Thứ Ba 18/10/2022 – THÁNH LUCA, TÁC GIẢ SÁCH TIN MỪNG. Lễ kính. – Diễn Văn Truyền Giáo.

Thứ hai - 17/10/2022 05:58

* Thánh Luca, “người thầy thuốc yêu quý” là bạn đồng hành của thánh Phaolô và cũng là tác giả sách Tin Mừng, trong sách này người đã trình bày lòng nhân hậu của Chúa Kitô rõ ràng hơn ai hết.

Người cũng viết sách Công vụ, tường thuật lại sự tiến triển của Hội Thánh sau ngày Hiện Xuống. Qua ngòi bút của con người thông thạo văn chương chữ nghĩa như người, Tin Mừng trở thành một bài thánh ca tạ ơn trong bầu khí vui tươi và lạc quan phấn khởi.

 

LỜI CHÚA: Lc 10, 1-9

Khi ấy, Chúa chọn thêm bảy mươi hai người nữa và sai các ông cứ từng hai người đi trước Người đến các thành và các nơi mà chính Người sẽ tới. Người bảo các ông rằng: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người. Các con hãy đi. Này Ta sai các con như con chiên ở giữa sói rừng. Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép, và đừng chào hỏi ai dọc đường.

"Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: "Bình an cho nhà này". Nếu ở đấy có con cái sự bình an, thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng không, sự bình an lại trở về với các con. Các con ở lại trong nhà đó, ăn uống những thứ họ có, vì thợ đáng được trả công. Các con đừng đi nhà này sang nhà nọ.

Khi vào thành nào mà người ta tiếp các con, các con hãy ăn những thức người ta dọn cho. Hãy chữa các bệnh nhân trong thành và nói với họ rằng: Nước Thiên Chúa đã đến gần các ngươi".

1. Sai thợ ra gặt lúa--Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ

“Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít.

Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.” (c. 2).

Trong hành trình truyền giáo cuối cùng với thánh Phaolô (Cv 20, 5),

Luca hẳn đã thấy những cánh đồng lúa chín ở mọi nơi,

đang chờ nhiều người gặt hái gấp, kẻo lúa bị hư hoại.

“Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi…” (c. 3).

Dù chưa bao giờ gặp mặt Đức Giêsu,

nhưng Luca đã nghe được tiếng gọi sai đi của Ngài.

Ông đã là cộng tác viên ở bên thánh Phaolô khi người ở tù (Plm 24),

và đã một mình ở lại khi người bị giam lúc cuối đời (2 Tm 4, 11).

Là người dân ngoại được đón nhận Tin Mừng,

Luca muốn trao lại Tin Mừng đó cho những người dân ngoại khác.

Vừa có học thức và khiếu văn chương, lại vừa là y sĩ (x. Cl 4, 14),

Luca đã dùng tài năng của mình để phục vụ cho Lời Chúa (x. Lc 1, 2).

Người ta cho rằng Luca là một họa sĩ đã vẽ chân dung Đức Mẹ,

nay được tôn kính ở Đền thờ Đức Bà Cả tại Rôma.

Nhưng điều chắc chắn hơn nhiều là Luca đã vẽ chân dung Đức Giêsu,

khi thánh nhân cầm bút viết sách Tin Mừng cho dân ngoại.

Qua việc nghe lời giảng của các tông đồ, qua tìm hiểu và chiêm niệm,

Luca trở nên người hiểu rất sâu về trái tim nhân từ của Thầy Giêsu.

Không hiểu Thầy Giêsu thì không thể viết được cuốn Tin Mừng như thế.

Luca cho ta thấy một Giêsu say mê cầu nguyện,

từ khi Ngài chịu phép rửa của Gioan đến khi chịu treo trên thập tự.

Cầu nguyện là giây phút Ngài có thể nói lên tiếng Abba với Cha.

Giây phút riêng tư ấy, cả môn đệ cũng không khuấy động được.

Luca còn cho thấy một Giêsu cương quyết lên Giêrusalem, vì đó là ý Cha.

“Hôm nay, ngày mai, và ngày mốt, tôi phải tiếp tục đi…” (13, 33).

Ngài đi đến nơi khổ đau và cái chết đang chờ đợi (Lc 9, 51 -19, 27).

Tin Mừng của Luca tràn ngập khuôn mặt của người nghèo,

nghèo sức khỏe, nghèo tiền bạc, nghèo phẩm giá, nghèo đời sống tâm linh.

Đức Giêsu đã chữa bệnh và trừ quỷ, chúc lành và tha thứ.

Ngài đem đến cuộc cách mạng của Thiên Chúa, cho người nghèo nên giàu,

đem tình thương tha thứ vô bờ của Thiên Chúa cho tội nhân

đem sự bình đẳng cho các phụ nữ để họ trở nên người cộng tác (8, 2-3).

Vì thế Tin Mừng của Luca cũng tràn ngập niềm vui,

từ niềm vui của Dacaria, của Gioan trong bụng mẹ, của các mục đồng,

đến niềm vui của các môn đệ sau khi Đức Giêsu thăng thiên (24, 52).

Thánh sử Luca là một người dân ngoại được ơn viết Sách Thánh.

Chúng ta cũng là dân ngoại được ơn lãnh nhận đức tin.

Dù không thể viết được những câu chuyện tuyệt đẹp như thánh Luca,

về người cha nhân hậu hay về hai môn đệ đi Emmaus,

nhưng chúng ta vẫn có thể kể câu chuyện đời mình cho người khác,

câu chuyện đầy ắp ân sủng Thiên Chúa và chan chứa niềm vui tri ân.

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

khi nhìn thấy đồng lúa chín vàng

chúng con ít khi nghĩ đến những hạt giống

đã âm thầm chịu nát tan

để trao cho đời cây lúa trĩu hạt.

Có bao điều tốt đẹp

chúng con được hưởng hôm nay

là do sự hy sinh quên mình của người đi trước,

của các nhà nghiên cứu, các người rao giảng,

của ông bà, cha mẹ, thầy cô,

của những người đã nằm xuống

cho quê hương dân tộc.

Đã có những con người sống như hạt lúa,

để từ cái chết của họ

vọt lên sự sống cho tha nhân.

Nhờ công ơn bao người,

chúng con được làm hạt lúa.

Xin cho chúng con

đừng tự khép mình trong lớp vỏ

để cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của mình,

nhưng dám đi ra

để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ.

Chúng con phải chọn lựa nhiều lần trong ngày.

Để chọn tha nhân và Thiên Chúa,

chúng con phải chết cho chính mình.

Ước gì chúng con dám sống mầu nhiệm vượt qua

đi từ cõi chết đến nguồn sống,

đi từ cái tôi hẹp hòi đến cái tôi rộng mở

trước Đấng Tuyệt Đối và tha nhân. Amen.

 

2. Vào nhà, vào thành phố--Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

Dân số Châu Á chiếm gần hai phần ba thế giới

nhưng số người nhận biết Chúa chưa tới 3%.

Cánh đồng lúa chín mênh mông đang cần thợ gặt.

Ðức Giêsu hôm nay vẫn có nhiều nơi Ngài muốn đến,

nhiều căn nhà, nhiều thành phố Ngài muốn đặt chân.

Ngài cần những người đi trước để chuẩn bị cuộc gặp gỡ giữa Ngài với con người.

Khoa học càng tiến bộ, cuộc sống càng văn minh

thì càng có nhiều lãnh vực mới Ðức Giêsu cần vào.

Ðưa Ngài vào thật là một thách đố cho chúng ta.

Ngài phải vào cả những nơi tưởng như bị cấm.

Nhưng nếu chúng ta được Ngài sai vào trước,

thì thế nào cuối cùng Ngài cũng vào được.

Nếp sống cao ở thành thị vừa gây cản trở,

vừa cung ứng cho ta nhiều phương tiện để đưa Ngài vào.

Hãy chuẩn bị cho Ngài vào thành phố của bạn,

vào trường học, sân vận động, vào xí nghiệp, công ty...

Hãy chuẩn bị để Ngài vào từng nhà, gặp từng người.

Mọi Kitô hữu đều được mời gọi để làm việc đó.

Ðâu là khuôn mặt của người được sai hôm xưa?

Hiền lành như chiên giữa bầy sói.

Khó nghèo thanh bạch, không túi tiền, giầy dép, bao bị.

Khiêm tốn đón nhận sự giúp đỡ về nhà ở cơm ăn.

Tôn trọng tự do tha nhân, chấp nhận bị từ chối.

Người Châu Á hôm nay dễ đón nhận người tông đồ

sống khổ hạnh, thoát tục, sống thư thái, trầm tư, sống nhân từ, phục vụ.

Cuộc sống của họ phải tỏa hương thơm của thế giới mai sau,

phải có khả năng nâng con người lên Ðấng Tuyệt Ðối.

Ðâu là đóng góp của người được sai hôm xưa?

Vừa chữa người đau yếu và trừ quỷ,

vừa loan báo về triều đại Thiên Chúa gần đến.

Việc làm chứng thực lời giảng, lời giảng soi sáng việc làm.

Cả hai đều đem lại niềm vui, bình an và hạnh phúc.

Thế giới hôm nay vẫn là một thế giới bệnh tật,

một thế giới thèm khát tự do, thèm được là mình.

Chúng ta sẽ rao giảng gì cho 97% dân Châu Á

mà phần đông đã tin vào một Ðấng Cứu Ðộ?

Ðức Giêsu đem đến cho nhân loại quà tặng đặc biệt nào?

Chúng ta phải tập trình bày sứ điệp Kitô giáo,

nên cũng phải học nhiều nơi các tôn giáo Á Châu.

Các giám mục Malaysia, Singapore và Brunei

đã liệt kê những gì có thể học được nơi họ.

Học cầu nguyện, ăn chay, bố thí nơi người Hồi giáo.

Học và chiêm niệm nơi người Ấn giáo.

Học từ bỏ của cải và trọng sự sống nơi người Phật tử.

Học thái độ thảo hiếu, tôn lão kính trưởng nơi đạo Khổng.

Học sự đơn sơ, khiêm tốn nơi người theo đạo Lão.

Càng học, ta càng dễ giới thiệu Ðức Giêsu,

và càng thấy Ngài đang ẩn mình nơi những tôn giáo khác.

Gợi Ý Chia Sẻ

Theo ý bạn, đâu là những nét đặc biệt của mẹ Têrêxa Calcutta, khiến cả thế giới mộ mến?

Theo ý bạn, muốn truyền giáo thành công cho dân tộc Việt Nam, người tông đồ cần có những đức tính căn bản nào?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

xin sai chúng con lên đường nhẹ nhàng và thanh thoát,

không chút cậy dựa vào khả năng bản thân

hay vào những phương tiện trần thế.

Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm:

rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ, chữa lành những người ốm đau.

Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng

với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý,

biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.

Xin ban cho chúng con khả năng

đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.

Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ

của bao người đau khổ thể xác tinh thần.

Lạy Chúa Giêsu,

thế giới thật bao la mà vòng tay chúng con quá nhỏ.

Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau

mà tin tưởng lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát.

 

3. Chúa sai mọi người đi loan báo tin mừng--TGM Giuse Nguyễn Năng

Sứ điệp: Chúa sai người môn đệ đi truyền giáo trong một môi trường khó khăn, nguy hiểm, để ban tặng bình an, giúp đỡ người đau yếu và loan báo Nước Thiên Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa sai bảy mươi hai môn đệ đi rao giảng Nước Trời, có nghĩa là Chúa sai tất cả mọi người, trong đó có con nữa. Con là người tiền hô, là người đi trước chuẩn bị cho Chúa đến. Chúa muốn cuộc sống của con là một tiếng nói về Chúa, là một lời loan báo về sự hiện diện của Chúa.

Hôm nay, con muốn ý thức lại điều ấy, để con sống xứng đáng với ơn gọi Kitô hữu của con. Chúa muốn con là chiên giữa sói rừng. Cuộc sống như vậy có thể gây nguy hiểm cho con, làm cho con bị thua thiệt. Chúa không muốn con sống “mánh mung” như người khác, không muốn con khai thác anh em con để thủ lợi, không muốn con vì lợi lộc mà quên đi giá trị đạo đức. Chúa muốn con là chiên hiền lành, chấp nhận những thua thiệt, chịu đựng những hy sinh… Chúa muốn con duy trì sự bình an của tâm hồn, bình an trong ân sủng của Chúa, để con ban tặng bình an của Chúa, và trở nên dụng cụ của bình an cho tha nhân.

Lạy Chúa, xin Chúa giúp con luôn biết bám víu vào Chúa, trung thành với ơn Chúa, để con sống xứng đáng với danh xưng người môn đệ Chúa trong hoàn cảnh sống của con, nơi gia đình, tại chỗ làm việc, để con có thể trở nên dấu chỉ sự hiện diện của Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”.

 

4. Thánh Luca thánh sử--Lm. Giuse Đinh Tất Quý

Theo các nhà Kinh Thánh học, thánh Luca đã hiến cho chúng ta hai tác phẩm: một là cuốn Tin Mừng thứ ba và hai là sách Tông Đồ Công Vụ.

Qua các tông đồ, nhất là Mẹ Maria và thánh Phaolô, thánh Luca đã ghi lại tiểu sử của Chúa Giêsu bằng những nét đặc sắc. Ngài đã hết lòng ca tụng ơn cứu độ và lòng từ bi của Thiên Chúa. Qua những truyện như: Người con phung phá, người Samaritanô nhân hậu, ông Giakêu, người trộm lành... chúng ta thấy được phần nào chủ ý của thánh nhân khi ngài muốn trình bày cho chúng ta thấy một cách cụ thể về lòng từ bi của Thiên Chúa.

Tin Mừng thánh Luca cũng là Tin Mừng về đời sống cầu nguyện. Ngài đặt trước mắt chúng ta gương cầu nguyện của Chúa Giêsu trước khi Chúa chịu phép rửa, trước khi khi chọn môn đệ, trước khi biến hình sáng láng, lúc hấp hối trong vườn Giệtsimani và cả trên thánh giá.

Tin Mừng của ngài là Tin Mừng cho những người bị áp bức. Không Tin Mừng nào làm cho chúng ta có thể thấy được một sự lưu tâm đáng yêu mà Chúa dành cho những người thu thuế và tội lỗi như trong Tin Mừng thánh Luca: Chúa đến để tìm kiếm những gì đã mất.. một người nữ ngoại tình, một người thu thuế thống hối, một tên trộm ăn năn… Không một Tin Mừng nào diễn tả được tấm lòng tha thiết của Chúa dành cho những người bơ vơ nghèo đói cho bằng dưới ngòi bút điêu luyện của Luca.

Tin mừng của thánh Luca là Tin Mừng của niềm vui vì ngay từ đầu, và bàng bạc trong Tin Mừng của ngài, có rất nhiều chỗ nói về niềm vui như loan báo tin vui cho Zacharia, truyền tin cho Maria. Những niềm vui liên tục khi Thánh Gioan chào đời, lúc Chúa giáng sinh...Những niềm vui trong chương 15 khi tìm thấy con chiên lạc, tìm được đồng tiền mất, gặp lại người con hoang và niềm vui hân hoan của các tông đồ khi trở lại Giêrusalem. Ðúng như Harnack đã nói: "Có những nét vui tươi, can trường và chiến thắng âm vang trong toàn bộ cuốn Tin Mừng của Thánh Luca từ trang đầu cho tới trang chót."

Tin Mừng của thánh Luca còn được gọi là Tin Mừng của những người phụ nữ bởi vì không Tin Mừng nào vai trò của người phụ nữ được nhắc tới với một lòng kính trọng như Tin Mừng của thánh Luca. Những câu chuyện về những người phụ nữ đặc biệt như những chị em phụ nữ đi theo phục vụ Chúa Giêsu và tông đồ đoàn chỉ có thể tìm thấy trong Tin Mừng của thánh Luca.

Sau hết, khi trình bày, thánh Luca như cố ý cho chúng ta thấy những điều kiện cần thiết để tin theo Chúa cũng như để được gia nhập Nước Trời. Những điều kiện đó là đức tin, lòng khiêm nhường, thống hối, dám chấp nhận những khó khăn, biết sống bác ái và kiên trung trong đau khổ.

Cũng như Tin Mừng, cuốn Tông Đồ Công Vụ của thánh Luca là một bằng chứng sống động về việc Chúa Thánh Thần hoạt động trong đời sống truyền giáo của các tông đồ và đời sống của Giáo Hội lúc sơ khai. Đây cũng là cuốn lịch sử đầu tiên của Giáo hội. Đọc sách Công vụ chúng ta không thể không cảm thấy một nguồn vui thanh cao và sống động được bùng phát lên từ sự nhận biết Thiên Chúa của các tín hữu đầu tiên, và rồi kết quả sau đó là một cuộc sống được định hướng bằng tình bác ái chân thực, bằng tinh thần hy sinh xả kỷ, cũng như bằng bầu khí cầu nguyện, bằng sự hiệp nhất cao độ, lòng hợp lòng, với một đức tin, và một tình yêu duy nhất để hình thành nên những cộng đoàn thánh thiện giữa các tông đồ và những người tin Chúa của Giáo hội sơ khai.

Mặc dầu lịch sử không cho chúng ta những tài liệu chính xác về gia thế và đời sống của thánh Luca, nhưng chúng ta biết chắc chắn rằng: thánh Luca thuộc gia đình nề nếp và giàu sang tại Antiokia. Khi còn bé, Ngài được giáo dục chu đáo về cả đức tính, văn hóa và nghề nghiệp. Ngài theo học các khoa cổ điển của nền văn minh Hy lạp và chuyên nghề lương y. Từ buổi đầu, thánh Luca vẫn chưa biết Chúa. Cho đến một ngày kia thánh Phaolô đến Troa giảng đạo Chúa Giêsu. Luca vào nghe và sau khi suy nghĩ, cân nhắc cẩn thận và nhận thấy giáo thuyết thánh Phaolô giảng rất thâm trầm hợp lý, Ngài liền tin theo. Ngài chịu phép rửa tội và theo làm môn đệ thánh Phaolô, ngày đêm học hỏi Kinh Thánh và làm thư ký cho thánh Tông đồ. Quãng năm 49, nghĩa là khi khởi sự truyền giáo lần thứ hai, thánh Phaolô cùng mang thánh Luca đi theo. Nhưng rồi hai thầy trò lại chia lìa nhau một thời gian. Có lẽ kỳ này thánh Luca trở về sinh quán làm nghề lương y. Đến sau hai thầy trò lại gặp nhau tại Philipphê. Từ đây thánh Luca cùng đi giảng đạo với thánh Phaolô. Nhưng đến khi thánh Phaolô bị người La Mã bắt cầm tù, thì thánh Luca cũng từ giã đế đô, và chúng ta không biết gì về quãng cuối đời của Ngài nữa.

Đọc Tin Mừng thứ ba và Công vụ tông đồ, chúng ta thấy thánh Luca rất lỗi lạc về văn chương Hy lạp. Ngài quả là một nhà văn học kỳ tài, luôn thay đổi từ ngữ và dùng những danh từ thích hợp với đặc tính văn chương của người Hy lạp thời bấy giờ. Thánh nhân tỏ ra rất nghệ thuật trong việc bố cục câu chuyện thế nào cho rõ ràng, hấp dẫn, gợi nhiều ý tưởng và tâm tình, chẳng hạn dụ ngôn người con người phung phá và câu chuyện hai người du khách trên đường Emmau phải là hai kiệt tác văn chương, có nhiều giá trị nghệ thuật không kém gì những áng văn hay nhất của người Hy lạp thời ấy.

Hơn thế, thánh Luca còn là một người rất sành tâm lý. Thánh nhân đã mặc cho mỗi nhân vật trong Tin Mừng cũng như trong các dụ ngôn những tâm tình, cử điệu và lời lẽ phù hợp với địa vị riêng của họ. Phải chăng nhờ tài nghệ này, thánh Luca đã đề cao đến chữ trọn hảo địa vị Cứu thế của Chúa Giêsu: Chúa nhân lành tự trời đến với loài người lầm than tội lỗi. Chúa tự hiến mình trên thập giá để tẩy xóa mọi tội trần và thông ban ơn sủng đời sống mới cho các tâm hồn.

Với một sự hiểu biết sâu xa về sứ mệnh Cứu thế của Chúa như vậy, hẳn thánh Luca đã nhiệt thành với nhiệm vụ phổ biến Tin Mừng cứu thế không kém gì thánh Phaolô. Nhưng Ngài giảng đạo tại đâu và chết như thế nào thì theo một tài liệu tìm thấy ở Constantinople, thánh Luca đã giảng đạo tại Achaie và Beotie. Và sau cùng làm giám mục thành Thèbes. Trong bài thực hành cuốn chú giải Tin Mừng thánh Matthêô, Thánh Hiêrônimô nói rõ thánh Luca đã viết Tin Mừng thứ ba tại Achaie và Beotie, sau cùng thánh Gaudence de Brescia quả quyết thánh Luca cùng chịu tử đạo với thánh Andrê tại Patras một tỉnh nhỏ thuộc vùng Achaie.

Ngày nay thánh Luca là quan thầy của các lương y và bác sĩ. Ngài cũng là bổn mạng các nhà họa sĩ, vì theo một truyền thuyết thì thánh nhân đã họa bức ảnh chân dung Đức Mẹ đầu tiên mà nay chúng ta quen gọi là ảnh “Đức Mẹ hằng cứu giúp”.

Ngay từ đầu, Giáo hội vẫn kính lễ thánh Luca vào ngày 18.10 mỗi năm.

Kính xin thánh Luca thánh sử phù trợ cho chúng ta được lòng tin mạnh mẽ và hăng hái như người để chúng ta đem tin lành cứu độ đến cho những người còn chưa nhận biết Chúa.

 

5. Mọi người đều được Chúa Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

- “Sau đó Đức Giêsu chỉ định 72 người khác và sai các ông đi”: Theo tường thuật của Thánh Luca, Chúa Giêsu đã sai đi rao giảng không phải chỉ nhóm tông đồ mà còn cả nhóm môn đệ nữa. Luca muốn nhấn mạnh rằng không riêng gì các tông đồ, mà tất cả mọi người đều được Chúa Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng. Ý này lại được làm rõ thêm với con số 72. Đây là số dân của loài người mà sách sáng thế chương 10 đã liệt kê.

Luca đã ghi một bài sai truyền giáo nhắm đến nhóm 12 tông đồ (Lc 9, 1-6). Bây giờ Luca lại ghi một bài sai truyền giáo khác nhắm đến 72 môn đệ. Theo St 10, con số 72 là số chỉ tất cả các dân trên trái đất. Như thế, việc truyền giáo là sứ mạng không riêng của các tông đồ mà còn của tất cả mọi tín hữu.

- “Từng nhóm hai người”: Việc loan Tin mừng không phải là việc của một cá nhân riêng lẻ, mà là việc của cộng đoàn, không phải là độc quyền của riêng ai, nhưng phải liên đới và liên kết với nhiều người khác.

- “Hãy cầu xin”: Việc đầu tiên mà nhà truyền giáo phải làm là “cầu xin”. Thiên Chúa là chủ mùa gặt, nhận ai vào Nước Thiên Chúa là quyền của Ngài và là ơn của Ngài. Chúa Giêsu bảo cầu xin là để các môn đệ ý thức rằng họ được gọi là nhờ ơn Chúa, và để có thêm nhiều người nữa nhận được ơn ấy.

- “Như chiên non vào giữa sói rừng”: Chúa Giêsu khuyến cáo các môn đệ về những hiểm nguy và sự thù nghịch mà có thể họ sẽ gặp phải.

- “Đừng chào ai dọc đường”: việc chào hỏi của người Phương Đông thường kéo theo những câu chuyện rề rà rất lâu. Trong khi sứ mạng loan Tin mừng đòi phải gấp.

- “Bình an cho nhà này”: đây vừa là một lời chúc vừa là một lời ban ơn bởi vì nó có sức tạo nên điều vừa cầu chúc (Is 45, 23). Người rao giảng Tin Mừng phải là “con cái của sự bình an”. Họ phải có bình an trong mình và sau đó đem bình an ấy ban lại cho người khác. Nếu nhà nào đáng được hưởng ơn bình an thì được bình an, nếu không thì ơn bình an trở lại cho người chúc.

- “Cứ ở lại nhà ấy”: gặp nhà nào đầu tiên cho ở thì người môn đệ hãy ở đó. Đừng tìm hiểu nhà để so sánh chọn lựa nhà nào tiện nghi hơn. Điều quan trọng là loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa chứ không phải tiện nghi cho mình hoặc cách người ta tiếp rước mình.

- “Ăn uống của người ta cung cấp cho mình”: sứ mạng của môn đệ đừng để bị ảnh hưởng bởi những quan tâm có tính cách trần thế (đòi hỏi hoặc e ngại những của ăn thức uống người ta lo cho mình)

- “Thợ đáng trả lương”: đây là một nguyên tắc (1Tm 5, 18; 1Cr 9, 11). Nhưng người thừa sai cũng có thể tự ý từ chối (1Cr 9, 14-18).

- “Người ta dọn thức gì cứ ăn thức ấy”: Người rao giảng Tin Mừng Chúa Giêsu không còn bị bận vướng bởi luật Môsê về sự phân loại thức ăn nào sạch, thức ăn nào dơ (1Cr 10, 27).

- “Hãy chữa lành các bệnh nhân”: Đây là dấu hiệu Nước Thiên Chúa gần đến. Việc làm chính của người truyền giáo là “chữa lành các bệnh tật”, nghĩa là làm giảm bớt đi những đau khổ tinh thần và vật chất của người ta.

“Anh em hãy ra đi. Đừng mang theo túi tiền, bao bị giày dép (Lc 10, 4). Người truyền giáo phải lưu ý: cái họ cần có hơn là ơn Chúa chứ không phải là những phương tiện vật chất (túi tiền, bao bị, giày dép…)

Nếu phải thực hiện một chuyến đi dài, tôi sẽ mang theo thứ gì? Chắc chắn là những gì gọn nhất, nhẹ nhất, cần thiết nhất. Và hôm nay, trong lệnh truyền của Chúa Giêsu tôi đọc được nét nhẹ nhàng thanh thoát ấy trong bước chân của người môn đệ không giày dép, bao bị, tiền nong...

Và phải chăng cũng vang động trong tâm hồn tôi lời mời gọi dấn thân nhập cuộc.

 

6. Thánh Luca, thánh sử--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

Đức Giêsu đi rao giảng Tin mừng Nước trời cho dân chúng để đem lại ơn cứu độ cho họ. Mối ưu tư hàng đầu của Ngài là làm cho mọi người được nghe biết Tin mừng. Và mối ưu tư ấy đã được diễn tả  trong lúc thổ lộ tâm tình với các môn đệ: “Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít. Vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ gặt lúa về” (Lc 10,2).

Sau khi đã trang bị cho họ những khả năng tinh thần tuyệt diệu, Đức Giêsu đã sai 72 môn đệ đi loan báo Tin mừng bình an cho mọi người. Ngài ân cần khuyên họ đừng lo tìm an toàn nơi các phương tiện vật chất trần gian. Họ vâng lời ra đi và trở về trong hân hoan. Đức Giêsu cho họ biết họ hãy vui mừng vì tên tuổi họ đã được ghi trên Nước trời.

Khi sai các môn đệ đi rao giảng Tin mừng, điều đầu tiên Chúa muốn nơi họ là lòng tin tưởng tuyệt đối vào sự quan phòng của Thiên Chúa. 72 môn đệ được sai đi tay không. Chúa cũng không ra lệnh cho họ đến các Hội đường hay các ngã ba đường để rao giảng, nhưng là đến từng nhà và hội nhập vào đó, hiện diện như một phần tử trong gia đình, ăn những gì người ta dọn cho. Nhờ đó Tin mừng sẽ được đón nhận dễ dàng hơn, bởi vì Tin mừng không còn là sức mạnh áp đặt từ bên ngoài, mà là một sức sống từ người rao giảng truyền sang những người khác và đâm rễ sâu trong lòng họ (Mỗi ngày một tin vui).

Bảy mươi hai môn đệ là hình bóng của mọi tín hữu được kêu mời tham gia vào việc tông đồ của hàng Giáo phẩm. Đức Giêsu đã nói: “Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít”. Vậy thợ gặt là ai? Trước đây người ta thường dành danh xưng “thợ gặt” cho các linh mục, các tu sĩ nam nữ, các nhà truyền giáo. Đây là một nhầm lẫn. Không ai có thể trở thành Kitô hữu mà lại không cảm nghiệm nơi mình nỗi lo âu của Đức Giêsu trước cánh đồng lúa chín mênh mông. Những tác vụ đa dạng sẽ làm nảy sinh những hình thức hoạt động khác nhau nơi mỗi người, nhưng ai nấy theo cách của mình, đều được gọi và làm việc ở đồng lúa chín (L. Sintas).

Ngay từ đầu sứ vụ, Đức Giêsu đặt công việc truyền giáo trong cái nhìn cấp bách và khẩn thiết. Cho nên Chúa tuyển chọn 12 tông đồ và sau đó là 72 môn đệ, huấn luyện và sai đi truyền giáo. Hội thánh ngày hôm nay cũng không ngừng tiếp tục mời gọi những người thành tâm thiện chí tiếp tục ra đi loan báo sứ điệp tình thương và ơn cứu độ của Chúa cho trần gian, qua mọi thời đại. Cần ý thức rằng, qua bí tích Rửa tội, mỗi tín hữu cũng là một nhà truyền giáo, được sai đi để làm công việc của Chúa là cứu chữa các linh hồn (5 phút mỗi ngày).

Trong tinh thần ấy, thánh Phanxicô Xaviê hồi còn là sinh viên ở trường đại học Paris, đã nghe được lời mời gọi trở thành linh mục và sau đó ngài là một nhà truyền giáo ở Ấn độ. Một trong những lá thư của ngài từ Ấn độ vang vọng lời Chúa Giêsu trong Tin mừng hôm nay. Đây là một phần của lá thư: “Nơi đây, nhiều người không trở nên Kitô hữu được, chỉ vì lý do là  không có ai sẵn sàng đảm nhận việc dạy dỗ cho họ về Chúa. Tôi thường nghĩ đến việc đi tới trường đại học ở châu Âu và kêu gọi những người thợ đến thu hoạch mùa ở Ấn độ”.

Đức Giêsu đã kêu gọi và ngày nay Hội thánh cũng kêu gọi chúng ta hãy tích cực tham gia vào trong việc truyền giáo này. Đức Giêsu đã không dành riêng việc rao giảng Tin mừng cho các Tông đồ, mà còn sai 72 môn đệ ra đi. Nói khác đi, Ngài muốn gửi sứ mạng rao giảng đến mỗi người chúng ta. Ước gì chúng ta luôn ý thức sứ mạng rao giảng đó, không những bằng lời nói mà nhất là bằng cuộc sống yêu thương và phục vụ.

Nói một cách cụ thể, chúng ta có thể tham gia vào việc truyền giáo bằng cầu nguyện, xin Chúa sai nhiều thợ gặt đến cánh đồng truyền giáo. Đây là một việc mọi người có thể làm bất cứ lúc nào. Cầu nguyện còn chứng tỏ lòng tin tưởng cậy trông của chúng ta, vì từ việc sai thợ gặt đến cánh đồng truyền giáo, cho đến việc cứu độ thực sự là làm cho người ta chấp nhận Tin mừng, trở về với Chúa để được hưởng ơn cứu độ.

Truyện: Chúa cần bàn tay bạn

Cuộc chiến tranh trên bán đảo Triều tiên trước đây là một cuộc chiến tranh tàn khốc. Một ngôi làng nhỏ rơi vào dưới làn đạn của trọng pháo. Trong làng có một ngôi nhà thờ Công giáo, bên ngoài nhà thờ có một bệ cao, bên trên có đặt một bức tượng Đức Kitô. Tuy nhiên, khi cuộc chiến tranh qua, rồi bức tượng đã biến mất. Bức tượng đã bị hất ra khỏi bệ vỡ ra từng mảnh trên mặt đất.

Một hôm lính Mỹ đã giúp vị linh mục thu thập những mảnh vụn. Một cách cẩn thận, họ đã ráp lại pho tượng. Họ tìm thấy tất cả các mảnh vỡ, trừ đôi bàn tay. Họ đề nghị khi trở về Mỹ họ sẽ đặt làm đôi bàn tay ấy. Nhưng vị linh mục đã từ chối. Ngài nói:

- Tôi có một ý tưởng hay hơn: Chúng ta hãy để pho tượng không có bàn tay. Và chúng ta sẽ ghi vào chân đế lời này: BẠN ƠI, BẠN HÃY CHO TÔI MƯỢN ĐÔI BÀN TAY CỦA BẠN” (Flor McCarthy, Phụng vụ Chúa nhật B, tr. 494).

 

7. Diễn Văn Truyền Giáo--‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’

Giáo Hội mời gọi chúng ta đọc và những câu đầu tiên của chương 10 Phúc Âm theo thánh Luca. Ðây là bài diễn văn truyền giáo số 2. Bài diễn văn truyền giáo số 1 là chương 9, Phúc Âm thánh Luca. Trong bài diễn văn truyền giáo số 2, Chúa Giêsu ngỏ lời căn dặn bảy mươi hai môn đệ mà Ngài sai đi từng nhóm hai người một để làm như một cộng đoàn làm việc chung với nhau, chứ không phải một cách riêng rẽ. Con số mười hai tông đồ nhắc đến mười hai chi họ Israel; con số bảy mươi hai môn đệ nhắc đến chi tiết nơi chương 10 sách Sáng Thế: “Khi tất cả các dân nước trên mặt đất”.

Như thế, chúng ta có thể nói rằng bài diễn văn truyền giáo số 2 của Chúa Giêsu trong đoạn Phúc Âm thánh Luca mà hôm nay chúng ta là những lời căn dặn của Chúa Giêsu cho tất cả mọi thành phần Giáo Hội Dân Chúa đến từ khắp mọi nơi không phân biệt màu da, chủng tộc, tiếng nói. Tất cả mọi người đồ đệ của Chúa đều phải là những nhà truyền giáo, những chứng nhân của Chúa và phải tuân giữ những gì Chúa căn dặn nơi chương 10 này.

Những lời dặn dò trên của Chúa Giêsu thật là cặn kẽ, cụ thể, với những chi tiết hết sức thực tế. Dĩ nhiên, tinh thần phải có khi thực hiện những việc làm trên là điều quan trọng hơn. Thời đại đã thay đổi, thời chúng ta đang sống khác với thời của Chúa Giêsu. Những hành động cụ thể của một thời đã thay đổi, chẳng hạn như ngày xưa đi bộ, cầm gậy thì ngày nay đã có các phương tiện giao thông liên lạc khác, nhưng tinh thần của những hành động cụ thể mà Chúa Giêsu muốn các môn đệ có không bao giờ thay đổi. Trong những giây phút ngắn ngủi này chúng ta không thể nào tất cả mọi khía cạnh của tinh thần truyền giáo nơi môn đệ của Chúa.

Ước chi mỗi người chúng ta tìm thì giờ rảnh rỗi trong ngày, trong tuần để trở lại thêm về những lời căn dặn của Chúa nơi chương 10 Phúc Âm thánh Luca.

Chúng ta hãy nhớ lại những lời đầu tiên Chúa Giêsu nói trong đoạn Phúc Âm hôm nay: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít, vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người, các con hãy ra đi”. Qua câu đầu tiên này của đoạn Tin Mừng hôm nay nhắc chúng ta điểm khởi đầu căn bản của mọi hoạt động truyền giáo: trước hết là nhận thức nhu cầu của anh chị em chung quanh, thứ hai là đưa nhu cầu đó vào trong lời cầu nguyện của chính mình và thứ ba là sẵn sàng để được sai và hăng say ra đi khi được trao phó cho sứ mạng. Chúng ta hãy tự vấn xem chính mình đã có những tư tưởng căn bản này chưa? Những quan tâm truyền giáo làm chứng cho Chúa có được chúng ta đưa vào trong lời cầu nguyện của chính mình chưa? Trong cuộc đối thoại giữa mình với Thiên Chúa chưa?

Lạy Chúa,

Này con đây đã sẵn sàng, Chúa muốn con làm gì xin hãy phán và con xin lắng nghe. Xin ban ơn biến đổi mỗi người chúng con trở thành những chứng nhân đích thực của Chúa trong mọi hoàn cảnh.

 

8. Thánh Luca-- J.M

Bốn môn đệ đã viết lời và việc Chúa, nhưng tất cả chúng ta đều được ơn gọi ghi khắc sứ điệp của Chúa vào đời sống riêng của mỗi người chúng ta.

Truyền giáo (Messia)

Bản văn này, quá quen, nhưng phải được từng câu từng câu. Đây là diễn từ sai đi truyền giáo, bắt đầu bằng câu dạy cầu nguyện trước “cảnh lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về”. Câu nói đến “Mùa gặt lúa” thay vì nói đến đi giao giống. Câu nói đó gây ngạc nhiên cho cả chủ và thợ. Chủ bỏ liều, thợ không dám nói gì. Cho nên cần đến sự cầu nguyện để thấy rõ công việc đồng lúa mênh mông và sự kém cỏi của người quản lý, nghĩa là, trong tình trạng hoàn toàn cùng cực của con người, không còn một chút an toàn nào xét về phía nhân loại.

Tông đồ (Apostolat)

Đây là dịp cho chúng ta đào sâu ý nghĩa tiếng tông đồ và phê phán tận căn quan niệm thông thường về tiếng này. Tự nhiên chúng ta nghĩ đến mùa giao giống, gieo lời Chúa như loan báo Đức Kitô. Khi Tin Mừng nói mùa gặt: “Mùa gặt dồi dào”. Thâu hoạch mà không gieo, thâu vào kho lẫm vụ mùa, mà không phải của mình. Nó là kho của người khác, như dụ ngôn người gieo giống (Lc 8,5-8). “Người gieo giống đi gieo giống của mình”. Nghĩa là lời Chúa đã được gieo trong lòng người rồi, và nghĩa là loan báo Đức Kitô là chỉ việc tỏ cho thấy những hoa trái nảy sinh từ hạt giống do Đức Kitô ban và hoa trái đó thuộc về Đức Kitô. Vậy những thái độ Tông Đồ của chúng ta sao dám độc đoán tự nhận là việc của mình và dám cho mình đóng vai trò cha bác, chủ nhân ông đối với người khác?

Thánh Luca

Thầy thuốc người Hy Lạp, trong những dòng Tin Mừng này, nói cho chúng ta thấy nguyện vọng hăng hái của Ngài muốn chia sẻ sứ điệp Tin Mừng, sứ điệp hòa bình và sứ điệp huynh đệ đại đồng. Nhiêm vụ mênh mông, khẩn thiết thường nhiều nguy hiểm. Thánh Luca là đèn chiếu tỏa những ánh sáng dịu dàng thanh thản.

Tình yêu thắm sâu vào ngôn từ của Ngài. Chúng ta hãy nói như Ngài để ngôn từ êm ái của Ngài hóa lên lời chúng ta thưa với Chúa và với anh em chúng ta.

 

9. Một vị thánh y sĩ, văn sĩ tuyệt vời--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Thực tế người ta rất ít sử liệu để viết về cuộc đời của thánh Luca, thánh sử, tông đồ. Tuy nhiên, người ta có thể dựa vào câu nói: ”Văn tức là người” để tìm hiểu về thánh Luca. Không có một sử liệu nào ghi rõ thánh Luca sinh ra ở đâu và vào năm nào. Nhưng qua nhiều tài liệu thu thập được, người ta biết được thánh Luca là một y sĩ thời danh và là một nhà văn giỏi, nổi tiếng. Dựa vào Tin Mừng và sách Công vụ tông đồ của thánh Luca, chúng ta có thể nhận định về con người của thánh Luca như sau:

Thánh Luca đã viết Tin Mừng để diễn tả tình thương xót bao la của Chúa qua nhiều dụ ngôn rất ấn tượng và đầy chất người của Ngài: ”dụ ngôn người Samaria nhân hậu, người con hoang đàng, những kẻ thu thuế, những kẻ bị những chứng bệnh nan y vv”… Thánh nhân nói về ơn cứu rỗi phổ quát và đại đồng trong Tin Mừng của Ngài. Ngài không đóng khung trong những người nhà, nghĩa là người Do Thái, người có đạo, nhưng Tin Mừng của Ngài trải dài tới mọi dân tộc và những người ngoại đạo cũng được Ngài tiếp đón ân cần. Đọc Tin Mừng của Ngài, vai trò của người nghèo được đề cao vì Chúa đã đồng hóa với những kẻ nghèo, những kẻ đơn sơ, nhỏ bé. Tin Mừng của Ngài cũng là Tin Mừng của cầu nguyện và của Chúa Thánh Thần. Thánh Luca cũng thường cho chúng ta thấy niềm vui trong Tin Mừng của Ngài; “niềm vui của Hội Thánh tiên khởi, hân hoan vì Chúa phục sinh, Chúa Thánh Thần hiện diện và cộng đoàn được tràn đầy ơn cứu rỗi”.

Thánh Luca là một người ngoại giáo, khi thánh Phaolô rao giảng Tin Mừng ở thành Troa, Ngài xin tòng giáo, lãnh nhận bí tích rửa tội, xin làm môn đệ thánh Phaolô và theo Ngài đi loan báo Tin Mừng trong nhiều năm liền. Khi thánh Phaolô bị bắt, chúng ta không còn biết gì về quảng đời cuối cùng của Ngài nữa. Theo nhiều tài liệu, và chứng cớ tìm được ở Constantinople, thánh Luca đã rao giảng Tin Mừng cứu độ ở Achaie, Béoti và sau này được đặt làm giám mục Thébes. Theo một sử liệu đáng tin cậy, thánh Gaudence de Brescia quả quyết rằng thánh Luca đã cùng đượcphúc chịu tử vì đạo với thánh Anrê tại Patras thành Achaie.

Thánh Luca đã để lại cuốn Tin Mừng rất giá trị nói lên tình thương vô biên của Thiên Chúa với cách hành văn thật trong sáng, cảm động và với một lối viết văn thật rõ ràng, gợi cảm. Ngài cũng trình bầy cho nhân loại hiểu về sinh hoạt đầy niềm vui của cộng đoàn Kitô hữu sơ khai, cho thấy Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và luôn hành động, luôn hướng dẫn và soi sáng cho Giáo Hội.

Mừng lễ thánh Luca tông đồ, thánh sử, chúng ta cảm tạ tri ân Thiên Chúa vì đã ban cho Giáo Hội một vị thánh lừng danh đã để lại cho nhân loại cuốn Tin Mừng và cuốn công vụ tông đồ tuyệt hảo.

Lạy thánh Luca, thánh sử xin giúp chúng con luôn sốt sắng và nhiệt thành tìm hiểu Lời Chúa trong Tin Mừng. Amen.

 

10. Thánh Luca, Thánh Sử

Thánh Luca là một y sĩ đã trở về với đức tin vào khoảng năm 40, và sau đó theo thánh Phaolô trong cuộc hành trình truyền giáo thứ hai. Trong những năm tháng cuối đời của vị Tông Đồ Dân Ngoại, thánh Luca luôn ở bên cạnh vị ngài. Tác giả Phúc Âm thứ ba và sách Tông Đồ Công Vụ đã lưu lại cho chúng ta rất nhiều trình thuật quí báu về thời thơ ấu của Chúa Kitô và cho chúng ta nhìn thấy hình ảnh tuyệt đẹp về lòng thương xót của Thiên Chúa.

1. Phúc Âm thánh Luca - nỗ lực nên hoàn thiện của chúng ta.

Đẹp thay trên các núi non, bước chân của những người loan báo Tin Mừng.

Chúng ta hãy cám ơn thánh Luca vì ngài đã đem tin mừng đến cho nhân loại. Ngài đã là một công cụ trung thành của Chúa Thánh Thần. Được ơn linh hứng thúc đẩy, thánh nhân đã để lại Phúc Âm về cuộc đời Chúa Giêsu và lịch sử Giáo Hội trong thời kỳ sơ khởi.

Như mọi kiệt tác khác, các sách Thánh Kinh cũng cần sự cộng tác nhân loại. Sự trợ giúp của Thiên Chúa không loại bỏ tài năng con người. Chính thánh Luca cũng nói đến sự chuyên cần trong công việc: Sau khi cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự, thì thánh nhân mới tuần tự viết ra. Ngài cho thấy thông tin ấy phù hợp với chứng từ của những người đã được chứng kiến ngay từ đầu. Công việc biên soạn đòi hỏi phải có những cuộc phỏng vấn các chứng nhân, trước tiên là Đức Maria, các Tông Đồ, và những người được hưởng các phép lạ khi ấy đang còn sống. Thánh Jerome nhận định lối văn của thánh Luca là phản ảnh về mức khả tín về các nguồn tài liệu của thánh nhân.

Nhờ thánh Luca đã ân cần đáp ứng ơn Chúa Thánh Thần, ngày nay chúng ta mới diễm phúc đọc được trình thuật về thời thơ ấu của Chúa Giêsu và những dụ ngôn tuyệt đẹp mà chỉ mình ngài ghi lại. Chúng ta nhớ đến dụ ngôn người con hoang đàng, câu chuyện người Samaria nhân hậu, đoạn kể về Lazarus nghèo khổ và ông nhà giàu. Và cũng chỉ có Phúc Âm của ngài đã ghi lại sự kiện hai môn đệ về làng Emmaus, tường tận đến từng chi tiết.

Thánh Luca đã mô tả lòng thương xót Chúa dành cho những ai cùng khốn một cách rõ nét hơn các thánh sử khác. Ngài nhấn mạnh đến tình yêu Chúa Kitô dành cho các tội nhân để minh chứng Chúa đã đến để cứu vớt những kẻ đã hư mất. Thánh nhân còn kể cho chúng ta sự kiện Chúa tha thứ cho người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, Chúa đã ghé thăm nhà ông Giakêu đầy tai tiếng, và ánh nhìn của Chúa đã biến đổi Phêrô sau khi đã trót chối Thầy. Thánh Luca ghi lại lời hứa của Chúa Kitô dành cho người trộm lành sám hối, và lời cầu của Chúa dành cho những kẻ đã đóng đinh và lăng mạ Người trên đồi Canvê.

Vai trò phụ nữ trong xã hội - một điều không được coi trọng trong thế kỷ đầu của Kitô Giáo - đã có một chỗ đứng quan trọng trong Phúc Âm thánh Luca. Chúa Giêsu ra sức phục hồi phẩm giá cho phụ nữ, và chỉ có vị thánh sử này đã mô tả nhiều nhân vật nữ, chẳng hạn bà góa thành Naim, người phụ nữ sám hối đã rửa chân Chúa, những phụ nữ Galilê đạo đức đã dâng cúng tài sản, đi theo phục vụ Chúa và các tông đồ trên đường truyền giáo, rồi hai chị em thân thiết tại làng Bethany, người đàn bà còng lưng được Chúa chữa lành, và nhóm phụ nữ thành Jerusalem khóc thương khi Chúa vác thánh giá lên núi Canvê.

Chúng ta có nhiều điều để cám ơn thánh Luca. Đức Gioan Phaolô I trước khi đắc cử Giáo Hoàng đã viết một bức thư tưởng tượng gửi cho thánh sử Phúc Âm thứ ba: Ngài là người duy nhất đã lưu lại cho chúng tôi trình thuật cảm động về cuộc giáng sinh và thời thơ ấu của Chúa Kitô để chúng tôi có thể đọc một cách tâm đắc vào những mùa Giáng Sinh. Trong trình thuật ấy, có một câu nổi bật hơn hết: ‘Được quấn trong khăn tã, Hài Nhi được đặt nằm trong máng cỏ.’ Chỉ một câu ấy mà thôi đã đưa đến bao nhiêu hang đá và hàng ngàn bức tranh xinh đẹp khắp thế giới.’ Những tác phẩm nghệ thuật ấy mời gọi chúng ta đến chiêm ngưỡng đời sống Thánh Gia tại Bêlem và chia sẻ cuộc sống hằng ngày của các ngài tại Nazareth.

Hôm nay, chúng ta suy về mức độ hoàn hảo và nỗ lực cần thiết phải có trong công việc. Tuy không đòi nổi bật đến mức làm mọi người phải kinh ngạc, nhưng tất cả những công việc được làm tử tế vì Chúa sẽ có giá trị muôn đời. Đây là món quà quí giá chúng ta luôn sẵn có để dâng lên Chúa. Những công việc được thực hiện thiếu nhiệt thành hoặc thiếu cẩn trọng đều không xứng đáng, bởi vì chúng không làm đẹp lòng Chúa và không mưu ích cho tha nhân. Chúng ta hãy xét lại cung cách chu toàn các trách nhiệm chúng ta hằng ngày phải dâng tiến vì vinh danh Đấng Tạo Thành.

2. Sứ điệp thánh Luca. Họa Sĩ của Đức Mẹ.

Chúng ta gặp những giáo huấn căn bản của Chúa Kitô trong Phúc Âm thánh Luca. Ngài đã làm nổi bật tầm quan trọng của sự khiêm nhượng, chân thật, nghèo khó, chấp nhận thánh giá, và nhu cầu cám tạ Thiên Chúa. Tình yêu đối với Chúa khiến chúng ta phải biết ơn thánh Luca về sự tinh tế nơi tâm hồn ngài được biểu hiện qua công trình tuyệt vời. Từ xa xưa, các tín hữu đã xưng tụng thánh Luca là họa sĩ của Đức Trinh Nữ. Một số bức tranh về Đức Mẹ được truyền tụng là do thánh nhân vẽ ra.

Phúc Âm thánh Luca là căn bản cho tri thức về lòng sùng kính Đức Mẹ và đem lại cảm hứng cho nghệ thuật Kitô Giáo suốt nhiều thế kỷ qua. Ngoài Chúa Giêsu, không ai đã được mô tả một cách đầy yêu mến trong Phúc Âm như Đức Mẹ Maria. Dưới ơn linh hứng Chúa Thánh Thần, thánh sử Luca đã viết cho chúng ta về những đặc ân Thiên Chúa ban cho Đức Mẹ. Mẹ được đầy ơn phúc và Thiên Chúa ở cùng Mẹ. Là Mẹ Chúa Giêsu, Đức Maria đã thụ thai nhờ phép Chúa Thánh Thần mà vẫn trọn đời đồng trinh, và được mật thiết liên kết với mầu nhiệm cứu độ. Mọi thế hệ sẽ ngợi khen Mẹ là Đấng diễm phúc, bởi Đấng Toàn Năng đã làm cho Mẹ những điều kỳ diệu, thật đúng như lời một phụ nữ đã cất tiếng chúc mừng Mẹ Chúa Giêsu.

Việc Mẹ Maria đã trung thành đáp ứng với ơn gọi thật hiển nhiên. Mẹ đã khiêm nhượng đón nhận lời truyền tin của tổng thần Gabriel về chức phẩm làm Mẹ Thiên Chúa, và hết tâm hồn cộng tác vào chương trình của Thiên Chúa. Mẹ vội vã lên đường giúp đỡ người khác. Hai lần, thánh Luca đã cho chúng ta biết Mẹ Maria đã ghi nhớ và trong lòng về tất cả những điều ấy. Chắc hẳn Đức Mẹ đã tỏ cho thánh Luca biết những ký ức đầy thân thương trong cuộc sống của Mẹ với Chúa Giêsu.

3. Đọc Phúc Âm với thái độ tôn kính.

Chúng ta hãy trân trọng di sản của thánh Luca bằng việc suy gẫm những lời cao quí và đầy sức sống ngài đã để lại cho chúng ta về Chúa Cứu Thế. Chúng ta hãy xin thánh nhân cho chúng ta được niềm vui và nhiệt tâm tông đồ của những tín hữu thời Giáo Hội sơ khởi khi chúng ta đọc sách Tông Đồ Công Vụ, tức là Phúc Âm của Chúa Thánh Thần.

Theo tập tục cổ xưa, khi một tín hữu bị phiền sầu hoặc hoang mang, họ thường mở Phúc Âm và đọc câu đầu tiên gặp được. Hễ ai chạm vào Người đều được chữa lành. Thánh Luca đã ghi lại như thế. Chúa Giêsu vẫn tiếp tục thông ban cho chúng ta sự can trường và sức mạnh của Người mỗi khi chúng ta tiếp xúc với Người qua những lời hằng sống của Người.

Những tác phẩm của thánh Luca dạy chúng ta biết phải luôn sống theo lời Chúa. Chúng ta cần phải luôn kiếm tìm lòng thương xót Chúa và sống với Chúa là người bạn thân trung thành đã thí mạng sống vì chúng ta. Thánh Luca đã đưa chúng ta đi sâu vào mầu nhiệm Chúa Giêsu ngày nay, trong giai đoạn có quá nhiều tư tưởng sai lầm về Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, đá tảng cuộc sống của mọi người. Chúa là hiện tượng ý nghĩa nhất đã đến với nhân loại suốt trên hai mươi thế kỷ qua. Những lời thần lực của Phúc Âm đưa chúng ta đến tiếp xúc với Đấng Cứu Thế: một điều không một tác phẩm nào khác có thể làm được. Vì thế, chúng ta hãy tìm về Phúc Âm để học khoa học tuyệt vời là được biết Chúa Kitô Giêsu, như lời thánh Phaolô đã xác quyết với các tín hữu Philippians, bởi vì không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô.

Phúc Âm phải là cuốn sách được mọi Kitô hữu yêu chuộng bởi vì thiếu Phúc Âm, chúng ta không thể hiểu biết Chúa Kitô. Chúng ta suy gẫm và tìm hiểu ý nghĩa của các trình thuật. Khi mở Phúc Âm, bạn hãy nghĩ những điều được viết trong đó – những lời giảng và những việc làm của Chúa Kitô – không chỉ là những điều bạn cần phải hiểu, mà còn phải sống nữa. Tất cả mọi điều được viết trong đó đã được thu thập từng chi tiết một cho bạn, để bạn làm cho chúng sống động trở lại trong cuộc sống của chính bạn. Như các tông đồ, bạn cũng hãy sốt sắng thưa lên, ‘Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?’ Và trong linh hồn, bạn sẽ nghe câu trả lời dứt khoát, ‘Hãy làm theo thánh ý Thiên Chúa!’ Hằng ngày bạn hãy cầm Phúc Âm lên, hãy đọc và sống theo như một qui luật. Đó là điều các vị thánh đã làm.

Chắc chắn thánh Luca thường xuyên suy gẫm những hành vi của Chúa Kitô mà ngài viết lại. Thánh nhân sẽ dạy cho chúng ta biết yêu mến Phúc Âm như các tín hữu thời Giáo Hội sơ khai. Trong Thánh Kinh, chúng ta tìm được lương thực cho linh hồn, bởi vì Phúc Âm là nguồn mạch sự sống tinh thần minh sáng và trường cửu.

 

11. Tông Đồ đoàn của Đức Giêsu

Muốn Hội Thánh được phát triển, cần có nhiều môn đệ Đức Kitô đi làm việc Tông Đồ, để tập họp thêm nhiều người vào Hội Thánh. Vì việc Tông Đồ không phải chỉ dành riêng cho hàng giáo sĩ, mà là của toàn thể giáo dân biết cộng tác với các chủ chăn của mình. Do đó, ông Luca đã cho chúng ta nhận thức về sứ mệnh Tông Đồ của mọi Kitô hữu như sau:

1. Mọi Kitô hữu phải làm Tông Đồ cho Chúa.

2. Làm Tông Đồ là làm chứng cho sự thật.

3. Làm Tông Đồ là kêu gọi đồng loại đến gặt lúa chín.

4. Muốn làm Tông Đồ phải được Hội Thánh sai đi.

5. Đường Tông Đồ là đường chông gai.

6. Tông Đồ phải sống tinh thần nghèo khó.

7. Làm Tông Đồ là đi cấp cứu người.

8. Muốn được bình an phải loan báo Tin Mừng.

1/ Mọi Kitô hữu phải làm tông đồ cho Chúa.

Đức Giêsu không chỉ muốn chọn 12 người đàn ông Do Thái làm môn đệ để họ làm việc Tông Đồ cho Ngài, mà Ngài còn muốn mời gọi muôn dân trên trái đất. Đó là lý do Ngài chọn 70 hay 72 môn đệ (x Lc 10,1a). Ta biết con số 70 (theo bản văn tiếng Hipri) hay số 72 (theo bản văn tiếng Hy-Lạp) môn đệ Đức Giêsu chọn là hình ảnh con cháu ông Noe sau lụt Hồng Thủy (x St 10), mà lụt Hồng Thủy là hình ảnh tiên báo về Bí tích Thánh Tẩy; đồng thời số 72 cũng là dòng giống dân Israel (x Xh 1,5). Do đó những ai đã nhận Bí tích Thánh Tẩy đều là giống nòi của Israel mới, để có nhiều môn đệ cộng tác vào việc Nước Thiên Chúa, như thuở xưa một mình ông Mô-sê điều hành Israel không nổi, nhạc phụ ông đã khuyên nên chọn lấy 72 vị kỳ lão để tiếp tay với ông (x Xh 18,13t).

Vào thời Tân Ước, hàng giáo sĩ là hiện thân Nhóm 12 của Đức Giêsu chọn, cũng cần phải được nhiều giáo dân cộng tác. Bởi thế, trước khi Ngài lìa biệt Nhóm Mười Một về cùng Cha, Ngài truyền lệnh cho môn đệ đi khắp thế gian tập họp môn đệ cho Ngài bằng hai việc: Làm Phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần, và dạy họ tuân giữ những Lời Chúa Giêsu đã truyền (x Mt 28, 19-20), thì công việc Mục Vụ của Hội Thánh mới đạt được kết quả cao.

Vì thế giáo huấn Công Đồng Vat.II trong Hiến Chế Hội Thánh số 35 dạy: “Giáo dân có thể và phải có một hoạt động cao quý là truyền bá Tin Mừng cho thế giới cả những lúc họ bận tâm lo lắng việc trần thế”. Cụ thể ông Luca chỉ là một giáo dân, nghề lương y, đã theo giúp ông Phao-lô. Ông đã điều tra cẩn thận về đời sống của Đức Giêsu cũng như giáo lý của Ngài, rồi ông viết lại cho chúng ta hai tác phẩm là sách Tin Mừng và sách Tông Đồ Công Vụ. Ông Phao-lô còn nói với môn đệ Ti-mô-thê: “Dẫn Mác-co đến với tôi, vì anh ấy rất hữu ích cho việc phục vụ của tôi; còn anh Ty-khi-cô thì tôi đã sai đi Ê-phê-sô”. Loan báo Tin Mừng có khi phải trực tiếp, có khi gián tiếp cộng tác, giúp đỡ các chủ chăn. Đan cử: Ông Phao-lô nhờ ông Ti-mô-thê đến nhà ông Các-pô ở Trôa lấy giúp chiếc áo khoác ngoài cũng như các sách vở và những cuộn giấy da (x 2 Tm 4,10-17: Bài đọc), để ông Phao-lô không mất thì giờ vào việc phụ, một chỉ lo chu toàn sứ mệnh ngôn sứ. Như vậy việc Tông Đồ là của tập thể ý thức cộng tác với nhau để làm ứng nghiệm Lời Kinh Thánh: “Kẻ hiếu trung với Chúa, được biết triều đại Ngài rực rỡ vinh quang” (Tv 145 (144),12a: Đáp ca).

2/ Làm tông đồ là làm chứng cho sự thật

Đó là lý do Đức Giêsu sai từng hai người môn đệ đi làm việc Tông Đồ (x Lc 10,1b). Không phải chỉ nhằm để họ giúp đỡ nhau, mà “đôi chứng nhân” có ý nhấn mạnh: làm Tông Đồ là đi loan báo sự thật. Vì theo theo luật Do-Thái, một điều gọi là chân lý có gía trị, phải có ít là hai người chứng (x Dnl 19,15), hầu tất cả công việc được đoán định do miệng hai, ba nhân chứng (x Mt 18,16). Nhưng chứng của hai hay nhiều người có khi còn gia tăng sự gian ác, như các chứng gian trong phiên tòa xử Đức Giêsu! Vậy “cặp chứng nhân’’ chỉ có gía trị khi người Tông Đồ của Chúa ý thức sống những điều sau:

• Mến Chúa phải yêu người (x Mt 22,34).

• Làm trước rồi dạy sau (x Mc 6,30).

• Phá hủy để xây dựng (x Gr 1,10).

• Đau khổ đến vinh quang (x Lc 24,26).

• Nô lệ mới làm chủ (x Mc 10,35).

• Lãnh nhận để dâng hiến (x Mc 10,28t).

• Đời này đạt đời sau (x Lc 19,9).

Sống được những đòi hỏi như trên là dọn chỗ tâm hồn đồng loại cho Đức Giêsu đến để ban phát ơn cứu độ (x Lc 10,1b).

3/ Làm tông đồ là kêu gọi đồng loại đến gặt lúa chín

Đức Giêsu nói: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít” (Lc 10,2a).

Thợ gặt ít: Suốt ba năm Đức Giêsu chọn và huấn luyện các Tông Đồ (Nhóm 12). Thế mà khi Ngài về trời, chỉ còn 11 người được Ngài sai đi. Đấy là thiếu về lượng! Còn về phẩm chất Đức Tin, thiếu mới đáng lo, vì trong số những người Đức Giêsu sai đi, có kẻ còn hoài nghi! (x Mt 28,16-17)

Muốn thêm người tham gia việc Tông Đồ, muốn bớt hoài nghi về Đức Tin, ta cần phải tích cực loan báo Tin Mừng, để quy tụ thêm nhiều người đến gặt lúa Nước Thiên Chúa, tức là đón nhận ơn cứu độ từ Hy Tế của Chúa Giêsu thiết lập, như Lời Ngài nói: “Bốn tháng có qua, mùa màng mới đến! Này: Ta bảo các ngươi hãy ngước mắt lên mà nhìn: đồng lúa đã chín vàng chờ gặt! Rồi kìa thợ gặt lĩnh công và thu lượm hoa mầu cho sự sống đời đời, để cho kẻ gieo một thể cùng người gặt đều hoan hỷ. Vì đây lời tục ngữ cũng thật: Người này gieo kẻ khác gặt! Ta sai các ngươi đi gặt điều các ngươi không vất vả làm ra! Có những kẻ khác đã vất vả rồi, còn các ngươi đã đến thừa hưởng công lao của họ” (Ga 4, 35-38).

Lý do Đức Giêsu nói: “Bốn tháng có qua mùa màng mới đến” là vì người Do Thái xuống giống vào tháng 11 đến 12 (mùa Giáng Sinh); mùa gặt vào giữa tháng 4 (mùa Phục Sinh). Thế thì từ mùa Giáng Sinh đến mùa Phục Sinh là bốn tháng, đây là thời gian Đức Giêsu thực thi chức Tư Tế của Ngài trên trần thế, rồi Ngài về ngự bên hữu Chúa Cha hằng chuyển cầu cho tất cả những ai đến tham dự Thánh Lễ mà Hội Thánh làm hiện tại hóa Hy Tế của Chúa Giêsu. Cho nên đi dự Lễ là gặt hái hoa trái cứu độ được Đức Giêsu cùng các thánh vất vả làm ra “mùa lúa chín vàng”.

Thế mà có mấy người biết quý trọng Thánh Lễ, đúng là mùa lúa chín thiếu thợ gặt! Thật là chua xót đối với Đức Giêsu, mới hơn 20 thế kỷ nay, những người mang danh là Công Giáo nhất là bên Âu Châu hầu hết bỏ dự Lễ và càng không quan tâm đến việc rước lễ, không gặt hái mùa lúa chín vàng do Đức Giêsu và bao nhiêu chứng nhân đã vất vả trồng hạt Lời, và tưới bón bằng máu thịt của mình, để có mùa lúa chín chờ người gặt.

4/ Muốn làm tông đồ, phải được Hội Thánh sai đi

Đức Giêsu dạy: “Chúng con hãy xin chủ mùa sai thợ ra gặt lúa về” (Lc 10,2b). Cụ thể qua đời sống thánh Phao-lô, là một Biệt phái rất nhiệt tâm thờ Chúa theo Luật Mô-sê, ông đã trở thành kẻ giết Chúa (x Cv 9,4). Nhưng khi được Chúa Giêsu chộp lấy, huấn luyện và sai ông đi làm vườn nho cho Ngài, ông mới ý thức về việc Tông Đồ Ngài trao cho Hội Thánh, ông nói: “Làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng? Làm sao mà rao giảng, nếu không được sai đi?’’ (Rm 10,14-15a) Với lòng xác tín như trên, nên ông Phao-lô trước khi đi truyền giảng Tin Mừng, ông đã đến gặp các thủ lãnh của Hội Thánh để nhận quyền Sai Đi, bằng không việc phục vụ của ông trở nên vô ích (x Gl 2,1-2).

5/ Đường tông đồ là đường chông gai

Đức Giêsu dạy: “Thầy sai anh em đi như chiên vào giữa bầy sói” (Lc 10,3). Niềm tin “ở hiền gặp lành” chỉ có thể thấy đúng trong thế giới Phục Sinh. Còn đời này phải biết rằng: “Ai càng thiết tha sống chân lý, càng gặp nhiều chống đối, nhiều kẻ ghét, và cuối cùng cô đơn!” Ta cứ nhìn vào mẫu gương sống của Đức Giêsu: Ai thánh thiện bằng Ngài? Ai thương người bằng Ngài? Thế mà Đức Giêsu làm Tông Đồ cho Chúa Cha chưa tròn 3 năm, thì chính những kẻ đã từng thụ ơn đã đồng lõa giết Ngài! Trên thập gía, Ngài nhìn xuống tìm những người đã thụ ơn, họ đều trốn mất! Chỉ còn lại những kẻ chế diễu Ngài! Ngài cất tiếng kêu cứu nơi Chúa Cha, Người lại im lặng! Đến nỗi Đức Giêsu phải thốt lên: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của Con, sao Người bỏ rơi Con” (Mt 27,46).

Thánh Phao-lô cũng nói lên sự cô đơn này: “Vì anh Đê-ma đã bỏ tôi, bởi yêu mến thế gian này; A-lê-xan-đê, người thợ rèn, đã gây cho tôi nhiều khốn khổ; Khi tôi đứng ra tự biện hộ lần thứ nhất, thì chẳng có ai bênh vực tôi. Mọi người đã bỏ mặc tôi. Xin Chúa đừng chấp họ. Nhưng có Chúa đứng bên cạnh, Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng” (2 Tm 4,10a.14a.16-17).

Phục vụ Tin Mừng có chấp nhận gian khổ mới thực sự phục vụ vì yêu, chứ không phải vì thương mại, và lời rao giảng đến đổ máu mới minh chứng điều mình công bố là chân lý quan trọng nhất.

Thánh Tông Đồ ý thức con đường theo Chúa là thế, nên ông đã nói: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập gía Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta!” (Gl 6,14). Bởi đó nếu ta theo Đức Giêsu chỉ dừng chân ở thập giá thì ta là kẻ khốn nạn nhất trên đời (1Cr 15,19), nên ta phải hướng về mầu nhiệm Phục Sinh. Chính ông Gióp lúc quá khổ, không thể lý giải sự đau khổ của mình bằng lý luận loài người. Đau khổ của ông cũng như của loài người chỉ có thể hiểu lý do, ý nghĩa và hiệu quả trong thế giới Phục Sinh, nên ông nói: “Tôi biết rằng Đấng bênh vực tôi vẫn sống, và sau cùng, Người sẽ đứng lên trên cõi đất. Sau khi da tôi đây bị tiêu huỷ, thì với tấm thân, tôi sẽ được nhìn ngắm Thiên Chúa. Chính tôi sẽ được ngắm nhìn Người, Đấng mắt tôi nhìn thấy không phải người xa lạ.Lòng tôi những tha thiết mong chờ” (G 19,25-27).

Bởi vậy, chỉ trong mầu nhiệm Phục Sinh “tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban, trong cõi đất dành cho kẻ sống” (Tv 27/26,13).

6/ Tông đồ phải sống tinh thần nghèo khó

Đức Giêsu dạy: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép.” (Lc 10,4a) Nghĩa là phải sống theo gương Đức Giêsu: “Ngài vốn dĩ là Đấng giàu có, nhưng vì chúng ta, Ngài đã trở nên nghèo khó, để chúng ta được giàu có, nhờ sự nghèo khó của Ngài!” (2 Cr 8,9) Thì người môn đệ của Đức Giêsu cũng phải cần cù làm việc để có thu nhập cao, đạt chỉ tiêu giàu có giống Đức Giêsu, nhưng vì phục vụ Tin Mừng mà ta trở nên nghèo để đồng loại được giàu có về Đức Tin; còn người môn đệ chấp nhận nghèo khó như Thầy Giêsu không có nơi ngả đầu (x Lc 9, 58).

Vậy người môn đệ Đức Giêsu hãy sống nghèo cách cụ thể như Ngài dạy:

+ Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép! (x Lc 10,4a: Tin Mừng).

+ Người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia. Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em. (Lc 10, 7-8: Tin Mừng).

+ Chính Chúa mới là gia nghiệp đời mình. (x Tv 16/15,5)

7/ Làm tông đồ là đi cấp cứu người

Đức Giêsu dạy: “Đừng chào hỏi ai dọc đường” (Lc 10,4b). Lời căn dặn này nhắc lại cho ta chuyện ngôn sứ Ê-ly-sa sai đầy tớ là anh Ghêkhaji, cầm gậy của thầy chạy mau đến nhà bà lớn thành Shu-nem để đặt gậy lên xác con trai bà, làm cho cậu hồi sinh. Đó là việc cấp bách, nên ngôn sứ Ê-ly-sa dặn đầy tớ: “Đừng chào hỏi ai” (x 2V 4,18-37). Thế thì việc loan báo Tin Mừng là hành động cứu cấp đồng loại thoát tay tử thần, nên không còn để ý đến việc chào hỏi hay từ giã ai (x Lc 9, 61t). Nghĩa là không có gì làm bận tâm để phải trì hoãn việc loan báo Tin Mừng.

8/ Muốn được bình an phải loan báo Tin Mừng

Đức Giêsu dạy: “Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: “Bình an cho nhà này!” Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng không thì bình an sẽ trở lại với anh em”(Lc 10, 5-6: Tin Mừng). Rõ ràng việc rao giảng Tin Mừng luôn luôn phát sinh sự bình an: Ai biết đón nhận Tin Mừng, sự bình an đến với họ; bằng không sự bình an trở về cho sứ giả Tin Mừng. Nói cách khác, làm Tông Đồ là đem bình an cho môi trường sống và phát sinh bình an trong nội tâm người loan báo. Bởi vì chính Lời Chúa có sức mạnh ban ơn, như Chúa nói: “Mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó.” (Is 55,10-11). Do đó thánh Phao-lô quả quyết rằng: “Lời Thiên Chúa, anh em đã đón nhận, không phải như lời người phàm, nhưng như lời Thiên Chúa, đúng theo bản tính của lời ấy. Lời đó tác động nơi anh em là những tín hữu.” (1Tx 2,13).

 

12. Thánh Luca, thánh sử--tinmung.net

Thánh Luca là người Hy-lạp ngoại giáo trở lại, và là môn đệ của Thánh Phaolô. Người là tác giả sách Phúc Âm thứ ba và sách Tông Ðồ Công Vụ.

Thánh Luca là người học thức, có tài viết văn, có tài kể chuyện, người đề tặng cả hai tác phẩm của mình cho một nhân vật thế giá tên là Tê-ô-phim, mới theo đạo Kitô.

Thánh Luca viết sách Phúc Âm khoảng giữa năm 70 và 75 sau công lịch, nhấn mạnh đến:

- Chúa Giêsu là Ðấng Cứu Ðộ mọi người, giao hoà nhân loại với Thiên Chúa. Chúa thu hút nhân loại bằng những đức tính cao cả của Ngài. Ngài luôn cầu nguyện ngợi khen Chúa Cha.

- Thiên Chúa nhân từ và thương xót.

- Tinh thần bỏ mình và nghèo khó.

Thánh Luca dùng lời lẽ có ý nghĩa để diễn tả lại những trường hợp Chúa Giêsu tỏ lòng thương xót các phụ nữ hư hỏng, và phục hồi quyền lợi thế giá cho họ. Người đã kể lại những câu chuyện có ích lợi đặc biệt cho dân ngoại, như các chuyện bà Ma-đa-lê-na, ông Gia-kêu, người trộm lành, người Sa-ma-ri-a nhân hậu.

Phúc Âm theo Thánh Luca có lẽ là sách Phúc Âm hấp dẫn nhất đối với thế giới mới.

1. Thánh Luca là ai?

- Luca bắt nguồn từ danh từ Latin "Lucanus" nói lên nguồn gốc của ngài là dân ngoại. Theo lá thư Phaolô gởi cho Ti-mô-thê-ô "chỉ mình Luca ở với Cha," có nghĩa là Luca là bạn đồng hành truyền giáo của thánh Phaolô. Trong Phi-lê-môn câu 24, Thánh Phaolô liệt kê Thánh Luca vào số "những cộng sự viên của ngài"; còn trong Co-lose-sê ngài được gọi là "lương y."

2. Luca đã đóng vai trò nào trong Tân Ước?

- Ngài không chỉ là tác giả của Phúc Âm thứ ba mà còn là tác giả sách Tông Ðồ Công Vụ nữa.

3. Thánh Luca viết sách Phúc Âm nhằm mục đích gì?

- Ngài viết Phúc Âm để minh chứng rằng đạo Chúa Kitô là một đạo giáo toàn cầu qua cách giảng diễn lòng nhân từ của Chúa đối với những người nghèo khổ và bị áp bức; nêu cao lòng thiện cảm của Chúa dành cho dân ngoại. Phúc Âm ngài đã diễn đạt chân lý mà Thánh Phaolô công bố trong thư Ga-la-ta chương 3 câu 28 như sau: “Không còn Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, nam hay nữ, vì tất ca anh em là một trong Ðức Giêsu Kitô.”

4. Thánh Luca viết Phúc Âm nhằm cho loại độc giả nào?

- Là một người dân ngoại, nên ngài viết cho các tín đồ dân ngoại.

5. Thê-ô-phi-lô là ai mà Thánh Luca đề tặng ở đầu sách Phúc Âm của ngài?

- Thê-ô-phi-lô là một danh từ Hy Lạp, có nghĩa là "kẻ yêu mến Thiên Chúa." Có thể ông là kẻ mới chịu đạo và đại diện cho nhóm độc giả mà Luca nhắm tới, hầu họ am tường về giáo huấn của đạo mới.

6. Luca đã làm gì để minh chứng đạo Chúa Kitô là đạo phổ quát?

- Ngài đã chứng minh gia phả của Chúa Giêsu không chỉ qua dòng dõi vua Ða-vít lên tới Abraham như Thánh Matthêu đã làm, mà còn trở ngược lên tới Adam. Chủ đích muốn nhấn mạnh rằng:

Giêsu không phải chỉ là một người gốc Do Thái, mà Ngài còn là con người của hoàn vũ, mang dòng máu nhân loại. Hơn nữa Ngài còn đề cập tới cuộc thăm viếng của Chúa tại một làng dân ngoại tên là sa-ma-ria. Ngài đã đề cập tới người ngoại tốt lành Sa-ma-ri-ta-nô. Ngài nhắc tới người ngoại trong số 10 người phong cùi được chữa làn, chỉ mình Luca tường thuật những lời Chúa tuyên bố về sứ vụ của Người.

7. Cho biết vắn tắt nội dung và bố cục của Phúc Âm Thánh Luca?

- Tin Mừng thời niên thiếu của Chúa (chương 1-2)

- Sứ vụ của Chúa tại Galilê (chương 3-9)

- Hành trình lên Giêrusalem (chương 9-19)

- Sứ vụ tại Giêrusalem (chương 19-21)

- Thương khó và sống lại (chương 22-24)

8. Phúc Âm của Luca có những đặc tính nào?

- Là một soạn tác lịch sử được diễn đạt một cách văn chương trau chuốt.

- Là một Phúc Âm cho những người bị áp bức.

- Là một Phúc Âm cho dân ngoại.

- Là một Phúc Âm của cầu nguyện.

- Là một Phúc Âm của niềm vui.

- Và là Phúc Âm đặc biệt nói về nữ giới.

9. Tính cách văn chương trong Phúc Âm của Thánh Luca như thế nào?

- Vì là một người học thức uyên thâm, nên lối viết của ngài thật chải chuốt, tránh những từ Do Thái; nhưng vì tác giả cố bắt chước lối hành văn Cựu Ước của bản dịch Hy Lạp nên kiểu nói "và xảy ra là.." được lặp đi lặp lại nhiều quá hoá nhàm. Bù lại tác giả biết bố cục câu chuyện, xếp đặt ý tưởng mạch lạc, đón trước rào sau kỹ lưỡng.. Tóm lại Phúc Âm của Thánh Luca là một soạn tác thật là công phu.

10. Làm sao Phúc Âm của ngài được gọi là Phúc Âm của người nghèo và bị áp bức?

- Không Phúc Âm nào chúng ta có thể được một sự lưu tâm đáng yêu mà Chúa dành cho những người thu thuế và tội lỗi như trong Phúc Âm thánh Luca:

- Chúa đến để tìm kiếm những gì đã mất.. một người nữ ngoại tình, một người thu thuế thống hối, một tên trộm ăn năn…

- Không một Phúc Âm nào diễn tả được tấm lòng tha thiết của Chúa dành cho những người bơ vơ nghèo đói cho bằng dưới ngòi bút điêu luyện của Luca.

11. Tại sao gọi Phúc Âm Thánh Luca là Phúc Âm của niềm vui?

- Là Phúc Âm của niềm vui vì ngay từ đầu, và bàn bạc trong Phúc Âm của ngài nhiều chỗ nói về niềm vui như ở đầu Phúc Âm là tin vui loan báo cho Za-cha-ri-a, truyền tin cho Maria. Những niềm vui liên tục khi Thánh Gioan chào đời, lúc Chúa giáng sinh...

Những niềm vui trong chương 15 khi tìm thấy con chiên lạc, tìm được đồng tiền mất, gặp lại người con hoang và niềm vui nân hoan của các tông đồ khi trở lại Giêrusalem. Ðúng như Harnack đã nói: "Có những nét vui tươi, can trường và chiến thắng âm vang trong toàn bộ cuốn Phúc Âm của Thánh Luca từ trang đầu cho tới trang chót."

12. Thánh Luca có những nét cá biệt đặc sắc nào trong tường thuật giáng sinh của Chúa Cứu Thế?

- Bằng giọng văn chương, Thánh Luca đã ghi lại cuộc truyền tin cho Ðức Maria, bài hoan ca của Mẹ Maria, bài ca của ông Gia-ca-ri-a chúc tụng Chúa, bài ca vinh danh của các thiên sứ trong đêm Chúa giáng sinh và bài ca của ông Si-mê-on: Giờ đây, lạy Chúa.

13. Lễ của ngài được mừng kính vào ngày nào trong năm phụng vụ?

- Ngày 18 tháng 10 với danh tước là Luca thánh sử.

 

13. Thánh Luca thánh sử--tinmung.net

Thánh Luca, tác giả Phúc âm thứ ba và sách Công vụ sứ đồ, là người đóng góp đơn độc và rông rãi nhất cho Tân ước. Như các tác phẩm cho thấy, Ngài là một trong những Kitô hữu có học nhất thời Giáo hội ly khai. Dầu vậy, Ngài rất mực khiêm tốn và ẩn mình đi đến nỗi dù một chút gì chúng ta biết về Ngài cũng phải đọc trong những dòng chữ của Ngài bằng kính phóng đại. Chúng ta chú mục vào những chỗ "nhóm chúng tôi" thay vì "họ", nghĩa là Ngài nhận sự có mặt của mình trong khung cảnh chuyển nó vào những dẫn chứng rời rạc trong thánh Phaolô, tìm những khuôn mặt xem ra rõ rệt nhất, phân tích việc chọn lựa và xử dụng từ ngữ của Ngài. Dần dần hình ảnh của thánh Luca nổi lên:

Ngài tự bẩm sinh là người Hylạp, chứ không phải Do thái, nhưng theo ngôn ngữ và văn minh xem ra Ngài đã không sinh ra tại những thành phố Hy lạp lớn miền cận đông. Một tác giả thứ hai nói Ngài sinh ra tại Antiôkia, Syria và khi những biến cố xảy ra dường như Ngài đang sống ở đó trong thập niên bốn mươi của thế kỷ đầu và đã là một trong những lương dân trở lai đầu tiên.

Theo nghề nghiệp, Ngài là y sĩ và rất có thể đã theo học đại học tại Tarse. Bởi đó có thể Ngài đã có vài tiếp xúc trước với thánh Phaolô khoảng năm 49 hay 50, Ngài đã liên kết với thánh Phaolô trong sứ vụ qua Tiểu Á tới Au Châu. Dầu vậy khi tới Philipphê, thánh Luca đã dừng lại đó, không phải là giám mục của Giáo hội tân lập vì dường như thánh nhân đã không hề lãnh nhận chức thánh, nhưng đúng hơn ta có thể gọi là "thủ lãnh giáo dân". Hơn nữa, Ngài dường như dấn thân vào thành phần sử gia, một vai trò mà sự giáo dục và cố gắng rất phù hợp với Ngài. Sự quan sát kỹ lưỡng và diễn tả chính xác là những từ ngữ của các trường thuốc Hy lạp và các văn phẩm của thánh Luca chứng tỏ để Ngài đã biết áp dụng chúng vào lãnh vực lịch sử.

Dầu vậy, vào khoảng năm 57, thánh Phaolô đã từ Corintô trở lại qua Macedonia trên đường đi Giêrusalem, để thu thập các đại diện từ nhiều Giáo hội khác nhau và thánh Luca đã nhập bọn, từ đó trở đi Ngài đã không hề rời xa thầy mình. Ngài đã chứng kiến việc người Do thái tìm cách hại Phaolô và việc người Roma giải cứu thánh nhân. Khi Phaolô đáp tàu đi Roma sau hai năm bị tù ở Cêsarêa, thánh Luca ở với Ngài. Họ bị đắm tàu ở Malta và cùng tới Rôma. Nhưng ở Roma. Thánh Luca đã thấy một trách vụ khác đang chờ đón Ngài. Roma là con mắt của Phêrô và người phát ngôn của thánh Phêrô là Marcô đã xuất bản Phúc âm viết tay của Ngài.

Nhưng còn những ký ức khác đã được viết ra hay truyền tụng rời rạc hoặc toàn bộ về cuộc đời của Chúa chúng ta trên trần gian. Thánh Luca đã quyết định rằng: sứ vụ cho lương dân cần một Phúc âm mới, được viết ra bằng Hy ngữ văn chương hơn là Phúc âm của Marcô cho hợp với lương dân có học và không dành riêng cho người Do thái như là Phúc âm của thánh Mathêo: việc trước tác sách này là phần tiếp theo sách Công vụ sứ đồ xem như hoàn thành tại Roma giữa năm 61 tới 70, nhưng thánh Luca đã trốn cuộc bách hại của Nêrô và đã trải qua quãng đời còn lại tại Hy Lạp.

Tài liệu thế kỷ thứ hai viết: - "Trung thành phục vụ Chúa, không lập gia đình và không có con; Ngài được qua đời hưởng thọ 84 tuổi ở Boctica, đầy tràn Thánh Thần".

Thánh Luca là một vị thánh luôn luôn bình dân. Một phần có lẽ vì chúng ta hiểu rõ Ngài là một giáo dân, thừa hưởng văn hóa Hy lạp cổ. Hơn nữa, Ngài bình dân vì đặc tính lương dân và dấn thân của mình. Tất cả văn phẩm của Ngài đầy quan tâm đến con người, thương cảm con người, liên hệ tới người nghèo, hào hiệp với phụ nữ. Ngài cũng rất hấp dẫn bởi đã thu thập và kể lại vô số những công cuộc đầy nhân hậu của Chúa Kitô.

Thật ra người ta sẽ lầm lẫn khi dìm mất tính chất và giáo huấn nghiêm khắc của Chúa. Nhưng các y sĩ có thể hãnh diện về Ngài vì chắc hắn không có y sĩ nào sẽ qua mặt được Ngài về "tình yêu dành cho nhân loại". Và những người còn lại trong chúng ta có thể biết ơn Ngài vì nhờ Ngài chúng ta có được dụ ngôn cây vả khô chồi (13,60, đứa con hoang đàng (15,11) và người Samaria nhân hậu (10,300. Chúng ta cũng biết ơn Ngài vì câu chuyện người kẻ trộm thống hối và cả năm mầu nhiệm Mân Côi mùa Vui.

Nhưng trên tất cả, chúng ta mắc ơn Ngài Kinh Ave "Ngợi khen" (Magnificat), chúc tụng (Benedictus), Phó dâng (Nunc dimittis) với quá phân nửa câu truyện ngày lễ Giáng sinh. Rồi đây là chỗ mà sự khiêm tốn ẩn mình của thánh nhân xa rời chúng ta.

Thánh Luca đã nghe truyện từ miệng Chúa không? Thánh nhân không nói điều này cho chúng ta nhưng rất có thể lắm. Chúng ta biết sau cuộc đóng đinh, mẹ đã được thánh Gioan săn sóc và chắc chắn đã có sự giao tiếp giữa hai thánh sử này. Nhưng trùng hợp của hai Phúc âm (như về việc biến hình) hay những trùng hợp về ngôn ngữ trong phần đầu sách Công vụ mạnh mẽ minh chứng điều này,

Hơn nữa, nếu thánh Luca được rửa tội ở Antiôkia khoảng năm 40 thì tự nhiên là có thể tìm gặp được thánh Gioan ở Giêrusalem... Lúc ấy Đức Mẹ trên dưới 70 tuổi. Như vậy không có lý gì thánh Luca lại không thể nghe chính môi miệng mẹ kể chuyện. Mà dầu chuyện nầy có đến với Ngài cách gián tiếp đi nữa, chúng ta vẫn biết ơn Ngài đã lưu lại cho chúng ta những giai thoại đặc biệt ấy.

 

14. Thánh Luca, thánh sử--tgpsaigon.net

Theo các nhà Kinh Thánh học, thánh Luca đã hiến cho chúng ta hai tác phẩm: một là cuốn Tin Mừng thứ ba và hai là sách Tông Đồ Công Vụ.

Qua các tông đồ, nhất là Mẹ Maria và thánh Phaolô, thánh Luca đã ghi lại tiểu sử của Chúa Giêsu bằng những nét đặc sắc. Ngài đã hết lòng ca tụng ơn cứu độ và lòng từ bi của Thiên Chúa. Qua những truyện như: Người con phung phá, người Samaritanô nhân hậu, ông Giakêu, người trộm lành... chúng ta thấy đuợc phần nào chủ ý của thánh nhân khi ngài muốn trình bày cho chúng ta thấy một cách cụ thể về lòng từ bi của Thiên Chúa.

Tin Mừng thánh Luca cũng là Tin Mừng về đời sống cầu nguyện. Ngài đặt trước mắt chúng ta gương cầu nguyện của Chúa Giêsu trước khi Chúa chịu phép rửa, trước khi khi chọn môn đệ, trước khi biến hình sáng láng, lúc hấp hối trong vườn Giêtsimani và cả trên thánh giá.

Tin Mừng của ngài là Tin Mừng cho những người bị áp bức. Không Tin Mừng nào làm cho chúng ta có thể thấy được một sự lưu tâm đáng yêu mà Chúa dành cho những người thu thuế và tội lỗi như trong Tin Mừng thánh Luca: Chúa đến để tìm kiếm những gì đã mất.. một người nữ ngoại tình, một người thu thuế thống hối, một tên trộm ăn năn… Không một Tin Mừng nào diễn tả được tấm lòng tha thiết của Chúa dành cho những người bơ vơ nghèo đói cho bằng dưới ngòi bút điêu luyện của Luca.

Tin mừng của thánh Luca là Tin Mừng của niềm vui vì ngay từ đầu, và bàng bạc trong Tin Mừng của ngài, có rất nhiều chỗ nói về niềm vui như loan báo tin vui cho Zacharia, truyền tin cho Maria. Những niềm vui liên tục khi Thánh Gioan chào đời, lúc Chúa giáng sinh...Những niềm vui trong chương 15 khi tìm thấy con chiên lạc, tìm được đồng tiền mất, gặp lại người con hoang và niềm vui nân hoan của các tông đồ khi trở lại Giêrusalem. Ðúng như Harnack đã nói: "Có những nét vui tươi, can trường và chiến thắng âm vang trong toàn bộ cuốn Tin Mừng của Thánh Luca từ trang đầu cho tới trang chót."

Tin Mừng của thánh Luca còn được gọi là Tin Mừng của những người phụ nữ bởi vì không Tin Mừng nào vai trò của người phụ nữ được nhắc tới với một lòng kính trọng như Tin Mừng của thánh Luca. Những câu chuyện về những người phụ nữ đặc biệt như những chị em phụ nữ đi theo phục vụ Chúa Giêsu và tông đồ đoàn chỉ có thể tìm thấy trong Tin Mừng của thánh Luca.

Sau hết, khi trình bày, thánh Luca như cố ý cho chúng ta thấy những điều kiện cần thiết để tin theo Chúa cũng như để đuợc gia nhập Nước Trời. Những điều kiện đó là đức tin, lòng khiêm nhường, thống hối, dám chấp nhận những khó khăn, biết sống bác ái và kiên trung trong đau khổ.

Cũng như Tin Mừng, cuốn Tông Đồ Công Vụ của thánh Luca là một bằng chứng sống động về việc Chúa Thánh Thần hoạt động trong đời sống truyền giáo của các tông đồ và đời sống của Giáo Hội lúc sơ khai. Đây cũng là cuốn lịch sử đầu tiên của Giáo hội. Đọc sách Công vụ chúng ta không thể không cảm thấy một nguồn vui thanh cao và sống động đuợc bùng phát lên từ sự nhận biết Thiên Chúa của các tín hữu đầu tiên, và rồi kết quả sau đó là một cuộc sống được định hướng bằng tình bác ái chân thực, bằng tinh thần hy sinh xả kỷ, cũng như bằng bầu khí cầu nguyện, bằng sự hiệp nhất cao độ, lòng hợp lòng, với một đức tin, và một tình yêu duy nhất để hình thành nên những cộng đoàn thánh thiện giữa các tông đồ và những người tin Chúa của Giáo hội sơ khai.

Mặc dầu lịch sử không cho chúng ta những tài liệu chính xác về gia thế và đời sống của thánh Luca, nhưng chúng ta biết chắc chắn rằng: thánh Luca thuộc gia đình nề nếp và giàu sang tại Antiokia. Khi còn bé, Ngài được giáo dục chu đáo về cả đức tính, văn hóa và nghề nghiệp. Ngài theo học các khoa cổ điển của nền văn minh Hy lạp và chuyên nghề lương y. Từ buổi đầu, thánh Luca vẫn chưa biết Chúa. Cho đến một ngày kia thánh Phaolô đến Troa giảng đạo Chúa Giêsu. Luca vào nghe và sau khi suy nghĩ, cân nhắc cẩn thận và nhận thấy giáo thuyết thánh Phaolô giảng rất thâm trầm hợp lý, Ngài liền tin theo. Ngài chịu phép rửa tội và theo làm môn đệ thánh Phaolô, ngày đêm học hỏi Kinh Thánh và làm thư ký cho thánh Tông đồ. Quãng năm 49, nghĩa là khi khởi sự truyền giao lần thứ hai, thánh Phaolô cùng mang thánh Luca đi theo. Nhưng rồi hai thầy trò lại chia lìa nhau một thời gian. Có lẽ kỳ này thánh Luca trở về sinh quán làm nghề lương y. Đến sau hai thầy trò lại gặp nhau tại Philipphê. Từ đây thánh Luca cùng đi giang đạo với thánh Phaolô. Nhưng đến khi thánh Phaolô bị người Lamã bắt cầm tù, thì thánh Luca cũng từ giã đế đô, và chúng ta không biết gì về quãng cuối đời của Ngài nữa.

Đọc Tin Mừng thứ ba và Công vụ tông đồ, chúng ta thấy thánh Luca rất lỗi lạc về văn chương Hy lạp. Ngài quả là một nhà văn học kỳ tài, luôn thay đổi từ ngữ và dùng những danh từ thích hợp với đặc tính văn chương của người Hy lạp thời bấy giờ. Thánh nhân tỏ ra rất nghệ thuật trong việc bố cục câu chuyện thế nào cho rõ ràng, hấp dẫn, gợi nhiều ý tưởng và tâm tình, chẳng hạn dụ ngôn người con người phung phá và câu chuyện hai người du khách trên đường Emmau phải là hai kiệt tác văn chương, có nhiều giá trị nghệ thuật không kém gì những áng văn hay nhất của người Hy lạp thời ấy.

Hơn thế, thánh Luca còn là một người rất sành tâm lý. Thánh nhân đã mặc cho mỗi nhân vật trong Tin Mừng cũng như trong các dụ ngôn những tâm tình, cử điệu và lời lẽ phù hợp với điạ vị riêng của họ. Phải chăng nhờ tài nghệ này, thánh Luca đã đề cao đến chữ trọn hảo địa vị Cứu thế của Chúa Giêsu: Chúa nhân lành tự trời đến với loài người lầm than tội lỗi. Chúa tự hiến mình trên thập giá để tẩy xóa mọi tội trần và thông ban ơn sủng đời sống mới cho các tâm hồn.

Với một sự hiểu biết sâu xa về sứ mệnh Cứu thế của Chúa như vậy, hẳn thánh Luca đã nhiệt thành với nhiệm vụ phổ biến Tin Mừng cứu thế không kém gì thánh Phaolô. Nhưng Ngài giảng đạo tại đâu và chết như thế nào thì theo một tài liệu tìm thấy ở Constantinople, thánh Luca đã giảng đạo tại Achaie và Beotie. Và sau cùng làm giám mục thành Thèbes. Trong bài thực hành cuốn chú giải Tin Mừng thánh Matthêô, Thánh Hiêrônimô nói rõ thánh Luca đã viết Tin Mừng thứ ba tại Achaie và Beotie, sau cùng thánh Gaudence de Brescia quả quyết thánh Luca cùng chịu tử đạo với thánh Andrê tại Patras một tỉnh nhỏ thuộc vùng Achaie.

Ngày nay thánh Luca là quan thầy của các lương y và bác sĩ. Ngài cũng là bổn mạng các nhà họa sĩ, vì theo một truyền thuyết thì thánh nhân đã họa bức ảnh chân dung Đức Mẹ đầu tiên mà nay chúng ta quen gọi là ảnh “Đức Mẹ hằng cứu giúp”.

Ngay từ đầu, Giáo hội vẫn kính lễ thánh Luca vào ngày 18.10 mỗi năm.

Kính xin thánh Luca thánh sử phù trợ cho chúng ta được lòng tin mạnh mẽ và hăng hái như người để chúng ta đem tin lành cứu độ đến cho những người còn chưa nhận biết Chúa.

 

15. Ngày 18 tháng 10: Lễ kính thánh sử Luca--tgpsaigon.net

1. ĐÔI DÒNG TIỂU SỬ.

Thánh Luca là một trong 4 tác giả Tin Mừng, lễ kính ngày 18-10. Thánh Luca sinh tại Bithynia, là dân Hy Lạp cổ đại, thuộc thành phố Antiôkia ở Syria cổ. Các giáo phụ thời Giáo Hội sơ khai nói rằng ngài là tác giả của Tin Mừng theo Thánh Luca và sách Công vụ Tông đồ, mới đầu chỉ là tác phẩm văn chương bình thường. Về sau, quyền tác giả của Thánh Luca mới được tái xác nhận bởi các vị uy tín của Kitô giáo như Thánh Giêrônimô và Eusêbiô, mặc dù các học giả đời cũng như vẫn chưa nhất trí về các chứng cớ xác thực về tác giả.

Trong Tân ước, Thánh Luca chỉ được nhắc tới vài lần, và được Thánh Phaolô gọi là “thầy thuốc” trong thư gởi giáo đoàn Côlôsê. Như vậy, ngài được coi là thầy thuốc và môn đệ của Thánh Phaolô.

Giáo Hội Công Giáo tôn kính Thánh Luca là Thánh sử, và một số giáo phái lớn tôn kính ngài là bổn mạng các họa sĩ, y bác sĩ, học sinh sinh viên, người bán thịt.

Trong thư gởi Philêmôn, Thánh Phaolô có nhắc tới các cộng sự viên là Máccô, Arístakhô, Đêma và Luca (câu 24). Thánh Luca cũng được nói tới trong Cl 4,14 và 2 Tm 4,11.

Thánh Luca không phải là người Do Thái, nghĩa là không được cắt bì. Là người Hy Lạp nên ngài viết Tin Mừng bằng Hy ngữ. Khác với ý kiến của Thánh Êpiphaniô, Thánh Luca ở trong nhóm 72 môn đệ (Lc 10,19), vì ngài nói rõ rằng ngài chưa hề gặp mặt Đức Kitô (x. Lc 1,14). Như vậy, việc Giáo Hội cho chúng ta nghe đoạn Tin Mừng trong lễ Thánh Luca hôm nay nói về việc Chúa Giêsu sai 72 môn đệ, đi theo từng cặp là việc khá lạ. Hơn nữa, Thánh Luca không được Chúa Giêsu hoán cải, mà được Thánh Phaolô hoán cải sau khi Chúa Giêsu về trời.

Rất có thể Thánh Luca học nghề thuốc ở Tarsus, trường y cạnh tranh với Alexandria và Athens, và là trường y lớn nhất Hy Lạp cổ đại. Có thể Thánh Luca đã gặp Thánh Phaolô vào thời điểm này.

Không ai biết Thánh Luca là người mới theo Do Thái hoặc trực tiếp gia nhập Kitô giáo, nhưng chúng ta biết rằng ngài có kiến thức uyên bác về Cựu ước. Hơn nữa, rõ ràng Thánh Luca không chỉ biết Thánh Phaolô, mà còn biết nhiều Tông đồ và các môn đệ. Chính ngài đã chứng minh điều đó, khi ngài soạn thảo Tin Mừng, ngài đã “cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự” (Lc 1,3) với các nhân chứng biết rõ cuộc đời Chúa Giêsu. Trong các nhân chứng đó không chỉ có một mình Thánh Phaolô mà còn nhiều người khác.

Còn nữa, Thánh Phaolô thường kết hợp Thánh Luca với Thánh Máccô. Chúng ta biết rằng Thánh Máccô là người gần gũi với Thánh Phêrô, do đó chúng ta có thể nói rằng Thánh Luca cũng quen thân với Thánh Phêrô và các Tông đồ khác.

Thánh Luca giúp Thánh Phaolô nhiều trong khi thực hiện sứ vụ. Khi bị tù ở Rôma, Thánh Phaolô rất tin tưởng và quý mến Thánh Luca nên đã căn dặn Thánh Timôthê: “Chỉ còn một mình anh Luca ở với tôi. Anh hãy đem anh Máccô đi với anh, vì anh ấy rất hữu ích cho công việc phục vụ của tôi” (2 Tm 4,11). Người ta tin rằng, sau khi Thánh Phaolô qua đời, Thánh Luca rao giảng Tin Mừng tại Ý, Gaul (Galát), Dalmatia, Macêdonia, và có thể cả ở Ai Cập.

Một số Giáo phụ cho rằng Thánh Luca chịu tử đạo, có thể bị đóng đinh vào cây ôliu ở Elaea, thuộc Peloponnesus gần Achaia. Cách hiểu này có từ Thánh Hippolytus. Các Thánh Gregory Nazianzen, Paulinus, và Gaudentius thành Grescia cũng nói rằng Thánh Luca chịu tử đạo. Mặt khác, nhiều người khác (kể cả Thánh Bede và nhiều vị tử đạo) chỉ nói rằng “Thánh Luca chịu đau khổ nhiều vì đức tin và chết già ở Bithynia”.

Thánh Luca sống độc thân để phục vụ Thiên Chúa, không vợ không con, đầy Thần Khí Chúa, và qua đời lúc 84 tuổi. Thi hài ngài được đưa tới Constantinople và an táng tại Nhà thờ Các Tông Đồ, nhà thờ này do Hoàng đế Constantinô xây dựng. Đầu ngài được đưa tới Rôma, đặt tại Tu viện Thánh Andrê. Các phần khác được đặt tại Tu viện Grecian trên Núi Athos.

II. TIN MỪNG CỦA LUCA CÓ NHỮNG ĐẶC TÍNH NÀO?

Thánh Luca, tác giả Tin Mừng thứ ba và sách Công vụ sứ đồ, là người đóng góp đơn độc và rộng rãi nhất cho Tân ước, là một sử gia nhưng diễn đạt các sự kiện bằng một lối văn chương trau chuốt.

Tin Mừng của ngài là Tin Mừng cho những người bị áp bức. Không Tin Mừng nào chúng ta có thể được một sự lưu tâm đáng yêu mà Chúa dành cho những người thu thuế và tội lỗi như trong Tin Mừng thánh Luca: Chúa đến để tìm kiếm những gì đã mất… một người nữ ngoại tình, một người thu thuế thống hối, một tên trộm ăn năn.

Không một Tin Mừng nào diễn tả được tấm lòng tha thiết của Chúa dành cho những người bơ vơ nghèo đói cho bằng dưới ngòi bút điêu luyện của Luca.

Là một Tin Mừng cho dân ngoại.

Là một Tin Mừng của cầu nguyện.

Là một Tin Mừng của niềm vui.

Là Tin Mừng của niềm vui vì ngay từ đầu, và bàng bạc trong Tin Mừng của ngài nhiều chỗ nói về niềm vui như ở đầu Tin Mừng là tin vui loan báo cho Zacharia, truyền tin cho Maria. Những niềm vui liên tục khi Thánh Gioan chào đời, lúc Chúa giáng sinh...

Những niềm vui trong chương 15 khi tìm thấy con chiên lạc, tìm được đồng tiền mất, gặp lại người con hoang và niềm vui hân hoan của các tông đồ khi trở lại Giêrusalem. Ðúng như Harnack đã nói: “Có những nét vui tươi, can trường và chiến thắng âm vang trong toàn bộ cuốn Tin Mừng của Thánh Luca từ trang đầu cho tới trang chót.”

Và là Tin Mừng đặc biệt nói về nữ giới.

Thật ra người ta sẽ lầm lẫn khi dìm mất tính chất và giáo huấn nghiêm khắc của Chúa. Nhưng các y sĩ có thể hãnh diện về Ngài vì chắc hắn không có y sĩ nào sẽ qua mặt được Ngài về “tình yêu dành cho nhân loại”. Và những người còn lại trong chúng ta có thể biết ơn Ngài vì nhờ Ngài chúng ta có được dụ ngôn cây vả khô chồi (13,60), đứa con hoang đàng (15,11) và người Samaria nhân hậu (10,30). Chúng ta cũng biết ơn Ngài vì câu chuyện người kẻ trộm thống hối và cả năm mầu nhiệm Mân Côi mùa Vui.

Nhưng trên tất cả, chúng ta mắc ơn Ngài Kinh Ave “Ngợi khen” (Magnificat), chúc tụng (Benedictus), Phó dâng (Nunc dimittis) với quá phân nửa câu chuyện ngày lễ Giáng sinh. Rồi đây là chỗ mà sự khiêm tốn ẩn mình của thánh nhân xa rời chúng ta.

Ðặc tính của Thánh Luca có thể được nhận thấy trong Tin Mừng của ngài qua những tiêu đề được nhấn mạnh:

(1) Tin Mừng của Sự Nhân Từ: Thánh Luca nhấn mạnh đến lòng nhân từ và nhẫn nại của Ðức Giêsu đối với người tội lỗi và người đau khổ. Ngài thật cởi mở đối với mọi người, Ngài lưu tâm đến người Samaritan, người phong cùi, người thu thuế, người lính, người tội lỗi công khai, người mù chữ, người nghèo. Chỉ trong Tin Mừng Thánh Luca là có đề cập đến người phụ nữ tội lỗi, dụ ngôn con chiên lạc và đồng bạc bị mất, dụ ngôn người con hoang đàng, và người trộm lành.

2) Tin Mừng của Sự Cứu Chuộc Vạn Vật: Ðức Giêsu chết cho tất cả mọi loài. Ngài không chỉ là con vua Ðavít mà còn là con cháu A Dong, và người ngoại giáo là bạn của Ngài.

(3) Tin Mừng của Người Nghèo: “Người bé mọn” thường nổi bật ông Zecharia và bà Elizabeth, Ðức Maria và Thánh Giuse, các mục đồng, cụ Simeon và bà Anna. Ngài cũng lưu tâm đến điều mà ngày nay chúng ta gọi là “sự nghèo khó Tin Mừng.”

(4) Tin Mừng của Sự Quên Mình Tuyệt Ðối: Thánh Luca nhấn mạnh đến nhu cầu hiến dâng hoàn toàn cho Ðức Kitô.

(5) Tin Mừng của Sự Cầu Nguyện và Chúa Thánh Thần: Thánh Luca cho thấy Ðức Giêsu cầu nguyện trước mỗi biến cố quan trọng trong sứ vụ. Chúa Thánh Thần đưa Giáo Hội đến cùng đích tuyệt hảo.

(6) Tin Mừng của Niềm Vui: Thánh Luca thành công trong việc trưng dẫn niềm vui cứu độ đã lan tràn trong Giáo Hội tiên khởi.

Thánh Luca là người viết phần lớn bộ sách Tân Ước, gồm quyển Tin Mừng thứ ba và Công Vụ Tông Ðồ. Trong hai cuốn này, ngài cho thấy sự song hành giữa đời sống Ðức Kitô và của Giáo Hội.

 

16. Chân dung Thánh sử Luca--Trầm Thiên Thu

Thánh Luca (Hy ngữ: Loukás) là một trong 4 tác giả Phúc Âm, lễ kính ngày 18-10. Thánh Luca sinh tại Bithynia, là dân Hy Lạp cổ đại, thuộc thành phố Antiôkia ở Syria cổ. Các giáo phụ thời Giáo Hội sơ khai nói rằng ngài là tác giả của Phúc Âm theo Thánh Luca và sách Công vụ Tông đồ, mới đầu chỉ là tác phẩm văn chương bình thường. Về sau, quyền tác giả của Thánh Luca được tái xác nhận bởi các vị uy tín của Kitô giáo như Thánh Giêrônimô và Eusêbiô (Jerome và Eusebius), mặc dù các học giả (đời và đạo) vẫn đồng ý về việc thiếu chứng cớ xác thực về tác giả.

Trong Tân ước, Thánh Luca chỉ được nhắc tới vài lần, và được Thánh Phaolô gọi là “thầy thuốc” trong thư gởi giáo đoàn Côlôxe. Như vậy, ngài được coi là thầy thuốc và môn đệ của Thánh Phaolô. Được các Kitô hữu thời sơ khai coi là thánh, ngài được coi là vị tử đạo mặc dù các chứng cớ khác nhau.

Giáo Hội Công Giáo tôn kính Thánh Luca là Thánh sử, và một số giáo phái lớn tôn kính ngài là bổn mạng các họa sĩ, y bác sĩ, học sinh sinh viên, người bán thịt.

Trong thư gởi Philêmôn, Thánh Phaolô có nhắc tới các cộng sự viên là Mác-cô, A-rít-ta-khô, Đê-ma và Lu-ca (câu 24). Thánh Luca cũng được nói tới trong Cl 4:14 và 2 Tm 4:11. Tài liệu khác về Thánh Luca có niên đại từ thế kỷ II, nhưng về sau được xác định là cuối thế kỷ IV, có ghi trong lời mở đầu của Phúc Âm theo Thánh Luca. Tuy nhiên, Helmut Koester nói rằng phần sau (chỉ có trong bản gốc Hy ngữ) có thể được biên soạn hồi cuối thế kỷ II.

Thánh Luca không là người Do Thái, nghĩa là không được cắt bì. Là người Hy Lạp nên ngài viết Phúc Âm bằng Hy ngữ. Khác với ý kiến của Thánh Êpiphaniô, Thánh Luca không thể ở trong số 72 môn đệ (Lc 10:1-9), vì ngài nói rõ rằng ngài chưa hề gặp mặt Đức Kitô (x. Lc 1:1-4). Như vậy, khá lạ khi Giáo Hội cho chúng ta nghe đoạn Tin Mừng trong lễ Thánh Luca lại nói về việc Chúa Giêsu sai 72 môn đệ, đi theo từng cặp. Hơn nữa, Thánh Luca không được Chúa Giêsu hoán cải, mà được Thánh Phaolô hoán cải sau khi Chúa Giêsu về trời.

Rất có thể Thánh Luca học nghề thuốc ở Tarsus, trường y cạnh tranh với Alexandria và Athens, và là trường y lớn nhất Hy Lạp cổ đại. Có thể Thánh Luca đã gặp Thánh Phaolô vào thời điểm này.

Không ai biết Thánh Luca là người mới theo Do Thái hoặc trực tiếp gia nhập Kitô giáo, nhưng chúng ta biết rằng ngài có kiến thức uyên bác về Cựu ước. Hơn nữa, rõ ràng Thánh Luca không chỉ biết Thánh Phaolô, mà còn biết nhiều Tông đồ và các môn đệ. Chính ngài đã chứng minh điều đó, khi ngài soan thảo Phúc Âm, ngài đã “cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự” (Lc 1:3) với các nhân chứng biết rõ cuộc đời Chúa Giêsu. Trong các nhân chứng đó không chỉ có một mình Thánh Phaolô mà còn nhiều người khác.

Còn nữa, Thánh Phaolô thường kết hợp Thánh Luca với Thánh Máccô. Chúng ta biết rằng Thánh Máccô là người gần gũi với Thánh Phêrô, do đó chúng ta có thể nói rằng Thánh Luca cũng quen thân với Thánh Phêrô và các Tông đồ khác.

Phúc Âm theo Thánh Luca dài hơn các Phúc Âm khác – mặc dù Phúc Âm theo Thánh Matthêu nhiều chương hơn. Phúc Âm theo Thánh Luca có nhiều câu và nhiều từ hơn, dĩ nhiên số chữ tính theo bản gốc bằng Hy ngữ. Trong các sách Tân ước, Phúc Âm theo Thánh Luca dài nhất – với 19.482 chữ, và sách Công vụ dài thứ nhì – với 18.451 chữ. Hai cuốn này dài bằng tất cả các thư của Thánh Phaolô cộng lại.

Thánh Luca giúp Thánh Phaolô nhiều trong khi thực hiện sứ vụ. Khi bị tù ở Rôma, Thánh Phaolô rất tin tưởng và quý mến Thánh Luca nên đã căn dặn Thánh Timôthê: “Chỉ còn một mình anh Lu-ca ở với tôi. Anh hãy đem anh Mác-cô đi với anh, vì anh ấy rất hữu ích cho công việc phục vụ của tôi” (2 Tm 4:11). Người ta tin rằng, sau khi Thánh Phaolô qua đời, Thánh Luca rao giảng Phúc Âm tại Ý, Gaul (Galát), Dalmatia, Macedon, và có thể cả ở Ai Cập.

Một số Giáo phụ cho rằng Thánh Luca chịu tử đạo, có thể bị đóng đinh vào cây ô-liu ở Elaea, thuộc Peloponnesus gần Achaia. Cách hiểu này có từ Thánh Hippolytus. Các Thánh Gregory Nazianzen, Paulinus, và Gaudentius thành Grescia cũng nói rằng Thánh Luca chịu tử đạo. Mặt khác, nhiều người khác (kể cả Thánh Bede và nhiều vị tử đạo) chỉ nói rằng “Thánh Luca chịu đau khổ nhiều vì đức tin và chết già ở Bithynia”.

Thánh Luca sống độc thân để phục vụ Thiên Chúa, không vợ không con, đầy Thần Khí Chúa, và qua đời lúc 84 tuổi. Thi hài ngài được đưa tới Constantinople và an táng tại Nhà thờ Các Tông Đồ, nhà thờ này do Hoàng đế Constantine xây dựng. Đầu ngài được đưa tới Rôma, đặt tại Tu viện Thánh Anrê. Các phần khác được đặt tại Tu viện Grecian trên Núi Athos.

Sau cuộc Thập Tự Chinh, thánh tích Thánh Luca được chuyển tới Nhà thờ Padua, và nghiên cứu khoa học năm 1992 đã xác nhận là chính xác. Chiếc xương sườn (gần trái tím) được đưa trở về Hy Lạp và lưu giữ tại Thebes. Ngoài ra, Thánh Luca là một họa sĩ. Ngài đã có các bức họa đầu tiên vẽ Đức Mẹ, Chúa Giêsu, Thánh Phêrô và Thánh Phaolô. Người ta còn cho rằng hình Đức Mẹ Vladimir (Đức Mẹ Đen Czestochowa – Black Madonna of Czestochowa) được vẽ theo các hình có chữ viết của chính Thánh Luca.

Thánh Luca cũng được coi là tác giả của bức họa “acheiropoieta” (tượng không có tay). Hình Đấng Cứu Thế này được đặt tại một nhà nguyện đặc biệt ở trên Lầu Thánh (Holy Stairs) gần Đền thờ Latêranô ở Rôma, cũng gọi là Uronica. Truyền thống cho rằng Thánh Luca khởi sự làm tượng, nhưng được các thiên thần hoàn tất.

Tại sao Thánh Luca có biểu tượng là Con Bò? (Thánh Matthêu có biểu tượng là Người, Thánh Máccô có biểu tượng là Sư Tử, Thánh Gioan có biểu tượng là Đại Bàng). Bốn con vật này xuất xứ từ sách Ngôn sứ Êdêkien và Khải Huyền. Thánh Luca có biểu tượng là Con Bò xuất hiện từ thời các Giáo phụ, với hai lý do:

Thứ nhất, Phúc Âm theo Thánh Luca bắt đầu với Tư tế Dacaria và cuộc truyền tin về Thánh Gioan tẩy Giả. Của lễ dâng trong Đền Thờ là con bê hoặc con bò, điều này phù hợp để lấy Con Bò làm biểu tượng của Thánh Luca.

Hơn nữa, Thánh Luca biểu hiện chức tư tế của Đức Kitô rõ nét nhất trong các Phúc Âm. Việc sử dụng hình tượng con bò nhắc nhớ lễ hy sinh được các tư tế thời Cựu ước và thể hiện chức tư tế đời đời của Chúa Giêsu.

Thứ nhì, Thánh Luca có biểu tượng là Con Bò vì con bò nỗ lực lao động, đó là biểu tượng của việc rao giảng Phúc Âm: “Anh (em) không được bịt mõm con bò đang đạp lúa” (Đnl 25:4) và “Đừng bịt mõm con bò đang đạp lúa, làm thợ thì đáng được trả công” (1 Tm 5:18). Thánh Luca là người làm việc nhiều trong việc rao giảng Phúc Âm, đặc biệt là giúp đỡ Thánh Phaolô. Do đó, biểu tượng Con Bò thể hiện sức lao động của con bò trong Phúc Âm và sự chịu đau khổ vì danh Đức Giêsu Kitô.

 

17. Thánh Luca, tác giả sách Tin Mừng--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Chúa gọi một con người sau khi Chúa đã cầu nguyện lâu giờ và hỏi ý Chúa Cha. Việc chọn người này, người kia, người nọ vào chức vụ này, chức vụ kia của Hội Thánh là hoàn toàn do ý của Chúa, là do tình thương nhưng không của Ngài. Chúa không dựa trên bề ngoài, vóc dáng hoặc cao, gầy, thấp, cao. Chúa gọi ai làm môn đệ của Chúa là do quyết định hoàn toàn của Ngài. Thánh Luca được mời gọi làm Apostoloi, làm tông đồ cho Chúa, nghĩa là người được sai đi, Ngài lệ thuộc vào Chúa vì thuộc trọn về Người.

THÁNH LUCA

Mặc dù khi viết lại Tin Mừng của Chúa Giêsu, thánh Luca không cho biết Ngài sinh ra ở đâu và sinh vào năm nào, nhưng theo nhiều tài liệu để lại, thánh nhân là một thầy thuốc, hành nghề ở Antiôkia và Ngài cũng là một văn sĩ giỏi. Tin Mừng về cuộc đời của Chúa Giêsu do Ngài viết diễn tả tài nghệ điêu luyện của Ngài về cách hành văn, về lối viết lưu loát và truyền cảm của Ngài. Thánh nhân là một người ngoại giáo đã theo thánh Phaolô nhiều năm trên đường giảng đạo. Thánh Phaolô đã loan báo Tin Mừng ở thành Troa, Luca đã tin, đã xin theo đạo và đã xin đi theo thánh Phaolô làm môn đệ của Ngài. Vào giai đoạn thánh Phaolô bị bắt giữ, người ta không biết gì về quãng đời cuối cùng của Ngài. Tuy nhiên, theo một tài liệu tìm được ở Constantinople, thánh Luca đã lần lượt loan báo Tin Mừng ở Achaie, ở Béotie, sau này làm Giám mục ở Thébes. Thánh Luca đã cùng lãnh nhận triều thiên tử đạo cùng với thánh Anrê tại Patras thuộc vùng Achaie. Ðọc Phúc Âm của thánh Luca, điểm nổi bật nhất nơi ngòi viết của Ngài là lòng thương xót. Thánh sử Luca đã thuật lại nhiều dụ ngôn rất cảm động và thấm thía như dụ ngôn hai người con, người trộm lành, ông Giakêu thu thuế, người Samaritanô nhân hậu. Thánh Luca cũng chú ý rất nhiều đến việc cầu nguyện, lòng khiêm tốn, chân thành và đơn sơ. Thánh nhân còn viết tông đồ công vụ nói lên sự hiệp nhất, sinh hoạt của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, một cộng đoàn luôn làm mọi việc theo ý Chúa. Nhờ ngòi bút của Ngài, mọi người hiểu rằng Giáo Hội của Chúa ngay từ lúc ban đầu luôn có Chúa Thánh Thần hoạt động và hiện diện.

CUỘC ÐỜI THÁNH LUCA LUÔN LÀM RẠNG NGỜI BỘ MẶT CỦA CHÚA GIÊSU KITÔ:

Thánh Luca, một trong bốn thánh sử đã để lại cho hậu thế một lịch sử sáng ngời của Ðấng Cứu Thế: Chúa Giêsu Kitô. Chỉ cần đọc Phúc Âm của một trong bốn thánh sử, nhân loại ở muôn thời sẽ thấy rõ cả cuộc đời của Chúa Giêsu. Ðó là nét nổi bật nhất của các thánh sử. Tuy nhiên, với thánh Luca, khi đọc Tin Mừng của Ngài, nhân loại sẽ nhận ra lòng thương xót của Chúa, nhìn ra bộ mặt đầy yêu thương của Chúa Giêsu, và như thế thánh Luca đã làm sáng danh Chúa vì chính Ngài đã ghi lại những nét đặc sắc nhất của cuộc đời Chúa Giêsu Kitô.

Thánh Luca như nhiều vị thánh khác đã hy sinh cả mạng sống của mình để làm chứng cho Chúa là Ðàng, là Sự Thật và là Sự Sống. Ngài xứng đáng lãnh nhận triều thiên vinh quang của Chúa. Muôn đời nhân loại sẽ không bao giờ quên được công ơn to lớn của thánh sử Luca.

Lạy thánh Luca, xin cầu bầu cùng Chúa cho chúng con, để chúng con luôn nhận ra lòng thương xót của Chúa.

 

18. Thánh Lu-ca, Ngòi Bút Của Lòng Xót Thương--Giuse Phạm Văn Thông SDB

Nếu như thánh sử Mát-thêu diễn tả dung mạo của Chúa Giê-su theo lối văn dành cho những tầng lớp tri thức; thánh Mác-cô diễn tả Chúa Giê-su theo lối văn kể chuyện, dành cho những tầng lớp bình dân; thánh Gioan diễn tả dung mạo Chúa Giê-su theo lối văn suy ngắm, chiêm niệm, thì thánh sử Lu-ca lại phác hoạ Thầy Giê-su Chí Thánh của mình theo lối văn của một người thầy thuốc.

Thánh nhân diễn tả Chúa Giê-su là một Thầy Thuốc Nhân Lành - Vị Thầy Thuốc đặc biệt của cả thân xác lẫn tâm hồn những người khốn khổ, lầm than, đau yếu và tội lỗi.

Bài Tin Mừng hôm nay cũng đã diễn tả rất rõ về điều đó. Trong bài Tin Mừng, thánh Lu-ca tường thuật lại việc Chúa Giê-su sai phái các môn đệ ra đi loan báo Tin Mừng cứu độ của Thiên Chúa cho muôn dân. Chúa Giê-su ví người môn đệ được sai đi như những chiên con đi vào giữa bầy sói. Họ là những nắm men, những hạt muối được gieo vào thế gian để ướp mặn cho đời. Họ ra đi với đầy rẫy những hiểm nguy, gian khó đang rình chờ và sẵn sàng nuốt chửng họ bất cứ lúc nào. Trước những khó khăn như thế, người môn đệ sẽ phải làm gì; phải đối diện ra sao?

Chúa Giê-su ngay lập tức trả lời cho chúng ta rằng điều cần thiết mà người môn đệ phải làm là hãy từ bỏ mọi sự: không mang theo túi tiền, bao bị, giày dép; và ngay cả đến việc chào hỏi những người dọc đường cũng không nên làm. Tại sao vậy? Thưa, bởi lẽ đó chính là những cám dỗ sẽ làm cho người môn đệ bị xao nhãng trong việc bổn phận của mình.

Chúa Giê-su muốn các môn đệ từ bỏ mọi sự để chỉ mang trong mình tình yêu thương và sự bình an của Chúa mà thôi, hay đúng hơn là mang chính Chúa đến cho mọi người.

Thánh sử Lu-ca diễn tả đó chính là liều thần dược có thể chữa lành mọi bệnh tật. Với liều thần dược này, người môn đệ có thể diệt trừ mọi quỉ dữ và chữa lành tất cả những người đau khổ, tội lỗi… Rõ ràng, thánh Lu-ca có một lối nhìn rất sâu xa về Người Thầy Chí Thánh của mình – một Vị Thầy Thuốc Nhân Lành luôn hết lòng yêu thương, chăm sóc những con người đau yếu, khốn khổ… Có thể nói ngài thực sự là một ngòi bút sắc sảo diễn tả lòng thương xót của Thiên Chúa.

Người môn đệ mà thánh Lu-ca nhắc tới trong bài Tin Mừng không chỉ là Nhóm Mười Hai nhưng là tất cả những người theo Chúa (trong đó có cả bạn và tôi). Như thế, Chúa đang mời gọi mỗi người chúng ta hãy ra đi loan báo Tin Mừng tình yêu của Chúa cho mọi người. Đứng trước lời mời gọi như thế, chúng ta sẽ làm gì nếu không phải là sự mau mắn đáp trả để trở nên những nắm men, những hạt muối mặn nồng cho thế gian; và điều quan trọng cần phải làm là từ bỏ mọi sự để chỉ mặc lấy tình yêu thương và sự bình an của Chúa, hay đúng hơn là mặc lấy chính Chúa mà thôi. Đó là hành trang và cũng chính là liều thần dược ta cần phải có cho cuộc hành trình theo Chúa.

Với khóe nhìn của một vị thầy thuốc, thánh sử Lu-ca đã khắc họa cho ta hình ảnh một Đức Giê-su Ki-tô tràn đầy yêu thương và giàu lòng trắc ẩn. Trong ngày lễ mừng kính thánh nhân hôm nay, chúng ta cùng cầu xin ngài chuyển cầu cùng Chúa cho ta, để cũng như ngài, ta có được những cảm nghiệm sâu xa về tình yêu và lòng xót thương vô bờ bến của Thiên Chúa.

 

19. Chia sẻ về Thánh Luca-- GIUSE-LUCA

1/ Trước khi trở lại đạo, Luca là một y sĩ nên trong các sách Tin mừng của Ngài có nhiều tiếng thường gặp trong các loại sách y học thời đó nhất là trong sách Công Vụ Tông Đồ của Ngài cho biết rõ: Ngài là một thầy thuốc, chính Ngài đã săn sóc, giúp đỡ Thánh Phao-lô trong những lúc ốm đau, tù đày; ngoài ra Ngài còn là một họa sĩ, và là người đầu tiên vẽ chân dung của Đức Maria.

2/ Luca là Môn đệ, là cộng sự viên, là một người bạn đồng hành thân tình của Thánh Phao-lô trong cuộc hành trình truyền giáo thứ hai tới Troa và Philiphê, Ngài thường sống bên cạnh Phao-lô cả những lúc tù đày cũng như khi phải ra trước tòa án Roma, và đã ở bên cạnh cho tới khi Thánh Phao-lô chết.

3/ Chính Luca cũng bị giam tù 2 lần, sau khi Thánh Phao-lô chết. Ngài đến rao giảng cho dân chúng thành Akai-da và viết sách Tin Mừng vào khoảng năm 63, viết sách Công vụ Tông đồ vào năm 70. Ngài qua đời lúc 84 tuổi, theo truyền khẩu thì Ngài chịu tử đạo ở Bacti-ca.

4/ Như vậy, Thánh Luca là tác giả 2 cuốn sách. Qua các tác phẩm ấy, chúng ta thấy Ngài là một Ki-tô hữu có học thức nhất thời Giáo hội sơ khai; dù vậy Ngài rất khiêm tốn, chỉ muốn sống âm thầm, đến nỗi dù một chút gì nếu chúng ta muốn biết về Ngài, cũng phải đọc những dòng chữ của Ngài bằng kính phóng đại.

5/ Ngài là con người dịu dàng, hiền hòa. Tất cả lối hành văn của Ngài đều quan tâm đến con người, thông cảm con người, liên hệ tới người nghèo, hào hiệp với phụ nữ.

6/ Ngài đã thu thập và kể lại những lời nói và việc làm đầy nhân nhân hậu của Chúa Ki-tô, Ngài nhấn mạnh: Đức ki-tô nhân từ vô cùng, những người tội lỗi là đối tượng tình yêu đặc biệt của Thiên Chúa.

7/ Chúng ta biết ơn Ngài. Vì nhờ Ngài mà chúng ta có được những Dụ Ngôn cây vả khô chồi, đứa con hoang đàng, người Samari nhân hậu. Chúng ta biết ơn Ngài vì câu chuyện người trộm thống hối, và cả 5 mầu nhiệm mùa vui Mân Côi, vì chỉ có một mình Ngài tường thuật những sự kiện ấy.

8/ Ngoài ra sách Công vụ Tông đồ của Ngài được coi là cuốn Lịch sử đầu tiên của Giáo hội Công giáo, kể lại mọi hoạt động của các Tông đồ, nhất là Phê-rô, Phao-lô. Điều quan trong mà sách Luca muốn chứng minh là: Mặc dù có nhiều nhân vật hoạt động nhưng đó chỉ là những vai phụ, còn vai chính là Chúa Thánh Thần; nên sách Công vụ Tông đồ được gọi là sách Tin mừng của Chúa Thánh Thần.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con sống ngây thơ, hiền hòa và ngay thẳng như Thánh Luca của con. Amen.

 

20. Thánh Luca, tác giả sách Tin Mừng -- Enzo Lodi

I. Ghi nhận lịch sử – phụng vụ

Thánh Luca tác giả sách Tin Mừng được mừng kính ngày 18 tháng 10 hợp với các niên lịch Byzantin, Syria và Hiêrônimô. Ngày lễ này ở phương Đông gọi là sinh nhật thánh Luca, tác giả sách Tin Mừng, đã được đưa vào phương Tây ở thế kỷ IX và vào Rôma năm 866.

Theo truyền thống, thánh Luca người gốc Syria, có thể là Antiôkia, nơi đây ngài làm nghề thầy thuốc (xem Cl 4, 14: Người anh em chúng tôi là Luca, thầy thuốc). Ngài là bạn đồng hành của thánh Phaolô trong hành trình truyền giáo lần thứ hai, khoảng năm 49, khi thánh tông đồ đem ngài theo từ Troas đến Philíp, và từ Philíp đến Giêrusalem. Ngài còn ở lại với thánh Phaolô ở Rôma, trong những ngày cuối đời của thánh tông đồ (xem 2 Tm 4, 11). Sau khi thánh Phaolô tử đạo, ngài bỏ Rôma và người ta mất dấu vết của ngài. Theo Gaudence de Brescia thì ngài đi truyền giáo ở Achia, Patras với thánh André; còn theo thánh Hiêrônimô thì ngài đến Béotia, và trở thành giám mục thành Thèbes. Người ta không biết gì chắc chắn về cái chết của ngài. Theo một truyền thống xưa (Gaudence), có thể ngài đã chịu tử đạo với thánh André ở Patras (Hi Lạp), hưởng thọ 84 tuổi.

Thánh Luca được tôn kính như bổn mạng của các thầy thuốc và họa sĩ, vì người ta cho rằng ngài là tác giả một bức chân dung Đức Mẹ, được kính ở nhà thờ Đức Bà Cả, Rôma. Chắc hẳn đây chỉ là một truyền thuyết. Thực ra, những bức tranh đẹp nhất của ngài là ở trong những trang sách Tin Mừng của ngài.

Khoa vẽ hình thánh thường trình bày ngài khi thì đứng chung với ba tác giả Tin Mừng khác, bên cạnh là một con bò mộng có cánh, biểu tượng của ngài; khi thì vẽ ngài đang viết sách Tin Mừng (tiểu ảnh trong sách Phúc Âm của Egbert, Trève), hay ngài đang vẽ Chúa Kitô trên thập giá (Zurbarán, Madrid). Nguời ta cũng vẽ ngài đang hoạ bức chân dung Đức Mẹ (Van den Weyden, Boston), hay đang chỉ về Đức Mẹ (El Greco, Tolède).

I. Thông điệp và tính thời sự

Lời Nguyện của ngày nhắc lại rằng Thiên Chúa đã chọn thánh Luca “để mạc khải cho những người nghèo khó mầu nhiệm tình yêu của Người, qua việc rao giảng và viết sách Tin Mừng của thánh Luca.” Thực vậy, qua những dụ ngôn và tường thuật, Tin Mừng của ngài mạc khải dung mạo nhân từ của Thiên Chúa và tỏ lộ Chúa Giêsu như bạn của các người thu thuế và tội lỗi (15,2). Vì thế thi hào Đantê diễn tả thánh Luca như “Scriba mansuetudinis Christi,” (Văn sĩ của của Chúa Kitô nhân từ). Đức Kitô đến trước tiên là vì những người nghèo mà Người tuyên bố là có phúc (6,20): Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó … Và Người công bố trong hội đường ở Nazareth “Thần Khí Chúa ngự trên tôi … Người sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo” (4,18). Cũng như Đức Maria hát trong bài Magnificat: “Đấng Toàn Năng nâng cao những người khiêm nhường, và ban của đầy dư cho người đói khát” (1, 49.52-53).

Cũng trong lời nguyện này, chúng ta xin Chúa ban cho các tín hữu được “tâm đầu ý hợp.” Trong sách Công Vụ Tông Đồ, thánh Luca thích mô tả cộng đoàn Kitô hữu ở Giêrusalem như chỉ có một lòng một trí (1,14). Các tín hữu đầu tiên tập hợp chung tại một nơi (2,1), chuyên cần trong tình hiệp thông huynh đệ (2,42), họ sống hiệp nhất với nhau và chia sẻ cho nhau tất cả những gì họ có (2,44). Sau cùng, lời nguyện kết thúc bằng việc nài xin ơn cứu độ cho “mọi dân tộc trên thế giới.” Thực vậy, thánh Luca chứng minh rõ ràng tính phổ quát của Tin Mừng, trong sách Công Vụ, nhất là qua lời rao giảng và sứ mạng của thánh Phaolô, vị tông đồ đã đem Tin Mừng tới tận Rôma, giữa lòng Đế Quốc Rôma.

Lời Nguyện trên lễ vật, chúng ta xin sự “chữa lành và vinh quang”. Cũng thế, bài đọc Tin Mừng của ngày lễ vẽ lại cho chúng ta cảnh Chúa Giêsu sai nhiều môn đệ đi truyền giáo, đặc biệt Người nói: “Các con vào thành nào … hãy chữa những người đau yếu trong thành, và nói với dân chúng: Triều đại Thiên Chúa đã rất gần anh em” (Lc 10, 9). Về “vinh quang”, phụng vụ rõ ràng lấy ý tưởng của thánh Phaolô: “Chính vì thế mà Thiên Chúa đã kêu gọi anh em nhờ Tin Mừng, để anh em được hưởng vinh quang của Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta” (2 Tx 2, 14; xem Điệp Ca 2 giờ Kinh Sáng). Chúa Giêsu kêu gọi các tín hữu chia sẻ vinh quang với Người, trong cùng một sự sống thần linh, được Chúa Thánh Thần là nguồn hoan lạc làm cho sinh động: “Còn các môn đệ mới gia nhập thì được tràn đầy hoan lạc và Thánh Thần” (Cv 13, 52).

Lời Nguyện sau hiệp lễ khích lệ chúng ta “tin vững vàng hơn vào Tin Mừng mà thánh Luca đã truyền lại cho chúng ta”. Tâm điểm của Tin Mừng – quyền năng của Thiên Chúa để cứu độ mọi kẻ tin (Rm 1,16)–, có Chúa Giêsu, Lời cuối cùng và hoàn hảo của Thiên Chúa, nơi cư ngụ của Thánh Thần mà Người đổ xuống trên các tông đồ. Thánh Luca muốn chứng tỏ rằng Tin Mừng được nhắm tới và loan báo cho toàn thế giới. Là bạn đồng hành của thánh Phaolô trong một phần của các hành trình truyền giáo và trong những giờ phút cuối cuộc đời của thánh Tông đồ (xem 2 Tm 4, 9), bản thân ngài đã rao giảng trước khi viết thành sách. Và ngài cho thấy Chúa Giêsu, sau khi sai mười hai môn đệ, còn sai nhiều môn đệ khác đi truyền giáo (Lc 10).

Các bản văn thánh lễ và Các Giờ Kinh Phụng Vụ mừng việc loan báo Lời này: Đẹp thay bước chân người sứ giả trên những ngọn đồi loan tin hòa bình, người sứ giả loan Tin Mừng cứu độ (Ca Nhập lễ). Con cái ngươi sẽ rao truyền vinh quang của triều đại ngươi, loan báo cho mọi người những chiến công của ngươi, vinh quang và vẻ huy hoàng của triều đại ngươi … (Thánh Vịnh 144). “Hãy tường thuật cho muôn dân vinh quang của Chúa, cho muôn nước những kỳ công của Người.” (Xướng đáp bài đọc Kinh Chiều).

Bài giảng của thánh Gregoire Cả được đề nghị trong Phụng Vụ Giờ Kinh Sách kể lại một đoạn rất hợp thời hôm nay: “Bây giờ chúng ta hãy nghe Người (Chúa Giêsu) nói với các môn đệ mà Người sai đi rao giảng: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Vậy anh em hãy xin chủ sai thợ gặt tới đồng lúa Người.” Thợ gặt thì ít đang khi lúa chín đầy đồng. Chúng ta không thể không lặp lại lời này mà không cảm thấy chua xót.

Kinh nguyện là một trong những chủ đề ưa thích của thánh Luca. Tin Mừng ngài trình bày Chúa Giêsu như người thờ phượng tuyệt hảo, luôn luôn cầu nguyện và trò chuyện với Cha (3, 21; 5, 16; 6, 12; 9, 28-29; 11, 1; 22, 40-46; 23, 46). Cũng vậy, sau khi Chúa Giêsu lên trời, các Tông Đồ ở Giêrusalem, “tất cả đều một lòng một trí, chuyên cần cầu nguyện, cùng với mấy phụ nữ, trong số đó có Đức Maria, mẹ Chúa Giêsu” (Cv 1, 14). Thánh Luca dành cho Đức Mẹ một chỗ đứng quan trọng.

Các chủ đề ưa thích khác của thánh Luca là lòng thương xót, Thập giá và sự từ bỏ, nhưng nhất là niềm vui. Hồng Y Martini viết: “Thánh Luca sử dụng 5 động từ khác nhau để diễn tả niềm vui trong 27 đoạn khác nhau của Tin Mừng ngài. Chúng ta có một ví dụ cảm động về đề tài này ở chương 15” gồm các dụ ngôn con chiên lạc, đồng tiền tìm lại được và đứa con hoang đàng.

 

21. Thánh Luca, thánh sử-- Nguồn: dongcong.net

Thánh Luca là một y sĩ đã trở về với đức tin vào khoảng năm 40, và sau đó theo thánh Phaolô trong cuộc hành trình truyền giáo thứ hai. Trong những năm tháng cuối đời của vị Tông Đồ Dân Ngoại, thánh Luca luôn ở bên cạnh vị ngài. Tác giả Phúc Âm thứ ba và sách Tông Đồ Công Vụ đã lưu lại cho chúng ta rất nhiều trình thuật quí báu về thời thơ ấu của Chúa Kitô và cho chúng ta nhìn thấy hình ảnh tuyệt đẹp về lòng thương xót của Thiên Chúa.

1 Phúc Âm thánh Luca - nỗ lực nên hoàn thiện của chúng ta.

Đẹp thay trên các núi non, bước chân của những người loan báo Tin Mừng.

Chúng ta hãy cám ơn thánh Luca vì ngài đã đem tin mừng đến cho nhân loại. Ngài đã là một công cụ trung thành của Chúa Thánh Thần. Được ơn linh hứng thúc đẩy, thánh nhân đã để lại Phúc Âm về cuộc đời Chúa Giêsu và lịch sử Giáo Hội trong thời kỳ sơ khởi.

Như mọi kiệt tác khác, các sách Thánh Kinh cũng cần sự cộng tác nhân loại. Sự trợ giúp của Thiên Chúa không loại bỏ tài năng con người. Chính thánh Luca cũng nói đến sự chuyên cần trong công việc: Sau khi cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự, thì thánh nhân mới tuần tự viết ra. Ngài cho thấy thông tin ấy phù hợp với chứng từ của những người đã được chứng kiến ngay từ đầu. Công việc biên soạn đòi hỏi phải có những cuộc phỏng vấn các chứng nhân, trước tiên là Đức Maria, các Tông Đồ, và những người được hưởng các phép lạ khi ấy đang còn sống. Thánh Jerome nhận định lối văn của thánh Luca là phản ảnh về mức khả tín về các nguồn tài liệu của thánh nhân.

Nhờ thánh Luca đã ân cần đáp ứng ơn Chúa Thánh Thần, ngày nay chúng ta mới diễm phúc đọc được trình thuật về thời thơ ấu của Chúa Giêsu và những dụ ngôn tuyệt đẹp mà chỉ mình ngài ghi lại. Chúng ta nhớ đến dụ ngôn người con hoang đàng, câu chuyện người Samaria nhân hậu, đoạn kể về Lazarus nghèo khổ và ông nhà giàu. Và cũng chỉ có Phúc Âm của ngài đã ghi lại sự kiện hai môn đệ về làng Emmaus, tường tận đến từng chi tiết.

Thánh Luca đã mô tả lòng thương xót Chúa dành cho những ai cùng khốn một cách rõ nét hơn các thánh sử khác. Ngài nhấn mạnh đến tình yêu Chúa Kitô dành cho các tội nhân để minh chứng Chúa đã đến để cứu vớt những kẻ đã hư mất. Thánh nhân còn kể cho chúng ta sự kiện Chúa tha thứ cho người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, Chúa đã ghé thăm nhà ông Giakêu đầy tai tiếng, và ánh nhìn của Chúa đã biến đổi Phêrô sau khi đã trót chối Thầy. Thánh Luca ghi lại lời hứa của Chúa Kitô dành cho người trộm lành sám hối, và lời cầu của Chúa dành cho những kẻ đã đóng đinh và lăng mạ Người trên đồi Canvê.

Vai trò phụ nữ trong xã hội - một điều không được coi trọng trong thế kỷ đầu của Kitô Giáo - đã có một chỗ đứng quan trọng trong Phúc Âm thánh Luca. Chúa Giêsu ra sức phục hồi phẩm giá cho phụ nữ, và chỉ có vị thánh sử này đã mô tả nhiều nhân vật nữ, chẳng hạn bà góa thành Naim, người phụ nữ sám hối đã rửa chân Chúa, những phụ nữ Galilê đạo đức đã dâng cúng tài sản, đi theo phục vụ Chúa và các tông đồ trên đường truyền giáo, rồi hai chị em thân thiết tại làng Bethany, người đàn bà còng lưng được Chúa chữa lành, và nhóm phụ nữ thành Jerusalem khóc thương khi Chúa vác thánh giá lên núi Canvê.

Chúng ta có nhiều điều để cám ơn thánh Luca. Đức Gioan Phaolô I trước khi đắc cử Giáo Hoàng đã viết một bức thư tưởng tượng gửi cho thánh sử Phúc Âm thứ ba: Ngài là người duy nhất đã lưu lại cho chúng tôi trình thuật cảm động về cuộc giáng sinh và thời thơ ấu của Chúa Kitô để chúng tôi có thể đọc một cách tâm đắc vào những mùa Giáng Sinh. Trong trình thuật ấy, có một câu nổi bật hơn hết: ‘Được quấn trong khăn tã, Hài Nhi được đặt nằm trong máng cỏ.’ Chỉ một câu ấy mà thôi đã đưa đến bao nhiêu hang đá và hàng ngàn bức tranh xinh đẹp khắp thế giới.’ Những tác phẩm nghệ thuật ấy mời gọi chúng ta đến chiêm ngưỡng đời sống Thánh Gia tại Bêlem và chia sẻ cuộc sống hằng ngày của các ngài tại Nazareth.

Hôm nay, chúng ta suy về mức độ hoàn hảo và nỗ lực cần thiết phải có trong công việc. Tuy không đòi nổi bật đến mức làm mọi người phải kinh ngạc, nhưng tất cả những công việc được làm tử tế vì Chúa sẽ có giá trị muôn đời. Đây là món quà quí giá chúng ta luôn sẵn có để dâng lên Chúa. Những công việc được thực hiện thiếu nhiệt thành hoặc thiếu cẩn trọng đều không xứng đáng, bởi vì chúng không làm đẹp lòng Chúa và không mưu ích cho tha nhân. Chúng ta hãy xét lại cung cách chu toàn các trách nhiệm chúng ta hằng ngày phải dâng tiến vì vinh danh Đấng Tạo Thành.

2 Sứ điệp thánh Luca. Họa Sĩ của Đức Mẹ.

Chúng ta gặp những giáo huấn căn bản của Chúa Kitô trong Phúc Âm thánh Luca. Ngài đã làm nổi bật tầm quan trọng của sự khiêm nhượng, chân thật, nghèo khó, chấp nhận thánh giá, và nhu cầu cám tạ Thiên Chúa. Tình yêu đối với Chúa khiến chúng ta phải biết ơn thánh Luca về sự tinh tế nơi tâm hồn ngài được biểu hiện qua công trình tuyệt vời. Từ xa xưa, các tín hữu đã xưng tụng thánh Luca là họa sĩ của Đức Trinh Nữ. Một số bức tranh về Đức Mẹ được truyền tụng là do thánh nhân vẽ ra.

Phúc Âm thánh Luca là căn bản cho tri thức về lòng sùng kính Đức Mẹ và đem lại cảm hứng cho nghệ thuật Kitô Giáo suốt nhiều thế kỷ qua. Ngoài Chúa Giêsu, không ai đã được mô tả một cách đầy yêu mến trong Phúc Âm như Đức Mẹ Maria. Dưới ơn linh hứng Chúa Thánh Thần, thánh sử Luca đã viết cho chúng ta về những đặc ân Thiên Chúa ban cho Đức Mẹ. Mẹ được đầy ơn phúc và Thiên Chúa ở cùng Mẹ. Là Mẹ Chúa Giêsu, Đức Maria đã thụ thai nhờ phép Chúa Thánh Thần mà vẫn trọn đời đồng trinh, và được mật thiết liên kết với mầu nhiệm cứu độ. Mọi thế hệ sẽ ngợi khen Mẹ là Đấng diễm phúc, bởi Đấng Toàn Năng đã làm cho Mẹ những điều kỳ diệu, thật đúng như lời một phụ nữ đã cất tiếng chúc mừng Mẹ Chúa Giêsu.

Việc Mẹ Maria đã trung thành đáp ứng với ơn gọi thật hiển nhiên. Mẹ đã khiêm nhượng đón nhận lời truyền tin của tổng thần Gabriel về chức phẩm làm Mẹ Thiên Chúa, và hết tâm hồn cộng tác vào chương trình của Thiên Chúa. Mẹ vội vã lên đường giúp đỡ người khác. Hai lần, thánh Luca đã cho chúng ta biết Mẹ Maria đã ghi nhớ và suy niệm trong lòng về tất cả những điều ấy. Chắc hẳn Đức Mẹ đã tỏ cho thánh Luca biết những ký ức đầy thân thương trong cuộc sống của Mẹ với Chúa Giêsu.

3 Đọc Phúc Âm với thái độ tôn kính.

Chúng ta hãy trân trọng di sản của thánh Luca bằng việc suy gẫm những lời cao quí và đầy sức sống ngài đã để lại cho chúng ta về Chúa Cứu Thế. Chúng ta hãy xin thánh nhân cho chúng ta được niềm vui và nhiệt tâm tông đồ của những tín hữu thời Giáo Hội sơ khởi khi chúng ta đọc sách Tông Đồ Công Vụ, tức là Phúc Âm của Chúa Thánh Thần.

Theo tập tục cổ xưa, khi một tín hữu bị phiền sầu hoặc hoang mang, họ thường mở Phúc Âm và đọc câu đầu tiên gặp được. Hễ ai chạm vào Người đều được chữa lành. Thánh Luca đã ghi lại như thế. Chúa Giêsu vẫn tiếp tục thông ban cho chúng ta sự can trường và sức mạnh của Người mỗi khi chúng ta tiếp xúc với Người qua những lời hằng sống của Người.

Những tác phẩm của thánh Luca dạy chúng ta biết phải luôn sống theo lời Chúa. Chúng ta cần phải luôn kiếm tìm lòng thương xót Chúa và sống với Chúa là người bạn thân trung thành đã thí mạng sống vì chúng ta. Thánh Luca đã đưa chúng ta đi sâu vào mầu nhiệm Chúa Giêsu ngày nay, trong giai đoạn có quá nhiều tư tưởng sai lầm về Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, đá tảng cuộc sống của mọi người. Chúa là hiện tượng ý nghĩa nhất đã đến với nhân loại suốt trên hai mươi thế kỷ qua. Những lời thần lực của Phúc Âm đưa chúng ta đến tiếp xúc với Đấng Cứu Thế: một điều không một tác phẩm nào khác có thể làm được. Vì thế, chúng ta hãy tìm về Phúc Âm để học khoa học tuyệt vời là được biết Chúa Kitô Giêsu, như lời thánh Phaolô đã xác quyết với các tín hữu Philippians, bởi vì không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô.

Phúc Âm phải là cuốn sách được mọi Kitô hữu yêu chuộng bởi vì thiếu Phúc Âm, chúng ta không thể hiểu biết Chúa Kitô. Chúng ta suy gẫm và tìm hiểu ý nghĩa của các trình thuật. Khi mở Phúc Âm, bạn hãy nghĩ những điều được viết trong đó – những lời giảng và những việc làm của Chúa Kitô – không chỉ là những điều bạn cần phải hiểu, mà còn phải sống nữa. Tất cả mọi điều được viết trong đó đã được thu thập từng chi tiết một cho bạn, để bạn làm cho chúng sống động trở lại trong cuộc sống của chính bạn. Như các tông đồ, bạn cũng hãy sốt sắng thưa lên, ‘Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?’ Và trong linh hồn, bạn sẽ nghe câu trả lời dứt khoát, ‘Hãy làm theo thánh ý Thiên Chúa!’ Hằng ngày bạn hãy cầm Phúc Âm lên, hãy đọc và sống theo như một qui luật. Đó là điều các vị thánh đã làm.

Chắc chắn thánh Luca thường xuyên suy gẫm những hành vi của Chúa Kitô mà ngài viết lại. Thánh nhân sẽ dạy cho chúng ta biết yêu mến Phúc Âm như các tín hữu thời Giáo Hội sơ khai. Trong Thánh Kinh, chúng ta tìm được lương thực cho linh hồn, bởi vì Phúc Âm là nguồn mạch sự sống tinh thần minh sáng và trường cửu.

 

22. Thánh Luca: Người loan báo Tin Mừng--Nhóm suy niệm BC

(2 Tm 4,10-17; Lc 10,1-9)

Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Luca nói về việc Đức Giêsu sai bảy mươi hai môn đệ ra đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời, đem bình an của Chúa đến cho nhân loại. Khi sai các môn đệ lên đường truyền giáo, Chúa Giêsu cũng cho họ biết rõ tinh thần cần có của người loan báo Tin Mừng; đó là thanh thoát và trung kiên trong thử thách gian khó

Người môn đệ truyền giáo trước hết phải là người thanh thoát với tiền của và sự giàu có. Con tim của họ không được dính bén đến tiền bạc để hoàn toàn thuộc về Chúa. Đây là điều kiện đầu tiên để bắt đầu cuộc hành trình của người truyền giáo. Chúa không muốn họ đi vào con đường giàu sang nhưng là con đường nghèo khó. Nghèo khó đến độ không mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Nếu trong sứ mạng hoạt động có nhiều tiền bạc thì sử dụng nó một cách hữu ích và không ngoan, nhưng không được dính bén. Nếu họ là người dính bén đến tiền bạc thì họ không phải là môn đệ đích thật của Chúa. Thật thế, chính Chúa Giêsu đã từng cảm tình về một người thanh niên giàu có và đạo đức, nhưng anh không thể theo Chúa vì con tim anh còn quá dính bén vào của cải. Vì vậy, nếu chúng ta muốn theo Chúa trên hành trình tuyền giáo thì hãy chọn lối sống nghèo khó, thanh thoát với tiền bạc. Nếu như chúng ta có tiền bạc thì đó là ân huệ của Thiên Chúa ban để bạn phục vụ chứ không phải để hưởng thụ. Người môn đệ loan báo Tin Mừng không sợ cuộc sống nghèo, nhưng ngược lại sẵn sàng sống nghèo giữa những người nghèo để làm chứng cho Tin Mừng.

Thứ đến, người môn đệ phải là người dám hy sinh và bền tâm trong mọi thử thách. Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết rất rõ: Chúa Giêsu sai các môn đệ ra đi như “những con chiên vào giữa bầy sói.” Hành trình truyền giáo của người môn đệ sẽ có nhiều khó khăn thử thách phía trước. Vì vậy, ngoài việc không dính bén đến tiền của họ cần có tinh thần quảng đại hy sinh và bền tâm trước những khó khăn thử thách với niềm tin không sợ hãi và hy vọng vào Tin Mừng của Chúa. Chính thánh Phaolô đã xác tín “trong mọi thử thách tôi sẽ không sợ hãi gì vì Chúa ở cùng và ban sức mạnh cho Ngài. Ngày nay, ở nhiều nơi cũng có nhiều Kitô hữu chịu bách hại vì Tin Mừng và bị vu khống. Việc bách hại của những lời vu khống, của những tin đồn làm nhiều người Kitô hữu thậm chí là cả các Giám mục, Linh muc cũng phải chịu nhiều đau khổ. Chúng là thử thách  đòi hỏi người môn đệ của Chúa phải quảng đại hy sinh bản thân vì ích lợi của Tin Mừng. Đó là tinh thần thứ hai mà Chúa Giêsu đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta. Ngoài thách đố vì bách hại và vu khống ra, người loan báo Tin Mừng còn phải chịu một thử thách nữa đó là sự cô độc. Nhiều lúc họ bị cảm thấy mình bị bỏ rơi hay bị từ chối (x 2Tm 2,16). Trong mọi thử thách đớn đau ấy, nếu người môn đệ có lòng nhiệt huyết và bền tâm sẽ dần cảm nhận được rằng Thiên Chúa luôn ở cùng và thêm sức mạnh cho họ. Tinh thần này cũng chính là tâm tình của Chúa Giê su trên thập giá “Lạy Chúa, sao Cha bỏ rơi con”.

Hôm nay, Giáo Hội kính thánh Luca tác giả sách Tin Mừng. Ngài là một người loan báo Tin Mừng thanh thoát, quảng đại hy sinh, giàu lòng thương xót và trung thành. Ngài chính là bạn đồng hành hay cộng sự viên rao giảng Tin Mừng rất đắc lực của thánh Phaolô. Mừng kính ngài, chúng ta hãy cầu nguyện cho mình có được tinh thần thanh thoát, quảng đại và trung kiên trong việc loan báo Tin Mừng; đồng thời chúng ta cũng hãy cầu nguyện cho Đức Thánh Cha, các Giám Mục, Linh Mục và các nhà truyền giáo để họ có thể biết cách bước đi trên con đường mà Thiên Chúa muốn.

 

23. Thánh Luca viết cho Kitô Hữu dân ngoại

Thánh Luca là người viết phần lớn bộ sách Tân Ước, gồm quyển Phúc Âm thứ ba và Công Vụ Tông Ðồ. Trong hai cuốn này, ngài cho thấy sự song hành giữa đời sống Ðức Kitô và của Giáo Hội. Trong các thánh sử, ngài là người duy nhất thuộc dân ngoại.

Truyền thuyết cho rằng ngài là người Hy Lạp, sinh quán ở Antioch và là người đầu tiên trở lại. Là một thầy thuốc, có lẻ xuất thân từ trường Tarsus và quen biết Phaolô từ lâu. Thánh Phaolô gọi ngài là “người thầy thuốc yêu quý của chúng ta” (Col. 4:14). Có lẽ ngài viết sách Phúc Âm trong khoảng từ năm 70 cho đến 85.

Ngài xuất hiện trong sách Công Vụ trong chuyến hành trình thứ hai của Thánh Phaolô, và ở lại Philippe một vài năm cho đến khi Thánh Phaolô trở về đó trong chuyến hành trình thứ ba, và ngài tháp tùng Thánh Phaolô đến Giêrusalem và ở gần thánh nhân trong thời gian cầm tù ở Ceasarea. Trong hai năm này, Thánh Luca đã có thời giờ để tìm tòi thêm các chi tiết và phỏng vấn những người đã từng gặp Ðức Giêsu. Sau cùng ngài là người đồng hành trung tín đã tháp tùng Thánh Phaolô trong chuyến đi đầy nguy hiểm đến Rôma. Trong thư gửi Timôthê, Thánh Phaolô có nhắc, “Chỉ có Luca là ở với tôi” (2 Tim 4:11).

Người ta không còn biết gì nhiều về quãng đời cuối cùng của thánh nhân. Theo một tác giả thế kỷ thứ II thì người tránh được cuộc bắt bớ của Neron đã giết Phêrô và Phaolô (66) và về lại Hy Lạp sống cuối đời “không vợ không con, chết lúc 84 tuổi ở Beotie, đầy ơn Chúa Thánh Thần”.

Theo một tài liệu khác tìm được ở Constantinople thì Thánh Lucas đã rao giảng Tin Mừng ở Achaie, Beotie và sau làm Giám Mục thành Thébes. Thánh Gaudence ở Brescia đã quả quyết thêm rằng Lucas đã cùng lãnh triều thiên tử đạo với thánh Andrea tại Patras thuộc Achaie. Thánh tích của người hiện còn tại VCTĐ Thánh Giustina ở Padua, nước Ý.

Thánh Lucas đã viết về đời thơ ấu của Chúa Giêsu và Đức Mẹ mà chắc chắn người quen biết. Người ta còn nói người đã vẽ chân dung Đức Mẹ. Thánh nhân là quan thầy các thầy thuốc và họa sĩ

Lời Bàn

Thánh Luca viết cho Kitô Hữu dân ngoại với tư cách của một người dân ngoại. Cuốn Phúc Âm ngài viết chứng tỏ ngài là người giỏi về tiếng Hy Lạp, cũng như nguồn gốc của Do Thái.

Lời Trích

Ðoạn kết của Phúc Âm Thánh Luca: “Sau đó, Người dẫn các ông tới gần Bê-ta-ni-a, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được đem lên trời. Các ông bái lạy Người, rồi trở về Giê-ru-sa-lem mà lòng tràn ngập niềm vui, và họ tiếp tục ở trong Ðền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa” (Luca 24:50-53).

 

24. Sứ điệp khả tín về Nước Thiên Chúa-2020

Trong việc huấn luyện các môn đệ đi truyền giáo, Đức Giêsu vừa dạy, vừa cho thực tập. Trước đây (Lc 9,3-5) Chúa đã sai mười hai Tông đồ đi thực tập truyền giáo. Hôm nay (Lc 10,1-12) Người lại sai bảy mươi hai môn đệ đi thực tập nữa, nghĩa là đi chuẩn bị dân chúng đón nhận Chúa đến.

Tin Mừng hôm nay Thánh Luca muốn nhấn mạnh rằng không riêng gì các Tông Đồ, mà tất cả mọi người đều được Chúa Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng. Việc loan báo Tin Mừng không phải là việc của một cá nhân riêng lẻ, mà là việc của cộng đoàn. Việc đầu tiên người truyền giáo phải làm là “cầu xin”. Thiên Chúa chủ màu gặt, nhận ai vào nước Chúa là quyền của Ngài và là ơn của Ngài. Người rao giảng Tin Mừng vào nhà nào hãy chúc bình an cho nhà ấy, chữa lành các bệnh tật. Khi đi không mang bao bị túi tiền, giày dép. Ở đây Chúa Giêsu nhắc nhở người môn đệ chúng ta về tinh thần nghèo khó đích  thực. Cuộc sống nghèo khó của Chúa Giêsu là một chọn lựa: Ngài đã chọn sinh ra trong nghèo khó, Ngài đã lớn lên trong nghèo khó, và trong ba năm sống công khai Ngài cũng đã chọn lựa nếp sống nghèo khó.

Khi sai các môn đệ lên đường rao giảng Nước Trời, Ngài cũng khuyên dụ các ông hãy sống khó nghèo, và tinh thần siêu thoát. Người Tông đồ ra đi hai tay không, người ta tiếp đón thì ở lại, người ta không niềm nở thì ra đi, rũ bỏ lại mọi thứ bụi trần, đó là hình ảnh của sự siêu thoát mà Chúa Giêsu luôn đòi hỏi ở các môn đệ Ngài: “đừng mang theo túi tiền, bao bị giầy dép, người ta cho ăn uống gì thì hãy ăn thức đó, đừng đi đến hết nhà nọ đến nhà kia” (Mt 10,9-10).

Nghèo khó và siêu thoát là sứ điệp khả tín về Nước Thiên Chúa. Cùng với đòi hỏi về khó nghèo và siêu thoát, Chúa Giêsu xác định rõ ràng nội dung lời rao giảng: “Nước Thiên Chúa đã đến gần”. Nước Thiên Chúa là sản nghiệp và cùng đích của cuộc sống, đương nhiên con người phải đánh đổi tất cả để được vào nước ấy. Chúa Giêsu là hiện thực của nước ấy, vì Ngài đã chọn lựa sinh ra, sống và chết nghèo.

Người môn đệ của Chúa Giêsu cũng được mời gọi sống theo lý tưởng ấy, Giáo hội tiên khởi cũng đã thực hiện từng chữ lời khuyên khó nghèo của Chúa Giêsu.

Ngày nay, người Kitô hữu noi gương Chúa Giêsu cũng phải có tinh thần nghèo khó, đích thực, biết luôn giữ khoảng cách đối với của cải vật chất, biết sử dụng nó như phương thế để tìm kiếm và xây dựng những giá trị Nước Trời, như thực hiện công bằng, bác ái, liên đới, mưu cầu công ích, chia sẻ với người túng thiếu. Bằng bàn tay và trái tim rộng mở, người Kitô cần phải siêu thoát vật chất, để hết tâm lực và thời giờ vào việc tông đồ mở mang nước Chúa để trở thành lời loan báo và dẫn chứng đích thực rằng nước Chúa đang đến.

Một nam tu sĩ thuộc dòng của Mẹ Têrêsa Calcutta nói với Mẹ: “Thưa Mẹ, ơn gọi của con là phục vụ những người cùi. Con nguyện đem tất cả cuộc sống, tất cả năng lực của con để sống ơn gọi ấy”.

Nghe thế Mẹ Têrêsa giải thích: “Thầy lầm rồi, ơn gọi của Thầy là thuộc về Chúa Giêsu, chính Ngài đã chọn Thầy và công việc mà Thầy đang làm chỉ là phương tiện để diễn tả tình yêu của Thầy đối với Ngài mà thôi. Do đó, công việc mà Thầy chọn không quan trọng, điều quan trọng là thuộc về Ngài, là đón nhận từ Ngài, nhưng phương tiện chỉ để phục vụ Ngài”.

Lạy Chúa,  trên hành trình tiến về nhà Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi những ràng buộc của bản thân, của lề thói xã hội, để biết trao ban cho anh em chính Chúa chứ không phải chính con.

 

25. Truyền giáo—2016—Cát biển

Thánh Luca đã tường thuật việc Chúa Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Qua đó cho thấy thánh ý Thiên Chúa muốn việc rao giảng Tin Mừng không chỉ dành riêng cho các tông đồ, mà còn có những người khác cũng được Chúa Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng, họ là những môn đệ được sai đi từng hai người một để cộng tác với nhau, giúp đỡ cho nhau… khi đang thi hành sứ vụ rao giảng (x. Lc 10,1-2).

Hôm nay đây, Chúa Giêsu cũng vẫn đang mời gọi các Kitô hữu  tham gia vào sứ mạng rao giảng Tin Mừng như các môn đệ xưa, trong đó cũng có tôi. Để được là người môn đệ – những cộng tác viên đắc lực của Thiên Chúa – Thiết nghĩ tôi phải biết từ bỏ bản thân, dứt khoát với nếp sống cũ kỹ của con người xác thịt của mình bằng cách tham gia vào việc tông đồ dưới nhiều hình thức, mà Giáo Dân Đa Minh chính là một trong những hình thức đó.

Môn đệ ngày nay cần phải thích nghi với những đòi hỏi của thời đại nhưng cũng không quên nhắc nhở mình phải siêu thoát với của cải vật chất và những hệ lụy của nó.

Vậy truyền giáo là gì, mà tôi cũng được mời gọi thực thi ?

Với tôi: 

Truyền giáo là những việc làm thiết thực để giảm bớt những đau khổ tinh thần và vật chất cho tha nhân.

Truyền giáo là sẵn sàng dấn thân nhập cuộc như “chiên con đi vào giữa bầy sói” dám đương đầu với những gian nguy, thử thách đang chờ đón phía trước; cậy nhờ vào ơn Chúa chứ không phải sức mình và những phương tiện vật chất (túi tiền, bao bị, giày dép…)

Truyền giáo là chiến thắng bạo lực của sự dữ, nhưng không phải bằng bạo lực; mà chính bằng lời tạ ơn và ca tụng Thiên Chúa, bằng cách phó thác cho sự quan phòng của Thiên Chúa, bằng chính sự dịu hiền của Thiên Chúa.

Truyền giáo là một vinh dự được chung phần vào mầu nhịêm thập giá của Đức Kitô.

Truyền giáo là biết chyên cần cầu nguyện xin chủ ruộng sai thêm nhiều thợ đến gặt lúa của Người.

Truyền giáo là biết chu toàn bổn phận của mình mỗi ngày bằng tâm tình mến Chúa, yêu người.

Lạy Chúa, trên hành trình tiến về nhà Chúa, xin giải thoát con khỏi những ràng buộc của bản thân, của lề thói xã hội; để con biết trao ban cho anh em chính Chúa chứ không phải chính bản thân con. Xin Chúa cho con luôn sẵn sàng lên đường, dám lao mình vào nơi bất định trên tinh thần nhẹ nhàng và thanh thoát. Amen.

 

26. Chúa sai tôi đi--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Theo tường thuật của Thánh Luca, Chúa Giêsu đã sai đi rao giảng không phải chỉ nhóm 12 tông đồ mà còn cả nhóm 72 môn đệ nữa. Luca muốn nhấn mạnh rằng không riêng gì các tông đồ, mà tất cả mọi người đều được Chúa Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng. Ngài cũng sai “từng nhóm hai người” như ngầm ngụ ý: việc loan Tin mừng không phải là việc của một cá nhân riêng lẻ, mà là việc của cộng đoàn, không phải là độc quyền của riêng ai, nhưng phải liên đới và liên kết với nhiều người khác.

Nhưng trên hết, trình thuật hôm nay nhắm đến 3 công việc mà người truyền giáo phải biết, đó là:

+ Cầu nguyện: cầu nguyện cho Hội Thánh có nhiều thợ lành nghề theo như lòng Chúa mong muốn.

+ Sống thanh thoát với của cải: vì cái mà người truyền giáo cần có là ơn Chúa chứ không phải là những phương tiện vật chất (túi tiền, bao bị, giày dép…)

+ “Chữa lành các bệnh tật”; Đây là việc làm chính của người truyền giáo. Người truyền giáo phải là người làm giảm bớt đi những đau khổ tinh thần và vật chất nơi tha nhân.

Nhưng xem ra lối sống của người tín hữu hôm nay chỉ nhắm đến việc giữ đạo, sống đạo mà ít quan tâm đến việc truyền giáo. Có mấy ai đã cầu nguyện cho việc truyền giáo? Có mấy ai đã biểu lộ việc truyền giáo bằng việc sống thanh thoát với của cải trần gian và xoa dị nỗi đau cho anh em?

Thành thực mà nói cũng có, nhưng rất ít. Có khi chỉ là một cánh én đơn độc nên vẫn chưa mang lại mùa xuân truyền giáo cho Giáo hội. Ngay cả các sứ giả hôm nay cũng được sai đi nhưng cũng chỉ là để đến với tín hữu, đến với những cộng đoàn có đạo để củng cố niềm tin cho họ, và dường như Giáo hội Việt Nam vẫn chưa có một linh mục được sai đi chỉ để loan báo tin mừng cho dân ngoại. Chính vì thế, rất nhiều linh mục đến với những vùng hẻo lánh, các ngài lại chú trọng việc xây cất cho bằng chị bằng em, nhưng lại thiếu thời giờ để đến với lương dân.

Có lẽ, chính vì thế từ người giáo dân đến linh mục đều chú trọng việc sống đạo nhưng không có sáng kiến mục vụ để thu hút người ngoại đạo, kể chi đến việc mang tin mừng đến cho anh em lương dân. Giáo hội đã quá chú trọng đào tạo nhân sự từ linh mục, tu sĩ, tông đồ giáo dân nhưng đều được tung vào vườn nho để quản lý vườn nho mà không được mang đến cánh đồng truyền giáo bát ngát. Giáo hội cũng tốn kém rất nhiều tiền bạc vào việc đào tạo nhân sự nhưng lại không bao giờ tặng anh em lương dân một tấm hình đạo, một quyển phúc âm… như là một hình thức giới thiệu đạo Chúa cho anh em. Dường như các chủ chăn chỉ loay hoay gìn giữ các con chiên và cũng chẳng mấy khi đi tìm kiếm con chiên lạc trở về, và có lẽ khó mà có thời giờ đến với muôn dân không thuộc đàn chiên của mình.

Hôm vừa rồi, có một cán bộ tôn giáo nói với tôi: “Nếu giáo hội Công giáo không quan tâm đủ đến người dân tộc thiểu số ở trong xứ đạo, coi chừng họ theo Tin Lành hết”. Được biết người tín hữu tin lành họ rất quan tâm đến anh em lương dân của họ. Họ luôn tìm cách tiếp cận và giới thiệu tin mừng cho anh em lương dân. Họ coi đây là việc làm hàng đầu của người tín hữu. Họ không quan trọng việc đi lễ hay các bí tích, nhưng điều quan yếu của họ là làm sao tin mừng đến được với muôn dân.

Giáo hội vẫn nói sứ mạng hàng đầu của Giáo hội là truyền giáo, nhưng xem ra hành vi truyền giáo vẫn chưa cụ thể, vẫn chung chung… Chúa Giê-su không gọi chung chung, Ngài cũng không sai đi chung chung, nhưng Ngài gọi từng người một và sai đi. Ngài sai đi không phải đến một làng, một vùng mà đến các vùng lân cận để rao giảng. Xem ra Giáo hội là truyền giáo nhưng lại thiếu những con người có thể đi đến với những làng lân cận mà rao giảng Nước Thiên Chúa như 72 môn đệ. Không có cuộc ra đi. Không có mùa gặt hái. Không có mùa bội thu. Giáo hội vẫn là thiểu số giữa muôn dân, muôn sắc tộc.

Hôm nay không phải là ngày Khánh Nhật Truyền Giáo nhưng lời Chúa vẫn vang vọng bên tai chúng ta: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”. Lời Chúa vẫn nhắc nhở chúng ta về sứ vụ truyền giáo của Giáo hội, của chúng ta là thành viên của Giáo Hội. Chúa Giê-su vẫn tiếp tục sai chúng ta ra đi gặt lúa của Người. Chúa Giê-su vẫn tha thiết kêu mời chúng ta hãy cầu nguyện cho Giáo hội có thêm thợ lành nghề. Chúa Giê-su vẫn mời gọi chúng ta hãy ra khỏi chính mình để đến với những kẻ bất hạnh lầm than, để xoa dịu nỗi đau cho nhân thế.

Ước gì đời ky-tô hữu chúng ta luôn là một đời truyền giáo bằng gương lành bác ái, bằng lời nói về Chúa cho tha nhân. Xin cho chúng ta luôn thao thức về cánh đồng truyền giáo đang chính vàng, nếu không nhanh tay thì chim trời sẽ ăn hết. Thế nên, mỗi người chúng ta cần thể hiện tinh thần truyền giáo của mình cách cụ thể quá lời nói và việc làm của mình. Amen.

 

27. Truyền giáo

Có một linh mục người Mỹ thuộc dòng Tên, giảng dạy tại một trường đại học Công giáo nổi tiếng tại Phi Luật Tân. Ngày kia, tình cờ vị linh mục này đi vào một khu xóm lao động nghèo nàn và gặp một tu sĩ Tiểu đệ người Bỉ. Sau một hồi trao đổi, linh mục người Mỹ đã hỏi tu sĩ người Bỉ như sau: Anh ở đây làm gì vậy. Tu sĩ người Bỉ trả lời: Tôi đi chợ, nấu ăn, giặt giũ quần áo, tôi sống với những người anh em nghèo trong khu xóm lao động này. Nghe thế vị giáo sư người Mỹ có lẽ như tiếc rẻ cho sự hy sinh lãng phí ấy, nên mới nói về mình như sau: Tôi sang đây là để dạy học và thuyết trình, tôi đi đây đi đó, tôi đào tạo những con người hữu ích cho xã hội.

Qua cuộc đối thoại này, có lẽ chúng ta thấy được những khía cạnh khác nhau của việc truyền giáo trong Hội Thánh. Vị linh mục người Mỹ trên đây là điển hình cho một đội ngũ đông đảo các nhà truyền giáo của Hội Thánh trên khắp thế giới, từ thành thị đến nông thôn, từ học đường đến công sở. Nếu có những nhà truyền giáo hăng say hoạt động rao gảing thì cũng có những nhà truyền giáo âm thầm, sống như những chứng nhân. Tựu trung, hoạt động hay sống âm thầm, cả hai hình thức đều có chung một sứ mạng, đó là làm chứng cho Đức Kitô và nước của Ngài. Cả hai đều được sai đi, cả hai đều bị ràng buộc bởi một đòi hỏi giống nhau, đó là làm chứng cho Nước Trời bằng cuộc sống siêu thoát.

Đây là đòi hỏi cơ bản nhất mà Chúa Giêsu đã đề ra cho các môn đệ khi Ngài sai các ông lên đường rao giảng Tin Mừng. Ngài nói với các ông: Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, áo xống, giày dép và đừng chào hỏi ai dọc đường. Một cuộc sống siêu thoát, không lệ thuộc vào của cải trân gian, đó là biểu hiện tiên quyết cho chứng nhân Nước Trời.

Ra đi không hẳn là rời bỏ quê hương của mình để đến những miền đất xa lạ, nhưng chủ yếu là ra khỏi chính mình, ra khỏi con người ích kỷ của mình để đến với tha nhân trong tinh thần hoà giải, yêu thương và phục vụ. Đó là ý nghĩa của mệnh lệnh Chúa truyền: Vào nhà nào trước tiên các con hãy nói: bình an cho nhà này. Hiện diện giữa tha nhân, hiện diện với tha nhân bằng tinh thần chia sẻ, cảm thông và tha thứ, đó chính là sự ra đi đích thực của nhà truyền giáo. Giáo Hội tự bản chất là truyền giáo.

Là thành phần của Giáo Hội, mỗi người tín hữu, tự bản chất cũng là một nhà truyền giáo. Điều đó có nghĩa là những giá trị của Nước Trời cần phải được thể hiện trong chính cuộc sống giữa chúng ta. Chúng ta phải sống thế nào để những người chung quanh nhìn vào sẽ phải thốt lên sự bỡ ngỡ như những người Do Thái ngày xưa nhìn vào các tín hữu tiên khởi đã phải kêu lên: Kìa xem họ yêu thương nhau dường nào.

Bằng lời nói và nhất là bằng cuộc sống dạt dào yêu thương, chúng ta hãy trở nên là những chứng nhân sống động cho Đức Kitô giữa lòng cuộc đời.

 

28. Truyền giáo--Lm Giuse Nguyễn An Khang

Khi dân một làng Samaria không đón tiếp, Đức Giêsu đã đi sang làng khác. Đức Giêsu đã chỉ định bảy mươi hai môn đệ, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, để mở đường. Thực ra, con số bảy mươi hai đây chỉ là biểu tượng, không phải con số số học. Con số bảy mươi hai là lớn, nhưng thấm vào đâu so với cánh đồng lúa chín mênh mông. Lúa chín vàng không gặt sẽ rụng, khoai quá ngày không cuốc cũng hỏng. Thiếu các thừa sai, con người cũng hư mất.

Để có các Thừa sai, Đức Giêsu đưa ra cho chúng ta một giải pháp, đầu tiên là sự cầu nguyện. Đối với Người, rõ ràng công việc Tông đồ, không phải là công việc của con người như tuyên truyền hay quảng cáo, nhưng là một công việc của Thiên Chúa. Thiên Chúa là chủ, Phaolô trồng, Apôlô tưới. Thiên Chúa làm cho phát triển, vì thế phải cầu nguyện. Cầu nguyện là công việc đầu tiên và cốt lõi của việc Tông đồ.

Công việc Tông đồ được Đức Giêsu gọi với danh hiệu mùa gặt. Mùa gặt, theo truyền thống Kinh thánh được dùng là hình ảnh để nói về thời kỳ sau hết, về sự can thiệp của Thiên Chúa vào thời thế mạc (Ge 4,13 & Mt 13,19 & Kh 14,15-16). Trong Đức Giêsu, thời kỳ sau hết này đã bắt đầu. Đức Giêsu nhìn thấy sự dồi dào của mùa gặt thiêng thánh ấy. Trong mùa gặt ấy, các tín hữu, những môn đệ được sai đi: “Thầy sai anh em đi”, đó là một mệnh lệnh.

Đức Giêsu không che dấu sự khó khăn trong công việc này. Đức Giêsu đã lấy hình ảnh chiên con và bầy sói, để nói lên những khó khăn đó. Vâng, trong công việc truyền giáo, người tín hữu như một con chiên con bị bầy sói tấn công. Vì thế, chúng ta đừng ngạc nhiên khi có nhiều người mất đức tin, do những thất bại to lớn trong việc truyền bá đức tin. Chúng ta cũng đừng gán cho dân ngoại, những lương dân là bầy sói. Thực ra, mọi dân ngoại, mọi người vô tín đều được Chúa yêu thương. Họ là những con chiên bơ vơ, chưa được đưa về đàn. Chúng ta có bổn phận phải đưa họ về, để chỉ có một đàn chiên và một Chủ chiên.

Điều đáng lưu ý, hành trang người truyền giáo phải có, không phải túi tiền, bao bị, giày dép… nhưng là cách sống, trước tiên là nghèo khó. Không nên ỷ lại vào các phương tiện của con người. Đức Giêsu đã không sử dụng các vũ khí quyền lực của sự giàu sang, của vẻ lộng lẫy huy hoàng… Đức Giêsu không ra vẻ trịnh trọng, Người vốn giàu sang đã trở nên nghèo khó. Yêu sách đầu tiên Chúa đòi giáo hội phải theo gương Người, là nghèo khó.

Người truyền giáo cũng không nên mất thời gian vì những cử chỉ lễ phép quá mức và dài dòng, vì những lề thói thế tục. Cũng cần chào hỏi, nhưng đừng để ảnh hưởng đến việc truyền giáo. Việc truyền giáo là việc làm cấp bách. Trong Luca, điều gây ấn tượng mạnh là sứ giả của Tin Mừng chạy khắp nơi. Đức Maria vội vã đi thăm bà Isave, các mục đồng chạy đến máng cỏ, Philiphê chạy để đuổi kịp chiếc xe của một người Ethiôpe (Cv 8,30)….

Đức Giêsu cũng dạy người truyền giáo: “Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: Bình an cho nhà này”. Vâng, sứ mệnh của người truyền giáo là thông ban sự bình an, sự bình an đó chính là Đức Kitô. Tin Mừng cũng chính là điều đó. Người ta chỉ có thể cho người khác cái mình có. Người truyền giáo cũng chỉ thông ban sự bình an của Đức Kitô cho người khác, khi người ấy có. Cũng chỉ ai đáng hưởng, sự bình an của Đức Kitô mới đậu trên người ấy, bằng không sự bình an đó sẽ quay về với nhà truyền giáo.

Về vấn đề ăn uống, nhà truyền giáo không phải bận tâm, hãy ăn những thức ăn người ta dọn cho. Không cần đặt câu hỏi: Thức ăn đó sạch hay dơ? Như thế, Đức Giêsu có ý dạy ta phải có một tâm hồn cởi mở, phóng khoáng đối với tục lệ tập quán của những người khác, chấp nhận các tục lệ văn hoá của các dân tộc mà chúng ta muốn rao giảng Tin Mừng. Nói cách khác là hội nhập văn hoá.

Tuy nhiên, sứ mạng của các môn đệ là rao giảng Nước Thiên Chúa, nói với họ về Triều đại của Thiên Chúa. Triều đại của Thiên Chúa là gì? Chính là Đức Giêsu. Với Đức Giêsu, Thiên Chúa hiển trị, Thiên Chúa ở đó ngay từ bây giờ. Trong Đức Giêsu, Thiên Chúa hoàn thành thế gian. Thế gian sẽ không trường tồn mãi. Lịch sử của nhân loại sẽ có lúc kết thúc. Nhưng sự chấm dứt này, không phải là hư vô. Cùng đích của vũ trụ là chính Thiên Chúa. Thế gian là một cuộc chiến đấu, Chính nghĩa Thiên Chúa sẽ thắng. Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Thánh ý của Thiên Chúa sẽ là điều tốt lành trọn vẹn của con người: Sự chữa trị các bệnh tật là một dấu chỉ của thánh ý ấy. Như Lời Chúa nói: “Anh em hãy chữa lành những người đau yếu trong thành, vì Triều đại Thiên Chúa đã đến”. Triều đại đó luôn được các môn đệ, các tín hữu công bố, dù người ta tin hay không, một ngày kia Thiên Chúa sẽ hiển trị. Đó là ngày phán xét. Dĩ nhiên những người ngoan cố chối từ, trong ngày ấy, họ sẽ bị trừng phạt hơn thành Sôđôma.

Bảy mươi hai môn đệ ra đi, trở về hân hoan, vì những thành công của họ, ngay cả ma quỷ cũng phải khuất phục. Đức Giêsu bảo họ: Điều đáng mừng hơn, đó là tên họ đã được ghi trên trời.

 

29. Chúa sai tôi đi--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Ta thường nghĩ rằng: Việc truyền giáo là dành cho các Giám mục, các Linh mục, Tu sĩ. Giáo dân không được học hỏi gì nhiều làm sao có thể truyền giáo được? Truyền giáo phải có nhiều phương tiện vật chất. Thiếu phương tiện không có thể làm gì được. Đó là những quan niệm sai lầm mà Chúa vạch cho ta thấy trong bài Tin Mừng hôm nay.

Chúa Giêsu cho ta thấy truyền giáo là công việc của mọi người khi Người sai 72 môn đệ lên đường. Mười hai Tông đồ có tên tuổi rõ ràng. Đó là thành phần ưu tuyển. Đó là các Giám mục, Linh mục, Tu sĩ. Còn 72 môn đệ không có tên tuổi rõ ràng. Đó là một đám đông không xác định. Đó là tất cả mọi người giáo dân. Khi sai 72 môn đệ, Chúa Giêsu muốn huy động tất cả mọi người thuộc đủ mọi thành phần tham gia vào việc truyền giáo.

Giáo dân tham gia vào việc truyền giáo bằng cách nào? Trước hết phải ý thức sự cấp thiết của việc truyền giáo: “Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt”. Lúa đã chín vàng, phải nhanh chóng gặt về không được chậm trễ, nếu không lúa sẽ hư hỏng. Biết bao anh em đang chờ đợi được nghe Lời Chúa. Biết bao anh em đang tìm kiếm Chúa. Biết bao tâm hồn đang mở cửa đón Chúa. Ta phải mau mắn để khỏi lở mất cơ hội.

Thứ đến ta phải cầu nguyện. Sau khi đã chỉ cho thấy đồng lúa chín vàng, Chúa Giêsu không bảo lên đường ngay, nhưng Người dạy phải cầu nguyện trước. Cầu nguyện là nền tảng của việc truyền giáo. Vì truyền giáo phát xuất từ ý định của Thiên chúa. Ơn hoán cải tâm hồn là ơn Chúa ban. Nên cầu nguyện chính là truyền giáo và kết quả của việc truyền giáo bằng cầu nguyện sẽ rất sâu xa. Ta hãy noi gươngThánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu. Vị Thánh sống âm thầm, suốt đời chôn vùi trong 4 bức tường Dòng Kín. Thế mà nhờ lời cầu nguyện, Thánh nữ đã đem được nhiều linh hồn về với Chúa không kém thánh Phanxicô Xaviê, người suốt đời bôn ba khắp nơi để rao giảng Lời Chúa.

Khi đi truyền giáo, hãy trông cậy vào sức mạnh của Chúa. Chúa dạy ta: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép” để ta biết sống khó nghèo. Để ta đừng cậy dựa vào tài sức riêng mình. Để ta đừng cậy dựa vào những phương tiện vật chất. Biết mình nghèo hèn yếu kém, biết những phương tiện vật chất chỉ có giá trị tương đối, ta sẽ biết trông cậy vào sức mạnh của Chúa. Chính Chúa sẽ làm cho việc truyền giáo có kết quả.

Sau cùng, truyền giáo là đem bình an đến cho mọi người. Niềm bình an đến từ thái độ quên mình, sống chan hoà với những người chung quanh. Niềm bình an đến từ sự hiệp thông, có cho đi, có nhận lãnh. Và nhất là, niềm bình an vì được làm con cái Chúa, luôn sống dưới ánh mắt yêu thương của Chúa.

Như thế việc truyền giáo hoàn toàn nằm trong tầm tay của mọi người giáo dân. Mọi người đều có thể ý thức việc truyền giáo. Mọi người đều có thể cầu nguyện. Mọi người đều có thể trông cậy vào Thiên chúa. Và mọi người đều có khả năng cho đi, nhận lãnh, sống chan hoà với người khác

Như thế mọi người, từ người già tới em bé, từ người bình dân ít học đến những bậc trí thức tài cao học rộng, từ người khoẻ mạnh đến những người đau yếu bệnh tật, tất cả đều có thể làm việc truyền giáo theo ý Chúa muốn.

Hôm nay, Chúa đang than thở với mọi người chúng ta: “Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt”. Chúng ta hãy bắt chước tiên tri Isaia thưa với Chúa: “Lạy Chúa, này con đây, xin hãy sai con đi”.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Bạn có thấy việc truyền giáo là cấp thiết không?

2- Theo ý bạn, muốn truyền giáo thành công trong vùng này, người tông đồ cần có những đức tính nào?

3- Bạn có bao giờ cầu nguyện cho việc truyền giáo, cho người làm việc truyền giáo, cho những người chưa biết Chúa ở chung quanh bạn không?

4- Bạn đã bao giờ tham gia vào việc truyền giáo trong Giáo xứ, trong Giáo phận chưa?

13. Mênh mông lúa đồng – Thiên Phúc

(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)

Một buổi tối nọ, ông John Keller, một diễn giả nổi tiếng được mời thuyết trình trước khoảng một trăm ngàn người tại vận động trường Los Angeles. Đang diễn thuyết, bỗng ông dừng lại và nói: “Xin các bạn đừng sợ. Tôi sắp cho tắt tất cả đèn trong sân vận động này”.

Đèn tắt, sân vận động chìm sâu trong bóng tối dày đặc. Ông John Keller nói tiếp: “Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm tôi đốt thì hãy kêu lớn lên: “Đã thấy!” Một que diêm được bật lên, cả vận động trường vang lên “Đã thấy!”

Sau khi đèn được bật sáng, ông John Keller giải thích: “Anh sáng của một hành động nhân ái nhỏ như một que diêm sẽ chiếu sáng trong đêm tăm tối của nhân loại y như vậy”.

Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại tắt. Một giọng nói vang lên ra lệnh: “Tất cả những ai có mang theo hộp quẹt, xin hãy đốt cháy lên!” Bỗng chốc, cả vận động trường rực sáng.

Ông John Keller kết luận: “Tất cả chúng ta hợp lực cùng nhau, có thể chiến thắng bóng tối, sự dữ và oán thù bằng những đốm sáng nhỏ của tình thương và lòng tốt của chúng ta”.

Đã qua hơn 2000 năm những lời dạy của Chúa Giêsu vẫn như đang nói với chúng ta hôm nay: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít”. Thế giới có trên 6 tỉ người, mà kẻ tin vào Chúa mới chỉ hơn một tỉ. Riêng tại Á Châu, chiếm 2/3 dân số thế giới, nhưng người Công giáo chỉ không tới 3/o.

Cánh đồng lúa mênh mông còn bị bỏ hoang không thợ gặt hái. Thế giới này dường như vẫn còn mò mẫm trong bóng đêm dày đặc của sự dữ, của tranh chấp, của oán thù; rất cần những đốm sáng của tình thương, của khoan dung, của tha thứ. Thế nên, không lạ gì Chúa Giêsu đã nói: “Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con vào giữa bầy sói”.

“Ra đi” chứ không phải “ở lại”, đó là một lệnh truyền. Cả cuộc đời của Thầy là một hành trình: Sinh ra ngoài đường, sống và rao giảng ngoài đường, cuối cùng chết cũng ngoài đường. Thầy luôn lên đường và không ngừng ra đi. Công đồng Vaticanô II cũng long trọng khẳng định: “Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành phải truyền giáo”. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng qủa quyết: “Không một ai trong những người tin vào Đức Kitô, không một tổ chức nào trong Giáo Hội được miễn khỏi trách vụ cao cả này: Đó là loan báo Đức Kitô cho mọi dân tộc”

Vậy ơn gọi của người tín hữu Kitô là “ra đi”.

Ra đi đem “bình an” đến cho các dân tộc, bình an giữa mọi người với nhau, bình an với Chúa.

Ra đi chữa lành bệnh nơi thể xác cũng như trong tâm hồn.

Ra đi loan báo Nước Thiên Chúa đã đến gần, nước tình yêu và ân sủng, nước công chính và bình an.

Thánh Phaolô đã phải thốt lên: “Khốn cho thân tôi: nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”. Nhưng việc làm mới chứng thực cho lời rao giảng, và lời rao giảng sẽ soi sáng cho việc làm. Ra đi là để làm chứng, và lời chứng sáng giá nhất chính là việc làm. Đúng như L. Moody đã nói: “Các ngọn hải đăng không thổi còi ầm ỉ, chúng chỉ chiếu sáng”.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa sai chúng con ra đi không mang theo túi tiền, bao bị, giày dép, là để chúng con được siêu thoát mà lên đường, không cậy dựa vào sức riêng hay trần thế, nhưng chỉ phó thác nơi một mình Chúa mà thôi.

Xin cho chúng con luôn tin tưởng lên đường, dám sống chết cho sứ mạng Chúa đã trao ban. Amen.

 

30. Nghịch lý--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền--‘Cùng Nhau Suy Niệm’

Nghịch lý của thời đại chúng ta đó là:

Đường phố rộng hơn, quan điểm lại hẹp hòi hơn

Chúng ta giành nhiều hơn nhưng lại có ít hơn

Mua sắm nhiều hơn nhưng hưởng thụ lại ít hơn

Chúng ta có những tòa nhà đồ sộ hơn nhưng gia đình lại bé nhỏ hơn.

Cuộc sống tiện nghi hơn nhưng ít thời gian nhàn rỗi hơn

Bằng cấp nhiều hơn nhưng giá trị lại ít hơn

Hiểu biết nhiều hơn nhưng nhận xét lại kém hơn

Nhiều nhân tài hơn nhưng ít sáng tạo hơn

Chúng ta sở hữu nhiều hơn nhưng nhân cách giảm nhiều hơn

Chúng ta nói quá nhiều, yêu thương thì quá ít và ghen ghét lại nhiều hơn

Chúng ta biết cách mưu sinh nhưng không biết tạo dựng cuộc sống

Chúng ta sống thọ hơn nhưng sống ít ý nghĩa hơn

Chúng ta làm được những điều cao sang nhưng lại không làm được điều đơn giản với đồng loại.

Vâng, cuộc sống xem ra tiến bộ hơn nhưng đáng tiếc chúng ta lại đang đánh mất nhiều hơn. Mất tình gia đình, mất tình bạn, mất tình làng nghĩa xóm. Cái mất lớn nhất của thời đại hôm nay chính là mất niềm vui của sự bình an tâm hồn. Vì cuộc đời hôm nay có quá nhiều những rủi ro, có quá nhiều những căng thẳng, những bất trắc khiến con người hôm nay dù có nhiều tiền, nhiều của, nhiều vật chất nhưng lại có rất ít những giây phút thư thái bình an. Cuộc đời luôn đong đầy những lo toan khiến con người hôm nay luôn phải sống trong cảnh đối phó với những nghịch cảnh có thể đưa tới. Bên cạnh sự vật lộn với cuộc sống quá nhiều khó khăn, sự bươn chải để tìm miếng cơm manh áo, cuộc sống chung quanh lại còn quá nhiều những sự dữ bủa vây như muốn nhậm chìm con người. Những tệ nạn xã hội như: xì ke, ma tuý, mại dâm,… luôn là những cạm bẫy có thể xâm chiếm và làm mất đi sự bình an nơi các gia đình. Thực tế, đã có biết bao gia đình khô cạn nước mắt vì một đứa con đang lao vào con đường xì ke, ma tuý; đã có biết bao gia đình tan nát vì lối sống buông thả, phóng túng của những người chồng thiếu trách nhiệm; đã có biết bao gia đình đang u sầu vì những quan hệ bất chính của những người cha, người mẹ đang làm gương mù gương xấu cho đàn con. Sự dữ dường như đang khống chế con người hôm nay. Sự dữ dường như đang làm chủ xã hội hôm nay khiến con người luôn cảm thấy bất an và lo sợ.

Cách đây hơn 2000 năm, Chúa Giêsu cũng nhìn thấy sự dữ đang hoành hành. Sự dữ đang gây nên những đau khổ, đổ vỡ, mất mát cho biết bao con người. Sự dữ luôn làm cho con người lo sợ, bất an. Chúa đã sai các môn đệ ra đi trong tình trạng khẩn trương và cấp bách. Cấp bách đến độ không cần chuẩn bị những hành trang bên mình như giầy, dép, bao bị,… Chúa muốn các môn đệ hãy ưu tiên cho việc đem Tin Mừng đến cho muôn người. Tin Mừng mà Chúa muốn các môn đệ đem đến cho nhân trần chính là đẩy lùi sự dữ và kiến tạo bình an cho các tâm hồn. Chúa bảo với các môn đệ hãy mang bình an của Chúa đến cho muôn người. Bình an của những con người thoát khỏi sự thống trị của sự dữ khi đón nhận tin mừng Nước Trời. Bình an sẽ được tặng ban khi Triều đại Nước Thiên Chúa thống trị địa cầu.

Lời mời gọi đó dường như vẫn đang cấp bách trong thời đại hôm nay. Một thời đại có quá nhiều sự dữ. Một thời đại của sự hưởng thụ, ích kỷ đã biến con người thành sự dữ đang giết chết bản thân và tha nhân. Chúa vẫn đang tha thiết mời gọi mỗi người chúng ta hãy chung tay góp sức đẩy lùi sự dữ ra khỏi gia đình, khỏi môi trường chúng ta sống. Hãy nói không với tội lỗi. Hãy tránh xa những cám dỗ tội lỗi. Hãy sống ngay lành để có niềm vui của sự bình an trong tâm hồn, và trao ban bình an cho tha nhân.

Nguyện xin Chúa là hoàng tử bình an ban bình an đến cho mỗi người chúng ta để nhờ đó chúng ta cũng biết trao ban bình an cho nhau. Xin cho mỗi người chúng ta cũng trở thành những sứ giả bình an cho thế giới hôm nay. Amen.

 

31. Phúc âm hoá bản thân mình trước hết--‘Cùng Đọc Tin Mừng’--Lm. Ignatiô Trần Ngà

Một triết gia Ấn Độ đã nhìn lại quãng đời đi của mình như sau: Lúc còn trẻ, tôi là một người có đầu óc cách mạng. Lời cầu nguyện duy nhất mà tôi dâng lên Thượng Đế là: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để thay đổi thế giới.

Đến tuổi trung niên, tôi mới nhận thấy rằng một nửa đời tôi đã qua đi mà tôi chưa thay đổi được một người nào. Lúc đó, tôi mới cầu nguyện với Thượng Đế: Lạy Chúa, xin ban cho con ơn được biến cải tất cả những người con đã gặp gỡ hằng ngày, nhất là gia đình con, bạn bè con. Làm được như thế là con mãn nguyện rồi.

Nhưng giờ đây, cuộc đời đã về chiều, tôi mới nhận thức rằng tôi đã khờ dại biết bao: làm sao biến đổi cuộc đời người khác khi ta chưa biến đổi được bản thân ta. Thế nên giờ này, tôi chỉ còn biết cầu nguyện như sau: Lạy Chúa, xin ban cho con ơn được thay đổi chính con.

* * *

Cải thiện bản thân là điều kiện tiên quyết, là việc phải làm trước hết để có thể thay đổi những người chung quanh, đúng như Khổng Tử dạy: “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.” (theo “Lẽ sống”)

Tương tự như thế, khi được mời gọi phúc âm hoá thế gian, chúng ta phải lo Phúc Âm hoá bản thân chúng ta trước, rồi chúng ta mới có thể Phúc Âm hoá người khác sau.

Cầu cho ai được sai đi?

Trước khi sai 72 môn đệ ra đi, Chúa Giêsu dặn các ông: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về”.

Xin chủ mùa sai ai đây?

Khi cầu xin ơn bình an, sức khoẻ và may mắn, thì chúng ta cầu cho bản thân ta trước; còn khi cầu cho có người làm thợ gặt trong cánh đồng của Chúa, thì chúng ta cầu Chúa ban ơn đó cho mọi người khác, ngoại trừ ta!

Dù muốn dù không thì đa số trong chúng ta đây đã là thợ gặt bẫm sinh rồi, vì ngay từ thơ ấu, khi được lãnh bí tích rửa tội, chúng ta đã trở nên chi thể của Chúa Giêsu, nên đã được thông dự vào sứ vụ tiên tri, tức sứ vụ loan Tin Mừng của Chúa Giêsu rồi. Vậy thì phải loan Tin Mừng, phải làm thợ gặt thôi, không thể nào thoái thác được, trừ phi chúng ta tự tách lìa mình khỏi Thân Thể Chúa.

Là thợ gặt của Thiên Chúa, chúng ta cũng được sai đi để loan Tin Mừng Nước Thiên Chúa, để đẩy lùi quyền lực của ma quỷ như 12 tông đồ và 72 môn đệ xưa.

Ai là người cần được rao giảng trước tiên?

Giáo điểm đầu tiên cần được truyền giảng Tin Mừng là chính bản thân chúng ta và gia đình chúng ta.

Dù mang danh là Kitô-hữu, đôi khi chúng ta còn xa lạ với Tin Mừng. Xa lạ với Tin Mừng vì chúng ta chưa đọc hết Tin Mừng và chưa từng khám phá kho tàng khôn ngoan ẩn dấu trong đó.

Xa lạ với Tin Mừng vì đời sống chúng ta và những giáo huấn của Tin Mừng còn cách biệt nhau rất xa!

Nếu Tin Mừng của Chúa Giêsu chưa sáng lên trong cuộc đời ta, trong tim ta, trong lòng ta… thì làm sao ta có thể đem lửa Tin Mừng ấy thắp lên cho người khác được. Không ai có thể cho điều mình không có. Lý do của việc thất bại trong công cuộc loan Tin Mừng là ở đó.

Thế nên, chính bản thân mỗi người chúng ta phải được phúc âm hoá trước, rồi ta mới có thể phúc âm hoá người khác sau.

Ai là người cần được xua trừ ma quỷ trước tiên?

Sứ mạng thứ hai mà Chúa Giêsu uỷ thác cho các môn đệ khi đi loan báo Tin Mừng là giải thoát con người khỏi quyền lực của Sa-tan.

Chưa bao giờ quyền lực Sa-tan trở nên khủng khiếp và mãnh liệt như trong thế kỷ nầy. Ma quỷ đã tận dụng mọi phương tiện truyền thông như sách báo, văn chương nghệ thuật, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình, internet, âm nhạc, hội họa… để nô dịch hoá con người, đưa nhiều người vào trong cạm bẫy và tội lỗi.

Ma quỷ đang hoành hành khắp nơi trên thế giới, nhưng trước hết ma quỷ cũng đang chi phối mỗi người chúng ta. Phải nhận rằng nhiều lần bản thân chúng ta cũng đã bị ma quỷ xô đẩy làm điều sai trái đáng trách.

Vậy thì trước khi giải thoát người khác khỏi tai ách Sa-tan, chúng ta phải lo giải thoát mình trước.

Vậy người đầu tiên cần được giải thoát khỏi quyền lực ma quỷ lại cũng là chính chúng ta.

* * *

Qua Tin Mừng hôm nay, thánh Luca thuật lại cho chúng ta biết sau cuộc hành trình truyền giáo ngắn ngày, 72 môn đệ vui vẻ trở về báo cáo với Chúa Giêsu những thắng lợi vẻ vang: “Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con”.

Xin Chúa giúp chúng ta cũng đạt được những thắng lợi vẻ vang như vậy ngay trên chính cuộc sống của mình.

 

32. Phúc âm hoá bản thân mình trước hết--Lm. Ignatiô Trần Ngà

Người chủ ruộng sẽ rất lo âu và sốt ruột khi nhìn thấy đồng lúa mênh mông bát ngát của mình đang vào thời kỳ chín rục mà chẳng tìm đâu ra thợ gặt để thu hoạch lúa về.

Chúa Giêsu cũng cảm thấy tâm hồn nôn nao xao xuyến khi phần đông nhân loại đang cần được cứu độ một cách khẩn thiết, nhưng chẳng mấy ai dấn bước đem ơn cứu độ cho họ.

Thế nên, khi sai 72 môn đệ ra đi, Chúa Giêsu căn dặn các ông: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ ruộng sai thợ ra gặt lúa về.” Lời căn dặn nầy hôm nay cũng được lặp lại với mỗi người chúng ta.

Đáp lời Chúa mời gọi, chúng ta sẵn sàng cầu xin có thêm thợ gặt, nhưng vấn đề là chúng ta sẽ cầu cho ai đi làm thợ gặt đây?

Ai là thợ gặt của Chúa?

Khi cầu xin ơn bình an, sức khoẻ và may mắn, thì chúng ta cầu cho bản thân ta trước; còn khi cầu cho có người làm thợ gặt trong cánh đồng của Chúa, thì chúng ta cầu Chúa ban ơn đó cho những người khác, ngoại trừ ta!

Nhưng, dù muốn dù không thì chúng ta đã là thợ gặt chính danh ngay từ khi được lãnh Bí Tích Thánh Tẩy. Nhờ Bí Tích nầy, chúng ta trở nên chi thể của Chúa Giêsu, nên được thông dự vào chức vụ ngôn sứ, tức sứ vụ loan Tin Mừng của Người. Vậy thì trách nhiệm ‘gặt lúa’ là trách nhiệm của chúng ta, không thể thoái thác được, trừ phi chúng ta tự tách lìa mình khỏi Thân Thể Chúa.

Là thợ gặt của Thiên Chúa, chúng ta cũng được sai đi để loan Tin Mừng Nước Trời, để đẩy lùi quyền lực của ma quỷ như 12 tông đồ và 72 môn đệ xưa.

Ai là người cần được rao giảng trước tiên?

Đứng trước đồng lúa mênh mông, thợ gặt không biết phải bắt đầu từ đâu? Nói khác đi, phải loan Tin Mừng cho ai trước hết?

Giáo điểm đầu tiên cần được rao giảng Tin Mừng là thế giới nội tâm của chúng ta, vì dù mang danh là ki-tô-hữu nhưng có thể chúng ta còn xa lạ với Tin Mừng.

Xa lạ với Tin Mừng vì chúng ta chưa đọc hết bốn Tin Mừng và chưa từng khám phá kho tàng khôn ngoan chứa đựng trong đó.

Xa lạ với Tin Mừng vì đời sống chúng ta và những giáo huấn của Tin Mừng còn cách biệt rất xa!

Nếu Tin Mừng của Chúa Giêsu chưa sáng lên trong cuộc đời ta, chưa bừng cháy trong tim ta… thì làm sao chúng ta có thể đem lửa Tin Mừng ấy thắp lên cho người khác được. Không ai có thể cho điều mình không có.

Thế nên, chính bản thân chúng ta phải được phúc âm hoá trước, rồi ta mới có thể phúc âm hoá tha nhân.

Ai là người cần được xua trừ ma quỷ trước tiên?

Sứ mạng thứ hai mà Chúa Giêsu uỷ thác cho các môn đệ song song với việc loan báo Tin Mừng là giải thoát con người khỏi quyền lực của Sa-tan.

Chưa bao giờ quyền lực Sa-tan trở nên khủng khiếp và mãnh liệt như trong thế kỷ nầy. Ma quỷ đã tận dụng mọi phương tiện truyền thông như sách báo, văn chương nghệ thuật, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình, internet, âm nhạc, hội họa… để lôi cuốn nhiều người vào cạm bẫy và tội lỗi.

Ma quỷ đang hoành hành khắp nơi trên thế giới, nhưng cũng phải nhận rằng ma quỷ cũng đang chi phối mạnh mẽ cuộc đời chúng ta, đang lôi kéo chúng ta làm nhiều điều sai trái.

Một người đang mang xiềng xích không thể giải thoát được ai. Vậy thì trước khi giải thoát người khác khỏi ách Sa-tan, chúng ta phải tự giải thoát mình trước.

Vậy người đầu tiên cần được giải thoát khỏi quyền lực ma quỷ lại cũng là chính chúng ta.

***

Lạy Chúa Giêsu,

Qua Tin Mừng hôm nay, thánh Lu-ca thuật lại cho chúng con biết sau cuộc hành trình truyền giáo ngắn ngày, 72 môn đệ vui vẻ trở về báo cáo với Chúa nhiều thắng lợi vẻ vang: “Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con.” (Lc 10,17)

Xin Chúa giúp chúng con là những người được Chúa sai đi thi hành sứ vụ, cũng đạt được những thắng lợi vẻ vang như vậy ngay trên chính cuộc sống của mình.

 

33. Hãy đi giảng dạy--‘Niềm Vui Chia Sẻ’

“Hãy đi giảng dạy!”. Đó là câu châm ngôn của Đức Tổng Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn Bình mà Giáo Hội Việt Nam nói chung và Tổng Giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng đã cử hành đại tang lễ. Ngay từ ngày thụ phong giám mục, Đức Tổng Giám Mục đã chọn cho mình câu châm ngôn “Hãy đi giảng dạy” cũng là mệnh lệnh truyền giáo của chính Chúa Giêsu. Đức Tổng Giám mục là một Giám mục truyền giáo. Quả thật, 40 năm kể từ ngày thụ phong Giám mục cho đến lúc từ trầ, Ngài đã thể hiện câu châm ngôn sống: “Hãy đi giảng dạy”. 40 năm, con đường thật dài và khúc khuỷu. Khúc khuỷu vì những biến động của thời đợi, khúc khuỷu vì những đổi thay của thể chế xã hội, chính trị và kinh tế. Và khúc khuỷu của lòng người vốn khó thăm dò. Nhưng dẫu khó khăn và khúc khuỷu đến đâu, Ngài vẫn Đi. Đi trong suy tư và cầu nguyện. Đi bằng thái độ hiền hòa, khiêm tốn và kiên nhẫn. Đi trong tin tưởng và phó thác. Và Đi để Giảng dạy. Vì xác tín rằng, ẩn bên trong những khúc khuỷu của thời đại và lòng người, vẫn là khát vọng được sống, sống mãnh liệt và phong phú. Và cũng xác tín rằng chỉ có Đức Kitô mới là Đấng đáp trả và đong đầy khát võng sống mãnh liệt ấy, nên Ngài không ngừng nỗ lực giới thiệu Đức Kitô cho mọi người.

Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng là một Giáo hoàng truyền giáo. Ngài đã ra khỏi giáo triều ở Rôma nhiều nhất để đi đến với muôn dân trên khắp năm châu. Đến đâu Ngài cũng luôn rao giảng Tin Mừng Đức Kitô cho mọi người. Những chuyến công du mục vụ ấy đã cho Ngài thấy rằng: Mệnh lệnh “Hãy đi rao giảng Tin Mừng” của Chúa Giêsu chưa được các Kitô hữu thi hành. Đối với Đức Thánh Cha, vấn đề cấp bách là: phải đem Tin Mừng đến cho những vùng đất mênh mông chưa biết Chúa. Phải tái Phúc Âm hóa những vùng đất xa xưa đã một lòng tôn thờ Chúa nhưng nay đã lơ là, bỏ Chúa. Phải đem Tin Mừng thấm nhập các sinh hoạt xã hội loài người.

“Lúa chín đầy đồng, thợ gặt quá ít”. Một nhận định vừa hân hoan vừa báo động. Đối với chúng ta hôm nay là một lời báo động, vì nếu lúc chín vàng đồng mà gặt không kịp, lúa sẽ rụng hết. Một thực tế bi đát vì tình trạng thiếu thợ gặt so với cánh đồng lúa chín vàng bát ngát. Mười hai Tông đồ được sai đi, rồi lại thêm 72 môn đệ nữa, cũng chưa đáp ứng đủ yêu cầu. Các Giám mục, các linh mục, rồi các tu sĩ nam nữ cũng còn quá ít, cần phải có sự tiếp tay của các giáo dân nữa.

Vào tháng 10 năm 1987, Thượng Hội Đồng Giám mục thế giới đã khai mạc tại Rôma. 232 Giám mục từ khắp năm châu kéo về Rôma để cùng nhau nghiên cứu vấn đề “ơn gọi và sứ mạng của người giáo dân trong Giáo Hội và trong thế giới ngày nay”. Vì là vấn đề liên quan đến giáo dân, nên bên cạnh các Giám mục, người ta còn thấy có 53 giáo dân: 27 nam và 26 nữ. Nếu chúng ta đối chiếu 12 Tông đồ với các Giám mục thì sự hiện diện của 27 ông và 26 bà trong Thượng Hội Đồng Giám mục thế giới ở Rôma là một sự kiện mới mẻ, như trong Tin Mừng hôm nay: “Chúa Giêsu chọn thêm 72 môn đệ nữa”. Từ Thượng Hội Đồng nầy, một tông huấn mang tựa đề: “Ngừoi Kitô hữu giáo dân” đã được công bố. Trong đó, Đức Thánh Cha nói: “Giáo dân, vì là thành phần của Giáo Hội, nên mang ơn gọi và sứ mạng loan báo Tin Mừng. Các bí tích khai tâm kitô giáo và các ân huệ của Chúa Thánh Thần đã trang bị khả năng và thúc giục họ thi hành sứ vụ của mình” (số 33). Đức Thánh Cha còn nói: “Chắc chắn rằbg: mệnh lệnh của Chúa Giêsu ‘Hãy đi loan báo Tin Mừng’ vẫn mang giá trị trường tồn và đặt ra một cách cấp bách. Tuy nhiên, tình trạng hiện nay trong thế giới, đang đòi hỏi tuyệt đối phải thực thi mệnh lệnh của Chúa một cách khẩn trương và quảng đại hơn. Một người môn đệ đích thực của Chúa Kitô không có quyền từ chối lời đáp trả của riêng mình: “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9,16). Cho hay, cái mới mẻ trong việc thực thi cuộc loan báo Tin Mừng là tất cả toàn dân Chúa, không phân biệt nam nữ, già trẻ, giàu nghèo, mạnh yếu. Tất cả đều được sung vào việc tông đồ truyền giáo.

Trước tình trạng khẩn trương ngày nay, chúng ta đâu có quyền trông đợi những vị truyền giáo ở các nước ngoài đến giảng đạo cho chúng ta như ngày xưa đã đến giảng đạo cho ông bà chúng ta. Giờ đây, chính những linh mục đã được chọn giữa chúng ta cũng chưa bù đắp được gì cho số người đông đúc và đa dạng ngày nay. Vì thế, Đức Thánh Cha hô hào: “Giá dân ngày nay phải dấn thân vào công tác truyền giáo của Giáo Hội”. Thượng Hội Đồng Giám Mục đã định nghĩa vị thế độc đáo của người giáo dân giữa lòng Giáo Hội và giữa thế giới bằng hai mệnh đề như sau: “Giáo dân là ‘ người của Giáo Hội’ trong lòng thế giới”. “giáo dân là ‘người của thế giới’ trong lòng Giáo Hội”. Là người của Giáo Hội, người giáo dân phải đem Giáo Hội và Chúa Giêsu vào trong thế giới. Và là người của thế giới, giáo dân phải đem thế giới đến cùng Giáo Hội và Chúa Kitô.

Tông huấn “người Kitô hữu Giáo Dân” vẫn nhắc lại sắc lệnh Tông Đồ Giáo Dân của Công Đồng Vatican II để kêu gọi giáo dân ý thức nhiệm vụ làm tông đồ trong môi trường của mình. Chính người tín-hữu-thương-gia, tín-hữu-công-nhân phải đem Chúa đến và làm gương sáng cho anh em mình nơi đồng ruộng, ngoài thị trường, trong cơ quan xí nghiệp của mình. Hãy coi nơi mình đang ở, chỗ mình đang làm việc là những nơi Chúa sai mình đến “như chiên ở giữa đàn sói”, không phải để bị sói vồ chụp cắn xé, nhưng để biến sói thành chiên; không phải lấy sức mạnh đọ lại với sức mạnh, không phải dùng mưu mô đối lại với mưu mô, nhưng khí giới của chúng ta là khí cụ bình an và hiên hòa, theo gương cuộc sống của Đức Cố Tổng Giám Mục của chúng ta. Bởi vì Chúa không cho những người được sai đi mang theo gì cả, không được dự trữ tiền của hoặc võ trang tối thiểu để đối phó với mọi tình huốc trắc trở. Chúa muốn chúng ta phải đến với những người anh em mình một cách đơn sơ chân thành, không băn khoăn bối rối, không rào trước đón sau. Hơn nữa, còn phải loan báo Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh tật, nghĩa là phải lo cho anh em phần hồn, phần xác. Đi đến với người mạnh cũng như kẻ yếu; quan tâm đến tinh thần và cả đến đời sống vật chất nữa. Như vậy tức là để ý đến con người toàn diện và tất cả mọi người. Các người chung quanh chúng ta, bà con hàng xóm láng giềng, các bạn đồng nghiệp của chúng ta trong cơ quan, xí nghiệp nhất định sẽ tin vào Chúa Kitô, nếu chúng ta loan báo Chúa Kitô với tinh thần dịu hiền, vô vụ lợi, hoàn toàn phục vụ, phó thác vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Mọi người sẽ tin vào chứng ta của chúng ta khi thấy chúng ta sống yêu thương nhau, cộng tác với nhau cách chân tình, không ganh tị và định kiến, biết tôn trong chân lý và công bình, sẵn sàng phục vụ lợi ích chung của đồng bào và đất nước. Nhờ sự hiện diện và hoạt động tích cực giữa đời như vậy, anh chị em sẽ làm sáng danh Chúa và góp phần hữu hiệu vào việc xây dựng Nước Trời. Sống như thế, anh chị em mới có lý do chính đáng để hân hoan vui mừng, vì như Chúa đã bảo đảm: “Anh chị em hãy vui mừng vì tên tuổi anh chị em sẽ được ghi đậm nét ở trên trời”.

 

34.  Người rao giảng

Chỉ có mình thánh Luca ghi lại việc sai phái bảy mươi hai môn đệ đi trước sửa soạn cho Chúa Giêsu đến. Điều này phù hợp với việc Chúa kéo dài cuộc hành trình trên đường về Giêrusalem. Công tác của họ chỉ trong một thời gian hạn định, nhưng trong lời huấn thị đưa ra cho họ, Chúa Giêsu đã đưa ra những nguyên tắc căn bản áp dụng cho mọi thời. Trước hết Ngài tỏ cho biết lý do của sự lựa chọn họ: lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Trước khi thế gian nhận được sứ điệp họ mang tới, họ và những người kế vị họ phải tha thiết cầu nguyện với Chúa mùa gặt sai thợ đến. Đó là một lời cầu nguyện mà mọi kẻ phụng sự Chúa Kitô phải dâng lên tự đáy lòng mình. Lòng yêu mến của chúng ta đối với Chúa sẽ khiến chúng ta cố gắng hoàn thành công tác mau chóng hơn, và muốn được vậy cần phải có đông công nhân hơn.

Đối với người Do Thái, số bảy mươi hai là số biểu tượng. Đó là số các trưởng lão đã được lựa chọn để giúp đỡ lãnh tụ Môsê, với phận sự điều khiển, hướng dẫn dân chúng trong sa mạc. Đó là số thành viên của Hội đồng quốc gia. Nếu số bảy mươi hai chỉ đoàn thể nào trong hai đoàn thể đó thì họ cũng là phụ tá cho Chúa Giêsu. Số đó cũng được coi như số các nước trên thế giới lúc bấy giờ. Luca là người có tầm mắt quốc tế, có lẽ ông đang nghĩ đến một ngày mà mọi nước trên thế giới sẽ nhận biết và yêu mến Chúa Giêsu, như ông đang yêu mến Ngài vậy.

Đoạn Kinh Thánh cho ta biết mấy điều hết sức quan trọng về người truyền đạo cũng như thính giả.

1) Người rao giảng khi ra đi phải sẵn sàng chấp nhận sự hiểm nguy “như chiên giữa bầy muông sói”, nhưng họ cũng đừng để cho lòng bối rối vấn vương vào những sự thế tục. Sứ giả cần lên đường cách nhẹ nhàng.

2) Người rao giảng cần phải chú tâm vào bổn phận của mình, đừng phí thời giờ vào những nghi lễ lạt lẽo vô vị, nhưng phải ra đi như những con người được thúc giục bởi một động lực cao cả; “Người ấy không được chào ai dọc đường”; điều này nhắc lại lời tiên tri Êlisa bảo tên đầy tớ Giêkhađi đi giúp cho bà ân nhân đất Sunêm khi đứa con đã chết: “Hãy thắt lưng, cầm gậy của ta mà đi! Gặp ai thì đừng có chào, ai chào thì đừng đáp lại” (2V4,29). Đó không phải là dạy làm điều bất lịch sự nhưng là người của Thiên Chúa không nên quay ngang hoặc trì trệ vì những điều nhỏ nhặt đang khi những việc lớn chờ đợi kêu gọi mình.

3) Người rao giảng không nên làm việc để kiếm tư lợi. Người ấy nên ăn những món người ta dọn cho mình, không nên đi từ nhà này qua nhà khác cố ý tìm nơi dễ chịu hơn, đầy đủ tiện nghi hơn. Chẳng bao lâu sau khi Hội Thánh được thiết lập đã có những hạng người ăn bám. Cuốn “Giáo lý của mười hai tông đồ” được viết khoảng năm 100 là cuốn sách về trật tự Hội Thánh đầu tiên. Trong thời đó có những tiên tri đi lang thang từ thành này sang thành khác. Sách đã quy định rằng, nếu vị tiên tri nào muốn ở lại nơi nào lâu hơn ba ngày mà không có việc làm thì kẻ ấy là tiên tri giả, và nếu tiên tri nào xưng mình ở trong Thánh Linh mà xin tiền hay xin thức ăn thì kẻ ấy là tiên tri giả. Người thợ đáng lãnh tiền công, nhưng đầy tớ của Đấng chịu đóng đinh không thể là một kẻ say mê lạc thú.

Ngay từ khi lãnh nhận bí tích Rửa tội, người Kitô hữu đã được Chúa Cứu Thế kêu mời thi hành sứ mệnh: “Hội Thánh nhân danh Thiên Chúa hết sức kêu mời tất cả các giáo dân, hưởng ứng sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, hãy mau mắn, đại độ và sẵn sàng đáp lại tiếng gọi của Chúa Kitô, Đấng giờ đây đang thiết tha mời gọi họ. Ước gì giới trẻ hiểu rằng lời mời gọi của Người được đặc biệt gởi tới họ và ước gì họ vui mừng quảng đại đón nhận. Quả thật chính Chúa Giêsu một lần nữa nhờ Thánh Công Đồng này, mời gọi tất cả các giáo dân hãy kết hợp với Người ngày một mật thiết hơn và nhận thức được những gì của Người cũng là của chính mình (Ph 2,5). Họ hãy tham gia vào sứ mạng cứu rỗi của chính Người và một lần nữa Ngài sai họ đi tới các thành và những nơi Người sẽ đến. Như thế giáo dân hãy chứng tỏ mình là cộng tác viên của Chúa Giêsu cộng tác vào cùng một công việc tông đồ của Giáo Hội bằng nhiều hình thức và phương tiện khác nhau. Những cộng tác viên phải luôn thích nghi với những đòi hỏi mới của thời đại và không ngừng ra sức phục vụ Chúa bởi biết rằng khó nhọc của mình không phải là uổng phí trong Người” (TĐ33).

Đức Kitô muốn thông ban cho các môn đệ lòng can đảm trong việc tông đồ nên khi Ngài nói “Ta sai các con” điều mà thánh Gioan Kim Khẩu chú giải: “Điều này đủ cho các ngươi được can đảm, điều này làm cho các ngươi được tin tưởng”. Các sứ giả được can đảm vì ý thức rằng mình được Thiên Chúa sai đi, như sau này Phêrô giải thích rõ ràng cho Thượng Hội Đồng ông hành động như thế nhân danh Đức Giêsu Nagiarét, “vì dưới gầm trời này không có danh nào khác khiến người ta được cứu rỗi”. Rồi thánh Grêgôriô Cả thêm vào để giải thích huấn thị của Chúa: Đừng mang bao bị giày dép, đừng chào hỏi ai dọc đường, Người rao giảng phải đặt niềm tin vào Chúa tới độ dầu không trang bị cho mình những nhu cầu để sống, vẫn xác tín rằng sẽ không thiếu. Thật thế, nếu Ngài bận tâm cho những sự thế tục, Ngài sẽ không thể ban phát chung quanh Ngài những sự trên trời. Truyền giáo đòi hỏi một sự hiến thân bao gồm sự từ bỏ, thế nên thánh Phêrô là người đầu tiên thực hành lời dạy của Chúa và đã nói với người hành khất ở Cửa Đẹp đền thờ: “Vàng bạc thì tôi không có”. Thánh Ambrôsiô thêm vào “không phải để phô trương sự nghèo khó, nhưng đúng hơn để vâng phục lệnh Chúa, dường như Ngài muốn bảo anh: Thấy tôi là một môn đệ của Đức Kitô mà anh lại xin tiền à? Chúng ta có thể cho anh ta cái gì còn có giá trị hơn vàng bạc nữa; quyền năng hành động nhân danh Chúa. Tôi không có cái mà Chúa Kitô không cho tôi, nhưng tôi có cái mà Ngài cho tôi: nhân danh Chúa Giêsu thành Nagiarét anh hãy dậy mà đi”. Do đó, việc truyền giáo đòi hỏi phải siêu thoát của cải vật chất, cũng như phải luôn luôn mau lẹ sẵn sàng vì công việc cấp bách.

“Đừng chào hỏi ai dọc đường”. Thánh Ambrôsiô tự hỏi “Sao lại thế? Chúa lại bỏ qua một việc xã giao thường tình? Nhưng phải để ý Chúa không bảo đừng chào ai nhưng bảo đừng chào ai dọc đường, không thừa đâu!

Khi tiên tri Êlia sai tên đầy tớ đi cứu giúp đứa con bà góa bằng cách để cây gậy của vị tiên tri trên đứa bé đã chết, ông cũng ra lệnh đừng chào hỏi ai dọc đường: Ông có ý bảo phải mau mau cứu bé sống lại, đừng để chậm trễ vì những người cùng đi đường với mình. Như thế không phải bỏ qua hết phép lịch sự xã giao, nhưng hạn chế những gì ngăn trở để việc phục vụ được mau lẹ. Khi Thiên Chúa đã bảo, điều gì thế tục phải tạm thời để qua một bên, chào hỏi nhau là tốt, nhưng tốt hơn là thi hành cho mau điều Chúa dạy vì chậm trễ có thể trở nên vô ích.

Về phần thính giả, lời Chúa hôm nay dạy rằng nghe lời Thiên Chúa là một trách nhiệm lớn. Người ta sẽ chịu phán xét theo những gì mình đã may mắn biết được. Chúng ta không chấp trách trẻ con điều mà chúng ta kết án người lớn, chúng ta tha thứ cho người man ri những thái độ, hành động mà nếu xảy ra nơi người văn minh thì bị trừng phạt. Trách nhiệm là mặt trái của đặc ân. Chối bỏ lời mời của Thiên Chúa là một tai họa. Ở một phương diện thì mỗi lời hứa của Chúa có thể thành lời buộc tội cho người nào nghe đến. Nếu người ấy tiếp nhận các lời hứa đó thì quả thật đó là sự vinh hiển nhất, nhưng nếu người ấy xén bỏ đi, thì một ngày kia, lời ấy sẽ là chứng cớ nghịch lại cùng người ấy vậy.

Bảy mươi hai môn đệ trở về với vẻ mặt sáng rỡ vì những chiến thắng đã dành được trong danh Chúa. Ngài nói với các ông một câu khó hiểu: “Ta thấy satan bị tấn công và nước Thiên Chúa xuất hiện”. Nó có thể có nghĩa là Chúa Giêsu biết rằng nhát đòn tử thương đã giáng xuống satan và các quyền lực của nó, tuy rằng chiến thắng cuối cùng có thể còn trì hoãn lâu.

Nhưng câu đó cũng có thể là lời cảnh báo cho tính kiêu căng. Vì do kiêu ngạo satan chống nghịch Thiên Chúa, nên đã bị ném ra khỏi trời. Có thể Chúa Giêsu ngụ ý cùng bảy mươi hai môn đệ rằng: “Các ngươi đã thu hoạch được nhiều thắng lợi, hãy giữ mình kẻo sinh kiêu ngạo”. Chúa Giêsu luôn cảnh báo các tôi tớ Ngài về tội kiêu ngạo và quá tự tín. Quả thực họ được Chúa ban cho mọi quyền phép, nhưng vinh hiển lớn nhất của họ là được ghi tên vào sổ trên trời. Có một điều mãi mãi là sự thật, ấy là vinh hiển lớn nhất của con người không phải là những gì mình đã làm được, mà là những gì Chúa đã làm cho mình. Có người cho rằng việc khám phá ra thuốc mê đã giúp con người giảm bớt đau đớn nhiều hơn bất cứ khám phá nào khác trong y khoa. Một hôm có người hỏi James Simpson: “Ông cho điều gì là khám phá lớn nhất của ông?” và mong đợi câu trả lời rằng: “Thuốc mê”, vì chính ông là người đã khám phá ra môn thần dược này. Nhưng Simpson đã trả lời: “Khám phá lớn nhất của tôi là Chúa Giêsu, Chúa Cứu Chuộc của tôi”. Tính kiêu ngạo đã cản đường lên thiên đàng, nhưng đức khiêm nhường là giấy thông hành để được gặp Chúa.

Chúa sửa sai thái độ của các môn đệ khi chỉ cho các ông lý do thật để vui mừng, đó là niềm hy vọng đạt nước thiên đàng chứ không phải trong quyền năng làm phép lạ, khi Người trao sứ mạng này cho các ông. Trong dịp khác, Chúa cũng cho một bài học tương tự (Mt 7,22-23). Trước mắt Chúa, thi hành ý Ngài quan trọng hơn là làm phép lạ.

 

35. Truyền giáo bằng đời sống

Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít.

Trong suốt cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đã rảo khắp các nẻo đường xứ Palestien để rao giảng Tin Mừng. Đồng thời, Ngài cũng đã chọn lựa và sai phái các môn đệ ra đi, để tiếp tay với Ngài trong sứ mạng cao cả ấy.

Tuy nhiên những cố gắng ấy dường như không đáp ứng nổi với nhu cầu khẩn thiết, vì thế mà Chúa đã nói:

– Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít. Vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ tới gặt lúa.

Trải qua dòng thời gian, lời xác quyết này vẫn còn là một sự thật, bởi vì ngày hôm nay con số những người tin nhận Chúa mới chiếm được 30%, và riêng những người Công giáo thì mới chỉ được có 17% dân số trên thế giới.

Đồng thời qua lời xác quyết ấy, Chúa cũng muốn kêu mời chúng ta hãy trở nên là những người thợ gặt của Chúa. Có nghĩa là, chúng ta cũng hãy góp phần vào việc truyền bá đức tin, làm cho Giáo hội được phát triển. Dĩ nhiên chúng ta có rất nhiều phương pháp để rao giảng Tin Mừng.

Chẳng hạn bằng việc ra đi như các tông đồ các vị thừa sai, bằng việc cầu nguyện như các vị tu sĩ trong dòng kín… Thế nhưng, hôm nay tôi muốn giới thiệu tới quí ông bà một phương pháp mà mỗi người chúng ta đều có bổn phận phải thực hiện, đó là truyền giáo bằng chính đời sống, bằng chính gương sáng của chúng ta.

Để hiểu được hậu quả tốt đẹp mà phương pháp này đem lại, tôi xin kể hai mẩu chuyện nho nhỏ.

Mẩu chuyện thứ nhất đó là có một người Tin Lành, nghe tiếng cha Vianney là một người đạo đức thánh thiện, bèn tìm đến xứ Ars để kiểm tra sự thật. Sau khi ra về, người ta hỏi ông đã thấy được những gì, thì ông trả lời:

– Tôi đã thấy Thiên Chúa trong một người.

Và sau đó thì ông đã trở lại với Giáo hội Công giáo.

Mẩu chuyện thứ hai đó là có một người khô khan nguội lạnh, tình cờ đi ngang qua nhà thờ, ông thấy một cô bé đang dẫn mấy em nhỏ vào nhà thờ. Ông đứng quan sát và rồi đã đi theo cô bé. Thấy nét mặt trang nghiêm và sốt sắng của cô bé khi cầu nguyện, ông đã thực sự xúc động, và rồi cuối cùng, ông cũng đã trở về cùng Chúa.

Với hai mẩu chuyện này chúng ta thấy được sức cảm hóa của gương sáng như thế nào. Tục ngữ Việt Nam cũng bảo:

– Lời nói như gió lung lay, việc làm như tay lôi kéo.

Hay như một câu danh ngôn cũng đã nói:

– Gương sáng chính là một bài giảng hùng hồn nhất, có sức lôi cuốn và thuyết phục người khác.

Đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương của chúng ta chính là một thứ ánh sáng cần thiết cho xã hội như lời Chúa đã phán:

– Các con là ánh sáng thế gian. Bởi vì nhờ các việc chúng ta làm mà người khác sẽ nhận ra sự hiện diện của Chúa, để rồi cũng sẽ tin nhận Ngài.

Giữa một thế giới đã xa lìa Thiên Chúa, đang chìm dần vào sa đọa và tội lỗi, thì chúng ta có bổn phận phải thắp lên một ngọn lửa, chứ đừng ngồi đó mà rủa xả bóng đêm.

Và ngọn lửa chúng ta thắp lên là gì? Tôi xin thưa đó chính là đời sống gương mẫu của mỗi người chúng ta.

 

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây