CHÚA NHẬT LỄ CHÚA THĂNG THIÊN
Cv 1,1-11; Ep 1,17-23; Lc 24,46-53
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca
46 Khi ấy, Đức Giê-su hiện ra với các môn đệ và nói: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; 47 phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội.
48 Chính anh em là chứng nhân về những điều này.
49 “Phần Thầy, Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống.”
50 Sau đó, Người dẫn các ông tới gần Bê-ta-ni-a, rồi giơ tay chúc lành cho các ông.
51 Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được đem lên trời.
52 Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giê-ru-sa-lem, lòng đầy hoan hỷ, 53 và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa.
SUY NIỆM 1: MẦU NHIỆM THĂNG THIÊN
Lời Chúa: “Ðang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời”(Lc,24,51).
Nhập lễ:
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật Chúa Thăng Thiên hôm nay cho chúng ta thấy, sau khi hoàn thành sứ mạng Chúa Cha trao phó, Chúa Giê-su lại trao cho Giáo hội loan báo Tin Mừng cứu độ của Chúa cho hết thảy mọi người, và Người rời khỏi các môn đệ mà lên trời:
Về trời khi đã hoàn thành,
Cứu nhân, độ thế hành trang cao vời.
Quản cai làm chủ đất trời,
Rồi sau xuống thế vào thời cánh chung.
Hân hoan hạnh phúc vô cùng,
Giảng rao, tin tưởng, đợi trông Thánh Thần.
Hiệp dâng thánh lễ hôm nay, xin Chúa giúp chúng ta làm chứng về tình yêu cứu độ của Chúa bằng đời sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu thương, để sau khi hoàn thành sứ mạng ở trần gian, chúng ta cũng được về trời với Chúa. Trong tâm tình đó, chúng ta hãy thành tâm sám hối.
Sám hối:
X. Lạy Chúa, Chúa đã trải qua con đường thập giá để bước vào vinh quang phục sinh. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa Kitô, Chúa ngự bên hữu Chúa Cha để chuyển cầu cho chúng con. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa, Chúa trao cho Giáo Hội loan báo Tin Mừng cứu độ của Chúa. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
Kết: Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.
CĐ: Amen.
Suy niệm:
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Bởi nguyên tổ phạm tội “bất tuân phục Thiên Chúa” làm cho con người phải đau khổ, bệnh tật và phải chết. Nhưng con người sinh ra ở đời này không phải để chết mà để sống cho Thiên Chúa. Cái chết là một cuộc biến đổi từ cỏi hư vô để đi vào chốn vĩnh hằng. Chính vì thế, Con Thiên Chúa đã từ trời xuống thế làm người để cứu độ trần gian. Người làm chủ vũ trụ, làm chủ không gian và thời gian. Người làm chủ sự sống và sự chết. Người nắm trong tay dũng lực quyền năng, sống và chết đều thuộc về Người. Người đem tình yêu, niềm vui, ban bình an và sự sống đến cho nhân loại. Khi đã hoàn thành sứ mạng Chúa Cha trao phó, Người lại trao cho Giáo hội loan báo Tin Mừng cứu độ và Người rời khỏi các môn đệ lên trời mà về cùng Cha.
Thưa anh chị em, Chúa Giê-su phục sinh đã được Chúa Cha trao ban toàn quyền trên trời dưới đất. Thánh Phao-lô trong bài đọc I hôm nay đã quả quyết rằng, Thiên Chúa đã làm cho Chúa Giê-su từ cõi chết sống lại và đặt Người ngự bên hữu mình trên trời, vượt trên mọi phẩm trật. Chúa khiến mọi sự quy phục dưới chân Người, và tôn Người làm đầu toàn thể Hội thánh. Chúa Giê-su lên trời là về cùng Thiên Chúa. Nơi ấy, vượt ra ngoài không gian và thời gian của vũ trụ này. Nơi bình an, hạnh phúc tràn đầy và hoàn hảo trong tình yêu của Thiên Chúa. Chúa Giê-su lên trời là một cuộc tôn vinh Người sau khi đã hoàn tất chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa, bằng cuộc tử nạn đau khổ và phục sinh vinh hiển. Mầu nhiệm Chúa Giê-su lên trời mở ra một niềm hy vọng lớn lao cho các môn đệ. Từ đây, các ông được thúc đẩy bởi niềm tin và hy vọng. Các ông đã vượt qua nỗi kinh hoàng sợ hãi, chạy trốn và tản mát của những ngày khổ nạn. Nay các ông qui tụ ngợi khen Thiên Chúa, cầu nguyện và đón nhận sức mạnh Chúa Thánh Thần để trở thành những chứng nhân can đảm của Tin mừng phục sinh. Mầu nhiệm Chúa Giê-su lên trời gắn liền với lệnh truyền rao giảng việc sám hối và ơn tha tội trong mọi dân tộc. Người nói: “Các con là nhân chứng những sự việc ấy”. Như thế, việc rao giảng Tin mừng không còn là một việc mơ hồ viễn vông, nhưng là một việc hết sức cụ thể, dẫn tới thái độ vâng giữ những giới luật của Chúa.
Chuyện kể rằng, ở một dòng tu, có một chị khó sống được với các chị em khác. Lần kia chị đi xưng tội và cha giải tội bảo, trong dòng con có một người chính là Chúa Giê-su. Chị về dòng tìm hiểu coi ai là Chúa Giê-su. Gặp ai chị cũng vui vẻ và tôn trọng các chị em khác. Dần dần chị đã hòa nhập vào cuộc sống của các chị em. Từ đó, chị làm chứng về Chúa Giê-su trong đời sống thánh hiến hàng ngày của mình.
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Hôm nay Chúa về trời đó là niềm vui và là niềm hy vọng cho hành trình cuộc đời chúng ta. Các môn đệ cảm thấy lòng trào dâng niềm vui. Xa xăm nơi cuối chân trời chỉ còn vang vọng lời Thầy chí Thánh Giê-su: “Anh em hãy làm chứng nhân cho Thầy”. Mừng lễ Chúa lên trời, chúng ta không phải chỉ đăm đăm ngước mắt nhìn về trời để nuối tiếc, nhưng được mời gọi đón nhận sứ mệnh rao giảng Tin mừng bằng đời sống chứng tá vào môi trường mình đang sống, để từ nay u sầu sẽ gặp niềm vui, những đau khổ đời này không còn làm cho con người thất vọng, nhưng ánh vinh quang phục sinh của Chúa đã mang lại niềm hy vọng và lạc quan cho cuộc đời chúng ta. Chúa Giê-su đặt hết niềm tin tưởng nơi chúng ta, Chính Người soi lối mở đường cho chúng ta, để rồi sau khi chu toàn bổn phận của mình nơi trần gian này, chúng ta cũng sẽ trở về trời với Chúa của mình. Nơi chính Người đã đi trước để dọn chỗ cho những ai tin theo Người.
Nguyện xin Chúa cho mỗi người chúng ta đang khi hướng lòng về trời cao cũng biết chu toàn sứ mạng nơi trần thế trong niềm hân hoan, để sau khi trải qua cuộc đời chóng qua này chúng ta sẽ được vào chung hưởng hạnh phúc vinh quang với Người trên quê trời. Amen.
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang
SUY NIỆM 2: LỄ THĂNG THIÊN
Cả 3 bài đọc lời Chúa hôm nay đều tập trung trình bày cho chúng ta một cách chi tiết về biến cố Chúa Giê-su lên Trời. Sở dĩ như thế, là vì Giáo Hội muốn nhấn mạnh với chúng ta 2 chân lý này:
Thứ nhất, việc Chúa Giê-su về Trời là một biến cố có thực chứ không phải hư ảo.
Trong bài đọc I, tác giả sách Công vụ tông đồ đã trình bày rất rõ: sau 40 ngày hiện ra, cùng ăn cùng uống và sống với các Tông đồ, Chúa Giê-su đã tụ họp các ông lại một nơi, nói với các ông những lời sau cùng, và Ngài đã được cất lên Trời trước mặt các Tông đồ.
Phải nhấn mạnh đến điều này, vì ngày nay còn có rất nhiều người cho rằng, chuyện Chúa Giê-su lên Trời chỉ là 1 biến cố hư ảo được thêu dệt bởi sự mê tín của những người tin theo Chúa Giê-su, chứ làm gì có chuyện kẻ chết sống lại rồi tự bay lên trời.
Thứ hai, việc Chúa Giê-su về Trời nhắc cho chúng ta nhớ rằng: “Quê hương của chúng ta ở trên Trời” (Pl 3,20).
Sở dĩ dám khẳng định như thế, là vì Chúa Giê-su đã từng hứa với các tông đồ năm xưa và cả chúng ta hôm nay rằng: “Thầy đi là để dọn chỗ cho anh em, rồi Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu anh em cũng ở đó” (Ga 14,2-3). Để thực hiện lời hứa ấy, Chúa Giê-su đã không ngừng cầu xin với Chúa Cha: “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con” (Ga 17,24). Như vậy, việc Chúa Giê-su về Trời không chỉ đơn thuần là Ngài trở về cùng Cha, nhưng Chúa Giê-su còn mở ra cho chúng ta 1 con đường và dẫn chúng ta vào hưởng hạnh phúc với Ngài.
Phần chúng ta, để xứng đáng được về Trời với Chúa và trở thành công dân Nước Trời thì ngay khi còn ở đời này, anh chị em cần lưu tâm đặc biệt đến 2 thực hành cụ thể sau.
Thứ nhất, trong mọi sự phải luôn luôn hướng lòng về quê Trời.
Một trong những sai lầm mà nhiều kitô hữu hôm nay mắc phải, đó là cảm thấy thỏa mãn và muốn dừng lại nơi những cái ở đời này mà chẳng còn nghĩ gì đến đời sau. Bằng chứng là có nhiều người Công giáo vẫn buôn gian bán lận, gian dối lừa gạt, li dị ngoại tình mà bất chấp mọi lề luật của Chúa và Giáo Hội, bất chấp lương tâm mách bảo gì; nhiều người trẻ Công giáo lao vào ăn chơi hưởng thụ, ăn ở với nhau như vợ chồng trước hôn nhân, ngừa thai, phá thai vô nhân đạo mà bất chấp điều đó là tội hay không tội…
Đó là những cơn cám dỗ của cuộc đời mà chỉ những ai luôn hướng lòng về Nước Trời, mới có đủ ý chí và nghị lực để vượt qua được mà thôi.
Có lần Chúa Giê-su đã nói 1 câu đầy thuyết phục như thế này: cho dù “được lời lãi cả thế gian mà mất phần linh hồn thì nào có ích gì”. Thật vậy, cho dù khi ở đời này anh chị em có là ông này bà nọ, có là đại gia địa chủ đi chăng nữa; mà mai sau không được sự sống đời đời làm gia nghiệp, thì anh chị em cũng chỉ là những ki-tô hữu nghèo nàn và đáng thương nhất. Hãy gẫm điều đó để trong mọi sự luôn biết ái mộ những sự trên Trời!
Và thứ hai, hãy nhớ lại và sống lệnh truyền của Chúa Giê-su được thuật lại trong bài Tin mừng hôm nay: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy”, nghĩa là hãy giúp cho người khác biết Chúa Giê-su chính là đường là sự thật và là sự sống thưa anh chị em.
Khách quan mà nói, nhân loại hôm nay đang đối diện với rất nhiều khủng hoảng và bế tắc trong cuộc sống, từ cuộc sống mưu sinh đến hạnh phúc gia đình, từ trong khát vọng tâm linh đến niềm tin bị đánh mất. Xã hội thì tựa như một mớ bòng bong chẳng biết đâu là đường phải chọn. Lòng người thì giả dối chẳng còn biết tin cậy vào ai. Bệnh tật và chết chóc thì rình mò đe dọa….
Là người ki-tô hữu, trước hết, chúng ta hãy giúp cho những anh chị em ấy nhận biết Chúa Giê-su là đường dẫn đến nguồn chân thiện mỹ; kế đến, là giúp cho những anh chị em ấy nhận biết Chúa Giê-su là sự thật, là người đáng tin cậy để họ có thể gởi gắm những ưu tư trăn trở và lo toan của cuộc đời; sau cùng, là giúp cho những anh chị em ấy nhận biết Chúa Giê-su là sự sống đời đời để khi dối diện với ốm đau bệnh tật họ vững lòng cậy trông phó thác.
Tóm lại, mừng lễ Chúa Giê-su lên Trời hôm nay, xin cho mỗi người chúng ta vững lòng tin tưởng vào mầu nhiệm cao cả này. Đồng thời, xin cho mỗi người luôn biết ái mộ những sự trên Trời là quê hương đích thực của người tín hữu, và biết giúp cho người khác nhận ra Chúa Giê-su chính là nguồn ơn cứu độ đời đời.
Nguyện xin Mẹ Maria nguyện giúp cầu thay, để mai sau chúng ta cũng được thưởng cùng Đức Mẹ trên nước Thiêng đàng. Amen.
Lm. Antôn
SUY NIỆM 3: TỪ “LIKE” CHUYỂN THÀNH “AMEN”
Lễ Thăng Thiên kính nhớ việc Chúa Giê-su “lên trời”, được cử hành vào ngày thứ 40 sau Lễ Phục Sinh (x. Mc 16, 19-20; Cv 1,1-11).
Sự kiện Chúa Giê-su thăng thiên đánh dấu việc Người trở về “nơi” mà Người đã hiện hữu trước khi nhập thể (x. Ga 3,13). Lễ này nói lên việc nhân tính của Người tiến vào trong vinh quang của Thiên Chúa một cách vĩnh viễn (x. Ga 16,28; 17,5). Nó đánh dấu sự kết thúc sứ mệnh hữu hình của Chúa Giê-su ở trần gian và khởi đầu sứ mệnh của Giáo Hội. Vào chính ngày Phục Sinh, Chúa Giê-su đã được tôn vinh, được siêu thăng và “ngự bên hữu Chúa Cha” trong thân xác vinh quang của Người rồi. Tuy nhiên, theo trình thuật của Thánh Luca, sau khi phục sinh, Chúa Giê-su còn hiện ra nhiều lần với các môn đệ trong khoảng thời gian 40 ngày. Đây là thời gian Chúa Giê-su dùng để khẳng định sự Phục Sinh của Người, củng cố niềm tin của các môn đệ, hoàn tất việc giảng dạy và sai các ông đi rao giảng Phúc Âm. Với biến cố thăng thiên, Chúa Giê-su không còn hiện diện trong thân xác hữu hình như trước kia, nhưng Người vẫn hiện diện với Giáo Hội cho đến ngày tận thế (x. Mt 28,20) theo phương cách mới – theo quyền năng của Chúa Thánh Thần, với tư cách là Chúa của vũ trụ (x. Pl 2,10-11). (x. Tiểu ban Từ vựng – UBGLĐT/HĐGMVN).
Chúa lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha. Theo Thánh Kinh, ngự bên hữu nghĩa là đồng hàng trong danh dự, phẩm vị và quyền năng. Chúa Giê-su lên trời sau khi hoàn tất công cuộc cứu độ. Người lấy lại vinh quang, uy quyền và danh dự của một Thiên Chúa đồng hàng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Người lấy lại những sự ấy là vì đã tự nguyện trút bỏ nó khi vào trần gian để thực thi chương trình cứu độ. “Đức Giê-su Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2,6-7).
Chúa lên trời vì Người đã từ trời xuống: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3,13). Mầu nhiệm Chúa lên trời minh chứng cho nguồn gốc thần linh của Đức Kitô. Người không phải là phàm nhân được tôn lên hàng thần thánh. Người chính là Thiên Chúa có từ đời đời và mọi sự, mọi loài nhờ Người mà được hiện hữu. “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa…Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành” (Ga 1,1-3).
Chúa lên trời với cung cách hiện diện mới, trao sứ vụ cho các Tông đồ và Giáo hội tiếp nối sứ mạng loan báo Tin mừng yêu thương.
- Hiện diện mới
Chúa Giê-su đã tiên báo với các môn đệ : “Thầy đến cùng Chúa Cha”. Lời này được lập lại 7 lần trong khung cảnh tiệc ly (x. Ga 14, 12.28; 16, 5.10.28; 17,11.13), đến nỗi trong số các môn đệ tự hỏi lời nói đó có ý nghĩa gì (Ga 16,17). Đối với Chúa Giê-su, Người không đi đến một nơi nào khác, nhưng Người đến với một người, đó chính là Chúa Cha. Chúa Giê-su coi cuộc sống ở trần gian và những hoạt động của mình như một hành trình đi đến với Chúa Cha, như một cuộc về trời với Chúa Cha. Khi hiện ra với Maria Madalena, Chúa Phục Sinh nói: “Đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em (Ga 20,17). Như thế, Gio-an không kể về việc “lên cùng Chúa Cha” như một “nơi chốn”, Người không đến một nơi chốn (trời), nhưng đến với một người, đó chính là “Cha của Người và cũng là Chúa của anh em”.
Chúa về trời, một cuộc tạm biệt chứ không ly biệt. Chia tay để rồi sẽ gặp lại nhau trong một tương quan mới. Các lời nguyện và Kinh Tiền Tụng của lễ Thăng Thiên cũng chứa đựng ý nghĩa này: “Người lên trời không phải để lìa xa chúng con là những kẻ yếu đuối, nhưng vì là đầu và là Thủ Lãnh, nên Người đã đi trước, để chúng con là những chi thể của Người vững một niềm tin tưởng cũng sẽ được lên theo”.
Chúa về trời gợi lên trong tâm hồn chúng ta một khát vọng quy hướng về Người để rồi đối với chúng ta không còn hạnh phúc nào lớn hơn là được ở trong Người, đón nhận sự sống sung mãn Người ban tặng. Nhận thức được niềm hạnh phúc ấy, đời sống cầu nguyện của chúng ta sẽ có một sự thú vị ngọt ngào. Nơi thiên cung, mọi đau khổ, bệnh tật, chiến tranh, khủng bố không còn nữa. Ở đó chỉ có thanh bình, công bằng, và hạnh phúc viên mãn, nhân phẩm và nhân vị con người hoàn toàn được phục hồi trong ánh sáng phục sinh của Chúa Kitô.
Từ nay trở đi, Chúa Kitô Phục Sinh sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào Người.
Khi hai người yêu nhau thì luôn muốn sống bên nhau, nhưng tới một giây phút nào đó họ cảm thấy sống bên nhau vẫn chưa đủ. Những người yêu nhau muốn sống trong nhau, nhưng điều đó không thể xảy ra giữa loài người được vì dẫu sao thân xác của mỗi người vẫn tạo ra một ngăn cách. Điều con người không thể làm được thì Thiên Chúa đã làm. Chúa Giê-su một khi ngự bên hữu Chúa Cha đã hoàn toàn mặc lấy quyền năng Chúa Thánh Thần, Người đến ngự trong tâm hồn của mỗi chúng ta. Chính Người đã nói “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến nó và chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy” ( Ga 14,23). Để chúng ta hiểu hơn về sự hiện diện này Chúa đã dùng dụ ngôn cây nho và cành nho “Thầy là cây nho các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy thì người ấy sinh nhiều hoa trái vì không có Thầy anh em chẳng làm gì được”(Ga 15,5). Thiền sư Suzuki rất tâm đắc với huyền nhiệm này khi viết: Thiên Chúa ở trong con người và con người ở trong Thiên Chúa. Chúa là người và người là Chúa mà Chúa vẫn là Chúa và người vẫn là người. Quả thật,đó là điều kỳ bí nhất của Tôn Giáo, một nghịch lý thâm u nhất của triết học.
- Trao Sứ Vụ
Chúa về trời mở ra sứ vụ mới cho các Tông đồ. Đó là khai trương công cuộc truyền giáo toàn cầu với lệnh truyền của Chúa: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo”. Nội dung của việc truyền giáo được chỉ định rõ ràng: “Làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy. Làm phép rửa cho họ. Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho anh em”. Bảo chứng cho sứ vụ truyền giáo là: “Có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng”. Nhờ việc sai đi và uỷ quyền cho các Tông đồ, qua các Tông đồ rồi đến các môn đệ, Chúa Giê-su trở thành người sống đương thời với chúng ta “và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Chúa đã dùng Giáo Hội như đôi tay để tiếp tục công cuộc cứu rỗi của Người. Sứ mệnh của Chúa là sứ mệnh thiêng liêng. Nhưng sứ mệnh đó phải được thể hiện bằng lời nói, bằng hành động bên ngoài. Giáo Hội thực thi sứ mệnh đó trong khung cảnh hữu hình, nhờ những phương tiện cụ thể. Nhờ những sinh hoạt hữu hình và đôi tay cụ thể của Giáo Hội mà Chúa Giê-su tiếp tục loan truyền chân lý, trao ban sự sống, dẫn đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu.
- Từ“Like” Chuyển Thành “Amen”
Giáo Hội Thánh chọn lễ Thăng Thiên làm Ngày Thế giới Truyền thông. Ngày lễ Thăng Thiên gắn liền với mệnh lệnh: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19). Các Tông Đồ lên đường truyền giáo, cộng đoàn Giáo Hội được thiết lập và những bước chân không mệt mỏi của người loan báo Tin Mừng đã làm nên lịch sử Giáo Hội.
Có truyền giáo là có truyền thông, và bởi vì có truyền rao sứ điệp cứu rỗi của Tin Mừng nên mới có những người lắng nghe, đón nhận đức tin và được sống trong ơn cứu rỗi. Truyền giáo là nghĩa vụ “thông truyền điều đã thấy và đã nghe” (1Ga1,3) để mọi người được hiệp thông với Thiên Chúa. Đây là điểm khác biệt giữa truyền thông xã hội và truyền thông công giáo. Trong khi truyền thông xã hội khai thác thông tin theo quy luật cung cầu của thị trường, thì truyền thông công giáo lại xác định hướng đi của mình là mùa màng trong đời sống đức tin.
Trong thế giới kỹ thuật số, Giáo Hội khuyến khích con cái mình vận dụng những phương tiện truyền thông hiện đại nhất để thi hành sứ vụ loan báo Tin mừng. Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng: “Ngay từ khi internet lần đầu tiên xuất hiện, Giáo hội luôn tìm cách thúc đẩy việc sử dụng nó để phục vụ cho sự gặp gỡ giữa mọi người và cho sự đoàn kết giữa tất cả mọi người” (Sứ điệp Truyền thông 2019).
Trong Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông 53, Đức Thánh Cha Phanxicô ghi nhận tầm quan trọng và sự lan rộng của internet và các mạng xã hội trong đời sống con người ngày nay. Đó là nguồn kiến thức và những tương quan giữa con người với nhau. Tuy nhiên, cũng không thiếu những khía cạnh tiêu cực do các mạng xã hội. Đó là nơi dễ bị những tin tức giả mạo và xuyên tạc xâm nhập và lan tràn; các dữ kiện cá nhân nhiều khi bị lèo lái để mưu những lợi lộc về chính trị hoặc kinh tế, không tôn trọng nhân vị và các quyền của họ. Sứ điệp cũng cảnh giác chống lại sự tự cô lập qua các mạng xã hội, có hiện tượng những người trẻ trở thành “những ẩn sĩ xã hội”, trở nên hoàn toàn xa lạ với xã hội chung quanh.(x.vaticannews.va/vi).
Đức Thánh Cha dùng hình ảnh thân mình và các chi thể mà Thánh Phaolô đã dùng để nói về những quan hệ hỗ tương giữa con người: “Anh chị em hãy bài trừ dối trá và mỗi người hãy nói sự thật với tha nhân, vì chúng ta là chi thể của nhau” (Ep 4,25). Từ đó ngài kêu gọi dùng các mạng xã hội để kiến tạo tình hiệp thông, với ý thức chúng ta cùng họp thành một thân thể và là chi thể của nhau, và thay vì dùng các phương diện này để chia rẽ, gây oán ghét và thù hận, dựa trên sự dối trá.
“Chính Giáo hội là một mạng lưới được đan dệt bằng sự hiệp thông Thánh thể, trong đó sự hiệp nhất không được đặt trên những nút ‘like’ (thích), nhưng trên sự thật, trên lời ‘Amen’, qua đó mỗi người đều bám víu vào Thân thể của Đức Kitô, và chào đón người khác” (Sứ điệpTruyền thông 53).
Nếu Chúa Giê-su sinh ra trong thời đại này, Người sẽ dùng internet để rao giảng Tin Mừng. Chúa Giê-su Kitô là nhà truyền thông đầu tiên, vĩ đại, đại tài vì sứ điệp của Người là Tin Mừng, là tin vui cho mọi người. Chúa Giê-su có mạng lưới gồm các Tông đồ thông truyền Tin Mừng cho nhân loại. Qua các môn đệ, Tin Mừng được loan truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác. Chúa Giê-su không có các phương tiện hiện đại, Người có các Tông đồ, các môn đệ, các thế hệ nối tiếp nhau như mạng lưới phổ biến Tin Mừng khắp nơi trên thế giới.
Truyền thông chính là chia sẻ niềm vui Tin mừng cứu độ. Truyền thông có đặc điểm là khiêm tốn, nhẹ nhàng, nên mọi sự cho mọi người và xây dựng một nền văn hóa gặp gỡ yêu thương. Từ đó giúp con người nhận ra tình yêu của Chúa. Đây là sứ vụ Chúa trao phó cho mỗi người tín hữu trong thời đại hôm nay.
Cảm tạ Thiên Chúa đã ban những phương tiện truyền thông hiện đại. “Truyền thông, dù ở đâu và bằng cách nào, cũng mở ra những chân trời rộng lớn hơn cho nhiều người. Đây là quà tặng của Thiên Chúa kèm theo một trách nhiệm lớn lao”; “Internet có thể được sử dụng một cách khôn ngoan để xây dựng một xã hội lành mạnh và mở ra để sẻ chia” (Sứ điệp Truyền thông 50).
Ước mong mỗi người tín hữu biết sử dụng các phương tiện truyền thông với đức tin, trong sự tuân phục sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, góp phần cổ võ nền văn hóa gặp gỡ và tích cực loan báo tin vui bình an yêu thương.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
SUY NIỆM 4: “CHÍNH ANH EM LÀ CHỨNG NHÂN”
Hôm nay Giáo hội mừng kính trọng thể lễ Chúa Giê-su lên trời. Lễ Thăng Thiên diễn tả việc Chúa Kitô Phục Sinh từ nay sống trong thế giới của Thiên Chúa mà người ta thường gọi trong ngôn ngữ tôn giáo là “Trời” (bài đọc I và Tin Mừng). Vào thời Ðức Giê-su, để diễn tả sự vĩ đại, vinh quang của Thiên Chúa mà con người không thể đạt tới được, người Do Thái dùng hình ảnh của chiều cao: Chúa ở trên cao, ở trên trời. Thiên Chúa thường được gọi là Ðấng Tối Cao (Lc 1,76; Cv 16,17). Chúng ta thấy trong lời kinh Chúa Giê-su đã dạy các môn đệ cầu nguyện: “Lạy Cha chúng con ở trên trời.” Trong Kinh Tin Kính, chúng ta cũng tuyên xưng: “Người lên trời, ngự bên hữu Ðức Chúa Cha.”
Ðiều quan trọng đối với các Kitô hữu tiên khởi cũng như đối với chúng ta hôm nay, không phải ở việc muốn biết Chúa Giê-su lên trời như thế nào, nhưng là tìm hiểu ý nghĩa sự ra đi của Người.
Sau khi hoàn thành sứ mạng ở trần gian, Chúa Giê-su trở về với Chúa Cha. Từ nay, Chúa Kitô Phục Sinh vắng mặt về thể lý, không ai có thể thấy hoặc nghe tiếng Người nữa. Tuy nhiên, Người luôn hiện diện với Giáo Hội, với mỗi người chúng ta như Người đã hứa: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Sự hiện diện vô hình của Người, chỉ có thể thấy bằng con mắt đức tin.
Trong phần phụng vụ Lời Chúa hôm nay, nếu để ý kỹ, chúng ta thấy rằng thánh Luca đã đặt biến cố Lên Trời vào hai thời điểm khác nhau: một đàng, trong Tin Mừng của ngài, biến cố này xảy ra trong đêm Phục Sinh hoặc ngày hôm sau, ngay sau cuộc hiện ra với các môn đệ đi Em-mau; đàng khác, trong Công vụ Tông Đồ, trong bài đọc I, biến cố này diễn ra bốn mươi ngày sau đó. Tại sao vậy? Trong Tin Mừng, thánh Luca muốn diễn tả rằng cuộc phục sinh của Chúa Giêsu và biến cố Lên Trời của Người không thể tách rời nhau. Còn trong sách Công vụ Tông Đồ, thánh Luca coi biến cố Lên Trời là kết thúc các lần hiện ra sau Phục Sinh và là điểm khởi đầu cho sứ vụ của các Tông đồ.
Lễ Thăng Thiên kết thúc công cuộc truyền giáo của Chúa Giê-su thành Nagiarét, và khởi đầu thời gian của Giáo Hội. Dĩ nhiên, giai đoạn mới này luôn là giai đoạn của Chúa Kitô, vì tất cả đều hướng về Người, cũng như Người là đích điểm của mọi hoạt động tông đồ. Nhưng đó cũng là thời kỳ của Giáo Hội và các môn đệ để làm chứng cho Chúa Giê-su Kitô và cho Tin Mừng: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri, và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Ðó là ý nghĩa mọi hoạt động truyền giáo của Giáo Hội. Trước khi lên trời, Ðức Kitô giao phó cho tất cả các môn đệ, tức là tất cả các Kitô hữu trên toàn cầu, sứ mạng tiếp tục công trình của Người cho đến ngày tận thế.
Nhưng Chúa không để các môn đệ cô đơn. Chính Chúa Kitô sẽ ban cho họ Chúa Thánh Thần, là Đấng ban sức mạnh để Giáo Hội luôn trung tín với Người trong suốt dòng lịch sử. Sách Công vụ Tông Đồ sẽ cho chúng ta biết sự hiện diện hiệu quả như thế nào của Chúa Thánh Thần trong thời sơ khai của Giáo Hội.
Chúa Kitô không tỏ hiện một cách hữu hình, nhưng chỉ trong đức tin. Người hiện diện qua nhiều dấu chỉ. Trong Giáo Hội, Người hiện diện và tác động đặc biệt trong các Bí tích. Người cũng hiện diện giữa các cộng đoàn tín hữu: “Ở đâu có hai, ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở giữa họ” (Mt 18,20). Chúa Kitô Phục Sinh còn hiện diện trong mọi biến cố vui buồn của cuộc đời, qua sự dấn thân của chúng ta trong các hoạt động bác ái. Người cũng hiện diện trong mỗi người chúng ta. Chúng ta có thể nhận ra Người mỗi khi những người thù nghịch bắt tay nhau, khi có một nụ cười sưởi ấm tâm hồn, hay khi chúng ta tiếp đón và chia sẻ. Cha Michel Quoist nói: “Chúa Kitô không lánh mặt nhiều như chúng ta tưởng, chính mắt chúng ta không quen nhận ra Người.” Bà Madeleine Delbrêl cũng tự hỏi: “Lạy Chúa, nếu Chúa ở khắp mọi nơi, tại sao con hay ở nơi khác?”
Chúa hiện diện giữa chúng ta để chúng ta sống trong tình yêu của Người, cho chúng ta sống với anh chị em trong tình huynh đệ. Như các Tông Đồ ngày xưa, chúng ta được mời gọi làm cộng tác viên cho Chúa, làm chứng nhân tình yêu cho Người để xây dựng một thế giới, nơi mà tình yêu thương đẩy lui hận thù, nơi mà lòng ích kỷ, chia rẽ nhường chỗ cho tinh thần hiệp thông, liên đới. Công việc thật lớn lao, nhưng chúng ta hãy tin tưởng vì Chúa Kitô đã ban cho chúng ta Chúa Thánh Thần, là Đấng đổ đầy tràn trong chúng ta niềm vui, sức mạnh và can đảm.
Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
SUY NIỆM 5: SỨ VỤ ĐƯỢC TRAO CHO GIÁO HỘI VÀ TỪNG NGƯỜI
Các cha mẹ Việt Nam thường dành cả cuộc đời vất vả, không dám ăn, không dám mặc, để dành tiền, dành của lại cho con. Điều này khiến cho nhiều đứa con sống thụ động chờ đợi của cải từ cha mẹ. Khi đã được thừa hưởng một khối tài sản không phải vất vả mà có, nhiều người cũng không biết sử dụng sao cho phù hợp và có ích. Trái lại tại phương Tây, nhiều tỷ phú không để lại gia tài cho con cái, họ dùng vào việc từ thiện. Khi được hỏi: “Tại sao không để tài sản lại cho con?” Có người trả lời: “Tôi đã để lại cho nó kiến thức, công việc, kinh nghiệm và cơ hội, tự các con tôi phải tiếp tục làm việc bằng công sức của mình để gây dựng sự nghiệp chứ không phải ngồi đó chờ đợi của cải từ cha mẹ.”
Chúa Giêsu đã từng làm theo cách thứ hai. Hôm nay, chúng ta cùng với Giáo Hội mừng Lễ Chúa Giêsu lên trời sau khi đã hoàn tất sứ mạng của Người tại trần gian. Tuy nhiên, Chúa về trời không phải là Người lìa bỏ nhân loại chúng ta, nhưng là Ngài thay đổi cách hiện diện. Trước đây, Ngài hiện diện với các môn đệ bằng thân xác, cùng ăn uống, cùng sinh hoạt với các Tông đồ, nhưng nay Ngài thay đổi cách thế hiện diện. Ngài hiện diện với nhân loại cách thiêng liêng bằng tình yêu và quyền năng. Ngài lên trời, trở về trong vinh quang Thiên Chúa, bên cạnh Chúa Cha, Ngài sẽ chuyển cầu cho chúng ta cách đặc biệt hơn (Kinh Tiền tụng Thánh Lễ hôm nay). Quan trọng hơn nữa, Chúa về trời, song Ngài không muốn Giáo Hội chỉ đứng nhìn trời, nhưng trao cho Giáo hội một sứ vụ sống còn: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ rao giảng Tin Mừng.”
Sách Công vụ cho thấy, dường như sau khi Chúa phục sinh, các Tông đồ vẫn chưa thoát ra khỏi lối suy nghĩ cũ của họ. Các ông vẫn cứ mơ tưởng, mong đợi ngày Thiên Chúa khôi phục lại vương quốc Israel và các ông sẽ được chia phần: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Isarel không?” Tức là các Tông đồ vẫn mong đợi Chúa ra đi sẽ để lại cho các ông thừa hưởng một vương quốc hùng mạnh, mà chính các ông sẽ là người nắm giữ quyền lực, địa vị trong vương quốc đó; các ông sẽ là những kẻ bá chủ thiên hạ, thừa hưởng sự giàu sang, danh vọng. Chúa Giê-su đã sửa lại suy nghĩ của các Tông đồ, Ngài hướng các Tông đồ đến việc đón nhận “sức mạnh của Chúa Thánh Thần” và một sứ vụ thiêng liêng cao cả, đó là “anh em sẽ là chứng nhân của Thầy”. Sứ vụ Chúa Giê-su để lại cho các Tông đồ là trở nên chứng nhân, là xây dựng Giáo Hội, khởi đầu từ Giêrusalem cho đến tận cùng trái đất. Chúa không muốn các Tông đồ ngồi chờ thụ hưởng, mà phải là những người nỗ lực rao truyền Tin Mừng cách miệt mài không ngừng nghỉ, không giới hạn.
“Nói xong, Đức Giê-su được cất lên trời trước mặt các ông và có đám mây che phủ lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa.” Chi tiết này cho thấy, việc Đức Giê-su được nhắc lên cao, không phải là Ngài vĩnh viễn lìa xa nhân loại chúng ta, nhưng Kinh thánh muốn nói: Con mắt thể xác không thể nhìn thấy Ngài vì bị mây che phủ, nhưng con mắt linh hồn vẫn có thể thấy Ngài. Chúa Giê-su không bỏ lại Giáo Hội một mình, nhưng Ngài vẫn hiện diện, yêu thương và chăm sóc cho nhân loại như Ngài đã hứa: “Này đây Thầy ở lại với các con mọi ngày cho đến tận thế.” Các môn đệ khi được chứng kiến việc Chúa lên trời trong vinh quang của một vị Thiên Chúa, khiến cho các ông ngây ngất. Lúc đó có hai người mặc áo trắng đứng kề bên nhắc cho các môn đệ đừng quên sứ mạng Chúa đã uỷ thác. Dù vẫn phải hướng lòng về Trời, nơi đó có Chúa là niềm hy vọng, có người Thầy đang đợi chờ, nhưng các môn đệ vẫn phải nhớ và thi hành sứ vụ Thầy đã trao phó: “Hỡi những người Galilê, sao cứ mãi đứng nhìn trời? Đức Giê-su – Đấng vừa lìa các các ông và được rước lên trời cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời.”
Tin Mừng Luca nói rõ hơn về sứ vụ Chúa Giê-su để lại cho các Tông đồ: “Chúa Giê-su hiện ra và nói với các môn đệ: Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân…Chính anh em là chứng nhân về những điều này.” Như thế, sứ vụ Chúa Giê-su muốn các môn đệ thực thi đó là làm chứng về việc Chúa đã chịu khổ hình và sống lại, đồng thời kêu gọi mọi người sám hối để được ơn tha tội.
Để thi hành sứ vụ này, Đức Giê-su đã hứa sẽ trợ giúp các Tông đồ bằng việc ban cho các ông điều Chúa Cha đã hứa, đó là sẽ ban cho các ông quyền năng, sức mạnh từ trời cao. Quyền năng và sức mạnh ấy chính là quyền năng của Thiên Chúa và sức mạnh ấy là sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Quyền năng và sức mạnh của Chúa Thánh Thần là chính Chúa Thánh Thần sẽ trở thành Người bạn đồng hành, Người hướng dẫn, Người bảo vệ và là Người chỉ đường cho các môn đệ trong sứ vụ loan báo Tin Mừng Phục Sinh.
Có một chút khác biệt khi tác giả Luca thuật lại sự kiện Chúa lên trời trong sách công Vụ và trong đoạn Tin Mừng hôm nay. Nếu như trong sách Công vụ, khi Chúa được đưa lên trời, các môn đệ ngây ngất đưa mắt dõi theo, thì trong Tin Mừng, thánh Luca lại kể rằng: Sau khi căn dặn và trao ban sứ vụ cho các môn đệ, “Chúa Giê-su đã giơ tay chúc lành cho các ông.” Hành động này cho thấy Chúa Giê-su hoàn toàn tin tưởng và chúc lành cho các môn đệ và sứ vụ mà các ông đón nhận. Các môn đệ khi chứng kiến việc Chúa được đưa lên trời, thì càng xác tín rằng, Thầy của các ông, Chúa Giê-su chính là vị Thiên Chúa quyền năng. Vì xác tín như thế, nên “các môn đệ “bái lạy Người” rồi trở lại Giêrusalem lòng đầy hoan hỷ, hằng ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa.” Hành vi bái lạy là hành vi truyền thống thể hiện niềm tin, sự tôn thờ Thiên Chúa Yavê, nay, các môn đệ cũng dành cho Chúa Giê-su sự tôn thờ của chính Thiên Chúa. Các Tông đồ không buồn vì phải chia tay với Thầy, nhưng trái lại lòng các ông đầy hoan hỷ vui mừng để lên đường bắt đầu một sứ vụ mới.
Giải thích cho hành vi bái lạy của các Tông đồ trước khi Chúa Giê-su được đưa lên trời, thư Do Thái cho thấy: Sau cái chết và cuộc phục sinh, Chúa Giê-su đã được Thiên Chúa Cha tôn vinh và trở thành Thượng tế. Việc Đức Giê-su lên trời cũng giống như vị thượng tế long trọng bước vào cung thánh trong tiếng hoan ca của các thiên thần và các thánh. Hiện diện trước mặt Thiên Chúa Cha trong Đền Thờ trên trời trong vai trò là thượng tế, Đức Giê-su hiến tế chính máu thịt và mạng sống mình làm của lễ toàn thiêu dâng lên Thiên Chúa Cha và cầu xin ơn tha tội cho nhân loại. Tác giả thư Do Thái cũng cho thấy: Đức Giê-su chỉ hiến tế thân mình một lần duy nhất, thì đã đủ để ban lại ơn cứu độ cho toàn nhân loại từ trước đến nay và còn cho đến ngày tận thế. Ngài sẽ trở lại trong vinh quang để dẫn chúng ta cùng bước vào Thiên quốc. Những ai tin tưởng nơi Ngài và để cho Ngài dẫn đường, thì sẽ được cùng Ngài vào chung hưởng vinh quang Thiên quốc với Ngài.
Thưa quý OBACE, mừng lễ Chúa Giê-su lên trời nhắc cho chúng ta nhớ: Quê hương đích thực và cùng đích cuộc đời của ta là Nước Trời, là trở về với Thiên Chúa. Vì thế chúng ta cần phải sống và chuẩn bị thật tốt cho cuộc trở về này. Lễ Chúa lên trời cũng là dịp nhắc cho chúng ta sứ vụ Loan báo Tin Mừng mà Chúa đã trao phó. Chúng ta cần phải ghi nhớ và thực thi cách liên tục sứ vụ này trong suốt cuộc đời. Chúng ta sẽ loan truyền Chúa Phục sinh cho anh chị em bằng đời sống đức tin, bằng chứng tá và bằng những việc bác ái tích cực, đem bình an và niềm vui của Chúa đến cho những người ta gặp gỡ.
Hôm nay cũng được chọn làm ngày Thế giới Truyền thông Ngày Thế giới Truyền thông, Đức cố Giáo Hoàng Phanxicô từng mời gọi mọi người “Lắng nghe bằng trái tim”. Con người, ai cũng muốn được người khác lắng nghe, nhờ đó có thể thấu hiểu, cảm thông và tôn trọng. Thực tế, người ta thích nói nhiều hơn nghe, nhiều người mất khả năng lắng nghe. Nhiều người có thể mất rất nhiều thời gian cho việc lướt web nhưng lại không kiên nhẫn để lắng nghe người bên cạnh. Nhiều người chỉ muốn nghe những gì họ thích nghe, thích nghe những sự kiện của thế giới nhưng lại không muốn nghe những người trước mặt, những chuyện thường ngày của cuộc sống trong gia đình.
Trong sứ điệp, ngài mời gọi: Cần phải lắng nghe cách chăm chú và lương thiện: Chú ý đến người trước mặt và lắng nghe với toàn thể con người, với con tim rộng mở, để có thể gần gũi nhau. Bên cạnh đó chúng ta còn phải lắng nghe chính bản thân mình, nghe được tiếng Chúa và nhu cầu thiết lập tương quan với Thiên Chúa và với người khác. Trong cuộc sống chung, cần phải biết lắng nghe nhiều tiếng nói khác biệt với sự kiên nhẫn; lắng nghe với sự cởi mở công bằng, tin tưởng và trung thực để tìm kiếm chân lý và thiện hảo.
Xin Chúa Giê-su giúp ta luôn nhận ra Chúa hiện diện và cùng với Chúa nhiệt thành thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng cho anh chị em, đồng thời cũng biết lắng nghe anh chị em bằng cả trái tim. Amen.
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
SUY NIỆM 6: NIỀM VUI TỪ CHÚA KITÔ VINH HIỂN
Thông thường, khi có ai ra đi, chúng ta thường cảm thấy buồn và thương nhớ. Bởi vì ra đi là chết đi trong lòng một ít như người Pháp nói: “Partir c’est mourir un peu.” Tuy nhiên, việc Đức Giê-su chia tay các môn đệ để về cùng Chúa Cha lại là biến cố của niềm vui. Các Tông Đồ trở về cõi thế. Chia tay đôi ngã, tuy ngậm ngùi nhưng lòng vẫn chan chứa niềm vui.
1- Niềm hy vọng lớn lao
Bởi lẽ, Chúa Giê-su lên trời là phần thưởng và là vinh quang mà Thiên Chúa Cha ban cho Người, sau khi Đức Giê-su hoàn tất sứ vụ cứu độ được Chúa Cha giao phó. Người đã nhập thể làm người, chịu đau khổ, chết và phục sinh; hôm nay,
Người lên trời vinh hiển. Nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa Cha đã siêu thăng Người và đặt Người ngự bên hữu Chúa Cha. Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh (x. Ep 1,17-23). Khi ở bên hữu Thiên Chúa, Đức Giê-su hằng cầu thay nguyện giúp cho chúng ta trước mặt Chúa Cha (x. Dt 7, 25).
Biến cố Chúa lên trời mở ra cho chúng ta niềm hy vọng về phần thưởng Nước Trời mà Người đã hứa. Theo lời thánh Lêô Cả: Vị Thủ Lãnh của chúng ta bước vào thiên đàng và ở trên đó, “vinh quang của Đầu” đã trở thành “niềm hy vọng cho thân xác” (x. Bài giảng lễ Thăng Thiên). Chúa Giê-su đã vĩnh viễn bước vào thiên đàng, “Người là Đầu và là Trưởng Tử giữa đàn em đông đúc” (Rm 8,29).
Nước Trời là quê hương đích thực của mỗi người chúng ta. Đức Giê-su khai mở cho chúng ta về một tương lai mới, đó là hạnh phúc thiên đàng. Sống trên trần gian, chúng ta luôn phải hướng về quê thật, nơi đó có hạnh phúc đích thực.
2- Chúa Giê-su lên trời, Thánh Thần hiện xuống
Nếu Chúa Giê-su không về cùng Chúa Cha, thì Thánh Thần sẽ không được ban. Như Chúa đã nói: “Thầy đi thì ích lợi cho các con, vì nếu Thầy không đi, thì Đấng Phù Trợ sẽ không đến với các con, nhưng nếu Thầy ra đi, Thầy sẽ sai Người đến với các con” (Ga 16,7).
Quả thế, sau khi Chúa Giê-su về trời, Chúa Cha sai Chúa Thánh Thần xuống trên các Tông Đồ trong ngày lễ Ngũ Tuần. Chúa Thánh Thần chính là Đấng Bảo Trợ mới của Giáo Hội. Người hiện diện và hoạt động trong Giáo Hội. Người ban sức mạnh và biến đổi Giáo Hội. Nhờ Chúa Thánh Thần, các Tông Đồ từ những người thất vọng, nhát đảm, sợ sệt, trở thành những người rất can đảm và hăng say rao giảng Tin Mừng. Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống và là nguồn của mọi ân sủng. Nhờ Thánh Thần, chúng ta mới có thể làm con cái Chúa.
Như thế, Chúa Thánh Thần chính là quà tặng của Đấng Phục Sinh, được ban cho chúng ta khi Người về trời. Đó là niềm vui lớn lao cho chúng ta.
3- Với sứ vụ truyền giáo
Đấng Phục Sinh ủy thác sứ vụ truyền giáo cho Giáo Hội khi nói: “Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân,” (Lc 13,47) hay “chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24,48).
Vì thế, khi Đức Giê-su lên trời thì cũng là lúc các Tông Đồ phải xuống núi, phải lên đường để thi hành sứ vụ của mình. Các Tông Đồ đã ra đi và hăng say rao giảng Tin Mừng Phục Sinh cho mọi người, mọi dân tộc. Nhờ đó, Đạo Chúa được lan tỏa khắp thế giới.
Ngày hôm nay, Chúa Giê-su tiếp tục mời gọi mỗi người chúng ta cộng tác vào sứ vụ cao cả này: Chính chúng ta là những chứng nhân của sự thật và giá trị Tin Mừng.
Kitô giáo dạy chúng ta rằng trong khi hướng về thiên quốc, người Kitô hữu có bổn phận phải xây dựng xã hội trần thế này nên nhân bản, đạo đức và đẹp đẽ hơn. Bởi thế, người Công Giáo tốt là người tuân giữ luật lệ giao thông, trật tự công cộng và thiện ích cộng đồng tốt hơn những người khác.
Người Công Giáo tốt phải là người đi đầu trong việc giữ gìn vệ sinh nơi công cộng, làng xóm, xứ đạo và gia đình của mình.
Người Công Giáo tốt phải là người đi đầu trong việc bảo vệ môi trường sạch sẽ, an toàn, và không sản xuất những thực phẩm bẩn và có độc tố để kiếm tiền bằng mọi giá.
Đó là bổn phận của người Kitô hữu khi sống trong xã hội. Bằng những chứng tá về đời sống, chúng ta tham gia để xây dựng xã hội này công bình hơn, an toàn hơn và văn minh hơn. Amen!
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
SUY NIỆM 7: MỪNG CHÚA LÊN TRỜI
Thưa anh chị em,
Chúng ta đã trải qua 40 ngày mừng Chúa Phục Sinh, hôm nay cùng với Giáo Hội chúng ta hân hoan mừng kỷ niệm Chúa về trời. Mừng Chúa lên trời, là chúng ta tuyên xưng một tín điều trong Kinh Tin Kính đó là: “Người sống lại và lên trời ngự bên hữu Chúa Cha”. Chúa lên trời dạy chúng ta điều gì?
1/ Ngài dạy chúng ta một chân lý: “Sự sống này thay đổi chứ không mất đi, chết không phải là hết, không phải là tận cùng, nhưng là bước vào một cuộc sống mới “. Như vậy chúng ta xác tín rằng: đây là cuộc sống lữ hành “Sống gửi thác về”. Bởi thế gian không phải là nhà, Thiên đàng hoan lạc mới là quê hương. Chúa đi trước dọn chỗ cho chúng ta, nơi đó là cõi nguồn hạnh phúc, là phần thưởng dành cho những ai suốt đời khao khát tìm kiếm những sự trên trời.
Chúng ta hy vọng ngày mai đây sau khi nhắm mắt lìa đời, sẽ được Chúa cho sống lại với Chúa trên Nước trời, nếu ở đời này chúng ta ăn ngay ở lành và gắng bước theo Chúa. Chúng ta tin rằng mọi việc lành đều sinh công phúc; mọi đau khổ nếu vui lòng chịu vì lòng yêu mến, Chúa sẽ thưởng công cho chúng ta ở đời sau. Vì Chúa trải một kiếp người đầy đau khổ mới bước vào vinh quang ngàn đời.
2/ …. Ngài dạy chúng ta đi rao truyền chân lý
Chúa về trời, là Ngài hoàn tất sứ mạng rao giảng Tin mừng, Ngài trối sứ vụ đó cho các môn đệ cũng như cho chúng ta như một bài sai: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân tất cả những điều Thầy đã truyền cho các con…” (Mt. 28,19).
Chúa muốn chúng ta tiếp tục sứ mạng rao giảng Tin mừng cứu độ. Bởi vì trong ba năm đi rao giảng, bước chân của Ngài chỉ đi trong nước Palestine nhỏ bé, còn lại cả một thế giới mênh mông ngút ngàn Ngài chưa đi tới. Còn biết bao dân tộc xa xăm chưa biết Chúa là ai, chưa một lần nghe nói về danh thánh Ngài; chưa biết được hạnh phúc Nước trời là gì. Chính vì lẽ ấy Chúa mời gọi: “Các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng…” (Mc. 16,15).
Nhưng trước khi sai các tông đồ ra đi rao giảng Tin mừng, thì Chúa Giê-su đã ra đi trước rồi. Ngài vâng lệnh Chúa Cha ra đi từ trời cao xuống đất thấp. Ngài ra đi từ địa vị Thiên Chúa xuống làm con người, để ở cùng ở với chúng ta.
Ngài ra đi khỏi gia đình êm ấm lang thang trên khắp nẻo đường. “Con chim có tổ, con chồn có hang, Con Người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8, 20).
Chúa không ngừng ra đi đến với mọi miền đất nước. Chẳng hạn như: Chúa đến miền Thập Tỉnh phần đông là người ngoại đạo. Miền bị ma quỉ thống trị. Miền mồ mả chìm trong bóng tối sự chết. Chúa đến và gặp người khổ cực nhất. Chúa đã giải thoát họ khỏi thần chết, đem lại ơn sức sống cho họ.
Noi gương Chúa, chúng ta không những ra đi khỏi ngôi nhà êm ấm, nhưng còn là ra đi khỏi con người sống chủ nghĩa cá nhân, an phận, lo vun đắp cho mình, mà không hề biết dấn thân, quảng đại chia sẻ với những người kém may mắn.
Qua mọi thời đại, Chúa vẫn tiếp tục sai chúng ta ra đi gieo rắc tình thương, loan tin bình an, cùng nhau xây dựng một nền văn minh tình thương, để con người xích lại gần nhau hơn, sống công bình bác ái, như lòng Chúa mong muốn.
3/ … Ngài dạy chúng ta lo tìm kiếm nước Chúa
Tìm kiếm Nước Chúa là mỗi sáng khi thức dậy, người đầu tiên chúng ta phải nhớ là Chúa. Việc suy nghĩ tìm kiếm đầu tiên phải là Nước trời, bởi vì Chúa nói “Tiên vàn, các con hãy tìm kiếm Nước Trời trước, còn mọi sự khác Ngài sẽ ban cho sau ” (Mt 6,33).
Anh chị em thân mến,
Mừng kỷ niệm Chúa Giê-su lên trời và lời Ngài hứa “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế “(Mt. 28,20). Chúng ta hiểu rằng: Chúa lên trời không theo nghĩa thể lý hay không gian. Mặc dù Chúa không hiện diện cách hữu hình nữa, nhưng Ngài vẫn hiện diện cách thiêng liêng và đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường dương thế.
Mừng lễ Chúa lên trời, xin Chúa giúp chúng ta đừng tìm kiếm những sự mau qua ở đời này, nhưng hãy lo tìm kiếm những sự trên trời, bằng cách sống chân lý Chúa dạy; biết thi hành mệnh lệnh Chúa trao, và lo tìm kiếm Nước Chúa. Có như thế, chúng ta mới hy vọng sau khi nhắm lìa đời, chúng ta được Chúa cho sống lại với Chúa trên Nước Trời. Amen.
Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải