THỨ 4 TUẦN IV PHỤC SINH NĂM B
Ga 12, 44 – 50
Phúc Âm: Ga 12, 44-50
“Ta là sự sáng đã đến thế gian”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu lớn tiếng nói rằng: “Ai tin vào Ta thì không phải là tin vào Ta, nhưng là tin vào Ðấng đã sai Ta. Và ai thấy Ta là thấy Ðấng đã sai Ta. Ta là sự sáng đã đến thế gian, để bất cứ ai tin Ta, người ấy sẽ không ở trong sự tối tăm. Nếu ai nghe lời Ta mà không tuân giữ, thì không phải chính Ta xét xử người ấy, vì Ta đã đến không phải để xét xử thế gian, nhưng là để cứu độ thế gian. Ai khinh dể Ta, và không chấp nhận lời Ta, thì đã có người xét xử: lời Ta đã nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết. Bởi vì Ta đã không tự mình nói ra, nhưng Cha là Ðấng sai Ta, chính Người đã ra lệnh cho Ta phải nói gì và phải công bố gì. Và Ta biết rằng lệnh của Người là sự sống đời đời. Những điều Ta nói, thì Ta nói theo như Cha đã dạy”.
Ðó là lời Chúa.
SUY NIỆM 1
Sứ điệp: Đức Kitô là Ngôi Lời, là tiếng nói tỏ bày Thánh Ý Chúa Cha. Ai tin và đón nhận Người, sẽ được sống đời đời. Ai từ chối Người thì chính họ sẽ bị xét xử.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con tưởng tượng chính lúc mà Chúa nói lên những lời Tin Mừng hôm nay, con mới thấy được tâm huyết và tấm lòng Chúa dành cho con.
Lời Chúa mạc khải cho con biết Chúa Cha, cho con nhận ra Chúa là lẽ sống của con. Thế mà con vẫn chưa nhận ra được điều ấy. Chúa phải nói to lên, Chúa phải cậy dựa vào thế lực và uy tín của Chúa Cha để minh chứng cho chân lý Lời Chúa. Không có Chúa con sẽ phải chết, sẽ lãnh án phạt, sẽ ở lại mãi mãi trong tăm tối.
Chúa là tất cả cuộc sống con. Xin cho con đừng bao giờ quên điều ấy. Xin cho con biết khao khát chính Chúa, biết trân trọng sự hiện diện của Chúa trong đời sống con: một sự hiện diện không thể thiếu được.
Cho đến bây giờ Chúa vẫn chưa được hiện diện giữa cuộc sống loài người. Trên thế giới này, chỉ có một phần tư nhân loại mang danh Kitô hữu. Trong số một phần tư ít ỏi đó, lại càng có ít người ý thức được rằng họ cần Chúa mỗi ngày, và nếu vắng Chúa, họ không thể sống được. Rất nhiều người lầm tưởng rằng họ vẫn có thể sống mà không cần Chúa. Có khi chính con cũng ở trong số những người sai lầm đó.
Hôm nay, con đón nhận Lời Chúa, xin cho con ngày càng tin vào Chúa, để con đón nhận ánh sáng sự sống rất cần thiết cho cuộc đời của con. Xin Chúa ở lại với chúng con và ban ơn cứu độ cho chúng con. Amen.
Ghi nhớ : “Ta là sự sáng đã đến thế gian”.
TGM Giuse Nguyễn Năng
SUY NIỆM 2: CHÚA LÀ ÁNH SÁNG THẾ GIAN
1. Hôm nay Đức Giê-su khẳng định Ngài là Ánh Sáng cho thế gian. Ngài là ánh sáng xuất phát từ Cội Nguồn Ánh Sáng là Chúa Cha, Ngài phản chiếu hình ảnh của Chúa Cha. Vì thế, mọi lời nói và việc làm của Đức Giê-su làm là theo điều Ngài đã thấy nơi Chúa Cha. Thế nhưng, người Do thái đã dường như cố tình không nhận ra điều đó, bởi chính ánh sáng thật từ Thiên Chúa đã phơi bầy mọi tâm can đen tối của con người.
2. Tất cả phát xuất từ Chúa Cha. Đức Giê-su phát xuất từ Chúa Cha. Lời Chúa nói, việc Chúa làm, đều phát xuất từ Chúa Cha: ”Thật vậy, không phải tôi tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, truyền lệnh cho tôi phải nói gì… Vậy những gì tôi nói đúng như Chúa Cha đã nói với tôi”.
Mà lời Chúa Cha chính là sự sống: ”Và tôi biết: mệnh lệnh của Ngài là sự sống đời đời”. Sự sống là ánh sáng. Cái chết là bóng tối. Đức Giê-su đến đem lời Chúa Cha ban sự sống đời đời. Đem ánh sáng sự sống soi vào bóng tối chết chóc cõi nhân gian: ”Tôi là ánh sáng, tôi đã đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng tối”. Vì thế ai đón nhận Đức Giê-su là đón nhận Chúa Cha. Là đón nhận ánh sáng. Là đón nhận sự sống.
3. Qua lời Đức Giê-su đã khẳng định, con người chúng ta phải có thái độ tin hay không tin nhận.
– Tin Chúa là tin Thiên Chúa Cha, thấy Chúa là thấy được Thiên Chúa Cha. Tin Chúa sẽ mang lại ánh sáng soi cho cuộc đời của mình. Đức tin là ánh sáng, không tin là sống trong bóng tối.
– Từ chối không tin, con người tự kết án mình. Mặc dầu Đức Giê-su không đến để kết án mà để cứu rỗi, không ai có thể thoát ra khỏi sự cứu rỗi cuối cùng này, và sự xét xử đến từ thái độ của người đó, đón nhận hay từ chối Thiên Chúa: ”Ai nghe lời tôi mà không tuân giữ thì không phải tôi là người kết án kẻ ấy vì tôi không đến để luận phạt thế gian mà đến để cứu rỗi. Ai chê chối tôi và không nhận lời tôi thì sẽ có người xét xử kẻ ấy, tức là lời giảng dạy của tôi sẽ xét xử kẻ ấy trong ngày sau hết”.
4. Ánh sáng là một tác phẩm quan trọng đến nỗi Chúa đã làm ra nó trước cả trời và đất. Khi đã có ánh sáng thì mọi sự khác xuất hiện theo. Hãy nhìn quanh ta, ta sẽ thấy ánh sáng giúp ta rất nhiều cách: ánh sáng mặt trời làm cho sinh vật lớn lên, sưởi ấm con người và hong khô quần áo. Nhờ có ánh sáng ta mới thấy được sự vật chung quanh ta. Ánh sáng còn là thuốc chữa trị nhiều chứng bệnh và tiêu diệt nhiều thứ độc hại. Hãy nghĩ tới ánh sáng của các ngọn đèn: ta dùng chúng để trang hoàng nhà cửa, nhờ chúng ta mới thấy đường mà đi trong đêm tối. Nếu không có ánh sáng, sinh vật không lớn lên được và sẽ chết dần mòn… Bởi thế người ta sợ bóng tối và vui mừng vì ánh sáng (Frank Mihalic).
5. Khi suy niệm về Đức Giê-su Ki-tô, có người ví Đức Giê-su là người thầy tốt lành luôn giảng dạy điều hay lẽ phải, người khác lại xem Đức Giê-su là người bạn thân thiết luôn đồng hành chia sẻ niềm vui nỗi buồn. Đối với linh mục nhạc sĩ Nguyễn Duy, Đức Giê-su là ánh sáng, là đường đi. Vì thế, linh mục viết như sau: ”Giê-su ơi, Ngài là ánh sáng, xin cho con được tan chảy trong Ngài. Giê-su ơi, Ngài là đường đi xin cho con đồng hành với Chúa” (Bài hát Giêsu Ánh sáng).
Đức Giê-su ví mình là ánh sáng của thé gian này. “Ánh Sáng” ở đây không phải là ánh sáng vật lý như vẫn thường thấy noi bóng đèn, tivi… nhưng là mạc khải đích thực về Thiên Chúa, con người và thế giới.
6. Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết chạy đến với Đức Giê-su là Ánh sáng thật để được hạnh phúc như chính Ngài đã nói: ”Ta là ánh sáng đến trong thế gian để ai tin Ta không đi trong tối tăm”. Vì thế, ngay trong giây phút này, chúng ta hãy sống những điều thuộc về Ánh sáng như thánh Phaolô mời gọi: ”Anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng” (Ep 5,8).
Không những chúng ta thuộc về Ánh sáng, nhưng chúng ta còn phải trở nên ánh sáng cho trần gian, để soi sáng cho người khác đến nguồn Ánh sáng là chính Đức Giê-su, để họ cũng được sự sống đời đời.
7. Truyện: Hãy bật sáng lên
Tại nhà thờ nọ, trong một buổi tối giảng tĩnh tâm, có hàng ngày tín hữu đến tham dự, nhằm khuyến khich con cái Chúa biết chiếu sáng lòng tốt của mình ra cho mọi người, linh mục thuyết giảng ra lệnh cho tắt hết các đèn trong nhà thờ.
Trong giây lát, bóng tối bao trùm cả nhà thờ. Cha nói:
– Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Tất cả những ai nhìn thấy ánh sáng của que diêm này, xin hô lên rằng mình thấy nhé!
Cả nhà thờ to lớn, song chỉ ánh sáng một que diêm nhỏ, ai cũng nhìn thấy nên đồng thanh hô to:
– Thấy!
Cha liền giải thích:
– Bất cứ hành động nào của lòng tốt cũng đều tương tự như thế. Một nguồn sáng dù nhỏ cũng có thể chiếu sáng ra giữa muôn ngàn tội lỗi xấu xa của nhân loại. Một hành động của lòng tốt dù thật nhỏ, cũng vẫn được phơi bày trước Chúa và loài người.
Kế đến, linh mục cho phân phát mỗi người một que diêm và bảo:
– Bây giờ mỗi người hãy đốt que diêm lên!
Trong giây lát, bóng tối trong nhà thờ đã nhường chỗ cho ánh sáng tỏa ra từ những que diêm li ti khiến nhà thờ tràn ngập những ánh sáng lung linh một cách kỳ diệu. Vị linh mục kết luận:
– Hãy coi đó, dù nghèo nàn về phần thiêng liêng, chúng ta cũng có thể đánh bại bóng tối tăm của tội lỗi và chiếu sáng cả thế giới bằng tình yêu và sự thánh thiện của mình.
Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
SUY NIỆM 3
“Khi ấy, Đức Giê-su lớn tiếng nói rằng: “Ai tin vào tôi, thì không phải là tin vào tôi, nhưng là tin vào Đấng đã sai tôi; ai thấy tôi là thấy Đấng đã sai tôi”.
Đoạn tin mừng nằm trong bối cảnh Đức Giê su loan báo Người sẽ được tôn vinh nhờ cái chết của Người. Và lúc đó có một số người tin vào Đức Giêsu nhưng không công khai. Chính vì thế, Đức Giêsu quả quyết với những người tin Ngài thì không phải là tin vào Ngài nhưng là tin vào Cha, Đấng đã trao sứ mạng cho Đức Giêsu.
Phần thưởng dành cho những người tin vào Đức Giêsu là không chỉ thấy được Ngài nhưng còn thấy được Cha, Đấng sai Ngài. Đức Giêsu luôn qui hướng về Cha. Nhờ sự qui hướng này mà Ngài ý thức về sứ mạng mình lãnh nhận và giúp con người qui hướng về Thiên Chúa.
Con người thời nay vẫn muốn tin Chúa nhưng cũng vẫn muốn Chúa chứng minh cho họ thấy điều họ cần để củng cố niềm tin của họ. Thế nhưng, họ chỉ muốn đạt được mục đích của mình mà thôi. Lời Chúa tiếp tục mời gọi và nâng đỡ tôi về điều gì? Tôi có xác tin vào những ơn Chúa đã ban xuống trên cuộc đời tôi?
Lạy Chúa, xin nâng đỡ và giúp con luôn trung thành theo ơn thánh Chúa.
Br. Vincent SJ
SUY NIỆM 4
Sự tối tăm đáng sợ nhất, không phải là không gian tối, mà lòng người tối. Khi tâm hồn, cõi lòng người ta tối tăm, thì ở giữa trời sáng mà vẫn trở thành mối nguy hiểm cho mọi người. Ai có thể chiếu rọi ánh sáng xua tan tối tăm trong lòng người? Hãy đến gặp Chúa Giêsu, Ngài là ánh sáng cho thế gian.
Con người sống trong tối tăm, nên thường lầm lạc. Chúa Giêsu đến chiếu rọi Lời Chúa, là sự thật vào trần gian. Từ nay, không ai bị sự tối tăm thống trị, nếu tin nhận Chúa Giêsu, và tuân giữ Lời Ngài. Lời Chúa là ánh sáng, nên ai muốn thoát cảnh tối tăm của phận người, chúng ta phải đón nhận Lời Chúa cho thực tâm. Nếu chúng ta dễ lầm sai trong cuộc sống, trong mọi nhận định ở đời, chắc chắn là do chúng ta thiếu ánh sáng Lời Chúa trong hồn. Không phải Chúa không ban, mà do chúng ta không không màng đến, không yêu mến Lời Chúa. Muốn thoát khỏi tối tăm lầm lạc mà không có Lời Chúa là hão huyền.
Lời Chúa Giêsu nói với chúng ta, cũng chính là Lời của Chúa Cha, vì Ngài đã nói: “ Không phải tôi tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha, truyền lệnh cho tôi phải nói gì, tuyên bố gì”. Nên “Ai tin vào tôi, thì không phải tin vào tôi, nhưng là tin vào Đấng đã sai tôi”. Chúa Giêsu đã khẳng định Ngài với Chúa Cha là một. Một trong bản tính, một trong tình yêu cứu độ nhân loại.
Ai nghe Lời Chúa mà không tuân giữ, sẽ mãi ở trong bóng tối của lầm lạc, không thể thoát ra khỏi ngục tối ác thần. Cứ nhìn và gẫm suy những gì xảy ra trong mỗi gia đình, trong chính tâm hồn mình, chúng ta sẽ thấy, Lời Chúa cảnh báo chúng ta, đang xét xử chính chúng ta. Những đổ vỡ, bất hạnh, những tội ác chồng chất, chẳng phải là cuộc xét xứ rồi sao!
Lạy Chúa Giêsu, xa Chúa là chúng con sống trong tối tăm, lầm lạc. Xin cho chúng con luôn biết tìm về với Chúa, khi chuyên cần cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích. Amen.
GKGĐ Giáo Phận Phú Cường
SUY NIỆM 5: AI THẤY TÔI, LÀ THẤY ĐẤNG ĐÃ SAI TÔI
20-04-2022 Đức ông Miroslaw Wachowski, Thứ trưởng Ngoại giao Toà Thánh, dẫn đầu phái đoàn ngoại giao tòa thánh đến thăm và làm việc tại việt nam. Phái đoàn đã được các bộ ban ngành đạo đời đón tiếp rất long trọng. Chúng ta tự hỏi do đâu mà phái đoàn tòa thánh được chào đón cách trọng hậu như vậy? Thiết nghĩ không phải do danh tiếng, học vấn, hay tài đức của các ngài mà được mọi người đón tiếp như vậy, nhưng vì các ngài đại diện cho quốc gia Vatican, đại diện cho đức thánh cha Phanxicô và đại diện cho Hội thánh Công giáo hoàn vũ.
Vâng, đón tiếp người được sai đi thì cũng chính là đón tiếp chính đấng đã sai đi. Đó là điều Chúa Giêsu muốn tỏ lộ về nguồn gốc thần linh của Ngài cho người Do Thái được biết: “Ai tin vào tôi thì không phải là tin vào tôi, nhưng là tin vào Đấng đã sai tôi; ai thấy tôi, là thấy Đấng đã sai tôi”.
Thế nhưng cho đến ngày nay, người Do thái vẫn không tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là đấng Mesia cứu độ trần gian, thành ra, họ vẫn cứ còn khắc khoải trông chờ Đấng Cứu Thế đến. Có thể có những lí do khiến họ không tin Đức Giêsu bởi Thiên Chúa mà đến: do lai lịch Đức Gêsu, xuất thân trong một gia đình nghèo khó, chứ không phải trong cung điện giàu sang, Đức Giêsu con ông Giuse và bà Maria một người cùng làng cùng xóm bình thường như bao nhiêu người, rồi làng Nadarét nhỏ bé chẳng có điều chi hay ho… Đấng Mêsia mà dân Do Thái mong đợi là một vị vua oai phong lẫm liệt có sức mạnh giải thoát họ khỏi đế quốc Rôma đang cai trị, ngài xuất chinh đánh đông dẹp bắc, khiến các nước lân bang phải khiếp sợ. Điều họ mong đợi đó đã không được ứng nghiệm nơi Đức Giêsu, chính những thành kiến sai lầm cố chấp đó đã khiến họ không thể nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa đến giải thoát họ khỏi ách nô lệ tội lỗi và sự chết.
Có lẽ đôi khi trong cuộc đời chúng ta cũng chẳng hơn gì người Do thái, với những thành kiến của mình chúng ta hoài nghi không tin vào thiên chúa yêu thương. Đứng trước bao nhiêu, gian nan thử thách, thiên tai dịch bệnh côvít kéo dài, hoặc khi gặp đau khổ thử thách bệnh tật… có khi chúng ta hỏi Chúa ở đâu mà để con phải khổ sở thế này? Xin cho chúng ta có đức tin vững vàng để nhận ra chúa đang đồng hành trong những nỗi gian nan của chúng ta, ngài dẫn dắt chúng ta đi theo một đường lối kì diệu mà chúng ta không bao giờ nghĩ tới.
Mặt khác suy xét bản thân chúng ta nhận ra rằng: có khi vì những thành kiến về người khác, mà chúng ta làm hỏng cuộc đời của họ, nhận xét không chính xác, vu oan, giáng họa… chính do đầu óc thành kiến mà ta hiểu sai về anh chị em xung quanh. Có một câu chuyện thế này:
Thời ấy, chiến tranh liên miên, các nước chư hầu loạn lạc, dân chúng phiêu bạt điêu linh, lầm than đói khổ. Thầy trò Khổng Tử cũng lâm vào cảnh rau cháo cầm hơi và cũng có nhiều ngày phải nhịn đói, nhịn khát. Tuy vậy, không một ai kêu than, thoái chí; tất cả đều quyết tâm theo thầy đến cùng.
May mắn thay, ngày đầu tiên đến đất Tề, có một nhà hào phú từ lâu đã nghe danh Khổng Phu Tử nên đem biếu thầy trò một ít gạo… Khổng Tử liền phân công Tử Lộ dẫn các môn sinh vào rừng kiếm rau, còn việc thổi cơm thì Khổng Tử giao cho Nhan Hồi – một đệ tử đạo cao đức trọng mà Khổng Tử đã đặt rất nhiều kỳ vọng. Bởi lẽ, trong hoàn cảnh đói kém, phân công cho Nhan Hồi việc bếp núc là hợp lý nhất.
Sau khi Tử Lộ dẫn các môn sinh vào rừng kiếm rau, Nhan Hồi thổi cơm ở phía dưới nhà bếp, còn Khổng Tử thì đọc sách ở nhà trên, đối diện với nhà bếp, cách một cái sân nhỏ.Đang đọc sách bỗng nghe một tiếng “cộp” từ nhà bếp vọng lên, Khổng Tử ngừng đọc, liếc mắt nhìn xuống… thấy Nhan Hồi từ từ mở vung, lấy đũa xới cơm rồi cho vào tay và nắm lại từng nắm… Xong, Nhan Hồi đậy vung lại, dừng chốc lát… rồi từ từ đưa nắm cơm lên miệng…
Nhìn thấy hành động của đệ tử, trong suy nghĩ của Khổng Tử cảm thấy thất vọng và thở dài, ngửa mặt lên trời mà than rằng: “Chao ôi! Trò yêu của ta lẽ nào lại ăn vụng thầy, vụng bạn thế sao? Còn đâu lễ nghĩa, đạo lý? Bao kỳ vọng đặt vào nó thế là đổ sông, đổ biển cả rồi!”.Sau đó, Tử Lộ cùng các môn sinh khác mang rau về… Nhan Hồi lại luộc rau… Khổng Tử vẫn nằm im đau khổ…
Một lát sau rau chín, Nhan Hồi và Tử Lộ dọn cơm lên nhà trên; tất cả các môn sinh chắp tay mời Khổng Tử xới cơm. Khổng Tử ngồi dậy và nói rằng: “Các con ơi! Chúng ta đi từ đất Lỗ sang Tề đường xa vạn dặm, thầy rất mừng vì trong hoàn cảnh loạn lạc, dãi nắng dầm mưa, đói khổ như thế này mà các con vẫn giữ được tấm lòng trong sạch, các con vẫn yêu thương đùm bọc nhau, các con vẫn một dạ theo thầy, trải qua bao nhiêu chặng đường đói cơm, khát nước …Hôm nay, ngày đầu tiên đến đất Tề, may mắn làm sao thầy trò ta lại có được bữa cơm. Bữa cơm đầu tiên trên đất Tề làm thầy chạnh lòng nhớ đến quê hương nước Lỗ. Thầy nhớ đến cha mẹ thầy… cho nên thầy muốn xới một bát cơm để cúng cha mẹ thầy, các con bảo có nên chăng?
Trừ Nhan Hồi đứng im, còn các môn sinh đều chắp tay thưa: “Dạ thưa thầy, nên ạ!” Khổng Tử lại nói: “Nhưng không biết nồi cơm này có sạch hay không?”
Tất cả học trò không rõ ý Khổng Tử muốn nói gì nên ngơ ngác nhìn nhau. Lúc bấy giờ Nhan Hồi liền chắp tay thưa: “Dạ thưa thầy, nồi cơm này không được sạch.”
Khổng Tử hỏi: “Tại sao?”Nhan Hồi thưa: “Dạ, khi cơm chín con mở vung ra xem thử cơm đã chín đều chưa, chẳng may một cơn gió tràn vào, bồ hóng và bụi trên nhà rơi xuống làm bẩn cả nồi cơm. Con đã nhanh tay đậy vung lại nhưng không kịp. Sau đó con liền xới lớp cơm bẩn ra, định vứt đi … nhưng lại nghĩ: cơm thì ít, anh em lại đông, nếu bỏ lớp cơm bẩn này thì vô hình trung làm mất một phần ăn, anh em hẳn phải ăn ít lại. Vì thế cho nên con đã mạn phép thầy và tất cả anh em, ăn trước phần cơm bẩn ấy, còn phần cơm sạch để dâng thầy và tất cả anh em … Thưa thầy, như vậy là hôm nay con đã ăn cơm rồi … bây giờ, con xin phép không ăn cơm nữa, con chỉ ăn phần rau. Và … thưa thầy, nồi cơm đã ăn trước thì không nên cúng nữa ạ!” Nghe Nhan Hồi nói xong, hiểu rõ ràng sự việc, Khổng Tử ngửa mặt lên trời mà than rằng: “Chao ôi! Thế ra trên đời này có những việc chính mắt mình trông thấy rành rành mà vẫn không hiểu được đúng sự thật! Suýt tí nữa là Khổng Tử này trở thành kẻ hồ đồ!”
Vâng. Bệnh thành kiến có thể khiến ta thất vọng về Thiên Chúa toàn năng. Bệnh thành kiến cũng cố thể khiến ta đánh giá sai về tha nhân. Xin Chúa giúp chúng ta biết gạt bỏ mọi thành kiến để có thể mến Chúa và yêu mọi người với tấm lòng chân thành hơn. Amen.
Lasan Ngô Văn Vỹ, O.Cist
SUY NIỆM 6
Hôm nay Chúa Giê-su khẳng địng Người là Ánh Sáng cho thế gian. Người là Ánh Sáng xuất phát từ Cội Nguồn Ánh Sáng là Chúa Cha, Người phản chiếu hình ảnh của Chúa Cha. Vì thế, mọi lời nói và công việc của Chúa Giê-su làm là theo điều Người đã thấy nơi Chúa Cha. Thế nhưng, người Do-thái đã dường như cố tình không nhận ra điều đó, bởi chính ánh sáng thật từ Thiên Chúa đã phơi bày mọi tâm can đen tối của con người.
1. Ánh sáng phơi bày những ẩn khuất nơi người Do-thái.
Sự đối lập giữa những người Do Thái ở thủ đô với Chúa Giêsu luôn là đề tài nóng trong cả bốn Tin Mừng. Cũng như ánh sáng không thể chung với bóng tối, bởi ánh sáng sẽ làm tỏ lộ ra tất cả những gì khuất tất. Chúa Giêsu là Ánh Sáng và Sự Thật. Sự xuất hiện của Người tại Giêrusalem đã làm phơi bày ra sự giả hình, ham mê quyền lực và trục lợi của các kinh sư – biệt phái và nhất là giới cầm quyền Do Thái. Chính vì thế mà họ đã tìm cách tẩy chay Chúa Giêsu, tiếc là họ không có lý do đủ mạnh ngoài việc bám víu vào luật Sa-bát, nhưng ngay cả luật này họ cũng bị Chúa Giêsu vạch trần những điều khoản tỉ mỉ do họ thêm vào mà sai lệch ý Thiên Chúa. Điều mà Chúa Giêsu khẳng định, tất cả việc Người làm là theo ý Thiên Chúa Cha.
Chúa Giêsu là Ánh Sáng thuần khiết từ Thiên Chúa đi vào tấm lòng đồng trinh thuần khiết của Mẹ Maria. Vì thế mà mẹ đã cưu mang Ngôi Lời mà vẫn đồng trinh, tựa như ánh mặt trời chiếu qua tấm kính trong tinh khiết vào căn phòng rực ánh sáng mà tấm gương không bị ảnh hưởng. Trong khi, ánh sáng ấy chiếu đến sự mục nát xấu xa của giới chức Do Thái đã làm rõ ý đồ đen tối của họ, vì họ như tấm gương bám đầy bụi bẩn trần tục không thể tiếp nhận ánh sáng cho dân chúng, mà còn tìm mọi cách để che khuất và khử trừ Ánh Sáng.
Mọi người chúng ta ngày hôm nay cũng thế, khi chúng ta có tội hay đang theo đuổi những công việc mờ ám, thì chúng ta rất sợ đối diện với sự thật, và tìm cách diệt khẩu những ai có thể làm ý đồ và công việc chúng ta bị phơi bày.
2. Chúa Giê-su nói và làm điều Người đã thấy nơi Chúa Cha.
Khác với chúng ta, trong mầu nhiệm Ba Ngôi, Chúa Giêsu có tri thức hưởng kiến và thấu rõ chương trình của Thiên Chúa Cha muốn thực hiện nơi Người. Như Người nói: “Người Con không thể tự mình làm bất cứ điều gì, ngoại trừ điều Người thấy Chúa Cha làm; vì điều gì Chúa Cha làm, thì người Con cũng làm như vậy. Quả thật, Chúa Cha yêu người Con và cho người Con thấy mọi điều mình làm, lại sẽ còn cho người Con thấy những việc lớn lao hơn nữa, khiến chính các ông cũng phải kinh ngạc. Chúa Cha làm cho kẻ chết trỗi dậy và ban sự sống cho họ thế nào, thì người Con cũng ban sự sống cho ai tuỳ ý” (Ga 5,19-21).
Như vậy, hai công việc mà Chúa Giêsu hằng làm như Chúa Cha làm chính là: Chúa Cha yêu thương thế nào thì Chúa Con yêu thương như vậy, và Chúa Cha cho kẻ chết sống lại thế nào thì Chúa Con cũng phục sinh ai Người muốn. Chính hai điều này mà Chúa Giêsu không ngại vượt qua những quy định thêm vào khắt khe của Biệt Phái về luật Sa-bát, Người dùng luật yêu thương để cứu chữa bệnh tật thân xác và phục sinh tâm hồn cho những ai tin vào Người: “Ai nghe lời Tôi và tin vào Đấng đã sai Tôi, thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống” (Ga 5,24). Còn những ai không tin vào Chúa Giêsu như những người Biệt Phái kia thì tự loại mình ra, bởi: “Kẻ nào không tôn kính người Con, thì cũng không tôn kính Chúa Cha, Đấng đã sai người Con” (Ga 5,23).
Như vậy, mọi người chúng ta hôm nay muốn làm theo ý Chúa Cha là khi chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô và sống luật yêu thương vượt trên tất cả mọi sự ràng buộc khác.
Lạy Chúa Giêsu, xin chiếu Ánh Sáng Chúa vào tận nơi sâu thẳm của tâm hồn chúng con, để thánh hóa mọi bí ẩn tâm can và làm cho tâm hồn chúng con được sáng, hầu chúng con sống trọn vẹn giới luật yêu thương của Chúa. Amen.
Hiền Lâm
SUY NIỆM 7: NHỜ ÁNH SÁNG, CON NGƯỜI ĐƯỢC SỐNG
Trong cuộc sống, ánh sáng là thứ cần thiết đến độ không thể có gì thay thế. Ánh sáng làm cho con người và vạn vật có được sự sống và triển nở. Vì thế, không có ánh sáng, thì cho dù một sự sống sơ đẳng cũng không thể sống nổi như cỏ cây…thảo mộc…
Đây là sự cần thiết của ánh sáng dưới góc độ tự nhiên, còn với góc độ siêu nhiên, ánh sáng còn cần hơn gấp bội. Nếu không có ánh sáng siêu nhiên, thì con người sẽ lầm lũi bước đi trong đêm tối và có nguy cơ bị tận diệt sự sống đời đời. Tại sao vậy? Thưa, bởi vì ánh sáng siêu nhiên chính là biểu tượng chỉ về Thiên Chúa (x. Xh 19, 18). Đấng đã dùng cột lửa để soi sáng và dẫn dân Dothái về Đất Hứa (x. Xh 13, 21t). Như thế, khi dân thấy ánh sáng là an tâm (x. Tv 4, 7.31; Cn 16, 15). Ánh sáng còn là dấu chỉ về giới luật của Thiên Chúa (x. Cn 6, 23). Người dẫn dân đi trong đường lối của Người (x. Tv 119, 105). Người làm tội ác loạng choạng trong tối tăm (x. Is 59, 9).
Hôm nay, chính Đức Giêsu mạc khải rõ nét chân tính của Thiên Chúa, và Ngài là Đấng Bởi Thiên Chúa mà đến, nên khẳng định: “Ta là ánh sáng đến trong thế gian” (Ga 12, 46).
Như vậy, Ánh Sáng là biểu trưng cho hạnh phúc viên mãn trong nguồn ơn cứu chuộc và được sự sống đời đời. Đi ngược lại với Ánh Sáng chính là ở trong bóng tối và sẽ đi về chỗ diệt vong (x. Mt 22, 13). Cho nên có Ánh Sáng là có sự sống, có ơn cứu chuộc.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết chạy đến với Đức Giêsu là Ánh Sáng thật để được hạnh phúc như chính Ngài đã nói: “Ta là ánh sáng đến trong thế gian để ai tin Ta không đi trong tăm tối”. Vì thế, ngay trong giây phút này, chúng ta hãy sống những điều thuộc về Ánh Sáng như thánh Phaolô mời gọi: “Anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng” (Ep 5, 8).
Không những chúng ta thuộc về Ánh Sáng, nhưng chúng ta còn phải trở nên ánh sáng cho trần gian, để soi sáng cho người khác đến nguồn Ánh Sáng là chính Đức Giêsu, để họ cũng được sự sống đời đời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được đi trong đường lối của Chúa là Ánh Sáng. Xin cho chúng con được tránh xa bóng tối là kẻ thù của Ánh Sáng. Và xin cho chúng con được trở nên ánh sáng soi đường cho người khác bằng đời sống tốt lành của chúng con. Amen.
Giuse Vinhsơn Ngọc Biển SSP