
CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY – NĂM C
Gs 5,9-12; 2 Cr 5,17-21; Lc 15,1-3.11-32
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
1 Khi ấy, các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giê-su để nghe Người giảng.
2 Thấy vậy, những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.” 3 Đức Giê-su mới kể cho họ dụ ngôn này:
11 “Một người kia có hai con trai. 12 Người con thứ nói với cha rằng: ‘Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng.’ Và người cha đã chia của cải cho hai con.
13 Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình.
14 “Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, 15 nên phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo.
16 Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho.
17 Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: ‘Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói!
18 Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: ‘Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, 19 chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy.’
20 Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha. “Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra, ôm cổ anh ta, và hôn lấy hôn để.
21 Bấy giờ người con nói rằng: ‘Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa...’
22 Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: ‘Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, 23 rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng!
24 Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.’ Và họ bắt đầu ăn mừng.
25 “Lúc ấy người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, 26 liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì.
27 Người ấy trả lời: ‘Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ.’
28 Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ. 29 Cậu trả lời cha: ‘Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè.
30 Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!’
31 “Nhưng người cha nói với anh ta: ‘Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con.
32 Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy’.”
SUY NIỆM 1: NIỀM VUI SÁM HỐI
Lời Chúa: “Phải ăn tiệc và vui mừng vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy” (Lc 15, 32).
Nhập lễ:
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật IV mùa Chay hôm nay cho chúng ta thấy, Thiên Chúa là người Cha nhân hậu và giàu lòng thương xót trước thái độ sám hối trở về của hối nhân. Sự trở về của người con thứ nói lên niềm vui sám hối khi được đón nhận vào Nhà Cha, được gọi là con và lãnh lấy phần gia nghiệp của Cha:
Khổ đau bởi tội gây ra,
Người con xin được thứ tha lỗi lầm.
Cha già đâu có nhẫn tâm,
Hằng chờ hằng đợi lỗi lầm tha ngay.
Điều cần ghi khắc đêm ngày,
Trở về với Chúa hôm nay đừng chờ.
Hiệp dâng thánh lễ hôm nay, xin Chúa giúp cho chúng ta nhận biết Thiên Chúa đầy yêu thương tha thứ, để chúng ta tin tưởng bước ra khỏi nơi tội lỗi và trở về cùng Thiên Chúa mỗi khi lỗi phạm. Trong tâm tình đó, giờ đây chúng ta hãy thành tâm sám hối.
Sám hối:
X. Lạy Chúa, Chúa đến để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa Kitô, Chúa là Đấng nhân hậu và giàu lòng thương xót. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa, Chúa mời gọi chúng con hối cải để được sống. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
Kết: Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.
CĐ: Amen.
Suy niệm:
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Mùa Chay không phải là một cuộc lữ hành buồn thảm nhưng là một hành trình xuyên qua tăm tối, u sầu, chết chóc để tiến tới ánh sáng vui mừng và sự sống. Chính vì thế, phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật IV mùa Chay hôm nay Giáo hội vén bức màn niềm vui sám hối của sự trở về. Niềm vui ấy khi mọi người được đón nhận vào miền Đất Hứa. Dân Do thái xưa trong cuộc hành trình 40 năm chịu thử thách đầy gian khổ, đã có một kinh nghiệm rõ rệt khi đặt chân vào Đất Hứa.
Thưa anh chị em, để thực hiện lời hứa, Thiên Chúa đã yêu thương tuyển chọn một dân riêng: Dân Do thái. Ngài đã dẫn dắt họ ra khỏi ách nô lệ Ai Cập, đưa họ vào miền Đất Hứa. Nơi chảy sữa và mật. Suốt 40 năm lữ hành trong sa mạc, mặc dù được hưởng bao hồng ân Thiên Chúa ngay cả việc ăn uống, Thiên Chúa đã nuôi dưỡng dân Do thái bằng manna, ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ thích, không bị hạn chế, nhưng khi đã đặt chân vào miền Đất Hứa rồi, manna đã trở nên món ăn nhàm chán. Nay được Thiên Chúa cho hưởng quyền tự do sau khi Ngài giải thoát họ khỏi cảnh nô lệ Ai Cập. Thiên Chúa phán cùng Giosuê rằng: “Hôm nay, Ta đã cất sự dơ nhớp của Ai Cập khỏi các ngươi!”. Niềm vui sau những ngày gian khổ. Nhìn về tương lai sáng lạn chứ không còn rầu rĩ với quá khứ. Cuộc xuất hành về Đất Hứa đã kết thúc. Để kỷ niệm ngày tự do này, họ long trọng ăn mừng lễ Vượt Qua đầu tiên để tạ ơn Thiên Chúa đã thực hiện lời hứa trong giai đoạn quyết định vừa qua. Thiên Chúa không còn nuôi họ bằng bánh manna từ trời nữa, nhưng Ngài cho phép họ dùng chính hoa màu của vùng đất mới làm và dân bắt đầu ăn thổ sản trong xứ. Để có được niềm vui hoan lạc đó, dân Do thái đã phải chấp nhận thanh luyện, chấp nhận giao hòa, chấp nhận trở về với Thiên Chúa và luôn nhớ đến lòng thương xót của Ngài đối với họ.
Niềm vui bởi cuộc trở về với Thiên Chúa của dân Do thái xưa, thì đó cũng là niềm vui của người Kitô hữu chúng ta hôm nay qua hình ảnh người con thứ trong dụ ngôn bài Tin mừng càng lớn lao hơn: những ân hận về cuộc sống dĩ vãng, những lo lắng về thái độ của người cha giờ đây đã biến tan hết, tất cả là niềm vui khi được gặp lại người cha nhân từ và yêu thương, không một lời trách móc, không một thái độ từ rẫy: “Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu, hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu, và xỏ giầy vào chân cậu. Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng: vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất, nay lại tìm thấy”. Hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, niềm vui này chưa tàn niềm vui khác đã khởi sắc. Thiên Chúa là người Cha nhân hậu và giàu lòng thương xót trước thái độ sám hối trở về của người con. Một Thiên Chúa yêu thương, quảng đại và hay tha thứ. Một Thiên Chúa không thích dùng hình phạt nhưng luôn tỏ lòng khoan dung.
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Sự trở về của người con thứ nói lên niềm vui sám hối khi được đón nhận vào Nhà Cha, được gọi là con và lãnh lấy phần gia nghiệp của Cha. Chúng ta đang sống trong Mùa Chay Thánh, đặc biệt trong bối cảnh Năm Thánh Hoàn Vũ, Giáo hội mời gọi chúng ta sám hối và trở về với Đấng Giàu Lòng Thương Xót. Sám hối để nhận biết mình yếu đuối lầm lỗi mà hối lỗi và biết xin lỗi. Nếu chúng ta không có khả năng xin lỗi, thì có nghĩa là chúng ta cũng không có khả năng tha thứ. Là con người không ai tránh khỏi những sai sót, lầm lỗi nhưng tất một điều, chúng ta có khả năng thấy được sai sót, lầm lỗi của mình để sửa chữa, để xin lỗi. Đức Thánh Cha Phaxicô khuyên rằng: đừng bao giờ kết thúc ngày sống mà không làm hòa với nhau. Và để làm điều đó thì chỉ cần một cử chỉ bé nhỏ thôi, một lời nói thật quý báu này: I’m sorry “Tôi xin lỗi”. Người con thứ đã biết sám hối nên anh đã nhận ra những sai sót, lầm lỗi của mình và quyết tâm trở về cùng cha để xin lỗi: “Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha, con không đáng được gọi là con cha nữa”. Nhờ đó anh được đón nhận vào Nhà Cha, được gọi là con và lãnh lấy phần gia nghiệp của Cha.
Phần chúng ta, chúng ta còn chần chờ gì nữa mà không sám hối, trở về giao hoà với Chúa qua Bí tích Hoà giải?
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta biết đứng dậy trở về với tình thương khoan dung của Chúa, để chúng ta cảm nếm biết Chúa thiện hảo nhường bao. Amen.
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang.
SUY NIỆM 2: CHA GIÀ DẤU YÊU
Cả 3 bài đọc hôm nay đều muốn nói với chúng ta điều này, đó là: Thiên Chúa yêu thương con người.
Bài đọc I trích từ sách Giô-suê cho ta biết, cuộc hành trình 40 năm trong sa mạc của dân Israel đã đến hồi kết, và là cái kết hết sức đẹp, đẹp bởi vì họ đã tiến vào được miền đất hứa tràn trề sữa và mật, mà chính Thiên Chúa đã hứa với cha ông của họ; dầu dân Israel đã “5 lần 7 lượt” bội nghĩa bất trung. Kết thúc có hậu đó cho thấy tình thương của Thiên Chúa luôn luôn chiến thắng tội lỗi của con người.
Nói đến tình thương của Thiên chúa, thì dụ ngôn “Người cha nhận hậu” được thuật lại trong bài Tin mừng hôm nay, là 1 áng văn tuyệt đẹp diễn tả về lòng nhân hậu của Thiên Chúa khiến ta phải ngỡ ngàng
Chúa Giêsu đã khéo léo phác họa lên hình ảnh của người cha già ngày đêm mòn mỏi ngóng trông con trở về. Ông trông ngóng không phải để người con thứ mang về cho ông điều này điều nọ, nhưng ông chỉ mong cậu mang về cho ông lòng sám hối lỗi lầm.
Trong khi người con thứ ở phương xa đang cố gắng chuẩn bị một bài xin lỗi thật hay, thật lâm li bi đát để làm cha xiêu lòng, thì ở nhà, người cha lại chuẩn bị một biển tình rộng lớn, và những gì tốt đẹp nhất để sẵn sàng chào đón cậu.
Rồi ngày ấy cũng đến, nếu như ngày ra đi người con thứ đã cất bước kiêu hãnh bao nhiêu, thì lúc trở về, cậu lại ngập ngừng những bước chân thẹn thùng e ngại bấy nhiều. Còn người cha thì ngược lại: ngày nhìn con ra đi ông tiều tụy và muốn quỵ ngã bao nhiêu, thì khi nhìn thấy cậu trở về, ông lại vui mừng hớn hở chạy đến ôm con vào lòng.
Chúa chúng ta là như thế đó thưa anh chị em. Ngài xót xa khi thấy một người lầm đường lạc lối. Và Ngài mừng vui khi thấy một người tội lỗi sám hối ăn năn. Ngài ghét tội, nhưng Ngài không ghét người có tội. Ngài rất mực yêu thương các tội nhân.
Chính vì thế mà trong bài đọc II, Thánh Phaolô không ngừng thúc giục chúng ta hãy sám hối trở về. Thậm chí Thánh nhân còn năn nỉ chúng ta rằng: “Tôi nài xin anh em hãy mau quay về mà làm hòa với Thiên Chúa”.
Làm người ai lại chẳng có những lỗi lầm phải không anh chị em? Về phương diện này, tất cả chúng ta đều giống nhau. Nhưng chúng ta có thể hơn nhau ở chỗ, là dám nhìn nhận những thiếu sót của bản thân và sám hối sửa đổi.
Nhỡ một lúc nào đó, tuy chúng ta đã nhận ra được lầm lỗi của mình nhưng còn lừng khừng giằng co bước tiến bước lùi; thì anh chị em hãy nhớ lại hình ảnh người con thứ, xem anh ta đã can đảm quay bước trở về như thế nào.
Nhỡ một lúc nào đó anh chị em còn e ngại khi phải thổ lộ những lầm lỗi của mình với Chúa qua Bí tích Hòa giải, thì hãy chúng ta nhớ lại hình ảnh của người cha nhân hậu trong bài Tin mừng hôm nay, xem tình thương của ông rộng lớn như thế nào.
Thưa anh chị em, Thiên Chúa yêu thương con người, và Ngài vẫn đang tiếp tục yêu thương chúng ta. Đây là sứ điệp cốt lõi của lời Chúa trong Chúa Nhật IV mùa Chay hôm nay, và là thông điệp ngàn đời mà Giáo Hội muốn nhắn gởi đến từng người chúng ta.
Phần chúng ta, mỗi người hãy tin tưởng vào tình thương tha thứ của Thiên Chúa và mau mau sám hối lỗi lầm. Amen.
Lm. Antôn
SUY NIỆM 3: VÀO HAY KHÔNG VÀO
Tháng 1 năm 2022, trên Vietcatholic.net, có giới thiệu những tác phẩm mới của Cha Nguyễn Tầm Thường (vietcatholic.net/News/Home/Article/273498). Phải nhờ người quen tận bên… Mỹ đặt mua, tôi có được 5 cuốn sách mới của ngài: “Phúc âm trong dụ ngôn” 3 tập, “Hãy đi bình an” và “Ngoài cửa Nhà thờ”.
Trong tập 2, Dụ ngôn “Người cha nhân hậu” được tác giả phân tích và suy niệm sâu sắc qua 11 đoản khúc với 114 trang sách, từ trang 155-269.
Tin Mừng Chúa Nhật IV Mùa Chay kể về dụ ngôn “Người cha nhân hậu”, tôi đọc đi đọc lại nhiều lần và dừng lại để suy niệm về hình ảnh người con cả.
“Dọc theo Phúc âm, hình ảnh người con cả dấp dáng trong cách đi, cách đứng của các Biệt Phái, Kinh Sư, Thông Luật. Người con cả ở trong nhà mà xa cha. Như Biệt Phái ở trong Đền thờ mà xa Thiên Chúa. Họ kết án người khác. Họ xa lánh người có tội. Người con cả ở đây cũng kết án người em. Biệt Phái dựa vào nhân đức của mình, như người con cả cậy vào công việc của nó. Giống người con cả là luôn nghĩ đến mình, anh ta không có niềm vui, những Biệt Phái cũng vậy” (trang 211).
Đây là dụ ngôn “hai” người con hoang đàng chứ không phải là một. Khác nhau là kẻ ở, người đi. Biết đâu kẻ ở, lại là chủ đề độc đáo hơn người đi. Vì thân xác trong nhà mà tâm hồn thì đi xa.
- Ở ngoài
Hai đứa cùng về, một đứa vào trong nhà, một đứa dừng lại bên ngoài. Trong giây phút quan trọng của tiệc chung vui này, chuyện xảy ra là đứa đã lâu cha không gặp bây giờ gặp. Đứa vẫn hàng ngày gặp, bây giờ không.
Dụ ngôn hơn hai nghìn năm trước mà vẫn quá gần như ngày hôm nay. Lời dụ ngôn này hôm nay vẫn đang xảy ra. Trong kinh nghiệm thực tế chứng tỏ: Có anh trong đoàn thể này thì không có tôi… ngày giỗ của bố mẹ, mà có đứa con này thì đứa kia không đến. Người ta tránh nhau trong nhiều sinh hoạt tôn giáo của một cộng đoàn. Tự bản chất Giáo hội là hiệp thông. Chuyện kẻ ở trong, người đứng ngoài là chuyện giữa chiên với chiên, giữa chiên với chủ chăn.
- Hỏi xem chuyện gì
“Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì.”
Có thật sự người con cả không biết chuyện gì không? Nếu không biết thì vào xem, cần đi nhanh hơn, cần bước vào nhà. Có ai đi xa, về gần đến nhà mình, thấy nhân viên y tế đang ở cổng, rồi đứng xa xa chờ hỏi xem có chuyện gì không? Họ phải vội vã chạy vào ngay xem chuyện gì xảy ra. Thái độ của người con cả ở đây có vấn đề. Lý do anh ta không vào vì người em về. Anh ta đề phòng không vào ngay. Nếu vào, thấy em làm sao chạy ra? Nếu vào thấy cha vui mừng, làm sao anh ta hân hoan? Điều này dễ hiểu, vì dựa vào thực tế, hôm nay vẫn thế. Cùng trong Giáo hội nhưng chị đi nhà thờ này, tôi đi nhà thờ kia. Anh ở đoàn thể này tôi sang đoàn thể khác. Anh trong ca đoàn này tôi ngừng tham gia. Bao lần người ta dò la cách này, cách khác để tránh mặt nhau. Giả vờ không thấy. Thật sự họ biết ông bà ấy vào cửa bắc, họ đi cửa nam.
Người con cả đợi bao lâu thì gặp người đầy tớ? Dụ ngôn không nói rõ. Điều này quan trọng, vì thời gian đứng đợi càng dài thì những biến chuyển xáo trộn tâm hồn càng tăng.
- Nổi giận
“Em cậu đã về”. Lời báo tin ngắn ngủi mà sao nặng quá sức vác. Người anh cả nổi giận vì tin này. Có nghĩa là từ lúc người con thứ ra đi, thì người anh ở lại sống khắc khoải. Anh ta nơm nớp lo âu ngày em về. Mong có ngày nghe tin em nó chết. Sợ, hồi hộp tự nghĩ, biết đâu có ngày nó về. Làm sao người con cả bình an sống nếu nghĩ như thế. Xét thế thì đời người con cả khổ quá. Sống không niềm vui. Em anh ta khổ ở đằng xa. Anh ta khổ trong nhà. Em lạnh vì không áo che thân. Anh ta lạnh vì hồn mang áo giáp quá dầy nhặm.
“Cha cậu đã làm thịt con bê béo”; “Vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ”.
Người con cả nổi giận vì 3 lý do đó. 3 lý do này làm cho người cha vui bao nhiêu thì lại là tai ương cho người con cả bấy nhiêu.
- Cha cậu năn nỉ
Về điểm này, nhiều cha mẹ hôm nay có kinh nghiệm. Nhiều bậc phụ huynh khổ sở vì con. Tại sao phải năn nỉ khi người con sai. Đấy là nỗi đau của bậc làm cha mẹ trong xã hội hôm nay.
Lỗi phạm lớn của người con cả trong lời nói ở đây là: “thằng con của cha đó”. Vậy anh ta là con ai? Anh ta không nói ‘em của con’. Anh ta từ chối tình huynh đệ. Trong một lời nói, người con cả xúc phạm cả hai người là với cha và với người em. Anh ta nói về một quá khứ u uẩn “Đã bao nhiều năm trời con hầu hạ cha….”. Anh ta kể với cha công lao làm việc của anh như người Pharisiêu kề về việc lành mình làm trong đền thờ… Người Pharisiêu “ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập” (Lc 18,12). Tại sao việc làm như thế mà lại không có công đức?
- Người cha trả lời
“Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con”. Người con cả thiếu trưởng thành. Nhất là qua câu trả lời, người cha cho biết tất cả của cải của cha là của anh. Tất cả là của anh sao cứ ấm ức, ganh tỵ. Điều đó nói lên anh ta không có liên hệ với cha và không biết cha mình. Gần mà rất xa.
“Chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”. Người cha chữa lành lại liên hệ của người con cả nhất định luôn cách xa trong tình nghĩa gia đình.
Người đọc không biết là người con cả sẽ vào nhà vì nghe lời cha hay đứng ngoài. Anh ta im lặng. Câu chuyện buông xuống thành một con đường dài rất thẳng, không có câu trả lời. con đường ấy thẳng nhưng trải những tiếng gọi cong co. Người đọc dụ ngôn không biết những gì sẽ xảy ra sau đó. Thánh Luca kết thúc dụ ngôn bằng sự im lặng của người con cả. Sự im lặng ấy mở ra một dụ ngôn mới. Dụ ngôn mới ấy mang tên gọi là: “Vào hay không vào?”. Khi dùng im lặng để gởi đến một suy nghĩ, thì lời mong đợi cũng cần đến sự im lặng để trả lời. Nếu bạn là người con cả, trong hoàn cảnh này, bạn vào hay không vào? Chỉ cần mình bạn biết. (x. đoản khúc 4).
- Người con cả là hình ảnh người Biệt Phái
Hiếu thảo, vâng phục cha, không đi hoang, không ăn chơi. Con người lao động cần cù có tinh thần trách nhiệm, không rượu chè trác táng, chỉ lo ruộng rẫy nương vườn. Người con cả là con người mẫu mực. Thế nhưng, biến cố đứa em trở về đã bộc lộ con người thật của anh. Tuy ở trong nhà cha nhưng lại xa trái tim cha. Tại sao cha đãi tiệc bê béo cho thằng em bất hiếu, còn anh một con bê nhỏ để vui với bạn bè cũng không có? Anh tức giận vì thấy quyền lợi bị xúc phạm. Anh chẳng chịu vào nhà. Tôi chẳng thích chút nào về người con cả với ý thức trách nhiệm cao, chăm chỉ làm việc, trung thành với gia đình nhưng lại chẳng học được lòng nhân hậu của cha. Lòng “người công chính” có thể trở nên hẹp hòi như thế sao?
Hoá ra, cả hai người con vừa khác lại vừa giống nhau. Cả hai đều ở ngoài nhà cha. Con thứ không thấy hạnh phúc bên cha nên ra đi. Con cả không chia sẻ được hạnh phúc của cha nên không vào nhà. Anh thiếu bao dung và thiếu tha thứ cho em.
Thái độ của người con cả là thái độ tiêu biểu của người Biệt phái, Luật sĩ hôm qua và hôm nay. Ích kỷ cho quyền lợi riêng mình. Tự mãn về cách giữ luật “con không hề trái lệnh cha một điều nào”, tự hào về cách sống đạo “không như thằng con của cha”. Tự hào tự phụ tuân giữ nghiêm nhặt Lề Luật, kiêu hãnh mình là người công chính mà khinh chê lên án những người khác. Chỉ muốn kẻ lỗi lầm không được cứu thoát mà phải chết.
“Chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Người cha muốn giúp con trai khám phá chiều kích tha thứ của tình yêu. Tình cha là lời mời gọi vượt qua thái độ duy luật để mở rộng tấm lòng trước tình thương yêu. Lời cha làm anh bàng hoàng xúc động vì anh hiều rằng mình quá ích kỷ, quá nhỏ mọn. Cái ích kỷ làm anh tẩy chay sự trở về của đứa em. Cái nhỏ mọn làm anh xua tan lòng bao dung của cha. Tình cha lớn hơn cuộc đời anh, lớn hơn tính ích kỷ trong anh.
- Người cha, hình ảnh Thiên Chúa
Khi chia gia tài cho con, lòng cha đau đớn vô cùng. Vì tôn trọng tự do của con chứ không vì cha nhu nhược. Ngày nhìn con ra đi, bóng nó nhạt dần cuối chân trời như cánh chim bay, lòng cha thấy trống trải quá, muộn phiền quá vì thiếu vắng hình bóng con. Ngày ngày cha ngóng trông đợi con trở về. Thế rồi một ngày kia, đứa con trở về thật. Nó về trong dáng vẻ thất bại thảm hại, thất thểu rách nát. Thua cuộc đời nó về làm dấy lên những lời bình phẩm của làng xóm. Giả như nó không về, người ta sẽ lãng quên. Nay nó trở về nhắc cho bà con lối xóm thấy sự thất bại của gia đình ông. Con ông về trong thất bại chua cay là câu chuyện đám tiếu đầu làng cuối xóm. Vậy mà ông mở tiệc ăn mừng. Thật lạ lùng!
Ở đời, khi con thi đậu đại học, khi con công thành danh toại vinh quy bái tổ, khi con là Việt kiều về thăm, cha mẹ mở tiệc ăn mừng, mời bà con làng xóm đến chia vui. Người ta thường dấu kín chuyện thất bại của con cái. Cha mẹ mắc cỡ không dám kể về đứa con bất hiếu, ngổ nghịch, ăn chơi đàng điếm. Người ta chỉ khoe đứa con ngoan, tự hào đứa con học hành thành đạt, vui mừng khi con có việc làm có sự nghiệp. Thế mà, người cha lại mở tiệc lớn. Mừng đứa con trở về thất bại tả tơi. Khách mời ngỡ ngàng khi chủ nhà giới thiệu con ông về nhà sau những ngày chăn heo đói khổ. Thế nhưng, người hiểu tình yêu là gì, tình phụ tử là gì thì thông cảm và chia vui với người cha.
Người cha đã tha thứ cho con thứ trước khi con tự thú. Cha vui “vì đứa con đã chết nay sống lại, đã mất nay tìm thấy”.
Người cha cũng nói với người con cả bằng cung giọng thật trìu mến:“Con à, lúc nào con cũng ở với cha.Tất cả những gì của cha đều là của con…Chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Người cha muốn giúp con trai khám phá chiều kích tha thứ của tình yêu. Tình cha là lời mời gọi vượt qua thái độ duy luật để mở rộng tấm lòng trước tình thương yêu.
Dung mạo người cha đó, chính là Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương. Thái độ người cha đối với hai đứa con là thái độ của Thiên Chúa đối với con người. Trong trái tim Thiên Chúa chỉ có tình thương. Người không có trí nhớ về tội lỗi con người.
Cha yêu con dù con hư hỏng, bất trung. Cha yêu con không vì con ngoan được việc. Cha yêu con chỉ vì con là con. Cha không muốn mất một đứa con nào. Thiên Chúa của Đức Giêsu mạc khải là người cha nhân hậu, hiền từ, bao dung, hay tha thứ.
Hành trình thiêng liêng của cuộc đời, cả hai người con trong dụ ngôn đều có mặt trong mỗi con người chúng ta. Nhiều lần ta nghe theo cơn cám dỗ của thế gian xác thịt rồi nên hoang đàng, hoang phí, gặp thất bại đau khổ mới hối hận trở về với Chúa. Nhiều lần ta là con cả tưởng mình đạo đức nên lên án tẩy chay người khác. Cần trở về với Cha, về với Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương. Sám hối là trở về với tình Chúa, với tình anh em. Sám hối là trở lại với tình yêu, niềm vui và sự sống.
Người con cả chỉ có thể vào nhà khi trái tim được thanh tẩy bằng nhân đức. Để vào được căn nhà, người con cả cần sám hối. Anh ta cần thanh tẩy tâm hồn để bình an trước đã. Anh ta phải buông cho rơi đi những tháng ngày tức tối. Anh ta phải giã từ bóng đêm im lặng tính toán. Anh ta phải rộng lượng có thể phải chia bớt đất đai cho người em lập nghiệp. Sám hối và thanh tẩy không phải cứ nghĩ tới là thành hoa trái.
Lạy Chúa, con thấy bây giờ là nếu trái tim con không thanh tẩy thì cuộc sống này không vui. Xin Chúa ban ơn thanh tẩy để con được sống bình an với anh em. “Như nai rừng mong tìm về suối nước trong, hồn con cũng xin mong được gần Ngài, Lạy Chúa” (Tv 42,2). Và con biết, Chúa chờ con. Amen.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
SUY NIỆM 4 : “CON TA ĐÂY ĐÃ CHẾT, NAY SỐNG LẠI”
Chúng ta thường gọi câu chuyện trong bài Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe là “Dụ ngôn người con hoang đàng”, nhưng đúng hơn phải gọi là “Dụ ngôn người cha nhân hậu”. Vì khi kể dụ ngôn này, Thánh Luca muốn biểu dương lòng nhân từ của Thiên Chúa nơi hình ảnh người cha, hơn là kể tội người con hoang đàng.
Khi người con thứ xin cha chia gia tài để được ra đi sống theo ý mình, người cha dù đau lòng trước sự bất hiếu của người con (vì người ta chỉ chia gia tài khi cha mẹ đã qua đời), nhưng vẫn tôn trọng sự tự do chọn lựa của con và cho người con điều anh ta muốn. Tuy không can thiệp vào chọn lựa của người con, nhưng người Cha chưa bao giờ bỏ rơi con mình. Bằng chứng là khi người con ăn chơi phung phí hết tiền bạc, phải đi chăn heo và chịu cảnh đói khát, anh quyết định trở về để xin làm công cho cha mình, thì người cha đã nhận ra anh ta ngay từ đằng xa. Ông vội chạy ra đón, ôm chầm lấy con và “hôn lấy hôn để”, sai người mặc áo, xỏ nhẫn, đi dép cho cậu và còn giết bê đã vỗ béo để ăn mừng vì tìm lại được con.
Chúng ta nhìn thấy ở đây nét đẹp của sự hòa giải, lòng cao thượng trong sự tha thứ và sức mạnh của tình yêu: “Con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.” Chỉ có một điều quan trọng đối với người Cha, đó là sự sống, sự trở về của người con! Sự hối tiếc làm người con trở về, nhưng chính tình yêu và sự tha thứ của người cha mới cho anh sự sống mà anh đã đánh mất, và phục hồi nơi anh phẩm giá của người con.Ngược lại, người con cả lại không muốn vào nhà chung vui với cha mình. Anh ta không muốn nhìn nhận “thằng con của cha” là em mình. Trong mắt anh ta, nó là một đứa đáng khinh bỉ vì đã “nuốt hết của cải của cha với bọn điếm”. Trong khi ở nhà, anh ta “đã bao năm trời hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh...”. Nhưng khi kể lể công trạng với cha, người con cả cho thấy anh ta đã sống với Cha như một người đầy tớ hơn là một người con.
Những người biệt phái hiểu rằng khi nói về người con cả, Chúa Giêsu muốn ám chỉ về họ. Chính những người biệt phái này không ngừng khoe khoang là họ luôn trung thành phụng sự “hầu hạ” Chúa. Họ nghĩ là sẽ được Chúa thưởng công xứng đáng vì “đã bao năm” họ tuân giữ kỹ lưỡng mọi điều răn của Chúa, dù là một chi tiết nhỏ cũng không bỏ sót. Nhưng Chúa Giêsu lại mời gọi họ hãy chung niềm vui của Thiên Chúa vì sự hoán cải của những người tội lỗi, và hơn nữa, hãy đón tiếp họ như Chúa đã làm. Khi đón tiếp và tha thứ cho những người tội lỗi, Chúa Giêsu cho thấy Người là trung gian giữa Thiên Chúa và nhân loại, như lời Thánh Phaolô trong bài đọc II: “Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Kitô mà cho chúng ta được hòa giải với Người.” (2 Cr 5,18)
Mùa Chay là thời gian thuận tiện để lãnh nhận bí tích giải tội, hay nói đúng hơn là bí tích hòa giải. Việc thay đổi từ ngữ giúp chúng ta hiểu đúng hơn về ý nghĩa của bí tích này. Vì việc cử hành bí tích hòa giải không phải chỉ giới hạn trong việc xưng thú tội lỗi của mình và dốc lòng chừa, nhưng còn để chúng ta được hòa giải với Chúa. Trở về với Chúa qua bí tích hòa giải nghĩa là nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi và mở lòng đón nhận tình yêu thương xót vô biên của Chúa. Chúa tha thứ mọi tội lỗi cho chúng ta không phải để đồng tình với sự yếu đuối của chúng ta, nhưng là để ban cho chúng ta sức mạnh hầu thắng vượt những yếu đuối, và trả lại cho chúng ta sự tự do mà chúng ta đã đánh mất do tội lỗi để chúng ta có thể sống yêu thương như Chúa mời gọi.
Chúng ta được Chúa tha thứ tội lỗi không phải do công trạng của chúng ta, nhưng hoàn toàn do ân huệ của Người. Mục đích việc xét mình-xưng tội-hối cải không phải để gây ra ơn tha thứ của Chúa, nhưng là để lãnh nhận ơn tha thứ đó. Vì thế, xét mình-xưng tội-hối cải là cách để chúng ta nói lên lòng khao khát được lãnh nhận ơn hòa giải: hòa giải với Chúa, với chính mình và với tha nhân. Như vậy, khi đi xưng tội là lúc chúng ta tuyên xưng lòng nhân từ bao la của Chúa và cho Chúa cơ hội được ôm chúng ta vào lòng. Vì từ lâu, Chúa hằng kiên tâm chờ đợi và luôn dang rộng đôi tay đón chờ chúng ta trở về.
Tuy nhiên, sự hòa giải này đòi hỏi chúng ta một sự cố gắng: dốc lòng thay đổi đời sống. Ðứa con hoang đàng, sau khi đã nếm đến tận cùng mọi nỗi khổ nhục, tự nhủ rằng: “Tôi muốn trở về với cha tôi.” Việc “đi xưng tội” bày tỏ việc hối cải tâm hồn của chúng ta.
Thiên Chúa vẫn tiếp tục ban ơn tha thứ và hòa giải cho chúng ta qua trung gian các linh mục. Linh mục ban phép giải tội không do danh nghĩa cá nhân, nhưng nhân danh Chúa: “Vậy, cha tha tội cho con nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần.” Trước khi trở về với Chúa Cha, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” Rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha.” (Ga 20,21-23).
Trong Tông thư “Hòa giải và sám hối”, công bố năm 1984, Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II trích câu nói nổi tiếng của chân phước Isaac de l'Étoile, vào thế kỷ XII, để nhấn mạnh sự hiệp thông mật thiết giữa Chúa Kitô và Giáo Hội trong việc tha tội: “Giáo Hội không thể tha tội nếu không có Chúa Kitô, và Chúa Kitô không muốn tha tội nếu không có Giáo Hội” (xem lời chú thích số 162).
Lễ Phục Sinh sắp đến gần. Kìa, người Cha ra khỏi nhà và chạy vội về phía chúng ta... Còn chúng ta, chúng ta đã chuẩn bị sẵn sàng để đến gặp Người chưa?
Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
SUY NIỆM 5: TRỞ VỀ VỚI CHA TRONG ĐẠI GIA ĐÌNH
Thấu cảm được nỗi khốn khổ của cuộc đời, nhận ra thân phận tội lỗi của mình trước dung nhan Chúa, tâm hồn tôi được mời gọi trở về với căn nhà chung. Căn nhà ấy được bao bọc bởi vũ trụ vạn vật, có anh chị em sum vầy bên Cha là Chúa cả trời đất. Tình yêu và lòng tha thứ là lương thực làm cho cả gia đình luôn xanh tươi, ươm mầm sự sống.
Lòng khao khát trở về với thế giới đại đồng là khát vọng sâu thẳm trong mỗi con người. Dù ở phương trời nào, con người cũng ước mơ về một ngày được cùng nhau chung sống trong một gia đình nhân loại hòa thuận. Chính cái nhận thức đau thương của sự ly tán, sự đổ vỡ trong mọi tương quan đã kéo con người hướng về bình minh của ngày hòa thuận ấy.
Dân Israel năm xưa ước mơ được trở về miền đất mà Thiên Chúa đã hứa ban với tổ tiên họ. Đất hứa ấy luôn là nỗi khát vọng nung nấu đêm ngày trong tâm hồn họ. Ngày được bước chân vào miền đất hứa mang tên Canaan, họ vui mừng khôn tả. Thế rồi thành thánh Giê-ru-sa-lem được dựng xây làm nơi quy tụ đại gia đình Israel trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Nhưng khi Giê-ru-sa-lem trở thành đống tro tàn, họ mới nhận ra Thành thánh đích thực phải là nơi quy tụ mọi dân tộc trên mặt đất.
Cái triết lý đại đồng được diễn tả và quảng bá khắp mọi nơi hầu đạt tới: “tứ hải giai huynh đệ” – tất cả mọi người là anh chị em với nhau; hay phương trời “Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác” – nơi không còn cao thấp, mọi sự đều bình đẳng, đều giác ngộ sự thật; ngay cả một xã hội “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu. Mọi tài sản đều là của chung”. Nhưng cho dù gia đình ấy được diễn tả thế nào thì nơi đó luôn phải có một người cha.
Chúa Giê-su đã dùng dụ ngôn “Người cha nhân hậu” để diễn tả sự khao khát trong kiệt quệ của con người muốn trở về với gia đình, và tấm lòng yêu thương tha thứ của người cha bao dung đón nhận.
Người con, một nhân vật điển hình, quyết định ra đi, rời xa gia đình, xa người cha để tự lập, tự định đoạt lấy cuộc sống của mình. Nó không muốn lệ thuộc vào cha. Tình trạng cuộc sống nhục nhã bi thương của người con sau đó được diễn tả với hàng loạt hình ảnh: sa đọa vào con đường ăn chơi trác táng, phung phí hết tiền của; làm người đầy tớ; sống với bầy lợn, một biểu tượng của sự xấu xa, ô nhớp của ma quỷ; ăn những thức ăn cặn bã… Quyết định ra đi của anh là sai lầm trầm trọng. Nay anh dứt khoát trở về với gia đình, về với cha mình và đặt mình dưới sự điều khiển của cha. Quyết định trở về ấy là lựa chọn khôn ngoan.
Người cha trong câu chuyện đã âm thầm dõi bước theo con, chờ đợi con. Giây phút “chạy ra ôm choàng lấy cổ nó và hôn nó hồi lâu” bộc lộ một tâm hồn ngập tràn tình yêu và tha thứ nơi người cha. Trái tim yêu của người cha đã nổ tung và phủ lấp đứa con lạc bước nay đang trong vòng tay trìu mến của ông. Người cha đã quên đi tất cả những gì đã qua và chỉ còn biết một đứa con yếu ớt đang được mình ôm ấp. Người con thủ thỉ chấp nhận phận mình, chỉ xin được làm đầy tớ của cha. Nhưng chính khi người con thổ lộ tâm tình ấy, người cha đã quyết định đặt người con vào đúng vị trí của nó, vị trí của một người con trong gia đình. Cả nhà ngập tràn niềm hân hoan trong bữa tiệc mừng đón người con trở về.
Hãy tỉnh giấc, hãy ăn năn, hãy sám hối, hãy trở về! Lời mời gọi ấy luôn vang vọng bên tai hay trong tận cõi lòng của người lữ khách đã chót đi hoang. Những con đường, những lộ trình được mở ra để dẫn lối tội nhân trở về đàng lành. Đường nào thì cũng vẫn chỉ là con đường. Bao lâu con người còn trên đường là bấy lâu nó vẫn còn là kẻ lữ khách. Tận cuối con đường ta mới tới một gia đình yên vui, nơi ấy người cha đang ngóng chờ.
Được trở về với gia đình nhân loại trong sự che trở của Cha cả trời đất là cùng đích của đời người. Chính trong gia đình ấy, ta được biến đổi bởi lòng từ ái của Cha. Thánh Phaolô đã quả quyết sự biến đổi ấy: để ta được trở nên con người mới, được giao hòa với Chúa là Cha Nhân Lành, được trở nên công chính. Tình thương và lòng thương xót của Cha là phương dược xoa dịu và chữa lành mọi vết thương trong tâm hồn ta. Lòng bao dung của Cha đặt ta vào vị trí làm con của Ngài.
Lạy Cha là Chúa cả trời đất, xin đừng để con đi hoang lạc bước theo sở thích của con. Xin Cha giữ con luôn được ở trong mái nhà Cha! Xin uốn nắn tâm hồn con và dạy con luôn biết tìm về khi lỡ bước xa chân.
Lm. Giuse Lê Danh Tường
SUY NIỆM 6: SỐNG CHÚA NHẬT HỒNG, ĐỜI TA CŨNG HỒNG
“Chúng ta phải ăn tiệc, phải vui mừng, vì em con đây đã chết nay lại sống; đã mất mà nay lại tìm thấy”(Lc 15,32).
Hôm nay, là Chúa Nhật Hồng, nên chủ Tế mặc áo lễ Hồng. Màu Hồng là màu của sự vui mừng. Tại sao chúng ta lại vui mừng? Chúng ta vui mừng vì chúng ta đã chết vì tội lỗi, nhưng nhờ Đức Ki-tô, chúng ta lại được sống. Chúng ta vui mừng vì những anh chị em của chúng ta đã ăn năn thống hồi mà trở về hoà giải với Chúa, coi như đã mất nay lại tìm thấy.
Quả thật, chúng ta như người con hoang đàng, ăn năn thống hối trở về với Chúa và cũng như người anh cả, người hằng ở với Chúa nhưng chỉ với thân xác; chỉ với tâm tình của một người làm công, chứ không phải như một người con- ăn năn trở về bằng cách không ghen tị, không ghen ghét, nhưng đón nhận những người ăn năn thống hối trở về giao hoà với Chúa.
Dù là người con nào đi chăng nữa, chúng ta hãy vui mừng, vì “Trong Đức Ki-tô, Thiên Chúa đã cho thế gian được giao hoà với Người. Người không còn chấp tội họ nữa”(x.2Cor 5,19). Để chúng ta lãnh nhận được lòng nhân hậu của Chúa, chúng ta phải hoà giải với Chúa; chúng ta phải hoán cải, thống hối và trở về với Chúa. Điều này được Đức Giê-su diễn tả cách tuyệt vời qua dụ ngôn “Người cha nhân hậu”.
“Bị ảo ảnh tự do mê hoặc, người con thứ bỏ nhà cha ra đi. Sau khi tiêu tán hết tài sản, nó rơi vào tình trạng khốn quẫn. Nó hết sức nhục nhã, vì phải đi chăn heo và tệ hơn nữa, ước muốn được ăn cám heo ăn mà không có. Nó liền nghĩ lại, hối hận và quyết định thú nhận tội lỗi với Cha. Nó lên đường trở về. Người Cha bao dung và vui mừng đón con. Đó là những nét tiêu biểu của tiến trình hoán cải.
“Áo đẹp, nhẫn sang và đại tiệc là những biểu hiện của một đời sống mới, trong sạch, xứng đáng và tràn ngập niềm vui. Đó là cuộc sống của người trở về giao hoà với Thiên Chúa và Hội Thánh là gia đình của mình.
“Chỉ trái tim của Đức Ki-tô, Đấng thấu suốt tình yêu sâu thẳm của Chúa Cha mới mặc khải cho chúng ta đại dương từ ái của Thiên Chúa một cách đơn sơ và tươi đẹp như thế”(x.GLCG, số 1439).
Con người chúng ta cũng vậy. Chúng ta cũng bịảo ảnh tự do mê hoặc, chúng ta bỏ nhà; chúng ta bỏ Chúa ra đi. Sau khi đã tiêu tán hết tài sản; sau khi bị cùng cực; bị rơi vào tình trạng khốn khổ; bị nhục nhã, chúng ta mới hối hận. Xưa kia ở nhà với Chúa, chúng ta được ăn sung mặc sướng; giờ không có gì bỏ vào miệng; xưa làm tí việc còn lẩm bẩm kêu ca, nay phải đi làm mướn; phải chăn heo; phải làm lụm vất vả. Thôi thì, quay trở về nhà Cha sướng hơn; dù không xứng đáng là con, nhưng ít ra cũng là một người làm công cũng còn sướng chán.
Người ta bảo “Sướng quá rửng mỡ”; sung sướng không muốn, muốn tự do, muốn phây phây. Cứ ra đời thì biết, “không làm thì treo mỏ” thôi. Con người của chúng ta là thế. Chúa sẽ cho chúng ta được toại nguyện, cứđi đi rồi sẽ biết; “chưa thấy quan tài, chưa đổ lệ” mà. Chúa cũng để cho chúng ta tự do; để chúng ta khỏi càm ràm, rồi tự nguyện, tự giác trở về. Chúa sẵn sàng dang rộng đôi tay cho chúng ta bước ra và cũng dang rộng cánh tay đón chúng ta trở về.
Trở về giao hoà với Thiên Chúa, chúng ta được mặc áo đẹp; được đeo nhẫn sang và dựđại tiệc. Áo đẹp đó là Áo Hồng; áo của hồng ân tha thứ; Nhẫn sang đó là huy hiệu của một người con cái Chúa và Đại tiệc đó là Tiệc Cưới Con Chiên. Chúng ta sẽ sống trong đại dương của lòng thương xót Chúa; chúng ta sống trong niềm vui.
Thật vậy, “Đức Giê-su muốn rằng trong kinh nguyện, đời sống và hoạt động, Hội Thánh phải trọn vẹn là dấu chỉ và khí cụơn tha thứ và giao hoà mà Người đã mua được bằng giá máu của Người. Tuy nhiên, Người uỷ thác quyền giải tội cho thừa tác vụ tông đồ. Người tông đồ được uỷ thác “Thừa tác vụ giao hoà”, được sai đi “nhân danh Đức Ki-tô” và qua người tông đồ, “chính Thiên Chúa khuyên bảo và nài nỉ: “Hãy giao hoà với Thiên Chúa”(x. GLCG, số 1442).
Mùa Chay là thời điểm thích hợp nhất cho việc hoán cải, trở về và giao hoà với Thiên Chúa. Vậy, chúng ta hãy hoán cải; hãy ăn năn thống hối và hãy giao hoà với Thiên Chúa. Nếu chúng ta là người con hoang đàng, chúng ta hãy từ bỏ những ham mê trần thế; của cải, danh vọng; bỏ đi những tham vọng, kiêu căng mà trở về với Chúa. Nếu chúng ta là người con cả, chúng ta hãy từ bỏ những đố kị và ganh ghét; bỏ đi tính cách của một người làm công và hãy sống với tư cách của một người con trong gia đình.
Có như thế, chúng ta sẽ luôn được mặc áo đẹp; luôn được đeo nhẫn sang và luôn được tràn đầy vui mừng, bình an khi sống trong sạch, đơn sơ và tươi đẹp trong đại dương của lòng thương xót Chúa. Khi chúng ta sống Chúa Nhật Hồng, thì cuộc sống của chúng ta cũng sẽ vui và cuộc đời của chúng ta sẽ Hồng luôn đấy thưa bạn.
Lm. Bosco Dương Trung Tín
SUY NIỆM 7: TIN LÒNG CHA BAO DUNG
Ở đời, lòng bao dung, sự tha thứ luôn là một điều không thể thiếu trong tình yêu và cuộc sống. Bao dung cũng là mở cánh cửa tương lai cho chình mình. Vì ai trong đời mà không có những bước đi sai lầm, những việc làm lầm lỗi.
Thế nên, chúng ta cần phải tập sống lòng bao dung và tha thứ cho nhau. Bao dung khi ai đó vô tình va phải chúng ta ngoài đường phố, thay vì cáu gắt hãy nở nụ cười thật tươi để đáp lại. Bao dung là khi chúng ta bị người khác hiểu nhầm nhưng không tỏ ra tức giận, mà bình tĩnh giảng giải, để cả hai tìm được tiếng nói chung. Bao dung là khi người cha giang rộng vòng tay ôm lấy đứa con hoang đàng sau những chuỗi ngày lang thang, nay đã ân hận trở về.
Nhân vật Chí Phèo trong truyện của Nam Cao là sản phẩm của xã hội thiếu lòng bao dung. Chí Phèo là đứa con hoang, được mô tả là một người dị dạng, một tên lưu manh, nát rượu chuyên rạch mặt ăn vạ và sẵn sàng sinh sự với mọi người. Chí Phèo là kẻ trên không sợ Trời, dưới không sợ người. Người ta tránh Chí Phèo hơn tránh ôn dịch. Nhưng trong thâm tâm Chí Phèo luôn muốn hướng thiện. Tiếc rằng, xã hội không cho Chí Phèo con đường trở về làm người tự tế. Cuối cùng Chí Phèo chết trong tội lỗi và chỉ để lại câu nói: “Ai cho tao làm người lương thiện?”.
Lời Chúa qua dụ ngôn Người Cha nhân hậu đã mặc khải cho chúng ta về lòng Thương Xót và bao dung của Thiên Chúa. Một người cha có hai con. Cha yêu thương cả hai. Nhưng cả hai xem ra đều phụ lòng cha. Người con cả chăm chỉ, cần cù nhưng lại tham quyền, tham lợi và ích kỷ. Anh đã từng thốt lên rằng: “Cha coi, đã bao năm nay con hầu hạ Cha, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy một con bê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con cha kia, sau khi nuốt hết của cải của cha với bọn đĩ điếm, nay trở về, cha lại cho con bê béo ăn mừng”.
Người con thứ thuộc loại “bán trời không văn tự”. Anh đã hoang phí cả gia sản lẫn cuộc đời đến bạc nhược tinh thần và thể xác. Cuộc sống thác loạn đã làm cho anh tan gia bại sản, thân xác tiều tụy, anh chỉ còn biết chăn heo để sống qua ngày.
Cha vẫn im lặng. Sự im lặng này không đồng nghĩa với việc đồng ý cách sống của hai con. Cha im lặng vì tôn trọng tự do của hai con. Cha không kết án ai. Cha không muốn mất đi bất kỳ người con nào. Khi người con thứ ra đi. Cha hằng ngày mong ngóng chờ con trở vể. Chỉ cần nó trở về là cha đã quên hết quá khứ tội lỗi của nó rồi. Khi người con cả bộc lộ bản tính thật của mình. Coi con bê béo hơn cả tình cảm cha con và tình nghĩa anh em. Cha vẫn từ tốn, dịu ngọt với anh. Cha muốn anh hãy vui với phận mình, và nhất là hãy vui vì luôn được sống trong tình thương của cha.
Hai người con trong phúc âm dường như vẫn lúc ẩn lúc hiện trong con ngừơi chúng ta. Chúa cho chúng ta được tự do thừa hưởng một gia sản rất qúy báu và phong phú đó chính là sự sống làm người. Thế nhưng, có những lúc chúng ta đã hoang phí cuộc đời trong những đam mê lầm lạc, trong những vui thú mau qua. Có những lúc chúng ta thường hay xét nét, ganh tỵ và đòi hỏi Chúa trả công cho chúng ta. Có những lúc chúng ta thất vọng chán chường vì yếu đuối lầm lỗi. Có những lúc chúng ta coi trọng đồng tiền mà bán rẻ lương tậm. Chúa vẫn không chấp nhất tội chúng ta. Chúa không kết án chúng ta. Chúa vẫn im lặng. Chúa mong chúng ta sớm nhận ra tình thương của Chúa để hồi tâm trở về cùng Chúa. Sự chờ đợi của Chúa là vô tận. Tình thương của Chúa là vô biên. Chúa vẫn kiên nhẫn chờ đợi và rộng lòng tha thứ hết mọi lỗi lầm của chúng ta.
Mùa chay mời gọi chúng ta hãy chọn lựa lại cách sống sao phù hợp với đạo lý làm con cái của Chúa. Hãy tập sống trong sự quan phòng, xếp đặt của Chúa. Hãy tin tưởng phó thác cậy trông vào Chúa để chúng ta luôn vui với phận mình. Nhất là hãy biết noi gương Chúa để xót thương kẻ cơ hàn và lấy lòng nhân hậu mà đối xử tốt với nhau. Nguyện xin Chúa là Đấng giầu lòng thương xót và từ bi luôn gìn giữ chúng ta trong hồng ân của Chúa và giúp chúng ta luôn sống theo tinh thần của phúc âm: mến Chúa trên hết mọi sự và yêu tha nhân như chính mình. Amen
Lm.Jos Tạ duy Tuyền
SUY NIỆM 8: NIỀM VUI ĐƯỢC HÒA GIẢI
Không gì vui bằng niềm vui của tâm hồn thống hối được hòa giải với Thiên Chúa khi rời toà giải tội, niềm vui của “tay bắt mặt mừng” được hòa giải với anh em sau tháng năm dài lãnh đạm, lạnh lùng, không một lời thăm hỏi, chia sẻ, hiệp thông, và niềm vui của trái tim không còn u uất hằn học, cay đắng nguyền rủa, lên án chính mình.
Các bài đọc của chúa nhật giữa Mùa Chay hướng chúng ta về niềm vui này, niềm vui “thế gian được hòa giải với Thiên Chúa” nhờ sự chết và sống lại của Đức Giêsu Kitô, vì Thiên Chúa “không còn chấp tội nhân loại nữa” (2 Cr 5, 19), niềm vui mọi người được hòa giải với nhau “nhân danh Đức Giêsu”, vì “Đấng chẳng hề biết tội lỗi là gì” đã tự nguyện biến thành “hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người.” (2 Cr 5, 21).
Và qua dụ ngôn “người cha nhân hậu” trong Tin Mừng Luca (x. Lc 15, 11-32), Đức Giêsu đã chứng thực đây là niềm vui lớn không gì có thể so sánh, vì là niềm vui của Thiên Chúa, niềm vui từ trái tim Thiên Chúa là người cha nhân hậu tuôn chảy chan hòa vào quả tim của người con hoang đàng thống hối trở về.
Thực vậy, không chỉ người con thứ chết lặng vì vui, không nói lên lời vì mừng, khi toàn bộ kế họach, dự tính đều thình lình thay đổi, bất ngờ được thay thế: thình lình thay đổi vì anh đã chuẩn bị những lời thú tội, nhưng vừa thấy anh từ đàng xa, cha đã chạy ra ôm cổ anh và hôn lấy hôn để, không cho anh nói dù một lời xin lỗi (x. Lc 15,20); bất ngờ được thay thế, vì anh nghĩ: với tội lỗi tầy trời cùng lắm anh sẽ chỉ được nhận trở vào nhà như người làm công (x. Lc 15,19), nhưng cha anh đã vội vàng bảo đầy tớ: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu” (Lc 15, 22).
Không chỉ người con thứ vui mừng, người cha cũng sung sướng, hạnh phúc vô cùng, khi phấn khởi truyền cho gia nhân mở tiệc linh đình, mời hết bà con làng nước đến chung vui, mừng cậu út trở về, và gặp ai, tim ông cũng rộn ràng muốn nói: Hãy vui với tôi, “vì con tôi đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy” (Lc 15,24).
Sở dĩ người Kitô hữu không ngừng được Thiên Chúa kêu gọi: “Hãy vui lên trong Chúa!”, vì họ là những người sống trong niềm vui được hòa giải với Thiên Chúa, với anh em và với chính mình; vì tương quan của họ với Thiên Chúa là tương quan Cha Con, tương quan với mọi người là tương quan anh chị em, con cùng một Cha trên trời, trong cùng một gia đình Thiên Chúa. Và những tương quan tràn đầy hạnh phúc ấy được bảo đảm bởi Đức Giêsu, Đấng đã lấy máu mình để hòa giải Thiên Chúa với loài người, và mọi người với nhau. Hơn nữa, niềm vui hòa giải này tròn đầy, trọn vẹn, vì hòa giải vô điều kiện, hòa giải vĩnh viễn, như người cha nhân hậu trong Tin Mừng đã không đặt ra cho con bất cứ điều kiện nào, không ép con phải thoả đáng bất cứ đòi hỏi nào, không cằn nhằn, trách móc con dù một lời ngắn ngủi. Trái lại, tình cha bao la đã bao phủ đời con giông bão, ôm trọn thân con tiều tụy và đổi mới toàn bộ cuộc đời con khi mặc cho y phục lộng lẫy chỉ dành cho con cái, đeo cho con nhẫn qúy chỉ dành cho người thừa tự.
Tóm lại, trong câu chuyện hòa giải giữa chúng ta với Thiên Chúa, thì người vui nhất vẫn là Thiên Chúa, vì Ngài biết rõ giá trị của con người, bởi chính Ngài đã dựng nên chúng ta, như cha mẹ yêu thương con cái hơn con cái yêu thương cha mẹ, vì cha mẹ biết rõ giá trị của người con mà mình đã sinh ra hơn bất cứ người nào trên thế gian.
Vì thế, khi chiêm ngắm người cha nhân hậu của Đức Giêsu trong Tin Mừng, chúng ta không còn khả thể hay lý do chê trách người cha vì ông đã quá nhân hậu, thương xót, như người con cả đã bực bội, giận dỗi khi biết cha mở tiệc ăn mừng em cậu trở về sau năm tháng dài sa đọa, hoang đàng, phung phá (x. 1Lc 15,23-30), bởi tình cha hôm ấy đã không thưởng công lối sống trụy lạc, nhưng thưởng công những bước chân trở về của con; ơn cha hôm ấy đã không tuôn đổ trên tội lỗi, nhưng tràn trề xuống cõi lòng thống hối, ăn năn của con; nước mắt cha hôm ấy đã không nức nở khóc những dữ dằn, hung tợn, nhưng trào dâng niềm hạnh phúc con mình được sống, được “thay da đổi thịt”, vì đó là thời điểm của lòng thương xót, là cơ hội của ơn cứu độ, là ngày Thiên Chúa mở lượng từ bi, nhân hậu trên dân Ngài, mà không là ngày thịnh nộ, ngày trừng phạt, ngày giáng họa, báo thù.
Và đó chính là nền tảng vững chắc bảo đảm niềm vui không bao giờ héo úa, khô cạn ở người Kitô hữu, người được giao hòa với Thiên Chúa, với anh em và với chính mình nhờ Danh và trong Máu Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ vô cùng từ bi, nhân hậu, “hay chạnh lòng xót thương”.
Jorathe Nắng Tím