Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa – năm B

Thứ năm - 07/01/2021 20:12

Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa – năm B

Lời Chúa: Is 42,1-4.6-7; Cv 10,34-38; Mc 1,7-11

***************

Mục lục

1. Một kỷ nguyên mới  (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Tình liên đới trong đại dịch  (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)

3. Cha hài lòng về Con  (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)

4. Con yêu dấu  (Bông Hồng Nhỏ, Học viện MTG.Thủ Đức)

5. Để nên giống Người (Anna Cỏ May,  Học viện MTG.Thủ Đức)

6. Nhìn về phép rửa  (Thiên San, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

7. Rửa đời  (Trầm Thiên Thu)

8. Phép rửa tái sinh  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

9. Tầm quan trọng của Bí Tích Rửa Tội  (Lm. Trần Bình Trọng)

10. Cùng chết và Phục sinh với Đức Giêsu Kitô trong Phép Rửa (Lm. Phêrô Lê Văn Chính)

11. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa (Lm.Inhaxio Hồ Thông)

12. Chúa Chịu Phép Rửa vì tội lỗi muôn dân (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

13. Dòng sông truyền thống đức tin  (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)

14. Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa.  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

 

Mục lục

1. Thời đại mới  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Phép rửa khiêm nhường (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa  (Lm. Antôn)

4. Được tẩy rửa   (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc) 

5. Chúa Giêsu chịu phép rửa  (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)

6. Liên đới tội nhân  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

7. Dòng nước và dòng đời (Trầm Thiên Thu)

8. Thời đại ân sủng  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

9. Phép rửa: biến cố Hiển Linh vĩ đại  (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

10. Chúa Giêsu chịu phép rửa, cả trần gian được thánh hóa (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

11. Suy niệm lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa  (Lm. Anthony Trung Thành)

12. Quý tử của thánh phụ   (Trầm Thiên Thu)

13. Sống hiền hòa và khiêm hạ noi gương Đức Giêsu  (Lm. Đan Vinh)

 

MỘT KỶ NGUYÊN MỚI

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Chúa nhật tuần trước, chúng ta đã cử hành lễ Hiển Linh, Chúa Giêsu được giới thiệu cho muôn dân mà đại diện là ba nhà đạo sĩ đến từ phương Đông. Hôm nay, Phụng vụ giới thiệu với chúng ta một cuộc “thần hiện” khác qua việc Chúa Giêsu chịu phép rửa. Sự kiện này được trình bày như một nghi thức phong vương long trọng. Qua nghi thức này, chính Chúa Cha giới thiệu với nhân loại về Chúa Con và sứ mạng của Người. Chúa Thánh Thần cũng xuất hiện dưới hình chim bồ câu và đậu trên Chúa Giêsu.

Dưới ngòi bút của thánh sử Maccô, Chúa Giêsu được diễn tả như một Môisen mới. Nếu ông Môisen trong Cựu Ước đã dẫn Dân Thánh đi qua biển đỏ, thì nay, Chúa Giêsu cũng dẫn nhân loại vượt qua tội lỗi đến đạt tới sự thánh thiện. Cách nói “vừa lên khỏi nước” gắn liền với nghi thức thanh tẩy Chúa Giêsu đã lãnh nhận từ tay ông Gioan Tẩy giả, phần nào muốn nhắc tới cuộc vượt qua biển đỏ của dân Do Thái trong lịch sử.

Chi tiết kể lại việc “Chúa Giêsu thấy tầng trời mở ra” có ý nghĩa tượng trưng rất sâu sắc: theo truyền thống Do Thái, cửa trời đã đóng lại sau những vị ngôn sứ cuối cùng (Agê, Giacaria, Malakia) ở thế kỷ thứ V trước Công nguyên. Mối liên hệ giữa Thiên Chúa và con người cũng vì thế mà gián đoạn. Trước khi Chúa Giêsu đến trần gian, dường như hoạt động của Thần Khí đã bị ngưng lại. Với Chúa Giêsu, mọi sự đã thay đổi. Kỷ nguyên mới đã khai mào. Việc các tầng trời mở ra (nguyên văn tiếng Hy lạp: trời xé toạc ra) chứng minh cho thấy mối liên hệ giữa Thiên Chúa và con người không còn ngăn cách nữa, mà được nối lại. Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giêsu như dấu hiệu của thời cứu rỗi và của cuộc sáng tạo mới. Hình ảnh Chúa Thánh Thần ngự xuống nơi Chúa Giêsu dường như phác họa lại thời hoang sơ, trước khi Thiên Chúa thực hiện công trình sáng tạo của Người: “Thần Khí Chúa bay là là trên vực thẳm hỗn mang”  (St 1,2). Việc Chúa Thánh Thần dưới hình dạng chim bồ câu giúp chúng ta liên tưởng đến con chim ngậm cành ôliu sau trận Đại hồng thủy trong Cựu Ước. Thần Khí Chúa đến để loan báo cho nhân loại biết thời gian trừng phạt của Chúa đã mãn (x. St 8,8-11). Cũng giống như nước hồng thủy đã rút và một nhân loại mới tinh tuyền thánh thiện đã khởi đầu, thời kỳ cứu độ trong ân sủng đã khai mào trong Chúa Giêsu và nhờ Chúa Giêsu. Vì vậy, từ thời các Giáo phụ, trận lụt Đại hồng thủy, cũnng như cuộc vượt qua Biển Đỏ, đã được chú giải như hình bóng của Bí tích Thanh tẩy của các Kitô hữu.

Một chi tiết nữa rất quan trọng trong trình thuật Chúa Giêsu chịu phép rửa trong Tin Mừng Thánh Máccô, đó là tiếng nói từ trời. “Tiếng nói từ trời” là cách diễn tả Thiên Chúa của người Do Thái, như kiểu người Việt chúng ta kiêng tránh phạm húy. Tiếng nói ấy đã khẳng định: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. Đây cũng là một lời giới thiệu Đấng Mêsia cho nhân loại. Những người hiện diện hôm đó ở bờ sông Giođan, khi nghe câu tuyên bố của Chúa Cha, chắc chắn liên tưởng đến những lời của Cựu Ước: “Con là con Ta, hôm nay Ta đã hạ sinh ra con” (Tv 2,7); hoặc: “Đây là tôi tớ mà Ta tuyển chọn. Ta hài lòng về Người” (Is 42,1-2).

Vì những chú giải ở trên, sự kiện Chúa Giêsu chịu phép rửa được hiểu như một cuộc “thần hiện”, qua đó, sứ mạng của Chúa Giêsu được giới thiệu công khai cho dân chúng. Người là Đấng Cứu độ trần gian. Người đã khởi đầu sứ mạng một cách rất khiêm tốn, hòa vào dòng người đang nhận mình là tội nhân và sám hối bằng cách dìm mình xuống dòng sông để được ông Gioan thanh tẩy.

Theo giáo huấn của Giáo Hội Công giáo, khi chấp nhận dìm mình xuống dòng sông Giordan và lãnh phép rửa bởi tay ông Gioan, Chúa Giêsu đã thiết lập Bí tích Thánh Tẩy, để rồi từ nay, những ai được dòng nước thiêng ấy tẩy rửa, họ sẽ được tha tội Tổ tông và các tội khác đã phạm, trở nên một tạo vật mới tinh tuyền thánh thiện. Thánh sử Maccô đã nhìn thấy bản chất siêu nhiên của bí tích Thanh Tẩy Kitô giáo, khi ghi lại lời của Gioan Tẩy giả: “Tôi thì tôi đã làm phép rửa cho anh em bằng nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần”. Như vậy, trong nghi thức Thanh tẩy, linh mục chủ sự chỉ đóng vai trò như ông Gioan Tẩy giả, còn chính Chúa Giêsu thanh tẩy chúng ta và ban cho chúng ta Chúa Thánh Thần. Nhờ việc ban Chúa Thánh Thần, chúng ta trở nên những người con cái của Thiên Chúa, là người đồng thừa tự với Chúa Giêsu, tức là cùng với Người hưởng gia nghiệp vĩnh cửu mà Chúa hứa ban cho những ai yêu mến Ngài. Nhờ Chúa Giêsu và trong Chúa Giêsu, chúng ta cũng trở nên những người con yêu dấu của Chúa Cha. Nhờ bí tích Thanh tẩy, chúng ta chấm dứt cuộc sống cũ và bước sang thời đại mới, thời đại của ơn cứu rỗi. Huyền nhiệm vinh dự của phép Thanh tẩy chỉ có thể cảm nhận bằng Đức Tin, vì “Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối của các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi chừng ấy” (Bài đọc I).

Nếu Chúa Thánh Thần đã hiện xuống trên Chúa Giêsu dưới hình chim bồ câu, thì vào ngày chúng ta được lãnh nhận Bí tích Thanh Tẩy, chúng ta cũng được lãnh nhận Chúa Thánh Thần như vậy. Chính Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta Đức tin và soi sáng giúp chúng ta nhận biết Đức Giêsu là Đấng Cứu độ nhân loại. Có Đức tin là một ơn Chúa ban. Chúng ta ngỡ ngàng trước mầu nhiệm Thiên Chúa làm người, giống như chúng ta và đã chết trên cây thập giá, đã sống lại vào ngày thứ ba. Đương nhiên chúng ta chưa thể hiểu hết những mầu nhiệm này. Tuy vậy, khi thinh lặng quỳ gối cầu nguyện, chúng ta nhận ra những màu nhiệm ấy là có thật. Khi chiêm ngắm cầu nguyện trước Thánh Thể, là một mầu nhiệm con người không thể hiểu thấu, chúng ta ra về với tâm hồn thanh thản và được tăng thêm sức mạnh.

“Đây là con Ta yêu dấu!”. Chúa Cha đã nói những lời ấy về Chúa Giêsu. Khi được thanh tẩy, Chúa Cha cũng nói về chúng ta như thế. Xin cho chúng ta trở nên hiện thân của Người giữa trần gian, để đem niềm vui và hy vọng đến cho cuộc đời.

Về mục lục

TÌNH LIÊN ĐỚI TRONG ĐẠI DỊCH

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Trong năm đại dịch Covid người ta thấy rất nhiều câu, nhiều cách đề xướng tình liên đới để chung tay đẩy lùi dịch bệnh và liên đới chia sẻ cứu giúp nhau trong cơn đại họa này.

Tại một nhà tù bên Ý, các tù nhân đã thực hiện một biểu ngữ: “Chúng tôi ở bên trong, xin các bạn hãy ở nhà”. Những tù nhân đã đau khổ vì phải sống cách ly xã hội, nay do đại dịch các buổi thăm trực tiếp của gia đình và người thân bị đình chỉ. Họ đã nêu cao biểu ngữ này để nhắc nhở người thân hãy ở nhà để chung tay đẩy lùi dịch bệnh.

Khi dịch bệnh bắt đầu xuất hiện vào tháng 12/2019 nhiều người nghĩ rằng chỉ những ai bị nhiễm bệnh mới phải cách ly. Thế rồi, dịch bệnh mỗi ngày một lan rộng trong cộng đồng, thì người ta mới biết đến một sự liên đới của toàn thể xã hội. Người bệnh được cách ly tại bệnh viện. Người không bệnh thì cách ly tại nhà. Đây là sự liên đới trách nhiệm để cùng nhau ngăn chặn sự lây lan dịch bệnh trong cộng đồng.

Với biến cố Chúa Giê-su chịu phép rửa của Gioan tại sông Giordan là một khởi đầu cho một chuỗi những liên đới với tội nhân. Ngài đã chấp nhận đứng chung với tội nhân để gánh lấy hậu quả của tội lỗi nhân gian. Hậu quả của tội lỗi là đau khổ, là sự chết. Chúa Giê-su đã gánh lấy tội nhân loại khi phải sống kiếp người đầy thăng trầm và khổ đau. Ngài gánh lấy tội nhân loại khi bị kết án, tẩy chay loại trừ. Ngài còn gánh lấy tội nhân gian khi bị chết treo trên thập giá để đền thay tội lỗi  nhân gian. Ngài hiến dâng mạng sống mình thành của lễ giao hòa với Thiên Chúa Cha. Qua cuộc Tử Nạn và phục sinh của Ngài mà nhân loại chúng ta được giao hòa với Chúa Cha, được gọi Thiên Chúa là Cha, và được thừa tự phần phúc thiên đàng do công phúc của Chúa Giê-su.

Vâng, Đức Giê-su thành Nagiaret là Thiên Chúa, là Đấng thánh thiện vô cùng đã mặc lấy thân xác con người. Ngài đã trở nên giống con người mọi sự ngoại trừ tội lỗi. Ngài tự nhận mình là tội nhân khi hòa mình vào dòng người tới nhận phép rửa của Gioan. Hành vi này như muốn dạy con người chúng ta hãy biết liên đới trách nhiệm với tha nhân. Liên đới để giúp nhau thăng tiến. Liên đới để sống cảm thông chia sẻ với nhau. Tình liên đới sẽ giúp con người chung sống hòa bình với nhau và cùng nhau xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn.
Nếu cuộc đời con người biết sống có tình liên đới thì cuộc đời đẹp biết bao! Người ta sẽ “lá lành đùm lá rách”, “chị ngã em nâng”. . .

Nếu cuộc đời ai cũng có trách nhiệm liên đới với người nghèo, người bệnh tật, người bất hạnh thì cuộc đời hạnh phúc biết bao! Người ta sẽ không có thái độ dửng dưng với nhau nhưng biết chia sẻ giúp đỡ lẫn nhau, và chắc chắn sẽ không có những phận người cô đơn buồn tủi.

Nếu cuộc đời ai cũng cảm thấy có trách nhiệm với cả những lỗi lầm của người khác thì xã hội sẽ thăng tiến biết bao. Vì ai cũng nỗ lực sống chu toàn bổn phận của mình, sống gương mẫu và chắc chắn sẽ không làm gì để gây gương mù gương xấu cho tha nhân.

Ước gì tình liên đới của con người luôn là mối dây hiệp nhất yêu thương để tình người mãi gắn kết và cùng nhau xây dựng một xã hội ngày một tốt đẹp hơn. Amen

Về mục lục

CHA HÀI LÒNG VỀ CON

Lm. Jos DĐH.

Sinh ra làm người ai cũng như ai: dù là con quan, con bác nông dân, hoặc xuất thân từ dòng tộc tri thức, tất cả đều có chung mơ ước được hạnh phúc. Bước vào đời: có người khôn, kẻ dại, thành công có, thất bại cũng không ít, hẳn là tùy sự giáo dục, đầu tư, và nỗ lực của bản thân gia đình. Thiên hạ thường mỉa mai hết sức văn vẻ: đầu to mà óc như quả nho ; nhỏ mà có võ, đúng là thực lực, là ý chí quyết tâm, mới là câu trả lời của từng người, cho hiện tại, tương lai. Sẽ không người con nào bị coi là tầm thường khi có cha có mẹ, không ai lo thiếu khả năng, thiếu sự đầu tư công sức khi còn mẹ, còn cha. Khối óc của cha, trái tim của mẹ, luôn đặt để vào cuộc đời các con, các cháu, dù cái biết của chúng chưa đủ thấm, hoặc mức độ hiểu chưa thông, bậc cha mẹ vẫn không quan tâm đến công lý, điều các ngài mong là sự bình an đến với con cháu.

Cha hài lòng về con, mẹ hạnh phúc vì con, có thể còn xa lạ đối với kẻ chưa trưởng thành, bởi lẽ, con cái chỉ hiểu được công ơn sinh thành khi chúng trở thành bố, thành mẹ. Cho dù con cháu có vô ơn bạc nghĩa: tình mẹ yêu con bằng dòng sữa ngọt, tình cha yêu con bằng giọt mặn mồ hôi, sẽ không hề thay đổi. Trong tương quan xã hội, nhiều người phải ray dứt khi nhớ cha thương mẹ bằng một tình yêu rất linh thiêng: tình cha cao như núi thái, nghĩa mẹ sâu tựa biển đông. Trong tình liên đới giữa niềm tin và thực hành, Gioan thật xác tín khi công bố cho mọi người: “có Đấng quyền thế hơn tôi, đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người”. Có phải Thiên Chúa Cha hài lòng vì sự khiêm tốn, vì “tiếng hô” của Gioan, đủ hiệu quả trước sứ mạng được giao phó ?

Gioan trở nên chứng nhân, nối kết tình yêu với sứ mạng của Ngôi Lời, tại sông Gio-đan năm đó, có tiếng phán từ trời: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. Thiên Chúa hài lòng về Chúa Con, cũng sẽ vui mừng đối với những ai tin Chúa Con, sống tinh thần khiêm tốn như Chúa Con. Nếu ở đời có câu: cha anh hùng, con hảo hán, nếu cứ tới sông Gio-đan, cứ đến nhà thờ, cứ khoác áo linh mục tu sĩ, tức thì sẽ được gọi là thần thánh, là con chí ái, nếu chỉ thế hẳn cũng chẳng có gì mà đáng tự hào ? Thời tiết thay đổi theo mùa: xuân hạ thu đông, song bổn phận hiếu thảo của con cháu, trách nhiệm, nghĩa vụ của bậc sinh thành, sứ mạng của hàng giáo sĩ, tu sĩ, không bao giờ thay đổi, theo Đức Kitô, nếu dừng lại ở việc muốn hoặc chưa thực hành thì không thể gọi là con chí ái.

Tuân Tử, năm xưa đã để lại những lời trấn an các học trò, đáng để chúng ta suy nghĩ: ai chê ta mà chê phải là thầy ta, ai khen ta mà khen phải là bạn ta, kẻ vuốt ve nịnh bợ ta, ấy là kẻ thù của ta. Kitô giáo chủ trương không chiến tranh, không kỳ thị kẻ thù kẻ xấu, mà tất cả đều được nhắc nhớ: nói thật, sống thật, cử xử với nhau bằng tình yêu thật. Sự kiện Gioan làm phép rửa bằng nước cho dân chúng, cho Đức Giêsu là thật, ông không đắc thắng vì thành quả đã đạt được, với đức khiêm hạ, ông nhận biết Đấng đến sau ông sẽ tẩy rửa tội lỗi nhân loại bằng Thánh Thần. Kinh nghiệm ở đời rất thiết thực, khi cho ta biết: còn điều gì tốt đẹp hơn khi cha mẹ và con cái có thể trao cho nhau ngoài sự quan tâm, tôn trọng, và thấu hiểu ? Hội thánh thật chí lý khi gọi Gioan là TIẾNG, Đức Giêsu là LỜI, Thiên Chúa Cha làm cho TIẾNG và LỜI có sức biến đổi tuyệt vời.

Cha hài lòng về Con, tiếng phán từ trời hôm đó không phải là việc khen thưởng Đấng chịu phép rửa ở sông Gio-đan, đúng hơn vì Gioan, vì đám đông dân chúng, vì nhân loại hôm nay. Hạnh phúc ở đời dù là thoáng qua, ít nhiều người ta vẫn nói: không gì làm cho con vui hơn vinh dự của cha. Tại sông Gio-đan, Đấng cúi mình xin Gioan tẩy rửa chu toàn bổn phận, hành động đó mới chỉ là khởi đầu của việc thực thi thánh ý Chúa Cha, vì chưng, sống đẹp, sống đúng, phải là cả một cuộc đời thưa vâng. Thánh ý Cha thì nhiệm mầu, bản chất con người thì giới hạn, trong khi đâu là đúng, là đẹp, là đủ, để được khen thưởng, để được Chúa Cha hài lòng, vô cùng mông lung khó hiểu ! Dẫu rằng thiên hạ thường khích lệ: dâu dâu rể rể, cũng kể là con. Chúa Giêsu đã sống, đã hoàn thành sứ mạng, đã đẹp lòng Chúa Cha, người tín hữu không thể kể là con yêu dấu, nếu chưa ý thức sống vẹn toàn thánh ý Chúa Cha.

Chúng ta hôm nay phải sống thế nào để đẹp lòng Chúa Cha, người theo Đức Kitô phải thực hành giáo huấn của Đức Giêsu thế nào để được Chúa Cha hài lòng ? Mỗi người theo lý lẽ tự nhiên có thể nói rất hay: hạnh phúc ở đời không phải là bạn có một cuộc sống giầu sang, không phải là khi đạt tới địa vị xã hội cao. Cũng chẳng phải là khi bạn tìm gặp được người yêu hoàn hảo, vinh dự nhất là khi bạn có mẹ, có cha, để nói lời yêu, để thực hành đức yêu thương ở đời này. Vâng, mỗi người phải tự trả lời với tổ tiên, gia đình, với tha nhân: hãy cậy trông, hãy sống thật với Đấng là Thầy, là Chúa, hầu ta có một tâm hồn đẹp, cử chỉ đẹp, đáng hưởng gia nghiệp như thánh ý Chúa Cha hằng mong đợi. Amen.

Về mục lục

CON YÊU DẤU

Bông hồng nhỏ

Trong gia đình, mỗi đứa trẻ đều được cha mẹ chúng yêu thương, săn sóc. Tình yêu của cha mẹ dành cho con cái luôn lớn lao, cao vời. Dù cho có lúc, họ thể hiện tình yêu của mình cách vụng về hay thái quá. Điều đó làm cho những đứa con tưởng lầm rằng cha mẹ chẳng yêu thương mình. Không phải cha mẹ không yêu thương con cái nhưng chỉ vì con cái luôn muốn cha mẹ yêu thương mình theo cách mình muốn. Khi cha mẹ không chiều theo những ước muốn của những đứa con thì chúng thất vọng, đau khổ và “nổi loạn”. Là cha mẹ, ai cũng mong cho con cái lớn lên, ngoan ngoãn và giỏi giang. Bởi đó, họ đặt thật nhiều kỳ vọng vào con cái. Nhưng những người con có hiểu và cảm nhận được tình thương yêu của cha mẹ hay không? Họ có biết rằng, khi cố gắng trở nên những người con ngoan ngoãn và có hiếu, đó là món quà lớn nhất mà họ dành cho cha mẹ?

Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Người dạy ta biết sống thảo hiếu với cha mẹ trần gian, và một lòng tin kính, mến yêu cùng hết lòng vâng theo thánh ý Cha trên Trời. Hôm nay, theo chân Thầy Giêsu đến sông Giođan, ta mới hiểu, muốn làm một  người con ngoan, ta cũng phải luôn luôn vâng theo thánh ý Cha trên trời.

 Vừa ngại ngùng, vừa xấu hổ nhưng ta cũng đứng vào hàng các tội nhân đang chờ để được ông Gioan làm phép rửa. Thầy Giêsu đang đứng trước ta. Người làm cho ta rất đỗi ngạc nhiên, nhưng có Người, ta được chia sẻ, được nâng đỡ và được cảm thông. Ông Gioan đã phải can ngăn Người mà nói: “Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!” (Mt 3, 14). Tại sao Thầy Giêsu lại muốn được chịu phép rửa? Mọi người đến đây chịu phép rửa vì họ muốn được thanh tẩy, được tỏ lòng sám hối để đón chờ Đấng Mêsia. Còn Thầy Giêsu, Người là Đấng phải đến. Người đến để được thanh tẩy hay Người đến để thánh hóa nước trong dòng sông này? Hiểu thấu nỗi lòng của ông Gioan, Người liền giải thích rằng: Chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính. Khi vừa ở dưới nước lên, Người liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Lại có tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về con” (x. Mc 1, 9-11). Lời của Chúa Cha đã giới thiệu cho ta và tất cả mọi người biết rằng, chính Chúa Giêsu là người con yêu dấu của Chúa Cha. Là môn đệ của Thầy Giêsu, ta cũng được mời gọi trở nên người con yêu dấu của Chúa Cha, luôn biết mở lòng cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn để sống đẹp lòng Chúa Cha mọi đàng. Mỗi ngày, ta có nhận thấy Thần Khí của Thiên Chúa ngự xuống trên mình khi ta được rước Chúa Giêsu Thánh Thể, hay mỗi lần ta vui lòng làm một việc bác ái không? Ta có lắng nghe Thiên Chúa Cha đang ngỏ lời với mình không? Thầy Giêsu đã thực hiện thánh ý Chúa Cha, Người làm hài lòng Chúa Cha bằng chính thái độ hạ mình, khiêm tốn đến cùng tận như thế. Ta có khao khát được nên giống Thầy Giêsu không?

Nhìn lại những tháng ngày ta được sống trong bàn tay yêu thương, bao bọc của cha mẹ, ta thấy mình thật hạnh phúc. Ta được gọi là người con ngoan trong gia đình. Nhưng cũng có nhiều khi, “người con ngoan” ấy đã không vâng lời cha mẹ, đã thầm trách cha mẹ không yêu thương mình. Chỉ vì ta mải tìm kiếm ý riêng, không hết lòng vâng nghe theo lời dạy bảo của cha mẹ nên ta đi lầm đường lạc lối. Là người con của Thiên Chúa, ta cũng được mời gọi trở nên người Kitô hữu tốt lành, thánh thiện. Lòng ta có một khao khát hướng thiện nhưng ý chí ta không đủ mạnh mẽ để lướt thắng bao cám dỗ ngọt ngào, thân xác ta yếu hèn mong manh nên nhiều lần ta vấp ngã. Đã bao lần, Thiên Chúa mời gọi ta hãy bước đến bên bờ sông Giođan của cuộc đời mình, khiêm tốn cúi mình để được thanh tẩy nhưng ta đã chần chừ. Hết lần này đến lần khác, khi được anh chị em sửa dạy, khuyên răn, vì tự ái, tự kiêu, ta đã không nhìn nhận những lỗi lầm của mình. Ta từ chối để được ánh sáng của Chân Lý chiếu soi vào tâm hồn. Thiên Chúa vẫn ngỏ lời mời gọi ta hãy bước đến Người, khiêm tốn cúi mình để được thanh tẩy.

Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã luôn yêu thương con. Xin hãy đốt lên trong lòng con ngọn lửa yêu mến Chúa, lòng khao khát sự thánh thiện, cùng giúp con vượt thắng những cám dỗ trong cuộc đời. Amen.

Về mục lục

ĐỂ NÊN GIỐNG NGƯỜI

Anna Cỏ may

Khi xuống thế làm người, Chúa Giêsu đã đi vào cuộc sống của con người bằng thái độ khiêm tốn: sinh ra nơi chuồng lừa, đứng ở giữa những người tội lỗi tại bờ sông Gio-đan.

Lúc bấy giờ, ông Gioan Tẩy Giả đang rao giảng, kêu gọi mọi người hãy dọn đường cho Đấng Kitô. Người người kéo đến với ông để nghe và để được ông làm phép rửa, trong số đó, có Chúa Giêsu. Người là Đấng cao trọng mà ông Gioan đã và đang giới thiệu nhưng Người lại hạ mình đến xin ông làm phép rửa. Người luôn đi bước trước để đến với con người và sống giữa họ.

 Sau khi chịu phép rửa, khi Chúa Giêsu vừa ở dưới nước lên thì tầng trời mở ra và có tiếng phán rằng: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” (Mc 1,11). Lời đó chứng thực Người là Con Thiên Chúa, là Đấng mà ông Gioan đã không ngừng rao giảng với dân chúng. Ông đã nói rằng: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quay dép cho Người: Tôi làm phép rửa cho anh em nhờ nước; còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần” (Mc 1,7-8).

Thật vậy, chính Chúa Giêsu là Đấng sẽ làm phép rửa cho mọi người trong Chúa Thánh Thần. Bí tích Rửa tội là phép rửa khai mở dẫn người Kitô hữu vào Hội Thánh để sống hiệp thông với Thiên Chúa. Phép Rửa sẽ thanh tẩy tội tổ tông truyền, giúp con người hướng tới cuộc sống hạnh phúc, được trở thành chi thể của Chúa Kitô và được hiệp thông với Thiên Chúa (x. Youcat số 194). Quả thật, chúng ta đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội, nhưng chúng ta vẫn còn mang khuynh hướng tội nơi mình. Mang thân phận yếu hèn, chúng ta không tránh khỏi những lỗi lầm thường hay vấp phạm trong cuộc sống. Hạnh phúc thay, chúng ta luôn được sống trong tình thương của Chúa, Người luôn tha thứ và chờ đợi chúng ta quay về. Chúa Giêsu đã cho các môn đệ biết về phép rửa mà Ngài sẽ hoàn tất: “Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất!” (Lc 12,50). Người đã dùng chính Thịt và Máu của mình để cứu chuộc nhân loại, để những ai tin, lãnh nhận và sống theo Ngài sẽ được giải thoát khỏi tội lỗi và được sống đời đời. Tình Yêu sẽ ở cùng nhân loại mọi ngày cho đến tận thế (x.Mt 28,20).

Nhìn lại bản thân, chúng ta có ý thức mình đã được lãnh bí tích Rửa tội không? Mỗi khi đến lãnh Bí tích Giải tội và Bí tích Thánh Thể, chúng ta có thái độ nào: sốt sắng hay khô khan, khát khao hay bị ép buộc, hay chỉ là ai sao tôi vậy? Trong cuộc sống, nếu bạn luôn hy vọng hay chờ đợi người khác sẽ đến với mình cách vui vẻ, chân thật và tin tưởng vào mình thì Chúa Giêsu cũng vậy, Ngài vẫn muốn chúng ta đến với Ngài trong sự tin tưởng phó thác nơi Ngài. Vì vậy, trong Ngày lễ Chúa Giêsu Chịu Phép rửa hôm nay, chúng ta cùng nhớ lại các Bí tích đã nhận lãnh để dâng lên Chúa lời tạ ơn, đồng thời mỗi khi lãnh nhận các Bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể, chúng ta hãy ý thức chuẩn bị tâm hồn và nỗ lực cộng tác với ơn Chúa để sống xứng đáng là con cái của Người.

Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã để lại cho chúng con nguồn mạch sự sống là Bí tích Rửa tội, Bí tích Giải tội và Bí tích Thánh Thể. Xin cho chúng con nhớ lại và ý thức những nguồn mạch chúng con đã hưởng và đang lãnh nhận. Nhờ đó, chúng con đạt tới cuộc sống vĩnh cửu trên Nước Trời. Amen.

Về mục lục

NHÌN VỀ PHÉP RỬA

Thiên San

Sau khi được ông Gioan làm phép rửa, Đức Giêsu vừa lên khỏi nước, các tầng trời mở ra và có Thánh Thần tựa chim bồ câu ngự xuống trên Người và có tiếng Chúa Chúa Cha phán rằng: “ Con là con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” (Mc 1, 11). Là Con Một của Chúa Cha, Đức Giêsu luôn là con yêu dấu và luôn đẹp lòng Cha. Nhìn về biến cố Đức Giêsu chịu phép rửa tại sông Gio đan, chúng ta học được gì?

Đức Giêsu chính là Đấng mà Gioan tuyên bố rằng ông không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người (x. Mc 1,7). Nay Đấng ấy hòa mình vào đám tội nhân, khiêm tốn đứng xếp hàng, chờ đến lượt được chịu phép rửa. Khi xuống thế làm người, Đức Giêsu đã mặc lấy thân phận con người nhưng ngoại trừ tội lỗi. Vậy mà nay, Đấng ấy làm một việc đến cả Gioan cũng phải bối rối, không dám: “ Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa” (Mt 3, 14). Gioan đã chiều theo yêu cầu của Đức Giêsu. Gioan biết rõ Đấng nhờ mình làm phép rửa là ai, là Đấng mà ông đến để dọn đường trước. Nhìn về biến cố này, chúng ta được mời gọi nhìn về hồng ân làm con Chúa trong ngày chịu phép Rửa tội.

Gioan làm phép rửa để mời gọi người ta tỏ lòng sám hối. Ngày này, phép Rửa tội ta được lãnh nhận không chỉ kêu mời ta tỏ lòng sám hối mà còn tha hết tội lỗi ta phạm từ trước đến nay, tội tổ tông. Trong bài giáo lý về bí tích Rửa Tội được ban hành ngày 11 tháng 4 năm 2018, Đức Thánh Cha Phanxicô diễn giải, qua bí tích Rửa Tội, chúng ta nhận được ơn tha tội và được tái sinh vào cuộc sống mới và vĩnh cửu trong Đức Kitô; đây là bí tích đầu tiên trong các bí tích, vì nó như cánh cửa cho phép Đức Kitô cư ngụ nơi con người mình và cho mình được chìm ngập trong Mầu Nhiệm của Người. Ta cũng biết rằng, Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hóa chúng ta, dẫn đưa chúng ta đến ơn làm con Chúa. Hơn nữa, bí tích Rửa Tội là “nền tảng của tất cả đời sống Kitô hữu” (Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, 1213).

Có thể, theo truyền thống bao đời, đa số chúng ta được bố mẹ đưa đến nhà thờ từ lúc còn rất nhỏ để chịu phép Rửa tội. Bởi đó, chúng ta chưa có cơ hội để ý thức đầy đủ về ý nghĩa và tầm quan trọng của ơn cao cả ta lãnh nhận. Nhưng bây giờ, khi đã lớn, được học hỏi, được dạy dỗ, được trải nghiệm, chúng ta nghĩ gì về bí tích Rủa tội?  Thật ra, không phải là nghĩ gì về bí tích Rửa tội, nhưng đúng hơn, chúng ta đã sống bí tích đó như thế nào và chúng ta đã làm gì để xứng đáng là con cái Chúa? Đời sống của chúng ta có diễn tả một sự hiện diện đầy sống động của một Thiên Chúa làm người nơi cuộc sống của ta? Mọi người có nhận biết Thiên Chúa qua cách sống của ta? Thiết nghĩ, khi sống theo các giáo huấn của Đức Giêsu cách triệt để, ta sẽ có thể sống xứng đáng là con cái Chúa. Nhờ liên đới với Đức Giêsu Kitô, chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha. Hãy để Đức Giêsu Kitô sống trong ta, khi ấy, Thiên Chúa Cha sẽ nói với ta: “ Con là con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” (Mc 1, 11). Thiết nghĩ, đó cũng là cách ta sống trọn vẹn bí tích Rửa tội.

Về mục lục

RỬA ĐỜI

Trầm Thiên Thu

Đối với phàm nhân, vì bẩn mà phải rửa, rửa để làm sạch những gì ô uế, tẩy uế để tránh bệnh, cụ thể và đặc biệt là trong cơn đại dịch ngày nay. Thân xác cần tắm rửa hằng ngày thì tinh thần cũng cần tẩy uế, linh hồn càng sạch thì càng gần Thiên Chúa.

Thánh Teresa Hài Đồng Giêsu cho biết: “Để được ân sủng thì tâm linh con người cần phải đơn độc một mình, trong sạch, và tràn trề hy vọng để tiếp đón Thiên Chúa thì mới kết quả.” Catharina Sinensis chia sẻ: “Mặc dù tôi u mê yếu đuối, nhưng tôi quyết không thất vọng đem linh hồn của tôi ẩn núp vào trong các vết thương của Chúa Giêsu, xin Máu Thánh của Chúa Giêsu rửa sạch tội lỗi của tôi.” Cách “tắm gội” rất khôn ngoan.

Thuở sơ sinh, chúng ta được rửa sạch bằng bí tích Thánh Tẩy. Nhờ đó, chúng ta được trở nên con cái của Thiên Chúa. Rồi chúng ta bị nhiễm uế nên nhiều lần phải tắm rửa linh hồn qua bí tích Hòa Giải. Nhờ đó, chúng ta lại được phục hồi. Đó là những hồng ân lạ lùng, chứng tỏ Thiên Chúa vô cùng nhân từ.

Kinh Thánh cho biết rằng Phép Rửa của ông Gioan là Phép Rửa của sự sám hối, (Mt 3:11) nhưng Chúa Giêsu vô tội nên không cần sám hối. Thánh Gioan nhận biết tội mình và biết mình chỉ là tội nhân, cần sám hối, không đáng xách dép cho Chúa Giêsu, nên ông e ngại và thưa: “Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!” (Mt 3:14) Chúa Giêsu nói: “Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta NÊN làm như vậy để GIỮ TRỌN đức công chính.” (Mt 3:15) Thì ra là vậy. Ông Gioan hiểu ý và làm theo ý Chúa Giêsu. Việc Ngài đến với ông Gioan cho thấy Ngài chấp nhận Phép Rửa của ông. Việc Chúa Giêsu chịu Phép Rửa là cách bày tỏ lòng thương xót.

Ngay từ lúc khởi đầu sứ vụ công khai, Chúa Giêsu đã chứng tỏ Ngài là Đấng Thiên Sai và là “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian.” (Ga 1:29) Ông Gioan vừa làm Phép Rửa xong, Thiên Chúa liền cho thấy dấu chỉ tỏ tường là “các tầng trời xé ra, và Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống,” điều đó được chính Chúa Cha xác nhận: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người.” (Mt 3:17; x. Mc 1:11) Rất rõ ràng, không thể không tin.

Người Con ấy là Đấng mà Thánh Phaolô cho biết điều kỳ lạ: “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người.” (2 Cr 5:21) Chúa Giêsu là Đấng công chính, không cần sám hối, nghĩa là không cần chịu Phép Rửa, nhưng Ngài chịu Phép Rửa để nêu gương, còn phàm nhân chúng ta là thụ tạo, thực sự rất cần Phép Rửa và lòng sám hối, vì chúng ta chỉ là tội nhân từ thuở nên hình hài con người. (Tv 51:7) Bất cứ ai mở lòng tin nhận Đức Giêsu Kitô thì được ơn tha thứ và được hứa ban sự sống đời đời.

Nước bình thường mà kỳ diệu, có thể tẩy rửa cả ngoại tại và nội tại. Vì thế, Phép Rửa là “cửa ngõ” để con người có thể được giải thoát và bước vào Cõi Sống. Trong cuộc đối thoại với ông Nicôđêmô, một thủ lãnh của người Do Thái, Chúa Giêsu đã xác định: “Không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên; không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí.” (Ga 3:3 và 5) Về sự tái sinh, có ba cái Một được Thánh Phaolô đề cập: “Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa.” (Ep 4:5)

Danh xưng “Người Tôi Trung Đau Khổ” đã được dùng từ xa xưa để nói về Đức Kitô: “Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn và quý mến hết lòng, Ta cho thần khí Ta ngự trên nó; nó sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân. Nó sẽ không kêu to, không nói lớn, không để ai nghe tiếng giữa phố phường. Cây lau bị giập, nó không đành bẻ gẫy, tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ tắt đi. Nó sẽ trung thành làm sáng tỏ công lý. Nó không yếu hèn, không chịu phục, cho đến khi thiết lập công lý trên địa cầu. Dân các hải đảo xa xăm đều mong được nó chỉ bảo.” (Is 42:1-4) Chính Người Tôi Trung đó chấp nhận đau khổ nhưng không muốn người khác đau khổ, luôn chạnh lòng thương người khác, nhất là đối với những người yếu đuối, hèn mọn, đơn độc,…

Nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền luôn được Thiên Chúa coi trọng, Ngài xác định: “Ta là Đức Chúa, Ta đã gọi ngươi, vì muốn làm sáng tỏ đức công chính của Ta. Ta đã nắm tay ngươi, đã gìn giữ ngươi và đặt làm giao ước với dân, làm ánh sáng chiếu soi muôn nước, để mở mắt cho những ai mù loà, đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ, dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong chốn tối tăm.” (Is 42:6-7) Mỗi chúng ta cũng được Thiên Chúa gọi đích danh và đặt vào một vị trí theo Thánh Ý Ngài, nhưng không phải để tự tôn hoặc ích kỷ giữ riêng cho mình, mà phải hành động tích cực, dùng những gì mình đã được Ngài trao ban để làm lợi cho tha nhân – đặc biệt là đối với những người bị áp bức, bị bóc lột, bị tước đoạt những quyền cơ bản của con người,… Công ích là ưu tiên hàng đầu.

Cả tinh thần và vật chất, mọi sự chúng ta tận hưởng đều do Thiên Chúa ban, chúng ta chẳng có gì và chẳng đáng gì mà dám vênh vang tự đắc. Thánh Vịnh gia đã nhận thức như vậy, và mời gọi chúng ta: “Hãy dâng Chúa, hỡi chư thần chư thánh, dâng Chúa quyền lực và vinh quang. Hãy dâng Chúa vinh quang xứng danh Người, và thờ lạy Chúa uy nghiêm thánh thiện.” (Tv 29:1-2) Đó là bổn phận và trách nhiệm của mọi người. Chúng ta chúc tụng Ngài thì Ngài cũng chẳng thêm được gì, nhưng chính chúng ta lại hưởng lợi ích từ việc chúc tụng đó. Thiên Chúa luôn tìm mọi cách làm lợi cho chúng ta, thật là kỳ diệu quá!

Thiên Chúa vô hình mà hữu hình, vì Ngài vẫn hiện diện trong mọi sự: “Tiếng Chúa rền vang trên sóng nước, Thiên Chúa hiển vinh cho sấm nổ ầm ầm, Chúa ngự trên nước lũ mênh mông. Tiếng Chúa thật hùng mạnh! Tiếng Chúa thật uy nghiêm!” (Tv 29:3-4) Thiên Chúa toàn năng, và chỉ có Ngài là Thiên Chúa duy nhất. Thật vậy, chính Thiên Chúa đã truyền nghiêm lệnh: “Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta.” (Xh 20:3; Đnl 5:7)

Những gì chúng ta cho là tự nhiên hoặc thiên nhiên thì đó chính là Thiên Chúa: “Tiếng Chúa lay động cả rặng sồi, tuốt trụi lá cây cao rừng rậm. Còn trong thánh điện Người, tất cả cùng hô: Vinh danh Chúa! Chúa ngự trị trên cơn hồng thủy, Chúa là Vua ngự trị muôn đời.” (Tv 29:9-10) Bổn phận của chúng ta là phải tôn thờ, cảm tạ và chúc tụng Ngài, như Đức Giêsu Kitô đã nói: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho.” (Mt 6:33) Chắc chắn Ngài chẳng để ai thua thiệt, vì Ngài rất công bằng – có tội thì sửa phạt, có công thì ban thưởng.

Ông Phêrô lên tiếng tại nhà ông Cornêliô: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa KHÔNG THIÊN VỊ người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận.” (Cv 10:34-35) Đức Giêsu nhập thể và nhập thế để “cứu những gì đã hư mất.” (Mt 18:11) Thánh Phêrô giải thích rất rõ ràng: “Người đã gửi đến cho con cái nhà Israel lời loan báo Tin Mừng bình an, nhờ Đức Giêsu Kitô, là Chúa của mọi người. Quý vị biết rõ biến cố đã xảy ra trong toàn cõi Giuđê, bắt đầu từ miền Galilê, sau phép rửa mà ông Gioan rao giảng. Quý vị biết rõ: Đức Giêsu xuất thân từ Nadarét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người.” (Cv 10:36-38)

Theo kế hoạch mầu nhiệm, trước khi Chúa Giêsu đến thế gian, ông Gioan đã được sai đến trước để chuẩn bị. Ông là người được Thiên Chúa sai đến, nhưng phong cách rất bình dân: Mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng. Có lần người ta hỏi ông là ai – Đấng Kitô, Êlia hay ngôn sứ? Cả ba lần ông đều lắc đầu từ chối, ông chỉ dám nhận mình là “tiếng người hô trong hoang địa” mà thôi. (Ga 1:20-23) Ông khiêm hạ bao nhiêu thì chúng ta cảm thấy xấu hổ bấy nhiêu, vì chúng ta chỉ là “con số không to lớn” mà dám mạo nhận mình là “cái rốn của vũ trụ.” Thảo nào người ta ngao ngán: “Điếc không sợ súng, cùi không sợ lở.”

Đề cập Đức Kitô, ông Gioan nói: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần.” (Mc 1:7-8) Ông nói rằng ông cũng không biết Đức Giêsu là ai, nhưng khi ông làm Phép Rửa cho Ngài, rồi thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Ngài, nên ông nhận biết Ngài chính là “Đấng Thiên Chúa tuyển chọn.” (Ga 1:32-34) Đặc biệt nhất là có tiếng từ trời xác nhận: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con.” (Mc 1:11) Thế thì chính xác tuyệt đối rồi.

Kinh Thánh cho biết: “Các việc đó đã xảy ra tại Bêtania, bên kia sông Giođan, nơi ông Gioan làm phép rửa.” (Ga 1:28) Các địa danh trong Kinh Thánh đều có thật. Sông Giođan, nơi Chúa Giêsu chịu phép rửa, (Mc 1:6-11; Mt 3:13-17; Lc 3:21-22) cách trung tâm thành phố Tibêria khoảng 10 km về phía Nam trên sông Giođan, có một địa điểm thu hút khoảng nửa triệu người hằng năm. Theo Khoa Khảo Cổ và Kinh Thánh, nơi thực sự Chúa Giêsu chịu phép rửa cách xa Yardenit cả trăm cây số, ở gần Biển Chết, thuộc lãnh thổ Giođan.

Rất bình thường đối với con sông Giođan, nhưng bỗng trở nên rất khác thường vì đó là nơi Chúa Giêsu đã chọn để ông Gioan làm Phép Rửa cho Ngài.

Nước bình thường mà kỳ diệu, rất mềm mà cũng rất mạnh, đặc biệt là không thể tách hoặc cắt được nước. Ở đâu có nước là có sự sống, người ta có thể nhịn đói chứ không thể nhịn khát, vì cơ thể chúng ta chứa tới 70% là nước, và mỗi ngày cơ thể cần khoảng 2 lít nước. Đúng là nước biểu hiện sự sống.

Đặc biệt hơn, nước biểu hiện sự xuất hiện của Thiên Chúa, chứng tỏ quyền năng của Ngài: “Tiếng Chúa rền vang trên sóng nước, Thiên Chúa hiển vinh cho sấm nổ ầm ầm, Chúa ngự trên nước lũ mênh mông.” (Tv 29:3) Với Thiên Chúa, nước cũng được Ngài coi là chất liệu quan trọng nên Ngài đã dùng nước để chứng tỏ chúng ta được tẩy sạch tội lỗi. Nước rất đặc biệt vì nước còn là chất liệu Chúa Giêsu dùng làm phép lạ đầu tiên tại tiệc cưới ở Cana, (Ga 2:1-12) và cũng là chất liệu Ngài dùng để dạy “bài học phục vụ” trong Bữa Tiệc Ly – chính Ngài cúi xuống rửa chân cho các môn đệ, dù biết lát nữa họ chạy trốn vì sợ liên lụy. (Ga 13:1-20) Nước còn quan trọng hơn nữa vì nước là chất liệu biến chúng ta thành con cái Thiên Chúa: “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí.” (Ga 3:5) Đó chính là bí tích Thánh Tẩy, ngưỡng của đưa chúng ta vào Giáo Hội của Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu được dìm mình trong dòng nước Giođan để khởi đầu sứ vụ, dòng nước đó trở nên Dòng Tình mà Chúa Giêsu muốn tuôn đổ Lòng Thương Xót cho chúng ta, đồng thời cũng giao trách nhiệm cho mỗi chúng ta phải đắm mình trong dòng đời để phục vụ mọi người, đó cũng là phục vụ chính Ngài vậy: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân.”

Nói về nước, chúng ta thấy có điều lạ: Theo Việt ngữ, quốc gia được gọi là “nước” – nước Việt Nam. Phải chăng Việt ngữ muốn diễn tả nơi mình sống được ví như nước? Mà nước là chất liệu vô cùng cần thiết: Còn nước là còn nơi sống, mất nước là mất nơi sống. Vừa mặc nhiên, vừa minh nhiên.

Lạy Thiên Chúa nhân lành, xin giúp chúng con “biết quên mình để gặp lại chính mình,” (Kinh Hòa Bình – Thánh Phanxicô Assisi) và luôn tin nhận Đức Kitô là Đấng Cứu Độ duy nhất, biết phụng sự Ngài qua việc phục vụ mọi người theo khả năng và hoàn cảnh cụ thể. Xin giúp chúng con luôn tẩy rửa cuộc đời để xứng đáng đến gần Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

PHÉP RỬA TÁI SINH

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Khi chịu Phép Rửa, Chúa Giêsu dìm ngụp trong nước, nước bao phủ Người như bóng tối bao trùm vực thẳm. Khi Người bước lên thì Thánh Thần ngự xuống, tiếng Chúa Cha vang lên, lần này không phải để tạo dựng ánh sáng, nhưng để xác nhận con người vừa dìm ngụp trong nước chính là Con Thiên Chúa và Thiên Chúa hài lòng về Người.

Sự kiện Chúa Giêsu chịu Phép Rửa là gạch nối giữa hai giai đoạn quan trọng: sống ẩn dật 30 năm âm thầm với gia đình tại Nadarét và rao giảng công khai sứ vụ loan báo Tin Mừng. Đây cũng là gạch nối giữa hai Mùa Phụng Vụ: Giáng Sinh và Thường Niên.

Hôm nay Chúa Nhật I Thường Niên, Giáo Hội sẽ cùng đồng hành với Chúa Giêsu qua các biến cố của đời rao giảng, khởi đầu là sự kiện Chúa chịu phép rửa của Gioan Tẩy Giả tại sông Giođan. Ông Gioan làm Phép Rửa thì dìm người ta vào trong nước. Đấng đến sau ông làm Phép Rửa thì dìm người ta vào trong Thánh Thần, là quyền năng tạo dựng và ban sự sống của Thiên Chúa, vì Thánh Thần đã ngự xuống trên Người.

Tin Mừng nói đến ba dạng Phép Rửa.

  1. Phép Rửa sám hối

Đây là Phép Rửa bằng nước do Gioan thực hiện tại sông Giođan “Tôi làm phép rửa bằng nước để làm dấu hiệu cho thấy anh em đã ăn năn sám hối ” (Mt 3, 11). Ai chịu Phép Rửa đều phải có một thái độ nội tâm cũng như bên ngoài, phải tin vào sứ điệp của Gioan, phải trở lại thực lòng, phải quay về với Thiên Chúa. Tuy nhiên, Phép Rửa của Gioan chỉ có tính cách tượng trưng, tự nó không có sức xóa bỏ được tội lỗi mà chỉ là nghi thức nhắc nhở cho mọi người phải ăn năn sám hối và cải thiện đời sống. Phép Rửa sám hối chỉ là nghi thức mang tính tẩy trần, nếu có giá trị thì chỉ theo quy định của lề luật thôi, còn chưa có hiệu quả đích thực tôn giáo. Chính Gioan Tẩy Giả đã minh định: “Đấng cao trọng hơn tôi đang đến, Ngài quyền phép hơn tôi, chính Ngài sẽ rửa anh em trong Thánh Thần và bằng lửa” (Mt 3, 11). Gioan làm Phép Rửa sám hối để dọn lòng dân chúng đón chờ Đấng Cứu Thế.

  1. Phép Rửa mạc khải

Khởi đầu cuộc sống công khai, Chúa Giêsu tìm đến sông Giođan để xin Gioan Tẩy Giả cử hành phép rửa cho mình. Phép rửa Chúa Giêsu chịu là Phép Rửa mạc khải về một kỷ nguyên mới đã bắt đầu. Chính khung cảnh thần hiển của bài Tin Mừng kể là một mạc khải sống động về Ba Ngôi: Chúa Giêsu cúi mình trên dòng nước, Chúa Thánh Thần ngự xuống dưới hình bồ câu và tiếng Chúa Cha xác nhận “Này là Con Ta yêu dấu”.

Thật lạ lùng, trong số những người đến “xưng thú tội lỗi” ( Mc 1, 5) và chịu “phép rửa sám hối để đước ơn tha tội” (Mc 1, 4) lại có Chúa Giêsu. Người là Đấng Thánh, là Thiên Chúa, siêu việt tuyệt đối, tại sao lại đến xin Gioan làm Phép Rửa sám hối ? Người là Đấng mà Gioan “không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Ngài ” lại có thể đứng chung với đám đông người tội lỗi chờ đến lượt mình được chịu thanh tẩy? Đây là động thái gây kinh ngạc cho con người thời nay, vì khó hiểu: Đấng không có tội lại đi nhận phép rửa làm gì? Nhưng người ta cũng sớm hiểu ra rằng: phép rửa của Gioan Tẩy Giả chỉ là nghi thức mang tính tẩy trần, nếu có giá trị thì chỉ theo quy định của lề luật thôi, còn chưa có hiệu quả đích thực tôn giáo.

Chính Gioan Tẩy Giả đã minh định: “Tôi rửa anh em trong nước, nhưng Đấng đến sau tôi sẽ rửa anh em trong Thánh Thần và trong lửa”. Khi Chúa Giêsu nhận phép rửa này, ngoài việc “nhập thế đến cùng”, khiêm tốn xếp hàng đứng chung với các tội nhân đợi chờ đến phiên, Người còn hữu ý qua động thái có một không hai đó, công khai khởi đầu cuộc sống mới: cuộc rao giảng Tin Mừng cho mọi người.

Có ba dấu hiệu bài Tin Mừng mạc khải không những tiên báo sự sống lại vinh hiển của Đức Kitô mà còn tiên báo thời đại ân sủng mà Người mang đến cho loài người.

Dấu hiệu 1: Trời mở ra.

Sách Sáng Thế đã nói: Ađam và Evà phạm tội, cửa Thiên Đàng đóng lại (St 3, 23-24). Qua biết bao thế kỷ, Dân Thiên Chúa đã thiết tha cầu nguyện “Ôi ước chi Ngài xé rách các tầng trời và ngự xuống” (Is 64, 1). Nhờ Chúa Kitô, từ nay trời mở ra, một kiểu nói của Thánh Kinh ngụ ý là con người từ nay được sống thông hiệp với Thiên Chúa.

Dấu hiệu 2: Thánh thần ngự xuống như chim bồ câu.

Sách Sáng Thế có nói:Trước khi tạo dựng trời đất thì “Thánh Thần Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” (St 1, 2) như để thông truyền sức sống. Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, Chúa Thánh Thần ngự xuống dưới hình chim bồ câu thì ngụ ý: Chúa Giêsu là con người mới và trong Người nhân loại sẽ được tạo dựng lại, sẽ được đổi mới. Chính Thánh Phaolô xác định: “Điều quan trọng chẳng phải là việc cắt bì hay không cắt bì, nhưng là trở thành thọ tạo mới” (Gl 6, 15)

Dấu hiệu 3: Lời của Chúa Cha: “Con là con yêu dấu của Ta”.

Qua lời tuyên bố này chúng ta nhận biết Đức Giêsu là con thật của Thiên Chúa, và sau này Đức Giêsu dạy cho biết: những ai tin vào Người và nhận phép rửa nhân danh Người thì cũng được thông phần vào địa vị làm con Thiên Chúa.

  1. Phép Rửa tái sinh

Phép Rửa của Gioan là Phép Rửa bằng nước mời gọi sám hối. Phép rửa của Chúa Giêsu là Phép Rửa tái sinh. Phép rửa này ban cho người được rửa một đời sống mới. Thánh Phaolô đã giải thích về đời sống này cho những người vừa được rửa tội như sau: “Khi được rửa tội, anh em được an táng với Đức Kitô và trong phép rửa anh em cũng được sống lại với Đức Kitô. Anh em đã từng bị chết về mặt tâm linh nhưng giờ đây Thiên Chúa đã mang anh em đến nguồn sống cùng với Đức Kitô.” (Cl 2, 12-13).

Như vậy qua Phép Rửa tái sinh, Chúa Giêsu chia sẻ cho những người được rửa tội đời sống thần linh của Ngài. Đó là sự sống trong Chúa Ba Ngôi. Người tín hữu trở thành thành viên trong Dân Chúa Cha, chi thể trong Thân Mình Chúa Kitô và viên đá sống động kiến tạo Đền Thờ Chúa Thánh Thần, nghĩa là trở nên con cái Thiên Chúa và được thông phần vào Sự Sống của chính Thiên Chúa hằng sống.

Bí Tích Thánh Tẩy chính là một phép lạ cả thể tác động trên một cá thể trong suốt chiều dài cuộc sống. Người ta được tắm gội trong sự chết và phục sinh của Đức Kitô và được thần hóa một cách nhiệm mầu, để từ đó có thể phát biểu ngất ngây như Thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi”, hay đầy xác quyết như thánh Augustinô: “Chúa đã tạo dưng con người cách lạ lùng và còn tái tạo con người cách lạ lùng hơn nữa”.

Bí Tích Thánh Tẩy là nền tảng của toàn bộ đời sống Kitô hữu, là cửa ngõ dẫn vào đời sống thần linh và mọi bí tích khác. Nhờ bí tích này chúng ta được giải thoát khỏi tội lỗi và tái sinh làm con cái Thiên Chúa, thành chi thể của Đức Kitô, được gia nhập và tham dự sứ mạng của Hội Thánh (GLCG #1213).

Bí Tích Thánh Tẩy tha thứ nguyên tội, mọi tội cá nhân và các hình phạt do tội. Bí Tích Thánh Tẩy cho tham dự vào đời sống của Thiên Chúa Ba Ngôi nhờ ơn thánh hoá, nhờ ơn công chính hoá giúp tháp nhập vào Đức Kitô và Hội Thánh. Bí Tích này cho tham dự vào chức tư tế của Đức Kitô và tạo nền tảng cho sự hiệp thông với tất cả các Kitô hữu. Bí Tích này trao ban các nhân đức đối thần và các hồng ân của Chúa Thánh Thần. Người lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy thuộc về Đức Kitô luôn mãi: họ được đóng ấn không thể xóa được của Đức Kitô (GLCG #263).

Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và Gioan tại sông Giođan đã làm nên lịch sử và đã được Giáo Hội chọn làm khởi điểm cho Mùa Thường Niên là Mùa Phụng Vụ cử hành các mầu nhiệm cuộc đời rao giảng tin mừng của Chúa Giêsu. Biến cố này không chỉ là cuộc bàn giao cũ mới mà còn là điểm giao duyên giữa trời và đất, giữa Thần Khí và nước, giữa Tân Ước và Cựu Ước. Từ nay nhân loại được tái sinh trong đời sống mới. Qua Bí Tích Thánh Tẩy, chúng ta được tái sinh trong của Chúa Giêsu nhờ ghi dấu ấn tín của Chúa Thánh Thần và được trở nên con cái Thiên Chúa.

Nhờ Bí Tích Thánh Tẩy, trong tư cách là “Kitô hữu thuộc về Chúa Kitô”, chúng ta được nhắc nhớ về sứ mạng phải làm triển nở sự sống của Chúa Kitô nơi mình và nơi những người lân cận bằng lòng tin và bằng tình yêu chân thành và trung tín.

Trong tư cách “Kitô hữu hướng về Chúa Kitô”, chúng ta cũng được hun đúc để luôn biết sống bằng niềm hy vọng và bằng lời kinh phó thác, nhất là trong lúc gặp thử thách gian truân.

Trong tư cách “Kitô hữu tìm về Chúa Kitô”, chúng ta còn biết sẵn sàng thanh tẩy đời sống qua việc sám hối hòa giải để đón nhận lòng thương xót của Chúa một cách dồi dào hơn.

Trong phép lần hạt Năm Sự Sáng, gẫm thứ nhất, chúng ta vẫn đọc: “Thứ nhất thì ngắm, Đức Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan. Ta hãy xin cho được sống xứng đáng là con cái Chúa”. Theo gương Mẹ Maria, chúng ta xin được sống gắn bó với Chúa Giêsu mật thiết hơn, để xứng đáng là những người con yêu dấu của Thiên Chúa.

Chúa Giêsu là gương mẫu một người con hiếu thảo. Người luôn sống thân mật với Chúa Cha, luôn kết hiệp với Chúa Cha trong kinh nguyện hằng ngày, luôn thi hành thánh ý Chúa Cha. Người đã vâng lời Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá.

Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta luôn kết hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi, luôn thi hành thánh ý Thiên Chúa, luôn sống một cuộc sống tốt đẹp, luôn tích cực góp phần xây dựng xã hội, tạo hạnh phúc cho tha nhân.

Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin dạy chúng con biết sống ơn Bí Tích Thánh Tẩy để chúng con được xứng đáng được làm con yêu dấu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Amen.

Về mục lục

TẦM QUAN TRỌNG CỦA BÍ TÍCH RỬA TỘI

Lm Trần Bình Trọng

Nếu phép rửa của ông Gioan tẩy giả không có công hiệu tha tội thì tại sao Ðức Giêsu là Ðấng vô tội lại đến xin chịu phép rửa ở sông Gio-đan? Ðây chính ông Gioan đã trả lời cho câu hỏi này:

Tôi chỉ làm phép rửa bằng nước, còn Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần (Mc 1:8). Như vậy phép rửa của Gioan chỉ là nghi thức, một tác động sám hối để sửa soạn cho người ta đón nhận Ðấng Cứu thế. Bằng việc chịu phép rửa, Ðức Giêsu muốn xác nhận sứ mệnh và phê chuẩn việc làm của ông Gioan. Chúa còn tỏ cho nhân loại thấy tầm quan trọng của Bí tích Rửa tội mà Người sẽ thiết lập sau này.

Mặc dù không phải là bí tích rửa tội, phép rửa mà Ðức Giêsu lãnh nhận bởi ông Gioan cũng đánh dấu quyết liệt trong đời sống của Người. Khi Chúa chịu phép rửa, có tiếng phê chuẩn từ trời: Con là Con yêu dấu của Cha; Cha hài lòng về Con (Mc 1:11). Với tiếng phán từ trời, Chúa Giêsu được Thiên Chúa Cha công nhận là người đến để cứu chuộc nhân loại. Tiếng từ trời phán có liên hệ rất gần gũi với lời ngôn sứ Isaia về người đầy tớ đau khổ: Ðây là người tôi trung Ta nâng đỡ, là người ta tuyển chọn và quí mến (Is 42:1). Từ ngữ Con trong Phúc âm thánh Mác-cô được thay thế vào từ ngữ tôi trung trong sách ngôn sứ Isaia ám chỉ Chúa Giêsu là tôi tớ đau khổ của Ðức Giavê. Và đó là điều mà Gioan Tẩy giả đã giới thiệu Ðức Kitô: Ðây chiên Thiên Chúa, đây Ðấng xoá tội trần gian (Ga 1:29).

Phép rửa mà Đức Giêsu lãnh nhận nhắc nhở cho ta về phép Rửa tội của mỗi người, đánh dấu việc khởi đầu của đời sống đức tin. Ðời sống đức tin của người tín hữu bắt đầu khi ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Trong nước rửa tội, ta trở nên người mới với đời sống mới. Bí tích Rửa tội vừa là việc kết thúc vừa là việc khởi đầu. Bí tích Rửa tội kết thúc đời sống trong bóng tối tội lỗi và bắt đầu đời sống mới trong ơn nghĩa với Chúa.  Bí tích Rửa tội là việc tham dự vào cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa, nghĩa là người chịu phép Rửa tội phải chết đi cho tội lỗi, để được sống lại với Chúa trong ơn thánh. Ðó là ý nghĩa của lời Chúa nói với ông Nicôđêmô: Không ai có thể thấy nước Thiên Chúa, nếu không được sinh ra bởi nước và Thánh thần (Ga 3:5). Và rồi Chúa thiết lập Bí tích Rửa tội: Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ, nhân danh Cha, và Con và Thánh thần (Mt 28:19).

Bí tích Rửa tội không phải là giấy thông hành để được vào nước Trời. Người ta có thể chứng minh có tất cả các giấy chứng chỉ về đạo giáo như: chứng chỉ rửa tội, rước lễ lần đầu, thêm sức, cưới hỏi.. Tuy nhiên chưa chắc người ta đã sống đức tin và trưởng thành trong đức tin. Người ta có thể chịu Phép rửa tội lâu năm, nhưng đời sống vẫn không có gì thay đổi, vẫn khô khan, nguội lạnh và làm biếng việc lành. Tại sao lại như vậy? Có lẽ tại vì người ta làm việc đạo một cách máy móc cho qua lần chiếu lệ, hay mặc cả với Chúa để được hưởng giá rẻ trong việc giữ đạo.

Khi chịu Phép Rửa tội, người tín hữu phải tỏ ra tâm tình sám hối đi kèm. Tuy nhiên làm sao trẻ thơ có thể giục lòng sám hối? Ở đây, cha mẹ và người đỡ đầu và toàn thể dân Chúa thay thế cho con trẻ khi chịu phép rửa tội để giục lòng sám hối mà nhận lãnh đức tin. Để nhắc nhở cho người tín hữu về những ơn ích của Bí tích Rửa tội, hằng năm vào lễ Phục sinh, Giáo hội cho ôn lại lời hứa khi chịu Phép Rủa tội là: từ bỏ tội lỗi, từ bỏ Xatan và những quyến rũ gian tà. Giáo hội còn nhắc nhở cho người tín hữu tin vào Thiên Chúa là Cha, tin Chúa Giêsu Kitô và tin Chúa Thánh thần. Ngươòi tín hữu còn được nhắc nhở để đặt niềm tin vào Giáo hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền, tin phép tha tội, tin xác sống lại và sự sống vĩnh cửu nữa.

Bí tích Rửa tội là một biến cố lớn trong đời sống người tín hữu. Hoặc được rửa tội khi còn tuổi măng sữa, hay khi đã lớn khôn, người ta cần đem ý nghĩa vào việc rửa tội. Nếu được rửa tội khi đã khôn lớn, người ta phải xác tín về đức tin và về đạo. Nếu được rửa tội lúc còn nhỏ dại, khi lớn lên, người ta phải tự phê chuẩn đức tin mà ta đã lãnh nhận khi chịu phép Rửa tội. Ta không thể cậy dựa và tuỳ thuộc vào đức tin của cha mẹ và người đỡ đầu mãi mãi. Ta phải tập đi tập đứng trong đức tin. Khi mà hạt giống đức tin được vun trồng trong đời sống, ta phải nuôi dưỡng, chăm sóc, nếu muốn cho đức tin được tăng trưởng và sinh hoa kết quả thiêng liêng.

Lời nguyện xin cho được ơn nhận ra tầm quan trọng của Bí tích Rửa tội.

Lạy Chúa Giêsu! Đấng thiết lập Bí tích Rửa tội.

Bằng việc chịu phép rửa sám hối,

Chúa đã muốn phê chuận sứ mệnh của thánh Gioan.

Chúng con cầu nguyện cho những người tin Chúa

mà không nhận phép rửa tội.

Xin cho họ nhận thức được

tầm quan trọng của Bí tích Rửa tội.

Còn những người đã được sinh lại trong nước và Thánh thần,

xin cho họ được tiếp tục đi tìm kiếm nước Chúa. Amen.

Về mục lục

CÙNG CHẾT VÀ PHỤC SINH VỚI ĐỨC GIÊSU KITÔ TRONG PHÉP RỬA

Lm. Phêrô Lê Văn Chính

Vào các ngày Chúa nhật, chúng ta vẫn có thói quen rảy nước thánh trong phần thống hối đầu lễ. Việc rảy nước thánh này nhắc nhở mỗi người bí tích rửa tội mà chúng ta đã lãnh nhận, lời cam kết của chúng ta muốn thuộc về Chúa, và việc chúng ta được trở nên con Thiên Chúa nhờ người Con một duy nhất của Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô.

Hơn nữa, ở các nhà thờ người ta vẫn để ở nơi cửa nước thánh để mỗi khi ra vào, chúng ta đặt ngón tay vào đó và làm dấu thánh giá tuyên xưng mầu nhiệm Ba ngôi, để nhắc nhở chúng ta bí tích rửa tội mà chúng ta đã được dìm mình vào sự chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu. Ngay cả mỗi khi chúng ta tuyên xưng kinh tin kính trong thành lễ, đó cũng là lúc chúng ta tuyên xưng lại lời tuyên xưng trong bí tích rửa tội.

Phép rửa là một Bí tích khai tâm, bí tích này dẫn người tín hữu vào tương quan sự sống với Thiên Chúa và với Giáo hội. Phép rửa vừa là một cử hành tuyên xưng và cam kết long trọng, được cử hành với sự chứng kiến của những người thân yêu. Trong cử hành này, chúng ta tuyên xưng lời tuyên xưng nguyên thủy: Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa. Lời tuyên xưng nguyên thủy này càng lúc càng được khai triển thành lời tuyên xưng Ba ngôi, bởi vì Đức Giêsu Kitô là người Con một của Thiên Chúa, được Chúa Cha sai đến cùng với sức mạnh Thánh Thần luôn hoạt động nơi Đức Giêsu Kitô. Đồng thời phép rửa luôn được cử hành cùng với nước. Nước là một yếu tố trong thiên nhiên vũ trụ, nước có dồi dào trên địa cầu,và chúng ta dùng nước cho đời sống hằng ngày, để tắm rửa cho cơ thể sạch sẽ lành mạnh, để uống bồi dưỡng cơ thể chúng ta. Và nước cần thiết cho mọi sinh vật chung quanh chúng ta, nước để tưới cho đồng ruộng và cây cối, trong nước có biết bao nhiêu loài cá sinh sống là nguồn lương thực dồi dào cho con người. Nước cần thiết cho tàu thuyền đi lại, nối liền các bờ đại dương, cho con người có thể buôn bán và đi lại từ những lục địa xa xôi.

Vào thời Chúa Giêsu, nước đã được dùng trong những nghi thức của các tôn giáo, bởi vì nước được dùng làm nghi lễ thanh tẩy. Người ta tin rằng khi làm những nghi thức thanh tẩy bằng nước, người ta được sạch những ô uế mà họ có thể bị lây nhiễm do bởi những tiếp xúc hằng ngày với những người khác. Thánh Gioan đã rao giảng mời gọi mọi người thống hối vì Đấng cứu độ gần đến và ông làm phép rửa thống hối bằng nước để mời gọi mọi người chuẩn bị tâm hồn xứng đáng đón tiếp Đấng cứu độ. Chúa Giêsu cũng gia nhập vào dòng người để đến lãnh phép rửa của Gioan ở sông Giorđan. Khi cử hành phép rửa, Gioan cũng giải thích cho mọi người ý nghĩa và tầm vóc của phép rửa của mình và hướng mọi người đến Đấng quyền năng sẽ đến sau ông và sẽ ban phép rửa trong Thánh Thần. Như thế, khi cử hành phép rửa trong nước, Gioan đã ý thức phép rửa ông cử hành chỉ là hình bóng tạm để báo trước một thực tại toàn vẹn hơn là phép rửa trong Thánh Thần của Đức Giêsu mà mọi người cần phải hướng về để đón nhận.

Quả đúng như Gioan tẩy giả dự đoán, Đức Giêsu đã hòa vào dòng người đến xin lãnh phép rửa của Gioan.Tin mừng theo Mác-cô tường thuật rất vắn tắt việc Đức Giêsu lãnh phép rửa. Mác-cô không ghi lời đối thoại nào giữa Đức Giêsu và Gioan, chỉ vắn tắt nói rằng Đức Giêsu đã từ Nazarét xứ Galilê giữa nhiều người và đến xin lãnh phép rửa của Gioan ở sông Giorđan. Đức Giêsu muốn đón nhận những gì mà Gioan làm, như thế cũng là đón nhận truyền thống và nhịp sống của do thái giáo, bởi vì Gioan là hình ảnh của tiên tri Êlia của do thái giáo, những con người hoạt động mạnh mẽ bởi tác động của Thánh Thần. Và sự kiện trọng đại đã diễn ra, khi Đức Giêsu vừa bước lên khỏi nước, thì trời mở ra, Thánh Thần dưới hình chim bồ câu ngự xuống trên người, và có tiếng từ trời tuyên phán Con là Con Cha yêu dấu, con đẹp lòng Cha. Các Tin mừng rất nhấn mạnh đến phép rửa của Chúa Giêsu như là khởi đầu cho cuộc đời truyền giảng công khai của Chúa Giêsu. Người được Chúa Cha xác nhận và giới thiệu cho mọi người cũng như người Con rất yêu dấu, đầy tràn Thánh Thần, người là Đấng Kitô, được xức dầu để thực hiện công trình cứu thế cho nhân loại. Sự kiện Đức Giêsu chịu phép rửa ở sông Giorđan mạc khải căn tính thần linh của Đức Giêsu. Người là Con một yêu dấu của Chúa Cha mà Chúa Cha rất hài lòng. Việc người lãnh nhận phép rửa không hề thay đổi căn tính thần linh của người mà còn mạc khải rõ cho mọi người căn tính thần linh này mà Gioan tẩy giả đã báo trước là người sẽ làm một phép rửa hoàn toàn khác, chính là phép rửa trong Thánh Thần.

Truyền thống các tiên tri, đặc biệt tiên tri Isaia (chương 42) đã báo trước về một người tôi tớ đặc biệt của Thiên Chúa mà Thiên Chúa sẽ ban tặng cho nhân loại, ngay cả nói rõ người tôi tớ này là người con của Thiên Chúa, được đầy tràn Thánh Thần và làm đẹp lòng Thiên Chúa trong mọi sự, Người sẽ thi hành việc xét xử muôn dân và thực thi công trình cứu độ. Mặt khác, người con này rất “hiền lành và khiêm tốn, không bẻ gãy cây lau đã giập, không dập tắt tim đèn còn khói” nhưng mang lại “ơn cứu độ và giải thoát cho những người bị giam cầm vì bệnh tật và tù tội, đem lại công lý trên địa cầu”. Giờ đây, những hình ảnh đã báo trước trở nên hiện thực một cách rõ rệt nơi Đức Giêsu, người sẽ thực hiện giao ước cứu độ bằng chính cái chết của người trên thập giá.

Sau khi Chúa Giêsu Phục sinh, Thánh Phêrô, với những chứng từ trung thực và quan trong mà ông lãnh nhận, đã bắt đầu rao giảng cho những người do thái và cho mọi người những biến cố cứu độ mà Thiên Chúa đã thực hiện nơi Đức Giêsu. Đây là những cảm nghiệm chân thực và sống động muốn được chia sẻ và rao giảng cho hết mọi người thành tâm thiện chí để họ tin và đón nhận Đức Giêsu, người con một Thiên Chúa ban tặng. Thiên Chúa đã thực hiện ơn cứu độ, không chỉ dành riêng cho người do thái, không thiên tư tây vị cho riêng ai, nhưng là một tình yêu dành cho hết mọi người không phân biệt màu da chủng tộc. Hết mọi người sống đời ngay thẳng, thực hành sự công chính đều được Thiên Chúa đón nhận khi sai người Con một Thiên Chúa đến sống và rao giảng giữa mọi người. Đây cũng là điều mới mẽ mà thánh Phêrô cũng chia sẽ giống với thánh Phaolô qua cách nói của Phaolô, là mầu nhiệm được giữ kín từ muôn thuở, và giờ đây được mạc khải cho mọi người, tức là các dân ngoại được trở nên đồng thừa tự, được cùng chung phần vào một lời hứa. Phần thánh Phêrô, người làm chứng rằng Đức Giêsu, Đấng đã được xức dầu Thánh Thần tấn phong, đã đi qua mọi nơi mà làm những phép lạ ban bố mọi ơn lành cho mọi người.

Phép rửa là khởi đầu, khai mào đời sống nghĩa tử của người tín hữu chúng ta. Cùng với Chúa Giêsu, chúng ta được trở nên con Thiên Chúa. Phép rửa dẫn chúng ta vào tương quan nghĩa tử với Thiên Chúa làm cho cuộc đời chúng ta được tràn ngập những quà tặng của Thánh Thần nâng đỡ cuộc đời trần thế của mình. Cuộc đời của người tín hữu là một hành trình thực hiện ơn gọi cao cả này, đó là được kết hợp với Đức Giêsu để sống ngay từ bây giờ tương quan con thảo của Thiên Chúa. Đây là hành trình cao cả và cũng rất đòi hỏi bởi vì chúng ta được mời gọi kết hợp với mầu nhiệm thập giá để được cùng chết và cùng phục sinh với Chúa Giêsu. Chúng ta thường nghĩ rằng phép rửa chỉ là một nghi thức đã qua, một nghi thức thực hiện xong rồi không cần phải nhớ lại những cam kết này làm gì nữa. Thực ra, phép rửa xác định căn tính của người kitô hữu, và họ phải cố gắng thực hiện hằng ngày căn tính này. Phép rửa là một sự dìm mình liên tục và sự đổi mới liên tục để càng lúc chúng ta càng được trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu. Có thể nói rằng chúng ta dùng cả cuộc đời của mình để thực hành sống mầu nhiệm này cũng là căn tính của cuộc đời kitô hữu của chúng ta. Cả cuộc đời, chúng ta không ngừng được mời gọi sống trung tín với Thiên Chúa bằng việc không ngừng kết hợp với Chúa Giêsu nhờ sự thúc đẩy của Thánh Thần mà chúng ta đã lãnh nhận trong phép Rửa. Phẩm giá của mỗi người thực là cao cả và chúng ta được mời gọi khám phá và sống căn tính này của mình theo bước chân của Chúa Giêsu.

Về mục lục

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-LỄ CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA

Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Hằng năm, vào Chúa Nhật I Thường Niên, chúng ta tưởng niệm biến cố Đức Giêsu chịu phép rửa. Phép rửa nầy được liên kết với cuộc tấn phong diễn ra trong một cuộc Thần Hiển. Đó là lý do tại sao các Giáo Hội Đông Phương cử hành việc Chúa Giêsu chịu phép rửa như một trong ba cuộc Thần Hiển: lễ Hiển Linh, lễ Đức Giêsu chịu phép rửa và lễ Chúa Giêsu Biến Hình.

Is 42: 1-4, 6-7

Bản văn I-sai-a tường thuật cuộc tấn phong của “người Chúa tuyển chọn” mà “Ngài hết lòng quí mến” và cho Thần Khí của Ngài ngự trên người ấy. Đây là một nhân vật bí ẩn mà vị ngôn sứ gọi là “Người Tôi Trung của Đức Chúa”.

Cv 10: 34-38

Bài Đọc II, được trích từ sách Công Vụ Tông Đồ, thuật lại bài giảng thuyết của thánh Phêrô ngỏ lời với ông Conêliô, viên quan bách quản Rôma, và toàn thể gia quyến của ông. Họ là những lương dân đầu tiên được đón nhận vào cộng đoàn Kitô hữu qua Phép Thánh Tẩy. Nhờ mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su Ki-tô, mọi người, bất kỳ ai, thuộc dân tộc nào, đều được mời gọi gia nhập vào dân Thiên Chúa.

Mc 1: 7-11

Thánh Mác-cô tường thuật biến cố Chúa Giê-su chịu phép rửa, để giới thiệu Ngài là “Người Tôi Trung” mà sấm ngôn I-sai-a đã loan báo.

 BÀI ĐỌC I (Is 42: 1-4, 6-7)

Bản văn này gợi lên một nhân vật mà Thiên Chúa gọi là “Người Tôi Trung của Ngài”, Ngài hết lòng quí mến và đổ tràn đầy Thần Trí của Ngài trên người ấy. Nơi nhân vật này, Thiên Chúa trao gởi một sứ mạng là thực thi công lý, bày tỏ tấm lòng nhân ái và đức khiêm nhu, để là ánh sáng chiếu soi muôn dân.

Đây là bài thơ đầu tiên trong bốn bài thơ về “Người Tôi Trung của Đức Chúa” trong tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a thời lưu đày (550-540 tCn), được gọi I-sai-a đệ nhị (Is 40-55). Bài thơ nầy được trích từ hai phân đoạn: trong phân đoạn thứ nhất (42: 1-4), Thiên Chúa giới thiệu Người Tôi Trung của Ngài; trong phân đoạn thứ hai (42: 6-7), Thiên Chúa ngỏ lời trực tiếp với nhân vật này.

Nhân vật này là ai? Thật ra, nhân vật bí ẩn nầy trong suốt nhiều thời đại đã được giải thích theo nhiều cách khác nhau: một nhân vật lịch sử là Ky-rô, vua Ba tư; hoặc Ít-ra-en, dân Chúa chọn; hay Đấng Mê-si-a. Đây là nét đặc trưng của các sấm ngôn vừa phát xuất từ những hoàn cảnh lịch sử chính xác vừa vượt qua những viễn cảnh đương thời.

1.Vua Ba Tư là Ky-rô

 “Người Tôi Trung” này được Thiên Chúa ban nhiều đặc ân, nhờ đó ông có thể phân xử muôn dân, sửa sai những lỗi lầm, vực dậy những kẻ bị áp bức, phóng thích những tù nhân, phục hưng Giao Ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài, và làm sáng tỏ công lý trước mặt muôn dân.

Hoàn cảnh lịch sử chính xác là cảnh lưu đày ở Ba-by-lon. Vị ngôn sứ ngỏ lời với những người lưu đày này, họ phải chịu một cuộc thử thách dài lâu và mòn mỏi đợi chờ cuộc giải phóng. Ông hứa với họ một nhà giải phóng. Toàn bộ văn mạch hướng về vị vua Ba tư là Kyrô, mà quyền lực của ông mỗi ngày mỗi lớn mạnh trên thế cuộc vùng Trung Đông.

Chương 41 trước đó ám chỉ rõ nét những chiến công lẫy lừng của vua Kyrô:

“Từ Phương Đông, ai đã cho xuất hiện người hùng

đi mở đường cho nền công chính?

….

Đao kiếm của ông làm chúng hóa ra như tro bụi,

cung nỏ của ông khiến chúng tán loạn tựa cọng rơm.

Ông đuổi bắt thù địch, ông tiến bước an toàn

Điều đó, ai đã thực hiện, ai đã làm nên?

….

Chính là Ta. Ta là Đức Chúa, Ta là khởi nguyên,

và giữa những người của thời sau hết, Ta vẫn là Ta” (Is 41: 2-4).

Chương 45 còn rõ ràng hơn:

“Đức Chúa nói với kẻ Người xức dầu, với vua Ky-rô

-Ta đã cầm lấy tay phải nó,

để bắt các dân tộc suy phục nó,

Ta tước khí giới của các vua,

mở toang các cửa thành trước mặt nó,

khiến các cổng không còn đóng kín nữa.

….

Vì lợi ích của tôi tớ Ta là Gia-cóp,

và của người Ta đã chọn là Ít-ra-en,

….

Dù ngươi không biết Ta, Ta đã trang bị cho ngươi đầy đủ,

để từ Đông sang Tây, thiên hạ biết rằng

chẳng có thần nào khác, ngoại trừ Ta.

Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác” (Is 45: 1-6).

Các biến cố sắp đến sẽ khẳng định dự đoán thời cuộc của vị ngôn sứ. Không bao lâu sau, vua Ba tư chiếm kinh thành Ba-by-lon mà không phải gặp bất cứ một kháng cự nào, và cũng không gây bất kỳ thiệt hại nào cho kinh thành. Ông thi hành chính sách “thu phục nhân tâm”. Vua Ky-rô không bao giờ sử dụng bạo lực. Xót thương đối với những người Ít-ra-en bị lưu đày như “cây sậy bị dập nát” và “tim đèn còn leo lét”, vua Ba tư tạo điều kiện thuận tiện cho họ trở về cố hương là Giê-ru-sa-lem.

  1. Dân Chúa chọn

Sau này, khi quá khứ mờ nhạt trong tâm trí, bản văn được đọc lại theo cách khác. Vị ngôn sứ chủ ý tặng ban danh hiệu “Người Tôi Trung” cho toàn thể dân Ít-ra-en với tư cách là dân Chúa chọn để là chứng nhân của Ngài cho muôn dân nước. Dung mạo Người Tôi Trung được xem như cá nhân hóa dân Chúa chọn mà Ngài nâng đỡ, sủng ái và ban Thần Trí của Ngài. Ngài đã “nắm tay” dân nhỏ bé này. Ở giữa các dân tộc, họ phải chu toàn sứ mạng của mình là trở nên ánh sáng muôn dân qua việc sống trọn niềm tin của mình vào một Thiên Chúa duy nhất và chân thật.

  1. Đấng Mêsia

Việc “Người Tôi Trung” này được nhận dạng ở nơi vua Ky-rô không tát cạn sự phong phú của bản văn, hay được cá nhân hóa ở nơi dân Chúa chọn cũng không hoàn toàn làm thỏa mãn. Quan trọng là đặt sứ điệp này được công bố vào trong những giờ phút nghiêm trọng.

Vào giữa thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên, kinh thành Giê-ru-sa-lem bị đánh chiếm và trở thành hoang phế; Đền Thờ bị thiêu hủy; một phần lớn dân cư bị lưu đày; vương quyền của nhà Đa-vít đã bị vùi dập trong phong ba bảo táp; niềm hy vọng vào Đấng Mê-si-a (Đấng được Thiên Chúa xức dầu tấn phong) được đặt vào vương quyền nhà Đa-vít đã bị sụp đổ.

Đây là thời điểm thuận tiện để nâng mặc khải lên đến một giai đoạn mới. Thiên Chúa sẽ can thiệp một cách bất ngờ: Ngài sẽ sai phái “Người Tôi Trung” đầy tràn Thần Khí của Ngài. Nhân vật nầy sẽ thực hiện sứ mạng thực thi công lý với tấm lòng khiêm nhu nhân hậu, dù bên ngoài có vẻ thất bại, chịu nhiều đau khổ (bài thơ thứ tư về Người Tôi Trung). Qua trực giác của vị ngôn sứ, khoa sư phạm của Thiên Chúa bước một bước tiến nhảy vọt. Những sấm ngôn xưa liên quan đến một hậu duệ của nhà Đa-vít không hoàn toàn bị bãi bỏ, nhưng những viễn cảnh mới mà sấm ngôn nầy hé mở, không dính dáng gì đến một quyền lực trần thế nhưng một vương quốc tinh thần.

Trong sách Tin Mừng của mình, thánh Mát-thêu trích dẫn sấm ngôn I-sai-a này (x. Mt 12: 18-21) để chứng minh rằng lời sấm được ứng nghiệm ở nơi con người của Đức Giê-su, sứ mạng của Ngài tuy được thực hiện một cách kín đáo nhưng “sẽ đưa công lý đến toàn thắng, và muôn dân đặt niềm hy vọng nơi danh Ngài”.

Khi chịu phép rửa bởi ông Gioan, Đức Giêsu thấy các tầng trời mở ra, Thần Khí ngự xuống trên mình và có tiếng từ trời phán: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. Bức tranh này mặc nhiên quy chiếu đến bản văn của I-sai-a. Đức Giê-su bắt đầu sứ mạng của “Người Tôi Trung”. Ngài sẽ chu toàn sứ mạng nầy khi thể hiện dung mạo “Người Tôi Trung chịu đau khổ” trong cuộc Khổ Nạn của mình.

BÀI ĐỌC II (Cv 10: 34-38)

Đoạn trích sách Công Vụ Tông Đồ nầy tường thuật một biến cố đánh dấu một khúc quanh quyết định trong lịch sử của Giáo Hội tiên khởi: đây là lần đầu tiên, một lương dân và toàn thể gia quyến của ông được chấp nhận gia nhập trực tiếp vào cộng đoàn Ki-tô hữu nhờ phép Thánh Tẩy mà không phải ngang qua phép cắt bì của Do thái giáo.

  1. Hoàn cảnh Giáo Hội vào lúc đó

Cho đến lúc đó, các Tông Đồ ngỏ lời với dân Do thái nhằm chứng minh cho họ biết rằng Đức Giê-su là Đấng Cứu Độ, ở nơi Ngài mọi lời Kinh Thánh được ứng nghiệm. Ki-tô giáo tiên khởi được định vị ở nơi sự nối dài của Do thái giáo. Chiều kích phổ quát đã được các thị kiến ngôn sứ mặc khải: rồi sẽ đến một ngày, muôn dân sẽ lên Đền Thờ Giê-ru-sa-lem mừng kính Đức Chúa đích thật. Vì thế, các Tông Đồ đã không hề nghĩ đến một tiến trình đảo ngược: chính họ phải đi đến với muôn dân loan báo Tin Mừng cho họ.

Ấy vậy, vị lãnh tụ Giáo Hội, thánh Phê-rô, phải nói là bị Chúa Thánh Thần thúc ép đến nhà một người ngoại giáo. Một viên quan Rô-ma, đồn trú ở Xê-da-rê, sai người đến mời thánh nhân đến nhà mình. Lúc đó, thánh Phê-rô đang ở Gia-phô, cách thành Xê-da-rê khoảng năm mươi cây số. Trong thời gian này, thánh nhân đang thực hiện cuộc kinh lý. Sau cuộc bách hại dữ dội đã giáng xuống cộng đoàn Giê-ru-sa-lem non trẻ vào mùa hè năm 36 hay mùa xuân năm 37 (thánh Tê-pha-nô, vị tử đạo đầu tiên vào thời gian nầy), một thời gian yên bình xảy đến. Thánh Phê-rô lợi dụng thời kỳ yên bình nầy để thăm viếng các cộng đoàn Ki-tô hữu non trẻ này.

  1. Một khúc quanh mang tính quyết định của Giáo Hội

Thánh Phê-rô đến nhà viên quan Rô-ma. Đây là lần đầu tiên thánh nhân bước qua ngưỡng của của một người chưa cắt bì, bất chấp những cấm kỵ lâu đời. Lệnh cấm không được tiếp xúc với những người chưa cắt bì không được ghi trong Lề Luật, nhưng từ tập quán và lời giải thích của các kinh sư, nhằm tránh tất cả mọi hình thức lây nhiễm ngoại giáo.

Đây là lần đầu tiên thánh nhân đem sứ điệp Tin Mừng đến một người ngoại giáo và toàn thể gia quyến của ông. Đối với thánh nhân, đây thật sự là một kinh nghiệm cảm động và đáng nhớ. Thánh nhân đã hiểu được ý định của Thiên Chúa là muốn cứu độ hết mọi người. Ngay tức khắc, thánh nhân mặc lấy cho hành động của mình một ý nghĩa thần học. Đây là phần mở đầu bài thuyết giáo của thánh nhân mà Phụng Vụ Lời Chúa đề nghị cho chúng ta suy niệm vào ngày lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa hôm nay.

  1. Chiều kích phổ quát của ơn cứu độ

“Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào. Nhưng hể ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì bất cứ họ thuộc dân tộc nào, cũng đều được Chúa tiếp nhận”. Lời khẳng định về sự bình đẳng giữa dân ngoại và dân Do thái này hình thành nên một thay đổi lớn lao. Quả thật, trước đây, thánh Phêrô, vốn là một người Do thái, chỉ nghĩ đến những đặc quyền đặc lợi dành riêng cho dân Chúa chọn; nay, vị lãnh tụ của Giáo Hội, được Thánh Thần thúc đẩy, chấp nhận và công bố sự thay đổi khôn sánh này.

Ông Co-nê-li-ô là một “cảm tình viên” của Do thái giáo, cũng được gọi “người kính sợ Chúa”. Đây là một người “ăn ngay ở lành” như bản văn xác nhận. Chắc chắn Thiên Chúa đã gửi “lời loan báo Tin Mừng trước tiên cho dân Ít-ra-en”. Thánh nhân muốn giải thích cho gia chủ và đồng thời muốn thanh minh quyền ưu tiên này: dân Ít-ra-en đã lãnh nhận một sứ mạng là chuẩn bị bình an giữa dân Do thái và muôn dân. Bình an nầy được hiện thực nhờ trung gian của Đức Giê-su Ki-tô, “Ngài là Chúa Tể muôn dân”.

  1. Quyền năng của Phép Rửa Kitô giáo

Tiếp đó, thánh Phê-rô tóm tắt các giai đoạn cuộc đời của Chúa Giêsu, bắt đầu từ việc Ngài được Thánh Thần xức dầu tấn phong khi lãnh nhận phép rửa trên dòng sông Giođan. Thánh Tông Đồ mở ra một viễn cảnh, đó sẽ mãi mãi là viễn cảnh của Giáo Hội: ân ban Thánh Thần không đơn giản là một sự thủ đắc, nhưng thật sự là một sức mạnh bùng nổ, một năng lực giúp hoàn thành sứ mạng: “làm chứng”“thi ân giáng phúc” và “chữa lành mọi kẻ bị ma quỉ kiềm chế”.

TIN MỪNG (Mc 1: 7-11)

Đoạn Tin Mừng hôm nay gồm hai hoạt cảnh được đan quyện vào nhau: phép rửa trong nước ở nơi dòng sông Gio-đan (1: 7-8) và phép rửa trong Thánh Thần ở nơi cuộc Thần Hiển (1: 9-11). Hai hoạt cảnh nầy tương phản với nhau. Hoạt cảnh thứ nhất là một cảnh tượng về sự khiêm hạ đến tột cùng: Đức Giê-su tự hạ mình xuống đến mức ngang hàng với tội nhân. Hoạt cảnh thứ hai là một cảnh tượng hùng vĩ của cuộc tấn phong.

  1. Phép rửa trong nước

Đức Giê-su đến từ làng Na-da-rét miền Ga-li-lê để xin Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho mình. Như vậy, khi muốn lãnh nhận phép rửa sám hối của ông Gioan, Đức Giê-su đã tự đặt mình vào hàng các tội nhân. Cách hành xử này là yếu tố khởi đầu sứ mạng Cứu Độ. Kể từ lúc đó, Đức Giê-su muốn đón nhận ở nơi bản thân mình mọi tội lỗi của con người. Đây là bước đầu tiên sẽ dẫn Ngài đến núi Sọ để chịu một phép rửa khác: phép rửa bằng máu.

Chính Đức Giêsu đã sánh ví cuộc Tử Nạn của Ngài với một phép rửa: “Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc nầy hoàn tất” (Lc 12: 50). Đức Giê-su công bố với ông Gia-cô-bê và ông Gioan: “Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” (Mc 10: 38). Động từ “rửa” theo nguyên ngữ là “ngụp lặn”“nhận chìm”. Đức Giê-su muốn nói rằng Ngài sẽ nhận chìm mình vào trong vực thẳm đau khổ.

Từ phép rửa trong nước đến phép rửa bằng máu, đó là tiến trình cuộc đời của Đức Giê-su Ki-tô. Ở nơi hoạt cảnh phép rửa trong dòng sông Gio-đan ẩn chứa một hậu cảnh bi thảm của thập giá.

  1. Phép rửa trong Thánh Thần

Cả bốn sách Tin Mừng đều tường thuật hoạt cảnh này, điều đó nói lên tầm quan trọng mà các ngài đã dành cho giờ phút quyết định nầy về ơn gọi của Đức Giê-su. Cảnh tượng được mô tả thật hùng vĩ: “Vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng trời mở tung ra và thấy Thần Khí tựa như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”.

Theo truyền thống Do thái, các tầng trời đóng lại với vị ngôn sứ cuối cùng là Ma-la-khi, nghĩa là chấm dứt mọi giao tiếp giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Trong thời gian này, dân Do thái cất lên lời khẩn nguyện thiết tha: “Lạy Chúa, xin hãy xé trời mà đến”. Như vậy, biến cố “Đức Giê-su chịu phép rửa” đánh dấu một khúc quanh mới: “các tầng trời mở tung ra”, nghĩa là mối tương giao giữa Thiên Chúa và con người được nối lại.

Quả thật, Đức Giê-su được thụ thai và sinh hạ bởi quyền năng Chúa Thánh Thần, nhưng trong cuộc sống ẩn dật, Chúa Thánh Thần đã không công khai tỏ mình ra. Vào ngày Ngài chịu phép rửa của ông Gioan, đánh dấu khởi điểm sứ mạng mình, Đức Giê-su cần sức mạnh của Chúa Thánh Thần: “Thần Khí tựa như chim bồ câu ngự xuống trên Ngài”.

Một số người thấy ở nơi hình ảnh “chim bồ câu” là con chim hòa bình mà ông Nô-ê thả trên nước lũ của trận Đại Hồng Thủy (St 8: 8-11). Những người khác nghĩ rằng hình ảnh nầy nhắc nhớ “Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” trong công trình sáng tạo (St 1: 2). Dù hình ảnh nào thì việc Thần Khí ngự xuống trên Đức Giêsu khai mào một kỷ nguyên mới của Ơn Cứu Độ.

Quả thật, trong Cựu Ước, chúng ta gặp thấy nhiều hình ảnh tiên trưng của phép Thánh Tẩy: từ nước của trận Đại Hồng Thủy, xuất hiện một nhân loại mới khởi đi từ ông Nô-ê; từ nước của Biển Đỏ, một nhân loại mới được khai sinh. Cũng vậy, vừa ra khỏi dòng nước sông Gio-đan, Đức Giê-su khai mạc một nhân loại mà Ngài sẽ tái sinh.

  1. Ba cuộc tấn phong đồng lúc

Như vậy, trong biến cố nầy, Đức Giêsu lãnh nhận ba cuộc tấn phong đồng một lúc:

– “Cuộc tấn phong với tư cách Con Thiên Chúa”: Tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con yêu dấu của Cha”. Trước hết, “tiếng từ trời” có nghĩa chính Thiên Chúa, đây là cách thức người Do thái bày tỏ niềm tôn kính đối với Thiên Chúa mà họ không dám nêu tên Ngài. Tiếp đó, “Con yêu dấu” gợi lại I-sa-ác, đứa con duy nhất, đứa con yêu quý của ông Áp-ra-ham mà Thiên Chúa truyền lệnh cho ông ra đi hiến tế trên núi mà Ngài sẽ chỉ cho (St 22: 2).

Chúng ta cũng vậy, vào lúc chịu phép Thánh Tẩy, chúng ta cũng được Chúa Cha gọi “Con yêu quý” ở nơi người Con Một, Con yêu quý của Ngài là Đức Giê-su Ki-tô.

– “Cuộc tấn phong với tư cách Vua-Mê-si-a”: Chẳng ngẫu nhiên một chút nào khi tiếng phán từ trời cất lên bằng những từ ngữ mà xưa kia một vị vua được phong vương:

“Tân vương lên tiếng: Tôi xin đọc sắc phong của Chúa,

Người phán với tôi rằng: “Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Tv 2: 7).

Vị Vua-Mê-si-a mà các ngôn sứ loan báo, hậu duệ của nhà Đa-vít nầy, chính là Đức Giê-su. Nhưng Ngài sẽ công bố mình là vua chỉ khi bị xiềng xích và bị điệu ra trước Thượng Hội Đồng Do thái (Mc 14: 61-62) và trước tổng trấn Phi-la-tô (Mc 15: 2).

– “Cuộc tấn phong với tư cách người tôi trung”: Những lời “Cha hài lòng về Con” nhắc nhớ sự tuyển chọn của Người Tôi Trung trong bản văn của I-sai-a (Bài Đọc I).

4.Phép rửa trong cuộc Thần Hiển của Ba Ngôi Thiên Chúa:

Phụng Vụ Đông Phương cử hành lễ Chúa Giê-su chịu phép rửa như ngày lễ Thiên Chúa Ba Ngôi. Quả thật, đây là lần đầu tiên trong Kinh Thánh, Ba Ngôi Thiên Chúa đồng hiện diện trong biến cố nầy. Việc Đức Giê-su chịu phép rửa trong dòng sông Gio-đan được đánh dấu bởi cuộc Thần Hiển của Ba Ngôi Thiên Chúa. Cuộc Thần Hiển này loan báo phép Rửa Ki-tô giáo phù hợp với lời dạy của Đức Giê-su Phục Sinh cho các môn đệ Ngài vào lúc Ngài từ giả các ông mà lên trời: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành muôn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28: 18-20).

Việc nhận chìm vào trong nước và bước ra khỏi nước là biểu tượng của sự chết và sự tái sinh. Hy tế của Đức Giê-su đã đem lại cho biểu tượng nầy tất cả mọi giá trị của nó. Thánh Phao-lô giải thích rõ ràng điều này: “Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6: 4). Thật ý nghĩa biết bao khi nghi thức Thánh Tẩy được cử hành vào lễ Đêm Vọng Phục Sinh.

Về mục lục

CHÚA CHỊU PHÉP RỬA VÌ TỘI LỖI MUÔN DÂN

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Giờ đây, chúng ta hãy ngược dòng lịch sử, cùng đến bên bờ sông Gio-đan để chiêm ngắm Chúa Giê-su chịu phép rửa.

Xin hãy nhìn xem:

Đấng tạo dựng vũ trụ càn khôn cao sang vô lượng, quyền phép vô song, vua chúa trần gian chỉ như cát bụi trước mặt Ngài… đang hòa mình với loài thụ tạo mọn hèn thấp kém để chờ được thanh tẩy trong dòng sông Gio-đan;

Đấng tinh tuyền, thánh thiện và rất đỗi tốt lành… đang đứng chung với những người đê hèn, tội lỗi bày tỏ lòng ăn năn sám hối;

Con Người hoàn toàn vô tội và rất cao cả ấy đã khiêm tốn nài xin một người phàm như Gioan làm phép Rửa cho mình! (Ga 3, 13).

Tại sao Chúa Giê-su lại hạ mình đến thế?

Những người thu thuế, trộm cướp, tội lỗi đến xin Gioan tẩy giả làm phép rửa cho mình vì họ là những người có tội; còn Chúa Giê-su thì có tội gì mà phải chịu phép rửa?

Chúa Giê-su chịu phép rửa không phải vì tội lỗi của Ngài mà vì tội lỗi của muôn người mà Ngài đã mang vào thân; cũng như Chúa Giê-su chịu khổ nạn quá đỗi đau thương và chịu chết thê thảm trên thập giá không phải vì tội lỗi của Ngài mà vì để đền tội thay và chết thay cho muôn người.

Sự kiện Chúa Giê-su chấp nhận chịu phép Rửa nói lên tâm nguyện Ngài sẵn sàng vâng lời Chúa Cha trong mọi sự, chấp nhận mang tội lỗi của nhân loại vào thân, sẵn sàng hy sinh mạng sống để đền tội thay cho muôn người, nhờ đó, nhân loại được giao hòa với Chúa Cha và được sống đời đời trên nơi vinh hiển…

Điều này khiến Chúa Cha rất đỗi hài lòng. Thế là các tầng trời bị đóng lại từ khi nguyên tổ phạm tội giờ được mở ra; Chúa Thánh Thần hiện xuống trên Chúa Giê-su và Chúa Cha bày tỏ niềm hoan lạc của Ngài và long trọng tuyên bố: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Ngài” (Mt 3,17).

Đây là thời khắc lịch sử hết sức trọng đại: Cửa thiên cung từ ngàn xưa đã đóng chặt lại vì tội bất phục tùng của A-đam cũ, cắt đứt mọi tương quan giữa Thiên Chúa và loài người, thì ngay trong giờ phút lịch sử này, nhờ sự vâng phục tuyệt đối của A-đam-mới là Chúa Giê-su mà cửa trời được mở ra, mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên giao hoà giữa Thiên Chúa và nhân loại. Từ đây tương quan giữa Thiên Chúa  và con người được nối lại, Trời giao hoà với đất, Thiên Chúa giao hoà với con người, con người được trở về với Thiên Chúa là Nguồn Cội của mình.

Lạy Chúa Giê-su,

Hình ảnh Chúa vô cùng tốt lành thánh thiện mà lại hòa mình với các tội nhân bên bờ sông Gio-đan và khiêm tốn bước xuống dòng nước lãnh nhận phép rửa của Gioan là một lời mời gọi mỗi người chúng con phải xóa bỏ cái tôi kiêu căng tự phụ của mình để biết nhận tội và thành tâm sám hối.

Chúa đã mang lấy tội lỗi chúng con, chịu thanh tẩy và chịu chết vì chúng con thì xin cho chúng con cũng chấp nhận chịu đựng khó khăn gian khổ hằng ngày với Chúa và hợp tác với Chúa trong việc cứu rỗi các linh hồn.

Về mục lục

DÒNG SÔNG TRUYỀN THỐNG ĐỨC TIN

Lm. JB Nguyễn Minh Hùng

Nổi tiếng trong Kinh Thánh, sông Giodan là dòng sông của truyền thống đức tin. Vì thế, nó trở thành dòng sông quen thuộc đối với các Kitô hữu.

Dòng sông truyền thống đức tin còn như biểu tượng, như phần thân thể của Palestine, gắn liền những sự kiện quan trọng của Kinh Thánh từ đầu lịch sử cứu độ, khi Thiên Chúa tuyển chọn dân Do thái làm dân riêng. Chẳng hạn:

– Trước ngày Sodoma, Gomora bị hủy diệt, tổ phụ Abraham chia tay cháu là ông Lot ở sông Giođan. Ông Lot đi về phía đông sông lập nghiệp (St 13,10).

– Trước khi tiến chiếm đất hứa, Israel vượt sông Giođan. Dòng sông nước lớn đến nỗi nước “tràn ra hai bên bờ”, bỗng ngừng chảy, dựng đứng như tường thành, đoàn dân vượt qua ráo chân (Gs 3,14-17).

– Dòng sông là ranh giới cản người du mục vào Canaan cướp bóc. Để tránh bị quấy nhiễu, Israel nương náu bên kia tả ngạn sông (Tl 6,33; 2Sm 17,22). Sông được xem như sự che chở hiệu quả và cần thiết (Gr 12,5; 49,19; 50,44).

– Tướng quân Naaman người Aran vâng lời tiên tri Êlisê đến Giođan tắm bảy lần. Sau bảy lần, vị tướng khỏi bệnh phong cùi (2V 5,1-19).

– Trong thị kiến, tiên tri Êdêkiel thấy sức sống mãnh liệt của Giođan. Nước sông chảy đến đâu, sự sống ở đó sinh sôi phú túc, dồi dào (Ed 47).
Giodan, sức sống cả vùng đất, đời sống cả dân tộc, biết bao câu chuyện tải đi từ đó. Đúng là dòng sông huyền thoại và thiêng thánh. Dòng sông chuyên chở truyền thống đức tin…
Khởi đầu Tân Ước, chính tại dòng sông truyền thống đức tin, Chúa Kitô khai mạc sứ vụ công khai của mình bằng nhiều nghi thức chưa từng có:

– Đứng chung trong đoàn người muốn tỏ lòng sám hối, chờ đến lượt mình chịu phép rửa, dù bản thân chính là Đấng Thánh, Đấng mà lẽ ra người đang cử hành phép rửa phải đến xin Phép Rửa.

– Không thực hiện hành vi siêu việt như ông Môisen hay ông Giôsua giơ tay rẽ nước, nhưng cùng mọi người dìm mình xuống nước.

– Thực sự đón nhận phép rửa bởi tay thánh Gioan, một người như bao người, đang cần chính mình tẩy rửa.

– Tham dự nghi thức kỳ diệu, quyền linh và ánh sáng chưa từng có: Được Thiên Chúa từ trời công khai giới thiệu và xác nhận uy hùng như tiếng sấm, giữa lúc trời xé ra: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con“.

– Cùng Cha và Thánh Thần, Chúa Kitô hiện diện trong ngày khai mạc sứ vụ trên dòng sông truyền thống đức tin còn là dấu ấn mạc khải mầu nhiệm cao trọng: Thiên Chúa Ba Ngôi Cha – Con – Thánh Thần.

– Qua việc được mạc khải long trọng về thân thế Ngôi Hai, Thiên Chúa cho thấy sứ vụ cứu độ trần thế chỉ một mình Chúa Kitô đảm nhận. Chúa Kitô chính là Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến, gánh tội trần gian và phục sinh những ai tin nhận Người trong sự sống viên mãn nơi chính cung lòng Thiên Chúa.

– Ngôi Lời, một khi trầm mình dưới dòng nước nhận lãnh phép rửa bởi con người, đã thánh hóa nước. Nước thành phương tiện thánh đưa con người qua bí tích thánh tẩy, đồng phận và cùng làm con của Thiên Chúa với Người.

– Dòng sông truyền thống đức tin, giờ đây có sự hiển linh của Ba Ngôi.
Phần những người tin Chúa Kitô, được Chúa Kitô cứu rỗi, hãy học lấy cách thức làm Thiên Chúa hài lòng của Chúa Kitô. Nhờ đó, chúng ta sẽ dễ đạt tới ơn cứu rỗi, dễ được Thiên Chúa hài lòng, dễ bước vào đời sống yêu thương vốn nội tại bền bỉ nơi lòng Thiên Chúa. Xin gợi vài bài học theo gương Chúa Kitô:

– Luôn ghi nhớ, ấp ủ lời Chúa Kitô dạy để mỗi ngày sống là sống với Lời Chúa, mỗi suy nghĩ hay hành động là những phản chiếu của Lời Chúa.

– Tin tưởng, phó thác đời ta trong tay Thiên Chúa như Chúa Kitô, để va vào hoàn cảnh nào, đều được ta đón nhận như lời ca tụng Chúa qua từng ngày sống.

– Đón nhận thánh ý Chúa dù buồn hay vui. Luôn xác nhận, chỉ thánh ý Chúa là chuẩn mực duy nhất để ta dựa vào mà phản ứng, hành động, suy tư.

– Chúa Kitô, không chỉ khiêm hạ dìm mình trong dòng nước truyền thống đức tin, Người chấp nhận đi đến cùng con đường thập giá đớn đau, tủi nhục. Ta tập sống khiêm nhường để thắng thói kiêu ngạo khiến ta xa Thiên Chúa, mất ơn cứu độ, không còn tương quan với anh chị em.

– Luôn xác tín, dòng nước truyền thống đức tin không còn là nước sông Giodan, nhưng là nước thanh tẩy trong bí tích rửa tội. Xác tín đó cho ta hãnh diện mình là con Thiên Chúa, đồng phận với Chúa Kitô. Xác tín như vậy giúp ta biết mình phải làm gì, phải sống thế nào để được Thiên Chúa hài lòng.

Ước mong ngày ta diện kiến với Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ phán bằng lời đã phán với Chúa Kitô: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con“.

Về mục lục

LỄ CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Tiên tri Isaia đã loan báo về một người tôi tớ khiêm nhu, hiền lành và đầy lòng xót thương. Thiên Chúa đã chọn và rất hài lòng về người. Hơn 700 năm trước khi Đấng Cứu Thế giáng trần, Thiên Chúa đã mạc khải cho dân chúng với niềm hy vọng đón chờ ơn cứu độ. Mầu nhiệm cứu độ trải dài từ dòng dõi này đến dòng dõi khác. Lời hứa đó được thực hiện một cách tiệm tiến qua lịch sử của một dân tộc. Qua đời cha tới đời con, cho dù nhiều lần họ đã sa ngã và bội phản, Thiên Chúa luôn ưu ái dẫn dắt và hướng dẫn mở đường đưa dẫn vào ngõ hẹp của sự sống vĩnh cửu. Người tôi tớ mà tiên tri Isaia nhắc đến trong bài ca thứ nhất của Người Tôi Trung là hình bóng của Đấng sẽ được sai đến.

Người tôi tớ hiền lành, nhẫn nại và khoan dung: Cây lau bị dập, nó không đành bẻ gẫy, tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ tắt đi. Nó sẽ trung thành làm sáng tỏ công lý (Is 42,3). Trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa, tiên tri Isaia đã được chọn và gọi làm ngôn sứ. Trải qua bao nhiêu đắng cay, thử thách và khổ đau, ngày giải thoát vẫn như còn trong giấc mộng. Isaia khơi dậy niềm hy vọng cho dân chúng đang sống trong lầm than chán nản. Tiên tri đã ủi an và dẫn dắt dân trở về cùng Chúa trong sự cậy trông và phó thác. Thiên Chúa sẽ không đánh phạt con dân nhưng Ngài ôm ấp yêu thương với lòng từ bi nhân hậu. Niềm hy vọng luôn là điểm tựa cho mọi nỗ lực để đạt tới cùng đích.

Thánh Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu: Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người (Mc 1, 7). Lời Thiên Chúa hứa thuở xưa, nay đã được thực hiện. Đấng Cứu Thế xuất hiện như một con người bình thường nhưng đầy quyền năng. Ngài được sinh ra, lớn lên và trưởng thành. Ngài cùng chia sẻ cuộc sống với mọi người trong xóm làng, cùng đồng bàn với những người bà con thân bằng quyến thuộc và cùng lao động kiếm sống qua ngày. Ngài xuất hiện đó nhưng chẳng mấy ai nhận biết Ngài. Ngài âm thầm đi vào đời và chia sẻ cuộc sống nghèo nàn đạm bạc với mọi người. Ngài kiên nhẫn đợi chờ cho tới tuổi trưởng thành, tuổi tam thập như lập, để xuất hiện rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Gioan Tẩy Giả đã được nhận sứ mệnh làm tiền hô cho Ngài.

Gioan Tẩy Giả khiêm hạ tự nhận thân phận là người dọn đường và sửa đường. Gioan đã làm chứng thật: Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần (Mc 1, 8). Gioan kêu gọi sự sám hối vì Nước Trời đã gần kề. Gioan đã làm nghi thức qua phép rửa thống hối. Nhiều người đã ăn năn cải đổi đời sống và chạy đến với ông để xin lãnh nhận phép rửa. Tại bờ sông Giođan, với một thái độ khiêm nhu tự hạ, Chúa Giêsu xuất hiện xếp hàng chờ đợi nhận lãnh phép rửa của Gioan. Gioan đã nhận biết Ngài qua sự mạc khải từ trời cao: Vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Lại có tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” (Mc 1, 10-11).

Chúa Giêsu hạ mình lãnh nhận phép rửa sám hối của Gioan tẩy giả, Chúa đã nêu tấm gương của sự khiêm tốn tới tận cùng. Chính Chúa Giêsu có quyền năng tẩy sạch tâm hồn và biến đổi chúng ta trở nên con cái của Thiên Chúa. Thánh Maccô viết: Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần (Mc 1, 8). Chúa Giêsu đã sai các môn đệ ra đi làm phép rửa cho mọi người: Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần (Mt 28, 19).

Qua hai ngàn năm, Giáo hội tiếp tục thi hành lệnh truyền của Chúa Giêsu, đã có hàng hàng lớp lớp con người nhận lãnh ơn phép Rửa tội. Họ đã trở thành các Kitô hữu, được tắm gội trong ân sủng của Thiên Chúa Ba Ngôi. Bí tích Rửa tội là cửa ngõ dẫn chúng ta bước vào con đường cứu độ. Khi được lãnh nhận ơn thánh hóa, được sạch tội tổ tông, các tội riêng và được trở nên thành viên của Nhiệm Thể Chúa Kitô và sau cùng được lãnh ơn cứu độ. Qua Phép Rửa tội, ta được sinh lại làm con Chúa và con Hội Thánh. Chúng ta tôn thờ một Thiên Chúa, giữ một đức tin và cùng một niềm hy vọng.

Khi đã lãnh nhận bí tích Rửa tội, mỗi người chúng ta đều có bổn phận sống đạo và làm nhân chứng cho Chúa Kitô giữa dòng đời. Mang danh là Kitô hữu, chúng ta có Chúa Kitô hiện diện trong đời sống. Chúng ta đặt niềm tin tưởng nơi Chúa Kitô, Ngài là đầu nhiệm thể và chúng ta là các chi thể. Các chi thể phải luôn liên kết với đầu để có được sự sống dồi dào và viên mãn. Xin Chúa Kitô kết hợp chúng con nên một trong Chúa và cùng hợp nhất với nhau trong một Thánh Thần, một phép rửa và một tình yêu. Amen.

Về mục lục

 

THỜI ĐẠI MỚI

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

Chúa nhật tuần trước, chúng ta đã cử hành lễ Hiển Linh, Chúa Giêsu hài nhi được giới thiệu cho muôn dân mà đại diện là ba nhà đạo sĩ. Hôm nay, chúng ta cử hành một cuộc « thần hiện » khác qua việc Chúa Giêsu chịu phép rửa. Sự kiện này được trình bày như một nghi thức phong vương long trọng. Qua nghi thức này, chính Chúa Cha giới thiệu với nhân loại về Chúa Con và sứ mạng của Người.

Dưới ngòi bút của thánh sử Maccô, Chúa Giêsu được diễn tả như một Môisen mới. Nếu ông Môisen trong Cựu Ước đã dẫn Dân Thánh đi qua biển đỏ, thì nay, Chúa Giêsu cũng dẫn nhân loại vượt qua tội lỗi đến đạt tới sự thánh thiện. Cách nói « Vừa lên khỏi nước » gắn liền với nghi thức thanh tẩy Chúa Giêsu đã lãnh nhận từ tay ông Gioan Tẩy giả, phần nào muốn nhấn mạnh đến cuộc vượt qua biển đỏ của dân Do Thái trong lịch sử.

Chi tiết kể lại việc « Chúa Giêsu thấy tầng trời mở ra » có ý nghĩa tượng trưng rất sâu sắc : theo truyền thống Do Thái, cửa trời đã đóng lại sau những vị ngôn sứ cuối cùng (Agê, Giacaria, Malakia) ở thế kỷ thứ V trước Công nguyên. Mối liên hệ giữa Thiên Chúa và con người cũng vì thế mà gián đoạn. Trước khi Chúa Giêsu đến trần gian, dường như hoạt động của Thần Khí đã bị ngưng lại. Với Chúa Giêsu, mọi sự đã thay đổi. Kỷ nguyên mới đã khai mào. Việc các tầng trời mở ra (nguyên văn tiếng Hy lạp: trời xé toạc ra) chứng minh cho thấy mối liên hệ giữa Thiên Chúa và con người được nối lại. Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giêsu như dấu hiệu của thời cứu rỗi và của cuộc sáng tạo mới. Hình ảnh Chúa Thánh Thần ngự xuống nơi Chúa Giêsu dường như phác họa lại thời hoang sơ, trước khi Thiên Chúa thực hiện công trình sáng tạo của Người : « Thần Khí Chúa bay là là trên vực thẳm hỗn mang » (St 1,2). Việc Chúa Thánh Thần dưới hình dạng chim bồ câu giúp chúng ta liên tưởng đến con chim ngậm cành ôliu sau trận Đại hồng thủy trong Cựu Ước. Thần Khí Chúa đến để loan báo cho nhân loại biết thời gian trừng phạt của Chúa đã mãn (x.St 8,8-11). Cũng giống như nước hồng thủy đã rút và một nhân loại mới tinh tuyền thánh thiện đã khởi đầu, thời kỳ cứu độ trong ân sủng đã khai mào trong Chúa Giêsu và nhờ Chúa Giêsu. Vì vậy, từ thời các Giáo phụ, trận lụt Đại hồng thủy, cũng như cuộc vượt qua Biển Đỏ, đã được chú giải như hình bóng của bí tích Thanh tẩy của các Kitô hữu.

Một chi tiết rất quan trọng trong trình thuật Chúa Giêsu chịu phép rửa, đó là tiếng nói từ trời. « Tiếng nói từ trời » là cách diễn tả Thiên Chúa của người Do Thái, như kiểu người Việt chúng ta tránh phạm húy. « Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con ». Những người hiện diện hôm đó ở bờ sông Giođan, khi nghe câu tuyên bố của Chúa Cha, chắc chắn liên tưởng đến những lời của Cựu Ước : « Con là con Ta, hôm nay Ta đã hạ sinh ra con » (Tv 2,7) ; hoặc :  « Đây là tôi tớ mà Ta tuyển chọn. Ta hài lòng về Người » (Is 42,1-2).

Vì những chú giải ở trên, sự kiện Chúa Giêsu chịu phép rửa được hiểu như một cuộc « thần hiện », qua đó, sứ mạng của Chúa Giêsu được giới thiệu cho cả nhân loại. Người là Đấng Cứu độ trần gian. Người đã khởi đầu sứ mạng một cách rất khiêm tốn, hòa vào dòng người đang nhận mình là tội nhân và sám hối bằng cách dìm mình xuống dòng sông để được thanh tẩy.

Thánh sử Maccô cũng đã nhìn thấy bản chất siêu nhiên của bí tích Thanh Tẩy Kitô giáo, khi ghi lại lời của Gioan Tẩy giả : « Tôi thì tôi đã làm phép rửa cho anh em bằng nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần ». Như vậy, trong nghi thức Thanh tẩy, linh mục chủ sự chỉ đóng vai trò như ông Gioan Tẩy giả, còn chính Chúa Giêsu thanh tẩy chúng ta và ban cho chúng ta Chúa Thánh Thần. Nhờ việc ban Chúa Thánh Thần, chúng ta trở nên những người con cái của Thiên Chúa, là người đồng thừa tự với Chúa Giêsu, tức là cùng với Người hưởng gia nghiệp vĩnh cửu mà Chúa hứa ban cho những ai yêu mến Ngài. Nhờ Chúa Giêsu và trong Chúa Giêsu, chúng ta cũng trở nên những người con yêu dấu của Chúa Cha. Nhờ bí tích Thanh tẩy, chúng ta chấm dứt cuộc sống cũ và bước sang thời đại mới, thời đại của ơn cứu rỗi. Huyền nhiệm vinh dự của phép Thanh tẩy chỉ có thể cảm nhận bằng Đức Tin, vì « Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối của các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi chừng ấy » (Bài đọc I).

Là Kitô hữu, chúng ta là những người tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu ở trần gian. Bí tích Thanh tẩy ban cho chúng ta danh dự vinh quang, đồng thời cũng trao cho chúng ta trách nhiệm hãy sống xứng đáng với danh hiệu Kitô hữu. Bởi nhờ được thanh tẩy trong Thánh Thần, chúng ta nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, trở nên hiện thân của Người giữa trần gian, để đem niềm vui và hy vọng đến cho cuộc đời.

Về mục lục

.

PHÉP RỬA KHIÊM NHƯỜNG

 Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Sông Gio-đăng, tiếng Do Thái là “yarad” có nghĩa là đi xuống. Sông Gio-đăng phát nguồn từ ngọn núi Héc-mon ở độ cao 520m. suốt 220km đường dài dòng sông không ngừng đi xuống. Thoạt tiên sông chảy vào hồ Hu-lê chỉ còn 68m trên mực nước biển. Kế đó sông chảy vào biển hồ Galilê, nơi Chúa Giêsu thường qua lại, và các tông đồ thường chài lưới. Ở đây lòng hồ sâu 212m dưới mực nước biển. Sông tiếp tục chảy xuống miền Nam, đổ vào Biển Chết. Ở đây độ sâu là 394m dưới mức nước biển. Có thể nói đây là điểm thấp nhất của địa cầu.

Khi Chúa Giêsu bước xuống sông Gio-đăng để chịu phép rửa, Người đã xuống chỗ thấp nhất không chỉ về chiều sâu theo không gian địa lý mà còn về chiều sâu tâm lý xã hội. Bước xuống để Gioan Baotixita làm phép rửa tội, Chúa Giêsu đã hoà mình vào dòng thác người tội lỗi, cần thống hối ăn năn. Tuy đến để cứu độ người tội lỗi, nhưng Chúa Giêsu không cho mình quyền đứng trên kẻ tội lỗi. Người đã hạ mình xuống ngang hàng với họ, liên đới với họ và trở nên anh em của họ. Không ai nhận ra Người. Mọi người đều cho rằng Người là một trong những kẻ tội lỗi.

Trong đêm Giáng Sinh, ta được chứng kiến một Thiên Chúa hạ mình xuống làm người. Làm một người bé nhỏ nghèo hèn như chưa đủ đối với tình yêu thương vô biên của Thiên Chúa, nên hôm nay người lại hạ mình xuống thêm một bậc nữa, xuống tận đáy xã hội nhân loại khi nhận mình tội lỗi.

Hôm nay, bắt đầu cuộc đời công khai của Chúa Giêsu. Người bắt đầu xuất hiện để rao giảng Tin Mừng. Trước khi tiến ra gặp gỡ quần chúng, Chúa Giêsu đã tới gìm mình trong dòng sông Gio-đăng. Để chuẩn bị ra gặp loài người Chúa Giêsu cảm thấy cần phải thanh tẩy. Mặc lấy xác phàm, Chúa Giêsu chưa cảm thấy mình gần với nhân loại cho đủ. Người còn hạ mình xuống làm một người tội lỗi. Người gìm mình xuống lòng sông Gio-đăng, dường như muốn mượn làn nước trong xanh tẩy sạch đi tất cả dáng vẻ cao quý của Thiên Chúa còn vương vấn nơi thân xác nhân loại của Người. Tẩy sạch đi tất cả những gì ngăn cách, để Người được thực sự là một người anh em của mọi người.

Dòng nước sông Gio-đăng có trong xanh đến mấy cũng đâu đủ sức rửa Thiên Chúa làm người. Thực ra chính Người tự rửa mình bằng sự khiêm nhường thẳm sâu. Khiêm nhướng là một phép rửa. Vì khiêm nhường là sự quên mình, là chết đi một chút. Gìm mình vào dòng sông là chấp nhận đau khổ và chết đi. Cái chết chính là phép rửa như Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Thầy còn phải chịu một phép rửa, và Thầy những bồn chồn chờ đến lúc hoàn tất” (Lc 12,50). Người còn hỏi hai ông Gioan và Giacôbê khi hai ông này đến xin được ngồi bên tả, bên hữu trong nước Người: “Các ngươi có thể uống chén Ta uống và chịu thanh tẩy thứ thanh tẩy Ta phải chịu không?” (Mc 10,38). Khi nói thế Chúa Giêsu có ý nói đến cái chết Người sẽ phải chịu.

Một câu châm ngôn nói; Không ai thấy được tình yêu. Người ta chỉ thấy được những bằng chứng của tình yêu. Bằng chứng tình yêu của Chúa Giêsu đối với ta đó là sự hạ sinh làm một em bé nghèo hèn yếu ớt. Đó là sự khiêm nhường hoà mình vào đoàn lũ những tội nhân tới gìm mình trong dòng sông Gio-đăng. Tình yêu đã thúc đẩy Người đi những bước táo bạo, bất ngờ. Mượn dòng nước sám hối xoá đi mọi khoảng cách còn lại giữa Thiên Chúa và con người.

Cử chỉ khiêm nhường của Người là một lời mời gọi ta. Nếu ta cảm thấy mình còn xa cách Chúa. Nếu ta cảm thấy mình cần được thanh tẩy. Đừng ngần ngại thay đổi đời sống. Hãy mạnh dạn tiến đến lãnh nhận phép rửa của Chúa Giêsu để trở nên gần gũi với Người. Nếu ta chưa thể lãnh nhận phép rửa trong cái chết tủi nhục như Chúa Giêsu, ta vẫn có thể được thanh tẩy trong phép rửa khiêm nhường. Hãy rửa mình trong dòng lệ sám hối. Hãy tắm mình trong dòng nước khiêm cung. Như lời vua Đavit nói: “Lễ dâng Chúa là tâm hồn sám hối. Một tấm lòng tan nát giày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê” (Tv 50)/

Khiêm nhường sám hối là bước khởi đầu để ta đón nhận Phúc Âm. Khiêm nhường sám hối là quay trở về nhà Cha, sống trọn tâm tình của người con thảo hiếu. Khi khiêm nhường trở về, ta sẽ gặp được người Cha nhân hậu đang đứng chờ ta. Người sẽ nói về ta như nói về Chúa Giêsu: “Đây là con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về con”.

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con biết đến với Chúa và đến với anh em bằng sự khiêm nhường sám hối. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1/ Chúa Giêsu không ngừng đi xuống. Còn bạn, bạn có tự hạ, hay là lúc nào bạn cũng muốn gìm người khác xuống?
2/ Làm thế nào để trở nên “Con yêu dấu” của Đức Chúa Cha?
3/ Hằng ngày, bạn có cảm thấy cần phải chịu phép rửa khiêm nhường của Chúa Giêsu không
?

Về mục lục

.

LỄ CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA

Lm. Antôn, giáo xứ thánh Giuse, Tulsa

Ông bà anh chị em thân mến. Lễ Chúa Giê-su chịu Phép rửa hôm nay kết thúc mùa Giáng sinh, bắt đầu cho phần đầu của mùa thường niên, và đánh dấu cho thời điểm khởi đầu thi hành sứ mạng của Chúa Giê-su mà Thiên Chúa Cha đã giao phó cho Người. Thời điểm và phép rửa của Chúa có một tầm quan trọng đặc biệt vì chúng ta biết được căn tính Người là ai, cũng như biết được sứ mệnh và chủ đích những hoạt động tương lai của Ngài.

Khác với những bài Tin mừng trong mùa Giáng sinh giới thiệu Chúa Giê-su là con của Đức Maria và thánh Giuse, bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa. Thật vậy, sau khi chịu phép rửa trời mở ra, Thánh Thần như chim bồ câu ngự xuống trên Người và có tiếng từ trời phán: “Con là con yêu dấu của ta. Con đẹp lòng Cha.”   Lời phán này khẳng định cho chúng ta biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa được sai đến trần gian cứu chuộc loài người, và những ai tin vào Người cũng sẽ được “rửa” bằng Chúa Thánh Thần, lãnh nhận tình yêu và ơn cứu độ của Người mang đến.

Khi chịu phép rửa, Chúa Giêsu lại một lần nữa tỏ cho chúng ta biết tình yêu cao quí của Thiên Chúa Cha bằng một sự khiêm nhường sâu thẳm, Người tự hạ mình xuống đồng nhận sự liên đới với loài người chúng ta, trở thành một phần tử của thế giới con người tội lỗi, một thế giới mà thánh vịnh đã diễn tả rằng “Người người đã lìa xa chính lộ, chỉ biết theo nhau làm điều suy đồi, chẳng có một ai làm điều thiện, dẫu một người cũng không.” (Tv. 14, 3)   Đó là lý do tại sao Chúa khiêm nhường sinh xuống trần nơi máng cỏ khó nghèo, và giờ đây tự hạ mình đi xuống dòng sông Gio-đan, đứng xếp hàng hòa mình vào đoàn lũ những người có tội chờ đợi để được chịu phép rửa của Gioan. Không phải vì Chúa là một người tội lỗi và cần sự thanh tẩy, nhưng vì giờ đây, Chúa hiện diện là một phần tử giữa thế giới tội lỗi, Người liên đới với và tự hòa mình với loài người tội lỗi cần thanh tẩy. Người đã thực sự trở nên một người như chúng ta, giống chúng ta mọi sự, ngoại trừ tội lỗi như thánh Gioan cho chúng ta biết, Ngôi Lời đã làm Người và đã nên giống loài người ngoại trừ tội lỗi. Thật vậy, qua phép rửa, Chúa chấp nhận liên kết với chúng ta là những kẻ có tội. Và hơn nữa, nhờ sự liên kết với Người mà chúng ta được thanh tẩy và trở nên con cái Chúa.

Chúng ta biết trong Cựu ước, Chúa Thánh Thần ngự xuống là để trao ban một sứ mệnh. Hôm nay khi chịu phép rửa và được Chúa Thánh Thần ngự xuống, Chúa Giêsu cũng đã nhận lãnh một sứ mệnh như Người tuyên bố trong Tin mừng thánh Lu-ca “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng.” (Lc. 4, 16-21

Ông bà anh chị em thân mến. Phép rửa của Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta về Bí tích Thanh tẩy hay Rửa tội của mỗi người chúng ta, một hồng ân cao quí mà Thiên Chúa đã ban tặng cho chúng ta. Bí tích Rửa tội biến đổi chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa. Trong nước và Chúa Thánh Thần, chúng ta trở thành một tạo vật mới, trở thành một chi thể trong Thân Thể Chúa Ki-tô, là một phần tử trong Giáo hội Chúa, và được liên kết, kết hợp trong ơn sủng tình yêu của Chúa. Bí tích Rửa tội còn cho chúng ta được tham dự vào cuộc tử nạn và phục sinh vinh quang của Chúa Kitô, có nghĩa là chúng ta được biến đổi để sống trong ân sủng cứu độ, sống trong ánh sáng phục sinh của Chúa Giê-su Ki-tô. Do đó, chúng ta được kêu gọi có cuộc sống tốt lành, yêu thương, nhân từ, bác ái, hy sinh, quảng đại và ngay thẳng. Như Chúa Giê-su Ki-tô, chúng ta cũng nhận được một sứ mệnh và được sai đi rao giảng Tin mừng, làm chứng cho Chúa Ki-tô và hiệp nhất xây dựng Nước Chúa và làm sáng danh Chúa ở trần gian.

Tuy nhiên, ơn sủng của Bí tích Rửa tội này, chỉ sinh những kết quả tốt đẹp và hạnh phúc cho chúng ta khi chúng ta tích cực cộng tác với Chúa, và làm cho những ơn này trổ sinh hoa trái trong cuộc đời mỗi người. Trở nên con cái Thiên Chúa đòi chúng ta phải sống cho xứng đáng với vinh dự ấy. Chúng ta phải luôn quan tâm đến sự kiện đã nhận được ơn cứu chuộc, tức là phải cố gắng loại trừ những cách sống, cách suy nghĩ và hành động trái ngược với giáo huấn của Chúa, và phải có lòng bác ái, quảng đại, cũng như tích cực làm nhiều việc thiện, việc tốt cho mình và cho mọi người. Là những người đã được cứu chuộc, chúng ta không thể có cuộc sống thụ động, hay cố ý, tự để mình bị rơi lại vào sự ràng buộc của tội lỗi, sự dữ và tật xấu. Chúng ta phải từ bỏ, tránh xa những sự gian dối, ganh ghét, thù hằn, kiêu căng và tự cao. Thiên Chúa đã ban cho ta sức mạnh Thánh Thần của Ngài để giúp chúng ta chiến đấu và chiến thắng trước những ràng buộc, lôi kéo, cám dỗ và tấn công của tội lỗi và ma quỉ. Chúng ta hãy dựa vào sức mạnh của Thánh Thần để đối phó và chống trả lại những cuộc tấn công của ma quỷ và cám dỗ.

Chúng ta phải luôn ý thức rằng Bí tích Rửa tội không phải là giấy thông hành tự động để vào Nước Trời. Và chúng ta có thể trình cho Chúa mẫu ghi danh vào giáo xứ, hay chứng chỉ những Bí tích khác đã nhận được như rước lễ lần đầu, thêm sức, hôn phối hay thánh hiến, nhưng những chứng chỉ này phải kèm theo đời sống đức tin, sống lời Chúa và chu toàn sứ mệnh của Bí tích Rửa tội, thì chúng ta mới được vào Nước Trời. Do đó chúng ta hãy nhìn vào đời sống đức tin hiện nay của chúng ta như thế nào? Chúng ta có thực sự đi theo con đường và giáo huấn của Chúa Kitô hay không? Chúng ta có sống xứng đáng là con Thiên Chúa không? Chúng ta đã chịu Bí tích Rửa tội lâu năm, nhưng đời sống đức tin của chúng ta có lớn lên và sinh hoa trái không? Đời sống đức tin của chúng ta có sống động hay thay đổi gì không, hay vẫn thụ động, khô khan và nguội lạnh. Chúng ta hãy tự hỏi vì lý do gì chúng ta theo đạo một cách hình thức hay chỉ có cái vỏ bề ngoài? Chúng ta có thực sự sống liên kết như những chi thể trong Thân Thể Chúa Ki-tô, hay chu toàn sứ mệnh xây dựng một gia đình giáo xứ trong yêu thương và hiệp nhất mà tất cả chúng ta cùng gọi Chúa là Cha hay không? Chúng ta có cuộc sống bác ái, yêu thương, quảng đại và nhân từ không? Nếu chúng ta thành thực nhìn vào đời sống hiện tại, chắc chắn chúng ta sẽ tìm ra những câu trả lời chính xác cho những câu hỏi trên.

Trong ngày mừng kính lễ Chúa Giê-su chịu phép rửa hôm nay, chúng ta cầu xin Chúa ban ơn, hướng dẫn và giúp chúng ta sống xứng đáng là con cái Chúa và đẹp lòng Cha chúng ta trên trời. Xin Chúa Thánh Thần tiếp tục biến đổi, đổi mới tâm hồn chúng ta. Chúng ta biết rằng chúng ta còn phải đối diện với những khó khăn, thử thách và cám dỗ trong cuộc hành trình đức tin nơi dương thế, nhưng chúng ta tin có sức mạnh của Chúa Thánh Thần hướng dẫn và trợ giúp chúng ta để chúng ta có đời sống tốt lành, thánh thiện và sinh nhiều kết quả hơn, và để chúng ta cũng được Chúa Cha nói với chúng ta như đã nói với Chúa Giêsu “Con là con yêu dấu của Cha, con đẹp lòng Cha.”

Về mục lục

.

ĐƯỢC TẨY RỬA

 Lm. Jos. DĐH

Ngày hôm nay người ta đi nghe và coi ca nhạc, đi xem đá bóng, đi du lịch ở nước ngoài nhằm giải trí, thư giãn mà chẳng ngại tốn kém. Tùy theo địa vị, công việc, người ta vẫn đang tụ họp để “rửa bằng cấp”, “rửa xe”, “rửa nhà mới”…; nhưng mấy ai nói đến “rửa tâm hồn”, hay nghe các đệ tử của Đức Giêsu thuyết giảng gì nữa đâu ! Con người đầy mâu thuẫn là thế, bỏ tiền mua sắm tiêu xài bao nhiêu cũng không tiếc, nhưng khi cần phải giúp đỡ một người anh chị em đau khổ túng thiếu, thường dễ than van kể lể….

Cha ông chúng ta có câu : “được voi đòi tiên” hay “được đằng chân lân đằng đầu”, ước muốn của con người thường không bao giờ cùng ! Ở ngoài xã hội người ta nói bị lừa, bị thua lỗ trong buôn bán ; đúng ra phải nói “cám ơn” xã hội, tôi được mở rộng tầm nhìn, được khôn ngoan trưởng thành hơn từ những thất bại nho nhỏ. Giống như Gioan Tiền hô, nhiều người sẽ thắc mắc rằng : Đức Giêsu đâu cần đến sông Gio-đan làm gì ? Cần chi phải cúi mình chịu phép rửa, thực chất vì Ngài chẳng bao giờ phạm tội ! Và câu trả lời sẽ là : Đức Giêsu đến với Gio-an là chu toàn lề luật, để kết hợp, liên đới với loài người, vì Đức Giêsu luôn tha thiết Chúa là một thành viên trong gia đình nhân loại.

Mang thân phận bất toàn, đầy thiếu sót, chúng ta cần khiêm tốn lắng nghe, nhằm sửa chữa để rồi được lớn khôn hơn ; nhất là về phạm vi thiêng liêng, ai mà chẳng cần được tẩy rửa tâm hồn, hầu mỗi ngày một nên giống Đấng đã yêu thương ta. Đức Giêsu chịu phép rửa là hành động thuần túy của thân phận người, là sự liên đới nghĩa vụ tin yêu trong tình anh em với ta với Chúa Cha ; là mở đầu cho sứ vụ Đấng Cứu Thế, là dấu chỉ báo hiệu đau khổ sẽ xảy đến cho chính Ngài.

Đã là người, tắm rửa hàng ngày là chuyện bình thường, nếu là Kitô hữu mà tắm rửa đời sống thiêng liêng hàng ngày, hẳn ta đã thực sự thành chánh quả, là thánh nhân rồi. Bầu khí của sông Gio-đan năm xưa như muốn nói với tất cả chúng ta : có một người không thích được trọng vọng, luôn khiêm tốn, chỉ mong sao có thể chu toàn bổn phận đó là ông Gioan. Nơi Đức Giêsu, Đấng không có lỗi tội, nhưng vì muốn đứng về phía tội nhân, muốn thực sự được chu toàn lề luật của một người Do-thái, sẵn sàng hòa mình với nhân loại ở sông Gio-đan. Người Kitô hữu chúng ta hôm nay nếu ý thức mình được Máu Đức Giêsu tẩy rửa, ta mới hy vọng nghe được tiếng từ trời tiếp tục vang lên : Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha.

Mỗi chúng ta hôm nay không cần phải chu toàn bổn phận bằng việc đến sông Gio-đan dìm mình xuống nước để tỏ lòng sám hối, nhưng ai trong chúng ta cũng cần khiêm tốn để được tẩy rửa về phần thiêng liêng cho xứng đáng với ơn gọi làm con chí ái của Cha trên trời. Mỗi chúng ta hôm nay không được nghe mạc khải trực tiếp như Gioan, hay một số dân chúng ở sông Gio-đan hôm đó, nhưng chúng ta vẫn hiểu thế nào là con yêu dấu, con đẹp lòng Cha. Kinh nghiệm của Gioan làm chứng là đã nghe, đã thấy trời mở ra, Thánh Thần ngự xuống ; và sống niềm tin của chúng ta là biết cậy dựa vào Chúa Giêsu đồng hành hầu, giúp chúng ta đây sớm được nên giống Con yêu dấu, con đẹp lòng Chúa Cha…..

Nhiều người ở trần gian hôm nay không quan trọng về đẹp hay xấu, nhưng luôn ý thức miễn sao mình có hạnh phúc, điều ấy đúng ; nhưng với những ai thuộc về Đức Kitô, tâm hồn luôn cần phải đẹp không thể có hạnh phúc hay cái đẹp nào khác. Việc tẩy rửa hay cần cọ rửa đã trở nên thiết thực với nếp sống văn minh sạch đẹp nói lên những con người sành điệu ! khác với biến cố tẩy rửa mà Tin Mừng hôm nay đề cập đến tẩy rửa tâm hồn. Rửa thân xác, hay rửa tâm hồn sẽ không bao giờ là cổ xưa, dù cách thức dìm mình vào dòng sông và cách thức sám hối, nhận ơn tha thứ từ tòa giải tội…..

Đúng, việc thanh tẩy không chỉ đơn giản là dội nước, là dìm mình nơi giếng rửa tội ; tẩy rửa trong Bí tích, trong Thánh Thần sẽ thấm sâu và có khả năng loại bỏ tất cả những gì là cặn bã dơ bẩn ra khỏi tâm hồn con người. Cũng từ phép rửa chết và sống lại của Đức Kitô, ơn gọi làm con yêu quí của Cha trên trời thật rõ ràng nơi chúng ta hôm nay. “Con là con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha”, ngày hôm nay vẫn đang vang lên mỗi khi ta khiêm tốn xét mình, sám hối, bước ra khỏi tòa giải tội. Kinh nghiệm của tiền nhân cho ta biết : trong cuộc vui, không biết ai là bạn, lúc hoạn nạn mới biết bạn là ai ! Với Chúa Giêsu, không phải Ngài chỉ là Thầy là Chúa….., nhưng lúc ta là thánh nhân hay lúc ta sa ngã lỗi phạm, Ngài vẫn là bạn, là Thiên Chúa đồng hành với ta.

Văn minh của thời đại công nghệ hôm nay, người ta có thể tẩy da đen thành da trắng, tẩy rửa những đồ dùng từ cũ thành mới, rửa được tiền bẩn thành tiền sạch. Tuy nhiên tẩy rửa được tâm hồn nên sạch, mỗi người phải qua Đức Kitô, phải thể hiện niềm tin bằng đời sống Bí tích, không thể nhờ công nghệ nào can thiệp được. Cứ coi như dòng sông Gio-đan là một thứ dung dịch để tẩy rửa thân xác dơ bẩn nên tinh sạch ; nhưng vấn đề tội lỗi riêng của mỗi người nhất định phải nhờ nguồn ơn Bí tích mới tẩy sạch tâm hồn ta được.

Vì sao mà Gioan nói đến tẩy rửa trong Thánh thần là quan trọng ? Thưa bởi vì nhờ Phép Rửa Chúa Giêsu đã chịu mà chúng ta thực sự trở thành người Kitô hữu, hoặc nên môn đệ của Đức Giêsu. Sau hết, thao thức sống hạnh phúc, ước muốn được nhìn thấy con cháu, người thân ta được biến đổi nên người hữu ích là tốt, nhưng chưa đủ ! Chúa Giêsu còn cần ta ý thức làm gì để được tẩy rửa tâm hồn, để thực sự được gọi là con yêu dấu và là Con Cha trên trời. Amen.

Về mục lục

.

CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA

 Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Trong dịp Tuần Thánh năm ngoái, tại đền thờ Thánh Phêrô, có một nghi thức sám hối chung và ban Bí Tich Giải tội. Người ta thấy Đức Giáo Hoàng Phanxicô rất sốt sắng tham dự nghi thức này. Đến phần cử hành Bí tích Giải tội, ngài cũng mặc áo alba và ngồi tòa để giải tội cho mọi người khiến cộng đoàn hết sức ngạc nhiên. Nhưng điều gây ngạc nhiên hơn nữa là trước khi ngồi vào tòa giải tội, ngài đã đến quỳ gối để xưng tội với một linh mục trẻ đang ngồi giải tội gần đấy. Việc làm này của Đức Giáo Hoàng cho thấy sự khiêm tốn của ngài và cũng để cho mọi người thấy rằng : tất cả chúng ta đều là tội nhân trước mặt Chúa và cần được Thiên Chúa thứ tha.

Hôm nay, mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa, nhiều người trong chúng ta cũng thắc mắc : Tại sao một Thiên Chúa mà lại cúi mình xin chịu phép rửa bởi Gioan ? Chúa Giêsu có tội gì không ? Thưa – Phép rửa của Gioan không phải để thanh tẩy tội lỗi, mà chỉ là một nghi thức bày tỏ sự sám hối. Đức Giêsu là Thiên Chúa, mang thân phận con người giống như chúng ta mọi đàng, chỉ trừ tội lỗi. Mặc dù tội lỗi không thể làm gì được Chúa Giêsu, thế nhưng hôm nay, Ngài vẫn cùng với mọi người xếp hàng chờ đợi đến lượt mình bước xuống dòng sông Giodan để xin Gioan thanh tẩy. Việc làm này thể hiện sự khiêm nhường của Chúa Giêsu, dù không phải là tội nhân, nhưng Ngài đã chấp nhận chung hàng với tội nhân để chia sẻ và chịu tội thay cho mọi tội nhân.

Các tác giả Tin Mừng nhìn thấy sự kiện Chúa chịu phép rửa tại sông Giodan mang nhiều ý nghĩa sâu xa. Trước hết, đó là việc Chúa bắt đầu một thời kỳ mới, thời kỳ công khai thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Khởi đầu sứ vụ này, Chúa Giêsu đã được Chúa Thánh Thần xức dầu và được Thiên Chúa Cha long trọng giới thiệu công khai cho mọi người : Con là con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về con. Điều này chứng tỏ rằng, Thiên Chúa Cha đã hài lòng về sự vâng phục của Chúa Giêsu đối với Ngài, vâng phục đến nỗi chấp nhận trở nên đồng hàng với con người và mang lấy thân phận giòn mỏng, giới hạn của con người.

Thánh Marcô cũng cho thấy một chi tiết : Chúa Giêsu vừa lên khỏi mặt nước thì các tầng trời xé ra và Thánh Thần như chim bồ câu ngự xuống trên Người. Điều này cho thấy rằng, với sự xuất hiện của Chúa Giêsu, từ nay, cửa trời không còn bị đóng kín nữa, nhưng đã được xé ra, được mở toang và Thánh Thần là Tình yêu, là sự sống được trao ban cho Chúa Giêsu và qua Chúa Giêsu được trao ban cho cả nhân loại. Chi tiết này cũng cho thấy, Thánh Thần của Thiên Chúa luôn cùng hoạt động với Chúa Giêsu trong suốt cuộc đời dương thế của Ngài và như lời Gioan đã chỉ cho mọi người biết Chúa Giêsu sẽ dùng quyền năng của Thánh Thần để thanh tẩy nhân loại : Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần.

Đức Giêsu đã làm vui lòng Chúa Cha bằng tình yêu mến và sự vâng phục trọn vẹn thì hôm nay, một cách công khai, Thiên Chúa Cha đã bày tỏ tình yêu của Ngài đối với Chúa Giêsu. Những ai gắn bó với Chúa Giêsu và được lãnh nhận phép rửa bởi quyền năng của Thánh Thần, cũng sẽ trở thành những người con được Thiên Chúa Cha yêu mến, được cùng chia sẻ niềm vui, hạnh phúc và gia nghiệp với Chúa Giêsu.

Tiên tri Isaia đã mô tả niềm vui và hạnh phúc của thời đại Chúa Giêsu mang đến giống như khung cảnh an bình của một ngôi làng mà mọi người sống thân tình, hòa hợp với nhau. Đó là thời đại sẽ không còn đói khổ vì Thiên Chúa sẽ làm cho họ no thỏa, không còn thiếu thốn, đói khát nữa : Dù không có tiền, cứ đến mà mua rượu, mua sữa mà không phải trả tiền. Không chỉ no lòng chắc dạ, thời của Thiên Chúa đến còn là thời Thiên Chúa sẽ dẫn dắt dân Người đi theo đường lối của Chúa, ai để tâm lắng nghe thì sẽ được sống.

Thời đại mà Chúa Giêsu mang đến còn được mô tả như là thời của sự tha thứ. Thiên Chúa đã đến để tìm kiếm, gặp gỡ con người, kêu gọi mọi người từ bỏ con đường gian ác để quay trở lại với đường lối của Thiên Chúa. Thiên Chúa không muốn kết án con người, nhưng luôn cho con người có cơ hội để làm lại cuộc đời, vì Ngài luôn là Thiên Chúa xót thương.

Tất cả những điều tiên tri Isaia loan báo đã ứng nghiệm nơi con người và sứ vụ của Chúa Giêsu. Ngài chính là Thiên Chúa, là hiện thân tình yêu của Thiên Chúa đến với con người. Kể từ cuộc giáng sinh của Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã mở ra một thời đại mới cho nhân loại. Thiên Chúa đã bước vào lịch sử loài người, đã biến đổi và điều khiển lịch sử thế giới đi theo con đường Chúa muốn. Đức Giêsu chính là Thiên Chúa đến ở với con người, cùng chung chia thân phận con người và biến đổi nhân loại này nên con của Thiên Chúa.

Tuy nhiên, Thánh Gioan cho thấy, chúng ta chỉ thực sự được tham dự, được chung hưởng sự chăm sóc và ơn cứu độ của Chúa Giêsu khi chúng ta tin Ngài là Đấng Kitô, là Đấng được xức dầu, là Đấng cứu thế. Một khi tin nhận Đức Giêsu Kitô thì chúng ta sẽ là những người được Thiên Chúa sinh ra, được Thiên Chúa yêu mến. Yêu mến Thiên Chúa và được Thiên Chúa yêu mến thúc đẩy chúng ta tuân giữ giới răn, lề luật của Thiên Chúa. Vì chúng ta không thể yêu mến Thiên Chúa mà lại không tuân giữ những điều Ngài dạy. Một khi đã yêu mến Thiên Chúa thì đồng thời cũng thúc đẩy chúng ta yêu mến nhau, vì tất cả chúng ta đều là con cái Thiên Chúa.

Qua Bí tích Rửa tội, chúng ta đã được cứu chuộc, được tái sinh và trở nên con cái Thiên Chúa. Đó là một ân phúc cao quý Thiên Chúa ban tặng cho chúng ta. Tuy nhiên, ân phúc này sẽ chỉ sinh hiệu quả và đem lại hạnh phúc cho chúng ta khi chúng ta tích cực cộng tác và làm cho những ơn này trổ sinh hoa trái trong cuộc đời mỗi người. Trở nên con cái Thiên Chúa đòi chúng ta phải sống cho xứng đáng với vinh dự ấy, tức là phải loại trừ những gì là phàm tục, tầm thường ra khỏi cách sống, cách suy nghĩ và hành động của chúng ta ; đồng thời, phải tích cực làm nhiều việc thiện, việc tốt cho mình và cho mọi người. Là những người được cứu chuộc, chúng ta không thể để mình bị rơi lại vào sự ràng buộc của tội lỗi, dục vọng và tật xấu, vì Thiên Chúa đã ban cho ta sức mạnh Thánh Thần của Ngài để giúp ta chiến đấu và chiến thắng trước những ràng buộc, lôi kéo đó. Hãy dựa vào sức mạnh của Thánh Thần để chống trả những tấn công của ma quỷ và cám dỗ.

Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa hôm nay nhắc cho mỗi người nhớ đến sứ mạng của mình trong đời sống thường ngày. Là những bậc cha mẹ, chúng ta cần tẩy rửa bản thân mình khỏi những đam mê như rượu chè, cờ bạc, cá độ, lô đề… vì những điều đó bôi bẩn hạnh phúc và sự bình an của gia đình. Hãy thanh tẩy khỏi gia đình mình sự gian dối, chửi bới, cãi vã, mà thay vào đó là sự quan tâm, thông cảm, chia sẻ với nhau nhiều hơn. Hãy góp phần làm cho gia đình nên ấm cúng, thuận hòa, cùng nhau vun đắp cho hạnh phúc gia đình bằng những giờ kinh, những giờ cầu nguyện sớm tối. Sống như thế là chúng ta đang chung tay đổi mới gia đình và con cái nên những con người được Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc.

Ngày lễ này cũng nhắc cho mỗi người nhớ rằng, chúng ta đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội và thuộc về Đức Kitô. Vì thế, chúng ta không thể để mình thuộc tay của ma quỷ và sự xấu. Hãy dám sống cho xứng đáng là một người Kitô hữu trong xã hội hôm nay và tự hào vì mang danh là Kitô hữu. Vì đã thuộc về Đức Kitô nên chúng ta cũng phải thi hành sứ mạng mà Chúa trao phó cho mỗi người, tùy theo hoàn cảnh môi trường sống của mình. Sứ mạng ấy là tiếp tục đem tình yêu thương đến cho thế giới, cùng nhau xây dựng một môi trường sống tốt đẹp, hòa bình ; cùng nhau làm cho tinh thần của Tin Mừng lan tỏa trong xã hội hôm nay : nơi nhà trường, nơi xí nghiệp, nơi gia đình của mỗi người.

Khi mỗi người chúng ta cố gắng sống quyết tâm đổi mới bản thân, gia đình và xã hội, hoàn thành tốt sứ mạng Chúa đang trao phó, thì Nước Trời cũng sẽ mở ra cho chúng ta, cho mọi người, và chính Thiên Chúa cũng sẽ nói với ta rằng : Con là con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về con. Amen.

Về mục lục

.

LIÊN ĐỚI TỘI NHÂN

 Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền

Có một lần dạy giáo lý tôi hỏi các em: Thông thường khi phạm tội điều đầu tiên mình phải làm gì?

Một em trả lời : thưa cha bỏ chạy ạh!

Nghe qua tưởng là chuyện đùa nhưng điều đó mới là lẽ thường tình. Ai phạm tội mà không bỏ chạy? Ai có tội mà không che dấu tội? Con người trước khi phạm tội thì rất hung hăng nhưng sau khi phạm tội thì lại hoảng loạn sợ hãi như cha ông ta bảo rằng: “Chưa đánh được người, mặt xanh mày tía. Đánh được người rồi hồn vía lên mây”.

Có một đứa bé đang kiễng chân lên trước cổng của một ngôi nhà to lớn để nhấn chuông, nhưng mãi không nhấn được. Cha sở đi ngang qua thấy vậy liền nói: Để cha giúp con. Thế là cha sở bế thằng bé lên cho nó nhấn chuông. Nhấn chuông xong thả nó xuống đất, cha sở mới hỏi: Con còn cần ta giúp gì nữa không? Thằng bé liền nói: Bỏ chạy ạh! Thế là nó ba chân bốn cẳng bỏ chạy, cha sở ngớ người ra chẳng biết nói gì! Hóa ra thằng nhỏ đến nghịch chuông nhà người ta mà cha sở lại tưởng nó có việc nên nhấn chuông!

Ở đời người ta thường chạy tội, đổ tội cho người khác để giảm khinh cho lỗi của mình. Khi phạm tội ông bà nguyên tổ đã chạy trốn trong bụi cây. Trốn không được nên Adam đã đổ tội cho Eva. Eva đổ tội cho con rắn. Cain thì chối tội. Cuộc đời quanh ta cũng có biết bao người  sợ tội, sợ liên lụy nên không dám nhận lỗi lầm về mình, càng không dám để lộ tội lỗi của mình cho người khác biết.

Ở Việt Nam có biết bao con đường chưa xong đã hư, và cũng có biết bao cây cầu chưa khánh thành đã đổ xập. Thế nhưng, điều đáng tiếc là chúng ta cũng chỉ nghe họ đổ tội cho nhau dù đã gây nên biết bao thiệt hại cho xã hội về vật chất, về tiền, có khi cả về mạng sống con người.

Ở gia đình cũng có biết bao cha mẹ thiếu trách nhiệm giáo dục con cái, thiếu cả gương sáng nên con cái hư hỏng, nhưng điều đáng tiếc là họ chỉ đổ tội cho nhau và không bao giờ sám hối về tội của mình.

Có biết bao thanh thiếu niên phạm pháp và xì ke ma túy khi bị bắt họ cũng không nhận lỗi lầm của mình mà còn đổ tội cho cha mẹ vì quá nuông chiều.

Có biết bao mối tình bất chính đã gây nên hậu quả là những cái thai ngoài ý muốn. Điều đáng tiếc là họ cố tình che dấu tội của mình bằng việc tàn sát các thai nhi vô tội.

Chúa Giê-su là Đấng hoàn toàn vô tội. Ngài là Đấng cao cả đến nỗi Gioan bảo không đáng cúi xuống cởi quai dép cho người. Thế mà Ngài lại đến với Gioan như một tội nhân. Ngài hòa mình giữa bao tội nhân để nhận lãnh phép rửa sám hối của Gioan.

Biến cố Chúa Giê-su chịu phép rửa của Gioan là một khởi đầu cho một chuỗi những liên đới với tội nhân. Ngài đã chấp nhận đứng chung với tội nhân để gánh lấy hậu quả của tội lỗi nhân gian. Hậu quả của tội lỗi là đau khổ, là sự chết. Chúa Giê-su đã gánh lấy tội nhân loại khi phải sống kiếp người đầy thăng trầm và khổ đau. Ngài gánh lấy tội nhân loại khi bị kết án, tẩy chay loại trừ. Ngài còn gánh lấy tội nhân gian khi bị chết treo trên thập giá để đền thay tội lỗi  nhân gian. Ngài hiến dâng mạng sống mình thành của lễ giao hòa với Thiên Chúa Cha. Qua cuộc Tử Nạn và phục sinh của Ngài mà nhân loại chúng ta được giao hòa với Chúa Cha, được gọi Thiên Chúa là Cha, và được thừa tự phần phúc thiên đàng do công phúc của Chúa Giê-su.

Cuộc đời sẽ hạnh phúc biết bao khi con người biết nhận trách nhiệm về mình, không đổ lỗi, không chạy tội nhưng luôn khiêm tốn nhìn nhận cái sai để sửa, để rút kinh nghiệm, để canh tân. Cuộc đời sẽ không còn nước mắt của sự bỏ rơi, thất vọng khi ai cũng can đảm liên đới với mảnh đời bất hạnh để cảm thông, để an ủi và giúp họ vượt qua những khổ đau. Cuộc đời sẽ công bằng hơn khi ai cũng dám làm dám chịu mà không chạy tội hay đổi tội cho người khác.

Ước gì chúng ta đừng bao giờ chối tội, chạy tội mà luôn biết nhìn nhận những khuyết điểm, những sai lỗi của mình để ăn năn sám hối và canh tân đời sống. Ước gì chúng ta cũng biết liên đới với tội nhân như Chúa Giê-su để dâng những việc lành phúc đức, những lời kinh nguyện, những hy sinh lên Thiên Chúa để đền bù tội lỗi nhân gian. Amen

Về mục lục

.

DÒNG NƯỚC VÀ DÒNG ĐỜI

 Trầm Thiên Thu

Lãnh nhận Phép Rửa là “dấu chỉ bề ngoài” chứng tỏ chúng ta đã đón nhận Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Độ. Từ khi lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa, một hồng ân quá lớn!

Phép Rửa của Ông Gioan là Phép Rửa của sự sám hối (Mt 3:11), nhưng Chúa Giêsu vô tội nên không cần sám hối. Thánh Gioan nhân biết tội mình và biết mình chỉ là tội nhân, cần sám hối, không đáng xách dép cho Chúa Giêsu, nên ông ngại mà nói với Chúa Giêsu: “Chính tôi mi cđược Ngài làm phép ra, thế mà Ngài lđến vi tôi! (Mt 3:14). Nhưng Đức Giêsu trả lời: “Bây gi c thế đã. Vì chúng ta nên làm như vđ gi trđc công chính” (Mt 3:15). Nghe nói vậy ông Gioan mới chiều theo ý Ngài. Chúa Giêsu đến với Thánh Gioan Tẩy Giả cho thấy Ngài chấp nhận Phép Rửa của ông. Lòng thương xót của Thiên Chúa được tỏ hiện qua việc Chúa Giêsu chịu Phép Rửa.

Nói cách khác, ngay từ lúc khởi đầu sứ vụ, Chúa Giêsu đã chứng tỏ Ngài là Đấng Mêsia và là “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1:29). Ông Gioan vừa làm Phép Rửa xong, Thiên Chúa liền tỏ ra dấu chỉ tỏ tường là “các tầng trời xé ra, và Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống”, sự thật minh nhiên đó đã được chính Chúa Cha xác nhận: “Đây là Con yêu du ca Ta, Ta hài lòng v Người (Mt 3:17; x. Mc 1:11).

Thật kỳ diệu, “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người” (2 Cr 5:21). Chúa Giêsu là Đấng công chính, không cần sám hối, nghĩa là không cần chịu Phép Rửa, nhưng Ngài chịu Phép Rửa để làm gương cho chúng ta, còn chúng ta thực sự cần Phép Rửa và cần sám hối, vì chúng ta là các tội nhân. Hãy mở lòng để đón nhận ơn tha thứ!

Phép Rửa là “cửa ngõ” để chúng ta bước vào miền cứu độ. Trong cuộc đối thoại với ông Ni-cô-đê-mô, một thủ lãnh của người Do-thái, Chúa Giêsu nói với ông: “Không ai có th thy Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh ra mt ln na bơn trên; không ai có th vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bi nước và Thn Khí” (Ga 3:3 và 5). Và Thánh Phaolô xác định: “Ch có mt Chúa, mt nim tin, mt phép ra (Ep 4:5).

Từ ngàn xưa, Đấng Kitô đã được đề cập với danh xưng Người-Tôi-Trung-Đau-Khổ: “Đây là người tôi trung Ta nâng đ, là người Ta tuyn chn và quý mến hết lòng, Ta cho thn khí Ta ng trên nó; nó s làm sáng t công lý trước muôn dân. Nó s không kêu to, không nói ln, không đ ai nghe tiếng gia ph phường. Cây lau b gip, nó không đành b gy, tim đèn leo lét, cũng chng n tđi. Nó s trung thành làm sáng t công lý. Nó không yếu hèn, không chu phc, cho đến khi thiết lp công lý trêđa cu. Dân các hđo xa xăđu mong được nó ch bo (Is 42:1-4). Người-Tôi-Trung đó chấp nhận đau khổ nhưng không muốn người khác chịu đau khổ, luôn chạnh lòng thương người khác, nhất là đối với những người yếu đuối, hèn mọn.

Thiên Chúa xác nhận rạch ròi: “Ta là Đc Chúa, Ta đã gi ngươi, vì mun làm sáng t đc công chính ca Ta. Ta đã nm tay ngươi, đã gìn gi ngươi và đt làm giao ước vi dân, làánh sáng chiếu soi muôn nước, đ m mt cho nhng ai mù loàđưa ra khi tù nhng người b giam gi, dn ra khi ngc nhng k ngi trong chn ti tăm (Is 42:6-7). Mỗi chúng ta cũng được Thiên Chúa gọi đích danh và đặt vào một vị trí theo Thánh Ý Ngài, nhưng không phải để tự tôn hoặc ích kỷ giữ riêng cho mình, mà phải hành động tích cực, dùng những gì mình đã được Ngài trao ban để làm lợi cho tha nhân – đặc biệt là đối với những người bị áp bức, bị bóc lột, bị tước đoạt những quyền cơ bản của con người,…

Tất cả mọi sự chúng ta tận hưởng, cả tinh thần và vật chất, đều do Thiên Chúa ban, chúng ta chẳng có gì và chẳng đáng gì mà dám vênh vang tự đắc. Tác giả Thánh Vịnh đã nhận thức như vậy, và mời gọi chúng ta: “Hãy dâng Chúa, hi chư thn chư thánh, dâng Chúa quyn lc và vinh quang. Hãy dâng Chúa vinh quang xng danh Người, và th ly Chúa uy nghiêm thánh thin (Tv 29:1-2). Đó là bổn phận và trách nhiệm của mọi người. Chúng ta chúc tụng Ngài thì Ngài cũng chẳng thêm được gì, nhưng chính chúng ta lại hưởng lợi ích từ việc chúc tụng đó. Thiên Chúa luôn tìm mọi cách làm lợi cho chúng ta, thật là kỳ diệu quá!

Ngài là Đấng vô hình mà lại hữu hình, vì Ngài vẫn hiện diện trong mọi thứ: “Tiếng Chúa rn vang trên sóng nước, Thiên Chúa hin vinh cho sm n m, Chúa ng trên nước lũ mênh mông. Tiếng Chúa tht hùng mnh! Tiếng Chúa tht uy nghiêm!” (Tv 29:3-4). Thiên Chúa toàn năng, và chỉ có Ngài là Thiên Chúa duy nhất. Thật vậy, chính Thiên Chúa đã truyền lệnh: “Ngươi không được có thn nào kháđi nghch vi Ta (Xh 20:3; Đnl 5:7).

Thiên Chúa xuất hiện trong mọi vật và mọi sự. Những gì chúng ta gọi là tự nhiên hoặc thiên nhiên thì chính là Thiên Chúa: “Tiếng Chúa lay đng c rng si, tut tri lá cây cao rng rm. Còn trong thánh đin Người, tt c cùng hô: Vinh danh Chúa! Chúa ng tr trên cơn hng thy, Chúa là Vua ng tr muôđi (Tv 29:9-10). Bổn phận của chúng ta là phải tôn thờ, cảm tạ và chúc tụng Ngài, như Đức Giêsu Kitô đã nói: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đc công chính ca Người, còn tt c nhng th kia, Người s thêm cho (Mt 6:33).

Tại nhà ông Co-nê-li-ô, ông Phêrô lên tiếng nói: “Qu tht, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên v người nào. Nhưng h ai kính s Thiên Chúa và ăn ngay  lành thì dù thuc bt c dân tc nào, cũng đđược Người tiếp nhn (Cv 10:34-35). Đức Giêsu nhập thể và nhập thế để “cứu cái gì đã hư mất” (Mt 18:11). Thánh Phêrô giải thích rạch ròi: “Ngườđã gđến cho con cái nhà Ít-ra-en li loan báo Tin Mng bình an, nh Đc Giêsu Kitô, là Chúa ca mi người. Quý v biết rõ biến c đã xy ra trong toàn cõi Giu-đê, bđu t min Galilê, sau phép ra mà ông Gioan rao ging. Quý v biết rõĐc Giêsu xut thân t Nadarét, Thiên Chúđã dùng Thánh Thn và quyn năng mà xc du tn phong Người. Đi tđâu là Người thi ân giáng phúc tđó, và cha lành mi k b ma qu kim chế, bi vì Thiên Chú vi Người (Cv 10:36-38).

Trước khi Chúa Giêsu đến thế gian theo Kế hoạch Cứu độ của Thiên Chúa, ông Gioan đã được sai đến trước để dọn đường. Ông là người được Thiên Chúa sai đến, nhưng phong cách rất bình dân: Mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng. Có lần người ta hỏi ông là ai – Đấng Kitô, Ê-li-a hay ngôn sứ? Cả ba lần ông đều trả lời “không”, ông chỉ dám nhận mình là “tiếng người hô trong hoang địa” (Ga 1:20-23). Ông khiêm nhường bao nhiêu thì chúng ta cảm thấy xấu hổ bấy nhiêu, vì chúng ta chỉ là “số không” thật lớn mà lại mạo nhận mình là “cái rốn của vũ trụ”. Lạy Chúa tôi!

Ông rao giảng về Đức Kitô: “Có Đng quyn thế hơn tôđang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xung ci quai dép cho Người. Tôi thì tôi làm phép ra cho anh em trong nước, còn Người, Người s làm phép ra cho anh em trong Thánh Thn (Mc 1:7-8). Ông Gioan cho biết rằng ông cũng không biết Đức Giêsu là ai, nhưng khi ông làm Phép Rửa cho Ngài, rồi thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Ngài, nên ông nhận biết Ngài chính là “Đấng Thiên Chúa tuyển chọn” (Ga 1:32-34). Đặc biệt nhất là có tiếng từ trời xác nhận: “Con là Con yêu du ca Cha, Cha hài lòng v Con (Mc 1:11).

Di tích sông Gio-đan, nơi Chúa Giêsu chịu phép rửa (Mc 1:6-11; Mt 3:13-17; Lc 3:21-22), cách trung tâm thành phố Ti-bê-ri-a khoảng 10 km về phía Nam trên sông Jordan, có một địa điểm thu hút khoảng nửa triệu người hằng năm. Theo khoa khảo cổ và kinh thánh, nơi thực sự Chúa Giêsu chịp phép rửa cách xa Yardenit cả trăm cây số, ở gần Biển Chết, thuộc về lãnh thổ Gio-đan: “Các viđó đã xy ra ti Bê-ta-ni-a, bên kia sông Gio-đan, nơông Gio-an làm phép ra” (Ga 1:28).

Dòng sông Gio-đan bình thường, nhưng bỗng trở nên vô thường vì là nơi Chúa Giêsu chọn để ông Gioan làm Phép Rửa. Nước thật kỳ diệu. Nước rất mềm mà cũng rất mạnh, đặc biệt là không thể tách hoặc cắt được nước. Ở đâu có nước là có sự sống, người ta có thể nhịn đói chứ không thể nhịn khát, vì cơ thể chúng ta chứa tới 70% là nước, mỗi ngày cơ thể cần khoảng 2 lít nước. Có điều lạ là quốc gia cũng được chúng ta gọi là “nước” – nước Việt Nam. Phải chăng Việt ngữ muốn diễn tả nơi mình sống được ví như nước? Còn nước là còn nơi sống, mất nước là mất nơi sống!

Nước biểu hiện sự xuất hiện của Thiên Chúa, chứng tỏ quyền năng của Ngài: “Tiếng Chúa rn vang trên sóng nước, Thiên Chúa hin vinh cho sm n m, Chúa ng trên nước lũ mênh mông (Tv 29:3). Với Thiên Chúa, nước cũng được Ngài coi là chất liệu quan trọng nên Ngài đã dùng nước để chứng tỏ chúng ta được tẩy sạch tội lỗi. Nước rất đặc biệt vì nước còn là chất liệu Chúa Giêsu dùng làm phép lạ đầu tiên tại tiệc cưới ở Cana (Ga 2:1-12), và cũng là chất liệu Ngài dùng để dạy “bài học phục vụ” khi Ngài rửa chân cho các môn đệ (Ga 13:1-20). Nước còn quan trọng hơn nữa vì nước là chất liệu biến chúng ta thành con cái Thiên Chúa: “Không ai có th vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bi nước và Thn Khí” (Ga 3:5).

Chúa Giêsu được dìm mình trong dòng nước Gio-đan để khởi đầu sứ vụ, dòng nước đó trở nên Dòng Tình mà Chúa Giêsu muốn tuôn đổ Lòng Thương Xót cho chúng ta, đồng thời cũng giao trách nhiệm cho mỗi chúng ta phải đắm mình trong dòng đời để phục vụ mọi người, đó cũng là phục vụ chính Ngài vậy: “Chính lúc quên mình là lúc gp li bn thân (Kinh Hòa Bình – Thánh Phanxicô Assisi).

Ly Thiên Chúa, xin giúp chúng con biếđón nhĐc Kitô là Đng cđ và hết lòng phng s Ngài qua vic phc v tha nhân, nht là phc v nhng con người hèn m mi ngõ ngách ca cuđi này. Chúng con cu xin nhân danh Thánh T Giêsu, Đng cđ chúng con. Amen.

Về mục lục

.

THỜI ĐẠI ÂN SỦNG

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Chúa chịu Phép Rửa tại sông Giođan mở ra một thời đại ân sủng cho nhân loại.

1/ Sông Giođan

Trong các dòng sông nổi tiếng khắp thế giới thì Giođan bé nhỏ là dòng sông quen thuộc nhất đối với người Kitô hữu. Dòng sông ấy gắn liền với những sự kiện quan trọng của Thánh Kinh.

Như một thân thể của xứ Palestine, sông Giođan góp phần quan trọng trong lịch sử Israel ngay từ những ngày đầu Thiên Chúa chọn dân Do thái. Từ Giođan chuyển từ tiếng Do thái là “hayyarden” có nghĩa “chảy xuôi dòng thời gian”. Bắt nguồn từ Syria, do ba phụ lưu hợp thành. Sông dài 300km, rất nhiều chỗ cạn, nhiều chỗ uốn khúc; chảy vào biển hồ Galilê, ở đây lòng hồ sâu 212m dưới mực nước biển; rồi tiếp tục chảy xuống miền Nam, đổ vào Biển Chết, ở đây độ sâu là 394m dưới mức nước biển, có thể nói đây là điểm thấp nhất của địa cầu. Lòng sông rất dốc, thượng lưu ở độ cao 45 mét, đến cửa sông là 390 mét so với mặt nước biển, lưu vực 93 mét khối/s. Mặc dù là con sông rộng nhất của Palestine, nhưng Giođan khác với những con sông của nhiều nước ở chỗ: khúc sông từ Biển Hồ Galilê đến Biển Chết có đến 27 ghềnh thác khó lưu thông, lắm chỗ nước chảy qua tạo thành những thung lũng như đầm lầy, nhiều nơi có thú dữ, cây cối hai bên dòng sông mọc tươi tốt, không có thành phố lớn nào được thành lập dọc theo dòng sông.

Kinh Thánh nói nhiều đến dòng sông này. Khởi đầu là việc liên hệ giữa Abraham và ông Lot ở sông Giođan (St 13,10). Giacob từ Kharan trở về đã vượt qua sông Giođan. Các chi tộc vượt sông Giođan cách kỳ diệu dưới sự hướng dân của Giosuê (Gs 3,14-17). Con sông là ranh giới vì dân du mục vượt qua sông vào Cannaan để cướp bóc. Người Israel tìm nơi nương náu bên kia tản ngạn sông Giođan (Tl 6,33; 2Sm 17,22) và được xem như sự che chở: “Trong bụi rậm sông Giođan…” (Gr 12,5; 49,19; 50,44). Tướng quân Naaman nước Aran nghe lời ngôn sứ Êlisa xuống sông tắm 7 lần nên được khỏi bệnh phong hủi (2V 5,1-19). Ngôn sứ Êdêkiel diễn tả sức sống sung túc của sông Giođan, nước sông chảy đến đâu thì trao ban sự sống đến đó (Ed 47).

2/ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa

Chính tại dòng sông Giođan bé nhỏ, Chúa Giêsu đã đến khai mạc sứ vụ công khai bằng cách đón nhận phép rửa bởi Gioan Tẩy Giả. Ngôi Lời Thiên Chúa từng bước xuống dòng nước ấy, chỗ thấp nhất không chỉ về địa lý không gian nhưng còn thấp cả chiều sâu tâm lý và chiều kích tương quan xã hội.

Nếu đem so sánh với sông Cửu Long mênh mang thuyền qua lại thì dòng nước Giođan nơi Gioan làm phép rửa cho Chúa Giêsu có thể gọi là con kênh nhỏ. Nếu đặt bên cạnh sông Hồng cuồn cuộn xiết chảy thì dòng Giođan chỉ là con lạch. Nếu đứng kề bên sông Hương thơ mộng lững lờ trôi thì Giođan chỉ là con suối nhỏ. Đứng bên bờ này sông Giođan ném hòn đá qua bờ kia, nó có thể đi xa hơn.

Thế mà Chúa Giêsu đã chọn dòng nước bé nhỏ này, không phải như Môisen hay Giôsua giơ tay cho dòng nước rẽ đôi, nhưng để dìm mình xuống dòng nước nhỏ cùng với đoàn người chịu phép rửa của Gioan Tẩy Giả.

Thiên Chúa, Đấng cho Cửu long giang tuôn chảy tưới mát đồng bằng miền Nam; Đấng cho sông Hồng tuôn nước lũ bồi đắp phù sa cho đồng bằng miền Bắc; Đấng cho Hương giang lững lờ lãng mạn gợi hồn thơ đã chọn dìm mình vào dòng nước Giođan bé nhỏ.

Thật lạ lùng, trong số những người đến “xưng thú tội lỗi” ( Mc 1,5) và chịu “ phép rửa sám hối để đước ơn tha tội” (Mc 1,4) lại có Chúa Giêsu. Người là Đấng Thánh, là Thiên Chúa, siêu việt tuyệt đối, tại sao lại đến xin Gioan làm phép rửa sám hối ? Người là Đấng mà Gioan “không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Ngài ” lại có thể đứng chung với đám đông người tội lỗi chờ đến lượt mình được chịu thanh tẩy ?

Trong đêm Giáng sinh chúng ta đã chứng kiến một Thiên Chúa hạ mình xuống làm người, sinh ra nơi hang đá máng cỏ, làm một người nghèo hèn bé nhỏ, dường như chưa đủ đối với tình yêu thương vô biên của Thiên Chúa. Hôm nay, Người lại hạ mình xuống thêm một bậc nữa, xuống tận cùng xã hội nhân loại khi đến xin Gioan làm phép rửa cho mình như một người dân tầm thường và tội lỗi. Và đã xuống bậc tận cùng khi Chúa hạ mình thẳm sâu chấp nhận chết trên thập giá vì yêu thương nhân loại.

Biết nói gì về Người bây giờ nếu không phải là cúi đầu cảm phục và tôn thờ sự khiêm hạ thẳm sâu đó của Ngôi Hai làm người !

3/ Thời đại ân sủng

Trước sự hạ mình thẳm sâu của Chúa Giêsu, Chúa Cha đã tôn vinh Người bằng lời tuyên bố : “Đây là con Ta yêu dấu” và sai phái Thánh Thần hiện xuống dười hình chim bồ câu.

Ba dấu hiệu mà Phúc Âm nêu lên không những tiên báo sự sống lại vinh hiển của Đức Kitô mà còn tiên báo thời đại ân sủng mà Người mang đến cho loài người.

a/ Dấu hiệu 1 : Trời mở ra.

Sách Sáng Thế viết: Ađam và Evà phạm tội, cửa thiên đàng đóng lại ( St 3,23-24). Qua biết bao thế kỷ, Dân Chúa đã thiết tha cầu nguyện “Ôi ước chi Ngài xé rách các tầng trời và ngự xuống” ( Is 64,1). Nhờ Chúa Kitô, từ nay trời mở ra, một kiểu nói của Thánh Kinh ngụ ý là, con người từ nay được sống thông hiệp với Thiên Chúa.

b/ Dấu hiệu 2 : Thánh Thần ngự xuống như chim bồ câu.

Sách Sáng Thế viết :Trước khi tạo dựng trời đất, thì “Thánh Thần Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” (St 1,2) như để thông truyền sức sống. Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, Chúa Thánh Thần ngự xuống dưới hình chim bồ câu với ngụ ý: Chúa Giêsu là con người mới và trong Người nhân loại sẽ được tạo dựng lại, sẽ được đổi mới. Chính Thánh Phaolô xác định : “ Điều quan trọng chẳng phải là việc cắt bì hay không cắt bì, nhưng là trở thành tạo vật mới” (Gal 6,15).

c/ Dấu hiệu 3 : Lời của Chúa Cha : “ Con là con yêu dấu của Ta…”.

Qua lời tuyên bố này, chúng ta nhận biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Trong lời giảng dạy, Chúa Giêsu cho biết : những ai tin vào Người và nhận phép rửa nhân danh Người thì cũng được thông phần vào địa vị làm con Thiên Chúa.

Khi Chúa Giêsu chịu Phép rửa, trong giờ phút cảm động ấy, cả Ba Ngôi Thiên Chúa cùng xuất hiện. Phép rửa của Chúa Giêsu là mặc khải đầu tiên về Ba Ngôi Thiên Chúa. Đây là lần đầu tiên trong Kinh Thánh Ba Ngôi Thiên Chúa đồng hiện diện. Các Giáo Hội Đông Phương cử hành phép rửa của Chúa Giêsu như một ngày Lễ Ba Ngôi; và chính dưới dấu chỉ Ba Ngôi mà phép rửa Kitô giáo được ban“Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.

Chúa Thánh Thần như chim bồ câu đáp xuống. Chúa Thánh Thần là tình yêu. Chúa Thánh Thần ngự xuống trên ai là dấu chỉ Thiên Chúa ưu ái người ấy. Chúa Cha công khai xác nhận sự ưu ái với Chúa Con: “Đây là Con Ta yêu dấu”. Ba Ngôi liên kết trong một tình yêu hiệp thông. Chúa Giêsu hoạt động dưới tác động của Chúa Thánh Thần để thi hành thánh ý Chúa Cha. Có thể nói cả Ba Ngôi đều hoạt động trong Chúa Giêsu Kitô. Cả Ba Ngôi đều tham gia vào công trình cứu độ con người.

Từ xưa trong Cựu ước, Chúa Thánh Thần ngự xuống là để trao ban một sứ mệnh. Hôm nay, Chúa Giêsu cũng nhận lãnh một sứ mệnh, đó là cứu độ nhân loại, là “mở mắt cho người mù”, là “đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ”, là “dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong bóng tối tăm”.

Chúa Giêsu không đến trong thái độ phô trương quyền lực, nhưng đến trong sự hiền lành khiêm nhường. Người đến không phải để lên án nhưng để tha thứ. Người đến không phải để giết chết nhưng để cứu sống như lời tiên tri Isaia: “Cây lau bị dập, Người không bẻ gãy. Tim đèn leo lét, Người chẳng nỡ tắt đi”.

Phép rửa trong nước mà Chúa Giêsu đón nhận bởi thánh Gioan Tẩy Giả trở nên phép rửa trong Chúa Thánh Thần, khuôn mẫu và nguyên mẫu phép rửa Kitô giáo.

Ngày chúng ta được lãnh nhận bí tích Rửa Tội, màn đêm tội lỗi vây phủ bị xé ra, Ba Ngôi Thiên Chúa đến với mỗi người, ban cho chúng ta cuộc sống thần linh, cho chúng ta được vinh dự làm con Thiên Chúa, được kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Ngày chúng ta được lãnh nhận bí tích Rửa tội, Chúa Thánh Thần cũng đã trao cho chúng ta một sứ mệnh, đó là sống xứng đáng một người con hiếu thảo của Thiên Chúa, là tiếp tục công việc của Chúa Giêsu trong công trình cứu độ.

Chúa Giêsu là gương mẫu một người con hiếu thảo. Người luôn sống thân mật với Chúa Cha, luôn kết hiệp với Chúa Cha trong kinh nguyện hằng ngày, luôn thi hành thánh ý Chúa Cha. Người đã vâng lời Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá.

Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta luôn kết hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi, luôn thi hành thánh ý Thiên Chúa, luôn sống một cuộc sống tốt đẹp, luôn tích cực góp phần xây dựng xã hội, tạo hạnh phúc cho tha nhân.

Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin dạy chúng con biết sống ơn Bí tích Rửa Tội để chúng con được xứng đáng được làm con yêu dấu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Amen.

Về mục lục


PHÉP RỬA: BIẾN CỐ HIỂN LINH VĨ ĐẠI

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB

Biến cố Đức Giê-su hòa nhập cùng đám đông dân chúng bước xuống sông Gióc-đan để được Gio-an rửa, theo nghi thức sám hối thịnh hành vào thời đó, đã được cả ba Phúc Âm Nhất Lãm đồng tường thuật. Chắc chắn đối với các tín hữu thời Giáo Hội sơ khai sự kiện này phải có một ý nghĩa trọng đại lắm, căn cứ vào sứ điệp mà Người dùng để khởi sự sứ vụ rao giảng công khai: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng!” Và tầm quan trọng của nó càng được phô diễn khi chính Chúa Cha đã cho xuất hiện các ấn dấu để làm bắng chứng: ‘trời mở ra… Thần Khí ngự xuống… tiếng từ trời phán rằng: Con là Con của Cha; ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con”.

Đối với Gio-an cũng như dân chúng thời đó, thì nghi thức xuống dòng sông dìm mình chỉ đơn thuần là một dấu hiệu của thống hối tội lỗi, của cải tà qui chính. Đối với phần đa người Do Thái thì việc tẩy rửa này không chỉ mang nội dung mang tính luân lý mà còn cả tôn giáo nữa, vì nó biểu hiện việc tái lập lòng trung thành với giao ước Si-nai. Còn riêng đối với Đức Giê-su thì sao, khi chính người chủ động tìm đến để dìm mình xuống dòng nước Gióc-đan? Đối với Người, tôi thiết nghĩ, thì việc chịu phép rửa bởi tay Gio-an không đơn thuần chỉ là một hành vi tự hạ, mà còn hàm chứa một nội dung hết sức lớn lao. Sau này khi đặt câu hỏi với Gia-cô-bê và Gio-an: “các anh có chịu nổi phép rửa Thầy sắp chịu không?” (Mc 10:38), xem ra Người muốn gợi ý về cái nội dung này.

Như thế, đối với Đức Giê-su, phép rửa chính là hành vi đón nhận trọn vẹn tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, là đưa lòng thương xót của Thiên Chúa vào thân phận thấp hèn của con người tội lỗi (cũng như đối với tất cả những ai tin theo Người sau này, “phép rửa Thầy sắp chịu anh em cũng sẽ chịu”). Đức Giê-su không vướng tội, nhưng một khi đã mặc lấy thân phận con người, Người cũng phải thực hiện nơi mình chính điều mà Người hằng rao giảng: hãy ném mình vào Tin Mừng thương xót của Thiên Chúa như điều kiện để lãnh nhận được ơn cứu độ. Phép rửa mà Người sẽ đạt tới cao điểm và thể hiện cách hoàn hảo trên thập giá, lúc mà, trong tư cách người phàm, Người đã trọn vẹn phó thác mình cho lòng thương xót từ bi của Thiên Chúa “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23:46). Và hành vi này chính là tâm điểm của Tin Mừng nên nó là kết quả trung thực nhất của Thần Khí (Thần Khí ngự xuống), nó mở rộng cửa trời (Trời mở ra), và nó biến con người tội lỗi thấp hèn thành ‘con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra con’. Đức Giê-su Ki-tô, trưởng tử trong các anh em sống kiếp con người, đã tự nguyện bước xuống dòng sông Gióc-đan và tắm rửa là để nói lên sự hoàn toàn chấp nhận lòng thương xót từ ái của Cha.

Như vậy phép rửa của Giao Ước Mới, được thể hiện nơi Đức Giê-su – A-đam mới, là hành vi cần thiết mà bất cứ kẻ tin nào đón nhận Tin Mừng của tình yêu tha thứ đều phải thực hiện. Chẳng thế mà việc đón nhận Tin Mừng Cứu Độ đã được Đức Giê-su và các tông đồ đồng hóa với việc chấp nhận lòng thương xót nhiệm mầu qua biểu tượng bên ngoài là lãnh nhận ‘Phép Rửa’: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28:19). Hành vi thanh tẩy của Phép Rửa từ đó trở thành một bí tích của giao ước mới do Đức Ki-tô Giê-su thiết lập (và có thể nói, chính Người trong tư thế ‘con người giống chúng ta mọi đàng’, đã là người đầu tiên lãnh nhận tại sông Gióc-đan). Tất cả những ai muốn được cứu rỗi đều cần thực hiện ‘Phép Rửa’ đó trong thẳm sâu con người mình. Cũng như Đức Giê-su, nó được khởi sự thực hiện trong ngày đầu của niềm tin vào ơn cứu độ, tức ngày người Ki-tô hữu lãnh bí tích rửa tội, và sẽ chỉ thành toàn trong tiếp nhận trọn vẹn ngày ‘con phó linh hồn con trong tay Cha’.

Như vậy hôm nay quả là ngày chúng ta ghi nhớ sự Hiển Linh trọng đại nhất của con người Giê-su, không chỉ trong thần tính, mà nhất là trong nhân tính của niềm tin. Và cùng với Người, mỗi Ki-tô hữu chúng ta cũng mừng ngày hiển linh của con người được cứu chuộc qua bí tích Rửa Tội chúng ta lãnh nhận, hiển linh lòng từ ái cứu vớt của Thiên Chúa, và hiển linh ơn cứu độ Chúa đã trao ban cho chúng ta cách nhưng không. Và cùng với mừng sự hiển linh rực rỡ này, cũng như Giê-su gục chết trên thập giá, chúng ta cũng ôm ấp và thề nguyền đưa việc hiển linh này tới thành toàn trong giờ phút quyết liệt nhất của cuộc đời: giờ phút chúng ta đi vào cõi vĩnh hằng trong vòng thay nhân ái của Thiên Chúa.

Lạy Chúa, xin cho con biết dìm mình trong lòng từ bi thương xót vô biên của Chúa, qua việc con thành tâm sám hối, tức là chân thành nhìn nhận sự yếu hèn tột cùng của mình. Nếu từ ngày được rửa tội cho tới nay con đã không làm điều này cho đủ, thì thời gian còn lại của cuộc đời, xin cho con dành trọn để đón nhận và tri ân lòng thương xót Chúa; làm như thế con mới thật sự sống bí tích Rửa Tội suốt đời con. A-men.

Về mục lục

.

CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA, CẢ TRẦN GIAN ĐƯỢC THÁNH HÓA

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Tiếp theo lễ Chúa Hiển Linh, Phụng vụ của Giáo Hội mời gọi chúng ta cử hành lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, kết thúc mùa Giáng sinh. Lễ này đã được các Giáo phụ quan tâm đặc biệt ngay từ những thời kỳ đầu, vì tầm quan trọng đặc biệt có tính cổ thời của nó. Đây là lễ được mừng sớm nhất, chỉ sau lễ Phục sinh, vì nó bao hàm lời rao giảng của các Tông Đồ, là điểm khởi hành cho tất cả những việc mà các Tông Đồ phải làm chứng cho (x. Tđcv 1, 21-22; 10, 37-41). Thứ đến, đây là lần đầu tiên, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi được mạc khải một cách đầy đủ và rõ ràng. Lý do nữa là phép rửa của Chúa Giêsu nơi sông Giordan loan báo trước cho phép rửa bằng Máu của Chúa trên Thập Giá, và tượng trưng cho toàn bộ những hoạt động có tính cách bí tích của Ðấng Cứu Thế. Để thực hiện ơn cứu rỗi nhân loại, Ngài đặt mình vào hàng ngũ các tội nhân, mặc dù Ngài là Đấng vô tội, nhưng Ngài đã mang trên mình tất cả tội lỗi của nhân loại. Hành động khiêm nhường và tự hủy này, đã được Chúa Cha chứng dám : ” Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha” (Mc 1, 11). Cùng với Đức Giêsu, Chúa Thánh Thần xuất hiện dưới hình chim bồ câu đậu xuống trên Người, để chỉ cho chúng ta tín điều Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh mà chúng ta sẽ thấy diễn ra tương tự nơi biến cố Chúa Biến Hình.

Câu hỏi được đặt ra trước hết là tại sao Chúa Giêsu là Đấng vô tội sao lại đến xin Gioan làm phép rửa?

Thánh Ghê-gô-ri-ô, giám mục Na-di-en cho biết : “Có thể là Chúa muốn thánh hoá kẻ sắp làm phép rửa cho Chúa, nhưng chắc chắn để chôn vùi trọn vẹn con người A-đam cũ trong dòng nước. Thật vậy, trước khi thanh tẩy ta và để thanh tẩy ta, Chúa thánh hoá sông Gio-đan ; vì Người vừa là thần khí vừa là xác phàm, nên Người cũng muốn nhờ Thần Khí và nước để đưa chúng ta vào đạo”. Nên dù Gioan làm phép rửa, ông cũng chỉ là đèn đối với Mặt Trời, tiếng nói với Lời, phù rể đối với Chàng Rể, người cao trọng nhất trong số những người sinh bởi đàn bà với Trưởng Tử mọi loài thọ sinh, người nhảy mừng trong dạ mẹ với Đấng được thờ lạy ngay khi còn trong lòng mẹ, người tiền hô hiện tại và tương lai với Đấng vừa xuất hiện và sẽ xuất hiện. Quả thật, Gioan biết rằng mình sẽ được thanh tẩy bằng cuộc tử đạo. (Trích bài giảng của thánh Grêgôriô, giám mục Na-di-en). Thánh Phêrô Kim Ngôn giải thích rằng, khi Gioan làm phép rửa cho Chúa Giêsu thì : “Tôi tớ đóng vai chủ, con người đóng vai Thiên Chúa, ông Gio-an đóng vai Đức Ki-tô ; ông đóng vai đó để lãnh ơn thứ tha chứ không phải để ban phát“. Nên Gioan giảng: “ Phần tôi, tôi đã rửa anh em trong nước, nhưng Người, Người sẽ rửa anh em trong Thánh Thần (Mc 1, 8). Đây là phép lạ vĩ đại đã xảy ra sau khi Đấng Cứu Thế chịu phép rửa ; phép lạ này là khúc dạo đầu cho những gì sẽ xảy ra. Đây không phải là Thiên Đàng khi xưa đóng lại vì tội của Ađam nay mở ra, mà chính trời mở ra : “ Khi vừa lên khỏi nước, Người liền thấy trời mở ra, thấy Thánh Thần như chim bồ câu ngự xuống trên mình ” (Mc 1,10).

Tại sao khi Chúa Giêsu vừa lên khỏi nước, trời lại mở ra?

Chúa Giê-su vừa bước lên khỏi nước lúc ấy trời mở ra là Chúa Giêsu nâng thế gian lên cao với Ngài. Vì xưa kia, khi bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng và bị lưỡi gươm lửa cấm đoán, chính A-đam đã đóng cửa trời lại, không cho mình mà cũng không cho con cháu vào. Nay nhờ Chúa Giêsu mà cửa trời được mở ra.

Trời mở ra, còn mạc khải cho Gioan Tẩy Giả và những người Do Thái biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Theo thánh Gioan Kim Khẩu, điều này muốn dạy chúng ta rằng, một sự tương tự vô hình cũng xảy ra khi chúng ta chịu Phép Rửa Tội: Chúa Thánh Thần cũng ngự vào tâm hồn của chúng ta. Ngài không ngự đến một cách hữu hình, bởi vì chúng ta không cần: đức tin hiện nay là đủ… Thiên Chúa mở cửa trời để kêu gọi chúng ta hướng về trời, vì quê hương chúng ta là quê trời, và mách bảo chúng ta rằng, chúng ta không có gì ở dưới đất.

Tại sao Chúa Thánh Thần lại lấy hình một con chim bồ câu mà hiện xuống?

Lý do là vì chim bồ câu rất dịu dàng và trong sạch, và Chúa Thánh Thần là thần khí dịu êm và an bình. Chim bồ câu cũng nhắc cho chúng ta nhớ lại một sự kiện chúng ta đọc thấy trong Cựu Ước khi trái đất bị ngập do lũ lụt và toàn thể loài người trong nguy cơ hư mất, chim bồ câu ngậm cành ôlui xuất hiện để báo sự chấm dứt của cơn đại hồng thủy, tin vui hòa bình cho toàn thế giới. Giờ đây, tất cả những điều này cũng tiên báo về tương lai. Khi tất cả đã hư mất, nay được giải thoát và đổi mới, điều gì đã xảy ra khi nước lũ đến ngày hôm nay như là một lũ lụt của ân sủng và lòng thương xót Chúa… Chim bồ câu, thay vì ngậm một cành ô liu báo cho Noe là người duy nhất bước ra khỏi tầu để đặt chân lên mặt đất. Nay Chim bồ câu báo tin trận hồng thuỷ tràn ngập thế gian đã lui đi, thế gian không còn phải chìm ngập trong cảnh trầm luân muôn đời nữa, phẩm giá ơn gọi làm con Thiên Chúa của chúng ta được phục hồi, và lôi kéo hết thảy mọi người lên Thiên Đàng.

Lời ngôn sứ nói : “Tiếng Chúa vang rền trên nước… Tiếng Chúa uy linh tung sấm sét (Tv 28). Tiếng nào vậy ? “Này là tôi tớ Ta mà Ta nâng đỡ, là người Ta chọn, Ta hài lòng về người. Ta ban Thần trí Ta trên người” (Is 42, 1). Đây là tiếng từ trời vọng xuống để làm chứng cho Đấng từ trời mà đến. Tiếng đó bày tỏ lòng tôn trọng thân xác dưới hình chim bồ câu, vì thân xác đã được thần hoá, khi Thiên Chúa tự tỏ mình ra trong thân xác :”Con là Con yêu dấu của Cha ; Con đẹp lòng Cha“(Mc 1, 11).

Vậy, phép rửa của Chúa Giêsu và phép rửa của chúng ta có liên kết chặt chẽ với nhau. Phụng Vụ của ngày lễ này đã hát lên như sau: “Đức Kitô chịu phép rửa, cả trần gian được thánh hoá, chúng ta được tha thứ tội lỗi, được thanh tẩy nhờ nước và Thánh Thần” (Tiền xướng của Kinh Bênêdictus, của Giờ Kinh Sáng). Chúng ta hãy thanh tẩy mình cho thanh sạch, hãy tiếp tục thanh tẩy cho thanh sạch hoàn toàn và đem lòng tôn kính mà tưởng niệm ngày Đức Ki-tô chịu phép rửa, và hãy mừng lễ cách xứng đáng. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM LỄ CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA

Lm. Anthony Trung Thành

Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa là thời gian kết thúc Mùa Giáng sinh và bắt đầu bước vào mùa Thường niên hay còn gọi là Mùa quanh năm. Đây cũng là thời điểm Đức Giêsu được tấn phong làm Đấng Messia, Đấng Cứu Thế, Ngài bắt đầu bước vào đời sống công khai, thi hành sứ mạng mà Chúa Cha giao phó. Mở đầu bài Tin mừng hôm nay, Thánh Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu về Đức Giêsu và cho biết sự khác biệt giữa phép rửa của ông và phép rửa của Đức Giêsu như thế nào. Thánh Gioan Tẩy Giả cho biết: “Có Ðấng đến sau tôi, nhưng quyền lực hơn tôi, tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Người. Phần tôi, tôi đã rửa anh em trong nước, nhưng Người, Người sẽ rửa anh em trong Thánh Thần.”(Mc 1,7-8). Đồng thời, bài Tin mừng hôm nay cũng cho biết những việc lạ lùng xảy ra sau khi Đức Giêsu chịu phép rửa: “Khi vừa lên khỏi nước, Người liền thấy trời mở ra, thấy Thánh Thần như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Và có tiếng từ trời phán: ‘Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha.’”(Mc 1,10-11).

Từ lời chứng của Gioan Tẩy Giả và lời chứng của Chúa Cha, cùng với sự hiện diện của Chúa Thánh Thần xác minh cho chúng ta thấy sứ mạng của Đức Giêsu là sứ mạng từ trời, sứ mạng từ Chúa Cha. Thật vậy, sau biến cố chịu phép rửa, Tin mừng Thánh Marcô cho biết, Đức Giêsu vào sa mạc chịu ma quỷ cám dỗ (x. Mc 1,12-13) và sau thời gian đó, Ngài bắt đầu thi hành sứ mạng mà Ngài đã nhận lãnh từ Chúa Cha: Rao giảng (x. Mc 1,14-15); kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên (x. Mc 1, 16-20); chữa lành bệnh tật và trừ quỷ (x. Mc 1, 21-45)… Sau đó, Ngài đi khắp nơi tiếp tục rao giảng, làm phép lạ để hoàn thành lời sách ngôn sứ Isaia đã nói về Ngài rằng:“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.” (Lc 4, 18-19). Đó cũng là lời xác minh của Thánh Phêrô trong bài đọc II hôm nay: “Đức Giê-su xuất thân từ Na-da-rét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người.” (Cv 10,38).

Trước khi về trời, Ngài đã thiết lập Giáo hội, thiết lập các Bí tích, nhất là Bí tích Rửa tội để tha tội Tổ tông và tội riêng cho con người, giúp họ trở nên Con Thiên Chúa. Ngài còn ra lệnh cho các Tông đồ rằng: “Các con hãy đi rao giảng cho muôn dân, rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.” (Mt 26,20).

Vâng nghe lời Đức Giêsu, các Tông đồ đã ra đi thi hành sứ mạng trên. Sách Công vụ tông đồ cho biết, bài giảng đầu tiên của Thánh Phêrô đã thu hút trên 3 ngàn người trở lại đạo. Cuối cùng, các Tông đồ cũng đã chết để làm chứng cho lời mình rao giảng. Tiếp tục sứ mạng của các Tông đồ, Giáo hội suốt hai ngàn năm qua đã cố gắng không mệt mỏi để đi khắp nơi rao giảng Tin mừng và giúp vô số người lãnh nhận Phép rửa. Dầu vậy, số người chưa biết Đức Kitô, chưa trở thành người công giáo vẫn còn chiếm khoảng 83%. Vì thế, lời mời gọi của Đức Giêsu vẫn luôn là sứ mạng hàng đầu của Giáo hội. Đó cũng là sứ mạng của mỗi người chúng ta khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội.

Một trong những sứ mạng mà Bí tích Rửa tội mời gọi chúng ta chu toàn, đó là sứ mạng ngôn sứ. Với sứ mạng ngôn sứ, người kitô hữu phải rao giảng Lời Chúa không chỉ bằng lời nói mà bằng chính đời sống của mình để giúp người khác tin yêu Chúa. Nghĩa là, trong khi người đời họ ăn gian nói dối, gian tham, cờ bạc, rượu chè, buôn gian bán lận, thù ghét nhau, thay vợ đổi chồng, phá thai, ly dị…thì người kitô hữu phải sống thật thà, công bằng, bác ái yêu thương, một vợ một chồng, tôn trọng sự sống…để như lời Đức Giêsu nói: “Họ thấy những việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên Trời.” (Mt 5,16) hay “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau.” (Ga 13,35).

Bí tích Rửa tội còn mời gọi chúng ta sống xứng danh là con cái của Thiên Chúa. Thật vậy, khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội là chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa, mang danh là Kitô hữu. Kitô hữu là có Chúa. Muốn có Chúa trong tâm hồn thì phải sạch tội trọng. Vì thế, mỗi người kitô hữu cần phải tránh xa tội lỗi: những tội phạm đến Mười điều răn của Chúa, Sáu điều răn Hội thánh và Bảy mối tội đầu. Mặt khác, mỗi người cần phải tránh xa các tệ nạn như cờ bạc, rượu chè, đề đóm, hút xách, xì ke ma túy, buôn gian bán lận. Các bậc cha mẹ hãy sống gương mẫu trong lời ăn tiếng nói và hành động việc làm, không cãi vã, xung đột, tránh xa những nguyên nhân làm mất hạnh phúc gia đình. Các thanh thiếu niên hãy tránh xa phim ảnh và sách báo xấu, những trò chơi thiếu lành mạnh, nhất là đừng giết chết thời gian bằng Game Online…Thay vào đó, hãy quyết tâm siêng năng học giáo lý, học văn hóa, lãnh nhận các Bí tích nhất là Bí tích Giao hòa và Thánh Thể. Trong mọi hoàn cảnh, hãy dùng lời nói và việc làm để giúp người khác nhận biết Chúa. Hãy cố gắng sống tốt để được Chúa Cha giới thiệu về mình như Ngài đã từng giới thiệu về Chúa Con: “Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha.”

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp mỗi người chúng con biết chu toàn sứ mạng mà Bí tích Rửa tội đòi buộc, đó là sống xứng đáng làm con cái Chúa và luôn ý thức giới thiệu Chúa cho anh chị em xung quanh bằng chính lời nói và việc làm của chúng con. Amen.

Về mục lục

.

QUÝ TỬ CỦA THÁNH PHỤ

Trầm Thiên Thu

Thánh Phaolô xác tín: “Chỉ có một Thiên Chúa, một niềm tin, một phép rửa” (Ep 4:5). Đó là sự thật bất biến, vừa mặc nhiên vừa minh nhiên.

Từ xa xưa, Thánh Vịnh gia đã cho biết lời tuyên phán của Thiên Chúa: “Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra con” (Tv 2:7). Người Con đó là Đức Giêsu Kitô, là Ngôi Lời có từ khởi đầu, vẫn hướng về Thiên Chúa và là Thiên Chúa (Ga 1:1), ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại (Ga 1:4).

Trên núi Tabor, khi được chứng kiến Chúa Giêsu biến hình, chính các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan cũng được nghe tiếng phán vọng ra từ đám mây: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9:7).

Tình yêu thương luôn kỳ diệu, đặc biệt là Tình Cha Mẹ – bao gồm Tình Mẫu Tử và Tình Phụ Tử. Khi nói đến người con, người ta mặc nhiên hiểu là có Tình Phụ Tử ẩn chứa trong đó rồi. Nhưng ở đây, Tình Phụ Tử không đơn thuần như tình cha con bình thường về nhân tính, mà là Tình Phụ Tử về thần tính của ngôi vị Thiên Chúa, mối tương quan mầu nhiệm. Tình Phụ Tử của con người đã có cái gì đó thiêng liêng lắm rồi, Tình Phụ Tử của Thiên Chúa còn thiêng liêng hơn nữa.

Giáo hội cho chúng ta biết rằng việc lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy là “dấu chỉ bề ngoài” chứng tỏ chúng ta đã đón nhận Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Độ. Và kể từ lúc đó, chúng ta được trở nên con cái của Thiên Chúa. Ôi, hồng ân lớn lao biết bao!

Kinh Thánh cho biết rằng Phép Rửa của Ông Gioan là Phép Rửa của sự sám hối (Mt 3:11), nhưng Chúa Giêsu vô tội nên không cần sám hối. Thánh Gioan nhận biết tội mình và biết mình chỉ là tội nhân, cần sám hối, không đáng xách dép cho Chúa Giêsu, ông cảm thấy ngần ngại nên thưa với Chúa Giêsu: “Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!” (Mt 3:14). Nhưng Chúa Giêsu trả lời: “Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính (Mt 3:15). Nghe vậy, ông Gioan an tâm và làm theo ý Ngài. Chúa Giêsu đến với Thánh Gioan Tẩy Giả cho thấy rằng Ngài khiêm nhường chấp nhận Phép Rửa của ông, và Lòng Thương Xót của Thiên Chúa cũng được tỏ hiện qua việc Chúa Giêsu chịu Phép Rửa.

Nói một cách khác, ngay từ lúc khởi đầu sứ vụ, Chúa Giêsu đã chứng tỏ Ngài là Đấng Mêsia và là “Chiên Thiên Chúa, là Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1:29). Ông Gioan vừa làm Phép Rửa xong, Thiên Chúa liền tỏ ra dấu chỉ tỏ tường là “các tầng trời xé ra, và Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống”, sự thật minh nhiên đó đã được chính Chúa Cha xác nhận: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3:17; x. Mc 1:11).

Phàm nhân không thể hiểu nổi bởi vì quá kỳ diệu, nghe rất nghịch lý mà lại thuận lý, gọi là nghịch-lý-thuận: “Đấng CHẲNG HỀ biết tội là gì thì Thiên Chúa đã biến Người thành HIỆN THÂN của tội lỗi VÌ chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người” (2 Cr 5:21). Chúa Giêsu là Đấng công chính, không cần sám hối, nghĩa là không cần chịu Phép Rửa, nhưng Ngài chịu Phép Rửa để làm gương cho chúng ta, còn chúng ta mới thực sự cần chịu Phép Rửa và cần sám hối – sám hối không ngừng, bởi vì “nguồn gốc” của chúng ta vốn dĩ là các tội nhân. Do đó, chúng ta chẳng có gì để tự hào, rất cần mở lòng để đón nhận ơn tha thứ!

Thật kỳ diệu, chính Phép Rửa trở thành “ngưỡng cửa” để chúng ta bước vào Miền Cứu Độ. Trong cuộc đối thoại với ông Ni-cô-đê-mô, một thủ lãnh của người Do-thái, Chúa Giêsu đã xác định với ông: “KHÔNG AI có thể THẤY Nước Thiên Chúa, NẾU không được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên; KHÔNG AI có thể vào Nước Thiên Chúa, NẾU không sinh ra bởi nước và Thần Khí” (Ga 3:3 và 5). Và Thánh Phaolô nói rạch ròi và chắc chắn: “Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa” (Ep 4:5).

Từ ngàn xưa, Đấng Kitô đã được đề cập với danh xưng Người-Tôi-Trung-Đau-Khổ: “Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn và quý mến hết lòng, Ta cho thần khí Ta ngự trên nó; nó sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân. Nó sẽ không kêu to, không nói lớn, không để ai nghe tiếng giữa phố phường. Cây lau bị giập, nó không đành bẻ gẫy, tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ tắt đi. Nó sẽ trung thành làm sáng tỏ công lý. Nó không yếu hèn, không chịu phục, cho đến khi thiết lập công lý trên địa cầu. Dân các hải đảo xa xăm đều mong được nó chỉ bảo” (Is 42:1-4). Người-Tôi-Trung đó chấp nhận đau khổ nhưng không muốn người khác chịu đau khổ, và luôn chạnh lòng thương người khác, nhất là đối với những người yếu đuối, hèn mọn.

Qua ngôn sứ Isaia, Thiên Chúa đã minh định: “Ta là Đức Chúa, Ta đã gọi ngươi, vì muốn làm sáng tỏ đức công chính của Ta. Ta đã nắm tay ngươi, đã gìn giữ ngươi và đặt làm giao ước với dân, làm ánh sáng chiếu soi muôn nước, để mở mắt cho những ai mù loà, đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ, dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong chốn tối tăm” (Is 42:6-7). Mỗi chúng ta cũng được Thiên Chúa gọi đích danh và đặt vào một vị trí theo Thánh Ý Ngài, nhưng không phải để tự tôn hoặc ích kỷ chỉ giữ riêng cho mình, mà phải hành động tích cực, dùng những gì mình đã được Ngài trao ban để làm lợi cho tha nhân – đặc biệt là đối với những người bị áp bức, bị bóc lột, bị tước đoạt những quyền cơ bản của con người,… Công lý luôn cần thiết, thời nay còn cần hơn bao giờ hết!

Tất cả mọi sự chúng ta tận hưởng, cả tinh thần và vật chất, đều do Thiên Chúa ban, chúng ta chẳng có gì và chẳng đáng gì mà dám vênh vang tự đắc. Thánh Vịnh gia đã nhận thức như vậy, và tha thiết mời gọi: “Hãy dâng Chúa, hỡi chư thần chư thánh, dâng Chúa quyền lực và vinh quang. Hãy dâng Chúa vinh quang xứng danh Người, và thờ lạy Chúa uy nghiêm thánh thiện” (Tv 29:1-2). Đó là bổn phận và trách nhiệm của mọi người. Chúng ta chúc tụng Ngài thì Ngài cũng chẳng được thêm gì, thế nhưng chính chúng ta lại được hưởng lợi ích từ việc chúc tụng đó. Thiên Chúa luôn tìm mọi cách làm lợi cho chúng ta, thật là kỳ diệu quá!

Thiên Chúa là Đấng vô hình mà lại hữu hình, vì Ngài vẫn hiện diện trong mọi thứ: “Tiếng Chúa rền vang trên sóng nước, Thiên Chúa hiển vinh cho sấm nổ ầm ầm, Chúa ngự trên nước lũ mênh mông. Tiếng Chúa thật hùng mạnh! Tiếng Chúa thật uy nghiêm!” (Tv 29:3-4). Thiên Chúa là Đấng toàn năng, và chỉ có Ngài là Thiên Chúa duy nhất. Thật vậy, chính Thiên Chúa đã truyền lệnh: “Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta” (Xh 20:3; Đnl 5:7).

Ngài hiện hữu trong mọi vật và mọi sự – vô hình và hữu hình. Những gì chúng ta gọi là tự nhiên hoặc thiên nhiên thì đó chính là Thiên Chúa: “Tiếng Chúa lay động cả rặng sồi, tuốt trụi lá cây cao rừng rậm. Còn trong thánh điện Người, tất cả cùng hô: Vinh danh Chúa! Chúa ngự trị trên cơn hồng thủy, Chúa là Vua ngự trị muôn đời” (Tv 29:9-10). Bổn phận của chúng ta là phải tôn thờ, cảm tạ và chúc tụng Ngài, như Đức Giêsu Kitô đã nói: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6:33). Buông thế gian để chỉ bám vào Thiên Chúa là điều không dễ dàng, phải cố gắng nhiều lắm, nhất là trong thời đại đề cao bề ngoài và vật chất ngày nay!

Một lần nọ, ông Phêrô đã lên tiếng tại nhà ông Co-nê-li-ô: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận” (Cv 10:34-35). Đức Giêsu nhập thể và nhập thế để “TÌM và CỨU những gì đã hư mất” (Mt 18:11). Thánh Phêrô giải thích rạch ròi: “Người đã gửi đến cho con cái nhà Ít-ra-en lời loan báo Tin Mừng bình an, nhờ Đức Giêsu Kitô, là Chúa của mọi người. Quý vị biết rõ biến cố đã xảy ra trong toàn cõi Giu-đê, bắt đầu từ miền Galilê, sau phép rửa mà ông Gioan rao giảng. Quý vị biết rõ: Đức Giêsu xuất thân từ Nadarét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người” (Cv 10:36-38). Tội nhân chúng ta đã được tìm thấy và được cứu vớt khỏi vũng lầy tội lỗi u tối.

Ông Gioan đã được sai đến trước để dọn đường trước khi Chúa Giêsu đến thế gian theo Kế hoạch Cứu độ của Thiên Chúa. Ông là người được Thiên Chúa sai đến, nhưng phong cách rất giản dị và bình dân: Mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng. Có lần người ta hỏi ông là ai – Đấng Kitô, Ê-li-a hay ngôn sứ? Cả ba lần ông đều trả lời “không”, ông chỉ dám nhận mình là “tiếng người hô trong hoang địa” (Ga 1:20-23). Ông không dám nhận mình là ngôn sứ, nhưng thực ra ông lại là một ngôn sứ quan trọng – ngôn sứ “bản lề” của Cựu Ước và Tân Ước. Ông khiêm nhường bao nhiêu thì chúng ta cảm thấy xấu hổ bấy nhiêu, bởi vì chúng ta chỉ là “con số không” to lớn mà lại muốn mạo nhận mình là “cái rốn của vũ trụ”. Ôi, lạy Chúa!

Chính ông đã xác định về Đức Kitô: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần” (Mc 1:7-8). Và rồi chính ông cũng “thú nhận” rằng ông không biết Đức Giêsu là ai, nhưng khi ông làm Phép Rửa cho Ngài, rồi thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Ngài, nên ông nhận biết Ngài chính là “Đấng Thiên Chúa tuyển chọn” (Ga 1:32-34). Chứng cớ đặc biệt nhất là có tiếng từ trời xác nhận: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” (Mc 1:11).

Tổ chức UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên Hiệp Quốc) đã công nhận địa điểm “Bê-ta-ni-a bên kia sông Gio-đan” (Ga 1:28; Ga 10:40-42), phía bờ Đông của sông Gio-đan là địa điểm di sản thế giới, nơi Chúa Giêsu chịu phép rửa (Mc 1:6-11; Mt 3:13-17; Lc 3:21-22), cách trung tâm thành phố Ti-bê-ri-a khoảng 10 km về phía Nam trên sông Gio-đan, có một địa điểm thu hút khoảng nửa triệu người hằng năm.

Theo khoa khảo cổ và Kinh Thánh, nơi thực sự Chúa Giêsu chịp phép rửa cách xa Yardenit cả trăm cây số, ở gần Biển Chết, thuộc về lãnh thổ Gio-đan: “Các việc đó đã xảy ra tại Bê-ta-ni-a, bên kia sông Gio-đan, nơi ông Gio-an làm phép rửa” (Ga 1:28). Tất cả những gi có trong Kinh Thánh đều là thật, càng ngày người ta càng phát hiện nhiều điều thú vị và phải công nhận. Sự thật mãi mãi là sự thật, không thể chối cãi!

Xét về địa lý, dòng sông Gio-đan rất bình thường, thế nhưng bỗng trở nên khác thường vì là nơi Chúa Giêsu chọn để ông Gioan làm Phép Rửa cho Ngài bằng nước. Ôi, nước thật kỳ diệu! Nước rất mềm mà cũng rất mạnh, đặc biệt là không thể tách hoặc cắt được nước. Ở đâu có nước là có sự sống, người ta có thể nhịn đói chứ không thể nhịn khát, vì cơ thể chúng ta chứa tới 70% là nước, mỗi ngày cơ thể cần khoảng 2 lít nước. Có điều lạ là quốc gia cũng được chúng ta gọi là “nước” – nước Việt Nam. Phải chăng Việt ngữ muốn diễn tả nơi mình sống được ví như nước? Còn nước là còn nơi sống, mất nước là mất nơi sống!

Thiên Chúa toàn năng nhưng Ngài lại dùng những thứ bình thường để thực hiện điều kỳ diệu – chẳng hạn như “nước”. Nước biểu hiện sự xuất hiện của Thiên Chúa, chứng tỏ quyền năng của Ngài: “Tiếng Chúa rền vang trên sóng nước, Thiên Chúa hiển vinh cho sấm nổ ầm ầm, Chúa ngự trên nước lũ mênh mông” (Tv 29:3). Với Thiên Chúa, nước cũng được Ngài coi là chất liệu quan trọng nên Ngài đã dùng nước để chứng tỏ chúng ta được tẩy sạch tội lỗi. Nước rất đặc biệt vì nước còn là chất liệu Chúa Giêsu dùng làm phép lạ đầu tiên tại tiệc cưới ở Cana (Ga 2:1-12), và cũng là chất liệu Ngài dùng để dạy “bài học phục vụ” khi Ngài rửa chân cho các môn đệ (Ga 13:1-20). Nước còn quan trọng hơn nữa vì nước là chất liệu biến chúng ta thành con cái Thiên Chúa: “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí” (Ga 3:5). Tuyệt vời quá!

Khi Chúa Giêsu được dìm mình trong dòng nước Gio-đan để khởi đầu sứ vụ, dòng nước đó trở nên Dòng Tình mà Chúa Giêsu muốn tuôn đổ Lòng Thương Xót cho chúng ta, đồng thời Ngài cũng giao trách nhiệm cho mỗi chúng ta phải “đắm mình” trong dòng đời để phục vụ mọi người – chứ không để hưởng thụ, và đó cũng là cách chúng ta phục vụ chính Ngài. Thật vậy, Thánh Phanxicô Assisi đã xác nhận: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân” (Kinh Hòa Bình). Tâm tình thật tha thiết, thánh thiện!

Lạy Thiên Chúa, “xin rửa con sạch hết lỗi lầm; tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy” (Tv 51:4), xin giúp con biết đón nhận Đức Kitô là Đấng cứu độ duy nhất và hết lòng phụng sự Ngài qua việc phục vụ tha nhân, nhất là phục vụ những con người hèn mọn ở mọi ngõ ngách của cuộc đời này. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

SỐNG HIỀN HÒA VÀ KHIÊM HẠ NOI GƯƠNG ĐỨC GIÊSU

Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Mc 1,6b-11

(c 7) Khi ấy, Gio-an rao giảng rằng : “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quay dép cho Người: (c 8) Tôi làm phép rửa cho anh em nhờ nước; Còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần. (c 9) Và đã xảy ra là trong những ngày đó, Đức Giê-su từ Na-da-rét miền Ga-li-lê đến, và được ông Gio-an làm phép rửa dưới sông Gio-đan. (c 10) Vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy Thần Khí tựa chim bồ câu ngự xuống trên mình. (c 11) Lại có tiếng từ trời phán rằng : “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”.

  1. Ý CHÍNH : ĐỨC GIÊ-SU ĐƯỢC TẤN PHONG LÀM VUA MÊ-SI-A

Tin mừng Mác-cô trình bày việc Đức Giê-su được tấn phong làm Vua Mê-si-a tương tự như một lễ phong vương gồm 3 nghi thức như sau :

– Một là thanh tẩy : Đức Giê-su được Gio-an Tẩy Giả dìm trong nước sông Gio-đan.

– Hai là xức dầu : Đức Giê-su được Thần Khí, qua hình ảnh chim câu, từ trời đáp xuống trên mình để xức dầu thiêng liêng tấn phong làm Vua Mê-si-a.

– Ba là tung hô: Đức Giê-su cũng được Chúa Cha công khai thừa nhận là “Con rất yêu dấu” luôn làm mọi việc theo thánh ý Cha.

  1. CHÚ THÍCH :

– C 7-8: +Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi : Gio-an là “Sứ giả của Giao Ước”, có nhiệm vụ như Ê-li-a ngày xưa : đến trước để chấn hưng mọi sự, hầu dọn đường cho Đức Chúa ngự đến (x. Ml 3,1-3.23-24). Mọi lời Gio-an rao giảng đều liên quan tới Đấng Thiên Sai. Tuy Đấng Thiên Sai đến sau Gio-an nhưng Người lại có đầy sức mạnh và Thần Khí của Đức Chúa để chiến thắng kẻ thù (x. Is 11,2), cụ thể là chiến thắng Xa-tan cám dỗ (x. Mc 1,12-13). +Tôi không đáng cúi xuống cởi quay dép cho Người : Cởi quai dép là việc làm của người nô lệ. Gio-an khiêm tốn nhận mình không đáng làm nô lệ cho Đấng Thiên Sai sắp đến. +Phép rửa nhờ nước: Khi chịu phép rửa này, người chịu phép được Gio-an dìm xuống sông Gio-đan như dấu hiệu“tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội” (x. Mc 1,4). Từ đây họ được gia nhập vào nhóm những người chuẩn bị đón Đấng Mê-si-a. +“Phép rửa trong Thánh Thần”: Phép Rửa này ám chỉ toàn bộ công trình cứu độ của Đức Giê-su. Những kẻ chịu phép rửa do Đức Giê-su thực hiện sẽ nhận được Thần Khí tuôn đổ vào lòng. Nhờ đó họ được tẩy sạch mọi vết nhơ tội lỗi. Họ sẽ được tặng một quả tim mới bằng thịt biết yêu thương, thay cho quả tim đã hóa ra chai đá (x. Is 44,3).

– C 9-10: +Đức Giê-su từ Na-da-rét miền Ga-li-lê đến, và được ông Gio-an làm phép rửa dưới sông Gio-đan : Đúng như lời Gio-an loan báo, Đức Giê-su đã xuất hiện và trước hết Người đến với ông Gio-an. Gio-an đã thi hành sứ mạng tiền hô khi làm phép rửa cho Người trong nước sông Gio-đan .+Người liền thấy: Mác-cô tường thuật cuộc Thần Hiện của Đức Giê-su lúc chịu phép rửa như một thị kiến mà chỉ riêng mình Người trông thấy, đang khi các Tin Mừng còn lại như Mát-thêu, Lu-ca và Gio-an lại tường thuật đúng như đã xảy ra (x. Mt 3,13-17; Lc 3,21-22; Ga 1,32-34). +Các tầng trời xé ra: Đây là sự đáp ứng của Thiên Chúa cho lòng khát vọng của dân Ít-ra-en và của nhân loại. Người ta chờ mong “trời mở ra và Thiên Chúa sẽ xuống cứu độ dân Người”. Hôm nay qua hiện tượng các tầng trời xé ra, Thiên Chúa bắt đầu thực hiện những lời Ngài đã hứa qua các ngôn sứ (x. Is 63,19b). Ngài sai Thánh Thần ngự xuống trên Đức Giê-su, giống như Đức Chúa trong cuộc Xuất hành đã ngự xuống trên con dân Ít-ra-en (x. Xh 19,11.18). Với việc trời xé ra, Đức Giê-su bắt đầu ra khỏi Na-da-rét để công khai thi hành sứ mạng cứu độ loài người, đối lập với A-đam ngày xưa (x. Rm 5,12-19). +Người liền thấy Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống trên mình: Câu này nhắc tới sự kiện Thần Khí của Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước khi Chúa sáng tạo nên trời đất muôn vật (x. St 1,2), nhằm diễn tả một một cuộc sáng tạo mới được thực hiện nơi Đức Giê-su sau khi chịu phép Rửa. Thánh Thần xức dầu thiêng liêng tấn phong và giới thiệu Người là Đấng Thiên Sai, qua hình ảnh một con chim câu đậu xuống trên mình Người (x. Is 11,2 ; 42,1).

– C 11: +“Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”: Qua câu này, Mác-cô muốn làm nổi bật dung mạo của Đức Giê-su : Người chính là Vua Thiên Sai, được xức dầu tấn phong để cai trị muôn dân (x. Tv 2,7) ; Người là Con Một yêu dấu của Chúa Cha, trở thành của lễ hiến tế trên bàn thờ thập giá (x. St 22,2);  Người là Tôi Trung của Thiên Chúa, được sai đến rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chịu chết để đền tội thay cho loài người và sống lại để phục hồi sự sống đời đời cho loài người (x. Is 42,1).

  1. CÂU HỎI: Tại sao Đức Giê-su là “Đấng quyền thế hơn” mà lại xuất hiện như một tội nhân đứng xếp hàng để được Gio-an làm phép rửa tại sông Gio-đan?

ĐÁP : Việc Đức Giê-su tự nguyện đến xin chịu phép Rửa của Gio-an không phải để sám hối tội lỗi như bao người khác, vì Người vô tội (x. Dt 5,15b; 7,26). Nhưng qua hành động này, Người muốn chia sẻ thân phận yếu hèn với các tội nhân và cảm thông với họ (x. Pl 2,6) và sau này Người sẽ còn chịu chết trên cây thập giá để đền tội thay cho họ.

Đàng khác, việc toàn thân Đức Giê-su được Gio-an dìm xuống nước sông Gio-đan, chính là hình ảnh của phép rửa sẽ phải trải qua trong cuộc Tử Nạn và Phục Sinh sau này (x. Rm 6,3-4). Từ mầu nhiệm Phục Sinh, Đức Giê-su sẽ thiết lập bí tích Rửa Tội, để tái sinh các tín hữu trở nên con Thiên Chúa và canh tân họ nhờ nước và Thần Khí. Đây là điều kiện cần có để được gia nhập vào Nước Thiên Chúa (x. Ga 3,3-6). Ngoài ra, đây còn là cơ hội để Gio-an Tẩy Giả thi hành sứ mạng tiền hô đi trước dọn đường và làm chứng Người thực là Đấng Thiên Sai với dân Do thái. Cuối cùng, Đức Giê-su chịu phép rửa của Gio-an để biến đổi phép rửa bằng nước trở thành bí tích Rửa Tội trong Thánh Thần (x Mc 1,8) và lửa (x Lc 3,16;Cv 2,3-4), để ban ơn cứu độ cho các tín hữu.

II. SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: Khi ấy, Gio-an rao giảng rằng : “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quay dép cho Người” (Mc 1,7).

2. CÂU CHUYỆN:

1) GIÁ TRỊ CỦA SỰ KHIÊM HẠ GIỮA ĐỜI THƯỜNG :

Một tài xế xe tải kia không dám cho xe tải chạy qua cầu, vì theo anh nghĩ chiếc xe tải có mui xe cao hơn thành cầu tới 10 phân. Trong lúc tiến thoái lưỡng nan, không biết nên giải quyết thế nào, thì có người đề nghị : Hãy xì bớt hơi cho các bánh xe xẹp xuống. Anh tài xế liền làm theo lời khuyên này và cuối cùng chiếc xe của anh đã có thể an toàn đi qua cầu.

Xì hơi cho bánh xe xẹp bớt cũng giống như thái độ khiêm nhường. Trong giao tiếp với tha nhân, nếu “biết mình biết người, thì trăm trận trăm thắng !”. Cũng nhờ biết ứng xử khiêm tốn nhún nhường với tha nhân mà chúng ta sẽ dễ dàng thành công trong mọi việc.

2) KHIÊM TỐN LÀ LUÔN TRONG TƯ THẾ QUÂN BÌNH:

Một hôm Khổng Tử tới thăm miếu vua Hoàn Công nước Lỗ, thấy một chiếc lọ đứng nghiêng thì hỏi thăm và được người giữ miếu cho biết :

– Cái lọ này là một bảo vật, thuở trước nhà vua luôn để gần ngai vàng để nhắc nhở mình.

Khổng Tử nói :

– Ta nghe đồn nhà vua có một bảo vật : không cho nước vào thì lọ sẽ đứng nghiêng ; Đổ nước vào vừa phải thì lọ sẽ đứng thẳng. Còn nếu đổ nước đầy tới miệng thì lọ lại sẽ bị đổ ngã. Có lẽ đó là chiếc lọ này chăng ?

Rồi ngài bảo học trò múc nước để kiểm tra thì kết quả đúng như thế.

Bấy giờ Khổng Tử mới dạy bài học về sự trung dung như sau:

 – Người thông minh thánh trí thì hãy giữ quân bình bằng cách làm việc như một người tầm thường chứ không muốn được nổi bật hơn người khác. Kẻ lập được công to thì hãy giữ quân bình bằng thái độ và lời nói khiêm hạ chứ không khoe mình. Kẻ có sức khỏe vô địch thì nên giữ quân bình bằng thái độ ứng xử nhún nhường chịu đựng tha nhân. Nếu đang là một người giầu có thì hãy giữ quân bình bằng sự quảng đại chia sẻ cơm áo cho người nghèo khổ. Cái lọ của vua Hoàn Công chính là bài học giúp thực hành lối sống quân bình để khỏi bị sụp đổ vậy”.

3) TÔI MỚI ĐƯỢC 2 TUỔI :

Một ông cụ mãi đến năm 80 tuổi mới có điều kiện tin theo Chúa và được lãnh bí tích rửa tội để được tái sinh làm con Thiên Chúa. Từ ngày theo đạo, ông cụ đã thay đổi hẳn trở thành một người mới, ông đã bỏ được sở thích uống rượu say xỉn và không còn chơi bài bạc. Ông đi dự lễ nhà thờ hằng ngày và có lối ứng xử khiêm tốn và bác ái với mọi người chung quanh. Hai năm sau cụ lâm trọng bệnh và bị thày thuốc khám bệnh cho biết cụ sắp chết. Nhiều bạn bè đến thăm và có người thắc mắc hỏi cụ được bao nhiêu tuổi. Ông cụ trả lời :”Tôi mới được hai tuổi. Tám mươi năm trước tôi có sống cũng như chết. Chỉ từ ngày theo đạo tôi mới trở nên một người mới và đến nay mới được hai tuổi”.

3.SUY NIỆM :

Tin mừng lễ Đức Giê-su chịu phép rửa hôm nay dạy chúng ta bài học về mầu nhiệm nhập thể của Chúa Giê-su. Người chính là Con Thiên Chúa đã đến lập cư giữa loài người và trở thành người phàm giống như chúng ta mọi đàng ngoại trừ không có tội. Khi đứng xếp hàng để được Gio-an dìm xuống dòng sông để chịu thanh tẩy bằng nước, Đức Giê-su đã thiết lập bí tích rửa tội để thanh tẩy các tín hữu chúng ta bằng Nước và Thánh Thần hầu ban ơn thánh biến hóa chúng ta trở nên con Thiên Chúa giống như Người. Từ nay chúng ta không còn phải là kẻ xa lạ, nhưng là người nhà của Thiên Chúa. Qua bí tích Thánh Tẩy chúng ta đã được tháp nhập làm chi thể của đầu nhiệm thể là Đức Giê-su. Hơn nữa, chúng ta còn được tham phần vào ba chức vụ của Người là ngôn sứ, tư tế và vương đế. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất chúng ta cần học tập noi gương Chúa hôm nay là ăn ở khiêm hạ trong lời nói và việc làm như sau :

1) SỐNG KHIÊM HẠ NOI GƯƠNG ĐỨC GIÊ-SU VÀ ÔNG GIO-AN TẨY GIẢ :

– Đức Giê-su đã dạy các môn đệ học tập noi gương khiêm nhường của Người như sau: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11,29). Người đã nêu gương khiêm nhường khi rửa chân hầu hạ các môn đệ và dạy bài học khiêm nhường: “Anh em gọi Thầy là “Thầy” là “Chúa”, điều đó phải lắm. Vì quả thật, Thầy là “Thầy” là “Chúa”. Vậy nếu Thầy là “Chúa” là “Thầy”, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (x. Ga 13,13-15). Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã thể hiện sự khiêm nhường qua việc đến xếp hàng xin ông Gio-an làm phép rửa, mặc dù Người hoàn toàn vô tội (x. Mc 1,9).

– Còn Gio-an Tẩy Giả cũng thể hiện sự khiêm nhường khi nói mình không đáng làm đầy tớ cho Đấng Thiên Sai như sau: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người” (Mc 1,7). Ông cũng khẳng định mình không phải là Đấng Ki-tô Thiên Sai mà chỉ là tiếng người nói trong hoang địa mời người ta chuẩn bị tâm hồn đón Đấng Ki-tô sắp đến (x. Ga 1,20.23). Gio-an còn chứng tỏ có đức khiêm nhường qua việc đề cao Đức Giê-su  trước mặt các môn đồ: “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (x.Ga 3,30).

2) Chúng ta cần làm gì để thực hành nhân đức khiêm nhường? :

– Khiêm nhường trong lời nói: Hãy nói ít nghe nhiều; Không khoe khoang thành tích của mình; Không phê bình nói xấu người vắng mặt; Sẵn sàng xin lỗi khi mắc phải sai sót khiến tha nhân buồn lòng; Kịp thời khen thưởng người cộng tác để động viên những cố gắng của họ; Can đảm bênh vực những người yếu đuối thân cô thế cô bị kẻ khác đàn áp bóc lột.

– Khiêm nhường trong thái độ: Năng dâng lời cảm tạ hồng ân Thiên Chúa và cám ơn những ai làm ơn cho mình; Luôn có thái độ hiền hòa và nhẫn nhịn tha nhân; Biết làm chủ tính nóng giận và không to tiếng la mắng người dưới; Luôn sống “dĩ hoà vi quí”, không “Bé xé ra to”, hoặc “chuyện không đáng gì mà làm cho ầm ĩ”; Sẵn sàng đi bước trước đến với tha nhân; Biết bỏ ý riêng mình để làm theo ý Chúa muốn thể hiện qua ý bề trên hay ý chung của tập thể.

– Khiêm nhường trong cách ứng xử: Không đổ lỗi cho người khác, nhưng “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân”; Kiên nhẫn lắng nghe lời phê bình góp ý của người khác; Tận tình phục vụ tha nhân vô vụ lợi kèm theo sự khôn ngoan để tránh bị lợi dụng; Tránh thái độ “Thượng tôn hạ đạp”; Can đảm đứng ra bênh vực những người “thân cô thế cô”; Khi công việc bị thất bại sẽ không đổ lỗi cho người khác, mà nhận phần trách nhiệm của mình; Khi thành công thì nhận là do ơn Chúa ban và là công của tập thể. Khi làm được điều gì tốt thì hãy khiêm tốn tự nhủ: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17,10).

  1. THẢO LUẬN: Tuần này bạn sẽ làm gì để tập sống đức khiêm nhường noi gương Chúa Giê-su và ông Gio-an Tẩy Giả?
  2. 5. NGUYỆN CẦU:

– LẠY CHÚA GIÊ-SU. Qua việc tình nguyện xếp hàng xin Gio-an làm phép rửa, Chúa muốn dạy chúng con thực thi đức khiêm nhường, là nền tảng của sự thánh thiện. Về phần con, con mang đầy những tội lỗi khuyết điểm, thế mà con lại thường ngại ngùng khi phải thú tội trong tòa giải tội. Con chỉ là một kẻ bất tài vô đức, thế mà con lại thích được nổi tiếng, được người đời khen ngợi về tài năng và lòng đạo đức của mình. Con thiếu khả năng lãnh đạo, thế mà con lại muốn nắm giữ những chức vụ quan trọng trong tập thể…

– Lạy Chúa Giê-su, “Đấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng”, xin thanh tẩy con sạch mọi thói hư tật xấu, nhất là thói tự ái cao và tự mãn. Xin giúp con thành tâm hoán cải để luôn ứng xử hiền lành và khiêm tốn hơn, để con đáng được Chúa thứ tha tội lỗi và được hưởng hạnh phúc Nước Trời đời sau.

X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây