SUY NIỆM THỨ 3 TUẦN IV PHỤC SINH NĂM B

Thứ hai - 22/04/2024 09:33

 
THỨ 3 TUẦN IV PHỤC SINH NĂM B
(Ga 10, 22-30)


SUY NIỆM 1: SỰ SỐNG CỦA THIÊN CHÚA
                                                                  
Sự sống của Thiên Chúa thật kỳ diệu. Đó là sự sống hiệp thông. Một sự hiệp thông mầu nhiệm. Nên một. “Tôi và Chúa Cha là một”. Không còn gì xác tín hơn. Không còn gì sâu xa hơn. Chỉ Thiên Chúa mới có sự sống ấy.
Sự sống hiệp thông ấy biểu lộ trong suốt đời dương thế của Chúa Giê-su. Người không nói gì, làm gì mà không bởi Chúa Cha. Đó là dấu chỉ chắc chắn nhất chứng minh Người là Đấng Ki-tô. “Những việc tôi làm nhân danh Cha tôi, những việc đó làm chứng cho tôi”.
Sự sống hiệp thông lan toả đến đoàn chiên của Chúa. “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha”. Đó là sự sống phong phú, viên mãn. Không bao giờ mất. Không ai cướp đi được.
Sự sống hiệp thông tràn lan khắp nơi. Càn tản mát lại càng lan toả. “Hồi ấy, những người phải tản mác vì cuộc bách hại xảy ra nhân vụ ông Tê-pha-nô, đi đến tận miền Phê-ni-xi, đảo Sýp và thành An-ti-ô-khi-a”.
Sự sống hiệp thông tràn lan sang cả dân ngoại. Không chỉ trong người Do thái. Nhưng còn lan toả đến mọi dân tộc. “Nhưng trong nhóm, có mấy người gốc Sýp và Ky-rê-nê; những người này, khi đến An-ti-ô-khi-a, đã giảng cho cả người Hy-lạp nữa, loan Tin Mừng Chúa Giê-su cho họ”.
Và thật lạ lùng. Sự sống ấy giữ được nét nguyên tuyền. Như Chúa Cha và Chúa Giê-su là một. Giờ đây đoàn chiên hiệp thông với chủ chiên. Tín hữu hiệp thông với Chúa Ki-tô. Đến nỗi người ta gọi họ là “Ki-tô hữu”. Người mang Chúa Ki-tô. “Chính tại An-ti-ô-khi-a mà lần đầu tiên các môn đệ được gọi là Ki-tô hữu”.
Xin cho con được kết hiệp trọn vẹn với Chúa. Sống sự sống của Chúa trong mình. Để con xứng đáng mang danh hiệu Ki-tô hữu rất cao quý này.
 

                                                                     TGM Giuse Ngô Quang Kiệt.





SUY NIỆM 2:

 Người Do-thái vây quanh Đức Giê-su và nói: “Ông còn để lòng trí chúng tôi phải thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Đấng Ki-tô, thì xin nói công khai cho chúng tôi biết.”

 Đoạn tin mừng xảy ra ở Giê-ru-sa-lem, người Do-thái đang mừng lễ Cung Hiến Đền Thờ. Trước đó, họ đã chia rẻ nhau vì Đức Giê su nói Ngài nhận mệnh lệnh từ Cha. Điều này làm cho họ thắc mắc và truy vấn Ngài. Người Do-thái vẫn muốn biết Đức Giêsu có phải là Đấng Kitô mà họ mong chờ không.

 Lý do họ thắc mắc và muốn được giải đáp cũng chỉ là để thỏa mãn cái biết của họ chứ họ có tin vào Đức Giêsu đâu. Họ dùng lời lẽ của con tim để hy vọng Đức Giêsu đáp lời họ. Họ ra vẻ là rất muốn hiểu Ngài. Họ càng hỏi càng cho thấy thái độ chẳng tốt lành gì với Đức Giê su.

Chúng ta thấy ngày hôm nay cũng có rất người theo Chúa, cũng muốn biết Chúa. Thế nhưng, những gì họ nhận được trong đời sống cũng không thỏa được nhu cầu của họ. Họ vẫn muốn biết thêm, được thêm. Đức Giê su đã nói, đã làm biết bao nhiêu điều thế mà họ có tin Ngài đâu. Thái độ của những người hỏi Chúa muốn nhắc tôi điều gì? Tôi có thật tâm tìm kiếm Ngài và để Ngài dẫn dắt cuộc đời tôi?

Lạy Chúa, xin dẫn dắt con trong đường lối của Ngài.

Br. Vincent SJ


 SUY NIỆM 3 : SỐNG THEO SỰ DẪN DẮT CỦA CHÚA

A- Phân tích (Hạt giống...)
Tiếp theo bài giáo lý sống theo sự dẫn dắt của Chúa:
Chúa Giêsu là Mục tử: “Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi. Tôi cho chúng được sống đời đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất”.
B- Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Tôi biết chiên của tôi. “Biết” theo thánh Gioan là “yêu thương”
Có một câu chuyện truyền kỳ rất hay kể lúc Môisen trốn khỏi Ai cập, chăn chiên cho Giêtrô trong đồng vắng: có một con chiên trong bầy bỏ đàn đi mất Môisen kiên nhẫn đi tìm nó và ông đã tìm thấy nó đang uống nước bên giòng suối. Môisen đến bên nó để tay trên mình nó và nói thật nhỏ nhẹ:
- Tại vì mày khát nên mày bỏ đi ? Ông không giận con chiên vì nó đã làm ông mệt mỏi, nhưng cảm thông với nó và mang nó trở về. Thượng Đế nhìn thấy như vậy, Ngài phán: “Nếu người này thương xót một con chiên đi lạc như vậy, đây chính là người ta muốn lập làm người lãnh đạo dân ta”.
2. “Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi”. Phụng vụ đang dạy chúng ta sống dưới sự dẫn dắt của Chúa Giêsu Mục tử tốt lành. Muốn thế, ta phải “nghe tiếng” Ngài và “đi theo” Ngài. Chiên không nghe theo tiếng người lạ.
Một người Mỹ đi du lịch qua xứ Syria, đã thấy ba người chăn chiên dẫn bầy mình ăn chung với nhau. Một lúc sau, một trong ba người chăn này kêu chiên mình:
-Men ah! Men ah! (Theo tiếng Ả rập có nghĩa là “Hãy theo ta! Hãy theo ta!”)
Các con chiên của người này liền tách khỏi bầy và đi theo người ấy lên đồi.
Người chăn thứ hai cũng kêu như vậy, và chiên của anh ta liền đi theo anh ta.
Người Mỹ nói với người chăn thứ ba:
- Xin anh vui lòng cho tôi mang đồ đạc của anh để tôi kêu như anh kêu, xem các con chiên này có theo tôi hay không.
Anh ta sẵn sàng cho người Mỹ này mượn đồ đạc. Xong xuôi, người Mỹ kêu: “Men ah! Men ah!”, nhưng chẳng có con chiên nào nhúc nhích. Lạ quá Người Mỹ ngạc nhiên hỏi:
- Thế chiên không nghe tiếng ai khác, ngoại trừ anh thôi sao ?
Người chăn Syria trả lời:
- Ồ! Có chứ! Vài con chiên bị bệnh, nó sẽ đi theo bất cứ ai.
Người ta tìm thấy trong một cuốn nhật ký những tâm tình sau đây:
Suốt đời tôi, tôi rất sợ chết, cho đến ngày một đứa con tôi về với Chúa. Trong lễ nghi an táng cháu, Cha sở kể câu chuyện sau: “Một Mục tử dẫn bầy chiên đến bờ sông. Nhìn dòng nước chảy xiết, tự nhiên bầy cừu sợ hãi. Người mục tử không làm sao hối thúc chúng qua được. Cuối cùng ông lựa ra một con cừu non, cùng đi với nó xuống dòng nước và dắt nó qua bên bờ bên kia. Khi cừu mẹ thấy con mình ra đi, nó quên cả sợ hãi và phóng theo. Và thế là cả bầy cừu nối đuôi nhau theo sự hướng dẫn của người Mục tử.
Một mai nếu có phải theo con tôi về với Chúa, tôi chẳng sợ (Góp nhặt).
3. “Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi”.
Chúa Giêsu là vị Mục tử nhân hậu và tốt lành. Ngài không những biết rõ và biết từng con chiên mà còn yêu thương chăm sóc và hiến mạng sống vì đoàn chiên. Ngài sống lại và trở nên nguồn sống của đoàn chiên. Phần tôi, một con chiên trong đàn, tôi cũng được Ngài yêu thương chăm sóc vỗ về, nhưng tôi còn biết quá ít về Ngài và chưa theo Ngài trọn vẹn.
                                                                          Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái.

SUY NIỆM 4:  ĐỨC GIÊSU, CON THIÊN CHÚA
  1. Nhân kỷ niệm cuộc tẩy uế Đền thờ Giêrusalem và khánh thành bàn thờ mới thời Giuđa Maccabê. Đức Giêsu cũng có mặt. Trong khi Đức Giêsu đi bách bộ tại hành lang Salômôn, người Do thái vây quanh và chất vấn Ngài về nguồn gốc của Ngài. Nhân đây, Ngài tuyên bố một chân lý quan trọng: “Tôi với Chúa Cha là một”, nghĩa là Ngài đồng bản tính với Chúa Cha.
  2. Năm 165 TCN, một trong những nhà ái quốc nổi tiếng của Do thái là Giuđa Maccabê đã lãnh đạo cuộc nổi dậy của người Do thái chống lại ách thống trị của vua Syria là Antiôkô Epiphane. Chiến công vẻ vang nhất trong cuộc nổi dậy là tái lập và thanh tẩy Đền thờ Giêrusalem vốn đã bị tục hóa bởi bàn tay thô bạo của ngoại xâm. Từ đó, hàng năm vào khoảng mùa đông, người Do thái tưởng niệm biến cố này trong vòng 8 ngày liền, tuần lễ này được gọi là Cung hiến Đền thờ.
  3. Đức Giêsu đã có mặt tại Giêrusalem nhân tuần lễ tưởng niệm này. Lễ Cung hiến Đền thờ vốn khơi dậy lòng ái quốc của dân chúng. Chính vì thế nhiều người đã vây quanh Đức Giêsu và yêu cầu ngài tuyên bố dứt khoát Ngài có phải là Đấng Kitô, nghĩa là Đấng được Thiên Chúa xức dầu và sai đến như vị cứu tinh của dân tộc không?
Đối với họ, Đức Giêsu có thể là vị anh hùng dân tộc hay một nhà cách mạng nào đó. Chính vì thế, Đức Giêsu đã không trả lời dứt khoát cho câu hỏi của họ. Mối tương quan giữa Chúa Cha và Ngài mà Đức Giêsu vén mở trong câu trả lời mời gọi người Do thái đi vào mầu nhiệm của Ngài.
  1. Chúng ta thấy Đức Giêsu không trả lời thẳng câu hỏi họ đặt ra, nhưng một lần nữa, Chúa cho họ biết Đấng Kitô không phải như quan niệm trần tục của họ, Đấng Kitô không đến để làm thỏa mãn những tham vọng chính trị của họ là giải phóng dân tộc của họ và đem lại thịnh vượng vật chất cho họ. Cho nên, Chúa vượt lên trên quan niệm thiên sai trần thế, và tuyên bố cho họ biết Ngài đồng bản tính với Chúa Cha: “Tôi và Cha tôi là một”.
  2. Như vậy, Đức Giêsu đã khẳng định rõ Ngài là ai. Ngài không những là Đấng Kitô, là Con Thiên Chúa, mà còn là chính Thiên Chúa nữa. Trong vấn đề này, chỉ trong đức tin, con người mới có thể biết Đức Giêsu, nhận diện được khuôn mặt đích thực của Ngài và loan truyền một cách đúng đắn về Ngài. Nhiều khi qua cuộc sống và cung cách tuyên xưng niềm tin của mình, người Kitô hữu chỉ trình bày một khuôn mặt, nếu không méo mó về Đức Giêsu, thì cũng giới hạn Ngài trong những quan niệm hoàn toàn trần tục. Biết Đức Giêsu và đi vào mầu nhiệm thẳm sâu của Ngài thiết yếu là đi vào cuộc Tử nạn và Phục sinh của Ngài. Liền sau khi Phêrô tuyên xưng Ngài là Đức Kitô, Đức Giêsu đã loan báo cuộc Tử nạn và Phục sinh của Ngài.
  3. “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi”
Giáo hội là đàn chiên của Chúa. Lời hứa chăm sóc bảo vệ đàn chiên của Đức Giêsu không chỉ dành riêng cho thời các Tông đồ hoặc các cộng đoàn tiên khởi, nhưng đã trải dài suốt 21 thế kỷ nay. Biết bao thế lực chống đối chủ trương triệt hạ Giáo hội của Đức Kitô, thế nhưng Giáo hội của Chúa vẫn tồn tại nhờ sự bảo vệ đầy quyền năng của chủ chăn.
Trong đàn chiên Giáo hội này, mỗi con chiên đều được người chăn chiên biết rõ, gọi tên, và chiên có bổn phận phải nghe và đáp trả. Sự đáp trả có thể mang nhiều sắc thái khác nhau, nhưng dù sao không thể ra ngoài lối đi của tất cả đàn chiên, vì đó là lối dẫn đến sự sống.
  1. Cuộc sống của người Kitô hữu là lời tuyên xưng và rao giảng về một dung mạo của Đức Giêsu khi nào họ kết hiệp với Ngài trong mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài. Người Kitô hữu phải cố gắng để nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, để có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không phải là tôi mà Chúa Kitô sống trong tôi”. Chúng ta nghe lời văn sĩ John Bayer đã khen vợ mình vào giây phút cuối đời ông: “Mình thân yêu, trong gương mặt của mình, tôi đã nhìn thấy dung mạo của Thiên Chúa. Xin cảm ơn mình vô cùng”.
  2. Truyện: Bức tượng Chúa chiên lành
Hành hương Rôma, pho tượng gây xúc cảm nhất cho khách hành hương là pho tượng Chúa chiên lành vác con chiên thất lạc trên vai đem trở về. Dưới pho tượng, có ghi câu của Abercies vào thế kỷ thứ II rằng: “Ta là môn đệ của một mục tử thánh thiện đã dẫn dàn chiên ra đồng có xanh tươi bên sườn núi và dưới đồng bằng, vị mục tử có đôi mắt lớn nhìn đến khắp mọi nơi”.
Chúa Kitô chính là người mục tử nhìn xa thấy rộng ấy. Nhờ sự chết và phục sinh, Chúa đã đạp đổ mọi ngăn cách để mở rộng đàn chiên, bao trùm cả thế giới. Đàn chiên ấy, ngày nay chúng ta chỉ được nhìn thấy một phần nhỏ và hạn hẹp, sau này trên chốn vinh quang mới được chứng kiến tầm vóc vĩ đại của đại gia đình Thiên Chúa.                   
                                                                           Lm.Giuse Đinh Lập Liễm

                     
SUY NIỆM 5: XIN ĐƯỢC Ở TRONG ĐÀN CHIÊN CỦA CHÚA
                                                              
Cùng một lời nói được phát ra, có người nghe thấy, có người chẳng nghe; có người nghe đúng, có người nghe sai; có người nghe đủ, có người nghe thiếu…
Thực trạng đó rất đúng với bài Tin Mừng hôm nay. Thật vậy, những người Dothái hỏi Đức Giêsu: “Ông còn để lòng trí chúng tôi phải thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Đấng Kitô, thì xin nói công khai cho chúng tôi biết”.
Những người Dothái không biết Đức Giêsu là bởi vì họ đã không nhận ra Ngài. Họ bị thói kiêu ngạo che lấp tâm trí, nên đứng trước biết bao nhiêu phép lạ, lời giảng dạy và nhiều mạc khải khác, họ vẫn bị mờ tối lương tâm nên không “biết” Đức Giêsu. Vì thế, khi được hỏi, Đức Giêsu đã khẳng khái trả lời cho họ biết nguyên nhân tại sao, đó là: “Vì họ không thuộc về đàn chiên của Ngài”. Bởi vì: “Chiên tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi” Khi đã “biết” và nghe theo tiếng Chủ chiên là chính Đức Giêsu, thì sẽ được sự sống đời đời, không bao giờ diệt vong. Nhất là được đảm bảo khỏi sói dữ, quỷ thần ám hại, vì được ở trong vòng tay của Vị Mục Tử Nhân Lành.
Nếu Đức Giêsu là Mục Tử Nhân Lành, thì Giáo Hội là đàn chiên của Chúa. Nơi đàn chiên này, luôn được Vị Mục Tử Nhân Lành chăm sóc, giữ gìn. Thế nên, dù sự dữ có mạnh đến đâu, quyền lực của ma quỷ có lớn lao cỡ nào, thì Giáo Hội Chúa vẫn tồn tại nhờ vào sức mạnh, uy quyền của Chủ Chăn.
Mong sao, mỗi người chúng ta luôn tin tưởng tuyệt đối vào Đức Giêsu, Vị Mục Tử Nhân Lành, đồng thời hãy biết lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành, để xứng đáng trở thành con chiên ngoan hiền trong đàn chiên của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành, xin Chúa ban cho chúng con luôn biết dõi theo Chúa dưới cây gậy mục tử là chính Lời Chúa, để chúng con được sống trong đàn chiên của Chúa đến trọn đời. Amen.

Giuse Vinhsơn Ngọc Biển. SSP



 SUY NIỆM 6  

Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật việc người Do-thái vây quanh Chúa Giêsu để đòi Người xác định về vai trò của Người.
Thật ra, không phải là Chúa Giêsu chưa nói cho họ biết, mà là vì họ cứng lòng tin. Chúa Giêsu xác định sự cứng lòng tin đó, và Người lại phải nại đến những chứng từ để trả lời cho họ về sứ vụ của Người. Đó là: Những công việc Chúa Giêsu làm nhân danh Chúa Cha làm chứng cho Người, và sở dĩ họ không nhận ra là vì họ không thuộc đàn chiên của Người khi không chịu nghe tiếng Người:
1. Công việc nhân danh Chúa Cha.
Nói đến Lời Chứng từ Chúa Cha, trong Tin Mừng Nhất Lãm, chúng ta gặp thấy ít nhất hai lần là khi Chúa Giêsu chịu Phép Rửa tại sông Giođan và lúc Người biến hình trên núi Tabo. Nhưng trong Tin Mừng Gioan có lẽ chỉ nói tới một lần nhãn tiền Chúa Cha phán vọng xuống rằng: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!” (Ga 12,28). Tuy nhiên, ở đây Chúa Giêsu giải thích Lời Chứng của Chúa Cha tức là việc Chúa Cha sai phái Chúa Con thực thi việc Cứu Độ, và việc đó đã được chứng nhận qua bao công việc Người làm. Chính sự việc được xảy ra theo lời Chúa Giêsu là do Người thực hiện theo ý Chúa Cha và Chúa Cha đã làm cho việc đó xảy ra.
Chúa Cha làm chứng cho công việc của Chúa Giêsu nơi trần gian, không chỉ là lời phán ra từ trời, nhưng còn là việc nhận lời Chúa Giêsu cầu xin khi thực hiện các phép lạ (trong thân phận mang kiếp người hữu hạn nơi bản tính nhân loại).
Chúa Giêsu nói: “Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không tin. Những việc tôi làm nhân danh Cha tôi, những việc đó làm chứng cho tôi”. Có vẻ như chính Chúa Giêsu cũng thừa nhận rằng, người Do-thái không thể tin được Người là một ngôi vị đồng bản thể với Thiên Chúa Cha, vì trong niềm tin của người Do-thái là độc thần, nên Người đành phải nại đến cớ “xem quả để biết cây” – nhìn những công việc Người thực hiện mà nhận ra quyền năng thiên tính của Người, mà cụ thể là chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền và phục sinh kẻ chết. Đặc biệt cách thực hiện của Người không như các lang y, mà là ra lệnh cho mọi quyền lực ma quỷ, sự chết và tội lỗi phải tuân lệnh. Người dùng Lời sáng tạo để phục hồi: “hãy chỗi dậy, hãy sáng mắt, hãy ra khỏi người này…” giống như ngay từ lúc sáng tạo, Thiên Chúa phán: “hãy có ánh sáng, hãy có tinh tú…” và tức khắc xảy ra như vậy.
Thế nhưng, dù đã nại đến kết quả công việc để minh chứng, nhưnng người Do-thái vẫn không tin. Vậy đâu là lý do họ cứng lòng. Câu trả lời được Chúa Giêsu nêu ra là: “Các ông không tin, vì các ông không thuộc về đoàn chiên của tôi. Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi”
 
2. Không phải chiên của Chúa.
Khi Chúa Giêsu nói: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi”. Nghĩa là không biết lắng nghe tiếng Chúa thì không phải là chiên của Chúa, mà không phải chiên của Chúa thì không thể biết Chúa vì không được Chúa Giêsu mặc khải qua Lời Chúa, qua Lời Rao Giảng và qua Giáo Hội của Người.
Biết ở đây không chỉ hiểu là nhận biết, mà còn là một sự liên kết thân thiết với nhau. Biết Đức Giêsu là ai là điều cốt yếu đối với chúng ta, vì điều mà Người ban tặng cho chúng ta là vô giá: đó là được thông phần sự sống của Thiên Chúa. Nhưng nếu Đức Giêsu không đến từ Thiên Chúa và không là Thiên Chúa thì lời hứa đó chẳng có giá trị gì. Chính vì vậy mà phải khám phá ra cho được Đức Giêsu là ai, vì nhờ đó mà chúng ta tìm thấy ơn cứu độ.
Những người Do-thái tưởng mình biết Thánh Kinh, nhưng Thánh Kinh lại có trăm ngàn chỗ vượt quá trí hiểu nhân loại nếu họ không biết lắng nghe. Thật ra, chỉ vì người Do-thái chỉ tìm những đoạn Thánh Kinh có lợi cho họ, họ tìm những gì mang tính siêu việt và vẽ ra một Đấng Cứu Thế phải thoả mãn tham vọng của họ, nên họ cố tình bỏ qua những lời Thánh Kinh tiên báo về nơi sinh hạ, cũng như những gì các ngôn sứ viết về người tôi tớ đau khổ của Gia-vê.
Thời nào cũng thế, con người vẫn muốn đi tìm một Thiên Chúa theo ý mình, nên họ khó lòng chấp nhận một Đức Giêsu vác khổ giá đồng hành với họ.
Ngày nay không thiếu những “con chiên” thay vì nghe chủ chăn thì lại nghe theo người lạ, thay vì nghe theo Giáo Hội của Chúa lại nghe những thứ “được coi là mặc khải” này nọ từ bên ngoài.
Tóm lại, sứ điệp chính của bài Tin Mừng hôm nay chính là lời mời gọi tin vào Chúa Giêsu là chủ chiên nhân lành, ngoan ngoãn nghe theo tiếng Người trong Thánh Kinh và trong Giáo Hội mà dấn bước theo Người. Hãy đến với Chúa Giêsu để Người đưa ta đến những chân trời xa rộng. Hãy đến với Người để Người băng bó vết thương, xoa dịu nỗi đau và phục hồi sự sống. Hãy đến với Người để Người đổ tràn tình yêu và sự sống vào tâm hồn ta.
Lạy Chúa Giêsu, như Chúa đã nói: “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào”, xin cho chúng con được sống tràn trề bên dòng suối Lời Chúa và sung mãn với lương thực Thánh Thể của Người. Amen.
 Hiền Lâm


SUY NIỆM 7: CHIÊN ĐÍCH THỰC CỦA CHÚA.                                        
Sự xuất hiện của Đức Giêsu trong đền thờ làm cho người Do Thái thắc mắc về thân thế của Ngài. Họ nóng lòng muốn biết có phải Ngài là Đấng Kitô không? Đứng trước sự thắc mắc của người Do Thái, Đức Giêsu đã khẳng định rằng “Những việc tôi làm nhân danh Cha tôi, những việc đó làm chứng cho tôi. Nhưng các ông không tin, vì các ông không thuộc về đoàn chiên của tôi. Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi”. Vậy, chúng ta phải làm gì để thuộc về đoàn chiên đích thực của Đức Giêsu ?
Những điều Đức Giêsu nói, những việc Đức Giêsu làm đều nhân danh Chúa Cha và những điều đó đã làm chứng rằng “Ngài là Đấng Kitô”. Thế nhưng, những người Do Thái vẫn không tin. Sự nghi ngờ đó cho thấy họ không thuộc về đoàn chiên của Đức Giêsu. Vì nếu họ thuộc về đoàn chiên của Đức Giêsu thì luôn tin vào những việc Ngài làm và nghe theo những điều Ngài dạy. Con chiên là con vật rất hiền lành và dễ thương. Nó không bao giờ nghe và đi theo tiếng của người lạ, nhưng luôn nghe và đi theo tiếng của chủ mình (x. Ga 10,5). Đức Giêsu ví mình như là Chủ của đoàn chiên, là vị Mục Tử nhân lành, luôn hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên (x. Ga 10,11) và luôn lo cho đoàn chiên được sống dồi dào (x. Ga 10,10). Ngài biết rõ từng con chiên một (x. Ga 10,14). Con chiên nào đau ốm thì Ngài lo lắng chăm nom, con chiên nào đi lạc thì Ngài mau mắn đi tìm và dẫn đưa về (x. Lc 15,4-7).
Khi Đức Giêsu tự nhận mình như là Chủ của đoàn chiên, thì Ngài cũng xem các môn đệ như những con chiên hiền lành, luôn nghe, tin và đi theo tiếng chủ: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi” (Ga 10,27). Thật vậy, chỉ nghe, tin và đi theo thôi thì chưa đủ để thuộc về đoàn chiên đích thực ngoan hiền của Chúa. Vì có thể khi nghe xong tai này thì lọt qua tai kia, cho nên không quan tâm đến những điều đã nghe. Điều này chính Đức Giêsu cũng đã nói: “Ai nghe những lời Thầy nói đây, mà không đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đỗ tan tành” (Mt 7,26-27). Cũng vậy, một người có thể tin và đi theo Chúa, nhưng chỉ theo phía sau một cách thụ động, mà không bao giờ dám dấn thân liều mình để cùng với Đức Giêsu đi vào “con đường tình yêu khổ nạn và phục sinh”. Vậy, nếu chúng ta là những con chiên đích thực của Đức Giêsu, thì chúng ta không những chỉ nghe theo những điều Đức Giêsu đã nói và tin nhận những việc Đức Giêsu đã làm. Nhưng còn phải thực hành những điều đã nghe và tin trong cuộc sống đời thường của chúng ta. Vì Thánh Giacobe đã nói: “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2,17).
Thật vậy, Chúng ta là những Kitô hữu, là môn đệ của Đức Giêsu, hay nói đúng hơn là những con chiên đang sống trong đoàn chiên của Chúa là Giáo hội. Chúng ta đã trở nên những con chiên đích thực ngoan hiền, những con chiên tốt lành của Chúa chưa? Hay chỉ là những con  khoác áo chiên? Điều này mỗi người chúng ta hãy trở về với cõi lòng để tự nhìn lại mình và hãy tự trả lời. Vì không ai có thể trả lời thay cho chúng ta.
Lạy Chúa, với bài hát “tin hay không tin” của nhạc sĩ Nguyễn Lý đã có thể nói lên phần nào sự quyết định của mỗi con người sẽ đi về đâu. “Tin hay không tin là chấp nhận hay từ chối. Tin hay không tin là sống mãi trong trầm luân. Tin hay không tin đời sáng ngời hay mù tối. Tin hay không tin nay chấp nhận cho đời tôi”. Xin chúa ban thêm đức tin cho chúng con để luôn tin vào những lời Chúa dạy và thực hành theo những việc Chúa làm. Nhờ đó mà chúng con mới có thể trở nên những con chiên ngoan hiền đích thực của Chúa, có như thế mới đem lại hữu ích cho bản thân, cho Giáo hội và xã hội.
M. Mai Liên, CĐ Phước Thiên. Xitô Thánh Gia.

SUY NIỆM 8
1. Chúa Giêsu nói: "Tôi biết chiên của tôi." (Ga 10,14).
Biết theo thánh Gioan là yêu thương.
Thánh Tôma Aquinô nói: "Nhiệm vụ của mục tử nhân lành là yêu mến. Vì thế, Người nói: mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Cần phải biết là có khác biệt giữa mục tử tốt và mục tử xấu: mục tử tốt nhắm đến lợi ích của đoàn chiên, còn mục tử xấu thì chỉ lo cho lợi ích riêng mình."
Đây lời tiên tri Êzêchiel: "Quả thật, Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Đây, chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm, như mục tử kiểm điểm đàn vật của mình vào ngày nó ở giữa đàn chiên bị tản mác thế nào, thì Ta cũng sẽ kiểm điểm chiên của Ta như vậy. Ta sẽ kéo chúng ra khỏi mọi nơi chúng đã bị tản mác, vào ngày mây đen mù mịt. Ta sẽ đem chúng ra khỏi các dân, tập hợp chúng lại từ các nước và đưa chúng vào đất của chúng. Ta sẽ chăn dắt chúng trên các núi Israel, trong các thung lũng và tại mọi nơi trong xứ có thể ở được. Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng cỏ tốt tươi và chuồng của chúng sẽ ở trên các núi cao Israel. Tại đó chúng sẽ nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trong đồng cỏ mầu mỡ trên núi non Israel. Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng."(Ed 34,11-16)
Có lẽ không có lời nào nói lên tấm lòng yêu thương của vị mục tử đối với chiên của mình hay hơn thế!
2. Chiên của Tôi thì nghe tiếng Tôi. Tôi biết chúng và chúng theo Tôi” (Ga 10,27).
Khi nhìn đám đông quần chúng theo mình, Chúa Giêsu cảm động và thương xót họ. Dưới mắt Ngài, họ như chiên không có kẻ chăn. Ngài ngụ ý gì khi nói như thế? Thưa:
a. Một con chiên không có người chăn sẽ không tìm được đường đi. Nếu bị bỏ mặc một mình, chúng ta sẽ bị lạc lõng trong cuộc sống. Thi sĩ Dante có một câu nói rằng: “Tôi tỉnh dậy giữa rừng và trời tối đen, trước mặt tôi chẳng thấy có con đường nào trống trải cả”. Cuộc đời có thể khiến chúng ta bối rối lạc lõng như vậy. Chúng ta có thể gặp một ngã tư đường mà không biết phải đi lối nào. Chỉ khi Chúa Giêsu hướng dẫn chúng ta mới theo Ngài, tìm ra lối đi.
b. Một con chiên không người chăn sẽ không tìm được đồng cỏ và thức ăn. Sống trên đời này, chúng ta phải tìm kế mưu sinh, chúng ta ra khỏi chính mình và vượt cao hơn cả chính mình. Nếu chúng ta tìm nó ở những nơi khác, tâm trí chúng ta sẽ chưa thỏa mãn, tấm lòng chúng ta chưa được yên nghỉ, linh hồn chúng ta cũng chưa được no đủ. Chúng ta chỉ có thể tìm được sức lực của đời sống từ nơi Đấng vốn là Bánh Hằng Sống.
c. Một con chiên không có người chăn sẽ không được ai bảo vệ chống lại những nguy hiểm đang đe dọa nó. Nó không thể tự vệ cả với bọn trộm cướp lẫn với đám thú rừng. Nếu có gì cuộc đời dạy khôn chúng ta thì đó là chúng ta không thể sống một mình. Không ai có thể tự vệ đối với những cám dỗ, với điều ác của thế gian luôn luôn vây hãm mình. Chỉ khi nào chúng ta cùng đi với Chúa Giêsu, chúng ta mới có thể bước đi trong thế gian và luôn giữ được áo xống mình khỏi sự ô uế của đời này. Không có Ngài, chúng ta sẽ không thể tự vệ, với Ngài chúng ta được an toàn.
3. "Tôi cho chúng được sự sống đời đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất” (Ga 10,28).
Mục tử tốt lành là mục tử luôn lo cho đoàn chiên.
Đây là lời cầu nguyện của thánh Grêgôriô:
Lạy Đấng Mục Tử nhân lành, Đấng mang cả đoàn chiên trên vai. Xin chỉ cho con chỗ nghỉ ngơi, xin dẫn con đến đồng cỏ xanh mà bổ dưỡng; xin gọi con đích danh, để con được nghe tiếng Chúa, vì con là chiên của Chúa.
Xin cho con biết Chúa đang chăn chiên ở đâu, để con tìm thấy đồng cỏ cứu độ và được đầy no lương thực bởi trời.
Xin cho con biết chạy đến nguồn suối mà múc lấy của uống thần linh, của uống chính Chúa ban như dòng nước từ nguồn mạch chảy tuôn cho những người đang khát. Chúa đã tuôn đổ dòng nước này từ cạnh sườn Chúa khi lưỡi đòng khai mạch. Ai nếm hưởng nước này thì trở nên mạch nước vọt lên đem lại sự sống đời đời.
Xin Chúa cho con biết phải làm gì để được nghỉ ngơi bồi dưỡng! Phải theo đường nào để tới chỗ nghỉ trưa. Xin đừng để con vì không biết sự thật mà rời xa bàn tay Chúa dắt dìu, nhập đoàn với những bầy chiên xa lạ, không phải là đoàn chiên của Chúa. Amen.
Lm. Giuse Đinh Tất Quý

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây