THỨ BẢY- NGÀY 3 THÁNG 5 THÁNH PHILIPPHÊ VÀ THÁNH GIACÔBÊ, TÔNG ĐỒ - Ga 14,6-14

Chủ nhật - 27/04/2025 09:39
THỨ BẢY- NGÀY 3 THÁNG 5
THÁNH PHILIPPHÊ VÀ THÁNH GIACÔBÊ, TÔNG ĐỒ
Ga 14,6-14
 
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Gioan
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng Tôma rằng: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, các con biết và đã xem thấy Người”. Philipphê thưa: “Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha và như thế là đủ cho chúng con”. Chúa Giêsu nói cùng ông rằng: “Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy ư? Philipphê, ai thấy Thầy là xem thấy Cha. Sao con lại nói: ‘Xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha?’ Con không tin Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy ư? Những điều Thầy nói với các con, không phải tự mình mà nói, nhưng chính Cha ở trong Thầy, Ngài làm mọi việc. Các con hãy tin rằng Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy. Ít ra các con hãy tin vì các việc Thầy đã làm. Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm được những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha. Và điều gì các con nhân danh Thầy mà xin Cha, Thầy sẽ làm, để Cha được vinh hiển trong Con. Nếu điều gì các con nhân danh Thầy mà xin cùng Thầy, Thầy sẽ làm cho”.

SUY NIỆM: THÁNH PHILIPPHÊ VÀ GIACÔBÊ TÔNG ĐỒ
Hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội kính nhớ hai Thánh Philipphê và Giacôbê tông đồ trong khung cảnh của mùa Phục sinh. Chúng ta cùng khám phá lại xem các ngài đã tin, đã gắn bó và rao giảng về Chúa Kitô phục sinh như thế nào, để mà học đòi bắt chước.
Cũng như nhiều tông đồ khác, khi thấy Thầy mình bắt đầu bước vào con đường thập giá, cũng là lúc 2 vị tông đồ quyết định chọn phương án “Đào vi là thượng sách”, chẳng còn thấy bóng dáng đâu.
Thế nhưng, tác giả sách Công vụ tông đồ cho biết, kể từ sau khi gặp được Đấng phục sinh, Thánh Philipphê đã biến đổi hoàn toàn. Nếu trước kia ngài hèn nhát thế nào, thì bây giờ ngài lại can đảm đến bất ngờ.
Nếu trước đây Thánh nhân đã ngờ vực và đòi Chúa Giêsu tỏ cho mình thấy Chúa Cha, thì giờ đây ngài đã nhiệt thành rao giảng về Đức Kitô phục sinh chính là Con Thiên Chúa, tại khắp miền Samari và các vùng lân cận (x.Cv 8, 5-8).
Đúng như lời Chúa Giêsu đã nói: “Ai tin vào Thầy thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm”. Thánh Philipphê đã làm được nhiều phép lạ và chữa lành cho nhiều bệnh nhân, bởi ngài đã 1 lòng tin tưởng mãnh liệt vào Chúa Kitô đã chết và nay đã sống lại.
Thánh Giacôbê cũng thế, kể từ lần được Chúa Giêsu phục sinh hiện ra với chính ngài, ngài đã nhận ra mình đã quá sai lầm khi bỏ Thầy để chạy thoát thân. Thánh nhân muốn bù đắp cho sự nông cạn đó, để rồi từ đây, ngài cảm thấy mình cần phải nhiệt thành hơn để loan báo tin mừng Phục sinh.
Thánh Giacôbê được chọn làm giám mục đầu tiên tại Giêrusalem, và ngài đã có công rất lớn trong việc bảo vệ giáo lý của Chúa Giêsu.
Điều đáng nói hơn là, cả hai Thánh Philipphê và Giacôbê đều sẵn sàng chết cho Đức Kitô, vì tin rằng, các ngài sẽ được sống lại như Người.
Điểm lại đôi nét trong cuộc đời của hai Thánh Philipphê và Giacôbê tông đồ sau khi gặp được Chúa Phục sinh, ít là chúng ta rút ra được hai bài học cho chính mình
Bài học thứ nhất, hãy thay đổi bản thân mình ngày một nên giống Chúa hơn. Mỗi người hãy xin Chúa Giêsu phục sinh biến đổi con người cũ của mình, từ suy nghĩ, từ lời ăn tiếng nói, đến cả cách sống… để chứng minh cho Chúa và cho người khác thấy: tôi đang thật sự tin tưởng vào mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Kitô, và tôi muốn được nên giống Ngài.
Bài học thứ hai, hãy giúp cho người khác biết Chúa Giêsu chính là đường là sự thật và là sự sống. Nếu quanh ta có ai đó đang lầm đường lạc lối, thì hãy giúp họ nhận ra Chúa Giêsu chính là con đường dẫn đến nguồn chân thiện mỹ. Nếu có ai đó quanh ta đang trở thành nô lệ của sự giả dối, thì hãy giúp họ gặp được Chúa Giêsu là Đấng chân thật để họ được giải phóng. Và nếu có ai đó quanh ta đang sợ hãi khi đối diện với cái chết, thì hãy giúp họ tin rằng Chúa Giêsu là sự sống lại và là sự sống.
Ước gì gương đức tin của hai Thánh Philipphê và Giacôbê tông đồ, và phần thưởng Nước Trời mà các ngài nhận được sẽ là nguồn cảm hứng và động lực, giúp mỗi người gắn bó đời mình với Chúa Giêsu Phục Sinh mật thiết hơn. Đặc biệt, mỗi người sẵn sàng để Chúa biến đổi bản thân, và nhiệt thành làm chứng cho Ngài. Amen.
Lm. Antôn

SUY NIỆM: ĐƯỜNG SỰ SỐNG
A. Philipphê là người xứ Bethsaida. Ông là một trong những người đầu tiên được Đức Giêsu kêu gọi. Chính ông đã mách cho Nathanael Tin mừng lớn lao này: “Đấng mà sách luật Môsê và các ngôn sứ nói tới, chúng ta đã gặp. Đó là ông Giêsu, người Nazareth”. Thấy bạn mình còn hoài nghi, ông đã giục: “Cứ đến mà xem”. Nathanael sau khi đã gặp Đức Giêsu và nghe Ngài nói thì đã tin. Philipphê đã xuất hiện nhiều lần trong Phúc âm: Lúc Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều; làm trung gian cho những người ngoại giáo muốn gặp Đức Giêsu. Philipphê cũng là người đã xin Đức Giêsu: “Lạy Ngài, xin chỉ cho chúng con thấy Cha, thế là đủ cho chúng con”. Người ta nghĩ rằng ông đã đem Tin mừng đến cho người Scythen sau ngày lễ Ngũ tuần và chết rất thọ ở Hiérapolis, tại Phrygie.
Còn thánh Giacôbê mà chúng ta mừng kính hôm nay là Giacôbê hậu, con ông Alphê. Gọi là Giacôbê hậu để phân biệt với Giacôbê tiền, là con của ông Dêbêđê. Phân biệt này không mang ý nghĩa gì khác ngoài việc tránh sự nhầm lẫn. Khoa Thánh Kinh còn nghi ngờ không biết có phải Giacôbê hậu này có phải là “anh em của Đức Giêsu” và là tác giả của lá thư Giacôbê hay không? Nhưng Phụng vụ Rôma lại có sự đồng hoá và xác nhận. Trước khi các Tông đồ tản mác mỗi người một nơi, thì họ chỉ định thánh Giacôbê làm Giám mục Giêrusalem. Ngài là linh hồn của cộng đoàn Giêrusalem. Vì ngài đã làm cho nhiều người trở lại với Đức Giêsu nên bị bản án ném đá. Ngài đã chịu tử đạo đang khi quỳ gối cầu nguyện cho tên lý hình đang kết thúc đời Ngài bằng một thanh sắt giáng xuống trên người, trong thời điểm mừng lễ Vượt Qua. (Theo “Tự điển các thánh”, trang 268-269 và trang 159).
B. Một thông tin làm cho chúng ta phải suy nghĩ là: Theo thống kê về những người chết do tự tử thì nước Nhật là nước có số người chết vì tự tử chiếm hàng đầu thế giới. Vậy điều gì đã khiến cho những con người trong một đất nước có nền kinh tế mạnh đứng hàng thứ ba trên thế giới (sau Hoa Kỳ+Trung Quốc) lại đi tìm cái chết trong cô đơn và tuyệt vọng như thế? Một điều khó hiểu nữa là đa số những người chết vì tự tử ở Nhật Bản lại là những người trẻ, có việc làm ổn định và có địa vị cao trong xã hội. Như vậy, đâu phải nghèo khổ, già nua, bệnh tật là bất hạnh lớn nhất của đời người. Hoá ra cái làm cho con người ta trở thành kẻ khốn cùng nhất trong cuộc đời này là họ không thấy được ý nghĩa và giá trị thật của cuộc sống. Khủng hoảng trầm trọng nhất của xã hội ngày nay là sự hoang mang trước những vấn đề mang tính nhân sinh: Con người sinh ra để làm gì? Và con người sẽ đi về đâu . . .? Tất cả những vấn nạn này chỉ giải đáp được tận căn khi ta đối diện với Chúa và xác tín rằng: “Ngài là đường, là Sự thật và là Sự sống”. Đây là mặc khải rất quan trọng của Chúa Giêsu cho con người chúng ta.
Đời người là một cuộc lữ hành liên lỉ. Nhưng khổ thay, nhiều người đi mà không biết mình đang đi đâu, nên dừng lại hoặc để cho cuộc sống cứ mặc tình cuốn họ đi. Họ chấp nhận cuộc sống của kiếp “lục bình trôi”, bồng bềnh không định hướng. Một số khác thì không thấy đường đi và cũng không biết đường nên đi theo số đông. Họ chọn số đông làm chân lý cho đời mình. Nhưng số đông con người đó lại chọn con đường thênh thang để tiến bước vì nó dễ dàng và hấp dẫn. Nhưng “đường thênh thang thì lại dẫn vào cõi chết”. Con đường bằng phẳng, vui vẻ và dễ dãi thì không có lối thoát, và cuối con đường là vực thẳm của sự chết. Đó là con đường của những cuộc vui trác tráng suốt đêm với tình dục, ma tuý, rượu bia, cờ bạc, đua xe . . . Vui đó, hấp dẫn đó nhưng cũng “tận cùng” đó.
Nhưng trong đêm đen của nhân loại ấy, con người không biết đi về đâu, thì Đức Giêsu là Ánh sáng và là Đường đã đến. Ngài chỉ cho con người con đường để đi đến sự sống và hạnh phúc. “Ta là Đường, là Sự thật và là Sự sống”. Nhưng khi đã thấy và biết đường đi rồi thì con người lại không muốn tiến bước trên con đường mang tên Giêsu đó. Bởi lẽ, con đường ấy có vẻ nhỏ hẹp, nhiều gian nan và hy sinh từ bỏ quá.
Đức Giêsu Kitô đã tự nguyện trở thành đường đi, dẫn con người về với Chúa Cha, về quê hương đích thực. Đồng thời, Ngài cũng là người chỉ đường và là người đồng hành với chúng ta trên CON ĐƯỜNG SỰ SỐNG dẫn về quê hương chân thật đó. Ngài đã chỉ cho con người thấy tất cả những viễn tượng tốt đẹp và huy hoàng ở cuối của con đường ấy. Nơi đó, có một Thiên Chúa toàn năng là Cha đang mở rộng vòng tay đón chờ ta.” . . . Còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ ông ta và hôn lấy hôn để” (Lc 15, 20). Nơi đó là một bữa tiệc cưới vui vẻ và hạnh phúc kéo dài: “Vua kia mở tiệc cưới cho con trai mình” (Mt 22, 2) . . . và bao nhiêu những điều hạnh phúc khác nữa. Đây không phải là một sự mơ tưởng viển vông mà là một thực tại do chính Đức Giêsu, Đấng từ trời xuống nói với chúng ta: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người Đấng từ trời xuống” (Ga 3, 33), hay “Không ai thấy Thiên Chúa bao giờ, nhưng Con Một là Thiên Chúa, và là Đấng hằng ở cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1, 8). Cho nên, đạo Công Giáo không phải là một mớ những kiến thức, những điều phải tin, mà là một viễn cảnh rất đẹp, rất huy hoàng ở tương lai. Khi con người kết thúc cuộc sống ở trần gian này, họ sẽ về “nhà Cha”, và sẽ được Cha đón tiếp vào Nhà dành cho con cái Người nhờ Đức Giêsu Kitô là “Đường, Sự thật và Sự sống” của con người.
Đức Giêsu là hiện thân của Chúa Cha. “Ai thấy Thầy là thấy Cha”. Đức Giêsu đã đáp ứng nguyện vọng của Tông đồ Philipphê. Chính Ngài là mặc khải rõ ràng và cụ thể nhất về Chúa Cha. Cả cuộc đời Đức Giêsu Kitô là để làm theo ý Cha, là minh chứng về Cha: trao ban trọn vẹn cho con người. Vì vậy, nếu chúng ta muốn tôn thờ Thiên Chúa cho đúng đắn và phải đạo thì chúng ta hãy qui về Chúa Kitô, lấy Chúa Giêsu làm điểm tựa, kẻo chúng ta sẽ bị đánh lừa (bị lừa và tự lừa dối mình) phải tôn thờ một Thiên Chúa giả tạo, một Thiên Chúa do sản phẩm của con người làm nên. Thiên Chúa đích thực là Thiên Chúa do Đức Giêsu mặc khải và Ngài là hình ảnh của Thiên Chúa chân thật đó.
Ước gì chúng ta biết soi mình vào Đức Giêsu Kitô để thấy được chân lý, thấy được đường đi chân thật và thấy được một Thiên Chúa chân thật để tôn thờ và yêu mến, noi gương nai thánh Tông đồ Philipphê và Giacôbê mà chúng ta mừng kính hôm nay.
Lm Giuse Đinh Tất Quý

SUY NIỆM: THẤY THẦY LÀ THẤY CHA

Được sống với Thầy, được nghe những bài giảng của Thầy về Chúa Cha, Philipphê nhận ra Chúa Cha là Đấng cao cả nhưng cũng rất tốt lành, là nguồn hạnh phúc, cho nên ông và các tông đồ khác đã ước ao được thấy Chúa Cha: Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện ! Qua đó, chúng ta thấy được tấm lòng khao khát tìm kiếm chân lý của Philipphê và các Tông đồ.
Ước nguyện ấy lại được Chúa Giêsu đáp ứng một cách dễ dàng không ngờ : ai Thấy Thầy là thấy Cha! Một ước vọng có vẻ cao sang nhưng lại được được đáp ứng quá nhanh chóng đến độ bất ngờ như thế, thực sự là một Tin vui hạnh phúc cho loài người chúng ta trên hành trình tìm kiếm chân lý, nhưng nhiều khi cũng vì quá dễ dàng, nên chân lý vĩ đại này lại thường bị bỏ quên. Người ta thích đi con đường dài và  hiểm trở (để quan trọng hóa vấn đề) hơn là chọn con đường có vẻ quá đơn giản như thế. Người ta đi tìm Chúa nơi nao trong khi Chúa ở rất gần, ở bên cạnh, ở trong lòng ta thì lại không biết, không thấy ! Người ta thích suy tư lý luận dài dòng phức tạp nhưng lại quên rằng Thiên Chúa của chúng ta và đường lối của Ngài lại rất đơn sơ.
Có lẽ Philipphê và Giacôbê cùng các Tông đồ sau khi được Chúa dạy dỗ bài học hôm nay, đã ý thức để sống thân mật với Chúa hơn, lãnh nhận chân lý với niềm tin yêu, và sau này các Ngài đã đổ máu đào để làm chứng cho chân lý ấy.
Đối với chúng ta hôm nay, chúng ta có khát khao tìm kiếm chân lý, tìm kiếm hạnh phúc đích thực không? Có người vất vả đi tìm hạnh phúc tạm bợ, giả tạo nơi tiền bạc, danh vọng, lạc thú…; có người đi tìm ở triết thuyết này, đạo pháp kia; có người biết là phải đi tìm Chúa nhưng không biết tìm ở đâu! Thì đây, Chúa Giêsu cho chúng ta câu trả lời đễ dàng đến bất ngờ : Thầy là đường là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. Thì ra gặp Chúa Giêsu là gặp Chúa Cha nguồn Sự thật, thấy Chúa Giêsu là thấy Chúa Cha nguồn sự sống, yêu mến Chúa Giêsu là yêu mến chính Thiên Chúa là nguồn tình yêu. Mà làm thế nào để tìm biết Chúa Giêsu?
Nếu anh biết Thầy, anh cũng sẽ biết Cha. Khổ nỗi, cho đến hôm nay nhiều người trong chúng ta vẫn chưa biết Chúa Giêsu, mặc dù ta mang danh là Kitô hữu, ta vẫn nghe Kinh Thánh mỗi ngày, vẫn rước Chúa mỗi ngày! Nếu một người lương dân hỏi: Chúa Kitô là ai? Có lẽ phần đông chúng ta cũng gặp khó khăn trong câu trả lời đấy! Phải chăng đã đến lúc chúng ta cần nhìn lại cách sống đạo của chính mình, kẻo chúng ta cũng bị trách như Chúa Giêsu trách Philipphê: Thầy ở với anh bấy lâu mà anh không biết thầy ư? Phải chăng chúng ta cần tiếp cận Kinh Thánh một cách ý thức hơn, dành thời giờ học hỏi Kinh Thánh nhiều hơn, để biết đọc, biết suy, biết cảm nếm, để chúng ta có thể gặp được Đức Kitô Phục sinh đang sống động trong từng trang, từng Lời Kinh Thánh và để chính Đức Kitô sống động trong cuộc sống thường ngày của ta.
Nhiều anh chị em sau khi tham gia những khóa học Kinh thánh đã phải thốt lên : bây giờ tôi mới biết Đức Kitô là ai, bây giờ tôi mới cảm nghiệm tình Chúa yêu tôi như thế nào! Trước đó họ vẫn đọc Kinh Thánh chứ, vẫn nghe Kinh Thánh, vẫn học giáo lý, vẫn nghe giảng dậy hàng ngày, nhưng có lẽ những hiểu biết, Đức Tin, lòng yêu mến có được chỉ là vay mượn, không đích thật là của mình, cho nên nó hời hợt, không có chiều sâu và dễ bị nghiêng ngả chao đảo khi gặp thử thách đau khổ. Chỉ khi nào chính mình khám phá, trải nghiệm thì Đức Tin vào Đức Ki tô mới kiên vững, tình mến vào Chúa Kitô mới nồng nàn, và như thế chúng ta sẽ gặp được Chúa Cha là nguồn chân lý, bình an và hạnh phúc, và khi đó, chúng ta có thể làm được những điều như Chúa Giêsu đã làm, đó là làm nhân chứng cho Tin Vui phục sinh ở mọi nơi, để Chúa Cha được tôn vinh nơi Chúa con, để nhân loại được hạnh phúc trong Tình yêu của Chúa Ba Ngôi.
Nguyện xin hai thánh Tông đồ Philipphe và Giacôbê cầu thay nguyện giúp để chúng con noi gương các Ngài, khao khát tìm Chúa, siêng năng học hỏi Kinh Thánh, rước Thánh Thể một cách ý thức hơn để chúng con thực sự găp được Chúa, có được cuộc sống thân mật với Chúa Kitô, từ đó chúng con trở thành nhân chứng sống động, dám sống và chết cho Tin mừng Phục sinh. Amen
Lm. Đaminh Trần Công Hiển

SUY NIỆM:

Ca nhập lễ ngày lễ hai thánh Philípphê và Giacôbê tông đồ có viết rằng: ”Đây là những vị thánh, Chúa đã lấy tình thương chân thành mà tuyển chọn và đã cho các Ngài được vinh quang muôn thuở”. Hại thánh Philípphê và Giacôbê đã được Chúa yêu thương cất nhắc, mời gọi để các Ngài trở nên cột trụ và nhân chứng cho Giáo Hội Chúa Kitô.
ƠN GỌI CỦA CÁC NGÀI
Chúa kêu gọi ai, tuyển chọn, cất nhắc người  nào là do tình thương nhưng không của Ngài.Trường hợp của hai thánh tông đồ Philípphê và Giacôbê nói lên tình yêu thương vô biên của Chúa. Chúa đã mời gọi hai Ngài và tất cả hai Ngài, đã bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu. Thánh Philípphê ở Betsaiđê cùng quê với thánh Phêrô và Anrê, một làng quê trên bờ biển Tibêriát. Thánh Philípphê đã theo thánh Gioan tiền hô và sau này trở thành môn đệ của Chúa Giêsu. Thánh Philípphê đã bảo cho Nathan biết Đấng Cứu Thế đã đến và dẫn Nathan đến gặp Chúa Giêsu. Tin Mừng đã thuật lại những sự liên hệ mật thiết giữa Chúa Giêsu và thánh Philípphê. Trước khi Chúa Giêsu làm phép lạ cho bánh và cá hóa nên nhiều, Ngài đã thử hỏi xem Philíphê có tìm đâu ra thức ăn cho số đông người ăn hay không ? Chính Philíphê trong bữa tiệc ly đã xin Chúa cho thấy Cha của Ngài: ”Lạy Chúa, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha. Và như thế là chúng con mãn nguyện rồi”. Chúa Giêsu trả lời: ”Anh Philípphê. Ai xem thấy Thầy là thấy Cha của Thầy” (Ga 14, 6-9).Thánh Philípphê cũng được số đông lương dân xúm lại hỏi han Ngài, xin Ngài cho họ xem Đấng Cứu Thế. Sau khi Chúa về trời, được Chúa Thánh Thần tác động, đổi mới, thánh Philípphê đã rao giảng, loan báo Tin Mừng và giới thiệu Chúa Kitô cho toàn thể dân thành Sitti . Rồi Thánh Nhân đến rao giảng cho dân Hiêrapoli, xứ Rigie và cũng như Thầy mình, Ngài được phúc tử đạo, bị đóng đinh vì danh Chúa Kitô. Xác thánh nhân được dân chúng mai táng ở Rigie, sau đó được cải táng về Roma, chôn cất cạnh thánh Giacôbê. Thánh Giacôbê hậu là anh em họ với Chúa Giêsu. Sở dĩ gọi Ngài là Giacôbê hậu để  dễ phân biệt với thánh Giacôbê con ông Alphê. Thánh nhân trở thành giám mục tiên khởi cai quản thành Giêrusalem. Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, Chúa đã hiện ra với Ngài và chính Ngài đã viết một bức thư còn lưu lại trong Tân Ước. Thánh nhân luôn trung thành với đức tin, bảo vệ Giáo Hội và vững tay chèo vững tay lái trên ngai giám mục. Vì ghen tương, đố kỵ, thánh nhân bị bọn biệt phái và một số người cứng lòng, ngạo mạn tố cáo và kết án. Thánh nhân bị bọn chúng bắt, đưa lên nóc nhà thờ, xô Ngài xuống đất và ném đá Ngài cho đến chết. Trước khi lià cõi đời, thánh nhân đã quì gối cầu nguyện, xin Chúa tha thứ cho những kẻ thù hãm hại mình.
CHÚA TRAO MŨ TRIỀU THIÊN CHO CÁC NGÀI và GIÁO HỘI TÔN PHONG CÁC NGÀI:
Như Thầy của mình, các môn đệ đã liều mình, hy sinh mạng sống của mình để làm chứng cho Chúa Giêsu phục sinh. Các Ngài nhất nhất chết cho tình yêu. Đúng như Chúa Giêsu đã nói: ”Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu” (Ga 15, 13). Như Chúa Giêsu các Ngài đều nhất loạt cầu nguyện cho kẻ thù làm hại các Ngài: ”Xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23, 34). Các Ngài đã cảm nghiệm sâu sắc thế nào là tình yêu đến tự Thiên Chúa như Henri J.M Nouwen đã viết: ”Khi tình yêu đến từ Thiên Chúa, thì tình yêu đó bền bỉ”.
Lạy Chúa, hằng năm Chúa cho chúng con được hân hoan mừng lễ hai thánh tông đồ Philípphê và Giacôbê. Xin Chúa thương nhận lời các Ngài cầu thay nguyện giúp mà cho chúng con biết thông phần vào cuộc khổ nạn và phục sinh của Đức Giêsu để được chiêm ngưỡng nhan thánh Chúa muôn đời (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Philípphê và Giacôbê, tông đồ).
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

SUY NIỆM: HÃY LÀ TRUNG GIAN CỦA CHÚA

Hôm nay cùng với Giáo Hội ta mừng kính hai thánh Tông đồ Philipphê và Giacôbê. Hai vị thánh này xuất thân từ Bếtsaiđa, cùng quê với Phêrô và Anrê thuộc nhóm môn đệ của Gioan Tẩy Giả, và trở thành những môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu.
Nếu như Giacôbê tiền là anh của Gioan, là con của ông Dêbêđê, thì Giacôbê chúng ta mừng kính hôm nay là Giacôbê hậu, con của ông Anphê. Tiền và hậu chỉ sự phân biệt chứ không nói lên đặc tính gì quan trọng.
Còn thánh Philipphê là người đã giới thiệu ông Nathanaen cho Chúa Giêsu; đồng thời cũng là người giới thiệu nhóm người Hy Lạp khi họ xin được gặp Chúa Giêsu.
Hai vị thánh được Giáo Hội mừng kính hôm nay nếu chỉ dựa trên những gì Sách Thánh nói, thì không có gì nổi trội đặc biệt. Thế nhưng, họ đã được chọn làm Tông đồ của Chúa, chứng tỏ nơi tâm hồn các ông đã có sẵn lòng nhiệt thành và sự sốt sắng đáp trả khi được ơn kêu gọi. Với thánh Philipphê khi xin Chúa: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”; và thánh Giacôbê, vị Tông đồ được sánh bước với Thầy và được thấy những việc Chúa làm. Như thế đủ thấy các ngài được chọn là để thấy, để nghe, để ra đi và để làm chứng cho chính Chúa.
Ta thấy con đường làm chứng cho Chúa chính là Con Đường Giêsu và Con Đường Giêsu đã được khẳng định rõ nét qua lời nói và hành động của Chúa trong những tháng năm trên trần thế. Người đời cho rằng của cải đời này là sự đảm bảo cho cuộc sống thì Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Đồ ngốc! Nội đêm nay người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn sẽ về tay ai?” (Lc 12, 20). Con người cứ lo kiếm tìm danh lợi thú trần gian, Chúa Giêsu lại đến trần không một nơi gối đầu để phục vụ và hy sinh mạng sống vì đàn chiên. Con người đối xử với nhau bội bạc, vô tình, tàn nhẫn; Chúa Giêsu đến với mọi người bằng tình yêu và chân thành: “Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10, 10). Con người những tưởng đã tha thứ đủ khi tha đến bảy lần thì Chúa Giêsu dạy phải tha thứ đến bảy mươi lần bảy. Con người vô ơn quên tình yêu Thiên Chúa, bất tuân lệnh Thiên Chúa; Chúa Giêsu vâng lời Chúa Cha và thực thi mọi phán quyết của Thiên Chúa: “Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10, 9).
Nhờ sự cảm nghiệm của bản thân mình về đức tin chúng ta sẽ cảm nghiệm thẩm sâu toàn diện Tin Mừng Thánh Gioan kết hợp với những khuynh hướng hiện đại cũa chúng ta. Các bạn trẻ chúng ta đã cảm nghiệm được những điều thích thú trong sách của Thánh Gioan, thì cần đào sâu những cuộc đàm thoại trong Tin Mừng của Thánh Gioan để khởi đi từ câu thứ nhất: “Hãy theo tôi mà Thánh Philíp chắc chắn đã thấm thía với tất cả ý nghĩa thâm sâu của câu đó, để rồi: “Thấy Thầy, là thấy Cha” “Thế là được mãn nguyện”.
Nhìn lại cuộc đời Thánh Philípphê, ta thấy Ngài được số đông lương dân xúm lại hỏi han Ngài, xin Ngài cho họ xem Đấng Cứu Thế. Sau khi Chúa về trời, được Chúa Thánh Thần tác động, đổi mới, thánh Philípphê đã rao giảng, loan báo Tin Mừng và giới thiệu Chúa Kitô cho toàn thể dân thành Sitti . Rồi Thánh Nhân đến rao giảng cho dân Hiêrapoli, xứ Rigie và cũng như Thầy mình, Ngài được phúc tử đạo, bị đóng đinh vì danh Chúa Kitô. Xác thánh nhân được dân chúng mai táng ở Rigie, sau đó được cải táng về Roma, chôn cất cạnh thánh Giacôbê.
Tên của Thánh Philip được ghi rất sớm trong Tin Mừng của Thánh Gioan. Ngài được kể là Tông Đồ thứ tư cùng với Thánh Gioan và hai Thánh Anrê và Phêrô dân thành Betsaida xứ Galilê (Ga 1, 43-44), Ngài giới thiệu mấy người Hy Lạp xin gặp Đức Giê-su (12, 21), trước khi làm phép lạ bánh hóa nhiều, Đức Giêsu hỏi Ngài: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn?… Ngài đáp: thực có mua đến 200 đồng bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút (6, 5-7) và ở bữa tiệc ly, Philíp nói: “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”. (14, 8). Người ta cho rằng Philíp sống hiện thực, giống như những người tiến bộ khoa học thời chúng ta: ông sống theo kinh nghiệm nên đòi được xem, sờ, cảm thấy Chúa Cha, cùng với óc tính toán của ông: có mua đến hai trăm đồng bạc bánh cũng chẳng đủ mỗi người một chút!
Thánh Philipphê thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế chúng con mãn nguyện” (Ga 14,8). Ước muốn của Thánh Philipphê cũng chính là niềm khát khao của con người mọi thời vì: “chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 62,1).
Thế cho nên ta thấy dọc dài thời gian, xuất hiện rất nhiều bậc hiền nhân đưa ra những phương cách, lời hay ý đẹp để giúp con người thấu đạt Thượng Đế. Nhưng không một ai đưa con người đến được với Thiên Chúa; ngoại trừ Chúa Giêsu – Đấng là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Chúa Giêsu xuất phát từ Thiên Chúa, là dung nhan lòng thương xót của Thiên Chúa Cha. Chúa biết cách nói về Thiên Chúa, dạy cho con người chân lý yêu thương đích thực. Hơn hết, Chúa Giêsu chính là Con Đường để con người bước vào sự sống của Thiên Chúa.
Thánh Giacôbê hậu là anh em họ với Chúa Giêsu.Sở dĩ gọi Ngài là Giacôbê hậu để dễ phân biệt với thánh Giacôbê con ông Alphê. Thánh nhân trở thành giám mục tiên khởi cai quản thành Giêrusalem. Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, Chúa đã hiện ra với Ngài và chính Ngài đã viết một bức thư còn lưu lại trong Tân Ước. Thánh nhân luôn trung thành với đức tin, bảo vệ Giáo Hội và vững tay chèo vững tay lái trên ngai giám mục. Vì ghen tương, đố kỵ, thánh nhân bị bọn biệt phái và một số người cứng lòng, ngạo mạn tố cáo và kết án. Thánh nhân bị bọn chúng bắt, đưa lên nóc nhà thờ, xô Ngài xuống đất và ném đá Ngài cho đến chết. Trước khi lià cõi đời, thánh nhân đã quì gối cầu nguyện, xin Chúa tha thứ cho những kẻ thù hãm hại mình.
Chúa Giêsu là Đường Hoàn Hảo mà Chúa Cha gửi đến cho con người với tất cả lòng thương xót. Chúa đã chết trên thập giá để cứu độ con người: “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu” (Ga 8,12). Và Chúa Giêsu đã Phục Sinh để minh chứng lời Chúa nói là chân thật: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân” (Lc 24, 46-47).
Nhìn lại cuộc đời của hai thánh tông đồ Philípphê và Giacôbê, ta thấy hai cuộc đời này nói lên tình yêu thương vô biên của Chúa. Chúa đã mời gọi hai Ngài và tất cả hai Ngài, đã bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu. Thánh Philípphê ở Betsaiđê cùng quê với thánh Phêrô và Anrê, một làng quê trên bờ biển Tibêriát. Thánh Philípphê đã theo thánh Gioan tiền hô và sau này trở thành môn đệ của Chúa Giêsu. Thánh Philípphê đã bảo cho Nathan biết Đấng Cứu Thế đã đến và dẫn Nathan đến gặp Chúa Giêsu. Tin Mừng đã thuật lại những sự liên hệ mật thiết giữa Chúa Giêsu và thánh Philípphê. Trước khi Chúa Giêsu làm phép lạ cho bánh và cá hóa nên nhiều, Ngài đã thử hỏi xem Philíphê có tìm đâu ra thức ăn cho số đông người ăn hay không ? Chính Philíphê trong bữa tiệc ly đã xin Chúa cho thấy Cha của Ngài: ”Lạy Chúa, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha. Và như thế là chúng con mãn nguyện rồi”. Chúa Giêsu trả lời: “Anh Philípphê. Ai xem thấy Thầy là thấy Cha của Thầy” (Ga 14, 6-9 ).
Là những môn đệ Tin theo Chúa Giê-su và sau khi được mặc khải, thánh Philipphê đã tiếp tục sứ mệnh làm “trung gian” cho Thiên Chúa khi đem ông Nathanaen (Ga 1, 45-51) và những người Hy-lạp (Ga 12, 20-36) đến với Chúa Giê-su để được gặp và nghe lời Người giảng dạy. Thánh Philipphê còn cùng các môn đệ thực thi sứ vụ làm “trung gian” cho Thiên Chúa bằng cách đi khắp nơi loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo và làm phép Rửa cho những người tin (Mc 16,15-16).
Nhân dịp mừng lễ hai thánh tông đồ Philípphê và Giacôbê, ta xin Chúa thương nhận lời các Ngài cầu thay nguyện giúp mà cho chúng ta biết thông phần vào cuộc khổ nạn và phục sinh của Đức Giêsu để được chiêm ngưỡng nhan thánh Chúa muôn đời (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Philípphê và Giacôbê, tông đồ ). Và rồi mỗi Kitô hữu chúng ta hôm nay cũng được kêu mời làm “trung gian” cho Thiên Chúa. Qua Bí tích Thanh tẩy, mỗi Kitô hữu phải sống sao để nói với người khác rằng: “Ai thấy tôi là thấy Đức Kitô” và “ai thấy Đức Kitô là thấy Thiên Chúa Cha”.
Lm. Huệ Minh

SUY NIỆM: SỰ THẬT DẪN ĐẾN SỰ SỐNG

Chỉ có Đức Giêsu mới có quyền nói: “Ta là đường và là sự thật, sự sống, không ai đến được với Chúa Cha mà lại không nhờ Ta” (Ga 14,6: Tung Hô Tin Mừng).
Ta lưu ý chữ “và” trong tiếng Hy Lạp, khác với “và” trong tiếng Việt: để báo trước chấm dứt một câu văn trong tiếng Việt người ta thường dùng liên từ “và”; còn ngôn ngữ Hy Lạp, “và” báo trước một điều quan trọng. Đan cử:
— Đức Giêsu truyền cho các môn đệ ban Bí tích Thánh Tẩy nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa: Trong khi người tân tòng được dìm xuống nước, thì phải đọc: “Nhân danh Cha và Con và  Thánh Thần” (Mt 28,19). Như vậy, Chúa Con và Chúa Thánh Thần quan trọng như Chúa Cha.
— Khi hai ông Phêrô và Gioan vào trong mộ Đức Giêsu, ông Gioan nói: “Tôi đã thấy và tôi tin” (Ga 20,8). Điều này ông Gioan  có ý trách nhiều người thấy xác Chúa Giê-su không còn trong mộ mà vẫn không tin Ngài đã sống lại; còn ông Gioan thì đã tin. Bởi vì thấy không quan trọng, mà tin mới quan trọng. Do đó Chúa Giêsu chúc phúc cho những ai không thấy mà tin (x Ga 20, 29).
Như thế, đường đi không quan trọng, đường chỉ quan trọng khi nó dẫn ta đi vào sự thật, đạt được sự sống. Mà chỉ duy Đức Giêsu mới là đường quan trọng nhất dẫn ta đến sự sống dồi dào (x Ga 10,10).
Tổ tiên loài người là Adam, Eva khát vọng không phải chết, lại được thông minh sáng suốt như Thiên Chúa, tự biết phân biệt tốt xấu, và được sống hạnh phúc dồi dào muôn đời như Thiên Chúa (x St 3,4-5). Như thế có phải là kiêu ngạo không ?
Thưa không, vì đến như cha mẹ trần thế tuy thuộc loại gian ác (x Mt 7,11) mà còn nói: “Con hơn cha là nhà có phúc”, thì “Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, bởi lòng yêu mến lớn lao của Ngài đã yêu mến ta” (Ep 2,4), nên Đức Giêsu còn hứa cho chúng ta: “Ai tin vào Thầy, thì người ấy cũng sẽ làm được những việc Thầy làm, người đó còn làm những việc lớn lao hơn nữa, bởi vì Thầy về cùng Cha” (Ga 14,12: Tin Mừng).
Ta làm được những việc như Đức Giêsu và còn hơn Ngài, chỉ vì Ngài về cùng Cha, hằng chuyển cầu cho chúng ta qua Hy Lễ Ngài thiết lập đã truyền cho Hội Thánh làm hiện tại hóa cho tới ngày cánh chung (x 1Cr 11,24-25). Tác giả thư Do Thái nói: “Chúa Giêsu là Vị Tư Tế tiến vào cung thánh trên trời, tựa neo thần chắc chắn và bền vững của tâm hồn ta, cắm vào tận bên trong bức màn cung thánh” (Dt 6,19). Để mỗi khi ta đến dự Hy Lễ này, ta được trực tiếp nghe Đức Giêsu dạy (x Dt 1,1-2). Lời Ngài đã nghe từ Chúa Cha  và nói lại cho ta biết (x Ga 14,10: Tin Mừng). Ta lại được nhìn các việc Đức Giêsu làm mà noi theo, như chính Ngài đã không tự ý làm việc gì, mà Cha Ngài làm sao thì Ngài làm y như vậy (x Ga 5,19; 14,11: Tin Mừng). Để “ngay từ bây giờ ta được biết Chúa Giêsu là biết Chúa Cha” (Ga 14,7: Tin Mừng).
Trong Kinh Thánh, “biết” là động tác chỉ riêng về việc vợ chồng trao thân cho nhau để sinh con cái. Như Adam biết Eva sinh Cain (x St 4,1), cũng thế, Đức Ma-ri-a thưa với thiên thần Gabriel: “Tôi không biết việc vợ chồng làm sao tôi sinh con ?” (Lc 1,34).
Vậy mỗi khi ta dự Lễ cách trọn vẹn, ta được rước Lễ là lúc Chúa Giêsu “trao thân” cho ta, và ta “trao thân” cho Ngài, đó chính là Giêsu biết ta và ta biết Giêsu. Để sau khi dự Lễ về, ta phải “sinh” con cho Thiên Chúa, đó là ta tiếp nối việc làm của Chúa Giêsu và còn làm được hơn Ngài. Thực vậy, suốt đời Đức Giêsu vất vả rao giảng Lời của Cha và phục vụ hết lòng, nhằm cho người ta tin Ngài là Thiên Chúa, để được Ngài dẫn về Thiên Đàng, mà mãi đến giờ hấp hối trên thập giá, Ngài mới đưa được một anh trộm lành vào Thiên Đàng với Ngài (x Lc 23,43). Trong khi đó, mỗi lần ta dự Lễ cầu nguyện cho các linh hồn, biết bao linh hồn được về Thiên Đàng trước ta, hoặc khi ta ban Bí tích Thánh Tẩy cho một người trong tình trạng nguy tử mà họ muốn theo Chúa, sau đó tắt thở, là họ được về Thiên Đàng ngay, trong khi ta vẫn còn là kẻ tội lỗi sống trên dương thế. Ông Phao-lô kể mình được Chúa Giêsu hiện đến với ông là người sau cùng, vì trước đó ông đã bách hại Hội Thánh (x Cv 9). Nhưng Chúa đã thương tái sinh ông dù chỉ là đứa sinh non, sinh thiếu tháng, rất yếu ớt. Thế mà nhờ ông được “biết” Chúa Giêsu, ông đã sinh nhiều tín hữu dân ngoại, lập được nhiều giáo đoàn hơn các Tông Đồ thượng đẳng (x 2Cr 11,5). Kết quả ông đã đưa nhiều người vào Nước Trời trước ông. Rõ ràng ông làm các việc của Chúa Giêsu nhưng hiệu quả hơn Thầy Giêsu, khi Ngài còn sống trên dương thế. Như lời thánh Phaolô nói: “Nhờ Tin Mừng anh em được cứu thoát, nếu anh em giữ đúng như chúng tôi đã loan báo. Tin Mừng chúng tôi loan báo là “Đức Giêsu Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, nhưng ngày thứ ba Ngài đã sống lại,rồi hiện ra với thủ lãnh Hội Thánh là ông Phêrô, tiếp đó với Nhóm Mười Hai, sau  nữa là Ngài hiện ra với hơn 500 anh em một lượt, rồi Ngài lại hiện ra với ông Giacôbê, với tất cả các Tông Đồ khác. Sau chót, Ngài đã hiện ra với tôi, chẳng khác nào một đứa trẻ sinh non” (1Cr 15,1-8: Bài đọc). Hai Tông Đồ Philipphê và Giacôbê mà Hội Thánh kính hôm nay, cũng chỉ vì các ngài đã sinh nhiều con cho Thiên Chúa – sinh các tín hữu – nhờ các ngài hết lòng loan báo Tin Mừng và phục vụ mọi người theo gương Thầy Giêsu.
Thánh Philipphê là người đã giới thiệu Đấng Mêsia cho ông Nathanael (x Ga 1,45); ông thưa với Đức Giêsu ở đây có một em bé có năm chiếc bánh và hai con cá, nhưng không đủ nuôi đoàn lũ dân đông (x Ga 6,5-7); dân ngoại đến nhờ ông dẫn họ đến gặp Đức Giêsu (x Ga 12,21-22); ông xin Thầy Giêsu cho biết Chúa Cha thế là được mãn nguyện (x Ga 14,8); trong ngày lễ Ngũ Tuần, ông và các môn đệ cùng cầu nguyện, Chúa Thánh Thần đã đến biến đổi lòng các ông (x Cv 1,13); ông hết lòng giảng Tin Mừng nên bị đóng đinh, xác ông hiện nay được chôn cạnh mồ thánh Giacôbê.
Thánh Giacôbê là con của ông Alphê (x Mt 10,3); ông là Giám mục đầu tiên ở Giêrusalem (x Gl 1,18-19); ông là một trong những người được gặp Chúa Giêsu Phục Sinh (x 1Cr 15,7: Bài đọc). Ông viết một bức thư trong Tân Ước nội dung chính ông đề cao Đức Tin phải thể hiện việc làm, phải biết dùng tiền của đúng ý Chúa, và phải canh giữ lời nói cho xứng hợp với ơn làm con Chúa. Cuối đời, ông bị xô từ nóc Đền Thờ xuống và bị ném đá cho đến chết!
Vì thế mà lời kinh ca tụng những người thành công như các Tông Đồ: “Tiếng các ngài vang dội khắp hoàn cầu”. Nếu ta không biết sinh con Thiên Chúa để làm vinh hiển Ngài, thì ta thua  các tạo vật, “chúng còn biết tường thuật vinh quang Thiên Chúa, nhờ vẻ đẹp Chúa ban cho để diễn tả quyền năng và tình thương của Thiên Chúa, dù chẳng một lời một lẽ, chẳng nghe tiếng âm thanh, mà tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu, và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển” (Tv 19/18, 2-5: Đáp ca).
Vì vẻ đẹp, hùng vĩ, kỳ diệu nơi muôn tạo vật mang dấu vết sự hiện diện của Thiên Chúa, mà đỉnh cao là con người được Chúa tạo dựng theo hình ảnh Ngài, nên con người không được thua kém các tạo vật ca tụng Thiên Chúa, mà ai cũng phải sống Lời Chúa để nói được như thánh Tông Đồ: “Anh em hãy bắt chước tôi như tôi đối với Đức Kitô” (1Cr 11,1). Vì tôi có quyền nói được như Đức Giêsu: “Thiên Chúa luôn ở cùng tôi, chính Người làm những việc của mình” (Ga 14,10b: Tin Mừng).
THUỘC LÒNG: Chúa Giêsu nói: “Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha” (Ga 14,12).
Lm Giuse Đinh Quang Thịnh
 

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây