cha của Chúa chúng ta, Đức Giêsu Kitô, Đấng đã thể theo lòng hải hà mà tái sinh chúng ta cho hy vọng hằng sống, nhờ sự Phục Sinh từ cõi chết của Đức Giêsu Kitô.” (1P 1: 3) (Đường Hy Vọng, số 949)
Lạy Chúa Giêsu, nhờ Lòng Thương Xót, khấn xin Chúa luôn cứu chữa chúng con khỏi chứng bệnh phong tâm hồn, những đam mê, ham muốn bất chính, những thói hư tật xấu đã di căn vào xương tuỷ, máu huyết chúng con.
Khấn xin Mẹ đoái thương cầu bầu chúng con luôn biết ơn Chúa, luôn tạ ơn Chúa, cũng như luôn làm ơn với mọi người, như Chúa luôn xót thương chúng con. Amen.
.
TÌNH YÊU THIÊN CHÚA ĐƯỢC DIỄN TẢ
QUA TRUNG GIAN CON NGƯỜI
Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Thiên Chúa là tình yêu. Ai ở trong tình yêu, thì ở trong Thiên Chúa. Ai nói mình yêu Thiên Chúa mà ghét anh em mình, đó là người nói dối. Tình yêu đối với Thiên Chúa được diễn tả qua tình yêu con người đối với nhau. Thiên Chúa cũng yêu thương con người qua những trung gian của Ngài, cụ thể qua những con người sống chung quanh chúng ta.
Thay đổi con người, để có thể lãnh nhận hồng ân
Naaman trước khi xuống tắm bảy lần ở sông Jordan, đã phẫn nộ với tiên tri Êlisa vì ông tưởng rằng tiên tri sẽ đứng trước ông, giơ tay cầu khẩn cùng Thiên Chúa, và chữa ông khỏi. Đằng này, tiên tri chỉ sai người nói với Naaman: “đi tắm bảy lần ở sông Jordan, thì sẽ được sạch”. Naaman nghĩ: “Nước sông ở Đa-mát chẳng sạch hơn nước sông ở Jordan sao?” Và Naaman đã không muốn xuống tắm.
Naaman đòi người của Thiên Chúa phải làm theo suy nghĩ và cách thế của mình. Nhưng Thiên Chúa không muốn thế, và người của Thiên Chúa lại không muốn vậy. Đòi hỏi để được khỏi bệnh quá đơn giản đến độ Naaman không thể tin được, và không muốn tin. Nếu Naaman không khiêm tốn bỏ mình để làm theo lời sứ giả của tiên tri, thì chắc ông chẳng khỏi bệnh. Trong cuộc sống, người ta cũng thường đòi Thiên Chúa phải làm theo ý người ta, theo điều kiện người ta đặt cho Chúa. Trường hợp của Naaman cho thấy, nếu người ta không bỏ mình, e rằng người ta khó có thể đón nhận hồng ân của Thiên Chúa.
Bao nhiêu yếu tố xảy đến giúp Naaman đón nhận hồng ân: người tớ gái “quá thơ ngây” suýt gây họa cho cả nhà vua nước mình, những đầy tớ của Naaman khuyên ông nên vâng lời vị sứ giả của tiên tri, và cả dòng sông nước không được sạch dưới con mắt của Naaman. Trong cuộc sống của mỗi người, dường như cũng được đan dệt bằng bao nhiêu lời, bao nhiêu biến cố nhỏ nhỏ, để làm nên mỗi người như hiện tại. Chúng ta có nhận ra đó là những hồng ân để tạ ơn Thiên Chúa không?
Đức Giêsu- tình yêu của Thiên Chúa cho con người
Người phong cùi, theo luật Do Thái, không được tiếp xúc với người lành. Chính vì vậy, họ đứng đàng xa và kêu xin Đức Giêsu thương xót, chữa lành họ. Họ đáng thương, không chỉ vì con bệnh hành hạ làm họ đau đớn thể xác, nhưng họ còn đau khổ hơn khi phải tách biệt với xã hội con người, với những người thân yêu: cha mẹ, vợ chồng, con cái của họ. Đức Giêsu giúp con người giao hoà với Thiên Chúa và giao hoà với nhau.
Đức Giêsu nói với những người phong cùi: “đi trình diện với các tư tế”. Luật Do Thái dạy những người phong cùi thấy mình khỏi bệnh, phải đi trình diện thầy tư tế, để được xác nhận là đã khỏi bệnh. Đang khi họ đi, họ được khỏi. Niềm tin phó thác biểu lộ qua thái độ vâng lời Đức Giêsu, làm những người phong cùi được khỏi bệnh. Thiên Chúa đòi con người tin tưởng và phó thác tất cả nơi Ngài. Tin tưởng phó thác tất cả nơi Thiên Chúa, đó là dấu chỉ của những người được thương và được cứu độ.
Chỉ có mỗi người ngoại trở lại để tạ ơn Thiên Chúa. “Chín người kia đâu? Không phải cả mười người được khỏi sao?” Chín người kia chắc chắn được khỏi bệnh phong cùi, còn người ngoại này không chỉ được khỏi bệnh thân xác, nhưng còn được nhiều ơn thiêng liêng khác nữa. Nhận ra hồng ân Thiên Chúa trong đời mình, là một dấu chỉ của người đang sống hạnh phúc.
Thiên Chúa vẫn muôn ngàn đời thành tín
“Nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng sống với Ngài”. Đi theo Đức Giêsu, đòi chúng ta phải bỏ mình, bỏ những ham muốn của thế gian và xác thịt. Không chiều theo những ham muốn của xác thịt và thế gian, là một cách chết cho thế gian, cùng chết với Đức Kitô. Thiên Chúa vẫn muôn ngàn đời thành tín: nếu chúng ta chết cho thế gian cùng với Đức Kitô, chúng ta sẽ được cùng sống lại với Ngài.
“Nếu chúng ta chối Ngài, Ngài cũng chối chúng ta”. Sở dĩ vậy, vì nếu chúng ta cứng lòng và cố tình chối Ngài, đứng đối nghịch với Ngài. Ngài không thể làm khác được. Thiên đàng không thể có đối với người không muốn “lên thiên đàng”. Về phía Thiên Chúa, Ngài luôn luôn yêu thương con người, Ngài muốn con người ở trong tình yêu của Ngài, Ngài muốn họ “lên thiên đàng” nhưng Ngài không buộc họ phải lên thiên đàng. Nếu một người cố tình thù nghịch Ngài, Ngài phải chịu vì Ngài đã cho con người tự do.
“Nếu chúng ta bất trung, thì Ngài vẫn trung thành”. Nếu vì yếu đuối, chúng ta bất trung, thì Thiên Chúa vẫn thành tín, Ngài chờ đợi chúng ta trở lại với Ngài. Tình yêu Thiên Chúa đối với con người được cụ thể qua bí tích hoà giải, mỗi khi con người trở lại với Thiên Chúa, đều được lãnh ơn hoà giải với Ngài qua trung gian thừa tác viên của Giáo Hội. Hơn nữa, hối hận hay muốn trở lại, đã là hồng ân của Thiên Chúa cho tội nhân rồi.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Bị mắc bệnh phong cùi, căn bệnh làm cho người ta trở nên ô uế, tội lỗi, bị xa nhà xa cả người thân, địa phương xa lánh người gần người xa, khiến người bệnh cay đắng cực lòng. Dẫu biết rằng, chỉ mình Thiên Chúa mới có thể chữa lành. Nay nghe biết có Đức Giêsu thành Nagiarét đã cho con gái bà góa thành Naim sống lại (x. Lc 7, 11-17) sắp đi qua. Mười người phong cùi đồng thanh cất tiếng kêu xin lòng thương xót, tiếng họ kêu mang theo niềm hy vọng được chữa lành : “Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi !” (Lc 17, 13). Tiếng kêu của họ vượt qua không gian, phá vỡ ngăn cách, nhất là vọng thấu tới tai Đấng là Lòng Thương Xót. Quả thật, Lòng Thương Xót đã thấy họ trước. Người không đến gần để chạm vào họ như Người vẫn làm khi chữa bệnh ; Người cũng không phán lời nào thể hiện quyền năng trên căn bệnh quái ác này. Người ra lệnh tẩy sạch bệnh phong cùi đơn giản bằng cách bảo họ đi đến Đền thờ trình diện các tư tế lúc họ chưa được lành sạch. Đúng là niềm tin của họ bị thử thách! Ông Naaman thời Êlisê phải tắm tới bẩy lần ở sông Giođan mới được khỏi. Mười người được Chúa Giêsu bảo đi trình diện các thầy tư tế, họ không phản đối, họ làm như lời Người truyền, đức tin của họ thật gương mẫu, niềm hy vọng của họ thật lớn lao giúp chúng ta noi theo. Vâng lời Chúa Giêsu, họ lên đường và đang đi thì họ được điều họ xin. Tuy nhiên, chỉ có người Samaria quay trở lại với Chúa Giêsu “lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa” (Lc 17,15).
Sự chữa lành chín người bệnh kia đã không thay đổi được nhận thức của họ về Thiên Chúa và Chúa Giêsu, dĩ nhiên tất cả mười người đều lành sạch, nhưng chỉ có người Samaria mới nghe được Chúa Giêsu nói: “lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi” (Lc 17, 19).
Những người kia không thể giải thích nổi dấu chỉ chữa lành họ là lời mời gọi trả lại Chúa Giêsu là Đấng có quyền trên sự dữ không chỉ thể xác mà cả linh hồn họ. Họ không biết được rằng việc chữa bệnh thể xác là lời hiệu triệu của Thiên Chúa gửi đến cho họ, không nên ở xa, phải tiến lại gần Chúa Giêsu để nhận lãnh nhiều hơn sự khỏe mạnh phần xác là tình yêu và ơn cứu độ mà chỉ mình Người có thể ban tặng cho chúng ta.
Cả mười người phong cùi được sạch, nhưng chỉ có một người đi đến cùng việc chữa trị căn bệnh là được cứu. Người ta có thể nói rằng chín trong số mười người phong cùi cần một người cứu hộ, chỉ có người thứ mười nhận ra Chúa Giêsu là Vị Cứu Tinh. Các nhân viên cứu hộ là y tá, bác sĩ, và các dịch vụ cấp cứu, xe cứu thương thì có nhiều. Nhưng vị cứu tinh chỉ có một là : Chúa Giêsu Kitô Con Thiên Chúa.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mở mắt cho chúng ta nhìn thấy sự vô ơn của đa số nhân loại qua việc chữa lành mười người phong cùi. Dầu Chúa đã chữa lành cả mười người, nhưng chỉ có một người quay trở lại cám ơn Thiên Chúa; mà người đó lại là một người dân ngoại Samaria! Ôi đau đớn và tệ bạc thay! Đến nỗi Chúa phải đau lòng thốt lên, “Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu? Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này” (Lc 17,17-18).
Chúng ta không biến Chúa Giêsu thành “người cấp cứu” như chín người phong cùi trong Tin Mừng hay ông Naaman người Syria, lấy làm khó chịu khi theo quy định của Êlisa đi tắm ở sông Giorđan một điều vô thưởng vô phạt.
Người Samaria cảm thấy rất rõ cách thức chữa bệnh của Chúa Giêsu mà anh là người được hưởng : anh trở lại với Chúa Giêsu, sấp mình dưới chân và “tạ ơn Người” (Lc 17,16).
Anh không trở lại để thanh toán một món nợ : cũng không hành động như Naaman người Syria xin Êlisê nhận lấy phần phúc, và xin dâng lễ toàn thiêu lên Thiên Chúa (x. 2V 5, 14-17). Ơn nhưng không của Thiên Chúa được ban cho viên sĩ quan ngoại giáo, kẻ thù của Israel, giúp chúng ta khám phá ra đơn giản chỉ là lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho dân ngoại. Người Samaria, một thành viên của dân được coi là dị giáo đối với người Do Thái hiểu rằng sự chữa lành anh là một ân sủng của Thiên Chúa ; hay vẫn nói là những người biết ơn, biết phục vụ, món quà của tình yêu. Khi anh trở lại bày tỏ lòng biết ơn và tình yêu của mình với Chúa Giêsu. Chính sự gắn bó cá nhân khiến anh trở thành môn đệ Người.
Ngày nay, đạo đức xã hội đang ngày càng bị xói mòn. Trên mặt báo và xung quanh ta, thấy những câu chuyện đau lòng như con giết cha, hại mẹ, bỏ nhà đi, đánh đuổi cha mẹ, ấy chưa nói tới người coi trời bằng vung, hoặc sống như thể không có Thiên Chúa. Con người hôm nay đang bị lu mờ sự biết ơn trong tâm khảm mình.
Tại sao con người vô ơn? Có nhiều lý do : vì con người không chịu suy nghĩ để nhận ra ơn, họ nghĩ mọi sự trên đời tự nhiên mà có mà không cần suy nghĩ tại sao nó có ; họ giả sử tất cả mọi người phải hành động như vậy: là Thiên Chúa phải ban ơn; là cha mẹ phải nuôi nấng con cái; là thầy phải dạy dỗ học sinh; và họ sợ nếu nhận ra ơn, họ phải trả ơn. Vì thế, họ vô ơn.
Lòng biến ơn không chỉ là đức tính vĩ đại nhất mà còn là khởi nguồn của mọi đức tính tốt đẹp khác. Biết ơn là xứng đáng để tiếp tục được Thiên Chúa ban ơn. Còn biết bao nhiêu ơn lớn lao và trọng thể Chúa dành sẵn cho những người biết ơn. Vô ơn là tự đào hố để vùi chôn cuộc đời mình, là đứng vào hàng ngũ của ma quỉ. Tạ ơn là lời cầu nguyện tốt nhất mà bất cứ ai cũng có thể dùng. Lời tạ ơn thể hiện lòng biết ơn, sự khiêm tốn và hiểu biết. Noi gương người Samaria biết cám ơn người làm ơn cho chúng ta. Amen.
.
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Thỉnh thoảng lại có một vài vụ sập hầm mỏ xảy ra đây đó, khiến nhiều người thợ đang làm việc bị chôn sống dưới những tầng đất sâu.
Khi các lối đi xuống hầm mỏ bị tắc nghẽn hoàn toàn do các tầng đất sụp đổ, những người thợ mỏ như bị chôn vùi dưới huyệt sâu, bóng tối dày đặc bao phủ tứ bề thật khủng khiếp, không có khí trời trong lành để thở, không có lương thực để ăn, không còn nước uống… Họ nằm đó chờ đợi thần chết từ từ tiến đến kết liễu cuộc đời.
Trong hoàn cảnh đó, họ mới nhận ra rằng có được không khí trong lành để thở, có thêm vài lít nước để uống, có bát cơm để ăn, có được chút ánh nắng mặt trời để sưởi ấm và chiếu sáng là những hồng phúc vô cùng lớn lao và họ sẵn sàng đánh đổi tất cả những gì đang có để được những thứ nầy.
Được một chút không khí trong lành, được uống vài ngụm nước, được bát cơm trắng, được ánh sáng mặt trời chiếu soi và sưởi ấm…là những nhu cầu tối cần mà những người lâm nạn khao khát đến điên cuồng, nhưng không dễ gì có được.
Tuy nhiên, những ân huệ đó đang ở trong tầm tay chúng ta cách dồi dào và dư dật. Thiên Chúa cho chúng ta có thừa những gì mà những người lâm nạn trên đây đang ước mơ, khao khát. Thế mà nhiều người không nhận ra đó là những ân huệ vô cùng cao quý, mà chỉ xem như chuyện thường tình.
Nước, không khí, ánh nắng mặt trời… chỉ là một vài trong vô vàn ân huệ Thiên Chúa rộng ban cho mọi người. Đếm sao cho xiết những ân huệ Chúa ban. Vậy mà số người nhận ra ân huệ Chúa ban và tỏ lòng tri ân Thiên Chúa thì rất khan hiếm.
Khi Chúa Giê-su đi qua biên giới Samaria thì gặp mười người phong cùi. Họ là những người mang số phận bi đát. Vì mắc bệnh truyền nhiễm đáng sợ, họ bị xã hội Do-thái thời bấy giờ xua ra khỏi gia đình, làng mạc; họ bị cách ly với tất cả mọi người. Những con người bất hạnh nầy tụ tập với nhau, sống trong các hang hốc ngoài đồi núi, áo quần tả tơi, đầu tóc bù xù, thân thể bốc mùi hôi hám. Họ bị luật buộc phải để đầu trần, đi đâu phải lấy tay che miệng và hô lên báo hiệu cho người qua lại biết mà lánh xa.
Vì thế, họ không được phép lại gần Chúa Giê-su để xin Ngài cứu chữa. Họ đứng đằng xa kêu lên: “Lạy Thầy Giê-su, xin dủ lòng thương chúng tôi.” (Luca 17,12)
Theo luật quy định, nếu người nào mắc bệnh phong mà có cơ duyên lành bệnh, thì phải đến trình diện với các tư tế, để được kiểm tra. Nếu thực sự được lành bệnh thì họ mới được cho hoà nhập với cộng đồng.
Chúa Giê-su bảo mười người phong đến trình diện với các tư tế là vì lý do đó. Họ đã đi trình diện, đã được chứng nhận là khỏi bệnh, nhưng chỉ có một người xứ Samari, người được xem là quân lạc đạo, biết quay trở lại tôn vinh Thiên Chúa và cảm tạ Chúa Giê-su. Còn chín người kia thì không. Chưa được ơn thì van vái khẩn cầu thật tha thiết, được ơn rồi thì nín lặng chẳng biết cám ơn. (Luca 17, 11-19)
***
Trong giao tế hằng ngày, người đời vẫn biết đền ơn đáp nghĩa. Hôm nay anh mời tôi bữa cơm, mai đây thế nào tôi cũng tìm cách mời lại. Nay anh viếng thăm tôi, mai đây tôi sẽ tìm dịp đáp lễ. “Có qua có lại mới toại lòng nhau”, “bánh ít đi, bánh quy lại.” Trong giao tế đời thường, người đời luôn biết xử đẹp với nhau. Vậy mà trong tương quan với Chúa, Chúa ban cho chúng ta vô vàn phúc lộc, chúng ta đã làm gì để đáp lại ân lộc Chúa chưa?
Trong xã hội văn minh, người ta luôn nói tiếng cám ơn mỗi khi được người khác làm ơn cho mình, dù chỉ là những trợ giúp thật nhỏ bé. Hai tiếng cám ơn làm ấm lòng người nghe và làm tăng thêm giá trị của người nói. Người biết nói tiếng cám ơn, khi được người khác làm ơn cho mình, cả trong những điều nhỏ nhặt, được đánh giá là người văn hoá, văn minh.
Khi chúng ta trợ giúp ai đó vài ba lần liên tiếp mà lần nào người nhận cũng quay đi không một lời cám ơn, thì chắc chắn chúng ta không muốn tiếp tục trợ giúp người đó nữa, vì người vô ơn như thế thì không đáng được trợ giúp.
Vậy thì khi chúng ta nhận được vô vàn ơn phúc Thiên Chúa ban cho trong từng phút giây mỗi ngày, mà không biết tạ ơn Thiên Chúa thì chúng ta cũng chẳng xứng đáng để được Ngài ban ơn thêm.
Hình thức tạ ơn đẹp lòng Chúa hơn hết, xứng hợp với hồng ân bao la của Thiên Chúa hơn hết… là dâng Thánh lễ để tạ ơn Ngài. Vậy thì chúng ta hãy siêng năng tham dự Thánh lễ để tạ ơn Thiên Chúa vì vô vàn hông ân Chúa thông ban.
.
LÀM ƠN ĐỪNG NHỚ, CHỊU ƠN CHỚ QUÊN
JM. Lam Thy
Thông thường người ta có tâm lý hay quên hoặc không nhận ra những điều tốt người khác làm cho mình, nhưng lại dễ nhớ những gì tốt đẹp mình làm được cho người khác. Không những thế, khi làm được việc tốt cho ai đó thì lại mong họ nhớ ơn và trả ơn bội hậu cho mình. Nếu họ vô tình quên ơn, thì đâm ra buồn phiền, tức tối, thậm chí còn sẵn sàng lên tiếng chê bai, oán trách. Chính vì thế nên kho tàng thành ngữ Hán Nôm của Việt Nam có câu: “Thi ân bất cầu báo, thọ ân mạc khả vong: 施 恩 不 求 報 , 受 恩 莫 可 忘 ” (làm ơn không cần báo đáp, chịu ơn chớ nên quên) là để trả lời cho cái cảnh “Thói đời được cá quên nơm, Được chim bẻ ná quên ơn sinh thành”. Văn chương bình dân Việt Nam cũng truyền tụng 2 câu thơ các cụ răn dạy con cháu (có lẽ dịch từ thành ngữ nêu trên): “Làm ơn chẳng đợi đền bồi, Chịu ơn thì chớ là người vong ân”; “Làm ơn đừng nhớ làm chi, Chịu ơn nên chớ quên đi, mới là”. Bài đọc I hôm nay (CN XXVIII/TN-C – 2V 5, 14-17) là một minh họa sinh động cho thành ngữ đó:
Na-a-man, tướng chỉ huy quân đội của vua A-ram (Sy-ri). ĐỨC CHÚA đã dùng ông mà ban chiến thắng cho A-ram. Nhưng ông lại mắc bệnh phong hủi. Theo lối suy nghĩ của người Do-thái thời bấy giờ, bệnh phong cùi là một thứ bệnh dơ bẩn, ô uế. Vì thế, người mắc bệnh này chắc chắn bị cô lập. Họ không được sống một cuộc sống bình thường như mọi người, và lẽ đương nhiên bị người cùng thời khinh bỉ. Cuộc sống của họ thường ở ngoại ô, hay nơi vùng sâu vùng xa, nơi ít người qua lại. Nhưng có lẽ khổ tâm hơn cả, chính là họ bị mọi người coi mình như là dấu chỉ bị Thiên Chúa trừng phạt. Những ai mắc bệnh này thì kể như là kẻ bị chúc dữ. Sách Lê-vi cũng đã trình bày sự phân biệt và kỳ thị đối với người bị bệnh phong hủi thời bấy giờ như sau: “Người phong hủi phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu và kêu lên: ‘Ô uế! Ô uế!’ Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó còn ô uế; nó ô uế: nó phải ở riêng ra, chỗ ở của nó là một nơi bên ngoài trại.” (Lv 13, 45-46).
Ở Việt Nam ngày xưa cũng vậy, ai mắc bệnh phong hủi đều bị cách ly khỏi cộng đoàn và cũng chẳng có nơi tập trung bệnh nhân để săn sóc, chữa trị. Làng nào có người mắc bệnh thì ngay lập tức người thân phải dựng một túp lều nơi hẻo lành ngoài đồng không mông quạnh và nhốt người bệnh ở đó, cấm không được vào làng xóm. Nếu cố tính về lại nhà thì sẽ bị đánh đòn nhừ tử. Hương chức trong làng không còn coi những bệnh nhân ấy là người làng nữa; chỉ khi nào hết bệnh, được hương chức công nhận, mới được về làng và sinh hoạt chung với cộng đồng. Những hương chức uy quyền đó, ở bên Do-thái không ai khác hơn là những thầy tư tế, kinh sư, luật sĩ.
Trở lại với bài đọc 1 (2V 5, 14-17) trinh thuật về bệnh phong hủi của tướng Na-a-man: Nghe nói ngôn sứ Ê-li-sa có thể chữa được bệnh, ông Na-a-man dùng cả xe và ngựa đi đến đứng trước cửa nhà ông Ê-li-sa. Ông Ê-li-sa sai sứ giả ra nói với ông: “Ông hãy đi tắm bảy lần trong sông Gio-đan. Da thịt ông sẽ trở lại như trước, và ông sẽ được sạch.” Không tin lời ngôn sứ, ông Na-a-man quay lưng lại và tức tối ra đi. Nhưng các tôi tớ của ông đến gần và nói: “Cha ơi, giả như ngôn sứ bảo cha làm một điều gì khó, chẳng lẽ cha lại không làm? Phương chi ngôn sứ chỉ nói: Ông hãy đi tắm, thì sẽ được sạch!” Nghe lời khuyên, ông Na-a-man xuống dìm mình bảy lần trong sông Gio-đan, theo lời “người của Thiên Chúa” (Ê-li-sa). Da thịt ông lại trở nên như da thịt một trẻ nhỏ, ông đã được sạch. Na-a-man bầy tỏ lòng biết ơn của mình đối với ngôn sứ Ê-li-sa một cách cụ thể bằng lễ vật mà ông tha thiết xin ngôn sứ nhận cho, nhưng ngôn sứ Ê-li-sa thì cương quyết từ chối.
Đó là thời Cựu Ước. Sang đến Tân Ước thì chuyện lại khác: Bài Tin Mừng hôm nay (Lc 17, 11-19) trình thuật chuyện 10 người phong hủi được Đức Giê-su chữa lành. Phép lạ lần này có một đặc điểm khác với những lần khác, đó là Đức Ki-tô không hề đụng tay vào bệnh nhân, Người chỉ nói ngắn gọn: “Hãy đi trình diện với các tư tế”. Làm theo Lời Chúa, đang khi đi tới Đền Thờ để “trinh diện tư tế” thì cả 10 người được sạch bệnh. Một người trong bọn (người Sa-ma-ri.), thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giê-su mà tạ ơn. Mười người phong hủi được chữa lành, nhưng chỉ có một người quay trở lại để cảm ơn Đức Giê-su, mà người ấy lại là dân ngoại. Còn chín người kia vẫn mang danh là người của Chúa mà lại vong ân bội nghĩa một cách ngon lành. Đức Giê-su đã phải chua chát thốt lên: ”Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” (Lc 17, 17-18 ). Một hiện thực có thể nói là chua xót khi chính những người là dân được tuyển chọn, đã biết, đã được nhận là con Thiên Chúa, là dân Chúa chính hiệu, mà rốt cuộc lòng tin còn thua xa những người ngoại giáo. Thế đấy!
Chỉ có một trong 10 người phong hủi được chữa lành bày tỏ lòng biết ơn, một tỉ lệ thật khiêm tốn (1/10). Điều đó cho thấy trong xã hội nhiễu nhương của loài người, cái nhân tâm, cái “nhân chi sơ tính bản thiện” hầu như không còn và chẳng cứ ở thời cổ xưa mà ngay trong thời đại hoàng kim này cũng xảy ra nhan nhản. Điều đáng phàn nàn là chính cái luân thường đạo lý của con người vẫn đề cao lòng biết ơn và coi đó là giềng mối đạo đức căn bản cần phải được lưu truyền và giáo dục con người cho nên hoàn thiện. Vâng, luân lý đã coi lòng biết ơn là một trong những đức tính căn bản của con người. Khi có ai đó giúp đỡ hay hy sinh cho mình, thì người đó là ân nhân của mình và mình có bổn phận đền ơn đáp nghĩa cho dù người thi ân có nhận hay không.
Thông thường thì những người giúp đỡ kẻ khác là do lòng thương người, họ giúp đỡ vì tính nhân đạo chớ không vì mong được trả ơn. Nhưng như thế không có nghĩa là kẻ chịu ơn cứ thoải mái vong ân. Đó chỉ là nói về đạo xử thế giữa con người với nhau, nhưng trở lại với bài Tin Mừng hôm nay, thì cả 10 người đã nhận biết Đức Giê-su là ai mới có thể chữa lành bệnh phong hủi (một căn bệnh bất trị) cho mình. Vì thế, họ mới khẩn khoản cầu xin: “Lạy Thầy Giê-su, xin dủ lòng thương chúng tôi!”. Một cách cụ thể thì họ đã biết người thầy thuốc ở đây chính là Người Thầy Chí Thánh Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật. Vậy mà một dân ngoại (chưa được công nhận là con dân Thiên Chúa) khi biết mình được chữa lành đã bày tỏ lòng biết ơn một cách sâu sắc, trong khi dân được tuyển chọn (vẫn từng hãnh diện mình là “hàng nội” 100%) lại là những kẻ vong ân số 1 (number one)!
Tưởng vẫn không thừa khi cần tái khẳng định: Biết ơn là làm đẹp lòng Thiên Chúa cho dù Người luôn thi ân một cách quảng đại nhưng không, chẳng hề đòi đáp trả. Kinh Thánh cũng luôn đề cao lòng biết ơn (“Tỏ lòng biết ơn là dâng bột tinh hảo, làm việc bố thí là dâng lễ ngợi khen” – Hc 35, 2; “Để tỏ lòng biết ơn, anh em hãy đem cả tâm hồn mà hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca, do Thần Khí linh hứng” – Cl 3:16); “Bởi vì chúng ta được lãnh nhận một vương quốc vững bền không lay chuyển, chúng ta phải biết ơn Thiên Chúa. Với lòng biết ơn đó, chúng ta hãy kính sợ mà phụng thờ Thiên Chúa cho đẹp lòng Người” – Dt 12, 28). Chính Đức Giê-su là một tấm gương chói sáng về lòng biết ơn đối với Chúa Cha. Trong các biến cố như cho La-da-rô chết sống lại, khi làm phép lạ cho bánh, cá hóa nhiều, khi lập bí tích Thánh Thể, và nói chung là trong bất cứ một biến cố nào xẩy đến trong cuộc đời của Người, bất cứ phải quyết định, phải làm công việc gì, Người đều cầu nguyện và dâng lời tạ ơn Chúa Cha.
Đúng như Thánh Gio-an Tẩy Giả nói: “Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban” (Ga 3, 27). Nguồn ân sủng Thiên Chúa ban cho nhân loại là vô cùng vô tận và vì thế, lòng biết ơn của ta đối với Người phải được đặt lên hàng đầu. Mặc dù khi ban ơn cho ta, Thiên Chúa không cần ta đáp lại, nhưng chính vì vậy ta càng phải biết ơn Người nhiều hơn nữa. Vâng, “Chúng ta phải biết ơn Thiên Chúa. Với lòng biết ơn đó, chúng ta hãy kính sợ mà phụng thờ Thiên Chúa cho đẹp lòng Người.” (Dt 12, 28). Cách biết ơn tốt nhất đối với Thiên Chúa là kính sợ và phụng thờ Người. Và cách phụng thờ Người tốt nhất chính là cố gắng trở nên giống Người, nghĩa là sống yêu thương và sẵn sàng hy sinh cho hạnh phúc tha nhân, vì bản chất của Thiên Chúa là Tình Yêu (1Ga 4, 8-16).
Nói đến Tình Yêu là nói đến “cho” và “nhận”. Tình yêu Thiên Chúa luôn luôn và mãi mãi là Tinh yêu “cho đi”, Người không hề đòi đáp trả. Và nếu người được “nhận về” Tình Yêu của Thiên Chúa muốn đáp trả thì hãy làm theo Lời Người dạy: “Anh em đã được cho không thì cũng hãy cho không như vậy” (Mt 10, 8). Quả thật tất cả những gì con người nhận được và cho đi đều xuất phát từ Thiên Chúa chứ không phải của loài người. Từ đó, người Ki-tô hữu hãy khắc ghi trong lòng tất cả những gì mình có trong cuộc đời này đều là do Thiên Chúa ban tặng. Vậy khi cho đi, thì đừng nghĩ đến đáp trả hay nói cách khác là đừng đòi hỏi đối tượng phải biết ơn. Tốt hơn cả là chính chúng ta phải luôn đòi hỏi mình phải có tâm tình biết ơn Thiên Chúa và tha nhân, hơn là đòi hỏi tha nhân phải biết ơn mình. Đó cũng là một hình thức “từ bỏ mình” mà Đức Giê-su mong muốn nơi tất cả những ai theo Người.
Tóm lại, người đời thường vô ơn (bài Tin Mừng hôm nay là một minh hoạ), nhưng với Thiên Chúa thì hoàn toàn khác, vì “Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy.” (Lc 6, 38). Ôi! Lạy Chúa! Xin cho con luôn tỉnh táo cảm nhận được ơn Chúa đã ban cho con trong suốt cuộc đời trần thế này, để con thấu hiểu được hạnh phúc con đang có. Xin cho con luôn có tâm tình biết ơn và cảm tạ Chúa, đồng thời con cũng sẽ luôn luôn biết ơn những người Chúa đã dùng để tuôn đổ ân sủng xuống cho con. Và khi con ý thức được hạnh phúc to lớn mà Chúa vẫn ban cho con, thì xin Chúa cũng hãy giúp con luôn chia sẻ hạnh phúc ấy một cách quảng đại cho mọi người chung quanh con. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.
.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Đọc Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay, tôi cảm thấy thật buồn về thái độ vô ơn của chín người được ơn. Trong số mười người phong hủi được Chúa Giêsu chữa lành, chỉ có một người quay trở lại để tạ ơn. Mười người được ơn, chỉ có một người biết ơn. Tỷ lệ một phần mười. Một tỷ lệ quá thấp. Như vậy, kẻ vô ơn thì thật nhiều, còn người biết ơn có lẽ thật ít. Người biết ơn ấy lại là người ngoại đạo!
Chúa Giêsu hỏi người ngoại giáo: “Không phải tất cả mười người đều được lành sạch cả sao ? còn chín người kia đâu ? không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa mà chỉ có người ngoại bang này ?”. Chúa Giêsu buồn không phải vì bị phụ ơn mà vì trong số mười người chỉ có một người hiểu biết tình trạng thiêng liêng của mình trước mặt Thiên Chúa.
Trong cuốn sách “Nói với chính mình”, Đức Cha Bùi Tuần có viết: Tôi rất thích chó vì chó biết ơn. Dầu chỉ nhận được một cục xương, chó cũng tỏ vẻ biết ơn. Chủ đi đâu về, chó cũng vẫy đuôi mừng rỡ. Trong khi đó, con người vô ơn lại là chuyện bình thường.
Ở đời, người vô ơn, bạc nghĩa và phản phúc được ví von như kẻ “Ăn cháo đái bát” hay nói cách chua chát “Cứu vật, vật trả ân. Cứu nhân, nhân trả oán”. Vô ơn chẳng làm cho người ban ơn thiệt thòi mà chỉ làm cho tâm hồn kẻ chịu ơn thêm chật hẹp. Đúng như John Hery Jowett đã viết: “Sống vô ơn là một cuộc đời trống vắng tình yêu và không cảm xúc. Có hy vọng mà không có tri ân là sự thiếu hụt của một nhận thức tinh tế. Lòng tin mà thiếu niềm tri ân là một lòng tin không có nghị lực. Tất cả những nhân đức bị tách biệt khỏi lòng biết ơn đều trở nên tàn tật khập khiễng trên con đường thiêng liêng”.
Báo “Kiến Thức Ngày Nay” kể câu chuyện. Có hai người cùng đi gặp Thượng đế để xin vào thiên đàng. Thấy họ đói lả, Thượng đế cho mỗi người một suất cơm. Một người nhận suất cơm, cảm động lắm, cứ cám ơn rối rít. Còn người kia nhận phần ăn mà không hề động lòng, cứ làm như Thượng đế có bổn phận phải cho anh ta. Sau đó, Thượng đế chỉ cho người nói “cám ơn” lên thiên đàng. Còn người kia bị từ chối. Kẻ bị từ chối đứng ngoài cổng tỏ vẻ bực tức: Chẳng lẽ chỉ vì tôi quên nói hai chữ “cám ơn” sao?
Thượng đế trả lời: Không phải ngươi quên đâu, mà chỉ vì ngươi không có lòng biết ơn, nên chẳng nói ra được hai chữ cám ơn. Kẻ không biết cám ơn, thì chẳng biết yêu thương người khác, và cũng chẳng được người khác yêu thương.
Anh ta vẫn một mực cãi lại: Chỉ vì hai chữ “cám ơn” mà số phận chênh lệch đến thế ư?
Thượng đế lại đáp :Biết làm sao được. Bởi vì đường lên thiên đàng được trải bằng lòng biết ơn và cửa vào thiên đàng chỉ có chìa khóa cám ơn mới mở được mà thôi. Còn xuống địa ngục thì khỏi cần.
Nhân gian cần cám ơn. Thiên đàng cũng cần cám ơn. Khi nghèo túng cần cám ơn. Giàu có rồi cũng cần cám ơn. Trong cảnh khó khăn cần cám ơn. Và ngay cả Thượng đế cũng cần cám ơn. Mất nước, đất đai sẽ biến thành sa mạc. Trần gian nếu không có tâm tình và hai tiếng “cám ơn” sẽ trở nên khô cằn sỏi đá, còn đáng sợ hơn cả sa mạc cát nóng nữa.
– Lời cám ơn, hoa tươi đẹp điểm tô cuộc sống.
Ngạn ngữ Pháp nói: “Lòng biết ơn là trí nhớ của trái tim”. Lời cám ơn là bông hoa tươi đẹp tô điểm cho cuộc đời. Ngạn ngữ Anh nói: “Cho người có lòng biết ơn là cho vay”. Mỗi cử chỉ yêu thương được ghi dấu bằng lời cám ơn càng làm phong phú tình người.
Người biết nói tiếng cám ơn được đánh giá là người văn hoá, văn minh.Văn hóa cám ơn được thể hiện trong xã hội văn minh. Mọi người luôn nói cám ơn mỗi khi được người khác giúp đỡ. Hai tiếng cám ơn làm ấm lòng người nghe. Hai tiếng cám ơn làm tăng thêm giá trị của người nói.
Chúa Giêsu xem trọng lòng biết ơn cũng là vì ích lợi của kẻ được ơn mà thôi. Người Samari trở lại tạ ơn Chúa đã ban cho anh ơn phần xác. Chúa lại ban thêm cho anh ơn phần hồn nữa: “Ðứng dậy về đi ! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh“. Như thế, cám ơn lại là cơ hội để nhận được thêm ơn. Bài đọc 1 kể chuyện, sau khi được tiên tri Êlisê chữa khỏi bệnh cùi, tướng Naaman người xứ Syria đã trở lại để tạ ơn và tôn vinh Thiên Chúa. Từ đó, ông nhận được niềm tin vào Ngài.
Sống trên đời này mọi người cần biết ơn nhau. Biết ơn là thái độ cần thiết cần phải có đối với người ban ơn. Trong cuộc sống, tiếng “cám ơn”, “xin lỗi” luôn có sẵn trên môi miệng những người có giáo dục, lịch sự, lễ độ. Lòng biết ơn, tiếng cám ơn phát xuất từ tấm lòng chân thành luôn làm vui lòng mọi người. Chính lòng biết ơn Thiên Chúa, biết ơn cha mẹ là nền tảng cho mọi thứ biết ơn khác.
– Có hai thứ chịu ơn: vật chất và tinh thần.
Vật chất thì có thể tính bằng con số, đo lường bằng mức độ như một cây vàng, một ngàn đồng, một sào đất… Tất cả những thứ ấy đều có thể trả được.
Chịu ơn về tinh thần thì khó định nghĩa rõ ràng để trả ơn. Khi một người thất vọng, chán chường, cô đơn, đau khổ, bệnh tật… nếu có được một chút lửa ấm tình thương nâng đỡ sẻ chia, giúp cho người đó ra khỏi đêm tối, tìm lại ánh sáng, niềm vui, bình an, hy vọng, thì lòng biết ơn đó là mãi mãi.Kẻ nghĩ rằng trả ơn là xong, không cần biết ơn nữa, đó là một tâm hồn nghèo nàn.
Thật là dễ nếu cảm ơn những điều tốt đẹp. Nhưng cuộc sống bao giờ cũng tạo cơ hội mới cho mọi người cảm ơn cả những thứ chưa hoàn hảo nữa. Trong Bài đọc II, Thánh Phaolô cho chúng ta thấy, mặc dầu bị thử thách giam cầm tù tội, nhưng thánh nhân vẫn ca tụng Thiên Chúa và trung kiên với Ngài.
Suốt cuộc đời, mỗi con người đều mang ơn nhiều vô kể. Bắt đầu mầm sống trong lòng mẹ, nơi ngôi nhà ấm cúng, thầm kín đầu tiên đó, tôi được mẹ lấy máu thịt nuôi dưỡng lớn lên từng ngày. Tôi vào đời với tiếng khóc như biểu tượng sự bé bỏng yếu đuối và cần đến mọi người. Rồi tôi lớn lên nhờ dòng sữa mẹ, công dưỡng dục của cha, nhờ bao người giáo dục hướng dẫn. Công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy. Vào đời, tôi cần tình yêu, cần tình bạn, cần thông cảm. Cuộc đời được dệt nên bằng những ơn nghĩa nối tiếp nhau. Sự sống là ân ban cao cả nhất, thiêng liêng nhất mà tôi được đón nhận từ Thiên Chúa. Ngài tạo thành tôi và còn ban Con Một của Ngài chịu chết thập giá để cứu chuộc và ban cho tôi Sự Sống Mới.
– Tạ ơn Thiên Chúa
Nói đến trả ơn, chỉ có thể trả ơn người, chứ không bao giờ trả ơn Chúa được. Hôm nay tôi nghèo, có người giúp tôi. Thời gian sau, có thể khá hơn tôi có dịp trả ơn. Nhưng với Chúa thì bao giờ tôi cũng nghèo, cũng túng thiếu. Chúa chẳng cần gì để tôi có thể trả ơn, vì mọi sự đều đến từ Chúa. Tôi chỉ có thể biết ơn Ngài bằng thái độ yêu quý những gì Ngài ban tặng. Tặng vật lớn nhất là sự sống và ơn gọi làm con của Ngài. Bởi đó phải yêu quý sự sống của mình, yêu bản thân mình, yêu con người và yêu cuộc đời. Ghét bỏ chính mình, không yêu người là sự vô ơn đối với người ban tặng. Mọi sự đều đến từ Thiên Chúa. Ngài sắp xếp hoà điệu để con người tham gia vào chương trình đón nhận ân sủng Ngài trao tặng. Những gì tôi đón nhận từ tha nhân cũng là ơn Chúa, nên lòng biết ơn đối với tha nhân cũng chính là lòng biết ơn đối với Chúa. Thánh Phaolô khẳng định rằng: “Tôi có là gì cũng là nhờ ơn Thiên Chúa” (1Cr 15,10), và Thánh nhân nhắc nhở rằng:“Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh” (1Cr 4,7) và ngài mời gọi: “Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh” (1Tx 5,18). Bản thân ngài luôn nêu gương: “Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em về ân huệ Người đã ban cho anh em nơi Ðức Giêsu Kitô” (1Cr 1,4). Đức Maria được Thiên Chúa tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Mẹ đã tạ ơn bằng cuộc viếng thăm bà Êlizabeth, rồi Mẹ cất cao bài ca Magnificat để cảm tạ Chúa Cha đã đoái thương nhìn tới phận hèn tớ nữ: “Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều kỳ diệu” (Lc 1,49).
Mỗi sáng khi vừa thứa dậy, tâm tình đầu tiên là tôi Cám Ơn Chúa, dâng một ngày mới cho Chúa. Cùng cộng đoàn hiệp dâng Thánh Lễ chung lời Tạ Ơn Chúa, một ngày mới tràn đầy bình an và ơn thánh.
Tạ ơn để đón nhận thêm ơn lành cho cuộc sống, lời Kinh Tiền Tụng số IV trong Sách Lễ Rôma: “Thật ra, Chúa không cần chúng con ca tụng, nhưng được tạ ơn Chúa lại là một hồng ân cao cả, vì những lời ca tụng của chúng con chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ muôn đời“.
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn sống tâm tình biết ơn, biết ơn Chúa, biết ơn mọi người để cuộc đời chúng con là bài ca tri ân tình thương của Chúa.Amen.
.
Lm. Jos. DĐH
Cha ông chúng ta cho rằng : đói thì đầu gối phải bò, vì đó là nhu cầu, nên người ta sẽ bớt sĩ diện, hay đỡ ngại ngùng xấu hổ, với hy vọng là được chia sẻ, là được ăn. Người mạnh khỏe mấy ai đi tìm thầy thuốc, nhưng họ kiếm công ăn việc làm, hoặc tìm cho mình một chỗ đứng trong xã hội. Có bệnh vái tứ phương, đó là trường hợp của người có điều kiện vật chất ; đau ốm bệnh tật mà không tiền không của thì đến với ai, khiếu nại ở đâu ? Lời khuyên chung chung có thể là hãy tới nhà giầu mà xin trợ giúp, hãy tới cầu cạnh chính phủ, đến với niềm tin tôn giáo của mình mà thố lộ tâm tư !
Tính thời sự của câu truyện 10 người bệnh phong, “rất ư” là thực tế, ta mong gặp thầy gặp thuốc mỗi khi ốm đau. Lời khuyên còn nước còn tát, ta từng an ủi kẻ thất vọng ; ta nhiều lần thiếu sót quên ơn, dù vẫn tự nhủ đừng để ai oán trách ta : qua cầu rút ván. Gặp Thầy Giêsu trong tình trạng đau bệnh, đến với Đức Giêsu trong thân phận kẻ tiểu nhân, đại nhân, giầu nghèo, thông thái đạo đức, hay tầm thường tội lỗi, đều là diễm phúc, là cơ may để được hạnh phúc.
Mười người mắc bệnh phong, hay vô số người gặp Đức Giêsu trên hành trình Giê-ru-sa-lem, họ chưa đồng lòng kêu lên : lạy Thầy Giêsu xin thương xót tôi, hay cùng bái gối tạ ơn, họ vẫn là đối tượng của lòng Chúa thương xót. Phép lạ chữa lành những người mắc bệnh phong, không phải bởi vô tình họ gặp may, cũng không vì công trạng họ gào thét van xin, mà do bản tính yêu thương của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu. Nếu người đời nói : khôn ngoan hiện ra mặt, què quặt hiện ra chân tay, hẳn cha ông ta cũng dễ dàng phát hiện được thật giả, tốt xấu, hầu chữa trị hoặc từ chối họ.
Chúa Giêsu dư biết tâm tính sâu thẳm nơi 10 người phong, Ngài chữa lành vết thương thể xác, Ngài còn tha thiết mong họ được lành sạch cả tâm hồn. Chúa Giêsu không cần thỏa thuận hay đòi hỏi với những kẻ van xin Ngài, các bạn có tin ta là Chúa không ? Nếu các bạn khỏi bệnh, các bạn sẽ tạ ơn ta bằng thứ quý báu gì ? Dưới mắt người đương thời, việc làm và cách sống của các tư tế, các luật sĩ biệt phái, chưa thể thuyết phục được mấy ai, nhưng Chúa Giêsu vẫn đề nghị họ đi gặp các tư tế theo lề luật quy định.
Trong cảm nhận của 10 người mắc bệnh phong, nỗi đau của họ vơi đi, niềm vui của những người tội nghiệp ấy được trở lại từ khi gặp Đức Giêsu. Mười người mắc bệnh nhận ra “tình thương của Chúa” từ lúc họ lên đường theo lời chỉ dẫn “hãy đi trình diện với tư tế”. Chúng ta hôm nay, thường cho rằng phép lạ sẽ trọn vẹn, nếu 10 người phong biết quay trở lại tạ ơn Đức Giêsu, nhận định đúng sai, chỉ người thi ơn và nhận ơn mới rõ. Giả như có cơ hội nói với thế hệ chúng ta, hẳn 10 người được khỏi bệnh hôm đó sẽ quả quyết : tình thương của Chúa đã đến với chúng tôi từ lúc chúng tôi chưa gặp Ngài.
Công bằng yêu thương giữa con người là sòng phẳng, có đi có lại mới toại lòng nhau, mang ơn đền ơn, mang nợ trả nợ. Tình thương của Chúa, phép lạ của Chúa không hề mâu thuẫn, một người quay trở lại tạ ơn, và 9 người chưa quay trở lại gặp Đức Giêsu, ơn ban vẫn không hề thay đổi. Mười người bệnh được lành sạch, sẽ trở lại với cuộc sống bình thường, trong đó một người hạnh phúc hơn, khi anh nghe rõ : “hãy về đi, niềm tin của anh đã cứu chữa anh”. Con số 1 so với số 9 thì quá chênh lệch, chính tình thương của Chúa, số ít đó, và khắp muôn thế hệ sẽ còn nhận ra Đức Giêsu là Thầy thuốc, chữa trị cả bệnh nan y nơi thể xác và tâm hồn nữa.
Cha mẹ thương con biển hồ lai láng là chính xác với chữ tình, không ai phải bàn cãi. Đất nước, xã hội, thời nào cũng có những người tài đức là điều không ngạc nhiên, quan trọng hơn là làm sao để “tình” được duy trì phát triển, và “tài” mãi được sử dụng. Thời tiết lúc nắng lúc mưa là tự nhiên, làm người đau ốm, mạnh khỏe là quy luật, khó khăn ở chỗ ta phải làm gì để biết sống hòa hợp với quy luật tự nhiên. Không phải tất cả mọi người đều hiểu, và biết trân trọng giá trị của tình cha nghĩa mẹ, không phải cứ có tài có đức là biết “lấy tâm, lấy tình” để dấn thân phục vụ. Không phải chỉ 10 người phong được Chúa Giêsu yêu thương và cho họ được lành sạch, đúng hơn là những đau đớn bệnh tật của chúng ta hôm nay, đều vẫn được cứu chữa cả xác hồn.
Kinh nghiệm ở đời, chúng ta thường thấy : phú quý sinh lễ nghĩa, thành danh, thành tài, rồi sinh ra nhiều “lễ nghĩa” bất thường, dẫn đến sai lầm, mất cả tình nghĩa gia đình lối xóm. Chúa Giêsu chỉ dạy những người bệnh phong đi trình diện các tư tế, Ngài cũng gián tiếp nhắc nhớ chung, đừng ai ảo tưởng nghĩ mình đáng được Chúa thực hiện phép lạ. Đừng suy nghĩ tiêu cực, 10 người mắc bệnh phong gặp Chúa có một lần, kêu xin Chúa thương có một lần, vậy mà họ được lành sạch. Tôi gặp Chúa trong cầu nguyện hàng ngày, tôi ăn ngay ở lành, sống luật Chúa, tại sao chưa thấy Chúa thực hiện phép lạ, ban ơn như ý cho tôi ! Xin tình thương của Chúa tiếp tục hiện diện, biến đổi tâm tính và cách sống đạo của mỗi chúng ta. Amen.
.
Lm Gia-cô-bê Tạ Chúc
Căn bệnh quái ác này đã làm cho chúng ta nhớ về một thi sỹ rất nổi tiếng, trong làng thi ca của Việt Nam: Hàn Mặc tử. Bệnh phong cùi đã làm cho nhà thơ điên phải trải qua rất nhiều những khổ đau, trong thân phận của con người. Bị người đời ruồng rẫy, sống cách ly, và nỗi đau lớn nhất là khi chính người yêu cũng phụ tình:
“ Ngày mai tôi bỏ làm thi sĩ
Em lấy chồng rồi hết ước mơ
Tôi sẽ đi tìm mỏm đá trắng
Ngồi lên để thả cái hồn thơ” ( Lấy Chồng – Hàn Mặc tử)
Dưới thời xã hội Do Thái ngày xưa, người ta cho rằng bệnh tật là do tội lỗi mình gây ra, những người bị chứng phong hủi sống cách ly khỏi cộng đồng. Đi tới đâu cũng phải la lên, để người khác biết mà tránh xa. Họ chịu thiệt thòi cả về thể xác, lẫn tinh thần. Không có ai dám gần gũi và giúp đỡ họ. Khát mong được lành sạch, được sống hòa nhập với mọi người, được tôn trọng và yêu thương, có lẻ là nỗi khát khao cháy bỏng, và mạnh mẽ trào dâng trong lòng họ nhất. Vì thế, mười người phong cùi đã quyết định chạy đến với Đức Giê-su, mặc cho bao ánh mắt khinh khi, miệt thị. Vượt lên trên những số phận hẩm hiu, và đáng thương kia, là niềm tin vào tình thương của Thiên Chúa. Tiếng cầu cứu trong nỗi đau hầu như tuyệt vọng kêu lên, một cách thành khẩn và thiết tha: “ Lạy Thầy Giê-su, xin thương xót chúng tôi” (Lc 17, 13). Sự can đảm cùng với niềm phó thác, cậy trông của mười người phong hủi, đã chạm đến cõi lòng của Đức Giê-su, Đấng luôn chạnh lòng thương với những ai chạy đến với Ngài. Các ngươi hãy đi trình diện với các tư tế. Có thế thôi, hàm ý trong lời đề nghị này, là họ đã được nhậm lời. Bệnh phong cùi biến mất, da dẻ trở nên hồng hào như ông Na-a-man, quan lãnh binh của vua xứ Syria. Chắc chắn họ đã được lành sạch, căn bệnh quái ác từ đây không còn nữa. Họ có thể đi lại giữa mọi người, cùng với những nhịp sống tôn giáo và xã hội, không ai còn xa lánh họ nữa, vì bệnh tật đã được chữa lành. Đức Giê-su chẳng hẹp hòi gì khi ban ơn cứu chữa cho mười người phong cùi. Dẫu rằng, sau khi được Chúa ban ơn, chỉ một người duy nhất, quay trở lại, lớn tiếng ngợi khen, và chúc tụng Thiên Chúa. Một người gốc dân ngoại, xứ Sa-ma-ri-a. Mang ơn Chúa thì nhiều, nhưng tạ ơn và nhớ ơn thì quả là hiếm hoi.
“Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao?” (Lc 17, 17). Một chút trách móc khi thi ân giáng phúc, mà không được đáp đền cho cân xứng. Người Sa-ma-ri-a, sao mà dễ thương quá vậy. Chín người kia chắc do mừng quá, hoặc thấy cũng chẳng cần để trở lại. Sa-ma-ri-a, thấp thoáng đâu đây trong miền ký ức, một ngày kia ngang qua Giê-ri-cô trông thấy một nạn nhân, và đã ân cần yêu thương giúp đỡ.
Lạy chúa Giê-su, xin cho chúng con luôn biết sống tâm tình tạ ơn mỗi phút giây, vì mỗi ngày, những giọt nắng, giọt mưa, và hàng nghìn lít khí trời, cung cấp ô-xy cho chúng con, phải chăng chính là những ơn lành, mà Chúa đã ban tặng, một cách nhưng không cho chúng con. Amen.
.
Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
Noi gương hai “kẻ ngoại” trong phần Phụng vụ Lời Chúa của Chúa nhật tuần này, Chúa nhật XXVIII thường niên, chúng ta hãy sống và thực hành lòng biết ơn Thiên Chúa.
“Kẻ ngoại” thứ nhất: Trích sách Các Vua quyển thứ II, kể chuyện tướng Naaman, người Aram, được tiên tri Êlisa, nhân danh Thiên Chúa chữa lành bệnh cùi. Naaman trở lại tạ ơn Chúa. Trước mặt vị tiên tri, Naaman cất cao lời tuyên xưng danh Chúa:
“Nay tôi biết rằng: trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Israel”. Naaman thực hiện nghĩa cử hết sức ý nghĩa: Trong khi hạ mình trước mặt tiên tri Êlisa, ông xin ít đất để lập bàn thờ, thờ Thiên Chúa: “Xin cho phép tôi tớ ngài đây mang về một số đất vừa sức hai con lừa chở được, vì tôi tớ ngài sẽ không còn dâng lễ toàn thiêu và hy lễ cho thần nào khác ngoài Đức Chúa”.
“Kẻ ngoại” thứ hai: Tin Mừng cho biết, có mười người đến xin Chúa Giêsu chữa lành bệnh cùi. Chín người Dothái giáo, sau khi được lành, không bao giờ trở lại. Họ quên ơn. Chỉ một người Samari tạ ơn Thiên Chúa. Hành động của “kẻ ngoại” đáng ta phục: Anh “quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Chúa Giêsu mà tạ ơn”.
Thực tế có bao nhiêu kẻ “có đạo” sống vô ơn. Có khi kẻ đó chính là bản thân ta. Hãy học cách sống lòng biết ơn Thiên Chúa. Hãy “mắc cỡ” trước tấm gương biết ơn Thiên Chúa của những người ngoài Kitô giáo, những kẻ mà nhiều khi ta xúc phạm, gọi họ là “kẻ ngoại”.
Biết bao nhiêu người trong những “kẻ ngoại”, những kẻ bị ta xúc phạm, hơn ta nhiều về lòng tin, về tình mến dành cho Thiên Chúa. Hãy để tấm gương biết ơn Thiên Chúa của những anh em ngoài Kitô giáo dạy ta bài học SỐNG LÒNG BIẾT ƠN THIÊN CHÚA.
Tôi từng đọc “Năm chiếc bánh và hai con cá” của Đức Hồng y Phanxicô Saviê Nguyễn Văn Thuận. Xin ghi nhận tư tưởng của Đức Hồng y để giúp sống lòng biết ơn Thiên Chúa. Nhờ biết ơn Chúa, ta chấp nhận để Chúa sử dụng mình, nhằm lợi ích cho danh Chúa, cho phần rỗi muôn người, cho chính phần rỗi của mình, như bánh và cá trong tay Chúa vậy:
– Chiếc bánh thứ nhất: Sống phút hiện tại. Sử dụng cách tối đa giây phút mà tôi đang có đây để làm được bất cứ điều gì cho sáng danh Chúa, cho tình yêu Hội Thánh, cho Nước Trời, tôi sẽ thực hành ngay, không chần chừ.
– Chiếc bánh thứ hai: Phân biệt giữa Chúa và việc của Chúa. Chúng ta hay bị cám dỗ lao vào công việc. Lắm lúc mất ăn, mất ngủ vì công việc. Đến khi phải chuyển công tác, ta lại cảm thấy thất vọng, muốn buông xuôi. Sự năng động ấy tốt, nhưng đó không phải chính Chúa. Thậm chí, nhiều lúc lao vào công ciệc, dễ làm ta kiêu ngạo.
Điều quan trọng là ta vâng Thánh ý Chúa. Ta tìm chính Chúa, khám phá Chúa trong mọi hoàn cảnh, mọi thái độ vâng phục của mình. Nếu cần lao vào việc, thì hãy tìm chính Chúa nơi sự miệt mài mà ta có với việc ấy. Chúa muốn ta tìm Chúa chứ không tìm việc của Chúa.
– Chiếc bánh thứ ba: Một bí quyết: Cầu nguyện. Hãy cầu nguyện. Hãy chuyện trò với Chúa để Chúa soi sáng, Chúa dạy dỗ từ trong nội tâm. Cầu nguyện sẽ mang lại niềm bình an vô song, bù đắp tất cả những gì thiếu thốn nơi con người mỏng dòn của ta.
– Chiếc bánh thứ tư: Sức mạnh duy nhất: Phép Thánh Thể. Sống và kết hợp với Thánh Thể Chúa phải là việc đạo đức hàng đầu, không bao giờ quên. Thánh Thể Chúa là sức mạnh huyền diệu giúp ta vững vàng trong mọi nguy biến. Thánh Thể Chúa tăng lực để ta đạp dưới chân mọi đá sỏi gai góc nhất. Thánh Thể là liều thuốc cực mạnh đưa ta đến bến bờ bình an.
– Chiếc bánh thứ năm: Yêu thương đến hiệp nhất. Chúc thư Chúa Giêsu. Như Chúa Giêsu yêu thương hết mọi người, ta yêu thương không phân biệt người ngay, kẻ gian. Như Chúa Giêsu tha thứ cho hết mọi người, ta tha thứ cho cả địch thù, cả kẻ sát hại ta. Như Chúa Giêsu cầu nguyện cho hết mọi người, ta cầu nguyện cho cả người không thiện cảm với mình. Như Chúa Giêsu hiến mình cho hết mọi người, ta không chối từ hy sinh, nếu hy sinh ấy cứu được linh hồn hay sự sống đồng loại quanh mình…
Tình yêu là sợi dây xiết chặt mọi trái tim con người. Tình yêu biến đổi thù hận thành bạn bè. Tình yêu mang lại tươi vui, bình an. Tình yêu làm cho cuộc đời đáng sống, đáng phục vụ.
– Con cá thứ nhất: mối tình đầu của tôi: Mẹ Maria vô nhiễm. Đức Mẹ từng hạnh phúc và đau khổ khi đồng hành cùng thánh ý Chúa suốt đời. Hạnh phúc, đau khổ đan xen suốt đời Đức Mẹ từ khi được chọn làm mẹ của Chúa, trải dài qua các mầu nhiệm Giáng Sinh, Ẩn Dật, Công Khai, Vượt Qua của Chúa, đến tận cùng cuộc đời dương thế của Đức Mẹ.
Đức Mẹ hiểu chúng ta. Trong vui – buồn – sướng – khổ của đời mình, hãy chạy đến cùng Đức Mẹ để được Đức Mẹ đồng hành, sớt chia, cùng hiến dâng và cùng chấp nhận.
– Con cá thứ hai: Tôi chọn Chúa. Chúa là giá trị độc nhất vô nhị của đời tôi. Chỉ có Chúa, chỉ vì Chúa mà tôi yêu; tôi hoạt động; tôi thao thức; tôi suy tư; tôi cảm thông; tôi vui; tôi làm việc; tôi tương quan với mọi người, với thiên nhiên, với muôn vật, với mọi cảnh huống…; tôi cầu nguyện cho tôi, cho con người, cho sự vật…; tôi học tập; tôi rao giảng; tôi truyền giáo… Chúa là khởi và đích của tôi, để trong tất cả, tôi ra đi từ Chúa và quay về với Chúa.
Với hình ảnh “năm chiếc bánh và hai con cá” trong trình thuật Tin Mừng của thánh Gioan (Ga 6,1-15), qua tấm gương và những gợi ý của Đức Hồng y, chúng ta bước theo Chúa Giêsu, dâng chính đời mình trong tay Chúa. Xin Chúa làm cho chúng ta nên ích lợi như Chúa muốn, theo cách Chúa thực hiện trên “năm chiếc bánh và hai con cá”, là chính lòng biết ơn của ta.
Hãy đọc lại Thánh vịnh 32, hòa cùng mạc khải của Chúa, ta cảm tạ Chúa. Thời điểm năm Lòng thương xót, lời Thánh vịnh càng là động lực thúc đẩy ta thường xuyên tạ ơn Chúa.
Người công chính, hãy reo hò mừng Chúa,
kẻ ngay lành, nào cất tiếng ngợi khen.
Tạ ơn Chúa, gieo vạn tiếng đàn cầm,
kính mừng Người, gảy muôn cung đàn sắt.
Nào dâng Chúa một khúc tân ca,
rập tiếng hoan hô, nhã nhạc vang lừng.
Vì lời Chúa phán quả là ngay thẳng,
mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin…
Lòng mỗi người, chính Chúa dựng nên,
việc họ làm, Chúa thông suốt cả…
Chúa để mắt trông nom người kính sợ Chúa,
kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương,
hầu cứu họ khỏi tay thần chết
và nuôi sống trong buổi cơ hàn.
.
NGƯỜI SAMARI TRỞ LẠI TÔN VINH THIÊN CHÚA
Lm Uyen Nguyen
‘Trở lại’ là hành vi ‘đồng thuận’ giữa tinh thần và thể xác. Trở lại thực hiện được nhờ thể xác đón nhận sự hướng dẫn của tinh thần. CN 28 TN C này đề cao hai đương sự có chung hành động trở lại. Một thuộc về quan Naaman, người nước Aram, dân tộc lân bang Do Thái, hai là người Samari, Do Thái lạc giáo. Cả hai có hành vi trở lại vì cùng chung lý lẽ tương đồng: sụ thiện cảm và hạnh ngộ nhờ lãnh nhận ơn cả nghĩa dày: cứu mạng.
Hai nhân sự này có mặt trong hai bài đọc 1 và 3 dành làm nền minh họa cụ thể, chuẩn mực, thời sự cho giáo huấn sống hạnh, sống đức thỏa đáng.
Bài đọc 1, sách 2 Vua. Naaman quan chỉ huy quân đội nước Aram bị bệnh phung, nghe lời khuyên của nhiều người, ông sang Do Thái gặp người của TC là Elisa. Người của Chúa bảo ông ra tắm sông Giordan 7 lần. Ông làm theo và được sạch bệnh. Ông trở lại gặp Elisa bày tỏ lòng biết ơn cứu mạng kèm với lời hứa tuyên tín: ‘Tôi tớ ngài sẽ không còn dâng lễ toàn thiêu và hi lễ cho thần nào khác ngoài Đức Chúa của ngài’ (c.17).
Bài đọc 3, TM Luca, kể về nhóm 10 người phong hủi đồng cảnh ngộ kết thân nhau trên ranh giới giữa Samari và Galilê, 9 người đạo, một người ngoại bang. Tất cả đồng thanh kêu xin ĐGS giúp đỡ. ĐGS ra lệnh họ đi trình diện với các thầy tư tế. Họ tin và ra đi. Dọc đường đã nhận ra khỏi bệnh, người ngoại bang liền quay trở lại gặp ĐGS với cử chỉ đầy khiêm tốn và hết tâm hết trí quy phục ghi đậm ơn cả: ‘Anh ta sắp mình dưới chân ĐGS mà tạ ơn Người’ (c.16).
Bài đọc 2, thư Phaolô gởi Timôthê ra huấn dụ về việc gắn bó với ĐGS trong sự kiên tâm chịu đựng vì Người để cùng được sống và hiển trị với Người: ‘Cùng chết với Người để cùng sống với Người. Trung tín với Người vì Người hằng trung tín’ (c.11-13). Như thế cũng là cách mà Phaolô đã làm: chịu khổ, bị xiềng xích, cam chịu mọi sự vì mưu ích cho những người được TC tuyển chọn để họ cùng đạt tới ơn cứu độ trong ĐKT Giêsu và được hưởng vinh quang muôn đời. Giáo huấn được rút ra từ thái độ của hai nhân sự trở lại điển hình trong ngày CN này: tin và gắn bó với ĐGS.
Trở lại là hành vi chuyển hướng cả trong lẫn ngoài con người. Nói theo Phaolô là hành vi toàn diện: cởi bỏ con người cũ, mặc lấy con người mới. Người ngoại bang Samari ở đây bây giờ là như thế khi đã trở lại sấp mình dưới chân tạ ơn ĐGS và tôn vinh TC. Gã không cùng đi tiếp với 9 người kia để trình diện với các tư tế, vì gã có lý của gã. Cụ thể gã có đến trình diện tư tế thì cũng được ích gì nếu không sinh thêm phiền muộn, vi lẽ gã đang trong tình trạng phân rẽ theo luật cấm tương giao tình cảm giữa người Samari ‘tội lỗi’ và Do Thái truyền thống. Đàng nào thí gã cũng bị người Do Thái liệt vào hàng ngũ bội tín đáng chê trách, hà tất buộc xa tránh. Tuy nhiên đây không là lý tất cả khiến gã trở lại gặp ĐGS. Mà là niềm tin vào Đấng đã vừa ban sinh lực an lành thể xác tạo bước chuyển biến và chuyển hướng tâm hồn, thức đẩy gã bước trở lại không thể cưỡng chống. Đức tin dẫn đến yêu mến. Tạ ơn là con đẻ của một toàn vẹn tâm trí thần phục và cái tâm yêu mến ấy. Từ nay gã khả thi gắn bó đời mình với Đấng gã đã gặp, đã được biến đổi và đã thụ ơn.
‘Còn chín người kia đâu’, ĐGS dặt nghi vấn dành cho những người không biết trở lại, không thấy bóng dáng, ra sao, có ‘sạch bệnh’ (?). Chủ đích phép lạ của ĐGS là mở lối dẫn người đến với Người. Đến với Người không chỉ bằng thân xác mà cả con người: cái tâm, cái trí, tâm hồn tin vào Người. Phải chăng Người đã chẳng nói: ‘Ai tin vào Tôi thì được sống và sống trường sinh’. Đức tin ấy dẫn đến chữa lành thể xác, ban sự sống mới do sứ vụ mà Chúa Cha đã trao; Đấng cứu Sống, Đấng ban sự Sống bất tử, Đấng Cứu Độ. Tất yếu là nhóm 9 người kia không trở lại có nghĩa là dù sinh lực phần xác được chữa lành, tâm hồn vẫn trầm kha trong tê liệt bệnh phong, nghĩa là chưa được thấm ơn ban như người Samari: nhìn nhận ĐGS là Đấng cứu độ.
Với người Samari ngoại bang, tin vào ĐGS không chỉ như một biệt riêng nhưng với gã là đại diện cho toàn thể nhân trần, dù nhận biết hay chưa nhận biết TC. Luca cố ý thế nên đã gắn thêm cặp từ chỉ đặc thù: ‘ngoại bang’ kèm với danh tánh chung gọi là ‘người Samari ngoại bang’, cố ý xác định ơn cứu độ là phổ biến trong ĐGS.
Nhìn lại, bao đời, bệnh phong để lại các di chứng trên thể xác đáng sợ. Tội, dù không thấy, cũng để lại hệ lụy nặng nề cho tâm hồn. Người Do Thái coi bệnh phong ngang với tội nặng, để lại bao tác hại vào sự sống, nhất là sự sống ân sủng, hình ảnh TC. Niềm tin đưa dẫn con người đến với ĐGS là Đấng cứu chữa. Vì thế Phaolô không ngơi nghỉ giáo huấn giáo đoàn liên kết chặt với ĐGS, cả đến Timothê nữa, kiên trì vì Người, chịu đựng vì Người, cùng chết với Người đổi lấy hoàn thiện trong cuộc thi trên thao trường đạt lấy vinh quang phục sinh bất tận.
Lạy TC là Cha chí nhân, chí lành. Xin bồi dưỡng Đức Cậy trong con để có sức thần lực chống lại ba thù mong được hằng tín trung son sắt với Con Chúa, ĐKT Đấng cứu độ, là TC hằng sống, hiển trị…
.
Lm. Trầm Phúc
Chúa Giêsu đang đi về Giêrusalem, mười người phong cùi đón gặp Ngài. Họ đứng xa và kêu lớn tiếng : “ Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi”. Tại sao họ lại đứng xa ? Vì họ là những người mắc bệnh phong cùi. Theo sách Lêvi là Luật Do thái, những người cùi là những người mắc bệnh ô uế không được sống trong cộng đoàn, phải cách ly, không được đến gần người khác. Nếu chẳng may họ đến gần người nào có khi họ bị ném đá. Vì thế chúng ta thấy ở đây có cả một nhóm mười người tật phung sống với nhau.
Họ đứng xa và kêu lớn tiếng, xin Chúa thương xót. Họ không xin gì cả, chỉ xin Chúa thương xót họ thôi. Đây chính là một lời cầu khẩn khiêm tốn. Họ không dám xin gì cả vì họ biết thân phận cùi đày của họ. Thế nhưng Chúa Giêsu lại đáp trả lời cầu xin của họ. Ngài chỉ nói với họ một lời duy nhất : “ Hãy đi trình diện với các tư tế”. Ngài không nói là Ngài sẽ chữa cho họ. Câu nói của Chúa rất bí ẩn. Trình diện với các tư tế có nghĩa là họ được lành sạch rồi. Các tư tế sẽ kiểm chứng là họ đã được lành và họ về nhà mang của lễ đến tạ ơn Chúa và sẽ được hòa nhập lại với cộng đoàn.
Nghe Ngài nói, cả mười người kéo nhau đi. Họ chưa được lành sạch. Có thể Chúa muốn thử thách lòng tin của họ chăng. Nhưng họ đã tin lời Ngài không do dự. Đây là một niềm tin vô điều kiện. Chưa được lành sạch mà làm sao có thể đến với các tư tế để xin kiểm chứng ? Nhưng họ đã tin vào lời Ngài. Niềm tin đó đã được nhậm lời. Trong lúc họ đi trên đường họ đều được lành sạch. Chúng ta không thể tưởng tượng được niềm vui của họ trong lúc thấy cơ thể của họ trở lại nguyên tuyền, không còn một dấu vết của căng bệnh quái ác đã làm cho họ đau khổ bấy lâu nay.
Một người trong bọn họ, khi thấy mình lành sạch đã quay gót trở lại với Chúa Giêsu. Thánh Luca tường thuật lại một cách tỉ mỉ hành động của người nầy. Anh đã làm gì ? Anh lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Một cử chỉ đẹp tuyệt vời ! Chúa Giêsu cũng chú y đến điều nầy : tôn vinh Thiên Chúa.
Đây là một phép lạ, nghĩa là một việc phi thường chứng tỏ quyền năng siêu vời của Thiên Chúa và là một kỳ công. Lịch sử dân Do thái là một chuỗi dài những kỳ công của Thiên Chúa cho dân của Ngài, và dân Chúa luôn tôn vinh Chúa vì đã được hưởng nhờ những hồng ân đó. Các thánh vịnh là những lời tôn vinh cảm tạ mà người Do thái đạo đức luôn đọc để tỏ lòng biết ơn vì Chúa đã đoái thương viếng thăm dân Người.
Anh cùi đã được lành sạch đã tôn vinh Chúa và ca tụng lòng thương của Chúa. Anh sắp mình dưới chân Chúa Giêsu. Đây là một cử chỉ tôn thờ, người nầy nhìn nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế chăng, thánh Luca không nói rõ, nhưng cử chỉ của anh cho chúng ta thấy điều đó. Thánh Luca cũng khéo léo không nói ngay người đó là một người Samari mà sau cùng mới nói. Có lẽ ngài muốn gây ngạc nhiên vì người Samari trước mặt người Do thái là những người lạc đạo và họ khinh thường người Samari. Ngài cũng muốn nhấn mạnh tính cách phổ quát của đức tin. Lòng tin không dành riêng cho một ai mà là cho mọi người. Chúa Giêsu đến không chỉ cho người Do thái mà cho cả toàn thể nhân loại. Ai tin, người đó sẽ được Chúa đón nhận.
Chúa Giêsu nói : “ Không phải cả mười người đều được sạch sao ? Sao không thấy họ trở lại và tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang nầy ?” Chúa Giêsu tỏ ra hơi phiền vì sự vô tình của chín người kia, và họ lại là người Do thái ! chỉ có người ngoại bang nầy !
Chúa Giêsu cũng thường nói đến người Samari. Ngài đã đến ngồi nơi bờ giếng Giacob để gặp người phụ nữ Samari và đã ban cho chị niềm tin. Trong dụ ngôn, Chúa cũng lấy hình ảnh của người Samari nhân hậu để làm gương cho mọi người.
Chúng ta có lẽ cũng giống như chín người phong kia. Khi gặp thử thách, chúng ta thành khẩn kêu xin, nhưng khi được toại nguyện, chúng ta lại không nhớ. Chúa không cần chúng ta biết ơn, nhưng Chúa muốn chúng ta tôn vinh Thiên Chúa. Hằng ngày, chúng ta cầu xin cho danh Cha cả sáng, nhưng đến lúc cần tôn vinh Chúa thì lại lãng quên.
Những người phong cùi kia đã tin Chúa khi Ngài bảo họ đi trình diện với các tư tế, nhưng khi lành sạch rồi, họ chỉ nghĩ đến bản thân họ thôi. Niềm tin của họ vẫn chưa thoát ra được khỏi tính ích kỷ của họ. Họ chỉ nghĩ đến bản thân mà không nhìn thấy tình thương của Chúa.
Chúng ta cũng thế. Chúa đã cứu chúng ta, đã thương chúng ta đến tận cùng, nhưng mấy người đã yêu mến Chúa ? Nghĩ lại mà đau đớn cho Chúa. Chúng ta chỉ gây thương tích cho Chúa thôi. Chúng ta vẫn vô ơn. Hãy nhìn lại. Chúa đã ban biết bao ơn lành cho chúng ta, biết bao nhiêu lần Chúa đã cho chúng ta được lành sạch khỏi bệnh cùi tâm hồn, chúng ta có tôn vinh Chúa không, có nhìn thấy tình yêu của Chúa không ? Biết bao lần Chúa phải đau đớn và nói trong thổn thức : “ Còn những người kia đâu ? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa ?”
Trong mười người được lành sạch, chỉ có một người biết tạ ơn. Và Chúa nói : “Đứng dậy đi ! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”. Chỉ có một người được đứng dậy, nghĩa là được sống lại trong tình yêu Chúa thôi, vì người đó đã tin. Phép lạ chỉ mang lại kết quả khi được lãnh nhận trong niềm tin. Trong các sách Tin Mừng, chúng ta đã thấy nghe Chúa nói nhiều lần với những người được chữa lành : “ Lòng tin của anh đã cứu chữa anh… Anh tin thế nào thì được thể ấy”. Chúng ta chỉ lãnh nhận hồng ân một cách hiệu quả khi chúng ta dám tin. Chúng ta chỉ được chữa lành thực sự khi chúng ta tin vào quyền năng và tình thương của Chúa. Chúng ta có thực sự được chữa lành không ? Biết bao nhiêu lần chúng ta mang đến cho Chúa thân phận cùi đày của chúng ta nơi tòa giải tội và Chúa đã chữa lành, nhưng vì chúng ta kém tin, chúng ta vẫn tiếp tục rơi vào cơn bệnh phong cùi của chúng ta. Maria Mađalêna, ông Giakêu, thánh Âutinh, chân phước Charles de Foucauld đã được chữa lành một lần và đã lành hẳn và cuộc sống của các ngài đã trở thành lời tôn vinh Chúa. Còn chúng ta ?
Chúng ta luôn nhìn thấy phép lạ gần như hằng ngày nơi bí tích Thánh Thể, được ăn lấy Chúa hằng ngày nếu chúng ta muốn, nhưng chúng ta có thực sự yêu mến Chúa như Chúa mong đợi không ? Thánh Thể Chúa vẫn là của ăn và là liều thuốc chữa lành cơn bệnh tâm hồn chúng ta, nhưng hiệu quả như thế nào ? Chúng ta vẫn tiếp tục ăn lấy Chúa mà không nhìn thấy chúng ta đang được hưởng một phép lạ gần như hằng ngày, một phép lạ chữa lành. Chúng ta có tin như thế không ? Chúa Giêsu vẫn tiếp tục công trình của Ngài giữa chúng ta bằng một kỳ công vượt sức tưởng tượng của chúng ta là trở thành một tấm bánh, một dấu hiệu cụ thể của tình yêu vô biên của Ngài. Hãy đến với Chúa, ăn lấy Chúa. Tình Yêu Chúa vẫn còn đó, cụ thể, khiêm tốn nhưng vẫn hữu hiệu nếu chúng ta tin.“ Niềm tin của anh đã cứu lấy anh”.
.
Dã Quỳ
Đang suy tư về bài Tin Mừng “Mười người phong hủi”, Chúa cho tôi thấy những hình ảnh thật đẹp của anh chị em xung quanh. Một chiếc taxi vòng vào bãi đậu xe. Bước ra khỏi xe, chú tài xế tiến thẳng vào cửa nhà nguyện. Tôi thật ngạc nhiên! Ngay lúc ấy, đôi vợ chồng trẻ da màu từ trong nhà nguyện đi ra. Sau một ngày lao nhọc…họ đã đến điểm hẹn với Thầy Giêsu. Hôm sau, vào cử hành giờ kinh trưa, tôi thấy một phụ nữ đang quỳ và băng ghế trước mặt chị là bé trai khoảng 4 tuổi. Hai mẹ con chị đang hiện diện trước Chúa Giêsu. Xế trưa, khi vừa ra khỏi nhà, trông thấy người đàn ông với y phục veston chỉnh tề bước ra khỏi nhà nguyện. Chị đi cùng nói thường thấy ông này vào viếng Chúa mỗi buổi trưa. Ông đi bộ vì có lẽ nơi làm việc gần đây. Chiều, hình ảnh người đàn ông với chiếc áo khoác màu cam sặc sỡ, đang đứng nơi cuối nhà nguyện làm tôi giật mình. Người mang chiếc áo này phải là một công nhân xây dựng hay làm cầu đường. Cuối ngày làm việc, ông đến trước Chúa với nguyên cả đồ bảo hộ lao động và tất cả những gì là chính ông.
Vâng, dọc dài hành trình cuộc sống của chúng ta, chắc chắn sẽ có biết bao khó khăn, sầu khổ… xảy đến. Chúng ta phải làm gì trong những lúc đau khổ vì bệnh tật, thất bại, thiếu thốn … tệ hại ấy? Như mười người phong hủi trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta hãy tha thiết khẩn cầu “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng con!” Chúng ta đừng bao giờ ngừng cầu nguyện, kêu lên cùng Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương, luôn đón chờ, lắng nghe những nỗi khốn cùng, đau đớn của chúng ta và ban muôn phúc lành cho ta. Và lời cầu nguyện Nhân Danh Chúa Giêsu sẽ đụng chạm đến Trái Tim của Thiên Chúa, như lời Chúa Giêsu dạy “Bất cứ điều gì anh em nhân danh Thầy mà xin, thì Thầy sẽ làm, để Chúa Cha được tôn vinh nơi Người Con.”(Ga 14,13) Cuộc đời của mỗi người Kitô hữu là một đời đón nhận muôn ân phúc từ Thiên Chúa. Thế nhưng, thái độ của ta sẽ như thế nào với Chúa khi được yêu thương, ban ơn và che chở giữ gìn? Ta đến với Chúa không chỉ là xin ơn, cầu khấn, nhưng còn phải là trở về gặp Chúa để tôn vinh Chúa, tạ ơn Chúa với tất cả tấm lòng tin yêu.
“Một người trong nhóm họ thấy mình được chữa lành, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa.” Đây là thái độ cốt yếu của kẻ “Được Cứu“. Nhận ra ân huệ cứu mạng mà Chúa Giêsu đã thực hiện cho mình, người Samari tức khắc “Quay Trở Lại” gặp Chúa. Với niềm vui và hạnh phúc tột cùng, anh “Lớn Tiếng Tôn Vinh Thiên Chúa“. Anh không cần phải thi hành luật Môsê nhưng cần kíp thực hiện luật Tin Yêu. Anh nhận biết Quyền Năng của Thiên Chúa nơi Thầy Giêsu. Anh tin Người là Chúa, là Chủ sự sống và vận mạng của anh. Anh yêu mến Người và suy phục Người.
“Anh ta sấp mình dưới chân Chúa Giêsu mà tạ ơn.” Dưới mắt những người Do thái, anh là kẻ tội lỗi vì bệnh phong hủi, và lại là người Samari-thù nghịch của người Do thái. Thế nên, khi kêu xin Thầy Giêsu thương xót, chắc chắn anh Samaritanô đã khẩn cầu với tất cả lòng khiêm tốn, chân thành và tin tưởng. Chúa Giêsu hẳn đã đem lòng yêu mến anh và chữa lành anh, vì trái tim anh thật cao quí, và vì lời cầu xin rất khiêm nhường của anh đã chạm đến lòng thương xót của Chúa. Anh vui mừng đón nhận ơn phúc khỏi bệnh và anh bày tỏ tấm lòng tri ân với Chúa Giêsu. Giờ đây anh “Sấp mình mà tạ ơn“, là cử chỉ khiêm hạ của kẻ Biết Ơn. Cử chỉ sấp mình người ta chỉ làm trước thần minh của họ mà thôi. Nhưng với anh, anh sấp mình trước Thầy Giêsu để tạ ơn vì anh tin nhận Người là Thiên Chúa- Đấng quyền năng chứ không chỉ là một thầy thuốc. Thái độ Biết Ơn và Tạ Ơn của anh là thái độ của người có đức tin. Và rồi anh đã có một cuộc gặp gỡ tiếp xúc thân mật hơn với Đấng ban ân sủng và là nguồn mọi ơn lành.
Đối với mỗi người Kitô hữu, lời Chúa luôn chất vấn ta “Thế chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” Thiên Chúa là Cha và chúng ta là con cái. Chúng ta biết Thiên Chúa, nhưng có Tin nhận Người là Chúa của chúng ta, Đấng yêu thương dựng nên ta, chăm sóc, quan phòng và ban mọi ơn lành hồn xác cho ta không? Từ nguồn sung mãn của Thiên Chúa, chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác như lời thánh Phaolô nói: “Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh?“(1Cr 4,7b) nhưng ta có biết ơn và tạ ơn Người? Chắc chắnThiên Chúa không cần lời tôn vinh và lòng biết ơn của ta cho vinh quang Người, vì “lời ca tụng của chúng ta không thêm gì cho Chúa”, nhưng lòng biết ơn được tỏ ra bằng lời ca ngợi tôn vinh Chúa sẽ mang lại bao ơn phúc cho chúng ta.
Chúng ta cần bày tỏ tấm lòng biết ơn Thiên Chúa bởi vì chính sự sống của ta, sự hiện hữu của ta trên trần gian này, ơn cứu độ và sự sống vĩnh cửu của ta đều đến từ Thiên Chúa. Chúng ta tạ ơn Thiên Chúa là thái độ của người con đã đón nhận tất cả từ Cha và yêu mến tôn thờ Người là Đấng quyền năng cao cả. Chúng ta thường rất hay quên tôn vinh và tạ ơn Chúa mà chỉ biết Xin. Đừng quên Chúa Giêsu đã dạy ta cầu nguyện với lời ca ngợi và tạ ơn trước khi cầu xin. Thánh Phaolô cũng nhắc chúng ta “Trong mọi hoàn cảnh và mọi sự, hãy nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mà cảm tạ Thiên Chúa Cha.”(Ep 5,20)
Đôi khi ta thấy cuộc đời mình đầy khổ ải, gian nan…ta cầu nguyện nhiều mà dường như Chúa chưa nghe thấu và chẳng đáp lời! Thế nhưng, phải chăng chỉ những gì ta xin và muốn nhận được mới là Ơn phúc? Hãy biết nhìn vào chính con người của mình: mạng sống, sự sống, sức khỏe, không khí ta thở, cha mẹ, anh chị em, vợ chồng và con cái, công việc, ngôi nhà….Rất nhiều điều ta đang được, thế mà ta lại chẳng nhận ra và biết ơn! Mỗi sớm mai thức dậy, ta còn sống và sau một ngày làm việc, ta còn mạnh khỏe bình an, chẳng là ơn phúc hay sao? Chúng ta hãy biết nhìn xa hơn, sâu hơn một chút, ta sẽ nhận ra sức mạnh từ đâu ta có để can trường đón nhận và vượt qua những thử thách, khó khăn? Sự sống, niềm tin, tình yêu, sức mạnh, bình an…là những ơn cao trọng mà chỉ Thiên Chúa mới ban cho ta chứ chẳng có người trần nào có thể cho ta được.
Vậy ước mong sao mỗi Kitô hữu hãy luôn có thái độ Biết Ơn Thiên Chúa và bày tỏ lòng biết ơn bằng việc đến gặp gỡ Chúa trong cầu nguyện, trong cử hành Thánh Thể – là Bí tích Tạ Ơn, để ca tụng, tôn thờ Chúa, như thánh Phaolô nhắc “Để tỏ lòng biết ơn, anh em hãy đem cả tâm hồn mà hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca do Thần Khí linh hứng.” (Cl 3,16) Trong mọi hoàn cảnh, chúng ta hãy vững tin vào Chúa, kiên tâm cầu nguyện và khiêm tốn khẩn cầu Chúa như với người Cha. Chắc chắn Chúa sẽ xót thương ban ơn và phù trợ ta nếu ta đặt trọn lòng tín thác nơi Người, vì “Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.” Rồi khi đã gặp Chúa, Chúa cũng bảo ta “đứng dậy, về đi“. Về để tỏ lòng Biết Ơn Chúa bằng yêu thương, chia sẻ, chăm sóc, phục vụ anh chị em, những người đang đau khổ, bệnh tật, bị gạt ra lề xã hội… như ta trước đây! Đó sẽ là Thái độ của tấm lòng Biết Ơn đẹp nhất.
Lay Chúa Giêsu, xin mở mắt con, để con nhận ra biết bao ân huệ Chúa đã và đang ban tràn trên con. Xin mở trái tim con, để con biết ơn Chúa và tôn vinh chúc tụng Chúa từ rạng đông tới lúc chiều tà, trong mọi hoàn cảnh và mọi biến cố cuộc đời con. Amen.
.
KHÔNG PHẢI TẤT CẢ ĐỀU SẠCH CẢ SAO?
Fx. Đỗ Công Minh
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật lại chuyến đi của Đức Giêsu lên Giêrusalem, Người đi qua vùng Samari, một vùng cư ngụ của dân ngọai, mà người Do Thái phân biệt đối xử, xem họ là người tội lỗi. Người vào một làng kia, cùng với đám đông dân chúng ra đón, có mười người phong cùi đứng từ xa chờ sẵn. Sở dĩ như vậy vì xã hội thời ấy coi bệnh phong cùi là lọai bệnh nguy hiểm, người bệnh phải sống cách ly, đi tới đâu phải la lớn hay dùng hiệu lệnh để người khác biết mà tránh. Họ cũng bị xã hội lúc đó coi là người tội lỗi, bị Chúa phạt. Những người phong cùi này kêu lớn tiếng :”Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi “. Đức Giêsu, Đấng không hề phân biệt đối xử, Đấng sẵn sàng đến với hết mọi người mà không lọai trừ ai. Người đến để đem Tin vui đến cho những ai đón nhận Người và cả những người không hay chưa tin vào Người. Nghe được tiếng kêu than của những người bệnh, Người nói với họ” Hãy đi trình diện với các tư tế “, một cách giữ đúng luật LêVi, để được chứng thực rằng người bệnh được sạch. Họ mạnh dạn ra đi và đang khi đi thì họ được ơn chữa lành.
Hẳn rằng đang lúc họ đi trình diện thì phép lạ đã xảy ra. Những người này biết họ đã được Chúa chữa cho họ. Chúa không trực tiếp chạm tay vào, Chúa không dùng thuốc cho họ uống lúc đó, nhưng bằng quyền uy, Chúa cho dân chúng thấy rằng, Người có quyền trên các thần ô uế. Chúa đến trần gian không chỉ rao truyền tin mừng về Chúa Cha, chữa cho con người khỏi những tật bệnh thân xác mà còn giải thóat con người khỏi sự thống trị của ác thần, được giải phóng khỏi vòng nô lệ của tội lỗi. Còn những người phong cùi, họ kêu lên với Chúa từ xa, họ trông cậy vào lòng thương xót của Chúa. Chắc hẳn họ đã nghe biết nhiều về Người, biết Người là đấng nhân lành sẵn sàng đáp ứng lời kêu cầu của họ. Vì phong tục, vì luật lệ không cho phép họ đến gần bên Chúa, nhưng lòng tin của họ đã vượt thắng tất cả. Chỉ một lời của Chúa nhắc, họ mạnh dạn đi trình diện các bậc tư tế. Họ tin rằng khi được Chúa đáp lời, chắc chắn Người sẽ chữa cho họ. Một niềm tin tuyệt đối mà ít người có được.
Gặp được Chúa, được Chúa lắng nghe và biết tin, đón nhận lời Người, quả là một ao ước của con ngày hôm nay. Và còn hơn thế nữa, được Người chữa lành các bệnh tật, được sống lại về phần linh hồn thì còn hạnh phúc nào hơn. Những người phong cùi ngày ấy hẳn vui lắm khi biết mình lành bệnh. Cũng có thể vì vui quá, hạnh phúc quá, sung sướng quá mà khi lành bệnh, chín người chạy vội về nhà, về xóm ngõ, ra chợ đời để reo mừng, để tung hô Thiên Chúa? Họ vô tình quên mất Đức Giêsu, người đã chữa cho họ vẫn đang trong làng đó. Một người trong số đó, trớ trêu thay lại là một người dân ngọai( Samari) trở lại sấp mình dưới chân Chúa mà cảm tạ, tôn vinh Thiên Chúa. Chúa Giêsu nhắc khéo mà cũng là khen ngợi anh về lòng biết ơn “ Không phải cả mười người được sạch sao? Thế chín người kia đâu?Sao không thấy họ trở lại mà tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngọai bang này ? “. Một lời trách nhẹ nhàng, một bài học về nhân bản cho con người : Lòng biết ơn. Chúa không hề nổi giận, không bực bội. Đã có lúc con nghĩ: biết vậy sao Chúa không để cho chín người kia bị bệnh trở lại cho bõ ghét. Một suy nghĩ hết sức nhỏ nhen của con, thật không xứng đáng với lòng rộng lượng, từ bi bao dung của Chúa.
Lạy Chúa,
Ngày hôm nay, với Hội Thánh Chúa nơi trần gian, Năm Thánh Lòng Thương Xót sắp kết thúc, nhưng lại mở ra cho con một giai đọan mới trong cuộc đời sống đạo của con. Lời Chúa nói với người bệnh Phong được chữa lành :”Đứng dậy về đi, lòng tin của con đã cứu chữa con “ sẽ là lời khẳng định cho con.
Chúa mãi mải là đấng nhân lành, chậm bất bình và lại hay xót thương. Xin Người cho con được ơn chữa lành các bệnh tật linh hồn, thân xác của con và của những ai biết chạy đến thưa : “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng con “.
.
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
(11) Trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu đi qua biên giới giữa hai miền Samari và Galilê. (12) Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong cùi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa (13) và kêu lớn tiếng: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi !” (14) Thấy vậy, Đức Giêsu bảo họ: “Hãy đi trình diện với các tư tế”. Đang khi đi thì họ đã được sạch. (15) Một người trong bọn thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. (16) Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn. Anh ta lại là người Samari. (17) Đức Giêsu mới nói: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? (18) Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” (19) Rồi Người nói với anh ta: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”.
– C 11-13: + Trên đường lên Giêrusalem: Đây là lần thứ ba thánh Luca nói tới việc Đức Giêsu đi lên Giêrusalem (Lc 9,51;13,32). Thành Giêrusalem là đích điểm của cuộc hành trình, và cũng là nơi kết thúc cuộc đời Đức Giêsu trước khi Tin mừng được rao giảng đi khắp thế giới (x. Lc 24,47). + Đức Giêsu đi qua biên giới giữa hai miền Samari và Galilê: Để lên Giêrusalem, phải đi ngang qua vùng đồng bằng sông Giođan và thành Giê-ri-khô (x. Lc 18,35). + Người vào một làng kia thì có mười người phong hủi đón gặp Người: Để tránh cho nhiều người khỏi bị lây bệnh, Luật Môsê buộc những người bệnh cùi phải sống cách xa chỗ ở của dân chúng (x. Lc 13,46). + Họ dừng lại đằng xa: Bệnh cùi không những là bệnh đáng sợ về thể xác, mà còn là hình phạt của Đức Chúa dành cho những tội nhân (x. Đnl 28,27). Thời xưa vì khoa học chưa tiến bộ, nên khi thấy một số triệu chứng nghi ngờ trên da bệnh nhân, các tư tế dễ khẳng định họ mắc bệnh này (x. Lv 13,9-17). Người mắc bệnh phong cùi bị buộc phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu và khi thấy có người đến gần thì phải kêu lên “Ô uế! Ô uế!” để người ta biết mà tránh xa (x. Lv 13,45). + “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi”: Chữ Thầy ở đây bày tỏ một lòng tin tưởng sâu xa. Chữ này chỉ thấy trong Tin mừng Luca và do các môn đệ sử dụng (x. Lc 5,5; 8,24.45). Mười người cùi này đã làm trái với quy định Luật pháp, vì họ tin vào tình thương của Đức Giêsu đối với bệnh nhân.
– C 14-16: + “Hãy đi trình diện với các tư tế”: Khi ra lệnh cho các người cùi đi trình diện với các tư tế, Đức Giêsu đã gián tiếp chữa bệnh dựa vào lòng tin của họ, biểu lộ qua thái độ mau mắn vâng lời đến với các tư tế để được chứng nhận khỏi bệnh (x. Lv 13,49). Và quả thật, khi đi đường thì họ đã thấy mình được lành sạch. Qua phép lạ này, Đức Giêsu chứng tỏ Người vừa là Đấng quyền năng, lại vừa trung thành tuân giữ Lề luật (x. Lv 14,2-3). + Lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa: Luca thích ghi nhận thái độ tôn vinh Đức Chúa của người nhận được phép lạ (x. Lc 5,25-26; 7,16). + Anh ta lại là người Samari: Người Do thái khinh thường người Samari. Thế nhưng ở đây chỉ có người Samari là đã quay trở lại tôn vinh Thiên Chúa. Điều này cho thấy Đức Giêsu đến cứu chuộc mọi người không phân biệt Do thái hay dân ngoại.
– C 17-19: + “Không phải cả mười người đều được sạch sao?”: Đức Giêsumuốn cả 10 người đều trở lại. Nhưng chỉ có người Samari. Chín người kia là người Do thái đã không trở lại cám ơn, có lẽ do không có thói quen ấy hoặc do họ nghĩ mình là dân ưu tuyển, có quyền đòi Chúa phải ban ơn và không cần phải cám ơn Người. + “Đứng dậy về đi ! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”: Đức Giêsu tỏ lòng ưu ái đặc biệt đối với người Samari ngoại đạo, vì anh đã bày tỏ lòng biết ơn. Người cho biết: ơn cứu độ được ban cho người ta không căn cứ trên nguồn gốc Do thái hay dân ngoại, nhưng căn cứ trên lòng tin. Một lòng tin thực sự phải được biểu lộ, không những bằng lời xin ơn, mà còn bằng việc cảm tạ tôn vinh Chúa suốt cả cuộc đời.
SỐNG LỜI CHÚA:
1) NGƯỜI ĐỜI THÍCH XIN ƠN HƠN LÀ TẠ ƠN CHÚA:
Có câu chuyện về sự xin ơn và tạ ơn Chúa như sau: một hôm Chúa sai hai thiên thần xuống trần gian làm nhiệm vụ, một vị đi thu gom những lời cầu xin của con người; còn vị kia thì thu nhặt những lời tạ ơn của người đời dâng lên Chúa. Chỉ vài giờ sau, vị thiên thần thu gom lời cầu xin đã trở về với hai va-li lớn chứa đầy những lời cầu xin. Sau nhiều ngày chờ mãi vẫn không thấy thiên thần thứ hai trở lại thiên đàng, Thiên Chúa lại sai một thiên thần khác bay xuống trần gian đi tìm, thì mới hay thiên thần thứ hai đang vất vả bay đi khắp phố phường, làng mạc… vì sau nhiều ngày vị này vẫn chưa gom được bao nhiêu những lời tạ ơn Thiên Chúa!
2) KHÔNG NGỪNG TẠ ƠN CHÚA:
Thi sĩ LA-MÁC-TIN (Lamartine), người Pháp đã kể lại một giai thoại vui như sau: một hôm khi đi ngang qua một cánh rừng, ông chợt nghe thấy một âm thanh lạ: cứ kèm mỗi tiếng búa đập đá chan chát là một câu nói “Tạ ơn Chúa !”. Thi sĩ tò mò đến gần thì thấy một người thợ đá đang miệt mài làm việc. Cứ mỗi lần gõ búa nện vào phiến đá trước mặt là ông lại thốt ra một câu: “Tạ ơn Chúa !”. Thi sĩ nấn ná đến gần hỏi xem ông ta đang làm gì thì được trả lời như sau: ”Tôi đang tạ ơn Chúa !” Ngạc nhiên về lòng tin của một người mà cuộc sống xem ra khá vất vả, thi sĩ liền bảo ông ta: “Giả như bác được giầu có thì tôi hiểu được lý do tại sao bác luôn “Tạ ơn Chúa”. Đàng này Thiên Chúa chỉ nghĩ đến bác có một lần khi cho bác được đầu thai trong lòng mẹ. Sau đó Ngài cũng ban cho bác duy có một cái búa này và không còn ngó ngàng gì tới bác nữa. Vậy tại sao bác lại cứ phải tạ ơn Ngài mãi như thế?”
– Ông nghĩ rằng Chúa chỉ nghĩ đến tôi có một lần thôi sao? Người thợ đá hỏi lại.
– Dĩ nhiên – Lamartine nhắc lại: Chúa chỉ nghĩ đến bác có một lần mà thôi!
Bấy giờ người thợ đập đá liền nói với ông khách:
– Ông nói như vậy cũng phải thôi. Nhưng ông cũng hãy nghĩ lại mà xem: Thiên Chúa vô cùng lớn lao lại thương nghĩ đến một người thợ đá thấp hèn như tôi, và dù Ngài chỉ nghĩ đến tôi một lần duy nhất, lại không đủ để tôi phải tạ ơn Ngài suốt đời hay sao?”.
Nói xong, người thợ đá bỏ mặc ông thi sĩ đứng đó, quay lại tiếp tục vừa đập đá vừa nói: “Tạ ơn Chúa !”; “Tạ ơn Chúa !”; “Tạ ơn Chúa !”…
3) TẠ ƠN CHÚA MỖI NGÀY:
BAI-ƠN ĐEO (Byron Dell) kể lại câu chuyện liên quan đến ông hồi còn nhỏ như sau: “Tôi đã lớn lên tại một nông trại miền Nêbátca (Nebraska). Khi lên 8 tuổi, tôi có nuôi một con ngựa nhỏ tên là Phítki (Frisky). Một buổi sáng kia, khi tôi đang ngồi trên lưng con ngựa thân yêu và tiến đến gần mấy con bò cái đang ăn cỏ, thì bỗng nhiên chú ngựa con tôi đang cưỡi nổi hứng vùng chạy như điên mà tôi không sao ghìm cương cho nó đứng lại được. Mấy lần tôi sắp bị té xuống đất, nhưng may sao tôi đã kịp gượng ngồi lại được trên yên ngựa. Ba tôi cùng mấy người giúp việc vội vàng leo lên mấy con ngựa khác đuổi theo. Sau mấy cây số băng rừng lội suối. Khi bắt kịp tôi, ông nắm chặt giây cương con ngựa của tôi và bắt nó phải dừng lại. Sau đó ba tôi bồng tôi sang ngồi trên yên ngựa với ông và dắt con ngựa của tôi chạy theo phía sau. Nó ngoan ngoãn theo chân con ngựa của chúng tôi quay về nông trại. Tối hôm đó, ba tôi đã theo tôi lên đến tận chỗ tôi nằm ngủ trên gác. Ông yêu cầu tôi cùng ông quì trên sàn cạnh giường để tạ ơn Chúa vì Chúa đã cho tôi được an toàn sau sự cố ban chiều. Sau đó ông đã dâng một lời nguyện tự phát để cảm tạ Chúa thay cho tôi”.
Biến cố ấy xảy ra cách đây đã 55 năm. Thế mà BaiƠn vẫn không bao giờ quên được. Nó làm cho ông cảm thấy xúc động và cảm phục ba rất nhiều. Nhất là biến cố đó đã dạy cho BaiƠn bài học về cách thể hiện lòng biết ơn đối với Chúa. Từ ngày ấy, mỗi tối trước khi đi ngủ, ông đều quì bên giường thưa với Chúa một lời cầu nguyện tự phát để cám ơn Người đã ban các ơn lành hồn xác cho ông trong một ngày qua, và cầu xin Chúa thương tiếp tục gìn giữ ông qua đêm bình an.
4) PHẢI BIẾT TẠ ƠN CHÚA:
David đang đi đường thì gặp một người ăn xin. Anh cho người ấy một số tiền rồi tiếp tục đi, lòng cảm thấy sung sướng. Nhưng chỉ một phút sau, anh lại cảm thấy bực bội khi chợt nhớ hồi nãy người ăn xin kia đã không nói lời cám ơn anh. Anh đem chuyện ấy kể cho một Rabbi nghe. Vị Rabbi chăm chú lắng nghe, rồi hỏi :
– Khi anh cho tiền người ăn xin, anh cảm thấy thế nào?
– Con thấy rất vui.
– Thế đó không phải là phần thưởng cho con rồi đó sao?
– Nhưng con nghĩ rằng dù sao thì người ấy phải nói cám ơn con mới phải.
– Thế sao con đã không cám ơn Chúa?
– Tại sao con lại phải cám ơn Chúa?
– Vì Chúa đã ban cho con cơ hội làm dụng cụ để Chúa có thể thực hiện tình thương của Ngài cho một con người khốn khổ. (FM)
5) BÁC NÔNG DÂN TẠ ƠN CHÚA:
Một ngày kia, có hai thầy trò đi dạo trên con đường miền quê. Đang đi, họ chợt nhìn thấy một đôi giày cũ kỹ bên vệ đường. Đó là đôi giày của người nông dân nghèo khó đang làm ở thửa ruộng bên cạnh. Cậu học trò tinh nghịch định giấu đôi giày đi để trêu chọc người nông dân, nhưng thầy giáo đã ngăn cản cậu: “Con đừng tìm niềm vui qua việc trêu chọc một con người nghèo khổ như thế, nhưng hãy tìm niềm vui khác lớn hơn: con hãy bỏ vào mỗi chiếc giày một đồng tiền xem bác nông dân phản ứng ra sao?”. Sau khi bỏ tiền vào đôi giày, hai thầy trò trốn vào một bụi cây quan sát xem người nông dân xử sự thế nào. Khi xỏ chân vào đôi giày để về nhà, người nông dân phát hiện ra hai đồng tiền. Ông ta rất ngạc nhiên nhìn ra chung quanh nhưng không thấy ai, ông lại ngắm nhìn hai đồng tiền thật lâu rồi mới bỏ vào túi. Với sự xúc động tràn ngập trong lòng, người nông dân quỳ xuống, ngước mặt lên trời dâng lời tạ ơn Thiên Chúa đã dùng một bàn tay vô hình nào đó, đem đến cho ông một món quà thật đúng lúc trong lúc gia đình ông đang gặp hoàn cảnh khốn khó.
Biết ơn là thái độ của một người có giáo dục và nhân cách. Người xưa đã dạy về lòng hiếu thảo biết ơn như sau: ”Uống nước nhớ nguồn; Làm con phải hiếu; Công cha như núi Thái Sơn; Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”… Về phạm vi đức tin, người tín hữu cần ý thức về công ơn lớn lao của Thiên Chúa đã làm cho mình, để từ đó tỏ lòng biết ơn Ngài như con thảo đối với cha hiền. Vậy tại sao chúng ta phải biết ơn? Ích lợi của sự biết ơn ra sao? Mỗi người chúng ta phải làm gì để tỏ lòng biết ơn Thiên Chúa và tha nhân?
1) Những lý do của lòng biết ơn :
-Vì biết ơn là thái độ phù hợp với đạo làm người: Khi chịu ơn ai chúng ta phải tỏ lòng biết ơn họ mới hợp đạo lý như người ta thường nói: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Kẻ không biết ơn sẽ bị khinh dể là phường “vô ơn bạc nghĩa”; “Ăn cháo đá bát”; “Vắt chanh bỏ vỏ”, “Qua cầu rút ván”…
-Vì biết ơn là biểu hiện một người có giáo dục, có văn hóa: Một người biết nói lời “cám ơn” cho thấy một nhân cách tốt, có trình độ văn hóa cao và sẽ được mọi người kính nể như người xưa dạy như sau: “Công ai một chút chớ quên. Phiền ai một chút để bên cạnh lòng”.
2) Ích lợi của lòng biết ơn:
-“Lời nói không mất tiên mua; Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”: Thái độ biết ơn sẽ gây được thiện cảm của người làm ơn và chắc sẽ được họ tiếp tục giúp đỡ ta sau này.
-Đặc biệt nếu cha mẹ, thầy cô, thủ trưởng… mà biết nói lời “cám ơn” với người dưới quyền như con cái, học trò, thuộc cấp… chắc sẽ làm cho họ vui và kể lại cho nhiều người khác biết về phẩm chất tốt đẹp của chúng ta.
-Tuy nhiên mỗi người cần tránh thái độ “công thần”, nghĩa là giúp ai được điều gì thì thích kể công để khoe khoang và đòi người chịu ơn phải luôn nhớ đền ơn cho mình. Trái lại chúng ta nên coi việc giúp đỡ tha nhân là một nhiệm vụ phải làm mà không cần trả ơn, thì người chịu ơn sẽ lại càng cảm phục chúng ta hơn, và sau này chính Chúa sẽ trả ơn cho chúng ta trước tòa phán xét như lời Chúa Giêsu: “Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17,10).
3) phải năng tạ ơn Thiên Chúa và tha nhân:
-Ngay từ thời Cựu ước, tác giả thánh vịnh đã dạy loài người phải biết tạ ơn Thiên Chúa như sau: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118,1). Thời kỳ Xuất hành, dân Ítraen cũng đã bắt đầu truyền thống tạ ơn Đức Chúa qua việc dâng lễ đầu mùa lên cho Ngài (Đnl 26,1-10).
-Đến thời Tân ước, Đức Giêsu nhiều lần nêu gương cầu nguyện tạ ơn Chúa Cha. Chẳng hạn: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn…” (Mt 11,25-26). Đức Giêsu cũng đòi những ai nhận được ơn phải biết cám ơn Thiên Chúa như sau: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” (Lc 17,17-18).
-Hội Thánh Công Giáo cũng biểu lộ lòng biết ơn Thiên Chúa bằng việc năng cử hành bí tích Thánh Thể (x. Lc 22,19) được gọi là Thánh Lễ Tạ Ơn. Trong thánh lễ, Hội Thánh dâng lời tạ ơn Thiên Chúa bằng việc dâng bánh rượu là kết quả của lao công để sẽ biến thành Mình Máu thánh Chúa Kitô. Sau đó, nhờ lễ vật rất cao trọng này, các tín hữu sẽ dâng lên Chúa Ba Ngôi tâm tình cảm tạ và xin ơn.
-Cuộc sống chúng ta là một chuỗi những hồng ân của Chúa: Có những ơn do Thiên Chúa trực tiếp ban và cũng có những ơn Chúa nhờ tay người khác ban cho chúng ta. Vậy chúng ta cần làm gì khi nhận được những món quà ấy? Thánh Bênađô đã dạy: ”Tôi xin anh em điều này là hãy tránh thói xấu lớn lao là sự vô ơn. Chớ gì đời chúng ta là một lời cám ơn liên lỉ… Tuy nhiên chúng ta đừng chỉ nói lời cám ơn suông, nhưng hãy biết sử dụng những ơn lành Chúa ban. Đó là điều Chúa đòi hỏi chúng ta”.
-Phải biết ơn bằng hành động: Bài đọc I trong thánh lễ hôm nay cho thấy lòng biết ơn phải được biểu lộ bằng hành động noi gương viên tướng Naaman người xứ Aram (x. 2 V 5,14-17).
-Phải vui vẻ đón nhận mọi điều xảy đến: Cám ơn Chúa vì những điều may lành như ý mình thì dễ, nhưng cám ơn về những điều rủi ro trái ý lại không dễ chút nào. Vì thế chúng ta cần tập cám ơn Chúa về mọi điều xảy đến cho ta: vui cũng như buồn, thành công cũng như thất bại, an lành khỏe mạnh cũng như rủi ro tật bệnh… Vì những điều đó đều hữu ích cho phần rỗi của chúng ta, như thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã quả quyết: “Tất cả đều là hồng ân”.
-Cần tập thành thói quen cám ơn: Cha mẹ công giáo cần tập cho con cái biết cám ơn những người làm ơn cho mình ngay từ khi chúng bập bẹ nói. Mỗi tối, chúng ta cũng hãy nhớ lại những ơn tinh thần vật chất nhận được trong ngày, rồi dâng lời tạ ơn Chúa như thánh Phaolô đã viết: “Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em, về ân huệ Người đã ban cho anh em nơi Đức Kitô Giêsu” (1 Cr 1,4).
– LẠY CHÚA GIÊSU, Thánh Inhaxiô đã nói: “Tội lớn nhất nơi con người là tội vô ơn”. Hôm nay, Chúa dạy chúng con bài học phải biết cám ơn Chúa. Cám ơn Chúa như người cùi Samari ngoại giáo biết quay trở lại tôn vinh Thiên Chúa sau khi đã được chữa lành. Con phải cám ơn Chúa vì sự cám ơn đó mang lại ích lợi cho chính con, như lời kinh tiền tụng trong Thánh lễ: “Việc tạ ơn không thêm gì cho Chúa, nhưng mang lại lợi ích cho phần rỗi đời đời của con”.
– LẠY CHÚA. Đời con được dệt bằng biết bao hồng ân của Chúa mà nhiều khi con chưa ý thức được. Có lẽ chẳng khi nào con tạ ơn vì đã được làm người và được làm con cái Chúa. Có lẽ chưa khi nào con tạ ơn vì Chúa đã ban khí trời để con thở, cơm ăn nước uống cho con, vũ trụ thiên nhiên tươi đẹp để giúp con được sống vui tươi. Cũng chưa bao giờ con tạ ơn Chúa vì con đã được Chúa ban mạnh khỏe, thân xác lành lặn, tâm hồn bình an… Quả thực, đó là những ơn to lớn mà con lại cho là chuyện đương nhiên, nên con đã tỏ ra vô ơn với Chúa. Từ nay xin Chúa cho con nhận ra những ơn lành Chúa đã thương ban và không ngừng dâng lời cảm tạ tri ân Chúa. Tri ân bằng lời ca tụng Chúa và nhất là bằng một cuộc sống luôn vâng theo thánh ý Chúa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.
Lm. Antôn
Hôm nay, Chúa nhật, ngày 13 tháng 10, 2019, kỷ niệm 102 năm Đức Mẹ hiện ra lần cuối tại Fatima, Bồ Đào Nha, với ba trẻ chăn chiên là Francisco, Jancinta và Lucia. Vào ngày 13 tháng 10 năm 1917, ba em với đám đông dân chúng, đã chứng kiến lần hiện ra cuối cùng của Đức Mẹ. Mặc dầu chỉ có ba em được nhìn thấy Đức Mẹ hiện ra, còn tất cả những người hiện diện chỉ nhìn thấy những vòng tròn lửa xoay chung quanh như mặt trời, tưởng chừng như sà xuống thiêu đốt trái đất, làm cho mọi người cảm thấy kinh hoàng.
Trong những lần hiện ra với 3 em, từ tháng 5 tới tháng 10, Đức Maria đã trao cho các em ba mệnh lệnh, mà chúng ta gọi là Mênh Lệnh Fatima, đó là: Cải thiện đời sống; Tôn sùng Mẫu tâm và Năng lần hạt Mân côi. Vì thế đặc biệt trong 10, tháng Mân côi này, tôi kêu gọi mọi người, mọi gia đình trong giáo xứ cố gắng thi hành Ba Mệnh lệnh của Mẹ Maria, để xin Mẹ tiếp tục thánh hóa, dẫn chúng ta đến gần và yêu mến Chúa Giêsu, Con của Mẹ hơn. Đồng thời chúng ta dâng lời cảm tạ tri ân Mẹ, vì Mẹ đã luôn luôn gần gũi, che chở và cầu bầu cho chúng ta. Chúng ta tin rằng những ai thành tâm đến với Mẹ sẽ không bao giờ về không. Xin Mẹ luôn giúp chúng ta biết noi gương Mẹ, sống “Xin Vâng” theo thánh ý, Lời Chúa dạy để được Chúa ban ơn cho chúng ta trong cuộc hành trình dương thế với bao nhiêu nguy hiểm, khó khăn và thử thách.
Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta về sự nhận ơn và biết ơn. Bài đọc 1 trích sách các Vua quyển thứ hai ghi lại câu chuyện tướng Na-a-man, người ngoại đạo, được ngôn sứ Êlisa chữa khỏi bệnh phong cùi. Phản ứng trước hết của ông là dâng lễ vật tạ ơn Thiên Chúa. Nhưng khi ngôn sứ Êlisa từ chối không nhận lễ vật, thì tướng Na-a-man mới xin chở một ít đất ở nơi ông được chữa khỏi bệnh đem về xứ sở để luôn nhắc nhở cho ông về lòng biết ơn đối với Thiên Chúa của người Ís-ra-en. Ông còn hứa là từ nay ông sẽ không dâng hy lễ toàn thiêu cho thần nào khác, ngoài Thiên Chúa.
Trong bài Tin mừng hôm nay chúng ta nghe câu truyện Chúa Giê-su chữa 10 người bị bệnh phong cùi được lành sạch. Nhưng một chi tiết đánh động chúng ta nhất là trong số 10 người cùi đã được Chúa chữa khỏi, chỉ có một người biết quay lại tạ ơn Người, mà người này lại là một người Samaria ngoại đạo.
Có câu chuyện về một người đàn ông đi câu cá vào một buổi tối trên một con thuyền nhỏ. Đêm đã khuya và một vật đều yên tĩnh. Gần đó có một du thuyền, trên thuyền có một người đàn ông đang uống rượu, và hình như đã say, cho nên thỉnh thoảng la to lên những câu giận dữ, tục tĩu. Người câu cá không màng tới ông ta chỉ chú tới việc câu cá của mình.
Thình lình ông ta nghe một tiếng động mạnh trên mặt nước. Ông ngoảnh mặt lại nhìn, thì dưới ánh trăng, thấy người đàn ông trên du thuyền đã rớt xuống biển và đang chới với. Ông vội vã cởi quần áo ngoài, nhảy xuống nước và bơi đến người đàn ông. Sau khi đã dùng hết sức mình và kéo được ông lên thuyền thì nhận thấy hơi thở của ông kia thoi thóp. Thất kinh, người câu cá làm hô hấp nhân tạo để cứu ông. Khi nhận thấy người đàn ông đã tỉnh, người câu cá liền đặt ông vào gường và trở về chiếc thuyền nhỏ của mình.
Sáng sớm hôm sau, người câu cá trở lại chiếc du thuyền để hỏi thăm người đàn ông trên du thuyền có cần gì không. Người đàn ông trên du thuyền tỏ vẻ tức giận và chửi bới om sòm. Người câu cá nhắc cho ông biết là đêm qua đã liều mạng cứu ông khỏi chết đuối. Thay vì cám ơn, ông đã quát tháo và ra lệnh đuổi người câu cá đi xa ra chiếc du thuyền của mình.
Người câu cá bơi chiếc thuyền nhỏ của mình về mắt nhòa lệ. Ông ta không tin cái gì vừa xảy ra trước mắt. Do đó ông ta ngước mắt lên trời và thưa với Chúa: “Lạy Chúa, bây giờ con mới hiểu tâm tư của Chúa như thế nào. Chúa đã hy sinh chính thân xác để cứu chúng con. Nhưng giống như người đàn ông trên du thuyền, thay vì cảm tạ tri ân, chúng con đã vô ơn với Chúa.”
Thế thì, nếu chúng ta thành tâm nhìn vào đời sống hôm nay và tự hỏi: “Chúng ta có vô ơn đối với Chúa như người đàn ông trên du thuyền không?” “Chúng ta tạ ơn Chúa bằng cách nào?’ Tôi nghĩ rằng chúng ta không phải là những người vô ơn với Chúa. Có lẽ là vì chúng ta quá bận rộn, và đôi khi bận rộn với những công việc không cần thiết, cho nên quyên đi hay xao lãng tạ ơn Chúa hàng ngày về bao nhiêu ơn lành Chúa đã thương ban.
Trong cuộc sống, chúng ta muốn người nhận ơn của chúng ta phải tỏ lòng biết ơn chúng ta, thế nhưng khi nhận ơn người khác chúng ta lại ít hay miễn cưỡng tỏ lòng biết ơn. Điều này bộc lộ khuynh hướng ích kỷ của chúng ta, chúng ta làm ơn là để được biết ơn. Nói cách khác, chúng ta làm vì mình chứ không vì người khác. Chúa Giêsu thì ngược lại. Chúa muốn chúng ta tỏ lòng biết ơn Người không phải vì Người, mà vì ích lợi của chính chúng ta, bởi vì khi thể hiện lòng biết ơn, chúng ta sẽ ý thức hơn về tình yêu thương của Chúa, chúng ta nhận thức rõ hơn về thân phận nghèo hèn của mình, điều đó sẽ giúp chúng ta gắn bó mật thiết và nương tựa vào Chúa nhiều hơn.
Thánh lễ còn được gọi bằng một tên khác đúng với ý nghĩa hơn, đó là Lễ Tạ Ơn. Nhiều người hiểu lầm tham dự Thánh lễ là để xin ơn. Mỗi khi tham dự Thánh lễ, chúng ta tạ ơn Chúa vì những ơn lành Người đã ban cho chúng ta, đặc biệt các ơn Người ban qua Con Một của Người là Chúa Giêsu Kitô. Nếu chúng ta thành tâm và sốt sắng tham dự Thánh lễ, tôi tin Chúa sẽ nhận tấm lòng tạ ơn của chúng ta và ban ơn cho chúng ta.
Xin Chúa giúp chúng ta nhận ra tình yêu thương và những ơn lành hồn xác Chúa ban trong cuộc sống. Luôn tâm niệm là tất cả những gì chúng ta đang có là do Thiên Chúa và có đời sống tạ ơn, ngợi khen, ca tụng Chúa qua những việc hy sinh, bác ái và quảng đại để làm sáng danh Chúa.
.
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn